bẢn tin sỐ 06 - utc2.edu.vn tg_06-2019.pdf · quốc phát triển gỗ làm mát tiết kiệm...
TRANSCRIPT
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 1/41
BẢN TIN SỐ 06
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Slithers - Robot rắn thế hệ mới
Canada phát triển robot khắc phục sự cố truyền tải điện
Robot thay đổi hình dạng có thể làm việc trong nhiều địa hình
Hệ thống cảm biến tự cấp nguồn được in trên nhựa
Các nhà khoa học Trung Quốc phát triển nhà máy điện hạt nhân ảo
để đánh giá an toàn
Thế hệ pin mới đầy hứa hẹn để lưu trữ năng lượng sạch
Các nhà khoa học Nhật Bản tạo ra nhiên liệu lỏng từ cacbon đioxit và nước
Nhật Bản phát triển ứng dụng điện thoại giúp cai nghiện thuốc
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc sử dụng sóng âm thanh để phát hiện
chuyển động của con người
Nhà khoa học đạt giải Nobel chế tạo khối phổ kế nhỏ nhất thế giới
Nhật Bản phát triển hệ thống dự báo ngập do mưa
Phát hiện bất thường trong sản xuất công nghiệp nhờ AI
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Thiết kế máy phát hiện chính xác ôzôn
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Các nhà khoa học tăng cường khả năng thu giữ cacbon của khung kim loại
hữu cơ
Các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc phát triển gỗ làm mát tiết kiệm
năng lượng
Vật liệu mới mở đường cho cuộc cách mạng xe chạy bằng Hydro
Sản xuất vật liệu xây dựng có khả năng chống nước từ tro bay
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Dùng siêu âm xử lý tinh bột để sản xuất bát đĩa tự phân hủy
Giải pháp đột phá giúp bảo quản sữa tươi đến 60 ngày
"Lưỡi điện tử" dùng để nếm thức ăn
SINH HỌC
Liên hệ: Phòng Cung Cấp Thông tin
ĐC: 79 Trương Định, Quận 1, TP.HCM
ĐT: 38243826 – 38297040 (102-203) - Fax: 38291957
Website: www.cesti.gov.vn - Email: [email protected]
TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ THỐNG KÊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
http://www.cesti.gov.vn/
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 2/41
Kỹ sư sinh hóa lập trình các tế bào như bộ xử lý tín hiệu số
Vi khuẩn tiêu thụ metan có thể được sử dụng để sản xuất nhiên liệu
trong tương lai
Y DƯỢC
Thụ thể nhân tạo phân biệt hormone nam và nữ
Phương pháp mới phát hiện vi khuẩn trong vài phút
Nghiên cứu cho thấy sự mất cân bằng microbiome trên da có khả năng
bùng phát bệnh chàm
Hydrogel sợi nano cho phép mô mềm tái tạo
Brazil tìm ra phương pháp phục hồi chức năng thận để cấy ghép
Các hạt nano dẫn hướng chính xác giúp cải thiện điều trị khối u phúc mạc
'Bắt giữ' các tế bào khối u đang lưu thông trong máu
Hợp chất tự nhiên được tìm thấy trong bông cải xanh có chức năng ức chế
khối u
Thiết bị vi lưu giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về ung thư di căn
Hệ thống trí tuệ nhân tạo giúp phát hiện sớm ung thư phổi
Nga thử nghiệm lâm sàng loại thuốc mới trị ung thư
Các bác sĩ Trung Quốc sử dụng in 3D để tạo mô xương
Keo sinh học giúp vết thương nội tạng ngừng chảy máu trong chốc lát
Đột phá băng đeo làm mát cơ thể, đánh bại nắng nóng
Điều chế thành công vắcxin chống cùng lúc nhiều căn bệnh hô hấp
Loại gel giống như đường giúp cho vắc-xin không bị hỏng
Lọc máu bị nhiễm trùng bằng nam châm
Phương pháp thay đổi hệ vi khuẩn đường ruột mới không sử dụng men vi
sinh
Dao gấp titan nhỏ gọn của Nitecore được dùng trong phẫu thuật
Máy trợ thính điều khiển bằng suy nghĩ đầu tiên thế giới
NÔNG NGHIỆP
Đột phá về kiểm soát dịch hại không độc hại với môi trường
Australia thử nghiệm robot hái xoài đầu tiên trên thế giới
Sắp có Robot hái trái cây thay thế nhân công lao động
Nga phát triển công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi từ hạt dền và sợi nấm
MÔI TRƯỜNG
Trung Quốc phát triển vật liệu mới giúp khắc phục ô nhiễm dầu
Các nhà luyện kim Nga đã xử lý hiệu quả xỉ tro
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 3/41
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Slithers - Robot rắn thế hệ mới
Vật liệu kirigami có thể lập trình này cho phép
các bề mặt nhạy và thông minh
Các nhà nghiên cứu từ Trường Khoa
học Ứng dụng và Khoa học Ứng dụng
(SEAS) của Harvard đã phát triển một loại
robot thân mềm thế hệ mới lấy cảm hứng từ
rắn, nhanh hơn và chính xác hơn so với phiên
bản cũ.
Robot được chế tạo bằng kirigami -
một nghề làm giấy của Nhật Bản dựa trên các
vết cắt để thay đổi các thuộc tính của vật liệu.
Khi robot kéo dài, bề mặt kirigami "bật lên"
thành một bề mặt có kết cấu 3D, bám chặt
mặt đất giống như da rắn.
Robot thế hệ đầu tiên đã sử dụng một
tấm kirigami phẳng, chúng biến đổi đồng đều
khi kéo dài. Robot mới có lớp vỏ có thể lập
trình, có nghĩa là các vết cắt kirigami có thể
bật lên như mong muốn, cải thiện tốc độ và
độ chính xác của robot.
"Đây là một ví dụ đầu tiên về cấu trúc
kirigami với các biến dạng bật lên không
đồng nhất", Ahmad Rafsanć, một nghiên cứu
sinh sau tiến sĩ tại SEAS và là tác giả của
nghiên cứu cho biết. "Trong kirigami phẳng,
sự bật lên là liên tục, nghĩa là mọi thứ bật lên
cùng một lúc. Nhưng trong vỏ kirigami, sự
bật lên là không liên tục. Loại điều khiển
chuyển đổi hình dạng này có thể được sử
dụng để thiết kế bề mặt phản ứng và da thông
minh thay đổi theo yêu cầu trong kết cấu và
hình thái".
Nghiên cứu mới kết hợp hai tính chất
của vật liệu - kích thước của vết cắt và độ
cong của tấm. Bằng cách kiểm soát các tính
năng này, các nhà nghiên cứu có thể lập trình
sự lan truyền truyền động của sự bật lên từ
đầu này sang đầu khác, hoặc kiểm sự bật lên
cục bộ.
Trong tương lai, các nhà nghiên cứu
muốn nhắm đến sự phát triển một mô hình
thiết kế nghịch đảo cho các biến dạng phức
tạp hơn.
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 03/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Canada phát triển robot khắc phục sự cố truyền tải điện
Nguyên mẫu robot LineRanger. Ảnh: New Atlas
Robot LineRanger của Công ty tiện ích
công cộng Hydro-Quebec Canada có thể là
một sự thay thế tốt hơn cho máy bay không
người lái trong việc kiểm tra đường dây tải
điện cao thế, chẩn đoán sự cố và khắc phục
kịp thời các tai nạn.
Theo New Atlas, để kiểm tra các
đường dây truyền tải điện cao thế hiện người
ta đã sử dụng máy bay không người lái. Tuy
nhiên, công ty tiện ích công cộng Hydro-
Quebec của Canada đã phát triển robot
LineRanger thay thế tốt hơn cho máy bay
không người lái. Mới đây, tại Hội nghị quốc
tế về robotics và tự động hóa 2019 tổ chức tại
Montreal, công ty Hydro-Quebec đã giới
thiệu một nguyên mẫu robot LineRanger có
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 4/41
thể bò dọc theo đường dây tải điện, chẩn đoán
sự cố và khắc phục kịp thời các tai nạn.
Robot là một thiết bị nặng 50kg được
thiết kế để kiểm tra cáp trên các đường dây
điện cao thế điện áp 735kV. Robot bò trên
cáp bằng các con lăn cao su, mỗi con lăn có
thể di chuyển tự động. Điều này cho phép
robot dễ dàng vượt qua các chướng ngại vật
như khớp nối hoặc vật cách điện. Robot được
điều khiển từ xa bởi người điều khiển từ mặt
đất - thiết bị ở chế độ thời gian thực phát sóng
hình ảnh tại khu vực của nó kiểm soát với sự
trợ giúp của camera HD. Không giống như
một máy bay không người lái đa năng,
LineRanger không cần sử dụng bất kỳ năng
lượng nào để tự bay trong không khí. Một lần
sạc pin cho robot LineRanger đủ để kiểm tra
một vài km đường dây tải điện. Nhà nghiên
cứu Alain Croteau của Hydro-Quebec chia sẻ
rằng một trong những lợi thế chính của thiết
kế này là nó dễ sử dụng. Những người không
có kiến thức đặc biệt về robot cũng có thể
điều khiển để đẩy đi hoặc kéo robot trở về.
Robot LineRanger đã được thử nghiệm
và trong tương lai gần, một số robot có thể
tham gia công ty Hydro-Quebec.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 27/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Robot thay đổi hình dạng có thể làm việc trong nhiều địa hình
Robot có thể thay đổi hướng, tốc độ và
thậm chí cả màu sắc của chúng. Hiện nay các
nhà nghiên cứu của Đại học Yale còn có thể
thay đổi hình dạng của chúng.
Được dẫn dắt bởi Rebecca Kramer-
Bottiglio, trợ lý giáo sư khoa học cơ khí & vật
liệu, các nhà nghiên cứu đã phát triển một
robot có thể biến đổi để thích ứng với những
thay đổi trên đường hoặc môi trường. Chẳng
hạn, nếu một robot hình trụ đối diện với một
hòn đá trên đường đi của nó, thì robot có thể
chuyển hình dạng thành một quả tạ bằng cách
nhấc phần giữa của nó và vượt qua tảng đá.
Kramer-Bottiglio cho biết: “Chúng tôi cố gắng
tạo ra những robot có thể điều chỉnh hình thái
và hành vi của chúng theo yêu cầu, việc thay
đổi cả hình dạng cơ thể và cách nó di chuyển
giúp robot vượt qua các chướng ngại vật hoặc
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ mặc dù có sự thay
đổi về địa hình và môi trường”.
Lõi của robot được làm từ một chất
giống như đất sét. Lõi được bọc bằng hai lớp
vỏ được phát triển trong phòng thí nghiệm
Kramer-Bottiglio, được làm từ các tấm đàn hồi
được nhúng với các cảm biến và bộ truyền
động tùy chỉnh. Một trong những tấm da cung
cấp cho robot một lực đầu máy lăn. Tấm kia
điều khiển vật liệu thành các dạng khác nhau -
gần giống như con người điêu khắc đất sét.
Bắt đầu với một khối đất sét và sau đó áp dụng
các lực bề mặt, một nhà điêu khắc có thể đúc
đất sét thành bất kỳ hình dạng mong muốn
nào. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một cách
tiếp cận tương tự - sử dụng da robot quấn
quanh đất sét và áp dụng các kỹ thuật tương tự
để định hình lại lõi. Để nắm được chính xác
những kỹ thuật đó là gì, phòng thí nghiệm
Kramer-Bottiglio đang làm việc với nhà điêu
khắc Susan Clinard để hiểu cách tốt nhất để
biến đất sét thành các hình dạng khác nhau.
Đó là, làm thế nào một khối có thể
thay đổi một cách hiệu quả nhất thành hình
dạng của một sinh vật bốn chân? Để nắm bắt
sự biến đổi và tất cả các hình dạng trung gian,
họ đã quay phim Clinard từ nhiều góc độ khi
cô liên tục thực hiện cùng một nhiệm vụ đúc.
Để mô phỏng cơ chế của robot của họ, các
nhà nghiên cứu đã hướng dẫn cô chỉ sử dụng
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 5/41
một tay và không thêm hoặc loại bỏ bất kỳ
vật liệu nào. Và để đảm bảo tốt hơn rằng
Clinard dựa vào bản năng của mình như một
nhà điêu khắc, các nhà nghiên cứu đã cố tình
cung cấp cho cô càng ít thông tin càng tốt về
nghiên cứu.
Dự án cũng lấy cảm hứng từ các sinh
vật thay đổi cấu trúc cơ thể của chúng để thích
nghi với những thay đổi trong môi trường hoặc
điều kiện của chúng. Ví dụ, động vật lưỡng cư
có thể phát triển các chi mới sau khi cắt cụt, và
nòng nọc và sâu bướm hoàn toàn cấu hình lại
cơ thể của chúng để có một bộ khả năng mới.
Các nhà nghiên cứu đã mất một số thử nghiệm
và sai sót để tìm ra vật liệu phù hợp cho lõi
Robot. Mặc dù họ không chính thức gọi nó là
đất sét, nhưng các nhà nghiên cứu đã chọn sử
dụng Model Magic, một hợp chất mô hình mà
đủ cứng để giữ hình dạng của nó nhưng vẫn đủ
mềm để được điều khiển bởi các bộ truyền
động robot Robot.
P.T.T, theo scitechdaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 09/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Hệ thống cảm biến tự cấp nguồn được in trên nhựa
Sơ đồ của quy trình chế tạo có thể in và cơ chế vận
hành hệ thống (hình nhỏ) của hệ thống cảm biến
thông minh tự cấp nguồn linh hoạt và có thể đeo
được trên đế bằng nhựa
Kỹ thuật in thạch bản là một kỹ thuật
sản xuất thiết bị công nghệ tân tiến, bổ sung
cho những phương pháp sản xuất các thiết bị
công nghệ truyền thống. Nhờ vào kỹ thuật tân
tiến này, thiết bị điện tử silicon sẽ được in với
quy trình chế tạo tương đối nhanh và chi phí
thấp, cũng như khả năng mở rộng và linh hoạt
trong thiết kế.
Trong nghiên cứu gần đây, các nhà
nghiên cứu ở Trung Quốc đã giới thiệu khái
niệm về một hệ thống cảm biến tự cấp nguồn
có thể in và đeo được để phát hiện
ethanol/acetone. Đây là bản báo cáo đầu tiên
về công trình nghiên cứu trên một hệ thống
tích hợp nguyên khối và được chế tạo thành
công trên đế nhựa dẻo trong môi trường xung
quanh bằng cách sử dụng in phun phụ gia.
Dây đeo cổ tay của nhóm chủ yếu bao gồm
các kết nối điện được in phun, pin mặt trời
silicon để thu/chuyển đổi năng lượng, siêu tụ
điện phẳng dựa trên MnO2 có thể in để lưu trữ
năng lượng và cảm biến khí SnO2 có thể in
hoàn toàn để phát hiện ethanol/acetone. Với
các siêu tụ điện đóng vai trò là bộ lưu trữ
năng lượng quang điện và cung cấp năng
lượng cho các thiết bị chức năng trong quá
trình chiếu sáng không liên tục, có thể cung
cấp chức năng đồng thời mà không cần mô-
đun sạc bên ngoài, rất đáng để sử dụng cho
các thiết bị điện tử đeo được và cầm tay.
EDS a-e) cảm biến khí SnO2 có thể in hoàn toàn
với các điện cực được mã hóa
Nhóm nghiên cứu đã tổng hợp và
chuẩn bị các hạt nano chức năng khác nhau
thành các loại mực có thể in được để chế tạo
các siêu tụ điện và cảm biến khí. Phương pháp
chế tạo bằng cách in này cho thấy sự thuận
tiện và khả năng mở rộng của nó cho cả chế
tạo thiết bị và tích hợp hệ thống. Các tác giả
kết luận rằng việc giới thiệu khái niệm về một
hệ thống cảm biến tự cấp nguồn tích hợp có
thể in được có thể truyền cảm hứng cho ngành
công nghiệp in trong tương lai với nhiều loại
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 6/41
thiết bị đeo được và cầm tay, đặc biệt là cho
các ứng dụng theo dõi y sinh và y tế.
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 07/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Trung Quốc phát triển nhà máy điện hạt nhân ảo để đánh giá an toàn
Các nhà khoa học Trung Quốc đã phát
triển một nhà máy điện hạt nhân ảo sử dụng
kỹ thuật số với một hệ thống phần mềm giúp
đánh giá sự an toàn và hiệu quả của các hệ
thống năng lượng hạt nhân.
Hệ thống này được đặt tên là
Virtual4DS, đã được công bố trên một bài
báo của Tạp chí Nghiên cứu Năng lượng
Quốc tế vào tháng 4/2019. Vì an toàn hạt
nhân là vấn đề chính trong phát triển năng
lượng hạt nhân, nên việc nghiên cứu và phát
triển công nghệ an toàn năng lượng hạt nhân
tiên tiến là bắt buộc. Mô phỏng số nâng cao
có thể khôi phục các quy trình vật lý phức tạp
nhất có thể và dự đoán hoạt động và hiệu suất
an toàn của hệ thống năng lượng hạt nhân.
Được phát triển bởi các nhà khoa học
từ Viện Công nghệ An toàn Năng lượng Hạt
nhân thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung
Quốc, hệ thống này sử dụng công nghệ thông
tin để thiết lập một nền tảng mô phỏng tích
hợp cho toàn bộ môi trường của nhà máy điện
hạt nhân. Nó có thể phân tích an toàn lò phản
ứng hạt nhân, an toàn bức xạ và tác động môi
trường, cung cấp một công cụ nghiên cứu để
thiết kế và đánh giá an toàn hạt nhân, cảnh
báo tai nạn, ra quyết định khẩn cấp và đánh
giá rủi ro xã hội.
Theo nhóm nghiên cứu, Virtual4DS có
thể được kết nối với hệ thống thông tin của
nhà máy điện hạt nhân và các mô-đun cốt lõi
của nó đã được áp dụng trong các dự án kỹ
thuật hạt nhân như ITER, lò phản ứng thử
nghiệm tổng hợp hạt nhân lớn nhất thế giới và
Lò phản ứng dựa trên chì của Trung Quốc.
NASATI, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 10/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Thế hệ pin mới đầy hứa hẹn để lưu trữ năng lượng sạch
Các nhà nghiên cứu đã chế tạo ra một
loại pin kali-oxy hiệu quả hơn, đáng tin cậy
hơn, một bước tiến tới một giải pháp tiềm
năng để lưu trữ năng lượng trên lưới điện của
quốc gia và pin được sử dụng lâu hơn trong
điện thoại di động và máy tính xách tay.
Các nguồn năng lượng tái tạo không
phát ra carbon dioxide, vì vậy chúng không
góp phần vào sự nóng lên toàn cầu - nhưng
chúng chỉ cung cấp năng lượng khi mặt trời
chiếu sáng hoặc gió thổi. Để chúng trở thành
nguồn năng lượng đáng tin cậy cho mạng lưới
năng lượng của một khu vực, cần có một cách
để lưu trữ năng lượng dư thừa được thu thập
từ ánh nắng mặt trời và gió.
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 7/41
Các công ty, nhà khoa học và chính
phủ trên khắp thế giới đang nghiên cứu các
giải pháp lưu trữ, từ pin lithium- ion - phiên
bản lớn hơn pin của nhiều loại xe điện - cho
đến pin khổng lồ có kích thước của một cửa
hàng lớn được làm bằng vanadi kim loại.
Pin kali-oxy là một giải pháp thay thế
tiềm năng cho việc lưu trữ năng lượng kể từ
khi chúng được phát minh vào năm 2013.
Một nhóm các nhà nghiên cứu từ bang Ohio,
dẫn đầu bởi giáo sư hóa học Yiying Wu, đã
chỉ ra rằng pin có thể hiệu quả hơn pin
lithium-oxy trong khi lưu trữ đồng thời
khoảng gấp đôi năng lượng như pin lithium-
ion hiện có. Nhưng pin kali-oxy chưa được sử
dụng rộng rãi để lưu trữ năng lượng bởi vì,
cho đến nay, chúng vẫn chưa thể sạc lại đủ
thời gian để có hiệu quả về chi phí.
Khi các đội cố gắng tạo ra một pin
kali-oxy có thể là một giải pháp lưu trữ khả
thi, họ tiếp tục gặp một rào cản: Pin xuống
cấp với mỗi lần sạc, không bao giờ kéo dài
quá năm hoặc 10 chu kỳ sạc - mốc đủ xa để
tạo ra pin có hiệu quả về mặt chi phí để lưu
trữ năng lượng. Sự xuống cấp đó đã xảy ra do
oxy len lỏi vào cực dương của pin - nơi cho
phép các electron sạc thiết bị, có thể là điện
thoại di động hoặc lưới điện. Oxy đã làm cho
cực dương bị phá vỡ, khiến cho pin không
còn có thể cung cấp điện tích.
Paul Gilmore, một ứng cử viên tiến sĩ
trong phòng thí nghiệm của Sundaresan, bắt
đầu kết hợp các polyme vào cực âm để xem
liệu có thể bảo vệ cực dương khỏi oxy hay
không. Nếu làm được điều đó, pin kali-oxy sẽ
tồn tại lâu hơn. Kết quả là nhóm nghiên cứu
nhận ra rằng chìa khóa chính là cách đưa oxy
vào pin - cần thiết để nó hoạt động - mà
không cho phép oxy thấm vào cực dương.
Thiết kế này hoạt động hơi giống phổi
của con người: Không khí đi vào pin thông
qua lớp carbon sợi, sau đó gặp lớp thứ hai hơi
xốp và cuối cùng kết thúc ở lớp thứ ba, hầu
như không xốp. Lớp thứ ba đó, được làm từ
polymer dẫn, cho phép các ion kali di chuyển
khắp cực âm, nhưng hạn chế oxy phân tử đi
vào cực dương. Thiết kế này giúp pin có thể
được sạc ít nhất 125 lần - mang lại cho pin
kali-oxy có tuổi thọ gấp 12 lần tuổi thọ trước
đây với các chất điện phân giá rẻ.
Phát hiện này cho thấy tính khả thi
trong việc sản xuất pin ở quy mô lớn nhằm
mục đích lưu trữ điện sinh hoạt.
P.T.T, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 22/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Nhật Bản tạo ra nhiên liệu lỏng từ cacbon đioxit và nước
Các chuyên gia cho biết, một cách để
bắt chước quá trình quang hợp tự nhiên có thể
được sử dụng làm giảm mức độ cacbon đioxit
trong khí quyển và động cơ điện của chúng
ta. Quá trình này rất quan trọng đối với thực
vật vì nó chuyển đổi cacbon đioxit và nước
thành năng lượng, với sự trợ giúp từ ánh sáng
mặt trời. Hiện tại được nhân rộng và thích
nghi để sản xuất nhiên liệu lỏng. Phản ứng
tạo ra propan có năng lượng cao và hữu ích
cho việc cung cấp năng lượng cho động cơ.
Nếu nó có thể được tái sản xuất trên quy mô
lớn, sẽ làm giảm lượng cacbon đioxit dư thừa
và sử dụng ánh sáng mặt trời để sản xuất các
hóa chất năng lượng cao cung cấp năng lượng
cho ô tô và máy bay.
Các nhà khoa học cho biết nhiên liệu
lỏng tốt hơn khí đốt vì chúng dễ vận chuyển
và an toàn hơn. Quang hợp tự nhiên là quá
trình thực vật xanh sử dụng năng lượng từ
mặt trời cũng như nước trong đất và cacbon
đioxit trong không khí để tạo ra thức ăn dưới
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 8/41
dạng glucose đậm đặc năng lượng - một dạng
đường. Chất diệp lục là chất xúc tác đằng sau
phản ứng, cũng như là sắc tố làm cho cây
xanh và cũng hấp thụ ánh sáng mặt trời. Tuy
nhiên, thay vì diệp lục, các nhà khoa học
đang tái tạo phản ứng trong phòng thí nghiệm
bằng cách sử dụng kim loại để hấp thụ năng
lượng ánh sáng. Năng lượng này thúc đẩy sự
chuyển điện tử và proton trong các phản ứng
hóa học giữa CO2 và nước.
Các nhà nghiên cứu từ Illinois tại
Urbana-Champaign - Hoa Kỳ, đã phát hiện ra
rằng các hạt nano vàng hoạt động đặc biệt tốt
như một chất xúc tác trong quang hợp nhân
tạo. Bề mặt của chúng tương tác tốt với
cacbon đioxit và có hiệu quả trong việc hấp
thụ ánh sáng. Hơn nữa, do thiếu phản ứng của
vàng, nó không bị phá vỡ hoặc biến chất sau
nhiều vòng sử dụng như các kim loại khác.
Đồng tác giả nghiên cứu - Tiến sĩ
Prashant Jain, cho biết: “Nhiên liệu lỏng là lý
tưởng vì chúng dễ vận chuyển, an toàn và tiết
kiệm hơn so với khí đốt, chúng được tạo ra từ
các phân tử chuỗi dài, chứa nhiều liên kết
hơn, giúp đóng gói được nhiều hơn”. Có một
số cách mà năng lượng được lưu trữ trong
hydrocarbon có thể thu giữ lại được và
chuyển hóa thành nhiên liệu. Tuy nhiên,
phương pháp đốt thông thường - đốt cacbon
đioxit, cuối cùng tạo ra nhiều cacbon đioxit
hơn. Chúng có thể được sử dụng để cung cấp
năng lượng cho pin nhiên liệu để sản xuất
dòng điện và điện áp. Có những phòng thí
nghiệm trên khắp thế giới đang cố gắng tìm ra
cách chuyển đổi hydrocarbon thành điện năng
có thể được tiến hành hiệu quả.
Hiện tại, quá trình quang hợp nhân tạo
không còn hiệu quả như ở thực vật và các nhà
khoa học thừa nhận họ vẫn cần tinh chỉnh
chất xúc tác để tăng hiệu quả của các phản
ứng hóa học. Sau này, họ hướng đến việc làm
cho quá trình thương mại trở nên khả thi.
Tiến sĩ Jain nói thêm: “Sau đó, chúng
ta có thể bắt đầu công việc khó khăn để xác
định cách tiến hành mở rộng quy trình. Và,
giống như bất kỳ công nghệ năng lượng độc
đáo nào, cũng sẽ có nhiều câu hỏi khả thi về
kinh tế được trả lời”. Trước đây, các nhà
nghiên cứu tại Đại học Illinois tại Urbana-
Champaign và Đại học California, Berkeley
đã hợp tác để làm cho cây trồng hấp thụ ánh
mặt trời nhanh hơn, điều này có thể dẫn đến
năng suất cây trồng tốt hơn.
Đ.T.V, theo .dailymail.co.uk
Nguồn: vista.gov.vn, 30/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nhật Bản phát triển ứng dụng điện thoại giúp cai nghiện thuốc
Các nhà khoa học Trung Quốc đã phát
triển một phương pháp hỗ trợ bằng trí tuệ
nhân tạo (AI) để xác định chuyển động của
con người bằng sóng âm thanh.
Trường Đại học Keio và Tập đoàn
thiết bị y tế CureApp của Nhật Bản ngày 30/5
thông báo đã phát triển thành công một ứng
dụng điện thoại có thể giúp mọi người tránh
xa thuốc lá.
Ứng dụng này đi kèm một thiết bị
riêng biệt, cho phép người dùng ghi lại lượng
carbon monoxide trong hơi thở cũng như tình
trạng sức khỏe. Sau đó, ứng dụng sẽ đưa ra
các lời khuyên về y tế hữu ích phù hợp với
tình trạng của người dùng.
Trường Đại học Keio và Tập đoàn
thiết bị y tế CureApp đã tiến hành thử nghiệm
ứng dụng đối với khoảng 570 người tại 31 cơ
sở y tế trên khắp Nhật Bản từ tháng 10/2017
đến cuối năm 2018.
Kết quả cho thấy 64% số người sử
dụng ứng dụng đều bỏ thuốc sau 6 tháng, cao
hơn 13 điểm phần trăm so với nhóm người
không sử dụng ứng dụng.
Các nhà nghiên cứu hy vọng với ứng
dụng này, những người hút thuốc lá có thể
một mình chống chọi với cơn thèm
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 9/41
nicotine. Đại học Keio và Tập đoàn thiết bị y
tế CureApp dự định sẽ xin Chính phủ Nhật
Bản cấp phép lưu hành ứng dụng như một
công cụ y tế vào mùa Xuân tới.
Ngọc Hà
Nguồn: vietnamplus.vn, 30/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc sử dụng sóng âm thanh để phát hiện chuyển động của con người
Các nhà khoa học Trung Quốc đã phát
triển một phương pháp hỗ trợ bằng trí tuệ
nhân tạo (AI) để xác định chuyển động của
con người bằng sóng âm thanh.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Công
nghệ Vũ Hán đã sử dụng một dải tần số âm
thanh hai chiều và mạng lưới thần kinh tích
hợp để phát hiện và phân tích âm thanh của
hoạt động của con người và xác định các hoạt
động đó, theo một nghiên cứu được công bố
trên tạp chí Applied Physics Letters.
Tải tần số âm thanh có 256 máy thu và
4 máy phát siêu âm, cho phép các nhà nghiên
cứu thu thập dữ liệu liên quan đến bốn hoạt
động khác nhau của con người - ngồi, đứng,
đi và ngã. Họ xác định chúng bằng một thuật
toán trí tuệ nhân tạo.
Họ đã sử dụng tín hiệu 40 kilohertz để
bỏ qua mọi ô nhiễm tiềm ẩn từ tiếng ồn
phòng thông thường và phân biệt với âm
thanh nhận dạng.
Guo Xinhua, phó giáo sư kỹ thuật cơ
khí và điện tử tại Đại học Công nghệ Vũ Hán
nói với Tân Hoa Xã rằng nó có thể được sử
dụng trong một hệ thống báo động y tế có thể
được kích hoạt nếu một người ngã ở nhà.
Hệ thống này phát hiện tốt hơn các hệ
thống dựa trên hình ảnh, hơn nữa việc sử
dụng hình ảnh có thể vi phạm các quyền riêng
tư. Trong khi đó, ánh sáng yếu hoặc khói
cũng có thể cản trở nhận dạng tầm nhìn,
nhưng sóng âm không bị ảnh hưởng bởi
những tình huống môi trường đặc biệt đó.
NASATI, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 31/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Nhà khoa học đạt giải Nobel chế tạo khối phổ kế nhỏ nhất thế giới
Khối phổ kế nhỏ nhất thế giới do nhà
khoa học giành giải Nobel năm 2002 chế tạo
và được kỳ vọng giữ vai trò quan trọng trong
nghiên cứu dược phẩm.
Ông Koichi Tanaka tại buổi họp báo giới thiệu máy
MALDImini-1 - khối phổ kế nhỏ nhất thế giới
Ảnh: Mainichi
Tại buổi họp báo ngày 29-5, ông
Koichi Tanaka - đoạt giải Nobel năm 2002 -
giới thiệu khối phổ kế nhỏ nhất thế giới tên
MALDImini-1 do ông cùng đồng nghiệp tại
Tập đoàn Shimadzu (Nhật Bản) phát minh.
Shimadzu khẳng định thiết bị sẽ được
sử dụng trong nghiên cứu dược phẩm sinh học.
Đây cũng là lần đầu doanh nghiệp phát triển
sản phẩm này từ khi thành lập phòng thí
nghiệm vào năm 2003.
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 10/41
Theo Mainichi, khối phổ kế được dùng
để đo kích thước đại phân tử như protein
(đạm). Phương pháp khối phổ cần đến nguồn
điện cao áp nên khó để có thể thiết kế nhỏ gọn.
Hiện tại, khối phổ kế nhỏ nhất cũng to bằng
một cái tủ lạnh.
Trong khi đó, MALDImini-1 chỉ bằng
tờ giấy A3 và nặng 25kg. Theo nhóm nghiên
cứu, khi cho mẫu thử vào máy, chỉ cần 5 phút
là đã có những thông số cần thiết.
"Tôi tin rằng nếu các nhà nghiên cứu có
thể dễ dàng xác nhận thông tin và khám phá
những điều mới với thiết bị thuận tiện, họ sẽ
có nhiều động lực hơn", ông Tanaka nói trong
buổi họp báo.
Nhà khoa học Tasuko Honjo, đoạt giải
Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 2018, đánh
giá cao MALDImini-1: "Phương pháp khối
phổ vô cùng cần thiết cho cả những hoạt động
nghiên cứu cơ bản nhất. Từ nay tôi mong
muốn nhìn thấy thiết bị này được sử dụng rộng
rãi trong ngành y tế".
Hà My
Nguồn: tuoitre.vn, 31/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nhật Bản phát triển hệ thống dự báo ngập do mưa
Hệ thống mới này có thể tính mức độ
ngập lụt do các trận mưa lớn gây ra tại 23 quận
ở Tokyo, giúp chính quyền thành phố triển
khai các biện pháp cụ thể hơn để ngăn chặn
tình trạng ngập lụt.
Một khu vực ở Oyama, Tochigi, bắc Tokyo
trong một đợt ngập. Ảnh: AFP
Ngày 20-5, các nhà khoa học Nhật Bản
thông báo đã phát triển một hệ thống mới, có
thể ước lượng tình trạng ngập lụt khi mưa
đang trút xuống tại khu vực đô thị ở thủ đô
Tokyo.
Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc
Đại học Waseda, Đại học Tokyo và các trường
khác đã phát triển hệ thống có thể tính mức độ
ngập lụt do các trận mưa lớn gây ra tại 23 quận
ở Tokyo. Họ đã lập một chương trình dự báo
lượng nước tại các khu vực đô thị, trong đó có
tính tới mật độ các tòa nhà, các dòng sông và
cống thoát nước.
Bằng cách sử dụng dữ liệu của Cơ quan
Khí tượng Nhật Bản (JMA) và các cơ quan
khác, hệ thống này có thể phân tích mức độ
thiệt hại do tình trạng ngập lụt từ các trận mưa
lớn và bão gây ra.
Mức độ ngập lụt dự báo được nhận
diện bằng màu sắc trên bản đồ. Ví dụ, màu đỏ
tượng trưng cho mực nước từ 80 cm trở lên,
màu cam từ 40-80 cm và màu xanh từ 20-40
cm nước. Ngoài ra, hệ thống này cũng có thể
hiển thị những dự báo cứ khoảng 5 phút đến
20 phút/lần.
Theo các nhà nghiên cứu, tình trạng
ngập lụt tại khu vực đô thị trước đây được ước
lượng chủ yếu từ những đám mây báo hiệu
cơn mưa. Tuy nhiên, hệ thống mới có thể đánh
giá tình hình ngập lụt một cách chi tiết hơn
nhờ sử dụng nhiều dữ liệu dựa trên thực địa, từ
đó giúp chính quyền thành phố triển khai các
biện pháp cụ thể hơn để ngăn chặn tình trạng
ngập lụt.
Theo kế hoạch, hệ thống này sẽ được
đưa vào hoạt động trước khi Thế vận hội mùa
Hè tại Tokyo bắt đầu vào tháng 7-2020.
Nguồn: tuoitre.vn, 21/05/2019 Trở về đầu trang
**************
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 11/41
Phát hiện bất thường trong sản xuất công nghiệp nhờ AI
Mô-đun Trí tuệ nhân tạo (AI) thế hệ
mới cho phép phát hiện bất thường trong sản
xuất công nghiệp và cảnh báo xử lý, nếu cần
thiết.
Mô-đun có thể giúp người vận hành phát hiện
những sai lệch về hiệu suất trong các thiết bị
sản xuất công nghiệp
Tập đoàn Rockwell Automation (Mỹ)
vừa trình làng Mô-đun FactoryTalk Analytics
LogixAI mới, sử dụng AI để cải thiện quy trình
sản xuất công nghiệp mà không cần nhờ đến sự
trợ giúp của các nhà khoa học dữ liệu.
Mô-đun FactoryTalk Analytics
LogixAI mới, tiền thân được biết đến với tên
Project Sherlock, sử dụng Trí tuệ nhân tạo
(AI) với mục đích phát hiện sự bất thường
trong sản xuất và cảnh báo công nhân phụ
trách để họ có thể điều tra nguyên nhân hoặc
xử lý, nếu cần thiết.
Mô-đun mới được gắn trực tiếp vào khung
điều khiển và truyền dữ liệu điều khiển qua bo
mạch lưng để xây dựng các mô hình dự đoán. Nó
có thể liên tục theo dõi toàn bộ quy trình vận hành
sản xuất, phát hiện những sự bất thường đi ngược
lại với những hiểu biết gốc đang có.
Mô-đun này có thể giúp người vận
hành phát hiện những sai lệch về hiệu suất
trong các thiết bị như hệ thống trộn mà có thể
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm
hoặc thậm chí gây nên tình trạng “thời gian
chết” (downtime). Ngoài ra, mô-đun này còn
có thể được dùng như một cảm biến ảo. Giả
dụ, để nắm được thông số về độ ẩm của một
sản phẩm thức ăn đóng hộp, thay vì người
công nhân phải đọc hiểu thì module này phân
tích các biến từ các thiết bị dây chuyền như hệ
thống phun, hệ thống sấy khô và hệ thống đốt
để dự đoán một phép đo lường, mang tính ảo.
Theo ông Jonathan Wise, Giám đốc
sản phẩm của Rockwell Automation, mô-đun
này sẽ nhanh chóng học ứng dụng dùng
ControlLogix của bạn, từ đó thông báo với
người vận hành và kỹ thuật viên khi phát hiện
ra những thay đổi bất thường trong hệ thống.
Điều này có thể hỗ trợ những người phụ trách
nắm bắt được các vấn đề về chất lượng sản
phẩm trước khi nó thật sự xảy ra, từ đó đảm
bảo được tính toàn vẹn của quy trình.
“Mô-đun FactoryTalk Analytics LogixAI
giúp việc phân tích dự báo trở nên dễ dàng hơn,
hỗ trợ công nhân đưa ra quyết định sáng suốt hơn
trong sản xuất”, ông Jonathan Wise, cho biết.
Các sự cố sẽ được báo tới công nhân
thông qua cảnh báo trên màn hình điều khiển
HMI hoặc bảng giao diện số. Các tính năng
trong tương lai của mô-đun này còn có thể
phát triển hơn nữa, giúp công nhân có thể tập
trung giải quyết vấn đề hoặc tự động việc tối
ưu hoá quy trình.
FactoryTalk Analytics LogixAI là mô-
đun mới nhất trong hồ sơ các mô đun thuộc
nền tảng FactoryTalk Analytics của Rockwell
Automation. Hồ sơ này bao gồm FactoryTalk
Analytics for Devices, mà có chức năng học
về cấu trúc hệ thống tự động để thông báo
cho công nhân về các vấn đề của các thiết bị
riêng lẻ. Mô-đun LogixAI mở rộng chức năng
này bằng cách học về một ứng dụng của hệ
thống tự động và giúp xác định sự bất thường
trong chức năng tổng thể của ứng dụng đó.
Cả hai sản phẩm hiện tại hoạt động
riêng biệt, nhưng sẽ hỗ trợ nhau trong các
phiên bản sau này. Nền tảng FactoryTalk
Analytics tổng hợp nhiều nguồn dữ liệu vì
vậy các công nhân có thể tìm ra nhiều thông
tin chuyên sâu mới. Mô-đun FactoryTalk
Analytics for Devices và mô-đun LogixAI
đều sẽ là nguồn dữ liệu cho sự phát triển của
nền tảng này trong tương lai.
Huyền An
Nguồn: khampha.vn, 06/05/2019 Trở về đầu trang
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 12/41
**************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Thiết kế máy phát hiện chính xác ôzôn
Ban đầu, các nhà khoa học NASA đã
thiết kế thiết bị ROZE phát hiện hydroxyl để
loại bỏ khí mêtan trong khí quyển. Nhưng các
thử nghiệm cho thấy thiết bị này còn có thể đo
nồng độ ôzôn trong môi trường xung quanh
hiệu quả hơn so với các máy dò ôzôn thương
mại hiện có.
Để theo dõi nồng độ hydroxyl, Tom
Hanisco, nhà khoa học tại NASA, đồng tác giả
nghiên cứu đã áp dụng kỹ thuật quang phổ
tương quan bộ lọc khí (gas filter correlation
spectroscopy), hoạt động bằng cách lọc các
bước sóng tương tác với hydroxyl hoặc được
hấp thụ bởi hydroxyl.
Rò rỉ khí trong khoang thiết bị đã gây
ra những khó khăn về kỹ thuật mà các nhà
khoa học đã tính đến việc lấp đầy khoang bằng
hydroxyl. Thay vì sản sinh hydroxyl, thiết bị
đã tạo ra ôzôn. Thông qua các thử nghiệm,
nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra thiết bị thí
nghiệm ôzôn nhanh có độ chính xác cao gấp
hơn 100 lần so với các thiết bị phát hiện ôzôn
tốt nhất hiện nay.
Trong tầng bình lưu, ôzôn là thành
phần cần thiết với khả năng ngăn chặn tia cực
tím. Gần bề mặt Trái đất hơn là tầng đối lưu,
thì ôzôn lại là chất gây ô nhiễm. Chính sự hiện
diện của nó làm nặng thêm các bệnh về đường
hô hấp, nguyên nhân gây ra hàng nghìn ca tử
vong mỗi năm. Ôzôn sản sinh trong tầng đối
lưu khi các chất ô nhiễm phát thải từ ô tô, nhà
máy điện và các nguồn công nghiệp khác phản
ứng với oxit nitơ khi có ánh nắng mặt trời.
Hanisco hy vọng công nghệ mới sẽ
được áp dụng để đo các chuyển động chính
xác của ôzôn nhằm ước tính chính xác hơn
lượng ôzôn ở tầng khí quyển thấp.
"Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) có
các mô hình dự đoán lượng ôzôn sẽ hình
thành", Reem Hannun, nhà khoa học NASA
nói. "Tuy nhiên, các mô hình này thực tế
không xác định được tốc độ ôzôn lắng đọng.
Nếu chúng tôi không biết tốc độ, chúng tôi
không thể lập chính xác mô hình ôzôn di
chuyển từ khu vực này sang khu vực khác hoặc
thời gian nó tồn tại sau khi hình thành".
N.T.T, theo upi.com
Nguồn: vista.gov.vn, 17/05/2019 Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Các nhà khoa học tăng cường khả năng thu giữ cacbon của khung kim loại hữu cơ
Khung kim loại hữu cơ là các hợp chất
kim loại có cấu trúc mạng với các lỗ kích
thước nano. Các lỗ này khá hiệu quả trong
việc lọc nhiều loại hóa chất ra khỏi dung dịch
nước, bao gồm kim loại nặng, hydro và thậm
chí là vàng.
Nhưng khung kim loại hữu cơ hay
MOF cho đến nay tách khí lại kém hiệu quả.
Các nhà khoa học Thụy Sĩ đã tìm cách làm
cho mạng lưới khung kinh loại hữu cơ trở nên
cứng hơn, giúp vật liệu thu giữ và tách các
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 13/41
phân tử khí. Theo cách nhất định, khung kim
loại hữu cơ bẫy khá tốt các phân tử.
Kumar Varoon Agrawal, nhà nghiên
cứu tại Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ,
cho biết: "Cấu trúc lưới tinh thể linh hoạt của
khung kim loại hữu cơ hấp thụ các phân tử
khí có kích thước thậm chí lớn hơn các khe lỗ,
gây khó khăn cho việc thực hiện tách bằng
màng một cách hiệu quả".
Để làm cho các mạng lưới của khung
kim loại hữu cơ trở nên trong suốt, các nhà
khoa học đã áp dụng kỹ thuật mới được gọi là
"xử lý nhiệt nhanh sau tổng hợp". Trong
phòng thí nghiệm, các nhà khoa học đã cho
khung kim loại hữu cơ phổ biến có tên là ZIF-
8 tiếp xúc với mức nhiệt 360 độ C chỉ trong
vài giây. Việc xử lý này đã giúp tăng cường
các liên kết hóa học của khung hữu cơ kim
loại và làm cứng cấu trúc mạng của vật liệu.
Sau xử lý, khung kim loại hữu cơ đã
được chứng minh có thể cải thiện khả năng
thu giữ cacbon. Các nhà khoa học hy vọng
vật liệu mới sẽ được sử dụng để ngăn CO2
thải ra trong các cơ sở công nghiệp xâm nhập
vào khí quyển. Nhưng công nghệ mới có
nhiều ứng dụng tách khí.
"Xử lý nhiệt nhanh là một kỹ thuật dễ
dàng và linh hoạt để cải thiện đáng kể hiệu
suất tách khí của màng MOF", Agrawal nói.
"Thông qua làm cứng mạng tinh thể, chúng
tôi có thể triển khai một số phương thức tách
khí hiệu quả".
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Advanced Materials.
N.P.D, theo upi.com
Nguồn: vista.gov.vn, 21/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc phát triển gỗ làm mát tiết kiệm năng lượng
Các nhà nghiên cứu của Mỹ và Trung Quốc
đã thiết kế một vật liệu làm từ gỗ có thể phản xạ
nhiệt hoặc bức xạ hồng ngoại và cắt giảm một nửa
chi phí năng lượng của các tòa nhà làm mát.
Nghiên cứu được công mới đây trên tạp
chí Science đã cho thấy "gỗ làm mát" màu
trắng, có độ phản xạ cao và có khả năng làm
mát bức xạ thụ động, hai tính chất chính trong
vật liệu kết cấu thế hệ tiếp theo.
Một phân tích mô hình hóa vật liệu ở
16 thành phố của Mỹ cho thấy rằng việc đánh
giá chi phí làm mát có thể được tiết kiệm từ
20% đến 50%, theo nghiên cứu.
Các tòa nhà chiếm hơn 40% tổng nhu
cầu năng lượng của Mỹ và một nửa trong số
đó được sử dụng để sưởi ấm và làm mát. Vật
liệu làm mát bức xạ thụ động có thể làm mát
một cấu trúc bằng cách làm chệch hướng bức
xạ mặt trời tới và tiêu tán năng lượng nhiệt mà
không tiêu thụ năng lượng.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học
Maryland, Đại học Colorado Boulder, Đại học
California Merced và Đại học Khoa học và
Công nghệ Huazhong đã nén gỗ và loại bỏ
lignin, đó là các polyme làm cho tế bào thực
vật cứng lại. Quá trình này làm cho gỗ chắc
hơn đáng kể và tạo ra một phần các sợi nano
xenlulo, tạo cho gỗ một bề mặt phản chiếu ánh
sáng mặt trời cao, theo nghiên cứu. Gỗ làm
mát, bền chắc hơn gỗ tự nhiên hơn tám lần, có
thể tản nhiệt vào ban ngày và ban đêm.
NASATI, theo Xinhua
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 14/41
Nguồn: vista.gov.vn, 24/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Vật liệu mới mở đường cho cuộc cách mạng xe chạy bằng Hydro
Các nhà khoa học đã tìm ra một loại
vật liệu cho phép giải quyết những vấn đề về
kích thước, độ phức tạp và chi phí của công
nghệ nhiên liệu hydro.
Một trạm nạp nhiên liệu của xe chạy bằng
hydro của hãng Toyota. Ảnh: Toyota
Khi thế giới dần dần hướng tới việc loại
bỏ những chiếc xe chạy bằng nhiên liệu hóa
thạch thì những công nghệ thay thế 'xanh' hơn
cũng được khám phá nhiều hơn, chẳng hạn
như xe chạy bằng pin điện.
Một công nghệ 'xanh' khác cũng có
tiềm năng lớn là hydro. Tuy nhiên, trở ngại lớn
của công nghệ này là do các hệ thống nhiên
liệu có kích thước, độ phức tạp và chi phí cao.
Cho đến gần đây, các nhà khoa học đã phát
hiện ra một loại vật liệu mới có thể giải quyết
những trở ngại trên.
Sơ đồ biểu diễn sự hình thành cấu trúc nano
KMH-1 bằng cơ chế tạo khuôn micelle
nghịch đảo, được sinh ra từ quá trình tự ráp
lại trong môi trường không phân cực. Nguồn:
Nghiên cứu của Skipper et al (2012)
Một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế,
do giáo sư David Antonelli của Đại học
Lancaster (Vương quốc Anh), đứng đầu, đã
phát hiện ra một vật liệu mới làm từ Mangan
hydride. Vật liệu mới sẽ được sử dụng để tạo
ra các sàng phân tử trong các thùng nhiên liệu
- nơi lưu trữ hydro và hoạt động cùng với các
tế bào nhiên liệu trong một "hệ thống" chạy
bằng hydro.
Vật liệu này, được gọi là KMH-1
(Kubas Mangan Hydride-1), cho phép thiết kế
các bình chứa nhiên liệu nhỏ hơn, rẻ hơn,
thuận tiện hơn và tiết kiệm năng lượng hơn so
với các công nghệ nhiên liệu hydro hiện có và
cho phép cung cấp năng lượng tốt hơn đáng kể
so với những phương tiện chạy pin.
Giáo sư Antonelli là Chủ tịch khoa hóa
học vật lý tại Đại học Lancaster và đã có hơn
15 năm nghiên cứu về lĩnh vực này. Ông cho
biết: “Giá sản xuất vật liệu này rất thấp và mật
độ năng lượng lưu trữ cao hơn nhiều so với
pin Ion Lithium. Chúng ta có thể có những hệ
thống pin nhiên liệu hydro giá thấp hơn 5 lần
so với pin Lithium, đồng thời chúng lại cho
phép đi quãng đường có thể dài hơn khoảng 4-
5 lần trước khi phải nạp đầy.”
Vật liệu này tận dụng một quá trình hóa
học gọi là ràng buộc Kubas (Kubas binding).
Quá trình này cho phép lưu trữ hydro bằng
cách phân tán các nguyên tử hydro trong phân
tử H2 và hoạt động ở nhiệt độ phòng. Điều
này giúp loại bỏ sự cần thiết phải phân tách và
liên kết giữa các nguyên tử H - một quá trình
đòi hỏi năng lượng và nhiệt độ cao cũng như
các thiết bị phức tạp.
Nhiên liệu hydro màu vàng có thể sử dụng trong
động cơ xe ô tô. Ảnh: Stock
Vật liệu KMH-1 cũng hấp thụ và lưu
trữ bất kỳ năng lượng dư thừa nào nên không
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 15/41
cần cung cấp nhiệt và làm mát từ bên ngoài.
Điều này có ý nghĩa quan trọng vì như thế sẽ
không cần dùng thiết bị nhiệt và làm mát trong
xe, khiến hệ thống có hiệu quả tiềm năng hơn
nhiều so với những thiết kế hiện có.
Sàng hoạt động bằng cách hấp thụ
hydro dưới áp suất khoảng 120 atm, thấp hơn
bình khí nén thông thường (và thấp hơn hệ
thống lưu trữ hydro hiện tại thường hoạt động
ở mức áp suất 700 atm). Sau đó, nó giải phóng
hydro từ bể vào pin nhiên liệu khi áp suất
được giải phóng.
Thí nghiệm của những nhà nghiên cứu
cho thấy vật liệu này cho phép lưu trữ lượng
hydro gấp 4 lần công nghệ nhiên liệu hydro
hiện có trên cùng thể tích. Điều này rất hữu ích
cho các nhà sản xuất xe vì nó cho phép họ
giảm kích thước bình nhiên liệu xuống 4 lần.
Thiết bị bay không người lái (Drones) đôi khi
cần rời khỏi lưới điện trong thời gian dài và đòi
hỏi nguồn pin duy trì được nhiều tuần
Mặc dù ứng dụng rõ ràng nhất của
KMH-1 là cho các phương tiện, bao gồm cả ô
tô và xe tải nặng nhưng các nhà nghiên cứu
cũng tin rằng nó có thể ứng dụng ở những lĩnh
vực khác.
“Vật liệu này có thể được sử dụng
trong các thiết bị dạng nhỏ gọn (portable) như
drone hoặc trong các bộ sạc di động cho phép
mọi người có thể đi những chuyến dã ngoại
kéo dài cả tuần mà không cần sạc thiết bị”, GS
Antonelli cho biết, “Ưu thế thực sự mang lại
chính là khi ta ở các tình huống đoán trước
được cần phải rời khỏi lưới điện trong thời
gian dài, chẳng hạn như trên hành trình xe tải
đường dài, drone và robot. Nó cũng có thể
được sử dụng để vận hành một ngôi nhà hoặc
khu dân cư ở những vùng xa xôi chỉ từ một pin
nhiên liệu.”
Công nghệ này đã được Đại học South
Wales cấp phép cho một công ty spin-out
mang tên Kubagen trong đó có một phần sở
hữu của GS. Antonelli. Ông cũng đóng vai trò
CEO/CTO của công ty này.
Nghiên cứu được trình bày chi tiết
trong bài báo "A Manganese Hydride
Molecular Sieve for Practical Hydrogen” xuất
bản trên tạp chí Energy and Environmental
Science vào giữa tháng 1/2019. Nghiên cứu
này được tài trợ bởi công ty ô tô Chrysler
(FCA), Viện nghiên cứu Hydro-Quebec, Đại
học South Wales, Hội đồng nghiên cứu khoa
học vật lý và kỹ thuật (EPSRC), Chính phủ xứ
Wales và Đại học Manchester.
Ngô Hà, theo ĐH Lancaster
Nguồn: khoahocphattrien.vn,
27/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Sản xuất vật liệu xây dựng có khả năng chống nước từ tro bay
Với lượng tro, xỉ, thạch cao phát sinh từ
các nhà máy nhiệt điện, đốt than tại Việt Nam
ngày càng tăng, cần có những có giải pháp
hiệu quả để tái sử dụng nguồn nguyên liệu này
nhằm tránh nguy cơ tiềm ẩn ô nhiễm môi
trường đất, nước và không khí khu vực xung
quanh. Ngày nay, nhiều nghiên cứu đã ứng
dụng tro bay làm vật liệu xây dựng thay cho
các vật liệu xây dựng truyền thống, như xi
măng Portland, gạch,… vì nhiều lý do.
Đầu tiên, tro bay là một nguồn
aluminosilicate giàu silica/alumina, đồng thời
phản ứng giữa tro bay với kiềm ở nhiệt độ
tương đối thấp, ở khoảng 60-150°C do đó tro
bay là nguồn nguyên liệu lý tưởng cho quy
trình geopolymerization (là quy trình địa hóa,
tổng hợp vật liệu geopolyme). Thứ hai, kích
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 16/41
thước hạt của tro bay thường rất nhỏ (
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 17/41
Ngoài việc xử lý bằng siêu âm, các nhà
khoa học còn bổ sung các axit chống oxy hóa.
Do tính toàn vẹn của các hạt tinh bột bị vỡ
nên độ nhớt của dung dịch tăng. Phương pháp
chế biến tinh bột ngũ cốc mới này cho phép
thu được các loại tinh bột có khả năng giữ
nước cao. Nói cách khác, độ nhớt của tinh bột
tăng lên và được làm giàu bằng các hoạt chất
sinh học.
Tinh bột biến tính là một sản phẩm tự
nhiên hình thành các nhũ tương và hydrogel
bền hơn để sản xuất thực phẩm. Đối với các
loại thực phẩm khác nhau, cần một loại tinh
bột biến tính nhất định: ví dụ, tinh bột độ nhớt
cao dùng trong sản xuất thạch, còn tinh bột với
độ nhớt thấp trong sản xuất các sản phẩm
nướng. Nghiên cứu này có ý nghĩa đối với Ấn
Độ do năng suất khoai tây cao ở đất nước này.
Ngoài ra, ở Ấn Độ, tinh bột thường được thêm
vào thuốc như một thành phần đảm bảo để cơ
thể hấp thụ các yếu tố có lợi.
Trong tương lai gần, nhóm khoa học
cũng có kế hoạch phát triển màng phân hủy
sinh học dựa trên tinh bột để làm bộ đồ ăn
dùng một lần. Hiện tại, nhóm nghiên cứu đang
tìm kiếm tỷ lệ tối ưu của các thành phần và
phương thức xử lý chế phẩm. Thực hiện thành
công dự án này sẽ giải quyết vấn đề tái chế
nhựa: bát đĩa, bao bì làm từ màng sinh học sẽ
được tái chế, không gây hại cho môi trường.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 26/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Giải pháp đột phá giúp bảo quản sữa tươi đến 60 ngày
Các nhà khoa học Úc đã tìm ra một kỹ
thuật có thể kéo dài hạn sử dụng của sữa tươi
đến hai tháng mà không cần làm mát, quan
trọng là vẫn giữ được màu sắc và hương vị tự
nhiên của sữa.
Sữa nói chung là một trong những
thức uống dinh dưỡng ngày càng phổ
biến. Tuy nhiên, khái niệm sữa tiệt trùng và
sữa tươi vẫn còn khá mơ hồ với nhiều người
tiêu dùng. Hiểu rõ được khái niệm này bạn sẽ
biết vì sao phát hiện sau đây vô cùng quan
trọng về giá trị về kinh tế nói chung, cũng
như về sức khỏe người tiêu dùng nói riêng.
Sữa là một trong những thức uống dinh dưỡng
ngày càng phổ biến
Sữa tiệt trùng là loại sữa tươi trải qua 2
lần xử lý ở nhiệt độ cao (140-143 độ C) nhằm
diệt tất cả các vi khuẩn có khả năng làm hỏng
sữa. Vì thế sữa tiệt trùng có thể giữ được 6 -
12 tháng, tuy nhiên nó sẽ làm hao hụt những
vi khuẩn có lợi và cần bổ sung một số phụ
liệu khác.
Trong khi đó, thời hạn sử dụng của sữa
tươi được bán trên thị trường là ba tuần trong
điều kiện bảo quản lạnh. Chỉ riêng ở Anh,
ước tính có khoảng 330.000 tấn sữa bị lãng
phí mỗi năm, chiếm 7% sữa được sản xuất. Ở
quốc gia này, sữa cũng là một trong những
mặt hàng thực phẩm lãng phí nhất.
Thông thường sữa tươi kéo dài không quá ba tuần
trong tủ lạnh
Mới đây, các nhà khoa học của công ty
công nghệ Naturo, ở Queensland, Úc đã tìm
ra một kỹ thuật cho phép sữa tươi tồn tại đến
hai tháng và không cần làm mát. Tốt hơn nữa:
kỹ thuật này, đảm bảo rằng sữa vẫn giữ được
màu sắc và hương vị tự nhiên. Tuy nhiên, lấy
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 18/41
lí do bảo mật, công ty này từ chối tiết lộ chính
xác công nghệ này là gì.
Naturo cho biết sản phẩm sữa tươi của họ đã được
xuất khẩu sang Trung Quốc
Ông Jeff Hastings, Kĩ sư nông nghiệp -
Giám đốc điều hành của Naturo, cho biết quá
trình này dựa trên "một loạt các công nghệ
hiện có".
Thanh trùng là một quá trình nung
nóng sữa tươi ở nhiệt độ cao trong khoảng 15
giây sau đó được xử lí "hết sức thô bạo, và
nhiều lợi khuẩn sẽ hao hụt qua quá trình đó.
Chúng tôi không làm như thế", Hastings nói.
"Chúng tôi không làm những điều
đó." Kỹ thuật của Naturo không bao gồm xử
lý nhiệt và rõ ràng là giữ lại màu sắc và
hương vị tự nhiên của nó như là trực tiếp từ
con bò.
Phương pháp xử lý sữa mới được Cơ
quan An toàn Thực phẩm bang Victoria phê
duyệt và đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết cho
việc tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh.
"Chúng tôi đã xác minh thông tin và
quá trình họ thực hiện để đạt được kết quả đó.
Đó là phương phá tương đương hoặc thực sự
tốt hơn so với thanh trùng", ông Andrew
Wilson, đại diện cơ quan này, cho biết.
Quá trình mới dùng nhiệt nhưng có thể
tiêu diệt nhiều vi khuẩn chứa mầm bệnh hơn
phương pháp tiệt trùng, trong đó có cả vi
khuẩn Bacillus cereus mà việc thanh trùng
không phải lúc nào cũng loại bỏ được.
Phương pháp này giữ lại được các enzyme và
vitamin hữu ích, bao gồm B2 và B12. Điều
này không chỉ giúp đảm bảo các chất dinh
dưỡng trong sữa giúp con người khỏe mạnh
hơn mà còn giúp giảm lãng phí thực phẩm.
Kỹ sư nông nghiệp Jeff Hastings với chiếc máy
mà ông đã phát triển để ngăn bơ chuyểnsang
màu nâu. Ảnh: Jennifer Nichols/ABC news
Naturo trước đây đã phát triển một quy
trình dựa trên áp suất không khí để bảo quản
bơ và ngăn chúng chuyển sang màu nâu. Có
thể quy trình bảo quản sữa tươi cũng tương tự.
Hiện công ty này đang lên kế hoạch
thành lập một nhà máy sữa thí điểm tại Úc, có
khả năng sản xuất 10 triệu lít sữa mỗi năm.
"Việc thành lập nhà máy thí điểm sẽ góp phần
đảm bảo cho những người nông dân có được
lợi nhuận tốt nhất ngay trên trang trại của họ",
Hastings cho biết thêm.
Phạm Lan, theo ABC.net
Nguồn: khampha.vn, 27/05/2019 Trở về đầu trang
**************
"Lưỡi điện tử" dùng để nếm thức ăn
Nếu như chúng ta làm công việc kiểm
tra hương vị của thực phẩm cay, thì chỉ có thể
thử vài mẫu một lúc, sau đó, vị giác sẽ trở nên
giảm độ nhạy. Tuy nhiên, "lưỡi điện tử" mới
được phát triển có thể đo chính xác độ cay
của nhiều loại thực phẩm trong nhiều giờ.
Được phát triển bởi các nhà khoa học tại Đại
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 19/41
học Washington- Hoa Kỳ, lưỡi điện tử được
thử nghiệm trên các mẫu phô mai paneer ở
nhiều mức độ capsaicin khác nhau. Khi so
sánh với những tình nguyện viên nếm thử
những mẫu tương tự, người ta thấy thiết bị có
thể phát hiện chính xác nồng độ capsaicin rất
lâu sau thời điểm mà vị giác của con người
chỉ có thể "đưa ra".
Ngoài ra, lưỡi điện tử không chỉ đưa ra
những phép đo khách quan hơn so với con
người, mà còn tốt hơn trong việc phát hiện sự
khác biệt về độ cay ít và nhiều trong thực
phẩm. Điều đó cho thấy, các nhà nghiên cứu
tin rằng đây sẽ là thiết đánh giá tốt về hương vị
cay của thức ăn. Công nghệ mới này sẽ nhằm
mục đích hợp lý hóa quá trình nêm thử gia vị.
Nhà nghiên cứu Courtney Schlossareck,
cho biết: Thiết bị sẽ giúp những người thử
nghiệm thu hẹp lựa chọn xuống còn hai hoặc
ba mẫu cho một bảng thử nếm. Nếu họ bắt đầu
từ 20 công thức khác nhau.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Journal of Food Science. Những thiết bị
lưỡi điện tử trước đây được thiết kế để đánh
giá mật ong, bia, trái cây và rượu vang.
Đ.T.V, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 20/05/2019 Trở về đầu trang
**************
SINH HỌC
Kỹ sư sinh hóa lập trình các tế bào như bộ xử lý tín hiệu số
Các tế bào được lập trình sẵn để tạo ra các
thành phần protein phiên mã (phía trên bên trái) tỷ lệ
với cường độ của tín hiệu đến. Khi đạt đến độ tới hạn,
các thành phần tự lắp ráp (phía trên bên phải)
thành một phức hợp protein bắt đầu phiên mã của
gen mục tiêu được lập trình sẵn. Càng nhiều mô-đun
phức hợp (dưới, từ trái sang phải), thì phức hợp
càng phản ứng mạnh hơn với ngưỡng tới hạn
Các nhà sinh học tổng hợp đã bổ xung
quá trình xử lý tín hiệu từ analog sang kỹ
thuật số có độ chính xác cao vào mạch di
truyền của các tế bào sống. Nghiên cứu này
mở rộng đáng kể cách ứng dụng các tín hiệu
hóa học, vật lý và môi trường nhằm mục đích
kích hoạt các phản ứng được lập trình sẵn từ
các sinh vật.
Sử dụng một quy trình sinh hóa gọi là
“hợp tác”, các nhà nghiên cứu đã thiết kế
được các mạch di truyền có thể giải mã các
tần số tín hiệu phụ thuộc và tiến hành lọc tín
hiệu động.
“Hợp tác kỹ thuật tổng hợp” cho phép
các nhà nghiên cứu thực hiện kiểu xử lý tín
hiệu tổ hợp mà các tế bào thực hiện một cách
tự nhiên để thực hiện các nhiệm vụ phức tạp,
giống như các quá trình phát triển và phân
biệt phôi.
Qua hàng tỷ năm chọn lọc tự nhiên,
các tế bào kích hoạt gen quá sớm hoặc quá
muộn sẽ bị loại bỏ. Thiên nhiên thường làm
điều đó thông qua một quá trình gọi là “tự
hợp tác”, trong đó một số protein được gọi là
các yếu tố phiên mã tự lắp thành một phức
hợp lớn hơn.
Các nhà nghiên cứu đã thiết kế việc tự
hợp tác bằng cách phát minh ra một hệ thống
mô đun gồm các thành phần protein tổng hợp
có thể lắp thành các phức hợp có kích thước
khác nhau. Trong hệ thống này, các tế bào
được thiết kế được lập trình để tạo ra các thành
phần lắp ráp để đáp ứng với bất kỳ đầu vào
nào mà các kỹ sư muốn sử dụng để kích hoạt
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 20/41
mạch. Ví dụ, trong các thí nghiệm của họ, các
nhà nghiên cứu đã lập trình men để đáp ứng
với hai loại thuốc khác nhau được sử dụng ở
các nồng độ khác nhau thông qua một thiết bị
vi lỏng. Theo cách này, nồng độ của các phân
tử thành phần được tạo ra bên trong men tăng
và giảm để đáp ứng với đầu vào tương tự -
nồng độ của thuốc trong buồng thử nghiệm.
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 04/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Vi khuẩn tiêu thụ metan có thể được sử dụng để sản xuất nhiên liệu trong tương lai
Được biết đến với khả năng loại bỏ khí
metan khỏi môi trường và biến đổi khí thành
nhiên liệu có thể sử dụng, vi khuẩn
methanotroph từ lâu đã được các nhà nghiên
cứu chú ý. Nhưng cụ thể làm cách nào để các
vi khuẩn này thực hiện phản ứng chuyển đổi
phức tạp theo cách tự nhiên vẫn là bí ẩn.
Giờ đây, nhóm nghiên cứu tại trường
Đại học Northwestern đã phát hiện ra rằng
enzym chuyển đổi metan thành metanol làm
nhiệm vụ xúc tác phản ứng này tại vị trí có
chứa ion đồng. Phát hiện này có thể dẫn đến
sự ra đời của các chất xúc tác nhân tạo mới có
khả năng chuyển đổi khí metan thành metanol
có thể sử dụng thông qua một cơ chế dễ dàng.
"Đặc điểm và cấu trúc của các ion kim
loại đóng vai trò xúc tác vẫn khó xác định
trong nhiều thập kỷ qua", Amy C.
Rosenzweig, đồng tác giả của nghiên cứu cho
biết. "Nghiên cứu của chúng tôi mở ra một
bước tiến lớn trong việc tìm hiểu cách vi
khuẩn chuyển đổi metan thành metanol”.
“Thông qua xác định sự tham gia của
loại đồng vào phản ứng, chúng tôi đã xây
dựng được nền tảng xác định phương thức tự
nhiên để thực hiện một trong những phản ứng
khó nhất", Brian M. Hoffman, đồng tác giả
cho biết.
Bằng cách oxy hóa mêtan và chuyển
đổi thành metanol, vi khuẩn methanotroph
không chỉ loại bỏ khí nhà kính có hại ra khỏi
môi trường, mà còn sản sinh được nhiên liệu
bền vững có thể sử dụng cho ô tô và nhiều
ứng dụng khác.
Các quy trình công nghiệp hiện nay
làm nhiệm vụ xúc tác phản ứng chuyển đổi
metan thành metanol, đòi hỏi áp suất rất lớn
và nhiệt độ khắc nghiệt lên tới hơn 1.300 độ
C. Tuy nhiên, vi khuẩn methanotroph lại thực
hiện phản ứng ở nhiệt độ phòng và hoàn toàn
miễn phí. Nghiên cứu đã được công bố trên
tạp chí Science.
N.T.T, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 17/05/2019 Trở về đầu trang
**************
Y DƯỢC
Thụ thể nhân tạo phân biệt hormone nam và nữ
Các nhà nghiên cứu tại Tokyo Tech đã
tiết lộ rằng một thụ thể nhân tạo ưu tiên liên
kết các hoocmon steroid nam từ hỗn hợp nội
tiết tố nam và nữ trong nước. Dựa trên những
phát hiện của họ, họ đã thành công trong việc
chuẩn bị một hệ thống phát hiện nguyên mẫu
cho các kích thích tố nam ở cấp độ nanogram.
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 21/41
Các thụ thể tổng hợp ưu tiên liên kết một hormone
nam. Các thụ thể có một khoang bên trong với
đường kính khoảng một nanomet
Thành tựu này có thể dẫn đến sự phát
triển của các thiết bị phân tích siêu nhạy trong
chẩn đoán y tế và xét nghiệm chống doping
trong thể thao.
Các nhà hóa học tại Phòng thí nghiệm
Hóa học và Khoa học Đời sống của Tokyo
Tech đã thiết kế và phát triển một thụ thể tổng
hợp hình viên nang có thể phân biệt giữa các
hoocmon steroid nam và nữ. Cụ thể, thụ thể
thể hiện mối quan hệ ràng buộc cao bất
thường đối với nội tiết tố nam androgenic
trong nước.
Thành tựu này là một ví dụ điển hình
của thiết kế y sinh - việc tạo ra các hệ thống
bắt chước các ý tưởng từ thiên nhiên. Các tác
giả cho biết: "Các thụ thể sinh học tự nhiên
có thể nhận ra sự khác biệt nhỏ về cấu trúc
giữa các hoocmon steroid nam và nữ bằng
cách sử dụng túi protein, tuy nhiên thật khó
khăn khi mô phỏng chức năng này một cách
nhân tạo”.
Chìa khóa cho sự đột phá của nghiên
cứu là thiết kế độc đáo của khoang (bắt chước
túi tự nhiên nhưng sử dụng các thành phần
không tự nhiên) trong thụ thể. Khoang này,
được bao quanh bởi các khung polyaromatic
được giữ cùng với các ion kim loại, cho phép
thụ thể hoạt động như một vật chứa bán cứng
- một loại đủ linh hoạt để bổ sung cho hình
dạng của hormone và tạo ra các tương tác liên
kết hiệu quả.
Nghiên cứu, được thực hiện bởi
Michito Yoshizawa, Masahiro Yamashina và
đồng nghiệp, là sự tiếp nối công việc trước
đây của nhóm về phát triển các hạt nano sáng
tạo cho một loạt các ứng dụng sinh học trong
lĩnh vực y tế và môi trường.
Các thí nghiệm của họ cho thấy thụ thể
tổng hợp ưu tiên liên kết với hormone giới
tính steroid theo thứ tự tương tự như thụ thể
androgen tự nhiên, bắt đầu bằng các hormone
nam như testosterone và androsterone, tiếp
theo là hormone nữ như progesterone và beta-
estradiol. Khi được đặt trong hỗn hợp nội tiết
tố nam và nữ lơ lửng trong dung dịch nước ở
60 độ C trong mười phút, thụ thể chỉ liên kết
testosterone với độ chọn lọc hơn 98%. Mức
độ chọn lọc cao này đã đạt được ngay cả khi
hỗn hợp chứa một lượng lớn nội tiết tố nữ.
Sử dụng phân tích tinh thể học tia X, các nhà
nghiên cứu đã quan sát thấy khoang hình cầu
bị biến dạng thành hình elip khi đóng gói
testosterone. Họ nói rằng sự thay đổi về hình
dạng này góp phần tăng cường tương tác giữa
các phân tử giữa thụ thể và hormone.
Đi thêm một bước nữa, nhóm nghiên
cứu đã nghĩ ra cách sử dụng thụ thể để phát
hiện một lượng cực nhỏ hormone nam. Họ đã
chuẩn bị một phức hợp thuốc nhuộm thụ thể
phát ra huỳnh quang màu xanh lục mà không
có testosterone. Các nhà nghiên cứu cho biết:
"Chúng tôi hình dung rằng thụ thể tổng hợp
của chúng tôi sẽ được sử dụng để phát triển
các thiết bị phân tích siêu thực tế cho các
hormone giới tính steroid, từ các công cụ y tế
đến kiểm soát doping trong thể thao, trong
tương lai gần".
P.T.T, theo nanowerk.com
Nguồn: vista.gov.vn, 04/05/2019 Trở về đầu trang
**************
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 22/41
Phương pháp mới phát hiện vi khuẩn trong vài phút
Tình trạng các bác sỹ và bệnh nhân
phải chờ nhiều ngày để có được kết quả xét
nghiệm chính xác có thể sẽ được cải thiện
nhờ một thiết bị mới giúp phát hiện vi khuẩn
chỉ trong vài phút.
Thiết bị mới sử dụng công nghệ vi mô
để bẫy các tế bào vi khuẩn đơn lẻ, sau đó có
thể được nhìn dưới kính hiển vi điện tử.
Sau khi tìm thấy vi khuẩn, mẫu được
tiếp xúc với kháng sinh để xác định xem
chủng này có kháng thuốc hay không.
Phương pháp này cho phép các bác sỹ,
trong vòng 30 phút, xác định có vi khuẩn hay
không để đưa ra đơn thuốc phù hợp cho
người bệnh và đã rút ngắn đáng kể thời gian
chờ xét nghiệm từ ba đến năm ngày làm việc
trong phòng thí nghiệm như hiện nay.
Thiết bị này được phát triển bởi một
nhóm nghiên cứu tại trường đại học bang
Pennsylvania (Mỹ) và công trình này được
đăng trên Kỷ yếu của Viện hàn lâm Khoa học
Quốc gia Mỹ vào ngày 6/5 vừa qua.
Theo Vnews
Nguồn: vietnamplus.vn, 07/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu cho thấy sự mất cân bằng microbiome trên da có khả năng bùng phát bệnh chàm
Một nhóm các nhà nghiên cứu liên kết
với nhiều tổ chức ở Hoa Kỳ đã tìm thấy mối
liên hệ giữa sự mất cân bằng microbiome ở
da và bùng phát bệnh chàm. Trong bài báo
của họ được công bố trên tạp chí Science
Translational Medicine, nhóm nghiên cứu mô
tả nghiên cứu về microbiome trên da và vi
khuẩn Staphylococcus aureus, có liên quan
đến bệnh chàm.
Trong thập kỷ qua, các nhà khoa học
đã tìm hiểu thêm các nghiên cứu microbiome
của con người về microbiome ruột. Và dẫn
đến sự liên kết ngạc nhiên với nhiều điều kiện
khác nhau. Trong nỗ lực mới này, họ đã xem
xét microbiome da và mối liên hệ có thể của
nó với bệnh viêm da tạng dị ứng, còn được
gọi là bệnh chàm.
Bệnh chàm xuất hiện dưới dạng các
mảng da thô ráp đôi khi bị viêm. Trong nhiều
trường hợp, mụn nước hình thành, dẫn đến
ngứa, gãi và chảy máu. Đã có nhiều nghiên
cứu về bệnh này nhưng vẫn chưa xác định
được nguyên nhân hay cách chữa trị. Họ thấy
rằng việc bùng phát xảy ra khi hệ thống miễn
dịch phản ứng quá mức với tác nhân kích
thích và tấn công vào hàng rào bảo vệ da.
Trong nỗ lực mới này, các nhà khoa
học đã thực hiện những bước để xác định xem
bệnh chàm có liên quan đến sự mất cân bằng
hệ vi sinh vật trên da hay không. Họ đã
nghiên cứu một loại vi khuẩn microbiome cụ
thể là S.aureus và mối liên kết của nó với
bệnh chàm.
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng
S.aureus có nhiều trên da của những người bị
bệnh chàm. Và những bệnh nhân này có xu
hướng có nồng độ tế bào thấp hơn trong việc
xây dựng hàng rào bảo vệ da - đây là lý do tại
sao S.aureus có thể phát triển mạnh.
Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa
S.aureus và quần xã sinh vật trên da, các nhà
nghiên cứu đã thu thập mẫu từ da người và
nuôi dưỡng cụm khuẩn của vi khuẩn trên da
chuột. Họ phát hiện ra rằng S.aureus đã sử
dụng quá trình gọi là "cách thức vi khuẩn
giao tiếp" như một phương tiện liên lạc giữa
-
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 06/2019 23/41
các cá thể S.aureus. Vi khuẩn sử dụng nó để
biết khi nào giải phóng độc tố và enzyme phá
vỡ hàng rào bảo vệ da, cho phép vi khuẩn tiếp
cận các bộ phận bên trên da, gây bùng phát.
Họ còn phát hiện thêm, khi vi khuẩn khác
sống trên da thực sự chống lại nhiều độc tố
bằng cách sử dụng protein gây cản trở cách
thức giao ti