nhom 2_ly thuyet ve danh muc dau tu
TRANSCRIPT
Mục lục
MỤC LỤC
Lời mở đầu......................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ LỢI NHUẬN.............................................2
1.1 Khái niệm rủi ro và lợi nhuận.................................................................................2
1.1.1 Lợi nhuận.........................................................................................................2
1.1.2 Rủi ro...............................................................................................................3
1.1.2.1 Rủi ro hệ thống.........................................................................................3
1.1.2.2 Rủi ro phi hệ thống...................................................................................4
1.2 Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận.....................................................................5
1.3 Tác động của đòn bẩy lên lợi nhuận và rủi ro.......................................................6
1.3.1 Tác động của đòn bẩy kinh doanh...................................................................7
1.3.2 Tác động của đòn bẩy tài chính.......................................................................8
1.4 Các biện pháp hạn chế và quản lý rủi ro...............................................................8
1.4.1 Đa dạng hóa đầu tư..........................................................................................8
1.4.2 Quản lý rủi ro và các công đoạn....................................................................10
Chương 2: LÝ THUYẾT DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ MỐI LIÊN HỆ........................17
2.1 Lý thuyết danh mục Markowitz..........................................................................17
2.1.1 Giới thiệu về Harry Markowitz.....................................................................17
2.1.2 Khái quát về lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại..........................................18
2.1.3 Rủi ro và suất sinh lợi của danh mục đầu tư.................................................19
2.1.4 Lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu..................................................................26
2.2 Đa dạng hóa danh mục đầu tư và hiệu quả giảm rủi ro.......................................30
2.2.1 Kết hợp tài sản phi rủi ro và danh mục đầu tư..............................................30
2.2.2 Đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế..........................................................35
2.3 Mối liên hệ với các lý thuyết khác......................................................................37
Mục lục
2.3.1 Lý thuyết thị trường hiệu quả........................................................................37
2.3.2 Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá............................................................38
2.3.3 Lý thuyết tài chính hành vi............................................................................38
2.3.4 Giả thuyết thị trường thích nghi....................................................................41
2.3.5 Các lý thuyết khác.........................................................................................41
Chương 3: CUNG CẦU TÀI SẢN TÀI CHÍNH VÀ CÁC MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ.....42
3.1 Tổng quan về cung cầu tài sản tài chính.............................................................42
3.1.1 Khái niệm về tài sản tài chính.......................................................................42
3.1.2 Cung cầu tài sản tài chính.............................................................................42
3.2 Các mô hình định giá tài sản tài chính................................................................47
3.2.1 Mô hình CAPM.............................................................................................47
3.2.2 Mô hình Gordon............................................................................................53
3.2.3 Mô hình DCF................................................................................................56
3.2.4 Mô hình nhân tố và kinh doanh chênh lệch giá APT....................................58
Kết luận.........................................................................................................................61
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ LỢI NHUẬN
1.1. Khái niệm rủi ro và lợi nhuận.
Một điều dễ thấy trong thực tế là đầu tư vào cổ phiếu thường mang lại lợi tức cao hơn
đáng kể so với tiền gửi ngân hàng hay đầu tư vào các chứng khoán nợ khác (trái phiếu,
chứng khoán trên thị trường tiền tệ,…). Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao các nhà đầu tư
lại không đầu tư hoàn toàn vào cổ phiếu? Nguyên do là: lợi tức mong đợi cao hơn
cũng đi kèm với rủi ro cao hơn. Trong đầu tư tài chính, mọi quyết định đầu tư luôn
được xem xét trên cơ sở cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro.
1.1.1. Lợi nhuận.
Lợi nhuận là phần tài sản mà nhà đầu tư được nhận thêm nhờ hoạt động đầu tư sau khi
đã trừ đi các chi phí liên quan đến việc đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội (phần lợi
nhuận mà nhà đầu tư phải “hy sinh” từ các tài sản đầu tư khác). Ta có thể tính toán lợi
nhuận theo công thức tổng quát sau:
Lợi nhuận = Tổng thu nhập từ việc đầu tư – Tổng chi phí đầu tư
Trong hoạt động đầu tư, nhà đầu tư cần phân biệt rõ khái niệm lợi nhuận thực nhận và
lợi nhuận kì vọng:
- Lợi nhuận kì vọng: là khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư mong muốn nhận được từ số
tiền mang đi đầu tư;
- Lợi nhuận thực nhận: là khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư thực sự nhận được từ số
tiền mang đi đầu tư.
Lợi nhuận thực nhận mà nhà đầu tư nhận được có thể nhỏ hơn, bằng hay lớn hơn lợi
nhuận kì vọng. Nếu lợi nhuận thực nhận lớn hơn hoặc bằng lợi nhuận kì vọng chứng tỏ
quá trình đầu tư thành công, lợi nhuận mang lại không những bằng mà còn vượt ngoài
sự kì vọng của nhà đầu tư. Ngược lại, nếu lợi nhuận thực nhận nhỏ hơn lợi nhuận kì
vọng chứng tỏ quá trình đầu tư không thực sự thành công, không đáp ứng được lợi
nhuận mà nhà đầu tư đã kì vọng.
Ngoài ra, lợi nhuận còn được phân loại dưới góc độ khác bao gồm: lợi nhuận kinh tế
và lợi nhuận kế toán.
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
- Lợi nhuận kế toán: là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và chi phí kế toán.
Trong đó, chi phí kế toán (còn gọi là chi phí biểu hiện), là chi phí bằng tiền mà doanh
nghiệp đã chi ra để mua các yếu tố sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh bao
gồm chi phí để mua máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, chi phí mua nguyên,
nhiên, vật liệu, tiền lương, tiền thuê đất đai, chi phí quảng cáo, chi tiền lãi vay, các loại
thuế nộp cho chính phủ… những chi phí này được ghi chép đầy đủ trong sổ kế toán.
- Lợi nhuận kinh tế: là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và chi phí kinh tế.
Chi phí kinh tế báo gồm chi phí kế toán và chi phí ẩn. Chi phí ẩn là phần giá trị lớn
nhất của thu nhập hay lợi nhuận bị mất đi, bởi khi thực hiện phương án này ta đã bỏ lỡ
cơ hội thực hiện phương án tốt nhất còn lại có mức rủi ro tương tự. Nó là chi phí
không thể hiện bằng tiền và do đó không được ghi chép vào sổ sách kế toán. Chi phí
ẩn thường gặp là chi phí cơ hội của thời gian và của vốn tài chính.
1.1.2. Rủi ro.
Rủi ro là sự không chắc chắn để mô tả sự biến đổi của các tỷ suất sinh lợi liên quan
đến một chứng khoán hay một tài sản nào đó. Rủi ro được xem như là khả năng xuất
hiện các khoản thiệt hại tài chính. Dù muốn hay không, hầu hết những điều chúng ta
làm đều chứa đựng rủi ro. Hoạt động đầu tư cũng không thể tránh khỏi điều đó. Đó là
lý do tại sao chúng ta cần phải tìm hiểu các loại rủi ro, bản chất và đặc điểm của mỗi
loại để có thể xác định được mức độ rủi ro của công cụ mà chúng ta muốn đầu tư, từ
đó quyết định có nên chấp nhận hay không và tổ chức các phương thức quản lý thích
hợp.
Có rất nhiều cách để phân loại rủi ro, trong đó nhóm nghiên cứu phân rủi ro thành rủi
ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
1.1.2.1. Rủi ro hệ thống.
Rủi ro hệ thống là rủi ro biến động lợi nhuận của chứng khoán hay danh mục đầu tư do
sự thay đổi lợi nhuận trên thị trường nói chung, gây ra bởi các yếu tố như tình hình
kinh tế, cải tổ chính sách thuế, thay đổi tình hình năng lượng thế giới, chiến tranh,….
Nó chính là phần rủi ro chung cho tất cả các loại chứng khoán hay tài sản. Rủi ro hệ
thống bao gồm nhưng không giới hạn các rủi ro sau đây:
- Rủi ro thị trường.
Đây là loại rủi ro phổ biến và thường thấy nhất trong đầu tư chứng khoán. Loại rủi ro
này chính là sự biến động giá cả do mất cân bằng giữa hai bên mua và bán trên thị
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
trường gây nên, xuất hiện khi có những phản ứng của nhà đầu tư đối với những sự kiện
vô hình hay hữu hình. Sự đánh giá rằng lợi nhuận của công ty nói chung có xu hướng
sụt giảm có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các loại cổ phiếu bị giảm giá và
ngược lại.
- Rủi ro lãi suất.
Đó là sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai do
dao động của mức lãi suất chung. Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên
xuống của lãi suất chuẩn (có thể là lãi suất trái phiếu chính phủ), làm cho mức sinh lời
kỳ vọng của các loại chứng khoán khác có sự thay đổi. Hay sự thay đổi về chi phí vay
vốn đối với các loại chứng khoán chính phủ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn
của các loại chứng khoán công ty.
- Rủi ro tỷ giá.
Đây là loại rủi ro mà bất kỳ một nhà đầu tư nào khi tham gia vào hoạt động đầu tư
quốc tế, mậu dịch đối ngoại hay giao dịch ngoại hối đều gặp phải. Tỷ giá hối đoái chịu
sự tác động của chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách ngoại thương của
các nước và mức cân bằng cung cầu trên thị trường quốc tế mà những sự biến động đó
là hết sức phức tạp.
- Rủi ro sức mua.
Đó là sự không chắc chắn về sức mua của lượng tiền nhận được sau kỳ đầu tư. Hay rủi
ro sức mua là sự tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Lạm phát xảy ra có thể là
nằm trong dự tính hay ngoài ý muốn. Nếu chúng ta coi khoản đầu tư là một khoản tiền
tiêu dùng ngay, có thể thấy rằng khi một người mua cổ phiếu, tức là anh ta đã bỏ mất
cơ hội mua hàng hoá hay dịch vụ có lợi ích nào đó.
1.1.2.2. Rủi ro phi hệ thống.
Đây là loại rủi ro xảy ra đối với một công ty hay một ngành kinh doanh nào đó, nó độc
lập với các yếu tố có tính chất hệ thống như tình hình kinh tế, chính trị có ảnh hưởng
đến toàn bộ chứng khoán trên thị trường. Ví dụ: ban quản lý công ty A sai lầm khi
quyết định đầu tư vào một dự án không hiệu quả, điều này làm cho lợi nhuận công ty
A giảm nhưng không ảnh hưởng gì đến các công ty khác. Do đó, kỹ năng quản lý của
ban quản lý doanh nghiệp là yếu tố rủi ro phi hệ thống. Rủi ro phi hệ thống bao gồm
rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
- Rủi ro kinh doanh
Loại rủi ro này thể hiện là sự bất ổn về thu nhập mà nguyên nhân của nó bắt nguồn từ
lĩnh vực hay ngành mà công ty đó trực thuộc. Do đó, khi nhà đầu tư đầu tư các lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau họ sẽ mong đợi những tỷ suất sinh lợi khác nhau. Mức độ
biến động thu nhập của một công ty phụ thuộc vào sự biến động của doanh số bán
hàng thường bị gây ra bởi những yếu tố ngoài tầm kiểm soát của công ty và phụ thuộc
vào tổng chi phí sản xuất của công ty đó. Nói cụ thể hơn là thu nhập của công ty sẽ
thay đổi khi chi phí bán hàng và chi phí sản xuất thay đổi.
- Rủi ro tài chính.
Rủi ro tài chính liên quan đến đặc điểm cơ cấu nguồn vốn tài trợ kinh doanh của doanh
nghiệp, thể hiện là sự biến động về lợi nhuận của các cổ đông khi công ty vay nợ. Mức
độ rủi ro tài chính sẽ tăng lên khi tỷ trọng vốn vay trong tổng số vốn kinh doanh của
doanh nghiệp tăng lên. Trong quá trình hoạt động, công ty có thể huy động vốn bằng
cách phát hành trái phiếu, đi vay nợ hoặc phát hành cổ phiếu.
1.2 Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận.
Lợi nhuận được thể hiện qua tỷ suất sinh lời. Tỷ suất sinh lời của một tài sản có mối
tương quan xác định với rủi ro của tài sản đó. Nghĩa là nhà đầu tư nắm giữ một tài sản
rủi ro chỉ khi tỷ suất sinh lợi của tài sản này bù đắp đủ phần rủi ro. Trong phần này,
chúng ta sẽ đánh giá tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của thị trường và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng
của chứng khoán riêng lẻ để đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lời.
1.2.1 Tỷ suất sinh lợi thị trường.
Tỷ suất sinh lợi thị trường là tổng của lãi suất phi rủi ro cộng với phần bù rủi ro tiềm
ẩn trong danh mục thị trường. Phương trình thể hiện mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi
thị trường và phần bù rủi ro là:
phần bù rủi ro
Phương trình trên thể hiện tỷ suất sinh lợi kỳ vọng thị trường không phải là tỷ suất sinh lời trong một tháng, một năm cụ thể nào đó bởi vì các cổ phần luôn luôn có rủi ro cho nên tỷ suất sinh lợi thực sự trên thị trường trong một thời kỳ cụ thể nào đó có thể dưới
và thậm chí có thể âm.
1.2.2 Tỷ suất sinh lợi của từng chứng khoán.
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
Thước đo thích hợp của rủi ro trong một danh mục đầu tư đã được đa dạng hóa đó
chính là hệ số Beta của một chứng khoán. Bởi vì hầu hết nhà đầu tư đều đa dạng hóa
danh mục đầu tư của mình cho nên tỷ suất sinh lợi của một chứng khoán sẽ có mối
tương quan xác định với Beta chứng khoán.
Trong giữa thập niên 1960, ba nhà kinh tế William Sharpe, John Lintnet và Jack
Treynor đã đưa ra mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và hệ số Beta bằng phương trình
sau:
Về mặt hình học, mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng cổ phiếu và hệ số rủi ro beta
được biểu diễn bằng đường thẳng có tên gọi là đường thị trường chứng khoán SML
(security market line). Đồ thị dưới đây mô tả mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng của
chứng khoán với hệ số β của nó.
Đồ thị chỉ ra rằng, tỷ suất sinh lợi của chứng khoán với β = 0 bằng với lãi suất phi rủi
ro (Rf). Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán với β = 1 bằng với tỷ suất sinh lợi của thị
trường.
1.3 Tác động của đòn bẩy lên rủi ro và lợi nhuận sinh lợi.
Đòn bẩy được hiểu là việc doanh nghiệp sử dụng tài sản và nợ có chi phí hoạt động cố
định và chi phí hoạt động tài chính nhằm gia tăng lợi nhuận tiềm năng cho các cổ
đông, chủ sở hữu công ty. Cụ thể, đòn bẩy kinh doanh liên quan đến sử dụng tài sản có
định phí, trong khi đòn bẩy tài chính liên quan đến việc sử dụng nợ có chi phí tài chính
cố định.
Doanh nghiệp, nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính với kỳ
vọng đạt được lợi nhuận cao hơn các định phí của tài sản và nợ, từ đó gia tăng lợi
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
nhuận cho cổ đông. Tuy nhiên đòn bẩy có tác dụng hai chiều, nó có thể làm tăng tính
khả biến của lợi nhuận (rủi ro).
1.3.1 Tác động của đòn bẩy kinh doanh.
Đòn bẩy kinh doanh dùng các chi phí hoạt động cố định làm điểm tựa. Khi một doanh
nghiệp sử dụng các chi phí hoạt động cố định, một thay đổi trong doanh thu sẽ được
phóng đại thành một thay đổi tương đối lớn trong lãi trước thuế và lãi vay. Tác động
số nhân này của việc sử dụng các chi phí hoạt động cố định được gọi là độ nghiêng
đòn bẩy kinh doanh.
Độ nghiêng đòn bẩy kinh doanh (viết tắt là DOL) của một doanh nghiệp được định
nghĩa là tác động số nhân của việc sử dụng các chi phí hoạt động cố định. DOL có thể
được tính như phần trăm thay đổi trong lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) do một
phần trăm thay đổi trong doanh thu. Công thức tính độ nghiêng đòn bẩy kinh doanh
như sau:
Dựa vào công thức trên ta có thể nhận ra rằng, DOL của một doanh nghiệp càng lớn
tức là doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy kinh doanh càng nhiều thì độ phóng đại của thay
đổi doanh thu đối với thay đổi EBIT càng lớn. Khi đó đồng nghĩa với việc rủi ro tăng
cao.
Độ nghiêng đòn bẩy kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tiến đến cực đại khi doanh
nghiệp tiến gần đến mức sản lượng hòa vốn và âm khi sản lượng dưới mức hòa vốn.
Trong trường hợp hệ số DOL tại một điểm âm, khi gia tăng sản lượng 1% thì doanh
nghiệp sẽ bị lỗ và DOL dương thì sự gia tăng sản lượng sẽ làm tăng lợi nhuận. Như
vậy, việc gia tăng sử dụng đòn bẩy kinh doanh có thể làm gia tăng hoặc sụt giảm lợi
nhuận của một doanh nghiệp, điều này phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đã sản xuất
tới mức sản lượng hòa vốn hay chưa. Và có các trường hợp xảy ra như sau:
- Khi doanh nghiệp sản xuất dưới mức sản lượng hòa vốn: việc tăng đòn bẩy kinh
doanh làm giảm lợi nhuận.
- Khi doanh nghiệp sản xuất tại mức sản lượng hòa vốn: doanh thu bằng chi phí và
lợi nhuận bằng 0.
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
- Khi doanh nghiệp sản xuất tại mức sản lượng lớn hơn mức sản lượng hòa vốn: lợi
nhuận tăng khi công ty tăng đòn bẩy kinh doanh.
Như vậy, việc sử dụng đòn bẩy kinh doanh đã ảnh hưởng đến lợi nhuận và rủi ro cho
nhà đầu tư. Sử dụng đòn bẩy kinh doanh càng nhiều càng làm cho EBIT biến động
nhiều.
1.3.2 Tác động của đòn bẩy tài chính.
Đòn bẩy tài chính dùng các chi phí tài chính làm điểm tựa. Khi một doanh nghiệp, nhà
đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính để làm tăng thu nhập. Tuy nhiên việc đạt được lợi
nhuận gia tăng này cũng kéo theo rủi ro tăng cao.
Trong phần này, nhóm nghiên cứu sẽ đánh giá tác động của việc sử dụng đòn bẩy tài
chính đến lợi nhuận và rủi ro trên quan điểm của một nhà đầu tư khi đầu tư vào tài sản
tài chính mà không phải là lĩnh vực sản xuất.
Nhóm nghiên cứu đưa ra một ví dụ đơn giản để giải thích cho vấn đề nêu trên: Nhà
đầu tư A quyết định đầu tư số tiền là 50.000$ và lợi nhuận nhận được từ việc đầu tư
này khi thị trường tăng trưởng phát triển là 6000$ và (2000$) khi thị trường suy thoái.
Nhà đầu tư đang đứng trước lựa chọn là sử dụng 100% vốn chủ sở hữu hay có sử dụng
một phần vốn vay?
Trong ví dụ này ta phân tích dựa trên 3 trường hợp để đánh giá tác động của việc sử
dụng đòn bẩy tài chính lên rủi ro và tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu.
Trường hợp 1: Nhà đầu tư sử dụng 100% vốn chủ sở hữu. Khi đó tỷ suất sinh lợi trên
vốn chủ sở hữu trong hai tình huống thị trường là 12% và -0.4%. Mức chênh lệch tỷ
suất lợi nhuận là 12.4%.
Trường hợp 2: Nhà đầu tư sử dụng 30.000$ vốn chủ và 20.000$ vốn vay. Khi đó tỷ
suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu lần lượt là 20% và -6.7%. Mức chênh lệch tỷ suất lợi
nhuận là 26.7%.
Trường hợp 3: Nhà đầu tư sử dụng 20.000$ vốn chủ sở hữu và 30.000$ vốn vay. Khi
đó tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu lần lượt là 30% và -10%. Mức chênh lệch tỷ
suất lợi nhuận là 40%.
Như vậy, việc sử dụng đòn bẩy tài chính càng nhiều càng làm tăng tỷ suất sinh lợi trên
vốn chủ khi thị trường diễn biến tốt và tỷ suất sinh lợi càng giảm khi thị trường suy
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
thoái. Đồng thời, việc gia tăng sử dụng đòn bẩy tài chính cũng làm gia tăng rủi ro
(mức độ chênh lệch tỷ suất lợi nhuận khi thị trường tăng trưởng phát triển và thị
trường suy thoái).
1.4 Các biện pháp hạn chế và quản lý rủi ro
1.4.1 Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Đa dạng hóa danh mục đầu tư là việc bỏ vốn đầu tư vào các tài sản khác nhau có độ rủi
ro khác nhau, dựa trên những tỷ lệ đầu tư không giống nhau trên thị trường. Mục đích
của đa dạng hóa là làm giảm độ lệch chuẩn của danh mục. Đa dạng hóa danh mục đầu
tư chứng khoán tuy không xóa bỏ được hết rủi ro, nhưng có thể làm giảm bớt mức rủi
ro theo một nguyên tắc đầu tư "không nên để tất cả trứng vào cùng một rổ". Một số
cách đa dạng hóa danh mục đầu tư
- Đa dạng hóa loại chứng khoán: Nếu đầu tư tất cả vốn vào một loại cổ phiếu nào
đó mà tình hình kinh doanh của công ty đó không được tốt, hoặc có nguy cơ bị phá
sản, thì nhà đầu tư không những không thu được cổ tức, mà có nguy cơ bị mất cả
vốn. Vì vậy, đầu tư vào nhiều loại chứng khoán, cho dù có một vài loại chứng
khoán trong số đó gặp rủi ro, thì nhà đầu tư vẫn có thể thu được lợi từ những chứng
khoán khác để bù đắp thiệt hại.
- Đa dạng hóa tổ chức phát hành: Nếu danh mục đầu tư chỉ bao gồm trái phiếu
chính phủ, thì nhà đầu tư không cần phải đa dạng hóa chủ thể phát hành, bởi vì trái
phiếu chính phủ gần như không có rủi ro. Tuy nhiên, nếu nhà đầu tư mua trái phiếu
công ty, trái phiếu địa phương hoặc cổ phiếu, thì việc đa dạng hóa chủ thể phát
hành là một vấn đề cần được cân nhắc, bởi vì các loại chứng khoán này luôn tiềm
tàng một số rủi ro nhất định.
Việc đa dạng hóa danh mục đầu tư tùy thuộc vào khả năng tài chính của mỗi nhà đầu
tư. Nếu khả năng tài chính hạn chế, nhà đầu tư chỉ nên tập trung vào một vài loại
chứng khoán để giúp vòng quay của đồng vốn linh hoạt hơn đồng thời giảm chi phí
giao dịch.
Một vấn đề đáng lưu ý ở đây là rủi ro có thể đa dạng hóa và không thể đa dạng hóa
tương ứng với rủi ro cụ thể với từng công ty và rủi ro toàn thị trường. Các rủi ro mà
phát sinh từ những hành động cụ thể của công ty chỉ ảnh hưởng đến một hay một vài
khoản đầu tư là có thể đa dạng hóa được. Rủi ro xuất phát từ các nguyên do ở mức độ
thị trường ảnh hưởng đến nhiều hay tất cả các khoản đầu tư là không thể đa dạng hóa.
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
Sự phân biệt này là vô cùng quan trọng trong cách thức mà chúng ta đánh giá rủi ro
trong tài chính. Trong trường hợp này, đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế sẽ giúp
nhà đầu tư giảm được rủi ro hệ thống.
Các cách thức đa dạng hóa danh mục đầu tư sẽ được làm rõ hơn trong phần 2.
1.4.2 Quản lý rủi ro và các công đoạn cơ bản xây dựng danh mục đầu tư.
Danh mục đầu tư là sự kết hợp nắm giữ các loại chứng khoán, hàng hóa, bất động sản,
các công cụ tương đương tiền mặt hay các tài sản khác bởi các cá nhân hay một nhà
đầu tư thuộc tổ chức. Mục đích của danh mục đầu tư là làm giảm thiểu rủi ro bằng việc
đa dạng hóa đầu tư. Do đó, việc xây dựng và quản lý danh mục đầu tư là điều cần thiết
để có thể xác định và quản trị được các cơ hội đầu tư với rủi ro - lợi tức tốt nhất từ các
danh mục đầu tư khả thi và lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu từ các cơ hội đó.
Quy trình xây dựng và quản lý danh mục đầu tư thường trải qua các công đoạn cơ bản
như sau :
Mỗi nhà đầu tư có những cách thức và quy trình đầu tư khác nhau, tùy theo quan điểm
hay thế mạnh của mình có thể có những chú trọng hay ưu tiên khác nhau đối với từng
công đoạn nêu trên. Nhưng nhìn chung đối với những nhà đầu tư chuyên nghiệp,
những công đoạn cơ bản trên luôn được tuân thủ.
1.4.2.1Mục tiêu đầu tư
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
Xây dựng mục tiêu bao giờ cũng là khâu đầu tiên của một quá trình quản trị, đóng vai
trò rất quan trọng bởi vì mục tiêu là cơ sở để xây dựng danh mục đầu tư, là cơ sở để
điều chỉnh danh mục đầu tư và là căn cứ để đánh giá hiệu quả hoạt động của danh mục
đầu tư. Mục tiêu đầu tư thường phải đề cập đến 3 yếu tố cơ bản là: lợi nhuận mục tiêu,
mức độ chấp nhận rủi ro và thời hạn thu hồi vốn:
Lợi nhuận mục tiêu
Yếu tố quan trọng nhất trong mục tiêu đầu tư đó là mục tiêu về lợi nhuận. Lợi nhuận
mục tiêu cần được xác định một cách cụ thể và có căn cứ rõ ràng. Việc xác định lợi
nhuận mục tiêu của danh mục đầu tư phải căn cứ trên tình trạng hiện tại của môi
trường đầu tư và những dự báo về xu hướng thay đổi của môi trường đầu tư trong
tương lai. Môi trường đầu tư thuận lợi cho phép các nhà quản trị đặt mục tiêu lợi
nhuận cao và ngược lại. Các mục tiêu đầu tư cơ bản thường bao gồm :
- Mục tiêu tăng trưởng vốn: nhà đầu tư mong muốn danh mục đầu tư gia tăng giá trị
thực trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đáp ứng các nhu cầu trong tương
lai. Trong chiến lược này, sự tăng trưởng thường có được chủ yếu từ sự tăng giá
của các tài sản đầu tư trong danh mục. Lúc này thu nhập thường xuyên trở thành
mục tiêu thứ yếu.
- Mục tiêu thu nhập thường xuyên: nhà đầu tư mong muốn danh mục đầu tư phải tạo
ra những khoản thu nhập đều đặn định kỳ (hàng tháng, hàng quý, hàng năm). Sự
tăng trưởng vốn trong tương lai là mục tiêu thứ yếu. Mục tiêu này thường phù hợp
với các nhà đầu tư mong muốn có thêm các khoản thu nhập từ danh mục đầu tư
nhằm đáp ứng cho các chi phí sinh hoạt của mình.
- Mục tiêu bảo toàn vốn: nhà đầu tư muốn tối thiểu hóa rủi ro. Nhà đầu tư muốn duy
trì giá trị thực của khoản đầu tư, nói cách khác thu nhập của khoản đầu tư yêu cầu
phải lớn hơn so với lạm phát. Mục tiêu này phù hợp với những nhà đầu tư rất ngại
rủi ro hoặc những nhà đầu tư có thời hạn đầu tư ngắn.
Mức độ chấp nhận rủi ro
Đối với nhà đầu tư cá nhân, mức độ chấp nhận rủi ro phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
độ tuổi, giới tính, thu nhập, học vấn, kinh nghiệm, cá tính, tâm lý,…. Căn cứ trên mức
độ chấp nhận rủi ro, thông thường các nhà đầu tư được chia thành 3 nhóm chính:
- Nhà đầu tư liều lĩnh: là nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận khả năng rủi ro thua lỗ một
phần vốn đầu tư để đổi lấy cơ hội tìm kiếm mức lợi nhuận tiềm năng cao hơn. Đối
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
với các nhà đầu tư liều lĩnh, các nhà quản lý danh mục đầu tư có thể đặt lợi nhuận
mục tiêu cao, ưu tiên đầu tư vào cổ phiếu, nhất là các cổ phiếu tăng trưởng.
- Nhà đầu tư bảo thủ: là nhà đầu tư có mức độ chấp nhận rủi ro thấp nhất. Bảo toàn
vốn là ưu tiên hàng đầu của nhóm nhà đầu tư này. Với nhà đầu tư bảo thủ, các nhà
quản lý danh mục đầu tư sẽ phải đặt mục tiêu an toàn lên cao và đặt mục tiêu lợi
nhuận thấp hơn, ưu tiên đầu tư danh mục vào các tài sản an toàn nhưng đem lại lợi
nhuận thấp như các công cụ của thị trường tiền tệ, trái phiếu chính phủ,…
- Nhà đầu tư trung dung: là nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận một mức độ rủi ro nhất
định để đổi lấy cơ hội nhận được mức lợi nhuận cao hơn. Nhà đầu tư trung dung
đứng ở giữa cân bằng giữa nhà đầu tư liều lĩnh và nhà đầu tư bảo thủ.
Thời hạn thu hồi vốn
Là quãng thời gian đầu tư mà nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận để đạt được mục tiêu đầu
tư. Mỗi tài sản đầu tư có tính thanh khoản và thời hạn thu hồi khác nhau, mỗi nhà đầu
tư cũng có yêu cầu về thời hạn đầu tư khác nhau. Việc xác định thời hạn yêu cầu của
nhà đầu tư để lựa chọn những tài sản đầu tư có tính thanh khoản và thời hạn thu hồi
phù hợp đóng vai trò quan trọng vì vừa đáp ứng nhu cầu tiền mặt của nhà đầu tư cá
nhân và khả năng thanh khoản của các tổ chức tài chính, đồng thời vấn đề thanh khoản
và thời hạn thu hồi vốn còn có liên quan mật thiết tới vấn đề rủi ro và lợi nhuận của
danh mục đầu tư.
1.4.2.2 Chính sách phân bổ tài sản
Là quyết định tỉ lệ phân bổ tài sản của nhà đầu tư tổ chức hay cá nhân vào các loại tài
sản đầu tư để đạt được mục tiêu đầu tư đã đặt ra. Các loại tài sản chính bao gồm:
- Tiền mặt và các công cụ tài chính ngắn hạn: Để kịp thời tận dụng được các cơ hội
đầu tư thì một danh mục đầu tư bất kỳ thường duy trì ít nhất là một phần nhỏ dưới
dạng tiền mặt và các công cụ tài chính ngắn hạn dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt
đơn giản bằng việc gửi ngân hàng hay mua các chứng chỉ tiền gửi có khả năng
chuyển nhượng, thương phiếu (kỳ hạn nợ ngắn) và tín phiếu kho bạc để lấy lãi.
- Trái phiếu: Loại tài sản như trái phiếu có thể được tiếp tục chia thành các nhóm
nhỏ hơn như trái phiếu có thể bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh
nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp có thể được chia thành nhiều nhóm nhỏ khác nhau
tùy theo mức độ xếp hạng tín nhiệm.
- Cổ phiếu: được chia thành: cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu trên thị trường OTC hay
nhóm các cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn, nhóm các cổ phiếu có giá trị vốn hóa
nhỏ,…
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
- Công cụ phái sinh: Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được
phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có, các nhà đầu tư có thể sử dụng
các công cụ này nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo hiểm lợi
nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Hai loại công cụ phái sinh phổ biến là hợp đồng tương
lai (future) và hợp đồng quyền chọn (options).
- Bất động sản: Đầu tư vào bất động sản như văn phòng, nhà xưởng, khách sạn,… có
thể được tiến hành bằng cách trực tiếp mua những bất động sản đó hoặc gián tiếp bằng
cách mua cổ phiếu của những công ty bất động sản. Bởi vì tính thanh khoản kém của
bất động sản nên chỉ có những nhà đầu tư theo dạng tổ chức lớn với thời gian hoạt
động lâu dài và không có áp lực về thanh khoản mới có khuynh hướng đầu tư bằng
cách trực tiếp.
- Tài sản ở nước ngoài: Những thị trường, nền kinh tế và các công ty trên toàn thế giới
có cơ cấu, triển vọng và những thế mạnh khác nhau, do đó sự biến động về giá của các
loại tài sản trong một nước không phải lúc nào cũng có tương quan với sự biến động
tại các nước khác. Điều đó tạo ra cơ hội đầu tư ra nước ngoài cho các nhà quản lý quỹ
theo chiến lược tích cực tối đa hóa lợi nhuận của họ trong khi cố gắng để giảm thiểu
rủi ro của danh mục đầu tư. Bên cạnh đó, họ còn đầu tư ra nước ngoài bởi vì triển
vọng về giá cổ phiếu, tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái ở các thị trường và quốc
gia khác khi so sánh với các điều kiện đó ở nước họ.
Quyết định phân bổ tài sản phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu đầu tư được xác định ở
bước trước đó và nó ảnh hưởng rất nhiều đến việc thực hiện các công đoạn phía sau.
Quyết định phân bổ tài sản là đặc biệt quan trọng, vì nó chi phối việc thực hiện của
hầu hết toàn bộ danh mục đầu tư.
1.4.2.3 Lựa chọn chiến lược quản lý đầu tư danh mục đầu tư
Lựa chọn chiến lược đầu tư là cầu nối truyền dẫn mục tiêu đầu tư và chính sách phân
bổ tài sản đến công đoạn thực hiện cụ thể là lựa chọn chứng khoán. Hai chiến lược
được nhắc tới phổ biến nhất là chiến lược quản lý danh mục đầu tư chủ động và chiến
lược quản lý danh mục đầu tư bị động hay sự phối hợp giữa hai chiến lược này.
Chiến lược quản lý danh mục đầu tư thụ động
Là chiến lược mua và nắm giữ chứng khoán trong một thời gian dài, trong suốt thời
gian đó nhà đầu tư hầu như không điều chỉnh hoặc chỉ điều chỉnh một cách tối thiểu
danh mục đầu tư. Chiến lược thụ động được cổ vũ bởi lý thuyết thị trường hiệu quả
(Efficient Market Hypothesis): cho rằng thị trường là hiệu quả, giá cả thị trường của
các cổ phiếu luôn hợp lý, nó phản ánh một cách nhanh chóng tất cả thông tin liên quan
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
đến cổ phiếu đó, thị trường là một cơ chế định giá hiệu quả và do đó không tồn tại các
chứng khoán bị định giá sai. Do vậy, không cần phải bỏ công tìm kiếm các chứng
khoán bị định giá sai và mua bán chứng khoán một cách chủ động. Chiến lược đầu tư
thụ động tiêu biểu nhất chính là chiến lược khớp chỉ số (Match - Index - Strategy).
Chiến lược quản lý danh mục đầu tư chủ động
Chiến lược chủ động luôn chú trọng sử dụng các chỉ số kinh tế, tài chính, cùng các
công cụ khác nhau để đưa ra các dự báo về thị trường và định giá chứng khoán từ đó
mua bán chứng khoán một cách chủ động để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn so với việc
chỉ mua và nắm giữ chứng khoán.
1.4.2.4 Lựa chọn chứng khoán
Nhà quản trị đầu tư phải sử dụng nhiều kỹ thuật, phương pháp và chiến lược khác nhau
để lựa chọn các chứng khoán cụ thể vào danh mục đầu tư. Đây là một công việc mang
tính chất liên tục, nhà đầu tư không chỉ thực hiện lựa chọn chứng khoán một lần duy
nhất trong toàn bộ quá trình đầu tư mà còn phải thường xuyên điều chỉnh danh mục
đầu tư khi thị trường có những biến động hay đưa ra quyết định mua bán kịp thời khi
phát hiện có những chứng khoán bị định giá sai.
Các phương pháp lựa chọn cổ phiếu bao gồm:
Phân tích cơ bản
Là phương pháp phân tích từ trên xuống (top – down) hoặc từ dưới lên (bottom – up)
để phân tích và đánh giá các yếu tố nền kinh tế, ngành và điều kiện cụ thể của công ty,
từ đó xác định giá trị nội tại của cổ phiếu. Các nhà phân tích tin rằng trong ngắn hạn
giá thị trường có thể biến động cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nội tại, nhưng trong dài
hạn thị trường sẽ điều chỉnh, giá thị trường của cổ phiếu sẽ có khuynh hướng tiệm cận
với phản ánh gần đúng giá trị lý thuyết của nó. Nhà đầu tư sẽ so sánh giá trị nội tại với
giá thị trường của cổ phiếu để đưa ra quyết định mua bán hay nắm giữ cổ phiếu.
Phân tích kỹ thuật
Tập trung xem xét giá và khối lượng giao dịch quá khứ dựa vào các công cụ như đồ
thị, các chỉ số thống kê để dự báo xu hướng giá trong tương lai, từ đó đưa ra quyết
định giao dịch. Phương pháp phân tích kỹ thuật dựa trên giả định cơ bản là hầu hết các
thông tin được phản ánh qua giá, không tồn tại các chứng khoán bị định giá sai.
Trong phân tích đầu tư, nhà đầu tư có thể theo trường phái phân tích cơ bản, có thể
theo trường phái phân tích kỹ thuật hoặc kết hợp cả hai phương pháp này. Phân tích cơ
bản trả lời câu hỏi mua cổ phiếu nào, phân tích kỹ thuật trả lời câu hỏi mua vào lúc
nào.
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
Các phương pháp lựa chọn trái phiếu:
Về nguyên tắc, cũng như các loại tài sản tài chính khác, việc phân tích đầu tư trái
phiếu cũng có thể dựa vào phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Tuy
nhiên việc phân tích đầu tư trái phiếu có những đặc điểm riêng. Trái phiếu có các rủi
ro đặc thù như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tái đầu tư,… Nhà đầu tư phải phân
tích và đánh giá được các rủi ro này nhằm tìm ra cơ hội đầu tư vào các trái phiếu có
cùng mức độ rủi ro nhưng có lợi suất cao hơn. Để dự đoán xu hướng biến động giá của
trái phiếu nhằm đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp, nhà đầu tư trái phiếu phải
phân tích các yếu tố như phân tích dự báo xu hướng biến động của lãi suất, phân tích
tín dụng nhằm đánh giá và dự báo sự thay đổi trong xếp hạng tín nhiệm của công ty,
dự báo sự thay đổi của đường cong lãi suất,…
Để hỗ trợ cho nhà đầu tư trong việc ra quyết định khi đầu tư vào trái phiếu, việc xếp
hạng trái phiếu được các tổ chức phân tích chuyên nghiệp đảm nhận và công bố, nổi
tiếng nhất hiện nay như Moody's, Standard & Poor's, và Fitch's Investors Service hoạt
động không những tại thị trường Mỹ mà còn cho nhiều thị trường khác trên thế giới.
Moody's S&P's Fitch's Xếp hạng
AAA AAA AAA Thượng hạng
AA AA AA Cao
A A A Trên trung bình
BAA BBB BBB Trung bình
BA BB BB Thường
B B B Kém
Bảng xếp hạng các loại chứng khoán
Lựa chọn các tài sản khác:
Ngoài trái phiếu và cổ phiếu là những tài sản đầu tư quan trọng, trong danh mục đầu tư
của các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân còn có các loại tài sản khác như các công cụ
trên thị trường tiền tệ, vốn đầu tư mạo hiểm, vốn chủ sở hữu riêng lẻ, bất động sản, các
chứng khoán phái sinh,… Mỗi loại hình thức đầu tư này đều có những phương pháp
phân tích đầu tư đặc thù, thông thường các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đều có các
chuyên gia phân tích được chuyên môn hóa cho mỗi loại hàng hóa hay mỗi hình thức
đầu tư.
1.4.2.5 Đánh giá hiệu quả hoạt động của danh mục đầu tư
Chương 1
Tổng quan về rủi ro và lợi nhuận
Theo nguyên tắc, hiệu quả của hoạt động quản lý danh mục đầu tư được đánh giá dựa
trên sự tương quan giữa lợi nhuận và rủi ro của danh mục đầu tư. Danh mục đầu tư có
tỷ suất sinh lợi càng cao chứng tỏ hiệu quả hoạt động càng tốt. Tuy nhiên, nếu rủi ro
của danh mục đầu tư càng lớn chứng tỏ danh mục hoạt động càng kém hiệu quả. Kết
quả hoạt động của danh mục đầu tư cũng cần phải được so sánh với mặt bằng lãi suất
và tỷ suất sinh lời bình quân của thị trường. Tỷ suất sinh lời thực tế không phải là yếu
tố duy nhất để đánh giá về hiệu quả của hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Các yếu
tố dùng để đánh giá hiệu quả thường bao gồm tỷ suất sinh lợi thực tế của danh mục
đầu tư, các hệ số đo lường rủi ro của danh mục đầu tư, tỷ suất sinh lời bình quân của
thị trường, lãi suất phi rủi ro,…
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
Chương 2:
LÝ THUYẾT DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ MỐI LIÊN HỆ
VỚI CÁC LÝ THUYẾT KHÁC
2.1. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz.
2.1.1. Giới thiệu về Harry Markowitz.
Harry Markowitz sinh ngày 24/08/1927 tại Chicago, Illinios trong một gia đình gốc Do
Thái. Khi còn học trung học, ông rất có năng khiếu về vật lý và triết học. Trong khi
theo học tại trường Đại Học Chicago (the University of Chicago), ông đã được mời
tham gia vào Ủy ban Nghiên Cứu Kinh Tế Cowles (Cowles Commission for Research
in Economics).
Sau khi hoàn tất việc học ở trường, Markowitz gia nhập vào RAND Corporation, một
tổ chức phi lợi nhuận chuyên nghiên cứu và phân tích các vấn đề chính sách và ra
quyết định trong lĩnh vực R&D của Mỹ. Tại đây, với sự giúp đỡ của George Dantzig,
Markowitz tiếp tục nghiên cứu về kĩ thuật tối ưu hóa, phát triển sâu hơn thuật toán
đường tới hạn để nhận diện những danh mục trung bình - phương sai tối ưu mà sau
này được gọi là Đường biên Markowitz. Trong những năm 1950, Markowitz đã phát
triển Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại (Modern Portfolio Theory - MPT) phân tích
những rủi ro trong hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính sao cho có thể thu được
mức lợi nhuận cao nhất. Năm 1952, lần đầu tiên, Markowitz đưa ra mô hình lý thuyết
danh mục đầu tư hiện đại trong bài tham luận “Lựa chọn danh mục đầu tư” (Portfolio
Selection) trên tạp chí Journal of Finance.
Ông nhận bằng tiến sĩ kinh tế học vào năm 1955 với việc lựa chọn cách ứng dụng toán
học vào phân tích thị trường chứng khoán làm đề tài luận án tiến sĩ. Jacob Marschak,
người hướng dẫn ông, đã khuyến khích ông theo đuổi đề tài này. Trong quá trình làm
đề tài, ông đã nhận ra rằng các lý thuyết thiếu sự phân tích về những tác động của rủi
ro đến hoạt động đầu tư, đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của lý thuyết
danh mục đầu tư hiện đại.
Năm 1959, ông đã xuất bản cuốn sách cùng tên “Lựa chọn danh mục đầu tư: Đa dạng
hóa hiệu quả” (Portfolio Selection: Efficient Diversification) chính thức công bố lý
thuyết danh mục đầu tư hiện đại một cách có hệ thống. Markowitz vận dụng toán học
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
và những phương pháp máy tính vào giải quyết những vấn đề thực tiễn, chẳng hạn như
sự không chắc chắn trong việc ra quyết định đầu tư.
Năm 1989 ông nhận giải thưởng Von Neumann về những đóng góp trong việc nghiên
cứu ở 3 lĩnh vực: Lý Thuyết Vận Trù Học (Operations Research Theory), các phương
pháp ma trận toán rời rạc và lập trình ngôn ngữ phục vụ mô phỏng (SIMSCRIPT),
được trao bởi Tổ Chức Nghiên Cứu Vận Trù Học Hoa Kỳ (the Operations Research
Society of America), nay là Viện Nghiên Cứu Vận Trù Học và Khoa Học Quản Lý
(Institute for Operations Research and the Management Sciences, INFORMS).
Năm 1990, cùng với Willam Sharp và Merton Miller, Harry Markowitz nhận giải
Nobel Kinh Tế về công trình nghiên cứu Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại.
Hiện nay ngoài công việc giảng dạy ông còn tham gia vào các công tác tư vấn đầu tư,
kỹ thuật viên, phân tích phần mềm, tài chính,… trong một số tổ chức như Harry
Markowitz Company, SkyView Investment Advisors LLC, GuidedChoice,…
2.1.2. Khái quát về lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại.
Dựa trên việc kết hợp yếu tố rủi ro và lợi nhuận, lý thuyết danh mục đầu tư của
Markowitz tìm hiểu phương pháp để một nhà đầu tư ngại rủi ro xây dựng danh mục
đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận kì vọng và tối thiểu hóa rủi ro, chứng minh được
rằng một danh mục đầu tư được đa dạng hóa tối ưu có thể giảm thiểu được rất nhiều
rủi ro mà không phải hy sinh hoặc hy sinh rất ít lợi nhuận.
Lý thuyết Markowitz đã chỉ ra cách thức giải quyết vấn đề trên chính là đa dạng hóa
danh mục đầu tư. Trên thị trường chứng khoán, nguyên tắc này yêu cầu sở hữu nhiều
chủng loại chứng khoán, từ cổ phiếu phát hành bởi các công ty qui mô lớn cho đến cổ
phiếu mới xuất hiện trên thị trường. Trên cơ sở đó tuyển chọn ra danh mục đầu tư tối
ưu, đảm bảo mối quan hệ giữa tìm kiếm lợi nhuận và mức rủi ro có thể chấp nhận.
Lý thuyết của Markowitz dựa trên các giả định cơ bản sau:
- Các nhà đầu tư đều là những nhà đầu tư ngại rủi ro và có mức ngại rủi ro khác
nhau. Với một mức rủi ro cho trước nhà đầu tư sẽ ưa thích phương án đầu tư nào có
tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn. Tương tự, với cùng một mức tỷ suất sinh lợi kỳ
vọng cho trước, nhà đầu tư sẽ ưa thích lựa chọn những phương án nào có mức độ
rủi ro thấp hơn. Nhà đầu tư mong muốn tối đa hóa tỷ suất sinh lợi với một mức độ
rủi ro cho phép.
- Các nhà đầu tư theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi ro.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
- Việc lựa chọn và ra quyết định đầu tư của nhà đầu tư chỉ dựa trên hai yếu tố là thu
nhập kỳ vọng và mức rủi ro.
- Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc trong một khoảng thời gian xác
định. Tất cả các nhà đầu tư đều có thời hạn đầu tư như nhau.
2.1.3. Rủi ro và tỷ suất sinh lợi của danh mục đầu tư.
2.1.3.1. Lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro của tài sản riêng lẻ.
a, Lợi nhuận kỳ vọng của tài sản riêng lẻ
Markowitz là một trong những người đầu tiên khởi xướng việc ứng dụng các phương
pháp toán học – xác suất – thống kê vào việc tính toán lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro,
trước hết ta hãy tìm hiểu lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro của một tài sản riêng lẻ.
Tỷ suất sinh lời kỳ vọng của tài sản i được xác định như sau:
(1)
Trong đó: : tỷ suất sinh lời kỳ vọng của tài sản i.
: xác suất xảy ra mức tỷ suất sinh lợi .
: tỷ suất sinh lợi của tài sản trong tình huống j.
b, Rủi ro của tài sản riêng lẻ
Trong đầu tư tài chính, rủi ro chính là sự không chắc chắn về lợi tức mà nhà đầu tư kỳ
vọng nhận được từ việc đầu tư. Sự không chắc chắn này được thể hiện bởi nhiều mức
lợi tức có thể nhận được với nhiều xác suất khác nhau. Biên độ dao động của những
giá trị lợi tức có thể so với lợi tức kỳ vọng càng lớn, thì rủi ro của lợi tức kỳ vọng nhận
được càng lớn. Chỉ tiêu phương sai (variance) hoặc chỉ tiêu độ lệch chuẩn (standard
deviation) của phân phối tỷ suất sinh lợi được sử dụng để đo lường rủi ro. Các chỉ tiêu
này được tính như sau:
Phương sai của tỷ suất sinh lợi:
(2)
Trong đó: : tỷ suất sinh lợi có thể có của tài sản i.
: tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của tài sản i.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
: xác suất xảy ra mức tỷ suất sinh lợi .
Phương sai của tỷ suất sinh lợi thể hiện độ phân tán của tỷ suất sinh lợi xung quanh giá
trị kỳ vọng. Phương sai càng lớn biểu thị độ phân tán càng cao, tức là sự không chắc
chắn của tỷ suất sinh lợi trong tương lai càng cao.
Độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi:
(3)
Cũng giống như phương sai, độ lệch chuẩn là chỉ tiêu dùng để đo lường độ rộng của sự
phân tán hay mức độ biến động của lượng biến so với giá trị trung bình, cho biết sự
phân phối của lượng biến trong tổng thể. Ý nghĩa kinh tế của độ lệch chuẩn chính là
đại lượng đặc trưng cho rủi ro của tài sản.
Hệ số β của tài sản tài chính
Một số nhận xét về hệ số β của chứng khoán:
- Hệ số bêta của một chứng khoán bất kỳ chính là thước đo rủi ro hệ thống của
chứng khoán đó (vì chỉ chứa hiệp phương sai của chứng khoán với danh mục thị
trường, không chứa phương sai riêng của chứng khoán).
- Hệ số bêta của chứng khoán đo lường mức độ biến động lợi nhuận của chứng
khoán cá biệt so với mức biến động lợi nhuận của danh mục thị trường. Mức độ bù
trừ rủi ro đối với một chứng khoán bằng β lần mức độ bù trừ rủi ro của thị trường.
Khi đó hệ số β được xác định dựa vào đồ thị sau:
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
- Giá trị β của một chứng khoán có thể dương hoặc âm, tuy nhiên bình thường các β
của chứng khoán trên thị trường đều dương và phần lớn ở vào khoảng 0.5 – 2.0.
Danh mục thị trường có kỳ vọng lãi suất và mức độ rủi ro . Vì thị trường chỉ đền bù cho rủi ro hệ thống nên một chứng khoán k có rủi ro hệ thống so với thị trường
là sẽ chỉ yêu cầu mức đền bù rủi ro là:
(4)
Đặt βk = là hệ số bêta của chứng khoán k. Khi đó công thức trên có thể được viết lại
như sau:
(5)
Trên thực tế các nhà kinh doanh chứng khoán sử dụng mô hình hồi qui dựa trên số liệu
lịch sử để ước lượng β. Ở các nước có thị trường tài chính phát triển có một số công ty
chuyên xác định và cung cấp thông tin về hệ số β. Chẳng hạn ở Mỹ, người ta có thể
tìm thấy thông tin về β từ các nhà cung cấp dịch vụ là Value Line Investment Survey,
Market Guide (www.marketguide.com) và Standard & Poor’s Stock Reports.
2.1.3.2. Đo lường mối quan hệ giữa các chứng khoán.
Trong lĩnh vực đầu tư cũng như nhiều lĩnh vực khác, người ta thường có nhu cầu khảo
sát mối quan hệ của hai biến ngẫu nhiên. Để lượng hóa mối quan hệ này người ta dùng
hai đại lượng hệ số hiệp phương sai (Covariance) và hệ số tương quan (Correlation).
Hiệp phương sai
Hiệp phương sai là một đại lượng thống kê dùng để đo lường mức độ phụ thuộc tương
quan của hai biến ngẫu nhiên. Trong ngành tài chính khái niệm hiệp phương sai được
dùng để đo lường mức độ cùng biến động (co-vary) của tỉ suất lợi nhuận hay giá cả
của hai loại tài sản đầu tư.
Hiệp phương sai của tỷ suất lợi tức trên hai tài sản bất kỳ A và B được tính toán như
sau:
(6a)
Trong trường hợp tỷ suất sinh lợi của hai tài sản được tính toán dựa vào thực nghiệm
thì hiệp phương sai của chúng được xác định như sau:
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
(6b)
Ý nghĩa của hệ số hiệp phương sai được diễn giải như sau:
- Hiệp phương sai dương có nghĩa lợi nhuận của hai tài sản biến động cùng chiều.
Nếu tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của tài sản thứ nhất tăng lên thì tỷ suất sinh lợi của tài
sản thứ hai cũng có xu hướng tăng lên.
- Hiệp phương sai âm là chúng biến động ngược chiều. Nếu tỷ suất sinh lợi của tài
sản thứ nhất tăng lên thì tỷ suất sinh lời của tài sản thứ hai lại có xu hướng giảm
xuống.
- Hiệp phương sai zero: đây là trường hợp của hai biến ngẫu nhiên độc lập.
Hệ số tương quan
Do độ lớn của hệ số hiệp phương sai phụ thuộc vào tính biến thiên của hai chuỗi tỷ
suất sinh lợi riêng lẻ. Vì vậy covab có thể nhấn mạnh một mối quan hệ mờ nhạt nếu hai
chuỗi tỷ suất sinh lợi riêng lẻ không ổn định, và ngược lại phản ánh mối quan hệ bền
vững nếu chuỗi này rất ổn định. Để lượng hóa và giúp cho người phân tích dễ hình
dung hơn về mức độ mạnh yếu trong mối quan hệ của hai đại lượng ngẫu nhiên, người
ta đưa ra công thức tính hệ số tương quan để giới hạn hệ số hiệp phương sai trong
khoảng từ –1 (mối tương quan âm hoàn hảo) đến +1 (mối tương quan dương hoàn
hảo).
(7)
Trong đó: : hệ số tương quan của tỷ suất sinh lợi của hai tài sản A, B.
: độ lệch chuẩn của
: độ lệch chuẩn của
2.1.3.3. Lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro của danh mục đầu tư
a, Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư
Tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục của những khoản đầu tư là giá trị trung bình
theo tỷ trọng của tỷ suất sinh lợi mong đợi đối với những khoản đầu tư cụ thể trong
danh mục.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
(8)
Trong đó: là tỉ lệ lợi nhuận mong đợi của chứng khoán i.
là tỉ trọng của chứng khoán i trong danh mục đầu tư.
b, Rủi ro của danh mục đầu tư:
Độ rủi ro của danh mục đầu tư không chỉ phụ thuộc vào độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh
lợi của các tài sản riêng rẽ trong danh mục, mà còn phụ thuộc vào sự tương tác giữa tỷ
suất sinh lợi của các tài sản. Những sự tương tác này được biểu diễn bởi hiệp phương
sai (cov) hay hệ số tương quan ().
Công thức độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư:
(9)
Danh mục đầu tư gồm 2 tài sản:
(10a)
Hay:
(10b)
Công thức trên cho thấy, độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư là một phần giá trị trung
bình của những phương sai riêng lẻ (trong đó tỷ trọng là bình phương) và tỷ trọng hiệp
phương sai giữa những tài sản trong danh mục. Rủi ro danh mục không chỉ bao gồm
phương sai của những tài sản riêng lẻ mà còn hiệp phương sai của các tài sản trong
danh mục. Nhân tố quan trọng được xem xét khi thêm một khoản đầu tư vào danh mục
không phải là chính phương sai của khoản đầu tư đó mà là hiệp phương sai trung bình
với tất cả những khoản đầu tư khác trong danh mục.
Như đã được đề cập ở trên, giá trị của hệ số tương quan nằm trong khoảng từ -1 đến 1.
Do đó có một vài trường hợp cần chú ý như sau:
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
- Khi thì : Đây là một tương quan xác định hoàn toàn, độ
lệch chuẩn của danh mục là giá trị trung bình độ lệch chuẩn của các tài sản theo tỷ
trọng đã được đầu tư. Với tương quan này, đầu tư vào danh mục tài sản này không
thể mang lại lợi ích từ đa dạng hóa danh mục đầu tư.
- Khi thì : rủi ro của danh mục đầu tư
đã được giảm nhờ đa dạng hóa.
- Khi , rõ ràng : đa dạng hóa danh mục
đầu tư cũng giúp làm giảm rủi ro cho nhà đầu tư.
Ta có: khi đó
Suy ra danh mục hoàn toàn không có rủi ro ( ) nhờ việc đa dạng hóa danh mục
đầu tư khi:
và
Như vậy, với bất kỳ hệ số tương quan nào nhỏ hơn 1, danh mục đầu tư sẽ có mức rủi
ro thấp hơn so với tài sản riêng lẻ.
Ta xét một trường hợp đơn giản một danh mục gồm hai tài sản cân bằng rủi ro và tỷ
suất sinh lợi – thay đổi mối tương quan để xem xét sự thay đổi của độ lệch chuẩn của
danh mục.
Xét danh mục P với 2 tài sản A, B:
A B
15% 15%
7% 7%
W 50% 50%
Áp dụng công thức ta tính được độ lệch chuẩn của danh mục khi thay đổi hệ số tương
quan như sau:
Hệ số tương quan Độ lệch chuần
1 7,00%
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
0,5 6,06%
0 4,95%
-0,5 3,5%
-1 0%
Từ danh mục đã cho ta có khi thì tỷ suất sinh lợi kì vọng của danh mục là 7%
đúng bằng trung bình độ lệch chuẩn của các tài sản trong danh mục. Việc kết hợp hai
tài sản này trong một danh mục đầu tư không hề mang lại lợi ích gì.
Sự đồng biến của hai tài sản có tương quan xác định hoàn toàn
Khi hệ số tương quan giảm dần thì danh mục đầu tư có rủi ro sẽ giảm dần, do đó nếu
biết đầu tư vào các tài sản có mức độ tương quan ngược chiều nhau thì rủi ro của toàn
danh mục sẽ giảm dần, mang lại cho ta lợi ích mong muốn của việc đầu tư.
Trong ví dụ đang xét, ta thấy lúc này độ lệch chuẩn của danh mục bằng 0, tương quan
trên là tương quan phủ định hoàn toàn hay tương quan âm hoàn hảo. Lợi ích của việc
đa dạng hóa danh mục đầu tư được đẩy tới giới hạn – rủi ro đã được loại trừ hoàn toàn.
Đây là kết quả lý tưởng cho việc thiết lập danh mục đầu tư.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
Sự biến động ngược chiều của tỷ suất sinh lợi 2 tài sản có tương quan âm hoàn hảo
Trong trường hợp này, hai tài sản có mức biến đổi hoàn toàn trái ngược nhau, khi một
bên có tỷ suất sinh lợi tăng thì bên kia sẽ có tỷ suất sinh lợi giảm với cùng một khối
lượng như nhau và ngược lại. Mức độ chênh lệch của hai tài sản đã được loại bỏ hoàn
toàn và đa dạng hóa đã thật sự hiệu quả.
2.1.4. Lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu
2.1.4.1. Thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro – đường bàng quan.
Hàm hiệu dụng
Mức hữu dụng của danh mục đầu tư là mức độ thỏa mãn và hài lòng mà danh mục đầu
tư mang lại cho nhà đầu tư. Mức hữu dụng của một danh mục đầu tư được đánh giá
theo tương quan giữa tỷ suất lợi nhuận kì vọng và độ rủi ro của danh mục. Mức hữu
dụng được xác định bởi hàm hiệu dụng:
(11)
Trong đó: : mức hữu dụng.
: lợi nhuận kỳ vọng của danh mục.
: phương sai của danh mục.
Hệ số là hệ số đo lường điều chỉnh.
: mức ngại rủi ro của nhà đầu tư.
Mỗi nhà đầu tư khác nhau sẽ có chỉ số khác nhau, tùy thuộc vào tâm lý của nhà đầu
tư và khối lượng tài sản mà họ đang sở hữu.
- : nhà đầu tư yêu thích rủi ro.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
- : nhà đầu tư bàng quan với rủi ro. Họ chỉ ra quyết định đầu tư căn cứ trên
mức độ lợi nhuận.
- : nhà đầu tư ngại rủi ro.
Hàm hiệu dụng cho thấy mức hiệu dụng sẽ tăng lên nếu tỷ suất sinh lợi kỳ vọng tăng
và mức hữu dụng sẽ giảm đi nếu mức độ rủi ro tăng. Những giá trị hữu dụng cao hơn
được gán cho những danh mục đầu tư có mức tương quan “lợi suất - rủi ro” hấp dẫn
hơn. Danh mục có mức tương quan “lợi suất - rủi ro” hấp dẫn hơn là danh mục có mức
rủi ro bằng hoặc thấp hơn danh mục khác nhưng đem lại lợi suất ước tính cao hơn. Các
nhà đầu tư khi xem xét các danh mục đầu tư khác nhau sẽ lựa chọn cho họ danh mục
đầu tư nào đem lại giá trị hữu dụng lớn nhất.
Đường bàng quan (Indiffence Curve)
Đường bàng quan thể hiện các kết hợp “lợi nhuận kỳ vọng – rủi ro” mang lại cho nhà
đầu tư một mức hữu dụng như nhau. Đường bàng quan của mỗi nhà đầu tư riêng lẻ chỉ
rõ sự đánh đổi giữa tỷ suất sinh lợi mong đợi và rủi ro mà anh ta đạt được.
Các danh mục nằm trên đường cong hữu dụng được xem như có tính hấp dẫn ngang
nhau đối với một nhà đầu tư, không có danh mục nào tốt hơn danh mục nào vì chúng
có mức hữu dụng ngang nhau.
Một nhà đầu tư có vô số đường cong hữu dụng và các đường này không cắt nhau. Bởi
vì nhà đầu tư luôn mong tối đa hóa giá trị hữu dụng nếu có cơ hội, nên các đường cong
hữu dụng cao luôn được mong hơn các đường cong hữu dụng thấp hơn.
Rủi ro
Lợi nhuận kỳ vọng
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
Nhà đầu tư càng e ngại rủi ro thì đường cong hữu dụng càng dốc, với hai nhà đầu tư có
sự e ngại rủi ro khác nhau thì các đường cong hữu dụng có thể cắt nhau
Mỗi nhà đầu tư sẽ có rất nhiều đường bàng quan với mức xuất phát lợi nhuận khác
nhau thể hiện quan điểm của họ về rủi ro. Tập hợp những đưởng bàng quan trên sẽ thể
hiện thái độ của những cá nhân riêng biệt với rủi ro.
2.1.4.2. Danh mục đầu tư tối ưu – đường biên hiệu quả
Sau khi xác định các thông số của các tài sản định đầu tư (tỷ suất sinh lợi kỳ vọng, độ
lệch chuẩn, hiệp phương sai, hệ số tương quan), nhà đầu tư có thể xác định đường tập
hợp các cơ hội đầu tư (Investment Opportunity Set – IOS) thể hiện tất cả phương án
đầu tư có thể thực hiện theo các cách phân bổ nguồn vốn đầu tư vào các tài sản trong
danh mục khác nhau. Mỗi điểm trên IOS ứng với một danh mục đầu tư có tỷ suất sinh
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
lợi kỳ vọng và độ lệch chuẩn . Việc đầu tư vào các tài sản theo các tỷ lệ khác
nhau cho ta những điểm khác nhau trên đường IOS.
Đường tập hợp các cơ hội đầu tư - IOS
Một danh mục đầu tư được coi là hiệu quả nếu không tồn tại một danh mục đầu tư nào
khác có cùng độ lệch chuẩn nhưng có mức sinh lời cao hơn và không tồn tại danh mục
đầu tư nào khác có cùng mức sinh lời nhưng có độ lệch chuẩn nhỏ hơn. Tập hợp
những danh mục đầu tư này được gọi là tập hợp danh mục đầu tư hiệu quả thể hiện
bằng đường biên hiệu quả Markowitz.
Tập hợp các danh mục đầu tư tốt nhất cho nhà đầu tư chính là đoạn CB của đường IOS
đều có tỷ suất sinh lợi và mức rủi ro khác nhau, với tỷ suất sinh lợi gia tăng thì rủi ro
sẽ cao hơn. Đó chính đường biên hiệu quả của nhà đầu tư: tập hợp những danh mục
đầu tư có tỷ suất sinh lợi lớn nhất cho mỗi mức độ rủi ro, hoặc rủi ro thấp nhất cho mỗi
mức tỷ suất sinh lợi.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
Tiếp theo, nhà đầu tư sẽ xem xét và lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu trên đường biên
hiệu quả vừa xác định. Điều này phụ thuộc vào thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro
hay mức ngại rủi ro của nhà đầu tư sao cho đảm bảo mục tiêu của nhà đầu tư theo đuổi
là tối đa hóa hữu dụng của khoản đầu tư. Đây là bài toán đi tìm danh mục đầu tư tối đa
hóa mức hữu dụng với ràng buộc là danh mục đầu tư nằm trên đường biên hiệu quả.
Danh mục tối ưu gồm 2 tài sản rủi ro
Danh mục đầu tư tối ưu là danh mục đầu tư nằm trên đường biên hiệu quả, tại đó lợi
ích đem lại cho nhà đầu tư là cao nhất. Nó nằm tại điểm tiếp tuyến giữa đường biên
hiệu quả và đường cong với mức hữu dụng cao nhất. Trên đồ thị mô tả danh mục đầu
tư tối ưu của hai nhà đầu tư có thái độ đối với rủi ro khác nhau. Nhà đầu tư M ngại rủi
ro hơn nhà đầu tư N thể hiện ở độ dốc của đường bàng quan cao hơn. Đối với nhà đầu
tư có thái độ không thích rủi ro mạnh hơn thì danh mục đầu tư tối ưu chính là điểm M,
còn với nhà đầu tư dám chấp nhận rủi ro hơn là điểm N. Điều này cho thấy nhà đầu tư
có xu hướng chấp nhận rủi ro sẽ đầu tư vào danh mục có mức có tỷ suất lợi nhuận kỳ
vọng và độ lệch chuẩn cao hơn.
2.2. Đa dạng hóa danh mục đầu tư và hiệu quả giảm rủi ro
2.2.1. Kết hợp tài sản phi rủi ro vào danh mục đầu tư.
Khi kết hợp một tài sản phi rủi ro với một danh mục các tài sản rủi ro chẳng hạn như các danh mục nằm trên đường hiệu quả Markowitz, ta sẽ có được các kết quả về tỷ suất sinh lợi mong đợi và độ lệch chuẩn như sau.
Giống như tỷ suất sinh lợi của một danh mục hai tài sản rủi ro, tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục bao gồm cả một tài sản phi rủi ro là bình quân có trong số của hai tỷ suất sinh lợi.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
E(Rp) = wf . rf + (1-wf). E(Ri)
Trong đó:
wf Tỷ trọng của tài sản phi rủi ro trong danh mục
E(Ri) Tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục i gồm các tài sản rủi ro
Do phương sai của tài sản phi rủi ro và mối tương quan giữa tài sản phi rủi ro với bất kỳ tài sản rủi ro i đều bằng không, nên khi thay một tài sản phi rủi ro vào danh mục gồm một tài sản phi rủi ro và một danh mục tài sản rủi ro, ta sẽ có được:
Độ lệch chuẩn sẽ là:
Như vậy độ lệch chuẩn của danh mục kết hợp tài sản phi rủi ro với các tài sản rủi ro là tỷ lệ tuyến tính của độ lệch chuẩn danh mục các tài sản rủi ro.
Kết hợp rủi ro và tỷ suất sinh lợi của danh mục gồm tài sản phi rủi ro với các tài sản rủi ro là các kết hợp tuyến tính. Chúng ta có thể đạt được bất kỳ điểm nào dọc theo đường thẳng rf – A bằng việc đầu tư một tỷ lệ danh mục vào tài sản phi rủi ro w f và phần còn lại (1- wf) sẽ đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro ở điểm A trên đường hiệu quả. Các tập hợp có thể có của danh mục ưu thế hơn tất cả các danh mục tài sản rủi ro trên đường hiệu quả bên dưới điểm A vì một danh mục nào đó nằm bên trên đường rf – A có cùng phương sai nhưng lại có tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi của danh mục nằm bên dưới điểm A trên đường hiệu quả ban đầu. Tương tự, chúng ta có thể đạt được bất kỳ điểm nào tên đường rf – B bằng cách đầu tư vào các kết hợp tài sản phi rủi ro và danh mục tài sản rủi ro tại điểm B. Một lần nữa, các kết hợp tiềm năng này có ưu thế hơn tất cả các kết hợp nằm bên dưới B trên đường hiệu quả ban đầu (kể cả đường r f
– A). Chúng ta có thể vẽ các đường thẳng khác từ rf đến đường hiệu quả Markowitz ở những điểm ngày càng cao hơn cho đến khi chúng ta đạt đến một điểm mà ờ đó đường thẳng này sẽ tiếp xúc với đường hiệu quả Markowitz, tại điểm M. Tập hợp các danh mục nằm trên đường (rf – M) có ưu thế hơn tất cả các danh mục nằm dưới điểm M.
Tuy nhiên, một nhà đầu tư vẫn có thể muốn đạt được một tỷ suất sinh lợi cao hơn tại điểm M, lúc này, họ phải chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn. Cách thứ nhất là đầu tư vào một trong số các danh mục tài sản rủi ro trên đường cong hiệu quả nằm xa danh
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
mục tại điểm M. Cách thứ hai là sử dụng đòn bẩy tài chính bằng cách đi vay ở lãi suất phi rủi ro và đầu tư số tiền này vào danh mục tài sản rủi ro M.
Hình: Các khả năng danh mục khi kết hợp một tài sản phi rủi ro với các danh mục tài sản khác nhau trên đường hiệu quả Markowitz
Xem xét trường hợp, bạn vay một số tiền bằng 50% số tiền bạn có với lãi suất phi rủi ro rf, lúc này wf là một tỷ lệ âm -50%. Điều này ảnh hưởng lên rủi ro và tỷ suất sinh lợi như sau:
E(Rp) = wf . rf + (1-wf). E(RM) = -0,5rf + [1-(-0,5)]E(RM) = -0,5.rf + 1,5.E(RM)
σp = (1-wf) σM =1,5 σM
Như vậy cả tỷ suất sinh lợi và rủi ro đều tăng theo đường thẳng tuyến tính r f – M ban đầu và mở rộng về phía bên phải. Các điểm nằm trên đường mở rộng đều có ưu thế hơn hẳn các điểm nằm trên đường hiệu quả Markowitz. Nên ta có một đường hiệu quả mới: đường thẳng từ rf tiếp xúc với điểm M. Đường thẳng này được xem là đường thị trường vốn(CML)
Hình: Đường thị trường vốn CML với giả định vay hoặc cho vay ở lãi suất phi rủi ro
TSSL mong đơi
Đô lêch chuẩn
TSSL phi rủi ro
Cho vay
Đi vay
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
Phần thảo luận về lý thuyết danh mục đã xác định rằng khi hai tài sản có tương quan xác định hoàn toàn với nhau, tập hợp các khả năng có thể có của danh mục sẽ nằm dọc trên một đường thẳng. Đường CML là một đường thẳng vì thế nó có hàm ý rằng tất cả các danh mục nằm trên CML có tương quan dương hoàn toàn với nhau. Ta có thể đầu tư một phần vào tài sản phi rủi ro và phần còn lại vào danh mục tài sản rủi ro M, hoặc đi vay với lãi suất phi rủi ro và đầu tư phần tiền này vào danh mục tài sản rủi ro. Trong cả hai trường hợp, tính khả biến của danh mục đều bắt nguồn tù danh mục rủi ro M. Sự khác biệt duy nhất giữa các danh mục trên đường CML là độ lớn của tính khả biến, tính khả biến này do tỷ lệ phần trăm của danh mục tài sản phi rủi ro trong danh mục kết hợp gây ra.
Danh mục thị trường
Vì danh mục M nằm tại điểm tiếp tuyến nên nó có đường khả năng kết hợp của các danh mục cao nhất và mọi nhà đầu tư đều muốn đầu tư vào đó. Vì thế danh mục M phải bao gồm tất cả các tài sản rủi ro. Nếu có một tài sản rủi ro nào đó không được đưa vào danh mục này, có lẽ là do không có nhu cầu và vì thế nó sẽ không có giá trị.
Nếu một tài sản nào đó chiếm tỷ trong cao trong danh mục M hơn là tỷ trọng được đánh giá theo giá thị trường, lúc đó nhu cầu tăng đối với tài sản này sẽ làm tăng giá của nó cho đến khi giá trị thị trường tương đối trở nên phù hợp tỷ trọng của nó trong danh mục M.
Danh mục bao gồm tất cả các tài sản rủi ro này được gọi là danh mục thị trường. nó không chỉ bao gồm các cổ phần thường của Mỹ mà chứa tất cả các tài sản rủi ro, chẳng hạn cổ phiếu không phải cổ phiếu Mỹ, quyền chọn, bất động sản, tranh nghệ thuật,…Vì danh mục thị trường bao gồm tất cả các tài sản rủi ro nên nó là danh mục đa dạng hóa hoàn toàn có nghĩa là tất cả các rủi ro riêng của mỗi tài sản trong danh mục ( rủi ro không hệ thống) đều được đa dạng hóa.
Đa dạng hóa và loại bỏ rủi ro không hệ thống
Mục đích của đa dạng hóa là làm giảm độ lệch chuẩn của danh mục. Điều này giả sử các chứng khoán tương quan không hoàn toàn với nhau. Một cách lý tưởng, khi bạn thêm vào danh mục các chứng khoán, hiệp phương sai trung bình của danh mục sẽ giảm xuống. Vấn đề lúc này là nên đưa bao nhiêu chứng khoán vào để đạt được danh mục đa dạng hóa hoàn toàn.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
Một loạt các nghiên cứu để kiểm tra độ lệch chuẩn bình quân của các danh mục lớn khác nhau với các cổ phiếu được lựa chọn ngẫu nhiên. Cụ thể là các tác giả đã tính toán độ lệch chuẩn của các danh mục với số lượng cổ phiếu gia tăng dần đến 20 cổ phiếu. Các kết quả cho thấy những cổ phiếu ban đầu mới đưa vào danh mục có tác dụng đa dạng hóa rất nhanh, khoảng 90% lợi ích của đa dạng hóa có ở các danh mục có từ 12 đến 18 cổ phiếu.
Một nghiên cứu sau đó đã so sánh các lợi ích do rủi ro thấp hơn từ việc đa dạng hóa với các chi phí tăng thêm do đưa vào danh mục nhiều chứng khoán hơn. Một danh mục cổ phiếu đa dạng hóa tốt phải có ít nhất 30 cổ phiếu đối với một nhà đầu tư đi vay và 40 cổ phiếu đối với nhà đầu tư cho vay.
Hình: Số lượng cổ phiếu trong một danh mục và độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi danh mục
Tuy nhiên với việc đưa thêm các cổ phiếu có tương quan không hoàn toàn với các cổ phiếu trong danh mục vào danh mục, chúng ta có thể giảm thiểu độ lệch chuẩn của toàn danh mục nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn sự biến thiên. Cuối cùng độ lệch chuẩn của toàn danh mục sẽ đạt tới mức của danh mục thị trường, ở đó sẽ đa dạng hóa tất cả rủi ro không hệ thống, nhưng vẫn còn rủi ro thị trường hay rủi ro hệ thống. Ta có thể đạt được một mức rủi ro hệ thống thấp hơn bằng việc đa dạng hóa quốc tế, khi đó ta đạt đến rủi ro hệ thống quốc tế.
2.2.2. Đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế
Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, các doanh nghiệp và nhà đầu tư
đã phát triển khắp thế giới kéo theo số lượng nhà đầu tư ra nước ngoài ngày càng tăng
cao. Lợi nhuận của các chứng khoán thường ít tương quan giữa các quốc gia hơn so
Độ lệch chuẩn
Số lượng cổ phiếu trong danh mục
Rủi ro không hệ thống
Rủi ro hệ thống
Độ lệch chuẩn của danh mục thị trường
Tổng rủi ro
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
với trong cùng quốc gia. Điều này là do các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế và thậm
chí tâm lý tác động tới lợi nhuận chứng khoán có xu hướng biến đổi giữa các quốc gia,
… dẫn tới tương quan nhỏ của các chứng khoán quốc tế. Mặc khác, chu kỳ kinh doanh
cũng thường có xu hướng lệch pha giữa các quốc gia. Do đó, khi thêm vào danh mục
đầu tư nội địa các chứng khoán quốc tế có hệ số tương quan thấp hơn so với các chứng
khoán trong danh mục nội địa, rủi ro hệ thống của danh mục sẽ có xu hướng giảm. Có
nghĩa là tài sản đầu tư được phân bố toàn cầu có thể đem lại mức thu hồi cao hơn đối
với cùng một mức độ rủi ro, hoặc là đem lại ít rủi ro hơn đối với cùng một mức độ thu
hồi dự tính.
Như vậy, thông qua việc đa dạng hóa quốc tế - nghĩa là đa dạng hóa qua các quốc gia
mà chu kì kinh tế không cùng hệ thống - các nhà đầu tư có thể giảm thiểu khả năng
biến động vốn thu hồi. Nói cách khác, rủi ro có tình hệ thống trong phạm vi kinh tế nội
địa lại không có tính hệ thống trong phạm vi kinh tế toàn cầu. Ví dụ, biến động giá
dầu gây thiệt hại kinh tế Mỹ nhưng lại có lợi cho các nước xuất khẩu dầu, và ngược
lại. Do vậy có thể nói khi thực hiện đa dạng hóa quốc tế sẽ làm rủi ro hệ thống giảm và
do đó rủi ro sẽ giảm.
Sau khi đã chọn một số chứng khóan trên thị trường nội địa, nhà đầu tư tập hợp danh
mục của mình. Mỗi nhà đầu tư sẽ tìm ra một danh mục đầu tư nội địa tối ưu (DP) kết
hợp giữa tài sản không có rủi ro và một danh mục nội địa nằm trên đường giới hạn
hiệu quả. Nhà đầu tư sẽ bắt đầu bằng tài sản phi rủi ro (Rf) và tiến dần theo đường thị
truờng vốn cho đến khi đạt được danh mục DP, là điểm tiếp xúc giữa thị trường vốn và
đường IOS. Đây là danh mục nội địa tối ưu. Danh mục nội địa có rủi ro nhỏ nhất tại
MRDP.
Xác định danh mục đầu tư nội địa tối ưu
(Nguồn: ocw.fetp.edu.vn)
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
Sau khi tiến hành quốc tế hóa danh mục đầu tư nội địa, danh mục đầu tư quốc tế làm
dịch chuyển đường tập hợp các danh mục đầu tư khả thi sang phía trái trên, mang lại
rủi ro thấp hơn cho mỗi mức lợi nhuận kỳ vọng.
Đường IOS dịch chuyển khi quốc tế hóa danh mục đầu tư nội địa
(Nguồn: ocw.fetp.edu.vn)
Nhà đầu tư có thể chọn danh mục tối ưu kết hợp giữa tài sản không rủi ro ban đầu với
danh mục nằm trên đường giới hạn hiệu quả của danh mục đa dạng hóa quốc tế. Danh
mục quốc tế tối ưu (IP) được tìm thấy chính là điểm nằm trên đường thị trường vốn,
kéo dài từ Rf tới điểm tiếp xúc với đường giới hạn hiệu quả.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
2.3. Mối liên hệ với các lý thuyết khác
2.3.1 Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis)
Lý thuyết thị trường hiệu quả là một trong những lý thuyết chính thống, nền tảng của
ngành tài chính. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, lý thuyết này lại
càng tỏ ra mạnh hơn bất kỳ lý thuyết nào, nó là kim chỉ nam cho nhiều học giả phân
tích chứng khoán. Lý thuyết thị trường hiệu quả cho rằng thị trường là hiệu quả, giá cả
thị trường của các cổ phiếu luôn hợp lý, nó phản ánh một cách nhanh chóng tất cả
thông tin liên quan đến cổ phiếu đó, thị trường là một cơ chế định giá hiệu quả và do
đó không tồn tại các chứng khoán bị định giá sai. Do vậy, không cần phải bỏ công tìm
kiếm các chứng khoán bị định giá sai và mua bán chứng khoán một cách thụ động.
Chiến lược đầu tư thụ động tiêu biểu nhất chính là chiến lược khớp chỉ số (Match -
Index - Strategy).
Chính từ lý thuyết này mà sau đó nhiều lý thuyết về tài chính khác đã ra đời. Bên cạnh
lý thuyết đầu tư hiện đại mà đề tài đang nghiên cứu còn có lý thuyết về mô hình định
giá tài sản vốn – CAPM, lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá – APT, mô hình Black –
Scholes về định giá quyền chọn được ứng dụng nhiều trong kinh doanh ngoại hối,…
2.3.2 Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage pricing theory – APT)
Vào thập niên 1970, S.A Ross đã triển khai mô hình APT trong việc mua bán các loại
chứng khoán hàng hoá khối lượng lớn, ngoại tệ giữa các thị trường để hưởng chênh
lệch giá. Lý thuyết APT cho rằng tỷ suất sinh lợi của chứng khoán là một hàm số
tuyến tính của tập hợp các yếu tố có khả năng xảy ra rủi ro đến tỷ suất sinh lợi của
chứng khoán Trong nội dung của APT, kinh doanh chênh lệch bao gồm kinh doanh 2
tài sản, tối thiểu là phải có một tài sản bị định giá sai. Các nhà kinh doanh chênh lệch
bán tài sản đang quá đắt và sử dụng số tiền đó để mua các tài sản đang quá rẻ. Theo
APT, một tài sản bị định giá sai nếu giá hiện tại của nó khác xa với mức giá được chỉ
ra trước trong mô hình. Gía tài sản ngày hôm nay nên bằng với tổng giá trị các dòng
tiền trong tương lai chiết khấu về hiện tại với mức chiết khấu của APT, khi mà tỷ suất
sinh lợi kỳ vọng của tài sản là một quan hệ tuyến tính với các yếu tố khác nhau và sự
rất nhạy cảm của tài sản với sự thay đổi trong mỗi yếu tố được đo lướng bằng hệ số
beta xác định.
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
2.3.3 Lý thuyết tài chính hành vi (behaviroal finance)
Thật ra đã từ lâu, có nhiều nhà kinh tế từng chỉ ra những lỗ hỏng trong lý thuyết thị
trường hiệu quả, đặc biệt là các nhà kinh tế theo trường phái kinh tế học hành vi. Lý
thuyết tài chính hành vi là sự phát triển kết hợp tâm lý học vào tài chính, một phát triển
khá muộn màng trong lĩnh vực tài chính. Nội dung chính của lý thuyết này là sử dụng
các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị
trường chứng khoán. Kể từ khi nhà tâm lý học người Pháp Gabriel Tarde bắt đầu
nghiên cứu về ứng dụng tâm lý học vào khoa học kinh tế từ những năm 1880, thì phải
mất gần 100 năm sau, vào thập kỷ 1980, thì ứng dụng tâm lý trong tài chính mới có
bước phát triển đáng kể (mặc dù trước đó, vào những năm 1930, 1940, những nghiên
cứu của George Kanota cũng đặt nền tảng cho tài chính hành vi với thuật ngữ quan
trọng “kỳ vọng”, nhưng những kết quả của ông khá hạn chế). Năm 1980, hai giáo sư
Sanford Grossman và Joseph Stiglitz chỉ ra một nghịch lý: nếu giá đã phản ánh mọi
thông tin thì vất vả đi tìm thêm thông tin cũng chẳng ích lợi gì nên chẳng ai bỏ công đi
thu thập thông tin cho thị trường. Vì thế chắc chắn sẽ phải xuất hiện tình trạng thiếu
hiệu quả như một động lực để đẩy giá trở về mức quân bình. Giáo sư Myron Scholes
(một trong những cha đẻ của mô hình Black – Scholes) cũng cho rằng thị trường có xu
hướng quay về mức quân bình khi có lực đẩy giá cả rơi khỏi mức này thì lý thuyết thị
trường hiệu quả mới có giá trị. Cũng trong thời gian đó, các tác phẩm của Amos
Tversky và Daniel Kahneman (1979), Richard H.Thaler (1985) và đặc biệt là Robert
Shiller với quyển sách nổi tiếng “Irrational Exuberance” (2000), dự báo chính xác sự
sụp đổ của thị trường cổ phiếu toàn cầu không lâu sau đó, đã tạo bước ngoặt lớn cho
những nhà nghiên cứu tài chính hành vi liên tục đưa ra các nghiên cứu mới. Ngoài ra,
còn phải kể đến một nghiên cứu quan trọng năm 1993 của Jegadeesh và Titman mà
đến nay vẫn là một thách thức cho trường phái “thị trường hiệu quả” là hiệu ứng xu thế
(momentum effect), với ngày càng nhiều phiên bản đề xuất cách tận dụng hiệu ứng
này để kiếm lợi nhuận vượt trội mà rủi ro không cao (phiên bản mới nhất là nghiên
cứu của Sagi và Seasholes vừa công bố trong năm 2007 với những kết quả không thể
giải thích được bằng các mô hình thị trường hiệu quả, lý luận dựa vào rủi ro và tỷ suất
sinh lợi hay kinh doanh chênh lệch giá.
Các nhà kinh tế cũng bắt đầu nghiên cứu những hạn chế của tiềm lực nhà đầu tư như
một rào cản cho lý thuyết thị trường hiệu quả phát huy tác dụng. Ví dụ, những người
ủng hộ lý thuyết này luôn cho rằng các nhà đầu tư khôn ngoan lúc nào cũng có thể
mua bán “trên tay” các nhà đầu tư thiếu thông tin, gây nhiễu thị trường, để đẩy giá về
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
mức phản ánh chính xác giá trị cổ phiếu. Tuy nhiên, người ta đã sớm nhận ra, khả
năng của các nhà đầu tư khôn ngoan như thế là có hạn, vay tiền để chống lại xu hướng
“điên rồ” của thị trường là điều bất khả. Và một khi nhà đầu tư khôn ngoan thấy rằng
giá có thể bị méo mó trong một thời gian dài, họ sẽ nhận ra đi theo xu hướng thị
trường (dù biết là phi lý) có lợi hơn nhiều so với nỗ lực chống lại. Thế là họ chuyển
hướng nương theo xu thế và biết cách nhảy ra sớm nhất một khi thị trường chuyển
hướng. Như thế, chính các nhà đầu tư có đầy đủ thông tin nhất lại là người góp phần
xây dựng các bong bóng tài chính chứ không phải tìm cách chọc thủng chúng.
Như vậy hành vi tài chính là một kiểu tài chính mới, nó giúp bổ sung vào các lý thuyết
tài chính cơ bản bằng cách giải thích về hành vi của quá trình ra quyết định. Ngược lại
với lý thuyết của Markowitz và Sharp, hành vi tài chính giải quyết vấn đề của các cá
nhân và cách mà họ thu thập và sử dụng thông tin. Hành vi tài chính tìm cách để hiểu
và dự đoán được quá trình ra quyết định có quan hệ đến hệ thống thị trường tài chính.
Ngoài ra, nó còn tập trung vào việc áp dụng các nguyên lý tâm lý và kinh tế để cải
thiện việc ra quyết định tài chính (Olsen, 1998).
Một số lý thuyết bộ phận phải kể đến trong lý thuyết tài chính hành vi là:
- Lý thuyết kỳ vọng: Được khám phá bởi Kahneman và Tversky, lý thuyết kỳ vọng là
một lý thuyết được sử dụng để thay thế công thức toán học của lý thuyết tối đa hóa
lợi ích mong đợi. Lý thuyết kỳ vọng thường trình bày hành vi lý trí thật sự dưới cái
chắc chắn. Theo lý thuyết lợi ích mong đợi, những nhà đầu tư không thích rủi ro.
Ngược lại, theo lý thuyết kỳ vọng, sự yêu thích của cá nhân cho lựa chọn đầu tiên
trong xổ số, khi có sự chắc chắn, minh họa những gì mà được gọi là “hiệu quả chắc
chắn”, một sự yêu thích những kết quả chắc chắn. Theo lý thuyết truyền thống nhà
đầu tư thể hiện sự không ưa thích rủi ro. Kahneman và Tversky trình bày rằng mọi
người là những người yêu thích rủi ro đối với những mất mát. Lý thuyết nhằm giải
thích cho những hành vi vô ý thức của nhà đầu tư.
- Tính toán trí óc (mental accounting): Lý thuyết này cho rằng chúng ta có xu hướng
tách riêng các quyết định mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau vào các tài
khoản ảo trong trí tưởng tượng của chúng ta (mental account) và tối đa hoá lợi ích
từng tài khoản. Và vì thế, đôi khi chúng ta đưa ra các quyết định nhìn tưởng là hợp
lý, mà thật ra là sai lầm. Sử dụng tính toán bất hợp lý và định nghĩa hẹp, chúng ta
có thể giải thích nhiều hiện tượng như lựa chọn nghịch với sở thích (preference
reversals), sợ thua lỗ (loss aversion), và hiệu ứng phân bổ tài khoản khá phổ biến,
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
thể hiện cơ bản ở chỗ người ta sẵn sàng thực hiện ngay những lệnh mang lại lời
nhỏ, nhưng trì hoãn không thực hiện lệnh dừng lỗ khi xuất hiện những khoản lỗ
nhỏ.
- Thuyết hối tiếc: giải thích được sự thật rằng các nhà đầu tư trì hoãn bán những cổ
phiếu đang giảm giá trong khi đó lại tăng tốc việc bán những cổ phiếu lên giá
(Shefrin và Statman, 1985). Lý thuyết này lý giải rằng các nhà đầu tư tránh việc
bán những cổ phiếu đang giảm giá để không bị mắc sai lầm và theo cách này họ sẽ
không cảm thấy hối tiếc. Họ bán nhanh các cổ phiếu đang lên giá để không cảm
thấy hối tiếc nếu sau đó cổ phiếu bị giảm giá. Hành vi này được dẫn chứng bằng
cách sử dụng cái dữ liệu thương mại của Ferris, Haugen và Makhija (1988) và
Odean (1996).
- Hành vi bầy đàn (Shiller, 2000): Lý thuyết này lý giải, một phần lí do của việc
phán đoán của con người thì giống nhau tại những thời điểm giống nhau là họ đang
có những phản ứng với thông tin giống nhau. Ảnh hưởng xã hội có một tác động
khổng lồ lên phán đoán cá nhân. Khi con người đối đầu với phán đoán của một
nhóm lớn, họ có xu hướng thay đổi những câu trả lời của họ. Họ đơn giản nghĩ
rằng tất cả những người khác có thể không sai. Họ phản ứng với thông tin mà
nhóm lớn đã có phán đoán khác với họ, đây là hành vi có ý thức. Hành vi bầy đàn
có lẽ được nhận diện trên hầu hết thị trường tài chính trong một hoàn cảnh tâm lý.
Hành vi bầy đàn có thể đóng một vai trò trong việc tạo ra đầu cơ bong bóng bởi vì
có một xu hướng để quan sát người thắng rất gần, đặc biệt biểu hiện tốt lặp đi lặp
lại vài lần. Nó có vẻ hợp lý khi làm sự phân biệt giữa tự nguyện và bắt buộc hành
vi bầy đàn. Nhiều người chơi trên thị trường tài chính có lẽ nghĩ rằng tiền tệ hay
chứng khoán không được định giá đúng, nhưng họ kìm lại hành động trái ngược.
Những người này có lẽ đơn giản cảm thấy rằng nó vô nghĩa khi đấu tranh với bầy
đàn. Đây là một ví dụ của hành vi bầy đàn vững chắc. Họ theo sau đàn không tự
nguyện nhưng để tránh bị giẫm chân nên vì thế họ gắn chặt theo bầy đàn.
2.3.4 Giả thuyết thị trường thích nghi
Một trong những nhà kinh tế đang nỗ lực định nghĩa lý thuyết mới là Andrew Lo, Đại
học MIT, người cho rằng cả hai quan điểm “lý trí” và “hành vi” đều có ưu điểm. Ông
cố gắng dung hoà chúng thành “giả thuyết thị trường thích nghi” với giả định con
người không hoàn toàn theo lý trí cũng không hẳn không ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý.
Họ luôn dùng phương pháp “thử sai”: nếu một chiến lược đầu tư thất bại, họ sẽ dùng
Chương 2
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại Markowitz và mối liên hệ với các lý thuyết khác
một chiến lược khác. Ông dựa nhiều vào ngành tiến hoá nên không tin thị trường là
hữu hiệu mà mang tính cạnh tranh cao. Bởi môi trường hoạt động của thị trường luôn
thay đổi, con người phạm sai lầm khi thích nghi và chiến lược cũ bị lỗi thời, được thay
thế bởi chiến lược mới.
2.3.5 Các lý thuyết khác
Bên cạnh các lý thuyết đã liệt kê ở trên, còn có các lý thuyết khác cũng nhằm mục đích
lý giải cho hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Trong đó có thể kể đến một số lý thuyết
như: Hiệu ứng quy mô lớn (The magnitude issue), Sự lựa chọn thiên vị (The selection
Bias Issue), Hiệu ứng sự may mắn (The lucky event issue), Phân tích chiều hướng
(Trend Analysis) trong ngắn hạn và dài hạn, mô hình phân tích sinh lời, tính bất
thường của thị trường (market anomalies), hiệu ứng công ty nhỏ (Small-firm effect),
hiệu ứng những công ty bị đánh giá thấp (The neglected-firm effect), Hiệu ứng ngày
cuối tuần (Weekend effect), Hiệu ứng tháng giêng (The January effect),…
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Chương 3:
CUNG CẦU TÀI SẢN TÀI CHÍNH
CÁC MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TÀI CHÍNH
3.1. Tổng quan về cung cầu tài sản tài chính
3.1.1. Khái niệm tài sản tài chính
Tài sản tài chính là những tài sản có giá trị không dựa vào nội dung vật chất của nó
(giống như bất động sản gồm nhà cửa, đất đai) mà dựa vào các quan hệ trên thị trường.
Nó bao gồm các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi ngân hàng, tiền tệ
và các giấy tờ có giá khác.
3.1.2. Cung cầu tài sản tài chính
3.1.2.1 Các yếu tố quyết định cầu tài sản
Biến số Sự thay đổi biến số Sự thay đổi của lượng cầu
Của cải
Lợi tức dự kiến
Rủi ro
Tính thanh khoản
3.1.2.2 Cung cầu trong thị trường trái phiếu
a, Đường cầu (BD)
Ta xem xét trái phiếu chiết khấu sau 01 năm. Lợi tức thu được được tính bằng công thức:
I = re = (F-P)/P
Trong đó: I: lãi suất
re : lợi tức dự kiến
F: Mệnh giá
P: giá mua ban đầu của trái phiếu
Công thức này cho thấy mỗi giá trị cụ thể của lãi suất phải tương ứng với một mức giá
trái phiếu nhất định. Chẳng hạn nếu trái phiếu 1000 đô la được bán với giá 950 đô la
thì lãi suất và lợi tức dự kiến là: (1000-950)/950 = 0.053 = 5.3%.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Để biểu thị giá trái phiếu và lãi suất tương ứng cùng một lúc, hình dưới vẽ hai trục
tung. Trục tung bên trái ghi giá trái phiếu, trong đó giá trái phiếu tăng từ 750$ lên
1000$. Trục tung bên trái ghi lãi suất trái phiếu, biến số tăng từ 0% tới 33%. Trục tung
bên trái và bên phải di chuyển theo hướng ngược nhau vì giá trái phiếu và lãi suất luôn
có mối quan hệ nghịch biến nhau: khi giá trái phiếu tăng lãi suất của nó sẽ giảm.
Tại mức giá 900 đô la, lãi suất và lợi tức dự kiến: (1000-900)/900 = 11.1%. Điểm B
trong hình cho thấy lượng cầu trái phiếu tại mức giá 900$ đã là 200. Với giá trái phiếu
850 đô la (lãi suất và lợi tức dự kiến 17.6%) lượng cầu tăng lên 300 (điểm C có lượng
cầu lớn hơn điểm tại B). Đường BD là đường nối các điểm này lại với nhau. Nó dốc
xuống và cho thấy rằng tại mọi mức giá thấp hơn (những thứ khác không thay đổi)
lượng cầu đều cao hơn.
b, Đường cung (đường BS)
Giả thiết tất cả các biến số kinh tế khác ngoài giá trái phiếu và lãi suất giữ không đổi.
Đường cung trái phiếu chỉ ra mối quan hệ giữa lượng cung và giá trái phiếu khi tất cả
các biến số kinh tế khác giữ không đổi. Đường cung có dạng dốc lên thông thường chỉ
ra rằng khi giá tăng (các biến số khác không đổi) lượng cung sẽ tăng.
c, Trạng thái cân bằng thị trường
Trạng thái cân bằng thị trường xảy ra khi lượng mà mọi người sẵn sàng mua bằng với
lượng mà mọi người sẵn sàng bán tại một mức giá nhất định. Khi đó :
BD = BS
Trong mô hình trạng thái cân bằng xảy ra tại điểm C tại đây giá trái phiếu 850 đô la
(lãi suất bằng 17.6%) và khối lượng trái phiếu bằng 300 tỷ đô la.
Giá trái phiếu, đô la
1,000
950
900
P* =850
800
750
Lãi suất, %
0,0
5,3
11,1
17,6 = i*
25,0
33,0
100 200 300 400 500
Lượng trái phiếu, Qb (tỷ đô la)
B
B
C
F
GD
E
H
I
BS
BD
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Nếu giá trái phiếu cao hơn giá cân bằng hay gọi là tình trạng dư cung. Nếu giá trái
phiếu thấp hơn giá cân bằng hay còn gọi là tình trạng dư cầu. Tại mức giá cân bằng thì
các sức ép của thị trường được giải tỏa.
3.1.2.3 Cung cầu thị trường vốn vay
Phương pháp phân tích thị trường trái phiếu còn được trình bày bằng hình thức khác,
đó là cung cầu về vốn vay. Nhược điểm của đồ thị trong phân tích cung cầu tài sản tài
chính là lãi suất thay đổi theo hướng bất thường: khi chúng ta di chuyển lên phía trên
của trục bên phải, lãi suất giảm. Bởi vì các nhà kinh tế quan tâm nhiều tới giá trị của
lãi suất mà không phải giá trái phiếu. Mô hình 1 được biểu diễn lại như sau:
Cầu về trái phiếu (BD) tương đương cung vốn vay (S) và cung về trái phiếu (BS)
tương đương cầu về vốn vay (D). Khi i tăng chúng ta di chuyển lên phía trên của trục
tung điều này ngược với mô hình 1.
a, Những thay đổi trong lãi suất cân bằng, dịch chuyển đường cầu trái phiếu
Cung cầu tài sản tài chính chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Khi các yếu tố này thay
đổi, sẽ có dịch chuyển của cả đường cầu (đường cung) xảy ra khi lượng cầu (lượng
cung) thay đổi tại mỗi mức giá (lãi suất) là do sự thay đổi của các yếu tố khác ngoài
giá (lãi suất). Các yếu tố tác động đến cầu tài sản tài chính được tóm tắt như sau:
= S
= D
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Biến số Sự thay đổi trong biến số
Sự thay đổi của lượng cầu
Sự dịch chuyển của đường cầu
Của cải
Lãi suất dự kiến
Lạm phát dự kiến
Rủi ro trái phiếu
Tính thanh khoản
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
Giảm
Giảm
Giảm
Tăng
P tăng, ra ngoài, i tăng
P tăng, vào trong, i tăng
P tăng, vào trong., i tăng
P tăng, vào trong, i tăng
P tăng, ra ngoài, i tăng
Ví dụ: khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng trong giai đoạn mở rộng chu kỳ kinh
doanh và của cải tăng, lượng cầu trái phiếu tăng đường cầu dịch chuyển sang bên
phải. P và i tăng theo hướng ngược nhau, P tăng và I giảm.
b, Sự dịch chuyển đường cung trái phiếu
Bảng tóm tắt các yếu tố thay đổi của cung tài sản tài chính:
Biến số Sự thay đổi
trong biến số
Sự thay đổi
của lượng
cung
Sự dịch chuyển của
đường cung
Khả năng sinh lời dự kiến
Lạm phát dự kiến
Thâm hụt của chính phủ
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
P tăng, ra ngoài, i tăng
P tăng, ra ngoài, i tăng
P tăng, ra ngoài, i tăng
E
D
C
Giá trái phiếu, đô la
1,000
950
900
P* =850
800
750
Lãi suất, %
0,0
5,3
11,1
17,6 = i*
25,0
33,0
100 200 300 400 500 600 700
Lượng trái phiếu, Qb (tỷ đô la)
B’
C’
A
D’
A’
BD2BD1
E’
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
- Khả năng sinh lời dự kiến của các cơ hội đầu tư: khi một doanh nghiệp dự kiến
có thể kiếm được lợi nhuận từ nhà máy và thiết bị đầu tư, nó sẵn sàng vay nợ hơn
để tài trợ đầu tư. Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng số cơ hội đầu tư có lãi
sẽ nhiều và lượng cung về trái phiếu tăng.
- Lạm phát dự kiến: đối với một mức lãi suất nhất định, khi lạm phát dự kiến tăng
chi phí thực tế của khoản vay nợ giảm. Do vậy, lượng cung về trái phiếu sẽ tăng ở
bất kỳ mức giá và lãi suất cho trước. Như vậy sự gia tăng trong lạm phát dự kiến
làm tăng cung trái phiếu và làm cung trái phiếu dịch sang phải.
- Hoạt động của chính phủ: các hoạt động của chính phủ có thể tác động đến
cung của trái phiếu theo nhiều cách khác nhau. Kho bạc Mỹ phát hành trái phiếu để
tài trợ thâm hụt ngân sách. Khi thâm hụt lớn chính phủ bán nhiều trái phiếu hơn để
bù đắp thâm hụt và như vậy cung trái phiếu càng lớn, dịch cbuyển về bên phải.
Lãi suất cân bằng thay đổi khi một trong hai đường cầu, đường cung tài sản tài chính
dịch chuyển hoặc cả hai cùng dịch chuyển.
3.1.2.4 Mô hình ưu thích sự thanh khoản
Mô hình ưa thích sự thanh khoản xác định lãi suất cân bằng dựa trên cung và cầu tiền.
Nó áp dụng trong thị trường tiền tệ.
Keynes giả định rằng có 02 loại tài sản con người cất giữ để làm của cải. Đó là tiền và
trái phiếu. Bởi vậy tổng của cải của nền kinh tế bằng khối lượng trái phiếu cộng với
khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế. Điều này hàm ý tổng của cải phải bằng lượng
cung về trái phiếu (BS) cộng lượng cung về tiền (MS). Lượng cầu về trái phiếu (BD)
và lượng cầu tiền (MD) cũng phải bằng tổng của cải bởi vì mọi người không thể mua
tài sản hơn khả năng nguồn lực của mình và đương nhiên họ cũng không muốn nắm
giữ ít hơn. Kết quả là:
BD + MD = BS + MS, khi đó BS – BD = MD – MS.
Phương trình này nói rằng thị trường tiền tệ nằm trong trạng thái cân bằng MS = MD
thì thị trường trái phiếu cũng đạt trạng thái cân bằng BS = BD.
Do định nghĩa về tiền của Keynes sử dụng bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn
nên ông giả thiết tiền có tỷ suất lợi tức bằng 0. Trái phiếu là tài sản duy nhất khác tiền
trong mô hình có lợi tức dự kiến bằng i. Khi lãi suất tăng (các yếu tố khác không đổi)
lợi tức dự kiến thu được từ tiền giảm tương đối so với lợi tức dự kiến thu được từ trái
phiếu do đó nó làm giảm cầu tiền.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Giả định ngân hàng trung ương kiểm soát mức cung tiền tại mức cố định 300 tỷ đô la,
do đó, đường cung tiền (MS) thẳng đứng. Trạng thái cân bằng, tức điểm có lượng cầu
tiền bằng lượng cung tiền, xảy ra tại điểm C. Khi đó: MD = MS, lãi suất cân bằng i=
15%.
Dịch chuyển đường cầu tiền
Hiệu ứng thu nhập: Theo Keynes có hai lý do thu nhập tác động đến cầu tiền là:
- Khi nền kinh tế mở rộng và thu nhập tăng, của cải tăng và mọi người muốn giữ
nhiều tiền hơn với tư cách là phương tiện cất giữ giá trị.
- Khi nền kinh tế mở rộng và thu nhập tăng mọi người muốn thực hiện nhiều giao
dịch hơn và phải sử dụng nhiều tiền hơn.
Hiệu ứng về giá: Keynes cho rằng mọi người quan tâm đến sức mua của đồng tiền mà
họ nắm giữ. Khi mức giá tăng họ không thể mua nhiều hàng hóa, dịch vụ như cũ. Để
có được khối lượng hàng hóa như trước mọi người nắm giữ tiền nhiều hơn.
Dịch chuyển đường cung tiền
Đường cung tiền dịch chuyển khi chịu sự tác động của các yếu tố ngoài lãi suất, sự tác động của các
yếu tố này được tóm tắt như sau:
Biến sốSự thay đổi trong biến số
Cầu tiền (MD) hoặc cung tiền (MS)
Sự thay đổi lãi suất cân bằng
Sự dịch chuyển của đường cung tiền
Thu nhập
Mức gía
Cung tiền
Tăng
Tăng
Tăng
MD tăng
MD tăng
MS tăng
Tăng
Tăng
Giảm
MD lên trên
MD lên trên
MS ra ngoài
- Những thay đổi thu nhập: Khi thu nhập tăng trong thời kỳ mở rộng kinh doanh,
thì cầu tiền tăng, lãi suất tăng
- Sự thay đổi trong mức giá: Khi giá tăng, giá trị tính bằng cái mà nó có thể mua
sẽ thấp hơn.. Trạng thái cân bằng sẽ dịch chuyển lên do đó lãi suất tăng.
- Sự thay đổi cung tiền: sự gia tăng trong cung tiền do chính sách tiền tệ mở rộng
hàm ý đường cung dịch chuyển sang phải, do đó, lãi suất giảm.
3.2 Các mô hình đánh giá tài sản tài chính
3.2.1. Mô hình CAPM
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
3.2.1.1. Những giả định của mô hình CAPM
Trong mô hình CAPM, chúng ta lưu ý có những giả định sau:
- Các nhà đầu tư nắm giữ danh mục chứng khoán đa dạng hóa hoàn toàn. Do đó
những đòi hỏi về tỷ suất sinh lợi của nhà đầu tư bị tác động chủ yếu bởi rủi ro hệ
thống của từng chứng khoán chứ không phải là rủi ro tổng thể.
- Các chứng khoán được trao đổi tự do trong thị trường vốn hữu hiệu, thể hiện ở
chỗ nhà đầu tư được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai, chi phí giao dịch
không đáng kể, không có thuế, không có lạm phát hay bất kỳ thay đổi nào trong lãi
suất, hoặc lạm phát được phản ánh một cách đầy đủ, không có những hạn chế đầu
tư và không có nhà đầu tư nào đủ lớn để ảnh hưởng đến giá cả một loại chứng
khoán nào đó.
- Các nhà đầu tư có thể vay nợ hoặc cho vay với lãi suất phi rủi ro và lãi suất này
liên tục không đổi theo thời gian.
- Tất cả các nhà đầu tư có 2 cơ hội đầu tư: đầu tư vào chứng khoán phi rủi ro và
đầu tư vào danh mục cổ phiếu thường trên thị trường.
- Tất cả các nhà đầu tư thích lựa chọn chứng khoán có tỷ suất sinh lợi cao nhất
tương ứng với mức độ cho trước của rủi ro hoặc số lượng rủi ro thấp nhất với mức
sinh lợi cho trước.
- Tất cả các nhà đầu tư đều có kỳ vọng thuần nhất liên quan đến tỷ suất sinh lợi
kỳ vọng, phương sai và hiệp phương sai.
- Thị trường vốn ở trạng thái cân bằng
3.2.1.2. Nội dung mô hình CAPM
Giả sử rằng thị trường vốn hiệu quả và nhà đầu tư đa dạng hoá danh mục đầu tư sao
cho rủi ro không hệ thống không đáng kể. Như vậy, chỉ còn rủi ro hệ thống ảnh hưởng
đến tỷ suất sinh lợi của chứng khoán. Chứng khoán có Beta càng lớn thì rủi ro càng
cao, do đó, đòi hỏi lợi nhuận cao để bù đắp rủi ro. Mô hình CAPM thể hiện mối quan
hệ giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro đã được 3 nhà kinh tế đưa ra bằng phương trình sau:
R = Rf + β x (Rm – Rf)
Hay: R - Rf = β x (Rm – Rf)
Công thức này được gọi là mô hình định giá tài sản đầu tư (CAPM), có dạng hàm số
bậc nhất y = ax + b. Bởi vì tỷ suất sinh lợi trung bình trên thị trường cao hơn tỷ suất
sinh lợi phi rủi ro tính trung bình trong một thời kỳ dài nên xem như là dương.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Đường thị trường chứng khoán SML (The security market line) là biểu thị bằng đồ thị
của mô hình định giá tài sản đầu tư CAPM. Cũng giống như bất kỳ đường thẳng nào
khác, đường SML có độ dốc và hệ số chặn Rf là tỷ suất sinh lợi phi rủi ro. Bởi vì Beta
của chứng khoán nằm trên trục hoành nên là độ dốc. Đường SML có độ dốc đi lên nếu
tỷ suất sinh lợi thị trường lớn hơn tỷ suất sinh lợi phi rủi ro.
Mô hình CAPM vừa trình bày trên ứng dụng trong trường hợp xác định tỷ suất sinh lợi
của từng chứng khoán riêng lẻ. Tuy nhiên mô hình này vẫn luôn đúng trong trường
hợp danh mục đầu tư. Để minh họa cách tính toán tỷ suất sinh lợi mong đợi, hãy xem
các cổ phiếu trong một danh mục đầu tư trong ví dụ sau, giả sử chúng ta đã tính toán
được các Beta và tương ứng là tỷ trọng của từng loại cổ phiếu trong danh mục đầu tư:
A 0.5 20%
B 0.7 25%
C 1 10%
D 1.2 30%
E -0.5 15%
0.8
1
S
M
Beta của chứng khoán
Danh mục thị trường
Rf
Rm
Tỷ suất sinh lợi của chứng KKKKKHkhoán Đường thị trường chứng khoán (SML)
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Giả sử chúng ta mong muốn tỷ suất sinh lợi phi rủi ro của nền kinh tế là 8% và tỷ suất sinh lợi trên
danh mục thị trường là 12%. Điều này sẽ dẫn đến một phần bù rủi ro là 12% - 8% = 4%. Với dữ liệu
đầu vào này, phương trình đường SML sẽ xác định tỷ suất sinh lợi mong đợi của 5 cổ phiếu trên như
sau:
A 8% + (12% - 8%) x 0,5 = 10%
B 8% + (12% - 8%) x 0,7 = 10,8%
C 8% + (12% - 8%) x 1 = 12%
D 8% + (12% - 8%) x 1,2 = 12,8%
E 8% + (12% - 8%) x (-0,5) = 6%
Khi đó suất sinh lợi của danh mục đầu tư = (20%x10%) + (25%x10,8%) + (10%x12%)
+ (30%x12,8%) + (15%x6%) = 10,64%
Nếu áp dụng mô hình CAPM để xác định tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục đầu
tư, chúng ta có: Beta của danh mục đầu tư là: (20% x 0,5) + (25% x 0,7) + (10% x 1,0)
+ (30% x 1,2) + (15% x -0,5) = 0,66. Khi đó, áp dụng mô hình CAPM chúng ta có tỷ
suất sinh lợi mong đợi của danh mục đầu tư là: = 8% + (12% - 8%) x 0,66 = 10,64%
Hai cách tính đem lại kết quả như nhau. Điều đó chứng tỏ mô hình CAPM vẫn có thể
áp dụng trong trường hợp tính tỷ suất sinh lợi mong đợi của từng chứng khoán riêng lẻ
và của cả danh mục đầu tư.
3.2.1.3. Ưu - nhược điểm của mô hình:
Ưu điểm:
- Mô hình CAPM đơn giản và có thể ứng dụng được trên thực tế. Đối với quản trị tài
chính, CAPM giúp cho các nhà đầu tư có cái nhìn sâu sắc về rủi ro của mỗi loại
chứng khoán riêng lẻ cũng như trong phạm vi một danh mục đầu tư đã được đa
dạng hóa tốt.
- Một ưu điểm khác của CAPM là hệ số Beta, dù rằng mô hình CAPM không mô tả
hoàn toàn chính xác, nhưng có thể nói rằng hệ số Beta là một yếu tố quan trọng
trong mô tả hết sức cụ thể về rủi ro của chứng khoán và là một yếu tố quyết định
quan trọng của tỷ suất sinh lợi. Để đạt được thành công các nhà quản trị tài chính
cần hiểu rõ những ứng dụng của mô hình CAPM trước khi đưa ra các quyết định
đầu tư.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Nhược điểm:
- Ảnh hưởng của qui mô công ty – Người ta phát hiện rằng cổ phiếu của công ty có
giá trị thị trường nhỏ (market capitalization = price per share x number of share)
đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường lớn, nếu những
yếu tố khác như nhau.
- Ảnh hưởng của tỷ số PE và MB – Người ta cũng thấy rằng cổ phiếu của những
công ty có tỷ số PE( price/earning ratio) và tỷ số MB (market-to-book value ratio)
thấp đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE và MB cao.
- Ảnh hưởng tháng Giêng – Những người nào nắm giữ cổ phiếu trong khoảng thời
gian từ tháng 12 đến tháng 1 thường có lợi nhuận cao hơn so với những tháng
khác. Tuy vậy, người ta cũng lưu ý mặc dù ảnh hưởng tháng Giêng được tìm thấy
trong nhiều năm nhưng không phải năm nào cũng xảy ra.
3.2.1.4. Quan hệ giữa lý thuyết thị trường vốn và mô hình định giá tài sản CAPM
Phương trình đường thị trường vốn CML: = Rf + (RM – Rf) phản ánh mối quan hệ giữa
rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục đầu tư. Qua chứng minh, chúng ta có
thể kết luận rằng mô hình định giá tài sản đầu tư chỉ là một trường hợp đặc biệt của lý
thuyết thị trường vốn mà thôi.
Chúng ta có thể xây dựng công thức đại số biểu diễn đường thị trường vốn. Giả sử nhà
đầu tư tạo ra danh mục gồm wF phần trăm đầu tư vào tài sản phi rủi ro và wM phần
trăm đầu tư vào danh mục thị trường. Ta có: wf + Wm = 100% = 1hay là wf = 1− Wm.
Lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro của danh mục đầu tư này là bao nhiêu? Như đã trình bày
trong bài trước chúng ta có lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư: Rp = wf Rf + WmRm.
Mà wf = 1− Wm, do đó:
Trong bài trước chúng ta cũng đã biết cách tính phương sai của danh mục đầu tư như
sau:
Vì F là tài sản phi rủi ro nên độ lệch chuẩn bằng 0. Do đó:
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Từ đây chúng ta có thể suy ra:
Khi đó:
Nếu chúng ta thay danh mục đầu tư bằng một chứng khoán cá biệt j, thì công thức trên
có thể viết thành:
Ta đặt:
Khi đó:
Phương trình trên chính là phương trình biểu diễn đường thị trường chứng khoán
(SML) hay chính là nội dung mô hình định giá tài sản vốn. Ngoài ra, có thể thấy rằng
mô hình định giá tài sản vốn chỉ là một trường hợp đặc biệt của lý thuyết thị trường
vốn, khi chúng ta thay thế danh mục đầu tư Q bằng chứng khoán cá biệt j nào đó.
3.2.1.5. Mô hình CAPM trong thị trường Việt Nam:
Việc ứng dụng các mô hình CAPM để dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán là rất cần
thiết đối với các nhà đầu tư mang tính chuyên nghiệp đối với hầu hết các thị trường
vốn trên thế giới và Việt Nam cũng vậy. Tuy nhiên, Thị trường vốn Việt Nam mới
được hình thành và vẫn chưa được hoàn thiện, những diễn biến trên thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian qua thể hiện những khó khăn trong bước đầu phát
triển của thị trường vốn. Đa số các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện nay đều thực hiện quyết định đầu tư một cách cảm tính. Do vậy, việc áp dụng
CAPM ở Việt Nam còn những khó khăn như sau:
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
- Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam không đa dạng về chủng
loại, ít ỏi về số lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có
thể yên tâm đầu tư lâu dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ phía Nhà
nước nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa cho thị trường chứng khoán nhưng
hiệu quả thực sự là chưa cao. Vì thế, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hấp
dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có nguồn lực tài
chính lớn.
- Thứ hai, mô hình CAPM là mô hình dưới dạng một hàm hồi quy trong đó biến độc
lập là tỷ suất sinh lợi của danh mục đại diện cho toàn bộ thị trường, còn biến phụ
thuộc là tỷ suất sinh lợi của chứng khoán cá biệt. Tại các nước phát triển trên thế
giới vì thị trường chứng khoán bao gồm rất nhiều chứng khoán khác nhau, nên
danh mục thị trường đồng nghĩa với danh mục cổ phiếu lập chỉ số chính của thị
trường cổ phiếu, chẳng hạn như ở Mỹ là S&P 500, ở Pháp là CAC 40, ở Nhật là
Nikkei 225, ở Việt Nam chỉ có chỉ số VN Index. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam số
lượng chứng khoán của công ty và của ngân hàng được niêm yết chưa nhiều nên
chưa thể xem như là danh mục đại diện cho toàn bộ thị trường.
- Thứ ba, mô hình CAPM sử dụng hệ số Beta để liên kết khả năng sinh lợi với hệ số
Beta. Coi Beta là phương tiện để đo rủi ro không phân tán được. Thế nhưng Việt
Nam hiện nay đang tồn tại một vấn đề lớn nữa là sự thiếu vắng hệ số Beta trong
việc phân tích rủi ro của các chứng khoán. Nói cách khác, các nhà đầu tư chưa chú
trọng đến hệ số Beta trong việc đánh giá chứng khoán và ở Việt Nam hiện nay
chưa có một tổ chức nào chuyên về vấn đề tính toán và công bố Beta.
- Thứ tư, mô hình CAPM ở thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ vận hành tốt khi
các nhà đầu tư có được thông tin ngang bằng nhau, thông tin không bị tiết lộ ra bên
ngoài và vì thế minh bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết để phát triển thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam chưa đáp ứng được
điều này.
3.2.2. Mô hình Gordon
3.2.2.1. Nội dung mô hình Gordon
Cổ tức tăng trưởng với tốc độ cố định
Mô hình này áp dụng để định giá cổ phiếu đang trong giai đoạn ổn định với tốc độ
tăng trưởng cổ tức không đổi và bền vững. Một số giả định trong mô hình Gordon:
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
- Cổ tức tăng trưởng với tỷ lệ không đổi mãi mãi.
- Tốc độ tăng trưởng (g) nhỏ hơn mức lợi tức cần thu được từ vốn chủ sở hữu.
- Mô hình Gordon được xây dựng dựa trên công thức tổng quát về hiện giá dòng
tiền tương lai của cổ phiếu:
(1)
Trong đó: : Giá trị ban đầu của cổ phiếu
: Cổ tức được trả thời điểm gần nhất
Tốc độ tăng được dự kiến không đổi của cổ tức
: Mức lợi tức cần thu được
Từ công thức trên, Gordon biến đổi thành 1 công thức đơn giản hơn:
=
Công thức trên đây chính là mô hình Gordon.
3.2.2.2 Ưu, nhược điểm của mô hình Gordon
Mô hình Gordon có một số ưu điểm như sau:
- Áp dụng cho cổ phiếu đang trong giai đoạn ổn định với tốc độ tăng trưởng cổ
tức không đổi và bền vững.
- Thay vì tính giá trị hiện tại của từng dòng cổ tức và cộng lại, Giáo Sư Myrin
Gordon đã phát triển công thức tính giá trị nội tại hết sức đơn giản.
Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, mô hình Gordon cũng tồn tại một số nhược điểm:
- Khi tỷ lệ tăng trưởng cổ tức thay đổi, mô hình Gordon cần bổ sung thêm.
Cổ tức tăng trưởng không ổn định-Mô hình chiết khấu cổ tức nhiều giai đoạn
Mô hình cổ tức tăng trưởng không ổn định là mô hình nhiều giai đoạn tăng trưởng, có
2 trường hợp như sau:
- Cổ tức tăng trưởng với tỷ lệ không dổi trong một số năm nhất định (giai đoạn 1),
sau đó chuyển sang tỷ lệ g thấp hơn và ổn định lâu dài (giai đoạn 2).
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
- Cổ tức tăng trưởng với tỷ lệ không đổi trong một số năm nhất định (giai đoạn 1),
sau đó chuyển sang tỷ lệ g cao hơn ( nhỏ hơn ) và ổn định lâu dài (giai đoạn 2).
Công thức tính :
Trong đó :
V0 : Giá trị vốn chủ sở hữu của công ty thời điển hiện tại
DIVt : Cổ tức dự kiến năm t
r : Suất sinh lợi mong muốn
Vn : Giá trị vốn chủ sở hữu của công ty cuối năm n
gn : Tỷ lệ tăng trưởng ( mãi mãi) san năm n
Ví dụ: Sử dụng các dữ liệu về cổ tức công ty X với cổ tức năm 1 là 1,5 tỷ đồng, giả sử
tỷ lệ tăng trưởng cổ tức của năm 2, 3 của công ty là g1=8%, và của năm 4, 5 là g2=7%
và từ năm 6 trở đi thì tăng trưởng ổn dịnh là g3= 5% / năm
Cổ tức hàng năm của công ty là
DIV1=1,5 tỷ đồng
DIV2= DIV1(1+g1) =1,5(1+0,08)=1,62 tỷ đồng
DIV3= DIV1(1+g1)2=1,5(1+0,08)2= 1,7496 tỷ đồng
DIV4= DIV3(1+g2)= 1,7496(1+0,07)=1,872 tỷ đồng
DIV5= DIV3(1+g2)2=1,7496 (1+0,07)2=2,003 tỷ đồng
DIV6= DIV5(1+g3)= 2,003(1+0,05)=2,103 tỷ đồng
Khi đó, giá trị vốn chủ sở hữu của công ty ở thời điểm hiện tại là:
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
- Mô hình có thể định giá cổ phiếu trong các trường hợp g =0 hay g thay đổi. Tuy
nhiên, mô hình không áp dụng được trong trường hợp công ty giữ lại toàn bộ lợi
nhuận cho tái đầu tư và không trả cổ tức cho cổ đông.
3.2.3. Mô hình DCF
Mô hình DCF (discounted cash flows model) có tên gọi đầy đủ là mô hình chiết khấu
dòng tiền, nó được xây dựng dựa trên nền tảng của khái niệm thời gian tiền tệ và quan
hệ giữa lợi nhuận - rủi ro. Mô hình DCF có thể biểu diễn dưới dạng biểu thức toán học
như sau:
Trong đó, CFt là dòng tiền kỳ vọng sẽ có được trong tương lai, k là suất chiết khấu
dùng để chiết khấu dòng tiền về hiện giá, và n là số thời đoạn của thời kỳ hoạch định.
Mô hình DCF có thể ứng dụng rộng rãi trong nhiều loại quyết định tài chính công ty,
đặc biệt là quyết định đầu tư.
3.2.3.1 Các bước thực hiện mô hình DCF
Để ứng dụng được mô hình DCF, nói chung bạn cần thực hiện các bước sau đây:
- Thứ nhất là ước lượng chính xác dòng tiền qua các thời đoạn từ 0 đến n
- Thứ hai là ước lượng chính xác suất chiết khấu dùng làm cơ sở để xác định hiện
giá của dòng tiền ở thời điểm 0
- Thứ ba là nhập các thông số vừa ước lượng vào bảng tính Excel
- Thứ tư là sử dụng hàm tài chính để xác định PV hay NPV tùy theo mục tiêu
phân tích.
- Thứ năm là ra quyết định dựa vào kết quả PV hay NPV vừa xác định.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
Hình: Các bước tiến hành khi ứng dụng mô hình DCF
3.2.3.2 Phạm vi ứng dụng
Mô hình DCF có thể ứng dụng trong các phạm vi dưới đây:
- Định giá tài sản, bao gồm tài sản hữu hình và tài sản tài chính, để ra quyết định
nên mua hay bán tài sản đó
- Phân tích, đánh giá và ra quyết định có đầu tư hay không vào một dự án đầu tư
- Phân tích, đánh giá và ra quyết định nên mua hay thuê một tài sản cố định.
- Phân tích, đánh giá và ra quyết định nên mua hay không mua một doanh
nghiệp.
3.2.3.3 Ước lượng dòng tiền
Khi ứng dụng mô hình DCF đối với những dự án phức tạp, trước tiên bạn cần lưu ý
đến việc khảo sát thị trường và thu thập những thông tin cần thiết để làm cơ sở xác
định các thông số cần thiết phục vụ cho việc ước lượng dòng tiền. Việc ước lượng
dòng tiền ra thành:
- Ước lượng dòng tiền ở thời điểm hay giai đoạn đầu tư
- Ước lượng dòng tiền ở giai đoạn hoạt động của dự an
- Ước lượng dòng tiền khi kết thúc dự án.
Cuối cùng để tiên lượng được mức độ chính xác của dòng tiền có thể sử dụng một số
công cụ phân tích như phân tích độ nhạy, phân tích tình huống và phân tích mô phỏng
theo mức độ thay đổi của các thông số làm cơ sở ước lượng dòng tiền.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
3.2.3.4 Ước lượng suất chiết khấu
Ngoài việc ước lượng dòng tiền, để có thể ứng dụng được mô hình DCF bạn còn phải
ước lượng được suất chiết khấu làm cơ sở để xác định hiện giá của dòng tiền. Suất
chiết khấu ở đây chính là tỷ suất lợi nhuận mà nhà đầu tư đòi hỏi khi đầu tư vào tài
sản hoặc dự án mà chúng ta đang xem xét. Về lý thuyết, có ba cách ước lượng suất
chiết khấu, bao gồm:
- Sử dụng mô hình định giá tài sản vốn
- Sử dụng mô hình tăng trưởng cổ tức
- Sử dụng tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro cộng thêm phần bù rủi ro của dự án.
Trong ba cách này, cách thứ nhất và cách thứ hai cho phép xác định suất chiết khấu
chính xác hơn cách thứ ba, nhưng lại không thể áp dụng trong điều kiện thị trường tài
chính chưa phát triển. Vì thế, thực tế ít khi cách thứ,nhất và thứ hai được áp dụng mà
thay vào đó là sử dụng lãi suất ngân hàng làm suất chiết khấu. Sự thay thế này vô tình
bỏ qua việc xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận va rủi ro, một mối quan hệ quan trọng
trong những nền tảng lý luận căn bản của tài chính công ty.
3.2.4. Mô hình nhân tố và kinh doanh chênh lệch giá APT
Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá do Stephen Ross, một giáo sư chuyên về kinh tế
học và tài chính đã đưa ra vào năm 1970. Ông đã triển khai mô hình APT trong việc
mua bán chứng khoán hàng hóa khối lượng lớn, ngoại tệ giữa các thị trường để hưởng
chênh lệch giá.. Lý thuyết của APT cho rằng tỷ suất sinh lợi của chứng khoán là một
hàm số tuyến tính của tập hợp các yếu tố có khả năng xảy ra rủi ro đến tỷ suất sinh lợi
của chứng khoán.
Bởi vì rủi ro riêng tương đối không quan trọng đối với các nhà đầu tư, nên ta phân tích
rủi ro của các chứng khoán bằng cách chỉ tập trung vào các hệ số β nhân tố của các
DMĐT được đa dạng hóa tốt. Do đó, nếu bỏ qua các rủi ro riêng thì sự phân tích các
mối quan hệ giữa rủi ro và TSSL của chúng ta sẽ không bị ảnh hưởng.
Nếu hai sự đầu tư hoàn toàn mô phỏng nhau và có các TSSL mong đợi khác nhau thì
một nhà đầu tư có thể đạt được lợi nhuận phi rủi ro bằng việc mua dự án đầu tư với
TSSL mong đợi cao hơn và bán dự án đầu tư có TSSL mong đợi thấp hơn. Khi TSSL
của các chứng khoán không thỏa phương trình liên hệ giữa các TSSL mong đợi của
chứng khoán với các β nhân tố của chúng thì những cơ hội chênh lệch sẽ tồn tại. Mối
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
quan hệ TSSL mong đợi – rủi ro này được biết đến như là “Lý thuyết kinh doanh
chênh lệch giá – APT”.
3.2.4.1. Các giả định của lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá
- Tỷ suất sinh lợi có thể được mô tả bằng một mô hình nhân tố.
- Không có các cơ hội kinh doanh chênh lêch.
- Tồn tại một lượng lớn các chứng khoán sao cho có thể thiết lập các danh mục đầu tư có khả năng đa dạng hóa rủi ro đặc thù của công ty của từng loại cổ phiếu riêng lẻ.
3.2.4.2. Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá cùng với không có rủi ro riêng
Mô hình được mô tả như sau:
ri = αi + βi1F1 + βi2F2 + βi3F3 + … + βikFk
Trong đó:
αi: là mức lợi nhuận được tạm coi là “phi rủi ro”, thường lấy là lợi nhuận của trái phiếu chính phủ.
βik: là độ nhạy của chứng khoán i đối với yếu tố k.
Fk: là mức đền bù rủi ro cho mỗi đơn vị của yếu tố k.
Các hệ số beta được xác định qua hồi qui đa biến.
Chúng ta đã nhất trí là các rủi ro phi hệ thống có thể được triệt tiêu gần hết thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, nên các yếu tố đền bù rủi ro xét ở đây chỉ áp dụng cho các rủi ro hệ thống. Những yếu tố rủi ro hệ thống thường được nhắc đến trong lý thuyết APT bao gồm:
- Lạm phát.
- Chu kỳ kinh doanh (rủi ro suy thoái).
- Tăng trưởng kinh tế GNP.
- Chênh lệch giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn.
- Chênh lệch lãi suất giữa trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
- Tỉ giá hối đoái,…
Tỷ suất sinh lời mong đợi của DMĐT mô phỏng sự đầu tư i là:
TSSL mong đợi = rf + β1λ1 + β2λ2 + …+ βkλk
Với λ1, λ2, …, λk là phần bù rủi ro của các DMĐT nhân tố.
3.2.4.3. Ưu điểm của mô hình APT
- Trong khi mô hình CAPM chỉ xét một biến duy nhất là mức bù rủi ro cho tập hợp chứng khoán thị trường, thì APT đã đưa vào nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô khác nhau để tăng cường mức độ thích hợp với những nền kinh tế đặc thù, trong từng thời kỳ cụ thể.
- CAPM đòi hỏi nhiều giả định chặt chẽ và đòi hỏi phải có một tập hợp chứng khoán thị trường để có Rm tuy trên thực tế không thể quan sát được tập hợp này. APT không đòi hỏi nhiều giả định và có thể lựa chọn trong số các biến quan sát được.
- Độ thích hợp thể hiện ở chỉ số R2. Khi được xây dựng với các yếu tố thỏa đáng, APT luôn luôn có R2 cao hơn CAPM.
- Đối với một cổ phiếu riêng biệt, APT cho thấy các yếu tố rủi ro chỉ giải thích được khoảng 25% dao động của cổ phiếu. Lý do là có đến 75% dao động được giải thích bởi các yếu tố rủi ro phi hệ thống.
- Đối với các tập hợp chứng khoán đa dạng hóa, APT có thể cho thấy trên 90% dao động được giải thích bởi các yếu tố rủi ro. Phần còn lại (dưới 10%) là do tác động của các rủi ro phi hệ thống và do các yếu tố không được đưa vào mô hình.
3.2.4.4. Nhược điểm của mô hình APT
- APT không xác định được đâu là các biến độc lập “đúng đắn” mà để cho người dùng tùy ý chọn các yếu tố rủi ro.
- Tùy theo khả năng và ý định của người dùng, những tập hợp yếu tố khác nhau có thể cho độ chính xác khác nhau.
3.2.4.5. Một số nguyên tắc về chọn biến độc lập cho APT
- Số lượng các yếu tố không được quá lớn, vì khi đó mô hình phức tạp, và bản thân các biến số lại có sự tác động qua lại lẫn nhau nên mất tính độc lập.
- Tổng hợp các biến độc lập phải giải thích được hầu hết các dao động của biến phụ thuộc. Nếu trên 10% dao động không được giải thích, cần phải xem lại có thể một số yếu tố rủi ro hệ thống đã bị bỏ sót.
Chương 3 Cung cầu tài sản tài chính và các mô hình định giá
- Các yếu tố phải thể hiện gần toàn bộ mức đền bù rủi ro của tập hợp chứng khoán. (Trong kết quả hồi qui, α phải gần bằng 0 với độ tin cậy thống kê thỏa đáng).
PHỤ LỤC 1: Quy trình thiết lập một danh mục đầu tư tối ưu
1. Xác định các thông số của các tài sản mà chúng ta dự định đầu tư:
Tỷ suất sinh lợi:
Tỷ suất sinh lợi của một tài sản:
Tỷ suất sinh lợi với tài sản rủi ro cụ thể:
Tỷ suất sinh lợi của danh mục:
=> Trong excel ta dùng hàm Average
Phương sai (Var):
=> Trong excel ta dùng hàm Varp
Hoặc với mẫu thực nghiệm:
Hiệp phương sai (Cov):
Hoặc với mẫu thực nghiệm:
=> Trong excel ta dùng hàm Covar
Beta: βp
=> Trong excel ta dùng hàm Slope
2. Xác định đường tập hợp các cơ hội đầu tư (IOS) vào các tài sản rủi ro. Trong trường hợp chỉ có 2 tài sản rủi ro thi dễ dàng xác định được ngay đường IOS nhưng khi có nhiều kết hợp tài sản rủi ro vào danh mục thì ta phải làm bài toán tối ưu để xác
PHỤ LỤC
định được một tập hợp đầu tư ứng với một tỷ suất sinh lợi kỳ vọng nhất định ta có được độ lệch chuẩn nhỏ nhất.
3. Xác định danh mục đầu tư tiếp xúc trên đường tập hợp các cơ hội đầu tư ( danh mục nằm ở tiếp điểm của đường CAL và đường IOS)
4. Dưạ vào khẩu vị rủi ro của từng người mà nhà đầu tư sẽ lựa chọn đầu tư một phần vào tài sản phi rủi ro và một phần vào danh mục tiếp xúc.
PHỤ LỤC 2: Xây dựng danh mục đầu tư
Thiết lập đường biên hiệu quả theo Lý thuyết danh mục Markowitz
Mục tiêu thiết lập mô hình đầu tư cổ phiếu:
Đánh giá việc thiết lập danh mục đầu tư hiệu quả trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
PHỤ LỤC
Phân tích DMĐT theo Mô hình của Markowitz: theo 3 bước
Từ PT cơ bản và kỹ thuật, chọn ra một số cổ phiếu để đưa vào danh mục đầu tư
(DMĐT), trong đó chú ý chọn những hạng mục đầu tư có hệ số tương quan về tỷ suất
sinh lợi là âm.
Tính các đặc trưng của các cổ phiếu như :
o Tỷ suất sinh lợi
oPhương sai, độ lệch chuẩn, hiệp phương sai (Covariance), hệ số tương quan
(Correlation Cofficient)
Xác định tỷ lệ phân bổ của từng hạng mục trong DMĐT sao cho DMĐT có hiệu
quả nhất.
Xử lý dữ liệu
Thu thập giá cổ phiếu theo ngày của 13 cổ phiếu DCT, DDM, DHA, DHG, KDC,
HSG, HAG, SGT, SSI, VNM, VIC, FPT, BBC và của VN-INDEX, giai đoạn từ
1/7/2009 – 30/6/2010, trên trang Cổ phiếu 68.
- Tỷ suất sinh lợi trung bình
Đối với những cổ phiếu không hưởng cổ tức thì tỉ suất sinh lợi được tính:
Đối với những cổ phiếu có chi trả cổ tức thì:
Lưu ý: Trong phần này, nhóm chúng tôi giả định không xét chi trả cổ tức khi tính tỷ
suất sinh lợi
- Dùng hàm AVERAGE, tính tỷ suất sinh lợi trung bình
= AVERAGE (ri) (i: chứng khoán thứ i)
- Dùng hàm VARP để tính phương sai
=VARP (ri)
- Dùng hàm STDEVP để tính độ lệch chuẩn
=STDEVP(ri )
- Dùng hàm SLOPE để tính Beta của từng chứng khoán
=SLOPE (chuỗi TSSL của CP i, chuỗi TSSL VN-INDEX)
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
PHỤ LỤC
- Dùng hàm COVAR kết hợp với hàm OFFSET để tính hiệp phương sai
= COVAR (OFFSET(vùng tham chiếu cổ phiếu A), OFFSET(vùng tham chiếu cổ phiếu B)) OFFSET là hàm tham chiếu
= OFFSET(reference, rows, cols, height, width)eference: là vùng tham chiếu làm cơ sở rows: là số dòng bên trên hoặc bên dưới reference cols: là số cột bên trái hoặc bên phải reference height: là số dòng của vùng tham chiếu cần trả về. Height phải là số dương
width: là số cột của vùng tham chiếu cần trả về. Width phải là số dươngCụ thể: Hiệp phương sai của CP1 và CP1
COVAR (OFFSET(chuỗi r1,0,biến dòng),OFFSET(,chuỗi r1,0,biến cột))
Lưu ý: Để tính hiệp phương sai cho những chứng khoán còn lại chuỗi r1 phải cố định,
biến dòng phải cố định dòng, biến cột phải cố định cột. Biến dòng và biến cột phải là
những con số được đánh theo thứ tự bắt đầu từ 0. Sau đó copy công thức
1.1 Trường hợp không bán khống
- Tìm tỷ trọng từng cổ phiếu của 5 danh mục bằng SOLVER
Tức là với một mức rủi ro đã định (độ lệch chuẩn, hệ số tương quan) thì DMĐT sẽ có tỷ suất sinh lợi lớn nhất. Hoặc với một mức lợi suất cho trước DMĐT sẽ có rủi ro thấp nhất. Những DMĐT hiệu quả sẽ nằm trên Đường biên hiệu quả (Efficient Frontier).
• Phương sai danh mục min
• Tỷ suất sinh lợi là một giá trị được xác định trước.
• Các tỷ trong từng chứng khoán trong danh mục nằm trong khoản [0;1].
Cài Solver: Excel options => Add-ins => Go => Solver Add-in
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
PHỤ LỤC
Trở lại màn hình chính, vào Data => Solver, hiện ra bảng Solver Parameters
- Tính phương sai
= MMULT(MMULT(MT tỷ trọng CK i, MT hiệp phương sai),TRANSPOSE(MT tỷ
trọng CK i)
- Tính TSSL: = SUMPRODUCT(MT tỷ trọng CK i, chuỗi ri)
- Vẽ đồ thị loại Scatter giữa TSSL và độ lệch chuẩn của 5 danh mục
Quét khối dữ liệu độ lệch chuẩn và tỷ suất sinh lợi của các danh mục rồi vào Insert
chart ( lưu ý là quét khối dữ liệu nào trước thì khối đó sẽ trục hoành)
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
PHỤ LỤC
1.2 Trường hợp cho bán khống
Giả định lãi suất phi rủi ro là rf = 0.022%/ngày. (xem lãi suất phi rủi ro là lãi suất trái
phiếu chính phủ kỳ hạn 30 năm)
=> (1) => (2)
- Theo công thức (1), giải phương trình ma trận tuyến tính để tìm ra 2 danh mục bất
kỳ trên đường biên hiệu quả, danh mục X và M
Với danh mục X có chuỗi TSSL trung bình
Ta có z và tỷ trọngcủa danh mục X
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
PHỤ LỤC
Với danh mục M có chuỗi TSSL là TSSL trung bình – Rf (lấy c = Rf)
Ta có z và tỷ trọng các cổ phiếu trong danh mục M
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
PHỤ LỤC
-
Xem 2 danh mục này như 2 tài sản. Tập hợp các tỷ trọng khác nhau của 2 tài sản này sẽ tạo thành 1 đường biên hiệu quả. Vẽ danh mục M và
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
Tỳ trọng DM X
TSSL Phương sai Độ lệch chuẩn
-10 1.04% 0.21% 4.61%
-8 0.96% 0.18% 4.19%
-6 0.87% 0.14% 3.77%
-4 0.79% 0.11% 3.36%
-2 0.70% 0.09% 2.96%
0 0.62% 0.07% 2.58%
2 0.53% 0.05% 2.22%
4 0.44% 0.04% 1.90%
6 0.36% 0.03% 1.65%
8 0.27% 0.02% 1.49%
10 0.19% 0.02% 1.45%
12 0.10% 0.02% 1.55%
14 0.02% 0.03% 1.77%
16 -0.07% 0.04% 2.06%
18 -0.15% 0.06% 2.39%
20 -0.24% 0.08% 2.77%
22 -0.32% 0.10% 3.16%
24 -0.41% 0.13% 3.56%
26 -0.50% 0.16% 3.98%
28 -0.58% 0.19% 4.40%
30 -0.67% 0.23% 4.82%
32 -0.75% 0.28% 5.25%
34 -0.84% 0.32% 5.69%
Rf 0.02% 0.00% 0.00%
RM 0.6510% 0.0665% 2.5800%
Vn-Index 0.62% 0.05% 2.24%
PHỤ LỤC
tài sản phi rủi ro trên cùng đồ thị đường biên hiệu quả, nối hai điểm này lại ta được đường CML
.
Đường SML
- Xác định BETA của đường thị trường chứng khoán hàm SLOPE trong excel
giữa TSSL trung bình từng chứng khoán với BETA từng chứng khoán.
- Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi của tài sản i trong khoảng thời gian t và beta
của nó thể hiện qua phương trình hồi quy.
-
Cài đặt trong Excel: Excel Options => Add-ins => Go => Analysis Toolpak =>OK
Data => Analysis =>Regression => Hộp thoại
Regression, trong Input Y Range, chọn chuỗi TSSL trung bình; trong Input X
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22
PHỤ LỤC
range, chọn chuỗi Beta; trong Output Option => Output Range, chọn vị trí hiện kết
quả
Ta có phương trình hồi quy là đường thẳng SML:Ri = 0.00199 – 0.00032 I
Nhóm 2 – Ngân hàng ngày 3 k22