tÂm lÝ hỌc xà hỘi tác giả: trẦn quỐc thÀnh - nguyỄn...
TRANSCRIPT
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Tác giả: TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN
LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lý học xã hội là một ngành của Tâm lý học và mang đậm hơi thở của đời sống
xã hội. Lịch sử Tâm lý học xã hội cho thấy, những vấn đề nổi bật của các giai đoạn xã hội
lịch sử đều được phản ánh trong Tâm lý học xã hội ở các mức độ khác nhau. Không ít
những vấn đề mang tính cấp thiết của xã hội được tiến hành nghiên cứu trong Tâm lý học
xã hội ngay từ khi chúng bắt đầu xuất hiện. Những nghiên cứu về phong cách lãnh đạo và
công bằng xã hội những năm 1930 - 1940; về sự a dua vào những năm 1950, về sự xâm
kích những năm 1960; về giới tính, về dân tộc những năm 1960 - 1970; về chủng tộc
những năm 1980 và về những vấn đề Tâm lý xã hội xuyên văn hóa vào những năm 1990
đến nay là sự phản ánh sắc nét những diễn biến và sự kiện lịch sử xã hội. Đồng thời với
tính thời sự, những vấn đề mang tính cơ bản và ổn định của Tâm lý học xã hội như vấn đề
nguồn gốc của các hành vi xã hội, các quy luật và các cơ chế của sự hình thành các hiện
tượng tâm lý xã hội, bản thân các hiện tượng tâm lý xã hội với các đặc điểm và diễn biến
của nó ngày càng được quan tâm. Như một quy luật, xã hội ngày càng phát triển, nhận
thức của con người ngày càng được mở rộng và nâng cao thì nhu cầu tìm hiểu bản chất
của các quá trình xã hội mà con người tham gia vừa là chủ thể và khách thể càng lớn.
Chính vì những lý do như vậy mà sự quan tâm đến Tâm lý học xã hội ngày càng nhiều
hơn.
Đối với những người làm công tác giảng dạy, việc tiếp cận những vấn đề của Tâm
lý học xã hội là hết sức có ý nghĩa. Bởi vì, dù là có ý thức hay không có ý thức, công việc
của họ gắn liền với các hiện tượng tâm lý xã hội, chịu sự chi phối của các quy luật tâm lý
xã hội. Hơn nữa, nhiều khi chính người làm công tác giảng dạy lại phải chủ động để tạo ra
một số hiện tượng tâm lý xã hội trong công việc của mình như làm việc với nhóm sinh
viên, đồng nghiệp hay phải đối diện với các hiện tượng tâm lý xã hội cần giải quyết như
dư luận xã hội, bầu không khí tập thể...
Tuy vậy, đây là công việc khó khăn vì chính sự đa dạng và da chiều của các hiện
tượng tâm lý xã hội không cho phép có được các khái quát khoa học dễ dàng. Bên cạnh
đó, việc thiếu vắng các nghiên cứu trong lĩnh vực này ở Việt Nam, cũng như sự non trẻ
của bộ môn khoa học này ở nước ta chắc chắn làm cho việc biên soạn khó đáp ứng được
đòi hỏi của người đọc. Tài liệu khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Vì vậy,
các tác giả rất mong được sự đóng góp ý kiến để có thể chỉnh sửa, bổ sung giúp tài liệu trở
nên có ích và đầy đủ hơn.
Các tác giả
Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI Chương 3. NHÓM XÃ HỘI Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ Chương 5. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM KÍCH Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC
Nội dung cơ bản:
- Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội: hiện tượng tâm lý xã hội, bản chất,
chức năng, phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội;
- Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội: các quan điểm về đối tượng của Tâm
lý học xã hội, đối tượng của Tâm lý học xã hội, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội; Lịch sử
hình thành của Tâm lý học xã hội: các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội, Tâm lý
học xã hội ra đời như là khoa học độc lập, các hình thái đầu tiên của Tâm lý học xã hội;
Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học: quan hệ của Tâm lý học xã hội với các
khoa học khác;
- Phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.
I. BẢN CHẤT CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI
1. Các hiện tượng tâm lý xã hội là gì?
Khi nói tới đời sống tâm lý của con người, người ta thường đề cập đến các hiện
tượng xúc cảm, tình cảm, đến các quá trình nhận thức như tư duy, tưởng tượng đến ý chí,
nhu cầu, động cơ thúc đẩy con người thực hiện các hoạt động này hay hoạt động khác. Các
hiện tượng tâm lý đó gọi là tâm lý cá nhân, tức là các hiện tượng tâm lý thuộc về từng cá
nhân, mang sắc thái riêng của mỗi cá nhân. Các hiện tượng tâm lý đó là sự phản ánh nội
dung đời sống xã hội, là sự phản ánh mang tính chất cá nhân riêng lẻ. Các hiện tượng tâm
lý cá nhân đó được nghiên cứu một cách tương đối độc lập với nhóm xã hội có cá nhân đó.
Tuy vậy, trong đời sống, con người liên tục tham gia vào các nhóm xã hội: gia đình,
trường học, bạn bè, đồng nghiệp... Trong quá trình đó, cá nhân tác động qua lại với những
cá nhân khác, biểu lộ thái độ đánh giá, mong muốn của bản thân và của người khác, nhận
biết người khác, ảnh hưởng và bị ảnh hưởng của người khác. Tâm lý của cá nhân khi đó
một mặt chịu sự quy định của nhóm xã hội và sự tương tác xã hội, mặt khác điều chỉnh
hành vi của bản thân cho phù hợp với yêu cầu và tình huống tương tác. Hệ quả tất yếu là
làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý chung ở nhiều cá nhân trong một nhóm trong một cộng
đồng, trong cả một dân tộc, thậm chí trong nhiều dân tộc. Đó là các hiện tượng tâm lý xã
hội.
Như vậy, tâm lý xã hội không phải là tổng đơn giản, cơ học của các hiện tượng tâm
lý cá nhân. Nó là các hiện tượng tâm lý chung của nhiều người diễn ra trong các nhóm xã
hội, khi con người hoạt động, giao tiếp, tác động qua lại với nhau, được quy định bởi sự
tác động qua lại và nhóm xã hội. Tâm lý học xã hội là khoa học nghiên cứu các hiện tượng
tâm lý xã hội đó.
Một cách đơn giản, có thể hình dung các hiện tượng tâm lý xã hội là các hiện tượng
tâm lý nảy sinh khi cá nhân tác động qua lại với các đối tượng xã hội khác:
Cá nhân <-> Nhóm xã hội.
Cá nhân <-> Cá nhân (trong nhóm xã hội).
Nhóm <-> Nhóm.
Trong các quá trình tương tác đó, cá nhân nhận biết, đánh giá hành vi của mình và
người khác như thế nào, cá nhân chịu sự chi phối và chi phối các cá nhân khác ra sao, các
mối quan hệ như quan hệ liên nhân cách, sự hấp dẫn lẫn nhau và sự xung đột diễn ra như
thế nào trong các nhóm... Các hiện tượng tâm lý xã hội đó diễn ra không phải một cách
ngẫu nhiên mà theo các quy luật nhất định. Tâm lý học xã hội chịu trách nhiệm phát hiện
các quy luật chi phối hành vi và hoạt động của con người khi con người tham gia vào
nhóm xã hội cũng như các đặc trưng tâm lý của chính các nhóm xã hội đó.
Như vậy, Tâm lý học xã hội nghiên cứu các quy luật và cơ chế của các hiện tượng
tâm lý xã hội nảy sinh trong các tương tác xã hội.
2. Bản chất và chức năng của các hiện tượng Tâm lý xã hội
Trước khi đề cập đến bản chất của hiện tượng tâm lý xã hội, điều đầu tiên chúng ta
phải khẳng định rằng: cá nhân không tồn tại tự nó, tách rời với những cá nhân khác. Cá
nhân tồn tại phát triển trong các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mỗi cá nhân là “tổng
hòa của các mối quan hệ xã hội” (C. Mác). Tham gia vào hệ thống các mối quan hệ xã hội
khác nhau tức là cá nhân tham gia vào các nhóm xã hội. Các nhóm đó hiện diện mọi nơi
và chính là môi trường xã hội của cá nhân. Đó có thể là gia đình - một dạng nhóm đặc biệt,
lớp học, cơ quan, bạn bè... Tâm lý học xã hội gọi chung đó là các nhóm xã hội. Hoạt động
trong các nhóm xã hội đó cá nhân tác động đến các cá nhân khác đồng thời chịu sự tác
động của các cá nhân khác. Sự tác động qua lại đó ảnh hưởng đến hành vi cá nhân và làm
nảy sinh những hiện tượng tâm lý chung. Đó là các hiện tượng tâm lý nhóm, rộng hơn gọi
là các hiện tượng tâm lý xã hội. Nói như vậy để thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội nảy
sinh trong môi trường xã hội, trong sự tác động qua lại giữa các thành viên. Do vậy bản
chất của các hiện tượng tâm lý xã hội phải gắn liền với sự tác động qua lại này.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng tâm lý xã hội là những hiện tượng tâm lý
chung của một nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình tác động qua lại, giao tiếp và
hoạt động cùng nhau của các cá nhân trong nhóm. Các hiện tượng tâm lý xã hội đó điều
chỉnh, điều khiển hoạt động cùng nhau của các thành viên và của nhóm xã hội. Mặt khác
cũng phải thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có quan hệ đặc biệt và khó có thể tách rời
với các hiện tượng tâm lý cá nhân. Các hiện tượng tâm lý xã hội không tồn tại lơ lửng đâu
đó ngoài cá nhân mà chúng hiện diện ở cá nhân, thúc đẩy cá nhân hành động, ví dụ sự a
dua, sự hoảng loạn, các trào lưu, thị hiếu... Việc nhận biết các hiện tượng tâm lý xã hội
cũng chỉ có thể diễn ra trên cơ sở của nhiều cá nhân. Tuy vậy các hiện tượng tâm lý đó
không hoàn toàn là các hiện tượng tâm lý cá nhân có thể kiểm soát mà nó từ “bên ngoài”
thâm nhập vào cá nhân, vừa được biểu hiện với sắc thái của cá nhân vừa có tính tương
đồng với các cá nhân khác trong cùng mối quan hệ tương tác. Có thể coi mối quan hệ giữa
các hiện tượng tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội là mối quan hệ giữa cái chung và riêng.
Các hiện tượng tâm lý xã hội hiện diện trong đời sống hàng ngày của chúng ta
nhưng không phải lúc nào chúng cũng được nhận biết. Cá nhân có thể bị chi phối bởi các
hiện tượng tâm lý xã hội một cách vô thức hay có ý thức. Học tập, rèn luyện để phát huy
truyền thống đó là hành động có ý thức, nhưng bắt chước hành vi của người khác, theo
trào lưu nhiều khi lại là vô thức. Bị ảnh hưởng của định kiến xã hội trong khi nhìn nhận
đánh giá người khác, dân tộc khác mà nhiều khi cá nhân không nhận biết, trong khi hoàn
toàn có ý thức thuyết phục người khác làm theo điều mình mong muốn. Nói cách khác,
các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối tâm lý của cá nhân và qua đó chi phối hoạt động
sống của cá nhân.
Ở phạm vi lớn hơn, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối các mối quan hệ xã hội
trong các nhóm, các cộng đồng hay các dân tộc và cả xã hội loài người. Từ sự thân thiện
hay xung đột giữa các cá nhân trong một nhóm xã hội, từ sự định kiến hay đồng nhất hóa
với một dân tộc hay một cộng đồng, cá nhân thiết lập quan hệ với các cá nhân khác, nhóm
thiết lập quan hệ với nhóm khác. Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu tập trung nghiên
cứu khía cạnh tâm lý xã hội của các tầng lớp, các dân tộc nhằm tạo ra các cơ sở cho việc
thiết lập và vận hành các mối quan hệ giữa các nhóm đó một cách hiệu quả. Rõ ràng, các
hiện tượng tâm lý xã hội đóng vai trò chi phối, ảnh hưởng đến các mối quan hệ đó.
Như vậy, có thể thấy các hiện tượng tâm lý xã hội có chức năng định hướng, thúc
đẩy và điều khiển, điều chỉnh hoạt động của cá nhân. Hoạt động của các nhóm xã hội,
thông qua đó tác động đến các quá trình xã hội.
3. Phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội
Các hiện tượng xã hội và các hiện tượng tâm lý xã hội không đồng nhất, nhưng
cũng không tồn tại độc lập, tách rời.
Hiện tượng xã hội: bất kì hiện tượng nào nảy sinh trong đời sống xã hội của con
người, liên quan đến đời sống xã hội của con người đều được gọi là các hiện tượng xã hội.
Đó có thể là các hiện tượng tôn giáo, giáo dục, văn hóa, khoa học, đạo đức, chính trị, giai
cấp, giới tính... Có những hiện tượng xã hội có ở mọi thời kì trong lịch sử của loài người,
cũng có những hiện tượng xã hội chỉ có ở một giai đoạn xã hội nhất định. Các hiện tượng
xã hội nảy sinh, biến đổi và chuyển hóa theo những quy luật nhất định. Có những quy luật
phổ quát cho nhiều hiện tượng xã hội, nhưng cũng có những quy luật mang tính đặc thù
cho một lĩnh vực xã hội nào đó. Do vậy nghiên cứu các hiện tượng xã hội đòi hỏi sự tham
gia của nhiều khoa học khác nhau. Mỗi khoa học tập trung nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể
nhưng sự giao thoa là điều tất yếu Tâm lý xã hội chính là minh chứng cho sự giao thoa của
các hiện tượng xã hội và tâm lý xã hội.
Các hiện tượng xã hội chính là nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội, ví dụ
chiến tranh, khủng hoảng, khủng bố... sẽ tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nhất định như
tâm trạng lo lắng của xã hội, tâm trạng phản đối chiến tranh. Như vậy, các hiện tượng tâm
lý xã hội là sự phản ánh các hiện tượng xã hội. Các hiện tượng xã hội diễn ra theo các quy
luật xã hội, nhưng bất kì một hiện tượng xã hội nào cũng có mặt tâm lý xã hội của nó, bởi
lẽ chủ thể của các hiện tượng xã hội chính là con người với ý thức, tinh thần của mình. Đó
cũng là điều mà V.Wundt trong tác phẩm Tâm lý học dân tộc - một tác phẩm sớm trong
lịch sử của Tâm lý học xã hội đã khẳng định: Một góc nhìn quan trọng mà nhờ đó có thể
xem xét tất cả các hiện tượng liên quan đến đời sống cùng nhau của con người đó là góc
nhìn Tâm lý học.
Cũng cần thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có tính độc lập tương đối với các
hiện tượng xã hội. Với tư cách là các hiện tượng thứ phát, các hiện tượng tâm lý xã hội có
thể tồn tại lâu hơn và tương đối bền vững, trong khi các hiện tượng xã hội lại dễ thay đổi.
Các hiện tượng tâm lý xã hội diễn ra trong cộng đồng lại có tác động điều chỉnh hành vi
của các cá nhân trong cộng đồng đó và thông qua đó tác động ngược trở lại đến các hiện
tượng xã hội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Các quan điểm về đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội
Giống như mọi khoa học. Tâm lý học xã hội cần phải xác định rõ đối tượng nghiên
cứu của mình. Cũng không phải là ngoại lệ, khi trong lịch sử phát triển của Tâm lý học xã
hội, vấn đề đối tượng của khoa học này đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận. Vấn đề xác
định đối tượng của Tâm lý học xã hội lại càng trở nên khó khăn hơn bởi tính chất giao
thoa và sự đa dạng của các vấn đề mà nó nghiên cứu. Có thể điểm qua những quan điểm
khác nhau về đối tượng của Tâm lý học xã hội như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu các hiện tượng
tâm lý đám đông như tâm lý tầng lớp, cộng đồng xã hội, bao gồm: truyền thống đạo đức,
tập quán; nghiên cứu các tập thể, các quan điểm xã hội. Những nghiên cứu sớm trong lịch
sử Tâm lý học xã hội đều tập trung vào đối tượng đám đông. Các tác phẩm của G.Tard về
tâm lý dân tộc, của G.Lebon về tâm lý đám đông là minh họa cho quan điểm này.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu nhân cách: đặc
điểm loại hình, vị trí, các mối quan hệ liên nhân cách trong đời sống xã hội. Quan điểm
này xuất phát từ nghiên cứu nhân cách, đặt các nhân cách trong mối quan hệ liên nhân
cách. Cơ sở lý luận của nó chính là bản chất xã hội và giá trị xã hội của nhân cách.
Quan điểm thứ ba: nghiên cứu cả các quá trình tâm lý đại chúng, cả vị trí của cá
nhân trong nhóm; những thay đổi hoạt động tâm lý của cá nhân trong nhóm do ảnh hưởng
của sự tác động qua lại, các đặc điểm nhóm, các khía cạnh tâm lý của các quá trình xã hội.
Các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm này tập trung vào việc nghiên cứu suy nghĩ,
hành vi xã hội của cá nhân, tri giác xã hội, sự ảnh hưởng xã hội đối với các cá nhân.
2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội
Các quan điểm nêu trên cho thấy: đối tượng của Tâm lý học xã hội là rất rộng và
phải xác định từ hai phía - cá nhân và nhóm xã hội. Từ đó, ngày nay một cách phổ biến,
đối tượng của Tâm lý học xã hội được xác định như sau:
- Các hiện tượng tâm lý chung của nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình giao
tiếp và tác động qua lại giữa các cá nhân.
- Cái chung, đặc trưng, cái bản chất trong tâm lý nhiều người trong các nhóm xã hội
nhất định.
- Những đặc trưng tâm lý cơ bản của các loại nhóm xã hội được tạo nên từ sự tác
động qua lại.
- Các quy luật nảy sinh hình thành, vận động và phát triển của các hiện tượng tâm lý
xã hội và sự tác động qua lại.
Cách xác định như vậy cho phép bao quát một diện rộng các vấn đề mà Tâm lý học
xã hội cần giải quyết. Đồng thời nó định hướng cho việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
không phải đơn thuần của cá nhân mà là các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong đời sống xã
hội của con người.
Từ cách xác định như vậy, trong quá trình phát triển của Tâm lý học xã hội, hàng
loạt các phân ngành ra đời và tập trung sâu hơn vào các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể
như tâm lý học tôn giáo, tâm lý học dân tộc, tâm lý học giới tính...
3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội
* Nghiên cứu lý luận: Với tư cách là một bộ môn khoa học giao thoa, sử dụng nhiều
tri thức khoa học từ các ngành khoa học liên quan, đồng thời tập trung vào việc nghiên
cứu các hiện tượng rất phức tạp, Tâm lý học xã hội muốn khẳng định được vị trí của nó
trong hệ thống các khoa học thì không thể coi nhẹ việc nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ
nghiên cứu lý luận tập trung vào các nội chính như sau:
- Xác lập hệ thống các khái niệm khoa học riêng của Tâm lý học xã hội, đặc biệt
thống nhất nội hàm của các khái niệm dùng trong lĩnh vực này giữa các nhà khoa học và
phân biệt các khái niệm đó với các khái niệm gần hoặc có liên quan trong các lĩnh vực
khác. Việc sử dụng các khái niệm của các khoa học giao thoa với nội hàm không xác định
làm đánh mất bản chất tâm lý xã hội của khái niệm cũng như tạo ra sự lẫn lộn trong việc
trao đổi và phản biện khoa học. Điều đó làm giảm giá trị khoa học của các nghiên cứu.
- Phát hiện các quy luật của sự nảy sinh, hình thành và phát triển của các hiện tượng
tâm lý xã hội, các quy luật của sự tác động qua lại giữa người với người trong các nhóm,
các quan hệ xã hội. Cụ thể: phát hiện những điều kiện chủ quan, khách quan của sự hình
thành các hiện tượng tâm lý xã hội, những hình thái biến động, các cơ chế diễn ra các hiện
tượng đó. Đóng góp của Tâm lý học xã hội đối với khoa học khác và đối với đời sống xã
hội chính là ở nội dung này. Trên cơ sở các quy luật được phát hiện, Tâm lý học xã hội có
thể góp phần lý giải các hiện tượng lâm lý xã hội nảy sinh, dự báo xu hướng của các hiện
tượng đó và chỉ ra cách thức tác động đến các hiện tượng tâm lý xã hội.
- Xây dựng, thiết kế các phương pháp nghiên cứu đặc thù để nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội. Trong các phương pháp đã có, Tâm lý học xã hội khá mạnh với việc
sử dụng các phương pháp thực nghiệm để làm bộc lộ các quy luật và các cơ chế của các
hiện tượng tâm lý xã hội tuy vậy trong xu hướng nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội
ở phạm vi rộng lớn như tâm lý tộc người, tôn giáo, xuất hiện những khó khăn nhất định về
phương pháp nghiên cứu.
* Nghiên cứu thực tiễn: Có thể nói những vấn đề thực tiễn ngày càng được đặt ra
hết sức đa dạng trước Tâm lý học xã hội và các chuyên ngành hẹp của nó. Việc ứng dụng
các quy luật chung của Tâm lý học xã hội vào các lĩnh vực hẹp hơn trong đời sống xã hội
liên tục làm nảy sinh các chuyên ngành mới với các vấn đề nóng hổi và phức tạp. Tâm lý
học dân tộc đang rất được chú ý trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa với các vấn đề
thực tiễn cần giải quyết: làm thế nào để gìn giữ bản sắc dân tộc, sự đồng nhất về văn hóa
và tâm lý dân tộc có vai trò thế nào trong quá trình hội nhập? Tâm lý học tôn giáo với các
vấn đề về niềm tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo trong thời kì có sự tác động qua lại mạnh
mẽ của các tôn giáo khác nhau sẽ như thế nào? Tâm lý học giới tính lại đối đầu với các
vấn đề nóng bỏng: đâu là nguyên nhân tâm lý xã hội của các hiện tượng đồng giới? Hệ quả
của các phong trào đồng giới đối với đời sống xã hội nói chung? Đặc trưng tâm lý xã hội
của các nhóm đồng giới?... Cũng như vậy, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học tổ chức và
công nghiệp cũng đang đứng trước các vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách. Việc giải quyết
các vấn đề thực tiễn vừa là một nhiệm vụ xã hội đặc ra với Tâm lý học xã hội nói chung và
các chuyên ngành của nó nói riêng vừa là nhiệm vụ bên ngoài, vừa là sự thúc đẩy bên
trong của chính Tâm lý học xã hội. Giải quyết được các nhiệm vụ đó sẽ tạo ra sự phát triển
cho chính Tâm lý học xã hội và khẳng định vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống các
khoa học và trong đời sống xã hội.
III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội
Việc chỉ ra những dấu mốc cơ bản trong lịch sử của Tâm lý học xã hội nhằm tới hai
mục đích. Thứ nhất, người nghiên cứu có được bức tranh chung về tiến trình ra đời và phát
triển của Tâm lý học xã hội với tư cách là một ngành khoa học. Thứ hai, quan trọng hơn,
nó giúp chỉ ra được bản chất của Tâm lý học xã hội, về các vấn đề Tâm lý học xã hội giải
quyết, về sự phát triển trong các quan niệm về đối tượng của Tâm lý học xã hội.
Cũng giống như nhiều bộ môn khoa học khác, các tư tưởng riêng lẻ đề cập đến các
hiện tượng tâm lý xã hội đã xuất hiện từ thời kì cổ đại, dưới hình thức chung nhất là các tư
tưởng và các học thuyết triết học. Nguồn gốc của các tư tưởng đó chính là các hiện tượng
tâm lý xã hội trong cuộc sống có thể được quan sát thấy như: sự cuồng loạn hay hoảng
loạn của đám đông, sự thăng hoa trong các lễ tế thần, sự a dua theo các ý tưởng của đa số,
sự tôn sùng của các cộng đồng đối với thủ lĩnh, với tô tem... Tất cả các hiện tượng tâm lý
xã hội đó trong cuộc sống đã đặt các nhà triết học, các nhà tư tưởng trước những câu hỏi
lớn: Điều gì thúc đẩy con người cùng tiến hành các hành động như vậy? Cái gì chi phối
hành vi của một nhóm, một cộng đồng người? Trả lời các câu hỏi đó, các nhà triết học đã
đưa ra những ý tưởng đầu tiên về các hiện tượng tâm lý xã hội. Rất nhiều nhà nghiên cứu
đều nhìn thấy sự tồn tại của các tư tưởng Tâm lý học xã hội trong lòng các lý thuyết triết
học cổ đại. Các ý tưởng về “tâm lý dân tộc” - sự khác biệt trong tâm lý của dân tộc này với
dân tộc khác, các “bản năng đám đông” có thể tìm thấy trong các công trình của Arixtốt
hay Platon. G.Allport cho rằng người đặt nền móng cho các vấn đề của Tâm lý học xã hội
là Platon. Nói cách khác, các mầm mống của Tâm lý học xã hội đã được gieo từ thời kì cổ
đại, trên chính mảnh đất là cuộc sống xã hội của con người.
Xã hội ngày càng phát triển hơn, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội, việc điều chỉnh hành vi xã hội cùng ngày càng trở nên cần thiết hơn. Cùng với
sự đòi hỏi ngày càng cao, càng mang tính cấp thiết của xã hội và sự phát triển của các
khoa học khác nhau, Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập.
2. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập
Theo quan điểm của Anđrêeva, khi xem xét vấn đề tâm lý học trở thành một khoa
học độc lập như thế nào cần phải chú ý đến ba yếu tố: 1) Các yêu cầu đối với việc giải
quyết các vấn đề Tâm lý học xã hội, xuất hiện trong các ngành khoa học giáp ranh khác
nhau mà bản thân các khoa học đó chưa giải quyết được; 2) Các quá trình chuẩn bị phân
tách các vấn đề Tâm lý học xã hội bên trong hai bộ môn “mẹ” chủ yếu: tâm lý học và xã
hội học; 3) Đặc điểm của các dạng tri thức Tâm lý học xã hội độc lập đầu tiên - Đây là các
động lực trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của Tâm lý học xã hội như là một ngành khoa học
độc lập.
Giai đoạn giữa thế kỉ XIX là giai đoạn một loạt các bộ môn khoa học, trong đó có
các bộ môn khoa học xã hội, đạt được những tiến bộ đáng kể. Ví dụ, ngôn ngữ học đã có
sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu lớn lao. Năm 1859, M.Laxarus (1824 -
1903) và nhà ngôn ngữ học G.Steinthal (1823 - 1893) sáng lập tạp chí “Tạp chí tâm lý học
dân tộc và ngôn ngữ” tại Đức. Vấn đề giao lưu ngôn ngữ và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
dân tộc được quan tâm. Thế nhưng Ngôn ngữ học không thể giải quyết được các vấn đề
như sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc bằng các phương tiện của mình. Cũng như
vậy, các khoa học khác như Nhân chủng học, Dân tộc học, Khảo cổ học đến thời điểm đó
đã tích luỹ được rất nhiều dữ kiện. Trong tất cả các nghiên cứu này xuất hiện một hiện
thực cần được tính đến: các đặc điểm tâm lý của một số các nhóm dân tộc, mối liên hệ của
các sản phẩm văn hóa và truyền thống, các lễ nghi... Đó chính là lý đo mà nhà tâm lý học
xã hội người Mỹ T.Shibutani kết luận rằng Tâm lý học xã hội đã trở thành một lĩnh vực
độc lập một phần vì các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau không
thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh - có liên quan đến Tâm lý học xã hội (Shibutani,
1999). Như vậy, rõ ràng trong sự phát triển của khoa học xuất hiện nhu cầu tách riêng một
lớp các vấn đề mới không thuộc riêng về bất kì một bộ môn nào đang tồn tại rõ rệt hơn,
nhu cầu này thể hiện trong việc phát triển của hai bộ môn khoa học được coi là “mẹ đẻ”
của Tâm lý học xã hội: Tâm lý học và Xã hội học.
Tâm lý học giữa thế kỉ XIX tập trung chủ yếu vào các vấn đề của tâm lý học cá
nhân. Trong một số phần của nó, trước hết là trong bệnh lý tâm thần học bắt đầu xuất hiện
các mầm mống của các khái niệm tương lai đề cập đến đặc trưng của các dạng tác động
qua lại lẫn nhau của con người, các ảnh hưởng lẫn nhau của chúng... Bên cạnh đó cũng
phát hiện ra sự phụ thuộc trong việc điều chỉnh tâm lý và hành vi cá nhân vào các tác động
điều khiển từ phía người khác. Tức là sự điều chỉnh từ phía xã hội. Nói cách khác, một
cách tự nhiên, xuất hiện các vấn đề liên quan đến Tâm lý học xã hội ngay trong lòng Tâm
lý học.
Các tri thức tâm lý - xã hội trong lòng lĩnh vực Xã hội học cũng dần được hình
thành, nhưng theo một cách hoàn toàn khác. Gần như ngay từ thời gian đầu tồn tại của
mình (giữa thế kỉ XIX) Xã hội học đi tìm kiếm các giải thích cho một loạt những sự kiện
xã hội bằng các quy luật từ những lĩnh vực tri thức khác. Ví dụ Spencer vận dụng các quy
luật sinh học để giải thích xã hội trong trường phái hữu sinh: quy luật đấu tranh sinh tồn
hay tiến hóa xã hội. Song việc quy giản sinh học không thể lý giải đúng đắn các quá trình
xã hội và không thể giải thích được bản chất của các quá trình xã hội đã buộc các nhà
nghiên cứu phải tìm kiếm các quy luật của Tâm lý học để giải thích cho các quá trình xã
hội. Nguồn gốc của các hiện tượng xã hội được cho là nằm trong tâm lý của con người.
Khía cạnh tâm lý trong mỗi hiện tượng xã hội trở thành sự quyết định về mặt tâm lý đối
với các hiện tượng xã hội. Ví dụ, theo quan điểm nhà xã hội học người Pháp G.Tarde thì
các sự kiện xã hội cơ bản bao hàm không phải trong phạm vi một bộ óc, mà trong sự tiếp
xúc của một vài bộ óc, là đối tượng tâm lý học “liên trí óc” phải nghiên cứu. Mô hình tổng
thể của một sự kiện xã hội được vẽ ra như là mối tương quan của hai cá nhân, trong đó
một người bắt chước người khác.
Như vậy, trong quá trình phát triển của hai bộ môn khoa học: Tâm lý học và Xã hội
học, hiện rõ sự dịch chuyển theo chiều gặp nhau kết thúc bằng việc hình thành các vấn đề
đã trở thành đối tượng của một bộ môn khoa học mới.
3. Các hình thái lịch sử đầu tiên của tri thức Tâm lý học xã hội
Từ những thúc đẩy trực tiếp nêu trên, sự ra đời của Tâm lý học xã hội trở thành hiện
thực vào giữa thế kỉ XIX. Các hình thái đầu tiên của riêng tri thức tâm lý - xã hội được
khai sinh. Những hình thức đầu tiên này chủ yếu là các lý thuyết trừu tượng, mang tính mô
tả mà chưa dựa trên các nghiên cứu thực tế. Tuy vậy chúng đã tạo ra hình hài của một bộ
môn khoa học mới. Từ tất cả sự da dạng của những lý thuyết Tâm lý học xã hội đầu tiên
thường người ta chọn ra ba lý thuyết đáng kể nhất: tâm lý học dân tộc, tâm lý học đám
đông và lý thuyết bản năng của hành vi xã hội.
Tâm lý học dân tộc như là một trong các dạng đầu tiên của các lý thuyết tâm lý học
xã hội được hình thành vào giữa thế kỉ XIX tại nước Đức. Những người trực tiếp sáng lập
nên tâm lý học các dân tộc là nhà triết học M.Laxarus (1824 - 1903) và nhà ngôn ngữ học
G.Steinthal (1823 - 1893). Vào năm 1859 tạp chí Tâm lý học các dân tộc và ngôn ngữ
được ra mắt và đăng bài báo “Bàn về tâm lý học các dân tộc”. Nhiệm vụ của Tâm lý học
xã hội là “nhận biết về mặt tâm lý bản chất của tinh thần dân tộc, phát hiện các quy luật
diễn ra các hoạt động tinh thần của dân tộc”. Sau đó các tư tưởng tâm lý học dân tộc được
phát triển trong các quan điểm của V.Wundt (1852 - 1920). Lần đầu tiên Wundt xây dựng
lập trường của mình vào năm 1863 trong “Các bài giảng về tâm hồn con người và động
vật”. Tư tưởng được phát triển chủ yếu vào năm 1900 trong tập đầu tiên của bộ sách mười
tập Tâm lý học các dân tộc. Wundt cho rằng Tâm lý học cần phải cấu thành từ hai phần:
Tâm sinh lý học và Tâm lý học các dân tộc. Trong đó, Tâm lý học dân tộc cần phải áp
dụng các phương pháp khác, đó chính là phân tích các sản phẩm văn hóa: ngôn ngữ,
truyền thuyết, phong tục, nghệ thuật.
Các đại diện nổi bật khác của Tâm lý học xã hội thời kì đầu là G.Tard và G.Lebon
với lý thuyết về tâm lý học đám đông - một trong các lý thuyết tâm lý xã hội đầu tiên. Lý
thuyết này được sinh ra tại Pháp trong nửa cuối của thế kỉ XIX. Các cội nguồn của nó xuất
phát từ quan niệm về quy luật bắt chước của G.Tarde (1843 - 1904). Theo quan điểm của
Tarde trong “Những quy luật của sự bắt chước”, hành vi xã hội không có lời giải thích nào
khác ngoài việc sử dụng ý tưởng về sự bắt chước ông cho rằng Tâm lý học hàn lâm chính
thống, định hướng thiên về trí tuệ, đã không thành công khi bỏ qua các thành phần xúc
cảm trong các giải thích của mình. Ý tưởng về sự bắt chước tính đến các yếu tố phi lý
trong hành vi xã hội, bởi vậy nó có hiệu quả hơn. Chính hai tư tưởng này của Tarde - vai
trò của các yếu tố phi lý trong hành vi xã hội và vai trò của sự bắt chước - đã được các nhà
sáng lập trực tiếp tâm lý đám đông lĩnh hội. Đó là luật sư người ý S.Sigele (1868 - 1913)
và nhà xã hội học người Pháp G.Lebon (1841 - 1931). Lebon, với tư cách của một nhà xã
hội học, chủ yếu quan tâm tới vấn đề đối lập tương phản giữa đại chúng và giới thượng lưu
trong xã hội. Vào năm 1895 xuất hiện công trình chủ yếu của ông Tâm lý học đám đông
trong đó có trình bày bản chất của lý thuyết này. Theo quan điểm của Lebon, bất kì một
đám đông nào cũng được gọi là “đại chúng”. Đặc điểm chính của nó là mất khả năng lý
tính nhưng lại tồn tại sự thống nhất tinh thần của đám đông. “Đám đông này hình thành
nên một thực thể duy nhất, phục tùng quy luật thống nhất tinh thần của những đám đông”
với một số điều kiện nhất định (G.Lebon,1905). Các đặc điểm điển hình của hành vi con
người trong đám đông là: vô trách nhiệm cá nhân (điều này dẫn đến sự thống soái của các
phản ứng xung động, bản năng), vai trò cảm xúc chiếm ưu thế đột biến so với lý trí (điều
này dẫn đến việc dễ bị các ảnh hưởng khác nhau), hoàn toàn đánh mất lý trí (điều này dẫn
đến từ bỏ lôgic), đánh mất trách nhiệm riêng (điều này dẫn đến việc không kiểm soát được
các hăng hái bùng phát) (Lebon, 1995). Kết luận suy từ việc mô tả bức tranh về hành vi
của con người trong đám đông này là đám đông theo bản chất của mình, luôn luôn lộn
xộn, hỗn loạn. Bởi vậy nó cần có “thủ lĩnh”, vai trò này có thể thực hiện bởi “giới thượng
lưu”. Các kết luận này được đưa ra trên cơ sở quan sát đám đông trong tình huống hoảng
loạn. Không có bất kì khẳng định thực nghiệm nào được đưa ra, mặc dù sau này các quan
sát này được ngoại suy cho bất kì hành động của đám đông nào khác.
Ý nghĩa về mặt lý thuyết của Tâm lý học đám đông có tính chất hai mặt: một mặt,
nó đưa ra lời giải thích ở một mức độ nhất định các tương quan của cá nhân và xã hội,
nhưng mặt khác, lời giải thích này lại không có cơ sở. Trên danh nghĩa, ưu thế của cá nhân
so với xã hội được công nhận, nhưng bản thân xã hội lại bị tùy tiện quy thành đám đông và
thậm chí ở dạng này cũng rất phiến diện, vì bản thân “đám đông”, hay “đại chúng” chỉ
được mô tả trong một tình huống hành vi duy nhất của nó - tình huống hỗn loạn. Mặc dù
quan niệm tâm lý học đám đông không có ý nghĩa quan trọng đối với số phận tương lai
của Tâm lý học xã hội, nhưng dù sao thì các vấn đề được nghiên cứu trong khuôn khổ
quan niệm này cũng đáng lưu ý, kể cả vào thời điểm ngày nay.
Quan niệm thứ ba, đứng vào hàng những công trình tâm lý - xã hội độc lập đầu tiên
là lý thuyết bản năng của hành vi xã hội của nhà tâm lý học người Anh Mc.Dougall (1871
- 1938), chuyển đến Mỹ vào năm 1920 và về sau làm việc ở đó. Công trình của
Mc.Dougall Nhập môn Tâm lý học xã hội ra đời vào năm 1908 và năm đó được coi là năm
khẳng định cuối cùng của Tâm lý học xã hội như là một bộ môn tồn tại độc lập. Cũng
trong năm đó ở Mỹ xuất bản cuốn sách của nhà xã hội học E.Ross Tâm lý học xã hội và
như vậy, rất trùng hợp, khi cả nhà tâm lý học và nhà xã hội học trong cùng một năm xuất
bản giáo trình hệ thống đầu tiên của cùng một bộ môn. Song, năm đó chỉ có thể rất tượng
trưng được coi là khởi đầu của thời kì mới trong Tâm lý học xã hội vì ngay từ năm 1897
J.Bolđuin đã đăng công trình Những nghiên cứu về Tâm lý học xã hội mà cũng có thể coi
như cuốn sách chỉ dẫn hệ thống đầu tiên.
Luận điểm đầu tiên của lý thuyết Mc.Dougall là các bản năng bẩm sinh được coi là
nguyên nhân của hành vi xã hội. Tư tưởng này là hiện thực hóa nguyên tắc chung hơn: sự
hướng tới mục đích là thuộc tính của cả loài vật và con người. Chính nguyên tắc này đặc
biệt có ý nghĩa trong quan niệm của Mc.Dougall, đối trọng với chủ nghĩa hành vi (giải
thích hành vi như là phản xạ đơn giản với kích thích bên ngoài). Ông cho là tâm lý “hướng
đích” hay “hormic” (từ Hi Lạp horme - hướng tới, khát vọng, khí thế). Các bản năng của
mỗi người xuất hiện nhờ kết quả của một sự chuẩn bị tâm sinh lý nào đó - sự có mặt của
các kênh nạp năng lượng thần kinh gắn theo di truyền. Các bản năng bao gồm các phần
kích thích (dây thần kinh), trung tâm (xúc cảm) và li tâm (vận động). Như vậy, tất cả
những gì diễn ra trong phạm vi ý thức đều phụ thuộc trực tiếp vào sự khởi đầu vô thức.
Thể hiện bên trong của bản năng chủ yếu là các cảm xúc. Mối liên hệ giữa các bản năng và
các cảm xúc mang tính chất hệ thống và được xác định. Mc.Dougall đã liệt kê một số cặp
bản năng và cảm xúc có liên quan với nhau: bản năng đấu tranh và tương ứng với nó là sự
tức giận, sợ hãi; bản năng bỏ chạy và ý thức tự vệ; bản năng duy trì nòi giống và ghen
tương; bản năng tìm kiếm và cảm giác sở hữu; bản năng xây dựng và cảm giác sáng tạo;
bản năng bầy đàn và cảm giác thuộc một tổ chức nào đó. Từ các bản năng xuất phát tất cả
các tổ chức xã hội: gia đình, buôn bán, các quá trình xã hội khác nhau mà trước hết là
chiến tranh. Dù các tư tưởng của Mc.Dougall rất phổ biến, chúng đóng vai trò tiêu cực
trong lịch sử khoa học: việc diễn giải hành vi xã hội theo quan điểm của một sự hướng tới
mục đích bột phát nào đó hơn thực hóa ý nghĩa của những ảnh hưởng phi lý, vô thức như
là động lực không chỉ của cá nhân mà còn của cả loài người. Bởi vậy, cũng như trong Tâm
lý học nói chung, vượt qua được các tư tưởng của lý thuyết bản năng là một mốc quan
trọng sau này trong sự phát triển của Tâm lý học xã hội khoa học.
Những quan niệm đầu tiên của Tân lý học xã hội có những ý nghĩa nhất định. Trước
hết, ý nghĩa tích cực của chúng là đã tách biệt và đặt ra rõ ràng các vấn đề thực sự quan
trọng, cần phải giải quyết: về tương quan của ý thức cá nhân và ý thức của nhóm, về các
động lực của hành vi xã hội... Các quan niệm tâm lý - xã hội đầu tiên hãy còn yếu bởi việc
chúng không dựa trên thực tế nghiên cứu nào, chúng hoàn toàn không dựa trên các công
trình nghiên cứu. Song điều cơ bản đã hoàn thành: Tâm lý học xã hội đã được tuyên bố
như là một bộ môn khoa học độc lập có quyền tồn tại. Bây giờ nó cần phải tạo ra cơ sở
thực nghiệm cho mình vì nói chung tâm lý học đến thời điểm này đã tích luỹ được nhiều
kinh nghiệm sử dụng phương pháp thực nghiệm. Giai đoạn trưởng thành sau đó của Tâm
lý học xã hội như là một bộ môn khoa học chỉ có thể là giai đoạn thực nghiệm trong lịch
sử phát triển của nó
IV. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC
1. Tâm lý học xã hội với Xã hội học và Tâm lý học
Đến nay đã có được sự đồng thuận tương đối về đối tượng của Tâm lý học xã hội.
Nhưng sự đồng thuận trong quan niệm về phạm vi các nhiệm vụ được giải quyết bởi Tâm
lý học xã hội không có nghĩa là đã có sự thống nhất trong cách hiểu về các quan hệ của nó
với Tâm lý học và Xã hội học. Bởi vậy cuộc tranh luận về vấn đề “ranh giới” của Tâm lý
học xã hội vẫn diễn ra khá độc lập. Ở đây có thể nêu ra ba lập trường: 1) Tâm lý học xã
hội là một phần của Xã hội học; 2) Tâm lý học xã hội là một phần của Tâm lý học; 3) Tâm
lý học xã hội - đó là khoa học ở vị trí tiếp giáp của Tâm lý học và Xã hội học, trong đó bản
thân “chỗ tiếp giáp” được hiểu theo hai cách: a) Tâm lý học xã hội chiếm một phần nào đó
của Tâm lý học và một phần nào đó của Xã hội học; bị nó chiếm phần “vô chủ” - lĩnh vực
không thuộc cả Xã hội học cũng như Tâm lý học.
Nếu theo đề xuất của các nhà tâm lý học xã hội Mỹ Mc.Dougall và G.Harary, thì tất
cả các lập trường nói trên có thể đưa về hai quan điểm: nội ngành và liên ngành. Nói cách
khác, vị trí của Tâm lý học xã hội có thể tìm ở bên trong một lĩnh vực “mẹ” hay trên ranh
giới giữa chúng. Điều này có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:
Hình 1. Các phương án xác định vị trí của Tâm lý học xã hội (“ranh giới” với Xã
hội học và Tâm lý học)
Mặc dù có những khác biệt dường như rất cơ bản, tất cả các quan điểm được đưa ra
về bản chất đều dừng lại trước một vấn đề: “ranh giới” nào phân chia Tâm lý học xã hội
với Tâm lý học và với Xã hội học. Vì có đặt Tâm lý học xã hội ở đâu thì trong mọi hoàn
cảnh nó cũng tiếp xúc với hai bộ môn này.
2. Tâm lý học xã hội với các khoa học khác
Là bộ môn khoa học “giao thoa” giữa Tâm lý học xã hội và Xã hội học, đương
nhiên Tâm lý học xã hội có quan hệ chặt chẽ không chỉ với hai khoa học mẹ mà còn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội.
Khoa học tự nhiên, đặc biệt là khoa học Sinh lý thần kinh và Sinh học có vai trò to
lớn đối với Tâm lý học xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu Tâm lý học xã hội sử dụng các tri
thức về hoạt động của hệ thần kinh nhằm lý giải các hiện tượng tâm lý đám đông như sự
hoảng loạn, sự ám thị, sự lây lan xúc cảm, tình cảm, hay đi tìm các cơ chế hoạt động của
não bộ để lý giải hiện tượng đồng cảm giữa con người với con người. Một loạt các lý
thuyết của sinh học đã từng được sử dụng để giải thích các hiện tượng tâm lý xã hội như
khái niệm “tâm lý bầy đàn”, “sự hấp dẫn bầy đàn”. Ngay cả việc nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội liên quan đến các nhóm giới tính: sự hấp dẫn giới tính, các hành vi của
các giới khác nhau, cũng không hiếm khi các nhà nghiên cứu phải xuất phát từ các hiểu
biết về cơ sở sinh học của chúng. Các kiến thức toán học cũng ngày càng được sử dụng
rộng rãi hơn với hai xu hướng: dùng để mô hình hóa các hiện tượng tâm lý xã hội (mặc dù
hướng này còn rất hạn chế) và hữu dụng hơn là xu hướng sử dụng các phép toán thống kê
để phân tích sâu các hiện tượng tâm lý xã hội. Các phép tính tương quan, phân tích nhân
tố, các kiểm định... được sử dụng rất phổ biến.
Với tư cách là khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy
con người, triết học cung cấp các cơ sở phương pháp luận cho Tâm lý học xã hội. Từ việc
lựa chọn đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu đến việc phân tích, giải
thích và khái quát kết quả nghiên cứu, các nhà Tâm lý học xã hội đều dựa trên lập trường
triết học nhất định. Vấn đề đã và vẫn đang là trung tâm của các cuộc tranh luận liên quan
đến vấn đề phương pháp luận là ảnh hưởng (tích cực hay tiêu cực) của việc một nhà Tâm
lý học xã hội đứng trên một lập trường triết học nào đó để giải quyết một vấn đề tâm lý xã
hội. Vấn đề này được gọi là vấn đề giá trị (tư tưởng) trong nghiên cứu Tâm lý học xã hội.
Dù câu trả lời là thế nào đi nữa, không thể có nhà tâm lý học xã hội nào lại không đứng
trên một lập trường triết học nhất định để giải quyết vấn đề tâm lý xã hội.
Để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội sử dụng rất nhiều
những thành tựu của các khoa học xã hội và nhân văn. Muốn chỉ ra các đặc điểm tâm lý
của nhóm lớn như dân tộc chẳng hạn, không thể thiếu các kiến thức của dân tộc học, lịch
sử dân tộc, văn hóa học. Khá nhiều vấn đề mang tính giao thoa trong Tâm lý học xã hội và
các khoa học xã hội nhân văn kể trên như vấn đề nhóm gia đình, vấn đề truyền thống của
một cộng đồng hay vấn đề giới... Muốn làm rõ các hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận
xã hội, tâm trạng xã hội, không thể bỏ qua các vấn đề kinh tế học, chính trị học, quản trị
học. Các khoa học xã hội nhân văn cung cấp các tư liệu đa dạng và nhiều chiều về con
người trong các mối quan hệ xã hội khác nhau.
Ngược lại, các tri thức mà Tâm lý học xã hội phát hiện ra lại đóng vai trò quan trọng
đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Chính việc ra đời của Tâm lý học xã
hội là minh chứng cho sự cần thiết của nó trong việc giải quyết những vấn đề mà một số
khoa học khác chưa giải quyết được một cách đầy đủ.
Tóm lại, Tâm lý học xã hội luôn bị đặt trước những đòi hỏi của đời sống xã hội
trong việc giải quyết hàng loạt các vấn đề phức tạp và đa diện. Do vậy chỉ khi sử dụng các
kiến thức của các khoa học khác có liên quan, Tâm lý học xã hội mới có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình. Đồng thời nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội
cung cấp cho các khoa học khác những kiến thức để làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của
các hiện tượng xã hội. Đây cũng chính là cơ sở của mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa
Tâm lý học xã hội và các khoa học khác.
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Các nguyên tắc phương pháp luận
a) Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò quyết định của các điều kiện vật chất, của các
điều kiện thực tiễn đối với các hiện tượng tâm lý xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy
sinh trên cơ sở của các điều kiện sống, điều kiện hoạt động của nhóm, của cộng đồng.
Nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội phải được tìm kiếm trong đời sống thực. Các
hiện tượng tâm lý xã hội không phải nảy sinh một cách “tự nó”, tồn tại lơ lửng đâu đó
không có chủ thể. Do vậy, lý giải các hiện tượng tâm lý xã hội phải xuất phát từ các hiện
tượng cụ thể trong đời sống xã hội, tìm tòi các nguyên nhân làm nảy sinh các hiện tượng
tâm lý xã hội trong đời sống xã hội hiện thực của con người, trong nhóm người, cộng đồng
người cụ thể. Đó chính là nguyên tắc duy vật trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã
hội. Ngược lại, các hiện tượng tâm lý xã hội khi đã hình thành lại có được sự độc lập
tương đối đối với tồn tại xã hội và có sức mạnh riêng của nó. Nó có thể chi phối ngược lại
đến các điều kiện xã hội tạo ra những thay đổi, những vận động nhất định. Các hiện tượng
tâm lý xã hội như dư luận xã hội, truyền thống xã hội, tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo... có
những sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người, của cộng đồng, thậm
chí nó có thể tạo ra những sức mạnh làm thay đổi tiến trình của lịch sử trong những thời
điểm nhất định. Đó hình là lập trường biện chứng khi nhìn nhận, đánh giá, nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý xã hội. Như vậy, nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng chỉ ra
cách thức tiếp cận, lý giải và đánh giá các hiện tượng tâm lý xã hội một cách đầy đủ và
toàn diện.
b) Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan
Nguyên tắc này đòi hỏi khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, phải nghiên
cứu như nó vốn có, vốn tồn tại trong đời sống hiện thực. Các dữ liệu thu được không được
bóp méo, hoặc bị làm sai lệch. Khi lý giải các hiện tượng không được áp đặt chủ quan. Để
thực hiện được điều đó, người nghiên cứu cần có khả năng phát hiện các hiện tượng tâm lý
xã hội, có khả năng lựa chọn, sử dụng các phương pháp, công cụ thu thập dữ liệu phù hợp,
cho độ tin cậy và chính xác cao. Bên cạnh đó, bản thân người nghiên cứu có thái độ trung
thực, khoa học trong khi thu thập và xử lý dữ liệu. Nguyên tắc khách quan làm tăng giá trị
của các kết quả nghiên cứu và giúp các nghiên cứu ngày càng tiến gần hơn đến bản chất
của các hiện tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu.
c) Nguyên tắc nghiên cứu các hiện tượng Tâm lý xã hội trong mối liên hệ với các
hiện tượng xã hội và trong mối liên hệ với các hiện tượng tâm lý xã hội khác
Nguyên tắc này được đề ra trên cơ sở coi mọi hiện tượng tâm lý xã hội đều nảy sinh
trên các điều kiện sống xã hội, nói cách khác các hiện tượng tâm lý xã hội là sự phản ánh
các điều kiện xã hội của nhóm, của cộng đồng. Để chỉ ra nguồn gốc của các hiện tượng
tâm lý xã hội người nghiên cứu phải tìm hiểu các hiện tượng xã hội có liên quan. Ví dụ:
Một chính sách xã hội một sự kiện xã hội là những nhân tố xã hội tạo ra tâm trạng hay dư
luận xã hội. Tất nhiên ở đây không đơn giản là mối quan hệ nhân quả, sự kiện nào tâm lý
xã hội ấy mà có hàng loạt các yếu tố khác trong đời sống của cá nhân, nhóm và cộng đồng
xã hội tác động đến sự phản ánh các sự kiện xã hội đó. Đặt các hiện tượng tâm lý xã hội
cần nghiên cứu trong mối liên hệ với các hiện tượng xã hội cho phép thấy rõ hơn nội dung,
mức độ, diễn biến của các hiện tượng tâm lý xã hội. Cũng chính vì thế, các hiện tượng tâm
lý xã hội khác nhau có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau như bản thân các điều kiện
xã hội mà nó phản ánh. Mỗi hiện tượng tâm lý xã hội có vai trò, vị trí nhất định trong đời
sống xã hội. Ví dụ: dư luận xã hội tồn tại trong thời gian tương đối ngắn, có chức năng
thúc đẩy hoặc kìm hãm những hành vi xã hội nào đó vào thời điểm nhất định, trong khi đó
truyền thống của nhóm lớn lại đóng vai trò điều chỉnh hành vi trong thời gian dài hơn, tạo
ra sự thống nhất cả thái độ, hành vi, giá trị cho các thế hệ khác nhau. Mặt khác dư luận xã
hội lại được hình thành trên cơ sở những giá trị đã ổn định của nhóm, của xã hội - đó chính
là nhân tố thuộc về truyền thống. Nói cách khác, ở đây hai hiện tượng tâm lý xã hội mặc
dù có những sự khác biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ và có thể chuyển hóa lẫn nhau.
d) Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc này nhấn mạnh đến việc tiếp cận, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã
hội trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó. Theo quan điểm biện chứng, sự vật
hiện tượng luôn vận động biến đổi, không có sự vật hiện tượng nào là bất biến. Coi sự vật
hiện tượng là bất biến tức là rơi vào quan điểm siêu hình. Sự vật hiện tượng tồn tại ổn định
tương đối, vận động và biến đổi là tuyệt đối. Xã hội cũng vậy, nó cũng vận động, biến đổi
và phát triển theo các quy luật, các chiều hướng nhất định. Với tư cách là sự phản ánh đời
sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội cũng không thể là bất biến. Các hiện tượng tâm
lý xã hội cũng nảy sinh, hình thành và phát triển theo những quy luật, những chiều hướng
nhất định. Với sự độc lập tương đối của chúng, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể chuyển
hóa lẫn nhau, tác động qua lại làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội mới. Hội chứng
“tâm lý đám đông” trong lĩnh vực chứng khóan gần đây là ví dụ điển hình cho sự tác động
qua lại và chuyển hóa này. Từ việc bắt chước hành vi của người khác, cá nhân có hành vi
giống người khác, sự giống nhau về hành vi lại trở thành kích thích làm nảy sinh tâm trạng
chung tạo điều kiện cho sự bắt chước thuận lợi hơn. Sự tác động qua lại đó làm cho hành
vi của đám đông không kiểm soát được. Chỉ khi có một tác động lớn nào đó làm cho vòng
xoáy tác động đó đột ngột bị dừng lại, hiệu lực của sự tác động qua lại đó mới giảm đi.
Như vậy, với tư cách là sự phản ánh đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội luôn
vận động, phát triển, với tư cách là các hiện tượng tinh thần của nhóm, của cộng đồng xã
hội có sự độc lập tương đối, các hiện tượng tâm lý xã hội cũng luôn vận động và phát triển
không ngừng. Do vậy, cách tiếp cận đúng đắn chính là tiếp cận phát triển.
Trên đây là các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản đối với việc nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý xã hội. Các nguyên tắc đó chỉ đạo việc tiếp cận, thu thập, phân tích và
khái quát kết quả nghiên cứu. Để có được các dữ liệu về các hiện tượng tâm lý xã hội,
người nghiên cứu cần lựa chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau
cho phù hợp với mục đích và đối tượng nghiên cứu. Sau đây là một số các phương pháp
nghiên cứu cụ thể thường được sử dụng trong các nghiên cứu Tâm lý học xã hội.
2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu các tài liệu có ý nghĩa lớn, vì nhờ phương pháp này có thể hệ thống hóa,
phân tích và xây dựng được bức tranh chung về vấn đề cần nghiên cứu. Trong quá trình
nghiên cứu tài liệu, nhà nghiên cứu có thể xác định được những vấn đề đã được giải quyết,
mức độ giải quyết một vấn đề vấn đề cần làm rõ thêm, các vấn đề chưa được giải quyết...
Qua đó, nó cho phép định hướng nghiên cứu. Việc nghiên cứu tài liệu đóng vai trò quan
trọng trong việc xác định hoặc xây dựng hệ thống các khái niệm mà nhờ đó nghiên cứu có
thể được tiến hành. Một cách ví von, nghiên cứu tài liệu chính là tìm cách “đứng trên vai
những người khổng lồ” để tiến xa hơn trong nghiên cứu và tiến gần hơn đến bản chất của
đối tượng nghiên cứu. Thực hiện phương pháp này để thu thập thông tin, nhà nghiên cứu
cần thiết lập danh mục tài liệu nghiên cứu, ghi lại các nội dung có liên quan, phân tích, phê
phán và khái quát các kết quả nghiên cứu đã có.
Một vấn đề đặc biệt xuất hiện ở đây liên quan đến việc nhà nghiên cứu lựa chọn,
trình bày tài liệu như thế nào. Nhà nghiên cứu cũng là con người với những đặc điểm tâm
lý cá nhân có sẵn của riêng mình với các lựa chọn chủ quan, do vậy việc nghiên cứu tài
liệu phải phải ánh đúng và đầy đủ các quan điểm khác nhau. Để tránh dạng “chủ quan”
(việc trình bày tài liệu theo cách của nhà nghiên cứu) mới này, một thủ pháp đặc biệt có
tên gọi là “phân tích nội dung” được đưa vào (Bôgômôlôva, Xtêphanenko, 1992). Đây là
phương pháp phân tích tài liệu đặc biệt, dựa trên hình thức của tài liệu: đoạn văn bản được
tách riêng ra “các đơn vị”, sau đó tính toán tần suất được sử dụng của chúng. Phương pháp
phân tích nội dung chỉ có ý nghĩa sử dụng trong các trường hợp, khi nhà nghiên cứu phải
làm việc với các khối thông tin lớn, cho nên phải phân tích rất nhiều văn bản.
b) Phương pháp quan sát
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác
nhau, trong đó có Tâm lý học xã hội. Trong Tâm lý học xã hội, quan sát là tri giác các hiện
tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu một cách có chủ định, có kế hoạch nhằm phát hiện
những dữ kiện cần thiết cho các nghiên cứu. Phương pháp quan sát có thể được sử dụng
độc lập hoặc cũng có thể được sử dụng như là một phương pháp bổ sung cho một phương
pháp khác. Có nhiều loại quan sát khác nhau: quan sát tự nhiên hay quan sát trong phòng
thí nghiệm, quan sát phát hiện hay quan sát kiểm định, quan sát ngắn hạn hay quan sát dài
hạn. Trong Tâm lý học xã hội hiện đại có mối quan tâm đặc biệt với một dạng của quan sát
là quan sát tham gia, khi nhà nghiên cứu (giấu mặt) trở thành một thành viên của nhóm
đang được nghiên cứu. Việc lựa chọn các hình thức quan sát phụ thuộc vào ý đồ, mục đích
và điều kiện cụ thể của người nghiên cứu. Hiện nay, nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều
thiết bị hiện đại để hỗ trợ và lưu giữ các biểu hiện của hiện tượng cần nghiên cứu như các
phương tiện ghi âm, ghi hình, các camera quan sát... ưu điểm cơ bản của phương pháp
quan sát là dễ tiến hành, chi phí thấp, linh hoạt. Đặc biệt đối với việc nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội, thường diễn ra nhanh chóng, không lặp lại, việc sử dụng phương pháp
quan sát có lợi thế lớn vì tính linh hoạt của nó. Bên cạnh các ưu điểm, phương pháp quan
sát cũng có những hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất là nó phụ thuộc nhiều vào kinh
nghiệm và tính chủ quan của nhà quan sát. Một người nghiên cứu ít kinh nghiệm có thể bỏ
qua những biểu hiện có vẻ không quan trọng nhưng lại là dấu hiệu bản chất của hiện
tượng, hay người nghiên cứu có thể bỏ qua những dấu hiệu ít liên quan đến đối tượng
nghiên cứu. Ngoài ra, phương pháp này còn đòi hỏi sự chú ý liên tục và lâu dài của người
nghiên cứu bởi vì các hiện tượng cần nghiên cứu có thể diễn ra bất kì lúc nào có thể làm
người nghiên cứu bị động. Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý là phương pháp quán sát
chủ yếu cung cấp các dữ liệu trực quan, cảm tính. Nó cũng cấp các dữ liệu chủ yếu về các
hành vi “bên ngoài” - được bộc lộ ra bên ngoài của cá nhân hay nhóm xã hội, mà ít cho
thấy những cấu trúc nhận thức bên trong. Do vậy để sử dụng các dữ liệu này một cách hiệu
quả cần kết hợp với các dữ liệu thu được từ các phương pháp khác.
c) Điều tra (Thăm dò ý kiến)
Đây là phương pháp rất được phổ biến trong các nghiên cứu Tâm lý học xã hội.
Trong số rất nhiều dạng thăm dò ý kiến, phổ biến nhất trong Tâm lý học xã hội là phỏng
vấn và điều tra bằng bảng hỏi. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng phổ biến
trong Tâm lý học xã hội, đặc biệt trong việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội của
các nhóm lớn như nghiên cứu dư luận xã hội, các đặc trưng tâm lý của các nhóm lớn.
Phương pháp này cho phép nghiên cứu trên lượng khách thể lớn, với thời gian ngắn và có
khả năng khái quát kết quả cao. Tất nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất
định. Để thực hiện phương pháp này, điều quan trọng nhất là xây dựng, thiết kế các câu
hỏi. Việc xây dựng bảng câu hỏi để kê khai đòi hỏi nghệ thuật của nhà nghiên cứu. Lôgic
của việc xây dựng câu hỏi, thứ tự các câu hỏi, kiểu của chúng (mở - đóng) cần phải được
suy tính kĩ càng. Người lập bảng điền kê khai cần phải có “chìa khóa”, nhờ đó các câu trả
lời câu hỏi có thể được trình bày một cách thích hợp. Để có được bảng câu hỏi đáp ứng
được các tiêu chí đo lường tâm lý như: độ ứng nghiệm (hay còn gọi là độ hiệu lực), độ tin
cậy... người thiết kế cần được đào tạo về kĩ thuật thiết kế các bảng hỏi và phải thực hiện
một quy trình đầy đủ. Có nhiều quy tắc xây dựng cho mỗi bảng câu hỏi, phân bố chúng
theo một trật tự nhất định, nhóm lại thành các khối riêng biệt...
d) Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng trong Tâm lý
học xã hội. Trong Tâm lý học xã hội người ta phân biệt hai dạng thực nghiệm chủ yếu:
trong phòng thí nghiệm và tự nhiên. Đối với cả hai dạng, tồn tại một số quy tắc chung thể
hiện bản chất của phương pháp, đó là: người làm thực nghiệm tự do đưa ra những biến số
độc lập và kiểm soát chúng cũng như kiểm soát cả những thay đổi của các biến số phụ
thuộc. Trong đó, yêu cầu tách riêng các nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm để các kết
quả do đặc có thể được so sánh với một chuẩn mực nào đó. Để thực hiện phương pháp
này, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tuân thủ một loạt các yêu cầu một cách nghiêm ngặt như
xác định mục đích thực nghiệm, thiết kế thực nghiệm, kiểm soát các biến số, tiến hành
thực nghiệm đúng với thiết kế... Đặc biệt trong thực nghiệm Tâm lý học xã hội nhà nghiên
cứu được yêu cầu phải tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực đạo đức nghiên cứu vì các nghiên
cứu liên quan đến khách thể là con người. Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có những
nghiên cứu thực nghiệm nổi tiếng. Đó là những nghiên cứu về áp lực của nhóm đối với cá
nhân, nghiên cứu về việc bắt chước các hành vi xã hội của người khác, nghiên cứu về vai
xã hội...
e) Trắc đạc xã hội
Trắc đạc xã hội là phương pháp nghiên cứu nổi tiếng của trường phái Trắc đạc xã
hội gắn liền với tên tuổi của J.Moreno. J.Moreno cho rằng: trong nhóm nhỏ tồn tại hai cấu
trúc các mối quan hệ - cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô. Cấu trúc vĩ mô là các mối quan hệ
qua lại về mặt công việc, hoạt động sống và chức năng của các cá nhân. Cấu trúc vi mô là
cấu trúc quan hệ tâm lý của cá nhân với những người xung quanh thể hiện chủ yếu ở sự
thiện cảm ác cảm hay thờ ơ giữa các thành viên. Nguyên nhân của sự không trùng khớp là
ở chỗ: những người cùng hoạt động trong một không gian có thể là những người không có
được sự thân thiện về mặt tâm lý. Do vậy, sử dụng phương pháp này có thể “làm bộc lộ
các cấu trúc ẩn dấu, những vị trí cá nhân trong nhóm”, chỉ ra các tiếp xúc xúc cảm, vị thế
của cá nhân trong các quan hệ xúc cảm, ảnh hưởng của các mức độ quan hệ xúc cảm đến
tính hiệu quả hay đến sự hình thành các chuẩn mực nhóm, đến hiện tượng áp lực nhóm...
Để nghiên cứu các vấn đề đó, J.Moreno đã đưa ra phương pháp Trắc đạc xã hội. Phương
pháp này được sử dụng phổ biến để xác định các mối liên hệ liên nhân cách trong nhóm,
dựa trên sự lựa chọn, khước từ hoặc bỏ mặc của các thành viên trong nhóm với các thành
viên khác của nhóm trong hoạt động chung. Nó còn được sử dụng để nghiên cứu các cấu
trúc không chính thức của nhóm, đo lường vị thế của cá nhân trong nhóm, khả năng hoà
nhập của cá nhân trong nhóm. Phương pháp này cho phép xác định các quan hệ xúc cảm
qua lại giữa các thành viên trong nhóm, từ đó có thể xây dựng được một sơ đồ về cấu trúc
vi mô, đồng thời xác định cách phân nhóm tối ưu, làm cho cấu trúc vĩ mô phù hợp với cấu
trúc vi mô, góp phần làm cho các nhóm trở nên gắn kết và có hiệu quả hơn. Trắc đạc xã
hội được thực hiện dưới dạng điều tra. Nhà nghiên cứu lựa chọn các tiêu chí trắc đạc cần
quan tâm, sau đó điều tra sự lựa chọn của các cá nhân theo tiêu chí trắc đạc đó. Ví dụ: để
nghiên cứu mối quan hệ về mặt xúc cảm của các cá nhân đối với cá nhân khác trong nhóm,
người nghiên cứu có thể lựa chọn tiêu chí trắc đặc: nếu được lựa chọn ai đó trong nhóm để
đi du lịch cùng, anh (chị) sẽ lựa chọn ai?". Dựa trên sự lựa chọn của các cá nhân trong
nhóm có thể mô tả được cấu trúc không chính thức của nhóm dưới dạng họa đồ xã hội
(sociogram) hoặc tính các chỉ số vị thế xã hội (sociostatus) hoặc chỉ số cố kết nhóm (group
cohension).
f) Phương pháp đánh giá của nhóm về cá nhân
Phương pháp này thường được sử dụng trong việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến nhân cách xã hội. Ví dụ, tìm hiểu những phẩm chất hay năng lực cần có ở người lãnh
đạo nhóm hoặc tập thể, để từ đó xây dựng mô hình nhân cách của các cá nhân trong một vị
trí xã hội nào đó hoặc để đánh giá các mức độ phát triển của các phẩm chất, năng lực đó ở
cá nhân cụ thể dưới con mắt của các thành viên khác trong nhóm. Để thực hiện việc này,
người nghiên cứu có thể hình thành trước một danh sách bao gồm nhiều phẩm chất tâm lý
xã hội mà cá nhân cần có ở một vị trí nhất định (dựa vào việc phân tích nội dung, tính chất
công việc... hoặc dựa vào các điều tra sơ bộ) sau đó đề nghị các cá nhân của nhóm đánh
giá mức độ phát triển các phẩm chất đó ở một cá nhân cụ thể cần nghiên cứu. Kết quả cho
biết cá nhân có được các phẩm chất, năng lực ở mức độ nào theo sự nhận biết, đánh giá
của cá nhân khác hoặc một cá nhân cần có những phẩm chất hay năng lực nào tương ứng
với vị trí và vai xã hội nhất định.
NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI:
Tâm lý học xã hội ngày càng được chú ý hơn trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong
các lĩnh vực ứng dụng của nó.
- Quản lý và phát triển tổ chức: Hướng vận dụng này đang trở thành phổ biến trong
xã hội hiện đại ở các tổ chức thuộc mọi lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh, giáo dục. Những
khía cạnh cơ bản gồm: các phương thức quản lý, các phẩm chất tâm lý của người quản lý,
giao tiếp công việc, phát triển tổ chức, tư vấn tổ chức, quản trị nhân sự, xây dựng và phát
triển nhóm làm việc.
- Thông tin đại chúng và quảng cáo: Hướng vận dụng này tập trung vào các vấn đề
như người truyền tin, thông điệp, sự giải mã thông tin, tự giác các thông điệp, kênh thông
tin, qua đó đưa ra các cách thức tổ chức thông tin và tác động hiệu quả nhất đến công
chúng.
- Gia đình và nhà trường: Lĩnh vực này bao gồm các nội dung cơ bản như: phổ biến
kiến thức tâm lý xã hội, tham vấn tâm lý, tư liệu những lệch lạc tâm lý xã hội, tư vấn
chuẩn bị hôn nhân, điều chỉnh các quan hệ gia đình...
- Luật pháp và chính trị: Các vấn đề được tập trung giải quyết bao gồm: trẻ phạm
pháp vị thành niên, cảnh báo tội phạm xã hội, các nhóm nhỏ tội phạm, đồng giới tham vấn
các vấn đề chính trị hình thành hình ảnh chính trị, uy tín chính trị...
- Tổ chức hoạt động của các tập thể trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
- Trong lĩnh vực giáo dục đại học, hầu hết các vấn đề cơ bản của Tâm lý học xã hội
đều hiện diện: từ việc tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục sinh viên trong nhóm, tập thể
đến việc thiết lập, vận hành các quan hệ xã hội và liên nhân cách: giảng viên - sinh viên; từ
những hiện tượng tâm lý xã hội đơn giản như sự tương tác qua lại giữa các cá nhân đến
những hiện tượng tâm lý xã hội phức tạp như sự đồng nhất hóa, hay sự cố kết, đoàn kết
trong tập thể... Do vậy, những tri thức tâm lý học xã hội góp phần đáng kể trong việc phát
hiện, lý giải và hình thành các tác động đối với các hiện tượng tâm lý xã hội, từ đó giúp
việc tổ chức dạy học diễn ra thuận lợi và có hiệu quả hơn.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I
1. Phân biệt hiện tượng tâm lý xã hội với hiện tượng xã hội, hiện tượng Tâm lý xã
hội với tâm lý cá nhân.
2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội là gì? Mối quan hệ của Tâm lý học
xã hội nói các khoa học khác?
3. Có những phương pháp nào được sử dụng trong các nghiên cứu Tâm lý học xã
hội? Mô tả sơ lược các phương pháp đó.
Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
I. CÁC QUY LUẬT TÂM LÝ XÃ HỘI
1. Quy luật kế thừa
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiếp thu những yếu tố có sẵn, từ đó cải biến
chúng cho phù hợp với các điều kiện hiện tại. Nếu không có sự kế thừa thì sẽ không có sự
phát triển. Xã hội loài người cũng vậy, có được những thành tựu như ngày nay, xã hội loài
người phải “đứng trên vai” những thành tựu của hàng ngàn năm phát triển khoa học, công
nghệ, văn hóa và xã hội. Sau này cũng vậy, những thành tựu của xã hội hiện tại lại được
tiếp thu cải biến cho các giai đoạn xã hội mai sau. Phản ánh đời sống xã hội, các hiện
tượng tâm lý xã hội cũng diễn ra theo quy luật này. Các hiện tượng tâm lý xã hội không
phát triển theo con đường sinh học, bằng di truyền sinh học mà bằng con đường “di sản xã
hội”. Đặc biệt, đối với các hiện tượng tâm lý xã hội liên quan đến các nhóm lớn xã hội như
dân tộc, giai tầng xã hội, cộng đồng xã hội, quy luật kế thừa được vận hành một cách phổ
biến.
Kế thừa được hiểu là sự chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác các giá trị vật chất
(công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt, công trình văn hóa nghệ thuật...) và các giá trị tinh
thần (kinh nghiệm sản xuất, truyền thống, phong tục tập quán...).
Nhờ quy luật kế thừa, một cá nhân không cần phải trải qua toàn bộ các giai đoạn phát
triển của loài trong kinh nghiệm của bản thân mà chỉ cần kế thừa cái đã có để có được sự
phát triển tương ứng trong hiện tại. Một nhóm xã hội không cần lặp lại toàn bộ các giai
đoạn mà xã hội đã trải qua mà có thể dựa trên nền tảng đã có để phát triển nhanh hơn,
mạnh hơn. Một dân tộc với các truyền thống của mình, có thể bảo tồn, duy trì và tiếp tục
phát triển chúng trong thời kì mới mà không cần phải xây dựng lại từ đầu. Trong quá trình
phát triển của dân tộc, các truyền thống khác lại dần được hình thành. Việc kế thừa, một
mặt giúp rút ngắn thời gian phát triển, mặt khác tạo điều kiện để sàng lọc, loại bỏ các giá
trị không phù hợp. Như vậy nó tạo ra sự phát triển ổn định, không đứt quãng cho xã hội.
Kế thừa tâm lý xã hội diễn ra theo nhiều con đường khác nhau. Có thể đó là con đường
của “vô thức tập thể”, tức là cá nhân sống trong một môi trường nhóm, cộng đồng xã hội
nào đó với các đặc điểm tâm lý riêng, ở cá nhân dần có sự kế thừa các đặc điểm tâm lý đó
mà bản thân cá nhân không ý thức được điều đó. Các thế hệ sau nối tiếp các thế hệ trước
và tiếp tục duy trì các nét tâm lý đó. Tính cách dân tộc, lòng tự hào dân tộc, cách thức ứng
xử với người khác, thậm chí cách thức nhìn nhận, đánh giá và tư duy của cả một cộng
đồng là minh chứng rõ ràng về con đường kế thừa này. Nói đến cách tư duy của các dân
tộc, các nhà nghiên cứu đều nhắc đến hai kiểu tu duy có sự phân biệt tương đối rõ rệt. Mỗi
kiểu tư duy gắn với các cộng đồng người ở các khu vực và các nền văn hóa khác nhau. Đó
là kiểu tư duy biện chứng nhìn nhận sự vật luôn vận động và biến đổi liên tục thậm chí
không thấy được sự ổn định tương đối của nó trong các xã hội phương Đông mà thuyết
“vô thường - sắc không” của Phật giáo là ví dụ. Ngược lại là kiểu tư duy lôgic chặt chẽ coi
trọng sự ổn định của sự vật đến mức siêu hình của phương Tây. Các hiện tượng tâm lý xã
hội đó được kế thừa một cách “tự nhiên”. Chúng ngấm vào từng cá nhân trong cộng đồng
xã hội thông qua giao tiếp tương tác của cá nhân với các cá nhân khác trong các nhóm xã
hội. Theo cách nói của Mác: “sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc vào các cá nhân mà
nó giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp". Bên cạnh con đường kế thừa tự nhiên là kế thừa một
cách có ý thức, thông qua các tác động giáo dục của xã hội. Bất kì một thể chế xã hội nào
cũng đề cao các giá trị truyền thống nào đó phù hợp với tính chất và xu hướng phát triển
của nó. Do vậy, việc giáo dục các giá trị, các chuẩn mực trở thành công việc được tổ chức
một cách có ý thức trong các hoạt động của xã hội đó như giáo dục, truyền thông. Đồng
thời, mỗi cá nhân ở mức độ phát triển nhất định, có khả năng lựa chọn những giá trị phù
hợp với bản thân để kế thừa.
Sự kế thừa tâm lý xã hội diễn ra rất phức tạp. Nó là sự kế thừa những nét tâm lý chung
của cộng đồng xã hội nhưng lại tồn tại trong tâm lý riêng của cá nhân và được thể hiện với
màu sắc riêng của mỗi chủ thể. Biểu tượng dân tộc “con Rồng cháu Tiên” của người Việt
chẳng hạn. Đây là biểu tượng tâm lý xã hội của cả dân tộc, được bảo lưu, gìn giữ từ thế hệ
này sang thế hệ khác, nhưng độ sắc nét và đặc biệt ý nghĩa của nó được các cá nhân cảm
nhận ở các mức độ và các tầng bậc khác nhau. Hơn nữa, từ biểu tượng chung đến sự thống
nhất các hành vi xã hội cùng còn những khoảng cách không nhỏ.
Quy luật kế thừa cũng quy định sự phát triển của các cá nhân phụ thuộc vào sự tiếp xúc
với các cá nhân khác. Trong quá trình tiếp xúc các giá trị được chuyển giao và được tiếp
nhận bởi các thế hệ mới. Các giá trị đó tạo điều kiện cho thế hệ mới phát triển.
Có nhiều hình thức kế thừa khác nhau. Trong đó có hai loại kế thừa được đề cập đến
nhiều, đó là kế thừa có chọn lọc và kế thừa nguyên si. Kế thừa có chọn lọc là loại kế thừa
có phê phán, có tính đến sự phù hợp của các yếu tố được kế thừa với điều kiện hiện tại.
Hình thức kế thừa này được coi là rất tích cực, nó tạo điều kiện cho cái được kế thừa có
sức mạnh phát triển mới, đồng thời tạo điều kiện cho cái mới có cơ sở vững chắc. Kế thừa
nguyên si là dạng kế thừa y nguyên không có sự thay đổi, là tiếp nhận cái cũ một cách vô
điều kiện. Dạng kế thừa này nhiều khi tạo ra sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển của cái mới
và làm các yếu tố được kế thừa trở nên lạc lõng và suy yếu đi. Truyền thống phong tục, tập
quán là sự thể hiện sinh động của quy luật này. Bên cạnh phong tục, tập quán có ý nghĩa
tích cực với hiện tại, tồn tại những hủ tục, những tập quán đóng vai trò cản trở, kìm hãm
cái mới. Như vậy, quy luật kế thừa cho thấy trong đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý
xã hội không tự chủ tiêu mà nó có thể được gìn giữ, bảo lưu từ giai đoạn này sang giai
đoạn khác. Vấn đề là lựa chọn con đường nào và làm thế nào để các hiện tượng tâm lý xã
hội tích cực có thể được kế thừa một cách hiệu quả.
2. Quy luật về sự quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với tâm lý xã hội.
Quy luật này là sự thể hiện của quy luật chung về sự quyết định của tồn tại xã hội đối
với ý thức xã hội. Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng sự ra đời của các thiết chế
xã hội, chính trị, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... đều xuất phát từ tồn tại xã hội. Các hiện
tượng tâm lý xã hội với tư các là các hiện tượng tinh thần của xã hội cũng chịu sự chi phối
của quy luật này. Biểu hiện cụ thể của quy luật này trong các hiện tượng tâm lý xã hội có
thể thấy như sau:
Các nguyện vọng, tâm trạng, nhu cầu của xã hội bắt nguồn chính từ các điều kiện xã
hội, trong đó con người đang sống và hoạt động. Tâm trạng xã hội tích cực, hưng phấn
(được các nhà nghiên cứu đánh giá, ví dụ: chỉ số lạc quan cao, chỉ số hạnh phúc cao...) bắt
nguồn từ sự đi lên của kinh tế từ sự đầy đủ hơn của các điều kiện sống. Sự xuất hiện và
đặc biệt sự ý thức về các nhu cầu xã hội (với tư cách là một hiện tượng tâm lý xã hội) ở
bậc cao hơn chỉ có thể diễn ra khi các điều kiện xã hội đã phần nào giúp thỏa mãn các nhu
cầu xã hội cấp thấp hơn. Ví dụ các vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc, vấn đề thay đổi khí hậu
các vấn đề môi trường...
Như vậy, muốn nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội phải chỉ ra được các điều kiện
xã hội quy định nó. Ngược lại muốn tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nào đó, phải
chuẩn bị các điều kiện xã hội tương ứng, nếu muốn các hiện tượng tâm lý xã hội do diễn ra
có hiệu quả.
Các quan hệ xã hội trong cộng đồng: trong nhóm xã hội quy định các hiện tượng tâm lý
xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trên cơ sở tương tác giữa các cá nhân trong
nhóm, trong cộng đồng, đồng thời các tương tác đó diễn ra chính trong các quan hệ xã hội.
Các mối quan hệ được vận hành hợp lý: quan hệ lợi ích, quan hệ trách nhiệm... sẽ làm nảy
sinh bầu không khí xã hội tích cực cởi mở, ngược lại có thể làm nảy sinh xung đột, tạo ra
bầu không khí căng thẳng tiêu cực. Do vậy, muốn tác động đến các hiện tượng tâm lý xã
hội, một trong số các con đường cơ bản đó là cải tạo các quan hệ xã hội cho hợp lý hơn.
Bên cạnh việc khẳng định tính quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với các
hiện tượng tâm lý xã hội, cũng cần thấy được tính độc lập tương đối và tác động ngược lại
của các hiện tượng tâm lý xã hội đối với các điều kiện kinh tế - xã hội. Sự tác động ngược
lại cũng có thể tạo ra những động lực làm biến đổi các điều kiện kinh tế - xã hội trong
những thời điểm nhất định đặc biệt khi sự tác động ngược đó được tổ chức và tập hợp một
cách hợp lý. Việc cởi bỏ nếp tư duy bao cấp, máy móc và giáo điều đã tạo ra sự chuyển
biến vô cùng mạnh mẽ trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta những năm qua là một
minh chứng rõ ràng cho tác động ngược lại đó.
3. Quy luật bắt chước
Quy luật bắt chước là quy luật được chỉ ra sớm nhất trong Tâm lý học xã hội. Nó đã
được đề cập đến trong tác phẩm Những quy luật của sự bắt chước năm 1890 của G.Tarde.
Ông đã dùng quy luật này để giải thích hành vi của con người, đặc biệt là những hành vi
giống nhau giữa các cá nhân trong quá trình tác động qua lại.
Theo G.Tarde: Bắt chước là sự cụ thể hóa của “quy luật lặp lại của thế giới”. Thế giới
vận động và phát triển theo con đường lặp lại. Di truyền sinh học là lặp lại, phủ định của
phủ định là lặp lại. Trong xã hội loài người, sự lặp lại chính là bắt chước. Đây là nền tảng
để xã hội tồn tại và phát triển. Nhờ bắt chước mà các phát minh, sáng chế, các hành vi có
ích của xã hội được duy trì, trên cơ sở đó được khai thác lại.
Bắt chước có tính chất vô thức. Do là sự sao chép máy móc các hành vi bề ngoài của
những người khác. Bắt chước người khác chính là “sao, chụp” lại người khác.
G. Tarde cũng chỉ ra một số kiểu bắt chước khác nhau: bắt chước lôgic (trí tuệ ý thức) -
bắt chước phi lôgic (cảm tính, phi lý); bắt chước nhất thời và bắt chước lâu dài; bắt chước
hình thức và bắt chước bản chất; bắt chước giữa các thế hệ, giữa các giai cấp.
Thực chất việc Tarde đề ra quy luật bắt chước chủ yếu dựa vào quan sát chứ chưa có các
nghiên cứu thực nghiệm cụ thể. Tuy vậy, sự bắt chước rõ ràng diễn ra phổ biến trong đời
sống xã hội và tạo ra một loạt các hiện tượng tâm lý xã hội như thị hiếu, mốt thời trang,
trào lưu, xu hướng, làn sóng.
Việc đề cao thái quá quy luật bắt chước như là một quy luật tổng hợp để giải thích các
hiện tượng tâm lý xã hội đương nhiên là không hợp lý. Tuy vậy những phát hiện của Tarde
đã được các nhà nghiên cứu tâm lý học xã hội tiếp thu - chính xác hóa và coi như một
trong số các quy luật chi phối sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội.
Có thể hiểu bắt chước như là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại những hành vi, cách suy nghĩ,
các tâm trạng của các cá nhân khác trong đời sống xã hội. Quy luật này có vai trò chính
trong việc tạo ra sự đồng nhất giữa các cá nhân trong các nhóm xã hội, nhờ đó nó có thể
tạo ra các đặc trưng của các nhóm xã hội khác nhau. Sự bắt chước trong cách ăn mặc, cách
nói năng của nhóm lứa tuổi như thiếu niên chẳng hạn, tạo ra sự khác biệt với các nhóm lứa
tuổi khác.
4. Quy luật tác động qua lại giữa con người với con người
Tác động qua lại là quy luật phổ biến chi phối sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội.
Tham gia vào các nhóm xã hội, các cá nhân liên tục tác động ảnh hưởng đến các cá nhân
khác và ngược lại chịu sự tác động của các cá nhân khác. Sở dĩ các hiện tượng tâm lý xã
hội nảy sinh là do sự tác động qua lại này. Sự tác động qua lại giữa các cá nhân diễn ra
thông qua hoạt động cùng nhau và giao tiếp. Tần suất hoạt động cùng nhau và giao tiếp là
chỉ báo cho mức độ tương tác giữa các cá nhân.
Sự tác động qua lại giữa các cá nhân có thể mang tính chất tích cực hay tiêu cực. Sự tác
động qua lại theo kiểu hợp tác là điều kiện cho sự phát triển các mối quan hệ cá nhân.
Ngược lại: sự tác động qua lại theo kiểu cạnh tranh có thể trở thành nhân tố kìm hãm các
mối quan hệ.
Sự tác động qua lại có thể dẫn tới sự thay đổi về thái độ, tình cảm hay hành vi ở các cá
nhân và tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm như bầu không khí nhóm, tâm trạng
nhóm. Sự thống nhất các ý kiến sự thống nhất hành vi của các thành viên cũng có thể coi
là kết quả của sự tác động qua lại. Các mức độ tác động qua lại giữa các cá nhân phụ thuộc
vào sự thống nhất, đồng nhất giữa các cá nhân trong nhóm. Sự thống nhất càng cao, hiệu
quả của sự tác động qua lại càng lớn. Bên cạnh đó các đặc điểm chủ quan của cá nhân,
phương thức tổ chức thông tin cũng là những nhân tố quan trọng chi phối mức độ tương
tác giữa các cá nhân.
Sự tác động qua lại giữa các cá nhân, trong Tâm lý học xã hội còn được biểu đạt bằng khái
niệm tương tác. Khái niệm tương tác dùng để chỉ không phải sự tương tác bất kì mà để chỉ
“sự tác động qua lại xã hội”, tức là sự tác động qua lại giữa con người trong giao tiếp,
trong nhóm, trong xã hội. Bản thân quá trình tương tác xã hội cần được phân tích để có thể
hiểu được các hành vi xã hội của cá nhân. Sự tác động qua lại được hiểu như là các kích
thích hai chiều để tạo ra các phản ứng từ các chủ thể tham gia vào quá trình tương tác. Mặt
khác các nhà nghiên cứu phải tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi: quá trình tương tác xã hội
được thực hiện và điều chỉnh bởi các phương tiện đặc trưng nào? Các yếu tố nào? Từ đây
xuất hiện mối quan tâm đối với một loạt các vấn đề: giao tiếp với sự trợ giúp của các biểu
tượng, ngôn ngữ, việc diễn giải các tình huống; vấn đề cấu trúc của nhân cách, hành vi của
các vai trò xã hội, nhóm quy chiếu; các yếu tố nguồn gốc của sự hình thành các chuẩn mực
của sự tương tác xã hội và các thái độ xã hội.
Trong quá trình tương tác, các cá nhân diễn giải các cử chỉ điệu bộ của nhau, các tình
huống giao tiếp và hành động trên cơ sở các ý nghĩa nhận được trong quá trình giao tiếp.
Vì vậy để thực hiện hiệu quả việc giao tiếp, cá nhân cần có khả năng đặt mình vào vị trí
của người khác hay “tiếp nhận vai trò của người khác” và nhìn nhận bản thân bằng con
mắt của người khác. Chỉ có như vậy, cá nhân mới trở thành nhân cách, thành thực thể xã
hội có khả năng ứng xử với bản thân như là với một đối tượng, tức là ý thức được các ý
nghĩa của lời nói hành vi của mình, như là người khác tri giác chúng. Trong trường hợp
tương tác phức tạp hơn, như trong một nhóm, để thực hiện một cách có hiệu quả cần sự
khái quát hóa lập trường của đa số các thành viên trong nhóm. Hành vi của mỗi cá nhân
trong nhóm là kết quả của sự chấp nhận của cá nhân các thái độ của các cá nhân khác đối
với bản thân và sự thống nhất các thái độ đó vào một thái độ chung gọi là “thái độ khái
quát”.
Trong tương tác, hành vi của cá nhân được xác định bởi ba biến số: cấu trúc nhân cách, vai
xã hội và nhóm tham chiếu. Cấu trúc nhân cách quy định xu hướng ổn định của hành vi,
vai xã hội quy định các hành vi được xã hội yêu cầu và kì vọng, các nhóm tham chiếu lôi
kéo và tạo ra cơ sở cho sự so sánh đối chiếu các hệ vi. Tùy thuộc vào ý nghĩa của các biến
số ở mỗi cá nhân mà các hành vi xã hội trong tương tác diễn ra theo hướng này hay hướng
khác.
Sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm xã hội hết sức đa dạng và phức tạp. Trên
cơ sở của sự tương tác giữa các cá nhân nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội và các hiện
tượng xã hội. Trong nhiều thời điểm, sự tương tác đặc biệt giữa số đông các cá nhân có thể
tạo ra những biến đổi xã hội hết sức to lớn. Do vậy, nghiên cứu sự tương tác xã hội luôn
được các nhà nghiên cứu quan tâm.
II. CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
II. CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI à Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
1. Cơ chế lây lan
Trong đời sống xã hội, không ít khi chúng ta gặp các hiện tượng tâm lý xã hội như
tâm trạng căng thẳng lo âu, thậm chí hoảng loạn hay ngược lại, sự hưng phấn, quá khích
của các nhóm người. Sở dĩ ở nhóm người cùng xuất hiện một dạng xúc cảm nhất định là
do sự lây lan của các cảm xúc từ một số cá nhân này sang những cá nhân khác. Cơ chế
hình thành các hiện tượng xúc cảm chung đó gọi là cơ chế lây lan.
Lây lan được hiểu là sự lan truyền xúc cảm từ cá nhân này sang cá nhân khác trong
nhóm xã hội một cách mạnh mẽ ở cấp độ tâm sinh lý ngoài những tác động ở cấp độ ý
thức nhóm.
Sự lây lan đã từ lâu được nghiên cứu như là một phương thức đặc biệt của sự tác
động, bằng một cách nào đó tạo ra sự hòa nhập đông đảo của đám đông, đặc biệt trong mối
liên hệ với sự xuất hiện các hiện tượng như xuất thần tôn giáo, loạn thần đại chúng và...
Hiện tượng lây lan đã được biết ngay trong những giai đoạn sơ khai của lịch sử loài người
và có nhiều kiểu biểu hiện như các trạng thái bột phát xúc cảm mang tính đại chúng xuất
hiện trong khi nhảy các điệu nhảy nghi lễ, sự hăng say thể thao, các tình huống hoảng
loạn. Trong hình thức chung nhất, sự lây lan có thể xác định như là tính dễ bị nhiễm một
cách vô thức trạng thái tâm lý nào đó. Nó được bộc lộ không phải qua sự thừa nhận có ý
thức một thông tin nào đó hay hình mẫu hành vi mà qua việc lan truyền trạng thái xúc cảm
hay trạng thái tâm lý. Khi trạng thái xúc cảm đó xuất hiện trong đám đông cơ chế tăng
cường nhiều lần sự tác động xúc cảm lẫn nhau của những người giao tiếp bắt đầu hoạt
động. Cá nhân ở đây không chịu áp lực trước tổ chức mang tính chủ định mà đơn giản lĩnh
hội một cách vô thức hình mẫu của cách ứng xử nào đó bằng cách tuân phục nó. Nhiều
nhà nghiên cứu phân tích sự có mặt của một phản ứng lây lan đặc biệt xuất hiện trong các
nhóm khán giả mở và có số lượng lớn, khi mà trạng thái xúc cảm được tăng cường bằng
con đường phản ánh lặp lại nhiều lần theo mô hình của phản ứng chuỗi thông thường.
Hiệu ứng có thể xảy ra trước hết trong tập hợp không được tổ chức, thường xuyên hơn cả
là trong đám đông, thể hiện như một dạng củng cố nhằm xua đuổi một trạng thái xúc cảm
khác nào đó.
Tình huống hoảng loạn là một tình huống đặc biệt trong quá trình tác động qua lại,
sự lây lan được tăng cường. Hoảng loạn xuất hiện trong đám đông như một trạng thái xúc
cảm xác định, là hậu quả của sự thiếu hụt thông tin về điều gì đó đang đe doạ hoặc điều gì
đó khó hiểu hay là ngược lại sự thừa thãi của thông tin về sự đe doạ này. Bản thân thuật
ngữ có nguồn gốc từ tên của một vị thần Hi Lạp Pana - người che chở cho những người
chăn súc vật tránh được sự nổi giận phi lý của của bầy đàn. Nguyên cớ trực tiếp của sự
hoảng loạn là sự xuất hiện của tin tức nào đó có khả năng tạo ra một dạng sốc nhất định.
Sau đó sự hoảng loạn tăng thêm sức sức mạnh khi tham gia vào hành động, do cơ chế
phản ánh lặp lại. Sự lây lan xuất hiện khi có hoảng loạn khó có thể đánh giá đúng ngay
trong cả xã hội hiện đại. Ví dụ rất nổi tiếng về sự xuất hiện sự hoảng loạn quần chúng ở
Mỹ ngày 30/10/1938 sau chương trình phát thanh của đài phát thanh ABC về quyển sách
của H.Yell Chiến tranh của các thế giới. Dân chúng - thính giả thuộc các lứa tuổi hoàn
toàn khác nhau và các tầng lớp học vấn khác nhau (theo số liệu chính thức gần 1.000.000
người) đã trải qua trạng thái giống như loạn thần đại chúng, tin vào sự tấn công của người
sao Hỏa vào Trái Đất. Mặc dù nhiều người trong số họ biết chính xác rằng đang truyền
thanh một kịch bản của một tác phẩm văn học (người phát thanh đã nhắc lại 3 lần) gần
400.000 người nói rằng đã “tận mắt” chứng kiến sự xuất hiện của người sao hoả. Hiện
tượng này đã được các nhà tâm lý học Mỹ phân tích một cách chuyên biệt.
Sự hoảng loạn là hiện tượng vô cùng khó nghiên cứu. Không thể quan sát được
chúng một cách trực tiếp. Bởi vì: thứ nhất, không bao giờ biết được thời điểm xuất hiện
của nó; thứ hai, trong tình huống hoảng loạn khó có thể vững vàng để trở thành người
quan sát. Chính ở đó sự hoảng loạn thể hiện sức mạnh của nó. Một người bất kì khi nằm
trong trạng thái hoảng loạn dù ở mức độ này hay mức độ khác đều bị nó khuất phục. Do
vậy, các nghiên cứu hoảng loạn vẫn chỉ ở trình độ mô tả sau khi hoảng loạn đã qua đỉnh
điểm. Các mô tả này cho phép chia ra các chu kì cơ bản đặc trưng cho toàn bộ quá trình
tổng thể. Hiểu các chu kì này rất quan trọng cho việc chấm dứt hoảng loạn. Điều đó là có
thể thực hiện với điều kiện có thể có các sức mạnh có khả năng đưa đến các yếu tố của sự
sáng suốt vào tình huống hoảng loạn, bằng cách nhất định chiếm lĩnh được tình huống
này. Ngoài việc hiểu biết về chu kì, cần phải hiểu cả cơ chế tâm lý học của hoảng loạn.
Các đặc điểm của sự lây lan như là sự chấp nhận một cách vô thức những hình mẫu
nhất định của hành vi. Nếu con người trong tình huống hoảng loạn này có thể đưa ra hình
mẫu nhất định của hành vi, có khả năng khôi phục lại trạng thái xúc cần bình thường của
đám đông, sẽ có khả năng chấm dứt hoảng loạn.
Vấn đề quan trọng trong nghiên cứu sự lây lan là vấn đề vai trò của mức độ thống
nhất trong đánh giá và tâm thế mà quần chúng (những người bị lây lan tâm lý) có được.
Mặc dù vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ trong khoa học, nhưng trong thực
tiễn người ta đã tìm ra các hình thức sử dụng các đặc trưng này trong tình huống lây lan.
Như trong các điều kiện lây lan đại chúng bởi kích thích, bao gồm cả sự lây lan trước đó
sự đồng nhất các đánh giá ví như đối với một nghệ sĩ nổi tiếng là sự cổ vũ, chúng có thể
đóng vai các xung lực, tiếp sau đó tình huống sẽ phát triển theo các quy luật của sự lây lan.
Sự hiểu biết về cơ chế này được sử dụng trong việc tuyên truyền, trong đó đã đưa ra một
lý thuyết đặc biệt nâng cao tính hiệu quả của tác động đến thính giả mở bằng con đường
mang họ tới trạng thái hưng phấn mở tới trạng thái xuất thần, không hiếm khi cả các thủ
lĩnh chính trị khác cũng dùng tới thủ thuật này.
Mức độ lây lan mà các thính giả khác nhau có thể bị rơi vào phụ thuộc vào mức độ
phát triển chung của các nhân cách tạo ra nhóm thính giả và cụ thể hơn - vào mức độ phát
triển tự ý thức của họ. Trong ý nghĩa này có thể khẳng định xác đáng rằng: trong xã hội
hiện đại, sự lây lan có vai trò ít hơn so với những giai đoạn đầu trong lịch sử loài người.
Có thể nhận thấy rằng trình độ phát triển xã hội càng cao thì các thái độ phê phán của con
người càng cao hơn đối với các sức mạnh có tác động lôi kéo họ tới việc thực hiện hành
động hay trải nghiệm này khác, dẫn tới kết quả là hiệu quả của cơ chế lây lan càng yếu
hơn. (Porsnhiev, 1968).
Theo truyền thống đã hình thành trong Tâm lý học xã hội thường xem xét hiện
tượng lây lan trong các điều kiện của các hành vi chống đối xã hội và không có tổ chức
(các thảm hoạ thiên nhiên khác nhau). Tuy nhiên kiểu hành vi này có thể thể hiện trong
các hành động xã hội có ý thức đại chúng, ví dụ trong tiến trình của các cuộc mít tinh khác
nhau hay các cuộc biểu tình hoặc trong các tình huống thảm hoạ khác nhau...
Như vậy không thể nói rằng trong các điều kiện hiện đại, vấn đề lây lan đã tuyệt đối
cũ kĩ. Không có sự trưởng thành nào của tự ý thức gỡ bỏ những hình thức này của sự lây
lan tâm lý xuất hiện trong các phong trào xã hội quần chúng đặc biệt trong những thời gian
không ổn định của xã hội ví như trong điều kiện tái cơ cấu xã hội mạnh mẽ. Tâm lý học xã
hội có trách nhiệm to lớn trước xã hội khi nghiên cứu vấn đề này. Ở đây hiện tại chỉ tồn tại
những mô tả và quan sát rời rạc về bản chất, chưa có các nghiên cứu nghiêm túc.
Cơ chế lây lan được coi là có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết số đông
cá nhân ở phương diện xúc cảm. Nhờ có chế này, trong đời sống xã hội có hiện tượng
“cộng cảm”, là điều kiện thuận lợi cho sự gắn bó giữa các cá nhân trong nhóm và cộng
đồng.
Cơ chế này được các nhà nghiên cứu giải thích theo các cách khác nhau.
Mikhailôvxki cho rằng lây lan được truyền theo nguyên tắc cộng hưởng, tỉ lệ thuận với
đám đông và cường độ xúc cảm được truyền đi. G.Allport lại cho rằng lây lan diễn ra theo
“phản ứng vòng tròn”. Cá nhân này kích thích cá nhân khác bằng các biểu hiện xúc cảm
của mình, đến lượt họ khi thấy biểu hiện của người khác sẽ tăng thêm phần hứng khởi.
Các xúc cảm tiêu cực và tích cực đều có thể được lây lan. Do vậy, có thể chủ động
tạo ra sự lây lan các xúc cảm tích cực và ngăn chặn sự lây lan các xúc cảm tiêu cực trong
nhóm, cộng đồng.
2. Cơ chế đồng nhất hóa
- Có nhiều cách quan niệm khác nhau về sự đồng nhất hóa. Có quan điểm coi đồng
nhất hóa như một quá trình so sánh, đối chiếu một đối tượng này với đối tượng khác theo
một điểm hay tiêu chí nhất định, từ đó khái quát, xác lập sự tương đồng giữa chúng. Ví dụ,
khi cá nhân nhận biết các phẩm chất của một số cá nhân khác sẽ tiến hành việc xếp các cá
nhân đó theo các kiểu loại khác nhau và sau đó có thể bắt chước, phỏng theo một kiểu nào
đó. Như vậy theo cách hiểu này, đồng hóa chính là việc cá nhân lựa chọn và đồng nhất bản
thân với các chủ thể khác hay với nhóm nào đó.
Cách hiểu chung trong tâm lý học hiện đại cho rằng: đồng nhất hóa là quá trình chủ
thể thống nhất bản thân với các cá nhân khác dựa trên các liên hệ cảm xúc, đồng thời nội
tâm hóa các chuẩn mực các giá trị của họ. Trong khi đồng nhất hóa, chủ thể nhìn nhận
người khác như là sự kéo dài của bản thân, gán cho người khác những đặc điểm, tình cảm,
mong muốn của bản thân. Đồng thời cá nhân đặt mình vào vị trí của người khác, dịch
chuyển bản thân vào vị trí không gian, phạm vi của người khác và thậm chí đồng nhất hóa
ý nghĩ với người khác.
Trong Tâm lý học xã hội, đồng nhất hóa được coi là quá trình cá nhân tiếp nhận vai
trò xã hội khi gia nhập nhóm. Cá nhân ý thức được vai trò, vị trí của mình trong nhóm và
thực hiện tốt vai trò xã hội của mình. Nói cách khác, đồng nhất hóa chính là quá trình cá
nhân đồng nhất bản thân với một vai trò xã hội nhất định.
Từ các cách hiểu rất rộng và nhiều khía cạnh như vậy, có thể hiểu một cách chung
nhất về cơ chế đồng nhất hóa như sau: Đồng nhất hóa là quá trình cá nhân điều chỉnh bản
thân nhằm thích ứng với các vai xã hội hay với các cá nhân khác trong nhóm xã hội trên
những phương diện nhất định của đời sống tâm lý.
- Vai trò của cơ chế đồng nhất hóa như sau:
Cá nhân có thể thực hiện tốt vai trò xã hội của bản thân, từ đó các quan hệ xã hội
được vận hành một cách có hiệu quả.
Các cá nhân trong nhóm có được những điểm chung: sự đồng nhất về cảm xúc, sự
đồng nhất về cách giải quyết nhìn nhận vấn đề. Trong các nhóm lớn xã hội, cơ chế đồng
nhất hóa có thể diễn ra một cách ẩn tàng để tạo ra những hiện tượng tâm lý xã hội của
nhóm dân tộc, giai cấp như ý thức tự hào dân tộc, nếp suy nghĩ dân tộc, tình cảm dân tộc...
Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế đồng nhất hóa sẽ xuất hiện khi các cá nhân trong
nhóm xã hội bị đồng nhất hóa quá mức. Các cá nhân sẽ trở nên bị động, đánh mất cái riêng
và bản sắc riêng.
3. Cơ chế ám thị
Trong quá trình giao tiếp, tương tác giữa các cá nhân, có trường hợp cá nhân chịu sự
tác động của cá nhân khác và có hành vi phục tùng yêu cầu của cá nhân khác một cách
không ý thức được gọi là hiện tượng ám thị.
Để hiểu hơn về ám thị, có thể đặt nó trong mối quan hệ với một hiện tượng khác gọi
là thôi miên. Trạng thái bị thôi miên là trạng thái “mất tỉnh táo”, “mất khả năng ý thức”
của chủ thể. Một người bị thôi miên sẽ không ý thức được các hành vi của bản thân và rơi
vào trạng thái bị người khác điều khiển. Ám thị là mức độ nhẹ hơn so với thôi miên, người
bị ám thị không mất ý thức nhưng mất khả năng suy xét, phê phán do vậy dễ bị thuyết
phục và dễ bị điều khiển.
Ám thị là tác động tâm lý có mục tiêu nhưng vô căn cứ từ một người đến người
khác hoặc nhóm, dẫn tới sự thay đổi hành vi ứng xử của cá nhân do phục tùng mệnh lệnh
đến từ một uy quyền hợp pháp.
Quá trình diễn ra ám thị có một số đặc điểm: Sự chuyển giao thông tin dựa vào việc
tiếp nhận thông tin một cách không phê phán. Trong quá trình đó, não chỉ giữ liên hệ với
một nguồn kích thích, các nguồn kích thích khác bị ngắt.
Ám thị là một kiểu tác động đặc biệt có mục đích, sự tác động phi luận cứ của một
người lên người khác hay lên một nhóm. Trong ám thị quá trình truyền thông tin được
thực hiện trên cơ sở tri giác chúng một cách không có phê phán. Thông thường toàn bộ
thông tin được truyền từ người này sang người khác được phân loại căn cứ vào mức độ
tính tích cực trong lập trường của người truyền thông tin, phân biệt trong đó các thông
báo, thuyết phục và ám thị. Chính hình thức thông tin thứ ba này liên quan đến sự tri giác
không phê phán, cho rằng người tiếp nhận thông tin trong trường hợp ám thị không có khả
năng đánh giá chúng một cách phê phán. Một cách tự nhiên, trong các tình huống khác
nhau và đối với các nhóm người khác nhau mức độ phi luận cứ, cho phép tiếp nhận không
phê phán thông tin trở nên rất khác nhau.
Hiện tượng ám thị được nghiên cứu trong Tâm lý học từ trước đây rất lâu trên thực
tế: trong thực tiễn y học hay với một số các hình thức dạy học cụ thể. Ám thị như một hiện
tượng tâm lý học xã hội có đặc trưng rõ rệt: do vậy có quyền nói về hiện tượng đặc biệt
“ám thị xã hội”. Trong các nghiên cứu của Tâm lý học xã hội vẫn duy trì hệ thống thuật
ngữ, được sử dụng trong các phần khác nhau của khoa học tâm lý nghiên cứu hiện tượng
này: người thực hiện việc ám thị gọi là nhà ám thị, đối tượng của ám thị gọi là “người bị
ám thị”. Hiện tượng chống đối lại ám thị gọi là “phản ám thị”. Trong tài liệu ở Nga, lần
đầu tiên vấn đề ý nghĩa của ám thị được đặt ra trong tác phẩm của V.M.Becheriev Ám thị
và vai trò của nó trong đời sống xã hội (1903).
Khi phân tích ám thị như là phương tiện tác động đặc biệt, vấn đề về tương quan
giữa ám thị và lây lan được đặt ra và vẫn chưa có câu trả lời thống nhất. Đối với một số tác
giả ám thị là một trong các loại lây lan bên cạnh bắt chước, những người khác lại nhấn
mạnh sự khác biệt của ám thị với lây lan, có thể khái quát như sau: Trong lây lan diễn ra
sự đồng cảm của trạng thái tâm lý đám quần chúng lớn. Ám thị không có “sự bình đẳng” -
ngược lại, trong đó không có sự đồng cảm, và đồng nhất xúc cảm. Nhà ám thị không rơi
vào trạng thái của người bị ám thị. Quá trình ám thị có tính một chiều mà không phải là sự
tăng lên bột phát của trạng thái nhóm ám thị. Nó là sự tác động tích cực của một người đến
một người khác hoặc nhóm. Ám thị, thông thường, mang tính ngôn ngữ, trong khi đó,
trong lây lan ngoài tác động ngôn ngữ còn sử dụng cả các phương tiện khác (nhịp điệu,
cảm thán...).
Mặt khác ám thị khác với thuyết phục ở chỗ nó trực tiếp gây ra những trạng thái tâm
lý nhất định không cần có lôgic và chứng cứ. Thuyết phục, ngược lại, được xây dựng trên
cơ sở sự trợ giúp của các cấu tạo lôgic để đạt tới sự đồng ý của người khác của người tiếp
nhận thông tin. Trong ám thị không đạt tới sự đồng ý mà còn phải là tiếp nhận thông tin
dưới dạng kết luận có sẵn. Trong khi đó, trường hợp thuyết phục, kết luận cần phải được
đưa ra một cách độc lập bởi người tiếp nhận. Do vậy thuyết phục là tác động chủ yếu
mang tính trí tuệ còn ám thị tác động chủ yếu mang tính xúc cảm ý chí.
Chính vì vậy khi nghiên cứu ám thị đã xác nhận một số quy luật liên quan đến vấn
đề: trong những tình huống nào và trong những tình trạng nào hiệu quả ám thị được nâng
cao. Những trường hợp ám thị xã hội đã chứng minh sự phụ thuộc của hiệu ứng ám thị vào
lứa tuổi: trẻ em nhìn chung dễ bị ám thị hơn người lớn. Cũng đúng như vậy, trong đa số
các thường hợp, những người bị ám thị là những người mệt mỏi, yếu về mặt thể chất hơn
là những người khỏe mạnh. Nhưng điều quan trọng nhất là ở chỗ ám thị có các nhân tố
tâm lý xã hội đặc biệt tác động. Nhiều nghiên cứu cho thấy: điều kiện quyết định tính hiệu
quả của ám thị là uy tín của người ám thị, uy tín sẽ tạo ra nhân tố bổ sung đặc biệt của tác
động - sự tin tưởng vào nguồn thông tin. “Hiệu ứng niềm tin” này được thể hiện trong
quan hệ với nhân cách của người ám thị cũng như trong thái độ đối với nhóm xã hội mà
anh ta đại diện. Uy tín của nhà ám thị cả trong trường hợp này và trong trường hợp khác
thực hiện chức năng được gọi là “luận cứ gián tiếp” một dạng bù trừ sự thiếu hụt các
chứng cứ trực tiếp - là nét đặc trưng của ám thị.
Trong ám thị, kết quả phụ thuộc vào cả tính cách cá nhân của người ám thị. Hiện
tượng phản ám thị minh chứng cho mức độ chống lại ám thị mà cá nhân riêng biệt có
được. Trong thực tế, ám thị xã hội đã nghiên cứu những phương thức, nhờ đó có thể ở một
mức độ nhất định cô lập sự “tự vệ tâm lý” này. Tổ hợp các biện pháp như vậy được gọi là
“chống phản ám thị” (Porsnhiev.1968). Hiện tượng phản ám thị có thể được sử dụng
không chỉ cho việc bảo vệ cá nhân khỏi sự tác động ám thị mà còn cho việc loại bỏ sự tự
vệ này. Ví dụ, nếu với tư cách là một phương tiện phản ám thị - sự không tin tưởng vào
nhà ám thị, thì bằng cách đưa thêm các thông tin bổ sung về người ám thị có thể đạt tới
việc loại bỏ sự không tin tưởng này và tổ hợp các biện pháp đó sẽ là chống phản ám thị.
Một cách lôgic, có đề xuất đáp lại những cố gắng bổ sung đó cá nhân cố gắng tạo ra một
loạt những biện pháp tự vệ mới. Nhưng đến nay các nghiên cứu thực tế chưa vượt qua
được lớp thứ nhất của chống phản ám thị. Trong phương diện nghiên cứu ứng dụng, ám thị
có ý nghĩa lớn đối với các lĩnh vực như tuyên truyền và quảng cáo. Vai trò của ám thị
được đưa vào hệ thống các phương tiện tác động tuyên truyền là khác nhau, phụ thuộc vào
loại tuyên truyền, mục đích và nội dung của tuyên truyền. Dù nét cơ bản của tuyên truyền
là dựa vào lôgic và có ý thức còn phương tiện đang được nói đến chủ yếu là phương tiện
thuyết phục. Tất cả những điều đó không loại bỏ sự có mặt của một số nhân tố của ám thị.
Phương pháp ám thị thể hiện ở đây như là phương pháp dưới dạng chương trình hóa tâm
lý khán giả, tức là liên quan đến các phương pháp tác động điều khiển, điều này đặc biệt rõ
ràng trong lĩnh vực quảng cáo.
4. Cơ chế thỏa hiệp
Thỏa hiệp là sự nhân nhượng của cá nhân trước áp lực nhóm thể hiện ở việc cá nhân
thay đổi cách ứng xử và thái độ của mình cho phù hợp với đa số.
Thỏa hiệp là một cơ chế tạo ra sự thống nhất giữa các cá nhân trong nhóm mặc dù
còn có sự khác biệt nhất định. Nó đảm bảo cho việc xác định mục đích chung hay ra quyết
định chung của nhóm, đồng thời tránh tạo ra sự xung đột trong một khoảng thời gian. Như
vậy, với tư cách là một cơ chế tâm lý xã hội giúp giảm bớt xung đột trong một số tình
huống, thỏa hiệp có vai trò tích cực nhất định khác với hiểu đơn giản thiên về tiêu cực của
hiện tượng này. Trong nhóm xã hội, với các vị trí, lợi ích khác nhau khó có thể có sự
thống nhất hoàn toàn. Cơ chế này có thể coi như một sự “tạm dừng” để có thể tiến tới sự
thống nhất hơn khi được trao đổi, thảo luận.
Có các loại thỏa hiệp như sau: Thỏa hiệp bên ngoài (thỏa hiệp hình thức) là sự tiếp
nhận ý kiến nhóm một cách hình thức; Thỏa hiệp bên trong (thỏa hiệp thực tâm) là sự biến
đổi thực sự thái độ của cá nhân cho phù hợp với đa số và loại thứ ba là lập trường độc lập,
thực chất là dạng phụ thuộc ngược với ý kiến đa số.
Có một loạt các yếu tố ảnh hưởng tới sự thỏa hiệp. Các yếu tố đó thuộc hai nhóm cơ
bản: các yếu tố cá nhân và các yếu tố tâm lý xã hội. Các yếu tố cá nhân như đặc trưng tâm
lý của cá nhân phải chịu áp lực thỏa hiệp, giới tính, lứa tuổi, trí tuệ, trình độ nhận thức.
Các cá nhân có tính độc lập có xu hướng ít thỏa hiệp hơn và ngược lại. Nữ giới có khả
năng thỏa hiệp cao hơn nam giới. Các yếu tố tâm lý xã hội như: quy mô nhóm, trình độ
phát triển của nhóm, tính chất của các mối quan hệ trong nhóm, vị trí của cá nhân, mức độ
phụ thuộc lẫn nhau trong nhóm, hoàn cảnh đặc thù như nội dung cần thỏa hiệp, các nhiệm
vụ chung. Thỏa hiệp cũng được coi là một cơ chế mang màu sắc văn hóa, bởi lẽ trong một
số nền văn hóa, cơ chế thỏa hiệp chi phối một cách phổ biến các quan hệ xã hội, trong nền
văn hóa khác cơ chế này lại ít phát huy tác dụng.
NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
Các quy luật nêu trên chi phối mạnh mẽ sự nảy sinh, hình thành và biến đổi của các
hiện tượng tâm lý xã hội trong đời sống của con người. Hoạt động dạy học và giáo dục
trong các nhà trường về bản chất là hoạt động xã hội. Trong các hoạt động đó, các hiện
tượng tâm lý xã hội nảy sinh. Đến lượt nó, các hiện tượng tâm lý xã hội lại chi phối chính
hoạt động của các chủ thể: giảng viên và sinh viên. Do vậy, việc nắm vững các quy luật cơ
bản nêu trên có thể giúp người giảng viên có được sự chủ động nhất định trong việc tổ
chức hoạt động dạy học, giáo dục và trong việc dự đoán các hiện tượng tâm lý xã hội có
thể xảy ra để có những cách xử lý khoa học. Từ đó tác động đến sinh viên một cách có
hiệu quả. Có thể có các hướng vận dụng như sau:
- Khai thác quy luật bắt chước trong việc hình thành nếp sống, lối sống, thái độ,
hành vi đúng đắn hay phổ biến những kinh nghiệm tích cực trong giáo dục sinh viên bằng
cách xây dựng các hình mẫu, các tấm gương điển hình, những nhóm hạt nhân. Gắn nội
dung cần phổ biến với các nhân vật có uy tín, những người cùng thời... có ảnh hưởng đối
với sinh viên. Các hình mẫu của sự bắt chước phải có tính hấp dẫn đối với sinh viên.
Ngược lại, có thể dự đoán trước các xu hướng bắt chước để ngăn chặn sự phổ biến những
hành vi tiêu cực, bằng cách lôi cuốn sinh viên vào các hành vi tích cực hoặc làm gián đoạn
các kênh tiếp xúc với hình mẫu.
- Khai thác quy luật về sự tác động qua lại một cách triệt để trong việc thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi. Sinh viên luôn tham gia vào các nhóm nhất định. Không phải sự
thuyết giáo mà sự tác động qua lại giữa các cá nhân được định hướng có thể làm thay đổi
mỗi cá nhân một cách tích cực. Tăng cường giao tiếp, trao đổi thông tin, tiếp xúc giữa sinh
viên với nhau, giữa giảng viên với sinh viên để có được sự thấu hiểu lẫn nhau và tạo ra sự
đồng thuận trong việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc chung.
- Khuyến khích việc tìm hiểu các truyền thống, thành tựu của nhà trường. Động viên
sự phát triển một cách sáng tạo của sinh viên trên cơ sở truyền thống, thành tựu của nhà
trường.
- Sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra các trạng thái tâm lý nhóm, tâm lý tập thể tích
cực, ngược lại ngăn chặn các trạng thái tâm lý tiêu cực. Muốn tạo ra sự lây lan cần chú ý
tới “mồi xúc cảm”. Các xúc cảm tích cực như sự lạc quan, phấn khởi, sự hăng hái... cần
được tạo điều kiện để chúng lây lan làm cho hoạt động của nhóm, tập thể có hiệu quả hơn.
Đặc biệt lưu ý đến việc sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra sự thống nhất trong các trạng thái
xúc cảm, hình thành tình cảm “chúng ta”.
- Nhận biết, dự đoán ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lý xã hội trong phạm vi vĩ
mô đến các nhóm sinh viên.
- Trong các hoạt động với sinh viên, muốn sinh viên thực hiện tốt các chức năng,
nhiệm vụ của mình, một mặt khuyến khích sinh viên nhận thức về các vai trò xã hội của
mình: sinh viên - người học, người nghiên cứu, người tiên phong trong các phong trào xã
hội... tạo điều kiện để sinh viên đồng nhất hóa thành công, mặt khác khuyến khích sự bộc
lộ tính sáng tạo, cái riêng của sinh viên trong công việc.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II
1. Vai trò và nội dung của quy luật kế thừa? Phân tích một hiện tượng tâm lý xã hội
để làm rõ sự thể hiện của quy luật kế thừa.
2. Vai trò của quy luật bắt chước trong xã hội? Có thể vận dụng quy luật này như
thế nào trong dạy học, giáo dục?
3. Các cơ chế lây lan, đồng nhất hóa, ám thị được thể hiện như thế nào trong đời
sống xã hội? Hướng vận dụng các cơ chế đó trong dạy học và giáo dục?
Chương 3: NHÓM XÃ HỘI
I. KHÁT NIỆM NHÓM XÃ HỘI VÀ PHÂN LOẠI NHÓM
1. Khái niệm nhóm
Vấn đề các nhóm, trong đó con người liên kết với nhau trong quá trình sống của
mình - vấn đề quan trọng nhất không chỉ của Tâm lý học xã hội mà còn của xã hội học.
Trong các khoa học xã hội: về nguyên tắc có thể có hai cách sử dụng khái niệm “nhóm”.
Cách thứ nhất, trong thống kê thường đề cập đến các nhóm mang tính điều kiện: sự
phân nhóm có chủ định con người theo một dấu hiệu chung nào đó cần thiết cho hệ thống
phân tích cụ thể. Cách hiểu như vậy phổ biến trong thống kê. Khi cần thiết các nhóm
người được phân chia theo tiêu chí nào đó. Ví dụ: nhóm người với một trình độ học vấn
nhất định, nhóm người bị bệnh tim mạch, nhóm người đang cần có nhà ở... Đôi khi với
cách hiểu như vậy thuật ngữ “nhóm” được sử dụng trong cả Tâm lý học. Ví dụ: trong
trường hợp phân tích kết quả của các trắc nghiệm của một nhóm nghiệm thể: nhóm này
cho các chỉ số này, còn nhóm khác cho chỉ số khác...
Cách thứ hai: trong một loạt các khoa học, xã hội nhóm được hiểu như là một thực
thể xã hội tồn tại hiện thực: trong đó con người tập hợp lại, được liên kết lại bằng những
dấu hiệu nhất định như bằng sự đa dạng của các hoạt động cùng nhau hay bằng những điều
kiện đồng nhất nào đó trong những hoàn cảnh sống của họ. Những con người này ý thức
được theo một cách nhất định sự thâu thuộc của mình vào cơ cấu này mặc dù mức độ và
trình độ ý thức có thể rất khác nhau.
Chính trong phạm vi của cách hiệu thứ hai, Tâm lý học xã hội sẽ đề cập tới vấn đề
nhóm. Thực hiện các vai trò xã hội khác nhau, con người là thành viên của nhiều nhóm xã
hội, con người được hình thành dường như trong sự giao cắt của các nhóm đó, như là một
điểm bao hàm trong đó các ảnh hưởng của các nhóm giao cắt nhau. Điều đó có hai hệ quả
quan trọng đối với cá nhân: một mặt, xác định vị trí khách quan của cá nhân trong hệ
thông hoạt động xã hội, mặt khác ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức cá nhân. Cá nhân
được tham gia vào hệ thống các quan điểm, các chuẩn mực của nhiều nhóm. Do vậy một
công việc vô cùng có ý nghĩa là xác định “sự tác động tổng lực” của các ảnh hưởng của
các nhóm khác nhau đến cá nhân sẽ như thế nào, sự tác động đó sẽ quy định nội dung ý
thức của cá nhân ra sao. Nhưng để thực hiện nhiệm vụ này cũng cần phải xem xét nhóm
không chỉ đơn giản là một tập hợp mà như là một đơn vị hiện thực của xã hội, nhóm tham
gia vào bối cảnh rộng lớn hơn của hoạt động xã hội, với tư cách là nhân tố hội nhập cơ bản
và dấu hiệu cơ bản của nhóm xã hội. Sự tham gia chung của các thành viên nhóm trong
hoạt động cùng nhau của nhóm quy định sự hình thành chỉnh thể tâm lý giữa họ và như
vậy trong điều kiện đó nhóm thực sự trở thành hiện tượng tâm lý xã hội, tức là đối tượng
nghiên cứu của Tâm lý học xã hội. Từ đó có thể chỉ ra các dấu hiệu cơ bản của một nhóm
xã hội: có hoạt động chung của nhiều người được quy định bởi các mục đích, nhiệm vụ,
quan hệ (cộng đồng về lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực xã hội., chính kiến...), ý thức của các
thành viên và của nhóm về sự đồng nhất các dấu hiệu duy trì sự tồn tại và phát triển của
nhóm.
Với cách lý giải đó “nhóm” có thể được định nghĩa như là “cộng đồng những cá
nhân tác động qua lại vì mục đích đã được ý thức, cộng đồng như là chủ thể của hành
động” (Sercôvin, 1975. 50).
Hay J.P.Chaplin: “Nhóm là sự tập hợp các cá nhân mà ở đó họ có một số đặc điểm
chung hoặc cùng theo đuổi một số mục đích giống nhau”.
Hoặc “Nhóm là một tập hợp của hai hoặc nhiều người, giữa các thành viên có sự
tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau về hành vi. Nhóm là một đơn vị tồn tại một cách có tổ
chức, các thành viên nhóm có cùng chung những lợi ích và các mục đích” John.C.
Bringham, R. Schlenker.
Như vậy, có nhiều khái niệm về nhóm, nhưng khái niệm sau đây là một khái niệm
tương đối phổ quát cho các nhóm xã hội (bao gồm cả nhóm xã hội có quy mô lớn như dân
tộc, giai cấp và cả các nhóm nhỏ như một nhóm học tập, kinh doanh): Nhóm xã hội là
những cộng đồng người được hình thành trong quá trình phát triển lịch sự xã hội, giữ vị
trí nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội, do đó chúng ổn định trong những thời kì
phát triển lâu dài trong xã hội (dân tộc, nghề nghiệp, lứa tuổi...).
2. Phân loại nhóm
Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có nhiều cố gắng xây dựng một cách phân loại
nhóm, đưa ra các nguyên tắc khác nhau, trên cơ sở đó đã xây dựng các phân loại như: trình
độ phát triển văn hóa, loại cấu trúc, nhiệm vụ và chức năng, kiểu tiếp xúc chủ yếu trong
nhóm... Thường bổ sung thêm các cơ sở như thời gian tồn tại của nhóm, nguyên tắc hình
thành nhóm, các nguyên tắc trở thành thành viên nhóm vào việc phân loại nhóm. Tất cả
các phân loại đó đều có quyền tồn tại.
Tuy nhiên nét chung của chúng là chỉ xác định hình thức hoạt động sống của nhóm.
Nếu thừa nhận nguyên tắc xem xét các nhóm xã hội hiện thực với tư cách là chủ thể của
hoạt động xã hội thì ở đây đòi hỏi phải có nguyên tắc phân loại khác. Sự phân loại xã hội
học về nhóm tương ứng với vị trí của chúng trong hệ thống các quan hệ xã hội cần phải là
cơ sở. Nhưng trước khi đưa ra sự phân loại cần phải đưa vào hệ thống những cách sử dụng
khái niệm nhóm đã được nói đến ở trên. Theo cách phân loại của Anđrêeva có thể có sơ đồ
như sau:
Các nhóm
Nhóm ước lệ Nhóm thực hiện
Nhóm trong phòng thực nghiệm Nhóm tự nhiên
Nhóm lớn Nhóm nhỏ
Nhóm tự phát Nhóm phát triển Nhóm tự phát Nhóm phát triển
Trước tiên đối với Tâm lý học xã hội, việc phân chia nhóm thành nhóm ước lệ và
nhóm hiện thực là có ý nghĩa. Cách phân chia này tập trung việc nghiên cứu vào nhóm
hiện thực. Nhưng trong số những nhóm hiện thực đó, tồn tại cả những nhóm có hình hài
trong nghiên cứu tâm lý học đại cương - nhóm trong phòng thí nghiệm hiện thực. Khác
với chúng là các nhóm tự nhiên hiện thực. Sự phân tích Tâm lý học xã hội có thể có tương
ứng với hình thức này khác của nhóm hiện thực. Tuy nhiên các nhóm tự nhiên hiện thực
được tách ra trong các phân tích xã hội học có ý nghĩa lớn hơn. Đến lượt nó, các nhóm tự
nhiên này lại được chia thành các “nhóm lớn” và “nhóm nhỏ”. Các nhóm nhỏ - trường
sinh sống của Tâm lý học xã hội. Vấn đề liên quan đến việc nghiên cứu nhóm lớn phức tạp
hơn và đòi hỏi được xem xét riêng biệt. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng nhóm lớn
hiện diện trong Tâm lý học xã hội không giống nhau: một số nhóm lớn có được truyền
thống nghiên cứu lâu dài (các nhóm lớn xuất hiện không có tổ chức, tự phát, bản thân
thuật ngữ “nhóm” được dùng chỉ các nhóm này cũng mang tính tương đối), những nhóm
khác - những nhóm tồn tại lâu dài và có tổ chức như giai cấp, dân tộc, ít hiện diện hơn
trong tâm lý học với tư cách đối tượng nghiên cứu.
II. Cấu trúc của nhóm xã hội
1. Cấu trúc chính thức
Khi các cá nhân gia nhập nhóm và nhóm được hình thành, các cá nhân sẽ tương tác qua
lại để cùng thực hiện mục đích và hoạt động cùng nhau của nhóm. Mỗi cá nhân có những
năng lực riêng, có những nhu cầu và kì vọng riêng. Các yếu tố này được thể hiện và ảnh
hưởng đến quá trình tương tác. Nhưng để nhóm có thể tồn tại và thực hiện được hoạt động
của nó thì các cá nhân phải nằm trong những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Mối quan
hệ tương đối ổn định, tương đối bền vững giữa các cá nhân để tạo thành một nhóm toàn
vẹn gọi là cấu trúc nhóm. Về nguyên tắc, các cá nhân có thể khác nhau, có thể thay đổi,
nhưng các liên hệ đó sẽ tương đối ổn định. Một khi cấu trúc nhóm thay đổi nó sẽ làm
nhóm biến đổi về chất và hình thành một loại nhóm khác. Như vậy, các thành phần nằm ở
“đầu mối” của mỗi quan hệ đó gọi là các vị trí. Có thể hình dung: các liên hệ giữa các vị trí
trong nhóm tạo ra một cấu trúc - bộ xương của nhóm, trên cơ sở đó “con người” nhóm có
được hình dạng cụ thể và có những hoạt động cụ thể.
Từ cách hiểu đó, cấu trúc chính thức của nhóm là những mối quan hệ mang tính chất
công việc được quy định trước, phụ thuộc vào chức năng xã hội mà nhóm phải thực hiện,
trong đó các vị trí được quy định một cách rõ ràng. Nhóm chỉ thực hiện tốt chức năng của
nó khi các vị trí đó hoạt động một cách hiệu quả và có sự liên hệ chặt chẽ với các vị trí
khác.
Trong Tâm lý học xã hội, vị trí trong cấu trúc nhóm bao gồm hai thành tố: vị thế và
chức năng của vị trí (cá nhân) trong nhóm. Vị thế có thể coi như quyền tự quyết của cá
nhân khi cá nhân chiếm giữ một vị trí trong các quan hệ trong nhóm từ khi bắt đầu và
trong suốt quá trình duy trì vị trí đó. Như vậy, giữa các cá nhân trong nhóm có mối quan
hệ theo thứ bậc thì vị thế của họ cùng khác nhau. Vị thế của cá nhân chỉ có thể được xác
định trong mối quan hệ với vị thế của cá nhân khác trong toàn bộ cấu trúc nhóm. Trong
thực tế vị thế thường được hiểu là biểu hiện các quyền lực, các quyền lợi, các đặc quyền
gắn với một vị trí.
Thành tố thứ hai của vị trí là chức năng của cá nhân khi chiếm giữ vị trí đó đóng góp
cho hoạt động của nhóm. Các vị trí có thể có các chức năng khác nhau. Cá nhân chiếm giữ
một vị trí cần thực hiện các chức năng tương ứng. Các chức năng đó có thể là chức năng
thực hiện, giám sát hay lên kế hoạch...
Như vậy, cấu trúc chính thức của nhóm được xác định chủ yếu trên cơ sở công việc của
nhóm. Nó đảm bảo cho hoạt động của nhóm trong việc thực hiện các chức năng xã hội của
nhóm.
2. Cấu trúc không chính thức
Trong bất kì nhóm nào cũng tồn tại hai loại quan hệ cơ bản: quan hệ công việc nhằm
thực hiện các chức năng của nhóm và quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên. Quan hệ
liên nhân cách là quan hệ dựa trên xúc cảm giữa các thành viên. Cơ sở của quan hệ này
không phải là vị trí (bao gồm vị thế và chức năng như trình bày ở trên) mà là xúc cảm và
sự gắn bó xúc cảm giữa các cá nhân. Trong mỗi nhóm, một số cá nhân có sự liên hệ chặt
chẽ hơn về mặt xúc cảm so với các cá nhân khác. Đây là hiện tượng mang tính quy luật.
Bên trong bất kì một nhóm nào, sự gắn bó (về mặt xúc cảm) cũng phân bố không đồng
đều. Chính các mối liên hệ về mặt xúc cảm giữa các thành viên trong nhóm tạo ra cấu trúc
không chính thức của nhóm. Từ đó có thể coi cấu trúc không chính thức của nhóm là
những mối quan hệ giữa các thành viên mang tính xúc cảm được quy định bởi các đặc
điểm tâm lý xã hội của các thành viên. Cấu trúc không chính thức góp phần quan trọng
trong việc tạo ra bầu không khí tâm lý của nhóm.
Do tính chất của hai loại quan hệ trong nhóm là khác nhau, nên cấu trúc không chính
thức và cấu trúc chính thức có nhiều điểm khác biệt. Cấu trúc không chính thức không
được quy định từ trước. Sự hình thành của cấu trúc này chủ yếu dựa trên các tiếp xúc xúc
cảm trực tiếp của các thành viên. Nó hình thành một cách tự phát dựa trên sự thân thiện,
thiện cảm hay không thiện cảm giữa các thành viên. Do đó, cấu trúc không chính thức khó
có thể được mô tá một cách rõ ràng với các vị trí trong các mối quan hệ cụ thể giống như ở
cấu trúc chính thức. Đồng thời các cá nhân trong cấu trúc không chính thức không có các
thứ bậc rõ ràng, chức năng của các cá nhân cũng không được quy định rõ. Vị trí tương đối
nổi bật trong cấu trúc không chính thức là thủ lĩnh. Cấu trúc không chính thức có thể
không trùng với cấu trúc chính thức và trong đa số trường hợp là như vậy. Để phát hiện
được cấu trúc này cần sử dụng phương pháp đặc trưng - đó là trắc đạc xã hội.
Tuy vậy, trong thực tế không tồn tại cấu trúc chính thức thuần túy mà nó luôn tồn tại
song hành với cấu trúc không chính thức. Cấu trúc không chính thức xuất hiện một cách tự
phát. Cấu trúc này thường được hình thành dựa trên sự liên kết các thành viên bởi các
hứng thú chung, các liên hệ thân tình hay các mối quan tâm nào đó. Sự tồn tại của các cấu
trúc không chính thức trong lòng cấu trúc chính thức đặc biệt được quan tâm vì nó có tác
động mạnh đến nhóm.
3. Chuẩn mực nhóm
Các chuẩn mực nhóm và sự hình thành các chuẩn mực nhóm là một trong số các hiện
tượng nhóm có được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
- Chuẩn mực nhóm là hệ thống các quy tắc và đòi hỏi của cộng đồng đối với mỗi một
thành viên, đóng vai trò phương tiện quan trọng nhất điều chỉnh hành vi của các thành
viên trong quan hệ và tác động tương hỗ, trong giao tiếp của nhóm. Chuẩn mực nhóm có
vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhóm: Chuẩn mực nhóm là cơ sở để
thống nhất hành vi của các cá nhân trong nhóm và hướng cá nhân tới việc thực hiện các
mục tiêu của nhóm.
- Chuẩn mực nhóm tạo ra sự ràng buộc giữa các thành viên với nhóm.
- Chuẩn mực nhóm đảm bảo cho sự ổn định của trật tự nhóm.
Sự hình thành của chuẩn mực nhóm có thể được coi là sản phẩm của sự tác động xã hội
qua lại giữa các cá nhân trong đời sống nhóm và phản ánh những đòi hỏi từ cộng đồng xã
hội lớn hơn đối với nhóm. Do vậy quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm không phải là
quá trình thuần tuý nội nhóm. Một vấn đề khác cũng cần được lưu ý là nhóm chỉ hình
thành các chuẩn mực liên quan đến các tình huống và hành động có ý nghĩa đối với nhóm
chứ không phải tất cả các chuẩn mực cho mọi tình huống. Các chuẩn mực nhóm đã được
hình thành có thể được chấp nhận và tuân thủ ở các mức độ khác nhau.
Có các hướng nghiên cứu chuẩn mực nhóm khác nhau, mỗi hướng tạo thành các nhánh
trong nghiên cứu chuẩn mực nhóm. Hướng thứ nhất, nghiên cứu việc tiếp nhận những
chuẩn mực đang tồn tại trong nhóm của những cá nhân mới tham gia vào nhóm. Đây
không phải là vấn đề về sự gia nhập của thành viên mới vào nhóm. Trong trường hợp này,
có thể quy về việc nghiên cứu hiện tượng áp lực nhóm đối với cá nhân, sự tuân thủ của cá
nhân trước nhóm. Hướng thứ hai nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm và
các giá trị nhóm trong điều kiện cùng một lúc có nhiều cá nhân tham gia vào nhóm và sự
tiếp nhận đầy đủ hơn sau đó những chuẩn mực, sự chia sẻ mục đích nhóm của toàn bộ các
thành viên.
Hướng thứ nhất nổi bật với các nghiên cứu sự lệ thuộc, thực chất là hiện tượng áp lực
nhóm - trong Tâm lý học xã hội được gọi là hiện tượng lệ thuộc (a dua). Bản thân từ “a
dua” trong ngôn ngữ đời thường đã có một nội dung hoàn toàn xác định: sự hùa theo
người khác. Ở mức độ nhận thức thông thường, hiện tượng a dua đã được xác định từ
trước. Trong ngôn ngữ thường ngày khái niệm này mang sắc thái tiêu cực. Điều này ảnh
hưởng xấu đến việc nghiên cứu, đặc biệt nếu nghiên cứu được tiến hành trong lĩnh vực
ứng dụng. Vấn đề còn ở chỗ khái niệm sự a dua có ý nghĩa đặc biệt xấu trong chính trị như
là biểu tượng của sự thỏa hiệp và dễ đãi. Để phân biệt rõ những ý nghĩa này, trong các tài
liệu Tâm lý học xã hội thường không nói đến sau a dua mà nói tới tính lệ thuộc hay là các
hành vi lệ thuộc (phụ thuộc) với ý nghĩa đơn thuần là đặc trưng tâm lý về vị trí của cá
nhân tương ứng với vị trí của nhóm là mức độ tuân thủ của cá nhân trước các áp lực nhóm.
Trong các công trình nghiên cứu gần đây thường sử dụng thuật ngữ “ảnh hưởng xã hội”.
Tính lệ thuộc xuất hiện khi có sự mâu thuẫn giữa ý kiến của cá nhân và ý kiến của nhóm.
Mâu thuẫn được giải quyết theo hướng vì lợi ích của nhóm. Mức độ lệ thuộc - đó là mức
độ tuân thủ nhóm trong trường hợp khi sự mâu thuẫn ý kiến được cá nhân tiếp nhận như là
một xung đột. Những khái niệm như “đồng thuận”, “tính có điều kiện” có thể là những
khái niệm tương đồng mặc dù trong những khái niệm này có sắc thái khác. Ví dụ, sự đồng
thuận biểu thị việc chấp nhận những chuẩn mực nhất định nhưng sự chấp nhận các chuẩn
mực không phải là do áp lực. Khái niệm ngược với khái niệm lệ thuộc là “độc lập”, “lập
trường kiên định”, “vững vàng trước áp lực nhóm”... Đôi khi khái niệm “tiêu cực” cũng
được sử dụng như một khái niệm đối lập với sự lệ thuộc - sự chống đối lại áp lực nhóm,
phủ nhận các chuẩn mực nhóm thể hiện sự độc lập thái quá. Tuy nhiên tính tiêu cực giống
như một hình thức phủ nhận sự lệ thuộc chỉ là vẻ bề ngoài. Thực tế, tính tiêu cực không
phải là sự độc lập thực sự. Ngược lại có thể cho rằng đó là một trường hợp đặc biệt của sự
lệ thuộc, một dạng “lệ thuộc ngây thơ”: nếu cá nhân đặt ra cho mình mục đích chống đối
lại ý kiến của nhóm bằng mọi cách thì thực tế cá nhân đó lại phụ thuộc vào nhóm. Bởi lẽ
mỗi cá nhân buộc phải xây dựng hành vi chống đối nhóm của mình, phải xác lập một vị trí
đối lập với nhóm hay với các chuẩn mực tức là cá nhân đó bị phụ thuộc vào ý kiến nhóm
chỉ có điều là với các dấu hiệu ngược lại (Có nhiều ví dụ về tính tiêu cực, như cách ứng xử
của thiếu niên). Do vậy lập trường ngược lại với tính lệ thuộc không phải là tiêu cực mà là
độc lập và không phụ thuộc.
Ảnh hưởng xã hội
Thông tin (thiểu số) Cơ sở “quyền lực” Chuẩn mực (đa số)
Sự giảm định luật Khen thưởng- cưỡng chế
Thay đổi trong hành vi cá nhân
Thay đổi (bên trong) Đồng thuận
Sơ đồ các kiểu ảnh hưởng xã hội
Sau này M.Douch và Djepard đưa ra “lý thuyết thông tin về tính lệ thuộc” với 2 loại ảnh
hưởng nhóm: chuẩn mực (khi mà áp lực từ đa số và các thành viên tiếp nhận nó như là
chuẩn mực) và thông tin (khi áp lực tạo ra từ thiểu số và các thành viên tiếp nhận nó như
là thông tin, trên cơ sở đó tự thực hiện sự lựa chọn của mình).
Cơ chế ảnh hưởng trong hai trường hợp này là khác nhau: đa số theo nghĩa đầy đủ tạo ra
“chuẩn mực”, chi phối ý kiến của cá nhân. Trong trường hợp này cá nhân thay đổi hành vi
của mình để thể hiện sự đồng ý, nhưng vẫn giữ ý kiến riêng cho bản thân. Chính điều này
là sự lệ thuộc bên ngoài. Thiểu số chỉ đưa ra cho các cá nhân thông tin và nếu cá nhân tin
tưởng vào thông tin, anh ta sẽ thay đổi ý kiến của mình... tức là dường như diễn ra sự đổi
chiều, chấp nhận bằng một quan điểm khác. Trường hợp này thể hiện sự lệ thuộc bên
trong. Trong nhiều trường hợp khác nhau mức độ ảnh hưởng tương ứng của hai loại này là
khác nhau, nhưng từ góc độ hình thành nhóm, cơ chế ảnh hưởng xã hội thể hiện như là áp
lực của nhóm đối với việc tuân thủ các chuẩn mực của nó.
III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA NHÓM LỚN
1. Những vấn đề chung về nhóm lớn
Việc nghiên cứu của Tâm lý học xã hội về các nhóm lớn gặp phải hàng loạt các khó
khăn. Do vậy, trong truyền thống nghiên cứu tâm lý học nhóm lớn xã hội đã có một số
phận tương đối phức tạp và kì lạ. Một mặt Tâm lý học xã hội bắt đầu chính từ việc nghiên
cứu các nhóm lớn xã hội, nhưng trong nửa đầu thế kỉ thứ XX, Tâm lý học xã hội thực
nghiệm phát triển mạnh mẽ và sự tập trung chính lại là nghiên cứu nhóm nhỏ. Vấn đề
nhóm lớn lại trở thành “đứa con ghẻ” chủ yếu vì có sự suy yếu của mối quan tâm tới các
nghiên cứu lý luận trong Tâm lý học xã hội, cũng như vì tính phức tạp của việc nghiên cứu
các nhóm lớn bằng phương pháp thực nghiệm.
Có thể khẳng định một cách tự tin rằng vấn đề nhóm lớn đang được sinh ra lần thứ hai.
Về bản chất, nếu Tâm lý học xã hội không có phần về tâm lý học nhóm lớn thì nói chung
không thể trở thành Tâm lý học xã hội theo đúng nghĩa của từ này. Theo khẳng định của
G.Điligenxki, việc xem xét tâm lý của nhóm lớn không phải là một trong số các vấn đề
của Tâm lý học xã hội mà là vấn đề quan trọng nhất của nó.
Có hàng loạt các vấn đề liên quan đến nhóm lớn. Trước tiên đó là vấn đề: những nhóm
nào cần được xem là nhóm lớn? Thứ hai, tâm lý của nhóm lớn có cấu trúc như thế nào?
Các yếu tố cơ bản và sự phụ thuộc lẫn nhau, tính chất mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng ra
sao? Thứ ba là vấn đề về mối quan hệ lẫn nhau giữa tâm lý của các cá nhân riêng lẻ tham
gia vào nhóm và các yếu tố tâm lý nhóm. Cuối cùng, thứ tư, những phương pháp nào có
thể sử dụng trong việc nghiên cứu tất cả các hiện tượng đó?
- Vậy “nhóm lớn xã hội” là gì? Xuất phát từ những nguyên tắc chung trong cách hiểu
về nhóm, tất nhiên không thể đưa ra một định nghĩa đơn thuần về số lượng cho khái niệm
này. Theo sơ đồ được nêu ra ở phần trên đã chỉ ra rằng: những tập hợp người lớn về số
lượng được chia ra thành hai loại: loại thứ nhất là các nhóm ngẫu nhiên và tự phát. Đó là
các tập hợp tồn tại trong khoảng thời gian tương đối ngắn như đám đông, thính giả (cử
toạ), công chúng và loại thứ hai là các nhóm xã hội - theo đúng nghĩa của từ này, tức là
những nhóm hình thành trong tiến trình xã hội lịch sử, chiếm một vị trí nhất định trong hệ
thống các quan hệ xã hội của mỗi kiểu xã hội cụ thể và do vậy tồn tại lâu dài và bền vững.
Loại thứ hai này bao gồm các nhóm như giai cấp xã hội, tầng lớp xã hội và các nhóm tộc
người (với hình thức chính là các dân tộc), các nhóm nghề nghiệp, nhóm giới tính, lứa tuổi
(theo quan điểm này với tư cách là nhóm có thể xem xét các nhóm như: nhóm thanh niên,
phụ nữ những người trưởng thành và trung niên...).
- Tâm lý nhóm lớn có cấu trúc như thế nào? Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu
(G.G.Điligenxki, A.I.Goriachieva, Iu.V.Brômlei...) đều phân chia thành hai phần cấu
thành trong nội dung của nó: 1. Nếp tâm lý như là cấu tạo tâm lý ổn định hơn (bao gồm
tính cách xã hội hay tính cách dân tộc, nếp sống, truyền thống, thị hiếu...); 2. Phương diện
xúc cảm như một cấu tạo tương đối biến động hơn (nhu cầu, hứng thú, tâm trạng). Mỗi
yếu tố cần trở thành đối tượng phân tích Tâm lý học xã hội một cách đặc biệt.
- Vấn đề thứ ba - vấn đề mối quan hệ qua lại giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm lớn và
ý thức của mỗi cá nhân tham gia vào nhóm. Trong dạng chung nhất, vấn đề này được giải
quyết như sau: Các đặc trưng tâm lý nhóm là những gì mang tính đặc thù (cho nhóm)
nhưng lại chung cho tất cả các cá nhân và do vậy hoàn toàn không phải là tổng các nét có
ở mỗi cá nhân: Rõ ràng, cái phần tâm lý của các cá nhân tạo ra nhóm, thuộc về nhóm là cái
có thể gọi là “tâm lý nhóm”. Nói cách khác: tâm lý nhóm là cái có chung ở tất cả các đại
diện nhóm ở mức độ này hay mức độ khác, tức là đặc thù cho họ, được sinh ra bởi các
điều kiện tồn tại chung. Cái đặc thù đó không phải là như nhau đối với tất cả các cá nhân
mà chỉ là cái chung. Các nét chung của các đại diện của một nhóm xã hội nào đó tồn tại
một cách khách quan, bởi lẽ chúng thể hiện trong hoạt động hiện thực của nhóm. Theo
mối quan hệ với “ý thức” riêng lẻ, tâm lý nhóm như là một hiện thực xã hội nào đó vượt ra
khỏi phạm vi ý thức của cá nhân riêng lẻ và tác động đến cá nhân cùng với các điều kiện
khách quan của cuộc sống, theo cách nói của Valông, dẫn tới “sự nhân đôi môi trường”
trong đó con người hoạt động.
Bằng các phương pháp nào có thể nghiên cứu tâm lý nhóm lớn xã hội? Trong chừng
mực các nét điển hình được củng cố trong đạo đức, truyền thống và nếp sống, Tâm lý học
xã hội - trong trường hợp này - cần sử dụng các phương pháp của các khoa học khác, như
Dân tộc học để phân tích các sản phẩm văn hóa. W.Wundt đề xuất về việc nghiên cứu
ngôn ngữ, huyền thoại và nếp sống để tìm hiểu tâm lý dân tộc. Một trong các hình thức
hiện đại trong việc sử dụng các phương pháp đó là các nghiên cứu so sánh hay liên văn
hóa. Ở đây thuật ngữ “liên văn hóa” được sử dụng mang tính truyền thống khi nói đến các
nguồn gốc văn hóa khác nhau. Trong thực tế thì không nhất thiết chỉ so sánh các văn hóa
khác nhau mà còn so sánh các nhóm xã hội khác nhau.
Trong việc nghiên cứu tâm lý nhóm lớn còn có thể áp dụng cả các phương pháp truyền
thống của xã hội học bao gồm cả các phương pháp phân tích thống kê khác nhau. Các kết
quả nghiên cứu được thực hiện nhờ sự trợ giúp của các phương pháp đó không phải luôn
phát hiện ra được các liên hệ nhân quả; trong đó trước tiên mô tả một số những liên hệ phụ
thuộc chức năng nào đó cho phép có được các tương quan có ý nghĩa, điều chấp nhận
được đổi với nghiên cứu tương quan, phổ biến trong việc nghiên cứu đặc trưng tâm lý của
nhóm lớn. Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, trong khi nghiên cứu nhóm lớn,
Tâm lý học xã hội sử dụng cả các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học.
Lý thuyết “Biểu tượng xã hội” được đưa ra trong trường phái Tâm lý học Pháp
(X.Moscovisi) đã có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Tâm lý học xã hội nhóm lớn.
Lý thuyết này ở một mức độ có ý nghĩa đồng thời đề ra phương pháp nghiên cứu nhóm
lớn. Biểu tượng xã hội trong lý thuyết này được hiểu là các biểu tượng đời thường của một
nhóm nào đó về hiện tượng xã hội này hay hiện tượng xã hội khác, tức là phương thức lý
giải và thấu hiểu hiện thực đời sống. Nhờ sự trợ giúp của các biểu tượng xã hội, mỗi nhóm
xây dựng hình ảnh thế giới xã hội, các thiết chế của nó, chính quyền, luật pháp, chuẩn
mực. Các biểu tượng xã hội - công cụ không phải của cá nhân mà của chính nhận thức xã
hội của nhóm. Bởi lẽ “biểu tượng” được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm, hoạt động của
nhóm, hướng tới cách lý giải đời thường được nhấn mạnh trong kinh nghiệm này. Về bản
chất, thông qua sự phân tích các biểu tượng xã hội của các nhóm lớn, bộ mặt tâm lý của
chúng được nhận thức. (Đônxôp, Emelianôva, 1987).
Các biểu tượng xã hội được nhóm tạo ra thể hiện dưới dạng: một mặt nhóm định hình
một số khía cạnh của hiện thực xã hội, tạo ra ảnh hưởng trong việc đánh giá các khía cạnh
đó, sau đó sử dụng biểu tượng của mình về hiện tượng xã hội trong việc xác định thái độ
đối với chúng. Mặt khác, biểu tượng xã hội nhóm được đặt ra tạo khả năng hoà nhập
nhóm, dường như thực hiện chức năng “giáo dục” nhận thức cho các thành viên, mang đến
cho họ những cách lý giải đặc thù, quen thuộc (đối với nhóm) về các sự kiện, tức là tạo
khả năng hình thành sự đồng nhất nhóm (Anđrêeva, 2000). Như vậy phân tích các biểu
tượng xã hội là chìa khóa cho việc hiểu tâm lý nhóm. Lý thuyết này giúp xác định khái
niệm “khuôn mẫu xã hội” của nhóm lớn xã hội chính xác hơn. Trong đó phản ánh “góc
nhìn” và “cách hiểu” thế giới của các thành viên của một nhóm, phản ánh câu trả lời đặc
thù của họ đối với bức tranh thế giới. Các thành viên của một nền văn hóa nhất định lĩnh
hội các phương thức tri giác giống nhau hình thành các hình ảnh giống nhau thể hiện trong
các hình mẫu ứng xử đặc thù. Tập hợp các biểu tượng xã hội độc đáo của nhóm và tương
ứng với nó là các hình mẫu hành vi nhất định xác định khuôn mẫu của nhóm. Không phải
ngẫu nhiên trong ngôn ngữ đời thường nhắc tới “hình mẫu trí thức”, “hình mẫu doanh
nhân”...
2. Đặc điểm Tâm lý dân tộc
Các nhóm tộc người là ví dụ về nhóm lớn xã hội có ý nghĩa trong quá trình xã hội lịch
sử. Khác với tâm lý học giai cấp, các đặc điểm của các nhóm tộc người, trước hết là dân
tộc được nghiên cứu nhiều hơn. Một nhánh đặc biệt của khoa học giao thoa giữa Tâm lý
học xã hội và Dân tộc học - Tâm lý học tộc người, nghiên cứu riêng biệt những vấn đề nêu
trên (Xtêphanhencô, 1999).
Truyền thống nghiên cứu Tâm lý học nhóm tộc người trong Tâm lý học xã hội bắt đầu
từ các công trình của W.Wundt trong “Tâm lý học dân tộc”. Sự thâu thuộc về tộc người
của cá nhân là nhân tố đặc biệt có ý nghĩa đối với Tâm lý xã hội học. Bởi lẽ nó xác định
những đặc trưng nhất định của môi trường vi mô. Trong các điều kiện của môi trường đó,
nhân cách được hình thành. Đặc trưng tộc người ở một mức độ nhất định tập trung trong
kinh nghiệm lịch sử của mỗi tộc người và việc lĩnh hội các kinh nghiệm này là nội dung
quan trọng nhất của quá trình xã hội hóa. Thông qua môi trường xung quanh gần gũi nhất
trước tiên là gia đình, nhà trường, cá nhân theo từng mức độ phát triển tiếp cận với đặc
trưng văn hóa tộc người, tập quán truyền thống, phương thức, ý thức về sự thâu thuộc vào
tộc người phụ thuộc vào các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của sự tồn tại của tộc người đó.
Tương ứng với truyền thống được hình thành trong Tâm lý học xã hội nhóm lớn, trong
tâm lý học cộng đồng tộc người phân biệt hai mặt: 1. Tính cách dân tộc - phần ổn định hơn
cả - nếp tâm lý (bao gồm, tính cách khí chất và cả truyền thống, tập quán) của một tộc
người hoặc cả một dân tộc; 2. Phương diện xúc cảm (bao gồm tình cảm dân tộc, tộc
người).
- Tính cách dân tộc: Đây là khái niệm phổ biến hơn cả để mô tả các đặc điểm của nếp
tâm lý tộc người (dân tộc). Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn vả nhiều tranh luận liên quan đến
nội dung của tính cách dân tộc nhưng trong các nghiên cứu cụ thể vẫn có sự đồng thuận
tương đối lớn khi mô tả các nét tính cách dân tộc ở nhiều nhóm dân tộc riêng lẻ (tính dũng
cảm, yêu lao động, khả năng kiềm chế...). Liên quan đến bản chất của tính cách dân tộc thì
ở đây xuất hiện nhiều vấn đề gây tranh cãi. Trước tiên là nét tính cách dân tộc có quan hệ
như thế nào với các nét tính cách của mỗi đại diện của nó. Liệu các nét tính cách có phải
hoàn toàn chỉ có ở một dân tộc mà hoàn toàn không có ở các nhóm khác (tức là liệu có thể
nói rằng một dân tộc nào đó yêu lao động, còn dân tộc khác - cởi mở). Cuối cùng các nét
tính cách dân tộc và tính cách xã hội tác động qua lại như thế nào? Do vậy không chỉ đơn
giản nói về tập hợp các nét tính cách mà chủ yếu là về mức độ biểu hiện của nét này hay
nét khác trong tập hợp đó, về đặc trưng trong cách biểu hiện của nó: Không phải ngẫu
nhiên các tài liệu tập trung vào việc xác định một số đặc trưng nào đó. Ví dụ, đặc trưng
của người Anh là hài hước, mặc dù sự hài hước không chỉ có ở người Anh. Giải thích sự
hình thành tính cách tộc người cũng là công việc được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Các nhà nghiên cứu đã đi theo nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề này. Từ
cách tiếp cận dựa trên các điều kiện tự nhiên, khí hậu đến tiếp cận dựa trên sự giao thoa và
khuyếch tán văn hóa; từ tiếp cận dựa trên các đặc điểm sinh học thể chất, đến tiếp cận hoạt
động sống của tộc người. Tuy vậy, câu hỏi này vẫn cần những nghiên cứu tiếp theo.
Trong nghiên cứu tính cách dân tộc, ngoài việc tìm hiểu tập quán và truyền thống, việc
phân tích ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, việc truyền lại các nét tính
cách dân tộc được thực hiện trong quá trình xã hội hóa, trước tiên là trực tiếp qua ngôn
ngữ. Tính ổn định tương đối của các nét tính cách dân tộc, dù có sự thay đổi của môi
trường được giải thích bằng sự xuất hiện của sức ỳ nào đó, được đảm bảo bằng con đường
chuyển giao kinh nghiệm giữa các thế hệ.
- Phương diện xúc cảm của tộc người bao gồm sự đồng nhất tộc người và ý thức tự giác
tộc người. Các đặc trưng này liên quan đến ý thức của con người về sự thâu thuộc của bản
thân vào một nhóm tộc người nhất định và sự trải nghiệm xúc cảm về việc đó, tức là tiếp
nhận và trải nghiệm sự khác biệt văn hóa của nhóm mình với nhóm khác. Cùng với quá
trình đó là sự xuất hiện của các khuôn mẫu tộc người.
Tính cộng đồng tâm lý có ở mọi nhóm tộc người được thể hiện trong sự hình thành tình
cảm “chúng ta” nào đó. Đối với nhóm tộc người “tình cảm chúng ta” xác định ý thức về
các đặc điểm của tộc người mình khác biệt với tộc người khác. Hình ảnh của các nhóm
khác, trong đó thường bị làm tầm thường hóa, được hình thành dưới ảnh hưởng của các
quan hệ liên nhóm, các quan hệ tạo ra tâm thế đặc biệt cho các đại diện của nhóm khác.
Trong đó kinh nghiệm giao tiếp với nhóm tộc người khác có vai trò nhất định. Nếu các
quan hệ này trong quá khứ mang tính thù địch thì màu sắc đó được di chuyển sang mỗi đại
diện được gặp lại của nhóm đó và bằng cách đó hình thành tâm thế tiêu cực. Thường
xuyên hơn cả, khuôn mẫu tộc người xuất hiện vì sự hạn chế của giao tiếp liên nhóm: các
nét có ở những đại diện cá biệt của nhóm tộc người (khác) lần lượt được phổ biến ra toàn
bộ nhóm (Stêphanhencô, 1999).
Khuôn mẫu được hình thành bằng cách đó sau này ảnh hưởng tới sự xuất hiện của thái
độ thiện cảm hay không thiện cảm của tộc người. Bản thân sự ý thức về các đặc điểm của
tộc người không chứa đựng định kiến trước chống lại tộc người khác. Nhưng vấn đề vẫn
xảy ra cho tới khi sự tương phản của các khác biệt được nhận thức vẫn còn tiếp diễn. Tuy
nhiên rất dễ chuyển từ sự tương phản sang việc đánh giá nhóm tộc người khác, sang sự
thân thiện hay không thiện cảm và khi đó có thể xảy ra sự hạ thấp hình ảnh của nhóm
khác. Trong các khuôn mẫu tộc người luôn luôn có sự va chạm mạnh mẽ của những kiểu
ảnh hưởng từ ngoài tộc người, trước hết là xã hội, lịch sử, chính trị, cũng như những ảnh
hưởng được quy định bởi nội dung văn hóa... Cơ chế tiếp theo của việc biến khuôn mẫu
tộc người thành định kiến và sau đó là sự củng cố định kiến trong các học thuyết chinh trị,
tư tưởng - vấn đề không phải của Tâm lý học xã hội. Khuôn mẫu tộc người luôn được hình
thành trong một vài bối cảnh xã hội nào đó và khi đó chúng có được một hình thức bền
vững - định kiến, tức là một cấu tạo có màu sắc xúc cảm tiêu cực mang tính quy chuẩn,
chúng dễ dàng được sử dụng như là vũ khí của sự thù hằn dân tộc. Cũng từ đó xuất hiện về
phương diện tâm lý học hiện tượng trung tâm tộc người (hay trung tâm luận tộc người, hay
tự kì tộc người) - đề cao nhóm tộc người mình, mong muốn tiếp nhận mọi hiện tượng cuộc
sống từ lập trường của nó, xác định một cách thống nhất các nét tính cách của tộc người.
Tính tương đối của các khác biệt tâm lý giữa các nhóm là đặc trưng quan trọng của
TLH nhóm tộc người (Kon, 1970). Những khác biệt này không thể tuyệt đối hóa và cần
được xem như là cái phải sinh từ những điều kiện lịch sử nhất định, được củng cố trong
chiều dài của hàng loạt các thế hệ (“sự chuyển giao văn hóa”). Dù cho có tính ổn định
tương đối, các nét này có thể thay đổi theo lịch sử. Tâm lý học tộc người đã tích luỹ được
một số lượng tương đối lớn những tư liệu thú vị liên quan đến những đặc điểm nếp tâm lý
và hành vi của con người, bị quy định bởi sự thâu thuộc của họ vào một tộc người. Do vậy
nhiệm vụ đặt ra cho Tâm lý học xã hội và Tâm lý học xã hội tộc người ngày nay tương đối
phức tạp. Tính nóng bỏng chính trị của vấn đề trong thế giới hiện đại buộc phải giải quyết
các vấn đề này với sự chính xác đặc biệt. Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc, đặc trưng cho
các chương trình chính trị của các quốc gia dân chủ không biểu thị sự thừa nhận tính giống
nhau giữa các dân tộc. Từ đó chỉ ra các đặc điểm dân tộc, trong đó có sự khác biệt trong
tâm lý dân tộc vẫn còn là một nhiệm vụ cấp thiết.
3. Đặc điểm Tâm lý giai cấp
Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự quan tâm đặc biệt.
Trong nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey và E.Aronson chủ biên đã chỉ ra
rằng bản thân thuật ngữ giai cấp có nội dung khác nhau đối với các nhà nghiên cứu châu
âu và Mỹ. Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây, khái niệm “giai cấp” hiện thực hơn
bởi lẽ sự đồng nhất với giai cấp rõ ràng hơn, tương đối thường xuyên gắn với việc xác
định sự thâu thuộc về chính trị. Đối với văn hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm
“giai cấp công nhân”, “giai cấp tư bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen hơn với khái
niệm “giai cấp trung lưu”, “giai cấp bần cùng”... Điều đó liên quan tới việc trong các lý
thuyết xã hội học cấu trúc xã hội được mô tả nhờ sự trợ giúp của các khái niệm như “các
thiết chế kinh tế - xã hội” chứ không phải “giai cấp xã hội”. Một cách tự nhiên, điều đó
không thể không ảnh hưởng tới những sự khác biệt trong cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã
hội về giai cấp. Nói riêng, trong một mức độ lớn, thay vì phân tích tâm lý học về giai cấp,
người ta đề nghị phân tích tâm lý học các tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy vậy trong mọi
tình huống cần lưu ý rằng bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ làm rõ liên hệ giữa các
đặc trưng tâm lý của nhóm và hình mẫu hành vi của các thành viên nhóm.
Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội học Nga) về
giai cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai cấp: Đó là chỉ ra các đặc
điểm đặc thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong lịch sử và đang tồn tại; chỉ ra đặc
trưng của các giai cấp khác nhau trong các thời đại nhất định; phân tích mối quan hệ giữa
tâm lý giai cấp và tâm lý các thành viên riêng lẻ của giai cấp như là những trường hợp
riêng của vấn đề mối quan hệ giữa tâm lý học nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền
thống này việc sử dụng thuật ngữ “tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không loại trừ sự
phân tích tâm lý học các tầng lớp riêng lẻ tham gia vào giai cấp này hay giai cấp khác.
Phương diện động thái xúc cảm của tâm lý học giai cấp được nghiên cứu đầy đủ hơn
cả, bao gồm các nhu cầu giai cấp, các lợi ích giai cấp, tập hợp các vai trò xã hội. Trong
chừng mực vị trí xã hội nhất định, khối lượng và thành phần của các quyền lợi tinh thần và
vật chất mà mỗi thành viên nhóm được phân bố chừng đó. Nó tạo ra cấu trúc nhất định của
các nhu cầu, ý nghĩa tâm lý và trọng lượng của mỗi nhân tố. Bên cạnh đó vẫn còn một loạt
các vấn đề đòi hỏi sự phân tích Tâm lý học xã hội. Lợi ích được hình thành như là lợi ích
của toàn nhóm, nhưng mỗi thành viên của giai cấp không chỉ tham gia vào nhóm đó mà họ
còn là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác: Thứ nhất, ngay trong bản thân mỗi giai cấp
có nhiều tiểu nhóm được phân biệt bằng trình độ nghề nghiệp của nó theo các phương diện
công việc… Thứ hai, mỗi thành viên của một giai cấp có thể đồng thời là thành viên của
một nhóm nào đó trong phương diện học vấn (ví dụ trong trường đại học, trường phổ
thông), nơi thành viên đó tác động qua lại trực tiếp với những thành viên của các giai cấp
khác. Xuất hiện sự đan xen các lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích trong số đó được xác định
bởi sự thâu thuộc vào một nhóm có giá trị xã hội. Trong hệ thống các lợi ích của cá nhân
có những lợi ích bền vững hơn và ngược lại trong một số những tình huống nào đó, các lợi
ích ít sâu sắc hơn bắt đầu đóng vai trò nổi bật - có ý nghĩa mang tính nguyên tắc.
Các yếu tố tham gia vào phần biến động của tâm lý học giai cấp như tập hợp các vai trò
xã hội và định hướng xã hội tương ứng của cá nhân... cũng như tính chưa rõ ràng của các
khái niệm này trong khi áp dụng vào việc phân tích tâm lý học nhóm lớn trên thực tế chưa
được nghiên cứu. Điều này cũng đúng với một hiện tượng được gọi là “tình cảm xã hội”.
Khái niệm tình cảm xã hội không phải được thừa nhận chung trong các tài liệu. Ở một
mức độ nhất định, nhiều vấn đề về tình cảm xã hội còn tranh luận. Do vậy có thể sử dụng
nó như một định nghĩa mô tả trạng thái nào đó trong phương diện xúc cảm của nhóm (Ví
dụ: “căm thù giai cấp”, xúc cảm xuất hiện trong mối liên hệ với mọi sự đồng nhất xã hội
liên quan tới sự bất bình đẳng). Do vậy tính không xác định của thuật ngữ không làm giảm
ý nghĩa của bản thân vấn đề. Nó chỉ chứng tỏ rằng trong Tâm lý học xã hội chưa có truyền
thống nghiên cứu lĩnh vực này với sự trợ giúp của một bộ máy khái niệm khoa học. Tâm
lý học xã hội buộc phải kết hợp hệ thống các thuật ngữ từ các khoa học khác như văn học
nhân văn, triết học và lịch sử.
Khi đề cập tới việc xác định các thành phần ổn định hơn trong tâm lý học giai cấp thì
có thể thấy vấn đề này ít được nghiên cứu hơn ở một mức độ đáng kể. Liên quan tới giai
cấp, nếp tâm lý thường được mô tả như là một diện mạo tâm lý thể hiện trong một phương
thức đặc biệt của hành vi và hoạt động, trên cơ sở đó có thể tái thiết kế các chuẩn mực
điều chỉnh nhóm xã hội. Diện mạo đó thể hiện trong tính cách xã hội, những định nghĩa
mang tính thao tác của cả khái niệm này cũng còn chưa được làm rõ trong các tài liệu
riêng của Tâm lý học xã hội.
Thuật ngữ “tính cách xã hội” thực tế được đưa ra trong các công trình của trào lưu
Phân tâm học mới, trong đó có các công trình của E.Fromm. Theo ông, tính cách xã hội -
đó là mắt xích kết nối giữa tâm lý cá nhân và cấu trúc xã hội. Nhưng các loại tính cách xã
hội ở Fromm không gắn với một giai cấp xã hội nhất định mà tương ứng với các kiểu khác
nhau của sự tự tách biệt của con người trong các thời đại lịch sử khác nhau. Ông nêu ra
các kiểu như sau: con người thời đại tiền tư bản (loại “tích luỹ”), những năm 20 của thế kỉ
XX (“loại thị trường” gắn liền với xã hội “xa lánh hoàn toàn”). Do vậy tính cách xã hội
thường xuyên hơn cả được xác định bằng cách mô tả những cái được thể hiện trong hình
mẫu hành vi ứng xử ổn định đặc thù của các thành viên của các giai cấp khác nhau trong
các tình huống trong hoạt động sống của họ và giúp phân biệt giai cấp này với giai cấp
khác. Trong việc đưa ra các tính cách xã hội, các mô tả được chứa đựng trong lịch sử văn
hóa, lịch sử quốc gia, trong các tài liệu văn học có thể được sử dụng (có thể nói đến các tác
phẩm của Banzắc, Gorki). Văn học thực chất đã tiến hành công việc của tâm lý học trong
việc thực hiện cái được gọi là chuyên khảo. Dù cho sản phẩm của nghiên cứu loại này
không tồn tại dưới dạng các lý thuyết khoa học, không dưới dạng các khái niệm khoa học,
mà dưới dạng các hình ảnh nghệ thuật, tức là dưới dạng các tài liệu văn học phản ánh hiện
thực vẫn không làm mất đi giá trị của các nghiên cứu đó. Ngoài tính cách xã hội, khuôn
mẫu xã hội được tìm thấy trong các thói quen và tập quán, cũng như truyền thống giai cấp.
Tất cả các cấu tạo này đóng vai trò người điều chỉnh hành vi và hoạt động của các thành
viên trong nhóm xã hội, do vậy có ý nghĩa lớn đối với việc hiểu tâm lý học nhóm. Chúng
đưa ra đặc trưng quan trọng nhất của dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối
sống của nó. Khía cạnh Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao
cho trong phạm vi vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được hình mẫu
hành vi nổi trội của đa số quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong các tình huống độc
đáo trong đời sống hàng ngày. Thói quen và tập quán được hình thành dưới ảnh hưởng của
các điều kiện sống nhất định nhưng sau đó được củng cố và đóng vai trò cái điều chỉnh
hành vi. Phân tích thói quen và tập quán chính là vấn đề riêng của Tâm lý học xã hội. Các
phương pháp nghiên cứu vấn đề này gần với các phương pháp nghiên cứu tâm lý học
truyền thống, trong một chừng mực nhất định ở đây có thể sử dụng phương pháp quan sát.
Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó Tâm lý học xã hội
còn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của các tầng lớp xã hội khác
nhau và các phương thức mà nhờ chúng, tâm lý nhóm được “xây dựng”, đảm bảo cho “sự
lãnh hội” hiện thực xã hội của mỗi cá nhân. Ở đây điều quan trọng là phải hiểu bằng cách
nào quần chúng với số lượng tương đối lớn - với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ - trong
những tình huống có ý nghĩa nào đó của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các biểu
tượng như thị hiếu, hay thậm chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện thực. Các tình huống
này là các tình huống trong điều kiện sống đặc biệt, được quy định trước hết bởi sự thâu
thuộc vào một nhóm lớn xã hội cụ thể, do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ qua sự kiện
này khi xây dựng các mô hình giải thích hành vi và hoạt động của con người.
IV. KHÁT NIỆM CHUNG VỀ NHÓM NHỎ
1. Khái niệm nhóm nhỏ
Trong suốt một thế kỉ nghiên cứu nhóm nhỏ, các nhà Tâm lý học xã hội đã đưa ra
rất nhiều những định nghĩa khác nhau về nhóm nhỏ. Mỗi định nghĩa được dưa ra dựa trên
góc độ riêng, quan niệm riêng của mỗi tác giả về nhóm. Các định nghĩa nói chung hoặc chỉ
xem xét một khía cạnh nào đó, hoặc chỉ nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của nhóm
được cho là bản chất.
Các định nghĩa nhóm nhỏ có thể xuất phát từ các góc độ sau:
- Từ góc độ tri giác của thành viên nhóm với các thành viên khác hay với cả nhóm
nói chung.
- Từ góc độ động cơ của các thành viên nhóm.
- Từ góc độ mục đích nhóm.
- Từ góc độ các đặc trưng cấu trúc nhóm.
- Từ góc độ sự phụ thuộc lẫn nhau.
- Từ góc độ tác động qua lại giữa các thành viên nhóm.
Từ góc độ tri giác lẫn nhau giữa các thành viên, M.Smith đưa ra khái niệm nhóm
nhỏ “Nhóm xã hội là một đơn vị bao gồm nhiều cá nhân có sự tri giác tập thể về tính thống
nhất của nó, có khả năng hành động với cách hành động thống nhất đối với môi trường”
Theo quan niệm này, đặc trưng cơ bản của nhóm nhỏ xã hội là sự tri giác thống nhất về sự
tồn tại của nhóm, từ đó có được hành động thống nhất. Thực tế cho thấy các thành viên
trong nhóm ở một mức độ nhất định tri giác sự tồn tại của nhóm và sự thâu thuộc của bản
thân vào nhóm, nhưng tri giác đó chỉ có được như là kết quả của một nhóm đã hình thành.
Một số tác giả khác lại dựa trên động cơ thúc đẩy các cá nhân tham gia vào nhóm để định
nghĩa nhóm. Họ cho rằng cá nhân tham gia vào nhóm vì tin rằng nhu cầu của bản thân sẽ
được thỏa mãn nhờ nhóm. Chẳng hạn, theo R.Cattell: “Nhóm là một tập hợp các cá nhân,
trong đó sự có mặt của tất cả các thành viên cần thiết để thỏa mãn nhu cầu riêng nào đó
của cá nhân”. Theo quan niệm này, trước khi tham gia vào nhóm, cá nhân phải tự xác định
nhu cầu nào cần được thỏa mãn và phương thức thỏa mãn nó. Vấn đề đặt ra là cùng một
nhu cầu có thể được thỏa mãn ở nhiều nhóm khác nhau. Vậy điều gì làm cá nhân lựa chọn
nhóm này hay nhóm khác? Thực sự khi tham gia vào nhóm cá nhân có thể và cần tính đến
việc các nhu cầu của mình là gì và nó có thể thỏa mãn nhờ nhóm hay không. Đây cũng
chính là điểm mà nhóm có thể lôi cuốn và hấp dẫn cá nhân. Nhưng xét trong các điều kiện
thực tế xã hội, việc cá nhân lựa chọn nhóm không phải chỉ đơn thuần dựa trên động cơ đó.
Bản thân M.Shaw - người đã tiến hành phân tích các khái niệm nhóm nhỏ khác nhau
- coi nhóm nhỏ là: “Hai hoặc nhiều cá nhân tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân ảnh
hưởng và chịu ảnh hưởng của cá nhân khác”. Với khái niệm này M.Shaw cũng chưa thoát
khỏi việc định nghĩa theo một trong các cách nói trên.
Tuy vậy ông đã lưu ý rằng sự tương tác qua lại là dấu hiệu bản chất của nhóm nhỏ,
dấu hiệu này làm nhóm nhỏ khác biệt với các đám đông đơn thuần, nhưng bên cạnh đó
cũng cần tính tới các dấu hiệu rất quan trọng của nhóm nhỏ như: thời gian tồn tại lâu dài,
có mục đích chung hoặc các mục đích chung sự phát triển cấu trúc nhóm dù ở mức độ đơn
giản (bao gồm các thuộc tính nhóm như sự ý thức của các thành viên về cái “chúng ta” hay
ý thức về sự thâu thuộc của cá nhân vào một nhóm).
Xuất phát từ quan điểm khác, các nhà tâm lý học xã hội như G.M.Andrêeva,
A.V.Pêtrôvxki, P.L.Krichievxki, E.M.Dubrôvxkai dựa trên nguyên tắc hoạt động để
nghiên cứu các vấn đề của Tâm lý học xã hội nói chung và nhóm nhỏ nói riêng. Pêtrôvxki
cho rằng: “Nhóm xã hội là một tập hợp các cá nhân được liên kết trên cơ sở một số các
dấu hiệu chung liên quan đến hoạt động cùng nhau của họ, trong đó có giao tiếp”. Khái
niệm này nhấn mạnh đến hoạt động cùng nhau của nhóm, nhưng chưa làm nổi bật và
khẳng định vị trí của nhóm trong các quan hệ xã hội.
Trong hàng loạt các khái niệm của Tâm lý học xã hội về nhóm nhỏ, khái niệm của
G.M.Anđrêeva về nhóm nhỏ được coi là phổ biến. Nó thể hiện rõ nhất tư tưởng và phương
pháp luận của Tâm lý học xã hội theo nguyên tắc hoạt động: “Nhóm nhỏ là nhóm trong đó
các quan hệ xã hội thể hiện dưới hình thức các tiếp xúc cá nhân trực tiếp”. Theo đó nhóm
nhỏ là một nhóm tồn tại hiện thực không phải trong chân không mà trong một hệ thống
các quan hệ xã hội. Nhóm nhỏ là chủ thể của một hoạt động xã hội nhất định, thực hiện
một chức năng xã hội nhất định. Mỗi nhóm nhỏ là một đơn vị của cấu trúc xã hội rộng lớn.
Hoạt động xã hội chung của nhóm quy định các đặc trưng của nhóm. Nhóm nhỏ xã hội bất
kì là một hệ thống vi mô trọn vẹn trong các mối quan hệ xã hội. Do vậy các mối quan hệ
phải được phản ánh và cụ thể hóa trong nhóm. Như vậy nhóm nhỏ được xem là một nhóm
xã hội. Cách quan niệm này nhấn mạnh vào bản chất xã hội của nhóm chứ không phải đơn
thuần là một tập hợp các cá nhân thực hiện các mục đích riêng nào đó. Trong hệ thống các
quan hệ xã hội, mọi nhóm nhỏ đều là đơn vị nhỏ nhất không phân chia được của hệ thống.
Đây cũng chính là những nhóm nhỏ xã hội mà xã hội hiện đại đang đặt ra yêu cầu nghiên
cứu: các nhóm kinh doanh, các nhóm lao động, nhóm nghiên cứu khoa học...
Một quan điểm, khác rất đáng lưu ý là quan điểm của A.I.Đônxôv. Ông cho rằng
nhóm nhỏ là tổ hợp hữu hạn các cá nhân tác động qua lại một cách trực tiếp với các dấu
hiệu:
1. Tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối dài và thường xuyên tiếp xúc trực
tiếp với nhau, không có trung gian, trong khoảng cách ngắn nhất.
2. Có các mục đích chung mà việc thực hiện chúng cho phép thỏa mãn những nhu
cầu cá nhân và các quyền lợi bền vững.
3. Tham gia vào hệ thống chung phân bổ các chức năng và vai trò trong hoạt động
sống cùng nhau...
4. Chia sẻ các các chuẩn mực và các quy định đối với các hành vi nội nhóm và liên
nhóm.
Điều quan trọng trong cách hiểu về nhóm xã hội ở đây là sự gắn kết các cá nhân
trong nhóm bằng các giá trị, các mục đích chung. Theo A.I.Đônxôv một nhóm thực sự là
một tổ hợp tương đối bền vững các cá nhân có liên hệ mang tính lịch sử bởi các giá trị
chung, các mục đích, các phương tiện của đời sống xã hội. Một nhóm thực sự sẽ phải có
các giá trị, các mục đích chung.
Từ những dấu hiệu nêu trên, có thể đi đến một khái niệm nhóm nhỏ như sau: Nhóm
nhỏ là một cộng đồng với số lượng ít thành viên, giữa các thành viên có mối quan hệ liên
nhân cách trực tiếp, có sự tương tác chặt chẽ, cùng hoạt động theo các giá trị chung và
những mục đích chung.
Khái niệm này nhấn mạnh quan điểm của Tâm lý học hoạt động, coi nhóm nhỏ là
một đơn vị xã hội. Do vậy nó được hình thành do yêu cầu xã hội, thực hiện những chức
năng xã hội nhất định và là một mắt xích trong hệ thống các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó,
khái niệm đã đề cập tới các thành tố khác nhau tạo nên một nhóm chỉnh thể: các quan hệ
tác động qua lại trực tiếp, sự thống nhất giá trị và thống nhất mục đích nhóm. Khái niệm
cũng đề cập tới hoạt động cùng nhau của các thành viên nhóm, bằng hoạt động và thông
qua hoạt động nhóm mới trở thành một chỉnh thể tâm lý.
2. Quy mô nhóm
Quy mô nhóm là một khía cạnh gắn liền với định nghĩa nhóm nhỏ, bởi lẽ tính chất
“nhỏ” hay “lớn” về mặt số lượng phần nào thể hiện ở ngay quy mô của nó. Đề cập tới quy
mô nhóm, trong Tâm lý học nhóm nhỏ các tác giả thường đề cập tới giới hạn trên và giới
hạn dưới về số lượng các thành viên của nhóm. Đến nay còn nhiều quan niệm khác nhau
về quy mô nhóm.
Về giới hạn dưới: Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng với hai thành viên là có thể
tạo ra một nhóm. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng: nhóm hai người chỉ có thể coi là một
dạng đặc biệt của nhóm nhỏ xã hội nói chung chứ không phải là một mô hình tiêu biểu của
nhóm nhỏ xã hội. Nhóm hai người không phản ánh được một cách đầy đủ sự phức tạp của
các quan hệ liên nhân cách, cũng như sự tác động qua lại đa chiều giữa các cá nhân trong
nhóm. Do vậy, tồn tại quan niệm khác khẳng định chỉ có thể nói đến một nhóm nhỏ khi có
từ ba thành viên trở lên. Đến nay giới hạn dưới của nhóm nhỏ là bao nhiêu vẫn là câu hỏi
còn chưa có được câu trả lời hoàn toàn thống nhất. Tuy vậy một cách phổ biến, nhóm nhỏ
vẫn được coi là bắt đầu với hai thành viên.
Cũng giống như với giới hạn dưới, vấn đề giới hạn trên cũng có nhiều quan điểm
khác nhau: Có quan niệm cho rằng số lượng thành viên tối đa có thể là 20 (M.Shaw), hay
30, 40 (J.Moreno). Các tác giả khác lại đưa ra con số là 7 ± 2. Số lượng thành viên thuộc
giới hạn trên do các tác giả nêu ra chưa có được các cơ sở lý luận vững chắc.
Coi nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội, các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm hoạt
động cho rằng: số lượng các thành viên trong một nhóm được quy định bởi chức năng mà
nhóm thực hiện trong các mối quan hệ xã hội. Nói cách khác số lượng thành viên của
nhóm nhỏ không phải được xác định một cách chủ quan mà phải dựa vào sự tồn tại thực tế
của nó trong đời sống hiện thực xã hội. Nếu nhóm nhỏ được nghiên cứu, trước tiên, cần
phải là nhóm tồn tại hiện thực và nếu nó được xem xét như là chủ thể của hoạt động thì
một cách lôgic là không đưa ra một giới hạn cứng nhắc nào đó mà chấp nhận nhóm như
chính bản thân quy mô hiện thực của nó, được quy định bởi nhu cầu hoạt động chung của
nhóm. Nói cách khác, nếu nhóm được hình thành trong một hệ thống nhất định các mối
quan hệ xã hội với quy mô cụ thể nào đó và nó đủ để thực hiện một hoạt động nhất định
thì trong nghiên cứu có thể thừa nhận chính giới hạn đó là giới hạn trên. Quan niệm này
đảm bảo tính linh hoạt khi tiếp cận với nhóm nhỏ tồn tại hiện thực trong đời sống xã hội.
Quan niệm này cũng nhấn mạnh đến tính chỉnh thể của nhóm chứ không khai thác vào
khía cạnh số lượng đơn thuần của các thành viên nhóm.
3. Phân loại nhóm nhỏ
Phân loại nhóm nhỏ là bước tiếp theo mang tính lôgic trong việc nghiên cứu nhóm
nhỏ. Với sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của các nhóm nhỏ xã hội, việc có được một cách
phân loại hợp lý để có thể nhận diện và phần nào chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của
các loại nhóm nhỏ là một công việc vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Do
vậy, vấn đề phân loại nhóm nhỏ đã là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận trong Tâm lý
học xã hội. Để có được cái nhìn tổng quan có thể kể tới các loại nhóm nhỏ sau: nhóm
trong phòng thí nghiệm (thực nghiệm) và nhóm tự nhiên.
Nhóm trong phòng thí nghiệm là những nhóm được tập hợp từ nhiều cá nhân khác
nhau một cách ngẫu nhiên với mục đích thực hiện các nhiệm vụ thực nghiệm đã được định
trước. Thời gian tồn tại của nhóm này ngắn, kết thúc khi thực nghiệm đã hoàn thành.
Ngược lại, nhóm tự nhiên là nhóm tồn tại thực trong cuộc sống, có lịch sử phát triển và
thực hiện chức năng nhất định. Loại nhóm này được hình thành trong điều kiện thực của
cuộc sống và có sự phát triển ở các mức độ khác nhau. Nhóm chính thức và nhóm không
chính thức (hay còn gọi là nhóm tự phát). Cách phân chia này được đưa ra bởi E.Mayo,
gắn liền với thực nghiệm Hawthorne. Cả hai loại nhóm này đều là các nhóm tự nhiên.
Nhóm chính thức là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội, trong đó vị trí của các thành viên
được xác định. Đồng thời vai trò của các thành viên cũng được phân chia rõ ràng. Nhóm
có cấu trúc chính thức (cấu trúc chính quyền). Các mối quan hệ trong nhóm là quan hệ
theo chiều dọc, do hệ thống các vai và các vị trí quy định. Sự xuất hiện của nhóm chính
thức được quy định bởi sự cần thiết phải thực hiện một chức năng xã hội nào đó. Do vậy,
nhóm chính thức được thành lập để thực hiện một nhiệm vụ do tổ chức xã hội giao cho.
Đó cũng chính là đặc trưng cơ bản của nhóm chính thức. Đặc trưng này cho thấy nhóm
chính thức không phải được hình thành hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người mà
được hình thành bởi nhu cầu của hệ thống xã hội.
Nhóm không chính thức là nhóm xuất hiện một cách tự phát, các vị trí và các vai trò
trong nhóm không được quy định trước. Nhóm không chính thức có thể xuất hiện ngay
trong lòng các nhóm chính thức hay bên ngoài các nhóm chinh thức. Nhóm này thường
được hình thành dựa trên sự liên kết các thành viên bởi các hứng thú chung, các liên hệ
thân tình hay các mối quan tâm nào đó. Trong một số trường hợp nhất định, nhóm này có
thể trở thành nhóm có tổ chức. Thông thường các nhóm không chính thức trong lòng
nhóm chính thức được xác định bằng trắc đạc xã hội.
Tuy nhiên sự phân biệt này là tương đối vì hoàn toàn có khả năng nhóm không
chính thức có thể có những đặc điểm nhất định của nhóm chính thức và ở một mức độ nhất
định chuyển hóa thành nhóm chính thức. Trong thực tế rất khó có thể phân chia một cách
rõ ràng nhóm chính thức và nhóm không chính thức, đặc biệt trong trường hợp nhóm
không chính thức xuất hiện trong lòng nhóm chính thức.
Với cách hiểu như vậy về nhóm chính thức và nhóm không chính thức, trong hoạt
động tô chức, quản lý xã hội, nhà quản lý trước tiên phải quan tâm tới nhóm chính thức.
Hệ quả tất yếu khi nhóm chính thức hình thành là nhóm chính thức này ngay từ đầu chưa
phải là một nhóm có được sự trùng khớp giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính
thức, nói cách khác chưa có sự cố kết cao. Chính vì vậy E.Mayo cho rằng cần làm cho cấu
trúc chính thức và không chính thức càng trùng khớp nhau càng tốt. Đây cũng là nguyên
nhân của việc xuất hiện các xu hướng nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc tăng cường sự
trùng khớp giữa cấu trúc của nhóm không chính thức với cấu trúc nhóm chính thức hay tạo
ra sự cố kết nhóm trong nhóm chính thức.
Một cách phân loại khác là cách phân loại của H.Hyman: phân chia các nhóm thành
nhóm thành viên và nhóm tham chiếu. Cơ sở của cách phân chia này là mức độ có ý nghĩa
của các giá trị, các chuẩn mực nhóm đối với các định hướng của cá nhân. Nhóm thành
viên là nhóm mà cá nhân tham gia thực tế nhưng các giá trị và mục đích nhóm không được
cá nhân chia sẻ. Cá nhân tồn tại trong một nhóm này nhưng nhóm không tạo ra được ảnh
hưởng đến thái độ, đến các định hướng giá trị của cá nhân. Trong khi đó, nhóm mà cá
nhân không tham gia thực tế nhưng các chuẩn mực, giá trị của nó lại được cá nhân tiếp
nhận gọi là nhóm tham chiếu. Theo quan điểm ban đầu của H.Hyman, nhóm tham chiếu
bắt buộc nằm bên ngoài nhóm thành viên. Sau này các dữ kiện thực nghiệm đã cho thấy
đôi khi có trùng hợp nhóm tham chiếu với nhóm thành viên. Đồng thời trong số nhiều
nhóm khác nhau, chỉ có một nhóm nào đó có vai trò là nhóm tham chiếu đối với cá nhân
mà thôi. Lý thuyết nhóm tham chiếu gắn bó chặt chẽ với 2 hướng nêu trên của định hướng
tương tác. Nhóm tham chiếu được hiểu là nhóm mà các giá trị và chuẩn mực của nó được
cá nhân hướng tới. Nhóm tham chiếu như là tiêu chí, hệ thống các cơ sở để cá nhân đánh
giá bản thân và người khác cũng là nguồn gốc để hình thành các thái độ xã hội, các định
hướng giá trị của cá nhân. Các tác giả của lý thuyết này là H.Hyman, T.Newcomb,
M.Sherif, G.Kem, R.Merton.
Nhờ các công trình của các tác giả nêu trên, vấn đề nhóm tham chiếu trở thành một
vấn đề phổ biến trong Tâm lý học xã hội. Các nhà Tâm lý học xã hội tìm thấy trong vấn đề
này chìa khóa để giải thích quá trình hình thành các thái độ xã hội (tâm thế xã hội) và sự tự
đánh giá, còn các nhà xã hội học xem là công cụ để phân tích chức năng các cấu trúc xã
hội. Khái niệm nhóm tham chiếu cũng được sử dụng một cách rộng rãi để giải thích các
hiện tượng như: tính không thống nhất trong hành vi của cá nhân trong các điều kiện một
ngữ cảnh xã hội mới, hiện tượng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên, các xung đột liên
quan đến nhóm, phản ứng khác nhau của công chúng trước cùng một thông tin từ thông tin
đại chúng... Cơ sở của lý thuyết nhóm tham chiếu là ý tưởng của G.Mead về “người khác
khái quát”. Theo quan điểm của G.Mead, ý nghĩa của “người khái quát” là tương tác xã
hội được thực hiện thông qua đó, cũng qua đó diễn ra sự tác động xã hội đến cá nhân. “Cá
nhân nhận thức về bản thân không phải trực tiếp mà là gián tiếp, từ những góc độ riêng
của những thành viên nhóm xã hội mà cá nhân thuộc về” (Mead, 1934, 138). Nhóm trở
thành hệ thống các thái độ khái quát đối với các cá nhân tham gia vào nhóm.
Khái niệm này được Hyman đưa ra vào năm 1942 khi nghiên cứu biểu tượng của cá
nhân về vị trí của mình trong sự so sánh với các cá nhân khác. Ông không đưa ra định
nghĩa về nhóm tham chiếu, mà sử dụng khái niệm này để chỉ nhóm mà nghiệm thể dùng
để so sánh với bản thân để xác định vị trí của mình. Kết quả của việc so sánh với nhóm
tham chiếu là sự tự đánh giá của nghiệm thể về vị trí của mình. Sự tự đánh giá này được
Hyman xem như là biến số phụ thuộc bởi vì nó có quan hệ đối với nhóm tham chiếu.
Sau này khái niệm nhóm tham chiếu được Newcomb sử dụng để chỉ nhóm mà cá
nhân hướng tới trên phương diện tâm lý và do vậy chia sẻ các chuẩn mực các giá trị của nó
cũng như dựa vào đó để định hướng các hành vi của bản thân. Theo ông, sự hình thành các
thái độ là chức năng của quan hệ tích cực hay tiêu cực của cá nhân đối với nhóm nảy hay
nhóm khác. Từ đó Newcomb chia thành các nhóm tham chiếu tích cực hay tiêu cực. Nhóm
tham chiếu tích cực là nhóm mà các chuẩn mực và giá trị của nó được cá nhân chấp nhận
và tạo ra mong muốn được nhóm chấp nhận. Nhóm tham chiếu tiêu cực là nhóm tạo ra
mong muốn chống lại ở cá nhân và cá nhân không muốn trở thành thành viên của nhóm.
Theo Newcomb, “sự nổi loạn” của thiếu niên chính là biểu hiện của việc trẻ coi cha mẹ là
nhóm tham chiếu tiêu cực của chúng.
Khái niệm này được xác nhận cuối cùng bởi M.Sherif và R.Merton. Theo Sherif,
các chuẩn mực của nhóm tham chiếu trở thành các thái độ xã hội của cá nhân và cơ sở của
sự tự đánh giá và cơ sở để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội và để hình thành
“bức tranh của bản thân về thế giới”. Sự đa dạng của các nhóm tác động đến cá nhân, đặt
cá nhân vào một tình thế khó khăn khi phải lựa chọn các chuẩn mực khác nhau của các
nhóm khác nhau. Ông đề nghị phân biệt nhóm hiện tại mà cá nhân đang là thành viên và
nhóm tham chiếu - nhóm cá nhân coi là mình thuộc về một cách có ý thức hay vô thức.
Hiện vẫn chưa có được sự phân chia rõ ràng các loại nhóm tham chiếu nhưng có sự
thừa nhận chung đối với các loại sau: nhóm bên ngoài, nhóm thành viên, nhóm hiện thực,
nhóm lý tưởng, nhóm lớn và nhóm nhỏ.
Các chức năng của nhóm tham chiếu: có hai chức năng chính: chuẩn mực và đánh
giá - so sánh. G.Kem sau khi phân tích các công trình trước đó về nhóm tham chiếu đã
nhận thấy khái niệm nhóm tham chiếu đề cập đến hai loại quan hệ khác nhau giữa cá nhân
và nhóm. Đó là quan hệ ở phương diện động cơ và phương diện các quá trình tri giác. Từ
đó ông chia thành 2 chức năng: chức năng chuẩn mực và chức năng so sánh đánh giá.
- Chức năng thứ nhất: tạo lập các tiêu chuẩn nhất định cho hành vi và buộc cá nhân
tuân theo. Các chuẩn mực hành vi thường được gọi là các chuẩn mực nhóm. Do vậy ông
gọi chức năng này của nhóm tham chiếu là chức năng chuẩn mực. Theo Kelley, nhóm
tham chiếu có thể thực hiện chức năng này nếu nó có khả năng ban thưởng cho cá nhân
khi tuân theo và trừng phạt khi cá nhân không tuân theo.
- Chức năng thứ hai của nhóm tham chiếu thể hiện ở chỗ nó là cơ sở để cá nhân so
sánh và đánh giá bản thân và người khác. Hai chức năng trên có thể được thực hiện bởi
cùng một nhóm, có thể là nhóm thành viên hay nhóm bên ngoài mà cá nhân muốn trở
thành thành viên hay gắn bó về mặt tâm lý. Sự khác biệt của chức năng chuẩn mực và so
sánh có thể được hiểu như sau: Với chức năng chuẩn mực, đối với cá nhân điều quan trọng
là biết được thái độ của nhóm đối với bản thân, nhóm chấp nhận hay từ chối cá nhân.
Dường như cá nhân bị theo dõi bởi nhóm, bị đánh giá từ góc độ các chuẩn mực của nhóm,
do vậy cá nhân xây dựng các hành vi của mình theo các chuẩn mực đó; còn đối với chức
năng so sánh thì ý kiến của nhóm đối với cá nhân lại ít có ý nghĩa. Cá nhân tự đánh giá
bản thân bằng cách so sánh với các tiêu chí đã biết.
Vấn đề khác cũng được quan tâm là những nhóm nào được cá nhân chọn làm nhóm
tham chiếu. Merton đi sâu nghiên cứu vấn đề này, ông đã đề xuất một số các điều kiện,
theo đó cá nhân lựa chọn nhóm bên ngoài làm nhóm tham chiếu:
- Nếu nhóm không có đủ uy tín đối với cá nhân, cá nhân có xu hướng lựa chọn
nhóm bên ngoài có uy tín hơn làm nhóm tham chiếu.
- Cá nhân càng bị cô lập, vị thế của cá nhân càng thấp trong nhóm, càng có khả
năng cá nhân lựa chọn nhóm tham chiếu bên ngoài, ở đó cá nhân có được vị thế cao hơn.
- Sự biến động xã hội càng cao, cá nhân càng có nhiều cơ hội thay đổi vị thế của
mình thì càng có khả năng cá nhân lựu chọn các nhóm tham chiếu ở đó cá nhân có được vị
thế xã hội cao hơn.
- Sự lựa chọn nhóm tham chiếu cũng phụ thuộc vào tính cách cá nhân.
H. Kelley chỉ ra hai chức năng của nhóm tham chiếu: chức năng so sánh và chức
năng tiêu chuẩn. Các chuẩn mực hành vi, thái độ được thừa nhận trong nhóm trở thành
“hình mẫu” để cá nhân thực hiện các hành vi - đây là chức năng so sánh. Chức năng thứ
hai - chức năng tiêu chuẩn cho phép cá nhân đánh giá sự tương ứng của các hành vi của
mình đối với các chuẩn mực nhóm. Chức năng tiêu chuẩn góp phần điều chỉnh các hành vi
của các cá nhân, đặc biệt trong trường hợp có các hành vi lệch chuẩn.
Ngoài những cách phân chia cơ bản nêu trên, một số tác giả phân chia thành nhóm
thứ cấp và nhóm sơ cấp (Tr.Kuli). Nhóm thứ cấp là nhóm có sự tiếp xúc gián tiếp thông
qua các trung gian. Nhóm sơ cấp là nhóm có sự tiếp xúc trực tiếp.
Một loại nhóm nhỏ đặc biệt hay được đề cập đến trong Tâm lý học xã hội Xô viết là
tập thể. Loại nhóm này không được nói đến trong Tâm lý học xã hội phương Tây. Trong
Tâm lý học xã hội Việt Nam, khái niệm này được sử dựng rộng rãi. Trong lý thuyết về tập
thể của A.V.Petrôvxki và sau này các tác giả khác như G.M.Anđrêeva, A.I.Đôxôv,
R.L.Krichievxki đều cho rằng tập thể là một trạng thái chất lượng đặc biệt của nhóm nhỏ,
là nhóm nhỏ đạt tới “sự trưởng thành” tâm lý xã hội. Xét về quá trình phát triển nhóm,
nhóm nhỏ phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều mức độ, chỉ khi đạt tới mức độ phát triển
cao nhất nhóm mới trở thành tập thể. Đặc trưng cơ bản của nhóm khi nó trở thành tập thể
là có mục đích phù hợp với mục đích xã hội, có sự liên kết chặt chẽ và có thể tạo ra và
đảm bảo những điều kiện lợi cho sự phát triển của mỗi nhân cách.
4. Chức năng nhóm
Vấn đề chức năng của nhóm cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau. Giải quyết vấn đề này góp phần lý giải các nguyên nhân thúc đẩy một cá nhân
tham gia vào nhóm cũng như chỉ ra chiều hướng vận động và phát triển của nhóm. Trong
nhiều cách tiếp cận vấn đề này đáng chú ý là cách tiếp cận sinh học xã hội, tiếp cận nhu
cầu tâm lý và quan hệ xã hội, tiếp cận chức năng và tiếp cận mô hình 5 chức năng lớn (Big
five model).
Ngay trong công trình đầu tiên - Nhập môn Tâm lý học xã hội (1908) Mc.Dougall
đã đưa ra cách tiếp cận sinh học xã hội để lý giải sự hình thành nhóm. Ông cho rằng: Bản
năng bầy đàn dẫn dắt con người tham gia vào nhóm. “Chúng ta thường nói rằng sự buồn
chán của nông thôn thúc đẩy con người vào thành phố. Nhưng cách hiểu như vậy không
đúng với sự thật. Chính đám đông trong thành phố - bầy đàn người khổng lồ lôi kéo, hấp
dẫn những người đứng ngoài nó” (Allport, 1994). Cộng đồng xã hội được coi là bầy đàn
mặc dù đó là cộng đồng xã hội. Những cái lôi cuốn cá nhân tham gia vào nhóm không có
tính chất xã hội của cộng đồng đó mà là tính chất tự nhiên, bản năng có ở mỗi cá thể. Rõ
ràng cách tiếp cận này đề cao bản năng sinh học của con người. Nó chưa chỉ ra được bản
chất xã hội của nhóm xã hội, cũng như chưa chỉ ra được chức năng của nhóm.
Cách tiếp cận thứ hai tương đối phổ biến. Đó là tiếp cận nhu cầu tâm lý và quan hệ
xã hội. Cơ sở của cách tiếp cận này là các nhu cầu tâm lý của cá nhân và phương thức thỏa
mãn xã hội của nó. H.Murray (1938) với thuyết nhu cầu tâm lý cho rằng tham gia vào hệ
thống hai người giúp các cá nhân có thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của mình.
A.Maslow trong tháp nhu cầu nổi tiếng của mình có đưa ra “nhu cầu thuộc về một nhóm
xã hội”. Theo cách tiếp cận này, chức năng của nhóm nhỏ xã hội là tạo điều kiện cho sự
thỏa mãn các nhu cầu tâm lý của cá nhân. Cách tiếp cận này đã chỉ ra được một khía cạnh
trong các chức năng của nhóm nhỏ, một khía cạnh tương đối nổi bật. Tuy vậy nhìn nhận
nhóm xã hội chỉ từ góc độ cá nhân riêng lẻ đồng nghĩa với việc đánh mất ngữ cảnh xã hội
của nhóm. Phân tích chức năng của nhóm không chỉ tập trung vào chức năng của nhóm
đối với cá nhân mà còn cần phải chú ý đến chức năng của nhóm như là một chủ thể xã hội.
Tiếp cận chức năng nhìn nhận vấn đề một cách khái quát hơn: nhóm là nguồn cho
sự tồn tại xã hội của con người. Nó cung cấp các nguồn lực cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển con người xã hội. Trong cách tiếp cận này mô hình 5 chức năng lớn (Big five
Function) của nhóm do Donelson R. đề xuất rất đáng được lưu ý:
1. Nhóm tạo điều kiện cho các cá nhân có cơ hội tiếp xúc và tạo lập quan hệ với các
cá nhân khác trong một mạng lưới xã hội có tổ chức. (Belonging)
2. Nhóm tạo cơ hội cho những mối quan hệ thân thiện, gắn bó, tạo điều kiện cho sự
phát triển nhóm làm việc gắn bó. (Intimacy)
3. Nhóm tạo điều kiện cho tính hiệu quả, thành công, kiểm soát nguồn lực và định
hướng công việc. (Generativity)
4. Nhóm tạo ra sự ổn định về Tâm lý, giảm lo hãi, tạo cảm giác an toàn, tăng cường
lòng tự trọng... (Stability)
5. Nhóm tạo điều kiện cho sự sáng tạo, sàng lọc các ý tưởng, tự phát triển bản thân,
hiểu bản thân và người khác, tăng cường liên hệ liên nhân cách (Adaptability) (Myer D.G.
1996).
Mô hình 5 chức năng lớn của nhóm có một số ưu điểm:
- Chỉ ra vị trí của nhóm trong mạng lưới các quan hệ xã hội, coi nhóm là một mắt
xích trong mạng lưới đó. Cá nhân tham gia vào nhóm cũng chính là tham gia vào mạng
lưới các quan hệ xã hội.
- Bên cạnh chức năng tạo ra những mối quan hệ xúc cảm quan hệ tâm lý liên nhân
cách - như xu hướng chung của Tâm lý học xã hội phương Tây nhấn mạnh đến các quan
hệ xúc cảm trong nhóm - mô hình này đã đề cập tới chức năng tổ chức hoạt động của
nhóm.
- Chỉ ra sự gắn kết nhóm nằm trong bản chất nhóm, xuất hiện trong cuộc sống nhóm
chứ không phải sự gắn kết có từ ban đầu, bên ngoài. Sự cố kết trong nhóm là kết quả của
quá trình hoạt động nhóm.
Tuy vậy hạn chế ở đây cũng chính là việc chưa xem nhóm là một đơn vị xã hội thực
hiện một chức năng xã hội nhất định, trên cơ sở đó nhóm thực hiện các chức năng khác
của mình.
5. Quá trình ra quyết định nhóm
Quá trình ra quyết định nhóm là một trong những dấu hiệu cơ bản của nhóm nhỏ.
Quá trình này cho thấy nhóm nhỏ như là một chủ thể của hoạt động nhóm. Cũng giống
như các hiện tượng tâm lý xã hội khác của nhóm nhỏ, quá trình ra quyết định nhóm cũng
được xem xét như một quá trình được tạo bởi các thành phần cụ thể. Trong đó thành phần
thứ nhất là nhiệm vụ của nhóm. Nhiệm vụ của nhóm được xem như là nguồn gốc và đối
tượng của quá trình ra quyết định nhóm.
M.Shaw khi nghiên cứu các nhiệm vụ của nhóm tập trung vào 4 vấn đề: mô tả các
nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm, xây dựng các phân loại nhiệm vụ của nhóm,
phân tích các chiều kích của nhiệm vụ nhóm và chỉ ra ảnh hưởng của các nhiệm vụ nhóm
có các tính chất khác nhau đến quá trình nhóm.
Theo M.Shaw, các nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm được hiểu là những
nhiệm vụ có tính chất rõ ràng, giúp nghiên cứu các khía cạnh của hành vi nhóm thuận lợi.
Các nhiệm vụ này có thể ghi lại các điều kiện xuất phát, sản phẩm cuối cùng và các hành
động nhất định mà các thành viên cần thực hiện để đạt tới mục đích mong muốn. Loại
nhiệm vụ này có lợi thế là giúp người nghiên cứu dễ dàng theo dõi hành vi của các cá nhân
và của nhóm một cách chính xác, loại trừ bớt các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau do tính chất rõ
ràng của nhiệm vụ quy định. Tuy nhiên hạn chế cơ bản là loại nhiệm vụ này chỉ cho phép
nghiên cứu những hành động mang tính cơ học chứ không cho thấy hành vi phức tạp của
nhóm và các hiện tượng như thảo luận nhóm hay quá trình phân tích trí tuệ của nhóm.
* Phân loại các nhiệm vụ nhóm là một trong các công việc phức tạp. Hiện nay có
một số phân loại như sau: nhiệm vụ phức tạp hay đơn giản; nhiệm vụ hợp tác hay cạnh
tranh. Tackman đề xuất một số loại: sáng tạo, thảo luận, vấn đề. M.Shaw đề xuất phân loại
các nhiệm vụ nhóm theo các tính chất của chúng: độ khó của nhiệm vụ, tính đa phương án
của nhiệm vụ, độ quan tâm bên trong của mỗi thành viên nhóm, yêu cầu phối hợp hành
động, mức độ yêu cầu về trí tuệ đối với nhiệm vụ và tính mới mẻ của nhiệm vụ (Shaw M.
1976).
* Ảnh hưởng của tính chất nhiệm vụ nhóm tới quá trình nhóm: Các nhiệm vụ với
các tính chất khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau tới các quá trình nhóm, tới các
phương diện khác nhau của hành vi nhóm như: sự định hướng tới hành vi của người khác;
sự lạc quan, tính mới mẻ của các quyết định; sự tham gia vào quá trình cũng như sự bền
vững và chất lượng của hành vi. Đặc biệt tính rõ ràng của mục đích cần đạt được có ảnh
hưởng lớn tới sự cố kết của các thành viên. Các thành viên thể hiện sự cố kết cao hơn và
có động cơ hoạt động mạnh hơn đối với các nhiệm vụ rõ ràng và có hành vi ngược lại đối
với các nhiệm vụ không rõ ràng.
* Quá trình ra quyết định nhóm: Quá trình ra quyết định nhóm luôn phải đối mặt với
một vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng: tính hiệu quả của quyết định cá nhân và quyết
định nhóm có tương đồng hay không? Sự dịch chuyển rủi ro từ cá nhân sang nhóm và sự
phân cực nhóm như thế nào?
Để ra quyết định nhóm, thảo luận nhóm có vai trò quan trọng. Trong quá trình thảo
luận nhóm diễn ra các cơ chế sau:
- Thảo luận nhóm cho phép các lập trường các quan điểm được va chạm, bằng cách
đó giúp các thành viên có thể nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của vấn đề.
- Các kết luận được rút ra từ thảo luận nhóm sẽ có ý nghĩa hơn đối với mỗi thành
viên, nó có thể trở thành chuẩn mực nhóm và do vậy có ảnh hưởng lớn đến hành vi của
các thành viên.
Thảo luận nhóm cũng được xem xét như là một giai đoạn của quá trình ra quyết
định nhóm. Đặc biệt ở lĩnh vực ứng dụng, các nhà nghiên cứu đang tìm cách đưa ra các
hình thức thảo luận nhóm khác nhau, một trong số đó là “brainstorming” do A.Osbom đề
xuất hay phương pháp “liên kết các khác biệt” của U.Golden.
* Sự dịch chuyển rủi ro: Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khi ra quyết định,
nhóm có xu hướng dung hòa các quyết định thái quá cả về 2 phía của các cá nhân để đi
đến một quyết định “trung bình”. Hiện tượng này được gọi là “cân bằng hóa nhóm”. Tuy
nhiên, trong các trường hợp các quyết định có nhiều rủi ro thì diễn ra “sự dịch chuyển rủi
ro”: có thể có hiện tượng dịch chuyển về phía rủi ro khi có sự phân tán trách nhiệm và dịch
chuyển về phía thận trọng hơn. Các giả thuyết chưa được khẳng định.
* Sự phân cực các ý kiến trong nhóm (cũng được gọi là sự chuyển dịch ý kiến):
Trong tiến trình thảo luận nhóm, các ý kiến đối lập không chỉ xuất hiện mà chúng còn tạo
ra sự chấp nhận hay phản đối của phần lớn các thành viên. Các ý kiến trung gian dịch
chuyển dần về phía này hay phía khác làm các ý kiến thuộc 2 cực ngày một rõ ràng hơn.
Có 2 cách giải thích sự phân cực: chuẩn mực và thông tin. Chuẩn mực tức là cá nhân so
sánh mình với người khác và để khẳng định cái tôi của bản thân “người khác cũng nghĩ
như tôi”. Điều này giúp cá nhân củng cố ý kiến của bản thân. Thông tin tức là nếu thảo
luận nhóm được điều khiển bởi các chứng cứ và các chứng cứ đó có lợi cho cá nhân thì cá
nhân đó càng mạnh mẽ hơn với ý kiến của mình (tức là phân cực thay vì trung gian).
Ngược lại nếu chứng cứ mâu thuẫn với ý kiến trước đây, cá nhân đó sẽ dứt khoát dịch
chuyển về phái đối lập (tức là cũng phân cực).
6. Lý thuyết về sự phát triển nhóm
Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ. Ý tưởng về sự phát
triển nhóm đã được đưa ra trong lý thuyết Phân tâm học, trong công trình của Freud “Tâm
lý học nhóm và phân tích cái tôi”. Trong định hướng Phân tâm học của Tâm lý học xã hội
xuất hiện lý thuyết phát triển nhóm của V.Bennis và G.Shepard, được hình thành trên cơ
sở phân tích thực tiễn tâm lý trị liệu nhóm. Lý thuyết này được hình thành từ giữa những
năm 1950. Nó không hoàn toàn nằm trong định hướng phân tâm học mà còn chịu ảnh
hưởng của nhiều định hướng khác. Tuy vậy theo Shaw và Costanzo, lý thuyết này có tư
tưởng cơ bản liên quan đến Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở tìm
hiểu những quá trình nhóm diễn ra trong các nhóm T hay còn gọi là các nhóm huấn luyện
quan hệ con người hay nhóm tự phân tích. Các nhóm này là một hiện tượng trong đời sống
xã hội phương Tây những năm 60, 70 của thế kỉ XX. Thực hành Nhóm T - với các hình
thức đa dạng của nó diễn ra dưới ảnh hưởng của Phân tâm học. Nhóm T chính là một
phương pháp huấn luyện xã hội. Huấn luyện xã hội được hiểu theo nghĩa rộng là dạy các
hiểu biết, kĩ năng, kỹ xảo giao tiếp liên nhân cách. Hoạt động cơ bản của nhóm T là thảo
luận nhóm. Chủ đề thảo luận là các mối quan hệ liên nhân cách hiện thực của các thành
viên nhóm và nhiệm vụ là tìm hiểu chính động thái nhóm qua việc phân tích các quá trình
diễn ra trong nhóm. Các quá trình đó được nghiên cứu bởi chính các thành viên nhóm. Sự
tăng lên trong hiểu biết của cá nhân về chính các động cơ của bản thân; sự hụt hẫng, ý
định, các khả năng có thể trong giao tiếp liên nhân cách của bản thân cũng như của người
khác... được gọi chung là sự thành thục xã hội. Mục đích cuối cùng của huấn luyện xã hội
là giúp những người tham gia nâng cao sự thành thục xã hội. Để đạt được mục đích cuối
cùng, cần thực biện các mục đích cụ thể được đặt ra một cách rõ ràng hay ngầm định. Ở
cấp độ nhóm, mục đích đó là tạo ra sự giao tiếp có hiệu lực, tức là: đạt được một trạng thái
nhóm mà mỗi thành viên có khả năng thể hiện các tình cảm, xúc cảm, động cơ, ý định của
mình một cách chính xác, tự do. Ở đó tri giác của mỗi thành viên về vị trí của mình trong
nhóm phù hợp với sự tri giác của các thành viên khác, mục đích được thống nhất của
nhóm và sự nỗ lực của các thành viên là tương ứng và các thành viên nhóm có khả năng
chia sẻ nhiều mức độ giao tiếp. Quy mô nhóm có thể từ 7 - 15 người. Đó có thể là nhóm
hiện thực nhưng thường xuyên hơn cả là các nhóm được hình thành từ những người không
quen biết nhau từ trước. Các thành viên chủ yếu là những người thuộc các nghề nghiệp
khác nhau nhưng có điểm chung là cần có khả năng giao tiếp. Thời hạn của các nhóm T có
thể từ 2 ngày đến 2 tháng. Mỗi nhóm có một người huấn luyện. Vai trò của người này có
thể thay đổi tùy nhiệm vụ cụ thể. Nhưng trong mọi trường hợp vai trò chính của người đó
là tạo ra bầu không khí tin tưởng, sự cởi mở trong nhóm. Người huấn luyện phải thể hiện
hình mẫu của các hành vi mong muốn, tức là bộc lộ một cách chân thành và rõ ràng các
tình cảm của mình, thể hiện sự gắn bó và ủng hộ sự chân thành của người khác. Người
huấn luyện khác với vai trò của người bác sĩ trị liệu, không tập trung vào các kinh nghiệm
của các thành viên mà chỉ tập trung vào các quá trình diễn ra “ở đây” và “bây giờ” trong
nhóm. Hệ thống các liên hệ ngược cho phép mỗi cá nhân có thể hiểu được người khác và
diễn giải điều mình làm và nói, qua đó tạo ra những tiền đề cho việc suy nghĩ về hậu quả
có thể có của các hành động của mình trong nhóm. Kết quả của huấn luyện phụ thuộc vào
hệ thống các liên hệ ngược được thiết lập như thế nào. Những tiền đề đảm bảo cho nhóm
có hiệu quả là tạo ra bầu không khí tin tưởng, an toàn tâm lý trong nhóm và sự sẵn sàng
thay đổi những phương thức tri giác và tác động qua lại khi thấy được những hạn chế của
chúng.
Về phương diện lý luận nhóm, T chịu ảnh hưởng của Phân tâm học truyền thống ở
chỗ: cá nhân có thể mở rộng kinh nghiệm của mình bằng cách đưa các cơ chế tự vệ của
hành vi mà cá nhân chịu chi phối mà không ý thức được đến với ý thức và đặt dưới sự
kiểm soát của ý thức. Đây chính là nguyên tắc trị liệu của Phân tâm học. Lý thuyết này
được xây dựng trên việc nghiên cứu các quá trình diễn ra trong nhóm gọi là nhóm T - các
nhóm luyện tập (training group): sự tồn tại của nhóm luyện tập chia thành 2 pha. Trong
mỗi pha, nhóm giải quyết một tập hợp nhất định các vấn đề để đạt được mục tiêu cơ bản
của nó - thiết lập giao tiếp có hiệu lực (tức là giao tiếp, trong đó loại bỏ các trở ngại đối
với người tham gia giao tiếp). Con đường để đạt tới mục đích đó chính là sự phát triển
nhóm: trong pha đầu tiên giải quyết vấn đề về thủ lĩnh và các mối quan hệ qua lại giữa mỗi
thành viên nhóm và thủ lĩnh; trong pha thứ 2, mối quan hệ giữa các thành viên ngang hàng
được xác lập. Trong mỗi pha, sự khó khăn trong các mối quan hệ thường xuyên được dỡ
bỏ và sự giao lưu đầy đủ hơn được phát triển.
Lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng dựa trên các quá trình thay đổi trong
nhóm để đạt tới mục đích giao tiếp hiệu lực với 2 vấn đề cơ bản: phân tích những khía
cạnh của giao tiếp hiệu lực và xác định các giai đoạn phát triển nhóm.
Một trong những điều kiện cơ bản để thiết lập giao tiếp hiệu lực theo các tác giả là
tình huống không xác định trong đó mỗi thành viên của nhóm rơi vào tại thời điểm bắt đầu
của nhóm T. Các thành viên có xu hướng giấu các thái độ thật của mình, các phản ứng, các
xúc cảm bởi vì họ không biết họ sẽ chờ đợi điều gì từ những người khác. Do vậy, sự
không xác định liên quan đến 2 mặt của sự thực hiện chức năng nhóm: vấn đề quyền lực
và vấn đề phụ thuộc lẫn nhau.
Vấn đề quyền lực - đó là vấn đề về thủ lĩnh, ai sẽ là người dẫn dắt và ai là người
chịu sự điều khiển. Lĩnh vực quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên nhóm cũng không
rõ ràng. Ở đây sự không xác định liên quan đến vấn đề bền chặt của các liên hệ xúc cảm.
Các tác giả cho rằng vấn đề thủ lĩnh là vấn đề mang tính thứ nhất và định hướng mối quan
hệ với thủ lĩnh là thứ 2, ở mức độ nhất định quyết định hướng quan hệ của các thành viên
với những thành viên khác. Do vậy, trong quá trình phát triển nhóm, trước hết phải giải
quyết vấn đề quyền lực, thủ lĩnh và chỉ trên cơ sở giải quyết vấn đề đó mới giải quyết được
vấn đề mối quan hệ giữa các thành viên nhóm. Điểm cơ bản trong việc phân tích các
“hành vi nhóm” là phân chia 2 loại mối quan hệ trong nhóm: quan hệ thành viên với thủ
lĩnh và quan hệ giữa các thành viên. Trong đó quan hệ giữa thành viên với thủ lĩnh mang
tính thứ nhất vừa ở phương diện phát triển nhóm, vừa ở phương diện quy định các quan hệ
giữa các thành viên nhóm. Theo đó có thể chia thành 2 pha trong sự phát triển nhóm. Nội
dung của pha thứ nhất giải quyết vấn đề thủ lĩnh nhóm; trong pha thứ hai là vấn đề quan
hệ qua lại giữa các thành viên nhóm. Trong mỗi pha lại có 3 tiểu pha, tức là có 6 giai đoạn.
Trong pha đầu, nhóm gặp phải những tình huống sau: Những người tham gia chờ
đợi người huấn luyện nhận trách nhiệm nắm giữa quyền lực. Tuy nhiên với nhóm T, người
huấn luyện được chỉ định trước không nhận trách nhiệm đó và phải thông báo trước về vấn
đề đó. Thông thường trong thời điểm đó có sự căng thẳng nhất định, xuất hiện sự không
hài lòng với tình huống, tranh luận về mục đích và các nhiệm vụ của nhóm. Sự bắt đầu của
tiểu pha thứ 2 liên quan đến yêu cầu đối với người huấn luyện để bỏ lại nhóm. Xuất hiện 2
ý kiến đối lập nhau: một số thành viên ủng hộ cấu trúc thủ lĩnh mạnh còn số khác đề nghị
một bầu không khí nhóm ít mang tính cấu trúc hơn, chống lại thủ lĩnh mạnh và những hình
thức quản lý nhóm nghiêm khắc. Tiểu pha thứ 3 liên quan đến việc giải quyết vấn đề thủ
lĩnh. Việc này có thể nhanh chóng được giải quyết hay ngược lại, khi đó nhóm nằm trong
trạng thái lung lay. Cuối cùng, nếu nhóm không tan rã thì nó sẽ chuyển sang một pha mới:
pha thiết lập các mối quan hệ liên nhân cách hay giải quyết vấn đề sự phụ thuộc lẫn nhau.
Các tiểu pha của pha thứ 2 có thể có những lệch pha nhất định: nhóm có thể không
đạt được mục đích cuối cùng hoặc là trong một thời gian dài không xác định dừng lại ở
một pha nào đó hoặc tan rã.
Như vậy, rõ ràng lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng hoàn toàn dựa vào
việc quan sát hoạt động của nhóm T. Các tác giả của nó không có tham vọng đối với tính
khái quát của lý thuyết này nhưng đôi khi có xu hướng vận dụng lý thuyết này một cách
không có chỉnh sửa vào việc giải thích sự phát triển nhóm ở phạm vi các nhóm nói chung.
Lý thuyết này chưa chỉ ra thời gian kéo dài của mỗi pha. Nó chỉ đề cập đến sự tiếp nối
giữa các pha chưa chỉ ra các biến số ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhóm cũng như
đến việc giải quyết vấn đề sự phụ thuộc qua lại. Tính dự báo của lý thuyết này còn hạn
chế.
Lý thuyết thứ 2 về sự phát triển nhóm có được cơ sở tương đối rộng rãi hơn là lý
thuyết “xã hội hóa nhóm” của R.Morlend và J.Livan. Quá trình phát triển nhóm được xem
xét tương tự với quá trình xã hội hóa cá nhân, phân tích sự tồn tại không gian, thời gian
của nhóm. Mỗi giai đoạn trong sự phát triển nhóm được đặc trưng bởi một loại quan hệ
giữa nhóm với mỗi cá nhân khi cá nhân trở thành thành viên nhóm. Các giai đoạn có thê
được so sánh với nhau dựa trên 3 tiêu chí:
- Sự đánh giá (mục đích nhóm, vị trí của nhóm giữa các nhóm khác, ý nghĩa của
mục đích nhóm đối với mỗi cá nhân thành viên).
- Trách nhiệm (của nhóm trong quan hệ đối với các thành viên và của mỗi cá nhân
đối với nhóm, trong tiến trình đó bộc lộ mức độ hài lòng đối với các kì vọng lẫn nhau.
Nâng cao sự đồng thuận, các tiếp xúc xúc cảm, động cơ duy trì nhóm là kết quả của việc
thực hiện các trách nhiệm qua lại...
- Cấu trúc lại các vai của các thành viên nhóm (Mức độ tham gia nhiều hơn hay ít
hơn của các thành viên, mức độ đồng nhất với nhóm. Với mục đích này chia ra 5 loại vai
trò có thể có của thành viên nhóm: Thành viên tiềm năng, thành viên mới, thành viên đầy
đủ, thành viên cận biên, cựu thành viên).
Trên cơ sở các tiêu chí kể trên, các giai đoạn trong đời sống nhóm được xác định
tương ứng với các vị trí (vai) của các thành viên. Sự kết hợp các giai đoạn và vai được thể
hiện trong “Mô hình hệ thống quá trình” của M.Tremerse. Sự tương ứng các giai đoạn và
vai trò có thể biểu diễn như sau:
Vai trò Giai đoạn
Thành viên tiềm năng
Thành viên mới
Thành viên đầy đủ
Thành viên cận biên
Cựu thành viên
Tìm hiểu (thành viên tìm hiểu nhóm).
Xã hội hóa thành viên (trong nhóm).
Hỗ trợ (nhóm hỗ trợ thành viên).
Tái xã hội hóa (có khả năng thành viên rời bỏ
nhóm).
Nhớ lại (về nhóm mà người đó không còn là thành
viên).
Như vậy trong mô hình nêu trên, điểm nhấn mạnh là ở chỗ kết hợp các giai đoạn
phát triển nhóm với quá trình xã hội hóa cá nhân trong nhóm. Rõ ràng mô hình này cho
phép nhóm ngừng tồn tại trong trường hợp nếu như việc ở trong nhóm không cần thiết đối
với các thành viên nhóm. Khái niệm “giai đoạn” phát triển nhóm được hiểu là các thời kì
khác nhau với các đặc điểm về vai trò và mức độ tham gia của các thành viên vào nhóm,
các giai đoạn này được phân biệt bởi 1 tập hợp các tiêu chí. Mỗi giai đoạn liên quan đến
sự thay đổi thành phần của nhóm: các thành viên mới tham gia vào nhóm, một số thành
viên cũ rời bỏ, diễn ra quá trình chuyển hóa thành viên tiềm năng thành thành viên đầy đủ
và sau đó đôi khi thành “thành viên cận biên” nếu như nhóm không còn thỏa mãn được
nhu cầu của thành viên đó và có thể có sự chia tay với nhóm. Mức độ chấp nhận của nhóm
đối với mỗi thành viên và ngược lại của mỗi thành viên đối với thực tế nhóm là những
nhân tố của sự thay đổi các vai của các thành viên nhóm. Quá trình xã hội hóa nhóm diễn
ra không phải trong chân không: đặc trưng văn hóa và các quan hệ xã hội mà trong phạm
vi đó nhóm tồn tại ảnh hưởng đến sự thay đổi trong nhóm.
Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ:
- Ober Nir đưa ra mô hình phát triển nhóm nhỏ theo bốn giai đoạn: 1) Thời kì thứ
bậc dửng dưng của nhóm trên cơ sở tiêu chí biểu cảm và các vai đa năng; 2) Thời kì nhiễu
loạn: phá hủy cấu trúc phân vai và xuất hiện các bất hòa trong nhóm; 3) Thời kì hình thành
các tiêu chuẩn công cụ, 4) Thời kì thực hiện - hình thành chức năng, sự sắp đặt các tác
dụng phụ thuộc trong mối liên hệ qua lại.
- Trên phương diễn giải quyết nhiệm vụ E.A.Marby chia thành các giai đoạn: Giai
đoạn tiềm ẩn (tìm kiếm nhiệm vụ), giai đoạn thích nghi, giai đoạn liên kết giai đoạn giải
quyết nhiệm vụ, đạt kết quả chung.
- B.Tacmen: Giai đoạn kiểm tra và phụ thuộc, giai đoạn xung đột nội bộ, giai đoạn
phát triển sự cố kết nhóm nhờ sự hài hòa dần các quan hệ và biến mất của xung đột nhóm
giai đoạn tương ứng chức năng vai trò, cùng với sự hình thành cấu trúc phân vai của
nhóm.
- Quan điểm của A.V.Petrovxki: Nếu căn cứ vào tính tích cực của nhóm nhỏ vào ý
nghĩa xã hội của hoạt động chung, sự phát triển của nhóm nhỏ có thể coi là quá trình vận
động giữa hai cực: coi sự phát triển cao nhất của nhóm nhỏ là tập thể - tập thể là cực phát
triển cao của nhóm nhỏ, cực đối lập với tập thể là nhóm hỗn độn. Các nhóm ở giữa hai cực
này là các nhóm phân tán, trong đó thiếu vắng hoạt động cùng nhau. Có các giai đoạn khác
nhau trong quá trình phát triển đó: giai đoạn tổng hợp sơ cấp - phân hóa - hợp nhất - tập
thể.
Các lý thuyết phát triển nhóm vẫn tiếp tục được xây dựng trong phạm vi nghiên cứu
các định hướng văn hóa xã hội khác nhau, cụ thể như định hướng quan hệ tập thể - cá
nhân. Các nghiên cứu chủ yếu chỉ ra thái độ của nhân cách đối với định hướng này hay
định hướng khác trong mối quan hệ tập thể cá nhân ở các môi trường văn hóa khác nhau.
Các nghiên cứu được thực hiện như là các nghiên cứu xuyên văn hóa (so sánh văn hóa).
Định hướng nghiên cứu mới liên hệ chặt chẽ với quá trình phát triển của nhóm:
chuyển từ một pha sang pha khác một phần lớn phụ thuộc vào việc phong cách nổi trội của
sự định hướng, có nghĩa là hành vi nào “chiến thắng” trong nhóm và nhờ đó tạo điều kiện
hay cản trở sự chuyển hóa sang một pha mới. Trong văn hóa cá nhân, sự phát triển nhóm
đòi hỏi sự vận động tới đỉnh cao của quyền cá nhân của nhân cách, trong văn hóa tập thể -
tới sự quan tâm về lợi ích chung. Cũng như trong các cách tiếp cận đã được phân tích ban
đầu, một tư tưởng quan trọng ngày càng được củng cố là sự phát triển nhóm phụ thuộc vào
tính chất xã hội trong đó nhóm tồn tại.
HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
Những vấn đề liên quan đến nhóm xã hội là những vấn đề có được sự quan tâm lớn
trong giai đoạn hiện nay, trong dạy học và giáo dục mối quan tâm chủ yếu hướng tới các
nhóm nhỏ. Cụ thể:
- Chú ý đầy đủ đến việc tổ chức các nhóm sinh viên trong quá trình dạy học và giáo
dục. Nên coi các nhóm sinh viên là đơn vị cơ sở của hoạt động dạy học và giáo dục. Hầu
hết các hoạt động của sinh viên diễn ra trong môi trường nhóm nhỏ, các cơ chế tâm lý xã
hội cũng phát huy tác dụng trong nhóm. Đặc biệt, nhóm nhỏ là môi trường thuận lợi cho
việc phát huy tính tích cực chủ động trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, là môi
trường cho việc rèn luyện các “kĩ năng mềm”.
- Hình thành nhóm nhỏ trong dạy học, giáo dục bằng nhóm và thông qua nhóm. Để
thực hiện điều đó cần ý thức rõ việc tổ chức nhóm và tác động để hình thành các hiện
tượng tâm lý nhóm, từ việc lựa chọn quy mô nhóm, đến việc giúp nhóm hình thành các
mục tiêu, các nguyên tắc, khuyến khích sự chủ động trong hoạt động của nhóm, quan tâm
đến sự phát triển của nhóm.
- Cần đưa ra những yêu cầu chính thức khi hình thành các nhóm: đánh giá kết quả
của nhóm, của cá nhân trong nhóm trong sự tương quan với kết quả của nhóm, sự luân
chuyển các vai trò xã hội trong cấu trúc chính thức của nhóm.
- Quan tâm đến quá trình ra quyết định nhóm sự hình thành các chuẩn mực nhóm.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III
1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
các nhóm xã hội?
2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức của
nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không chính thức? Tại sao?
3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào để hình thành
các chuẩn mực nhóm?
4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo dục theo anh
(chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao?
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ I. TẬP THỂ VÀ CẤU TRÚC QUAN HỆ CÁ NHÂN TRONG TẬP THỂ
1. Khái niệm tập thể
Tập thể là một loại nhóm nhỏ phát triển cao. Nhóm nhỏ có thể phát triển qua 3 mức
độ:
a) Nhóm phân tán: Là loại nhóm các thành viên mới tập hợp lại với nhau, các thành
viên có chung một mục đích chưa thống nhất giá trị chung, do đó chưa liên kết gắn bó với
nhau. Ví dụ: tập hợp người trong một đám cưới, chờ tàu chở xe... loại nhóm này có thể
phát triển nếu có thời gian bình thường thì rất dễ tan rã do chưa có giá trị chung đáng kể.
b) Tổ hợp tác: Là loại nhóm trong đó các thành viên đã tập hợp trong một thơi gian
đủ để có sự thống nhất những giá trị chung, mà giá trị chung đó có ý nghĩa với từng cá
nhân. Do đó các thành viên gắn bó với nhau chặt chẽ. Ví dụ: phường buôn, tổ đổi công...
Trong loại nhóm này các thành viên tồn tại phải dựa vào nhau. Loại nhóm này có
thể phát triển cao trở thành tập thể khi giá trị chung mà họ theo đuổi có ý nghĩa đối với xã
hội. Nhóm này có thể phát triển theo hướng phi xã hội. Ví dụ: nhóm làm ăn phi pháp buôn
lậu...
c) Tập thể: Là tập hợp người có tổ chức, các thành viên gắn chặt với nhau bởi những
giá trị chung, giá trị này vừa có ý nghĩa với các thành viên vừa có ý nghĩa xã hội. Đó là
tiêu chuẩn cơ bản phân biệt tập thể với các loại phường hội.
Như vậy, có thể hiểu tập thể là một loại nhóm có tổ chức, có mục đích và nhiệm vụ
chung, mục đích và nhiệm vụ chung đó vừa có ý nghĩa đối với từng cá nhân vừa có giá trị
đối với xã hội.
Thực chất tập thể là một loại nhóm phát triển cao mà ở đó các thành viên được tổ
chức chặt chẽ. Mỗi thành viên giữ một vị trí nhất định trong tập thể nhưng đều hướng tới
mục đích, nhiệm vụ chung của tập thể. Các thành viên đều nhận thức được ý nghĩa của
mục đích và nhiệm vụ chung đối với cá nhân mình, coi đó là một giá trị và phấn đấu để đạt
giá trị đó, bảo vệ giá trị đó. Đồng thời mục đích, nhiệm vụ chung của tập thể có ý nghĩa
với xã hội, hay nói khác đi, giá trị mà tập thể theo đuổi không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi
cá nhân mà còn có ý nghĩa với cả xã hội. Chính những giá trị đó đã thu hút, hấp dẫn cá
nhân vào tập thể, gắn bó với tập thể.
2. Cấu trúc quan hệ cá nhân trong tập thể
Theo nghiên cứu của A.V.Pêtrôvxki trong tập thể có ba lớp quan hệ cá nhân như
sau:
* Lớp thứ nhất: là lớp trên bề mặt, dễ nhận thấy khi nhìn vào một tập thể. Lớp quan
hệ này bao gồm toàn bộ những quan hệ liên cá nhân có tính chất chủ quan, tùy tiện, xuất
phát từ sự thiện cảm với nhau. Đây chính là các nhóm tự phát trong tập thể. Đặc điểm của
lớp quan hệ này là:
- Sự hấp dẫn về mặt cảm xúc giữa các cá nhân định hướng cho sự lựa chọn quan hệ.
Sự hoà hợp nhóm được xem như sự phối hợp và ăn khớp các hành động.
- Quan hệ này xuất hiện khi các thành viên của tập thể ở vào những tình huống
không động chạm đến các giá trị chung của tập thể, không có ý nghĩa đối với hoạt động
chung.
- Đây là lớp quan hệ dễ thấy nhưng không cơ bản, không đặc trưng cho tập thể đích
thực.
* Lớp quan hệ thú hai; Lớp này “chìm” dưới lớp một, gồm toàn bộ những qua hệ
liên nhân cách có tính chất gián tiếp - tạo nên những đặc điểm riêng của tập thể. Các thành
viên quan hệ với nhau thông qua mục đích và nhiệm vụ hoạt động chung. Đặc điểm:
- Sự trội hẳn của các hiện tượng: tự xác định theo tinh thần tập thể của cá nhân thừa
nhận giá trị chung của tập thể phải bảo vệ giá trị chung của tập thể.
- Quan hệ này xuất hiện khi phải bảo vệ giá trị chung của tập thể hoặc phải thực
hiện các hoạt động chung.
- Đây là quan hệ biểu hiện sự đoàn kết đích thực của tập thể.
* Lớp quan hệ thứ ba: Là lớp “chìm” nhất gồm các mối quan hệ liên cá nhân dựa
trên cơ sở có cùng thái độ tích cực đối với mục đích nhiệm vụ chung của tập thể. Nhóm
này bao gồm các phân tử trung kiên nhất của tập thể - dù tập thể có khó khăn thế nào lớp
này cũng vẫn vững vàng. Ngược lại nếu lớp này hỏng là tập thể dễ dàng tan rã.
3. Các giai đoạn phát triển tập thể
Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu về tập thể thì tập thể có thể được
hình thành qua 4 giai đoạn.
a) Giai đoạn tổng hợp sơ bộ
Giai đoạn này bắt đầu khi các cá nhận mới tập hợp lại với nhau vì một mục đích
chung hay yêu cầu nào đó của hoạt động chung như một lớp học, một cơ quan mới thành
lập. Các cá nhân đến từ nhiều nơi khác nhau nên họ chưa hiểu nhau, chưa hiểu và chưa
thừa nhận giá trị chung của tập thể.
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là các cá nhân chưa hiểu nhau họ không thể
thống nhất ý kiến với nhau. Mỗi người đều giữ gìn, chưa dám bộc lộ bản thân. Điều này
làm cho các cá nhân có sức hấp dẫn lẫn nhau, các quan hệ cá nhân chủ yếu để thăm dò
nhau.
Do mới tập hợp lại, chưa hiểu nhau nên trong tập thể chưa hình thành được dư luận.
Khi có một sự kiện nào đó xảy ra thì mỗi người có ý kiến khác nhau và cũng ngại bộc lộ
nên các ý kiến đánh giá về sự kiện khó thống nhất.
Thời gian tồn tại của giai đoạn này tùy thuộc vào tính chất của tập thể và đặc điểm
của hoạt động chung của tập thể. Nếu là tập thể sinh viên thì giai đoạn này có thể tồn tại
một học kì. Nhưng nếu là tập thể công an, bộ đội thì giai đoạn này ngắn hơn rất nhiều. Có
khi chỉ một vài tuần.
b) Giai đoạn phân hóa
Khi tập thể tồn tại một thời gian, một số cá nhân đã hiểu nhau phần nào do hoạt
động chung và do giao tiếp. Họ tìm thấy những điểm chung và hình thành nên các nhóm
nhỏ.
Căn cứ vào thái độ của các nhóm với yêu cầu của tập thể, có thể chia thành ba
nhóm:
- Nhóm tích cực, gồm những người tích cực trong hoạt động, tự giác chấp hành các
yêu cầu của tập thể. Những người này đã thừa nhận giá trị chung của tập thể và tích cực
bảo vệ các giá trị đó.
- Nhóm tiêu cực, gồm những người thiếu tích cực trong hoạt động chung, làm việc
thiếu tích cực, không tự giác chấp hành các yêu cầu của tập thể. Những người này không
hẳn chống đối tập thể nhưng họ chưa thừa nhận giá trị chung của tập thể nên vẫn giữ
khoảng cách với mọi người.
- Nhóm trung gian thỏa hiệp, gồm những người không hẳn tích cực, cũng không hẳn
tiêu cực. Họ đứng ở giữa, bên nào mạnh thì họ theo. Nếu thấy xu thế tập thể nhiều người
tích cực thì họ tích cực, không thì ngược lại.
Tỉ lệ thành viên của ba nhóm này tùy thuộc vào mức độ phát triển của tập thể. Lúc
đầu có thể nhóm tích cực ít người, nhưng sau đó số lượng các thành viên sẽ tăng dần. Số
người ở nhóm trung gian và nhóm tiêu cực sẽ giảm dần. Do chia thành các nhóm với
những thái độ khác nhau như vậy nên tập thể khó có sự thống nhất trong đánh giá các sự
kiện, dư luận khó hình thành. Khi có một sự kiện xảy ra, mỗi nhóm sẽ có cách đánh giá
khác nhau, khó hình thành đánh giá chung.
Thời gian tồn tại của giai đoạn này cũng tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm hoạt
động của tập thể như giai đoạn một.
c) Giai đoạn tổng hợp thực sự
Tập thể tồn tại một thời gian dài, do cùng hoạt động và sự tiếp xúc thường xuyên
làm cho các thành viên hiểu nhau. Họ thừa nhận giá trị chung và cùng có ý thức bảo vệ giá
trị đó. Không phải 100% số thành viên đều có ý kiến giống nhau nhưng đa số đều có thái
độ tích cực trong hoạt động, đều nhận thấy trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ chung.
Đặc điểm của giai đoạn này là các thành viên gắn bó với nhau trên cơ sở thừa nhận
giá trị chung. Dư luận tập thể được hình thành nhanh và có vai trò điều chỉnh hành vi cá
nhân rất mạnh mẽ. Tập thể đoàn kết thành một khối và rất dễ thống nhất ý kiến khi có vấn
đề gì đó cần bàn bạc.
d) Giai đoạn phát triển cao
Đến giai đoạn này, các cá nhân trong tập thể đã hoàn toàn hiểu nhau và có thể chia
sẻ với nhau, dám bộc lộ bản thân và được người khác thừa nhận. Tập thể thực sự đoàn kết,
gắn bó. Các thành viên tự giác và có ý thức trách nhiệm cao với tập thể. Tập thể đã có
truyền thống và mọi người tự hào về truyền thống đó. Giá trị chung của tập thể được đề
cao và được bảo vệ.
Mỗi khi có sự kiện gì đó xảy ra, mọi người rất nhanh chóng có tiếng nói chung.
Cũng khó phân biệt rạch ròi giữa giai đoạn này với giai đoạn thứ ba. Hai giai đoạn này có
thể tồn tại vài ba năm. Đối với một cơ quan, đơn vị sự nghiệp giai đoạn này có thể tồn tại
4 - 5 năm. Nhưng đối với tập thể sinh viên thì giai đoạn này chỉ tồn tại đến trước khi sinh
viên bước vào học kì cuối.
Theo các nhà nghiên cứu và thực tế cho thấy, sau giai đoạn này thì tập thể không
còn được như giai đoạn ba và bốn nữa. Sau thời gian làm việc với nhau, các cá nhận hiểu
khá rõ, khá kĩ về nhau nên không còn nhu cầu tìm hiểu thêm về nhau nữa. Mọi người định
hình những đánh giá về nhau nên sự lựa chọn quan hệ cũng trở nên khá ổn định. Các nhóm
không chính thức định hình khá rõ nét nên các quan hệ có biểu hiện “lì”, các cá nhân giảm
sức hấp dẫn do người khác không còn phải “tò mò” để tìm hiểu nữa.
Giai đoạn này có thể xem là giai đoạn suy thoái của tập thể theo một cách hiểu nào
đó. Sự suy thoái này không biểu hiện rõ nét nên khó nhận ra. Tuy nhiên, các cá nhân có
thể được phân hóa thành các nhóm khác nhau với những thái độ khác nhau với giá trị
chung. Một số người cho rằng, muốn tập thể có sức sống mới nên thay đổi khoảng một
phần ba số thành viên của tập thể. Khi có những cá nhân mới, tập thể sẽ lại quay về giai
đoạn tổng hợp sơ bộ và phát triển tuần tự theo bốn giai đoạn
II. SỰ CỐ KẾT TRONG TẬP THỂ
1. Khái niệm và vai trò của sự cố kết
a) Khái niệm sự cố kết
Trong Tâm lý học xã hội có nhiều cách tiếp cận và nhiều quan niệm khác nhau về
sự cố kết nhóm. Tuy nhiên có thể khái quát thành 3 cách tiếp cận chính như sau:
* Cách tiếp cận thứ nhất: Coi nhóm là một hệ thống các quan hệ liên nhân cách
được hình thành trên cơ sở xúc cảm. Do vậy, sự cố kết được hiểu là sự cố kết về mặt xúc
cảm. Những xúc cảm tích cực giữa các thành viên trong nhóm có tác dụng liên kết, ràng
buộc họ với nhau. Ngược lại, những xúc cảm tiêu cực là rào chăn cản trở các quan hệ liên
nhân cách và thậm chí phá hủy các mối quan hệ đó. Đây là quan điểm phổ biến trong Tâm
lý học xã hội phương Tây. Từ cách tiếp cận này có một loạt các phương án định nghĩa sự
cố kết nhóm khác nhau:
Phương án thứ nhất - quan điểm trắc đạc xã hội - coi sự cố kết đồng nhất với các
quan hệ xúc cảm, thể hiện sự ở thân thiện hay không thân thiện giữa thành viên. Để xác
định mức độ cố kết, các nhà nghiên cứu thuộc trường phái này sử dụng trắc đạc xã hội và
từ đó tính chỉ số cố kết nhóm. Hạn chế lớn nhất trong phương pháp này là nội dung và
động cơ của sự lựa chọn giữa các thành viên trong nhóm bị bỏ qua.
Phương án thứ hai, coi sự cố kết nhóm đồng nhất với sự hấp dẫn giữa các cá nhân
và được quy định bởi sự hấp dẫn giữa các thành viên. A.Lot & B.Lot định nghĩa sự cố kết
nhóm: “Là thuộc tính của nhóm, là kết quả của số lượng và chất lượng của các thái độ đối
xử tích cực lẫn nhau giữa các thành viên nhóm” (Lot & Lot, 1976). Bên cạnh đó, một loạt
các biến số tạo nên tổ hợp các nguyên nhân của sự cố kết được xác định bao gồm: tần suất
tác động qua lại giữa các cá nhân, tính chất hợp tác trong sự tác động qua lại, phong cách
lãnh đạo nhóm, sự hụt hẫng và nguy cơ từ các nhóm khác... Bản thân tác giả của cách định
nghĩa này cũng thừa nhận định nghĩa chỉ đề cập tới một khía cạnh của sự cố kết nhóm. Rõ
ràng, định nghĩa sự cố kết nhóm chỉ dựa vào sự hấp dẫn liên nhân cách là chưa dầy đủ và
chưa chỉ ra được bản chất thực sự của nó. Sự cố kết nhóm theo cách lý giải này chỉ đơn
thuần là một hiện tượng xúc cảm. Nó không đủ để lý giải sự thống nhất của một nhóm xã
hội.
Phương án thứ ba do L.Festinger đề xuất. L.Festinger cho rằng: “Sự cố kết nhóm là
tổ hợp các lực tác động đến các thành viên để giữ họ lại trong nhóm” (Myer D.G. 1996).
Các lực được hiểu là sự hấp dẫn của nhóm đối với cá nhân hay là sự hài lòng của cá nhân
đối với nhóm. Tất cả các nhân tố tạo ra sự hấp dẫn cá nhân đều đóng góp cho sự cố kết
nhóm. Sự cố kết nhóm là sức mạnh của sự hấp dẫn nội nhóm. Trong cách hiểu này sự cố
kết nhóm cũng chủ yếu được khai thác ở khía cạnh xúc cảm.
* Cách tiếp cận thứ hai: Coi sự cố kết nhóm đồng nhất với sự hấp dẫn giữa các
thành viên nhưng lý giải sự hấp dẫn đó không phải dựa trên các xúc cảm giữa các cá nhân
đơn thuần mà dựa trên tổ hợp các động cơ thúc đẩy cá nhân tiếp tục duy trì là một thành
viên của nhóm. Quan điểm này do D.Cartwright đưa ra, được gọi là cách tiếp cận nhu cầu
động cơ đối với nhóm. Trong mô hình của D.Cartwright sự cố kết nhóm được quy định
bởi một tổ hợp các biến số như: các nhu cầu và giá trị của chủ thể, sự kì vọng hay chờ đợi
của chủ thể về những điều kiện thuận lợi hay khó khăn mà nhóm đem lại, đánh giá chủ
quan về hệ quả của việc tham gia vào nhóm, các tính chất của nhóm có ý nghĩa đối với
nhu cầu và động cơ của chủ thể (Zaden J.V. 1994).
Theo mô hình nêu trên, động cơ trở thành thành viên nhóm chủ yếu được quy định
bởi các đặc điểm nhân cách của cá nhân chứ không phải được quy định bởi các thuộc tính
của nhóm. Các đặc trưng của nhóm chỉ có thể có tác dụng lôi cuốn, thúc đẩy cá nhân ở lại
với nhóm khi các đặc trưng đó đáp ứng được các nhu cầu tương ứng của cá nhân. Một gợi
ý rất quan trọng cho việc nghiên cứu sự cố kết nhóm từ ý tưởng này của D.Cartwring là
cần nghiên cứu sự tương ứng giữa 2 dãy biến số: đặc trưng của nhóm và đặc trưng nhu cầu
của cá nhân.
Tiếp tục phát triển quan điểm này, M.Robert và F.Tilman cho rằng: một thành viên
tham gia tương tác với các thành viên khác khi họ có được sự thỏa mãn từ sự tương tác đó.
Sức mạnh lôi cuốn của nhóm chính là ở chỗ nhóm có thể giúp cá nhân thỏa mãn cả những
nhu cầu riêng và các nhu cầu chung.
Từ đó có thể hiểu như sau: Sự cố kết là sự bền chặt của các mối quan hệ giữa các
thành viên nhóm như một chính thể được tạo thành bởi sự hấp dẫn xúc cảm lẫn nhau sự
thống nhất các giá trị, mục đích nhóm, được quy định bởi hoạt động cùng nhau của nhóm.
Khái niệm này coi sự cố kết như là một chỉnh thể. Sự cố kết không phải là sự cố kết
theo một loại quan hệ riêng lẻ, độc lập tách rời với các quan hệ khác trong tập thể. Trong
tập thể đồng thời tồn tại các quan hệ công việc và quan hệ liên nhân cách. Mỗi kiểu quan
hệ đều có sự bền chặt (hoặc ít bền chặt hơn) của nó. Các quan hệ đó trong tập thể không
tồn tại tách biệt, song song mà đan xen vào nhau, thâm nhập vào nhau. Trong quan hệ
công việc có quan hệ liên nhân cách, trong quan hệ liên nhân cách không loại trừ yếu tố
công việc. Chính sự đan xen các quan hệ khác nhau này tạo nên một nhóm nhỏ với tư cách
là một chỉnh thể Tâm lý sống động. Do vậy, sự cố kết nhóm phải được coi là một chỉnh
thể, là sự bền chặt của các quan hệ trong nhóm nhỏ. Đồng thời chính sự bền chặt của các
loại quan hệ khác nhau tạo ra sự tương tác, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên
nhóm. Điều này tạo ra một “ranh giới” nhóm nhỏ - như là 1 hệ thống - tương đối độc lập
với các nhóm nhỏ khác. Cách hiểu này không quy sự cố kết nhóm nhỏ về một loại quan hệ
cụ thể, cho nên nó tạo điều kiện để có thể thấy được “tính trồi” của sự cố kết nhóm mà sự
cố kết của các loại quan hệ riêng lẻ trong nhóm không có được.
Bên cạnh đó, khái niệm này cũng đã đề cập đến các phần tử (các yếu tố) tạo ra sự cố
kết chỉnh thể. Có thể gọi đó là các thành tố của sự cố kết, bao gồm: sự hấp dẫn xúc cảm
giữa các thành viên, sự thống nhất các giá trị và sự thống nhất mục đích. Mỗi thành tố này
tạo ra một sức mạnh riêng để lôi cuốn, duy trì, giữ các thành viên lại với nhóm. Với tư
cách là các cố kết thành phần, chúng có tính chất, vai trò không giống nhau trong việc tạo
ra sự cố kết chỉnh thể. Nhưng điều quan trọng cần nhấn mạnh là chúng tác động qua lại,
chuyển hóa và bổ sung cho nhau để tạo ra chất lượng mới mà từng cố kết thành phần
không thể có.
Khái niệm này cũng được xây dựng trên nguyên tắc hoạt động, coi nhóm là một chủ
thể hoạt động và là một chỉnh thể tâm lý. Trong Tâm lý học xã hội, nhóm cũng như nhân
cách, được xem xét với tư cách là chủ thể lựa chọn các mục đích, các giá trị. Sự cố kết
nhóm nhỏ được hình thành và phát triển cùng với hoạt động của nhóm. Điều này phù hợp
với quan niệm của tâm lý học hoạt động về sự hình thành và phát triển của các hiện tượng
tâm lý. Nếu coi nhóm là một chủ thể hoạt động rõ ràng cố kết nhóm là một hiện tượng tâm
lý nhóm chứ không phải là các hiện tượng tâm lý cá nhân và hiện tượng tâm lý đó sẽ được
hình thành và phát triển trong hoạt động của chủ thể - nhóm nhỏ. Cách hiểu này giúp hạn
chế được sự phụ thuộc thái quá vào trắc đạc xã hội như một cách thức duy nhất để có được
sự cố kết cao trong nhóm. Đồng thời nó gợi ý một hướng tác động đến nhóm để có được
sự cố kết thực sự bền vững - tác động thông qua hoạt động nhóm.
b) Vai trò của sự cố kết
* Cố kết nhóm và cấu trúc nhóm: Nếu coi cấu trúc nhóm là mối liên hệ giữa các
thành phần để tạo ra một nhóm thống nhất, bền vững và cấu trúc nhóm có thể có nhiều
thành tố khác nhau thì rõ ràng không thể thiếu sự cố kết nhóm. Nếu không có sự cố kết,
nhóm không thể có một cấu trúc ổn định và bền vững, sự cố kết giúp gắn các cá nhân vào
các cấu trúc quan hệ. Ngược lại sự cố kết chính là cố kết theo các mối quan hệ liên nhân
cách, không có cố kết nằm ngoài các mối quan hệ liên nhân cách. Điều cần nhấn mạnh ở
đây là sự thống nhất giữa cố kết nhóm và cấu trúc nhóm. Cố kết nhóm làm cấu trúc nhóm
trở lên chặt chẽ, biến cấu trúc đó thành một chỉnh thể sống động.
* Sự cố kết và các chuẩn mực nhóm: Các nghiên cứu cho thấy những đặc trưng của
nhóm như tính thân thiện, sự hấp dẫn giữa các thành viên có ảnh hưởng đến các hành vi
tuân theo chuẩn mực nhóm của cá nhân. Sự cố kết nhóm làm tăng ảnh hưởng xã hội của
nhóm đối với cá nhân (tăng tính lệ thuộc nhóm) (Festinger, Gerard, Kelley. 1952). Ngược
lại một trong những nguyên nhân tạo ra những hành vi lệch chuẩn là sự thiếu hấp dẫn của
nhóm đối với cá nhân. Đề cập tới mối quan hệ giữa chuẩn mực nhóm và sự cố kết nhóm,
G.M.Anđrêeva cho rằng nghiên cứu quá trình một tập hợp các cá nhân biến thành một
nhóm, cần phải nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm, quá trình các cá
nhân chia sẻ các mục đích chung của nhóm. Sự phân tích đó lại dẫn tới việc nghiên cứu sự
hình thành cố kết nhóm. Như vậy sự cố kết nhóm không tách rời với các quá trình hình
thành chuẩn mực nhóm và việc thực hiện chức năng của hệ thống chuẩn mực nhóm. Một
mặt nó cùng với quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm và hệ thống chuẩn mực nhóm
đảm bảo cho sự thống nhất, ổn định của nhóm. Mặt khác nó thúc đẩy sự tuân thủ chuẩn
mực nhóm của các thành viên.
* Mối quan hệ giữa sự cố kết nhóm và tính hiệu qua của nhóm dường như rất rõ
ràng. Ngay trong những nghiên cứu của trường phái “Động thái nhóm” đã chỉ ra những
đặc trưng chung của tính hiệu quả của hoạt động nhóm: tính hiệu quả của hoạt động nhóm
phụ thuộc vào sự cố kết nhóm, vào phong cách lãnh đạo, vào phương thức ra quyết định
nhóm... Tính hiệu quả ở đây, liên quan đến các thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, chủ
yếu được xem xét ở phương diện giải quyết nhiệm vụ đặt ra trước nhóm và do vậy sau này
tính hiệu quả của nhóm bị quy về hiệu quả hoạt động. Một số tác giả khác coi một nhóm là
hiệu quả khi: “Các thành viên trong nhóm cùng thảo luận các mục tiêu, đánh giá các ý
tưởng đưa ra các quyết định và làm việc theo những mục tiêu đã định”. Cách hiểu như vậy
là chưa đầy đủ nếu coi nhóm là một chủ thể hoạt động. Tính hiệu quả của nhóm cần được
xem xét cả hai ở hai phương diện: kết quả của công việc cùng nhau (kết quả của hoạt
động) và sự hài lòng của các thành viên nhóm đối với hoạt động chung của nhóm (phương
diện liên nhân cách).
Như vậy theo cách nhìn nhận coi cố kết nhóm là một quá trình chứ không chỉ là kết
quả thì tính hiệu quả nhóm (thể hiện ở kết quả) là kết quả cuối cùng của toàn bộ các quá
trình nhóm đó, trong đó có sự đóng góp của cố kết nhóm. Việc sử dụng trắc đạc xã hội để
hình thành các nhóm cố kết cao với mong muốn có được một nhóm hoạt động có hiệu quả
cao trong hoạt động của nhóm (thể hiện ở kết quả cụ thể của hoạt động cùng nhau) là một
minh chứng cho mối quan hệ giữa cố kết nhóm và tính hiệu quả nhóm.
Trên phương diện quan hệ liên nhân cách, E.Shaw cho rằng thành viên của các
nhóm cố kết cao nhìn chung thỏa mãn cao hơn với hoạt động chung của nhóm so với
thành viên của nhóm cố kết thấp. Các tác giả khác khẳng định cố kết nhóm làm tăng tương
tác và giao tiếp giữa các thành viên nhóm, đặc biệt là tăng chất lượng các tương tác (Lot &
Lot. 1951, Moran 1966). Theo quan điểm hoạt động, sự hài lòng với hoạt động cùng nhau
không chỉ là biểu hiện của tính hiệu quả mà ý nghĩa quan trọng hơn của nó là ở vai trò gắn
kết các thành viên và thúc đẩy sự phát triển nhóm. Sự cố kết nhóm do vậy làm tăng tính
hiệu quả nhóm ở 2 khía cạnh: 1) Tăng sự hài lòng trong công việc chung; 2) Tăng hiệu quả
lao động.
2. Sự cố kết trong tập thể
Tuy sự cố kết nhóm (biểu hiện rõ nhất là sự đoàn kết, sự nhất trí, sự phối hợp hành
động là một chỉ số quan trọng đánh giá sự phát triển của nhóm) không phải là chỉ số quyết
định sự khác nhau giữa nhóm và tập thể. Nhưng là một chỉ số quan trọng đánh giá sự phát
triển của nhóm.
Nhóm càng phát triển cao thì sự liên kết càng chặt chẽ, hiệu quả của hoạt động
chung càng cao. Biểu hiện quan trọng nhất của sự liên kết nhóm là sự đoàn kết nhóm.
a) Khái niệm sự cố kết với tư cách là sự thống nhất giao tiếp nhóm
Cố kết là một thông số quan trọng phân biệt nhóm phát triển thấp và tập thể - quan
điểm này được thể hiện rõ trong Tâm lý học xã hội Mỹ.
* Quan niệm về sự cố kết trong Tâm lý học Mỹ.
Đây là vấn đề được các nhà tâm lý học xã hội phương Tây chú ý nhiều. Các tác giả
Mỹ quan niệm “cố kết” với hai biểu hiện cơ bản sau:
- “Cố kết” là hiệu quả của sự tác động của nhóm tới các thành viên, sức lôi cuốn của
nhóm với các thành viên trong nhóm củng cố mối liên hệ giữa các thành viên làm cho các
thành viên có ý thức về nhóm của mình.
- “Cố kết” biểu hiện trong hiệu quả công việc, trong tính “cộng đồng” trong hoạt
động, lôi cuốn mọi người vào hoạt động chung.
Từ đó, các chỉ số của sự cố kết được xác định bởi:
- Mức độ giao tiếp trong nhóm, tần số (số lần giao tiếp trong một đơn vị thời gian và
cường độ giao tiếp trong nhóm).
- Số lượng và tính chất qua lại của sự lựa chọn lẫn nhau kể cả tích cực và tiêu cực.
Ví như, G.Hoffman cho rằng phải xác định sự cố kết bằng tần số giao tiếp, số lần
tiếp xúc và cả thời hạn của giao tiếp. Vì ông cho đó là kết quả của sự thống nhất bên trong
nhóm, tăng số lần giao tiếp (một cách nhân tạo cũng được) sẽ làm cho nhóm từ ít cố kết
đến chỗ cố kết. Theo ông, có tiếp xúc thường xuyên sẽ dẫn đến sự thống nhất chuẩn mực
nhóm.
Trong khi đó J.Moreno thì cho rằng: muốn cho nhóm có sự cố kết tốt thì phải loại
bỏ những thành viên bị từ chối trong nhóm, bổ sung bằng những người được nhóm lựa
chọn.
Như vậy sự cố kết được xem là một cộng đồng xúc cảm tâm lý. Các tác giả đưa ra
hai thành phần của sự cố kết đó là: sự “đồng thuận” và “sự hấp dẫn”: T.Newcomb đưa ra
thuật ngữ “đồng thuận” nhưng làm thế nào để đo được sự hài lòng thì lại đo bằng tần số
những tác động qua lại. Ông đã đồng nhất sự đoàn kết với những đặc điểm xúc cảm tâm
lý: “Một hình thái giao tiếp bất kì có kết quả của nó là sự tăng cường mức độ “đồng
thuận”. Ông cho rằng “đồng thuận” là kết quả của sự giao tiếp trước đó và quy định sự
giao tiếp sau đó.
Sự “đồng thuận” là một trong những cơ chế hình thành chuẩn mực nhóm, là một
trong những phương thức truyền lại những phong tục, tập quán của thế hệ này cho thế hệ
khác.
Thành phần thứ hai là “sức hấp dẫn” của nhóm với các thành viên. Biểu hiện của nó
là ở sự thỏa mãn các nhu cầu cá nhân khi nhu cầu này chỉ có thể thỏa mãn trong giao tiếp
trong nhóm.
Chỉ số để đo sức hấp dẫn của nhóm đối với các thành viên cũng được đo bằng sự
lựa chọn lẫn nhau: “Sức hấp dẫn” gắn chặt với “sự đồng thuận”. Mức độ “đồng thuận” cao
sẽ dẫn đến “sức hấp dẫn” lớn.
Tóm lại: Sự cố kết trong tập thể đặc trưng bằng sự gắn bó qua lại giữa các thành
viên - bằng mức độ cao hay sức mạnh của sự hấp dẫn lẫn nhau và sức hấp dẫn của nhóm
với các thành viên, bằng sự đồng thuận trong thái độ đối với người xung quanh và ý thức
về sự đồng thuận đó.
* Quan điểm trong tâm lý học Xô viết:
Những đặc trưng về cố kết do các nhà tâm lý học xã hội Mỹ đưa ra có vẻ đúng và
khó bác bỏ. Nhưng các tác giả này đã không chỉ rõ được mặt chất lượng của các đặc trưng
giao tiếp nhằm mục đích gì, do động cơ nào chi phối. Nếu chỉ xét về tần số giao tiếp và sự
đồng thuận là chưa đủ.
Nhưng nó có hạt nhân hợp lý là trong giao tiếp bao giờ cũng có màu sắc xúc cảm: từ
ác cảm đến thờ ơ và đến thiện cảm. Nhưng đó chỉ là cơ chế là con đường dẫn đến cố kết.
Sự cố kết trong tập thể phải tính đến: Mức độ thống nhất của tập thể về mục đích, nhiệm
vụ, lý tưởng chung, có ý nghĩa thế nào. Trong quan hệ liên nhân cách thể hiện tình đồng
chí và sự giúp đỡ lẫn nhau.
Đến nay, nhiều tác giả khẳng định rằng giao tiếp trong tập thể là tiền đề cho sự cố
kết, là cơ chế hình thành sự cố kết. Nhưng bản chất cố kết trong tập thể là gì vẫn là vấn đề
chưa được chỉ rõ.
b) Đoàn kết với tư cách là sự thống nhất định hướng giá trị
Nói đến sự cố kết trong nhóm là phải nói đến biểu hiện của nó về mặt chất lượng
trong hoạt động chung: sự thống nhất định hướng giá trị. Đây là một chỉ số của sự cố kết
nhóm.
Sự thống nhất định hướng giá trị biểu hiện như là những đặc trưng liên kết của hệ
thống các mối liên hệ bên trong nhóm. Sự liên kết này chỉ rõ trình độ và mức độ trùng hợp
những ý kiến, sự đánh giá, tâm thế trong quan hệ và quan điểm của nhóm về các đối tượng
có ý nghĩa đối với nhóm.
Chỉ số của sự cố kết tập thể là tần số trùng hợp có ý kiến hay quan điểm của các
thành viên với quan điểm chung, ý nghĩa của chỉ số này là ở chỗ:
- Chỉ số này có thể cho phép so sánh mức độ tính có tổ chức của các loại nhóm hoặc
mức độ phát triển chính nhóm đó trong các thời kì khác nhau.
- Khi hiểu được các chỉ số này chúng ta hiểu sâu sắc hơn tính chất các mối quan hệ
qua lại trong nhóm, tập thể.
Mức độ trùng hợp (thống nhất) ý kiến, đánh giá quan điểm của các cá nhân không
chỉ do giao tiếp trong nhóm, tập thể, mà là kết quả của hoạt động cùng nhau một cách tích
cực - hoạt động cùng nhau đòi hỏi hợp tác, thống nhất tâm thế, định hướng giá trị, động cơ
hoạt động.
Nhưng sự thống nhất định hướng giá trị với tư cách là chỉ số của sự cố kết hoàn toàn
không có nghĩa là các thành viên phải có sự đánh giá, có quan điểm giống nhau trong tất
cả mọi lĩnh vực, mà trong đó mỗi cá nhân vẫn còn những quan điểm, có cách đánh giá
riêng. Đặc biệt trong những vấn đề không đụng chạm đến các giá trị chung của tập thể.
Thống nhất định hướng giá trị trước hết là sự gần gũi trong cách đánh giá về lĩnh vực đạo
đức, về công việc, về quan điểm đối với mục đích và nhiệm vụ của hoạt động chung.
Sự thống nhất định hướng giá trị chỉ bắt đầu có ở tầng thứ hai trong cấu trúc theo
tầng của tập thể và chỉ thật chắc chắn ở tầng thứ ba. Đó là tầng cá nhân có cùng một thái
độ đối với đối tượng của hoạt động. Có thể nói tầng thứ ba là hạt nhân của tập thể.
c) Những quá trình đồng nhất hóa trong tập thể
Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của sự cố kết trong tập thể là sự
giao lưu tình cảm của cá nhân với tập thể. Sống trong tập thể, cá nhân hoặc có ý thức, hoặc
không có ý thức đồng nhất mình với tập thể.
Đồng nhất với tập thể là thái độ đồng cảm với mọi người trong mọi biến cố thành
công hay thất bại trạng thái tình cảm chung của tập thể nhằm hoàn thành nhiệm vụ đã đặt
ra. Biểu hiện của đồng nhất với tập thể là: hoà mình với trạng thái chung của tập thể, biến
thái độ thành động cơ hành động. Đây là một tiêu chuẩn nói lên mức độ phát triển quan hệ
cá nhân trong tập thể và mức độ đoàn kết trong tập thể.
Sự phát triển của sự đồng nhất này từ chỗ lây lan xúc cảm bình thường đến mức có
nhu cầu cùng thể nghiệm các xúc cảm (đồng cảm) và nó phát triển trong quá trình sống
của cá nhân trong tập thể.
Tập thể là nơi có các quan hệ gần gũi nên là điều kiện thuận lợi cho việc nảy sinh sự
đồng nhất xúc cảm mà trong nhóm phân tán không có. Vì thế, hiện tượng đồng nhất xúc
cảm là một thông số đặc biệt của mức độ phát triển quan hệ liên nhân cách trong tập thể.
Đồng nhất xúc cảm bắt đầu có ở lớp thứ hai của cấu trúc quan hệ liên nhân cách trong tập
thể.
Như vậy, cùng với các chỉ số khác như: đồng nhất xúc cảm, thống nhất định hướng
giá trị cho phép phân biệt mức độ phát triển nhóm để xác định xem nhóm đã là một tập thể
thực sự chưa.
3. Tinh thần tập thể
a) Hiện tượng xu thời (theo đuôi, a dua) và áp lực nhóm
Một trong các phương pháp giải quyết xung đột giữa cá nhân và nhóm là xu hướng
xu thời. Xu thời là sự nương theo áp lực nhóm, là sự đồng nhất bắt buộc theo hành vi
nhóm.
Những nghiên cứu nổi bật trong vấn đề này thuộc về: L.Festinger. Theo tác giả này
có khoảng 1/3 (33%) người Mỹ không có tính tự lập khi giải quyết các vấn đề mà phải
theo ý kiến của nhóm (tập thể) có cách xử sự theo đuôi số đông (có 2/3 giữ được ý kiến
riêng). Tức là trong nhận thức của số này có mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa ý kiến riêng và ý
kiến của nhóm nhưng phải theo ý kiến của nhóm.
Các thí nghiệm khác cũng cho thấy: trong các thành viên thí nghiệm, nhiều người
thấy trong nhận thức của mình có mâu thuẫn nhưng vẫn theo quyết định như vậy là do
nhóm. Như vậy nhóm đã tạo ra áp lực - áp lực này buộc các cá nhân tuân theo. Bên cạnh
đó, áp lực của nhóm phụ thuộc vào số lượng các cá nhân có sự tương đồng ý kiến. Các
nghiên cứu cho thấy: nếu nhóm gồm 1 - 2 người thì không có hiệu quả, nhưng 3 - 4 người
thì hiệu quả. Tuy nhiên tăng số lượng cá nhân liên kết với ý kiến do thì kết quả cũng vẫn
dừng lại. Chứng tỏ có một số người rất kiên định. Thông thường người ta chỉ sắp xếp từ 6
đến 8 người trong nhóm là vừa. Nghiên cứu của các tác giả Xô viết cho thấy: Dạng a dua
chung nhất có thể thấy đó là hành vi phù hợp những tiêu chuẩn nhất định của nhóm hoặc
phù hợp với sự mong đợi của nhóm.
Theo các nhà Tâm lý học xã hội Mỹ, mức độ phù hợp hành vi của cá nhân với sự
mong đợi của nhóm là tiêu chuẩn cho tính a dua.
Nhưng cần lưu ý rằng a dua có những tính chất khác nhau. Sự bắt buộc thực hiện
hành vi của cá nhân theo ý kiến và áp lực nhóm có thể do bên trong và bên ngoài. Nếu do
bên ngoài thì cá nhân lại vẫn giữ lại ý kiến của mình sau khi rời khỏi nhóm - áp lực nhóm
mất hiệu lực.
Nếu do bên trong thì cá nhân vẫn bảo vệ ý kiến của nhóm khi nhóm thôi không gây
áp lực nữa.
Như vậy sự “theo đuôi, a dua” trong nhóm mà không có sự mâu thuẫn giữa quan
điểm của cá nhân với áp lực bên ngoài (áp lực nhóm) thì có thể gọi là sự ám thị nhóm (tin
chắc nhóm đúng). Trong khi hành vi theo đuôi có bản chất tâm lý là sự sợ hãi bị tách khỏi
tập thể, theo đuôi một cách có ý thức hẳn hoi (biết là mình nghĩ khác) và do vậy, theo đuôi
vì ý kiến của tập thể để xu thời, từ bỏ lợi ích cá nhân. Nói cách khác, cơ chế tâm lý của sự
ám thị nhóm khác với cơ chế hành vi “theo đuôi” ở bản chất tâm lý bên trong của nó. Mặc
dù bên ngoài là có sự giống nhau: đều tuân theo hành vi của nhóm.
Trường hợp “ám thị nhóm” thì diễn ra sự tự điều chỉnh hoạt động của cá nhân dưới
ảnh hưởng của quan điểm và ý kiến nhóm một cách vô ý thức, không cần phê phán (vì
luôn luôn tâm niệm nó đứng rồi, không nghĩ đến nó nữa).
Vấn đề áp lực nhóm trong những công trình về “theo đuôi” đã cho ta hiểu thêm một
số đặc điểm về sự tác động qua lại giữa cá nhân và nhóm. Sự tác động đó làm nảy sinh
trong hiện tượng xu thời.
Ngược lại với tính a dua, theo đuôi, là “tính kiên định” của nhân cách (trong tình
huống nào cũng giữ vững ý kiến, không theo đuôi). Tính kiên định thể hiện sự độc lập,
chắc chắn của cá nhân trong việc phải đưa ra quyết định cho một sự lựa chọn, bị sự tự xác
định của cá nhân trong tập thể.
b) Sự tự xác định của cá nhân trong tập thể
Sự tự xác định ở đây khác với theo đuôi và cũng khác với ám thị nhóm (cứ tin nhóm
là đúng). Tự xác định là sự suy nghĩ (và hành động) theo những tư tưởng chung của tập
thể, theo những mục đích và giá trị chung của tập thể và hành động phù hợp với ích chung
của tập thể.
Nói khác đi đó là giác ngộ mục đích của tập thể và tự nguyện hành động để đạt mục
đích đó. Như vậy ở đây có sự trùng hợp quan điểm của cá nhân với quan điểm chung, với
yêu cầu của tập thể chứ không hề có áp lực với cá nhân.
Vì cá nhân hướng tới giá trị chung mà mọi người cũng cùng thừa nhận. Các giá trị
đã được nội tâm hóa và trở thành chân lý cho chính bản thân cá nhân. Sự tự giác của cá
nhân biểu hiện rõ nhất khi có sự mâu thuẫn giữa các giá trị của nhóm với áp lực của nhóm.
Khi hướng vào giá trị chung của tập thể có thể xảy ra tình trạng cá nhân mâu thuẫn với áp
lực của nhóm. Đó là lúc cá nhân nhận thức được áp lực nhóm đi ngược lại giá trị chung
của tập thể và trong trường hợp đó cá nhân đã tỏ rõ bản lĩnh và tính độc lập của mình. Còn
kẻ theo đuôi (xu thời) sẽ thỏa hiệp với áp lực của nhóm.
Sự tự giác có tính chất tập thể nảy sinh khi các hành vi của cá nhân được xác định
không bị ảnh hưởng trực tiếp của áp lực nhóm hay phẩm chất tâm lý của người khác mà bị
ảnh hưởng của mục đích nhiệm vụ chung.
Đây là chỗ khác giữa tập thể và nhóm phân tán, nhóm phân tán có thể có mâu thuẫn
giữa các nhóm nhỏ trong đó. Còn tập thể thì khi đã tự xác định tính tập thể thì thống nhất
cá nhân - nhóm - tập thể.
Trong lĩnh vực niềm tin đạo đức, các thực nghiệm đã được tiến hành cho thấy: Dưới
áp lực của nhóm gài vẫn nhiều người giữ vững niềm tin của mình. Điều đó chứng tỏ là cá
nhân có sự tự xác định theo yêu cầu tập thể.
III. MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI CƠ BẢN TRONG ĐỜI SỐNG TẬP THỂ
1. Thủ lĩnh trong tập thể
* Khái niệm: Trong một tập thể bao giờ cũng xuất hiện những người cầm đầu các
nhóm không chính thức (nhóm tự phát). Những người đó được coi là thủ lĩnh. Đây là hiện
tượng bình thường trong quá trình phát triển của tập thể như là kết quả của sự tác động qua
lại mang tính chất liên nhân cách. Thủ lĩnh và thủ trưởng có gì khác nhau?
- Thủ trưởng: là người đứng đầu một nhóm chính thức đảm nhiệm việc lãnh đạo
quản lý nhóm. Thủ trưởng xuất hiện do yêu cầu từ bên ngoài. Do yêu cầu của hoạt động
chung người ta phải bổ nhiệm hoặc cho bầu thủ trưởng.
- Thủ lĩnh: là người cầm đầu một nhóm không chính thức. Thủ lĩnh xuất hiện do yêu
cầu của nội bộ nhóm tự phát - mọi người tự nguyện thừa nhận người cầm đầu chứ không
phải do bên ngoài áp đặt vào.
Thủ lĩnh và thủ trưởng đều có chức năng điều khiển hoạt động chung của nhóm và
điều chỉnh các mối quan hệ trong nhóm nhưng bằng các phương thức khác nhau. Một bên
là bắt buộc còn một bên là tự giác.
* Có nhiều loại thủ lĩnh:
- Căn cứ vào phong cách có ba loại:
+ Thủ lĩnh độc đoán: tự quyết mọi vấn đề, không cần ý kiến của người xung quanh.
+ Thủ lĩnh dân chủ: quyết định dựa trên căn cứ của những người xung quanh.
+ Thủ lĩnh pha trộn: pha trộn giữa độc đoán và dân chủ.
- Căn cứ vào đặc điểm hoạt động có hai loại thủ lĩnh:
+ Thủ lĩnh vạn năng: tình huống nào cũng cầm đầu.
+ Thủ lĩnh tình huống: chỉ cầm đầu trong từng tình huống.
- Căn cứ vào nội dung hoạt động có ba loại:
+ Thủ lĩnh đề xuất: loại này chỉ nghĩ ra việc, không làm.
+ Thủ lĩnh thực hiện: chỉ thực hiện các quyết định của nhóm.
+ Thủ lĩnh vừa đề xuất vừa thực hiện: nghĩ được mà tổ chức làm cũng được.
- Căn cứ vào mức độ công khai làm thủ lĩnh trong tập thể có hai loại:
+ Thủ lĩnh công khai: công khai làm thủ lĩnh ai cũng biết.
+ Thủ lĩnh ngầm: không công khai làm thủ lĩnh nhưng ai cũng tín nhiệm nghe theo
khi phát biểu. Loại này chỉ xuất hiện tùy từng tình huống.
* Vai trò của thủ lĩnh trong tập thể.
Thủ lĩnh và thủ trưởng có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp. Trường hợp lý tưởng
là hai vai trò này trùng hợp với nhau. Trong trường hợp không trùng hợp vai trò của thủ
lĩnh có thể có hai mặt:
- Vai trò tích cực nếu muốn giúp tập thể.
- Vai trò tiêu cực khi không muốn giúp tập thể. Đặc biệt nếu thủ lĩnh bất đồng quan
điểm với thủ trưởng, không ủng hộ thủ trưởng thì tập thể sẽ khó đoàn kết. Nếu thủ trưởng
không mạnh mẽ, cứng rắn thì thủ lĩnh dễ lấn át thủ trưởng. Một tập thể sẽ là tập thể lý
tưởng khi thủ trưởng và thủ lĩnh là một.
Trong trường hợp không trùng hợp, thủ trưởng cần khéo léo lôi kéo tận dụng vai trò
của thủ lĩnh đối với công việc chung.
2. Sự tương hợp Tâm lý trong nhóm
Sự tương hợp tâm lý là một khía cạnh của mối quan hệ liên nhân cách hình thành
giữa các cá nhân trong nhóm. Nó biểu hiện sự hài hòa của quan hệ giữa các cá nhân. Theo
ý nghĩa này, sự tương hợp ngược lại với sự xung đột liên nhân cách.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về sự tương hợp tâm lý.
Theo N.N.Ôbôzôv, tương hợp là sự kết hợp và tác động lẫn nhau thể hiện sự hài
lòng cao giữa các cá nhân. Quan điểm khác lại nhấn mạnh tương hợp ở khía cạnh sự thích
ứng lẫn nhau của các cá nhân trong hoạt động chung. Theo tác giả này, có 3 cách tiếp cận
đối với với hiện tượng tương hợp tâm lý: cấu trúc (xem xét sự giống nhau hay khác biệt
của các đặc điểm cá nhân của các thành viên); chức năng (kết quả của sự thống nhất chức
năng nội nhóm và vai trò của các thành viên) và thích nghi.
Một cách phổ biến có thể hiểu: sự tương hợp tâm lý là sự kết hợp thuận lợi nhất các
đặc điểm tâm lý cá nhân của các thành viên trong nhóm đảm bảo cho công việc chung
cũng như sự hài lòng cá nhân đều đạt ở mức độ cao.
Như vậy, sự tương hợp có hai dấu hiệu cơ bản:
- Tương hợp là sự kết hợp thuận lợi các đặc điểm tâm lý cá nhân.
- Đảm bảo cho công việc đạt kết quả cao đồng thời đảm bảo cho sự hài lòng giữa
các cá nhân cũng ở mức độ cao.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện này sẽ không phải là tương hợp.
Sự kết hợp các đặc điểm tâm lý cá nhân có thể theo hai hướng khác nhau: bù trừ cho
nhau hoặc tương đương nhau. Có sự tương hợp dựa trên cơ sở bù trừ những khiếm khuyết
của các cá nhân để tạo ra sự hoàn thiện hơn. Sự bù trừ đó giúp các cá nhân đạt được kết
quả cao hơn trong công việc cũng như đem lại cảm giác an toàn về tâm lý cho các cá nhân.
Loại tương hợp dựa trên sự tương đồng của các đặc điểm tâm lý giúp các cá nhân dễ dàng
thống nhất mục đích, hành vi.
Có ba mặt tương hợp:
- Tương hợp sinh lý: gồm sự tương hợp về sức khỏe, một số chỉ số sinh lý... mặt này
cần sự tương đương.
- Tương hợp tâm sinh lý.
- Tương hợp tâm lý: gồm sự tương hợp về nhận thức, khả năng nhận thức, tính cách
của cá nhân, định hướng giá trị và một số vấn đề khác.
Trong đó tương hợp tâm lý là quan trọng nhất.
Mặt này đòi hỏi sự tương hợp tương đương. Đòi hỏi về sự tương hợp cả ba mặt này
thể hiện rõ nhất trong quan hệ vợ chồng.
Trong nhóm, sự tương hợp có vai trò quan trọng:
- Tạo ra bầu không khí tâm lý thoải mái, lành mạnh, đoàn kết trong tập thể, do đó
nâng cao được năng suất lao động, chất lượng học tập, thành tích thi đấu thể thao... Tinh
thần các thành viên nhóm luôn thỏai mái.
- Tập thể gồm toàn những người tương hợp với nhau gọi là tập thể đồng tâm - luôn
đạt hiệu quả công việc cao, lại tránh được xung đột trong tập thể.
3. Bầu không khí tập thể
* Khái niệm: Là trạng thái tâm lý chung của tập thể, phản ánh tính chất, nội dung và
xu hướng tâm lý thực tế của các thành viên trong tập thể đó.
- Trạng thái tập thể ở đây chủ yếu là tâm trạng của các thành viên trong tập thể.
- Trạng thái này cho biết là mức độ thỏa mãn các nhu cầu của tập thể, mức độ thỏa
mãn các nguyện vọng của các thành viên và kể cả mức độ tương hợp của các thành viên
trong tập thể.
- Cơ chế sinh ra bầu không khí tâm lý là sự lây lan tâm lý từ người này sang người
khác.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý.
- Hoàn cảnh sống và hoạt động của các thành viên chi phối quan hệ giữa các cá
nhân dẫn đến chi phối bầu không khí tâm lý.
- Lề lối và phong cách làm việc của người lãnh đạo.
- Tính chất của các mối quan hệ trong tập thể.
- Những biến cố lớn của xã hội - gây một tâm trạng chung nên có ảnh hưởng đến
bầu không khí trong tâm lý.
- Bản thân tính chất lao động.
- Mức lương.
- Uy tín nghề nghiệp.
- Vị trí công tác, khả năng quan hệ với người khác.
- Khả năng phát triển của nghề nghiệp.
- Những đặc điểm và điều kiện cụ thể của nghề nghiệp, địa điểm công tác, địa điểm
cơ quan, chế độ làm việc, tính chất các mối quan hệ ở cơ quan.
Các yếu tố này chi phối đến sự thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân, từ đó ảnh hưởng
đến các mối quan hệ và ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý.
* Điều kiện để xây dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh:
- Chú ý thích đáng đến mối quan hệ giữa các cá nhân trong tập thể, tạo điều kiện
cho mọi người hiểu và thông cảm với nhau.
- Phân công trách nhiệm rõ ràng, có sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.
- Lãnh đạo có phong cách phù hợp và lưu ý:
+ Quan tâm đến tập thể, có phương pháp lãnh đạo phù hợp với tính chất và mức độ
phát triển của tập thể.
+ Thận trọng khi nhận xét đánh giá cấp dưới.
+ Phối hợp với các cơ quan tập thể bạn để giải quyết các vướng mắc, các nguyên
nhân gây ra căng thẳng tâm lý trong tập thể khi các nguyên nhân này nằm ngoài tập thể
mình phụ trách.
4. Dư luận xã hội (tập thể)
a) Khái niệm
- Dư luận xã hội là tổng thể những nhận xét đánh giá của nhiều người về một sự
kiện, hiện tượng nào đó ít nhiều liên quan đến quyền lợi của họ.
- Dư luận là ý kiến của nhiều người.
- Ý kiến về những sự kiện ít nhiều liên quan đến quyền lợi, sở thích, mối quan tâm...
của những người đó.
- Đây là nhận xét đánh giá của nhiều người có kèm với sự biểu thị thái độ và gắn
với hành động xã hội của một cộng đồng.
Lưu ý: Có một hiện tượng gần gũi với dư luận xã hội - đó là tin đồn. Tin đồn là một
phát ngôn thông tin bình thường. Tin đồn cũng được nhiều người chú ý và truyền đạt cho
nhau và nhanh chóng lan ra một diện rộng.
- Dư luận xã hội là một chỉ báo chính xác nhận về thực trạng tinh thần tư tưởng của
một cộng đồng.
b) Phân biệt dư luận xã hội (DLXH) và tin đồn
* Giống nhau:
- Đều là hiện tượng tinh thần, tâm lý của mỗi nhóm người.
- Có nguồn gốc từ một sự kiện nào đó.
- Đều lan truyền nhanh và dễ biến dạng từ một sự thật có thể cấu trúc lại và có
thể khác đi.
- Đều chịu sự chi phối của nhu cầu, lợi ích cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp.
* Khác nhau:
- Về mức độ tham gia của các thành tố tinh thần trong cấu trúc của tin đồn và dư
luận xã hội:
+ Mức độ của sự thận trọng DLXH lớn hơn ở tin đồn. DLXH hình thành từ các
thông tin chính thức, khá đầy đủ còn tin đồn thì ngược lại.
+ Thành phần DLXH là trí tuệ cùng với cảm xúc và ý chí còn tin đồn chủ yếu diễn
ra trên nền cảm xúc chủ quan.
+ DLXH có tranh luận trao đổi dẫn đến đánh giá chung - từ tâm lý cá nhân hình
thành tâm lý xã hội, do đó mang tính khách quan cao hơn. Tin đồn đề cao chính kiến cá
nhân nên dễ bị xuyên tạc.
+ DLXH phản ánh một sự kiện rõ ràng có liên quan đến số đông. Tin đồn đề cập
một vấn đề chưa rõ ràng, liên quan đến ít người.
- Sự khác nhau về sự thể hiện trong xã hội:
+ DLXH lan truyền bằng nhiều hình thức, cả chính thức và không chính thức, tin
đồn truyền bằng con đường không chinh thức.
+ DLXH là nhận xét, đánh giá, biểu thị thái độ của cộng đồng, còn tin đồn chỉ là
thông tin bình thường về sự kiện theo kiểu mô tả lại, có cải biến thêm thắt.
+ DLXH có vai trò tích cực hơn tin đồn, đánh giá, điều chỉnh hành vi, tư vấn giáo
dục. Tin đồn chỉ truyền tin không có các chức năng trên.
+ DLXH gắn bó với hành động xã hội tiếp theo sự đánh giá nhận xét. Tin đồn
không có hành động hoặc đôi khi có thể có hành động bột phát thiếu cơ sở.
c) Bản chất của dư luận xã hội
- Dư luận là một quá trình trí tuệ, là quá trình lý trí của quần chúng nhưng có mang
màu sắc cảm xúc.
- Dư luận chịu sự chi phối của hệ tư tưởng, luồng dư luận chính thống, vào luồng dư
luận phù hợp với hệ tư tưởng chính thống của xã hội. Do đó trong xã hội có giai cấp thì dư
luận của các giai cấp khác nhau về cùng một sự kiện có thể khác nhau do mức độ đụng
chạm đến quyền lợi của các giai cấp có sự khác nhau.
- Lưu ý thêm về ý nghĩa của DLXH:
+ DLXH là công cụ mở rộng quyền làm chủ của nhân dân.
+ Là nhân tố tăng cường mối quan hệ giữa quần chúng và lãnh đạo.
+ Giúp cho các nhà quản lý xã hội trên cơ sở khoa học.
d) Chức năng của dư luận xã hội
- Dư luận xã hội điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên cộng đồng. Dư luận xã hội
có thể đánh giá hành vi, do đó có chức năng khuyến khích hoặc ngăn chặn hành vi. Dư
luận đúng sẽ khuyến khích làm hành vi phù hợp với chuẩn mực chung, ngăn chặn những
hành vi sai trái. Dư luận sai có thể dẫn đến những hành vi tiêu cực.
- Chức năng này có thể chia làm ba chức năng cụ thể như:
+ Điều tiết các quan hệ trong xã hội.
+ Giáo dục các thành viên trong xã hội.
+ Kiểm soát giám sát hành vi của mọi người.
Dư luận xã hội có chức năng tư vấn giúp cho các nhà quản lý các giải pháp phù hợp
với ý chí nguyện vọng của quần chúng.
e) Các giai đoạn hình thành dư luận
- Giai đoạn tri giác sự kiện: có một sự kiện, hiện tượng xảy ra nhiều người chứng
kiến hoặc được cung cấp thông tin về sự kiện - mỗi người có những suy nghĩ đánh giá
riêng khi biết về sự kiện.
- Trao đổi những suy nghĩ, đánh giá của mình về sự kiện với nhau. Các suy nghĩ
đánh giá của cá nhân chuyển lĩnh vực ý thức cá nhân sang ý thức cộng đồng. Các ý kiến có
thể khác nhau, có khi đối lập nhau họ trao đổi tranh luận với nhau.
- Thống nhất ý kiến: Những ý kiến khác nhau sẽ có thể thống nhất lại xung quanh
các quan điểm cơ bản, dư luận hình thành, nếu không thống nhất dư luận không thành.
- Cuối cùng là các phán xét kiến nghị của tập thể cộng đồng với cấp trên.
Người lãnh đạo lưu ý: Dùng biện pháp tích cực để mọi người hiểu đúng đắn bản
chất của sự kiện không nên ép quần chúng hiểu theo ý kiến cá nhân lãnh đạo. Dư luận nào
lành mạnh thì duy trì, dư luận thiếu lành mạnh thì không duy trì.
g) Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành dư luận
- Tính chất của sự kiện gây nên dư luận ảnh hưởng đến tốc độ và cường độ dư luận:
+ Động chạm đến quyền lợi nhiều người: dư luận hình thành nhanh.
+ Động chạm đến những quyền lợi thiết thân, những chuẩn mực được tôn trọng thì
dư luận hình thành nhanh, mạnh.
- Chất lượng và số lượng thông tin về sự kiện ảnh hưởng đến tốc độ hình thành và
mức độ đúng đắn phù hợp của dư luận.
+ Thông tin đầy đủ thì dư luận hình thành nhanh.
+ Thông tin chính xác thì dư luận hình thành đúng với bản chất của sự kiện và
chuẩn mực chung.
Nếu thông tin thiếu, không rõ ràng, không chính xác dẫn đến sự phán đoán mơ hồ,
kéo dài thì dư luận chưa chắc đã hình thành lúc đó người ta gọi là “tin đồn”.
- Mức độ chuẩn bị của tập thể đối với sự kiện xảy ra ảnh hưởng đến tốc độ hình
thành dư luận. Nên tập thể được chuẩn bị trước về thái độ, tư tưởng, được hướng dẫn thì
những sự kiện xảy ra dư luận hình thành nhanh chóng và đúng đắn. Nếu tập thể bị bất ngờ
dư luận khó hình thành, ý kiến dễ bị phân tán. Do đó nếu đoán trước được luồng tư tưởng
trong tập thể sẽ điều khiển được quá trình hình thành dư luận.
- Mức độ phát triển của tập thể ảnh hưởng đến cường độ và tốc độ hình thành dư
luận: Tập thể phát triển cao, đoàn kết, dư luận hình thành nhanh mạnh và ngược lại tập thể
mới hình thành, thiếu đoàn kết thì khó có dư luận đúng đắn.
- Nếp nghĩ của mọi người trong tập thể ảnh hưởng đến tính chất của dư luận.
- Nếp nghĩ chủ quan phiến diện, định kiến sẽ dẫn đến phán đoán sai lệch - dư luận
không đúng. Nếp nghĩ toàn diện, không định kiến dư luận sẽ đúng đắn hơn.
- Không khí đạo đức thói quen và tâm trạng chung của cộng đồng cũng có ảnh
hưởng nhất định đến sự hình thành DLXH.
5. Xung đột trong tập thể
a) Khái niệm xung đột
Thực tế hiện nay cho thấy: quá trình vận động và phát triển của các nhóm xã hội
không thể tránh được xung đột. Các cuộc xung đột luôn luôn diễn ra ở tất cả các nhóm xã
hội, bất kể quy mô của nhóm lớn hay nhỏ. Do đó, việc nghiên cứu xung đột của nhóm trở
thành nội dung quan trọng của Tâm lý học xã hội hiện nay. Vậy chúng ta hiểu thế nào là
xung đột?
Quá trình hình thành và phát triển các nhóm xã hội tự nó đã chứa đựng các mâu
thuẫn. Đó là mâu thuẫn về quan điểm, về cá tính, về lợi ích của các thành viên và nhóm
nhỏ hơn trong đó. Nhưng không phải mâu thuẫn nào cũng biến thành xung đột, mà chỉ khi
mâu thuẫn đó bùng nổ thì xung đột mới xuất hiện. Theo các tác giả Severy, Bngham và
Schlenker, xung đột là hoàn cảnh mà ở đó mục đích của hai hoặc nhiều người không thống
nhất nhau ở một số mức độ nào đó. Các xung đột cũng có thể xảy ra khi các thành viên của
nhóm thống nhất nhau về các mục đích cơ bản, nhưng lại không thống nhất về các mục
đích thứ yếu hoặc về mục đích có thể thống nhất nhau nhưng lại khác biệt về các phương
thức thực hiện mục đích đó. Ví dụ trong gia đình, hai vợ chồng đều thống nhất với nhau
cần phải nghiêm khắc với con cái nhưng lại không thống nhất với nhau trong phương pháp
và mức độ thể hiện sự nghiệm khắc đó. Một nhà tâm lý học Mỹ là J.P.Chaplin lại cho
rằng: xung đột là hai hoặc nhiều xung lực hay động cơ có tính đối kháng lẫn nhau xay ra
một cách đồng thời.
Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về xung đột. Tác giả Vũ Dũng cho
rằng: Xung đột là sự khác biệt (về quan điểm, mục đích, động cơ) giữa các thành viên
trong quá trình thực hiện hoạt động của nhóm.
Như vậy, dù xem xét ở các góc độ khác nhau nhưng các tác giả đều có sự thống nhất
nhất định trong việc xác định nội hàm của khái niệm xung đột. Từ các quan niệm khác
nhau nêu trên, chúng ta có thể quan niệm xung đột là: sự bùng nổ các mâu thuẫn giữa các
thành viên trong nhóm khi thực hiện hoạt động chung của nhóm.
Như vậy, mâu thuẫn thì lúc nào cũng tồn tại nhưng xung đột có thể xảy ra hoặc
không xảy ra. Chỉ khi nào mâu thuẫn bùng nổ người ta không thể hòa giải nó từ xung đột
xảy ra. Những xung đột lớn hoặc mâu thuẫn ở mức độ sâu sắc có thể dẫn đến bạo lực.
Những xung đột nhỏ thường ít được các thành viên của nhóm quan tâm, nhưng khi các
xung đột nhỏ này cứ tích tụ dần và đến mức độ nào đó nó sẽ xảy ra xung đột lớn, có thể
tạo nên sự bất hòa nghiêm trọng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm.
b) Bản chất và tác hại của xung đột
Có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của xung đột. Parker Follet cho rằng,
xung đột cần phải được hiểu như sự khác biệt - khác biệt về quan điểm và lợi ích.
C Mác viết: Suy cho cùng, mọi mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn lợi ích. Chính
lợi ích mới là nguồn gốc sâu xa của xung đột. Khi con người có mâu thuẫn lợi ích (có thể
là vật chất hoặc tinh thần) thì rất dễ xảy ra xung đột. Mức độ lợi ích của mỗi bên trong
mâu thuẫn sẽ chi phối mức độ xung đột. Nếu lợi ích đối kháng nhau thì xung đột sẽ rất
mạnh mẽ và có thể loại trừ nhau. Trong xung đột, mọi người nhận diện ra sự khác biệt
giữa mình và với người khác. Tùy mức độ mâu thuẫn lợi ích mà họ nhìn người khác như
đối thủ hoặc như kẻ thù.
Tác giả Vũ Dũng cũng cho rằng xung đột là sự khác biệt về quan điểm mục đích,
động cơ... khi thực hiện hoạt động nhóm.
Như vậy theo các tác giả, xung đột là do khác biệt về một điều gì đó. Nhưng thực tế,
nhiều sự khác biệt không dẫn đến xung đột. Sự khác biệt là tất yếu trong cuộc sống. Mặc
dù có sự khác biệt nhưng con người vẫn có thể dung hòa với nhau, nhường nhịn nhau và
xử lý các mâu thuẫn bằng hòa giải hoặc một bên chấp nhận sự thua thiệt để giữ lấy sự cân
bằng.
Khi có xung đột xảy ra, người ta phải tìm hiểu ngay lợi ích mỗi bên để xác định
mức độ xung đột. Nhìn hình thức bên ngoài, có khi chỉ là vấn đề quan điểm về một vấn đề
gì đó. Nhưng bên trong có thể là sự khẳng định bản thân của mỗi người (lợi ích tinh thần).
Từ các phân tích trên có thể thấy, bản chất của xung đột là các mâu thuẫn lợi ích
giữa các thành viên của nhóm hoặc của các bộ phận trong nhóm. Điều hòa các lợi ích cho
phù hợp là một biện pháp quan trọng để phòng ngừa xung đột xảy ra.
Xung đột có tác hại rất lớn đến nhóm và mỗi cá nhân. Khi nhóm có xung đột, bầu
không khí của nhóm bị phá vỡ. Môi trường sống yên bình của cá nhân bị đảo lộn làm
người ta sống trong trạng thái căng thẳng, không có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần
của con người. Sau mỗi lần xung đột cá nhân phải mất thời gian thể nghiệm lại bản thân
nên vừa mất thời gian vừa bị phân tán tư tưởng trong công việc. Do đó, những người bị lôi
kéo vào xung đột sẽ làm việc kém hiệu quả và dễ gây tai nạn vì không tập trung.
Đối với toàn nhóm, khi có xung đột, nhóm không thể thống nhất ý kiến và hành
động nên năng suất lao động sẽ giảm đi, mọi người dễ nghi kị nhau.
Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng có những xung đột mang tính tích cực, thông
thường đó là xung đột đơn thuần về ý kiến, phương thức hoạt động, không phải là các
xung đột lợi ích. Các xung đột được gọi là tích cực có thể đem lại một động lực mới cho
sự phát triển của một nhóm. Dạng xung đột này có thể giúp nhóm thoát khỏi trạng thái ỳ,
khi các cá nhân đồng thuận đến mức bị động.
c) Các loại hình xung đột và vấn đề giải quyết xung đột
* Các loại hình xung đột:
Căn cứ vào chủ thể tham gia vào xung đột, người ta có thể chia xung đột thành các
loại hình sau:
- Xung đột trong mỗi cá nhân (còn gọi là xung đột nội tâm): Loại xung đột này xuất
hiện khi cá nhân tham gia vào những nhóm xã hội có những lợi ích khác nhau. Họ lúng
túng không biết chọn theo lợi ích nào. Lợi ích của mỗi nhóm đều có sức hấp dẫn với cá
nhân nhưng không cho phép cá nhân chọn cả hai, mà chỉ được phép chọn một.
- Xung đột cá nhân với cá nhân: Loại xung đột này diễn ra khi cá nhân này cho rằng
cá nhân kia cản trở hoặc phá hoại lợi ích của mình.
- Xung đột cá nhân với tập thể: Đây là loại xung đột xuất hiện khi cá nhân cho rằng
tập thể ngăn cản lợi ích của họ và họ không chấp nhận ý kiến, quyết định của tập thể.
- Xung đột tập thể với tập thể: Loại xung đột này vẫn thường xảy ra khi tập thể này
cho rằng tập thể kia ngăn cản hoặc phá hoại lợi ích của tập thể mình.
* Phòng ngừa và giải quyết xung đột:
- Về cơ bản phải phòng ngừa xung đột; không nên để xung đột xảy ra rồi mới giải
quyết. Muốn phòng ngừa xung đột cần xác định rõ bản chất của xung đột và có biện pháp
phòng ngừa.
Trước hết, người lãnh đạo nhóm phải điều hòa lợi ích trong nhóm sao cho thỏa
đáng, không nên để có sự chênh lệch quá lớn về lợi ích giữa các thành viên hoặc giữa các
bộ phận.
- Cần có phương pháp lãnh đạo khoa học và phù hợp với tính chất và đặc điểm của
đơn vị mình phụ trách.
- Giải toả các mâu thuẫn nhỏ, không để cho thâu thuẫn nhỏ tích tụ sẽ dẫn đến mâu
thuẫn lớn đến mức bùng nổ không thể ngăn chặn.
- Khi xung đột xảy ra thì phải nhanh chóng xác định mâu thuẫn của mỗi bên và tác
động để giảm mâu thuẫn đó. Có thể trong nhóm có kẻ phá hoại gây mất ổn định trong
nhóm hoặc có người cố tình không chấp nhận những chuẩn mực của nhóm.
Phương pháp giải quyết là thuyết phục các bên ngồi lại và hòa giải với nhau. Khi
không làm được việc đó thì có thể dùng các biện pháp hành chính như: chuyển cá nhân
xung đột sang đơn vị khác, hoặc kỉ luật kẻ gây rối...
HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
Các vấn đề liên quan đến tâm lý học tập thể là cơ sở quan trọng cho việc tổ chức và
quản lý tập thể sinh viên và tập thể giảng viên (lĩnh vực quản lý và phát triển tổ chức, tập
thể). Hướng ứng dụng này có mục đích là tạo ra sự vận hành thuận lợi và có hiệu quả của
tập thể, tổ chức. Cụ thể:
- Điều chỉnh sự vận động và phát triển của tập thể thông qua các giai đoạn, trong đó
có thể nhận biết được tính chất của tập thể trong từng giai đoạn và dự báo được xu hướng
vận động và phát triển của tập thể.
- Có cách tiếp đầy đủ toàn diện đối với tập thể theo các lớp cấu trúc của nó.
- Tác động hình thành các lớp cấu trúc của tập thể sinh viên, giảng viên. Tận dụng
vai trò của từng lớp cấu trúc trong việc tổ chức hoạt động của tập thể, đánh giá mức độ gắn
kết và tính chất của sự gắn kết trong tập thể.
- Tạo ra những sự tương đồng trong hoạt động, thể hiện ở mục đích chung, tạo ra sự
tương hợp trong thái độ và hành vi đối với tập thể.
- Có các cách ứng xử phù hợp với các hiện tượng thủ lĩnh, lãnh đạo các dư luận tập
thể: tạo dư luận hay ngăn ngừa dư luận, nhận biết các xung đột tập thể và đề ra cách thức
giải quyết các xung đột đó.
- Quan tâm tới việc nhận biết các đặc trưng của tập thể trong lĩnh vực hoạt động
khoa học.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG IV
1. Tập thể là gì? Nêu sự khác biệt giữa nhóm nhỏ và tập thể. Có những giai đoạn
phát triển nào trong tập thể?
2. Sự khác biệt và mối quan hệ giữa thủ lĩnh và thủ trưởng? Cần có cách ửng xử như
thế nào nếu thủ lĩnh và thủ trưởng không phải là một trong nhóm? Tại sao?
3. Sự tương hợp Tâm lý là gì? Vai trò của sự tương hợp Tâm lý? Có thể tạo ra sự
tương hợp tâm lý như thế nào?
4. Thế nào là bầu không khí Tâm lý của tập thể? Làm thế nào để có bầu không khí
tập thể tích cực?
5. Dư luận xã hội là gì? Sự hình thành dư luận có những giai đoạn nào? Muốn hình
thành dư luận cần làm gì?
6. Xung đột là gì? Bản chất của xung đột? Làm thế nào để phòng tránh xung đột?
Chương 5.
ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM KÍCH
I. Ảnh hưởng xã hội
1. Khái niệm ảnh hưởng xã hội
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của xã hội đến cá nhân, người ta đã thấy hành vi của cá
nhân khi họ ở trong nhóm và khi họ chỉ có một mình là khác nhau. Rõ ràng, khi ở một
mình họ có thể tự do hơn trong việc lựa chọn hành vi ứng xử với một đối tượng nào đó.
Nhưng khi ở trong nhóm, họ phải căn cứ vào hoàn cảnh thực tế, vào chuẩn mực của nhóm,
vào ý kiến của những người xung quanh để hành động. Rõ ràng, con người không thể hoàn
toàn tự quyết định hành động của mình khi có những người xung quanh, ít nhiều họ phải
chịu ảnh hưởng, tác động từ những người xung quanh. Ví dụ: “nhập gia tùy tục”. Đó chính
là ảnh hưởng xã hội.
Vậy ảnh hưởng xã hội thực chất là tác động của những người xung quanh lên hành
vi và cách ứng xử của cá nhân khi họ ở trong một nhóm xã hội nào đó. Khi có những
người xung quanh, hành vi của cá nhân khác rất nhiều khi họ chỉ có một mình. Họ phải
tính đến đặc điểm của những người xung quanh và có hành vi phù hợp với mong đợi của
những người xung quanh. Để thấy rõ ảnh hưởng của nhóm lên hành vi của cá nhân các nhà
Tâm lý học xã hội đã tiến hành những thí nghiệm so sánh kết quả công việc của cá nhân
khi họ làm việc riêng biệt một mình và khi họ làm việc ở trong môi trường nhóm. Các kiểu
nhóm khác nhau ảnh hưởng lên hành vi cá nhân cũng khác nhau. Kết quả cho thấy nhóm
là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân khi họ ở trong nhóm.
Ảnh hưởng của nhóm làm cho hành vi của cá nhân thay đổi so với điều kiện họ ở
một mình bằng một số cơ chế cụ thể. Đó là các cơ chế: giải thích duy lý đồng nhất, đổ
lỗi...
- Giải thích duy lý là đưa ra những lý do hợp lý, dễ được nhóm chấp nhận để giải
thích cho hành vi, cách ứng xử của mình. Khi con người có một hành động nào đó, bao
giờ họ cũng giải thích bằng những nguyên nhân nào đó. Nguyên nhân họ đưa ra thường có
hai loại: nguyên nhân hợp lý và nguyên nhân thực tế. Khi một người hành động hoàn toàn
đúng đắn thì hai nguyên nhân này là một. Nhưng khi hai nguyên nhân đó không trùng
nhau thì phải có cách giải thích khác nhưng phải “có lý”. Chẳng hạn khi công việc đang rất
bận rộn, có người rủ bạn ra quán uống cà phê. Bạn nhận lời và bỏ việc để ra quán ngồi.
Mặc dù bạn biết việc đó là không nên, nhưng để biện minh cho hành động của mình, bạn
bạn tự lý giải rằng: “Công việc thì bao giờ mới hết, uống ly cà phê cho tỉnh táo, người
thoải mái sẽ làm việc tốt hơn để bù lại”...
Giải thích duy lý không bị cho là xấu mà là một hiện tượng thực tế, rất phổ biến.
Nhờ cơ chế này mà con người thấy thanh thản hơn khi làm một việc gì đó mà lúc đầu
chính mình thấy chưa thật đúng.
- Cơ chế thứ hai là đồng nhất. Đồng nhất là quá trình con người hòa vào với người
khác, làm cho mình có những hành vi và cách ứng xử giống những người khác. Trong
cuộc sống hàng ngày, cơ chế đồng nhất thể hiện rất rõ. Khi nhiều người trong cộng đồng
có cách nói, cách ăn mặc giống nhau thì những người còn lại cũng không muốn mình khác
mọi người nên cũng có cách nói, cách ăn mặc giống số đông. Sự đồng nhất có cơ sở là tính
cộng đồng, tính xã hội trong mỗi con người. Chính con người phải dựa vào nhau, liên kết
với nhau đề tồn tại nên con người luôn có xu hướng hòa mình vào với người khác.
Sự đồng nhất cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự dễ rung động của tình cảm con người
đối với người khác trước một tình huống nào đó. Đây là cơ sở tâm lý xã hội cho những
người hoạt động từ thiện dùng để tác động vào lòng trắc ẩn của con người, khơi dậy tình
cảm của mọi người.
Cơ chế đồng nhất giúp cho con người sống gần gũi, gắn bó với nhau hơn. Khi đồng
nhất mình với người khác, con người dễ hiểu và thông cảm cho nhau vì thế có những hành
động và ứng xử phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
- Một cơ chế phổ biến của sự ảnh hưởng xã hội là đổ lỗi. Đổ lỗi là một liệu pháp tâm
lý để con người “đẩy ra” hoặc “trút bớt” lỗi lầm, khuyết điểm của chính mình. Nhiều
trường hợp con người không dám nhận sai lầm của mình mà thường đổ lỗi cho khách
quan. Các nhà tâm lý học xã hội đã nghiên cứu và đưa ra nhận xét rằng: khi thành công,
con người thường nghĩ ngay rằng kết quả đó trước hết nhờ sự đóng góp của bản thân họ.
Nhưng khi thất bại người ta lại nghĩ ngay đến những yếu tố khách quan gây ra. Chẳng hạn
hôm nay ta đi làm muộn là vì đường phố đông người, giao thông tắc nghẽn, trời mưa lụt
lội. Một số nhà tâm lý học xã hội Mỹ làm việc ở các trường phổ thông cho biết, ít nhất họ
cũng đã một lần gặp các bà mẹ có con làm test trí tuệ mà đạt điểm số thấp thì họ cho rằng
người hướng dẫn làm test không đúng hoặc test không chính xác.
Cơ chế “đổ lỗi” có lợi về mặt tâm lý ở chỗ nó làm giảm bớt trạng thái nặng nề của cảm
giác thất bại.
2. Ảnh hưởng của môi trường văn hóa đến hành vi cá nhân
Sống trong môi trường xã hội, con người chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn
hóa. Hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra. Môi trường văn hóa có thể được hiểu là toàn bộ yêu cầu về các mối quan hệ,
các chuẩn mực xã hội tác động đến con người. Trong môi trường văn hóa, quan trọng nhất
là các chuẩn mực trong quan hệ, trong ứng xử điều tiết hành vi của con người. Chính các
chuẩn mực đó là khuôn mẫu hành vi mà con người phải tuân theo. Sống trong môi trường
văn hóa nào, con người chịu ảnh hưởng của môi trường đó. Ví dụ, người châu Âu thường
không hỏi tuổi phụ nữ, vì họ quan niệm, phụ nữ là phái đẹp, phái đẹp không có tuổi.
Ngược lại, ở châu Á, mới gặp người ta hay hỏi tuổi tác để thể hiện sự quan tâm và để dễ
xác định quan hệ trên dưới. Vì thế, khi tiếp xúc với người châu Âu chúng ta phải hiểu
những đặc điểm văn hóa của họ để cư xử cho phù hợp. Ngược lại, khi người châu Âu sang
châu Á làm việc, họ cũng phải tìm hiểu đặc điểm văn hóa của phương Đông để có thể hòa
đồng với nơi họ tới. Dân gian Việt Nam có câu: Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục
nghĩa là đến một nơi mới người ta phải hòa nhập với văn hóa ở nơi đó. Nếu thời gian sống
ở một nơi nào đó kéo dài, người ta sẽ tuân theo phong tục tập quán, sử dụng ngôn ngữ ở
nơi đó. Như vậy những đặc trưng văn hóa của nơi đó đã được phản ánh vào hành vi, cách
ứng xử và ngôn ngữ của một con người. Hay nói khác đi môi trường văn hóa đã để dấu ấn
của mình lên hành vi của con người.
3. Ảnh hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân
Ảnh hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân đã được phân tích nhiều ở các
phần khác nhau của tài liệu này. Mỗi nhóm đều theo đuổi những giá trị nhất định, có
những chuẩn mực nhất định. Các cá nhân tham gia vào nhóm đều phải tuân theo các chuẩn
mực và bảo vệ các giá trị chung đó. Vì thế, cũng giống như sống trong một môi trường
văn hóa, con người phải có hành vi phù hợp với chuẩn mực chung. Có thể xem xét ảnh
hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân trong hai lĩnh vực: trong công việc và trong
thảo luận nhóm.
- Trong công việc thực nghiệm của các nhà tâm lý học mà cho thấy: khi cá nhân làm
việc trong điều kiện có mặt của nhóm, tốc độ công việc tăng cao hơn. Các cá nhân đều
chịu sự tác động của nhóm nhưng có sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng của nhóm với
từng cá nhân. Những cá nhân làm chậm chịu ảnh hưởng nhiều hơn những cá nhân làm
nhanh ít chịu ảnh hưởng của nhóm hơn.
Nhà Tâm lý học xã hội Dashiel làm thí nghiệm so sánh hành vi của con người trong
các điều kiện làm việc khác nhau như: 1) Một mình; 2) Trong nhóm không có thi đua; 3)
Trong nhóm có sự thi đua; 4) Trước sự có mặt của cổ động viên. Ở hai trường hợp đầu
không thấy có sự thay đổi rõ nét về tốc độ cũng như tính chính xác của công việc. Nhưng
trong hai trường hợp sau thì tốc độ của công việc tăng lên rõ rệt, còn tính chính xác thì
thay đổi không đáng kể. Trong một thí nghiệm khác: nghiệm thể làm việc trong các phòng
riêng biệt nhưng có tín hiệu thời gian chung do một trung tâm thông báo và các cá nhân
làm việc trong các phòng riêng với tín hiệu thời gian do đồng hồ tự động báo riêng cho
từng phòng. Trong điều kiện thứ nhất tốc độ công việc nhanh hơn còn độ chính xác thì
ngược lại. Điều đó chứng tỏ rằng mặc dầu cá nhân làm việc riêng biệt nhưng vẫn có mối
liên hệ với xã hội thì vẫn chịu ảnh hưởng của nhóm mang tính chất tưởng tượng.
Từ các nghiên cứu, các nhà tâm lý học xã hội đưa ra kết luận: khi làm việc trong
nhóm cùng với những đồng nghiệp thì trong đa số các trường hợp tốc độ công việc có tăng
lên, còn tính chính xác, chất lượng công việc nói chung không có sự thay đổi đáng kể.
- Tình huống thứ hai là thảo luận nhóm. Trong thảo luận nhóm, cá nhân cũng chịu
ảnh hưởng rất nhiều ý kiến của nhóm. Có nhiều nghiên cứu cho thấy: ý kiến đánh giá của
cá nhân được củng cố và hoàn thiện hơn nhờ thảo luận của nhóm. Trong các nghiên cứu
thì đáng chú ý nhất là công trình của Jenness. Ông cho học sinh đoán số hạt đậu trong một
chai thủy tinh. Ông nhận thấy khi các em có bàn nhau về số lượng hạt và biết được các ý
kiến của những bạn khác thì dự đoán của các em sẽ chính xác gấp ba lần so với những bạn
không tham gia thảo luận.
Một số nghiên cứu khác cũng đánh giá cao vai trò của thảo luận nhóm đối với hành
vi cá nhân. Có ý kiến cho rằng, khi cần đưa ra nhiều giả thiết thì nhóm đông người tốt hơn,
nhưng khi cần đưa ra những ý kiến chính xác thì nhóm ít người có lợi hơn. Điều đó có thể
thấy rất rõ qua thực tế của lĩnh vực chính trị và quản lý hành chính.
Dashiel cũng đã chứng minh rằng, hội đồng thẩm vấn thường đưa ra số lượng các tình tiết
đầy đủ và chính xác hơn thột cá nhân hội thẩm. Theo các nhà nghiên cứu sở dĩ tư duy của
nhóm được xem là ưu việt hơn tư duy của cá nhận bởi vì nó có nhiều cách tiếp cận với vấn
đề hơn. Nhóm đưa ra được nhiều giải pháp, sự nhận xét đối với từng ý kiến có hiệu quả
hơn; hơn nữa tư duy của nhóm thì ít có tính độc đoán. Do vậy, trong quá trình ra quyết
định nhóm, cần tạo điều kiện để mọi cá nhân đưa ra ý kiến của mình. Ý kiến đó có thể
đóng góp cho quyết định chung, cũng có thể ý nghĩa của ý kiến đó không lớn, tuy nhiên
điều quan trọng là đưa ra ý kiến giúp cá nhân dễ dàng chấp nhận ý kiến của nhóm hơn
II. ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI
1. Khái niệm định kiến xã hội
Định kiến là một vấn đề trọng tâm trong các nghiên cứu về nhóm của Tâm lý học xã
hội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Đây là một trong những khía cạnh
tâm lý xã hội đặc trưng của nhóm, phản ánh đời sống tâm lý phức tạp trong ứng xử và
quan hệ của con người trong phạm vi nhóm và phạm vi xã hội. Các nhà nghiên cứu đưa ra
nhiều quan niệm khác nhau về định kiến.
Theo cách hiểu đơn giản, định kiến là ý kiến đánh giá có trước về một vấn đề nào
đó. Thường người ta dùng từ định kiến để chỉ một sự nhìn nhận không đúng sự thật nhưng
người có định kiến không chịu thay đổi ý kiến của mình. Như vậy, định kiến được hiểu
theo nghĩa tiêu cực. Người ta thường không chấp nhận những người có định kiến về một
vấn đề nào đó.
Các nhà tâm lý học Xô viết quan niệm: định kiến là quan niệm đơn giản, máy móc,
thường không đúng sự thật về một vấn đề xã hội, về một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó.
Như vậy, theo các nhà tâm lý học Xô viết thì định kiến mang tính tiêu cực trong ứng xử
đối với thế giới xung quanh.
Theo J.P.Chaplin, định kiến : 1) Là thái độ có thể tích cực hoặc tiêu cực được hình
thành trước trên cơ sở những dấu hiệu rõ ràng trong đó đặc biệt là yếu tố cảm xúc; 2) Là
lòng tin hoặc cách nhìn, thường là không thiện cảm làm cho chủ thể có cách ứng xử hoặc
cách nghĩ như vậy đối với những người khác.
G.W. Allport cho rằng, định kiến được xem như thái độ có tính ác cảm và thù địch
đối với các thành viên của nhóm (Allport, 1954).
Có thể có nhiều quan niệm nữa về định kiến, nhưng chỉ cần qua các quan niệm đã
nêu, chúng ta có thể nhận thấy, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: định kiến là
một kiểu thái độ có trước, mang tính tiêu cực. Có thể là thái độ tiêu cực đối với nhóm hoặc
các thành viên của nhóm. Người ta có thể có những thái độ tiêu cực đối với các cá nhân
hoặc các nhóm. Không phải tất cả các thái độ tiêu cực đều trở thành định kiến, nhưng định
kiến có nguồn gốc từ các thái đô tiêu cực đó.
Có thể hiểu định kiến là thái độ có trước mang tính tiêu cực, bất hợp lý đối với một
hiện tượng, một cá nhân hoặc một nhóm.
Khi nói định kiến là nói tới sự phán xét, là thái độ đã có sẵn từ trước khi hiện tượng
xảy ra hoặc trước khi biết một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó của cá nhân hay của một
nhóm. Định kiến mang tính bất hợp lý, tiêu cực. Điều này thể hiện qua một số khía cạnh
sau: Thứ nhất, thái độ này được dựa trên nguyên nhân sai lầm hoặc thiếu lôgic. Chẳng hạn,
khi có chuyện quan hệ ngoài hôn nhân của một cặp trai gái nào đó thì thường người ta lên
án phụ nữ. Đó chính là định kiến đối với nữ giới. Mặc dù, thực tế chuyện đó là có lỗi thì
không phải chỉ là lỗi của phụ nữ. Tuy mọi người thấy là vô lý nhưng rất khó thay đổi ý
kiến và thái độ của họ.
2. Nguồn gốc của định kiến xã hội
Định kiến được hình thành qua một quá trình lâu đài và có thể được truyền lại cho
thế hệ sau thông qua các tập tục của cộng đồng. Lúc đầu có thể muốn giữ vị thế có lợi cho
mình nên người ta đặt ra các luật lệ, quy tắc và có thái độ cảnh giác với một nhóm hoặc
cộng đồng khác. Ví dụ, đàn ông luôn muốn giữ vị thế thống trị trong gia đình và xã hội
nên đặt ra các quy tắc khắt khe với phụ nữ và tạo ra thái độ không tôn trọng phụ nữ. Từ đó
hình thành định kiến giới và cứ thế định kiến giới tồn tại cho đến bây giờ thông qua các
tục lệ và các quy tắc xã hội. Đôi khi, người ta thấy nó vô lý nhưng do nó tồn tại quá lâu
đời nên đã ăn vào tiềm thức con người. Thậm chí ăn vào tiềm thức của chính người bị định
kiến. Muốn xoá bỏ định kiến này phải có thời gian.
Quan niệm không đúng về một vấn đề xã hội hoặc về một nhóm người nào đó cũng
là nguồn gốc dẫn đến định kiến xã hội. Ví dụ, người ta quan niệm rằng: Giọt máu đào hơn
ao nước lã, nên không thể hi vọng con dâu thương bố mẹ chồng, con rể thương bố mẹ vợ.
Quan niệm như vậy nên dẫn đến họ định kiến với con dâu, con rể (những người khác máu
tanh lòng), họ cho rằng con dâu, con rể không bao giờ thương mình nên cũng không dại gì
mà thương họ. Nhưng thực tế lại khác, nhiều cô con dâu rất có tình cảm và trách nhiệm
với bố mẹ chồng. Nhưng do những câu ca dao, tục ngữ, những câu chuyện truyền miệng
làm cho người đời hiểu sai, dần dần hình thành những quan niệm không đúng dẫn đến
định kiến về những người làm dâu, làm rể.
Trong các định kiến xã hội thì định kiến giới và định kiến dân tộc là biểu hiện rõ
nét. Các định kiến này có nguồn gốc từ các chuẩn mực của xã hội do các giai cấp thống trị
xã hội đặt ra từ trước và khuyến khích, cổ vũ cho các định kiến dân tộc đó. Hầu hết các
thành viên trong xã hội chấp nhận các chuẩn mực đó và định kiến càng phát triển và càng
được được thể hiện nhiều hơn. Sự hình thành định kiến này có thể ở ngay trong đời sống
gia đình. Như trước đây, con trai được học cao đến khi không thể học được nữa thì mới
thôi. Còn con gái chỉ được bố mẹ cho học đến một mức độ nào đó thì phải dừng để
nhường cho anh trai, em trai ăn học. Trong trường hợp này, sự phân biệt đối xử thường
xuyên xảy ra và trở thành cách ứng xử của mọi người. Mọi người cho rằng như thế là hợp
lý. Ai tuân theo các chuẩn mực đó thì được chấp nhận, ai không tuân theo sẽ bị tẩy chay.
Điều đáng quan tâm hơn là ngay trong các chuẩn mực của xã hội trước đây đã cổ vũ cho
thái độ coi thường phụ nữ nên định kiến càng sâu sắc hơn.
Ngoài các nguồn gốc nêu trên có thể có một số nguyên nhân khác dẫn đến định kiến
xã hội. Đó là sự xây dựng các biểu tượng xã hội. Ví dụ, một thời gian dài, chúng ta có
những tấm pa nô, áp phích vẽ hình ảnh người nhiễm HIV/AIDS gầy guộc, siêu vẹo. Từ đó,
dưới con mắt của mọi người, người nhiễm HIV/AIDS rất đáng sợ và người ta hình thành
một định kiến rất xấu về họ. Mọi người sợ nên xa lánh những người nhiễm căn bệnh thế
kỷ này. Mặc dù, trên thực tế họ là người bình thường và HIV không thể lây truyền sang
người khác qua đường giao tiếp thông thường.
Có thể có một số nguyên nhân xã hội khác dẫn đến định kiến xã hội. Có thể do sự
phát triển xã hội chưa đạt đến một trình độ xóa bớt được khoảng cách giữa các tầng lớp xã
hội về dân trí và về địa vị kinh tế dẫn dấn có sự chênh lệch trong mức sống và điều kiện
sinh hoạt của các cộng đồng. Điều này có thể tạo nên cách nhìn nhận vấn đề có sự khác
nhau dẫn đến ít nhiều có sự kì thị và định kiến về nhau. Tuy đây không phải là nguyên
nhân quan trọng nhưng nếu xóa bớt đi được khoảng cách về giàu nghèo giữa các vùng
miền, giữa các tầng lớp xã hội thì cũng bớt đi được một nguyên nhân tạo ra định kiến xã
hội
3. Điều chỉnh các định kiến xã hội
Khi nghiên cứu về định kiến, các nhà nghiên cứu vừa chỉ ra nguyên nhân của định
kiến, vừa đưa ra những cách thức để làm giảm bớt định kiến xã hội. Có thể nêu ra một số
biện pháp làm giảm bớt định kiến xã hội dưới đây:
- Tuyên truyền vận động làm thay đổi thái độ của các bộ phận dân cư về một vấn đề
nào đó. Ví dụ, tuyên truyền để người dân thay đổi thái độ đối với người nhiễm HIV, thay
đổi thái độ đối với phụ nữ trong xã hội chúng ta. Ngày nay, thông tin đại chúng hết sức
phát triển, có thể sử dụng sức mạnh của nó để tác động đến tâm lý con người. Qua phương
tiện thông tin người ta đã tổ chức hoạt động truyền thông nhằm làm giảm bớt sự kì thị với
người nhiễm HIV. Đề cao vai trò phụ nữ để mọi người có quan niệm đúng hơn vai trò
quan trọng của phụ nữ.
- Đối với một số cá nhân có tầm ảnh hưởng lớn tới mọi người có thể tác động trực
tiếp đến cá nhân họ. Bằng cách đưa họ vào các hoạt động nhằm giúp họ nhận thức đúng
các vấn đề mà họ thành kiến để họ thay đổi nhận thức và có thái độ phù hợp với chuẩn
mực chung của xã hội.
- Một số vấn đề xã hội hiện nay có thể đưa vào giáo dục gia đình. Từ trong gia đình,
đứa trẻ đã được giáo dục một cách đúng đắn về các vấn đề xã hội thì các em sẽ có nhận
thức đúng, thái độ phù hợp. Lớn lên các em sẽ là người truyền lại sự thay đổi đó cho thế
hệ sau và xóa đi được những định kiến đã hình thành lâu đời.
- Những chuẩn mực xã hội (tập tục) có thể hình thành định kiến cần được thay đổi.
Ví dụ, các tục lệ cho con cái lấy chồng sớm ở các vùng đồng bào dân tộc hoặc vùng sâu
vùng xa, cần được xóa bỏ. Một số phong tục lạc hậu nên thay đổi. Ví dụ, một số nơi khi
nhà có khách, vợ con không được ngồi ăn chung với khách, khi nào khách và người bố ăn
xong cả nhà mới được ăn. Điều đó đề cao ông chủ gia đình nhưng đã gieo vào lòng đứa trẻ
quan niệm là đàn ông có quyền ngồi ăn uống còn phụ nữ thì phải phục vụ.
Nói tóm lại, nếu quan niệm định kiến là thái độ tiêu cực có trước về hiện tượng hay
cá nhân, nhóm xã hội nào đó thì việc điều chỉnh định kiến trước hết phải tác động vào
nhận thức. Trên cơ sở đó làm thay đổi thái độ và hành vi của mọi người kể cả người bị
định kiến. Việc điều chỉnh các định kiến xã hội không dễ nên cần kiên trì và có những biện
pháp tuyên truyền vận động mạnh mẽ, sâu rộng mới có thể có kết quả.
III. SỰ XÂM KÍCH
1. Khái niệm xâm kích
Khái niệm xâm kích được đưa ra gắn liền với giả thuyết ban đầu: sự có mặt của
hành vi xâm kích luôn đi kèm với sự hụt hẫng và ngược lại sự tồn tại của sự hụt hẫng luôn
dẫn đến một hình thức xâm kích nào đó. Giả thuyết này được triển khai với bốn khái niệm
cơ bản:
- Sự hụt hẫng: đó là các điều kiện bất kì ngăn cản việc cá nhân đạt đến mục đích
mong muốn.
- Sự xâm kích: hành vi có mục đích là xóa bỏ hay làm giảm đi những cản trở hụt
hẫng.
- Sự kiềm chế: xu hướng hạn chế hành động để giảm bớt những hậu quả có thể có
trong chính bản thân hành động. Đồng thời nó lại có thể trở thành một sự hụt hẫng mới.
- Sự xâm kích pha trộn: sự xâm kích không hướng tới nguồn gốc trực tiếp của sự hụt
hẫng mà hướng tới một đối tượng khác. Đặc trưng này được phân tích trong mô hình xung
đột của Miller. Sự pha trộn hay “dịch chuyển” theo thuật ngữ của Phân tâm học được
Miller hiểu như một trường hợp khái quát hóa các kích thích. Nhiều hành vi xã hội khác
như các hành vi đạo đức cũng được giải thích theo cách này.
Sau này, cùng với các kết quả nghiên cứu mới, các tác giả chỉnh sửa lý thuyết này
và cho rằng xâm kích là một hiện tượng tự nhiên không nhất thiết là hệ quả của sự hụt
hẫng. Nhờ kết quả của sự học có thể có được các đáp ứng phi xâm kích với các hụt hẫng.
(Ví dụ: trẻ được dạy cách kiềm chế bản thân). Tuy nhiên, sự xâm kích vẫn được coi như là
một phản ứng nổi trội đối với hụt hẫng và hụt hẫng vẫn được xem xét như là nhân tố diễn
ra trước sự xâm kích.
Lý thuyết về xâm kích và hụt hẫng bị phê phán từ nhiều hướng: với các thực nghiệm
động thái nhóm, K.Lewin, Zimbardo cho thấy có thể có các phản ứng khác đối với hụt
hẫng chứ không chỉ sự xâm kích. A.Maslow, Rozenweig thì cho rằng sự hụt hẫng không
phải là nhân tố duy nhất dân tới sự xâm kích. Có nhiều nhân tố dẫn tới sự xâm kích, ví như
sự nhục mạ hay đe dọa có thể gây ra sự xâm kích chứ không chỉ sự hụt hẫng. Các nghiên
cứu cũng chỉ ra tính chất phức tạp trong mối quan hệ giữa sự trừng phạt và sự xâm kích.
“Phụ thuộc vào tính chất và sự tác động qua lại với các yếu tố khác, sự trừng phạt có thể
làm tăng cường hoặc làm giảm thiểu, thậm chí không tạo ra tác động nào đến hành vi của
cá nhân”. (Bandura, 1973, p34).
Từ những góc độ xem xét khác, các nhà tâm lý học đưa ra những quan niệm khác
nữa về xâm kích. Có thể dẫn ra một số quan niệm:
J.P.Chaplin cho rằng: xâm kích là sự tấn công (attack); là hành động không thân
thiện chống lại một cách trực tiếp con người hoặc một đối tượng nào đó.
S.Freud cho rằng xâm kích là sự biểu hiện hoặc phóng chiếu một cách có ý thức của
bản năng về cái chết. Còn theo A.Adler, xâm kích là sự biểu hiện của ý chí về quyền lực
đối với người khác. Nhà tâm lý học Mỹ A.H.Murray cho rằng xâm kích là nhu cầu tấn
công hoặc xúc phạm đến người khác để hạ thấp, làm tổn thương, nhạo báng hoặc buộc tội
người đó.
Albert Bandura đưa ra quan niệm về xâm kích rất ngắn gọn. Theo tác giả xâm kích
là hành vi mang lại hậu quả tiêu cực. Vì thế, những hành vi tiêu cực được xem là sự xâm
kích. Hai nhà Tâm lý học xã hội Berkowitz (1965) và Fesbach (1971), đã phân chia hai
hình thức của xâm kích: Xâm kích phương tiện và xâm kích thù địch. Xâm kích phương
tiện có mục đích là tìm cách thu lấy lợi ích ở người khác hơn là gây tổn thương cho họ.
Xâm kích thù địch có mục đích là gây ra sự tổn thương hoặc sự đau khổ một cách có chủ
tâm đối với người khác. Như vậy xâm kích là một hành vi có tính chất làm hại con người
hoặc phá hủy một đối tượng nào đó thuộc quyền người khác.
Từ các quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu xâm kích là hành vi tấn công người
khác hoặc những tài sản thuộc quyền người khác với mục đích làm hại họ.
Người có hành vi xâm kích có thể tấn công trực tiếp hoặc có thể gián tiếp người
khác có thể dùng lời lẽ hoặc hành động để làm hại người khác. Hành vi xâm kích có thể
mang lại lợi ích cho chủ thể hành vi, hoặc có thể để thỏa mãn một nhu cầu, động cơ nào
đó. Dù xem xét dưới góc độ nào thì xâm kích cũng được xem là hành vi gây hại cho người
khác. Đôi khi người ta có thể ngụy biện cho hành vi xâm kích của mình nhưng về cơ bản,
so với các chuẩn mực xã hội nói chung, hành vi xâm kích bị lên án và phê phán.
2. Những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hành vi xâm kích
Từ những năm 40 của thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu đã xem xét xâm kích với tư
cách là một vấn đề rất đơn giản. Họ coi xâm kích là sản phẩm của sự chán nản, thất vọng.
Song, thực tế không hề đơn giản như vậy. Nếu coi xâm kích là một hiện tượng tâm lý xã
hội thì việc nghiên cứu xâm kích đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận ở góc độ rộng hơn. Những
phản ứng xâm kích của con người hiện nay được xem xét là một vấn đề phức tạp có nhiều
yếu tố ảnh hưởng mà yếu tố xã hội phải được tính đến đầu tiên.
Những yếu tố xã hội trước tiên là những cảm xúc khác nhau của con người. Theo
Leonard Berkowitz và các cộng sự: phim ảnh bạo lực có ảnh hưởng lớn đến hành động
xâm kích của con người. Ông cho rằng đối với những cá nhân có tính tình nóng nảy thì dễ
bị kích thích bởi các phim bạo lực hơn những người khác. Một yếu tố khác làm cho cá
nhân dễ có hành động xâm kích bằng hành vi bạo lực đó là những người không muốn bộc
lộ bản thân, họ thường giấu tên, mạo danh hoặc nặc danh.
Nghiên cứu của Epstein, Taylor (1967); Shortell, Epstein và Taylor (1970), cho thấy
những cá nhân trong trạng thái tinh thần mệt mỏi, tinh thần không sáng suốt thì hành động
xâm kích mạnh mẽ hơn những cá nhân có tinh thần ở trạng thái tích cực, hoặc khi hành vi
của cá nhân có chủ ý thì tính xâm kích thể hiện rõ hơn là khi hành động của chủ thể mang
tính ngẫu nhiên.
3. Xâm kích có tổ chức
Một điều kiện tốt của xâm kích là nó được thực hiện trong bối cảnh có tổ chức.
Những con người bình thường phạm phải sự xâm kích và thậm chí cả hành vi bạo lực cho
rằng đó là sự thực hiện các hành động cũng giống như một phần của “công việc của họ”
(Vander Zanden, James Wilfrid, 1977). Đó chính là sự xâm kích có tổ chức. Stanley
Milgram đã tiến hành một số thí nghiệm và đã phát hiện ra rằng, nhiều người có hành
động xâm kích và bạo lực lại là những người ngoan ngoãn vâng theo quyền lực. Khi hành
động trong một tổ chức, con người dám làm những việc mà một mình họ không dám làm.
Họ cảm thấy mình được quyền tha thứ cho hành động của mình. Họ cảm thấy mình như là
một “con tốt” nhiều hơn là “người sáng tạo ra hành vi”. Họ nghĩ “Nếu tôi không làm việc
đó (hành động xâm kích) thì ai đó sẽ thực hiện” (De Charms, 1968, Kipnis, 1974).
Bạo lực là dẫn chứng điển hình của hành động xâm kích. Hai nhà tâm lý học Mỹ
Vander Zanden và James Wilfnd đã thống kê một số liệu về hành vi bạo lực ở Mỹ trên cơ
sở phỏng vấn 1.176 người dân Mỹ đã trưởng thành cho thấy:
- Có 13% những người Mỹ trưởng thành đã chống lại hoặc dùng tay đánh những
người khác. 18% người Mỹ đã bị nhắc nhở về hành vi chống lại hoặc dùng tay đánh người
nào đó.
- Có 1/5 người Mỹ tán thành việc tát vợ (hoặc chồng) trong trường hợp được phép:
16% trẻ em Mỹ ở tuổi dưới 16, đang học trong trường phổ thông và 25% sinh viên đại học
đồng ý việc này.
- Có 41% người Mỹ trưởng thành nói rằng họ có một khẩu súng của mình (một số
có vài khẩu).
- 43% người da trắng và 27% người da đen có súng ngắn.
- 50% người dân Mỹ ủng hộ việc giáo viên trong trường phổ thông sử dụng các biện
pháp trừng phạt (về thể xác) khi có nguyên nhân chính đáng.
- Cứ 10 người Mỹ thì có 9 người nói rằng họ đã sử dụng hình thức phát vào đít đứa
trẻ.
- Chỉ có 18% người da trắng quả quyết rằng họ không có hành vi bạo lực, 9% cho
rằng mình có thể có những hành vi bạo lực. 43% người da đen cho rằng mình là những
viên chức không vâng lời, 25% cố gắng để không có hành vi bạo lực.
- 28% người dân Mỹ cho rằng cảnh sát thường sử dụng vũ lực nhiều hơn là thuyết
phục.
- 58% đồng ý với quan điểm: Bản chất của con người là thường xuyên tạo nên chiến
tranh và xung đột.
- 62% người dân Mỹ biện minh rằng chiến tranh là sự hợp pháp hóa công cụ của
đường lối chính trị. Rõ ràng, khi đứng trong tổ chức và được tổ chức “bảo lãnh” hành vi
xâm kích sẽ phát triển và mức độ bạo lực sẽ gia tăng.
HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
Tri thức tâm lý học xã hội về ảnh hưởng xã hội, định kiến và xâm kích xã hội có thể
được xếp chung vào những hiện tượng tâm lý xã hội chi phối quá trình hình thành, vận
hành các quan hệ xã hội. Do vậy, hướng vận dụng chủ yếu là giúp giảng viên có thể xây
dựng và vận hành các quan hệ xã hội với sinh viên một cách thuận lợi hơn (lĩnh vực can
thiệp tâm lý xã hội, hình thành kĩ năng xã hội).
- Trong việc đánh giá sinh viên, cần quan tâm đến môi trường sinh viên, môi trường
văn hóa sinh viên đang hoạt động để đánh giá một cách khách quan, không quy chụp chủ
quan rút ngắn khoảng cách thế hệ.
- Tránh các định kiến xã hội trong quan hệ với sinh viên, đồng nghiệp; chủ động
điều chỉnh, phá bỏ các định kiến xã hội đối với sinh viên và đồng nghiệp. Một khi cá nhân
nhận biết mình bị điều khiển bởi các định kiến xã hội, cá nhân có thể thay đổi định kiến
một cách có ý thức.
- Hình thành khả năng tự chủ, điều khiển các hành vi của bản thân. Trong quan hệ
với sinh viên tránh sắc thái bạo lực trong ngôn ngữ, thái độ và hành vi. Đồng thời cũng lưu
ý uốn nắn các hành vi từ phía sinh viên.
- Thông qua các hoạt động làm việc nhóm. Thảo luận, các nhóm T - training để hình
thành các kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng tương tác xã hội.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG V
1. Ảnh hưởng xã hội là gì? Môi trường văn hóa và nhóm có thể ảnh hưởng như thế
nào đến hành vi của cá nhân? Có thể vận dụng các tri thức này vào việc dạy học như thế
nào?
2. Phân tích một số định kiến xã hội để làm rõ bản chất của nó. Đưa ra các biện
pháp cụ thể cho việc điều chỉnh 1 định kiến xã hội mà anh, (chị) cho là cần thay đổi.
3. Xâm kích là gì? Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự xâm kích? Cần làm gì để
giảm các hành vi xâm kích?
Chương 6: Nhân cách trong TLH xã hội I. KHÁT NIỆM NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Nhân cách là khái niệm được phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội. Khái niệm
nhân cách được nhắc đến nhiều trong cuộc sống hàng ngày, trên các phương tiện thông tin
đại chúng cũng như trong sinh hoạt cộng đồng. Lúc đó người ta thường nói đến nhân cách
với nghĩa là cốt cách làm người. Còn hiểu đúng nghĩa khái niệm nhân cách với nhãn quan
của nhà khoa học thì khác với cách hiểu theo nghĩa đời thường.
Nhân cách là đối tương nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: Triết
học, Xã hội học, Đạo đức học, Giáo dục học Tâm lý học... Bất cứ khoa học nào nghiên
cứu về con người đều quan tâm đến nhân cách. Dưới góc độ của mỗi khoa học khác nhau,
nhân cách được quan niệm khác nhau.
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về con người, vì vậy nhân cách là một phạm trù
cơ bản của tâm lý học. Tâm lý học bao gồm nhiều chuyên ngành khác nhau. Các chuyên
ngành của tâm lý học đều xem xét nhân cách từ các phương diện khác nhau. Cho nên,
phân biệt một cách rạch ròi sự khác nhau về khái niệm nhân cách trong tâm lý học đại
cương hay Tâm lý học xã hội, tâm lý học nhân cách là rất khó. Nhưng nhân cách thuộc về
Tâm lý học xã hội hơn là nhân cách thuộc về tâm lý học nói chung. Về khía cạnh nào đó,
nhân cách trong Tâm lý học xã hội bao trùm rộng hơn nhân cách trong tâm lý học. Cho
đến giờ phút này, sự tranh luận về khái niệm nhân cách vẫn còn đang tiếp diễn. Có thể nêu
một số quan điểm cơ bản dưới đây.
1. Quan điểm của các tác giả nước ngoài
a) Quan niệm của các nhà tâm lý học phương Tây
Những người theo trường phái Phân tâm học mà đại diện là S.Freud cho rằng, bản
chất của nhân cách phát sinh từ các quá trình tâm lý nội tại. Sự xung đột này xảy ra giữa
sự thúc đẩy của cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Động lực của sự phát triển nhân cách nằm
trong vô thức. Hầu hết các đặc trưng cơ bản của nhân cách được hình thành khi con người
ở độ tuổi lên năm, lên sáu. Sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi này diễn ra mạnh mẽ hơn ở
tuổi thanh niên. Nhân cách có thể thay đổi ở độ tuổi lớn với quan điểm như vậy, những
người theo trường phái Phân tâm học đã coi nhân cách là cái có sẵn, như một yếu tố bẩm
sinh di truyền.
Những người theo quan niệm của chủ nghĩa nhân văn, đại diện là Carl Rogers và
Abraham Maslow, xem xét con người trong sự mâu thuẫn. Theo họ, nhân cách được phát
sinh từ sự mâu thuẫn giữa cái tôi nội tâm và sự ép buộc của xã hội. Con người có thể nhận
biết được cái tôi bên trong của mình, mặc dù cái tôi có thể bị che đậy khi cá nhân chấp
nhận các cá nhân khác và biến nó thành sự nhận biết bản thân. Cũng giống như quan điểm
của các nhà phân tâm học, những người theo chủ nghĩa nhân văn cũng thừa nhận giai đoạn
tuổi thơ là rất quan trọng trong quá trình phát triển nhân cách. Nhưng theo họ, ở giai đoạn
tuổi thơ, cha mẹ hoặc người lớn có thể làm méo mó cách nhìn nhận của trẻ. Cha mẹ có thể
đồng ý với suy nghĩ này của trẻ nhưng lại cản trở những suy nghĩ khác của chúng. Cái tôi
nội tâm luôn bị chèn ép bởi những yêu cầu của xã hội, như vậy sự biến đổi nhân cách là
luôn xảy ra.
Một số nhà tâm lý học Mỹ xem xét nhân cách trong mối quan hệ tác động qua lại
giữa bốn yếu tố:
1. Yếu tố sinh học: Giống nòi, vóc dáng, sức khỏe, giới tính...
2. Yếu tố môi trường: Môi trường tự nhiên (điều kiện địa lý, khí hậu...) và môi
trường xã hội (văn hóa, lối sống, phong tục tập quán...).
3. Quá trình Tâm lý xã hội như: Thái độ, sự giao tiếp, sự đồng nhất...
4. Thuộc tính Tâm lý cá nhân.
Có thể biểu diễn mối quan hệ của 4 yếu tố như sau:
Yếu tố di truyền Yếu tố môi trường
Quá trình tâm lý xã hội
Thuộc tính tâm lý cá nhân
Như vậy nhân cách là sự tổng hợp của bốn yếu tố nêu trên. Khi xem xét nhân cách
phải xem xét nó trong sự tác động qua lại giữa 4 yếu tố, trong đó nhân cách là yếu tố trung
tâm của sự tác động qua lại đó.
b) Quan điểm của các nhà tâm lý học Xô viết
Các tác giả Xô viết có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách với những tên
tuổi nổi tiếng như: B.G.Ananiev, A.N.Lêonchiev, K.K.Platonov...
A.N.Lêonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong
các quan hệ sống của cá nhân do kết quả của hoạt động cải tạo của người đó. Theo ông,
nhân cách là sản phẩm của quá trình tiến hóa. Ông phân biệt giữa hai khái niệm cá nhân và
nhân cách.
Cá nhân là một chỉnh thể, một sản phẩm của sự tiến hóa chủng loài và tiến hóa cá
thể.
Nhân cách là một cấu tạo tâm lý đặc biệt có tính trọn vẹn, là kết quả của quá trình
chín muồi những yếu tố bẩm sinh dưới tác động của môi trường xã hội. Sự phát triển nhân
cách diễn ra theo quá trình phát triển của cá nhân. Đối với đứa trẻ sự hình thành nhân cách
được bắt đầu từ sự hình thành mối quan hệ giữa trẻ em với người lớn, trẻ em với thế giới
xung quanh. Nhân cách được hình thành theo một quá trình từ nhỏ đến lớn. Đặc biệt ông
nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động, đặc biệt là hoạt động chủ đạo của mỗi giai đoạn lứa
tuổi.
Muốn hiểu nhân cách một con người, phải dựa vào hoạt động của họ và đồng thời
phải đề cập đến các yếu tố động cơ, nhu cầu, mục đích...
B.G.Ananhiev coi nhân cách là một cá thể mang tính xã hội lịch sử. Nhân cách tồn
tại trong một xã hội nhất định. Vì vậy phải nghiên cứu nhân cách cùng với tính chất lịch sử
xã hội và tâm lý xã hội của nó. Đồng thời dựa trên cơ sở của các khái niệm cá thể, cá nhân,
hoạt động, chủ thể, khách thể để lý giải các vấn đề về nhân cách. Ông cho rằng chủ thể và
nhân cách không có sự tương đồng. Chủ thể là sản phẩm của hoạt động, là thái độ tích cực
của hoạt động. Nhân cách là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, xác định vị thế của con
người trong xã hội. Vì vậy phải nghiên cứu nhân cách gắn liền với hoàn cảnh xã hội nhất
định, nghiên cứu vị trí của cá nhân trong xã hội và chức năng xã hội gắn liền với vị trí đó.
K.K.Platonov coi nhân cách là con người có ý thức. Bàn về sự hình thành nhân
cách, ông cho rằng sẽ là không biện chứng khi xác định lúc nào nhân cách được hình
thành ở trẻ. Khi đứa trẻ biết nói “tôi” thì đó chính là một nhân cách rồi. Nhân cách được
hình thành trong giao tiếp. Vì vậy, không thể nói một cách chỉnh xác nhân cách hình thành
từ khi nào.
2. Quan niệm của các nhà Tâm lý học Việt Nam
Các tác giả Việt Nam đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về nhân cách. Có thể nêu
một số quan niệm như sau:
- Theo Nguyên Quang Uẩn: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính
tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân đó.
- Theo Nguyễn Ánh Tuyết: Nhân cách là bộ mặt xã hội tâm lý của một người, là tổ
hợp những thuộc tính tâm lý vừa đặc trưng cho cá nhân vừa mang ý nghĩa xã hội. Người
có nhân cách được coi là một thành viên của xã hội, chịu sự chi phối của xã hội, đồng thời
là chủ thể có ý thức của sự phát triển xã hội...
Hai quan niệm trên cho thấy: muốn đánh giá một nhân cách của một con người phải
đánh giá giá trị xã hội con người đó.
- Theo Nguyễn Khắc Viện: Nhân cách là toàn bộ những gì hợp thành một con
người, một cá nhân với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất (tạng), tài năng,
phong cách, ý chí, đạo đức, vai trò xã hội. Nhân cách là một cá nhân có ý thức về bản thân
đã tự khẳng định được, giữ được một phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi.
Ông cũng cho rằng, trong con người có ba mặt: tạng, tâm và phận. Tạng là thể tạng
của con người, tâm là tâm lý, đời sống tinh thần của con người, phận là bổn phận con
người phải đảm nhiệm (vai trò xã hội mà các nhân phải đóng).
Với tính chất giao thoa giữa Tâm lý học và Xã hội học, Tâm lý học xã hội không thể
xem xét cá nhân một cách riêng rẽ mà luôn đặt cá nhân trong mối quan hệ qua lại với cá
nhân khác, với nhóm và với cộng đồng xã hội. Mỗi cá nhân là một thành viên của một
nhóm xã hội. Cá nhân chịu tác động của các chuẩn mực nhóm, chuẩn mực xã hội. Tâm lý
học xã hội nghiên cứu nhân cách bao gồm toàn bộ các đặc điểm tâm lý của cá nhân được
thể hiện trong các mối quan hệ xã hội thông qua hoạt đông và giao tiếp của mỗi cá nhân đó
II. CẤU TRÚC CỦA NHÂN CÁCH
Dưới góc độ Tâm lý học xã hội, người ta thấy nhân cách bao gồm hai thành phần cơ
bản: Lõi bên trong và các biểu hiện bên ngoài. Lõi bên trong của nhân cách là cái tôi biểu
hiện bên ngoài là vai trò xã hội mà cá nhân đảm niệm. Có thể lần lượt phân tích từng thành
phần như sau.
1. Cái tôi
Cái tôi là chủ đề nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như triết học,
xã hội học, tâm lý học... Ngay trong Tâm lý học xã hội cũng có nhiều công trình nghiên
cứu về cái tôi và có nhiều ý kiến khác nhau về cái tôi. Tuy nhiên, mọi ý kiến đều có điểm
thống nhất cho rằng: cái tôi là sự cảm nhận về chính bản thân mình. Cụ thể hơn, cái tôi là
sự nhận nhận xét, đánh giá về chính mình.
Người đưa ra khái niệm cái tôi được nhiều người thừa nhận là nhà tâm lý học Mỹ
William James. Theo ông, cái tôi là một thể phức hợp của các yếu tố: cá nhân đó là người
như thế nào, cá nhân đó muốn gì và người khác muốn gì ở anh ta. Theo quan niệm đó thì
cái tôi chính là sự hiểu biết về chính mình, biết mình là ai, biết mong muốn điều gì và có
thể làm gì. Trong đó bao gồm cả sự cảm nhận và tỏ thái độ với chính mình. Cái tôi có thể
có hai thành phần chính: Cái tôi chủ quan và cái tôi được phản ánh.
a) Cái tôi chủ quan
Cái tôi chủ quan là quan niệm về bản chất thực sự bên trong của cá nhân. Nó có
nguồn gốc xã hội sâu xa chứ không hoàn toàn chủ quan.
Trước hết nó do ảnh hưởng của cha mẹ, người thân quen, hàng xóm láng giềng... Đó
chính là cái tôi chủ thể. Lúc này được hình thành sớm và thường có 2 tình trạng:
Cái tôi chủ quan hình thành sớm nên ít bị thay đổi ở giai đoạn sau này của lứa tuổi.
Đối với mỗi cá nhân sự hiện diện của cái tôi là khá ổn định. Nó không hề thay đổi khi con
người thay đổi vai trò xã hội. Tuy nhiên, người ta thấy rằng cái tôi phát triển theo sự phát
triển lứa tuổi. Cá nhân nhận thức về cái tôi linh hoạt và chững chạc hơn khi họ trưởng
thành. Người lớn cũng có một số thay đổi về cá tính khi họ tham gia vào một vai trò mới.
Nhưng sự thay đổi này là không đáng kể. Cái tôi chủ quan là cái gì rất vững chắc xét về
mặt tâm lý rất khó phân biệt và thường có tình trạng quá cao hoặc quá thấp. Thường trong
xã hội, người ta hay đánh giá mình cao vì nếu đánh giá thấp mình sẽ không có sinh lực, sẽ
chết dần. Đó là năng lượng của sức sống tâm lý.
Cái tôi chủ quan là hạt nhân của nhân cách kể cả khi xã hội đánh giá không đúng về
mình, người ta vẫn sự tự tin vào bản thân. Nhưng đôi khi cái tôi chủ quan có thể mang sắc
thái tượng tượng, bệnh hoạn không hợp lý do con người không hiểu đúng về mình, đánh
giá về mình thiếu khách quan.
b) Cái tôi được phản ánh
Đó là toàn bộ nhưng quan điểm của cá nhân về bản thân dựa trên những điều suy
nghĩ và đánh giá của người khác. Cũng giống như chúng ta nhìn mình qua gương. Tấm
gương đây là những người khác. Sự khác nhau giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phán
ánh: cái tôi chủ quan thường có màu sắc tích cực lạc quan hơn cái tôi được phản ánh. Cái
tôi được phản ánh có thể điều chỉnh cái tôi chủ quan. Điều chỉnh này có thể tích cực, có
thể tiêu cực.
Sự đánh giá của người khác đối với cá nhân rất quan trọng. Phương châm động viên
khích lệ có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển cái tôi chủ quan. Đôi khi sự động viên và khích
lệ làm cho một con người luôn hổ thẹn về bản thân thay đổi thành một người hoàn toàn
khác lạ.
Giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phản ánh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Cái tôi chủ quan thường là những nhu cầu tiềm ẩn trong mỗi cá nhân. Nhiều khi chủ thể
không đánh giá đúng về bản thân và thường theo xu hướng đề cao bản thân. Cái tôi khách
quan giúp cho chủ thể tìm ra cách xử sự đúng đắn. Cái tôi khách quan là đạo lý xã hội của
cái tôi, là cái tổng quan, chỉ đạo sự tự phát của cái tôi chủ quan theo những hành vi mang
tính đạo lý xã hội.
Cũng giống như sự phát triển của nhân cách, sự phát triển của cái tôi chịu sự ảnh
hưởng mạnh mẽ của môi trường nhà trường gia đình và xã hội. Mỗi cá nhân đồng thời là
thành viên của nhiều nhóm xã hội khác nhau nên các nhóm xã hội này đều có ảnh hưởng
nhất định đến sự hình thành cái tôi.
2. Vai (vai trò) xã hội của cá nhân
a) Khái niệm vai xã hội
Khi tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội, cá nhân phải thực hiện các vai xã
hội. Quan hệ xã hội thực chất là quan hệ giữa các vai xã hội.
Việc phân tích tâm lý xã hội về vai xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu
hành vi xã hội của con người. Do vậy, vấn đề này được cả các nhà tâm lý học xã hội rất
quan tâm. Đến cuối những năm 60 của thế kỉ XX, trong Tâm lý học xã hội có đến hàng
trăm các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết về vấn đề này.
G.Mead đề cập đến vai xã hội trong tương tác xã hội như là một điều kiện: tiếp nhận
vai của người khác, tức là nhìn nhận bản thân từ vị trí của người khác trong quá trình giao
tiếp. Sau này các nhà tâm lý học xã hội theo định hướng tương tác tiếp tục sử dụng khái
niệm này. Trong tâm lý học phương tây khái niệm này cũng được sử dụng phổ biến.
Linton là nhà nhân học xã hội có đóng góp lớn cho sự phát triển lý thuyết vai. Theo
ông cần đề cập đến 2 khái niệm “vị trí” và “vai”. Vị trí là vị trí mà cá nhân chiếm giữ trong
hệ thống, còn vai dùng để chỉ tất cả các hình mẫu hành vi văn hóa liên quan đến vị trí đó.
Như vậy, vai bao hàm các thái độ, giá trị và các hành vi được xã hội yêu cầu (định trước)
cho tất cả các cá nhân ở vị trí đó. Vai chính là mặt năng động của vị trí.
Vai xã hội là khái niệm phức tạp. Có thể có 2 mặt: mặt xã hội học của nó như là mặt
nội dung hoạt động và chuẩn mực hành vi không bao hàm tính chủ thể do xã hội quy định
để thực hiện chức năng xã hội; mặt khác là mặt tâm lý xã hội liên quan đến các nhân tố
của chủ thể trong việc thực hiện các vai xã hội như cơ chế tâm lý xã hội và các quy luật
của việc tiếp nhận và thực hiện vai xã hội.
Bên cạnh đó còn tồn tại một số quan điểm sau:
* Quan điểm thứ nhất: Những người theo quan điểm này cho rằng vai trò như cái
mặt nạ đeo cho các thành viên của xã hội. Vai trò xã hội có tính chất bề ngoài nên về cơ
bản mọi thành viên trong xã hội đều là con rối. Khi đóng vai trò xã hội thì không nói lên
bản chất thật của con người.
Các thành viên không thực, thay đổi luôn và trong từng giai đoạn cuộc đời ta đóng
nhiều vai trò nên con người không cố định. Vai trò xã hội là hời hợt bên ngoài, ngụy trang
nên chỉ gây tác hại cho con người.
Đây là quan điểm quá nhấn mạnh đến tính thụ động của con người. Tất nhiên vai trò
chi phối con người nhưng con người là người tổ chức xã hội là chủ thể của các vai trò.
Trong thực tế có nhiều người do không toại nguyện nên đóng vai một cách hời hợt nhưng
cơ bản là con người còn là chủ thể của các vai trò nên con người có tính chủ động trong
đó.
* Quan điểm thứ hai: Đây là quan điểm phi lịch sử, duy tâm về vai trò, cho là vai trò
ở thời đại nào, xã hội nào cũng như nhau (giáo viên thời đại nào cũng thế). Nam Cao:
“Tây mặc Tây, ta mặc ta, thuốc cứ thuốc”.
Quan điểm này sai ở chỗ đây chỉ là bề ngoài. Đúng là chức năng người thầy vẫn là
giảng dạy và giáo dục nhưng mỗi chế độ sẽ có nội dung khác nhau do mục đích và phương
tiện khác nhau chưa nói đến chức năng của người thầy ngày nay khác với người thầy trước
kia. Do đó vai trò có tính lịch sử và giai cấp.
Từ những những phân tích nêu trên, có thể đi đến một cách hiểu như sau:
Vai xã hội của cá nhân là toàn bộ những hành động mà xã hội đòi hỏi và mong nơi
ở mỗi cá nhân khi người đó giữ một vị trí nhất định trong hệ thống quan hệ xã hội để thực
hiện những quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Ví dụ: Giáo viên, bác sĩ, cha mẹ - con, thủ trưởng - nhân viên là vai xã hội.
Có thể chỉ ra các khía cạnh của vai xã hội như sau: (từ các công trình của nhiều tác
giả).
- Vai xã hội như là hệ thống các kì vọng của các cá nhân khác đối với các hành vi
của cá nhân chiếm giữ một vị trí trong xã hội, trong quan hệ với những người khác.
- Vai xã hội như hệ thống các kì vọng đặc trưng trong quan hệ đối với chính bản
thân của cá nhân chiếm giữ một vị trí nhất định trong xã hội, tức là chính cá nhân hình
dung về mô hình hành vi của bản thân trong sự tương tác với người khác.
- Vai xã hội như hành vi của cá nhân chiếm giữ một vị trí xã hội có thể quan sát
thấy.
Như vậy, vai trò xã hội là sự xác nhận về vị trí của cá nhân trong hệ thống quan hệ
xã hội. Vai trò xã hội còn được hiểu là chức năng, hình ảnh chuẩn mực của hành vi mà qua
đó thể hiện sự mong muốn của xã hội đối với cá nhân, khi cá nhân đảm nhận vị trí nhất
định trong hệ thống các quan hệ xã hội. Những mong muốn này không phụ thuộc vào ý
thức và hành vi của cá nhân cụ thể. Với cách hiểu về vai trò xã hội như vậy chúng ta thấy
rằng, bản chất ở đây không những chỉ là việc ghi nhận quyền lợi và nghĩa vụ của vai trò xã
hội mà còn là sự liên hệ của vai trò xã hội với các loại hoạt động xã hội của nhân cách. Có
thể nói rằng, vai trò xã hội là một loại hình hoạt động cần thiết và phản ánh phương thức
hành vi của nhân cách tương ứng với những tiêu chuẩn được quy định bởi vị trí hay chỗ
đứng của cá nhân ấy trong xã hội. Ngoài ra, trên vai trò xã hội còn in đậm những dấu ấn
của xã hội: xã hội có thể tán thành hay không tán thành một số vai trò xã hội (ví dụ xã hội
không tán thành vai trò “tội phạm”). Đôi khi sự tán thành hay không tán thành đó có thể
được phân hóa ở các nhóm xã hội khác nhau, bởi vì trong sự đánh giá đó còn tùy thuộc
vào quan điểm và kinh nghiệm xã hội của từng nhóm xã hội. Điểm cần nhấn mạnh ở đây
là xã hội tán thành hay không tan thành không phải một khuôn mặt cụ thể mà trước hết là
sự tán thành hay không tán thành một loại hình hoạt động xã hội. Tóm lại, khi nói đến vai
xã hội, chúng ta đã “xếp” con người vào một nhóm xã hội nhất định, đồng nhất nó với
nhóm.
b) Đặc điểm của vai xã hội
Vai xã hội vừa có tính chất lịch sử vừa có tính chất khách quan:
- Tính khách quan của vai xã hội: Khi con người sinh ra, họ đã được xã hội phân
cho (dù muốn hay không) phải đóng những vai khác nhau: làm học sinh phải thực hiện
những hoạt động của học sinh; làm giáo viên phải thực hiện nhiệm vụ của người thầy giáo;
làm bác sĩ phải thực hiện nhiệm vụ của người thầy thuốc. Đây là những yếu tố mới có thể
điều khiển được mọi người do nó quy định chặt chẽ.
- Vai trò xã hội là một dạng hoạt động được thể chế hóa hay là một đơn vị hoạt động
của xã hội. Chức năng, nội dung, cấu trúc bên trong đã quy định rõ cá nhân làm sai sẽ bị
lên án thậm chí bị đào thải và có thể bị trừng trị.
- Vai trò có tính lịch sử: mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển xã hội, đặc điểm, tính
chất... của các vai trò cũng khác nhau.
c) Phân loại vai xã hội
Không có sự phân biệt rạch ròi về các loại vai xã hội, tuy nhiên có thể phân thành
các loại như sau:
- Vai chính thức: có các biểu tượng rõ ràng và thống nhất về quyền và nghĩa vụ của
người mang vai này. Mức độ thống nhất và rõ ràng của vai này có lý do là gắn liền với các
hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội mang tính khách quan.
- Vai không chính thức : không có được sự rõ ràng như vai chính thức vì nó mang
đặc trưng tâm lý cá nhân với sự đa dạng và ít xác định của chúng.
Theo Sibutanhi (1999), có thể có vai công cộng - với các biểu tượng thống nhất
rộng rãi về hành vi của các vai này và vai liên nhân cách - không có biểu tượng thống
nhất. Theo Thibau và Kelley, có thể phân chia thành các vai “được quy trước –
prescribed” tức là được quy định từ bên ngoài và không phụ thuộc vào sự nỗ lực của chủ
thể và các vai “đạt được – achieved” tức là các vai có thể thực hiện được nhờ sự nỗ lực cá
nhân của người mang vai đó.
P. Linton chia thành các vai tích cực và tiềm ẩn bởi vì cùng lúc cá nhân tham gia
vào nhiều mối quan hệ khác nhau và cùng lúc mang nhiều vai khác nhau nhưng tại mỗi
thời điểm cá nhân chỉ thực hiện được một vai. Vai đó gọi là vai tích cực các vai còn lại gọi
là vai tiềm ẩn. Một vai có thể trở thành tích cực phụ thuộc vào điều kiện, cũng như loại
hoạt động của cá nhân.
c) Ý nghĩa của việc đóng các vai xã hội
Toàn bộ nhân cách của cá nhân không thể hiện ra hết trong các vai trò mà chỉ thể
hiện một phần (mặc dù là phần quan trọng). Nhưng mỗi vai trò đòi hỏi con người phải
tuân theo các yêu cầu khách quan của nó nên nhập vai nào, con người sẽ hình thành các
đặc điểm tâm lý tương ứng với vai trò đó. Con người càng tham gia nhiều vai trò thì nhân
cách con người càng phong phú.
Vai trò chỉ là mảng hành động của con người chứ chưa bao quát toàn bộ con người.
Tuy nhiên, khi con người hành động theo vai trò, chưa chắc con người đã nhập vai nên
nếu chỉ qua hành động bên ngoài không thể thấy hết nội tâm bên trong con người. Mỗi lần
tiếp xúc, chúng ta chỉ tiếp xúc với con người trong một vai trò nào đó nên cũng không thể
thấy hết sự phong phú của con người. Họ chỉ thể hiện một phần con người theo vai trò họ
đang đóng.
Nếu đóng vai trò một cách thành thạo (vai trò chủ yếu như lao động, nghề nghiệp...)
là yếu tố rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Con người sẽ tuân
thủ hoàn toàn các yêu cầu của vai trò và hình thành các phẩm chất năng lực theo vai trò
đòi hỏi.
Cùng một lúc con người đóng nhiều vai trò nên cũng rất khó thuần thục tất cả các
vai trò. Do đó, có thể họ đóng tốt vai trò này nhưng lại đóng không tốt vai trò khác. Thậm
chí có những vai trò trái ngược nhau hoặc không bị trùng nhau về thời điểm làm cho con
người lúng túng và không hoàn thành được vai trò của mình. Ví dụ, vào cùng một thời
điểm, một người vừa đảm nhiệm việc cơ quan đã rất bận rộn, nhưng yêu cầu công việc gia
đình cũng rất cần họ. Vì thế, họ rất khó làm tốt cả hai vì thời gian không cho phép
Do đó, vấn đề của mỗi cá nhân là sắp xếp các vai trò theo thứ bậc ưu tiên và đóng
tốt các vai trò theo mức độ quan trọng của nó. Ví dụ, người công chức mới đi làm thì công
việc cơ quan là quan trọng hơn công việc gia đình. Nhưng khi có gia đình có con thì cả hai
việc đều quan trọng. Nhưng lưu ý nếu nhập vai một cách quá đáng (quá sự cần thiết) có
thể dẫn tới sự méo mó nghề nghiệp.
Vì tính đa dạng của các vai xã hội mà cá nhân phải thực hiện cũng như sự phù hợp
hay không phù hợp của cá nhân với các vai xã hội khác nhau làm nảy sinh hiện tượng
“xung đột vai”.
Xung đột vai được hiểu là tình huống trong đó cá nhân đối mặt với các kì vọng
không tương ứng. Nói cách khác cá nhân không đủ khả năng để thực hiện các yêu cầu đặt
ra đối với vai đó.
Có 2 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ sâu sắc và cường độ của xung đột vai:
- Một là: mức độ khác biệt giữa các vai. Các vai mà cá nhân đồng thời phải thực
hiện càng có nhiều yêu cầu chung thì xung đột vai càng ít xảy ra.
- Hai là: Các yêu cầu đối với vai. Các yêu cầu đối với vai càng chặt chẽ, tính
nghiêm khắc của yêu cầu đối với vai càng cao càng dễ tạo ra các xung đột vai nghiêm
trọng.
Trong các lý thuyết về vai, thường được chia thành 2 loại xung đột vai: xung đột
giữa các vai và xung đột bên trong vai. Xung đột giữa các vai diễn ra khi cá nhân phải
thực hiện đồng thời nhiều vai. Do vậy không thể thực hiện tất cả các yêu cầu của các vai
đó do thiếu thời gian, sức lực hay do các vai đó có các yêu cầu không tương thích.
Mâu thuẫn bên trong vai xuất hiện khi có những yêu cầu mâu thuẫn của các nhóm
xã hội đối với một vai. Các nhóm xã hội khác nhau có thể có sự kì vọng và yêu cầu khác
nhau với cùng một vai. Chẳng hạn phụ huynh đánh giá và kì vọng vào kết quả của sinh
viên, trong khi đó với chính bản thân sinh viên lại xem nhẹ điều đó.
Xung đột vai nói chung ảnh hưởng tiêu cực đến sự tương tác cho nên các tác giả có
xu hướng tìm kiếm các phương thức giải quyết xung đột vai. Có 3 nhóm nhân tố được coi
là có thể làm giảm xung đột vai:
- Nhóm thứ nhất: liên quan đến thái độ của chủ thể đối với vai (các yêu cầu của vai
có ý nghĩa đến mức nào đối với cá nhân, cá nhân cho rằng các yêu cầu đó chính đáng đến
mức nào).
- Nhóm thứ hai: bao hàm sự thưởng phạt có thể có đối với việc thực hiện hay không
thực hiện vai.
- Nhóm thứ 3 : các định hướng giá trị của các cá nhân (định hướng giá trị đạo đức
hay định hướng giá trị thực tế).
III. CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
Sự hình thành và phát triển nhân cách theo quan điểm của Tâm lý học hoạt động
được hiểu là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó một người thể hiện
mình vừa với tư cách là đối tượng của sự tác động, vừa với tư cách là chủ thể của hoạt
động và giao tiếp. Như thế, nhân cách không bẩm sinh, không phải có sẵn trong các gen di
truyền mà được hình thành trong suốt quá trình sống. Nếu như việc đưa ra một khái niệm
thống nhất về nhân cách là một vấn đề khó khăn đối với các nhà tâm lý học, thì việc đưa ra
các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách lại đạt được sự
thống nhất cao. Đó là các yếu tố:
1/ Yếu tố sinh học.
2/ Yếu tố môi trường.
3/ Yếu tố giáo dục.
4/ Yếu tố hoạt động của cá nhân.
1. Ảnh hưởng của yếu tố sinh học
Nhóm yếu tố sinh học bao gồm: Não bộ và hệ thần kinh, gen, di truyền, khí chất,
năng khiếu. Những người theo trường phái sinh học cho rằng yếu tố bẩm sinh di truyền có
sẵn trong mỗi cá nhân từ khi cá nhân còn là một thai nhi là nguồn gốc, động lực hình thành
nhân cách của cá nhân. Sự phát triển nhân cách chẳng qua là sự bộc lộ dần những thuộc
tính ấy. Tính tích cực cá nhân, sự giáo dục và ảnh hưởng của môi trường chỉ làm tăng
thêm hay giảm đi những yếu tố tiền định trước đó mà thôi. Quan điểm này là cơ sở lý luận
cho sự giáo dục tự phát. Nó là chỗ dựa cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phân biệt giai
cấp, coi thường, khinh rẻ những người lao động đã tồn tại nhiều năm liền trong lịch sử loài
người.
Theo quan điểm của Tâm lý học khoa học, tâm lý được coi là chức năng của não,
não bộ là cơ sở vật chất của tâm lý. Tất cả các hiện tượng tâm lý đều có cơ sở sinh lý là
các phản xạ có điều kiện. “Sự vận hành của hệ thần kinh tạo thành một tiền đề không thể
thiếu đối với sự phát triển nhân cách” (Leonchiev, Hoạt động - Ý thức - Nhân cách - NXB
Giáo dục, 1989). Ở đây cũng cần nhấn mạnh tới mối quan hệ mật thiết giữa sinh lý và tâm
lý: Hệ thống tín hiệu thứ nhất là cơ sở của nhận thức cảm tính, tư duy cụ thể, cảm xúc cơ
thể và hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở của nhận thức lý tính, tư duy ngôn ngữ, ý thức,
tình cảm, các chức năng tâm lý cấp cao. Sự kết hợp chặt chẽ giữa hai hệ thống tín hiệu và
tương ứng là các hiện tượng sinh - tâm lý cho thấy sự hình thành và phát triển của nhân
cách trên cơ sở tiền đề sinh học. Bên cạnh đó, khí chất - thuộc tính phức hợp của nhân
cách quy định sắc thái và mức độ sự thể hiện ra bên ngoài các hoạt động tâm lý bên trong
của nhân cách cũng có cơ sở sinh lý là các kiểu hoạt động của hệ thần kinh.
Ngày nay, người ta chứng minh được rằng sinh học là yếu tố cơ sở nền tảng và
không thể thiếu được trong quá trình hình thành nhân cách. Yếu tố bẩm sinh di truyền
cùng những đặc điểm về thể chất sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây những khó khăn nào
đó trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn, một người có thính giác nhanh nhạy sẽ là điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành năng lực chơi âm nhạc hoặc hưởng thụ âm nhạc. Các cơ
quan của cơ thể và chức năng của nó đôi khi cũng hoạt động theo nguyên tắc bù trừ. Ví
dụ: một người bị mù bẩm sinh thì cảm giác xúc giác hoặc thính giác của họ rất phát triển.
Tuy nhiên, vai trò của các yếu tố sinh học được nhấn mạnh ở tính chất tiền đề của
chúng. Các yếu tố tự nhiên không quy định sẵn sự phát triển nhân cách. Luận điểm này
được chứng minh bằng một số các nghiên cứu: Những trẻ sinh đôi cùng trứng với các
phương pháp dạy học khác nhau có kết quả khác nhau trong một số hoạt động sáng tạo
(A.R.Luria, V.N.Konhanovsky, A.N.Mirenova). Sự khác biệt về tính cách của trẻ do vị trí
nhất định của chúng trong quan hệ xã hội quy định.
2. Ảnh hưởng của môi trường
Đánh giá về ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân cách có
ba loại quan điểm khác nhau:
Thứ nhất: Phủ nhận vai trò của môi trường (những người theo trường phái sinh vật
học).
Thứ hai: Thổi phồng vai trò của môi trường xã hội (quan điểm của thuyết nguồn gốc
xã hội của sự phát triển). Quan điểm này cho rằng, môi trường xã hội là yếu tố quyết định
sự hình thành và phát triển nhân cách. Họ coi đứa trẻ như tờ giấy trắng, muốn vẽ gì lên đó
cũng được. Theo họ, môi trường xung quanh như thế nào thì nhân cách cá nhân như thế.
Bởi thế, khi nghiên cứu nhân cách cá nhân chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường xã hội
xung quanh là có thể hiểu được.
Thứ ba: Thừa nhận vai trò quan trọng, không thể thiếu của môi trường đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách, nhưng không thừa nhận nó là yếu tố quyết định.
Theo quan điểm của Tâm lý học khoa học, nhóm yếu tố môi trường đóng vai trò là
nguồn gốc và điều kiện cho sự hình thành nhân cách. Trong đó, môi trường vĩ mô là toàn
bộ những sự kiện, hiện tượng và đời sống xã hội trong phạm vi rộng: giai đoạn lịch sử, các
di sản văn hóa, các điều kiện xã hội quá khứ, hiện tại và tương lai... Các điều kiện lịch sử
này quy định sự hình thành nhân cách, chiều hướng phát triển, hình mẫu nhân cách mà xã
hội yêu cầu. Những dấu ấn của một thời kì xã hội in đậm lên nhân cách của một cá nhân
nhiều khi vượt ra ngoài sự nhận biết đơn thuần của cá nhân đó. Chính môi trường vĩ mô
quy định bản chất xã hội và tính lịch sử của nhân cách.
Môi trường vi mô được giới hạn trong phạm vi hẹp gần gũi với cuộc sống thường
ngày: gia đình, trường lớp, bạn bè, cộng đồng dân cư (các nhóm nhỏ xã hội). Trong môi
trường vĩ mô, các quan hệ xã hội được cụ thể hóa, các giá trị và chuẩn mực xã hội ảnh
hưởng trực tiếp lên hành vi của cá nhân. Mỗi yếu tố trong môi trường vi mô có vai trò nhất
định trong sự hình thành nhân cách. Gia đình là nhóm nhỏ xã hội đặc biệt, có ảnh hưởng
thường xuyên, liên tục và trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Nhà
trường có vai trò chủ đạo, định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Đây
được coi là nơi tổ chức chuyên biệt quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Một cách khác, có thể phân chia thành hai loại: Môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách. Môi trường tự nhiên bao gồm:
điều kiện địa lý, khí hậu, sông ngòi, miền, vùng... Môi trường xã hội bao gồm: các hệ
thống, thiết chế xã hội như gia đình, nhà trường, cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội...
cùng với các phong tục tập quán, lối sống, đạo đức, chuẩn mực...
Môi trường có ảnh hưởng nhất định đến nhân cách cá nhân. Chúng ta có thể nhận
thấy con người ở mỗi nước khác nhau có tính cách khác nhau: người Nhật cần cù, yêu lao
động; người Đức ưa chính xác, tiết kiệm; người Trung Quốc thâm trầm và kín đáo; người
Việt Nam thông minh, cần cù, chịu khó và rất dũng cảm... Điều kiện địa lý, khí hậu, hoàn
cảnh xã hội, lịch sử của mỗi nước cũng như văn hóa, phong tục tập quán đã tạo nên nét
đặc trưng về tính cách cho mỗi dân tộc. Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến nhân
cách. Sự phát triển nhân cách tăng dần về mặt số lượng cũng như chất lượng theo sự phát
triển của lứa tuổi. Sự gia nhập vào các nhóm, các tổ chức xã hội giúp cho cá nhân ngày
một trưởng thành. Những chuẩn mực, quy tắc phương thức giao tiếp dần dần hình thành
nhân cách sống cho mỗi cá nhân sao cho phù hợp với xã hội.
3. Giáo dục và nhân cách
Giáo dục tác động đến sự hình thành và phát triển của nhân cách một cách có chủ
định và có hệ thống. Giáo dục trước khi tiến hành các tác động để hình thành nhân cách đã
xác định một cách rõ ràng hình mẫu nhân cách cần đạt đến theo các yêu cầu của xã hội.
Các hình thức và phương pháp tác động cũng được vạch ra từ trước dựa trên các cơ sở
khoa học. Từ đó, quá trình tác động để hình thành và phát triển nhân cách là quá trình có
kế hoạch được điều chỉnh, điều khiển. Do vậy, giáo dục được coi là đóng vai trò chủ đạo
trong sự hình thành và phát triển nhân cách, đặc biệt trong việc quy định xu hướng hình
thành và phát triển nhân cách.
4. Ảnh hưởng của hoạt động cá nhân
Môi trường được coi là nguồn gốc, là điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhân
cách chứ không quyết định trực tiếp. Trung tâm của môi trường đó, đồng thời là người
mang các tiền đề sinh học chính là chủ thể. Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực
con người cải tạo hoàn cảnh. Do vậy nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát
triển của nhân cách chính là hoạt động của chủ thể. C.Mác cho rằng sự tiếp thị một tổng
thể các công cụ sản xuất cũng là sự phát triển một cách tổng thể các năng lực trong bản
thân. Trong hoạt động, nhờ quá trình chủ thể hóa mà chủ thể lĩnh hội được nền văn hóa
nhân loại, biến chúng thành nhân cách và cũng trong hoạt động, nhân cách bộc lộ năng lực
của bản thân với tư cách là một chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Nếu hoạt động với đối tượng
chủ yếu giúp con người hình thành và phát triển các năng lực của bản thân thì giao tiếp với
tư cách là một dạng đặc biệt của hoạt động lại giúp con người lãnh hội các chuẩn mực, các
giá trị xã hội, các kinh nghiệm xã hội để hình thành các phẩm chất nhân cách.
A.N.Leonchiev chỉ rõ: Quá trình đứa trẻ lĩnh hội những hành động đặc thù của con người
diễn ra trong giao tiếp. Thực tế hoạt động có đối tượng và giao tiếp quyện chặt với nhau
không tách biệt. Như vậy có thể coi hoạt động nói chung bao gồm hoạt động với đối tượng
và hoạt động với người khác (giao tiếp) đóng vai trò quyết định sự hình thành và phát triển
nhân cách.
Những nghiên cứu về trẻ em sinh đôi cùng trứng và sinh đôi khác trứng được tiến
hành vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX đã chứng minh một điều rằng: Sự phát triển
nhân cách còn phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động bản thân mỗi cá nhân.
Với phương pháp nghiên cứu trẻ em sinh đôi trong nhiều năm qua của các nhà tâm
lý học và sinh lý học như T.Gardner, H.Newman, I.I.Caraep... đã chỉ ra rằng ngay những
trẻ em sinh đôi cùng trứng có đặc điểm di truyền giống nhau, môi trường sống giống nhau
nhưng chiều hướng phát triển nhân cách ở mỗi em lại hoàn toàn khác nhau. Điều đó chỉ có
thể giải thích được rằng hoạt động ở mỗi cá nhân khác nhau quy định chiều hướng phát
triển nhân cách khác nhau của các cá nhân đó.
Tâm lý học mác xít đã khẳng định tính quyết định của hoạt động cá nhân đến sự
hình thành và phát triển nhân cách.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đặc biệt là phép biện chứng tự
nhiên trong quá trình biến đổi từ vượn thành người nhờ lao động, các nhà tâm lý học mác
xít đã khẳng định hoạt động và phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định
trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Khác với các động vật khác, hoạt động của con người là hoạt động có mục đích,
mang tính xã hội tính cộng đồng và được thực hiện bằng những thao tác nhất định với
những công cụ nhất định.
Sự hình thành và nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo của họ
ở lứa tuổi đó. Việc lựa chọn hình thức hoạt động nào cho phù hợp cần phải tính đến hoạt
động chủ đạo. Ví dụ đối với trẻ mẫu giáo, hoạt động chủ đạo là trò chơi đóng vai, còn đối
với học sinh phổ thông lại là hoạt động học tập. Trong quá trình giáo dục chúng ta nên
chọn lựa, tổ chức và hướng dẫn hoạt động sao cho phù hợp và có hiệu quả. Vai trò của
người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển là rất quan trọng. Nó giúp định hướng cho sự phát
triển nhân cách.
Như vậy trong ba yếu tố kể trên, chúng ta không thể xem nhẹ hay bỏ qua ảnh hưởng
của bất kì một yếu tố nào. Tuy nhiên mỗi yếu tố có những vai trò khác nhau đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách. Yếu tố sinh học là cơ sở vật chất, là tiền đề, là nền
tảng; môi trường giữ vai trò quan trọng không thể thiếu; còn hoạt động là yếu tố quyết
định đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
IV. SỰ SUY THOÁI NHÂN CÁCH
1. Khái niệm
Nhân cách được hiểu là giá trị xã hội của cá nhân do cá nhân lĩnh hội các giá trị xã
hội tạo nên. Tuy nhiên không phải mọi nhân cách đều là những nhân cách phù hợp hoàn
toàn với hình mẫu nhân cách mà xã hội mong muốn. Hiện tượng nhân cách có hành vi phi
xã hội không phù hợp với các chuẩn mực xã hội trong mối quan hệ với người khác hoặc
với xã hội được gọi là sự suy thoái nhân cách. Sự biến thái nhân cách và phá vỡ cấu trúc
tâm lý của nhân cách thường có lịch sử lâu dài bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Có
quan điểm cho rằng sự biến thái nhân cách có nguồn gốc từ thời kì thơ ấu. Ngay trong
những thời kì đầu của sự hình thành nhân cách, cá nhân đã chịu ảnh hưởng của những
nhân tố không thuận lợi cho sự phát triển nhân cách sau này. Đặc biệt trong một số thời kì
nhạy cảm trong quá trình phát triển nhân cách.
Trong sự hình thành nhân cách một cách thuận lợi, môi trường xã hội xung quanh
được tiếp nhận một cách phù hợp. Cá nhân có thể lĩnh hội các chuẩn mực xã hội và tuân
thủ chúng với tư cách là một chủ thể tích cực trong các quan hệ xã hội.
Ngược lại, với những nhân cách mà các cấu tạo tâm lý mới mang tính tiêu cực dần
được hình thành và được củng cố ngày một vững chắc hơn. Chúng dần làm suy thoái nhân
cách, cản trở sự điều chỉnh hành vi của cá nhân một cách lành mạnh. Các cấu tạo tâm lý
này ngày một phát triển một cách độc lập, hình thành xu hướng vận động riêng của chúng.
Hình thành các cấu trúc nhân cách bất bình thường và những hình thức sai lệch của các
mặt khác của nhân cách. Càng ngày, sự sai lệch càng rõ rệt. Các thuộc tính bất bình
thường ngày càng bắt rễ vào hệ thống nhân cách và tiếp tục phát triển ngay cả khi các điều
kiện tạo ra chúng không còn tiếp tục tác động nữa.
2. Các mức độ suy thoái nhân cách
Có nhiều mức độ suy thoái nhân cách khác nhau với các biểu hiện ở các thuộc tính
của nhân cách như xu hướng nhân cách, tính cách. Căn cứ vào tính chất không phù hợp
với các chuẩn mực xã hội có thể có một số mức độ như sau:
- Mức độ thấp nhất là ở nhân cách hình thành một số các nét tính cách không phù
hợp với các chuẩn mực đạo đức, các giá trị xã hội như: tính tham lam, tính lừa dối, tính
độc ác. Các loại tính cách đó đi ngược lại mong muốn của xã hội làm giảm giá trị của nhân
cách. Tuy vậy, mức độ này thường không được nhắc đến như là sự suy thoái nhân cách mà
chỉ được hiểu đơn giản là các nét tính cách tiêu cực. Cũng chính vì lẽ đó, dạng suy thoái
nhân cách này không được chú ý nhiều trong đời sống, thậm chí có những quan niệm cho
rằng những nét tính cách như vậy là những điều vốn có ở cá nhân và có thể chấp nhận ở
một mức độ nhất định. Sự hình thành và bộc lộ những nét tính cách đó không chỉ đơn giản
có từ thơ ấu mà nó còn có thể xuất hiện trong quá trình sống, khi một nhân cách đã tương
đối ổn định. Trong sự thay đổi có tính bước ngoặt của điều kiện sống, hoàn cảnh sống các
nét tính cách này có thể xuất hiện và bộc lộ rõ ràng.
- Mức độ thứ hai của sự suy thoái nhân cách là các nhân cách có các hành vi lệch
chuẩn mang tính hệ thống và thường xuyên: lừa đảo, hành vi tội phạm, tệ nạn xã hội... Các
nhân cách này có các hành vi đi ngược lại các chuẩn mực xã hội. Mặc dù cá nhân vẫn
nhận thức được tính phi đạo đức của các hành vi của bản thân nhưng lại coi các hành vi đó
là hợp lý.
- Mức độ thứ ba: rối nhiễu nhân cách. Đây là hiện tượng kết hợp một số nét nhân
cách lệch lạc rõ rệt với chuẩn mực văn hóa ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống và hoạt động
của nhân cách. Có thể đề cập đến nhiều loại rối nhiễu nhân cách như rối nhiễu chống đối
xã hội - Cá nhân đặt bản thân trong sự đối lập với xã hội và có các hành vi chống đối xã
hội một cách có ý thức. Mức độ suy thoái này thực chất đã làm mất nhân cách, các giá trị
xã hội được nhập tâm hóa chuyển thành các phản giá trị. Sự tồn tại của cá nhân được
khẳng định bằng cách đi ngược lại các yêu cầu của xã hội, rối nhiễu dạng hoang tưởng, rối
nhiễu ái kỷ, rối nhiễu xa lánh xã hội, rối nhiễu đóng kịch... Các rối nhiễu này có thể được
xác định dựa trên các tiêu chí đánh giá của bộ tiêu chí ICD của Tổ chức Y tế Thế giới hoặc
bộ tiêu chí DSM của Hiệp hội Tâm thần Mỹ.
3. Các nguyên nhân suy thoái nhân cách
Có nhiều nguyên nhân làm nhân cách suy thoái. Song chủ yếu là các nguyên nhân
về mặt xã hội. Trong đó có 3 nguyên nhân chủ yếu sau:
Đó là khi cá nhân tham gia vào một nhóm xã hội, trong đó các giá trị mà cá nhân đã
chấp nhận và tuân thủ trở nên ít có giá trị. Hệ thống các giá trị, các chuẩn mực không được
tôn trọng. Thậm chí các giá trị được thừa nhận chung trong xã hội không còn ý nghĩa. Môi
trường sống trực tiếp tạo điều kiện cho các nét tính cách tiêu cực hình thành hoặc bộc lộ rõ
hơn. Đặc biệt, khi có điều kiện để củng cố, nó ngày càng trở nên chi phối hành động của
cá nhân.
Cá nhân có thể rơi vào mâu thuẫn giữa những nhu cầu, mong muốn cá nhân với các
vai trò của xã hội mà cá nhân phải đảm nhiệm hay với sự hạn chế của các điều kiện có thể
giúp cá nhân thỏa mãn các nhu cầu đó. Do không thực hiện được các vai trò của mình,
hoặc không thỏa mãn được nhu cầu, cá nhân có thái độ chống đối và có các hành vi lệch
chuẩn. Đối với các cá nhân này, các giá trị đã lĩnh hội chưa đủ mạnh để ngăn chặn những
hành vi lệch chuẩn. Bên cạnh đó các tác động từ bên ngoài có các tác động theo xu hướng
xô đẩy cá nhân thực hiện các hành vi lệch lạc.
Nguyên nhân thứ ba của sự suy thoái nhân cách là do cá nhân bị hủy hoại các chức
năng tâm lý. Nhân cách bị suy thoái do nguyên nhân bệnh lý. Cá nhân bị bệnh tâm thần và
không còn ý thức nên cũng không còn nhân cách. Trường hợp này phải có sự can thiệp của
các chuyên gia y tế
V. KIỂU NHÂN CÁCH XÃ HỘI
1. Khái niệm kiểu nhân cách
Kiểu nhân cách là một mẫu người bao gồm những đặc điểm điển hình về mặt xã hội
chung cho một lớp hay một loại người. Việc phân kiểu nhân cách mang tính mô tả. Nó cho
phép hình dung một cách chung nhất về một nhóm nhân cách trong xã hội giữa nhiều kiểu
nhân cách khác nhau.
- Đây là một mô hình bao gồm các đặc điểm xã hội của con người do các nhà
nghiên cứu phác họa lên để nghiên cứu. Trong thực tế, con người không hoàn toàn trùng
khớp lên các mô hình này mà mô hình này có tính đại diện cho một số người trong cộng
đồng.
- Các đặc điểm (hay tiêu chuẩn) được lấy làm căn cứ phân kiểu người thường là các
đặc điểm xã hội như: thái độ đối với công việc, với những giá trị trong xã hội. Các kiểu
nhân cách này, trong một xã hội thường không đối lập mà có nét tương đồng khác nhau ở
thái độ ưu thế nổi bật đối với một giá trị nào đó: ham địa vị, ham tiền tài.
Ngoài ra vẫn còn những nét theo đuổi những giá trị chung của xã hội song không
như nhau.
Điều lưu ý phải phân biệt hai loại kiểu nhân cách: kiểu nhân cách cơ bản và kiểu
nhân cách lý tưởng:
+ Kiểu nhân cách cơ bản: là kiểu nhân cách có tính chất đại diện cho cùng tầng xét
về mặt thống kê. Nó thường xuất hiện, vốn có ở phần lớn các thành viên trong cộng đồng.
+ Kiểu nhân cách lý tưởng là mẫu người cần xây đựng cho một giai đoạn lịch sử
nhất định.
Giữa hai loại này bao giờ cũng có khoảng cách, thậm chí có khi đối lập nhau.
Nhưng cũng có thể kiểu nhân cách cơ bản đang tiến tới kiểu nhân cách lý tưởng.
2. Sự khác nhau giữa hai khái niệm “nhân cách” và “kiểu nhân cách”.
- Khái niệm “nhân cách” ngoài những nét đặc điểm, đặc tính điển hình về mặt xã
hội (có ý nghĩa xã hội) còn bao hàm cả những nét, đặc điểm, đặc tính cá biệt nữa. Do đó
nói tới nhân cách là nói tới cái chung và cả cái riêng cá biệt của một con người cụ thể. Nói
khác đi tâm lý không phải của bất kì cá nhân nào cũng đều là kiểu tâm lý là kiểu nhân cách
xét về mặt giai cấp - xã hội.
Ta hiểu rằng nhân cách tất nhiên mang bản chất xã hội lịch sử nhưng Tâm lý học
nhân cách coi nhân cách có tính chất chung hơn, trừu tượng hơn về mặt cấu trúc nhưng
không bỏ qua những nét đặc điểm cá biệt.
Còn nói đến kiểu nhân cách là nói các điển hình phi cá tính, phi cá nhân, xem các
điển hình không phải là cái đơn nhất mà là một cái gì chung cho một giai cấp, một tầng
lớp, một xã hội. Đó là hình ảnh thực, “tập trung hóa” của các cộng đồng người.
3. Phân biệt kiểu nhân cách xã hội và nhân vật điển hình của nghệ thuật
Nhân vật điển hình của nghệ thuật là nhân vật được điển hình hóa, có những đặc
điểm điển hình được mô tả dưới hình thức cảm tính trực quan. Khái quát từ nhiều người có
thực trong thực tế nhưng nó còn là một cá tính nữa với nghĩa là một cái đơn nhất không có
người thứ hai như vậy.
Như vậy kiểu nhân cách không có nét chung với nhân vật điển hình mà nó có những
nét tiêu biểu cho một kiểu nhân cách xã hội nhưng hai khái niệm này khác nhau.
Vì Tâm lý học xã hội làm việc với các kiểu có tính chất đại diện ít nhất có tính chất
phổ biến, trung bình xét về mặt thống kê toán học theo quy luật số lớn.
Tóm lại, điển hình nghệ thuật bao giờ cũng hiện lên với vẻ đơn nhất của một nhân
vật, có xương, nhưng không có tính chất đại diện xét về số lớn mà nó có tính chất cá biệt
nhiều hơn.
Song Tâm lý học xã hội phải khai thác nhiều ở chỗ nhân vật điển hình trong nghệ
thuật vì chính nó phản ánh phần nào các kiểu nhân cách của một giai đoạn lịch sử nhất
định. Đó là nguồn tài liệu phong phú của những công trình nghiên cứu vấn đề này.
4. Ví dụ về nghiên cứu kiểu nhân cách xã hội
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, Olsanxki đưa ra 8 kiểu nhân cách trên cơ sở xác
định thái độ ưu thế của mỗi kiểu đối với một giá trị nào đó trong xã hội Nga hồi bấy giờ.
Kết quả nghiên cứu như sau:
1. Vlađimir: tiến nhanh từ một công nhân bình thường thành một cán bộ phụ trách
cỡ lớn. Chưa đầy 40 tuổi mà Vlađimir đã chỉ huy hàng mấy trăm người đang sản xuất một
loại sản phẩm quan trọng. Cấp lãnh đạo thừa nhận năng lực của anh ta, có cơ sở để chờ
đón anh ta sẽ tiếp tục lên cấp.
Đặc trưng của người này là địa vị, chức vụ.
2. Mátvây: công việc anh làm không mang lại tiếng tăm và cơ hội thăng chức nhưng
tiền lương khá. Mátvây không từ chối việc gì, không tiếc thời gian làm việc nên có nguồn
thu nhập chắc chắn. Anh đã mua được ôtô con và đang giành tiền mua biệt thự ở ngoại ô.
Đặc trưng của người này là giá trị tiền, của cải.
3. Vaxily: không chú ý tính toán đến lương bổng và những tiện nghi sinh hoạt, được
làm việc ở những nơi nào khó khăn nhất có lợi ích nhất và cần thiết nhất là thấy thích nhất,
đẹp nhất, tự hào nhất. Vaxily và những đồng chí của mình đã cùng nhau vượt qua mọi khó
khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đặc trưng của người này là ham việc, tinh thần công tác cao.
4. Nicolai: công việc của anh ta chẳng có gì là anh hùng và cũng chẳng hứa hẹn tăng
thêm thu nhập công việc nhàn hạ, không có gì là đột xuất, vất vả song điều độ và bình lặng
có một căn hộ riêng xinh xắn, trang trí bày biện đẹp mắt.
Đặc trưng của người này là an phận, bình lặng.
5. Paven: sống quan tâm nhiều đến số phận của người khác, giúp đỡ nhiều khi người
họ gặp khó khăn có lương tâm, tốt bụng ân cần, hồ hởi. Khi đấu tranh với những khuyết
điểm của người khác có lúc vấp váp với một vài cán bộ lãnh đạo khiến cho anh ta chậm
được đề bạt, tăng lương.
Đặc trưng của người này là đấu tranh cho chân lý, lẽ phải.
6. Anđrây: còn trẻ nhưng đã nổi tiếng, ai cũng biết đến tên tuổi của anh ta. Anh ta
thường xuyên xuất hiện trên báo chí, vô tuyến truyền hình. Anh ta không ham tiền, thích
biểu hiện (khoe) tài năng của mình trước mọi người.
Đặc trưng của người này là ham tiếng tăm, danh vọng.
7. Kirin: có công việc lý thú nên dồn hết sức mình vào đó, không có thời gian cho
cuộc sống cá nhân và tiêu khiển; thích nghiên cứu một cách tự do, suy nghĩ độc đáo và táo
bạo; ít người biết đến nhưng được thừa nhận là một chuyên gia cỡ lớn.
Đặc trưng của người này là thích sáng tạo, thích ứng với khoa học.
8. Côngxtăngtin: không gắn bó với một nghề nghiệp nhất định nào, làm ăn thu nhập
thất thường, có khi không còn đồng tiền nào. Côngxtăngtin tự đánh giá mình cao, có xu
hướng thích đi lang thang, phiêu bạt nay đây mai đó có nhiều thời gian rảnh rỗi để tiêu
khiển; thích đàn đúm “vui vẻ, trẻ trung”. Khi người ta hỏi bao giờ thì ổn định cuộc sống,
anh ta trả lời rằng: “về già cũng chưa muộn”.
Đặc trưng của người này là ham chơi, không có chí hướng
Khi nghiên cứu hơn 200 người gồm có công nhân, sinh viên, nghiên cứu sinh nhân
viên hàng không... thì được kết quả như sau:
- Kiểu Paven là kiểu được đánh giá cao nhất, sau đó đến kiểu Vaxili, rồi đến Kirin -
đến Vlađimir, bị lên án nhiều nhất là kiểu Côngxtăngtin, rồi đến Matvây, Nicôlai và
Anđrây.
Thái độ đối với các kiểu nhân cách nêu trên ở Nam và Nữ có sự khác biệt.
- Nữ thích kiểu Vaxili nhưng cũng kém cương quyết hơn trong việc phủ định và bác
bỏ kiểu Mátvây.
- Đặc biệt số nữ được nghiên cứu tỏ ra lo lắng thương hại số phận Paven và cần lưu
ý một số phụ nữ tỏ ra không hiểu, không thông cảm với kiểu Kirin: không thể tưởng tượng
được rằng có người quên gia đình, quên cuộc sống cá nhân: những mặt khác thì Vaxili vẫn
được đánh giá cao nhất.
Kết luận: Nhìn chung đối với nữ, vấn đề gia đình và xây dựng quan hệ gia đình là
vấn đề hết sức thiết yếu và điều đó không phải chỉ do nguyên nhân sinh vật mà chủ yếu do
nguyên nhân xã hội.
Lòng yêu đời về cơ bản giữa nam và nữ không khác nhau nhưng nghiên cứu cho
thấy tính năng động (kể cả việc mình tin rằng sẽ đạt được mục đích này), nữ thấp hơn nam
tới gần 2 lần (vấn đề có tính chất lịch sử).
Các kiểu nhân cách này là ở Liên Xô trong những năm 1960 đặt ra cho ta suy nghĩ:
Cần và nên nghiên cứu một số kiểu người hiện nay trong xã hội ta và nên tham khảo tài
liệu của Nga nhưng phải nghiên cứu trên thực tế Việt Nam
VI. QUAN HỆ LIÊN NHÂN CÁCH
1. Khái niệm quan hệ liên nhân cách
a) Quan hệ xã hội
Nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, cũng có nghĩa là nghiên cứu cá nhân trong
các nhóm, trong các quan hệ xã hội. Nói cách khác là nghiên cứu cá nhân trong hệ thống
chung các mối quan hệ xã hội, trong một số “ngữ cảnh xã hội”. “Ngữ cảnh” này bao gồm
hệ thống các mối quan hệ thực của nhân cách với thế giới khách quan. Xác nhận các mối
quan hệ có nghĩa là thực hiện nguyên tắc chung về phương pháp luận - nghiên cứu con
người trong sự liên hệ với môi trường xung quanh. Nhưng nội dung, mức độ các mối quan
hệ của con người với thế giới khách quan lại rất khác nhau bởi vì mỗi cá nhân lại là chủ
thể của rất nhiều mối quan hệ khác nhau. Trong sự đa dạng đó có thể có thể chia ra làm hai
loại mối quan hệ: quan hệ xã hội và quan hệ “tâm lý” của nhân cách - quan hệ liên nhân
cách.
Cấu trúc quan hệ xã hội được bộ môn Xã hội học nghiên cứu. Trong lý thuyết của
khoa học, Xã hội học đã đưa ra rất nhiều loại quan hệ xã hội: quan hệ kinh tế, quan hệ
pháp quyền, quan hệ chính trị... Tổng hoà các mối quan hệ này tạo nên quan hệ xã hội.
Đặc trưng của quan hệ xã hội được biểu hiện ở chỗ, trong các mối quan hệ này không chỉ
đơn giản là cá nhân “gặp gỡ” với cá nhân hay cá nhân “quan hệ” với cá nhân khác mà
những cá nhân này với tư cách là những người đại diện cho các nhóm xã hội nhất định (đại
diện cho giai cấp nghề nghiệp, các tổ chức chính trị, đảng phái...). Do vậy, có thể hiểu:
quan hệ xã hội là quan hệ giữa các cá nhân với tư cách đại diện cho một nhóm xã hội, do
xã hội quy định một cách khách quan vai trò của mỗi cá nhân trong nhóm. Ví dụ: thầy -
trò; người mua - người bán; thủ trưởng - nhân viên.
Đặc trưng cơ bản của quan hệ xã hội là các mối quan hệ này được thiết lập không
phải dựa trên nền tảng có thiện cảm hay không thiện cảm của các cá nhân mà dựa trên cơ
sở về vị trí nhất định của mỗi cá nhân trong xã hội, trên cơ sở những chức năng, hành vi
mà cá nhân phải thực hiện khi đứng ở vị trí đó (gọi là vai xã hội). Bởi vậy, các mối quan
hệ này được xã hội quy định một cách khách quan. Đây là mối quan hệ giữa các nhóm xã
hội hay giữa các cá nhân với tư cách là những đại diện các nhóm xã hội đó. Điều này nói
lên rằng quan hệ xã hội không có tính bản sắc. Bản chất của các mối quan hệ này không
nằm trong sự tác động qua lại giữa các nhân cách mà nằm trong sự tác động qua lại giữa
các vai trò xã hội.
Trong thực tế, mỗi cá nhân đảm nhiệm không chỉ một vai trò mà là nhiều vai xã hội:
Họ có thể là một giáo viên, một người bố, là một thành viên một câu lạc bộ, là một trưởng
họ... Có những vai xã hội được quy định trước cho con người từ khi mới sinh ra (ví dụ là
nam hay nữ), những vai xã hội khác được hình thành trong cuộc sống. Mặc dù vậy, bản
thân vai xã hội không quyết định hoạt động và hành vi của mỗi người mà tất cả những
điều đó phụ thuộc vào nhận thức của cá nhân và sự nhập vai của cá nhân đó. Sự nhập vai
mang màu sắc cá nhân rõ rệt vì được xác định bằng hàng loạt các đặc điểm tâm lý cá nhân
của người mang vai đó. Bởi vậy các quan hệ xã hội, mặc dù thực chất là các quan hệ theo
vai, không phải là quan hệ nhân cách, nhưng trong thực tế, trong mỗi sự biểu hiện cụ thể
vẫn có “sắc thái nhân cách”. Trở thành nhân cách trong hệ thống các quan hệ xã hội, con
người nhất định phải tham gia vào quá trình tác động qua lại, vào quá trình giao tiếp vì
thông qua các quá trình đó những đặc tính cá nhân nhất định được biểu hiện. Bởi vậy mỗi
vai trò xã hội không có nghĩa là sự định trước tuyệt đối của hành vi, mà nó thường xuyên
giữ lại một vài “phạm vi cơ hội” cho người thực hiện. Ta có thể ước lệ gọi đó là “phong
cách nhập vai”. Chính phạm vi này trở thành nền tảng để xây dựng các quan hệ khác bên
trong của hệ thống quan hệ xã hội - quan hệ liên nhân cách.
b) Khái niệm, vai trò và bản chất của quan hệ liên nhân cách
Khi tham gia vào các quan hệ với người khác, cá nhân, một mặt có thể thực hiện vai
xã hội do mối quan hệ đó quy định. Khi đó cá nhân đang tiến hành mối quan hệ xã hội.
Mặt khác, cá nhân có thể quan hệ với người khác không phải trên cơ sở của vai xã hội mà
chủ yếu dựa trên cơ sở của tình cảm, xúc cảm của quan hệ mang tính tâm lý. Khi đó cá
nhân đang thực hiện quan hệ liên nhân cách.
Quan hệ liên nhân cách là quan hệ cá nhân với cá nhân trên cơ sở tâm lý, tình cảm
và sự đồng nhất với nhau ở mức độ nhất định.
Như vậy, nói đến quan hệ liên nhân cách là nói đến quan hệ mang tính người -
người, nói đến nội dung tâm lý của quan hệ đó chứ không nói đến nội dung “công việc”
của quan hệ đó.
c) Quan hệ giữa quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách
Quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Trong Tâm
lý học xã hội có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề xác định vị trí của quan hệ liên
nhân cách với hệ thống quan hệ xã hội. Đôi khi quan hệ liên nhân cách được coi như
ngang hàng với quan hệ xã hội, một thành phần tạo nên các quan hệ xã hội, hoặc ngược lại
quan hệ liên nhân cách ở mức độ cao hơn quan hệ xã hội, hay quan hệ liên nhân cách là sự
phản ánh trong ý thức của quan hệ xã hội...Theo quan điểm khác, bản chất của quan hệ
liên nhân cách có thể được hiểu đúng nếu như chúng không đặt ngang hàng với quan hệ xã
hội mà được nhìn nhận như một hàng quan hệ đặc biệt xuất hiện bên trong mỗi loại quan
hệ xã hội và nó không thể nằm ngoài các quan hệ này (ví dụ như “thấp hơn”, “cao hơn”
hay “bên cạnh”).
Có thể có sơ đồ biểu diễn hai loại quan hệ này như sau:
Xã hội
Các quan hệ xã hội- chính trị Các quan hệ liên nhân cách
Xã hội
Kinh tế
Quan hệ giữa các nhóm
Quan hệ liên nhân cách nằm trong quan hệ xã hội, chúng đan xen vào nhau. Bất kì
một quan hệ xã hội nào cũng bao hàm quan hệ liên nhân cách ở một mức độ nhất định.
Ngược lại bất kì một quan hệ liên nhân cách nào cũng bao hàm một quan hệ xã hội nhất
định. Ví dụ, trong quan hệ tình yêu, thoạt nhìn đây là quan hệ có vẻ như là quan hệ liên
nhân cách đơn thuần nhưng thực tế nó cũng không thể thoát khỏi một kiểu quan hệ xã hội
(một vai trò xã hội là nam giới và vai kia là nữ giới). Sự tồn tại quan hệ liên nhân cách bên
trong các hình thức khác nhau của quan hệ xã hội như là sự thực hiện các quan hệ trong
hoạt động của các nhân cách cụ thể, trong các hoạt động giao tiếp và sự tác động qua lại.
Trong quá trình thực hiện đó, mối quan hệ giữa con người với con người (trong đó có môi
quan hệ xã hội) một lần nữa được tái tạo lại. Hay nói một cách khác, trong toàn bộ tiến
trình vận hành hệ thống khách quan các quan hệ xã hội có sự hiện diện của các yếu tố
thuộc về các cá nhân. Chính vì vậy ở đây có sự giao thoa giữa quan hệ xã hội và quan hệ
liên nhân cách.
Bản chất quan hệ liên nhân cách khác với bản chất quan hệ xã hội được thể hiện ở
nét đặc trưng quan trọng: quan hệ liên nhân cách được thiết lập trên nền tảng xúc cảm, tình
cảm. Điều đó có nghĩa là những quan hệ liên cách đó xuất hiện và hình thành trên nền tảng
những tình cảm nhất định nảy sinh ở con người trong mối quan hệ giữa con người với con
người. Chính vì vậy quan hệ liên nhân cách được xem như là nhân tố của bầu “không khí
tâm lý” trong nhóm.
2. Các yếu tố chi phối quan hệ liên nhân cách
a) Giao tiếp trong hệ thống quan hệ liên nhân cách
Không thể có quan hệ người - người (bao hàm cả quan hệ xã hội và quan hệ liên
nhân cách) nói chung nếu thiếu giao tiếp. Giao tiếp là phương tiện là công cụ để thực hiện
các quan hệ đó. Do vậy, giao tiếp có một vị trí trung tâm trong hệ thống phức tạp các quan
hệ của con người. Hiểu chung nhất, giao tiếp như là sự tác động qua lại giữa hai hay nhiều
người để trao đổi thông tin, nhận thức hay tình cảm. Trong cấu trúc của giao tiếp có những
phương diện sau: 1) Sự gắn kết, thành lập cộng đồng; 2) Sự trao đổi thông tin; 3) Sự hiểu
biết lẫn nhau. Cả ba phương diện này của giao tiếp đều tác động mạnh mẽ đến quan hệ liên
nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nó vừa là
phương thức phát triển cá nhân vừa là phương thức để thống nhất các cá nhân. Cần đặc
biệt nhấn mạnh ý tưởng rằng, trong giao tiếp, cá nhân lĩnh hội các chuẩn mực, các giá trị
xã hội, đồng thời biểu hiện sự gắn bó tình cảm, sự ghét bỏ, chối từ hay đơn giản là thờ ơ,
lãnh đạm đối với các cá nhân khác. Cũng trong giao tiếp, các định hướng giá trị của cá
nhân có thể xích gần lại với định hướng giá trị của cá nhân khác hay theo chiều ngược lại
là phân hóa rõ ràng hơn. Chính điều này tác động đến quan hệ liên nhân cách.
Hai hàng quan hệ của con người - quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách được
bộc lộ và thực hiện chính trong giao tiếp. Vì vậy có thể nói, nguồn gốc khởi thủy của giao
tiếp được bắt nguồn từ hoạt động trong cuộc sống của cá nhận. Giao tiếp là thực hiện toàn
bộ hệ thống các quan hệ của con người. Các mối quan hệ đa dạng của con người chỉ có thế
thực hiện trong giao tiếp. Xã hội loài người không thể tồn tại nếu không có giao tiếp. Nó
vừa như một phương thức thống nhất các cá nhân vừa như là một phương thức phát triển
các cá nhân đó. Chính vì vậy giao tiếp cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ: vừa thực hiện
quan hệ xã hội và vừa thực hiện quan hệ liên nhân cách.
Mỗi loại quan hệ vận hành trong các hình thức đặc trưng của giao tiếp. Giao tiếp với
tư cách thực hiện quan hệ liên nhân cách được nghiên cứu rất nhiều trong Tâm lý học xã
hội. Giao tiếp liên nhân cách được nảy sinh từ hoạt động cùng nhau của con người. Vì vậy,
nó được thực hiện trong các quan hệ liên nhân cách đa dạng, có nghĩa là nó được hình
thành trong trường hợp khi quan hệ giữa con người với con người mang tính tích cực và
ngay cả khi quan hệ đó mang tính tiêu cực.
Giao tiếp khi thực hiện các quan hệ xã hội là giao tiếp giữa các nhóm hay các cá
nhân như là đại diện của các nhóm xã hội. Trong trường hợp này hoạt động giao tiếp cần
thiết phải được diễn ra thậm chí ngay cả khi có sự đối kháng giữa các nhóm. Trong tác
phẩm của mình, Mác đã viết rằng: giao tiếp là người bạn đồng hành tuyệt đối của lịch sử
nhân loại. Theo Lêônchiev, giao tiếp cũng là người bạn đồng hành tuyệt đối trong hoạt
động hàng ngày, trong sự tiếp xúc hàng ngày của con người. Như vậy, chúng ta có thể
nghiên cứu lịch sử thay đổi các hình thức của giao tiếp trong phạm vi phát triển xã hội
cùng với sự phát triển các quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị và các quan hệ xã hội khác.
Với tư cách là người đại diện cho một số nhóm xã hội, con người giao tiếp với đại diện
của nhóm xã hội khác và cùng một lúc đã thực hiện được hai loại quan hệ: quan hệ xã hội
và quan hệ nhân cách. Ví dụ, người nông dân khi bán sản phẩm của mình ngoài chợ và
nhận được một số tiền, số tiền này như một công cụ cần thiết của giao tiếp trong hệ thống
quan hệ xã hội. Mặt khác, người nông dân này khi bán hàng đã bộc lộ những đặc điểm tâm
lý riêng của mình, tác động qua lại với khách hàng hay nói cách khác là chính bằng nhân
cách của mình để giao tiếp với khách hàng.
b) Những yếu tố tâm lý xã hội
Với tư cách là quan hệ tâm lý giữa các cá nhân, quan hệ liên nhân cách chịu sự tác
động của một loạt các yếu tố tâm lý xã hội. Đó là sự gần gũi giữa các cá nhân, sự tương
tác và hình ảnh “cái tôi” của các cá nhân.
Sự gần gũi giữa các cá nhân bao hàm sự gần gũi về địa lý và về tâm lý. Sự gần gũi
về địa lý thường tạo cơ hội cho sự giao tiếp thường xuyên giữa các cá nhân, từ đó làm nảy
sinh sự hiểu biết lẫn nhau, sự gắn bó và đồng nhất lẫn nhau ở mức độ nhất định, đặc biệt
trong các trường hợp các cá nhân đó cùng ở trong môi trường lạ, không quen thuộc. Sự
gần gũi về địa lý càng gần thì càng tạo điều kiện cho việc hình thành nhiều quan hệ liên
nhân cách. Sự gần gũi về địa lý còn tạo ra những sự tương đồng nhất định về tâm lý giữa
các cá nhân trong cùng một cộng đồng.
Sự gần gũi giữa các cá nhân về tâm lý trong Tâm lý học xã hội thường được gọi là
sự tương hợp tâm lý. Sự tương hợp tâm lý có thể hiểu là sự giống nhau của các đặc điểm
tâm lý của các cá nhân và sự thích ứng lẫn nhau dễ dàng giữa các cá nhân. Sự tương hợp
tâm lý về thái độ, sở thích, về quan điểm, về cách thức ứng xử... là điều kiện thuận lợi cho
sự hình thành các quan hệ liên nhân cách. Các yếu tố đó có thể giúp quan hệ liên nhân
cách trở nên gắn bó chặt chẽ hơn. Sự tương hợp tâm lý tạo ra sự hài hòa trong quan hệ mà
các cá nhân không cần phải điều chỉnh nhiều để thích ứng với cá nhân khác. Đây được coi
là tiền đề tốt cho một quan hệ liên nhân cách bền chặt. Các cá nhân có xu hướng tìm kiếm
và thiết lập quan hệ với các cá nhân khác giống mình. Điều này lại được giải thích bằng cơ
chế đồng nhất hóa và nhu cầu được khẳng định bản thân của cá nhân trong đời sống xã
hội. Sự giống nhau giữa một số cá nhân tạo điều kiện cho cá nhân cảm thấy sự tự tin, tôn
trọng vào bản thân, thúc đẩy cá nhân quan hệ tích cực hơn với các cá nhân giống mình.
Tuy nhiên, trong Tâm lý học xã hội cũng có những ý kiến ngược lại cho rằng không chỉ sự
tương hợp tâm lý giúp quan hệ liên nhân cách có thể tạo ra và làm tăng cường quan hệ liên
nhân cách mà ngay cả sự khác biệt cũng có vai trò nhất định trong việc tạo ra quan hệ liên
nhân cách. Không ít khi, sự khác biệt lại tạo ra sự cuốn hút các đối tượng khác trong quan
hệ liên nhân cách.
Quan hệ liên nhân cách diễn ra trên cơ sở sự tương tác giữa các cá nhân. Tương tác
được hiểu là sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân nhằm thực hiện những mục đích nhất
định nào đó. Trong quá trình tương tác, các cá nhân nằm trong sự tác động qua lại trực
tiếp, trao đổi thông tin, điều chỉnh, phối hợp hành động với nhau, nhận thức lẫn nhau.
Chính trong quá trình này, các đặc điểm tâm lý của cá nhân được bộc lộ, biểu hiện ra bên
ngoài và được các cá nhân khác nhận biết. Tính chất của sự tương tác có thể ảnh hưởng
đến quan hệ liên nhân cách. Có hai loại tương tác chính: hợp tác và cạnh tranh. Mỗi loại có
tính chất riêng. Hợp tác là sự tương tác theo chiều hướng phối hợp hành động, giúp đỡ lẫn
nhau trong hoạt động. Hợp tác có thể tạo quan hệ liên nhân cách tốt khi các cá nhân tham
gia vào quan hệ đó tích cực và thiện chí. Ngược lại, nếu các cá nhân ỷ lại, bị động, sự
tương tác sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn. Cạnh tranh là loại tương tác giúp cá
nhân phát huy tốt nhất tiềm năng của mình, bộc lộ rõ rệt bản thân. Tuy nhiên cạnh tranh
với mục đích tiêu cực có thể làm hủy hoại quan hệ liên nhân cách.
Hình ảnh “cái tôi” của mỗi cá nhân là một cấu trúc tâm lý, là biểu tượng của cá nhân
về chính bản thân, hình thành nhờ quá trình tự nhận thức, tự đánh giá bản thân. Cái tôi là
hạt nhân của hệ thống điều khiển của nhân cách. Nó chi phối thái độ, hành vi của con
người trong các quan hệ xã hội. Trong quá trình hoạt động với người khác cái tôi được thể
hiện ở 5 phương diện: tính đồng nhất, tính ổn định, quá trình tự ý thức, tự đánh giá về bản
thân và ý thức xã hội (theo Shibutani). Tính đồng nhất thể hiện ở hành vi, ứng xử của một
cá nhân. Trong cùng một tình huống, một thời điểm, một cá nhân không có những cách
ứng xử trái ngược nhau. Cá nhân lựa chọn và hành động theo một lập trường nhất định.
Bên cạnh đó, cái tôi tương đối ổn định, nó không dễ dàng thay đổi khi cá nhân thay đổi vai
xã hội của mình. Do vậy, xác định được vị trí của bản thân trong các quan hệ với người
khác đóng vai trò to lớn đối với việc điều chỉnh quan hệ liên nhân cách. Bên cạnh đó,
chính nhờ các quan hệ với người khác, cá nhân có thể hình thành cái tôi ngày càng chính
xác hơn.
HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
Các tri thức tâm lý học xã hội về nhân cách giúp nhận biết các yếu tố chi phối sự
phát triển nhân cách, từ đó tác động nhằm phát triển nhân cách của sinh viên trong hoạt
động giáo dục. Đồng thời, dựa trên các kiểu nhân cách để có những cách thức ứng xử phù
hợp trong quan hệ với sinh viên. Trong hoạt động dạy học và giáo dục cần chú ý:
- Tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách lành mạnh ở sinh viên, giúp sinh viên có
được sự thích ứng tốt nhất với hoạt động học tập hình thành nghề nghiệp thông qua việc tổ
chức nhóm, tổ chức môi trường hoạt động tích cực, phát huy những điểm mạnh, tính chủ
động của sinh viên.
- Phân loại và nhận biết các kiểu nhân cách khác nhau ở sinh viên. Việc đó giúp
giảng viên có thể dự đoán được các chiều hướng hành vi ở sinh viên, đồng thời có khả
năng dự kiến các tác động hay cách thức ứng xử phù hợp với các kiểu nhân cách. Bên
cạnh đó, việc chỉ ra các hình mẫu của các kiểu loại nhân cách xã hội giúp dự đoán và tác
động đến sự thích ứng của sinh viên với các tình huống xã hội.
- Chú ý đến sự tác động và các yếu tố chi phối sự hình thành quan hệ liên nhân cách
trong quá trình tiến hành các quan hệ xã hội với sinh viên. Một mặt có thể xây dựng quan
hệ liên nhân cách tích cực, mặt khác có ý thức thoát khỏi sự chi phối của các quan hệ liên
nhân cách trong quá trình vận hành các quan hệ xã hôi.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG VI
1. Nhân cách là gì? Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách? Vai trò của các yếu tố đó?
2. Có các thành phần nào tạo nên cấu trúc của nhân cách?
3. Thế nào là kiểu nhân cách xã hội? Ý nghĩa của việc nghiên cứu kiểu nhân cách xã
hội? Anh/Chị cho biết có những kiểu nhân cách xã hội nào? Mô tả kiểu nhân cách đó.
4. Phân biệt quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách. Làm cách nào để điều chỉnh
các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ liên nhân cách?