bẢn tin sỐ 07/2019 - utc2.edu.vnutc2.edu.vn/uploads/img/files/bantin_khcnvn_07-2019.pdf ·...
TRANSCRIPT
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 1/54
BẢN TIN SỐ 07/2019
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Nghiên cứu đề xuất giải pháp triển khai IPv6 trong các hệ thống thông tin di động
Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn mạng truy nhập quang thụ động GPON - Phần giao diện
quản lý và điều khiển ONT
Nghiên cứu các vấn đề bảo mật trong hệ thống thông tin di động 4G LTE
Chế tạo thiết bị chỉ thị và cảnh báo sự cố trên lưới điện trung áp
Chương trình máy tính bayesvl trong môi trường R: Đóng góp Việt cho khoa học thế giới
Nghiên cứu ứng dụng GIS trong quản lý và dự báo dân số tại các huyện ngoại thành
TP.HCM – Trường hợp cụ thể tại huyện Bình Chánh
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Nghiên cứu nâng cao khả năng cơ động cho đại đội pháo phòng không 37MN-2N phục vụ
bắn trong hành quân
Chế tạo hệ thống sấy hồng ngoại thông minh DS.IR-03
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nền cấu trúc sợi nano
Công nghệ chế tạo bột thạch anh từ nguồn nguyên liệu trong nước
Mở khóa tiềm năng vật liệu 2D
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng xúc tác quang hóa BiVO4 trong phân hủy hợp chất hữu
cơ độc hại sử dụng ánh sáng nhìn thấy
Liên hệ: Phòng Cung Cấp Thông tin
ĐC: 79 Trương Định, Quận 1, TP.HCM
ĐT: 38243826 – 38297040 (102-203) - Fax: 38291957
Website: www.cesti.gov.vn - Email: [email protected]
TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ THỐNG KÊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 2/54
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Trà thảo dược từ lá xoài và dó bầu
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Phát hiện một giống loài ve sầu mới tại Việt Nam
Tìm ra chất ức chế cỏ dại xâm lấn từ vỏ trấu
Việt Nam có kết quả bước đầu về văcxin chống dịch tả heo châu Phi
Nghiên cứu quy trình tinh sạch exopolysaccharide từ môi trường nuôi cấy Ophiocordyceps
sinensis bổ sung dầu ô liu và khảo sát hoạt tính sinh học của chúng
Tạo β - glucosidase siêu chịu nhiệt tái tổ hợp từ cổ khuẩn Pyrococcus furiosus trong
Escherichia coli để sản xuất isoflavone từ đậu nành
Y HỌC
Ứng dụng WebGIS quản lý bệnh truyền nhiễm
Nghiên cứu phân lập các hợp chất có khả năng kháng tế bào ung thư từ cam thảo nam
Thoái hóa khớp: yếu tố nguy cơ và di truyền
Phát hiện loài cây rừng kháng được bốn dòng ung thư
Hoạt tính ức chế bệnh ung thư và HIV từ cây xạ đen
NÔNG NGHIỆP
VNPT Smart Agri: Thêm giải pháp hỗ trợ nông dân thời 4.0
Gieo "mùa vàng" trên đất mặn
Phương pháp xử lý sầu riêng ra bông nghịch vụ
Nghiên cứu ứng dụng chất tạo màng sinh học nhằm kéo dài thời gian bảo quản quýt
Lại tạo thành công 3 giống thanh long cao cấp mới
Lai tạo thành công giống nho mới chất lượng cao từ nho dại
Nano bạc trong phòng và trị bệnh viêm móng bò sữa
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu giải pháp khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước tại các vùng núi cao Karst
Đông Bắc Việt Nam. Áp dụng thử nghiệm tại vùng cao nguyên đá Đồng Văn
SMARTPH: Tự động quan trắc nước thải, khí thải và bụi ngay tại nguồn
Nghiên cứu ứng dụng nghiệp vụ mô hình bất thủy tĩnh để nâng cao chất lượng dự báo thời
tiết cho khu vực Việt Nam
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 3/54
LĨNH VỰC KHÁC
Tạp chí đầu tiên của Việt Nam được SCImago xếp hạng Q1 về lĩnh vực Vật liệu
Ứng dụng tiến bộ khoa học trong khai thác xa bờ
Nghiên cứu phát triển loại hình vận tải hành khách công cộng bằng đường thủy trên địa bàn
TP.HCM
Việt Nam gặt hái thành công lớn tại Triển lãm Quốc tế về Sáng chế của phụ nữ
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 4/54
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Nghiên cứu đề xuất giải pháp triển khai IPv6 trong các hệ thống thông tin di động
Ngành công nghiệp viễn thông không
dây đã chứng kiến một sự tăng trưởng to lớn
trong mười năm qua với trên bốn tỉ thuê bao
không dây trên thế giới. Hệ thống điện thoại
tương tự thế hệ thứ nhất cung cấp truyền
thông tiếng nói với khoảng cách giới hạn. Hệ
thống số thế hệ thứ hai hứa hẹn khả năng cao
hơn và tốt hơn về chất lượng âm thanh so với
thế hệ thứ nhất. Tuy nhiên, chuyển vùng trở
nên phổ biến hơn nhờ có các tiêu chuẩn và
phân bổ phổ chung khắp các quốc gia đặc biệt
là ở châu Âu. Các hệ thống di động thế hệ thứ
hai được triển khai rộng rãi là GSM (hệ thống
thông tin di động toàn cầu) và CDMA (đa
truy nhập phân chia theo mã). Giống như hệ
thống tương tự 1G, hệ thống 2G đầu tiên
được thiết kế cho truyền thoại. Tuy nhiên, tốc
độ dữ liệu chậm hơn so với tốc độ truyền dữ
liệu được cung cấp trên các kết nối dial-up.
Sáng kiến ITU-R đối với IMT-2000 mở
đường cho sự phát triển tới 3G. Một tập các
yêu cầu như là tốc độ tối đa 2 Mb/s và hỗ trợ
tính di động của phương tiện được xuất bản
tuân theo sáng kiến IMT-2000. Các mạng
GSM và CDMA đều hình thành nên các dự
án mạng 3G riêng (3GPP và 3GPP2) để phát
triển IMT-2000 dựa theo các chuẩn cơ bản
trên công nghệ CDMA.
Để thúc đẩy sự phát triển của các hệ
thống thông tin di động, năm 2017, các nhà
nghiên cứu tại Học viện Công nghệ Bưu
chính viễn thông đã thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu đề xuất giải pháp triển khai IPv6 trong
các hệ thống thông tin di động”.
Trên cơ sở phân tích các giải pháp kĩ
thuật và công nghệ chuyển đổi IPv6, kinh
nghiệm triển khai IPv6 trên thế giới, hiện
trạng phát triển mạng di động tại Việt Nam,
xu thế và yêu cầu phát triển mạng và dich vụ
di động trong tương lai, kế hoạch và khả năng
của các nhà mạng di động tại Việt nam, đề tài
đưa ra lựa chọn giải pháp và lộ trình triển
khai chung cho các hệ thống thông tin di
động phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt
Nam, cụ thể như sau:
- Các công việc chuẩn bị và hỗ trợ quá
trình chuyển đổi (thực hiện trước và trong quá
trình chuyển đổi):
- Giai đoạn 1 (2017-2019): Chuyển đổi
Dual-stack
- Giai đoạn 2 (2020-2025): Triển khai
464XLAT
Đề tài cũng đã đưa ra một số đề xuất
cho các cơ quan quản lý, nhằm thúc đẩy và hỗ
trợ quá trình chuyển đổi sang IPv6, và một số
khuyến nghị thực hiện chuyển đổi cho các
nhà mạng và nhà cung cấp dịch vụ di động
với mục tiêu hỗ trợ và giúp ích cho quá trình
triển khai IPv6 được thuận lợi, đạt được các
lợi ích về kinh doanh và đảm bảo chất lượng
dịch vụ cho khách hàng trong quá trình
chuyển đổi. Các yếu tố hỗ trợ bao gồm: đầu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 5/54
tư, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập
khẩu, thuế giá trị gia tăng, tín dụng, tiền thuê
đất, thuê mặt nước (Điều 19 Nghị định số
46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014), ưu đãi đối
với doanh nghiệp hoạt động trong khu Công
nghệ thông tin tập trung và thị trường. Ngoài
ra, đề tài cũng khuyến nghị về các tiêu chuẩn
Kiến trúc chuyển đổi IPv4-IPv6 trong mạng
di động như 3GPP TS 23.401: "General
Packet Radio Service (GPRS) enhancements
for Evolved Universal Terrestrial Radio
Access Network (E-UTRAN) access"; 3GPP
TS 23.402: "Architecture enhancements for
non-3GPP accesses"; 3GPP TS 23.060:
"General Packet Radio Service (GPRS)
Service description; Stage 2"; 3GPP TS
24.008: "Mobile radio interface Layer 3
specification; Core network protocols; Stage
3"; 3GPP TR 23.981: "Interworking aspects
and migration scenarios for IPv4 based IMS
implementations". Các tiêu chuẩn giải pháp
chuyển đổi (XLAT, NAT64/DNS64, GI-DS-
Lite) cũng được đưa ra như RFC 6146:
“Stateful NAT64: Network Address and
Protocol Translation from IPv6 Clients to
IPv4 Servers”; RFC 6147: “DNS64: DNS
Extensions for Network Address Translation
from IPv6 clients to IPv4 Servers”; IETF
RFC 7618: “Dynamic Allocation of Shared
IPv4 Addresses”.
Nguồn: N.P.D (NASATI), vista.gov.vn,
27/06/2019
Trở về đầu trang
*************
Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn mạng truy nhập quang thụ động GPON - Phần giao diện quản lý và điều khiển ONT
Mạng PON đã được phát triển trong
khoảng 15 năm trở lại đây và được hai tổ
chức thực hiện tiêu chuẩn hóa, đó là ITU-T
và IEEE. EPON và 10G-EPON là các tiêu
chuẩn mới nhất được IEEE phê chuẩn.
APON, BPON, GPON, XG-PON là các tiêu
chuẩn do ITU-T phát triển. Cũng là tiêu
chuẩn hóa cho mạng PON nhưng giữa hai
công nghệ có những điểm khác biệt. EPON
và GPON đều cho phép tốc độ đạt đến Gbps.
Tuy nhiên EPON dựa trên dựa trên chuẩn
Ethernet IEEE 802.3 được hiệu chỉnh để hỗ
trợ kết nối điểm - đa điểm. Lưu lượng
Ethernet được truyền tải nguyên bản và tất cả
các thuộc tính ethernet được hỗ trợ đầy đủ.
Còn GPON lại khác, đặc biệt là về giao thức
truyền tải, trong đó, các dịch vụ ethernet được
tương thích ở các giao diện ethernet OLT và
ONU, đóng gói khung GEM và truyền tải
khung đồng bộ từ đầu cuối đến đầu cuối.
Lựa chọn công nghệ GPON để triển
khai tại Việt Nam đã được các nhà mạng thực
hiện, đến thời điểm hiện nay, thuê bao
internet quang chiếm tỷ lệ lớn trong các nhà
cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên việc tiêu chuẩn
hóa GPON lại chưa được thực hiện đầy đủ.
Bên cạnh việc các quốc gia, doanh
nghiệp phát triển, ứng dụng công nghệ GPON
phổ biến như hiện nay thì họ tiêu chuẩn GPON
của ITU- G.984 còn là tài liệu tham khảo, là
cơ sở cho các tổ chức tiêu chuẩn khác phát
triển các tiêu chuẩn cho thiết bị như các tiêu
chuẩn về tương thích của ETSI xây dựng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 6/54
Như vậy, để cho việc triển khai áp dụng
tiêu chuẩn được hiệu quả thì Việt Nam cần
xây dựng các tiêu chuẩn quan trọng cho mạng
quang thụ động dựa trên công nghệ GPON.
Một trong các tiêu chuẩn thành phần quan
trọng đó là tiêu chuẩn cho - Phần giao diện
quản lý và điều khiển ONT. Vì thế, đề tài:
“Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn mạng truy
nhập quang thụ động GPON - Phần giao diện
quản lý và điều khiển ONT” đã được các nhà
khoa học tại Học viện Công nghệ Bưu chính
viễn thông thực hiện vào năm 2017. ThS.
Nguyễn Việt Thắng làm chủ nhiệm đề tài.
Đề tài nhằm mục tiêu chuẩn hóa cho
hệ thống truy nhập quang thụ động GPON.
Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn về Hệ thống truy
nhập quang thụ động GPON.
Thông qua nghiên cứu tình hình ứng
dụng trong nước và ngoài nước về công nghệ
mạng GPON và nhhiên cứu tình hình tiêu
chuẩn hóa công nghệ GPON trong nước và
ngoài nước, đề tài đã:
- Xây dựng dự thảo tiêu chuẩn về “Hệ
thống truy nhập quang thụ động GPON -
Giao diện quản lý và điều khiển ONT”
- Xây dựng dự thảo tiêu chuẩn về
“Mạng truy nhập quang thụ động GPON -
Giao diện quản lý và điều khiển ONT”. Dựa
thảo tiêu chuẩn được cấu trúc theo hướng dẫn
mới nhất của Vụ KHCN - Bộ thông tin và
truyền thông bao gồm: 1. Phạm vi áp dụng;
Tài liệu viện dẫn; Thuật ngữ và định nghĩa;
Ký hiệu và từ viết tắt Báo cáo đề tài 010/17-
KHKT-TC; Sự thỏa thuận; Các điều khoản và
mô hình tham chiếu; Các yêu cầu đặt tả giao
diện quản lý; Giao thức độc lập MIB cho
OMCI; Mô tả MIB; Kênh kiểm soát và quản
lý ONT (OMCC); Giao thức điều khiển và
quản lý ONT.
Nguồn: N.P.D (NASATI), vista.gov.vn,
27/06/2019
Trở về đầu trang
*************
Nghiên cứu các vấn đề bảo mật trong hệ thống thông tin di động 4G LTE
Nhóm nghiên cứu tại Viện Khoa học
kỹ thuật bưu điện thuộc Học viện Công nghệ
bưu chính viễn thông do ThS. Lê Xuân Trung
làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu các vấn đề bảo mật trong hệ thống thông
tin di động 4G LTE”.
Đề tài đã nghiên cứu các vấn đề bảo
mật trong hệ thống thông tin di động 4G LTE,
trong đó đã hệ thống lại các vấn đề bảo mật
của hệ thống GSM và 3G UMTS. Các vấn đề
bảo mật khi thay đổi trạng thái: đăng ký và
xóa đăng ký, chuyển đổi trạng thái giữa idle
và connected, trạng thái idle di động, chuyển
giao được nghiên cứu. Các giải thuật mã hóa
trong EPS bao gồm giải thuật Null, giải thuật
mã hóa, giải thuật toàn vẹn cũng được đề cập.
Từ đó, đề tài đã tổng hợp các nguy cơ bảo
mật ở mạng LTE và trình bày các giải pháp
bảo vệ mạng LTE một cách hiệu quả để khắc
phục các nguy cơ này. Cuối cùng, đề tài đã
đưa ra khuyến nghị với nhà mạng, người sử
dụng và Bộ thông tin truyền thông.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 7/54
Để bảo vệ mạng thông tin di động 4G
và bảo vệ khách hàng, các nhà mạng di động
4G cần phải:
- Hiểu biết sâu sắc về kiến trúc bảo
mật 4G LTE, các tính năng bảo mật ở miền
mạng truy nhập, miền mạng, miền người sử
dụng, miền dịch vụ; phân tích các nguy cơ
khác nhau và các giải pháp bảo vệ cho mạng
di động 4G LTE;
- Tiến hành một phương pháp có hệ
thống để thực hiện các giải pháp bảo mật
trong mạng của mình; các giải pháp bảo mật
các điểm đơn lẻ là không đủ;
- Phân chia mạng thành các vùng bảo
mật logic, bằng sơ đồ phân chia này, nhà
mạng di động có thể đánh giá mức độ quan
trọng của thông tin trong mỗi vùng, các kiểu
tấn công trong mỗi vùng và cơ chế bảo vệ tốt
nhất trong mỗi vùng;
- Cần xác định kiểu lưu lượng và các
dịch vụ dữ liệu được cung cấp, sau đó phân
tích các nguy cơ bảo mật cụ thể đối với các
dịch vụ này nhằm quyết định lựa chọn giải
pháp bảo mật phù hợp;
- Thận trọng lựa chọn, thay đổi các
chính sách bảo mật phù hợp phản ánh đúng
các nguy cơ bảo mật trong mạng của mình; và
phản ánh tốt các nguy cơ bảo mật mới;
- Triển khai đa dạng các sản phẩm bảo
mật trong mạng như các bức tường lửa, các
hệ thống phát hiện và ngăn ngừa xâm nhập
(IDP), các mạng riêng ảo (VPN) ở các điểm
phù hợp trong mạng;
- Các nhà mạng di động cần hợp tác với
nhau, hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ
Internet (ISP), và các nhà cung cấp dịch vụ viễn
thông khác để đảm bảo rằng mức độ bảo mật
nhỏ nhất vẫn rất mạnh chống lại các tấn công;
Người sử dụng nên:
- Người dùng đầu cuối nên cài các
phần mềm diệt virus để giảm thiểu rủi ro bị
mất dữ liệu, mất các thông tin nhạy cảm.
- Tắt GPS khi không thực sự cần thiết
để tránh lộ thông tin về vị trí cá nhân;
- Không cài đặt các phần mềm từ
nguồn không đáng tin cậy;
- Cập nhật phần mềm theo định kỳ của
nhà sản xuất thiết bị để đảm bảo tính bảo mật
và vá lỗi hệ thống;
- Thông tin đến nhà mạng trong trường
hợp có thông tin tính cước hoặc thiết bị UE
xuất hiện tín hiệu bất thường.
Về việc tiêu chuẩn hoá theo các
khuyến nghị của các tổ chức tiêu chuẩn quốc
tế, Bộ Thông tin và Truyền thông nên xem
xét xây dựng một bộ tiêu chuẩn về bảo mật
mạng 4G LTE và khuyến nghị các nhà mạng
di động 4G LTE thực hiện theo các đặc tả kỹ
thuật sau đây:
- Kiến trúc bảo mật của mạng 4G cần
được xây dựng dựa trên một tập các tính năng
bảo mật và các cơ chế bảo vệ được định nghĩa
ở đặc tả 3GPP TR33.401 “System
Architecture Evolution (SAE); Security
architecture” và TR33.402 “ Security aspects
of non-3GPP accesses”;
- Bảo mật lớp báo hiệu và điều khiển
NAS và AS: xây dựng dựa trên tài liệu của
3GPP TS 24.301 Non-Access-Stratum (NAS)
protocol for Evolved Packet System (EPS);
Stage 3.
- Bảo mật truy nhập mạng: Nhà mạng
có quyền lựa chọn các thuật toán tạo khoá và
xác thực AKA. Thuật toán phải đáp ứng được
các yêu cầu được đặc tả ở TS 33.105
“Cryptographic algorithm requirements”. Để
đạt được sự liên hoạt động giữa các sự thực
hiện USIM khác nhau và HSS, sẽ trở nên dễ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 8/54
dàng hơn nếu sử dụng một thuật toán tiêu
chuẩn.
- Bảo mật miền mạng: Đối với bảo mật
miền mạng có thể tham khảo các đặc tả sau:
TR33.805 Study on Security Assurance
methodology for 3GPP network products và
TR33.806 Pilot development of Security
Assurance Specification (SCAS) for MME
(Mobility Management Entity) network
product class. Phương pháp cơ bản để bảo
mật miền mạng IPsec. IPsec được đặc tả
trong các tiêu chuẩn của RFC 2401-2412. Các
cơ chế bảo mật IPsec được sử dụng trong kiến
trúc bảo mật 3GPP cho cả bảo mật các mạng
dựa trên IP và bảo mật truy nhập IMS. IPsec
là phần bắt buộc ở IPv6, và lựa chọn ở IPv4.
Các thuộc tính bảo mật của IMS được đặc tả
trong 3GPP 33.203 “IMS access security” bắt
đầu ở phiên bản 5. Khuyến nghị về các thuộc
tính bảo mật IMS nên thực hiện theo các đặc
tả kỹ thuật của 3GPP.
Nguồn: NASATI, vista.gov.vn,
26/06/2019
Trở về đầu trang
*************
Chế tạo thiết bị chỉ thị và cảnh báo sự cố trên lưới điện trung áp
Dự án do Công ty Cổ phần Điện lực
Khánh Hoà chủ trì thực hiện. ThS. Nguyễn
Thanh Lâm chủ nhiệm. Hội đồng KH&CN
cấp tỉnh đã tổ chức họp nghiệm thu ngày
05/6/2019, hội đồng đánh giá cao về kết quả
của dự án với một số sản phẩm vượt trội so
với hợp đồng đã ký với Sở KH&CN và sản
phẩm có tính thực tiễn cao, kết quả xếp loại
xuất sắc.
Qua thời gian thực hiện từ tháng
12/2017 - 3/2019, kết quả dự án: Đã sản xuất
hoàn thiện và lắp đặt 100 thiết bị SRFI trên
lưới điện KHCP; 1 phần mềm cấu hình thiết
bị trên smartphone; 1 phần mềm cấu hình
thiết bị trên máy tính; 1 phần mềm thu thập
và giám sát hệ thống sự cố lưới điện (FDS);
bộ bản vẽ thiết kế thiết bị SRFI; bảng số liệu
theo dõi đánh giá quá trình lắp đặt thử
nghiệm. Tính năng của thiết bị: là phát hiện
sự cố, có tín hiệu cảnh báo, cài đặt và reset
sau sự cố, truyền thông (qua GMS (tin nhắn
SMS), hồng ngoại IR, RF tần số 408.925Mhz,
anten), kết nối SCADA.
Thiết bị chỉ thị và cảnh báo sự cố SRFI
đã tiết kiệm được chi phí vô cùng lớn so với
mua sản phẩm ngoại nhập. Sau khi đưa vào
khai thác, thiết bị đã thể hiện tiện ích và ưu
điểm vượt trội, góp phần giảm thời gian xử lý
sự cố, hỗ trợ công tác quản lý vận hành và
điều độ hệ thống điện phân phối, nhờ đó
ngành điện có thể nâng cao năng lực giám sát
quản lý lưới điện, góp phần nâng cao trình độ
tin cậy cung cấp điện để phục vụ khách hành
tốt hơn, giảm thiệt hại cho ngành điện và cho
nền kinh tế. Dự án đã tạo ra sản phẩm điện tử
thông minh, giải pháp kỹ thuật đáp ứng nhu
cầu tiêu thụ trong nước và ngoài nước, góp
phần tăng tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm công
nghệ cao được chế tạo trong nước, tiết kiệm
được lượng lớn ngoại tệ nhập khẩu cho
đất nước.
Nguồn: Sở KH&CN Khánh Hoà,
khoahocphattrien.vn, 09/06/2019
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 9/54
*************
Chương trình máy tính bayesvl trong môi trường R: Đóng góp Việt cho khoa học thế giới
Hình ảnh được sản xuất bởi chương trình bayesvl.
Mới đây, chương trình máy tính
‘bayesvl’ chạy trên môi trường R do TS.
Vương Quân Hoàng và kĩ sư Lã Việt Phương
(Trung tâm Nghiên cứu Xã hội Liên ngành
ISR, Đại học Phenikaa) thiết kế và phát triển
chính thức được ra mắt trên CRAN - hệ thống
thư viện chuẩn của R - tại địa chỉ xuất bản:
https://cran.r-project.org/package=bayesvl.
Chương trình bayesvl được thiết kế với
định hướng sư phạm, hỗ trợ người sử dụng
làm quen với phương pháp thống kê Bayesian
dựa trên mô hình lưới Bayesian, mô phỏng
MCMC, hình ảnh hóa các thông số kĩ thuật và
kết quả.
Có thể hiểu đơn giản bayesvl giúp dựng
mô hình rồi tạo ra code stan, và sau đó tận
dụng các hàm vẽ đồ họa của chương trình.
Hướng tới khoa học mở, ngay từ trong quá
trình phát triển, chương trình đã được các tác
giả đăng tải trên trang chia sẻ phần mềm và
code GitHub.
Kĩ sư Lã Việt Phương, một trong hai
tác giả phát triển chương trình, cho biết:
“bayesvl được lên ý tưởng từ cuối năm 2017
đến nay. Trong thời gian đó, phương pháp
Bayesian đã được Trung tâm ISR nghiên cứu,
thử nghiệm, và sử dụng thành công trong các
công bố khoa học của trung tâm. Tuy nhiên,
việc ứng dụng phương pháp này cần nhiều
thời gian làm quen do sự phức tạp của các
chương trình đã được phát triển sẵn như
rstan. Chúng tôi nhận thấy nhu cầu thiết thực
cho một chương trình thống kê Bayesian dễ sử
dụng, nên đã bắt tay vào thiết kế và triển khai
dự án. Sau hơn 18 tháng, và hơn 3000 dòng
code, chương trình bayesvl cuối cùng đã chính
thức được CRAN chấp nhận và xuất bản.”
Hình ảnh được sản xuất bởi chương trình bayesvl.
Đầu năm 2018 đến nay, Trung tâm ISR
đã áp dụng phương pháp Bayesian thành công
trong nghiên cứu về truyện cổ tích và văn hóa
Việt Nam trên tạp chí Palgrave
Communications thuộc Nature Research. Sau
đó, từ đầu năm 2019 đến nay, trung tâm đã sử
dụng bayesvl trong 2 công bố trên tạp chí Data
[ESCI; Scopus] thuộc nhà xuất bản MDPI, và
một bản thảo về tiếp biến văn hóa và phố cổ
Hà Nội đang trong quá trình phản biện.
Ngày 18/5/2019, chương trình được
nộp vào hệ thống CRAN và sau 4 lần chỉnh
sửa theo yêu cầu của kĩ thuật viên của CRAN,
phiên bản 0.8.5 chính thức được xuất bản vào
ngày 24/5/2019 với tên gọi: bayesvl: Visually
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 10/54
Learning the Graphical Structure of Bayesian
Networks and Performing MCMC with 'Stan'.
Hình ảnh được sản xuất bởi chương trình bayesvl.
Anh Nguyễn Minh Hoàng, du học sinh
tại trường Đại học Ritsumeikan Asia Pacific
University, Nhận Bản, đã sử dụng bayesvl từ
phiên bản 0.6 khi chương trình vẫn còn trong
giai đoạn phát triển. Anh nhận xét: “Mình đã
tìm đọc và làm quen với phương pháp
Bayesian trong suốt thời gian nghiên cứu thạc
sĩ từ năm 2017. Tuy nhiên, việc ứng dụng nó
vào thực tế lại rất khó khăn do bản thân
phương pháp, dù mạnh mẽ, nhưng chưa phổ
biến do sự phức tạp của các yếu tố toán học và
code máy tính. Chính vì vậy, ngay khi biết đến
bayesvl trên GitHub, mình đã thử sử dụng theo
hướng dẫn. Chương trình này được thiết kế dễ
hiểu, giảm thiểu thời gian làm quen tiếp cận
để sử dụng thành thạo code máy tính. Đồng
thời, bayesvl cũng kích thích người dùng đầu
tư vào công đoạn thiết kế đầu bài cũng như mô
hình tính toán để quá trình triển khai thuận
lợi. Mình khá ưng ý với sư đầu tư vào sản xuất
hình ảnh của chương trình. Mô hình hay kết
quả đều được thể hiện rõ ràng qua đồ họa,
giúp quá trình làm luận án của mình thuận lợi
hơn rất nhiều.”
Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay,
ngay cả các nghiên cứu lĩnh vực KHXH&NV
cũng đang dần chuyển mình trước làn sóng dữ
liệu, khoa học mở, và phương pháp thống kê.
Khi các tranh luận về ý nghĩa thống kê và tái
xác lập kết quả vẫn đang là chủ đề rất được
quan tâm đối với giới khoa học toàn cầu,
chương trình bayesvl do hai tác giả Việt Nam
xuất bản là một đóng góp quan trọng về
phương pháp luận cho cộng đồng khoa học
Việt Nam và thế giới. Trong tương lai, các tác
giả hy vọng sẽ có thêm nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nước tìm đến và sử dụng
bayesvl.
R là ngôn ngữ lập trình và môi trường
phần mềm hoàn toàn miễn phí được thiết kế
cho tính toán thống kê và đồ họa. Hiện nay, R
được sử dụng rộng rãi cho việc phát triển các
chương trình thống kê và phân tích dữ liệu.
Là ngôn ngữ lập trình mã nguồn mở, các tính
năng cho R luôn được mở rộng và cải thiện
thông qua các gói phần mềm (package),
thường là do người dùng thiết kế và xây
dựng. Các gói phần mềm này mở rộng thêm
tính năng thống kê hay sản xuất hình ảnh,
phục vụ nhu cầu phức tạp và đa dạng của
người dùng.
CRAN hay Comprehensive R Archive
Network là thư viện lưu trữ, phân phối các
phiên bản chính thức của R và hơn 15.000
gói phần mềm, hay các phần code bổ sung
cho R. Bên cạnh CRAN, người dùng còn có
thể tìm kiếm thêm các gói phần mềm này trên
các hệ thống khác như GitHub, Omegahat
hay Bioconductor.
Nguồn: Hoàng Phương Hạnh
(Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam),
khoahocphattrien.vn, 13/06/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 11/54
Nghiên cứu ứng dụng GIS trong quản lý và dự báo dân số tại các huyện ngoại thành TP.HCM – Trường hợp cụ thể tại huyện Bình Chánh
Đề tài do tác giả Phan Đình Phước và
cộng sự (Trung tâm Phát triển KH&CN Trẻ)
thực hiện nhằm ứng dụng hệ thống thông tin
địa lý (GIS) xây dựng dữ liệu phục vụ công
tác quản lý và dự báo dân số cho huyện Bình
Chánh, TP.HCM.
Cùng với quá trình đô thị hóa, dân số
các quận ngoại thành TP.HCM đang có xu
hướng gia tăng ngày càng nhanh. Chỉ tính
riêng giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ gia tăng dân
số trung bình 5 huyện ngoại thành là
3,7%/năm. Trong đó, những huyện có tỷ lệ
gia tăng cao như huyện Bình Chánh (5,7%),
Nhà Bè (5,6%). Theo dự báo dân số từ nay
đến năm 2025 thì khu vực ngoại thành có tỷ
lệ gia tăng cao nhất tại TP.HCM, đặc biệt là
huyện Bình Chánh nằm ở cửa ngõ Tây Nam
của thành phố, tiếp giáp với các tỉnh khu vực
miền Tây và là nơi tập trung nhiều khu, cụm
công nghiệp do chính sách di dời các nhà máy
sản xuất ra ngoại thành. Những vấn đề này đã
làm cho Bình Chánh trở thành huyện có tốc
độ gia tăng dân số cao nhất thành phố.
Để quản lý và dự báo gia tăng dân số
một cách hiệu quả, công nghệ GIS sẽ tham
gia vào quá trình. Các nhóm dữ liệu thu thập
tại các địa phương (thông qua khảo sát, phỏng
vấn) sẽ được xử lý và nhập trực tiếp vào hệ
thống cơ sở dữ liệu GIS. Do vậy, các số liệu
này sẽ được quản lý hoàn toàn bằng GIS ngay
từ trong quá trình điều tra. Tại các nước tiên
tiến có sử dụng GIS trong việc thực hiện các
cuộc tổng điều tra, dữ liệu kinh tế - xã hội
thường rất chi tiết, thậm chí chi tiết với mức
độ từng cá nhân (theo dạng hồ sơ ẩn danh),
từng ô phố, vì vậy khả năng quản lý dân số
thông qua GIS cũng được hỗ trợ mạnh hơn
với nền tảng dữ liệu tham chiếu địa lý này.
Trong đề tài này, nhóm tác giả thực
hiện phân tích thực trạng công tác quản lý dân
số tại TP.HCM; xây dựng cơ sở dữ liệu về
quy mô dân số, mật độ dân số, cơ cấu dân số,
gia tăng dân số các xã thuộc huyện Bình
Chánh nhằm quản lý và dự báo dân số thông
qua công nghệ GIS; đề xuất giải pháp và mô
hình ứng dụng phù hợp nhằm quản lý và dự
báo dân số.
Kết quả, đã xây dựng CSDL địa lý về
dân số của huyện Bình Chánh dưới dạng
geodatabase bao gồm: bản đồ nền (giao
thông, thủy hệ, hành chính ở tỉ lệ 1/25.000);
số liệu dân số (quy mô dân số, biến động dân
số, dự báo dân số, lao động, hộ, nhân khẩu,
dân tộc, tôn giáo,… trong giai đoạn 2007-
2015). Thiết kế, lập trình WebGIS hỗ trợ
công tác quản lý và dự báo dân số trên địa
bàn huyện Bình Chánh với giao diện thiết kế
linh hoạt, phù hợp cho từng đối tượng (cán bộ
quản lý và người dân) sử dụng trên nền tảng
công nghệ PostgreSQL/PostGIS, Geoserver,
PHP, OpenLayers, GeoExt, ExtJS, ArcGIS
Desktop, Udig.
Đề xuất phương án triển khai WebGIS
hỗ trợ công tác quản lý và dự báo dân số trên
địa bàn huyện Bình Chánh liên quan đến các
khía cạnh bao gồm: lựa chọn đơn vị tiếp
nhận; đầu tư hệ thống server; cập nhật, sao
lưu dữ liệu cho WebGIS; phổ biến WebGIS
đến người sử dụng; đào tạo cán bộ kĩ thuật
phụ trách vận hành WebGIS.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
01/07/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 12/54
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Nghiên cứu nâng cao khả năng cơ động cho đại đội pháo phòng không 37MN-2N phục vụ bắn trong hành quân
Các hệ thống phòng không cơ động
luôn được quan tâm phát triển và luôn ở trình
độ công nghệ cao. Trong các dạng tổ hợp
phòng không cơ động, các hệ thống phòng
không tầm thấp giữ vai trò quan trọng, phục
vụ cho nhiệm vụ phòng không nói chung
cũng như phục vụ cho bảo vệ một đối tượng
cụ thể nào đó, đặc biệt là bảo vệ cho đội hình
hành quân. Chính vì vậy, tính cơ động của
chúng là nội dung được quan tâm đặc biệt. Để
đảm bảo tính cơ động, các tổ hợp phòng
không tầm thấp thường được tích hợp trên các
loại xe hạng nặng, bánh lốp hoặc bánh xích.
Trên xe được tích hợp các loại khí tài trinh sát
như rađa, hệ thống quang điện tử (đo xa laser,
camera ánh sáng ngày và camera ảnh nhiệt
hồng ngoại), Các hệ thống điều khiển bám sát
mục tiêu, các hệ thống điều khiển truyền
động pháo và điều khiển hoả lực, các hệ
thống thông tin liên lạc, chỉ huy... và hệ thống
tự động ổn định đường ngắm của hệ trinh sát
và hoả lực để dảm bảo khả năng tác chiến
trong điều kiện cơ động.
Qua phân tích trên, việc nâng cao khả
năng cơ động của vũ khí, trang bị kỹ thuật nói
chung và nâng cao khả năng cơ động cho các
trận địa PPK 37mm-2N đánh ngày và đêm là
một vấn đề hết sức quan trọng, đặc biệt trong
chiến tranh hiện đại, khi mà các cuộc tập kích
đường không có độ chính xác rất cao, diễn ra
cả ban ngày và ban đêm, trong đó ban đêm là
chủ yếu. Vì thế, nhóm nghiên cứu tại Viện Tự
động hóa kỹ thuật quân sự do ThS. Trần
Ngọc Bình làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu nâng cao khả năng cơ động
cho đại đội pháo phòng không 37MN-2N
phục vụ bắn trong hành quân” từ năm 2012
đến 2017.
Sau khi thử nghiệm trong phòng thí
nghiệm, các mô đun được lắp đặt hoàn thiện
thành hệ thống. Việc lắp đặt luôn tuân thủ
đúng qui trình theo thiết kế đã được phê
duyệt. Sản phẩm của đề tài được thiết kế chế
tạo mới theo các thiết kế của đại đội pháo
phòng không đánh đêm tự động đã được phê
duyệt và thiết kế mới đảm bảo các tính năng
vượt trội của đề tài.
Sản phẩm của đề tài đã được lắp đặt
bao gồm: Xe chỉ huy, Bàn điều khiển hệ
hống, Hệ thống la bàn và GPS trên xe chỉ
huy, Hệ thống la bàn trên pháo, Hệ thống
GPS trên pháo, Hệ thống so kim điện tử trên
pháo, Hệ thống điều khiển truyền động trên
pháo, Trung tâm thu thập và điều khiển trên
pháo, Hệ thống nguồn trên pháo, Hệ thống
truyền vô tuyến và hữu tuyến, Hệ thống phân
phối vào ra và nguồn ra pháo, Hệ thống
Quang điện tử, Hệ thống pháo thử nghiệm tại
xưởng và Hệ thống Pháo bắn nghiệm thu tại
trường bắn TB1.
Nguồn: NASATI, vista.gov.vn,
26/06/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 13/54
Chế tạo hệ thống sấy hồng ngoại thông minh DS.IR-03
TS. Nguyễn Tấn Dũng đang kiểm tra lại đèn hồng ngoại và các thành viên trong nhóm nghiên cứu
RG-04 đang vận hành hệ thống sấy.
Với sự hướng dẫn của TS.Nguyễn Tấn
Dũng, cùng các cộng sự ThS. Lê Tấn Cường
và KS. Lê Văn Hoàng, Trường ĐH sư phạm
kỹ thuật TP.HCM, nhóm nghiên cứu RG-04
gồm các sinh viên năm cuối ngành công nghệ
thực phẩm: Ngô Vũ Đông Khải, Lê Tấn Tài,
Phạm Ngọc Huy, Nguyễn Phúc Quang Bảo,
Hoàng Hải, Nguyễn Bá Tùng, Mai Nguyễn
Anh Tú, Hoàng Khánh Dương đã tính toán,
thiết kế và chế tạo thành công hệ thống sấy
hồng ngoại thông minh DS.IR-03.
TS.Nguyễn Tấn Dũng phấn khởi nói:
“Làm chủ được công nghệ này, Việt Nam
chúng ta hoàn toàn đủ tự tin và có đủ năng lực
triển khai ứng dụng vào thực tế sản xuất, thay
thế máy móc thiết bị ngoại nhập, góp phần
phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ sau thu
hoạch của đất nước. Bên cạnh đó, làm nâng
cao giá trị hàng hóa nông sản sấy khô phục vụ
cho tiêu dùng và xuất khấu, giúp ngành nông
nghiệp ổn định đầu ra và để phát triển”.
Hệ thống sấy hồng ngoại thông minh
DS.IR-03 là một phiên bản hoàn toàn khác
các phiên bản trước đây DS.IR-01 và DS.RI-
02 về mặt kỹ thuật, kiểm soát quá trình sấy
thông minh hơn, tiết kiệm năng lượng hơn.
Quá trình sấy bằng bức xạ hồng ngoại có
bước sóng (700 nm – 1 mm), điều khiển được
cường độ bức xạ E (W/m2) và sự truyền nhiệt
của chúng không phải là thông thường theo
quy luật của Fourier và Newton, mà do dao
động nhiệt của các photon phát ra từ bức xạ
hồng ngoại va chạm và truyền động năng cho
các electron trong môi trường sấy và vật liệu
sấy, dẫn đến vật liệu sấy cũng như môi trường
trong buồng sấy nhanh đạt đến nhiệt độ yêu
cầu và đồng đều, làm quá trình tách ẩm xảy ra
nhanh hơn, rút ngắn thời gian sấy, kết thúc
quá trình sấy hơm sớm hơn.
TS.Nguyễn Tấn Dũng cho biết thêm, hệ
thống sấy có các thông số công nghệ được
kiểm soát rất chặt chẽ, như: nhiệt độ môi
trường sấy, vận tốc tác nhân sấy, thời gian sấy
và cường độ bức xạ hồng ngoại bằng chương
trình trên máy tính để khi tiến hành quá trình
sấy tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt nhất, độ
ẩm đạt yêu cầu, kéo dài được thời gian sử
dụng, đồng thời giảm tối thiểu chi phí năng
lượng, giảm giá thành sản phẩm. Với giá chi
phí điện năng tăng như hiện nay thì đây được
xem là giải pháp công nghệ tối ưu, đã khắc
phục được những nhược điểm của hệ thống sấy
hồng ngoại DS.IR-01 và DS.RI-02 cũng như
các hệ thống sấy đối lưu thông thường khác.
TS.Nguyễn Tấn Dũng (ĐT:
0918.801670) nói: “Chúng tôi mong muốn
rằng hệ thống sấy hồng ngoại thông minh
DS.IR-03 sớm được triển khai ứng dụng vào
sản xuất tại các nhà máy, các doanh nghiệp
chế biến thực phẩm. Giá thành một hệ thống
máy chỉ bằng khoảng từ 1/3 - 1/2 so với ngoại
nhập cùng một năng suất, bảo hành 2 năm.
Trong khí đó, hệ thống máy ngoại nhập bảo
hành 1 năm, không có tính năng điều khiển
cường độ bức xạ, không điều khiển tốc độ tác
nhân sấy.
Nguồn: Anh Thư,
khoahocphothong.com.vn, 17/06/2019
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 14/54
*************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nền cấu trúc sợi nano
Vật liệu nền cấu trúc nano do nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Tài nguyên và Môi trường
TPHCM tổng hợp được gọi là Ti0.7W0.302 , Ti0.7Ir0.302
Nhóm nghiên cứu Công nghệ nano và
năng lượng tái tạo thuộc trường Đại học Tài
nguyên và Môi trường TPHCM đã tổng hợp
được vật liệu nền cấu trúc nano thay thế vật
liệu nền carbon đen Vulcan XC-72 được sử
dụng phổ biến trong pin nhiên liệu nhằm tăng
tuổi thọ và hiệu suất sử dụng của pin.
Pin nhiên liệu (Fuel Cell) là loại pin
không cần sạc sau mỗi lần sử dụng, có mức thải
ô nhiễm gần như bằng 0 và có thể sử dụng
không ngừng miễn là pin được tiếp nhiên liệu
(Hidro/methanol và oxi) liên tục. Hiện nay, pin
nhiên liệu đã được ứng dụng trong các lĩnh vực
như sản xuất ô-tô, các thiết bị điện tử cầm tay
để tạo ra các thiết bị thân thiện với môi trường.
Thông thường người ta vẫn sử dụng
chất xúc tác để tăng tốc độ phản ứng điện cực,
trong đó chất xúc tác hiệu quả nhất cho các
phản ứng là Platinum hoặc hợp kim của
Platinum với các kim loại khác. Nhược điểm
của loại xúc tác này là giá thành cao và khả
năng phân bố hạt kém, nên cần có các vật liệu
nền cho hạt Platiunum bám vào để tăng diện
tích tiếp xúc, thúc đẩy phản ứng điện hóa xảy
ra tốt hơn ở hai cực. Hiện nay, carbon là vật
liệu nền được sử dụng rộng rãi do chúng có
hạt xúc tác nhỏ và tương đối đồng đều, độ dẫn
điện cao, ổn định hóa học tốt, giá thành rẻ,
nhưng cũng có một số hạn chế nhất định như
độ bền kém trong môi trường điện hóa và môi
trường axit, lực tương tác rất yếu giữa carbon
và kim loại Platinum dẫn tới vật liệu xúc tác
Platinum bị hòa tan, phân tách và kết tụ làm
giảm hiệu suất và tuổi thọ của pin khi hoạt
động lâu dài.
Việc tìm kiếm và phát triển vật liệu nền
nhằm thay thế carbon vẫn là thách thức với các
nhà nghiên cứu thế giới. Ở Việt Nam, một
nhóm nghiên cứu cũng cố gắng đi theo hướng
tiếp cận này. “Mục tiêu của chúng tôi là tìm
kiếm một loại vật liệu mới bền hơn với môi
trường điện hóa của pin và có thể cải thiện
hoạt tính xúc tác của Platinum tốt hơn, trong
khi cố gắng đáp ứng được những ưu điểm
tương đương với carbon”, PGS. TS Hồ Thị
Thanh Vân, trưởng nhóm nghiên cứu Công
nghệ nano và năng lượng tái tạo của ĐH Tài
Nguyên và Môi trường TP. HCM, cho biết.
Các kết quả thử nghiệm của nhóm cho
thấy Platinum xúc tác phủ trên vật liệu nền
nano Ti0.7W0.302 có độ bền cao hơn đáng kể so
với vật liệu xúc tác Platinum/Carbon đang
được thương mại. Thử nghiệm sử dụng
phương pháp quét thế tuần hoàn (tuần hoàn
điện thế của một điện cực làm việc và đo kết
quả dòng điện) cho thấy trong 2000 vòng quét
thế tuần hoàn, hoạt tính xúc tác của vật liệu
xúc tác Pt/Ti0.7W0.3O2 trong pin nhiên liệu chỉ
giảm khoảng 19%, thấp hơn gần 2 lần so với
vật liệu nền carbon đen (khoảng 35%). Bên
cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng tìm ra cơ chế
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 15/54
chuyển điện tử từ vật liệu nền nano sang kim
loại xúc tác Platinum dẫn tới lực tương tác
mạnh giữa vật liệu và chất xúc tác.
Để tạo ra vật liệu nano này, họ dùng
phương pháp thủy nhiệt - biến tính TiO2 (oxit
titan) bằng Vonfram, phản ứng được tiến hành
ở nhiệt độ thấp (200 độ C) không sử dụng chất
hoạt động bề mặt, chất ổn định và xử lý nhiệt
sau phản ứng.Theo công bố nghiên cứu của
nhóm trên tạp chí International Journal of
Hydrogen Energy tháng 10/2018, Ti0.7W0.3O2
có độ dẫn điện cao và kích thước hạt nhỏ (xấp
xỉ 9 nm), diện tích bề mặt riêng lớn gần bằng
với diện tích bề mặt riêng của vật liệu nền
carbon đen (hiện được sử dụng rộng rãi trong
pin nhiên liệu ~230 m2/g), giúp tăng khả năng
phân tán kim loại xúc tác Pt (hoạt tính xúc tác)
từ đó giảm lượng kim loại quý Platinum sử
dụng trong pin nhiên liệu.
Nhóm nghiên cứu Công nghệ nano và
năng lượng tái tạo được thành lập năm 2014
với 6 thành viên chính từ hai trường ĐH Tài
nguyên và Môi trường TP HCM và Đại học
Bách khoa, ĐHQGHCM. Nghiên cứu về pin
nhiên liệu là lĩnh vực mới ở Việt Nam nên
trong giai đoạn đầu mới thành lập, nhóm cũng
gặp khá nhiều khó khăn trong việc triển khai
các ý tưởng của mình. Ví dụ vấn đề mấu chốt
là tìm loại vật liệu thích hợp trong khi mỗi
chất có tỷ lệ, quy trình, cách thức tổng hợp
khác nhau nên khi bắt đầu, nhóm đã phải thử
và sai hàng trăm lần trước khi tìm được công
thức phù hợp. Anh Hậu chia sẻ, có những lúc
2-3 tháng trời liên tiếp lên phòng thí nghiệm từ
7h sáng đến 8h tối nhưng hầu như không có
kết quả như mong muốn. Chi phí bỏ ra cho
những thí nghiệm không hề rẻ khi sử dụng
muối kim loại H2PtCl6 để chế hạt nano. “Có
những ngày gắn hoài không được, nhóm đã
phải tốn cả vài triệu một lần như thế”, anh
Hậu cho biết. Tuy nhiên, cả nhóm đều động
viên nhau thúc lại tinh thần để đi tiếp. Mặc dù
các thành viên ở hai trường đại học khác nhau,
nhưng mọi người vẫn thường xuyên gặp mặt
và lên phòng thí nghiệm ít nhất 3 lần/tuần, ai
có ý tưởng thì đều chia sẻ ra để làm thử.
Những nghiên cứu về pin nhiên liệu
của nhóm đã trải qua nhiều năm phát triển, bắt
đầu bằng nguồn kinh phí đề tài NAFOSTED
năm 2014 và đề tài cấp Sở KH&CN TP.HCM
năm 2015. Việc tiếp cận nguồn lực cho nghiên
cứu trên khá thuận lợi, nhóm nghiên cứu cho
biết họ đã tìm kiếm thông tin trên website
NAFOSTED về thời gian và cách thức đăng
ký rồi tự tin nộp vào vì hướng nghiên cứu rất
mới. Đến nay nhóm đã dần phát triển, đạt
được những kết quả nhất định trong việc
khẳng định vị thế nghiên cứu của mình. Riêng
trong năm 2017-2018 đã công bố 10 bài báo
quốc tế, trong đó có 4 công trình trên tạp chí
ISI uy tín (nhóm Q1) về năng lượng và kỹ
thuật hóa học.
Tháng 5/2019 vừa qua, đề tài “Nghiên
cứu tổng hợp vật liệu nền cấu trúc nano
Ti0.7W0.3O2 cho xúc tác platinum ứng dụng
trong pin nhiên liệu” do nghiên cứu sinh Phạm
Quốc Hậu làm chủ nhiệm đã được Trung tâm
Phát triển khoa học và công nghệ trẻ, Thành
đoàn TPHCM nghiệm thu (với 3 bài báo quốc
tế). Trước đó, năm 2018, nghiên cứu sinh
Huỳnh Thiên Tài, thành viên nhóm nghiên
cứu, cũng nghiệm thu đạt loại xuất sắc đề tài
“Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano mới Ir-
doped TiO2 làm chất nền cho xúc tác Platin
(Pt) ứng dụng trong pin nhiên liệu” (với 3 bài
báo quốc tế). Với những kết quả sơ bộ của
hướng nghiên cứu vật liệu mới này, họ cũng
được mời báo cáo tại Hội nghị quốc tế về An
toàn năng lượng và Kỹ thuật hóa học (ESCHE
2019) tại Malaixia được tổ chức vào tháng
7/2019 tới.
Nguồn: NASATI, vista.gov.vn,
21/06/2019
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 16/54
**************
Công nghệ chế tạo bột thạch anh từ nguồn nguyên liệu trong nước
Đoàn công tác thăm quan nhà máy sản xuất các vật liệu từ đá thạch anh tại Bắc Kạn.
Nhóm hợp tác Hương Trà (gồm 5
thành viên: Công ty CP Hương Trà, thành
viên đứng đầu Nhóm; Viện Nghiên cứu Ứng
dụng Nha Trang; Trường Đại học Nha Trang;
Công ty CP Á Châu; Công ty TNHH Tự động
hóa MENT) đã làm chủ công nghệ chế tạo
bột thạch anh từ nguồn nguyên liệu khoáng
thạch anh trong nước bao gồm các quy trình
công nghệ sản xuất thử nghiệm, sản xuất thô
và sản phẩm tinh. Đó là những kết quả chính
của tiểu dự án “Hoàn thiện quy trình công
nghệ, dây chuyền thiết bị sản xuất, chế biến
sản phẩm thạch anh dạng tinh thể chất lượng
tối ưu dùng cho ngành công nghiệp công
nghệ cao, công nghệ vật liệu mới,… từ nguồn
nguyên liệu sẵn có tại Việt Nam”.
Tiểu dự án được triển khai với sự đầu
tư của Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo
thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ
- FIRST” (Dự án FIRST). Mới đây, tại Bắc
Kạn, đoàn giám sát, đánh giá kiểm tra của
Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt
Nam và Ban Quản lý Dự án FIRST”, Bộ
Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã làm
việc với Nhóm hợp tác Hương Trà.
Tham dự đoàn công tác về phía World
Bank có ông Dilip Parajuli – Trưởng nhóm
phụ trách Dự án FIRST và một số chuyên gia
cao cấp. Về phía Dự án FIRST, có ông Trần
Quốc Thắng, nguyên Thứ trưởng Bộ KH-CN,
Trưởng Ban Giám sát và đánh giá.
Theo Giám đốc Công ty Cổ phần
Hương Trà Hồ Viết Cầm, dự án được triển
khai từ tháng 6.2017, đến nay đã hoàn thành
các mục tiêu đặt ra. Nhóm hợp tác đã làm chủ
công nghệ chế tạo bột thạch anh từ nguồn
nguyên liệu khoáng thạch anh trong nước bao
gồm các quy trình công nghệ sản xuất thử
nghiệm, sản xuất thô và sản phẩm tinh. Đồng
thời, thiết kế và cải tiến, chế tạo được hệ thống
dây chuyền thiết bị sản xuất, chế biến sản
phẩm bột thạch anh có hàm lượng SiO2 lớn
hơn hoặc bằng 99.25% với tổng công suất thiết
kế 150.000 tấn/năm; thiết kế hệ thống cảnh
báo và giám sát online các chỉ số môi trường
(bụi, nước); Sản xuất thử nghiệm sản phẩm lô
số 0: 6.000 tấn sản phẩm/6 dòng modun bột
thạch anh đạt tiêu chuẩn ứng dụng trong các
ngành công nghiệp sản xuất linh kiện điện tử,
vật liệu xây dựng, lọc hóa dầu, gạch men, gốm
sứ, đá ốp lát nhân tạo gốc thạch anh cao cấp,
vật liệu trang trí nội ngoại thất.
Ông Hồ Viết Cầm - Giám đốc Công ty Cổ phần Hương Trà giới thiệu các sản phẩm của Nhóm
hợp tác với ông Dilip Parajuli – World Bank.
Ông Phạm Văn Diễn, cán bộ phụ trách
Tiểu hợp phần 2b cho biết, với sự đầu tư của
Bộ KH-CN và World Bank, hiện Nhóm hợp
tác đã xây dựng được 2 nhà máy sản xuất các
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 17/54
vật liệu từ đá thạch anh - một nguyên liệu rất
quan trọng, trong sản xuất vật liệu xây dựng
và trong lĩnh vực công nghiệp điện tử. Nhóm
hợp tác đã rất thành công trong việc thay vì
sử dụng hóa chất và các công nghệ khác,
Nhóm đã sử dụng công nghệ vi sinh để làm
sạch các chất bám trên tinh thể thạch anh, và
đưa ra được 6 loại sản phẩm, đạt được các chỉ
tiêu về công nghệ tương đương như quặng
nhập khẩu của các nước trên thế giới.
Đánh giá cao kết quả của Nhóm hợp
tác, Trưởng Ban Giám sát và đánh giá Trần
Quốc Thắng cho rằng, phần lớn các gói thầu
được triển khai theo đúng quy trình và tiến độ
đã cam kết. Thành công bước đầu của tiểu Dự
án đã khẳng định năng lực tổ chức, thực hiện,
làm chủ các quy trình công nghệ, góp phần
rất quan trọng trong việc tạo ra các nguyên
liệu có chất lượng tương đương và thay thế
nguyên liệu nhập khẩu.
Đại điện World Bank, ông Dilip
Parajuli đã ghi nhận những thành quả Nhóm
hợp tác Hương Trà đạt được. Đồng thời cho
rằng, đây là minh chứng quan trọng cho hiệu
quả của mối liên kết nghiên cứu, triển khai,
sản xuất giữa Nhà nước – Viện nghiên cứu –
Trường đại học và Doanh nghiệp. Mô hình
này rất cần thiết để nhân rộng.
Tại buổi làm việc, các cán bộ của
World Bank và Dự án FIRST đã có những
trao đổi, hướng dẫn để Nhóm hợp tác triển
khai các công việc tiếp theo và hoàn thiện các
thủ tục theo yêu cầu. Đồng thời, gợi mở các
hướng giải pháp tiếp theo để Nhóm hợp tác
Hương Trà có thể thương mại hóa sản phẩm,
đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường, ứng
dụng hiệu quả vào sản xuất, đời sống.
Nguồn: Hạnh Nguyên,
daibieunhandan.vn, 06/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Mở khóa tiềm năng vật liệu 2D
Tiến sỹ Nguyễn Trọng Hiếu
Một nhóm nghiên cứu của Đại học
quốc gia Australia do TS. người Việt Nguyễn
Trọng Hiếu đứng đầu đã khám phá tiềm năng
tối đa của vật liệu 2D siêu mỏng, đó là chúng
có thể tạo ra điện bằng ánh sáng mặt trời.
TS. Nguyễn Trọng Hiếu cho biết, vật
liệu 2D mỏng hơn hàng trăm nghìn lần so với
sợi tóc người và bằng mắt thường chúng ta sẽ
hầu như không nhìn thấy chúng. Loại vật liệu
này trong tương lai có thể cách mạng hóa
công nghệ dùng cho pin mặt trời, điện thoại
di động và thiết bị cảm biến.
Trước đó, các nhà khoa học cũng đã
nghiên cứu các vật liệu mỏng đơn nguyên tử
này nhưng chưa định lượng được tiềm năng
của chúng cho các ứng dụng như pin mặt trời
và cảm biến ánh sáng.
Nhóm nghiên cứu của ông Nguyễn
Trọng Hiếu đã sử dụng một phương pháp
sáng tạo để tính toán điện áp tối đa mà loại
vật liệu này có thể tạo ra được thông qua hấp
thụ ánh sáng. Cụ thể, họ sử dụng băng dính
để “bóc” từng lớp vật liệu cho đến khi chỉ còn
một lớp màng mỏng đơn nguyên tử duy nhất,
sau đó tiến hành nghiên cứu ánh sáng phát ra
từ lớp màng này bằng kính hiển vi quang học
được hỗ trợ bởi máy ảnh và cảm biến nhạy.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 18/54
Bằng cách trên, các nhà nghiên cứu
của Đại học quốc gia Australia đã tính toán
được hiệu suất tiềm năng của vật liệu 2D dựa
trên tính chất của ánh sáng được phát hiện.
Kết quả cho thấy vật liệu này có thể
cung cấp điện áp lớn hơn 1V, tương tự như
các công nghệ năng lượng mặt trời hiện có.
Theo TS. Hiếu, phát hiện của nhóm
nghiên cứu rất quan trọng vì nó là cơ sở để
các nhà khoa học hướng tới mục tiêu tính
toán sản lượng điện có thể tạo ra từ những
màng vật liệu siêu mỏng này.
Các nhà khoa học hy vọng trong tương
lai, màng vật liệu 2D có thể được dùng để
phủ trên cửa sổ xe ô tô, màn hình điện thoại
di động hoặc thậm chí là đồng hồ đeo tay để
hấp thụ ánh sáng mặt trời và giúp cung cấp
năng lượng cho các thiết bị này.
Nguồn: BT, baochinhphu.vn,
28/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng xúc tác quang hóa BiVO4 trong phân hủy hợp chất hữu cơ độc hại sử dụng ánh sáng nhìn thấy
Đề tài do tác giả Nguyễn Hữu Vinh và
cộng sự (Trung tâm Phát triển Khoa học và
Công nghệ Trẻ) thực hiện nhằm tổng hợp
thành công và xác định được tính chất đặc
trưng của vật liệu xúc tác quang hóa BiVO4
(Bismuth vanadate) sử dụng ethylene glycol
(EG) làm dung môi và ứng dụng hiệu quả
trong phân hủy hợp chất hữu cơ độc hại sử
dụng ánh sáng nhìn thấy.
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường
nước gây ra bởi các chất thải màu hữu cơ
độc hại trong các nghành công nghiệp sơn
và dệt nhuộm rất lớn. Để hạn chế phát thải
chất màu hữu cơ độc hại gây ô nhiễm môi
trường trong các nghành công nghiệp này,
đã có nhiều biện pháp xử lý nước thải màu
được đưa ra như phương pháp hóa lý,
phương pháp sinh học và phương pháp hóa
học. Trong đó phương pháp hóa học theo
hướng oxy hóa hóa học sử dụng các chất
bán dẫn có hoạt tính xúc tác quang để phân
hủy chất màu hữu cơ mang lại hiệu quả cao,
do phương pháp này phân hủy chất màu hữu
cơ độc hại thành sản phẩm cuối cùng là
CO2 và nước. Nhiều chất bán dẫn có hoạt
tính xúc tác quang đã được nghiên cứu và
ứng dụng vào quá trình này, trong đó
TiO2 được nghiên cứu và sử dụng nhiều
nhất. Tuy nhiên, yếu điểm của loại vật liệu
này là sử dụng tia UV trong quá trình phản
ứng. Tia UV nguy hiểm khi tiếp xúc trực
tiếp với con người và chỉ chiếm 5% trong
ánh sáng mặt trời.
Gần đây, một loại xúc tác mới đang
dành nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu đó là BiVO4, vật liệu này có thể sử dụng
ánh sáng nhìn thấy trong quá trình quang xúc
tác, có độ bền hóa học và hoạt tính quang hóa
tương đối cao. Trong nghiên cứu này, nhóm
tác giả đề xuất một phương pháp tổng hợp
mới trên cơ sở phương pháp dung nhiệt cho
việc kiểm soát quá trình tổng hợp BiVO4. Các
dung môi như EG và glycerol (GL) có nhiệt
độ sôi, độ nhớt, độ phân cực và áp suất hơi
bão hòa khác nhau được lựa chọn để tổng hợp
BiVO4 với mục đích điều khiển cấu trúc và
kích thước tinh thể BiVO4 từ đó nâng cao
hoạt tính quang hóa của BiVO4.
Kết quả đã tổng hợp thành công
BiVO4 bằng phương pháp dung nhiệt sử
dụng EG làm dung môi và phương pháp thủy
nhiệt. Cấu trúc vật liệu được đánh giá bằng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 19/54
các phương pháp hóa lý hiện đại như XRD
(nhiễu xạ tia X), IR (phổ hồng ngoại), SEM
(kính hiển vi điện tử quét) và Raman. Theo
đó, dung môi có ảnh hưởng đáng kể đến quá
trình hình thành pha và hình thái tinh thể
BiVO4. EG có khả năng tạo liên kết phối trí
với nguyên tử Bi3+, do đó, EG sẽ bao quanh
nguyên tử Bi3+
với lực kìm tương đối lớn
ngăn các phân tử nước tiếp xúc với nguyên
tử Bi3+
ngay cả trong điều kiện dụng nhiệt
dẫn đến đơn pha tinh thể monoclinic được
hình thành.
Khả năng hấp thụ ánh sáng ở vùng
bước sóng ngắn (UV) và vùng bước sóng dài
(vùng ánh sáng khả kiến) của BiVO4 được
nghiên cứu thông qua phương pháp UV-Vis
(tử ngoại – khả kiến) pha rắn. Tất cả các mẫu
BiVO4 cho dãy hấp thu mạnh trong vùng ánh
sáng khả kiến do đó tính chất quang xúc tác
của vật liệu sẽ được tăng cường trong vùng
ánh sáng khả kiến.
Nhóm nghiên cứu đánh giá khả năng
xúc tác quang hóa của các mẫu vật liệu
BiVO4 phản ứng phân hủy RhB (Rhodamine
B) sử dụng nguồn đèn ánh sáng nhìn thấy.
Kết quả cho thấy mẫu BiVO4 tổng hợp bằng
phương pháp dung môi cho hoạt tính cao hơn
mẫu tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt.
Hằng số tốc độ quang phân hủy (k) RhB trên
các mẫu xúc tác được xác định từ mô hình
động học phản ứng giả bậc 1: ln(Co/C) = kt.
Giá trị k của mẫu BiVO4 được tổng hợp trong
EG là 7,8x10-3
phút-1, cao hơn so với
BiVO4 được tổng hợp trong dung môi H2O.
Đồng thời, hoạt tính quang hóa có sự tương
quang với sự hình thành các gốc tự do OH*.
Quá trình xúc tác quang hóa hình thành nhiều
OH* tức là có hoạt tính quang hóa càng cao.
Mẫu BiVO4 tổng hợp bằng phương pháp
dung nhiệt có hoạt tính quang hóa cao hơn
mẫu tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt
do có sự hình thành nhiều OH*.
Đề tài cũng xác định được quy trình
tổng hợp BiVO4 bằng phương pháp dung
nhiệt tạo thành vật liệu với đơn pha tinh thể
monoclinic và hoạt tính quang xúc tác cao
nhất và quy trình đánh giá hoạt tính quang
xúc tác phân hủy chất màu hữu cơ độc hại.
Kết quả này mở ra khả năng ứng dụng rộng
rãi vật liệu BiVO4, đặc biệt ứng dụng làm xúc
tác xử lý môi trường.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
17/06/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Trà thảo dược từ lá xoài và dó bầu
Các thành phần thảo dược tạo nên trà Đông Trầm
Nhóm nghiên cứu của Trung tâm
Nghiên cứu và triển khai, Khu Công nghệ cao
TPHCM (SHTP Labs) đã nghiên cứu, sản
xuất thành công sản phẩm trà thảo dược
Đông Trầm từ lá xoài, dó bầu, cỏ ngọt và
đông trùng hạ thảo. Sản phẩm là kết quả của
hai đề tài nghiên cứu chế tạo nano mangiferin
ứng dụng trong thực phẩm chức năng và điều
chế trà dó bầu hòa tan.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 20/54
Tại lễ ra mắt sản phẩm Trà thảo dược
hòa tan Đông Trầm do SHTP Labs tổ chức
ngày 14/6 tại TPHCM, ông Mai Ngọc Tuấn
Anh, thành viên nhóm nghiên cứu cho biết,
mangiferin là một hợp chất hữu cơ chiếm hàm
lượng từ 1 – 2% trong lá xoài hoặc lá dó bầu.
Theo nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước,
mangiferin có tác dụng kháng ung thư, kháng
khuẩn và vi rút, kháng viêm, đặc biệt là kháng
oxi hóa. Ngoài ra, mangiferin còn có tác dụng
giảm đau, chống dị ứng, điều trị tiểu đường,
ngăn ngừa lão hóa, chống béo phì, hỗ trợ tim
mạch,… Cây dó bầu là loại cây có khả năng
hình thành ở phần lõi của thân một sản phẩm
quý là Trầm hương và Kỳ nam có giá trị kinh
tế rất cao. Trà dó bầu có tác dụng giảm:
cholesterol, axít uric, đường trong máu, cải
thiện làn da, chống lão hóa, cho giấc ngủ sâu,
phòng chống ung thư. “Nhận thấy những tác
dụng to lớn của các hoạt chất có trong các
loại thảo dược trên, chúng tôi đã nghiên cứu
để phát triển thành một loại trà có nhiều tác
dụng bảo vệ sức khỏe con người” – ông Tuấn
Anh chia sẻ.
Theo ông Tuấn Anh, mangiferin có
nhiều ưu điểm nhưng lại kém tan trong nước
nên khả năng hấp thu hoạt chất thấp khi được
sử dụng. Chính vì vậy, nhóm đã nghiên cứu
và chế tạo bột nano mangiferin bằng phương
pháp nghiền quay, có cấu trúc tinh thể, kích
thước 200nm nên khắc phục được những
nhược điểm trên. Để tăng tính hiệu quả của trà
và sử dụng được cho người ăn kiêng, nên
ngoài cao chiết lá dó bầu, mangiferin từ lá
xoài, trà được bổ sung thêm đông trùng hạ
thảo, đường cỏ ngọt và các tá dược vừa đủ.
“Điểm khác biệt lớn nhất của trà Đông
Trầm so với các sản phẩm khác là sử dụng
mangiferin dạng bột với hàm lượng từ 8 –
12mg/gói 3g, nguyên liệu được dùng hoàn
toàn từ thảo dược trong nước và do chính
những nhà nghiên cứu Việt tạo ra, làm tăng
giá trị sản phẩm bằng KH&CN” – ông Tuấn
Anh nói và cho biết thêm, sau khi hoàn thiện
quá trình nghiên cứu, thực hiện đầy đủ các
kiểm nghiệm và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ,
SHTP Labs đã phối hợp cùng Công ty cổ phần
Dược Phẩm Nutifine và Công ty TNHH
Mediworld triển khai sản phẩm thương mại
hóa ra thị trường.
“Sản phẩm Đông Trầm là sự đột phá
trong nghiên cứu thảo dược của các nhà khoa
học, đồng thời thể hiện sự hợp tác giữa đơn vị
nghiên cứu với các doanh nghiệp, để đưa kết
quả nghiên cứu đến sản xuất và thương mại
hóa sản phẩm” – ông Ngô Võ Kế Thành,
Giám đốc SHTP Labs chia sẻ và cho biết,
SHTP Labs đóng vai trò là đơn vị chủ đạo
trong việc tiếp nhận các yêu cầu nghiên cứu,
phát triển và chuyển giao quy trình công nghệ
sản xuất sản phẩm cho các doanh nghiệp sản
xuất. Bên cạnh đó, SHTP Labs còn hỗ trợ
doanh nghiệp trong việc truyền thông và đưa
thông tin sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Nguồn: Kiều Anh,
khoahocphattrien.vn, 14/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 21/54
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Phát hiện một giống loài ve sầu mới tại Việt Nam
Theo PGS.TS. Phạm Hồng Thái, Bảo
tàng thiên nhiên Việt Nam, các nhà khoa học
Việt Nam và Vương quốc Bỉ vừa công bố một
giống loài ve sầu mới thuộc phân tộc
Dundubiina Atkinson, 1886, tộc Dundubiini
Atkinson, 1886, phân họ Cicadinae Latreille,
1802, họ ve sầu Cicadidae Latreille, 1802,
phân bộ Auchenorrhyncha, bộ Hemiptera
Linnaeus, 1758.
Giống mới này được đặt tên tiếng
Latinh đặc điểm hình thái của opercula là:
Cochleopsaltria Pham & Constant, 2017. Loài
mới được đặt tên theo tên của nhà hệ thống và
phân loại học ve sầu nổi tiếng TS. Hans
Duffels: Cochleopsaltria duffelsi.
Giống Cochleopsaltria khác với tất cả
các giống thuộc phân tộc Dundubiina, trừ
giống Dundubia Amyot & Audinet - Serville,
1843, Macrosemia Kato, 1925, Orientopsaltria
Kato, 1944, và Platylomia Stål, 1870, bởi hình
thái của opercula con đực rất phát triển và mở
rộng tới mép sau của sternite thứ IV. Giống
mới này khác với giống Dundubia bởi các đặc
điểm trên cánh trước và kích thước của
pronotum và mesonotum. Giống
Cochleopsaltria phân biệt với giống
Macrosemia bởi chiều rộng của đầu và
mesonotum. Cochleopsaltria khác với giống
Platylomia bởi chiều dài bụng so với chiều dài
từ đầu đến cruciform elevation, ngoài ra 2
giống này còn khác nhau ở hình dạng của
operculum.
Loài Cochleopsaltria duffelsi có chiều
dài cơ thể 35,9 mm; cánh trước dài 42,8 mm,
rộng 13 mm. chiều rộng của đầu: 12,1 mm;
chiều rộng của pronotum: 12,6 mm; chiều
rộng của mesonotum: 10,6 mm.
Mẫu vật nghiên cứu của loài
Cochleopsaltria duffelsi Pham & Constant,
2017 được thu tại thôn Hòa Bình 2, xã Quân
Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
Mẫu chuẩn (holotype) được lưu giữ tại
Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam, Viện hàn lâm
khoa học và công nghệ Việt Nam.
Nguồn: T.L, khoahocphothong.com.vn,
17/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 22/54
Tìm ra chất ức chế cỏ dại xâm lấn từ vỏ trấu
Cây cỏ lồng vực nước.
Cây cỏ lồng vực nước và cây goldenrod
từng gây hại trên các đồng lúa khắp thế giới bị ức
chế bởi bốn hợp chất từ trấu gạo.
Lần đầu tiên một nghiên cứu của các nhà
khoa học người Việt đã tìm ra bốn hoạt chất có
khả năng ức chế thực vật xâm lấn từ vỏ trấu gồm
Momilactone A,B,E (MA,MB,ME) và 7-
ketostigmasterol (7KS). Nghiên cứu được công
bố trên tạp chí khoa học quốc tế Plants của MDPI
ngày 7/6. Ức chế cỏ dại là khả năng mới của hợp
chất MA, MB ngoài tính năng ức chế bệnh tiểu
đường, béo phì, và gút đã được nhóm nghiên cứu
công bố trước đó. Chất 7KS còn có tác dụng bảo
vệ tế bào đường ruột (Caco-2) và hệ miễn dịch.
PGS Trần Đăng Xuân, Trưởng phòng thí
nghiệm Sinh lý thực vật và Hóa sinh (Đại học
Hiroshima, Nhật Bản) - đại diện nhóm nghiên
cứu cho biết, cả bốn chất trong vỏ trấu được phân
lập và chiết xuất bằng phương pháp sắc khí cột.
Sau đó xác định cấu trúc của các hợp chất bằng
kỹ thuật quang phổ.
Sau khi xác định được tỷ lệ bốn hợp chất
trong trấu, nhóm nghiên cứu tiếp tục kiểm tra khả
năng ức chế của chúng đối với loại cỏ gây hại
chính trong ruộng lúa nước trên khắp thế giới là
lồng vực nước (Echinochloa crus-galli) và loại
cây xâm hại goldenrod (Solidago altissima).
Nhóm nghiên cứu cũng thực hiện thí nghiệm để
so sánh hoạt tính ức chế sinh trưởng của bốn hợp
chất cho thấy, MA và MB có hoạt tính mạnh hơn
ME và 7KS.
Cỏ lồng vực và cây goldenrod là một
trong nhiều loại thực vật gây hại và xâm lấn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến ngành sản xuất lúa cũng
như đe dọa đến môi trường. Các nhà khoa học dự
kiến sẽ tập trung nghiên cứu cơ chế ức chế cỏ dại
và thực vật xâm lấn của MA, MB, ME và 7KS
nhằm phát triển các loại thuốc diệt cỏ mới an toàn
hơn và bảo vệ môi trường.
Độc giả quan tâm có thể tìm hiểu nghiên
cứu tại đây.
Nguồn: Nguyễn Xuân, vnexpress.net,
10/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Việt Nam có kết quả bước đầu về văcxin chống dịch tả heo châu Phi
Người dân rắc vôi bột để sát trùng chuồng heo
GS.TS Nguyễn Thị Lan, giám đốc Học
viện Nông nghiệp Việt Nam, cho biết học
viện đang thực hiện 7 đề tài nghiên cứu do Bộ
NN&PTNT giao, ngoài ra còn có 7 đề tài
nghiên cứu khác do học viện chủ động thực
hiện. Sau thời gian nghiên cứu, đến nay học
viện đã có sản phẩm văcxin dịch tả heo châu
Phi vô hoạt thế hệ mới, tiến hành tiêm thử
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 23/54
nghiệm tại 3 trại heo bị dịch tả châu Phi thuộc
3 hộ gia đình tại vùng dịch của Hưng Yên.
Kết quả cho thấy toàn bộ 16/18 heo nái
và 15 heo thịt của 3 hộ gia đình này đều sống
khỏe sau hơn 2 tháng, một số heo nái đã đẻ và
heo con khỏe mạnh. Trong khi những con heo
không được tiêm văcxin đều chết do dịch tả
châu Phi.
"Kết quả kiểm tra cho thấy văcxin an
toàn đối với heo được tiêm phòng và có hiệu
quả bảo hộ cao đối với đàn heo được tiêm
phòng" - bà Lan thông tin
Đây là những thông tin rất khả quan,
mở ra nhiều hi vọng trong thời gian tới cho
việc nghiên cứu văcxin dịch tả heo châu Phi.
Phát biểu tại cuộc họp về kết quả
bước đầu, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường
cho biết từ khi dịch tả heo châu Phi xảy ra
đầu tiên từ ngày 1-2 tại Hưng Yên, đến nay
đã tròn 5 tháng. 2,8 triệu con heo đã phải tiêu
hủy (chiếm 10% tổng đàn heo cả nước),
tương đương 166.000 tấn.
Về cơ bản, hiện nay dịch vẫn chủ yếu
xảy ra ở khu vực chăn nuôi nhỏ lẻ, đã được
khống chế thiệt hại ở mức thấp nhất có thể.
Tuy nhiên nguy cơ dịch chưa dừng lại vẫn đe
dọa tới ngành chăn nuôi.
Theo Bộ trưởng Cường, có ý kiến cho
rằng việc nghiên cứu văcxin dịch tả heo châu
Phi sẽ khó khả thi, tuy nhiên đây là hướng đi
cần thiết, mang tính bền vững, lâu dài.
Đến nay, trong thời gian ngắn đã thu
được những kết quả tích cực bước đầu, làm
tiền đề cho nghiên cứu sâu về văcxin dịch tả
heo châu Phi cũng như đã có những chế phẩm
tăng cường hệ miễn dịch, ức chế virút dịch tả
heo châu Phi.
"Theo đó, các nhóm nghiên cứu đã
đưa ra được kết quả nhất định, phân lập được
virút làm tiền đề cho nghiên cứu sản xuất
văcxin trong thời gian tới. Chính vì thế, Bộ
NN&PTNT tổ chức cuộc họp này nhằm tìm ra
giải pháp tốt nhất khống chế dịch bệnh này" -
Bộ trưởng nói.
Đại diện Công ty Navetco cho biết
hiện đơn vị cũng đang nghiên cứu nhiều
nhóm giải pháp khác nhau, thử nghiệm trên
đàn heo bước đầu cho thấy những kết quả rất
triển vọng và khoảng 1 tháng nữa sẽ có kết
quả cụ thể hơn.
Về hướng vắcxin dịch tả heo châu Phi
trong thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Xuân
Cường yêu cầu các đơn vị liên quan cố gắng
đẩy nhanh nhất tiến độ. Trong đó, lưu ý việc
từ nghiên cứu thử nghiệm đến thương mại là
một chặng đường dài, thực tế thế giới chưa
sản xuất được văcxin dịch tả heo châu Phi bởi
đây là điều không hề dễ dàng.
Nguồn: Chí Tuệ, tuoitre.vn,
02/07/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu quy trình tinh sạch exopolysaccharide từ môi trường nuôi cấy Ophiocordyceps sinensis bổ sung dầu ô liu và khảo sát hoạt tính sinh học của chúng
Đề tài do tác giả Lê Thị Thúy Hằng và
cộng sự (Trung tâm Phát triển Khoa học và
Công nghệ Trẻ) thực hiện nhằm xây dựng
quy trình tách chiết thích hợp cho
exopolysaccharide (EPS) từ môi trường nuôi
cấy có bổ sung dầu ô liu và tinh sạch chúng
để tăng cường hoạt tính sinh học.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 24/54
Các nghiên cứu đã chứng minh, EPS
thu từ nấm Ophiocordyceps sinensis (tên
thường gọi là đông trùng hạ thảo, tên đồng
danh là Cordyceps sinensis, một loài nấm
dược liệu quý hiếm có giá trị cao trong y học
cổ truyền) có hoạt tính điều hòa miễn dịch,
kháng khối u, kháng oxy hóa và giảm đường
huyết trong máu. Ngoài ra, chúng còn có
những tác dụng quan trọng khác như kháng
viêm, giảm mệt mỏi, bảo vệ thận và bảo vệ
khỏi tia phóng xạ,… Do vậy, EPS được xem
là nhóm hoạt chất tiềm năng cần được khai
thác để tối ưu hóa quy trình sản xuất nấm
dược liệu đông trùng hạ thảo, từ đó nâng cao
hiệu quả kinh tế. Gần đây, các nhà khoa học
tập trung nghiên cứu làm thế nào để kích
thích sinh tổng hợp EPS của nấm O.
sinensis. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu tận
dụng nguồn dịch môi trường sau nuôi cấy có
chứa nguồn EPS với hoạt tính sinh học cao.
Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu
khảo sát các điều kiện và phương pháp để thu
nhận và tinh sạch EPS với hiệu suất cao mà
vẫn giữ được đặc tính sinh học của chúng.
Đồng thời cung cấp những thông tin mới về
đặc điểm cấu trúc cũng như những dược tính
sinh học của hoạt chất EPS, đặc biệt là hoạt
tính kháng oxy hóa và khả năng kháng phân
bào; góp phần tối ưu hóa quy trình sản xuất
nấm đông trùng hạ thảo, từ đó đa dạng hóa
các dòng sản phẩm nấm có chất lượng và
cạnh tranh cao ở dạng dược phẩm và thực
phẩm chức năng trên thị trường Việt Nam
hiện nay.
Theo đó, nhóm sử dụng thiết kế
Plackett-Burman để sàng lọc chín yếu tố ban
đầu (15 nghiệm thức), chọn ra được ba yếu tố
ảnh hưởng đến sự phát triển và tổng hợp EPS
ở nấm O. sinensis là dầu ô liu, peptone và
saccharose. Kết hợp với phương pháp đáp
ứng bề mặt Box-Behnken đưa ra môi trường
tối ưu dự đoán nuôi cấy nấm O. sinensis: dịch
chiết khoai tây (200g/L), saccharose
(48,69g/L), cao nấm men (4g/L), peptone
(6,77g/L), dầu ô liu (5,27%),
KH2PO4 (0,5g/L), K2HPO4 (0,5 g/L),
CaCl2 (0,5 g/L), MgSO4 (0,2 g/L), pH 6-7.
Với hoạt tính bắt gốc tự do ABTS+
của 15 mẫu EPS: 2 mẫu EPS nghiệm thức 7
(IC50 = 2949,88 μg/mL) và 13 (IC50 =
2.304,34 μg/mL) có khả năng bắt gốc tự do
cao hơn so với đối chứng (IC50 = 3.067,48
μg/mL). Sử dụng dung môi hữu cơ petroleum
ether để loại dầu ra khỏi dịch nuôi cấy
nấm O. sinensis bổ sung dầu.
Tỷ lệ tủa thu nhận EPS 1:4 giữa dịch
nấm và ethanol 960 cho hàm lượng EPS cao
nhất (0,0171g/ml). Sử dụng phương pháp
enzyme protease 20 UI/ml loại protein ra khỏi
EPS thô cho hiệu quả tốt nhất. Qua sắc ký lọc
gel Sephadex G – 100 đã tách được hai phân
đoạn EPS I và EPS II từ EPS thô. EPS II cho
thấy khả năng gây độc tế bào ung thư gan
Hep-G2 tốt hơn EPS I. Thành phần
monosaccharide trong phân đoạn EPS I và
EPS II đều chứa glucose, fructose
và mannose theo tỷ lệ mol lần lượt là 1:1:1
và 2:1:1.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
12/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 25/54
Tạo β - glucosidase siêu chịu nhiệt tái tổ hợp từ cổ khuẩn Pyrococcus furiosus trong Escherichia coli để sản xuất isoflavone từ đậu nành
Đề tài do tác giả Đinh Nguyễn Tấn
Hòa và cộng sự (Trung tâm Phát triển Khoa
học và Công nghệ Trẻ) thực hiện nhằm tạo
dòng thành công tế bào E. coli sản xuất
enzyme β -glucosidase (BGL) từ cổ khuẩn
Pyrococcus furiosus dạng tan và có hoạt tính;
xác định điều kiện nhiệt độ, pH tối ưu cho
hoạt tính của enzyme; thử nghiệm hoạt tính
enzyme trên hợp chất isoflavone glucoside từ
đậu nành.
Đậu nành là một trong những đối tượng
nghiên cứu phổ biến nhất vì chứa hàm lượng
isoflavone cao, có tác dụng chống oxi hóa,
giúp làm đẹp, phòng ngừa và điều trị nhiều
loại bệnh. Tuy nhiên, isoflavone tồn tại trong
thực vật chủ yếu ở dạng hợp chất glycoside
nên bị bất hoạt. Muốn thu nhận được dạng có
hoạt tính cần tiến hành loại bỏ gốc đường để
giải phóng dạng alygone tương ứng.
BGL là enzyme có khả năng phân cắt
glucose từ đầu không khử, nhờ đó giải phóng
được các hợp chất isoflavone ở dạng có hoạt
tính. Biết được điều này, con người đã bổ
sung các chủng vi khuẩn có khả năng tạo
BGL trong quy trình sản xuất. Tuy nhiên gặp
phải nhiều vấn đề như: thời gian lên men lâu
dễ gây tạp nhiễm và làm giảm chất lượng
thực phẩm; enzyme thu nhận từ các nguồn vi
sinh hiện nay thường không chịu được nhiệt
độ cao gây nhớt và dễ bị ức chế bởi các thành
phần có trong nguyên liệu, đặc biệt là glucose
nên chưa được ứng dụng rộng rãi trong sản
xuất công nghiệp.
Trong đề tài này, nhóm tác giả nghiên
cứu thu nhận enzyme BGL từ cổ khuẩn
Pyrococcus furiosus với khả năng chịu nhiệt
cao, chịu được nồng độ glucose cao, kháng
protease phù hợp với quy trình chế biến và
tách chiết phổ thông, mang tiềm năng ứng
dụng trong cả nghiên cứu và sản xuất.
Theo đó, đề tài đã tạo dòng và biểu
hiện thành công enzyme BGL siêu chịu nhiệt
tái tổ hợp từ cổ khuẩnPyrococcus
furiosus trong E. coli và bước đầu thử nghiệm
hoạt tính thành công trên cơ chất đậu nành.
Cụ thể, tạo dòng thành công tế bào E. coli
DH5α mang vector tái tổ hợp pGEX/2TK-
celB; tạo dòng thành công tế bào E. coli
BL1 mang vector tái tổ hợp pGEX/2TK-celB
biểu hiện enzyme BGL dạng tan, với hàm
lượng chiếm 17,04%. Sau tinh chế đạt 57.5%.
Tối ưu hóa điều kiện cho hoạt tính trên
cơ chất pNPG (p-Nitrophenyl β-D-
glucopyranoside), 1000C tại pH 5.0, hoạt tính
riêng của enzyme đạt 164.44 U/mg. Xây dựng
phương trình động học enzyme, xác định các
giá trị Vmax, Km và Kcat lần lượt là 332.27
U.mg-1
.min-1
, 0.088 mM, và 446.9 s-1
. Bước
đầu thử nghiệm hoạt tính trên cơ chất đậu
nành cho thấy enzyme BGLPf (Pyrococcus
furiosus β-glucosidase) có khả năng phân cắt
các isoflavone glucoside như daidzin, genistin
để giải phóng dạng aglycone tương ứng.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
15/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 26/54
Y HỌC
Ứng dụng WebGIS quản lý bệnh truyền nhiễm
Đây là thành quả của công trình nghiên
cứu thuộc nhóm tác giả Nguyễn Trí Dũng, Lê
Hồng Nga, Nguyễn Đình Dũng, Nguyễn Đình
Dũng, Lê Thị Ánh Tuyết (Trung tâm y tế dự
phòng - Sở y tế TP.HCM); Khưu Minh Cảnh,
Trương Thanh Tùng, Lâm Quang Hà (Trung
tâm ứng dụng hệ thống thông tin địa lý -
HCMGIS, Sở khoa học và công nghệ
TP.HCM). Công trình đoạt giải 3 Giải
thưởng sáng tạo TP.HCM năm 2019 lĩnh vực
1: kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
Với giao diện thân thiện, đơn giản, phù
hợp với người dùng cuối (phù hợp với trình độ
của tuyến y tế cơ sở), ứng dụng đã giúp cho
công tác phòng chống dịch được thống nhất,
nhanh chóng, kịp thời và chính xác hơn.
Hệ thống gồm có quy trình gửi và phản
hồi ca bệnh, quá trình này giúp việc liên thông
giữa các cấp trong cùng một phần mềm, giảm
thiểu sự chênh lệch số liệu giữa các cấp.
Luồng thông tin sẽ được liên tục, kịp thời,
thống nhất.
Thực hiện thống kê, báo cáo linh động
theo không gian và thời gian, tiết kiệm thời
gian, chi phí in ấn và giảm thiểu sai sót.
Định vị ca bệnh trên bản đồ: tìm kiếm,
định vị trên bản đồ số từ nguồn bản đồ địa
chính tỷ lệ lớn, đảm bảo độ chính xác, dễ dàng
thực hiện các phép phân tích tương quan
không gian giữa các ca bệnh, hỗ trợ công tác
phân tích dịch tễ.
Xác định ổ dịch: dựa vào bản đồ số,
chức năng định vị của điện thoại thông minh,
đo khoảng cách chính xác, phân tích tương
quan không gian giữa các ca bệnh trên bản đồ
số, không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Theo ông Phạm Đức Thịnh, trưởng
phòng tư vấn và dịch vụ HCMGIS, chương
trình nghiên cứu, xây dựng hệ thống thông tin
địa lý TP.HCM giai đoạn 2016 - 2020 là sẽ
nghiên cứu, triển khai ứng dụng GIS vào công
tác quản lý nhà nước tại các sở ngành và quận
huyện; chia sẻ, trao đổi và tích hợp dữ liệu
GIS từ các đơn vị trên, cũng như bảo đảm các
yêu cầu về cơ sở pháp lý, kỹ thuật, công nghệ
và hạ tầng cho việc triển khai ứng dụng GIS,
tích hợp và chia sẻ dữ liệu.
Hệ thống thông tin địa lý GIS
(Geographic Information Systems) là một
công cụ tập hợp những quy trình dựa trên máy
tính để lập bản đồ, lưu trữ và thao tác dữ liệu
địa lý, phân tích các sự vật hiện tượng thực, dự
đoán tác động và hoạch định chiến lược. Nói
cách khác, GIS là một tập hợp có tổ chức của
phần cứng, phần mềm, cơ sở dữ liệu và con
người được thiết kế để thu nhận, lưu trữ, cập
nhật, thao tác phân tích làm mô hình và hiển
thị tất cả các dạng thông tin địa lý có quan hệ
không gian nhằm giải quyết các vấn đề về
quản lý và quy hoạch..
Nguồn: Tuyết Mai,
khoahocphothong.com.vn, 14/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 27/54
Nghiên cứu phân lập các hợp chất có khả năng kháng tế bào ung thư từ cam thảo nam
Đề tài do tác giả Trần Thị Phương
Uyên và cộng sự (Trung tâm Phát triển Khoa
học và Công nghệ Trẻ) thực hiện nhằm tạo cơ
sở khoa học cho việc phát triển các chế phẩm
có khả năng phòng hoặc điều trị ung thư ứng
dụng trên lâm sàng từ một cây thuốc khá
quen thuộc và thông dụng ở Việt Nam; từ đó
góp phần làm giảm gánh nặng về chi phí y tế
nói chung và chi phí điều trị của bệnh nhân
ung thư nói riêng.
Cam thảo nam (Scoparia dulcis L.) là
vị thuốc dân gian đã được sử dụng lâu đời
chữa sốt, say nắng, giải độc cơ thể; chữa ho,
viêm họng, ban sởi, kinh nguyệt quá nhiều.
Ngoài ra, cây còn được dùng làm thuốc giảm
đau, điều trị đái tháo đường, rối loạn tiêu hóa,
cao huyết áp, bệnh trĩ, các bệnh đường tiết
niệu và côn trùng cắn.
Cam thảo nam đã được nghiên cứu ở
nhiều nước trên thế giới, thành phần hóa học
trong cam thảo nam có tiềm năng với tác
dụng ức chế tế bào ung thư. Tuy nhiên những
nghiên cứu về cam thảo nam ở Việt Nam nói
chung và phân lập các hợp chất có khả năng
kháng ung thư nói riêng vẫn còn hạn chế.
Với đề tài này, nhóm nghiên cứu đã
thu thập được 5 kg dược liệu cam thảo nam
và kiểm tra nguyên liệu cam thảo nam theo
tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam IV (độ ẩm
7,9%, độ tro toàn phần 11,4%, độ tro không
tan trong HCl 0,72%). Chiết xuất được 5 g
cao cồn 96% toàn phần và phân tách được 4
cao phân đoạn: Sco-A (111 g), Sco-B (67 g),
Sco-C (52 g) và Sco-D. Phân lập và xác định
cấu trúc các chất phân lập được 10 chất tinh
khiết từ các phân đoạn Sco-B và Sco-C.
Từ phân đoạn cao Sco-B đã thu được 5
hợp chất tinh khiết. Tiến hành biện giải và so
sánh với dữ liệu phổ trong các tài liệu tham
khảo xác định cấu trúc của các chất là: 2-
benzoxazolinon (CT1),
Nmethylbenzoxazolinon (CT3), 6-methoxy-
2-benzoxazolinon (CT4), acid betulinic
(CT2), và hispidulin (CT5).
Từ phân đoạn cao Sco-C đã thu được 5
hợp chất tinh khiết. Tiến hành biện giải và so
sánh với dữ liệu phổ trong các tài liệu tham
khảo xác định cấu trúc của các chất là: 6-
hydroxy benzoxazolinon (CT6), Apigenin
(CT7), (2R)-7-methoxy-2H-1,4-benzoxazin-
3(4H)-on 2-O-B-galactopyranosid (CT8), 5-
hydroxy-4’,6-dimethoxyflavon-7-O-β-D-
glucopyranosyl-(6→1)-α-Lrhamnopyranosid
(CT9), hispidulin-7-O-rutinosid (CT10).
Trong đó có hợp chất N-
methylbenzoxazolinon (CT3) lần đầu tiên
được phân lập trong tự nhiên.
Khảo sát hoạt tính độc tế bào ung thư
trên các dòng tế bào ung thư, kết quả cho
thấy, trên dòng tế bào ung thư vú người
(MDA-MB-231), CT5 có tác dụng trên dòng
tế bào ung thư vú với IC50 (nồng độ ức chế
50% đối tượng thử nghiệm) = 86,6 μM, CT7
có tác dụng trên dòng tế bào ung thư vú với
IC50 = 13,4 μM, acid betulinic (CT2) có tác
dụng trên dòng tế bào ung thư vú với IC50 là
17,6 μM.
Trên dòng tế bào ung thư cơ vân người
(RD), CT3 ức chế sự tăng trưởng của tế bào
ung thư cơ vân người với IC50 = 67,0 μM,
CT7 ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư
cơ vân người với IC50 = 42,5 μM, acid
betulinic (CT2) có tác dụng trên dòng tế bào
ung thư cơ vân với IC50 là 2,94 μM. Trên
dòng tế bào bình thường (tế bào biểu mô thận
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 28/54
LLC-PK1) cho thấy, các chất được phân lập
không độc với tế bào bình thường.
Như vậy, alkaloid N-
methylbenzoxazolinon (CT3) ức chế sự tăng
trưởng của tế bào ung thư cơ vân người với
IC50 = 67,0 μM, Flavonoid hispidulin (CT5)
có tác dụng trên dòng tế bào ung thư vú với
IC50 = 86,6 μM, CT7 ức chế sự tăng trưởng
của tế bào ung thư cơ vân người với IC50 =
42,5 μM và trên dòng tế bào ung thư vú với
IC50= 13,4 μM. Đặc biệt, hợp chất acid
betulinic (CT2) có tác dụng ức chế mạnh cả
hai dòng tế bào ung thư vú và cơ vân với
IC50 là 17,6 μM và 2,94 μM, nhưng không có
độc tính trên dòng tế bào bình thường.
Khảo sát cơ chế liên quan hoạt tính
độc tế bào của CT2 cho thấy hợp chất acid
betulinic gây độc tế bào theo cả hai cơ chế
hoại tử tế bào và hoạt hóa quá trình apoptosis.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
18/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Thoái hóa khớp: yếu tố nguy cơ và di truyền
Đề tài do tác giả Hồ Phạm Thục Lan
và cộng sự (trường Đại học Tôn Đức Thắng)
thực hiện nhằm xác định tần suất hiện mắc
của thoái hóa khớp tại các vị trí khớp gối,
bàn tay trong cộng đồng nghiên cứu; xác
định yếu tố nguy cơ lâm sàng và môi trường
có liên quan đến thoái hóa khớp tại các vị trí
trên; xác định mức độ ảnh hưởng của yếu tố
di truyền (hệ số di truyền) với nguy cơ thoái
hóa khớp.
Thoái hóa khớp (osteoarthritis - OA) là
một vấn đề y tế công cộng đang được thế giới
rất quan tâm, vì qui mô lớn và hệ quả nghiêm
trọng của bệnh trong cộng đồng. Thoái hóa
khớp là một bệnh phức tạp với đặc điểm
chính của bệnh là tổn thương toàn bộ cấu trúc
khớp thay vì chỉ tổn thương sụn khớp như
quan niệm trước đây. Hiện nay, nguyên nhân
chính xác của thoái hóa khớp vẫn chưa được
xác định. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trong
thời gian qua đã phát hiện một số yếu tố nguy
cơ có liên quan đến thoái hóa khớp. Những
yếu tố này có thể chia thành 2 nhóm chính:
các yếu tố có thể thay đổi được như mật độ
xương, lối sống - dinh dưỡng; và các yếu tố
không thay đổi được như chỉ số nhân trắc,
tình trạng hormone, yếu tố gia đình, chủng
tộc, di truyền. Các yếu tố nguy cơ quan trọng
của bệnh thoái hoá khớp là độ tuổi, sức cơ,
mật độ xương, thành phần cơ thể, béo phì
cũng như các bệnh đi kèm, và yếu tố di
truyền. Tuy nhiên, cho đến nay, chúng ta vẫn
chưa biết những yếu tố này ảnh hưởng như
thế nào đến nguy cơ thoái hoá khớp ở bệnh
nhân Việt Nam. Chúng ta cũng chưa biết tần
số người Việt bị thoái hoá khớp là bao nhiêu
do thiếu nghiên cứu trong cộng đồng. Trong
điều kiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu như
hiện nay, xác định yếu tố nguy cơ đóng vai
trò rất quan trọng, giúp định hướng phát triển
các biện pháp phòng ngừa cũng như chặn
đứng tiến triển của bệnh.
Nhóm đề tài tiến hành nghiên cứu
1.028 nam và nữ từ 40 tuổi trở lên, theo hộ
gia đình có quan hệ huyết thống bao gồm cha
mẹ, con cháu, anh em (ít nhất có một cặp
hoặc là anh em, hoặc cha/mẹ-con). Tất cả đối
tượng nghiên cứu được chụp Xquang khớp
gối, bàn tay; thu thập thông tin liên quan nhân
trắc, lối sống, hoạt động thể chất, lâm sàng,
đo mật độ xương tại các vị trí xương cột sống,
xương đùi và toàn thân; đo sức cơ tại các vị
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 29/54
trí tay, chân và lưng; lấy máu thực hiện các
xét nghiệm liên quan đến các yếu tố nguy cơ
hoặc bệnh đi kèm của thoái hóa khớp.
Kết quả ghi nhận tần suất chung trên
Xquang của OA khớp gối là 44,6% (với nữ
nhiều hơn nam: 49,8% vs 34,3%), trong khi ở
vị trí bàn tay là 39,8% (với nam có tỉ lệ cao
hơn nữ: 41,9% vs 38,7%). Ở cả 2 vị trí, tần
suất thoái hoá khớp đều gia tăng theo độ tuổi.
Qua phân tích hồi qui đa biến, nhóm
nghiên cứu xác định có 4 yếu tố độ tuổi, giới
tính, BMI và chỉ số HbA1c có liên quan với
nguy cơ OA khớp gối trên Xquang, trong khi
tại vị trí bàn tay chỉ có 2 yếu tố độ tuổi và BMI
có tương quan. Điều này cho thấy bên cạnh
biện pháp giảm béo phì tích cực để phòng
ngừa và điều trị thoái hóa khớp gối đã quen
thuộc, trong thực hành cũng cần giảm cân để
điều trị thoái hóa bàn tay; đồng thời phải tăng
cường tầm soát thoái hóa khớp gối ở các bệnh
thường đi kèm và làm tăng nguy cơ mắc bệnh,
đặc biệt ở người bệnh đái tháo đường.
Ngoài ra, khi đánh giá ảnh hưởng của
thoái hoá khớp tới gánh nặng lâm sàng và
chất lượng cuộc sống, nhóm nghiên cứu ghi
nhận độ nặng của OA khớp gối gắn liền với
biểu hiện đau, cứng khớp, giới hạn chức năng
vận động và giảm chất lượng cuộc sống.
Trong khi đó tác động lên đau, chức năng vận
động và chất lượng cuộc sống của OA bàn tay
không được xác định.Kết quả đề tài cũng tìm
thấy hệ số di truyền của OA khớp gối là
56,5% và OA bàn tay là 51,8%, phản ánh tầm
quan trọng của yếu tố di truyền so với yếu tố
môi trường. Đây là công trình nghiên cứu đầu
tiên có hệ thống về tần suất, yếu tố nguy cơ
và yếu tố di truyền của thoái hóa khớp ở Việt
Nam. Dữ liệu từ nghiên cứu này không chỉ
giúp cho nhân viên y tế cũng như cộng đồng
hiểu hơn về các yếu tố liên quan đến thoái
hóa khớp, mà còn là cơ sở để thực hiện tiếp
các nghiên cứu cohort nhằm xây dựng mô
hình tiên lượng giúp nhận diện cá nhân có
nguy cơ cao sớm. Từ đó có thể xây dựng,
phát triển những mô hình chẩn đoán và can
thiệp sớm nhằm giảm nguy cơ bệnh cho cá
nhân và giảm gánh nặng của bệnh trong cộng
đồng về mặt kinh tế y tế cũng như giảm tỷ lệ
mất chức năng vận động, cải thiện chất lượng
cuộc sống cho bệnh nhân thoái hóa khớp
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
17/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Phát hiện loài cây rừng kháng được bốn dòng ung thư
Cây thìa là hóa gỗ tìm thấy ở Hà
Giang, có hoạt tính sinh học gây độc lên các
tế bào ung thư phổi, vú, gan, tiền liệt tuyến.
Các nhà khoa học Viện Sinh thái và
Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã công bố
về việc phát hiện hai loài của chi thìa là hóa
gỗ (Xyloselinum Pimenov & Kljuykov) ở
tỉnh Hà Giang. Đây là kết quả nghiên cứu của
đề tài do TS. Nguyễn Phương Hạnh làm chủ
nhiệm, thực hiện trong hai năm 2017 - 2018.
Phân lập các chất từ hai loài thìa là hóa
gỗ việt (Xyloselinum vietnamense Pimenov
& Kljuykov) và thìa là hóa gỗ Leonid
(X.leonidii Pimenov & Kljuykov), các nhà
khoa học phát hiện hợp chất falcarindiol từ
loài thìa là hóa gỗ việt có tác dụng gây độc
cho cả bốn dòng tế bào ung thư phổi, vú, gan
và tiền liệt tuyến. Thử trong ống nghiệm chất
này thể hiện tác dụng kháng viêm mạnh.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 30/54
Cây thìa là hóa gỗ được lấy mẫu tại huyện
Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng dữ liệu
sinh học, sinh thái hai loài thìa là hóa gỗ việt
và thìa là hóa gỗ leonid tại khu Bảo tồn Thiên
nhiên Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ và vùng
núi đá vôi thuộc xã Sính Lủng, huyện Đồng
Văn, tỉnh Hà Giang.
Cả hai loài đều được người dân
địa phương sử dụng thân rễ ngâm rượu để
uống, xoa bóp vết thương. Cây thìa là hóa gỗ
thường phân bố ở độ cao 1.000 - 1.350 m và
một số nơi nhưng đang bị khai thác mạnh vì
mục đích thương mại. Do đó, nguồn gene của
chúng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Vì thế
các kết quả của đề tài là cơ sở khoa học cho
việc bảo tồn nguồn gene quý hiếm và nghiên
cứu sâu hơn về các đặc tính và hoạt tính mới
của chi thìa là hóa gỗ ở Việt Nam.
Độc giả quan tâm có thể tìm hiểu
nghiên cứu tại đây
Nguồn: Đoàn Trung, vnexpress.net,
13/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Hoạt tính ức chế bệnh ung thư và HIV từ cây xạ đen
Lá cây xạ đen.
Nghiên cứu mới được công bố trên
tạp chí sinh hóa quốc tế Medicines của
MDPI ngày 4/5 về lá cây xạ đen có tác dụng
chống oxy hóa mạnh và ức chế bệnh ung thư.
Tác giả là nhóm nghiên cứu người Việt Nam
và Indonesia do PGS Trần Đăng
Xuân,Trưởng phòng thí nghiệm Sinh lý thực
vật và Hóa sinh (Đại học Hiroshima, Nhật
Bản) đứng đầu.
Cây xạ đen tên khoa học là Celastrus
hindsii. Các nhà khoa học đã thu thập lá cây
xạ đen ở xã Cao Dương, huyện Lương Sơn,
tỉnh Hòa Bình vào 5/2017 để đánh giá hoạt
tính chống oxy hóa gồm các chất phenolics
(TPC) và flavonoids (TFC). Mẫu lá được khử
trùng và sấy khô ở nhiệt độ 30 độ C, sau đó
phân tách các phân đoạn hoạt tính từ chiết
xuất của lá cây bằng phương pháp phân tích
sắc khí ký ghép khối phổi (GC-MS) và sắc ký
lỏng ghép khối phổ (EIS-MS).
Các thí nghiệm để đánh giá các hoạt
chất có trong lá cây cũng được thực hiện,
trong đó đặc biệt quan tâm tới hàm lượng
phenolic – chứa nhiều hoạt động dược lý như
khả năng chống oxy hóa và chống viêm, khả
năng ức chế mạnh bệnh tim mạch, ung thư và
tiểu đường. Các hoạt tính sinh học như kháng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 31/54
khuẩn, chống viêm, chống ung thư và ức chế
protein kinase cũng được đánh giá.
Ngoài các hợp chất thuộc nhóm
phenolics và flavonoids, trong cây xạ đen còn
có một số hợp chất quan trọng như
Maytenolione A (C30H46O4) và Celasdine B
(C30H50O3) được phân lập từ lá cây xạ đen
và được phát hiện có độc tính mạnh đối với
các dòng tế bào ung thư cũng như hoạt động
chống sao chép của HIV.
Các phát hiện của nghiên cứu này cho
thấy lá cây xạ đen chứa nhiều hợp chất hoạt
tính sinh học có thể được khai thác cho mục
đích y học và dược phẩm. Loại cây này có
đặc tính chống oxy hóa mạnh, cho hàm lượng
phenolics và flavonoids cao. Tuy nhiên, cần
thêm các nghiên cứu sâu hơn về phân lập và
tinh chế các thành phần chính này từ chiết
xuất lá cây xạ đen.
PGS Trần Đăng Xuân cho rằng các cây
dược liệu như xạ đen hứa hẹn mang nhiều giá
trị lớn về y dược cũng như kinh tế cho Việt
Nam, tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu cơ bản
phân tích xác định rõ hàm lượng các chất hóa
học cũng như hoạt tính sinh học trên tế bào và
lâm sàng.
Độc giả quan tâm có thể tìm hiểu
nghiên cứu tại đây
Nhóm nghiên cứu gồm các tác giả:
1. Trần Đăng Xuân, Trưởng phòng thí
nghiệm Sinh lý thực vật và Hóa sinh (Đại học
Hiroshima, Nhật Bản);
2. Trần Đức Việt, nghiên cứu sinh
Khoa Hợp tác và Phát triển Quốc tế (Đại học
Hiroshima, Nhật Bản);
3. Trương Mai Vân, nghiên cứu sinh
Khoa Hợp tác và Phát triển Quốc tế (Đại học
Hiroshima, Nhật Bản);
4. Ramin Rayee, sinh viên Thạc sĩ
Khoa Hợp tác và Phát triển Quốc tế (Đại học
Hiroshima, Nhật Bản);
5.Yusuf Andriana – Nghiên cứu sinh
Đại học Hiroshima, cán bộ nghiên cứu Viện
khoa học Indonesia;
6. PGS.TS Trần Hoàng Dũng (Khoa
Công nghệ sinh học, Đại học Nguyễn Tất
Thành, TPHCM, Việt Nam).
Nguồn: Nguyễn Xuân, vnexpress.net,
06/06/2019
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP
VNPT Smart Agri: Thêm giải pháp hỗ trợ nông dân thời 4.0
Giải pháp quản lý nông nghiệp thông minh (VNPT Smart Agri).
Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
đang là một trong những mục tiêu hướng đến
trong phát triển nông nghiệp tại Việt Nam,
trong đó, ứng dụng công nghệ thông tin
(CNTT) trong sản xuất nông nghiệp công
nghệ cao là yếu tố không thể thiếu.
Đồng hành cùng sự chuyển mình và
phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam,
Tập đoàn VNPT đã cung cấp các giải pháp,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 32/54
dịch vụ hỗ trợ ngành nông nghiệp toàn bộ quy
trình từ khâu quản lý sản xuất như giám sát
thời tiết, thổ nhưỡng, dịch bệnh, tiêm chủng,
tưới tiêu… đến khâu tiêu thụ, truy xuất nguồn
gốc hàng hóa… thúc đẩy liên kết 4 nhà (nhà
nông, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh
nghiệp) nhằm tiến đến một ngành nông
nghiệp an toàn thực phẩm, hiệu quả và bền
vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và hội
nhập quốc tế.
Trong đó, giải pháp nông nghiệp thông
minh (VNPT Smart Agri) được triển khai gần
đây đã hỗ trợ nông dân, chủ trang trại sản
xuất theo chuỗi khép kín của nông nghiệp
xanh và thông minh nhằm tăng năng suất,
chất lượng sản phẩm nhờ ứng dụng CNTT
hiệu quả, sẵn sàng trước xu thế phát triển
nông nghiệp công nghệ cao thời 4.0.
Giải pháp nông nghiệp thông minh
VNPT Smart Agri được phát triển trên nền
tảng IoT Platform - Smart Connected
Platform (SCP). Giải pháp nông nghiệp thông
minh được thiết kế để triển khai trên nhiều
đơn vị diện tích khác nhau, với khả năng tùy
biến cao và nhân rộng không giới hạn.
Trên mỗi đơn vị diện tích triển khai, các
thiết bị lắp đặt có thể tùy biến linh hoạt, đáp
ứng được nhu cầu giám sát và điều khiển thiết
bị phục vụ nhu cầu sinh trưởng của từng cây
trồng. Hệ thống nông nghiệp thông minh hoạt
động dựa trên nguyên lý chung của nền tảng
Smart Connected Platform do VNPT phát triển,
kết nối các thiết bị thông qua IoT gateway và
kết nối với Cloud thông qua mạng Internet.
VNPT Smart Agri hỗ trợ nông dân,
chủ trang trại sản xuất theo chuỗi khép kín
của nông nghiệp xanh và thông minh, nhằm
tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Giải
pháp ứng dụng phần mềm và phần cứng được
thiết kế để giám sát toàn bộ quá trình từ sản
xuất đến thu hoạch, chế biến và vận chuyển
theo chuẩn thiết kế định hướng trang trại ứng
dụng công nghệ cao.
Với VNPT Smart Agri, người nông
dân có thể quản lý và hỗ trợ vận hành trang
trại; quản lý vật tư và chi phí; cung cấp các
thông tin như thời tiết, thị trường cho nông
dân, chủ trang trại; theo dõi nhiệt độ, độ ẩm,
ánh sáng trong trang trại theo thời gian thực;
giám sát chất lượng nước; tưới tiêu tự động;
quản lý mùa vụ và phương thức thu hoạch.
Giải pháp cũng cung cấp hệ thống camera
giám sát điều khiển từ xa; quản lý hệ thống
logistics, vận chuyển; quản lý khách hàng; hệ
thống báo cáo phân tích chuyên sâu…
Được biết, thời gian qua, các giải pháp
nông nghiệp thông minh VNPT Smart Agri
và truy xuất nguồn gốc hàng hóa của VNPT
đã được áp dụng rộng rãi tại các địa phương
trong cả nước như Lạng Sơn, Tuyên Quang,
Bắc Giang, Thái Bình, Đà Nẵng, Kon Tum,
Cần Thơ, Bến Tre, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cà
Mau... trên nhiều đặc sản nông nghiệp địa
phương đem lại hiệu quả cao cho các doanh
nghiệp, hộ gia đình cũng như nhận được phản
hồi tích cực từ người tiêu dùng.
Trong thời gian tới, cùng với các lĩnh
vực khác như giáo dục, y tế…, VNPT cho
biết, sẽ tiếp tục tập trung phát triển các giải
pháp, dịch vụ CNTT trong lĩnh vực nông
nghiệp với mục tiêu chuyển từ khái niệm nhà
mạng viễn thông sang nhà cung cấp dịch vụ
truyền thông kỷ nguyên số, nhằm chuyển đổi
sang kinh doanh các dịch vụ số, các dịch vụ
giá trị gia tăng, CNTT, truyền thông và công
nghiệp CNTT, trở thành nhà cung cấp dịch vụ
số hàng đầu Việt Nam và Trung tâm giao
dịch số thị trường khu vực và thế giới vào
năm 2030.
Nguồn: Hiền Minh, baochinhphu.vn,
05/06/2019
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 33/54
**************
Gieo "mùa vàng" trên đất mặn
GS.TS Nguyễn Thị Lang (bên phải) giới thiệu các công trình nghiên cứu về giống lúa
Việc nghiên cứu chọn tạo các giống
lúa chịu mặn có ý nghĩa rất lớn đối với
ĐBSCL - vùng sản xuất lúa gạo trọng điểm,
nơi cung ứng hơn 90% sản lượng gạo xuất
khẩu của cả nước nhưng lại là một trong ba
vùng đồng bằng chịu ảnh hưởng nặng nề do
biến đổi khí hậu. Trước tình hình đó, trong
suốt nhiều năm qua, GS.TS Nguyễn Thị Lang
đã quyết tâm tạo ra các giống lúa chất lượng,
giữ vai trò chủ lực trong vụ mùa tại Nam bộ;
đồng thời, giúp người nông dân thu thêm
hàng nghìn tỷ đồng lợi nhuận mỗi năm.
Đối với GS.TS Nguyễn Thị Lang,
công cuộc đi tìm những giống lúa thích nghi
với hoàn cảnh biến đổi khí hậu là một nhiệm
vụ cấp bách, đầy khó khăn và thử thách,
nhưng khoa học luôn mang lại cho bà niềm
hạnh phúc và sự say mê. Trong hơn 25 năm
làm nghiên cứu, GS.TS Nguyễn Thị Lang đã
lai tạo thành công hơn 73 giống lúa, trong đó
có 31 giống lúa đã được Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn công nhận và đưa vào
sản xuất tại các tỉnh vùng ĐBSCL, 106 giống
lúa được đánh giá là triển vọng và đang trong
quá trình khảo nghiệm cấp quốc gia. Bà cũng
là người chủ trì và trực tiếp tham gia hơn 100
đề tài về sản xuất lúa gạo.
Một trong những đóng góp nổi bật của
GS.TS Nguyễn Thị Lang là việc chọn tạo
thành công các giống lúa chịu mặn có nguồn
gốc từ giống lúa trời, dân gian gọi là "lúa
ma". "Lúa ma" là giống lúa hoang dã, có sức
sống mãnh liệt giữa vùng trũng Đồng Tháp
Mười. Vào mùa lũ, giống lúa này vượt lên
nước lũ để trổ bông, đơm bông, mang tặng
con người những hạt gạo thơm ngọt, cứu sống
bao người những năm chiến tranh, đói kém.
Biết "lúa ma" có phẩm chất đặc biệt ấy,
GS.TS Nguyễn Thị Lang đã lặn lội về Đồng
Tháp Mười tìm cách nghiên cứu kết hợp
những tính năng chịu đựng ưu việt của "lúa
ma" với giống lúa cao sản để tạo nên giống
lúa mới. Hơn 10 năm ròng rã, giống lúa mới
mang tên AS996 (còn có tên OM2424) đã ra
đời với các tính năng nổi trội về khả năng
sinh trưởng trong điều kiện đất phèn, thiếu
lân, khả năng chịu mặn cao, kháng rầy nâu;
đặc biệt, có khả năng phát triển tốt ở nhiều
vùng, đạt năng suất cao…, trở thành giống
lúa chuẩn mực về tính chống chịu trong điều
kiện khắc nghiệt. AS996 không chỉ được
trồng rộng rãi ở các vùng ngập mặn nước ta
mà còn được chuyển giao sang nhiều nước
trên thế giới. Tiếp sau đó, hàng chục giống
lúa chịu mặn tiếp tục ra đời như: OM4498,
OM5930, OM4900, OM6073…
Đến nay, GS.TS Nguyễn Thị Lang đã
chọn tạo được 24 giống lúa được công nhận
là giống lúa quốc gia. Hiện, bà đang nghiên
cứu thêm các giống lúa có tính kháng đối với
nhiều loại bệnh, côn trùng, có hàm lượng dinh
dưỡng cao, khả năng chống khô hạn, ngập
úng, nhiễm mặn... Ngoài ra, bà còn xây dựng
quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến cho một
số loại rau, quả đạt chuẩn an toàn vệ sinh, tạo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 34/54
nguồn lương thực sạch cho tiêu dùng và xuất
khẩu. Từ đây, nhiều mô hình cánh đồng 50 -
100 triệu đồng/ha đã ra đời, góp phần tích cực
và hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, phát triển kinh tế hộ gia đình, khuyến
khích người nông dân sản xuất, hạn chế tình
trạng ly nông, ly hương thường xảy ra ở nông
thôn Nam bộ.
Chia sẻ tại Lễ trao Giải thưởng Trần
Đại Nghĩa, GS.TS Nguyễn Thị Lang cho biết,
bà sẽ không dừng lại ở giải thưởng này mà
tiếp tục chặng đường dài phấn đấu để có
những nghiên cứu đột phá trong ngành nông
nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu khoa học phải
thực sự hướng đến ứng dụng vào sản xuất có
hiệu quả, cạnh tranh được với các quốc gia
khác. "Bản thân tôi luôn suy nghĩ tới đây sẽ tổ
chức như thế nào để nâng cao giá trị sản xuất
hàng hóa của cây lúa cho người nông dân" -
GS.TS Nguyễn Thị Lang nói.
Nguồn: Quỳnh Nga, congthuong.vn,
17/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp xử lý sầu riêng ra bông nghịch vụ
Tới mùa xử lý ra bông nghịch vụ cây
sầu riêng, điện thoại của anh Bảy Hiền reo
liên tục đến tối. Anh hướng dẫn tận vườn rồi
từ xa qua điện thoại cho nông dân từng bước
một như canh đọt, tưới nước, vô phân… đúng
từng thời điểm. Anh còn áp dụng kỹ thuật
mới giúp nông dân không cần đi thụ phấn
bằng tay mỗi đêm lúc bông trổ.
Suốt nhiều năm qua, anh Hiền đi khắp
nơi giúp người trồng sầu riêng cách xử lý ra
bông nghịch vụ, hầu hết những vườn anh
hướng dẫn đều ra bông thành công rất cao.
Bất cứ ai anh cũng giúp, giúp bằng tấm lòng
chứ không nhận tiền công.
Mùa nghịch, giá trái sầu riêng thường
cao gấp 3 lần. Tuy nhiên, để cây sầu riêng trổ
bông và đậu trái mùa nghịch rất khó khăn,
không phải người trồng nào cũng điều khiển
thành công. Là người trồng sầu riêng và thất
bại liên tiếp, trắng tay với cây sầu riêng nhưng
anh Hiền không bỏ cuộc... Anh kể, dành dụm
tiền chuyển đổi trồng sầu riêng, chăm sóc chờ
cây cho trái, nhưng không hiểu sao suốt 3 năm
liên tiếp, vườn sầu riêng của anh thất mùa, cây
không ra bông, trái không đạt... Từ đó, anh và
chiếc xe đạp cũ rong ruổi khắp nơi, nghe chỗ
nào có trồng sầu riêng là anh hỏi thăm đi tới
xin vào tham quan, học hỏi.
Anh về bắt đầu lại với cây sầu riêng và
thành công, tất cả các kinh nghiệm học tập
được anh ghi nhớ, bổ sung cho phù hợp từng
vùng đất và biến nó thành một quy trình kỹ
thuật. Trong kỹ thuật của anh Hiền, khi xử lý
chính là cách nuôi dưỡng cây chứ không “ép”
cây ra bông bằng mọi giá để sau vụ trái cây
suy kiệt. “Hai lúa” thứ thiệt nhưng anh Hiền
rất chú trọng sinh học, hữu cơ. Anh lặn lội lên
thành phố tìm công ty chuyên cung cấp phân
hữu cơ chất lượng giúp nông dân. Anh Hiền
cho biết, trồng cây sầu riêng rất khó, không
nên lạm dụng phân thuốc hóa học, trong xử lý
ra bông cũng vậy, quá nhiều thuốc hóa học,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 35/54
cưỡng bức cây ra bông... nhưng sau đó là hậu
quả nặng nề, cây suy kiệt nặng, cháy rễ, khô
cành, mất sức kháng nên dễ bị bệnh tấn công,
cây chết dần. Nhiều vườn sầu riêng hơn 10
năm tuổi, chỉ vì nôn nóng xử lý ra bông mà
nông dân lạm dụng chất hóa học, phân hóa
học quá mức, sau vụ trái vườn xuống cấp và
chết dần không thể cứu chữa.
Để chuẩn bị xử lý nghịch vụ cho cây
sầu riêng, đầu tiên anh Hiền tới xem vườn,
kiểm tra cây, hướng dẫn nông dân cách chăm
sóc đất, bồi bổ đất đúng đặc tính cây sầu
riêng, chăm sóc rễ khỏe. Khi thấy cây khỏe
mạnh, đạt yêu cầu thì anh mới cho xử lý ra
bông. Hầu hết những vườn được anh xử lý
đều ra bông 80 - 90%, ngay cả khi thời tiết
bất lợi. Anh Hiền hay chọn thời điểm xử lý
vào tháng 7 - 8 âm lịch, dù đây là thời điểm
mưa nhiều, khó xử lý, nhưng là “thời điểm
vàng” để bán trái giá cao nhất trong năm.
Nông dân đồng bằng sông Cửu Long canh lúc
bông trổ phải đi quét hạt phấn và thụ phấn
cho bông vào chiều tối, tuy nhiên theo cách
xử lý mới của anh Hiền thì không cần đi thụ
phấn nhưng tỷ lệ đậu trái vẫn rất cao.
Nhiều năm qua, cái tên Bảy Hiền trở
nên gần gũi với nông dân trồng sầu riêng ở
Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long... và hầu hết
vườn anh hướng dẫn đều ra nhiều bông, trái
đẹp, cây không bị suy kiệt sau thu hoạch.
Nông dân “khoái” Bảy Hiền ở chỗ
không ngại xa xôi, ai kêu anh cũng tới. Giúp
mà không hề nhận tiền công và xem đó là một
niềm vui khi thấy cây sầu riêng trổ bông và
nông dân được mùa. Bởi đó là tâm nguyện
của anh, anh hiểu sự thất bại của việc trồng
sầu riêng với nông dân mà chính anh đã trải
qua. Thêm cái đặc biệt của Bảy Hiền nữa là
không giấu nghề, anh truyền kinh nghiệm này
cho nhiều bạn bè, anh em và họ lập thành đội
sẵn sàng hỗ trợ nông dân lúc cần.
Đi thăm vườn sầu riêng trái oằn sai,
Bảy Hiền cười vui và nhất quyết không chịu
nhận quà chủ vườn, anh nói bằng chất giọng
hiền như chính cái tên của anh: “Làm tốt thì
chỉ cho người khác làm theo coi như trả công
tui rồi đó”.
(Bảy Hiền tên thật là Lê Văn Hiền, ở
ấp Sơn Lân, xã Sơn Định, huyện Chợ Lách,
Bến Tre. Điện thoại: 0914.242.849).
Nguồn: Phương duy,
khoahocphothong.com.vn, 20/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu ứng dụng chất tạo màng sinh học nhằm kéo dài thời gian bảo quản quýt
Đề tài “Ứng dụng saponin kết hợp với
chitosan và axit axetic tạo màng sinh học,
nhằm kéo dài thời gian bảo quản và giữ được
các đặc tính đặc trưng của quả quýt tỉnh Cao
Bằng” do PGS. TS. Nguyễn Văn Lợi (Viện
Công nghệ HaUI - Trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội) làm chủ nhiệm đã đạt được
những kết quả tích cực và có tính ứng dụng
cao.
Sau 2 năm triển khai thực hiện
(12/2017 - 11/2019), đề tài đã đáp ứng được
mục tiêu và nội dung đề ra, cụ thể: xác định
phương pháp tạo màng phù hợp để bảo quản
quả quýt; biến đổi chất lượng của quả quýt
Cao Bằng trước và trong quá trình bảo quản;
xây dựng quy trình công nghệ bảo quản quả
quýt Cao Bằng bằng màng sinh học saponin
kết hợp với chitosan và axit axetic ở điều kiện
bình thường với nông độ chế phẩm là 1,5%
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 36/54
và thời gian nhúng là 2 phút; xây dựng mô
hình bảo quản quýt bằng màng sinh học (quy
mô 0,75 tấn/mẻ bảo quản tại xã Quang hán,
huyện Trà Lĩnh), kết quả cho thấy sau 6 tuần
bảo quản quả quýt vẫn giữ được các đặc tính,
đặc trưng, bên cạnh đó đưa ra được 6 giải
pháp, ứng dụng nhân rộng kết quả nghiên cứu
của đề tài; tổ chức 1 lớp tập huấn kỹ thuật và
1 hội thảo khoa học về quy trình công nghệ
bảo quản quả quýt bằng màng sinh học.
Hình ảnh quýt bảo quản tại mô hình
Mới đây, Sở KH&CN Cao Bằng đã tổ
chức họp Hội đồng khoa học đánh giá nghiệm
thu đè tài. Cơ quan chủ trì và nhóm thực hiện
đề tài đã nghiêm túc triển khai thực hiện và
hoàn thành các nội dung theo Hợp đồng đã ký
kết, kết quả của đề tài là cơ sở để chính quyền
địa phương tiếp tục đầu tư, áp dụng giải pháp
đối với những loại rau quả khác tại địa
phương. Hội đồng cũng đề nghị nhóm tác giả
bổ sung, chỉnh sửa một số nội dung trong báo
cáo tổng kết, như: cần đánh giá thêm về tình
hình áp dụng màng bọc sinh học này với
những loại rau quả khác trên địa bàn tỉnh Cao
Bằng; quy trình kỹ thuật bảo quản cần viết dễ
hiểu, dễ áp dụng với người dân; cần đánh giá
thêm hiệu quả kinh tế, kỹ thuật, môi trường
của quy trình; tiếp tục tuyên truyền kết quả
của đề tài để lãnh đạo địa phương, các doanh
nghiệp, các hợp tác xã và người dân quan tâm
áp dụng và mở rộng sản xuất…
Nhóm nghiên cứu Đề tài đã tổ chức
buổi tập huấn kỹ thuật bảo quản quả quýt Trà
Lĩnh bằng màng sinh học (saponin kết hợp
với chitosan và axit axetic). Tới dự buổi tập
huấn, về phía Sở Khoa học và công nghệ tỉnh
Cao Bằng có sự tham dự của Bà Vũ Thị Hồng
Thúy - Phó Giám đốc và các cán bộ của Sở,
đại diện UBND xã Quang Hán và UBND
huyện Trà Lĩnh, cùng đông đảo các hộ nông
dân trồng quýt trên địa bàn xã Quang Hán.
Quýt là cây trồng được trồng nhiều ở tỉnh Cao
Bằng hiện nay, đặc biệt là ở huyện Trà Lĩnh
có 70,04 ha.
Công nghệ xử lý, bảo quản tại đây
phần lớn vẫn theo phương pháp truyền thống
với quy mô nhỏ, chi phí bảo quản cao (bảo
quản bằng hóa chất, bảo quản lạnh) nên số
lượng sản phẩm bảo quản tuy nhiều nhưng
chất lượng chưa cao, thời gian bảo quản
ngắn, tỷ lệ thối hỏng trong quá trình bảo
quản cao nên chưa đáp ứng được yêu cầu của
thị trường.
Công nghệ bảo quản quả quýt bằng
màng sinh học saponin kết hợp với chitosan
và axit axetic được thực hiện trong điều kiện
môi trường tự nhiên, do đó tiết kiệm được
các chi phí trong quá trình bảo quản và áp
dụng được ở nhiều quy mô như quy mô công
nghiệp, quy mô trang trại, quy mô gia đình,
với giá thành chỉ bằng 60- 65% so với
phương pháp bảo quản lạnh. Đặc biệt đây là
màng sinh học, ăn được do đó đáp ứng được
đầy đủ các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh
thực phẩm.
Nguồn: NASATI, vista.gov.vn,
26/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 37/54
Lại tạo thành công 3 giống thanh long cao cấp mới
TS. Trần Thị Oanh Yến giới thiệu ba giống thanh long mới có ruột đỏ, trắng và hồng
Ba giống thanh long ngọt đậm, cho
năng suất cao, bảo quản được lâu hơn và còn
có khả năng kháng bệnh đốm nâu nan giải
vốn ảnh hưởng mạnh đến khả năng xuất khẩu
loại trái này, vừa được Viện Cây ăn quả Miền
Nam (SOFRI) lai tạo thành công bằng công
nghệ DNA.
Thông tin này được TS. Trần Thị Oanh
Yến – Phó Viện trưởng SOFRI cho biết tại
Hội thảo “Mô hình thương mại hóa các giống
trái cây cao cấp – Lộ trình cho trái thanh long
chất lượng cao của Việt Nam” do Đại sứ quán
New Zealand phối hợp với SOFRI tổ chức
ngày 5/6 tại TPHCM.
Ba giống thanh long trên cũng là kết
quả của dự án “Phát triển giống cây cao cấp”
do Viện Nghiên cứu cây trồng và thực phẩm
New Zealand, SOFRI và Phân viện Cơ điện
nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch
thực hiện. Dự án do Chương trình phát triển
New Zealand tài trợ, trị giá 8,1 triệu USD,
được thực hiện từ năm 2013 - 2021.
Bà Yến cho biết, sử dụng công nghệ
DNA để chọn lọc bố mẹ và lai tạo, các giống
thanh long mới nói trên có vị ngọt đậm hơn,
chắc thịt so với các giống cũ. Đặc biệt, giống
ruột hồng có hương thơm nhẹ và chưa một
giống nào trước đây có mùi vị đặc trưng.
“Ưu việt của các giống này không chỉ
cho năng suất cao mà, bảo quản được lâu
hơn mà còn có khả năng kháng bệnh đốm nâu
– đây là loại bệnh phổ biến và nan giải trên
trái thanh long của Việt Nam” – bà Yến nói
và cho biết thêm, tính kháng bệnh này sẽ giúp
trái thanh long Việt Nam dễ dàng hơn khi
xuất khẩu bởi thời gian ra hoa đến khi thu
hoạch trái thanh long thường ngắn, việc phun
thuốc trừ sâu dễ để lại dư lượng trên trái.
Trong khi đó, các loại thuốc trừ bệnh đốm
nâu đều nằm trong danh mục không thể xuất
khẩu đến các thị trường khó tính như châu
Âu, Nhật Bản,...
TS. Michael Lay-Yee, Viện Nghiên
cứu cây trồng và thực phẩm New Zealand,
cho biết, ngoài việc lai tạo ra các giống thanh
long cao cấp, Dự án còn phát triển thành công
mô hình trồng, xử lý sau thu hoạch thanh long
theo phương pháp cải tiến và quy trình kiểm
soát bệnh đốm nâu.
Cụ thể, Dự án thực hiện thí tại các tỉnh
Tiền Giang, Long An, Vĩnh Long, Trà Vinh
và Bình Thuận phương phương trồng thanh
long theo kiểu giàn chữ T, giúp người trồng
kiểm soát được bệnh hại hiệu quả, chất lượng,
kích quả đồng đều, năng suất cao gấn 2 – 3
lần so với kiểu trồng trụ. Bên cạnh đó, để
nâng cao năng lực sau thu hoạch, dự án đã
thực hiện việc giám sát nhiệt độ của kho lạnh,
nhiệt độ xuất kho, cải thiện sự lưu thông
không khí trong kho lạnh trong quá trình
đóng gói, bảo quản. Các nhà khoa học của
Việt Nam cùng với sự hợp tác của các nhà
khoa học New Zealand chế tạo thành công
máy rửa thanh long áp lực cao hoàn toàn tự
động. Máy có khả năng làm sạch trái rất cao
mà không làm tổn thương trái, giảm chi phí
nhân công, tăng hiệu quả của việc xử lý diệt
nấm cho trái sau thu hoạch.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 38/54
Theo bà Yến, các loại giống mới sẽ
được đăng ký bản quyền trong nước và quốc
tế. Dự kiến cuối năm 2020, dự án sẽ đưa vào
sản xuất các giống mới để thương mại hóa tại
Việt Nam và thị trường quốc tế..
Nguồn: Kiều Anh,
khoahocphattrien.vn, 05/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Lai tạo thành công giống nho mới chất lượng cao từ nho dại
Vừa qua, Cục trồng trọt (Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn) thành lập Hội
đồng khoa học công nghệ đánh giá, công
nhận giống nho ăn tươi NH 01 - 152 là giống
nho mới và cho phép sản xuất thử trước khi
sản xuất đại trà.
Giống nho NH 01 - 152 có tên khoa
học Mariaue finger là kết quả nghiên cứu của
đề tài khoa học “Nghiên cứu chọn tạo giống
nho ăn tươi của tỉnh Ninh Thuận” do Viện
nghiên cứu bông và phát triển nông nghiệp
Nha Hố (tại địa bàn tỉnh Ninh Thuận) nghiên
cứu, lai tạo thành công từ trồng trên gốc ghép
của giống nho dại.
Theo đánh giá của Viện nghiên cứu
bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố, qua
thời gian trồng khảo nghiệm, giống nho ăn
tươi NH 01 - 152 có nhiều ưu điểm như: cây
nho có thể trồng trên nhiều nền chân đất khác
nhau, vào mùa mưa, bông xổ cũng khó tụt.
Thời tiết nắng nóng nhưng cây vẫn đậu trái,
tỷ lệ đậu trái cao, khả năng kháng sâu bệnh
tốt. Tùy theo chế độ canh tác, giống nho mới
này cho năng suất bình quân 15 - 18
tấn/ha/vụ; trong điều kiện thâm canh đạt 20 -
25 tấn/ha/vụ, sản xuất được 2 vụ/năm.
Giống nho NH 01 - 152 có đặc điểm
trái to, trọng lượng từ 0,5 - trên 1,5 kg/chùm.
Vỏ trái dày, thịt chắc, giòn, độ ngọt vừa phải.
Vị thơm nhẹ rất đặc trưng, khi chín trái có
màu đỏ vang rất đẹp.
Chất lượng trái của giống nho NH 01 -
152 tương đương với sản phẩm nho cùng loại
từ nước ngoài nhập khẩu vào thị trường Việt
Nam. Sản phẩm hiện được các thương lái thu
mua tại vườn với giá dao động từ 100.000 -
120.000 đồng/kg, cao gấp 2 - 3 lần so với giống
nho Red Cardinal và nho xanh NH 01 - 48.
Đây là cơ sở để đưa giống nho mới
NH 01 - 152 vào sản xuất, giúp nông dân có
giống nho tốt để trồng; lựa chọn thay thế một
số giống nho cũ đang bị thoái hóa. Cách làm
này nhằm đa dạng hóa giống nho ăn tươi chất
lượng cao của tỉnh hiện nay.
Thời gian tới, viện tiếp tục nghiên cứu
bổ sung để hoàn thiện tối ưu quy trình kỹ
thuật canh tác đối với giống nho này để nâng
hiệu quả sản xuất.
Nguồn: T.L, khoahocphothong.com.vn,
20/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Nano bạc trong phòng và trị bệnh viêm móng bò sữa
Hiệu quả của Nano bạc trong phòng và
trị bệnh viêm móng bò sữa là đề tài được thực
hiện bởi nhóm tác giả Ngô Đình Tân, Tăng
Xuân Lưu, Đặng Thị Dương, Khuất Thị Thu
Hà, Trần Thị Loan, Phùng Thị Diệu Linh,
Phùng Quang Trường (Trung tâm Nghiên cứu
Bò và Đồng cỏ Ba Vì), Nguyễn Hoài Châu,
Trần Văn Tựa, Đào Trọng Hiền (Viện Công
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 39/54
nghệ Môi trường) và Nguyễn Thị Thanh Hà
(Học viện Nông nghiệp Việt Nam) với mục
tiêu xác định và phân loại mức độ viêm móng
trên đàn bò sữa và hiệu quả sử dụng nano bạc
trong phòng và điều trị viêm móng.
Sức khỏe chân móng của bò có vai trò
rất quan trọng. Viêm móng gây thiệt hại
không nhỏ về kinh tế cho người chăn nuôi bò
sữa, làm giảm khả năng sản xuất, sinh
sản,…Nguyên nhân gây ra viêm móng rất đa
dạng, bao gồm: trang trại vệ sinh kém, rối
loạn trao đổi chất,…Ở Việt Nam, bệnh chân
móng bò xuất hiện từ nhiều năm trước, tỷ lệ
viêm móng bò sữa tại Ba Vì có xu hướng tăng
lên (11,85% năm 2012 và 13,84% năm 2015);
bệnh xảy ra ở hầu hết các xã nuôi bò sữa, chủ
yếu với bò sinh sản.
Phòng bệnh viêm móng là thực sự cần
thiết, bên cạnh đó việc điều trị cũng phải tiến
hành kịp thời. Nhiều năm qua, việc phòng
bệnh chủ yếu là dùng các chất kháng khuẩn
như kháng sinh, iodine, Amoxicillin …nhưng
hiệu quả mang lại chưa cao. Ngày nay, công
nghệ nano đã được ứng dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực chăn
nuôi. Nano bạc có đặc tính kháng khuẩn cao,
được thể hiện qua một số đặc tính lý hóa của
hạt và khả năng bao phủ bề mặt. Chính vì thế,
việc sử dụng nano bạc trong phòng và trị
bệnh viêm móng bò sữa hứa hẹn sẽ là giải
pháp mang lại hiệu quả đáng mong đợi.
Nghiên cứu được thực hiện tại các trại
nuôi bò sữa của Trung tâm Nghiên cứu Bò và
Đồng cỏ Ba Vì. Nhóm tác giả sử dụng dung
dịch nano bạc, kem nano bạc, cùng các hóa
chất phù hợp làm vật liệu nghiên cứu, đồng
thời áp dụng phương pháp điều tra, phân loại
mức độ viêm móng bò sữa (định dạng được 5
mức độ: mức 1: Bò đứng và đi lại bình
thường; mức 2: Bò đứng hơi lùi về phía sau
và hơi khom lưng, đi lại bình thường; mức 3:
Bò cong lưng rõ ràng cả khi đi và đứng, dáng
đi thay đổi; mức 4: Bò cong lưng rất rõ ràng,
đi lại khó khăn; mức 5: Bò nằm, không đứng
lên được), và kết hợp với phương pháp phân
loại khả năng phòng và điều trị viêm móng
cho từng loại nano bạc.
Kết quả cho thấy, dung dịch nano bạc
có tác dụng phòng bệnh viêm móng bò sữa
(93,33%, cao hơn 13,33% so với Iodine). Khi
bò bị bệnh thì kem nano bạc có tác dụng điều
trị bệnh viêm móng mức 2 và 3 tốt hơn so với
Amoxicillin, sau 10 ngày điều trị. Hơn nữa, tỷ
lệ khỏi bệnh ở mức 4 đạt 40% sau khi điều trị
bệnh móng sau 10 ngày.
Nguồn: Kim Oanh, cesti.gov.vn,
19/06/2019
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu giải pháp khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước tại các vùng núi cao Karst Đông Bắc Việt Nam. Áp dụng thử nghiệm tại vùng cao nguyên đá Đồng Văn
Vùng núi cao karst Đông Bắc là khu
vực phân bố các thành tạo cacbonat có khả
năng thấm nước tốt, tuy nhiên do có địa hình
cao, phân cắt sâu làm cho khả năng tàng trữ
nước kém do bị thoát rất nhanh theo các hệ
thống karst ra mạng lưới xâm thực địa
phương tạo nên sự khan hiếm nước rất
nghiêm trọng, gây khó khăn cho đời sống của
nhân dân. Trong những năm qua, Nhà nước
đã đầu tư thích đáng để giải quyết vấn đề
nước sinh hoạt cho nhân dân ở các vùng núi
cao thông qua nhiều Chương trình, Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 40/54
khác nhau do nhiều Bộ, Ngành khác nhau và
các tổ chức quốc tế thực hiện. Nhiều giải
pháp khai thác, sử dụng nước như xây bể, lu
chứa nước, hoặc xây dựng nhiều hồ treo chứa
nước, xây dựng các công trình nước tự chảy,
khảo sát khoan thăm dò khai thác nước dưới
đất... Đến nay, các công trình đó đã mang lại
những hiệu quả nhất định nhưng tình trạng
thiếu nước vẫn xảy ra thường xuyên, nhất là
vào mùa khô hạn. Các hồ treo, bể chứa, công
trình cấp nước hiện đã xuống cấp hoặc bị cạn
kiệt do điều kiện thi công, thời tiết, khí hậu
bất thường không đảm bảo cung cấp nước
cho đời sống nhân dân và phục vụ phát triển
kinh tế xã hội.
Như vậy vấn đề ở đây là giải pháp khai
thác, sử dụng nguồn nước nào là hợp lý, bền
vững để tận dụng tối đa và phát triển bền
vững tài nguyên nước trong khu vực phục vụ
cấp nước sinh hoạt, và sau nữa là nước cho
hoạt động sản xuất lâu dài cho vùng cao núi
cao karst Đông Bắc Việt Nam. Chính vì vậy,
để có cơ sở định hướng các giải pháp khai
thác khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước
phục vụ nhu cầu ăn uống, sinh hoạt và sản
xuất đảm bảo an sinh xã hội, an ninh quốc
phòng tại các vùng núi cao karst Đông Bắc,
nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Quy hoạch và
Điều tra tài nguyên nước quốc gia do ThS.
Phạm Bá Quyền làm chủ nhiệm, đã thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu giải pháp khai thác, sử
dụng bền vững nguồn nước tại các vùng núi
cao Karst Đông Bắc Việt Nam. Áp dụng thử
nghiệm tại vùng cao nguyên đá Đồng Văn”
trong thời gian từ tháng 1/2015 đến tháng
8/2017.
Đề tài đạt được mục tiêu nghiên cứu là:
- Xác lập được các giải pháp khai thác,
sử dụng bền vững nguồn nước tại các vùng
núi cao karst Đông Bắc Việt Nam;
- Đề xuất mô hình thích hợp khai thác,
sử dụng bền vững nguồn nước tại cao nguyên
đá Đồng Văn.
Một số kết quả nghiên cứu của đề tài:
- Đã hệ thống hóa được các giải pháp
khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước trên
thế giới và trong nước từ đó luận chứng đề
xuất các giải pháp khai thác, sử dụng bền
vững các nguồn nước phù hợp với điều kiện
thực tiễn của nùng núi cao karst Đông Bắc
Việt Nam.
- Đã xác định được hiện trạng tài
nguyên nước vùng núi cao karst Đông Bắc.
- Đã đưa ra được cơ sở khoa học và
xác lập được giải pháp khai thác, sử dụng bền
vững nguồn nước cho 213 xã, thị trấn thuộc 5
tỉnh trong vùng núi cao karst Đông Bắc.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn mô hình
khai thác sử dụng nguồn nước tại vùng cao
nguyên đá đã đánh giá được mô hình khai
thác nguồn nước bằng giếng khoan tại thị trấn
Đồng Văn là rất bền vững. Ngoài ra, đề tài đã
đề xuất được mô hình khai thác, sử dụng bền
vững nguồn nước tại 21 giếng khoan và 189
mạch lộ có thể đưa vào khai thác, sử dụng
ngay tại vùng cao nguyên đá Đồng Văn.
Nguồn: N.P.D (NASATI), vista.gov.vn,
27/06/2019
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 41/54
**************
SMARTPH: Tự động quan trắc nước thải, khí thải và bụi ngay tại nguồn
Hiệu chuẩn kiểm định thiết bị quan trắc nước thải online SmartpH
Giám sát chất lượng môi trường (nước
thải, khí thải) đang được xem là trách nhiệm
xã hội, thậm chí đang dần trở thành tiêu chí
bắt buộc ở từng doanh nghiệp có hoạt động
sản xuất. Thay vì tốn chi phí cho nhân sự thực
hiện chuyên trách việc theo dõi và báo cáo
kết quả quan trắc sau khi nhận thông tin từ
phòng thí nghiệm, doanh nghiệp hoàn toàn có
khả năng tự động hóa quá trình quan trắc
bằng hệ thống quan trắc chuyên dụng sử dụng
cảm biến thông minh, đồng thời còn có khả
năng truyền dữ liệu đến cơ quan quản lý nhà
nước, như Sở Tài nguyên và Môi trường, để
báo cáo.
Thông qua dữ liệu đo đạc, cơ quan
quản lý nhà nước sẽ nắm bắt thông tin kịp
thời, có dự báo và sẵn sàng ứng phó với
những trường hợp phát sinh biến cố. Ở khía
cạnh xã hội, việc lắp đặt hệ thống quan trắc
nước thải là một trong những phương pháp
thể hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường với
cộng đồng, qua đó khẳng định và làm tăng
thêm uy tín của doanh nghiệp.
Được thiết kế và chế tạo trong nước,
hệ thống quan trắc tự động SmartpH của
Công ty Cổ phần Khoa học Kỹ thuật Phượng
Hải có độ chính xác và độ bền rất cao, được
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn đo lường
Chất lượng 3 (Quatest 3) và Trung tâm Quan
trắc - Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Bình Dương cấp giấy chứng nhận hiệu chuẩn.
Ngoài việc đảm bảo phù hợp với Thông tư
24/2017/TT-BTNMT, SmartpH còn kết nối
được với các Sở Tài nguyên và Môi trường.
Ưu điểm của hệ thống quan trắc tự
động SmartpH là sử dụng các cảm biến để
theo dõi và phân tích dữ liệu của mẫu (nước
thải, khí thải…) mà không cần phải đưa đến
phòng thí nghiệm. Ngay khi đo được mức độ
ô nhiễm của nguồn nước, tất cả các thông số
sẽ được trả về nhanh chóng, độ tin cậy và
chính xác cao, sẵn sàng gửi về trung tâm xử
lý dữ liệu. Thông qua việc truyền tải dữ liệu
trực tuyến, người vận hành có khả năng nắm
bắt kết quả quan trắc ngay lập tức mà không
cần mất nhiều thời gian như khi phải đến tận
nơi để thu thập và mang mẫu nước về phân
tích, đồng thời có thể kiểm tra được mức độ ô
nhiễm của mẫu tại bất kì thời điểm nào.
Tháng 12/2018, SmartpH đã được lắp
đặt tại Công ty TNHH MTV Xi măng Sông
Gianh (Quảng Bình) để đo chất lượng nước
sông đầu vào, phục vụ hoạt động điều khiển
việc tắt/bật bơm nước sông vào hồ chứa nước
làm mát cho hệ thống nhiệt điện. Trong đó,
bộ Transmitter đo đa chỉ tiêu (SmartpH-01M)
là bộ hiển thị và điều khiển thông minh có
khả năng đo mở rộng được 08 chỉ tiêu cùng
lúc COD/BOD/pH/oC/Cond/TSS/Color/Flow.
Tháng 01/2019, hệ thống quan trắc tự
động SmartpH đã được lắp đặt tại Nhà máy
Xử lý nước thải KCN Sóng Thần 2, được hiệu
chuẩn kiểm định bởi Trung tâm Quan trắc
Môi trường miền Nam (Tổng cục Môi
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 42/54
trường). Tháng 3/2019, hệ thống quan trắc tự
động SmartpH cũng được lựa chọn để quan
trắc nước thải trực tiếp cho Nhà máy sản xuất
ô tô, xe máy điện VinFast tại khu công nghiệp
Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng).
Không chỉ thế, được thiết kế dạng
module, thiết bị quan trắc online cho phép
người sử dụng có thể nâng cấp và mở rộng
bất kỳ bộ phận nào để đáp ứng nhu cầu công
việc. Do đó, khách hàng sẽ không phải tốn
chi phí thay thiết bị để cập nhật công nghệ mà
chỉ cần nâng cấp từng bộ phân theo nhu cầu,
thời điểm thích hợp. Đây cũng là ưu điểm
vượt trội nhất của loại thiết bị so với các thiết
bị loại cũ. Điển hình là Công ty TNHH
British American Tobacco Việt Nam đã lắp
đặt mở rộng thêm thiết bị quan trắc bụi
PM2.5 theo chỉ số AQI. Trong đó, bộ hiển thị
nồng độ bụi đa điểm SmartpH-06PM có khả
năng đo được 6 vị trí cùng lúc.
Về tổng thể, hệ thống quan trắc tự
động SmartpH bao gồm tủ quan trắc được gắn
các đầu đo chỉ tiêu lắp bên trong bể nước
chảy tràn được bơm vào từ nơi xả thải. Giá trị
đo hiển thị trên màn hình có ngõ ra kết nối
với 1 datalogger truyền số liệu quan trắc về
máy chủ của Sở Tài nguyên và Môi trường.
Thiết bị lấy mẫu tự động kết nối với đường
nước trong bể đo, khi thông số nước thải
truyền về Sở Tài nguyên và Môi trường có
dấu hiệu bất thường, nhân sự theo dõi sẽ lấy
mẫu và niêm phong mẫu nước thải từ xa
thông qua thiết bị lấy mẫu tự động. Ngoài ra
có 1 hệ thống camera sẽ theo dõi vị trí lấy
mẫu, tủ quan trắc nước thải và tủ lấy mẫu, để
giám sát việc đo lường quan trắc.
Hệ thống quan trắc tự động SmartpH
do Công ty Cổ phần Khoa học Kỹ thuật
Phượng Hải cung cấp ứng dụng những công
nghệ và thiết bị hiện đại nên có độ chính xác
và độ bền rất cao; chi phí vận hành và bảo trì
thấp; đơn giản trong lắp đặt, kết nối và vận
hành.
Nguồn: Kim Hoàn, techport.vn,
18/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu ứng dụng nghiệp vụ mô hình bất thủy tĩnh để nâng cao chất lượng dự báo thời tiết cho khu vực Việt Nam
Hiện nay, độ phân giải ngang của các
mô hình khu vực ứng dụng trong nghiệp vụ
tại Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn
Trung ương chỉ phổ biến từ 15-17km. Như
vậy có thể thấy việc tiếp tục ứng dụng các mô
hình khu vực vẫn là chìa khóa để tăng độ chi
tiết từ các sản phẩm dự báo toàn cầu. Bên
cạnh đó, với nhu cầu tăng mức độ chi tiết hơn
nữa trong các bản tin phục vụ dự báo khí
tượng, thủy văn và hải văn, độ phân giải trong
các mô hình khu vực sẽ cần thiết phải hạ quy
mô xuống từ cận dưới quy mô vừa 5-7km đến
quy mô đối lưu dưới 2km trong thời gian tới.
Căn cứ vào tính cấp thiết của việc tiếp
tục ứng dụng mô hình bất thủy tĩnh phân giải
cao trong bài toán dự báo nghiệp vụ. Nhóm
nghiên cứu do Cơ quan chủ trì đề tài Trung
tâm khí tượng Thủy văn Quốc gia phối hợp
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 43/54
với Chủ nhiệm đề tài Th.S Dư Đức Tiến cùng
thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng nghiệp
vụ mô hình bất thủy tĩnh để nâng cao chất
lượng dự báo thời tiết cho khu vực Việt Nam”.
Dựa trên các kết quả thử nghiệm và
đánh giá dự báo, mô phỏng bằng các mô hình
khu vực bất thủy tĩnh phân giải cao, đề tài rút
ra một số kết luận chính như sau:
1) Ảnh hưởng của mô hình bất thủy
tĩnh tới dự báo thời tiết giai đoạn 2012-2014:
+ Đối với điều kiện thời tiết thông
thường: thông quan việc đánh giá 3 biến khí
tượng bề mặt cơ bản gồm nhiệt độ mực 2m,
gió mực 10m và mưa tích lũy ngày, các kết
quả đánh giá từ năm 2012-2014 giữa chế độ
chạy mô hình thủy tĩnh và bất thủy tĩnh với
cùng độ phân giải là 15km cho thấy đối với
nhiệt độ tt có sự khác biệt. Chế độ gió và mưa
có sự sai khác rõ rệt tập trung chủ yếu vào
mùa hè, cụ thể gió mực 10m có sai số giảm
tập trung lớn ở khu vực Trung Trung Bộ còn
lượng mưa dự báo ngày giảm đặc biệt tại khu
vực Tây Nguyên. Các vị trí giảm sai số ở mô
hình bất thủy tĩnh đều liên quan trực tiếp đến
các khu vực có địa hình phức tạp.
+ Đối với dự báo mưa lớn, thông qua
đánh giá dự báo mưa từ mô hình WRF-ARW
ở hai chế độ thủy tĩnh (WRF-ARW-TT-
15km) và bất thủy tĩnh (WRF-ARW-BTT-
15km) cho thấy ở ngưỡng mưa dưới
50mm/24h ít có sự khác biệt giữa hai lựa
chọn này cho mô hình WRF-ARW ở độ phân
giải 15km, tuy nhiên ở các ngưỡng mưa từ
50-100mm và lớn hơn 100mm có sự cải thiện
ở chế độ bất thủy tĩnh. Khi hạ độ phân giải
xuống 5km (WRF-ARW-BTT-5km), sai số ở
các ngưỡng mưa lớn hơn 100mm được cải
thiện so với ở dự báo 15km tại cả hai chế độ
thủy tĩnh và bất thủy tĩnh cho các hạn 48h và
72h. Điều này cho thấy chế độ bất thủy tĩnh
được thể hiện rõ rệt trong các dự báo phân
giải cao và có khả năng giảm thiểu sai số
trong các trường hợp mưa cực trị lớn.
+ Đối với dự báo không khí lạnh và
nắng nóng, ở cùng độ phân giải 15km, chế độ
bất thủy tĩnh không cải thiện được dự báo
nhiệt độ nói chung và hai hiện tượng không
khí lạnh và nắng nóng, tuy nhiên từ các thử
nghiệm dự báo phân giải cao từ 3-5km cho
thấy rõ được vai trò của mô hình bất thủy tĩnh
phân giải cao ảnh hưởng đến chất lượng dự
báo không khí lạnh và nắng nóng – đánh giá
gián tiếp thông qua chế độ nhiệt bề mặt.
2) Vấn đề lựa chọn vật lý mô hình và
độ phân giải cao trong dự báo mưa lớn
+ Đã thử nghiệm tổ hợp các sơ đồ vật
lý khác nhau trong mô hình WRF-ARW (gồm
sơ đồ đối lưu, sơ đồ vi vật lý mây và sơ đồ
bức xạ trong khí quyển) và mổ phỏng cho 30
đợt mưa lớn trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam
từ 2012-2014 trong đó điều kiện biên tái phân
tích được sử dụng để cô lập ảnh hưởng của
sai số điều kiện biên, qua đó xem xét độ nhạy
của các sơ đồ tham số hóa vật lý trong mô
hình đến kết quả dự báo mưa lớn. Kết quả
cho thấy sơ đồ đối lưu Kain-Friscth thể hiện
rõ ưu điểm thông qua hầu hết các chỉ số đánh
giá so với sơ đồ đối lưu BMJ. Sự kết hợp giữa
sơ đồ Kain-Fristch với sơ đồ vi vật lý mấy
WSM (3 hoặc 5 hoặc 6 lớp) và sơ đồ bức xạ
Dudhia cũng cho kết quả mô phỏng có kĩ
năng nhất so với các tổ hợp còn lại.
+ Những kết quả đánh giá dự báo ở các
hạn dài (2-3 ngày) cho thấy sự khác biệt giữa
kết quả của các tổ hợp vật lý không nhiều so
với hạn 24h (dao động của chỉ số ETS ở hạn
24h ~ 0.1 đến 0.15; hạn 48h ~ 0.05 đến 0.8;
hạn 72h dưới 0.05). Điều này có nghĩa, đối với
bài toán dự báo mưa lớn ở các hạn sau 24h cần
phải tiếp tục khảo sát liên quan đến vấn đề
động lực của mô hình khu vực và độ chính xác
của điều kiện biên điều khiển.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 44/54
3) Vấn đề giữa các mô hình khu vực:
+ Đề tài đã thực hiện dự báo 13 đợt
mưa lớn năm 2014 bằng 5 mô hình khu vực
phân giải cao gồm COSMO (7km), WRF-
ARW (5km hạ quy mô từ 15km), WRF-NMM
(5km hạ quy mô từ 15km), Moloch (5km, hạ
qua môBolam 15km) và NHM (5km hạ quy
mô từ 15km. Những kết quả đánh giá sai số
giữa các mô hình tại hạn 24h, 48h và 72h cho
thấy ở độ phân giải cao (5km), mô hình NHM
cho kết quả tốt nhất tại hai hạn 24h và 72h với
sai số ổn định hơn so với các mô hình còn lại.
Đánh giá cho 3 hệ thống mô hình NHM,
WRF-ARW và WRF-NMM khi hạ độ phân
giải thì sai số giảm đi ở đa số các hạn sau 1
ngày. Ngoài ra, về cơ bản chưa thấy khả năng
giảm sai số ở hạn 24h khi hạ độ phân giải và
khá tương đồng với kết quả đã thử nghiệm về
vai trò của độ phân giải với mô hình WRF-
ARW. Điều này cho thấy tính phức tạp của bài
toán hạ quy mô phù hợp với từng khu vực, khí
hậu địa phương cần áp dụng.
4) Khả năng tăng cường mô phỏng và
dự báo cho các hiện tượng thời tiết nguy hiểm
ở độ phân giải cao dưới 5km:
+ Một số thử nghiệm tăng độ phân giải
xuống 2-3km để đánh giá khả năng mô phỏng
và dự báo hiện tượng dông và xoáy thuận
nhiệt đới đã được thực hiện trong năm 2015
và 2016. Kết quả cho thấy khả năng cung cấp
dự báo các hiện tượng quy mô đối lưu như
dông và cấu trúc chi tiết của xoáy thuận nhiệt
đới được miêu tả chi tiết hơn và rõ hơn trong
ở độ phân giải 2-3km. Do hạn chế về mặt tính
toán (thử nghiệm ở độ phân giải 2-3km với 50
mực thẳng đứng cần 15-20h tích phân thực tế
trên hệ thống hiện tại của Trung tâm
DBKTTVTƯ cho dự báo hạn 24h) nên cần
thực hiện bổ sung các mẫu dự báo các hiện
tượng quy mô nhỏ trong tương lai, qua đó
đánh giá định lượng được hiệu quả của các
mô hình chạy ở quy mô đối lưu (2-3km hoặc
dưới 2km).
+ Thông qua chỉ số dự báo dông
Kindex, các thử nghiệm trong những trường
hợp có dông tại khu vực Hà Nội, Vinh và Đà
Nẵng cho thấy tăng được hệ số tượng quan
với quan trắc trong dự báo ở chế độ bất thủy
tĩnh và bất thủy tĩnh phân giải cao (2/3 số
trạm đánh giá). Mức độ tương quan giữa quan
trắc và dự báo khoảng 0.5-0.6 khi xét trên
toàn tập mẫu. Chỉ có sự khác biệt trong mẫu
có dông giữa bất thủy tĩnh và thủy tĩnh, tuy
nhiên giữa bất thủy tĩnh và bất thủy tĩnh-phân
giải cao (hạ quy mô động lực không có tương
tác 2 chiều) ít có sự khác biệt.
+ Trong bài toán dự báo bão và xoáy
thuận nhiệt đới, các kết quả đánh giá dự báo
quỹ đạo và cường độ bão từ năm 2012-2014
giữa mô hình toàn cầu GFS và mô hình WRF-
ARW ở hai chế độ thủy tĩnh và bất thủy tĩnh
cho thấy: trong các hạn 24h và 48h không có
sự cải thiện về sai số quỹ đạo nhưng sai số
cường độ được giảm đi ở chế độ bất thủy tĩnh
so với thủy tĩnh. Khi sử dụng hệ thống lưới
lồng hạ xuống độ phân giải 5km từ sản phẩm
15km (bất thủy tĩnh), sai số cường độ vẫn tiếp
tục có khả năng được cải thiện từ 1-2m/s
(trung bình tuyệt đối) so với ở độ phân giải
15km trong các năm thử nghiệm.
5) Vấn đề đồng hóa số liệu:
+ Đã kế thừa hệ thống đồng hóa số liệu
WRFDA từ đề tài cấp NN do TS Bùi Minh
Tăng làm chủ nhiệm trong việc đồng hóa số
liệu địa phương tại Việt Nam và số liệu radar
Doppler Đông Hà. Ngoài ra đề tài đã thử
nghiệm bổ sung xử lý và đồng hóa thêm số
liệu gió hướng tâm từ các quan trắc radar
Doppler (Đông Hà, Tam Kỳ).
+ Đã tiếp nhận, thiết lập và thử nghiệm
hệ thống đồng hóa động lực giảm dư Nudging
số liệu radar cho hệ thống mô hình COSMO
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 45/54
từ Tổng Cục khí tượng Đức, qua đó lần đầu
tiên tận dụng được số liệu quan trắc từ các
loại radar thế hệ cũ (chỉ cung cấp độ phản hồi
tại các góc quét đơn) cho bài toán đồng hóa
số liệu vào các mô hình khu vực tại Việt Nam
+ Đồng bộ hóa toàn bộ các loại số liệu
quan trắc về định dạng bufr để sử dụng thống
nhất trong cả hệ thống đồng hóa WRFDA và
Nudging.
+ Thử nghiệm trong nghiệp vụ hệ
thống đồng hóa biến phân WRFDA cho mô
hình WRF-ARW cho thấy chưa có sự khác
biệt thực sự khi sử dụng số liệu bề mặt của
Việt Nam mặc dù sự thay đổi của trường ban
đầu có thể lan lên các mực đến 500hPa trong
mô hình trong các tháng mùa hè.
+ Đối với số liệu radar, các kết quả
khảo sát với hệ thống COSMO sử dụng số
liệu radar phía Bắc hoặc mô hình WRF-ARW
đồng hóa số liệu Đông Hà cho thấy dự báo
mưa của mô hình khá nhạy với sự thay đổi do
đồng hóa radar mang lại và có thể ảnh hưởng
đến thời hạn 48h dự báo.
6) Phương pháp thống kê sau mô hình:
Đề tài đã kế thừa và áp dụng phương
pháp UMOS cho mô hình WRF-ARW ở hai
chế độ thủy tĩnh và bất thủy tĩnh trong việc
dự báo pha xảy ra mưa ở các ngưỡng khác
nhau. Việc hiệu chỉnh sản phẩm dự báo từ mô
hình khu vực WRF-ARW cho thấy khả năng
hiệu chỉnh rất cao của phương pháp UMOS
thay vì sử dụng trực tiếp dự báo của mô hình
WRF và ở chế độ bất thủy tĩnh khả năng hiệu
chỉnh cũng được tăng lên. Ở cấp mưa nhỏ và
vừa, chế độ bất thủy tĩnh sau khi hiệu chỉnh
UMOS cho kết quả tốt nhất trong khi ở các
ngưỡng cao hơn mặc dù có cải thiện so với
trực tiếp từ mô hình nhưng hiệu chỉnh UMOS
của WRF-ARW-TT vẫn tốt hơn.
7) Vấn đề năng lực máy tính và đề
xuất thực hiện thử nghiệm nghiệp vụ
+ Năng lực tính toán hiện tại chỉ đáp
ứng cho việc thực hiện dự báo hạn 72h ở độ
phân giải từ 12km-15km chạy trong thời gian
thực (thực hiện hoàn thành trong khoảng 45p-
60p) nên khả năng áp dụng các mô hình phân
giải cao từ 5km đến 7km là hạn chế. Một
trong những hạn chế chính của hệ thống tính
toán hiện tại chính là tốc độ kết nối giữa các
node tính toán với nhau (vẫn sử dụng công
nghệ cũ, tốc độ tính toán giữa các node sử
dụng kết nối ethernet ~ 1Gb so với hiện nay
đã tiến đến Trung tâm Dự báo khí tượng thủy
văn Trung ương 52 khái niệm băng thông
không giới hạn - infiniband ~ 40Gb) nên
không thể tăng số cpu cho bài toán mô phỏng
(càng tăng sẽ càng làm chậm tính toán đi).
+ Với năng lực nêu trên, chỉ có thể
thực hiện từ 1-2 ốp dự báo ở độ phân giải cao
và có độ trễ so với các sản phẩm toàn cầu từ
6h-10h và hạn dự báo đề xuất từ 48h cộng
thêm thời gian trễ do tốc độ tính toán chưa
đảm bảo (thiết lập dự báo đến 60h hoặc 72h
và loại bỏ đi 12h đầu tiên để dự báo viên có
thể tham khảo thêm sản phẩm phân giải cao).
+ Căn cứ vào thời gian tính toán và
thời gian thu nhận các loại số liệu điều kiện
biên khác nhau, Đề tài đã đưa vào thử nghiệm
nghiệp vụ 02 mô hình: i) WRF-ARW chạy ở
chế độ bất thủy tĩnh phân giải 15km bao phủ
toàn bộ Việt Nam và Biển Đông và độ phân
giải cao 5km bao phủ toàn bộ Việt Nam
(ngày chạy 01 ốp dự báo 12z), ii) COSMO ở
chế độ bất thủy tĩnh phân giải 7km bao phủ
toàn bộ Việt Nam và Biển Đông (ngày chạy
01 ốp dự báo 12z).
Nguồn: Đ.T.V (NASATI), vista.gov.vn,
01/07/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 46/54
LĨNH VỰC KHÁC
Tạp chí đầu tiên của Việt Nam được SCImago xếp hạng Q1 về lĩnh vực Vật liệu
Sau 3 năm xuất bản, mới đây, tạp chí
Journal of Science: Advanced Materials and
Devices (JSAMD) của ĐH Quốc gia Hà Nội
lần đầu tiên đã được SCImago xếp hạng -
GS.TS Nguyễn Hữu Đức, nguyên Phó giám
đốc ĐH Quốc gia Hà Nội, Tổng biên tập
JSAMD, cho biết.
Trong đó, 2 lĩnh vực Vật liệu composite
và Vật liệu từ, điện tử, quang được xếp nhóm
Q1; còn 2 lĩnh vực Khoa học vật liệu và Vật
liệu sinh học được xếp nhóm Q2.
SCImago (trụ sở ở Tây Ban Nha) là
một tổ chức nghiên cứu làm nhiệm vụ cung
cấp thông tin về chất lượng nghiên cứu khoa
học của các quốc gia, các cơ sở nghiên cứu,
mức độ uy tín của các tạp chí thông qua việc
phân tích các chỉ số dựa trên cơ sở dữ liệu
Scopus do Nhà xuất bản Elsevier, Hà Lan, xây
dựng từ năm 2004.
SCImago xếp hạng chất lượng tạp chí
bằng chỉ số SJR (SCImago Journal Ranking),
trong đó tính đến số lượng trích dẫn mà mỗi
tạp chí nhận được và uy tín của các tạp chí
trích dẫn lại tạp chí đó. Chỉ số này được
SCImago phát triển từ thuật toán xếp hạng
trang web của Google (Google PageRank).
Dựa trên chỉ số SJR, các tạp chí được
phân thành 4 nhóm Q1, Q2, Q3, Q4 theo các
chủ đề nghiên cứu, trong đó Q1 bao gồm 25%
các tạp chí hàng đầu. Chỉ số SJR có thể biến
đổi, phụ thuộc vào kết quả đánh giá hàng năm.
Thông tin trên website của SCImago
cho thấy, chỉ số SJR năm 2018 của JSAMD là
0,72. Trong 2 năm 2017-2018, trung bình mỗi
bài báo trên JSAMD được trích dẫn 3,357 lần,
so với 1,565 lần trong 2 năm 2016-2017.
Năm 2018, có 94 bài báo trên JSAMD
được trích dẫn, trên tổng số 130 bài, với số lần
là 433, so với 108 lần của năm 2017.
Tính đến nay, JSAMD là tạp chí đầu
tiên của Việt Nam được SCImago xếp hạng
Q1 về lĩnh vực Vật liệu. Trước đó, năm 2014,
tạp chí Advances in Natural Sciences:
Nanoscience and Nanotechnology (ANSN)
của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam được
xếp hạng Q1 về lĩnh vực Kỹ thuật công nghiệp
và sản xuất. Năm nay, ngoài lĩnh vực này,
ANSN có thêm lĩnh vực Kỹ thuật điện và điện
tử được xếp hạng Q1.
JSAMD xuất bản 4 kỳ/năm, mỗi kỳ dày
khoảng 120 trang, với hội đồng biên tập gồm
31 nhà khoa học uy tín, trong đó có 23 nhà
khoa học nước ngoài, và được cố vấn bởi GS
S. Bland - Tổng biên tập Tạp chí Materials
Today (IF= 24.537). JSAMD ra số đầu tiên
vào tháng 3/2016, và đã được đưa vào hệ
thống danh mục Web of Science và Scopus.
Tạp chí được phát hành trên hệ thống Science
Direct của Nhà xuất bản Elsevier.
GS.TS Phan Mạnh Hưởng - giảng viên
Đại học Nam Florida (Mỹ), Trưởng ban biên
tập JSAMD, cho biết, “Thời gian từ khi nhận
bài, phản biện đến chấp nhận đăng bài trên
tạp chí là khoảng một tháng rưỡi; riêng đối
với những nghiên cứu mới có tính đột phá, nổi
bật, thời gian được rút xuống còn 2 đến 3
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 47/54
tuần. Thông thường, thời gian để một bài báo
được chấp nhận và đăng online là từ một
tháng rưỡi đến 3 tháng”.
Nguồn: Thái Thanh,
khoahocphattrien.vn, 26/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Ứng dụng tiến bộ khoa học trong khai thác xa bờ
Các đại biểu tham quan các thiết bị hàng hải.
Ngày 19/6, tại Quảng Ngãi, Trung tâm
Khuyến nông quốc gia phối hợp với Sở
NN&PTNT Quảng Ngãi tổ chức diễn đàn
Khuyến nông @ nông nghiệp với chủ đề ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật (KHKT) trong
khai thác và bảo quản sản phẩm trên tàu khai
thác xa bờ.
Ông Phạm Ngọc Tuấn, Phó Vụ trưởng
Vụ Khai thác thủy sản (Tổng cục Thủy sản)
cho biết, từ đội tàu thủ công lạc hậu, đến nay
cả nước đã có trên 31.500 tàu cá xa bờ. Tuy
nhiên, nhìn chung lĩnh vực khai thác hải sản
vẫn mang nặng tính thủ công, nhiều khâu
trong sản xuất vẫn phải sử dụng lao động trực
tiếp, năng suất lao động thấp, tổn thất sau thu
hoạch lớn (từ 20-30%).
Kết quả điều tra cho thấy, các tàu khai
thác hải sản xa bờ lắp máy cũ chiếm tới
88,6% tổng số tàu khai thác xa bờ. Do máy cũ
lại sai công năng sử dụng, nên các loại máy
này độ bền thường thấp, hay bị hỏng hóc bất
thường, ảnh hưởng đến độ an toàn và hiệu
quả chuyến biển. Trang bị khai thác chưa đầy
đủ nên hạn chế hiệu quả khai thác và an toàn
sản xuất…
“Để nâng cao hiệu quả trong khai thác
hải sản, đảm bảo an toàn cho người và
phương tiện hoạt động trên biển… tàu thuyền
phải được thiết kế hợp lý, vật liệu đóng tàu
phải đáp ứng môi trường làm việc khắc
nghiệt, cơ giới hóa các khâu sản xuất, thiết bị
bảo quản phải đáp ứng được yêu cầu bảo
quản sản phẩm dài ngày trên biển”.
Từ năm 2013 đến nay, Bộ NN&PTNT
đã và đang triển khai dự án Movimar gắn các
thiết bị thu tín hiệu từ vệ tinh cho 3.000 tàu
cá. Tàu cá gắn thiết bị này sẽ nhận được
thông tin dự báo thời tiết, dự báo ngư trường,
tự động báo vị trí tàu về bờ 2 giờ/lần; các
thông tin hướng dẫn tránh trú bão và các
thông tin quan trọng khác từ các cơ quan
quản lý thủy sản trong bờ…
Tại diễn đàn, nhóm nghiên cứu của
Viện Khoa học và công nghệ khai thác thủy
sản (Trường đại học Nha Trang) cho biết, đã
ứng dụng phần mềm trong thiết kế vỏ tàu và
một số kỹ thuật mới trong thi công, chế tạo
tàu vỏ thép, composite đảm bảo tăng độ bền,
tiết kiệm vật liệu. Các loại máy móc, thiết bị
cơ giới hóa quá trình đánh bắt tiếp tục được
ứng dụng, chuyển giao, như: Máy thu lưới
vây tang treo, máy thu-thả câu cá ngừ đại
dương của nghề câu tay kết hợp ánh sáng tại
Bình Định…
Các thiết bị điện tử hàng hải như máy
đo sâu-dò cá, máy định vị, máy thông tin liên
lạc đã được sử dụng phổ biến trên tàu cá
trong khu vực. Một số thiết bị điện, điện tử
hiện đại như máy dò cá ngang, ra đa, máy
thông tin liên lạc đa chức năng, máy đo dòng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 48/54
chảy, điện thoại vệ tinh, máy nhận dạng tự
động AIS đảm bảo an toàn cho người và tàu
trên biển… đã được lắp đặt trên một số tàu cá
hoạt động xa bờ. Thiết bị giám sát tàu cá như
Movimar, Zunibal, Blue Tracker cũng được
lắp đặt nhằm nỗ lực gỡ thẻ Vàng của EC.
Ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc
Trung tâm Khuyến nông quốc gia đề nghị các
cơ quan chuyển giao, các trung tâm khuyến
nông các tỉnh, hiệp hội… triển khai nhanh
xây dựng các mô hình khai thác, bảo quản có
hiệu quả cao; tiếp tục đào tạo ngư dân theo
hướng cầm tay chỉ việc và tập trung tuyên
truyền cho nhiều người biết.
Đối với ngư dân, cần mạnh dạn áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong khai
thác, chế biến và bảo quản sản phẩm trên tàu
để nâng cao hiệu quả trong khai thác, tăng thu
nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo và xây
dựng nông thôn mới; chấp hành các quy định
trong khai thác, không vi phạm pháp luật…
góp phần bảo vệ an ninh biển đảo và gỡ thẻ
Vàng EU.
Nguồn: Lưu Hương, baochinhphu.vn,
19/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu phát triển loại hình vận tải hành khách công cộng bằng đường thủy trên địa bàn TP.HCM
Đề tài do tác giả Vương Tấn Đức và
cộng sự (Trung tâm Nghiên cứu phát triển Đô
thị và Giao thông vận tải) thực hiện nhằm
nghiên cứu đề xuất phát triển và đưa vào khai
thác loại hình vận tải hành khách công cộng
(VTHKCC) bằng đường thủy nội địa, góp
phần phát triển một loại hình giao thông công
cộng mới trên địa bàn TP.HCM, phục vụ lợi
ích cho người dân, đáp ứng yêu cầu phát
triển giao thông đô thị bền vững.
Theo Quyết định 66/QĐ-UBND ngày
14/9/2009 của UBND TP.HCM phê duyệt
“Quy hoạch mạng lưới đường thủy và cảng
bến TP.HCM đến năm 2020” trên địa bàn
thành phố có 112 tuyến sông, kênh, rạch với
tổng chiều dài gần 1.000 km có thể khai thác
vận tải, tạo thành mạng lưới đi qua hầu hết
các quận, huyện với rất nhiều tiềm năng phát
triển vận tải thủy. Việc bố trí các tuyến
VTHKCC bằng thủy hợp lý trên một số tuyến
trong khu vực đô thị sẽ rút ngắn thời gian đi
lại so với đường bộ, góp phần hỗ trợ cho giao
thông đường bộ. Ngoài ra, việc kết hợp giữa
sự phát triển VTHKCC bằng đường thủy và
du lịch trên sông còn là cơ hội tạo ra giá trị
gia tăng cho hoạt động du lịch và các sinh
hoạt cộng đồng khác, góp phần tạo lập diện
mạo mới cho bộ mặt cảnh quan đô thị. Tuy
nhiên, để phát triển loại hình mới mẻ này
trong khu vực đô thị, cần phải có một nghiên
cứu tổng thể và toàn diện.
Trong đề tài này, nhóm tác giả đã tiến
hành khảo sát, điều tra nhu cầu đi lại của
người dân đối với việc sử dụng loại hình
VTHKCC bằng đường thủy; dự báo nhu cầu
sử dụng loại hình VTHKCC bằng đường thủy
của người dân trên địa bàn thành phố; phân
tích và đánh giá hiện trạng kỹ thuật luồng
tuyến trên góc độ tổ chức khai thác VTHKCC
bằng đường thủy bao gồm các thông số thủy
vận, các công trình vượt sông, chế độ thủy
triều; nghiên cứu đề xuất mạng lưới tuyến và
tổ chức khai thác VTHKCC bằng đường thủy
trên địa bàn TP.HCM;…
Kết quả, thông qua số liệu hơn 8.000
phiếu “Điều tra phỏng vấn người dân về khả
năng sử dụng VTHKCC bằng đường thủy”,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 49/54
nhóm nghiên cứu có những nhận định về nhu
cầu tiềm năng của người dân về sử dung loại
hình VTHKCC bằng đường thủy, làm cơ sở
cho công tác dự báo nhu cầu và xây dựng
mạng lưới luồng tuyến VTHKCC bằng
đường thủy.
Với 22 chuyên đề nghiên cứu các nội
dung chính của đề tài đã được giải quyết. Cụ
thể, về mạng lưới tuyến VTHKCC bằng
đường thủy, qua phân tích khả năng thủy vận
luồng tuyến và nhu cầu hành khách tiểm năng
đường thủy trên các hành lang, nhóm đề xuất
16 tuyến VTHKCC đường thủy. Về hệ thống
bến đầu cuối và bến đón trả khách, đề xuất
mô hình bến đầu cuối và đón trả khách trên
các tuyến VTHKCC đường thủy phù hợp với
thực tiễn khai thác giao thông thủy và đảm
bảo mỹ quan đô thị. Về phương tiện, đã lựa
chọn chủng loại, sức chứa của tàu phù hợp
với điều kiện khai thác trên các loại hình
tuyến VTHKCC đường thủy. Về hiệu quả
phát triển VTHKCC đường thủy, chứng minh
được đầu tư phát triển VTHKCC bằng đường
thủy có thể mang lại hiệu quả mà không cần
nguồn trợ giá từ ngân sách với điều kiện
UBND thành phố cho phép nhà đầu tư được
phép kinh doanh các dịch vụ hỗ trợ.
Qua đó, nhóm nghiên cứu đã đưa ra
các đề xuất về cơ chế, chính sách phát triển
loại hình VTHKCC bằng đường thủy giúp
cho UBND thành phố có cơ sở để chỉ đạo,
quản lý và xây dựng phương án khai thác
VTHKCC đường thủy. Cụ thể là các kiến
nghị chi tiết về công tác quy hoạch luồng
tuyến, bến bãi và kết nối giao thông; luồng
tuyến và vấn đề ô nhiễm sông, kênh rạch; về
bến trung tâm Bạch Đằng; về phương tiện; cơ
chế hỗ trợ phát triển VTHKCC bằng đường
thủy; quy trình và hình thức đầu tư; xây dựng
các quy trình, quy định trong quản lý khai
thác; thông tin quảng bá và kết hợp với du
lịch trên sông.
Thông qua kết quả của đề tài, đã hỗ trợ
một số đơn vị áp dụng đưa loại hình này vào
khai thác. Cụ thể như Công ty TNHH Thường
Nhật nghiên cứu khai thác tuyến Bạch Đằng –
Linh Đông, Bạch Đằng – Lò Gốm; Công ty
TNHH Thương mại và XNK Đại Cát nghiên
cứu khai thác tuyến Kênh Tẻ - Kênh Đôi, Tân
Hóa – Lò Gốm và kênh Nhiêu Lộc – Thị
Nghè; Hợp tác xã Long Hòa nghiên cứu khai
thác tuyến du lịch Cần Thạnh – Thạnh An –
Long Hòa.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
14/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Việt Nam gặt hái thành công lớn tại Triển lãm Quốc tế về Sáng chế của phụ nữ
Đoàn Việt Nam chụp ảnh lưu niệm tại gian hàng
Trung tâm Ứng dụng KHCN và Khởi
nghiệp thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam đã hỗ
trợ 06 nhà khoa học nữ tham dự Triển lãm và
Diễn đàn Quốc tế về sáng chế của phụ nữ lần
thứ 12 (KIWIE 2019).
Triển lãm được tổ chức tại Hàn Quốc
từ ngày 20 - 25/6/2019 do Hội Nữ sáng chế
Hàn Quốc (KWIA) tổ chức với sự hỗ trợ của
Văn phòng Sở hữu trí tuệ Hàn Quốc (KIPO),
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 50/54
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và
các Bộ ngành liên quan của Hàn Quốc.
Tại Triển lãm lần này, Hội LHPN Việt
Nam cùng Trung tâm Ứng dụng KHCN và
Khởi nghiệp tham gia 2 gian hàng, trưng bày
6 công nghệ và sản phẩm KHCN của 6 nhà
nữ khoa học.
Đây là lần đầu tiên, các nhà khoa học
nữ Việt Nam trực tiếp giới thiệu các sáng chế
của mình tại Triển lãm Quốc tế KIWIE. Ban
tổ chức đánh giá cao tính sáng tạo và hàm
lượng khoa học của các công nghệ và sản
phẩm đăng ký dự thi của Đoàn Việt Nam.
Kết quả, đoàn các nhà khoa học nữ
Việt Nam đã gặt hái thành công lớn với 7
giải: 1 giải Semi Grand Prix, 1 giải đặc biệt, 1
huy chương vàng, 3 huy chương bạc và 1 huy
chương đồng.
Đây thực sự là phần thưởng quý giá và
là nguồn khuyến khích động viên rất lớn đối
với các nữ sáng chế Việt Nam.
Triển lãm KIWIE là sự kiện thường
niên dành cho các nhà sáng chế do Hội nữ
sáng chế Hàn Quốc (KWIA) tổ chức từ năm
2008. Diễn đàn năm nay với thông điệp “Làn
sóng sở hữu trí tuệ dành cho các nhà lãnh đạo
nữ sáng tạo 2019” đã thu hút 29 quốc gia,
vùng lãnh thổ tham gia và giới thiệu hơn 500
công nghệ và sản phẩm khoa học.
Tại KIWIE 2019, các nhà khoa học và
doanh nghiệp còn được tham dự 2 ngày tập
huấn về phương thức thương mại hóa sáng
chế, khai thác sáng chế, cách thức bảo vệ
sáng chế, nhượng quyền, chuyển giao công
nghệ và giữ bí mật thương mại…
Danh sách các nhà khoa học nữ giành
giải thưởng tại Triển lãm Quốc tế về Sáng
chế của phụ nữ (KIWIE 2019) tại Hàn Quốc:
1.PGS.TS. Trần Thị Oanh, Viện
trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển các sản
phẩm hữu cơ với công nghệ sản xuất Kem
ngừa Nám SAM đạt giải lớn thứ hai (Semi -
Grand Prix).
2.PGS.TS. Lê Minh Hà, Trưởng phòng
hóa-dược, Viện Hóa học các hợp chất thiên
nhiên, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam với
sáng chế hợp chất (3S) – dihydroeleutherinol
– 8- O- beta D- glucopyranoside và phương
pháp chiết xuất hợp chất này từ thân rễ cây
Sâm đại hành đạt Huy chương Vàng.
3.TS. Nguyễn Thu Hà, Trưởng bộ môn
vi sinh vật, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa với
Giải pháp hữu ích về Chế phẩm vi sinh vật cải
tạo đất, đạt giải Đặc biệt và Huy chương bạc.
4.PGS. TS. Nguyễn Minh Tân, Viện
trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển các sản
phẩm hữu cơ với Công nghệ cô đặc nước quả
mẫn cảm nhiệt, đạt Huy chương Bạc.
5.Ths. Bá Thị Châm, Nghiên cứu viên,
Viện hóa, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
với Giải pháp hữu ích về Phương pháp chiết
xuất resveratrol từ rễ cây Cốt khí củ Việt
Nam, đạt Huy chương Bạc.
6.PGS.TS. Lê Mai Hương, Chủ tịch
Hội đồng khoa học Viện Hóa học các hợp
chất thiên nhiên, Viện Hàn lâm KH&CN Việt
Nam với sản phẩm SKGOLD Đông trùng hạ
thảo, đạt Huy chương Đồng.
Nguồn: Liên Cơ, khampha.vn,
30/06/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 51/54
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án Chủ nhiệm/ CQ chủ trì
Ngành Kinh tế
1 03/05/2019
Giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi ngân sách
nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình trong điều kiện thống nhất
đầu mối kiểm soát chi.
Kho bạc Nhà nước Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình
2 06/05/2019
Giải pháp hoàn thiện kiểm soát, thanh toán
vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn
ngân sách huyện qua Kho bạc Nhà nước Bắc
Bình, Bình Thuận.
Kho bạc Nhà nước Bình
Thuận
3 17/05/2019 Xây dựng quy trình quyết toán ngân sách
nhà nước theo quy định của Luật ngân sách
nhà nước.
Cục Kế toán nhà nước -
KBNN
4 20/05/2019 Giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính nội bộ
tại Kho bạc Nhà nước Long An.
Kho bạc Nhà nước Long
An
5 23/05/2019
Hoàn thiện công tác kiểm soát, thanh toán
vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ
Việt Nam dành cho Chính phủ Lào qua Kho
bạc Nhà nước.
Vụ Kiểm soát chi - Kho bạc
Nhà nước
6 05/06/2019 Nâng cao thanh khoản của thị trường trái
phiếu chính phủ tại Việt Nam.
Cục Quản lý Ngân quỹ,
Kho bạc Nhà nước
7 13/06/2019
Điều tra, khảo sát tình hình thực hiện và đề
xuất giải pháp hoàn thiện các quy định về
điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước ngành Xây dựng.
Vụ Pháp chế - Bộ Xây
dựng
8 13/06/2019
Điều tra, khảo sát thực trạng thực hiện các
thủ tục về đầu tư xây dựng. Đề xuất xây
dựng sổ tay hướng dẫn về quy trình triển
khai dự án đầu tư xây dựng.
Vụ Pháp chế - Bộ Xây
dựng
9 18/06/2019 Một số giải pháp tăng cường kiểm soát chi
thường xuyên của các đơn vị sử dụng ngân
sách qua Kho bạc Nhà nước Đồng Nai.
Kho bạc Nhà nước Đồng
Nai
10 19/06/2019 Xác định chủ đề, nội dung, mục tiêu và tiêu Ths. Nguyễn Thanh Huệ và
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 52/54
chí kiểm toán tại các cuộc kiểm toán hoạt
động đối với ngân hàng thương mại.
CN. Nguyễn Việt Tùng -
Trường Đào tạo và Bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm toán
11 19/06/2019 Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh
tra chuyên ngành tại Kho bạc Nhà nước
Hà Tĩnh.
Cử nhân Võ Văn T và
Thạc sỹ Nguyễn Ngọc
Dũng - Kho bạc Nhà nước
Hà Tĩnh
12 21/06/2019
Xác định lĩnh vực lợi thế đặc thù của Tây
Nguyên trong bối cảnh Việt Nam tham gia
Cộng đồng kinh tế ASEAN và thực hiện các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
PGS.TS. Bùi Nhật Quang
- Trung tâm Phân tích và
Dự báo - Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt
Nam
13 26/06/2019
Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi
các dự án đầu tư từ nguồn vốn Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
qua Kho bạc Nhà nước Trà Vinh.
Kho bạc Nhà nước Trà
Vinh
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
14 29/05/2019
Dự thảo TCVN “Vật liệu chịu lửa không
định hình - Phương pháp thử - phần 7: Thử
nghiệm trên các sản phẩm được định hình
trước; Phần 8: Xác định các tính chất bổ
sung”.
Viện Vật liệu xây dựng
15 29/05/2019 Dự thảo TCVN “Soát xét tiêu chuẩn
TCVN 7569:2007 Xi măng Alumin”. Viện Vật liệu xây dựng
16 04/06/2019 Soát xét TCVN 4314: 2003 “Vữa xây dựng
– Yêu cầu kỹ thuật”. Viện Vật liệu xây dựng
17 04/06/2019 Soát xét TCVN 3121: 2003 “Vữa xây dựng
- Phương pháp thử”. Viện Vật liệu xây dựng
18 07/06/2019 Hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến
trong sản xuất bao bì carton.
Công ty CP In và Bao bì
Bình Thuận
19 10/06/2019 Dự thảo TCVN “Viên đá tự nhiên lát ngoài
trời”.
ThS. Nguyễn Hữu Tài -
Viện Vật liệu xây dựng
20 10/06/2019 Dự thảo TCVN “Viên đá tự nhiên bó vỉa
ngoài trời”.
ThS. Nguyễn Hữu Tài -
Viện Vật liệu xây dựng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 53/54
21 11/06/2019 Dự thảo TCVN “Sơn và Vecni - Thuật ngữ
và định nghĩa”.
KS. Vũ Thị Duyên - Viện
Vật liệu xây dựng
22 14/06/2019
Nghiên cứu, xây dựng tiêu chí đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch
vụ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh
vực KH&CN ở Việt Nam.
Viện Đánh giá khoa học
và Định giá công nghệ
23 14/06/2019
Nghiên cứu phát triển nguồn thức ăn xanh
và công thức phối hợp khẩu phần thức ăn
phục vụ phát triển chăn nuôi bò thịt cao
sản, bò sữa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
TS. Trương La - Viện
Khoa học kỹ thuật Nông
Lâm nghiệp Tây Nguyên
24 20/06/2019 Dự thảo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về
an toàn cho máy, thiết bị khai thác và gia
công đá.
Trường Đại học Xây dựng
Hà Nội
25 20/06/2019 Nghiên cứu liên kết sàn bê tông dự ứng lực
với cột ống thép nhồi bê tông.
ThS NCS. Trương Quang
Hải - Trường Đại học Xây
dựng Miền Trung
26 20/06/2019 Nghiên cứu thiết kế chế tạo Panel thực
hành mạch điện tủ lạnh gián tiếp.
Ks. Dương Anh Tiến - Cao
đẳng nghề Việt Xô số 1
27 20/06/2019 Nghiên cứu thiết kế chế tạo Panel thực
hành Điện công nghiệp.
ThS. Đỗ Mạnh Cường -
Cao đẳng nghề Việt Xô số 1
28 20/06/2019 Nghiên cứu thiết kế chế tạo Panel thực
hành Điện dân dụng.
Ông Nguyễn Phương
Trình - Cao đẳng nghề
Việt Xô số 1
Ngành Giáo dục đào tạo
29 04/06/2019 Nâng cao năng lực hoạt động của các Trung
tâm học tập cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa.
TS. Bùi Thị Hồng Tiến -
Hội trí thức tỉnh Khánh
Hòa
30 05/06/2019 Giáo trình Nhi khoa 1.
Bộ môn Nhi, Khoa Y -
Trường Đại học Y Dược
Cần Thơ
31 20/06/2019
Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức học sinh hệ GDTX cấp THPT ở
trường Cao đẳng nghề Việt Xô số 1 trong
Bà Phạm Thị Hiệp - Cao
đẳng nghề Việt Xô số 1
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 07/2019 54/54
giai đoạn hiện nay.
32 21/06/2019 Giáo trình “Công tác trắc địa trong xây
dựng công trình”.
Trung tá, TS Lê Minh
Hằng – Học viện Kỹ thuật
Quân sự
Ngành văn hóa xã hội
33 21/06/2019 Cộng đồng Hồi giáo Việt Nam trong hội
nhập quốc tế.
ThS. Trần Thị Minh Thu -
Viện Khoa học tổ chức
Nhà nước
34 28/06/2019 Nghiên cứu lý thuyết quản trị địa phương
và việc vận dụng vào Việt Nam.
TS. Ngô Sỹ Trung - Viện
Khoa học tổ chức Nhà
nước
Trở về đầu trang
**************