thÔng tin khoa hỌc thÁng 06 -...
TRANSCRIPT
VIỆN CHIẾN LƯỢC NGÂN HÀNG – BANKING STRATEGY INSTITUTE (BSI); website: www.bsi.org.vn
BẢN TIN ĐIỆN TỬ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC RESEARCH BULLETIN
Số 06 - Tháng 06/2016
Volume: 06 – Jun, 2016 LƯU HÀNH NỘI BỘ
THÔNG TIN KHOA HỌC THÁNG 06
NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ THÁNG 06
VIỆN CHIẾN LƯỢC
NGÂN HÀNG
*** Bản tin phát hành định kỳ vào
ngày 10 hàng tháng,
được gửi trực tiếp qua email và
đăng tải trên Cổng thông tin
khoa học và công nghệ ngành
Ngân hàng:
www.khoahocnganhang.org.vn
***
Liên hệ Email: [email protected]
Khuyến cáo sử dụng:
® Bản tin này được tổng hợp từ
các báo cáo, đề tài nghiên cứu
định kỳ hàng tháng liên quan đến
lĩnh vực kinh tế tài chính – ngân
hàng của các tổ chức quốc tế
WB, ADB, IMF, BIS và thông tin
kết quả nghiên cứu của các đề tài
cấp nhà nước, cấp ngành của
NHNN, các Bộ, ngành TW của
Việt Nam, các thông tin Hội thảo
của các Viện nghiên cứu, trường
đại học, ấn phẩm khoa học của
các NXB có uy tín tại Việt Nam
phù hợp với quy định pháp luật
về báo chí và bản quyển.
® Mọi quan điểm, nội dung
trong Bản tin đều được dịch hoặc
căn cứ vào thông tin khoa học
chính thống, chỉ có hàm ý cung
cấp thông tin tham khảo mà
không phản ánh ý kiến hay quan
điểm của Ban Biên tập cũng như
của Viện CLNH. Người đọc chỉ
nên sử dụng Bản tin nội bộ như là
thông tin tham khảo.
CHỊU TRÁCH NHIỆM
XUẤT BẢN
Lợi suất trái phiếu tại hầu hết các thị
trường Đông Á mới nổi (trừ Trung Quốc và
Phillippines) đã giảm trong khoảng thời
gian từ 01/03 tới 15/05 trong bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu suy yếu. Chi tiết
ADB Miguel León-Ledesma
Báo cáo trái phiếu khu vực Châu Á quý
II/2016
Bài viết này nghiên cứu hiệu quả kinh tế
của việc cải cách các thị trường sản phẩm
lớn tại một số ngành phi sản xuất được bảo
hộ nhiều nhất trong lịch sử.Chi tiết
IMF Romain Bouis
Giảm điều tiết thị trường sản phẩm và
tăng trưởng: bằng chứng nghiên cứu mới
ở cấp ngành và theo quốc gia
Liệu bộ ba bất khả thi theo mô hình Mundell –
Flemming còn tồn tại và còn đúng? Sự biến
động đồng thời của giá cả tài sản trên thế giới
với nhau làm cho việc nhận diện các tác động
tài chính và đánh giá tính độc lập của chính
sách tiền tệ trở nên phức tạp hơn.Chi tiết
IMF Carlos Caceres
Điều kiện tài chính toàn cầu và Tính độc
lập của Chính sách tiền tệ
Nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ giữa rủi
ro vỡ nợ của các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tại các nước đang phát triển và
công ty mẹ của chúng trong suốt cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chi tiết
IMF
Rủi ro vỡ nợ tại các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài trong cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu: Nhân tố nào giúp các công
ty liên kết được cách ly an toàn khỏi các
công ty mẹ?
Nghiên cứu ghi lại các đặc điểm của hệ
thống dữ liệu mới tập trung vào những thay
đổi trong mật độ sử dụng một số công cụ
an toàn phổ biến, hướng đến cả mục tiêu
an toàn vi mô và vĩ mô.Chi tiết
IMF Eugenio
Cerutti
Những thay đổi trong công cụ chính sách
an toàn – Cơ sở dữ liệu mới của các nước
Sau khi giá dầu giảm, nhiều nước xuất khẩu
dầu mỏ đối mặt với yêu cầu cần phải cải thiện
các cân bằng đối ngoại.Chi tiết
IMF Alberto
Behar
Thay đổi đối ngoại của các nước xuất
khẩu dầu mỏ: Vai trò của chính sách tài
khóa và tỷ giá
Nghiên cứu này phân tích các ảnh hưởng tài
khóa do sự dịch chuyển trong tỷ lệ phụ thuộc
viện trợ (aid dependency) của 59 nước đang
phát triển từ năm 1960 đến năm 2010. Chi tiết
IMF Jean-Louis Combes
Tác động của viện trợ đến chính sách tài
khóa? Luận cứ mới
Nghiên cứu được thực hiện nhằm lấp đầy
khoảng trống lý thuyết trong việc nghiên cứu
tác động của các hiệp định thương mại bằng
cách sử dụng phương pháp kiểm tra tổng hợp
(SCM) .Chi tiết
IMF Swarnali Ahmed
Hannan
Tác động của Hiệp định Thương mại:
Cách tiếp cận mới, nhận thức mới
Nghiên cứu này phân tích một cách hệ
thống mức độ sẵn có cũng như cách
thức sử dụng dư địa tài khóa tại các
nền kinh tế mới nổi và đang phát
triển.Chi tiết
WB Huidrom Raju
Những thách thức của chính sách tài
khóa tại các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển
WB Franziska Lieselotle
Số nhân tài khóa có phụ thuộc vào
trạng thái tài khóa?
Nghiên cứu này phân tích mối liên hệ giữa
số nhân tài khóa và trạng thái tài khóa của
các Chính phủ, sử dụng mô hình tự hồi quy
véc-tơ bảng tương tác (Interactive panel
vector auto regression model) và một bộ dữ
liệu lớn về các nền kinh tế phát triển và
đang phát triển. Chi tiết
WB
Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới
Mức tăng chậm lại của các nền kinh tế mới
nổi chủ chốt sẽ làm chậm tốc độ tăng
trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2016.
Cụ thể, Ngân hàng Thế giới đã hạ dự báo
tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2016
xuống còn 2,9% từ mức 3,3% trong báo
cáo trước đó. Chi tiết
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC KINH TẾ TRUNG QUỐC
GIẢM TỐC TỚI CÁC QUỐC GIA CHÂU Á
Tác giả: Minsoo Lee, Donghyun Park và Arief Ramayandi
Sựpháttriểncủa khu vực Châu Á trong những năm qua có sự đóng góp khá lớn từ sự trỗi dậy của
Trung Quốc (trong đó chủ yếu thông qua các kênh thương mại). Trung Quốc và các nước láng giềng
đã cùng nhau hình thành mạng lưới sản xuất rộng lớn, đồng thời quốc gia này cũng đang trở thành thị
trường tiêu thụ sản phẩm quan trọng trong khu vực cũng như trên toàn cầu. Do vậy, nghiên cứu này
sẽ sử dụng hai phương pháp thực nghiệm để đánh giá tác động của việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc
tới các nền kinh tế châu Á khác: (i) cách tiếp cận từ mô hình một phương trình sẽ đánh giá tác động từ
kênh thương mại và (ii) mô hình hồi quy vector toàn cầu chỉ ra những ảnh hưởng vượt ngoài các kênh
thương mại. Kết quả của cả hai phân tích khẳng định rằng việc giảm tốc của Trung Quốc thực sự có
tác động không đáng kể tới các nền kinh tế khác, đặc biệt đối với khu vực Đông và Đông Nam Á. Bên
cạnh đó, một phân tích ngoài mẫu cũng được thực hiện nhằm tách ảnh hưởng của việc kinh tế Trung
Quốc giảm tốc khỏi các diễn biến tăng trường gần đây của các nền kinh tế Đông Nam Á. Phân tích
cho thấy kinh tế Trung Quốc đã có ảnh hưởng nhất định tới động lực tăng trưởng của khu vực nhưng
không phải luôn là nhân tố chủ yếu. (Chi tiết)
NGHIÊN
CỨU
CHUYÊN
SÂU
THÁNG 06
Nghiên cứu này sẽ tập trung vào những
nhóm vấn đề cần giải quyết nhằm thúc
đẩy sự phát triển của thị trường trái
phiếu doanh nghiệp tại các quốc gia
Châu ÁChi tiết
BIS Marlene Amstad
Các biện pháp thúc đẩy sự phát triển
của các thị trường trái phiếu doanh
nghiệp tại Châu Á
BIS Enrique Alberola-Ila
Chênh lệch sản lượng và chính sách
ổn định tại khu vực Mỹ Latinh: tác
động của thị trường hàng hóa và chu
kỳ dòng vốn
Nhóm nghiên cứu đã đề xuất một phương
pháp ước lượng chênh lệch sản lượng,
trong đó đã loại bỏ được những tác động
của thị trường hàng hóa và những ảnh
hưởng của việc dòng vốn quốc tế tại khu
vực Mỹ Latinh tăng mạnh trong giai đoạn
trước. Chi tiết
BIS Feng Zhu
Nghiên cứu về lãi suất thực cân bằng
tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
Tác giả đã tiến hành nghiên cứu sự biến
động của lãi suất thực cân bằng
(equilibrium real interest rate) tại khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương. Trong đó, các
phương pháp định lượng đã được sử dụng
để ước lượng lãi suất thực cân bằng.Chi
tiết
Trong báo cáo này, Ngân hàng thanh
toán quốc tế (BIS) nhận định cải cách
tài chính là đòi hỏi mang tính cấp bách
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn
cầu và đối phó với những biến động
của thị trường. Chi tiết
BIS
Báo cáo thường niên lần thứ 86
ẤN PHẨM KHOA HỌC TRONG THÁNG 06
ÁC MÔNG ĐAI KHUNG HOANG 1929(CHI TIẾT)
GIAI NOBEL KINH TẾ(CHI TIẾT)
BÁN KHỐNG – THAM HOA KINH TẾ ĐÂM
CHÂT TAI CHINH NHÂT TRONG LICH SƯ
PHỐ WALL(CHI TIẾT)
HỘI THẢO KHOA HỌC TRONG THÁNG 06
HÔI THAO: “ĐIỀU TRA THỐNG KÊ TIỀN TỆ
- NGÂN HANG”.(CHI TIẾT)
HÔI THAO QUỐC GIA “HOAT ĐÔNG TÀI
CHÍNH QUỐC TẾ CUA VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOAN HÔI NHÂP MỚI”(CHI TIẾT)
TOA ĐAM CÁC NGUỒN LỰC CHO TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOAN
2016 – 2020(CHI TIẾT)
ĐỀ TAI: HANH VI NGƯỜI GƯI TIỀN VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC
ĐÔNG ĐẾN HANH VI NGƯỜI GƯI TIỀN TRONG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM.(CHI TIẾT)
ĐỀ TÀI:CÁC NHÂN TỐ ANH HƯỞNG ĐẾN NGHÈO ĐÓI VA
GIAI PHÁP GIAM NGHÈO BỀN VỮNG, VƯƠN LÊN LAM
GIÀU TAI VÙNG KINH TẾ TRONG ĐIỂM VÙNG ĐỒNG
BẰNG SÔNG CƯU LONG.(CHI TIẾT)
Chủ nhiệm:TS. Nguyễn Văn
Thạnh, Chủ tịch HĐQT, Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam
Mã số: DTNH.08/2015
Chủ nhiệm: TS. Lê Thanh Ngọc,
Giảng viên Đại học Ngân hàng
TP. Hồ Chí Minh.
Mã số: DTNH.17/2015
NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC THÁNG 06
ĐỀ TÀI: CAI THIỆN CHÂT LƯỢNG QUAN TRI CÔNG TY
(CORPORATE GOVERNANCE) NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUA HOAT ĐÔNG CUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MAI VIỆT NAM.(CHI TIẾT)
ĐỀ TÀI: KHUNG HOANG TRUYỀN THÔNG TRONG HOAT
ĐÔNG NGÂN HÀNG VÀ GIAI PHÁP XƯ LÝ VỀ TRUYỀN
THÔNG.(CHI TIẾT)
ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG GIAI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CẦU
NỐI CUA HIỆP HÔI NGÂN HÀNG NHẰM HỖ TRỢ TỐT
HƠN HOAT ĐÔNG CUA CÁC NHTM VÀ NÂNG CAO HIỆU
LỰC THỰC THI CÁC CHÍNH SÁCH CUA NHNN.(CHI TIẾT)
Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Thị Hoài
Thu - Phó Giám đốc, Trung tâm
Đào tạo và Hợp tác quốc tế, Học
viện Ngân hàng
Mã số:DTNH.15/2015
Chủ nhiệm: Đặng Văn Tới - Phó
Chánh Văn phòng, Văn phòng
NHNN
Mã số: DTNH.14/2013
Chủ nhiệm: TS. Trần Thị Hồng
Hạnh, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân
hàng Việt Nam
Mã số: DTNH.09/2015 THÔNG
TIN ĐỀ
TÀI
TRONG
NƯỚC
Chủ nhiệm: ThS. Hoàng Thị
Quỳnh Mai, Trưởng phòng, Vụ Dự
báo - thống kê, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
Mã số: DANH.01/2014
ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHÂT LƯỢNG THỐNG KÊ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN CÁN CÂN THANH TOÁN
QUỐC TẾ CUA VIỆT NAM BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU
TRA CHON MẪU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.(CHI TIẾT)
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 1
BẢN TIN NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ
1. Báo cáo trái phiếu khu vực Châu Á quý II/201 (Asia bond monitor)
Nguồn: ADB
Tác giả:Miguel León-Ledesma
Ngày xuất bản:01/06/2016
"Lợi suất trái phiếu tại hầu hết các thị trường Đông Á mới nổi (trừ Trung Quốc và
Phillippines) đã giảm trong khoảng thời gian từ 01/03 tới 15/05 trong bối cảnh nền kinh tế
toàn cầu suy yếu
Trong tháng 3, Ngân hàng Phát triển Châu Á dự báo tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia
đang phát triển Châu Á sẽ chậm lại từ 5,9% năm 2015 xuống còn 5,7% trong năm 2016 và
2017. Trong tháng tư, Quỹ Tiền tệ Quốc tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu 2016
xuống còn 3,2%, giảm so với mức dự báo 3,4% trong tháng 1. Trong bối cảnh này, lợi tức trái
phiếu tại các quốc gia Đông Á mới nổi nhìn chung giảm đi trong khoảng thời gian từ 01/03
đến 15/05, bao gồm lợi tức của trái phiếu chính phủ 10 năm chi trả bằng đồng nội tệ.
Thị trường chứng khoán tại các quốc gia Đông Á mới nổi đều tăng trưởng ngoại trừ tại
Indonesia và Malaysia từ 01/03 đến 15/05. Những đồng tiền trong khu vực nhìn chung cũng
tăng giá so với đồng đô la Mỹ trong giai đoạn này, với đồng won của Hàn Quốc được đánh
giá cao nhất, theo sau là đồng ringgit của Malaysia. Biên độ hoán đổi vỡ nợ tín dụng (credit
default swap spreads) giảm tại các thị trường Đông Á mới nổi, cho thấy nhận định về rủi ro
vỡ nợ đã giảm đi. Quy mô của thị trường trái phiếu Chính phủ thời hạn 10 năm tại các quốc
gia mới nổi Đông Á mở rộng lên 9608 tỷ đô la Mỹ vào cuối tháng 3, tăng 3,9% so với quý
trước và tăng 20,4% so với năm trước trong quý 1 năm 2016. Thị trường trái phiếu Trung
Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất trong khu vực, chiếm 67,7% thị phần trái phiếu tại các
quốc gia mới nổi Đông Á tính đến cuối tháng 3. Hai thị trường lớn thứ hai là Hàn Quốc và
Malaysia.".
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
2. Giảm điều tiết thị trường sản phẩm và tăng trưởng: bằng chứng nghiên cứu mới ở cấp
ngành và theo quốc gia (Product Market Deregulation and Growth: New Country-
Industry-Level Evidence.)
Nguồn: IMF
Tác giả:Romain Bouis; Romain A Duval; Johannes Eugster
Ngày xuất bản: 09/06/2016
Bài viết này nghiên cứu hiệu quả kinh tế của việc cải cách các thị trường sản phẩm lớn tại
một số ngành phi sản xuất được bảo hộ nhiều nhất trong lịch sử. Nghiên cứu dựa trên mối
liên kết duy nhất giữa dữ liệu mới hàng năm về các đợt cải cách và kết quả theo ngành của 5
ngành công nghiệp (điện và khí đốt, vận tải đường bộ, vận tải hàng không, dịch vụ bưu chính
và viễn thông) tại 26 quốc ra trải dài trong hơn ba thập kỷ. Việc sử dụng dữ liệu bảng ba chiều
và các biện pháp đo lường cẩn trọng các cú sốc cải cách thông qua các công cụ bên ngoài giúp
nhóm nghiên cứu kiểm soát được các cú sốc vĩ mô trong nền kinh tế và xử lý được các sai
lệch có thể xảy ra do thiếu biến trong mô hình một cách rộng hơn. Sử dụng phương pháp dự
báo cục bộ, nghiên cứu thấy rằng việc giảm mạnh các rào cản gia nhập làm gia tăng sản lượng
và năng suất lao động trong vòng 05 năm, và gây giảm giá tương đối. Ngược lại, chỉ có tác
động tích cực nhẹ lên lao động ngành, và đầu tư về cơ bản là không bị ảnh hưởng, điều này
NHỮNG VÂN ĐỀ KINH TẾ VIỆT NAM. (CHI TIẾT)
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 2
chỉ ra rằng sự gia tăng về sản lượng sau cải cách chủ yếu là do yếu tố năng suất tổng hợp
được cải thiện. Phải mất một thời gian để các lợi ích này được thể hiện rõ rệt: ccs tác động bắt
đầu có ý nghĩa thống kế sau 2-3 năm cải cách khi giá bắt đầu giảm, năng suất và sản lượng
tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, không có bất kỳ bằng chứng về tác động tiêu cực ngắn hạn của
cải cách kể cả trong điều kiện kinh tế vĩ mô yếu. Những phát hiện này cung cấp những luận
cứ rõ ràng để tăng cường các nỗ lực cải cách thị trường sản phầm trong các nền kinh tế phát
triển tại thời điểm tăng trưởng yếu hiện tại.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
3. Điều kiện tài chính toàn cầu và Tính độc lập của Chính sách tiền tệ(Global Financial
Conditions and Monetary Policy Autonomy)
Nguồn: IMF
Tác giả:Carlos Caceres; Yan Carriere-Swallow& Bertrand Gruss
Ngày xuất bản: 08/06/2015
Liệu bộ ba bất khả thi theo mô hình Mundell – Flemming còn tồn tại và còn đúng? Sự
biến động đồng thời của giá cả tài sản trên thế giới khi các chu kì kinh doanh đồng bộ với
nhau làm cho việc nhận diện các tác động tài chính và đánh giá tính độc lập của chính sách
tiền tệ trở nên phức tạp hơn. Một mức biến động đồng thời nhất định của lãi suất được sử
dụng để đặt ra giả thuyết không (null hypothesis) rằng ngân hàng trung ương chỉ phản ứng
trước các biến động về lạm phát và sản lượng nội địa. Nghiên cứu chỉ ra rằng các phương
pháp chung được sử dụng để ước lượng tác động lan tỏa của lãi suất có xu hướng đánh giá
không đúng mức độ độc lập của chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế mở và nhỏ với cơ chế tỷ
giá linh hoạt. Nghiên cứu đưa ra một cách tiếp cận thực nghiệm nhằm tách riêng các ảnh
hưởng liên quan tới mức độ độc lập không chuẩn của chính sách tiền tệ. Với cách tiếp cận
này, nghiên cứu xem xét lại các dự báo về bộ ba bất khả thi và có được các bằng chứng thuyết
phục cho rằng tỷ giá linh hoạt hỗ trợ tính độc lập của chính sách tiền tệ nhiều hơn so với các
nghiên cứu trước đây đã chỉ ra.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
4. Rủi ro vỡ nợ tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu: Nhân tố nào giúp các công ty liên kết được cách ly an toàn khỏi các
công ty mẹ? (Foreign Bank Subsidiaries’ Default Risk during the Global Crisis : What
Factors Help Insulate Affiliates from their Parents?)
Nguồn: IMF
Tác giả:N/A
Ngày xuất bản: 08/06/2016
Nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ giữa rủi ro vỡ nợ của các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại các nước đang phát triển và công ty mẹ của chúng trong suốt cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu nhằm xác định quy mô và chiều hướng quan hệ giữa chúng, đồng thời, quan
trọng hơn, là tìm hiểu nhân tố nào giúp các đơn vị liên kết cách ly an toàn khỏi các công ty
mẹ. Nghiên cứu tìm thấy bằng chứng chứng tỏ mối quan hệ cùng chiều mạnh và có ý nghĩa
giữa rủi ro vỡ nợ của ngân hàng mẹ và các ngân hàng chi nhánh ở nước ngoài. Mối tương
quan này là thấp hơn cho các công ty con có tỷ lệ nguồn vốn huy động bán lẻ cao và được
quản lý độc lập hơn từ công ty mẹ. Các quy định điều tiết ngân hàng tại quốc gia chủ nhà
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 3
cũng ảnh hưởng đến mức độ mà những cú sốc tới các công ty mẹ ảnh hưởng đến rủi ro vỡ nợ
của các công ty con. Đặc biệt, sự tương quan giữa rủi ro vỡ nợ của các công ty con và công ty
mẹ là thấp hơn cho các công ty con hoạt động tại nước mà áp đặt các yêu cầu cao hơn về vốn,
dự trữ, dự phòng và công bố thông tin, và những giới hạn chặt chẽ hơn cho hoạt động ngân
hàng.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
5. Những thay đổi trong công cụ chính sách an toàn – Cơ sở dữ liệu mới của các
nước(Changes in Prudential Policy Instruments — A New Cross-Country Database)
Nguồn: IMF
Tác giả:Eugenio Cerutti; Ricardo Correa; Elisabetta Fiorentino& Esther Segalla
Ngày xuất bản: 08/06/2016
Nghiên cứu ghi lại các đặc điểm của hệ thống dữ liệu mới tập trung vào những thay đổi
trong mật độ sử dụng một số công cụ an toàn phổ biến, hướng đến cả mục tiêu an toàn vi mô
và vĩ mô. Phạm vi dữ liệu rộng, bao gồm 64 quốc gia, với các số liệu được thu thập theo quý
từ Quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2014. Cơ sở dữ liệu bao gồm 5 loại công cụ an toàn: bộ
đệm vốn, các giới hạn rủi ro liên ngân hàng, hạn chế tập trung, giới hạn tỷ lệ cho vay trên giá
trị LTV, và dự trữ bắt buộc. Trên cơ sở phân tách 5 công cụ này, cơ sở dữ liệu xây dựng 9
công cụ an toàn trong đó, bộ đệm vốn được chia thành bốn chỉ tiêu nhỏ hơn: yêu cầu về vốn
nói chung, bộ đệm vốn riêng cho tín dụng bất động sản, bộ đệm vốn riêng cho tín dụng tiêu
dùng, và bộ đệm vốn cụ thể khác; dự trữ bắt buộc được chia thành hai chỉ số phụ: yêu cầu về
vốn nội tệ và yêu cầu về vốn ngoại tệ. Trong khi yêu cầu về vốn nói chung có nhiều thay đổi
nhất trên bình diện các nước, thì tỷ lệ LTV và dự trữ bắt buộc có số lần điều chỉnh thắt chặt và
nới lỏng nhiều nhất. Nghiên cứu cũng phân tích việc sử dụng của các công cụ liên quan đến
sự biến đổi của các biến quan trọng như tín dụng, lãi suất chính sách, và giá nhà, tìm kiếm
những khác biệt lớn về hình thức nới lỏng hay thắt chặt của các công cụ liên quan đến chu kỳ
kinh doanh và tài chính.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
6. Thay đổi đối ngoại của các nước xuất khẩu dầu mỏ: Vai trò của chính sách tài khóa và
tỷ giá (External Adjustment in Oil Exporters : The Role of Fiscal Policy and the
Exchange Rate)
Nguồn: IMF
Tác giả:Alberto Behar & Armand Fouejieu
Ngày xuất bản: 08/06/2016
Sau khi giá dầu giảm, nhiều nước xuất khẩu dầu mỏ đối mặt với yêu cầu cần phải cải thiện
các cân bằng đối ngoại. Đặc tính đặc biệt của các nước xuất khẩu dầu mỏ khiến tỷ giá hối
đoái trở thành thành công cụ kém hiệu quả trong khi đưa chính sách tài khóa lên giữ vai trò
quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. Kết luận này được rút ra từ phân tích hồi quy
các yếu tố của cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thương mại. Kết quả phân tích cho thấy
cân bằng đối ngoại ít hoặc không có quan hệ với tỷ giá hối đoái, đặc biệt là ở các nước xuất
khẩu dầu mỏ có nền kinh tế kém đa dạng hóa (bao gồm cả các nước thuộc Hội đồng hợp tác
vùng vịnh - Gulf Cooperation Council) và có quan hệ mật thiết với cán cân tài khóa hoặc chi
tiêu chính phủ.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 4
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
7. Tác động của viện trợ đến chính sách tài khóa? Luận cứ mới (What Does Aid Do to
Fiscal Policy? New Evidence)
Nguồn: IMF
Tác giả:Jean-Louis Combes; Rasmané Ouedraogo & Sampawende J.-A. Tapsoba
Ngày xuất bản: 09/06/2016
Viện trợ nước ngoài là một nguồn lực tài chính chính phủ lớn đối với một số nước đang
phát triển và được phân bổ để thực thi các chính sách tài khóa. Nghiên cứu này phân tích các
ảnh hưởng tài khóa do sự dịch chuyển trong tỷ lệ phụ thuộc viện trợ (aid dependency) của 59
nước đang phát triển từ năm 1960 đến năm 2010. Nghiên cứu xác định sự thay đổi cấu trúc
của tỷ lệ phụ thuộc viện trợ: dịch chuyển lên (sự gia tăng về mặt cấu trúc của dòng vốn viện
trợ) và dịch chuyển xuống (sự suy giảm về mặt cấu trúc của dòng vốn viện trợ). Những thay
đổi này được xem như những cú sốc vào tỷ lệ phụ thuộc viện trợ và phương pháp đánh giá
thực nghiệm được sử dụng để đánh giá tác động của viện trợ lên tài khóa. Kết quả cho thấy sự
thay đổi mức độ phụ thuộc viện trợ diễn ra thường xuyên và có tác động tài khóa đáng kể.
Ngoài bằng chứng về tác động truyền thống trong việc thay thế thuế và “nhầm tưởng về viện
trợ” (aid illusion), nghiên cứu còn cho thấy sự gia tăng hay giảm sút tỷ lệ phụ thuộc viện trợ
có tác động bất đối xứng lên các tài khoản tài khóa. Dòng vốn viện trợ vào lớn làm suy giảm
nguồn lực thuế và đầu tư công trong khi việc cắt giảm nguồn viện trợ lớn lại có xu hướng giữ
cho tỷ trọng thuế và chi tiêu của nước nhận viện trợ không đổi. Hơn nữa, các hiệu ứng chuyển
thuế có xu hướng tạm thời trong khi ảnh hưởng lên các khoản mục chi tiêu lại có tính lâu dài.
Cuối cùng, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tác động tài khóa không mong muốn của viện trợ rõ
rệt hơn đối với các quốc gia có điểm số quản trị và khả năng hấp thụ vốn thấp cũng như đối
với những quốc gia đang tiếp nhận chương trình hỗ trợ của IMF.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
8. Tác động của Hiệp định Thương mại: Cách tiếp cận mới, nhận thức mới (The Impact
of Trade Agreements : New Approach, New Insights)
Nguồn: IMF
Tác giả:Swarnali Ahmed Hannan
Ngày xuất bản: 10/06/2016
Hiệp định Đối tác xuyên thái bình dương (TPP) đã đặt ra vấn đề nghiên cứu về các tác
động trước đó của các hiệp định thương mại. Các kết quả từ những mô hình nghiên cứu về
vấn đề này không ổn định và cần được bổ trợ bằng các nghiên cứu tác động hậu hiệp định.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm lấp đầy khoảng trống lý thuyết này bằng cách sử dụng
phương pháp kiểm tra tổng hợp (SCM) – phương pháp khả phổ biến trong các nghiên cứu vĩ
mô và vi mô hiện nay - để tìm hiểu tác động của các hiệp định thương mại trong giai đoạn
1983-1995 của 104 cặp nước. Ưu điểm chính của việc sử dụng SCM là giải quyết sai lệch lựa
chọn- một trong những vấn vấn đề cố hữu của lý thuyết thương mại – bằng cách cho phép ảnh
hưởng của các yếu tố nhiễu không quan sát được thay đổi theo thời gian, trong khi các
phương pháp kinh tế lượng truyền thống xử lý với các nhân tố không quan sát được bất biến
theo thời gian. Sử dụng phương pháp SCM, nghiên cứu chỉ ra rằng các thỏa thuận thương mại
có thể tạo ra lợi nhuận đáng kể với kinh ngạch xuất khẩu tăng trung bình 80 điểm phần trăm
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 5
trong 10 năm. Các thị trường mới nổi có mức tăng xuất khẩu cao hơn khi tham gia hiệp định
thương mại so với các thị trường phát triển. Nghiên cứu chỉ ra tất cả các quốc gia trong
NAFTA thu lợi đáng kể nhờ NAFTA. Cuối cùng, có một số bằng chứng cho thấy các thỏa
thuận thương mại có thể dẫn tới sự chệch hướng nhập khẩu nhẹ nhưng không có sự chệch
hướng xuất khẩu.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
9. Những thách thức của chính sách tài khóa tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát
triển(Challenges of fiscal policy in emerging and developing economies)
Nguồn:WB
Tác giả:Huidrom, Raju; Kose; Ayhan; Ohnsorge & Franziska Lieselotle
Ngày xuất bản: 22/06/2016
Nghiên cứu này phân tích một cách hệ thống mức độ sẵn có cũng như cách thức sử dụng
dư địa tài khóa tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Những nền kinh tế này thiết lập
dư địa tài khóa trong thời gian diễn ra Đại Suy thoái năm 2008-2009, sau đó sử dụng nguồn
ngân sách này để kích thích phát triển kinh tế. Đây là xu hướng chung trong ba thập kỷ qua,
khi mà sự sẵn có của dư địa tài khóa đi kèm với việc tăng cường các chính sách tài khóa
ngược chu kỳ (hoặc ít thuận chu kỳ). Tuy nhiên, dư địa tài khóa đã giảm đi kể từ sau Đại Suy
thoái và chưa trở lại mức trước khủng hoảng. Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đang
phải đối mặt với nguy cơ suy giảm tăng trưởng và nguy cơ chi phí tài chính tăng cao. Trong
trường hợp xảy ra suy giảm kinh tế mạnh theo chu kỳ, những nhà hoạch định chính sách có
thể phải sử dụng chính sách tài khóa như một công cụ để kích thích nền kinh tế. Một điều kiện
tiên quyết để chính sách tài khóa có hiệu quả là các nền kinh tế này phải có dư địa tài khóa đủ
để sử dụng các chính sách tài khóa ngược chu kỳ. Trong trung hạn, một thể chế được thiết kế
hiệu quả và đáng tin cậy như các quy định tài chính, các quỹ bình ổn, và những khuôn khổ chi
tiêu trong trung hạn có thể giúp xây dựng dư địa tài khóa và tăng cường hiệu quả chính sách.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
10. Số nhân tài khóa có phụ thuộc vào trạng thái tài khóa? (Do fiscal multipliers
depend on fiscal positions?)
Nguồn:WB
Tác giả: Huidrom, Raju; Kose; Ayhan; Ohnsorge& Franziska Lieselotle
Ngày xuất bản: 22/06/2016
Nghiên cứu này phân tích mối liên hệ giữa số nhân tài khóa và trạng thái tài khóa của các
Chính phủ, sử dụng mô hình tự hồi quy véc-tơ bảng tương tác (Interactive panel vector auto
regression model) và một bộ dữ liệu lớn về các nền kinh tế phát triển và đang phát triển.
Phương pháp này cho phép phát hiện ra mối quan hệ nội sinh giữa số nhân tài khóa và trạng
thái tài khóa trong khi vẫn duy trì được số bậc tự do (degree of freedom) cần thiết để có thể
đưa ra những suy diễn thống kê. Nghiên cứu đã tìm ra ba kết quả. Thứ nhất, số nhân tài khóa
phụ thuộc vào trạng thái tài khóa: số nhân tài khóa có xu hướng lớn hơn khi trạng thái tài
khóa mạnh (khi nợ chính phủ và thâm hụt ngân sách thấp) và ngược lại. Ví dụ, số nhân trong
dài hạn có thể lớn khi trạng thái tài khóa mạnh và có thể âm khi trạng thái tài khóa yếu. Thứ
hai, những tác động này là riêng biệt và khác biệt so với những tác động của chu kỳ kinh tế
lên số nhân tài khóa. Thứ ba, những tác động của trạng thái tài khóa lên số nhân là do hai yếu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 6
tố: (i) kênh lãi suất: chi phí đi vay cao hơn (do nhà đầu tư nhận thức rõ hơn về rủi ro tín dụng
khi kích thích kinh tế từ một trạng thái tài khóa yếu ban đầu) sẽ làm lấn át đầu tư tư nhân; (ii)
kênh Ricardian: các hộ gia đình giảm chi tiêu khi dự đoán những điều chỉnh tài khóa trong
tương lai.
Tải về toàn văn tại đây
Trở lại trang đầu
11. Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới. (Global economic prospects)
Nguồn: WB
Tác giả:N/A
Ngày xuất bản: 01/07/2016
Mức tăng chậm lại của các nền kinh tế mới nổi chủ chốt sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng
kinh tế toàn cầu trong năm 2016. Cụ thể, Ngân hàng Thế giới đã hạ dự báo tăng trưởng kinh
tế toàn cầu năm 2016 xuống còn 2,9% từ mức 3,3% trong báo cáo trước đó. Dự báo tăng
trưởng kinh tế Mỹ cũng giảm từ 2,8% xuống còn 2,7% với nguyên nhân là đồng USD tăng
giá sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu. Trong khi đó, chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ giúp
Nhật Bản và Khu vực đồng tiền chung châu Âu duy trì được đà phục hồi mong manh. Báo
cáo cũng nhận định rằng đà giảm tốc của các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc sẽ khiến thị
trường hàng hóa tiếp tục suy giảm, trong khi Nga và Brazil được dự kiến sẽ vẫn trong trạng
thái suy thoái trong năm 2016.
Tải về tại đây
Trở lại trang đầu
12. Các biện pháp thúc đẩy sự phát triển của các thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại
Châu Á (A spare tire for capital markets: Fostering corporate bond markets in Asia)
Nguồn: BIS
Tác giả:Marlene Amstad; Steven Kong; Frank Packer & Eli Remolona
Ngày xuất bản: 01/06/2016
Tám thị trường trái phiếu nội tệ lớn (được quỹ trái phiếu Châu Á 2 đầu tư) đã tiếp tục tăng
trưởng khá nhanh kể từ năm 2011. Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh
nghiệp lại không theo kịp thị trường trái phiếu Chính phủ. Do vậy, nghiên cứu này sẽ tập
trung vào những nhóm vấn đề cần cải thiện nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái
phiếu doanh nghiệp tại các quốc gia Châu Á. Cụ thể, tại thị trường sơ cấp, nhóm tác giả
khuyến nghị các Chính phủ cần đưa ra những biện pháp mở rộng phạm vi chất lượng tín dụng
của trái phiếu doanh nghiệp, đồng thời phát triển trái phiếu hạ tầng như một loại tài sản. Tại
thị trường thứ cấp, nghiên cứu cho rằng cần nâng cao tính thanh khoản thông qua việc phát
triển một cơ chế khu vực (regional mechanisms) nhằm cải thiện tính minh bạch của thị
trường, đồng thời cần xây dựng các thị trường phòng ngừa rủi ro (hedging market). Tại thị
trường mua lại (repo market), các nhà hoạch định chính sách có thể tiến hành thêm các cuộc
khảo sát, thu thập thêm thông tin để xác định các khu vực mà chính sách có tác động lớn nhất.
Tải về tại đây
Trở lại trang đầu
13. Chênh lệch sản lượng và chính sách ổn định tại khu vực Mỹ Latinh: tác động của
thị trường hàng hóa và chu kỳ dòng vốn (Output gaps and policy stabilisation in Latin
America: the effect of commodity and capital flow cycles)
Nguồn: BIS
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 7
Tác giả:Enrique Alberola-Ila; Rocío Gondo; Marco Jacopo Lombardi & Diego Urbina
Ngày xuất bản: 01/06/2016
Nhóm nghiên cứu đã đề xuất một phương pháp ước lượng chênh lệch sản lượng, trong đó
đã loại bỏ được những tác động của thị trường hàng hóa và những ảnh hưởng của việc dòng
vốn quốc tế tại khu vực Mỹ Latinh tăng mạnh trong giai đoạn trước. Hai yếu tố này đã làm
tăng sản lượng trong ngắn hạn, qua đó khiến các ước lượng về tăng trưởng tiềm năng của khu
vực bị đẩy lên cao tới mức phi lý, dẫn tới việc đánh giá thấp chênh lệch sản lượng trong giai
đoạn giá hàng hóa thế giới ở mức cao. Các tác giả cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa hai yếu
tố trên. Kết quả cho thấy giá hàng hóa thế giới là yếu tố chi phối, khiến tăng trưởng kinh tế
luôn bị lệch khỏi mức tăng trưởng bền vững. Do vậy, việc cân nhắc một cách cẩn trọng hai
yếu tố này sẽ giúp ngăn ngừa một chính sách tài khóa thuận chu kỳ quá mức tại các quốc gia
trong khu vực.
Tải về tại đây
Trở lại trang đầu
14. Nghiên cứu về lãi suất thực cân bằng tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
(Understanding the changing equilibrium real interest rates in Asia-Pacific)
Nguồn: BIS
Tác giả:Feng Zhu
Ngày xuất bản: 01/06/2016
Tác giả đã tiến hành nghiên cứu sự biến động của lãi suất thực cân bằng (equilibrium real
interest rate) tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trong đó, các phương pháp định lượng
đã được sử dụng để ước lượng lãi suất thực cân bằng. Kết quả cho thấy ngoại trừ Trung Quốc
và Thái Lan (từ năm 2005), lãi suất thực cân bằng tại các quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương
khác đều đã giảm đáng kể từ khoảng đầu hoặc giữa những năm 1990s, với mức giảm bình
quân khoảng 4 điểm phần trăm. Điều này đã khiến mức lãi suất này đã xuống mức âm tại rất
nhiều quốc gia trong khu vực. Xu thế này trở nên mạnh hơn từ những năm 2000s, đặc biệt là
sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng kỹ thuật miền-tần suất (frequency-domain techniques)
để đánh giá mối quan hệ giữa các thành phần dài hạn của lãi suất thực và các thành phần dài
hạn của đặc điểm dân số, xu thế toàn cầu hóa cùng một loạt các biến số kinh tế vĩ mô và tiền
tệ khác (chẳng hạn như tăng trưởng tín dụng hay giá tài sản). Kết quả cho thấy, tồn tại một
mối liên kết mạnh và phổ quát giữa lãi suất thực cân bằng và các thành phần xu hướng tần
suất thấp của các yếu tố nhân khẩu học và toàn cầu hóa tại các quốc gia trong khu vực. Tuy
vậy, mối liên kết giữa lãi suất thực cân bằng với xu hướng giá tài sản, tỷ trọng tín dụng trên
GDP lại khá yếu. Trong phần lớn trường hợp, lãi suất thực cân bằng thường tương quan với
những biến số phản ánh sự phát triển trong dài hạn của khu vực tài chính, cùng những xu thế
trong tỷ lệ tiết kiệm - đầu tư.
Tải về tại đây
Trở lại trang đầu
15. Báo cáo thường niên lần thứ 86 (86th Annual Report)
Nguồn: BIS:
Tác giả: N/A
Ngày xuất bản: 01/06/2016
Trong báo cáo này, Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) nhận định cải cách tài chính là
đòi hỏi mang tính cấp bách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và đối phó với những
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 8
biến động của thị trường. Các chính sách giám sát an toàn tài chính, chính sách tài khóa và
chính sách cải cách cơ cấu cần đóng một vai trò lớn hơn nữa. Thông qua cảnh báo về nguy cơ
đối với việc sử dụng các khoản tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng thanh
toán quốc tế cũng kêu gọi các quốc gia tái cân bằng chính sách tiền tệ nhằm hướng đến tăng
trưởng bền vững hơn. Báo cáo cũng nhận định triển vọng của kinh tế toàn cầu không quá “ảm
đạm”, khi tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm so với thời kỳ khủng hoảng năm 2008.
Tải về tại đây
Trở lại trang đầu
NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC KINH TẾ TRUNG
QUỐC GIẢM TỐC TỚI CÁC QUỐC GIA CHÂU Á
Minsoo Lee, Donghyun Park, và Arief Ramayandi
Ngân hàng phát triển Châu Á
Tóm tắt:Sự phát triển của khu vực Châu Á trong những năm qua có sự đóng góp khá lớn từ
sự trỗi dậy của Trung Quốc (trong đó chủ yếu thông qua các kênh thương mại). Trung Quốc
và các nước láng giềng đã cùng nhau hình thành mạng lưới sản xuất rộng lớn, đồng thời
quốc gia này cũng đang trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm quan trọng trong khu vực
cũng như trên toàn cầu. Do vậy, nghiên cứu này sẽ sử dụng hai phương pháp thực nghiệm để
đánh giá tác động của việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc tới các nền kinh tế châu Á khác: (i)
cách tiếp cận từ mô hình một phương trình sẽ đánh giá tác động từ kênh thương mại và (ii)
mô hình hồi quy vector toàn cầu chỉ ra những ảnh hưởng vượt ngoài các kênh thương mại.
Kết quả của cả hai phân tích khẳng định rằng việc giảm tốc của Trung Quốc thực sự có tác
động không đáng kể tới các nền kinh tế khác, đặc biệt đối với khu vực Đông và Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, một phân tích ngoài mẫu cũng được thực hiện nhằm tách ảnh hưởng của việc
kinh tế Trung Quốc giảm tốc khỏi các diễn biến tăng trường gần đây của các nền kinh tế
Đông Nam Á. Phân tích cho thấy kinh tế Trung Quốc đã có ảnh hưởng nhất định tới động lực
tăng trưởng của khu vực nhưng không phải luôn là nhân tố chủ yếu.
I. Trung Quốc với vai trò động lực phát triển châu Á
Kể từ cuộc cải cách kinh tế quan trọng được khởi xướng vào năm 1978 nhằm cải tổ
kinh tế Trung Quốc từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, quốc
gia này đã có những bước phát triển nhảy vọt. Thực tế cho thấy kể từ sau đó, Trung Quốc
luôn là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Quá trình tăng trưởng
nhanh chóng của kinh tế Trung Quốc là một trong những diễn biếnđáng chú ý nhất của kinh tế
toàn cầu trong một vài thập kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng cao như vậyđến từ sự phát triển của
các ngành sản xuất thâm dụng lao động và nền công nghiệp định hướng xuất khẩu. Sau khi
Trung Quốc mở của với thế giới bên ngoài, đầu tư nước ngoài đã đổ vào nhằm tận dụng lời
thế nguồn cung gần như vô hạn lao động phổ thông giá rẻ để xuất khẩu sang thị trường nước
ngoài. Sự phát triển của khu vực tư nhân và sự suy giảm đồng thời của khu vực nhà nước là
một xu thế quan trọng khác.
Trên tất cả, những người dân Trung Quốc được hưởng lợi từ việc duy trì tăng trưởng
nhanh. Mức sống nhìn chung đã được cải thiện khá nhiều; qua đó mang đến chất lượng cuộc
sống cao hơn so với năm 1978. Hơn nữa, tỷ lệ người nghèo ở Trung Quốc đã giảm mạnh.
Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất phát triển nền kinh tế thành công bằng nền kinh
tế công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Họ đã học tập kinh nghiệm của Nhật Bản, các nước
công nghiệp mới và một số thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tuy nhiên, ở góc độ toàn cầu, tăng trưởng nhanh chóng tại Trung Quốc có ý nghĩa hơn rất
nhiều so với các nước khác (chẳng hạn như Hàn Quốc) vì quy mô kinh tế khổng lồ của quốc
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 9
gia này. Nói cho cùng, Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới với hơn 1 tỷ người, và
vào năm 2010, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới. Do vậy, sự nổi lên của Trung Quốc có thể sẽ ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn,
một sự gia tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu thô của Trung Quốc đã góp phần vào sự bùng
nổ của giá hàng hóa toàn cầu, qua đó đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia châu Phi và Mỹ
Latinh.
Sự nổi lên của Trung Quốc đã tác động mạnh mẽ nhất đối với các quốc gia khu vực
Châu Á. Cụ thể, Trung Quốc đã mở rộng thương mại cùng các liên kết kinh tế khác với vùng
Đông và Đông Nam Á. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Bắc ... và những láng giềng khác là chất xúc tác quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa
sớm của Trung Quốc. Nhờ đó, các quốc gia Đông và Đông Nam Á đã thành lập mạng lưới
sản xuất rộng lớn phục vụ nhu cầu xuất khẩu hàng hóa ra toàn cầu. Việc hình thành cái được
gọi là công xưởng châu Á dựa trên lợi thế so sánh, (chẳng hạn, kết hợp công nghệ tiên tiến
của Nhật Bản cùng lao động giá rẻ của Trung Quốc), đã giúp tất cả các nước thành viên có
sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới. Các sản phẩm của công xưởng châu Á phần
lớn hướng tới Mỹ và các thị trường khác ngoài khu vực, tuy nhiên điều này không làm giảm
giá trị của các quốc gia này trong khu vực. Đồng thời, các nền kinh tế châu Á giàu tài nguyên
như Indonesia và Malaysia được cũng được hưởng lợi từ nhu cầu hàng hóa dường như vô tận
của Trung Quốc.
Trong khi Trung Quốc hiện nay là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và sẵn sàng vượt
qua Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới trong một tương lai không xa, thì phải mất một thời
gian dài nữa để Trung Quốc đạt tới mức sống của Mỹ. Cần lưu ý rằng Trung Quốc là một
quốc gia nghèo tại thời điểm kinh tế bắt đầu cất cánh với tốc độ tăng trưởng ngoạn mục. Tuy
nhiên, đối với vấn đề mức sống, việc duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh chóng cũng đã tạo ra sự
cải thiện đáng kể (Hình 1). Sự xuất hiện và mở rộng của tầng lớp trung lưu với sức mua ngày
càng tăng đồng nghĩa với việc hàng triệu người tiêu dùng tại Trung Quốc đã có khả năng mua
ô tô, máy tính xách tay, và đi du lịch tại nước ngoài. Và họ tiêu rất nhiều tiền trong các
chuyến du lịch đó, sự đón tiếp nồng hậu mà họ nhận được từ những người bán hàng sử dụng
tiếng Trung tại các cửa hàng thời trang cao cấp tại London là một minh chứng. Như một kết
quả của sự giàu có ngày càng tăng, Trung Quốc không chỉ là nơi lắp ráp các bộ phận và linh
kiện thành sản phẩm cuối cùng để tái xuất sang Mỹ và các quốc gia khác mà còn là một nước
nhập khẩu hàng hóa quan trọng trên thế giới. Ví dụ, Park và Shin (2010) chi ra rằng tỷ lệ sản
phẩm cuối cùng nhập khẩu vào Trung Quốc từ Đông và Đông Nam Á đang tăng lên và tỷ lệ
bộ phận là linh kiện đang giảm xuống.
Hình 1: GDP và GDP bình quân đầu người của Trung Quốc
Nguồn: World Bank
GDP bình quân
đầu người
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 10
Tóm lại, sự tăng tưởng nhanh và liên tục của kinh tế Trung Quốc kể từ năm 1978 cùng
sự chuyển mình trỗi dậy thành người khổng lồ của nền kinh tế khu vực và toàn cầu đã và đang
đóng góp vào sự tăng trưởng nhanh chóng và bền vững của châu Á nói chung. Tác động kinh
tế tích cực của sự tăng trưởng ngoạn mục của Trung Quốc được nhìn thấy rõ nhất tại các nền
kinh tế Đông và Đông Nam Á (SEA) – đã hình thành nên công xưởng châu Á với Trung Quốc
là trung tâm. Sự tác động không chỉ dừng lại tại các nền kinh tế này mà còn lan toả trên toàn
khu vực thông qua nhu cầu gần như vô tận về hàng hóa của Trung Quốc (chẳng hạn như các
sản phẩm mạ đồng của Mông Cổ và dầu của Kazakhstan). Hơn nữa, sức mua ngày càng tăng
đã khiến Trung Quốc trở thành nguồn cầu quan trọng về các sản phẩm cuối cùng từ châu Á
đang phát triển. Tóm lại, những xu hướng này chỉ ra việc Trung Quốc là một động lực tăng
trưởng cho sự phát triển của châu Á. Ví dụ, Park và Shin (2011) đưa ra bằng chứng chỉ ra tác
động ngày càng tăng của nhập khẩu Trung Quốc đối với sự phát triển của châu Á.
II. Kinh tế Trung Quốc giảm tốc và tác động tiêu cực của nó đối với sự tăng trưởng kinh
tế châu Á?:
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009, đà tăng trưởng kinh tế mạnh
mẽ của Trung Quốc đã chậm lại rõ nét(Hình 2). Sự giảm tốc này của Trung Quốc góp phần
vào xu hướng tăng trưởng chậm lại trên toàn cầu kể từ sau cuộc khủng hoảng khởi phát từ các
nền kinh tế phát triển, đặc biệt là là từ thị trường thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ. Do đó, cuộc
khủng hoảng gây ra tổn hại cho các nền kinh tế tiên tiến nhiều hơn là đến các quốc gia đang
phát triển. Ngay sau cuộc khủng hoảng, nền kinh tế thế giới được đặc trưng bởi hai xu hướng
hồi phục, trong đó, các nền kinh tế mới nổi đi nhanh hơn các nền kinh tế phát triển. Nhưng
gần đây, các nền kinh tế mới nổi cũng phải trải qua hiện tượng suy giảm tăng trưởng, điều nay
tạo ra mối lo ngại về khả năng sụt giảm tăng trưởng toàn cầu và làm gia tăng các viễn cảnh bi
quan trong đó có giải thuyết về một sự đình trệ kinh tế kéo dài.1 Rõ ràng viễn cảnh kinh tế thế
giới kém khả quan kể từ sau cuộc khủng hoảng toàn cầu đang gây ra những chấn động cho
tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Do đó, một nguyên nhân quan
trọng dẫn tới sự suy giảm kinh tế Trung Quốc là môi trường quốc tế kém thuận lợi cho xuất
khẩu. Nếu môi trường xuất khẩu thuận lợi trước khủng hoảng đã góp phần tạo nên tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh của Trung Quốc, thì sự suy yếu của môi trường này kể từ sau cuộc
khủng hoảng đã làm trầm trọng thêm tình trạng suy giảm kinh tế hậu khủng hoảng tại quốc
gia này.
Hình 2. Tăng trưởng GDP thực tế ở Trung Quốc
Nguồn: World Bank. Cơ sở dữ liệu trực tuyến về Các chỉ số phát triển thế giới (truy cập ngày 10/8/2015)
1Larry Summers đã đưa ra giả thuyết về sự đình trệ kinh nnieen, trong đó cho rằng nền kinh tế thế giới sẽ đối mặt
với một giai đoạn tăng trưởng kinh tế thấp kéo dài do đâu tư tư nhân thấp, mà nguyên nhân là do các nhân tố cơ
cấu như cải tiến và tăng trưởng dân số thấp.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 11
Cùng với môi trường đối ngoại kém khả quan, một số nhân tố trong nước cũng đóng vai
trò quan trọng trọng sự giảm tốc của Trung Quốc. Trên tất cả, Trung Quốc có thể là nạn nhân
của thành công trong quá khứ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 2 con số ấn tượng kể từ sau khi tiến
hành cải cách thị trường vào năm 1978 đã đưa Trung Quốc vào nhóm các nước có mức thu
nhập trung bình cao theo phân loại của World Bank. Các nền kinh tế thành công thường cũng
tăng trưởng chậm lại sau khi chuyển từ nền kinh tế có mức thu nhập thấp sang nền kinh tế có
mức thu nhập trung bình do lợi nhuận cận biên của vốn giảm dần, khoảng cách công nghệ với
các nước phát triển thu hẹp, nguồn lao động để dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp năng suất
thấp sang khu vực sản xuất có năng suất cao cạn kiệt, và nhiều nhân tố khác. Thực tế,
Eichengreen, Park và Shin (2012, 2014) phát hiện rằng năm 2011, Trung Quốc gần như đã đạt
mức thu nhập mà ở đó tăng trưởng thường sẽ chậm lại. Hơn nữa, chính phủ Trung Quốc
dường như đã nhận ra các hạn chế của việc tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu và đang
chuyển dịch cơ cấu một cách chiến lược theo một mô hình tăng trưởng phụ thuộc nhiều hơn
vào nhu cầu và tiêu dùng nội địa.
Những thay đổi về cấu trúc thể hiện một sự dịch chuyển tự nhiên, lành mạnh và được
mong đợi theo hướng một mô hình tăng trưởng chậm hơn nhưng bền vững hơn. Theo đó,
trong trung đến dài hạn, sự thay đổi về cấu trúc sẽ tạo lợi ích cho cả Trung Quốc và các đối
tác kinh tế của nó. Tăng trưởng kinh tế nhanh, thiếu bền vững mà cuối cùng là đi đến khủng
hoảng sẽ không tốt cho cả Trung Quốc và toàn bộ nền kinh tế thế giới. Nhưng tăng trưởng
chậm lại ở Trung Quốc chắc chắn sẽ có tác động bất lợi tới kinh tế thế giới trong ngắn hạn.
Chẳng hạn, những biến động nhanh và mạnh trên thị trường chứng khoán Trung Quốc năm
2015 ảnh hưởng tới cả thị trường chứng khoán Mỹ, điều này phản ánh những lo ngại trên thế
giới về sự giảm tốc nhanh và đột ngột của Trung Quóc. Trên tất cả, tăng trưởng chậm lại rõ
ràng sẽ làm giảm nhu cầu nhập khẩu mạnh mẽ của Trung Quốc – từ thương phẩm tới hàng
hóa trung gian và hàng hóa cuối cùng - ảnh hưởng tới các thị trường mới nổi cũng như phát
triển (Hình 3). Mặc dù viễn cảnh kinh tế thế giới kém khả quan gây ra những tác động bất lợi
cho tăng trưởng và xuất khẩu của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc hiện tại vẫn là đối tác nhập
khẩu quan trọng của thế giới, do đó việc quốc gia này tăng trưởng chậm lại sẽ gây tổn hại tới
tăng trưởng và xuất khẩu của các nước khác. Tác động bất lợi này sẽ lan rộng trên toàn thế
giới, ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu máy móc công nghệ cao của các nước giàu có và cả
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của các nước nghèo.
Hình 3. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thực tế bình quân hàng năm của Trung
Quốc
Nguồn: World Bank
Khu vực châu Á đang phát triển cũng chịu ảnh hưởng bất lợi từ sự suy giảm kinh tế của
Trung Quốc, như trước đây nó đã được hưởng lợi từ tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của quốc
gia này. Mặc dù cả khu vực đều chịu ảnh hưởng, tuy nhiên một vài nền kinh tế và tiểu khu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 12
vực sẽ chịu tác động nghiêm trọng hơn. Cụ thể, ảnh hưởng sẽ khá rõ nét ở các nền kinh tế
Đông Á nơi có hoạt động thương mại và các mối liên kết kinh tế khác sâu sắc với Trung Quốc
(Hình 4). Các nền kinh tế này, cùng với Đông Nam Á, hình thành nên một mạng lưới sản xuất
khu vực đóng vai trò mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra, Ân Độ và các
nền kinh tế Nam Á khác chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng ít hơn do mối liên hệ của các nước này
với Trung Quốc còn hạn chế. Bất chấp tầm quan trọng ngày càng lớn của Trung Quốc trong
việc cung ứng các khoản đầu tư, kênh truyền dẫn ảnh hưởng chính của Trung Quốc đến khu
vực vẫn là thông qua con đường thương mại. Tăng trưởng chậm lại cùng với sự suy giảm nhu
cầu nhập khẩu sẽ ảnh hưởng tới việc xuất khẩu thương phẩm, phụ tùng, và hàng hóa cuối
cùng của các nước châu Á đang phát triển, qua đó tác động tới các nền kinh tế thuộc mọi
nhóm thu nhập của khu vực.
Hình 4. Tăng trưởng GDP tại các nước châu Á đang phát triển, bình quân hàng
quý
Nguồn: Công ty dữ liệu CEIC (truy cập 5/9/2013)
III. Tổng quan nghiên cứu chọn lọc:
Phần này sẽ rà soát một cách tóm tắt các nghiên cứu liên quan. Mức độ tác động của đà
giảm sút kinh tế Trung Quốc lên xuất khẩu và tăng trưởng của các nền kinh tế châu Á khác rõ
ràng sẽ phụ thuộc vào mức độ suy giảm kinh tế. Kinh tế giảm sút sâu hơn chắc chắn sẽ tạo ra
những tác động lớn hơn. Có nhiều quan điểm về các viễn cảnh kinh tế tương lai của Trung
Quốc và tốc độ tăng trưởng tiềm năng của nó. Chẳng hạn, dựa trên kết quả mô phỏng số liệu
đơn giản trong đó tính đến các mối quan hệ quan trọng phù hợp với Trung Quốc, chẳng hạn
như giữa việc đô thị hóa và đầu tư, Yuan và cộng sự (2013) dự đoán rằng tốc độ tăng trưởng
sẽ giảm xuống khoảng 5,7% - 6,6% trong giai đoạn 2016 – 2020 và xuống tiếp mức 5,4% -
6,3% vào 2020 – 2030. Các số liệu dự đoán này có thể là khá lạc quan, do mô hình của họ dự
đoán tăng trưởng ở mức 7,8% - 8,7% vào năm 2011 – 2015, con số này cao hơn so với tốc độ
tăng trưởng thực tế. Nghiên cứu này chỉ ra rằng điều quan trọng giúp giảm thiểu tác động bất
lới của việc dân số già đi là cải thiện năng suất lao động.
Li và Lou (2015) ước tính tăng trưởng kinh tế tiềm năng của Trung Quốc giai đoạn
2011 -2015 theo 3 kịch bản. Theo kịch bản khả quan, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế hàng
năm ước tính trung bình vào khoảng 7,2% cho giai đoạn 2016 – 2020 và 6,6% cho giai đoạn
2021 – 2025. Các con số tương ứng đối với kịch bản chuẩn là 6,8% và 6,1% và đối với kịch
bản xấu là 6,4% và 5,7%. Nghiên cứu xem xét các nhân tố chính tác động tới tăng trưởng
kinh tế tiềm năng ở Trung Quốc và sử dụng mô hình kinh tế tích hợp bao gồm các phương
pháp động lực hệ thống, kinh tế lượng, đầu vào – đầu ra để dự báo quy mô và cấu trúc nền
kinh tế Trung Quốc vào năm 2025. Mặc dù viễn cảnh kinh tế thế giới suy yếu và lợi tức dân
số giảm dần ở Trung Quốc đã tạo ra các thách thức lớn, nhưng nghiên cứu này chỉ ra rằng,
Trung Quốc có thể phát triển với tốc độ lành mạnh nếu đi theo một cách tiếp cận đa mũi nhọn
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 13
dựa trên trên đô thị hóa, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển và giáo dục, cải thiện năng suất
nhân tố tổng hợp, phát triển khu vực dịch vụ, và mở rộng tiêu dùng.
Park và Shin (2010) phân tích dữ liệu thương mại để đánh giá vai trò của Trung Quốc
với tư cách là động lực tăng trưởng cho các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á có hoạt động
thương mại lớn với Trung Quốc. Kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc từ các quốc gia láng
giềng có ảnh hưởng tích cực độc lập tới tăng trưởng của các nền kinh tế này hay không cuối
cùng phụ thuộc vào bản chất của hàng hóa dịch vụ nhập khẩu – tức là các hàng hóa dịch vụ
nhập khẩu này (i) xuất phát từ nhu cầu hàng hóa cuối cùng ở Mỹ và các quốc gia công nghiệp
hóa khác hay (ii) phản ánh nhu cầu hàng hóa cuối cùng của Trung Quốc. Rõ ràng, mức độ
quan trọng tương đối của nhu cầu nội địa càng lớn so với nhu cầu xuất phát từ mục tiêu phục
vụ Mỹ và các quốc gia khác, thì vai trò là động lực tăng trưởng khu vực của Trung Quốc càng
lớn. Các dữ liệu thương mại được phân tích cho thấy một sự chuyển dịch bền vững trong cơ
cấu thành phần hàng hóa nhập khẩu từ các nước láng giềng của Trung Quốc từ linh kiện, phụ
tùng sang hàng hóa cuối cùng, điều này cho thấy rằng Trung Quốc đang ngày càng trở thành
một nhà tiêu dùng thay vì là một đơn vị lắp ráp.
Trong một nghiên cứu khác, Park và Shin (2011) đánh giá vai trò động lực tăng trưởng
kinh tế của Trung Quốc theo một cách khác thông qua sử dụng mô hình VAR để đánh giá tác
động của việc xuất khẩu sang Trung Quốc lên GDP của Hồng Kong, Indonesia, Hàn Quốc,
Malaysia, Singapore, Đài Loan; và Thái Lan. Các bằng chứng từ mô hình VAR 3 biến cho
thấy kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc có tác động tích cực và lớn tới GDP của các nước
láng giềng. Hơn nữa, ảnh hưởng này đang ngày càng lớn kể từ sau khủng hoảng châu Á và
thậm chí còn lớn hơn kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sử dụng mô hình VAR 4
biến, tác động tích cực của hàng hóa nhập khẩu vào Trung Quốc vẫn còn lớn trong ngắn hạn.
Các bằng chứng do đó cho thấy xuất khẩu sang Trung Quốc đã góp phần vào sự phục hồi kinh
tế của các nước châu Á sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và, nói chung, đang bắt đầu trở
thành động lực tăng trưởng cho khu vực.
Ahuja và Nabar (2012) đã kiểm định thực nghiệm tác động lan tỏa của một yếu tố góp
phần hình thành nên đà giảm tốc tăng trưởng của Trung Quốc: yếu tố suy giảm đầu tư. Đặc
điểm quan trọng trong mô hình tăng trưởng của Trung Quốc là trong số các yếu tố tạo động
lực cho tăng trưởng, Trung Quốc phụ thuộc nặng nề vào yếu tố đầu tư. Các nền kinh tế hưởng
lợi từ mức đầu tư cao của Trung Quốc trong quá khứ - chẳng hạn, các nước xuất khẩu hàng
hóa, tư liệu sản xuất, và thiết bị phụ tùng – hiện nay phải đối mặt với các rủi ro từ việc suy
giảm đầu tư của Trung Quốc. Nghiên cứu lượng hóa mức độ ảnh hưởng toàn cầu tiềm năng
của việc suy giảm đầu tư tại Trung Quốc, kết quả cho thấy đầu tư ở Trung Quốc giảm xuống
1 điểm phần trăm tương ứng với tốc độ tăng trưởng toàn cầu giảm xuống 0,1 điểm phần trăm.
Các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á là một bộ phận của chuỗi sản xuất khu vực và là các
nước xuất khẩu hàng hóa, sẽ gánh chịu hậu quả nhiều nhất từ việc suy giảm đầu tư tại Trung
Quốc. Thêm vào đó, ảnh hưởng lan tỏa cũng ghi dấu mạnh mẽ trên tất cả các biến số tài
chính, thương mại và kinh tế vĩ mô của các đối tác thương mại nằm trong nhóm G20.
IV. Tầm quan trọng ngày càng tăng của Trung Quốc với vai trò là đối tác thương mại và
thị trường xuất khẩu
Sự gia tăng vị thế kinh tế toàn cầu của Trung Quốc đi đôi với sự gia tăng sức mạnh
thương mại toàn cầu của quốc gia này. Trung Quốc đang ngày càng trở nên quan trọng trong
việc phát triển hệ thống thương mại Châu Á, với vai trò không chỉ là một nhà xuất khẩu mà
còn là một nhà nhập khẩu. Cụ thể, từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào
năm 2001, Trung Quốc đã nổi lên như một địa điểm xuất khẩu quan trọng cho các quốc gia
Châu Á, đặc biệt là các nước Đông Á và Đông Nam Á. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của các
quốc gia Châu Á đang phát triển dưới dạng các mặt hàng như máy móc, kim loại, hóa chất và
khoáng sản tới Trung Quốc đã tăng đáng kể lên 122 tỷ đô la Mỹ trong năm 2012 từ mức 56 tỷ
đô la Mỹ vào năm 2004 (Hình 5). Các hóa chất được nhập khẩu chủ yếu từ Hồng Kong,
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 14
Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapo và Đài Loan, Trung Quốc, và máy móc được nhập chủ yếu
từ Đài Loan, Trung Quốc. Máy móc, kim loại, hóa chất và khoáng sản chiếm tổng cộng
khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển Châu Á sang Trung
Quốc (Hình 6).
Tỷ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc trên tổng kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia
Châu Á đang phát triển tăng một nửa từ 14% năm 2002 lên 21% năm 2012 (Hình 7). Tính
theo tỷ trọng GDP, xuất khẩu sang Trung Quốc tăng từ 6% lên 10% trong cùng thời kỳ (Hình
8). Bốn nền kinh tế công nghiệp hóa mới bao gồm Hồng Kong, Trung Quốc; Hàn Quốc;
Singapo; và Đài Loan, Trung Quốc – là những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước một cuộc
suy thoái kinh tế mạnh ở Trung Quốc, do đều là những quốc gia xuất khẩu chính về hàng hóa
và vốn sang Trung Quốc. Hơn nữa, tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc sẽ làm giảm nhu cầu
về những mặt hàng chủ chốt như đồng, sắt và các khoáng sản khác, tạo áp lực giảm giá những
mặt hàng này. Những quốc gia xuất khẩu hàng hóa ròng tại Châu Á như Indonesia, Malaysia,
và Turkmenistan sẽ bị ảnh hưởng bất lợi. Một phần lớn nhập khẩu của Trung Quốc từ những
quốc gia láng giềng là các bộ phận và linh kiện lắp ráp và tái xuất sang Mỹ và các thị trường
khác trên thế giới, nhưng một tỷ trọng lớn ngày càng tăng trong nhập khẩu của Trung Quốc là
hàng hóa cuối cùng (Park và Shin 2010). Vì vậy, sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc sẽ
có tác động trực tiếp nhiều hơn đến nhập khẩu từ khu vực này.
Hình 5: Cấu phần xuất khẩu sang Trung Quốc của các quốc gia đang phát
triển Châu Á
Tỷ đ
ô l
a M
ỹ
Máy móc Kim
loại Hóa chất Khoáng chất
Nguồn: CEIC
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 15
Hình 6: Cấu phần xuất khẩu sang Trung Quốc của các quốc gia đang
phát triển Châu Á
% t
rên
tổn
g k
im n
gạc
h x
uất
kh
ẩu
Máy móc Kim
loại
Hóa chất Khoáng chất
Hình 7: Xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển Châu Á sang Trung
Quốc
Nguồn: CEIC
Nguồn: CEIC
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 16
V. Tác động của suy thoái kinh tế Trung Quốc tại châu Á: đánh giá thực nghiệm
Do kinh tế Trung Quốc bắt đầu giảm tốc từ năm 2011 – 2012, phân tích thực nghiệm
sử dụng dữ liệu tới những năm này để đánh giá tác động trước mắt của việc suy giảm kinh tế
Trung Quốc đối với khu vực Châu Á.
A. Hướng tiếp cận theo kênh thương mại
Như đã lưu ý ở trên, thương mại có thể là kênh chính qua đó suy giảm kinh tế Trung Quốc lan
tỏa ảnh hưởng ra khu vực còn lại của Châu Á. Cách thức tăng trưởng GDP tại Trung Quốc lan
tỏa và tác động đến thương mại đã được kiểm tra thông qua phân tích dữ liệu, sử dụng
phương pháp nghiên cứu của Ahuja và Nabar (2012). Hiệu ứng lan tỏa từ Trung Quốc sang
một đối tác thương mại được tính toán như một sản phẩm kết hợp của kim ngạch xuất khẩu từ
các đối tác sang Trung Quốc, tỷ trọng trên GDP và tăng trưởng GDP của Trung Quốc. Tốc độ
tăng trưởng tỷ số giá cả thương mại của đối tác thương mại, độ trễ của tốc độ tăng trưởng
GDP và một chỉ số của biến động kinh tế vĩ mô đều được phân tích để kiểm soát những thay
đổi trong giá cả thương mại và để nắm bắt được những bất ổn về kinh tế vĩ mô từ khi cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra.
Định dạng mô hình: Phân tích số liệu mảng với mô hình hiệu ứng cố định
Trong đó:
GDPgrit: Tốc độ tăng trưởng GDP của i tại thời điểm t
SPcit = (Tổng kim ngạch xuất khẩu sang PRCit/ GDPit) * PRCgr
t
PRCgrt: tăng trưởng GDP của Trung Quốc tại thời điểm t
ToTit: phần trăm thay đổi hàng năm của tỷ số giá cả thương mại của i tại thời điểm t
VTit: biến động của i tại thời điểm t, độ lệch chuẩn của GDP trong mỗi giai đoạn 5 năm
Tác động lan tỏa ước tính của suy thoái kinh tế Trung Quốc đối với các quốc gia đang
phát triển khác tại Châu Á rõ ràng là rất lớn, và tác động của nó càng trở nên lớn hơn sau cuộc
khủng hoảng toàn cầu (Hình 1). Trong năm 2012, 1% sụt giảm trong tăng trưởng kinh tế
Hình 8: Xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển Châu Á sang Trung Quốc
Nguồn: CEIC
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 17
Trung Quốc làm suy giảm tăng trưởng kinh tế tại Châu Á là 0,128%. So sánh với Mỹ, tăng
trưởng kinh tế Mỹ giảm 1% làm giảm tăng trưởng kinh tế Châu Á bao gồm cả Trung Quốc là
0,31%. Tuy nhiên, tác động của Trung Quốc trở nên mạnh hơn trong thời kỳ hậu khủng hoảng
toàn cầu (2007-2012). Cụ thể, tăng trưởng tại Châu Á giảm 0,25%. Tăng trưởng tích cực
trong xuất khẩu tới một Trung Quốc vững vàng đã giúp khu vực này chống đỡ lại sự suy giảm
kinh tế ở các nền kinh tế phát triển (Hình 9). Tuy nhiên, tương tự như vậy, suy giảm kinh tế
Trung Quốc sẽ mang lại một cú sốc tiêu cực cho các quốc gia đang phát triển tại Châu Á.
Bảng 1: Phân tích mảng dữ liệu với mô hình hiệu ứng cố định: tác động của việc suy
giảm tăng trưởng tại Trung Quốc
Nguồn: Tính toán của ADB
Trong khi hiệu ứng lan tỏa tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á là rất lớn, mức
độ ảnh hưởng lại khác biệt rất nhiều tại các tiểu vùng (Hình 10). Đông Á là khu vực chịu ảnh
hưởng nhiều nhất. Hồng Kong, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mongolia, và Đài Loan, Trung Quốc
đã nhanh chóng mở rộng thương mại của mình với Trung Quốc trong thập niên qua. Tăng
Hình 9: Xuất khẩu từ các quốc gia đang phát triển Châu Á sang Mỹ và
Trung Quốc
% t
rên t
ổng k
im n
gạc
h x
uất
khẩu
Các biến
Nguồn: Tính toán của ADB
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 18
trưởng thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á được đẩy mạnh không chỉ nhờ tăng
trưởng kinh tế tại Trung Quốc mà còn nhờ một thỏa thuận thương mại tự do được ký kết năm
2010. Tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á đã tăng lên hơn 30 lần
trong 10 năm qua, và Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Đông Nam Á.
1% sụt giảm trong tăng trưởng kinh tế Trung Quốc kéo theo tăng trưởng bình quân gia quyền
của Đông Á, Đông Nam Á, và Trung Á lần lượt giảm đi 0,63; 0,17; 0,14%. Tác động này nhỏ
hơn ở Thái Bình Dương, và đặc biệt nhỏ hơn nữa tại khu vực Nam Á. Kết quả này phù hợp
với kết quả quan sát rằng khu vực Đông và Đông Nam Á có mối liên hệ về kinh tế gần gũi với
Trung Quốc hơn so với khu vực Nam Á.
Đối với từng nền kinh tế riêng biệt, quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất là Hồng
Kong. Thương mại của nước này với Trung Quốc đã vượt quá 90% GDP nước này trong năm
2011 và 2012. 1% sụt giảm tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có thể làm giảm tăng trưởng kinh
tế của Hồng Kong, Trung Quốc xuống hơn 2%. Anh hưởng bất lợi cũng rất lớn tại các quốc
gia Mongolia, Hàn Quốc, Singapo, và Đài Loan, Trung Quốc, khi kinh tế của các quốc gia
này đều phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sang Trung Quốc và do đó rất dễ bị ảnh hưởng khi
kinh tế Trung Quốc suy giảm (Hình 11). Mặt khác, tác động đến nền kinh tế lớn nhất Đông
Nam Á, Indonesia, lại nhẹ nhàng hơn, dù quốc gia này xuất khẩu nhiều tài nguyên thiên nhiên
sang Trung Quốc, bao gồm than đá, thiếc, cao su, ca cao, và dầu cọ. Nguyên nhân có thể do
cầu nội địa đóng vai trò lớn hơn trong tăng trưởng của Indonesia, điều này cũng có thể giải
thích cho trường hợp của Philipin không chịu nhiều tác động của suy giảm kinh tế Trung
Quốc.
Hình 10: Tác động của 1% sụt giảm tăng trưởng kinh tế tại Trung Quốc đến
các quốc gia đang phát triển khác tại Châu Á, từ năm 2007 đến năm 2012
Điể
m p
hần
tră
m
Các nước
đang phát
triển Châu
Á trừ TQ
Đông Á
không bao
gồm Trung
Quốc
Đông Nam
Á
Trung Á Thái Bình
Dương
Nam Á
Nguồn: Tính toán của ADB
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 19
B. Mô hình tự hồi quy vector toàn cầu
Trong phần này, mô hình tự hồi quy vector toàn cầu (GVAR) sẽ được sử dụng để
kiểm chứng mức độ vững của kết quả từ mô hình hồi quy 1 phương trình trong phần
trước. Mô hình GVAR được xây dựng bởi Dees và các cộng sự (2007) nhằm cung cấp
một góc nhìn mang tính thống kê về những mối liên kết kinh tế của các quốc gia trên toàn
cầu. Do vậy, so với mô hình một phương trình, mô hình GVAR đem đến một cái nhìn
toàn diện hơn về tính tương tác giữa các biến số vĩ mô tại các quốc gia khác nhau. Trong
trường hợp cụ thể này, mô hình sẽ phản ánh được nhiều mối liên kết kinh tế thay vì chỉ
thể hiện kênh thương mại.
Theo mô hình này, các tác động lan tỏa sẽ được đánh giá thông qua hàm phản ứng
xung tổng quát (giúp đánh giá tác động của các cú sốc lên các biến trong hệ phương trình)
bằng cách ước lượng tương quan giữa các cú sốc từ dữ liệu lịch sử. Mô hình GVAR phản
ánh được các cấu trúc động phức tạp giữa các biến, tuy nhiên chi phí của vấn đề “định
dạng cấu trúc” (structural identification) có thể làm mất đi những đặc điểm cấu trúc cơ
bản của một nền kinh tế. Nhược điểm này đã phần nào làm giảm tính ứng dụng của mô
hình. Dù vậy, mô hình này vẫn phù hợp với mục đích đề ra của nghiên cứu, đó là đo
lường các mối quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó có tác động lan tỏa.
Cấu trúc chuyên sâu về dữ liệu của mô hình đã giúp thu hẹp phạm vi đánh giá về
tác động lan tỏa của kinh tế Trung Quốc tới các quốc gia Đông Nam Á (bao gồm
Indonesia, Malaysia, Phillippines, Singapore và Thailand) thông qua ma trận hiệp phương
Hình 11: Tác động của 1% suy giảm tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đến
một số nền kinh tế Châu Á từ năm 2007 đến năm 2012
Ph
ần t
răm
điể
m
Nguồn: Tính toán của ADB
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 20
sai ước lượng được từ dữ liệu quý. Các hàm phản ứng xung tổng quát sau đó được sử
dụng để đo lường tác động lan tỏa từ việc kinh tế Trung Quốc suy giảm tới các quốc gia
Đông Nam Á sau 1 năm. Kết quả cho thấy tác động này là khá lớn. Cụ thể, GDP của
Trung Quốc giảm 1 điểm phần trăm so với trường hợp cơ sở sẽ làm sản lượng của các
quốc gia Đông Nam Á giảm 0,25 điểm phần trăm (so với trường hợp cơ sở) ngay trong
năm đó. Trong đó, kinh tế Malaysia chịu tác động mạnh nhất (GDP sẽ giảm 0,4 điểm phần
trăm), theo sau là Singapore (chịu tác động tương đương Malaysia). Indonesia và Thailand
chịu tác động ít hơn (lần lượt là 0,3 và 0,2 điểm phần trăm). Trái lại, Phillippines sẽ là
quốc gia gần như không bị ảnh hưởng.
Hình 12. Tác động của việc GDP Trung Quốc giảm 1% so với kịch bản cơ sở
C. Thảo luận chuyên sâu về kết quả thực nghiệm
Kết quả từ mô hình hồi quy 1 phương trình và hệ phương trình GVAR không có khác
biệt lớn. Tác động lan tỏa từ việc kinh tế Trung Quốc suy giảm 1 điểm phần trăm (so với
trường hợp cơ sở) trong mô hình 1 phương trình chỉ thấp hơn một chút so với mô hình GVAR
(0,17 điểm phần trăm và 0,25 điểm phần trăm).
Những ước lượng này là một minh chứng cho việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ có
tác động đáng kể lên các quốc gia Châu Á, trong đó tác động qua kênh thương mại là chủ yếu.
Điều này cũng phù hợp với thực tế Trung Quốc đang là một thị trường xuất khẩu lớn của thế
giới. Ước lượng từ mô hình GVAR lớn hơn so với mô hình 1 phương trình cho thấy sự tồn tại
của một số hiệu ứng thứ cấp bên cạnh hiệu ứng từ kênh thương mại. Những hiệu ứng này
không được thể hiện trong mô hình 1 phương trình bởi trong mô hình này, việc kinh tế Trung
Quốc giảm tốc không tác động tới những biến có khả năng ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia khác
Việc so sánh kết quả ước lượng từ 2 phương pháp cũng cho thấy kênh truyền dẫn tác
động từ kinh tế Trung Quốc là khác nhau đối với từng quốc gia. Trong khi kênh thương mại
vẫn đóng vai trò chủ đạo tại một số quốc gia thì những hiệu ứng thứ cấp lại có tác động mạnh
hơn tại một số nền kinh tế khác. Chẳng hạn, đối với trường hợp của Singapore và Malaysia,
có thể thấy, tác động qua kênh thương mại tại Singapore lớn hơn, tuy nhiên, hiệu ứng thứ cấp
lớn tại Malaysia đã khiến cho tác động tổng thể của việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc tại
Malaysia lớn hơn tác động tổng thể tại Singapore.
Cận
dưới
Cận trên Trung
vị
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 21
Độ lớn của tác động lan tỏa còn có thể được sử dụng để đo lường tác động từ việc
kinh tế Trung Quốc giảm tốc tới các quốc gia đang phát triển khác tại khu vực Châu Á. Chẳng
hạn, đối với các quốc gia Đông Nam Á, nếu không có bất kỳ một phản ứng chính sách nào từ
Chính phủ các nước này thì việc kinh tế Trung Quốc tăng trưởng thấp hơn mức tiềm năng sẽ
gây ra một sự sụt giảm tăng trưởng tại các quốc gia Đông Nam Á ở mức tỷ lệ thuận với tác
động lan tỏa đã được ước lượng ở phần trên.
Để minh họa tác động trung bình của việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc tới các quốc
gia Đông Nam Á, cần lưu ý rằng, trước khủng hoảng tài chính toàn cầu, Trung Quốc có tốc độ
tăng trưởng trung bình khoảng 10%/năm trong khi các nước Đông Nam Á chỉ là 6%/năm. Sau
khủng hoảng, đà tăng trưởng của Trung Quốc đã chậm lại, và quốc gia này nhiều khả năng sẽ
chỉ đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 7% hoặc thấp hơn. Kết quả từ mô
hình cho thấy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc thấp hơn 1 điểm phần trăm (so với tốc độ tăng
trưởng trong quá khứ) sẽ khiến các tăng trưởng tại các quốc gia Đông Nam Á giảm 0,25 điểm
phần trăm (so với tốc độ tăng trưởng trong quá khứ). Do vậy, nếu giả định rằng tăng trưởng
kinh tế của Trung Quốc trong thời gian tới giảm 3 điểm phần trăm (xuống còn 7%/năm), tăng
trưởng tại các quốc gia Đông Nam Á sẽ có thể giảm 0,75 điểm phần trăm (xuống mức
5,25%/năm). Có thể thấy, việc kinh tế giảm tốc là một trong những nguyên nhân chính đằng
sau việc tăng trưởng tại các quốc gia Đông Nam Á chậm lại trong hiện tại.
D. Tác động lan truyền từ việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc trong giai đoạn 2013-2014
Để đánh giá việc kinh tế Trung Quốc tác động tới tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia Đông Nam Á như thế nào, chúng tôi thực hiện các phân tích ngoài mẫu nhắm bóc tách
những ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc tới diễn biến tăng trưởng gần đây của một số
quốc gia trong khu vực. Dữ liệu tăng trưởng của 6 nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á
(Indonesia, Malaysia, Phillippines, Singapore, Thailand và Vietnam) trong một vài thập
kỷ gần đây sẽ được sử dụng để ước lượng và mô phỏng tăng trưởng GDP của những quốc
gia này trong 2 năm 2013-20142
Các ước lượng về tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được sử dụng để tính toán mức độ
chênh lệch sản lượng (chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng thực tế và xu thế tăng trưởng dài
hạn trong năm 2013-2014 của từng nước). Kết quả ước lượng chênh lệch sản lượng được
trình bày trong bảng 2. Trong đó, số âm thể hiện tốc độ tăng trưởng thực tế thấp hơn xu
thế tăng trưởng dài hạn và ngược lại.
Bảng 2. Ước lượng chênh lệch tăng trưởng tiềm năng trong năm 2013-2014
Các hệ số của tác động lan tỏa ước lượng được từ những phần trước sẽ được sử dụng
để tách các ảnh hưởng của việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc tới các quốc gia Đông Nam Á.
Quốc Gia
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 22
Cụ thể, hệ số tác động lan tỏa của mô hình 1 phương trình sẽ đại diện cho tác động từ kênh
thương mại, hệ số từ mô hình GVAR đại diện cho tổng tác động.
Đồ thị 13 thể hiện chi tiết hơn tác động của kinh tế Trung Quốc giảm tốc tới từng quốc
gia. Tác động này là không giống nhau giữa các nền kinh tế. Cụ thể, tác động từ kênh thương
mại cùng tổng tác động là khá tương đồng tại Singapore và Thailand, trong khi đó các hiệu
ứng thứ cấp lại đóng vai trò quan trọng tại Indonesia và Malaysia. Phillippines là quốc gia
duy nhất dường như không chịu tác động nào từ Trung Quốc, khi tác động từ kênh thương
mại cũng như tổng tác động là rất nhỏ
Bên cạnh những tác động từ kinh tế Trung Quốc như đã phân tích ở trên, đồ thị 13 cho
thấy tồn tại những yếu tố khác đã tác động lên diễn biến tăng trưởng tại các quốc gia Đông
Nam Á. Trong năm 2013, tăng trưởng kinh tế tại Malaysia, Indonesia, và Singapore đã chịu
ảnh hưởng bởi một số cú sốc tích cực, qua đó đã giúp hạn chế ảnh hưởng từ kinh tế Trung
Quốc. Tuy vậy, cầu nội địa tăng trưởng thấp ở Thái Lan và Việt Nam đã khuếch đại tác động
tiêu cực từ kinh tế Trung Quốc trong năm 2013
Trong năm 2014, tác động lan truyền từ việc kinh tế Trung Quốc giảm tốc tiếp tục kìm
hãm tăng trưởng tại các quốc gia Đông Nam Á. Tại Malaysia, Phillippines và Việt Nam, tác
động này đã được bù đắp một phần bởi các cú sốc tích cực. Cụ thể, đầu tư trực tiếp nước
ngoài tăng tại Việt Nam,cầu nội địa được giữ ổn định cùng xuất khẩu tăng trưởng trở lại tại
Malaysia và Phillippines đã bù đắp những tác động từ kinh tế Trung Quốc. Trái lại, Indonesia,
Thái Lan và Singapore lại phải chịu thêm những cú sốc tiêu cực, qua đó khuếch đại tác động
từ kinh tế Trung Quốc. Những bất ổn chính trị tại Thái Lan, năng suất tăng trưởng chậm lại tại
Singapore và cũng những chính sách thắt chặt nhằm thu hẹp thâm hụt cán cân vãng lai tại
Malaysia đều đã góp phần kìm hãm tăng trưởng kinh tế tại những quốc gia này
VI. KẾT LUẬN
Quá trìnhtăng trưởng ấn tượng của Trung Quốckể từ khi quốc gia này tiến hành cải
cách vào năm 1978 (qua đó biến Trung Quốc thành một động lực cho kinh tế toàn cầu) được
coi là diễn biến nổi bật nhất của kinh tế thế giới trong một vài thập kỷ trở lại đây. Tác động từ
sự trỗi dậy của Trung Quốc tới kinh tế toàn cầu khá rõ ràng trên khắp thế giới, kể cả các thị
trường phát triển cũng như mới nổi tại tất cả các châu lục. Vai trò của Trung Quốc thể hiện
được thông qua nhiều kênh khác nhau, trong đó có tầm quan trọng ngày càng tăng của Trung
Quốc trong vai trò là một nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, kênh thương mại vẫn đóng vai
trò trọng tâm và điều này cho thấy dấu ấn lớn của Trung Quốc trong vai trò là một nhà xuất
khẩu và nhập khẩu lớn trên thế giới. Tăng trưởng xuất khẩu nói riêng và tăng trưởng kinh tế
nói chung của khu vực đang phát triển châu Á (đặc biệt ở Đông Á và Đông Nam Á) đã được
hưởng lợi rất nhiều từ việc gia tăng nhập khẩu của Trung Quốc. Bên cạnh đó, đã có hai tiểu
vùng cũng đã hình thành mạng lưới sản xuất khu vực với Trung Quốc, tạo nguồn xuất khẩu
sản phẩm sản xuất đi ra toàn thế giới.
Kể từ khi khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 diễn ra, đà tăng trưởng của
Trung Quốc đã bị chậm lại (phù hợp với xu hướng tăng trưởng chậm của thế giới thời kỳ hậu
khủng hoảng). Đà tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc cũng tạo nên nỗi lo ngại đối với tăng
trưởng kinh tế thế giới do tăng trưởng liên tục của Trung Quốc chính là động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong giai đoạn trước khủng hoảng. Mục tiêu chính của nghiên
cứu này là để xác định tác động tiềm năng của sự tăng trưởng chậm của Trung Quốc đến các
nền kinh tế Châu Á thông qua hai phương pháp khác nhau: (i) mô hình một phương trình để
đo lường kênh thương mại và (ii) mô hình GVAR để đo lường các hiệu ứng khác ngoài kênh
thương mại.
Kết quả thực nghiệm từ cả hai phương pháp trên chứng minh rằng sự tăng trưởng
chậm lại của Trung Quốc có tác động tiêu cực đến các khu vực khác đặc biệt là Đông Á và
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 23
Đông Nam Á. Tuy nhiên, những tác động này lại không đồng nhất giữa các quốc gia. Một
phân tích nằm ngoài mẫu xem xét tác động từ việc tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc đối
với kết quả tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia SEA chỉ ra rằng Trung Quốc có đóng góp
vào động lực tăng trưởng cho khu vực nhưng không phải lúc nào cũng chiếm ưu thế. Ví dụ
năm 2013, một vài cú sốc tích cực ở Indonesia, Malaysia và Singapore đã giảm nhẹ các tác
động tiêu cực từ sự đi xuống của kinh tế Trung Quốc đến tăng trưởng tại các quốc gia này,
nhưng đối với Thái Lan và Việt Nam lại trầm trọng hơn do nhu cầu trong nước yếu.
Tuy nhiên điều quan trọng là phải nhìn xa hơn các tác động ngắn hạn, tập trung vào
các tác động trong trung và dài hạn từ việc suy giảm tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc. Trên
tất cả, sự giảm tốc trong tăng trưởng của Trung Quốc đại diện cho việc chuyển đổi một cách
tự nhiên và lành mạnh sang giai đoạn tăng trưởng chậm nhưng bền vững hơn. Sự tăng trưởng
nhanh nhưng thiếu bền vững sẽ mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng có thể gây ra một
cuộc khủng hoảng lớn và gây tổn hại nghiêm trọng đến triển vọng tăng trưởng trong dài hạn.
Do đó, tăng trưởng chậm nhưng bền vững thực tế có thể có lợi cho các quốc gia Châu Á mặc
dù nó có thể gây ra những chi phí trong ngắn hạn tương đối lớn theo nghiên cứu này. Hơn
nữa, sự giảm tốc trong tăng trưởng của Trung Quốc cũng liên quan một phần đến quá trình tái
cấu trúc nền kinh tế từ tăng trưởng dựa trên xuất khẩu và đầu tư sang tăng trưởng dựa trên cầu
và tiêu dùng nội địa. Việc tái cấu trúc này mở ra cơ hội xuất khẩu mới cho Châu Á và thế
giới, đặc biệt các nước xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng mặc dù triển vọng xuất khẩu hàng hóa
đầu tư giảm xuống. Tóm lại, tác động tiêu cực từ sự suy giảm tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
có thể được bù đắp bởi các yếu tố tích cực như việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ahuja, A., and M. Nabar. 2012. Investment-Led Growth in China: Global Spillovers. IMF
Working Paper WP/12/267. Dees, S., F. di Mauro, M. H. Pesaran, and L. V. Smith. 2007. Exploring the International
Linkages of the Euro Area: A Global VAR Analysis. Journal of Applied
Econometrics. 22 (1). pp. 1–38.
Eichengreen, B., D. Park, and K. Shin. 2012. When Fast Growing Economies Slow Down:
International Evidence and Implications for China. Asian Economic Papers. 11 (1). pp
42–87.
————. 2014. Growth Slowdowns Redux. Japan and the World Economy. 32. pp. 65–84.
Li, P., and F. Lou. 2015. China’s Potential Economic Growths during 2015–2025 under
Different Scenarios. China Economist. 10 (2). pp. 82–99. Park, D., and K. Shin. 2010. Can Trade with the People’s Republic of China Be an Engine of
Growth for Developing Asia? Asian Development Review. 27 (1). pp. 160–81. ————. 2011. People’s Republic of China as an Engine of Growth for Developing Asia?
Asian EconomicPapers. 10 (2). pp. 120–163. Smith, L. V., and A. Galesi. 2011. GVAR Toolbox 1.1.
https://sites.google.com/site/gvarmodelling/ gvar-toolbox Yuan, F., C. Chen, P. Zhang, X. Liu, and M. Lu. 2013. China’s Transition Phase and Long-
Term Development Path, Efficiency and Growth Rates. China Economist. 8 (2). pp.
28–43.
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 25
NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
THÔNG TIN ĐỀ TÀI TRONG NƯỚC THÁNG 06-2016
1. Đề tài 1:Cải thiện chất lượng quản trị công ty (corporate governance) nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Thị Hoài Thu - Phó Giám đốc, Trung tâm Đào tạo và Hợp tác
quốc tế, Học viện Ngân hàng
Mã số:DTNH.15/2015
Năm hoàn thành: 2016
Xếp loại: Giỏi
Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản trị công ty tại ngân hàng thương mại và tác động của
quản trị công ty tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Đánh giá thực trạng chất lượng quản trị công ty và phân tích ảnh hưởng của quản trị
công ty tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp cải thiện chất lượng quản trị công ty nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hỗ trợ các ngân hàng thương mại đề
xuất các giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng quản trị công ty, đề tài DTNH.15/2015 được
kết cấu thành 03 chương với nội dung nghiên cứu cụ thể như sau:
Chương 1 nghiên cứu tổng quan các vấn đề về lý thuyết quản trị công ty, quản trị công ty
trong ngân hàng thương mại, tác động của chất lượng quản trị công ty tới hiệu quả hoạt động
của ngân hàng thương mại, kinh nghiệm về quản trị công ty tại 04 ngân hàng thương mại lớn
của Trung quốc và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Nhóm nghiên cứu đề cập đến 04
lý thuyết phổ biến nhất về quản trị công ty, bao gồm: (i) Lý thuyết đại diện: định nghĩa quản
trị công ty là mối quan hệ giữa những người đứng đầu, trong đó có chủ sở hữu và người đại
diện; (ii) Lý thuyết các bên liên quan: cho rằng quản trị công ty cần quan tâm tới một nhóm
các bên liên quan lớn hơn, chẳng hạn như nhóm lợi ích liên quan đến vấn đề xã hội, môi
trường và đạo đức; (iii) Lý thuyết quản lý: cho rằng nơi mà lợi ích của cổ đông được tối đa thì
lợi ích của nhà quản lý cũng đạt tối đa, vì vậy, nhà quản lý sẽ có một sứ mệnh cân bằng xung
đột giữa các lợi ích khác nhau và các nhóm lợi ích khác nhau; (iv) Lý thuyết phụ thuộc nguồn
lực: tập trung vào vai trò của chủ tịch Hội đồng quản trị trong việc cung cấp cách tiếp cận với
những nguồn lực cần thiết cho công ty thông qua mối liên kết của họ với môi trường bên
ngoài. Đồng thời, nhóm nghiên cứu cũng thực hiện khảo sát thực tế quản trị công ty tại bốn
ngân hàng thương mại lớn của Trung Quốc và rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tại Chương 2, nhóm nghiên cứu đã phân tích thực trạng chất lượng quản trị công ty, thực
trạng hiệu quả hoạt động và phân tích tác động của quản trị công ty tới hiệu quả hoạt động tại
26 ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm 04 ngân hàng thương mại Nhà nước và 22
Ngân hàng thương mại cổ phần trong khoảng thời gian từ 2008 - 2014. Từ kết quả nghiên
cứu, nhóm tác giả đưa ra kết quả như sau: "Nhìn chung có mối quan hệ giữa quản trị công ty
và hiệu quả hoạt động của NHTM tại Việt Nam nhưng mối quan hệ không giống nhau giữa
các yếu tố: quy mô, mức độ độc lập và mức độ chuyên cần của ban lãnh đạo. Đồng thời, các
tác động này cũng là không thống nhất giữa các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động như
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 26
ROAA, ROAE và NPL."
Chương 3 của đề tài đưa ra một số khuyến nghị nhằm cải thiện hiệu quả quản trị công ty
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm khuyến nghị về hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý; về nâng cao năng lực quản trị nội bộ trong các Ngân hàng thương mại; về việc nâng cao
nhận thức của lãnh đạo Ngân hàng thương mại; về nâng cao vai trò sở hữu nhà nước trong hệ
thống Ngân hàng thương mại; về tăng cường vai trò của sở hữu nước ngoài và các định chế
tài chính quốc tế và về phát triển thị trường vốn./.
Trở lại trang đầu
2. Đề tài 2:Khủng hoảng truyền thông trong hoạt động ngân hàng và giải pháp xử lý về
truyền thông
Chủ nhiệm: Đặng Văn Tới - Phó Chánh Văn phòng, Văn phòng NHNN
Mã số:DTNH.14/2013
Năm hoàn thành: 2016
Xếp loại: Giỏi
Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Vai trò của truyền thông trong hoạt động ngân hàng, “khủng hoảng truyền thông” và tác
động của nó đối với hoạt động ngân hàng.
- Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam trong xử lý “khủng hoảng truyền thông”.
- Đề xuất giải pháp xử lý tình huống “khủng hoảng truyền thông” để đề phòng và chủ
động đối phó với “khủng hoảng truyền thông” trong hoạt động ngân hàng.
Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu nghiên cứu lý luận về khủng hoảng truyền thông, phân tích thực trạng xử
lý khủng hoảng truyền thông của ngành Ngân hàng giai đoạn 2000 - 2015 để đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả xử lý khủng hoảng truyền thông, đề tài DTNH.14/2013 cấu trúc thành
03 chương với các nội dung như sau:
Chương 1 nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khủng hoảng truyền thông trong hoạt động
ngân hàng, bao gồm quan niệm, các loại hình khủng hoảng, mối quan hệ giữa khủng hoảng và
truyền thông, quản lý truyền thông trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng và kinh nghiệm quốc tế
về truyền thông xử lý khủng hoảng trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Nghiên cứu tại chương 1
cho thấy bằng cách truyền thông công khai và rõ ràng, NHTW có thể xây dựng và củng cố
lòng tin vào hệ thống ngân hàng. Tùy thuộc vào đặc điểm và tính chất của khủng hoảng,
truyền thông xử lý khủng hoảng phải bám sát nhu cầu của các nhóm mục tiêu. NHTW cần
phát đi những thông điệp rõ ràng và trực tiếp về những rủi ro mới phát sinh, sẵn sàng có phản
ứng chính sách thích hợp; chuẩn bị các kế hoạch truyền thông để giải thích các biện pháp
chính sách trước công luận một cách kịp thời và đầy đủ.
Chương 2 nghiên cứu thực trạng xử lý khủng hoảng truyền thông của ngành Ngân hàng
giai đoạn 2000 - 2015, bao gồm một số tình huống khủng hoảng truyền thông về tiền tệ, ngân
hàng và xử lý khủng hoảng truyền thông và đánh giá công tác xử lý khủng hoảng truyền
thông trong ngành Ngân hàng. Nghiên cứu tại Chương 2 cho thấy trong giai đoạn 2000 -
2015, NHNN đã xử lý một cách nhanh chóng, có hiệu quả các tình huống khủng hoảng, có sự
phối hợp khá chặt chẽ giữa các đơn vị thuộc NHNN, TCTD có liên quan với cơ quan báo chí
và các cơ quan Nhà nước, nhờ đó các tình huống khủng hoảng đã sớm được ngăn chặn, giảm
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 27
thiểu tác động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng và tình hình kinh tế - xã hội. NHNN ngày
càng coi trọng và tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, góp phần vào thành công của
các chính sách điều hành của NHNN. Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả xử lý khủng hoảng
truyền thông, NHNN cần chủ động dự báo các nguy cơ xảy ra khủng hoảng để xây dựng các
kịch bản ứng phó phù hợp, chú trọng xây dựng mối quan hệ với truyền thông, quan tâm đến
việc đào tạo kiến thức xử lý khủng hoảng truyền thông cho đội ngũ cán bộ làm công tác
truyền thông của NHNN và các TCTD.
Chương 3 của đề tài tập trung vào việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý
khủng hoảng truyền thông của ngành ngân hàng trong điều kiện hiện nay. Theo đó, NHNN
cần tập trung triển khai các nhiệm vụ: xây dựng và tổ chức triển khai chiến lược, kế hoạch
truyền thông của ngành Ngân hàng; phối hợp với các đơn vị báo chí, truyền thông để thông
tin, tuyên truyền chính sách, kết quả hoạt động ngân hàng, giải thích những vấn đề dư luận
quan tâm, hạn chế các tin đồn thiếu cơ sở gây ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng và nền
kinh tế; phát triển truyền thông nội bộ; triển khai công tác giáo dục tài chính để nâng cao kiến
thức tài chính, ngân hàng cho cộng đồng... Đối với các sự cố, cần xử lý sớm khi sự việc còn
nhỏ; thông điệp NHNN đưa ra phải chính xác, nhất quán, dễ hiểu; cần công khai, minh bạch
thông tin, sẵn sàng hợp tác, chia sẻ thông tin với báo chí. Các TCTD cần chủ động ngăn ngừa
khủng hoảng truyền thông; tích cực củng cố, nâng cao hình ảnh của TCTD; ban hành, bổ
sung, sửa đổi các chính sách, quy trình nghiệp vụtheo tiêu chuẩn ISO để thực hiện thống nhất
trong toàn hệ thống, đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng với chất lượng tốt nhất và đảm bảo
an toàn, hiệu quả; xây dựng cẩm nang xử lý khủng hoảng truyền thông, trong đó hướng dẫn
cụ thể cách thức nhận biết những dấu hiệu khủng hoảng, nguyên tắc xử lý, các bước xử lý,cơ
chế tiếp nhận, xử lý thông tin, cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, chế độ báo cáo… Các
TCTD cũng cần thành lập nhóm xử lý khủng hoảng truyền thông để giúp lãnh đạo TCTD xử
lý kịp thời các tình huống khủng hoảng phát sinh; tăng cường đào tạo cán bộ làm công tác
truyền thông, trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo kỹ năng xử lý khủng hoảng truyền thông./.
Trở lại trang đầu
3. Đề tài 3:Xây dựng giải pháp nâng cao vai trò cầu nối của Hiệp hội Ngân hàng nhằm
hỗ trợ tốt hơn hoạt động của các NHTM và nâng cao hiệu lực thực thi các chính sách
của NHNN
Chủ nhiệm: TS. Trần Thị Hồng Hạnh, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
Mã số: DTNH.09/2015
Năm hoàn thành: 2016
Xếp loại: Giỏi
Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Vai trò của Hiệp hội ngân hàng: các quy định pháp lý và kinh nghiệm của một số quốc
gia trên thế giới.
- Việc thực hiện vai trò cầu nối của Hiệp hội ngân hàng từ năm 2008 trở lại đây: kết quả,
thành công và hạn chế.
- Định hướng phát huy vai trò cầu nối của Hiệp hội ngân hàng: giải pháp, lộ trình và một
số kiến nghị với NHNN.
Mô tả tóm tắt:
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 28
Nhằm mục tiêu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò hoạt động của hiệp hội
ngân hàng, từ đó đề xuất giải pháp nhằm cải thiện khả năng hoạt động, nâng cao vai trò cầu
nối giữa các NHTM thành viên với NHNN của Hiệp hội Ngân hàng Việt nam (HHNH) nhằm
hỗ trợ tốt hơn hoạt động của các NHTM và nâng cao hiệu lực thực thi các chính sách của
NHNN,đề tài DTNH.09/2015 được cấu trúc thành 04 chương với các nội dung như sau:
Chương 1 đề tài nghiên cứu các vấn đề cơ bản về hiệp hội ngân hàng như khái niệm, vai
trò cầu nối của hiệp hội ngân hàng và các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò cầu nối của hiệp hội
ngân hàng. Nghiên cứu tại Chương 1 cho thấy việc nâng cao vai trò cầu nối của hiệp hội ngân
hàngcó tác động tích cực trong thực thi CSTT và hỗ trợ hoạt động của các tổ chức thành viên.
Việc nâng cao vai trò của hiệp hội ngân hàng được đánh giá qua 6 tiêu thức: Năng lực định
hướng chiến lược; Năng lực lãnh đạo và quản trị; Năng lực tài chính và cơ sở vật chất; Năng
lực phục vụ các tổ chức thành viên; Năng lực vận động chính sách; Năng lực xây dựng và
phát triển cộng đồng tổ chức hội viên.
Chương 2nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của hiệp hội ngân hàng các nước nhằm rút ra
bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Qua nghiên cứu, đề tài rút ra được 9 điểm chính
chung nhất (về vai trò, mô hình tổ chức hoạt động, chức năng nhiệm vụ, quan hệ với Chính
phủ, NHTW, TCHV….) mà HHNH có thể áp dụng để nâng cao vai trò cầu nối của mình
trong việc hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động của các tổ chức thành viên và nâng cao hiệu lực thực
thi các chính sách của NHNN, các chủ trương chính sách của Nhà nước theo thông lệ quốc tế.
Chương 3 nghiên cứu thực trạng vai trò cầu nối của HHNHV. Theo đó, đề tài đã khái quát
quá trình hình thành và phát triển của HHNH, làm rõ cơ cấu tổ chức hoạt động của HHNH
qua các thời kỳ, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, thực trạng vai trò cầu nối của HHNH
về môi trường pháp lý, thực trạng hoạt động của HHNH qua 2 nhiệm kỳ từ 2008 đến
31/12/2005.Nghiên cứu tại Chương 3 cho thấy một số bài học kinh nghiệm sau:
- Sự quan tâm sát sao của các Uy viên Hội đồng HHNH là vô cùng quan trọng để tạo điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động của HHNH.
- Cần tăng cường phối hợp, tranh thủ sự ủng hộ của NHNN, các Bộ, Ngành liên quan
trong việc tham vấn chính sách; Nắm bắt thông tin kịp thời về tình hình hoạt động của các tổ
chức thành viên để triển khai thực hiện nhiệm vụ tốt hơn.
- Cần tổ chức được các hoạt động thiết thực với các tổ chức thành viên; Phát huy vai trò,
lợi thế của các tổ chức thành viên để HHNH thực sự trở thành ngôi nhà chung, nơi các tổ
chức thành viên tin tưởng, sẵn sàng chia sẻ thông tin và những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình hoạt động, hợp tác để cùng phát triển an toàn, hiệu quả.
- Cần thiết lập và duy trì thường xuyên mối quan hệ với các đơn vị đối tác trong nước và
quốc tế, tận dụng sự ủng hộ cả về năng lực chuyên môn và vật chất vừa tiết kiệm được kinh
phí vừa tạo điều kiện cho các hoạt động của HHNHVN được phong phú và mở rộng hơn.
Chương 4 của đề tài tập trung đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò cầu nối của hiệp hội
ngân hàng Việt Nam nhằm hỗ trợ tốt hơn hoạt động của các ngân hàng thương mại và nâng
cao hiệu lực thực thi các chính sách của NHNN. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra định hướng
chung về phát triển HHNH đến 2020gồm: (i) Xây dựng và phát triển HHNH trở thành đầu
mối triển khai chương trình Giáo dục tài chính cho các khách hàng của NHTM tại Việt Nam;
(ii) Thiết lập được cơ chế thông tin, thu thập ý kiến của hội viên; (iii) Nâng cao năng lực lãnh
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 29
đạo, quản trị điều hành HHNH và năng lực hoạt động và tính liên kết của các cán bộ chuyên
trách, các ủy ban, đơn vị chuyên ngành (Hội, Câu lạc bộ) theo các lĩnh vực hoạt động.
Với mục tiêutăng cường niềm tin và sự hiểu biết của công chúng vào hệ thống ngân hàng,
hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ; thúc đẩy và mở rộng hợp tác với các HHNH trong khu
vực và quốc tế; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên, các giải pháp cụ thể được
nhóm nghiên cứu đề xuất gồm:
- Nâng cao nhận thức về vai trò của Hiệp hội trong quản lý xã hội;
- Hoàn thiện khung khổ pháp lý về tổ chức hội;
- Nâng cao năng lực hoạt động của HHNH;
- Nâng cao vai trò của các TCHV;
- Nâng cao chất lượng công tác đào tạo theo hướng bền vững;
- Tăng cường năng lực hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức hội viên..
Trở lại trang đầu
4. Đề tài 4:Nâng cao chất lượng thống kê đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam bằng phương pháp điều tra chọn mẫu đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chủ nhiệm: ThS. Hoàng Thị Quỳnh Mai, Trưởng phòng, Vụ Dự báo - thống kê, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam
Mã số: DANH.01/2014
Năm hoàn thành: 2016
Xếp loại:Giỏi
Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Đánh giá thực trạng chất lượng thống kê FDI hiện nay; xác định thiếu hụt thông tin, số liệu
thống kê về FDI.
- Đề xuất giải pháp cải thiện chất lượng thống kê cán cân thanh toán quốc tế thông qua thu
thập số liệu bằng phương pháp điều tra thống kê.
- Xây dựng phương án điều tra: lập dàn mẫu điều tra, xây dựng mẫu phiếu điều tra, gửi phiếu
điều tra và thu thập số liệu, xử lý tổng hợp số liệu, phân tích, đánh giá kết quả điều tra.
- Sử dụng các số liệu thu thập được từ cuộc điều tra để bổ sung cho nguồn số liệu hiện có từ
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (bổ sung số liệu về lợi nhuận sau thuế, lợi nhuận tái đầu tư, giảm vốn đầu
tư…) phục vụ lập cán cân thanh toán quốc tế.
Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêuđánh giá thực trạng chất lượng thống kê đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hiện
nay đểđề xuất giải pháp cải thiện chất lượng thống kê cán cân thanh toán quốc tế thông qua thu
thập số liệu bằng phương pháp điều tra thống kê, dự ánDANH.01/2014được cấu trúc thành 03
chương với các nội dung như sau:
Chương 1 hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về phương pháp luận thống kê đầu tư trực tiếp
nước ngoài: Khái niệm, nguyên tắc cơ bản, cách phân tổ thống kê FDI,kinh nghiệm của một số
nước về tổ chức hệ thống thống kê FDI, qua đó rút ra ưu điểm và hạn chế của từng phương thức
thu thập số liệu FDI. Qua nghiên cứu tại chương 1, nhóm nghiêm cứu kết luận rằng có 3 nguồn số
liệu chính để thu thập thông tin, số liệu thống kê FDI, bao gồm:hệ thống báo cáo giao dịch quốc tế
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 30
(ITRS), điều tra doanh nghiệp và thông tin quản lý hành chính từ các cơ quan quản lý của Chính
phủ về xúc tiến và quản lý đầu tư.
Chương 2 nghiên cứu thực trạng công tác thống kê FDI vào Việt Nam, bao gồm: hệ thống
thống kê FDI tại Việt Nam, phương pháp thu thập thông tin và đánh giá thực trạng chất lượng
thống kê FDI hiện nay. Tại Chương 2, nhóm nghiên cứu đã triển khai thực hiện thử nghiệm điều
tra thống kê đối với các doanh nghiệp FDI nhằm thu thập các số liệu theo đúng chuẩn quốc tế.
Mặc dù mẫu điều tra được lựa chọn chưa đủ đại diện cho tất cả các ngành, các lĩnh vực có vốn
FDI nhưng kết quả điều tra đã đem lại nhiều lợi ích, cụ thể:
- Thực hành thống kê số liệu theo phương pháp điều tra chọn mẫu, xây dựng cơ sở dữ liệu,
chiết suất số liệu đầu ra về FDI theo đúng chuẩn quốc tế.
- Bổ sung thêm nhiều số liệu, giúp cho bộ số liệu thống kê FDI của Việt Nam được đầy đủ
hơn. Đặc biệt, nhiều số liệu trong đó chưa từng được thống kê ở Việt Nam như: lợi nhuận chi trả
cho các nhà đầu tư nước ngoài, lợi nhuận tái đầu tư… Đây là những thông tin hữu ích giúp đánh
giá đầy đủ hơn về tình hình thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong năm 2014. Kết quả này cho thấy
NHNN có khả năng thực hiện thống kê FDI đầy đủ theo chuẩn quốc tế, là tiền đề cho việc thực
hiện các cam kết về công bố số liệu với IMF và hội nhập ASEAN về thống kê.
- Bổ sung thêm nguồn số liệu bên cạnh các nguồn số liệu sẵn có (báo cáo trực tiếp của các DN
FDI, báo cáo của hệ thống ngân hàng…) nhằm hoàn thiện hơn hệ thống thống kê FDI của Việt
Nam.
Tại chương 3, nhóm nghiên cứu đề xuất định hướng công tác thống kê FDI của Việt Nam và
giải pháp nâng cao chất lượng thống kê FDI trên cán cân thanh toán của Việt Nam. Theo nhóm
nghiên cứu, để nâng cao chất lượng thống kê FDI trên BOP quốc tế của Việt Nam, trước hết
NHNN cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với các cơ quan thống kê FDI trong nước
cũng như các cơ quan, tổ chức thống kê FDI nước ngoài nhằm thống nhất về phương pháp luận
và phạm vi thống kê FDI tại Việt Nam. Bên cạnh đó, sự đổi mới trong phương thức thu thập
thông tin thống kê là cần thiết, đặc biệt cần chú trọng đến việc tiến hành điều tra thống kê để thu
thập số liệu FDI. Ngoài ra, các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm
công tác thống kê FDI và ứng dụng các phần mềm hỗ trợ cho công tác thống kê, xử lý số liệu
thống kê FDI là không thể thiếu. Nhóm công tác cũng đã đưa ra lộ trình cụ thể để thực hiện các
giải pháp này trong thời gian tới.
Trở lại trang đầu
5. Đề tài 5:Hành vi người gửi tiền và các yếu tố tác động đến hành vi người gửi tiền trong
hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Thạnh, Chủ tịch HĐQT, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Mã số: DTNH.08/2015
Năm hoàn thành: 2016
Xếp loại: Giỏi
Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Xác định các yếu tố liên quan tới ngân hàng và đặc điểm người gửi tiền tác động đến
hành vi gửi tiền, rút tiền và mức độ tác động tới việc gửi tiền, rút tiền.
- Kinh nghiệm quốc tế về hành vi người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng và bài học
liên hệ đối với Việt Nam.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 31
- Xây dựng mô hình đánh giá các yếu tố tác động tới hành vi của người gửi tiền và kiểm
định mô hình theo phương pháp hồi quy giai đoạn trước và sau khủng hoảng.
- Đề xuất các giải pháp và gợi ý chính sách về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng
như chính sách truyền thông, chính sách bảo hiểm tiền gửi và chính sách tiền gửi của các
ngân hàng thương mại…, nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống, nâng cao hiểu biết và niềm tin
công chúng vào hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Mô tả tóm tắt:
Đề xuất các nghiên cứu, đánh giá các nhân tố tác động tới hành vi người gửi tiền nhằm đề
xuất các giải pháp và gợi ý chính sách về truyền thôngvà bảo hiểm tiền gửi liên quan hành vi
người gửi tiền, đề tài DTNH.08/2015 được cấu trúc thành 03 chương với các nội dung cơ bản như
sau:
Chương 1 nghiên cứu về tổng quan về hành vi người gửi tiền và các yếu tố tác động tới hành
vi người gửi tiền, bao gồm các yếu tố ngân hàng, các yếu tố đặc điểm của người gửi tiền, các yếu
tố kinh tế vĩ mô, chính sách bảo hiểm tiền gửi
Chương 2 nghiên cứu về hành vi người gửi tiền trong hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2006 - 2014, bao gồm thói quen gửi tiền tiết kiệm của người gửi tiền vàhiểu biết của người gửi
tiền về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, đồng thời xây dựng mô hình đánh giá tác động của các yếu
tố này tới hành vi người gửi tiền.Căn cứ vào kết quả khảo sát và kết quả chạy mô hình tại chương
2, nhóm nghiên cứu đưa ra một số kết luận như sau:
(i)Mô hình sử dụng các biến về giới tính, độ tuổi, trình độ giáo dục, vùng sinh sống, tình trạng
hôn nhân, thu nhập bình quân, độ tin cậy của thông tin, tần suất tiếp cận thông tin của người gửi
tiền; hiểu biết về bảo hiểm tiền gửi có khả năng giải thích cho hành vi người gửi tiền.
(ii)Hành vi người gửi tiền được đo lường bởi phản ứng của người gửi tiền sau khi nhận thông
tin bất lợi về thị trường tài chính và ngân hàng họ gửi tiền.
(iii) Các kết quả từ mô hình đưa ra những yếu tố quan trọng trong hành vi người gửi tiền để từ
đó, các cơ quan liên quan, có thể đưa ra các chính sách phù hợp để bảo vệ người gửi tiền, ổn định
lượng tiền huy động từ dân cư.
(iv)Với các mức ý nghĩa 5%, các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi rút tiền được giải thích như
sau:
- Người gửi tiền từ 30 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, và 30 tuổi đến 60 tuổi đối với nam có xu
hướng rút tiền nhiều hơn người gửi tiền dưới 30 tuổi.
- Người gửi tiền trên 55 tuổi đối đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam có xu hướng rút tiền
nhiều hơn nhóm dưới 30 tuổi khi nhận thông tin bất lợi về thị trường tài chính và ngân hàng họ
gửi tiền.
- Người gửi tiền có trình độ tốt nghiệp đại học có xu hướng rút tiền ít hơn so với người gửi
tiền mới tốt nghiệp trung học phổ thông trở xuống.
- Người gửi tiền tại khu vực Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nam Bộ có xu hướng rút tiền ít hơn người gửi tiền tại khu vực Đồng bằng sông Hồng và Đông
Nam Bộ khi nhận thông tin bất lợi về thị trường tài chính và ngân hàng họ gửi tiền.
- Người gửi tiền thuộc nhóm đã kết hôn có xu hướng rút tiền ít hơn người gửi tiền chưa kết
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 32
hôn.
- Khi nhận thông tin bất lợi về thị trường tài chính và ngân hàng người gửi tiền đang gửi,
những người gửi tiền càng tin tưởng các nguồn thông tin chính thống (ti vi, báo giấy, báo điện tử)
thì xu hướng rút tiền ít hơn.
- Người gửi tiền biết về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thì xu hướng rút tiền ít hơn.
- Người gửi tiền biết về Hạn mức bảo hiểm tiền gửi hay không biết về Hạn mức bảo hiểm tiền
gửi không tác động đến việc quyết định rút toàn bộ số tiền gửi sau khi họ nhận thông tin bất lợi về
thị trường tài chính và ngân hàng.
- Việc tồn tại chính sách bảo hiểm tiền gửi có tác động tích cực đến hành vi gửi tiền của người
gửi tiền.
- Các yếu tố còn lại như: giới tính, thu nhập bình quân của người gửi tiền không tác động đến
hành vi rút và gửi tiền của người gửi tiền.
Tại Chương 3, nhóm nghiên cứu đưa ra một số đề xuất nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ
hành vi người gửi tiền đến an toàn hoạt động ngân hàng. Theo đó, NHNN cần tích cực hơn trong
quá trình xử lý nợ xấu, có chính sách quản lý chặt chẽ hơn đối với các ngân hàng nhỏ. Khi thị
trường tài chính biến động, cần tập trung cung cấp và kiểm soát thông tin trên các kênh chính
thức, xây dựng và triển khai chương trình giáo dục tài chính cộng đồng nhằm nâng cao hiểu biết
và niềm tin công chúng vào hệ thống ngân hàng. Với những đặc điểm khác nhau giữa các vùng,
trình độ học vấn, giới tính, lứa tuổi, NHNN cần xây dựng chính sách, định hướng khác nhau cho
từng vùng khi có những biến động bất lợi về tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, trên cơ sở đánh giá chi tiết về tình hình hoạt động của ngân
hàng, đề xuất, tham mưu cho NHNN trong việc giám sát chặt chẽ các ngân hàng yếu kém có biểu
hiện thu hút tiền gửi thông qua các chính sách lãi suất cao, các hình thức khuyến mại khiến tiền
gửi bị gửi vào những kênh kém hiệu quả. Các Ngân hàng thương mạicần chú trọng: xử lý nợ xấu,
không nên tăng trưởng quy mô tài sản quá mức so với tăng trưởng tiền gửi, Thực hiện tốt chính
sách tuyên truyền, quảng cáo để nâng cao uy tín của ngân hàngvà giải thích đầy đủ cho người gửi
tiền về chính sách bảo hiểm tiền gửi.
Trở lại trang đầu
6. Đề tài 6:Các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói và giải pháp giảm nghèo bền vững,
vươn lên làm giàu tại vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Chủ nhiệm: TS. Lê Thanh Ngọc, Giảng viên Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
Mã số: DTNH.17/2015
Năm hoàn thành: 2016
Xếp loại: Giỏi
Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Phân tích, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng
bằng sông Cửu Long.
- Đề xuất giải pháp nhằm giảm nghèo đói bền vững và vươn lên làm giàu ở vùng kinh tế trọng
điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Mô tả tóm tắt:
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 33
Nhằm mục tiêu phân tích đặc thù nghèo đói, thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói
và kết quả các nỗ lực giảm nghèo tại các tỉnh kinh tế trọng điểm Vùng ĐBSCL để từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm giảm nghèo bền vững của các hộ gia đình sống tại vùng kinh tế trọng điểm
nêu trên, nhóm nghiêncứu đã triển khai nhiệm vụ theo 03 chương với các nội dung cụ thể như
sau:
Chương 1 lược khảo các nghiên cứu về tình trạng nghèo đói ở Việt Nam và Vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long. Kết quả của chương 1 đã hình thành khung phân tích cho tình trạng nghèo đói và
giải pháp giảm nghèo bền vững vươn lên làm giàu tại Vùng kinh tế trọng điểm Vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long trong các chương tiếp theo.
Chương 2 đánh giá thực trạng nghèo đói và các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói vùng kinh
tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long, phân tích nghèo đói và các nhân tố ảnh hưởng đến
nghèo đó cũng như những hạn chế và nguyên nhân những hạn chế trong các chính sách xóa đói
giảm nghèo. Theo nhóm nghiên cứu, hiện nay, các chính sách đã đáp ứng một lượng lớn nhu cầu
vốn của hộ nghèo và tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, cung cấp thêm tư liệu sản xuất, tạo
động lực cho người nghèo,....
Tại Chương 3 đề xuất triển khai một số dự án phù hợp với đặc thù của từng địa phương; Nâng
cao khả năng tiếp cận vốn cho hộ nghèo và cận nghèo; Nâng cao năng suất lao động cho hộ nghèo
và cận nghèo; Phổ cập giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục; Nâng cao chất lượng chăm sóc
y tế; Phát triển cơ sở hạ tầng; Phát triển văn hóa thông tin, nâng cao đời sống tinh thần; Giải pháp
đặc thù giảm nghèo cho nhóm đồng bào dân tộc thiểu số Khmer./.
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 34
HỘI THẢO KHOA HỌC THÁNG 06-2016
1. Hội thảo: “Điều tra thống kê tiền tệ - ngân hàng”.
Thời gian tổ chức: Ngày 01/07/2016
Đơn vị thực hiện: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chủ trì:
Nội dung hội thảo:
Ngày 01/7/2016, tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN đã tổ chức
Hội thảo “Điều tra thống kê tiền tệ - ngân hàng”. Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đã tới dự
và có bài phát biểu tại Hội thảo.
Tham dự Hội thảo có đại diện Tổng Cục Thống kê, các đồng chí lãnh đạo Vụ Dự báo
thống kê, Vụ Chính sách tiền tệ, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Vụ Tín dụng các
ngành kinh tế, Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính, Cục Công nghệ tin học, Viện Chiến lược Ngân
hàng, đại diện các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các cán bộ làm
công tác điều tra thống kê của NHNN và Tổng Cục Thống kê…
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, số liệu thống
kê có vai trò rất cần thiết đối với công tác quản lý và điều hành của cơ quan quản lý nhà nước.
Đối với một Ngân hàng Trung ương hiện đại, bên cạnh việc thu thập thông tin qua chế độ báo
cáo thống kê, điều tra thống kê đóng vai trò ngày càng quan trọng, đáp ứng yêu cầu nhận biết
và dự báo sớm những diễn biến và xu hướng mới có thể xảy ra trên thị trường tiền tệ và hoạt
động ngân hàng nhằm có chính sách ứng phó phù hợp, kịp thời.
Để triển khai có hiệu quả các cuộc điều tra thống kê trong ngành Ngân hàng, NHNN tổ
chức Hội thảo “Điều tra thống kê trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng” nhằm giúp các TCTD
hiểu rõ mục đích, yêu cầu và tránh nhiệm đối với các cuộc điều tra nói trên và tạo điều kiện để
các TCTD chia sẻ kinh nghiệm triển khai hiệu quả các cuộc điều tra tại các đơn vị.
Phát biểu nêu bật tầm quan trọng của công tác điều tra thống kê, Đ/c Tô Huy Vũ - Vụ
trưởng Vụ Dự báo Thống kê cho biết, ngày 22/3/2011 Thống đốc NHNN đã ban hành Thông
tư số 06/2011/TT-NHNN tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra thống kê tiền tệ, hoạt động
ngân hàng và ngoại hối. Kể từ Quý IV/2011, NHNN đã bắt đầu tiền hành điều tra thử nghiệm
cuộc “Điều tra xu hướng kinh doanh” đối với toàn hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD). Cuộc
điều tra đã góp phần đưa ra những chuẩn đoán, dự báo về các xu hướng đã và có thể diễn ra,
đặc biệt phát hiện những thay đổi chu kỳ kinh doanh của hệ thống TCTD sớm hơn các số liệu
thống kê chính thức. Thành công của cuộc “Điều tra xu hướng kinh doanh” là tiền đề để
NHNN quyết định triển khai song song cuộc “Điều tra kỳ vọng lạm phát” được bắt đầu từ
Quý I/2013 và chuyển sang định kỳ tháng từ tháng 8/2013.
Sau 5 năm thực hiện điều tra thử nghiệm đối với 2 cuộc điều tra, công tác điều tra của
NHNN đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, chất lượng điều tra ngày càng được cải thiện.
Kết quả của 2 cuộc điều tra đã cung cấp thông tin kịp thời về nhận định và kỳ vọng của các
TCTD về xu hướng kinh doanh, lạm phát, tỷ giá, lãi suất… góp phần bổ sung thêm thông tin
cho công tác phân tích, dự báo, phục vụ hiệu quả công tác hoạch định chính sách tiền tệ và
quản lý hoạt động ngân hàng và quản lý kỳ vọng của thị trường theo hướng sát thực, hiện quả
hơn.
Sau 5 năm triển khai thí điểm, ngày 31/3/2016, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết
định số 477/2016/QĐ-NHNN, đưa 2 cuộc điều tra nói trên vào Chương trình điều tra chính
thức của NHNN. Cùng với đó, NHNN tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp tin học
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 35
hóa trong công tác điều tra thống kê thông qua việc xây dựng hệ thống điều tra thống kê trực
tuyến, dự kiến trong năm 2016 sẽ hoàn thiện và đưa vào ứng dụng thực tế.
Tại Hội thảo, cán bộ của Vụ Dự báo thống kê đã trình bày tham luận giới thiệu hoạt động
điều tra thống kê về tiền tệ - ngân hàng của NHNN. Tham luận nêu rõ, khuôn khổ pháp lý về
điều tra thống kê đã được Quốc Hội, Chính phủ và NHNN ban hành tương đối đồng bộ, đầy
đủ và phù hợp với thực tiễn. Để triển khai công tác này tại NHNN, Vụ Dự báo thống kê đã
được Thống đốc quyết định thành lập vào cuối năm 2008, bắt đầu tiến hành điều tra thử
nghiệm vào quý IV/2011 và đến quý I/2016 đã chuyển sang điều tra chính thức với các cuộc
điều tra về “Xu hướng kinh doanh” và “Kỳ vọng lạm phát” nhằm thu thập thông tin kỳ vọng
về CPI, tỷ giá, lãi suất, GPD, tình hình và triển vọng kinh doanh… đối với toàn bộ các TCTD
và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Thông qua các cuộc điều tra này, các TCTD đã có sự phản ánh tương đối sát các nhận
định về chính sách tiền tệ của NHNN và các nhân tố có tác động mạnh nhất đến diễn biến CPI
thực tế cũng như kỳ vọng về lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá và kỳ vọng về lãi suất cho
vay ngắn hành VND ở thời điểm hiện tại và tương lai.
Từ kết quả của các cuộc điều tra, Vụ Dự báo thống kê tiền tệ đã xây dựng các báo cáo kết
quả điều tra theo định kỳ hàng tháng trình Ban Lãnh đạo NHNN và chia sẻ các kết quả cho
các Vụ, Cục chuyên môn lien quan. Kết quả các báo cáo này được Ban Lãnh đạo NHNn và
các Vụ, Cục chức năng đánh giá tốt, được bổ sung cho số liệu thống kê chính thức phục vụ
cho công tác phân tích, dự báo và làm cơ sở cho hoạch định, điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN.
Tham luận tại Hội thảo, các đại biểu của các ngân hàng thương mại đều cho rằng hai cuộc
điều tra do NHNN tổ chức có nhiều ý nghĩa đối với hoạt động của ngàng Ngân hàng. Các
Ngân hàng thương mại đã nghiên cứu ký các nội dung điều tra, phân công cụ thể cho các bộ
phận chức tăng triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Công tác điều tra thống kê này
đã tác động thúc đẩy nâng cao hiệu quả công tác hoạch định chính sách, bảo đảm môi trường
hoạt động lành mạnh của các TCTD.
Thông tin có được sau triển khai điều tra đã được sử dụng để phục vụ việc xây dựng, giam
sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược, kế hoạch kinh doanh, duy trì lợi thế cạnh tranh, tăng
cường quản lý hoạt động tín dụng, quản lý các tỷ lệ bảo đảm an toàn tại TCTD.
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác này và phát huy hơn nữa tác dụng của kết quả điều tra
thống kê, các TCTD đã nêu các khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị như bổ sung các
nội dung, yêu cầu cần thiết đối với từng cuộc điều tra, hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn các nội
dung điều tra để các TCTD nắm bắt và thực hiện một cách thống nhất, kéo dài thời hạn nộ
báo cáo điều tra đối với TCTD, xem xét và công bố số liệu điều tra đầy đủ, kịp thời hơn để
các TCTD có thêm thông tin cập nhật hơn về diễn biến thị trường…
Theo sbv.gov.vn
Tổng thuật hội thảo
Trở lại trang đầu
2. Hội thảo Quốc gia “Hoạt động tài chính quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hội
nhập mới”
Thời gian tổ chức: Ngày 24/06/2016
Đơn vị thực hiện:Viện Ngân hàng Tài chính – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp
cùng Khoa Tài chính Ngân hàng - Trường Đại học Thương mại
Chủ trì:
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 36
Nội dung hội thảo:
Ngày 24/6/2016, tại G2N10, Viện Ngân hàng Tài chính – Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân phối hợp cùng Khoa Tài chính Ngân hàng - Trường Đại học Thương mại tổ chức
Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề: “Hoạt động tài chính quốc tế của Việt nam trong bối
cảnh hội nhập mới”. Hội thảo nhằm mục tiêu tạo diễn đàn mở cho các nhà khoa học công bố
nghiên cứu mới nhất liên quan đến hoạt động tài chính quốc tế của Việt Nam dưới tác động
của sự hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và sự tham gia của Việt Nam vào Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tham dự Hội thảo, về phía đại biểu khách mời có TS. Phạm Ngọc Thắng – Vụ trưởng
Ban Kinh tế Trung ương; ThS. Phạm Xuân Hòe – Phó Viện trưởng Viện chiến lược ngân
hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; TS. Nguyễn Quang Hiện – Tổng Giám đốc công ty cổ
phần bảo hiểm Quân đội; TS. Cấn Văn Lực – Hàm Phó Tổng giám đốc BIDV, Giám đốc
Trung tâm đào tạo; PGS.TS Trần Kim Chung – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế
quản lý Trung ương. Về phía trường Đại học Thương mại có PGS.TS Nguyễn Thị Bích Loan
– Phó Hiệu trưởng. Về phía trường Đại học Kinh tế Quốc dân (ĐH KTQD) có PGS.TS Trần
Thị Vân Hoa – Phó Hiệu trưởng; GS.TS Phạm Quang Trung – Phó Hiệu trưởng; PGS.TS
Phạm Hồng Chương – Phó Hiệu trưởng; GS.TS Nguyễn Văn Nam – nguyên Bí thư Đảng ủy,
nguyên Hiệu trưởng, nguyên Viện trưởng Viện Ngân hàng Tài chính; GS.TS Phan Công
Nghĩa – nguyên Phó Hiệu trưởng; đại diện lãnh đạo các phòng, ban, khoa, viện, các tổ chức
chính trị xã hội của trường ĐH KTQD và ĐH Thương Mại, cùng đông đảo các nhà nghiên
cứu khoa học viết bài và quan tâm tới chủ đề của Hội thảo.
Sau 20 năm chính thức hội nhập với các quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt Nam
đã tiến một bước dài trong phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao vị thế
chính trị và ngoại giao của quốc gia. Trong tiến trình hội nhập, vấn đề được quan tâm nhất là
hội nhập kinh tế và năm 2015 đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam với việc hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và kết thúc vòng
đàm phán của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Trong bài phát biểu khai
mạc Hội thảo, PGS.TS Trần Thị Vân Hoa cho rằng, hội nhập kinh tế thúc đẩy hội nhập tài
chính. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, hai tiến trình này bổ sung cho
nhau khi việc mở cửa nền kinh tế để hội nhập tạo tiền đề cho dòng vốn đầu tư nước ngoài đi
vào Việt Nam, và kèm theo đó là sự tham gia của các định chế tài chính nước ngoài vào thị
trường nội địa. Bên cạnh đó, để tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đã phải
thúc đẩy sự phát triển hệ thống tài chính của mình theo hướng hiệu quả, bền vững và ngày
càng có tính cạnh tranh cao nhằm hỗ trợ cho tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế quốc gia.
Phó Giáo sư Phó Hiệu trưởng khẳng định: “Hội thảo là diễn đàn mở để các nhà nghiên cứu,
các nhà quản lý cũng như những người làm thực tiễn công bố, trao đổi những nghiên cứu và
hiểu biết mới nhất của mình về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập tài chính nói
riêng của Việt Nam”.
Các nghiên cứu gửi tới Hội thảo hướng tới việc xem xét tác động nhiều chiều của hội
nhập kinh tế và hội nhập tài chính quốc tế lên các khía cạnh vĩ mô và vi mô, ngắn hạn và dài
hạn, khu vực thực và khu vực tài chính của Việt Nam. Hội thảo đã nhận được 54 bài từ các
tác giả hiện đang công tác tại 19 đơn vị gồm trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, bộ,
ngành, doanh nghiệp.
Trong số 45 bài được chọn, 4 bài được Ban tổ chức đề cử trình bày (trong đó 2 bài
nghiên cứu chuyên sâu và 2 bài thảo luận chính sách và kinh nghiệm thực tế). Nội dung của 4
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 37
bài này kết hợp với các ý kiến thảo luận giúp Hội thảo tập trung vào 5 vấn đề quan trọng gồm:
i) Cân bằng cán cân thanh toán của Việt Nam; ii) Đầu tư quốc tế và tăng trưởng của Việt
Nam; iii) Hội nhập của hệ thống tài chính Việt Nam; iv) Cơ hội và thách thức của hội nhập
kinh tế và tài chính quốc tế đối với Việt Nam; và v) Các vấn đề về thể chế, công nghệ và
cạnh tranh của hội nhập trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có độ mở lớn hơn.
Các vấn đề được thảo luận tại Hội thảo sẽ giúp đưa ra được các khuyến nghị có giá trị
cho các nghiên cứu tiếp theo cho các nhà khoa học cũng như đối với hoạt động của các cơ
quan quản lý Nhà nước, các ngân hàng thương mại và cộng đồng doanh nghiệp của Việt nam.
Bài: P.CTCT & QLSV
Theo https://www.neu.edu.vn/
Tổng thuật hội thảo
Trở lại trang đầu
3. Tọa đàm Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020
Thời gian tổ chức: Ngày 24/05/2016
Đơn vị thực hiện: Học viện Ngân hàng
Chủ trì hội thảo:
Nội dung hội thảo:
Bước sang giai đoạn 2016 – 2020, tăng trưởng kinh tế Việt Nam hứa hẹn nhiều tín
hiệu khả quan với sự phục hồi của kinh tế thế giới cũng như những chuyển biến tích cực của
tình hình trong nước từ lộ trình tái cơ cấu, từ dòng vốn FDI, từ Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP)… Bên cạnh đó, Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu (GCR) 2015-2016 do Diễn
đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố ngày 29/9/2015 cho thấy, chỉ số cạnh tranh quốc gia
(GCI) của Việt Nam đạt 4,3 điểm, xếp ở vị trí 56/140. Tại Đông Nam Á, Việt Nam là quốc
gia có mức tăng bậc mạnh nhất.
Dù có những dấu hiệu khả quan, song phải thừa nhận những thách thức lớn phía trước:
kinh tế phục hồi chậm, tính bền vững chưa cao; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp; trình độ công nghệ, chất lượng lao động, trình độ quản lý có
cải thiện nhưng chưa đáng kể; dư địa mở rộng CSTK và CSTT ngày càng thu hẹp, nợ công
đang tiến gần ngưỡng an toàn… Như vậy, để nâng cao chất lượng tăng trưởng hướng tới mục
tiêu tăng trưởng bền vững, việc xác định những nguồn lực then chốt cũng như xây dựng hệ
thống giải pháp phát triển đồng bộ các nguồn lực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn
2016 – 2020 là vấn đề cấp thiết đối với nền kinh tế Việt Nam.Việc nghiên cứu những vấn đề
lý luận, kinh nghiệm quốc tế cũng như thực trạng nợ công hiện nay luôn là vấn đề được quan
tâm.
Trong khuôn khổ chương trình triển khai nhiệm vụ Khoa học- Công nghệ năm học
2015 – 2016 của Học viện Ngân hàng (HVNH), chiều ngày 24/05/2016, tại Hội trường 305,
Bộ môn Kinh tế- HVNH tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Các nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020” dưới sự chủ trì của TS. Nguyễn Thị Ngọc
Loan – Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế- Học viện Ngân hàng. Đến với hội thảo có sự góp mặt của
PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh- Viện Kinh tế & CTTG; TS. Trần Đức Vui- Đại học Kinh tế,
ĐHQGHN; các chuyên gia kinh tế; ban lãnh đạo Viện NCKH – HVNH, giảng viên, nghiên
cứu viên HVNH.
Tại buổi hội thảo các đại biểu đã được nghe các bài tham luận:
- “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam- thực trạng và giải pháp” của PGS. TS.
Lưu Ngọc Trịnh
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 38
- “Đánh giá hiệu quả phân bổ nguồn lực tại Việt nam” được ThS. Đỗ Thị Thu trình
bày
- “Đánh giá hiệu quả kỹ thuật của hệ thống NHTMVN: Ứng dụng phương pháp phân
tích bao dữ liệu DEA và hồi quy kiểm duyệt Tobit” của ThS. Đỗ Minh Thu
- “Nghiên cứu thực nghiệm về mối liên hệ giữa tinh thần kinh doanh và tăng trưởng
kinh tế” của ThS. Nguyễn Thị Hương Giang
Sau phần trình bày tham luận, các đại biểu tập trung thảo luận về một số nội dung
chính như:
+ Các lý thuyết, mô hình, cũng như các quan điểm về tăng trưởng kinh tế và vai trò
của các nguồn lực đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững.
+ Kinh nghiệm các quốc gia đối với mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, hướng
tới tăng trưởng bền vững.
+ Đánh giá chất lượng tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam thời gian qua từ đó đề xuất
các giải pháp phù hợp cho giai đoạn 2016 - 2020.
+ Các chính sách tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
+ Đánh giá thực trạng cũng như sự đóng góp của các nguồn lực cho tăng trưởng kinh
tế Việt Nam thời gian qua từ đó đề xuất giải pháp phù hợp.
+ Phân tích cơ hội và thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững và khả năng
chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng chiều sâu của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020.
Phát biểu tổng kết buổi tọa đàm, TS. Nguyễn Thị Ngọc Loan hy vọng rằng các ý kiến
trình bày và trao đổi tại buổi tọa đàm sẽ góp phần hữu ích đối với mục tiêu tăng trưởng bền
vững và khả năng chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng chiều sâu của Việt Nam trong thời
gian tới.
Theo http://hvnh.edu.vn/
Tổng thuật hội thảo
Trở lại trang đầu
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 39
ẤN PHẨM KHOA HỌC
1. Ác Mộng Đại Khủng Hoảng 1929
Nguồn: NXB Tri thức
Tác giả: John Kenneth Galbraith.
Người dịch: Thanh Tâm & Hà Trang
Giới thiệu ấn phẩm:
Ngày 24 tháng 10 năm 1929, Phố Wall rối loạn. Gần 13 triệu cổ phiếu ‒ nhiều gấp ba
lần số lượng giao dịch thông thường ‒ bị các nhà đầu tư hoảng loạn bán tháo trên thị trường
chứng khoán New York. Ngày này đi vào lịch sử như ngày thứ Năm đen tối (Black Thursday)
mở đầu cho cuộc Đại khủng hoảng (Great Crash) của thị trường chứng khoán Mỹ và cuộc Đại
suy thoái (Great Depression) kéo dài từ năm 1929 tới năm 1933. Chỉ số Dow Jones sụt giảm
từ mức cao kỷ lục 381,2 ngày 3 tháng 9 năm 1929 xuống còn 230,1 ngày 29 tháng 10 năm
1929 và đạt điểm đáy ngày 8 tháng 7 năm 1932 khi đóng cửa ở mức 41,2 - giảm gần 90% so
với mức đỉnh nó từng đạt được ba năm trước. Cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính kéo
theo suy thoái kinh tế trầm trọng trên phạm vi toàn cầu. Riêng tại Mỹ, sản xuất công nghiệp
giảm 45%, GDP giảm 30%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25% và 60% người Mỹ sống dưới
ngưỡng nghèo khổ.
Gần 80 năm sau cuộc Đại khủng hoảng xảy ra, thế giới lại đang phải chứng kiến sự quay
trở lại của tình trạng suy thoái và khủng hoảng toàn cầu. Không khó khăn trong việc nhận ra
những điểm tương đồng giữa hai cuộc khủng hoảng toàn cầu này: chúng đều bắt đầu từ những
đổ vỡ trong hệ thống tài chính, là hậu quả của tình trạng đầu cơ tài chính - địa ốc trong cơn
lốc xoáy của tham vọng làm giàu dễ dàng. Như triết gia George Santayana đã nói: “Quá khứ
nếu không nhớ thì không biết đường nào dẫn đến tương lai!”
Trong khi cơn bão khủng hoảng và suy thoái, thất nghiệp và bất ổn đang lan ra khắp thế
giới, có lẽ đây chính là lúc thích hợp nhất để đọc lại lịch sử cuộc đại suy thoái toàn cầu đầu
tiên trên thế giới, để học được từ những kinh nghiệm quá khứ, và để thấy rằng con người ở
mọi thời thật giống nhau, với những sai lầm dại dột không mấy khác biệt. Tác phẩm Ác mộng
Đại khủng hoảng 1929 của John Kenneth Galbraith có thể là một kiệt tác viết về Đại khủng
hoảng, và hơn thế, về những sai lầm, ngớ ngẩn của con người trong tham vọng kiếm tiền
nhanh chóng.
John Kenneth Galbraith (1908-2006) là một trong những nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất
trong lịch sử nước Mỹ. Ông là người theo trường phái Keynes nhiệt thành, ủng hộ sự can
thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, từng làm việc trên nhiều cương vị khác nhau trong chính
quyền của bốn đời tổng thống Mỹ thuộc Đảng Dân chủ: Roosevelt, Truman, Kennedy và
Johnson. Bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Kinh tế Nông nghiệp tại Đại học Berkeley ở
California, ông dạy tại Đại học Harvard trong nhiều năm và từng làm Chủ tịch Hiệp hội kinh
tế Hoa Kỳ. Trong cuộc đời gần 100 năm của mình, ông viết gần 50 cuốn sách và hơn 1.000
bài báo về nhiều chủ đề nhưng chủ yếu là kinh tế. Nhiều cuốn sách của ông bán rất chạy, và
có ảnh hưởng sâu sắc tới tư duy kinh tế của một tầng lớp trí thức Mỹ trong nhiều thập kỷ, nhất
là trong giai đoạn 1950-1970. Có thể nói Galbraith là nhà kinh tế được công chúng biết đến
nhiều nhất tại Mỹ trong giai đoạn hậu chiến tranh cho tới khi trường phái Keynes thoái trào và
trường phái tiền tệ - với đại biểu xuất sắc là Milton Friedman - lên ngôi.
Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 (The Great Crash of 1929) là cuốn sách đầu tiên thật sự
đưa tên tuổi của Galbraith đến với công chúng Mỹ và cho tới nay, vẫn được coi là cuốn sách
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 40
cần phải đọc đầu tiên nếu muốn tìm hiểu về nguyên nhân sụp đổ tài chính năm 1929 tại Mỹ.
Trong cuốn sách này, Galbraith đã chỉ ra con đường dẫn tới đại khủng hoảng ở Mỹ. Bắt đầu
từ việc đầu cơ bất động sản ở Florida những năm 1920, nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng
bong bóng với việc các nhà đầu tư mua bất động sản với giá trời ơi để đầu cơ sinh lời, hy
vọng rằng giá cả thị trường tiếp tục tăng. Các ngân hàng hà hơi tiếp sức cho những hành động
đầu cơ bằng việc cho vay dễ dàng. Thị trường chứng khoán ngày càng phồng lên, cho tới khi
“vỡ tung” vào cuối năm 1929, đưa kinh tế Mỹ vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử.
Đọc Galbraith, dường như chúng ta bắt gặp lại những hiện tượng mới xảy ra ở Thái Lan năm
1998, ở Mỹ, Iceland hay ở Việt Nam thời gian gần đây.
Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 được viết bằng ngòi bút hết sức sắc sảo và trôi chảy,
đượm chất hóm hỉnh trong những quan sát của Galbraith về hành vi con người trong khi xảy
ra bong bóng đầu cơ và cuộc đổ vỡ thị trường con người. Để nói về cuốn sách, có lẽ hợp lý
hơn khi dùng chính lời của Galbraith kể về việc viết nó: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy vui
sướng khi viết một cuốn sách như khi viết cuốn sách này. Đây thật sự là cuốn sách duy nhất
đọng lại trong tôi không phải là sự nhọc công lao động mà là niềm sung sướng.”
Cuối cùng, để kết thúc, xin mượn lại lời của John Kenneth Galbraith trong cuốn sách như
một lời cảnh tỉnh cho thói tự tin thái quá (và cả tin) của con người: “Một bài học quý của năm
đó cho đến giờ đã trở nên rõ ràng: Tai họa cá nhân và cụ thể sẽ xảy đến với những ai muốn tin
rằng họ nhìn thấy tương lai.”
Viện Chiến lược Ngân hàng trân trọng giới thiệu ấn phẩm này đến bạn đọc.
Giới thiệu sách
Trở lại trang đầu
2. Giải Nobel kinh tế
Nguồn: Nxb Tri thức
Tác giả:Jean-Édouard Colliard, Emmeline Travers
Người dịch: Nguyễn Đôn Phước
Giới thiệu ấn phẩm:
"Giải kinh tế học của Ngân hàng Thụy Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel" (Sveriges
Risbanks i Ekinomisk Vetinskap till Alfred Nobel minne) thường được biết đến như không
phải là một giải Nobel "thật sự", đôi lúc vì quan điểm chính trị của chính một số vị được giải,
trong lúc những thành tựu khoa học mà giải này công nhận ít khi được công chúng chú ý. Các
công trình này, được báo chí tóm tắt một cách ít nhiều đúng đắn khi giải được trao, thường bị
coi nhẹ, nếu không nói là bị xem như những lạc lối vào toán học của những thành viên một bộ
môn mà tính khoa học là đáng ngờ.
Hiện trạng này càng đáng tiếc hơn khi những công trình của những người đoạt giải Nobel
Kinh tế là có thể tiếp cận được: giải thường trọng thưởng một ý tưởng đơn giản và khái quát,
nhưng có tính tạo lập, và dễ dàng trình bày ý tưởng này mà hoàn toàn không cần viện đến một
hình thức hoá phức tạp, tuy rằng hình thức hoá này là cần thiết để các nhà kinh tế rút ra tất cả
những hệ quả của ý tưởng đó.
Mục đích của quyển sách này không phải là tường thuật cuộc đời của các nhà kinh tế được
giải theo lối ca tụng, cũng như tôn vinh những đóng góp của họ mà nhằm giúp bạn đọc quan
tâm hiểu được những ý tưởng chính của 62 người được giải từ 1969 đến 2008 bằng một trình
bày đơn giản và đầy đủ nhất, có thể tương thích với một khuôn khổ ngắn gọn và chặt chẽ.
Chúng tôi ưu tiên những công trình được giải tuyên dương (Uy ban Nobel nói rõ vì sao họ
chọn trao giải cho mỗi người) đồng thời cũng nêu bật những đóng góp chính khác của các tác
giả cho bộ môn (kinh tế học) để bạn đọc có thể khám phá vài khía cạnh ít được biết đến trong
sự nghiệp của các tác giả kinh điển nhất cũng như của những tác giả hay của những đóng góp
ít nhiều bị lãng quên. Bạn đọc cũng tìm được một thư mục không toàn diện bao phủ toàn bộ
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 41
trước tác có liên quan. Để thuận tiện, trong sách này chúng tôi dùng cụm từ giải Nobel Kinh
tế mà không để trong ngoặc kép.
Sau khi trình bày ngắn gọn về giải này (Chương I), chúng tôi sẽ trình bày về các tác
giả được giải theo thứ tự thời gian nhằm nhấn mạnh điều mà lịch sử giải Nobel phản ánh so
với điều có tính tổng quát hơn mà lịch sử của cộng đồng khoa học phản ánh: sau thời kỳ của
các nhà kinh tế chuyên gia (Chương II) là thời kỳ của sự hoài nghi và cuộc tìm kiếm tính
chính đáng cho bộ môn (Chương III) rồi đến thời kỳ thắng lợi của sự đổi mới (Chương IV).
Thập niên vừa qua đánh dấu một bước ngoặt với sự lên ngôi của những hệ ý mới (Chương V).
Nội dung cuốn sách gồm 5 chương như sau:
- Chương I: Giải kinh tế học của Ngân hàng Thụy Điển để vinh danh Alfred Nobel
- Chương II: 1969-1975: Thời vàng son của các nhà kinh tế “nha sĩ”
o 1969: Ragnar Frisch, Jan Tinbergen
o 1970: Paul Samuelson (sinh năm 1915), người Mỹ
o 1971: Simon Kuznets (1901-1985), người Mỹ, gốc Nga
o 1972: John Hicks, Kenneth Arrow
o 1973: Wassily Leontief (1906-1999), người Mỹ, gốc Nga
o 1974: Gunnar Myrdal, Friedrich von Hayek
o 1975: Leonid Kantorovitch, Tjalling Koopmans
- Chương III: 1976-1985: Kinh tế học đi tìm một tính chính đáng mới
o 1976: Milton Friedman (1912-2006), người Mỹ
o 1977: Bertil Ohlin, James Meade
o 1978: Herbert Simon (1916-2001), người Mỹ
o 1979: Theodore Schultz, Arthur Lewis
o 1980: Lawrence Klein (sinh năm 1920), người Mỹ
o 1981: James Tobin (1918-2002), người Mỹ
o 1982: George Stigler (1911-1991), người Mỹ
o 1983: Gerard Debreu (1921-2004), người Mỹ, gốc Pháp
o 1984: Richard Stone (1913-1991), người Anh
o 1985: Franco Modigliani (1918-2003), người Mỹ, gốc Italia
- Chương IV: 1986-1996: Kinh tế học ca khúc khải hoàn
o 1986: James Buchanan (sinh năm 1925), người Mỹ
o 1987: Robert Solow (sinh năm 1924), người Mỹ
o 1988: Maurice Allais (sinh năm 1911), người Pháp
o 1989: Trygve Haavelmo (1911-1999), người Na Uy
o 1990: Harry Markowitz, Merton Miller, William Sharpe
o 1991: Ronald Coase (sinh năm 1910), người Anh
o 1992: Gary Becker (sinh năm 1930), người Mỹ
o 1993: Robert Fogel, Douglass North
o 1994: John Nash, John Harsanyi, Reinhard Selten
o 1995: Robert Lucas (sinh năm 1937), người Mỹ
o 1996: James Mirrlees, William Vickrey
- Chương V: 1997-2008: Những công trình đào sâu và những hệ ý mới
o 1997: Robert Merton (sinh năm 1944), người Mỹ
o Myron Scholes (sinh năm 1941), người Mỹ
o 1998: Amartya Sen (sinh năm 1933), người Ân Độ
o 1999: Robert Mundell (sinh năm 1932), người Canada
o 2000: James Heckman, Daniel McFadden
o 2001: George Akerlof, Michael Spence, Joseph Stiglitz
o 2002: Daniel Kahneman, Vernon Smith
o 2003: Robert Engle (sinh năm 1942), người Mỹ &Clive Granger (1934-2009), người
Anh
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 42
o 2004: Finn Kydland (sinh năm 1943), người Na Uy &Edward Prescott (sinh năm
1940), người Mỹ
o 2005: Robert Aumann, Thomas Schelling
o 2006: Edmund Phelps (sinh năm 1933), người Mỹ
o 2007: Leonid Hurwicz, Eric Maskin, Roger Myerson
o 2008: Paul Krugman (sinh năm 1953), người Mỹ
Viện Chiến lược Ngân hàng trân trọng giới thiệu ấn phẩm này đến bạn đọc.
Giới thiệu sách
Trở lại trang đầu
3. Bán Khống – Thảm họa kinh tế đậm chất tài chính nhất trong lịch sử phố Wall
Nguồn: Nxb Lao động - Xã hội
Tác giả: Michael Lewis
Dịch giả: Anh Tú & Bích Ngọc
Giới thiệu ấn phẩm
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là một trong những thảm họa kinh tế nặng nề nhất
trong lịch sử và sử ảnh hưởng của nó vẫn còn tồn tại cho đến nhiều năm về sau. Theo ước tính
của những nhà kinh tế, thiệt hại lên đến hàng nghìn tỷ đô-la, đặc biệt hàng tỷ đô-la tiền thuế
của người dân Mỹ đã không được sử dụng để phục vụ cho chính họ mà lại bị chính phủ dùng
để cứu các tập đoàn lớn thoát khỏi phá sản cùng những ông chủ giàu có của chúng. Cuộc
khủng hoảng này không đến từ chiến tranh, hay suy thoái, mà nó xuất phát từ một cỗ máy làm
tiền được một số người xây dựng trên những mô hình toán học đầy sai sót và chẳng mấy ai
hiểu được. Các công ty phố Wall với sự tham lam và thờ ở của mình sẵn sàng cho những
người không có khả năng trả nợ vay tiền, thậm chí còn chẳng cần giấy tờ, để từ đó tạo ra
những khoản thế chấp dưới chuẩn làm cơ sở cho những sản phẩm tài chính độc hại mà họ có
thể đi bán lại và kiếm bộn tiền. Điều đáng buồn cười là cỗ máy này được bôi trơn bởi các
công ty xếp hạng quyền lực nhất thế giới, những tổ chức mà đáng ra phải có trách nhiệm cao
nhất trong việc phất hiện ra và ngăn chặn khủng hoảng này lại chính là những tổ chức đã tiếp
tay cho nó. Gần như không một ai phát hiện ra điều đó. Những nhà điều hành ngân hàng lớn
nhất của Mỹ không? Cục Dự trữ liên bang? Và các quan chức chính phủ cũng không? Tuy
nhiên vẫn có một thiểu số nhà đầu tư phát hiện ra điều đó. Cuốn sách này kể câu chuyện về
họ.
Trong cuốn sách này, cách hành xử của những tên tuổi lừng lẫy trong nền tài chính thế
như Standard & Pooor, Moody’s, Morgan Stanley, Bear Stearn, Citigroup, Godlman Sách,
AIG sẽ được phân tích. Cuốn sách cũng nhắc đến những nhân vật, điển hình là Steve Eisman,
Michael Burry, những người bị coi là lập dị nhưng lại thuộc về một số rất ít nhìn ra được toàn
bộ những hiểm họa của hệ thống trước khi nó sụp đổ. Bên cạnh đó cuốn sách cũng kể về các
nhân vật góp phần chủ chốt tạo nên cuộc khủng này, đó là Howie Hubler của Morgan Stanley,
người đã một mình tạo ra khỏn lỗ 9 tỷ đô-la và được ghi danh vào lịch sử với tư cách là người
bị lỗ nặng nhất chỉ trong một giao dịch, hay Joseph Cassano của AIG, người đã phải chịu
khoản lỗ hơn 99 tỷ đô-la
Đối với những người làm về tài chính, rõ ràng cuốn sách này là một kho tư liệu vô giá,
một câu chuyện không thể không đọc, chứa đầy những sự kiện và bài học vô giá , từ việc
đánh giá con người, tổ chức cũng như việc đi ngược lại đám đông. Cuốn sách gồm 10 chương
với nội dung cụ thể như sau:
- Chương 1: Một câu chuyện có xuất xứ bí mật.
Viện Chiến Lược Ngân Hàng SỐ 06 - 06.2016
Trang 43
- Chương 2: Vùng đất của người mù.
- Chương 3: “Làm sao mà có một gã không biết nói tiếng Anh lại nói dối được cơ chứ?”
- Chương 4: Làm thế nào để thu hoạch được từ một người nhập cư.
- Chương 5: Những nhà tư bản tình cờ.
- Chương 6: Người nhện ở The Venetian.
- Chương 7: Cuộc truy tìm kho báu khổng lồ.
- Chương 8: Sự im lặng kéo dài.
- Chương 9: Cái chết của sự thích thú.
- Chương 10: Hai người trên một chiếc thuyền.
Viện Chiến lược Ngân hàng trân trọng giới thiệu ấn phẩm này đến bạn đọc.
Giới thiệu sách
Trở lại trang đầu