thị trường bảo hiểm việt nam
TRANSCRIPT
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
chương I
KháI quát chung về thị trường bảo hiểm
I. sù RA Đời Và Phát Triển Của Bảo Hiềm.
l. Nguồn gốc ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới.
Bất cứ ngành nghề nào đều ra đời từ nhu cầu đòi hỏi khách quan trong
những điều kiện nhất định.
Cho đến nay, chưa ai có thể xác định chính xác nguồn gốc của bảo
hiểm bắt đầu từ bao giờ, nhưng mọi người công nhận các hoạt động sơ khai,
mang tính bảo hiểm đã có từ rất lâu. Các hoạt động đó đáp ứng nhu cầu bảo
vệ cuộc sống con người ở mọi nơi, mọi lúc trước những rủi ro trong cuộc
sống. Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức
tạp hơn, cả về quy mô, mức độ và thời hạn. Theo đó, các hoạt động để đáp
ứng nhu cầu Êy cũng phát triển một cách tương ứng. Các hoạt động này dần
dần được quy định lại một cách chính thức, hợp pháp theo các tiêu chuẩn
khác nhau và có tên gọi chung là bảo hiểm.
Những nghiên cứu về lịch sử phát triển của hoạt động bảo hiểm cho
thấy hoạt động bảo hiểm trong quá trình phát triển đã trải qua 3 hình thái: dự
trữ thuần túy, cho vay nặng lãi và cuối cùng là hình thức thỏa thuận ràng
buộc trách nhiệm các bên.
1.l. Dự trữ thuần túy.
Những bằng chứng lịch sử cho thấy từ rất xa xưa cho đến nay con
người đã ý thức được việc tự bảo vệ để tồn tại, trong đó vấn đề đầu tiên là dự
trữ thức ăn kiếm được hàng ngày phòng khi đói kém.
Ví dụ: vào những năm 2.500 trước công nguyên (TCN) - hơn 4.000
năm trước đây, ở Ai Cập những người thợ đẽo đá đã biết thiết lập quỹ để giúp
đỡ nạn nhân của các vụ tai nạn.
1
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
1.2. Cho vay nặng lãi.Hệ thống cho vay phát triển cùng với sự mở rộng thương mại và buôn
bán giữa các quốc gia, các vùng, các châu lục. Dấu Ên đáng chú ý là: hệ thống vay mượn lãi suất cao để mua và vận chuyển hàng hóa ở Babylon (khoảng l.700 năm TCN) và AThen (khoảng 500 năm TCN). Khi hàng hóa bị mất trong quá trình vận chuyển thì người đi vay sẽ không phải trả khoản tiền đã vay. Khiếm khuyết của hệ thống này là lãi suất hà khắc, có khi lên đến 40% và phải trả trước (Nghiên cứu lịch sử phát triển bảo hiểm cho thấy phần lãi suất cho vay được khấu trừ trước nay là dấu hiệu của phí bảo hiểm ngày nay). Do vậy, nhà thờ và các hội tôn giáo đã can thiệp bằng các sắc lệnh để chấm dứt hoạt động cho vay nặng lãi. (Trích: Đại cương về BH và BH nhân thọ - Tổng công ty BHVN)
Vì nhu cầu cần tiền và cần sự đảm bảo cho chuyến hàng của các nhà buôn vẫn rất lớn, đặc biệt khi thông thương buôn bán đang phát triển và mang lại lãi suất rất cao, các hình thức khác đã ra đời.
1.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên.Để giải quyết nhu cầu tiền vốn và nhu cầu giảm các thiệt hại lớn cho
các nhà buôn, có 2 phương pháp khả thi. Đó là:a. Hình thức cổ phần.Chuyến hàng được tạo lập bằng sự đóng góp của nhiều người. Mỗi
người góp một phần nào đó (bằng tiền hoặc hàng hóa) vào chuyến hàng và cùng chịu trách nhiệm theo phần đóng góp đó. Khi chuyến hàng về đến đích, lợi nhuận sẽ được chia cho mọi người theo tỷ lệ đóng góp cổ phần. Nếu chuyến hàng chẳng may gặp rui ro thì hậu quả thiệt hại cũng được chia sẻ cho nhiều người. Hình thức này giảm được gánh nặng tổn thất cho nhiều người cùng gánh chịu. Nhưng nó vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: kêu gọi cho đủ người tham gia góp cổ phần sẽ mất nhiều thời gian, phải dàn xếp thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi...
b. Hình thức bảo hiểm.Những thỏa thuận bảo hiểm đầu tiên xuất hiện gắn liền với hoạt động
giao lưu buôn bán hàng hóa bằng đường biển. Những thỏa thuận bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải có nội dung cơ bản như sau:
Một bên là nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng hóa, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng do một số nguyên
2
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
nhân nhất định thì bên thứ hai (Người bảo hiểm) sẽ trả bên thứ nhất một khoản tiền nhằm bù đắp cho những thiệt hại đã xảy ra. Như vậy, có thể coi bảo hiểm hàng hải là sự khởi đầu của ngành bảo hiểm. Bản hợp đồng bảo hiểm cổ nhất còn lưu lại được phát hành tại thành phố cảng Genoa - Italia, vào năm 1347. Sau đó, cùng với cuộc cách mạng thương mại vào thế kỷ 14, 15 thúc đẩy sự mở rộng vận tải hàng hải, bảo hiểm hàng hải cũng phát triển mạnh mẽ.
Hoạt động bảo hiểm ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội xoài người. Hoạt động này đã đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết về an toàn của con người trong cuộc sông và sinh hoạt. Bảo hiểm hàng hải là loại bảo hiểm đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm. Sau đó, lần lượt là bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm nhân thọ và các loại bảo hiểm khác.[8]
b1. Bảo hiểm hỏa hoạn:Vụ cháy lớn ở Anh vào năm 1666 đã thiêu hủy trên 13.000 tòa nhà, là thảm
họa lớn nhất từ trước cho đến thời điểm đó. Nhu cầu về cơ chế bảo hiểm cho tài sản trước rủi ro cháy dẫn tới sự ra đời của các công ty bản hiểm trong lĩnh vực hỏa hoạn. Năm 1667, công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên đã ra đời ở nước Anh. [8]
b2. Bảo hiểm nhân thọ:Công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable là công ty bảo hiểm nhân thọ đầu
tiên được thành lập ở Anh vào năm 1762. Có thể nói rằng nước Anh là chiếc nôi của ngành dịch vụ bảo hiểm thế giới. Cho đến ngày nay, đây vẫn là trung tâm của các hoạt động bảo hiểm.
b3. Các loại bảo hiểm khác.Cuối thÕ kỷ 19, cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công
nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện và phát triển rất nhanh: bảo hiểm ô ô, bảo hiểm máy bay, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Ngày nay, bảo hiểm đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Ngành bảo hiểm thương mại đang giữ một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển.
2. Sự phát tiền của ngành bảo hiểm thế giới. Ngày nay ngành bảo hiểm trên thế giới đã trở thành một ngành rất lớn
mạnh. Các hoạt động bảo hiểm bao trùm lên mọi lĩnh vực đời sống xã hội và thị trường bảo hiểm rộng lớn cũng tác động mạnh mẽ lên các thị trường khác.
2.1. Các thị trường bảo hiểm Châu Âu.
3
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Châu Âu là cái nôi của bảo hiểm hiện đại và vẫn là một thị trường chủ yếu tầm thế giới với tốc độ phát triển nhanh, nhất là ngành bảo hiểm Nhân thọ và Tiết kiệm.
Dưới ảnh hưởng của ủy ban Châu Âu, các nước thuộc Liên minh Châu Âu (có 15 nước từ năm 1995) triển khai dần dần một thị trường bảo hiểm chung, nhưng vẫn chưa thống nhất về mặt pháp lý (hợp đồng, trách nhiệm dân sự), cũng như vấn đề thuế.Ba thị trường chính của Châu Âu là Đức, Anh và Pháp. Thị trường bảo hiểm của một số nước Tây Âu khác từ lâu có sự năng động vượt qua ban giới quốc gia như: Thụy Sĩ, Hà Lan, Ý, Thụy điển, Luxembourg. Thị trường các nước Nam Âu, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, có tốc độ phát triển nhanh nhất. Các nước Đông Âu, đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế nhà nước sang nền kinh tế tự do hơn, có những chuyển biến sâu sắc, tăng trưởng mạnh và rất sôi động.
Ủy ban Bảo hiểm Châu Âu công bố các số liệu thống kê về thị trường của 25 Hiệp hội quốc gia là thành viên của ủy ban này. Năm 2001, các số liệu tổng thể như sau:
Bảng1: Các chỉ tiêu về Bảo hiểm của 25 quốc gia Châu Âu năm 2001
Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ 251.577 triệu ECU 51,3%
Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ 238.669 triệu ECU 48,7%
Tổng doanh thu của hai ngành bảo hiểm trên 490.246 triệu ECU
Số lượng nhân viên của các công ty này 5.303
Phí bảo hiểm nhân thọ theo bình quân đầu người 977.256
Phí bảo hiểm phi nhân thọ theo bình quân đầu người 492 ECU
Tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ theo BQ đầu người 659 ECU
Tỉ lệ: phí bảo hiểm/ Tổng sản phẩm quốc dân 6,9%
Đầu tư của các công ty bảo hiểm 2.585.506 triệu ECU
Tỉ lệ: đầu tư tài chính/ Tổng sản phẩm quốc dân 37,05% 37,05%
Phí bảo hiểm bình quân mỗi công ty 92 triệu ECU
Số lượng nhân viên trung bình mỗi công ty 184
4
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
(Nguồn: Giáo khoa Quốc tế về Bảo hiểm)
Năm 1999, doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm Châu Âu tăng gần 7%, trong đó 5,9% trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và 7,5% là bảo hiểm nhân thọ. Mặc dù bị giảm so với những năm trước, nhưng việc này vẫn khẳng định xu hướng tăng được duy trì từ nhiều năm nay.
- Doanh thu bảo hiểm Châu Âu tăng nhanh hơn Tổng sản phẩm quốc nội một cách rõ rệt, năm 1980 chiếm 4% GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) lên tới 6,9% năm 1999
- Ngành bảo hiểm Nhân thọ tăng nhanh hơn ngành bảo hiểm Thiệt hại, gán đạt đến sự chín muồi, trừ ở các nước Nam Âu nơi mà nhu cầu còn rất lớn. Trong 15 năm gần đây, bảo hiểm Nhân thọ đã tăng nhanh hơn GDP 2,5 lần, điều này thể hiện một phần tiết kiệm của các hộ gia đình chuyển hướng sang sản phẩm bảo hiểm và nỗi lo lắng của một phần công chúng về tương lai của các chế độ bảo hiểm và hưu trí của Nhà nước.
Phần lớn các tập đoàn bảo hiểm Châu Âu hoạt động mạnh ở nước ngoài và đã trở thành những công ty đa quốc gia thực sự. Trong vòng 30 năm gần đây, thị trường bảo hiểm Châu Âu đã có những tiến triển sâu sắc. Không những chỉ phát triển rất ổn định mà tất cả các luật bảo hiểm quốc gia cũng biến đổi sâu sắc dưới tác động bền bỉ của giới lãnh đạo Liên minh Châu Âu (EU). Thậm chí những nước không nằm trong sè 15 nước thành viên của EU cũng hầu như thông qua luật bảo hiểm được soạn thảo dựa trên các nguyên tắc của Ủy ban bảo hiểm Châu Âu liên quan đến thị trường bảo hiểm.
- Thị trường bảo hiểm Anh:Chóng ta đã thấy các hoạt động bảo hiểm hiện nay được biết đã ra đời
chính tại Ý, sau đó là ở các nước thuộc vùng Địa Trung Hải và vịnh Ban Tích. Tuy nhiên, một điều không thể chối cãi được là các hình thức bảo hiểm hiện đại lại phát triển chính tại Anh, từ thế kỷ XVII. Sự bành trướng phi thường về kinh tế và chính trị của Anh vào thế kỷ XIX đã làm cho các doanh nghiệp Anh quốc, trong đó có các công ty bảo hiểm phát triển rực rỡ trên thế giới và có ảnh hưởng rất lớn trong một thời gian dài. Rất nhiều ngành bảo hiểm đã được hình thành bởi những
Công ty bảo hiểm Anh và giữ được vai trò ngự trị lâu dài nhờ vào năng lực cao, khả năng bảo hiểm và mạng lưới rộng khắp thÕ giới của các chuyên gia, công ty tài chính và môi giới bảo hiểm.
5
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Thị trường bảo hiểm Anh có 926 công ty, năm 2001, đạt doanh thu bảo hiểm trực tiếp là 227904 triệu USD, bằng 5,97% thị trường thế giới. Như vậy, phí bảo hiểm bình quân đầu người là 2.964,2 USD, trong đó 64% là bảo hiểm nhân thọ. Tỉ trọng bảo hiểm trong GDP đạt l4,33%, cao nhất ở Châu Âu, sau Thụy Sỹ. [16]
- Các thị trường bảo hiểm Châu Á.Ở Châu Á, bảo hiểm bành trướng rất nhanh, cùng với sự phát triển
kinh tế của lục địa này và quá trình tự do hóa kinh tế đang diễn ra tại phần lớn các nước có nền kinh tế tập trung. Trong thập kỷ qua, doanh thu bảo hiểm hàng năm tăng trung bình 15%.
Bảng 2: Các thị trường bảo hiểm chính ở Châu Á năm 1999.
Nước
Doanh thu bảo hiểm năm 1999 (tr. USD)
Tỷ trọng bảo hiểm nhân thọ
(%)
Phí bảo hiểm bình quân đầu
người USD
Tỷ trọng bảo hiểm
trong GDP
Nhật Bản 637.256 80,1 5.088 12,78
Hàn Quốc 59.989 77,9 1.337 13,16
Đài Loan 14.397 67,7 678 5,53
Trung Quốc (không kể Hồng Kông) 7.368 31,6 6 1,17
Ên Độ 6.026 70,0 6 2,01
Hồng Kông 5.037 60,9 813 3,51
Israel 5.010 45,5 904 5,78
Thái Lan 4.076 47,6 67 2,43
Singapor 3.678 67,2 1.190 4,25
Malaixia 3.651 49,3 181 4,28
Indonesia 2.380 38,8 12 1,40
Phillipines 1.123 43,4 16 1,52
A rập xê út 712 3,7 40 0,57
Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
645 12,7 220 1,69
I ran 507 6,9 7 0,48
Pakistan 478 43,3 4 0,81
Cô oét 188 12,5 111 0,71
6
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38FOman 119 17,4 55 0,99
Jordanie 117 19,5 22 1,78
Ba – ranh 101 15,8 180 2,24
(Nguồn: Bảo hiểm quốc tế - Trường Quốc gia Bảo hiểm Paris)
2.2. Tình hình thị trường bảo hiểm toàn cầu.
Thị trường bảo hiểm trên thế giới hiện nay đang có những biến đổi
sâu sắc.. Những người có trên 25 năm thâm niên công tác trong ngành bảo
hiểm đã bình luận rằng, họ chưa từng thấy tình hình thị trường bảo hiểm toàn
cầu như hiện nay:
Khả năng tài chính của thị trường là khổng lồ, cạnh tranh gay gắt và
không lành mạnh mà hậu quả là phí bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm xấu đi
một cách ghê gớm. Quan điểm chung hiện nay là các nhà bảo hiểm và các
nhà n.hận tái bảo hiÓm không còn bảo hiểm rủi ro nữa mà chỉ đơn thuần là
chạy theo những tỉ lệ phí và những điều kiện bảo hiểm mà người ta cho là
"điên rồ" và "không thể chịu đựng được". Sự thực là khái niệm "định giá
đúng" đã bị lấn át bởi "các lÝ do thương mại", và ngày nay bảo hiểm giống
như một thị trường hàng hóa thông thường, nơi mà chất lượng phục vụ và giá
trị gia tăng, những nét đặc trưng cơ bản trong hoạt động kinh doanh của bảo
hiểm không còn mấy ý nghĩa so với giá cả (phí bảo hiểm). Đối với một ngành
kinh doanh như ngành bảo hiểm thì đó Ýt nhất cũng là điều đáng tiếc, đó là
điều cực kỳ nguy hiểm xét về lâu dài đối với cả hai bên: người bán bảo hiểm
và khách hàng của họ.
Mặt khác, tình trạng "thị trường mềm" không phải là mới. Nó đã từng
xảy ra trước đây, nhưng có lẽ không phải với mức độ nghiêm trọng như hiện
nay và với rất Ýt triển vọng sẽ được cải thiện trong những năm tới. Đương
nhiên, không ai hoài nghi là trong mấy năm qua, các công ty bảo hiểm và tái
bảo hiểm đã thu được khá nhiều lợi nhuận. Xét trên góc độ thị trường bảo
hiểm toàn cầu thì vụ động đất ở Kobe Nhật Bản chỉ là một chấn động nhẹ.
Lloydss of London có vẻ như vừa mới bình phục sau trận ốm "thập tử nhất
7
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fsinh" đầu những năm 90 (Mặc dù bản báo cáo đầu tiên mới công bố gần đây
của Equitas, một cơ quan đóng vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch xây
dựng lại và cải cách của Lloyd's, chắc là đã làm chấn động toàn thị trường,
bởi lẽ theo báo cáo đó thì những khiếu nại đòi bồi thường sẽ phải giải quyết
trong tương lai tá ra khác xa một cách nguy hiểm so với dự kiến ban đầu).
Bảo hiểm thế giới đã được chứng kiến sự tăng lên chưa từng thấy của
các khả năng tài chính mới ở Hoa Kỳ, Bermuda và các nơi khác, đặc biệt là
trong lĩnh vực tái bảo hiểm. Ai nấy đều muốn chia phần và cạnh tranh ác liệt,
hông chỉ làm cho phí bảo hiểm giảm xuống một cách đáng kể, mà còn làm
giảm cả chất lượng sản phẩm bảo hiểm. Trước tình hình đó, tất cả đều buộc
phải tập trung mọi sức lực bảo vệ công việc làm ăn của mình khỏi bị tấn
công, cố gắng đạt được sự tăng trưởng và thực hiện được các mục tiêu chiến
lược về lợi nhuận trước sự hiện diện của một "thị trường mềm", do đó còn
đâu thời gian và cảm hứng để làm những việc như: tập trung nghiên cứu để
cung cấp những sản phẩm mới có chất lượng cao nhằm đáp ứng các nhu cầu
thay đổi hàng ngày, đÓ hành động một cách chủ động sáng tạo chứ không
phải phản ứng một cách thụ động; để ngẩng cao đầu và nhìn về tương lai.
Cũng cần nói thêm rằng ngành bảo hiểm đang trải qua những thay đổi
cực kỳ sâu sắc. Một nhóm các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp đang thực hiện
những thay đổi quan trọng về cơ cấu. Việc sáp nhập và mua lại các hãng môi
giới và các công ty bảo hiểm đang diễn ra trên khắp thế giới. Ngày càng có
nhiều công ty tái bảo hiểm được thành lập để cung cấp các giải pháp mới về
bảo hiểm mức vượt trội cho những công ty muốn chọn mức giữ lại cao. Các
giải pháp bảo hiểm trực tiếp không qua trung gian đang trở nên ngày càng
phổ biến.
Cái mà người ta đang tập trung phê phán là ngành bảo hiểm đã tỏ ra
không đủ hiệu quả một cách đáng ngại. Những vấn đề về vai trò tương lai của
môi giới và của tái bảo hiểm vẫn chưa được giải đáp mặc dù ngày càng có
nhiều người muốn bỏ hẳn hoặc giảm bớt khâu trung gian, tiết kiệm chi phí và
8
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fđơn giản hóa toàn bộ quá trình dịch chuyển từ người bán đến người mua.
Trong khi đó thì bộ phận còn lại của giới tài chính quốc tế nhảy vào thị
trường, chào bán các giải pháp cung cấp tài chính mà khách hàng có thể lựa
chọn để xử lý rủi ro như các phương tiện phòng chống và các sản phẩm phát
sinh vượt ra ngoài phạm vi các phương pháp chuyển giao rủi ro truyền thống
thông qua bảo hiểm. Đối với các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp quốc tế thì
cũng chẳng có gì là chắc chắn: chỉ có sự thay đổi là chắc chắn mà thôi.
Còn đối với khách hàng thì trước mắt họ có thể mở tiệc ăn mừng. Họ
giảm được nhiều chi phí để mua những sản phẩm văn hóa có điều kiện hời
hơn, họ cảm thấy họ có được sự lựa chọn tự do hơn. Một số công ty lớn và
công ty siêu quốc gia đã tiến đến giai đoạn mà sự lựa chọn ưa thích của họ là
hạn chế tối đa việc sử dụng thị trường bảo hiểm trong chừng mực có thể. Đó
là cách đáp lại tính không hiệu quả của quá trình bảo hiểm và tái bảo hiểm,
một quá trình dẫn đến trên 40% phí bảo hiểm được dùng để chi trả cho quá
nhiều bên tham gia vào một thương vụ bình thường, đặc biệt là dưới hình
thức phụ phí và hoa hồng, chỉ có phần không lớn còn lại được chi cho chức
năng bảo vệ thực sự của bảo hiểm. Đối với một số công ty lớn thì đó cũng là
sự đáp lại nguyện vọng của họ muốn kiểm soát số phận của chính mình và
muốn được ăn chia một phần thành quả tài chính mà ngành bảo hiểm giành
được. Có mấy cách để họ thực hiện nguyện vọng đó. Đó là thành lập các
công ty bảo hiểm "trong nhà" hay các công ty bảo hiểm nội bộ; săn tìm các
giải pháp tài chính mới mà họ có thể lựa chọn để khắc phục rủi ro; lập ra các
nhóm giữ lại rủi ro và các quỹ điều hòa. Tất cả những cái đó làm giảm quy
mô của thị trường bảo hiểm và góp phần làm cho cạnh tranh ác liệt hơn.
II. Khái niệm và đặc điểm của thị trường bảo hiểm.
1. Các khái niệm cơ bản về bảo hiểm - tái bảo hiểm.
1.1. Bảo hiểm.
1.1.1. Khái niệm:
9
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm:
- Theo giáo trình bảo hiểm trường Đại học Kế toán Hà Nội: Hoạt động
bảo hiểm là việc người bảo hiểm nhận trách nhiệm trước rủi ro, trên cơ sở
người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng, đóng phí bảo hiểm để người bảo
hiểm bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm theo luật thống kê[9]. Khái niệm này
mới chỉ nói lên được quy trình bảo hiểm, mà chưa nói lên được bản chất của
bảo hiểm.
- Giai đoạn ban đầu phát triển của bảo hiểm thì bảo hiểm đã được định
nghĩa là : "Bảo hiểm là tổ chức hợp lý một nhóm người có cùng chung một
loại rủi ro có thể xảy ra. Các khoản đóng góp về tài chính của họ cho phép
bồi thường những thiệt hại mà một số người trong nhóm phải gánh chịu khi
tổn thất xảy ra [5]. Khái niệm trên chưa đầy đủ, không phải bất cứ thiệt hại
nào cũng được bồi thường, mà chỉ một số những tổn thất đã được thoả thuận
gây ra.
Nữ hoàng Anh Elisabeth đệ nhất đã từng khẳng định: Nhờ có bảo hiểm
"tổn thất sẽ nhẹ đi nếu được chia sẻ cho nhiều người và sẽ rất nặng nếu để
một Ýt người gánh chịu" [16]. Những người có nhà cửa, khi mua bảo hiểm
hoả hoạn, hàng năm đều phải trả một khoản tiền nhỏ (tương đương 0,5%o giá
trị ngôi nhà) để những người bất hạnh trong số họ, bị mất nơi ở do cháy, nhận
được một khoản tiền bồi thường cho phép tái thiết lại nhà cửa.
- Còn trong giáo trình bảo hiểm - Trường Đại học Ngoại thương: Bảo
hiểm là một sự cam kết bồi thường của Người bảo hiểm đối với Người được
bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một số rủi
ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm
cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Khái
niệm này khá đầy đủ nhưng chưa đề cập đÕn bản chất của hoạt động bảo
hiểm. [7]
- Định nghĩa về bảo hiểm do giáo sư Hémard (Pháp) đưa ra có tính
pháp lý hơn và đầy đủ hơn cả: ''Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên
10
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Flà người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bản hiểm hay đóng
góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong
trường hợp rủi ro xảy ra sẽ được trả một khoản bồi thường từ một bên khác là
người bảo hiểm, người trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt
hại theo Luật thống kê [16].
1.1.2. Các nguyên tắc bảo hiểm cơ bản của bảo hiểm :
a) Bảo hiểm một rủi ro chứ không bảo hiểm mét sự chắc chắn.
b) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
c) Nguyên tắc lợi Ých bảo hiểm.
d) Nguyên tắc bồi thường.
e) Nguyên tắc thế quyền. [7]
1.1.3. Phương pháp phân tán rủi ro của các công ty bảo hiểm.
Rủi ro không chỉ xảy ra đối với những khách hàng mua bản hiểm mà
còn xảy ra cả đối với các công ty bảo hiểm. Khi xảy ra những rủi ro tổn thất
quá lớn thì cộng ty bảo hiểm cũng không đủ khả năng chi trả bồi thường và sẽ
rơi vào tình trạng phá sản. Do vậy đối với những rủi ro quá lớn các nhà bảo
hiểm sẽ tìm cách phân tán rủi ro để đảm bảo khả năng tài chính và ổn định
hoạt động kinh doanh của chính mình. Từ khi bảo hiểm ra đời rất nhiều các
phương pháp đã được áp dụng để phân chia rủi ro và phân tán các rủi ro cho
nhiều nhà bảo hiểm để trong trường hợp tổn thất xảy ra, cam kết tối đa của
mỗi một nhà bảo hiểm tương ứng với khả năng tài chính của họ và không làm
phương hại đến khả năng thanh toán của họ.
Hiện nay có 3 phương pháp chính được áp dụng để phân chia rủi ro.
Đó là: Đồng bảo hiểm, ký kết bảo hiểm theo lớp, tái bảo hiểm.
- Đồng bảo hiểm là sự phân chia theo tỉ lệ cùng một rủi ro giữa nhiều
nhà bảo hiểm, những người được gọi là các nhà đồng bản hiểm. Mỗi một nhà
đồng bảo hiểm trong số đó chấp nhận một tỉ lệ nào đó của rủi ro tùy thuộc
vào mức chấp nhận riêng của anh ta và sẽ nhận được một tỉ lệ tương ứng như
vậy về phí bảo hiểm do người được bảo hiểm và trong trường hợp tổn thất
11
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fxảy ra toàn bộ hay từng phán thì anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường
theo chính tỉ lệ đó. Thị trường thường xuyên áp dụng hình thức bảo hiểm này
là thị trường Luân Đôn.
- Phân chia rủi ro theo líp:
Khi một nhà bảo hiểm có khả năng bảo hiểm ở mức thấp hơn so với
toàn bộ số tiền phải bảo hiểm, anh ta có thể đề nghị bảo hiểm cho rủi ro đầu
tiên tương ứng với mức chấp nhận của anh ta và đề nghị một nhà bảo hiểm
khác bảo hiểm mức còn lại của lớp đầu tiên này. Đối với các tập đoàn có tầm
cỡ quốc tế, có thể quyết định bảo hiểm các lớp thấp ở các nhà bảo hiểm của
nước nơi mà tập đoàn đó hoạt động (điều đó là một quy định bắt buộc của
pháp luật) và có thể quyết định bảo hiểm các tổn thất thảm họa hoặc bảo hiểm
các khoản tiền lớn nhất ờ các nhà bảo hiểm quốc tế được chấp nhận hoạt
động tại nước mà tập đoàn này đặt trụ sở, đôi khi người ta gọi hợp đồng cuối
cùng này là một hợp đồng ''cái ô'' (Umbrella Cover).
- Tái bảo hiểm:
Tái bảo hiểm là phương pháp thứ ba được áp dụng để phân tán các rủi
ro và phân chia tốt hơn các rủi ro giữa các nhà bảo hiểm theo khả năng tài
chính sẵn có của họ để bảo hiểm cho các rủi ro đó.
Người ta có thể nói người tái bảo hiểm là người bản hiểm của các nhà
bảo hiểm. Thật vậy, tái bảo hiểm là một hợp đồng mà qua đó người bảo hiểm
gốc trút bỏ tất cả hoặc một phần các rủi ro mà anh ta đã chấp nhận bảo hiểm
sang một người khác, đó là người tái bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm nhượng tái bảo hiểm, nhượng lại một phần các rủi ro
đã chấp nhận và các khoản phí tương ứng. Chính vì vậy, trong một hợp đồng
tái bảo hiểm, người bảo hiểm gốc được gọi là công ty nhượng, hoặc ngắn gọn
hơn ''bên nhượng'' và người tái bảo hiểm được gọi là ''bên được nhượng''.
Như vậy trong đồng bảo hiểm, có một mối quan hệ hợp đồng trực tiếp giữa
người được bảo hiểm với mỗi một nhà đồng bảo hiểm, người được bảo hiểm
không hề có một mối quan hệ nào với các nhà tái bảo hiểm. Ngay cả sau khi
12
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fđã ký một hợp đồng tái bảo hiểm, người bảo hiểm gốc vẫn giữ toàn bộ các rủi
ro mà người đó đã chấp nhận bảo hiểm. Trong trường hợp tổn thất xảy ra,
chính người bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm và
sau đó sẽ thu về phần mà nhà tái bảo hiểm phải trả cho mình (trên thực tế
chúng ta sẽ thấy là trong trường hợp tổn thất xảy ra nghiêm trọng thì nhà tái
bảo hiểm có thể ứng trước cho người bảo hiểm số tiền cần thiết để bồi thường
cho người được bảo hiểm).
Như vậy, các hợp đồng tái bảo hiểm luôn luôn do các công ty bảo hiểm
chuyên nghiệp ký. Các hợp đồng tái bảo hiểm không bị sự kiểm tra chặt chẽ
của các cơ quan Nhà nước như sự kiểm tra đối với các hợp đồng bảo hiểm
nhằm bảo vệ những người được bảo hiểm. Vì vậy, nếu bắt buộc phải có các
thủ tục chấp nhận đối với các nhà tái bảo hiểm thì thủ tục đó thường đơn giản
hơn rất nhiều so với thủ tục của các nhà bảo hiểm gốc.
Tóm lại. Tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử
dụng để chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm
cho người bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một
phần phí bảo hiểm thông qua hợp đồng tái bảo hiểm. Nếu như bảo hiểm là
hình thức dàn trải tổn thất của một Ýt người cho nhiều người cùng chịu thì tái
bảo hiểm là hình thức dàn trải một lần nữa những tổn thất mà các công ty bảo
hiểm phải gánh chịu. Nói một cách ngắn gọn: tái bảo hiểm là bảo hiểm cho
các nhà bảo hiểm.
Ưu nhược điểm của tái bảo hiểm
+ Ưu điểm: Tạo tâm lý an toàn cho các công ty bảo hiểm bằng các dịch
vụ bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm, đảm bảo tài chính cho các công ty
bản hiểm.
+ Nhưng nhược điểm là: Tái bảo hiểm có thể làm tăng hoặc giảm một
cách đáng kể các chi tiêu tài chính của công ty bảo hiểm.
2. Thị trường bảo hiểm
2.l - Khái niệm về thị trường bảo hiểm
13
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hóa.
Có rất nhiều quan điểm về thị trường và cũng đã có nhiều tài liệu bàn về thị
trường. Có thể nói quan điểm chung nhất về thị trường là ''thị trường bao gồm
toàn bộ các hoạt động trao đổi hàng hóa được diễn ra trong sự thống nhất hữu
cơ với các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn liền với một không gian nhất
định''. [3]
Theo thuật ngữ bảo hiểm, thì trường bảo hiểm là nơi mua và bán các
sản phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt; là
loại sản phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu
sắc v.v.. sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền, là
sản phẩm mà người mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với
mình để được bồi thường hay trả tiÒn bảo hiểm (trừ bảo hiểm hưu trí, bảo
hiểm nhân thọ )...
2.2. Các yếu tố cấu thành nên thị trường bảo hiểm.
2.2. l. Chủ thể của thị trường bảo hiểm.
Người mua hay khách hàng là những cá nhân hay tổ chức có tài sản,
trách nhiệm dân sự trước pháp luật, tính mạng hoặc thân thể gặp rủi ro cần
bảo hiểm thì mua các dịch vụ ( sản phẩm ) bảo hiểm hoặc trực tiếp hoặc
thông qua các tổ chức trung gian. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại
và khách hàng tiềm năng của một loại sản phẩm. Khách hàng bao gồm khách
hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng của một loại sản phẩm. Khách hàng
hiện tại là khách hàng đang tham gia quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó,
khách hàng tiềm năng là khách hàng có thể tham gia vào quá trình mua và sử
dụng sản phẩm đó trong tương lai.
Mục tiêu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm
nói riêng là lợi nhuận. Muốn vậy phải tiêu thụ được sản phẩm của mình qua
các kênh phân phối sản phẩm. Do đặc điểm hoạt động kinh doanh, các doanh
nghiệp bảo hiểm thường sử dụng kênh phân phối là đại lý và môi giới bảo
hiểm.
14
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Theo thuật ngữ Bảo hiểm, Đại lý bảo hiểm là người làm việc cho
doanh nghiệp bảo hiểm thay mặt doanh nghiệp bán các sản phẩm bảo hiểm
cho người mua. Còn Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam: ''Đại lý bảo hiểm
là tổ chức, cá nhân được ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để
thực hiện hoạt động bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên
quan".(ĐiÒu 84, chương IV). Như vậy Đại lý Bảo hiểm là những người hoặc
tổ chức trung gian giữa và người tham gia bảo hiểm, đại diện cho doanh
nghiệp và hoạt động vì quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Đại lý có thể là
các tổ chức ngân hàng hay luật sư. Những người này làm Đại lý bảo hiểm rất
thuận lợi do có sự tiếp xúc và hiểu biết nhiều khách hàng Trung gian phổ biến
trên thị trường bảo hiểm nhân thọ là Đại lý bảo hiểm thường là các cá nhân
chuyên hoạt động đại lý. Họ hoạt động tại văn phòng hoặc đi đến từng nhà,
từng doanh nghiệp để bán bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và đàm phán những
thay đổi về nhu cầu bảo hiểm của khách hàng thực tế và tiềm năng.
Cũng là một trong 2 kênh phân phối qua trung gian, nhưng môi giới
bảo hiểm lại là hình thức phổ biến của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Môi
giới bảo hiểm là người trung gian giữa DNBH với khách hàng. Môi giới bảo
hiểm khác với đại lý bảo hiÓm một cách cơ bản là nếu Đại lý bảo hiểm đứng
về phía quyền lợi của công ty bảo hiểm thì ngược lại môi giới bảo hiểm lại
đứng về phía quyền lợi của khách hàng. Họ có nhiệm vụ tham mưu, tư vân,
thu xẹp các hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng. Môi giới là người được
khách hàng ủy quyền và luôn luôn hành động vì lợi Ých của khách hàng.
Môi giới bảo hiểm thường nắm rất vững về kỹ thuật nghiệp vụ, đặc biệt
là những thông tin về thị trường. Về lý thuyết, người môi giới sau khi đáp
ứng nhu cầu của khách hàng sẽ tìm kiếm DNBH có thể đáp ứng nhu cầu tốt
nhất với chi phí thấp nhất. Thực tế, môi giới thường lựa chọn trên thị trường
một doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều ưu đãi, sau đó giới thiệu cho khách
hàng. Môi giới bảo hiểm làm cho cung và cầu về sản phẩm bảo hiểm được
chắp nối với nhau, đồng thời góp phần làm tăng uy tín của sản phẩm và
15
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fdoanh nghiệp bảo hiểm. Ngày nay kênh phân phối bằng môi giới được sử
dụng nhiều đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm hàng hóa
XNK...
Thông thường trên thị trường bảo hiểm có 2 loại môi giới bảo hiểm. Đó
là môi giới bảo hiểm gốc và môi giới tái bảo hiểm. Môi giới bảo hiểm gốc sẽ
giúp những người cần mua bảo hiểm nhưng không biết phải mua như thế nào
và mua ở đâu tìm và kí được hợp đồng bảo hiểm phù hợp. Khách hàng có thể
trực tiếp hoặc qua môi giới để mua bảo hiểm. Nhưng trong những trường hợp
tái bảo hiểm thì môi giới tái bảo hiểm lại đặc biệt quan trọng, là người không
thể thiếu khi tái bảo hiểm. Hầu hết các DNBH trên thế giới đều yêu cầu môi
giới tái bảo hiểm tư vấn, giúp đỡ khi các rủi ro được bảo hiểm quá lớn so với
khả năng tài chính của họ trong việc thanh toán bồi thường tổn thất nếu rủi ro
xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm Èn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp DNBH
phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần thiết. Thông qua môi
giới tái bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có được sự an toàn về tài
chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định
cao hơn cho xã hội.
2.2.2. Khách thể của thị trường bảo hiểm.
Khách thể của thị trường bản hiểm chính là sản phẩm bảo hiểm. Từ các
góc độ khác nhau, có thể đưa ra các định nghĩa khác nhau về sản phẩm bảo
hiểm. Xét trên góc độ những thứ cơ bản nhất mà khách hàng nhận được khi
mua sản phẩm thì sản phẩm bảo hiểm có thể được định nghĩa là: Sù cam kết
của DNBH đối với bên mua bảo hiểm về việc bồi thường hay trả tiền bảo
hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Định nghĩa này xuất phát từ việc
khi mua bảo hiểm, bằng việc trả một khoản tiền nhất định - nộp phí bảo hiểm,
bên mua bảo hiểm (các tổ chức, các cá nhân sẽ được DNBH cấp cho Hợp
đồng bảo hiểm (giấy chứng nhận bảo hiểm) xác nhận rằng DNBH sẽ bồi
thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho họ khi xảy ra các sự kiện như đã thỏa
thuận. Thông thường khi nói tới ''Sản phẩm bảo hiểm", người ta thường đồng
16
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fnghĩa với nghĩa với ''nghiệp vụ bảo hiểm". Cách nói này thường được sử
dụng khi phân loại DNBH theo sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp.
Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm:
Bảo hiểm là một loại hình dịch vụ, do đó sản phẩm bảo hiểm cũng có
các đặc điểm chung của các sản phẩm dịch vụ như tính vô hình, tính không
thể tách rời và không thể cất trữ được, tính không đồng nhất với tính không
được bảo hộ bản quyền. Ngoài ra, sản phẩm bảo hiểm còn có các đặc điểm
riêng đó là: Sản phẩm ''không mong đợi", sản phẩm của "chu trình kinh
doanh đảo ngược'' và sản phẩm có hiệu quả ''xê dịch''. Chính vì có những đặc
điểm chung và đặc điểm riêng này nên sản phẩm bảo hiểm được xếp vào loại
sản phẩm dịch vụ ''đặc biệt''
a) Đặc điểm chung:
Bảo hiểm là sản phẩm vô hình. Khi mua bảo hiểm, mặc dù khách hàng
nhận được các yếu tố hữu hình đó là những tờ giấy trên đó có in biểu tượng
của doanh nghiệp, in tên gọi của sản phẩm, in những nội dung thỏa thuận...
Nhưng khách hàng không thể chỉ ra được màu sắc, kích thước, hình dáng hay
mùi vị của sản phẩm. Nói một cách khác, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ''vô
hình!" người mua không thể cảm nhận được sản phẩm bảo hiểm thông qua
các giác quan của mình.
Tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm làm cho việc giới thiệu, chào bán
sản phẩm trở nên khó khăn hơn. Khi mua sản phẩm bảo hiểm, người mua chỉ
nhận được những lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trước các rủi
ro.
Sản phẩm bảo hiểm không thể tách rời - tức là việc tạo ra sản phẩm
dịch vụ bảo hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó (quá trình cung ứng
và quá trình tiêu thụ là một thể thống nhất). Thêm vào đó, sản phẩm bảo hiểm
cũng không thể cất trữ được - có nghĩa là khả năng thực hiện dịch vụ bảo
hiểm vào một thời điểm nào đó sẽ không thể cất vào kho dự trữ để sử dụng
17
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fvào một thời điểm khác trong tương lai. Điều này hoàn toàn khác biệt với sản
phẩm hữu hình.
Đa số các sản phẩm hữu hình có thể được sản xuất với số lượng lớn sau
đó được lưu trữ trong kho bán dần. Còn các sản phẩm dịch vụ thì không thể
cất trữ được.
Các nhân viên của doanh nghiệp cũng như các đại lý bảo hiểm chỉ có
một số giờ nhất định trong một ngày để gặp gỡ khách hàng và số giờ sẵn có
trong ngày không thể mang sang ngày khác. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng
không thể "sản xuất'' trước một lượng lớn các cuộc kiểm tra các khiếu nại hay
các dịch vụ khách hàng khác và gửi chúng cho các khách hàng có yêu cầu.
Tính không đồng nhất của dịch vụ bảo hiểm, cũng như các dịch vụ
khác, chủ yếu được thực hiện bởi con người. Nhưng cho dù là người có kỹ
năng đến đâu đi chăng nữa thì dịch vụ họ thực hiện không phải lúc nào cũng
nhất quán. Ví dụ, các địa lý khi bán sản phẩm có thể quên các chi tiết, có thể
chậm trễ hoặc mất kiên nhẫn... Nhìn chung chất lượng phục vụ của một cá
nhân nào đó tại các thời điểm khác nhau, với các khách hàng khác nhau là
khác nhau. Chất lượng phục vụ này phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, các
yếu tố xung quanh. Ngoài ra, giữa các cá nhân khác nhau, chất lượng phục vụ
cũng khác nhau.
b) Đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ''không mong đợi". Một trong những
đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi. Điều
này thể hiện ở chỗ, đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần túy, mặc
dù đã mua sản phẩm - nhưng khách hàng đều không mong muốn rủi ro xảy ra
để được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Bởi vì rủi
ro mét khi đã xảy ra thì đồng nghĩa với thương tích, thiệt hại thậm chí là mất
mát, do đó số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, chi trả khó có thể
bù đắp được. Đặc tính này cũng làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm
18
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Ftrở nên vô cùng khó khăn, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của ''chu trình
kinh doanh đảo ngược''.
Nếu như trong các lĩnh vực kinh doanh khác, giá cả sản phẩm được xác
định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh thì trong lĩnh vực bản hiểm, phí bảo
hiểm - giá cả của sản phẩm bản hiểm được xác định dựa trên những số liệu
ước tính về các chi phí có thể phát sinh trong tương lai như chi bồi thường
(trả tiền bảo hiểm), chi hoa hồng, chi tái bảo hiểm... Trong đó, khoản chi
chiếm tỉ trọng lớn nhất là chi bồi thường (trả tiền bảo hiểm). Khoản chi này
được xác định chủ yếu dựa trên số liệu thống kê quá khứ và các ước tính
tương lai về tần suất và quy mô tổn thất.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu
phí của người tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm; sau đó nếu có
các sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm mới phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường hay chi trả. Do vậy, với việc thu phí trước, nếu không có
hoặc có Ýt rủi ro xảy ra, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn dự kiến.
Ngược lại, nếu rủi ro xảy ra với tần suất hoặc với quy mô lớn hơn dự kiến,
doanh nghiệp bảo hiểm có thể thua lỗ.
Về phía khách hàng, hiệu quả từ việc mua sản phẩm cũng mang tính
''xê dịch'' - không xác định. Điều này xuất phát từ việc không phải khách
hàng nào tham gia bảo hiểm cũng '' được nhận" một số tiền chi trả của doanh
nghiệp bảo hiểm (trừ trường hợp mua các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang
tính tiết kiệm).
Người bán là các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo tính chất sở hữu, doanh
nghiệp bảo hiểm có thể chia ra: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ
phần, công ty liên doanh v.v... Theo quy mô tổ chức có thể chia ra tổng công
ty, công ty chia theo loại hình kinh doanh thì có công ty bảo hiểm nhân thọ
hoặc phi nhân thọ; bán hàng trực tiếp cho khách hàng hoặc thông qua các tổ
chức trung gian.
2.2.3 Các qui định pháp luật
19
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Bất kì một thị trường nào hoạt động cũng đều phải tuân thủ theo hệ
thống pháp luật của mỗi quốc gia.Thị trường bảo hiểm cũng không nằm ngoài
qui luật đó ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển như các nước
Châu Âu, hệ thống pháp luật thị trường bảo hiểm rất đầy đủ và chặt chẽ. Đối
với thị trường bảo hiểm Việt Nam, gần đây luật kinh danh bảo hiểm đã ra đời
giúp cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thuận lợi hơn. Ngoài luật kinh
doanh bảo hiểm, rất nhiều luật khác ảnh hưởng như luật Dân sự , luật Đầu tư
nước ngoài.v.v.
2.3. Những đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác đều có những đặc
trưng chung là:
2.3.1. Cung - cầu về bảo hiểm luôn luôn biến động
Cung về bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện. Các doanh
nghiệp ngày một nhiều và luôn đưa ra thị trường những sản phẩm mới thích
ứng với thị trường. Sản phẩm bảo hiểm ngày một nhiều và luôn gắn liền với
sự phát triển của khoa học kĩ thuật của nền kinh tế, của quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa. Điều đó chứng tỏ sản phẩm bảo hiểm không dừng lại ở con sè
ban đầu mà luôn được cải tiến, hoàn thiện và sáng chế, phát minh ra cái mới.
Cầu về bản hiểm của dân cư, của các tổ chức xã hội, của doanh nghiệp
cũng không ngừng tăng lên. Khi nền kinh tế phát triển thì các tổ chức kinh tế
cũng phát triển theo, đời sống vật chất tinh thần của dân cư cũng được cải thiện.
Do đó, nhu cầu về đa dạng về các dịch vụ bảo hiểm cũng tăng lên. Với thời kỳ khởi nguyên của bảo hiểm và thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé, các lĩnh vực bảo hiểm cũng hạn chế.Bạn đầu chỉ xuất hiện bảo hiểm hàng hải vì đây là lĩnh vực thường xuyên xảy ra rủi ro và tổn thất lại vô cùng lớn. Rồi sau đó đến bảo hiểm cháy vì nó mang tính chất thảm họa tổn thất lớn. Còn bây giờ bảo hiểm đã quá quen thuộc với mọi người từ bảo hiểm cho những tài sản công trình lớn cho đến ô tô xe máy. Thậm chí chúng ta có thể mua bản hiểm cho đôi chân, cho khuôn mặt, cho đôi mắt của chính mình nếu chúng ta
20
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
muốn. Rất nhiều diễn viên, người mẫu, ca sĩ đã mua những sản phẩm bảo hiểm mà chúng ta tưởng như không thể có như bảo hiểm giọng hát. v.v.. ...
Những năm đầu thế kỉ XX, dịch vụ bảo hiểm chỉ có trên dưới vài chục sản phẩm nhưng đến nay đã tăng lên hàng trăm, hàng nghìn loại.
Cung và cầu về sản phẩm bảo hiểm phát triển song hành. Cầu tăng thì cung tăng và ngược lại.
2.3.2 - Giá bảo hiểm phụ thuộc nhiều nhân tố.Trong thị trường hàng hóa, chúng ta đã quá quen với khái niệm giá cả
của hàng hóa. Đó là giá mà hai bên mua và bán đồng ý để trao đổi giữa hàng và tiền hoặc một thứ khác (tùy vào mục đích trao đổi). Và thông thường nó dựa trên quy luật ngang bằng về giá trị. Quy luật ngang bằng về giá trị do hao phí lao động bình quân xã hội quyết định. Khi một người mua bá ra một số tiền X để mua hàng Y thì có nghĩa là giá cả của Y là X. Thế nhưng trong thị trường bảo hiểm, người ta không hoặc rất hiếm khi sử dụng giá cả bảo hiểm mặc dù về bản chất nó hoàn toàn giống nhau.
Phí bảo hiểm là số tiền mà người mua - khách hàng phải trả cho doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở thỏa thuận giữa người mua và người bán về một dịch vụ bảo hiểm nào đó. Phí bảo hiểm được thỏa thuận giữa người mua và người bán cũng có thể xem đó là giá chấp nhận của thị trường về dịch vụ (hay sản phẩm) bảo hiểm.
Phí bảo hiểm bao gồm: phí thuần và phụ phí (hoặc phí hoạt động trong bảo hiểm nhân thọ). Phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở số tiền bảo hiểm (số tiền người mua chấp nhận với người bán - người bảo hiểm đưa ra) với tỉ lệ phí bác hiÓm (R).
Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm bảo hiểm.* Mục tiêu định giá của từng doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp đưa ra
những mức giá cho sản phẩm, thì những mức giá đó nhằm giúp doanh nghiệp đại được những mục tiêu nhất định. Nói một cách khác, mục tiêu định giá chính là cơ sở cho các quyết định liên quan đến giá cả. Và mục tiêu định giá phải đưa (xác định dựa trên những mục tiêu chung của doanh nghiệp. Ví dụ, khi mục tiêu chung của doanh nghiệp là duy trì chất lượng dịch vụ hàng đầu
21
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
vượt hẳn đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn hẳn đối thủ cạnh tranh nhằm trang trải được các chi phí cao hơn phát sinh do cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn. Ngoài ra các mục tiêu định giá của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với các mục tiêu marketing cụ thể của doanh nghiệp.
- Các mục tiêu hướng theo lợi nhuận.- Mục tiêu hướng theo số lượng hợp đồng khai thác.- Mục tiêu hướng theo cạnh tranh.Quá trình định phí có thể được gọi là quá trình dự đoán tổn thất và chi
phí trong tương lai, phân bổ các chi phí này giữa những người tham gia bảo
hiểm. Ở các quốc gia có ngành bảo hiểm phát triển, trong các doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ, việc định phí được thực hiện bởi bộ phận định phí hoặc
đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ quy mô nhỏ hơn thì việc định
phí do các công ty tư vấn định phí thực hiện. Còn trong lĩnh vực bảo hiểm tài
sản và trách nhiệm, giá cả sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên số liệu
thống kê về khuynh hướng tổn thất do các tổ chức tư vấn cung cấp hoặc do
từng doanh nghiệp bảo hiểm tự thu thập.
* Cầu về sản phẩm của khách hàng là nhân tố quyết định giới hạn trên
của giá cả sản phẩm. Kinh nghiệm marketing thực tế đều cho thấy, cầu của
hầu hết các sản phẩm (trong đó có sản phẩm bảo hiểm) có quan hệ tỉ lệ
nghịch với giá cả của sản phẩm (với điều kiện là các nhân tố khác - điều kiện
kinh tế nói chung, sự sẵn có của sản phẩm, khả năng mua của khách hàng...
không thay đổi). Khi phân tích cầu về sản phẩm phải xác định sự thay đổi của
nó khi giá cả sản phẩm thay đổi. Để đo lường mức độ thay đổi này (tỉ lệ %
thay đổi trong lượng cầu khi có tỉ lệ % thay đổi trong giá cả), kinh tế học vi
mô đã đưa ra khái niệm ''độ co dãn của cầu theo giá''.
2.3.3. Canh tranh và liên kết diễn ra liên tục
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác, sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp để tranh giành khách hàng, để thu nhiều lợi nhuận diễn ra
22
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fliên tục, gay go, quyết liệt. Cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh, thủ thuật.
Do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm là dễ bắt chước, không bảo hộ bản
quyền, nên các doanh nghiệp bảo hiểm "đổ xô'' vào những sản phẩm được thị
trường chấp nhận (ngoài việc tung vào thị trường những sản phẩm mới) bằng
cách cải tiến để hoàn thiện sản phẩm đó hơn các doanh nghiệp khác; bằng
cách tuyên truyền quảng cáo sâu rộng, hấp dẫn để thu hút khách hàng và đặc
biệt giảm phí và tăng tỉ lệ hoa hồng để giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị
trường v.v... Thực tế sôi động đó đã được chứng minh khi thị trường bảo
hiểm Việt Nam có nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế tham gia...
Cùng với cạnh tranh là liên kết. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng
phát triển. Liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp mới, còn yếu về
tiềm lực để tạo ra sức mạnh cạnh tranh; liên kết giữa các doanh nghiệp có thế
mạnh để hòa hoãn, cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau v.v.. liên kết
còn diễn ra giữa các doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn để tăng sức
mạnh doanh nghiệp nhỏ đảm bảo an toàn trong cạnh tranh và cũng để tăng
thêm đồng minh cho doanh nghiệp lớn.
Liên kết còn là nhu cầu của thị trường bản hiểm mới hình thành và phát
triển trong điều kiện'thị trường thế giới đã ổn định, có tiềm lực. Liên kết cũng
là xu hướng chung của hội nhập và toàn cầu hóa.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy mới hình thành và phát triển, nhưng
cạnh tranh cũng diễn ra gay gắt giữa các doanh nghiệp với đủ thủ thuật và
mánh khóe. Cạnh tranh cũng gây thiệt hại đáng kể cho một số doanh nghiệp,
nhưng cũng mang lại thành công cho các doanh nghiệp có lợi thế, v.v... Để
đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt các
doanh nghiệp liên kết lại trong tổ chức '' Hiệp hội bảo hiểm" để điều hòa và
giữ thế cân bằng trong kinh doanh trước hiện tượng giảm phí và tăng tỉ lệ hoa
hồng tùy tiện; đồng thời tiến hành liên kết dưới hình thức liên doanh với các
doanh nghiệp nước ngoài để tăng tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm kinh doanh
để mở rộng thị trường v.v
23
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
2.3.4 - Thành phần các doanh nghiệp bảo hiểm luôn thay đổi
Thị phần bảo hiểm là tỉ lệ phần trăm (%) của mỗi doanh nghiệp bảo
hiểm chiếm trong thị trường bảo hiểm. Thị phần càng lớn chứng tỏ vị thế của
doanh nghiệp càng cao; kết quả kinh doanh của doanh nghiệp càng phát triển.
Nói đến thị phần là nói đến thị trường phát triển không còn mang tính
độc quyền. Ở đây, các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội như nhau; song
doanh nghiệp nào dành được thị phần nhiều hơn là doanh nghiệp đó làm tốt
công tác quảng cáo, tiếp thị; do chất lượng phục vụ tốt hơn, phí bảo hiểm có
thể thấp hơn v.v..
Như vậy, thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm luôn thay đổi do số
lượng doanh nghiệp tham gia vào thị trường thay đổi; do chiến lược
maketing, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả v.v... của các doanh nghiệp
thay đổi không những giữ được thị phần của mình mà còn giành giật được thị
phần của các doanh nghiệp khác.
Ngoài việc cạnh tranh đÓ giành giật thị trường của nhau, các doanh
nghiệp phải có chiến lược kinh doanh hợp lý để thu hút bộ phận khách hàng
tiềm năng. Đây là bộ phận dân cư có nhu cầu bảo hiểm, nhưng chưa có thông
tin chính xác về dịch vụ bảo hiểm trên thị trường. Doanh nghiệp nào có chiến
lược tuyên truyền, quảng cáo, phục vụ tốt... sẽ thu hút thêm khách hàng ở bộ
phận này góp phần tăng thị trường doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp
bảo hiểm cũng phải tung ra thị trường những sản phẩm mới để thu hút dân cư
trong bộ phận không tiêu dùng tuyệt đối bộ phận không có nhu cầu tuyệt đối
với dịch vụ bảo hiểm có trên thị trường.
Ngoài ra, thị trường bảo hiểm còn có những đặc điểm riêng như:
- Thị trường bảo hiểm có đối tượng khách hàng rất rộng vì đối tượng
bảo hiểm đa dạng, bao gồm tài sản, trách nhiệm dân sự, con người.
- Thị trường bảo hiểm là thị trường tài chính, do đó chịu sự kiểm tra,
kiểm soát rất chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp khá sâu vào
hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Nhà nước không những xét duyệt
24
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fbiểu phí, xác định giới hạn trách nhiệm dân sự mà còn quyết định hình thức
triển khai-bắt buộc hay tự nguyện. Chỉ có trong thị trường bảo hiểm mới có
hình thức bắt buộc với người tham gia.
- Thị trường bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các thị trường khác. Sù
ra đời lại phụ thuộc vào nhiều điều kiện. Chẳng hạn, bảo hiểm nhân thọ triển
khai được trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển đến mức độ nhất định;
thu nhập của người dân được nâng cao, trình độ học vấn được cải thiện, môi
trường pháp lý tương đối phát triển ổn định; các loại thị trường khác đã hình
thành (thị trường tài chính, đầu tư v.v...).
3. Các loại bảo hiểm
3.l - Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội giữ một vai trò nòng cốt chính trong hệ thống bảo trợ
xã hội. Bất cứ nhà nước nào cũng đều thừa nhận rằng, sự nghèo khổ vì thất
nghiệp, ốm đau, không chỉ là trách nhiệm của cá nhân, mà còn là trách nhiệm
của xã hội. Do đó, giải quyết những vấn đề này là trách nhiệm của nhà nước
và công dân. Những đối tượng được bảo trợ xã hội là những người không đạt
tiêu chuẩn '' mức sống bình thường về kinh tế '', nên mức bảo trợ cũng chỉ hạn
chế trong phạm vi nhu cầu của mức sống cơ bản. Do đó, bảo hiểm xã hội
cũng là một loại bảo hiểm của nhà nước thực hiện bắt buộc theo pháp luật và
được coi là trách nhiệm chung của xã hội, nhằm bảo vệ quyền lợi cơ bản của
nhân dân và thực hiện chính sách xã hội do nhà nước quy định.
Bảo hiểm xã hội thường có những đặc trưng sau đây:
* Đối tượng bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội thể hiện chính sách xã hội của nhà nước, chủ yếu là
giải quyết vấn đề đời sống cơ bản của những người lao động trong xã hội,
thực hiện trách nhiệm của xã hội đối với từng người lao động, vì vậy đối
tượng bảo hiểm phải là đại đa số người dân trong xã hội.
* Phương pháp thực hiện bảo hiểm xã hội
25
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Bảo hiểm xã hội phần lớn có tính chất bắt buộc. Đối tượng của bảo
hiểm xã hội là đa số người dân trong xã hội, những người làm công ăn lương,
những người có quan hệ hợp đồng lao động. Thông thường bảo hiểm xã hội
do nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật bắt buộc những người có đủ điều kiện
đều phải tham gia bảo hiểm một cách bắt buộc.
* Đóng góp phí bảo hiểm
Bảo hiểm xã hội nhằm mục đích tạo điều kiện ổn định đời sống kinh tế
của đa số người lao động trong xã hội.
* Tinh thần giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội
Trong quá trình điều hòa sử dụng thực tế quỹ bảo hiểm xã hội thường
có lợi cho những người có thu nhập thấp, nên trong xã hội đã có tình trạng
"người có mức lương cao nộp phí bảo hiểm nhiều lại được lợi Ýt, còn người
có mức lương thấp nộp phí bảo hiểm Ýt lại được lợi hơn''. Số cán bộ, công
nhân viên đang làm việc tại các cơ quan, doanh nghiệp lâu đời Ýt hơn so với
các cơ quan, doanh nghiệp mới, nhưng số cán bộ, công nhân viên đã về hưu
mà các cơ quan, doanh nghiệp lâu đời cần phải chăm sóc lại nhiều hơn so với
các cơ quan, doanh nghiệp mới. Vì vậy, các doanh nghiệp lâu đời nộp phí bảo
hiểm Ýt lại được hưởng lợi nhiều, còn các doanh nghiệp mới phải nộp phí
bảo hiểm nhiều lại được hưởng lợi Ýt một cách tương đối.
3.2. Bảo hiểm thương mại
a. Bảo hiểm nhân thọ:
Là bảo hiểm đời sống hoặc tuổi thọ của con người nhằm bù đắp cho
người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi
người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Bao gồm
các loại hình như bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ...
* Bảo hiểm phi nhân thọ là tính chất phân tán rủi ro và các công ty bảo
hiểm có thể có mà cũng có thể không phải trả tiền bồi thường phụ thuộc vào
tổn thất có xảy ra hay không.
26
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
* Bảo hiểm nhân thọ mang tính chất tiết kiệm, lâu dài và các công ty
bảo hiểm nhân thọ chắc chắn phải trả tiền bảo hiểm khi đến hạn ghi trong hợp
đồng bảo hiểm.
b. Bảo hiểm phi nhân thọ gồm:
Bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người (Health and Person alaccident
Insurance):
+ Bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ Bảo hiểm tai nạn lao động.
+ Bảo hiểm khách du lịch.
+ Bảo hiểm tai nạn học sinh, sinh viên.
+ Bảo hiểm tai nạn con người.
+ Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
+ Bảo hiểm sinh mạng.
- Bảo hiểm xe cơ giới (Motor Vehlcle Insurance)
+ Bảo hiểm thân xe (hay còn gọi là bảo hiểm vật chất xe.
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
- Bảo hiểm cháy nổ (Fire Insurance)
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh (Business Interuption)
- Bảo hiểm vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt,
đường hàng không (cargo Inssurance) .
+ Bảo hiểm hàng hàng hóa xuất nhập khẩu
+ Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa
- Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu (Hull and P & I Insurance):
+ Bảo hiểm thân tàu biển, tàu pha sông biển.
+ Bảo hiểm vật chất tàu sông, tàu cá.
- Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại khác (Other property and
Casualty Irlsuarance):
+ Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt (Car, Ear)
+ Bảo hiểm dầu khí (Oil and gaz insuarance)
27
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
- Bảo hiểm tín dụng và rủi ro hành chính: bảo hiểm quỹ tín dụng nhân dân.
- Bảo hiểm nông nghiệp:
+ Bảo hiểm vật nuôi, cây trồng.
- Bảo hiểm trách nhiệm của người giao nhận.
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
- Bảo hiểm du lịch.
II. vai trò của thị trường bảo hiểm
1. Vai trò của thị trường bảo hiểm trong nền kinh tế
1.1 Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm và tập trung vào
một số đầu mối để đầu tư vào những lĩnh vực khác để phát tnển nền kinh
tế quốc dân.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc gia tỉ lệ thuận với tốc độ gia tăng về
đấu tư Đặc biệt với các khoản tiền lớn vô cùng cần thiết cho các lĩnh vực đầu
tư lâu dài, yêu cầu vốn nhiều.
Ngày nay, ở các nước phát triển, số tiền do nhà bảo hiểm đang quản lý
rất lớn: 2000 tỉ USD ở Hoa Kỳ, 1719 tỉ Bảng Anh, 2.967 tỉ Frăng ở Pháp.
Nhờ khả năng đầu tư, giờ đây thị trường bảo hiểm đóng một vai trò chủ lực
trong nền kinh tế ở Pháp nơi có truyền thống đầu tư vào trái phiếu, nhà bản
hiểm đã nắm 60% số lượng trái phiếu của nhà nước và trong lĩnh vực bất
động sản cũng giữ một vị trí quan trọng.
Ở Anh, các nhà bảo hiểm đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu nhất là qua Quỹ
hưu trí (Fonds de pension), quỹ này thu về các khoản tiền đóng góp dài hạn
để sau này trả lương hưu cho những người làm công ăn lương. Ở đây thị
trường bảo hiểm ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán và tài trợ cho
các hoạt động đầu tư. Còn ở Việt Nam tính đến cuối năm 2002 Bảo Việt đã
đầu tư và góp vốn vào tổng số 22 công ty và tập đoàn cả trong nước và nước
ngoài, các ngân hàng, công ty cổ phần chứng khoán...(Nguồn:Báo cáo hàng
năm của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam)
1.2. Bổ sung vào ngân sách của Nhà nước bằng lãi bảo hiểm.
28
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Doanh thu của ngành bảo hiểm càng cao thì nguồn thu cho ngân sách
càng lớn. Đó là điều tất yếu Thị trường bảo hiểm, đặc biệt là thị trường bảo
hiểm nhân thọ. Với tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao, năm 1999 tăng
142,4% (gấp 2,5 lần phí năm trước), năm 2000 là162,6%, 2001:l 15,6% và
năm 2002 tăng 89,7% thì vai trò của nghành bảo hiểm trong GDP càng lớn. Ở
các nước phát triển thì thị trường bảo hiểm đóng góp trung bình là 8,3%
GDP.
1.3. Tăng thu và giảm chi cho cán cân thanh toán quốc gia.
Nếu những nhà xuất khẩu và nhập khẩu lựa chọn mua bảo hiểm của
các công ty bảo hiểm trong nước thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều ngoại tệ.
Trước đây thị trường bảo hiểm chưa phát triển cộng với nghiệp vụ xuất nhập
khẩu còn yếu, chúng ta thường xuất khẩu theo điều kiện FOB và nhập khẩu
theo điều kiện CIF chung của doanh nghiệp là duy trì chất lượng dịch vụ
hàng đầu vượt hẳn đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn hẳn
đối thủ cạnh tranh nhằm trang trải được các chi phí cao hơn phát sinh do cung
cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn''.
Như vậy thì hoàn toàn các công ty của Việt Nam không thể mua bảo
hiểm trong nước được. Nếu thị trường bảo hiểm trong nước lớn mạnh thì các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước hoàn toàn có thể tin tưởng mua bảo
hiểm trong nước, vừa đảm bảo yếu tố tin cậy vừa tiết kiệm được ngoại tệ.
Hơn nữa, nếu các doanh nghiệp xuất khẩu tự mua bảo hiểm ở thị trường trong
nước họ sẽ được tư vấn kĩ lưỡng về các loại, các hình thức bảo hiểm phù hợp
nhất để tránh được rủi ro mà lại tiết kiệm chi phí. Các công ty bảo hiểm với
những nhân viên tư vấn của mình sẽ còn góp phần tư vấn, tiếp thị khách hàng và
có thể làm thay đổi tập quán bán FOB, nhập CIF, tư vấn thêm các nghiệp vụ
mua bán cũng như các cách thức khiếu nại bồi thường một cách tỉ mỉ và dễ hiểu
hơn.
1.4. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện đổi mới cơ chế
kinh tế nhanh chóng hơn.
29
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp trở thành tổ
chức kinh tế tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Sau khi thực
hiện chế độ trách nhiệm kinh doanh, trách nhiệm và rủi ro kinh tế thuộc về
các tổ chức này phải đảm nhận ngày càng nhiều hơn: thiên tai và tai nạn bất
ngờ hay xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh và khai thác kĩ thuật mới,
sản phẩm mới, còn những rủi ro về tín dụng hay xảy ra trong quá trình kinh
doanh giữa các bên. Nhà nước không thể bao cấp cho những tổn thất do
những rủi ro này gây ra như thời kì chưa đổi mới cơ chế kinh tế, những nhà
sản xuất, kinh doanh phải tự đảm nhận giải quyÕt. Chỉ có tham gia bảo hiểm
các doanh nghiệp có thể chuyển rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, tức là
chuyển những yếu tố không ổn định và những tổn thất không lường trước
được trong quá trình kinh doanh, nhằm đảm bản cho những hoạt động sản
xuất và kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thuận lợi.
Đồng thời, chế độ phá sản doanh nghiệp được thực hiện trong quá trình
đổi mới kinh tế hiện nay cũng phải được thực hiện đồng bộ với chế độ bản
hiểm xã hội tương ứng, nhằm đảm bảo một phần nhất định đời sống công
nhân viên chức của doanh nghiệp bị phá sản trong thời gian chờ việc lành.
Nếu không, việc thực hiện luật phá sản doanh nghiệp sẽ gây ra những yếu tố
không ổn định về trật tự xã hội.
1.5. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện, bảo toàn vốn vay
của các ngân hàng thương mại một cách thuận lợi.
Đảm bảo cho việc luân chuyển vốn cho vay. Trong thời kì đổi mới cơ
chế kinh tế ở nước ta, một phần lớn vốn cần dùng cho doanh nghiệp được
cung cấp từ khoản tiền vay của ngân hàng, những doanh nghiệp bị tai nạn rủi
ro, việc đó chẳng những ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả khoản tiền vay đã
hết hạn, mà còn yêu cầu ngân hàng tiếp tục cho vay, nhằm đáp ứng đầy đủ số
tiền vốn cần dùng ngay để doanh nghiệp khôi phục sản xuất. Nếu doanh
nghiệp bị tai nạn rủi ro đã kịp thời nhận được tiền bồi thường bảo hiểm, đã
30
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fnhanh chóng khôi phục sản xuất và kinh doanh thì cũng có thể hoàn trả vốn
vay ngân hàng.
1.6. Thị trường bảo hiểm có lợi cho sự phát triển và củng cố nền
kinh tế hàng hóa ở nông thôn.
Nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế quốc dân. Trong những năm gần
đây, nền kinh tế nông nghiệp và kinh tế hàng hóa ờ nông thôn nước ta đều có
những bước phát triển rất lớn. Nhưng vì nền sản xuất nông nghiệp còn lệ
thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên rất nhiều, còn có những đặc điểm như tính
chất thời vụ, tính chất khu vực và tính chất không ổn định, nên kinh tế hàng
hóa ở nông thôn phần lớn là kinh tế tập thể nhỏ và cá thể, vốn Ýt, sức mạnh
về kinh tế tương đối non yếu. Do đó, trong sản xuất nông nghiệp và trao đổi
buôn bán các mặt hàng nông nghiệp nếu bị thiên tai và tai nạn bất ngờ, sẽ
càng thêm nhiều khó khăn cho các đơn vị sản xuất và kinh doanh, nên lại
càng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ đắc lực của các loại bảo hiểm nông nghiệp như
bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng...
1.7. Thị trường bảo hiểm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc họp tác
kinh tế, kĩ thuật, thương mại với nước ngoài và cho việc thu hút đầu tư của
nước ngoài.
Đi đôi với việc thực hiện chính sách mở cửa ở nước ta hiện nay, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến kinh tế đối ngoại càng trở nên quan trọng. Những rủi ro trong quá trình trao đổi kinh tế, thương mại, kĩ thuật với nước ngoài thường lớn hơn trong nước, vì vậy càng đòi hỏi phải có sự đảm bảo kinh tế dưới hình thức bảo hiểm. Thực hiện các loại nghiệp vụ bảo hiểm có thể tăng thêm mức độ an toàn đối với những nhà đầu tư đối với việc hợp tác hoặc đầu tư vào nước ta. Trong những năm gần đây, ngoài việc phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường biển và nghiệp vụ bảo hiểm tàu biển phục vụ cho thương mại xuất nhập khẩu, ở nước ta các loại nghiệp vụ bảo hiểm công trình thăm dò, khai thác dầu khí, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt đã được triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu thu hút kĩ thuật tiên tiến và gọi vốn đầu tư của nước ngoài.
31
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Đồng thời, hoạt động bảo hiểm còn thu về cho Nhà nước một khoản ngoại tệ phi mậu dịch rất lớn.
1.8. Thị trường Bảo hiểm có thể tăng cường đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro, giảm bớt tổn thất của cải của xã hội.
Trong thị trường bảo hiểm người bảo hiểm chính là người sẽ bồi thường những tổn thất khi có rủi ro xảy ra cho những người mua bảo hiểm. Điều này không có nghĩa là trong thị trường bảo hiểm đơn thuần chỉ có sự chuyển giao rủi ro giữa người bảo hiểm và người mua bảo hiểm. Thực tế, nếu rủi ro không xảy ra thì người bảo hiểm sẽ không phải bồi thường và họ sẽ có thu nhập khoản tiền Êy.
Do đó rủi ro càng Ýt, họ càng có lợi. Chính vì vậy mà chính những
công ty bảo hiểm sẽ tăng cường việc đề phòng, hạn chế tổn thất. Doanh
nghiệp bảo hiểm các nước trên thế giới thường tìm kiếm những người tài giỏi
có đủ trình độ khoa học kĩ thuật cao, tổ chức những cuộc nghiên cứu ứng
dụng thực tế, cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng tham gia bảo hiểm về
việc đề phòng tổn thất.
2. Vai trò của thị trường bảo hiÓm đối với các thị trường khác.
Trong nền kinh tế quốc dân có các kênh dẫn vốn sau:
Có vốn Cần
vốn
32
NH
A TTBHB
NS
TTCK
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Trong mô hình các kênh dẫn vốn trên thị trường bảo hiểm cũng là một
kênh dẫn vốn lớn trong 4 kênh đó thì 3 kênh là kênh trực tiếp và chỉ có mét
kênh gián tiếp, Kênh gián tiếp đó là cách huy động vốn qua ngân hàng.
Kênh dẫn vốn qua ngân hàng có điểm yếu là chi phí sử dụng vốn cao
(lãi suất cao) do phải trả một phần lãi cho ngân hàng. Hơn nữa các thủ tục
cho vay phức tạp cần nhiều điều kiện, mặt khác các khoản tiền quá nhỏ người
dân cũng ngại gửi ngân hàng. Ngoài ra còn một nỗi lo lạm phát nên nhiều
người có vốn chỉ tự giữ chứ không gửi ngân hàng.
Trong 3 kênh dẫn vốn trực tiếp là. Ngân sách, thị trường chứng khoán
tiền tệ bảo hiểm thì kênh thông qua ngân sách không phổ biến vì nó thường
chỉ cung cấp cho các dự án quốc gia hay các doanh nghiệp nhà nước. Còn thị
trường chứng khoán ngày nay đang được coi là kênh dẫn vốn rất hiệu quả nó
là thị trường trực tiếp để mua bán vốn, chi phí sử dụng vốn thấp do không
qua trung gian. Kênh này ngày càng phát triển. Nhưng sự phát triển của thị
trường này rất khó khăn vì nó đòi hỏi các điều kiện về kinh tế phải phát triÓn
tới một mức độ nhất định, cơ sở pháp lý chặt chẽ để nó có thể hoạt động một
cách hiệu quả. Hơn nữa một điểm yếu của thị trường chứng khoán là không
phải ai có vốn cũng tham gia được vào thị trường chứng khoán mà họ phải có
kiến thức, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán, kinh doanh chứng khoán
và các thông tin khác. Kinh doanh vào chứng khoán đối với một số người là
khá mạo hiểm. Trong khi đó thị trường bảo hiểm ngày càng mạnh lên do nó
đã khắc phục được một số điểm yếu của các thị trường khác. Với thị trường
bảo hiểm đặc biệt thị trường bảo hiểm Nhân thọ nhà bảo hiểm có thể chủ
động được những nguồn vốn rất nhỏ lẻ trong xã hội một cách thường xuyên.
Vì nó không giới hạn giá trị nên có thể huy động được mọi khoản tiền nhàn
rỗi có thể. Hơn nữa người tham gia có thể được mức lãi sút cao hơn ngân
hàng lại không phải lo lắng và rủi ro mạo hiểm như kinh doanh chứng khoán.
33
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38FTùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư của nhà bảo hiểm họ có thể cung cấp vốn cho
ngân hàng hoặc thị trường chứng khoán. Ở Pháp đầu tư của thị trường bảo
hiểm trên thị trường chứng khoán tới 60% (năm 1998). Hoặc họ có thể trực
tiếp đầu tư vào các công trình, dự án của chính họ.
Thị trường bảo hiểm cung cấp vốn cho thị trường ngân hàng, góp phần
lớn trong ngân sách nhà nước (trung bình toàn Châu Âu thị trường bảo hiểm
đóng góp 8,3% GDP) và là nguồn chủ yếu cho thị trường chứng khoán. Thị
trường BH với nguồn vốn lớn mà họ huy động được sẽ ảnh hưởng mạnh đến
thị trường tiền tệ làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ nhanh hơn, thị trường đầu
tư cũng được đẩy mạnh.
IV. KINH Nghiệm XÂY dựng Và Phát Triển Của Một Số Thị TRƯờNG
TRÊN Thế Giới
l. Thị trường bảo hiểm Anh
Thị trường Anh được đặc trưng bởi một số nét đặc thù riêng so với các
thị trường Châu Âu khác:
- Thị trường nội địa đã đạt đến độ chín muồi. Tổng doanh thu bảo hiểm
Phi nhân thọ phụ thuộc vào biểu phí nhiều hơn là sự phát triển của sản phẩm
được bảo hiểm và bản thân biểu phí cũng tương đối mang tính chu kỳ và biến
động trên cơ sở tỷ lệ tổn thất, khả năng cung cầu biến đổi theo kết quả kinh
doanh) và sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm ''trực tiếp'' đã làm giảm
biểu phí bảo hiểm xe cơ giới). thị trường bảo hiểm Nhân thọ, có vị trí rất
quan trọng, chịu ảnh hưởng các quyết định của Chính phủ về mặt thuế và sự
cạnh tranh của các sản phẩm bảo hiểm tương tù trong đầu tư vào tiết kiệm.
Bảo hiểm nhân thọ chiếm gần 2/3 thị trường từ nhiều năm nay, đến nỗi
các khoản dự phòng kỹ thuật được các công ty bảo hiểm tích lũy đạt đến một
mức đặc biệt cả về số tuyệt đối cũng như so với GDP.
- Người Anh có truyền thống khá tự do về hoạt động giám sát bảo hiểm
và không theo chủ nghĩa giáo điều. Chính vì vậy mà những người đại diện
34
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fkiểm tra của bảo hiểm Anh luôn ngạc nhiên tại những cuộc bàn luận giữa họ
với các đồng nghiệp thuộc các thị trường Châu Âu khác khi nghe nhấn mạnh
rằng luật pháp Châu Âu phải cấm một công ty bảo hiểm hoạt động đồng thời
trong cả hai ngành bảo hiểm Nhân thọ và Phi nhân thọ.
Ngược lại, trong công tác giám sát, người Anh không phân biệt giữa
bảo hiểm trực tiếp và tái bảo hiểm. Và ở nước Anh, các công ty tái bảo hiểm
luôn phải tuân thủ một cách đầy đủ các nghĩa vụ giống như các công ty bảo
hiểm gốc. Điểm này khác với nhiều thị trường khác: các công ty tái bảo hiểm
không phải chịu sự kiểm soát.
Tính năng động của hoạt động môi giới là một khía cạnh cơ bản của thị trường bảo hiểm Anh. Nó tạo nên phương thức phân phối chính của thị trường này. Mạng lưới các công ty môi giới rát rộng, từ môi giới địa phương nhỏ bé (high street broker), hoạt động đơn lẻ chỉ với một thư ký và đáp ứng nhu cầu của một số cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ, đến công ty mới giới quốc tế (Me ga broker), hoạt động trên cả năm lục địa, có trong tay hàng tỷ bảng Anh về doanh thu bảo hiểm và sử dụng hàng nghìn cộng sự, qua các nhà môi giới chuyên biệt trong những lĩnh vực đặc thù (bản hiểm tín dụng, đua ngựa, ôtô đặc biệt hoặc vật nuôi , v.v...).
Hoạt động mạnh mẽ của bảo hiểm Anh trên thị trường quốc tế nhờ vào mạng lưới đại lý, chi nhánh và công ty con từ lâu đặt tại nước ngoài, đồng thời cũng nhờ rất nhiều vào tính năng động của các công ty môi giới. Những công ty môi giới năng động nhất coi thị trường quốc tế như địa bàn hoạt động đương nhiên của mình.
Tuy nhiên, hoạt động môi giới bị cạnh tranh bởi các phương thức phân phối khác. Các công ty bảo hiểm Nhân thọ bán sản phẩm của mình thông qua các công ty tư vấn tài chính chuyên nhất hoặc đa chức năng ''multicartes''. Công ty bảo hiểm Thiệt hại sử dụng mạng lưới không chuyên nghiệp như các hãng du lịch hoặc đại lý bất động sản và các công ty cho vay bất động sản cầm cố (Building societies).
35
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Không tách rời các tiến triển mới đây của ngành, các công ty bảo hiểm Anh đã phát triển hai lãnh địa hoạt động cho các công ty tự bảo hiểm và tự tái bản hiểm: Guemesey ở vùng đảo thuộc phía Nam nước Anh, nơi có các công ty tự bảo hiểm của một số tập đoàn công nghiệp hàng đầu Châu Âu và tại đảo Man, nơi các công ty tự bảo hiểm được hưởng những điều kiện ưu đãi về thuế, và do lãnh thổ này không là thành viên của EU nên có thể tự xây dựng luật một cách hoàn toàn độc lập. Các công ty BHNT chính của Anh hiện nay: Prudential, Standard Life,Equitable Life, Norwich Union, Scottsh Window.
2. Các thị trường bảo hiểm Châu Á.Nhật Bản là thị trường lớn nhất trong ngành bảo hiểm nhân thọ và ngay
cả trong tất cả các ngành bảo hiểm khác, khi đồng Yên lên giá so với đồng Đô la cho phép thị trường này vượt thị trường Hoa Kỳ. Đó là một thị trường tập trung và được bảo hộ. Sức mạnh tài chính làm cho thị trường bảo hiểm đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước.
Hàn quốc và Đài Loan có thị trường bảo hiểm rÊt phát triển, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
Các nước khác ở Châu Á vẫn là những thị trường mới nổi trong lĩnh vực bảo hiểm, tuy nhiên, có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Tại hai nước đông dân nhất thế giới, Trung Quốc và Ên Độ, thị trường bảo hiÓm vẫn do Nhà nước quản lý và thuộc trong số nhân nước có tỉ trọng của bao hiểm trong GDP thấp nhất thế giới. Quá trình phát triển hiện nay cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này sớm khắc phục sự tụt hậu tương đối của họ.
Nhật Bản là thị trường đứng đầu thế giới, cách xa hẳn các nước khác về bảo hiểm nhân thọ. Về tổng doanh thu (Nhân thọ và Phi nhân thọ), Nhật Bản và Hoa Kỳ gần bằng nhau và vị trí thị trường đứng đầu thế giới lúc thì thuộc về Nhật Bản, lúc thì thuộc về Hoa Kỳ, tùy theo sự biến động của tỉ giá hối đoái giữa đồng Yên và đồng Đô la. Năm 1995, Nhật Bản chiếm vị trí đứng đầu, tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm, với thị phần trên thế giới là 29,73%.
Nếu như doanh thu bảo hiểm của Châu Á vượt doanh thu bảo hiểm của Hoa Kỳ và mặt khác, của Châu Âu, thì cơ bản là nhờ có Nhật Bản. Chỉ riêng
36
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
nước này chiếm 85% thị trường Châu Á. Điều này có nghĩa là các thị trường khác vẫn còn hạn chế, mặc dù nhiều thị trường trong số này cũng tỏ ra năng động gần như của Nhật Bản. Tuy nhiên, không phải ở Nhật Bản mà chính ở Hàn Quốc, người ta thấy tỉ trọng của bảo hiểm trong GDP đạt mức cao nhất. 13,16% GDP. Nhiều nước Châu Á, nhất là một số nước đông dân nhất, tỉ trọng của bảo hiểm trong GDP vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình trên thế giới:
Trung Quốc (l,17%), Ên Độ (2,Ol%), Pakistan (O,8%), Indonêxia (l,40%). Như vậy các thị trường Châu Á có tiềm năng phát triển đáng kể và trong tương lai có lẽ sẽ tiếp tục đạt nhịp độ tăng trưởng nhanh đã được ghi nhận trong vài năm gần đây Nhìn chung, các thị trường Châu Á tương đối tập trung. Nhiều trở ngại về chính trị hay văn hóa, luật pháp hay hành chính, hạn chế vai trò của các công ty này được phép hoạt động thì chúng cũng chỉ đóng vai trò thứ yếu. Đó là trường hợp ở Nhật Bản, thị trường bảo hiểm lớn nhất thế giới, có 27 công ty bảo hiểm Nhân thọ và 25 công ty bảo hiểm Phi nhân thọ, tất cả các công ty này đều có vốn Nhà nước. Chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài (3 Nhân thọ, 25 Phi nhân thọ) bị giảm xuống còn 3% thị trường. Chỉ riêng Nippin Life, tập đoàn bảo hiểm đứng đầu thế giới, chiếm 20% thị trường bảo hiểm Nhân thọ, trong khi đó Tokyo Marine & Fire chiếm 20% thị trường bảo hiểm Phi nền thọ.
Tại Malaysia, với một thị trường trong thời gian dài đã bị khống chế bởi các tập đoàn bảo hiểm Anh, Chính phủ buộc các công ty bảo hiểm được chấp nhận ở nước này phải có đa số vốn nằm trong tay các cổ đông Malaysia. Tại Trung Quốc, PICC bị các công ty lớn cạnh tranh như Ping An, thành lập ở Thân Quyến năm 1988 và Pacific Insurance ở Thượng Hải năm 1992.
Năm 1992, lĩnh vực bảo hiểm Nhân thọ của công ty PICC tách ra thành công ty riêng, công ty Alina Life. Tại nước này, số lượng các công ty trong nước ngày càng nhiều. Ở Ên Độ, Chính phủ đang có ý định tư nhân hóa các công ty quốc doanh và dần dần mở cửa thị trường cho các công ty mới có vốn trong nước, thậm chí cả của nước ngoài, cạnh tranh với nhau, mặc dù có sự phản đổi của công đoàn và một bộ phận quần chúng. Hiện nay, các quy định
37
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
của Tổ chức Thương mại thế giới và sức Ðp của Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy các nước đang thực hiện chế độ thuế quan bảo hộ và nền kinh tế chỉ huy như Nhật Bản, Indonesia, Đài Loan hay Hàn Quốc, giảm nhẹ chính sách cấp giấy phép và mở cửa thị trường độc quyền cho các công ty mới trong nước và nước ngoài cạnh tranh.
Tóm lại, sự tìm hiểu khái quát về thị trường bảo hiểm, đặc điểm của thị trường bảo hiểm cũng như lịch sử ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới sẽ cho chóng ta cái nhìn khái quát về thị trường bảo hiểm. Hơn nữa trong bối cảnh phát triển thị trường bảo hiểm thế giới và kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm của một số nước trên thế giới sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn và đánh giá chính xác hơn tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam và có thể đưa ra những giải pháp phát triển thị trường ở những chương sau.
38
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Chương II
tình hình thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm qua
I. Đánh giá tình hình phát triển thị trường bảo hiểm Việt NamĐứng trước nhu cầu đổi mới về nền kinh tế nói chung và hoạt động
bảo hiểm nói riêng, để bảo hiểm thương mại phát triển hơn, ngày 18/12/1993 Nhà nước ta ban hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, cho phép các thành phần kinh tế khác và các nhà đầu tư nước ngoài được phép kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, đặt dấu mốc quan trọng cho sự hình thành thị trường bảo hiểm ở Việt Nam với sự đa dạng hóa về lĩnh vực hoạt động và sở hữu. Năm 1995, sau khi Nghị định 100/CP được ban hành 1 năm, các công ty bảo hiểm khác ngoài hệ thống Bảo Việt lần lượt ra đời. Trước tiên là công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam, Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng, Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex và năm sau là Công ty bảo hiểm Dầu khí và Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế Việt Nam ra đời. Năm 1995 có thể được coi là năm khởi đầu thật sự của thị trường bảo hiểm Việt Nam với đầy đủ ý nghĩa của từ đó.
Sù ra đời của một loạt các công ty bảo hiểm mới đã thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển một cách mạnh mẽ, cũng đồng thời với việc người có nhu cầu bảo hiểm có sự lựa chọn doanh nghiệp phục vụ cho mình, dẫu ban đầu chỉ là sự lựa chọn về sản phẩm và mức phí. Ngay trong năm 1995, doanh thu phí bảo hiểm đã tăng trên 30%. Mặc dù mức tăng trưởng chậm hơn so với trước đó (những năm 1992, 1994, 1994 mức tăng trưởng bình quân 55%/năm) nhưng trong bối cảnh có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động, thị trường cạnh tranh thì đó là mức tăng trưởng cao. Bên cạnh đó, với sự ra đời
39
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
của Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia, phí bảo hiểm giữ lại ở trong nước và doanh thu nhận tái bảo hiểm ở nước ngoài cũng tăng lên.
Tháng 8/1996, thêm một bước phát triển mới của thị trường bảo hiểm Việt Nam với việc Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam đưa ra thị trường những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của một nhánh mới trong ngành kinh doanh bảo hiểm - nhánh bảo hiểm Nhân thọ.
Sù ra đời của Công ty liên doanh bảo hiểm Liên hiệp UIC, tiếp theo là Công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài Chinfon Manulife (nay là Manulife), Prudential, rồi đến công ty bảo hiểm cũng 100% vốn nước ngoài nhưng trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Allianz, Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Óc, liên doanh bảo hiểm trong lĩnh vực nhân thọ Bảo Minh -CMG rồi Groupama là một bước chuyển hết sức mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm Nhân thọ và Phi nhân thọ. Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm được cấp giấy phép tính đến năm 2002 đã lên tới 18 công ty, trong đó có 2 công ty chưa khai trương (không kể 2 công ty môi giới bảo hiểm).
Theo thành phần kinh tế thì có 3 công ty bảo hiểm sở hữu Nhà nước, 3 công ty bảo hiểm cổ phần, 4 công ty 100% vốn nước ngoài và 7 công ty bảo hiểm liên doanh, trong đó có 4 công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Sự góp mặt của các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp bảo hiểm một bên là đối tác Việt Nam và một bên là đối tác từ các nước có nền tài chính và dịch vụ phát triển, đã tạo cho thị trường bảo hiểm Việt Nam một sắc thái mới, diện mạo mới, năng động hơn, cạnh tranh đã là động lực thúc đẩy sự năng động của mọi công ty; đôi lúc, sự cạnh tranh trong một số lĩnh vực lên tới đỉnh cao và không khoan nhượng.
Nhưng đó cũng là đặc điểm của thị trường mới, và đây cũng là bối cảnh cần có sự ra đời của Hiệp hội các nhà bảo hiểm Việt Nam. Ngày 03/5/1999 Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ đã có quyết định phê duyệt Điều lệ của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (Hội nghề nghiệp), cầu nối giữa các doanh nghiệp Hội viên với nhau, giữa các doanh nghiệp hội viên với cơ quan quản lý của Nhà nước về bảo hiểm, tiếng nói đại diện của các doanh nghiệp bảo hiểm với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Công nhận sự cần thiết phối
40
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
hợp hành động vì một ngành dịch vụ phát triển lành mạnh, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã lấy ngày 3/5 làm ngày hội truyền thống hàng năm của những người làm bảo hiểm tại Việt Nam.
Chỉ trong vòng 8 năm, từ năm 1995 tới năm 2002, doanh thu phí bảo hiểm Phi nhân thọ tăng gần 6 lần, đạt 3.062 tỉ đồng. Nếu như doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ năm đầu tiên (1996) chỉ là gần mét tỉ đồng thì tới cuối năm 2002, doanh thu bảo hiểm nhân thọ của toàn thị trường đã đạt 4.645 tỉ đồng, đã có gần 3 triệu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có hiệu lực, trên 15.000 khách hàng đã nhận những khoản tiền bảo hiểm nhân thọ đầu tiên với số tiền bảo hiểm gần 200 tỉ đồng chủ yếu từ Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam. Đây là minh chứng cho sù thành công trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ của các nhà bảo hiểm Việt Nam.
Thời gian hình thành một thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa dài, nhưng những đóng góp của ngành bảo hiểm cho nền kinh tế xã hội rất đáng ghi nhận: Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, việc các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các loại hình bảo hiểm đầu tư - kỹ thuật, góp phần không nhỏ vào việc gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, đổi mới và phát triển nền kinh tế, đưa nước ta từng bước thoát khỏi khủng hoảng.
Hầu hết, các công trình xây dựng trọng điểm như các nhà máy điện, xi măng, cầu cống, đường sá, những tài sản có giá trị lớn như các công trình thăm dò khai thác dầu khí, máy bay, tàu biển, kho tàng, bến bãi, trị giá hàng trăm tỉ Đôla đã được bảo hiểm tại Việt Nam.
Mỗi năm, có gần 15 triệu học sinh được bảo hiểm tai nạn, trên 20 triệu lượt người tham gia bảo hiểm tai nạn hành khách, tai nạn người ngồi trên xe, tai nạn khách du lịch và các loại hình bảo hiểm con người khác.
Với khả năng tài chính của Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm, khả năng giữ lại của thị trường trong nước ngày càng được nâng lên, tiết kiệm được một khoản ngoại tệ không nhỏ cho đất nước.
Mỗi năm, trung bình cách doanh nghiệp bảo hiểm đã chi 1.200 tỉ để bồi thường cho các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm không may bị thiên tai, tai nạn bất ngờ gây thiệt hại. Nhiều tổ chức, đơn vị nếu không nhận được
41
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
tiền bồi thường bảo hiểm sẽ lâm vào tình trạng phá sản, thua lỗ hoặc sa sút. Nhiều vụ bồi thường lớn trị giá hàng chục tỉ đồng như việc bồi thường cho ngư dân các tỉnh phía Nam bị thiệt hại trong cơn bão Linda 52 tỉ đồng; vụ bồi thường tổn thất máy bay của hãng Hàng không quốc gia Việt Nam tại Campuchia; vụ bồi thường tổn thất của các hãng thăm dò và khai thác dầu khí, tổn thất đắm tàu Lục Nam 1,0 triệu Đôla, cháy tàu Phú Xuân 3,3 triệu Đôla, tổn thất hàng hóa của các công ty XNK hàng hóa trên tàu Brilliant trị giá 8,1 triệu Đôla, Fidelity 1,4 triệu Đôla, cháy kho xăng B12. Mỗi năm có hàng triệu người tham gia bảo hiểm tai nạn con người không may bị tai nạn đã nhân tiền bảo hiểm từ các doanh nghiệp bảo hiểm.
Mặc dù đặc thù của bảo hiểm phi nhân thọ là phí bảo hiểm nhỏ, chi dùng bồi thường thường xuyên, nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn đầu tư trở lại cho nền kinh tế trung bình 2.000 tỉ mỗi năm trong 5 năm qua.
Kết quả các hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ không chỉ dừng lại ở số lượng người, tài sản và trách nhiệm được bảo hiểm mà chính là sự ổn định về sản xuất kinh doanh mà hoạt động này mang lại cho đời sống kinh tế, xã hội. Trong rất nhiều trường hợp, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã trở thành lá chắn về kinh tế cho các tổ chức đơn vị, giúp cho ngân sách không bị động, không phải chi hoặc giảm chi những khoản bất ngờ như trong các trường hợp lũ lụt trên diện rộng. Việc phát triển các loại hình bảo hiểm cũng thu hút được 15.392 lao động trong lĩnh vực này trong đó có 4.742 cán bộ nhân viên và 10.548 đại lý chuyên nghiệp có thu nhập ổn định.
Đối với hoạt động bảo hiểm nhân thọ, chỉ trong mét thời gian rất ngắn hoạt động bảo hiểm nhân thọ được đánh giá là phát triển nhanh tại thị trường Việt Nam. Có thể nói đây là một lĩnh vực hoạt động tạo ra thãi quen mới trong dân cư - thói quen kế hoạch hóa tài chính dài hạn của mỗi gia đình, là một kênh huy động vốn dài hạn để đầu tư trở lại cho nền kinh tế rất có hiệu quả, bên cạnh các hình thức tiết kiệm khác tại Việt Nam. Nếu nhìn vào mức thu nhập bình quân tính theo đầu người ở một số tỉnh, đặc biệt là các tỉnh miền núi, không ai có thể nghĩ rằng bảo hiểm Nhân thọ có thể triển khai ở những khu vực này. Nhưng với những sản phẩm bảo hiểm phù hợp, phương thức khai thác và thu phí bảo hiểm thích ứng, các doanh nghiệp bảo hiểm
42
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
nhân thọ đã thành công. Năm 2002, gần 6000 tỉ đồng đã được đầu tư trở lại cho nền kinh tế từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ, làm cho ngành kinh doanh bảo hiểm trở thành một tác nhân quan trọng của việc hình thành và phát triển của thị trường vốn ở Việt Nam.
Một điểm không kém phần quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với xã hội đó là chỉ trong một thời gian rất ngắn, số việc làm mà bảo hiểm nhân thọ tạo ra lên tới trên 74.494 người, trong đó trên 70.568 đại lý chuyên nghiệp, có hàng nghìn người đại lý giỏi có thu nhập trên 10 triệu đồng/tháng. Đay là đóng góp hữu hiệu của ngành bảo hiểm trong bối cảnh số lượng người chưa có việc làm ở nước ta đang có xu hướng tăng lên. Với sự phát triển đó, nghề tư vấn bảo hiểm có tên trong danh mục nghề nghiệp ở nước ta.
Những đóng góp của doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ dừng lại ở công tác bảo hiểm, đóng góp của doanh nghiệp bảo hiểm cho ngân sách không ngừng tăng lên. Nếu như năm 1995 đóng góp của các doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ là 85 tỉ thì tới năm 2002 đã là 391,852 tỉ.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Nhiều tỉ đồng được các doanh nghiệp bảo hiểm cùng Bộ giao thông vận tải xây dựng các đường lánh nạn, đường phòng hộ trên các đèo dốc cao, ủng hộ đồng bào lũ lụt, người nghèo; lập các quỹ học bổng dành cho học sinh, nuôi dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Bảo hiểm thương mại đã trở thành một ngành độc lập có những đóng góp nhất định cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cũng chỉ trong một khoảng thời gian không dài, tỉ trọng doanh thu phí bảo hiểm trong GDP đã từ 0,3% GDP - năm 1995 tăng lên gần 1,4% năm 2002 (các nước trong khu vực - không kể Campuchia và Lào, khoảng 2,5% - 3,3% GDP). Những thành công bước đầu của ngành bảo hiểm Việt Nam, một mặt do bước đi mạnh mẽ trong mở cửa đổi mới của Chính phủ Việt Nam, mặt khác do sự năng động sáng tạo của các doanh nghiệp và những người làm bảo hiểm, còn có sự ủng hộ, tin tưởng của các tầng lớp dân cư, sự cải thiện đáng kể môi trường pháp lý trong những năm qua. Các sản phẩm bảo hiểm trở nên đa dạng hơn, phù hợp với sức mua và nhu cầu bảo hiểm của các tổ chức kinh tÕ và dân cư. Trong lĩnh vực phi nhân thọ, gần 100 sản phẩm bảo hiểm cho
43
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
cả 3 loại hình bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Trong bảo hiểm nhân thọ có trên 10 loại sản phẩm chính và nhiều sản phẩm bổ trợ phục vụ các nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm Nhân Thọ và bảo hiểm phi nhân thọ tuy cùng chung nghiệp vụ bảo hiểm song chúng lại có sự khác biệt khá lớn Bảo hiểm Nhân Thọ chủ yếu mang tính chất tiết kiệm - tích lũy còn Bảo hiểm Phi nhân thọ lại hoàn toàn không. Trong bảo hiểm phi nhân thọ khi người tham gia đóng bảo hiểm và đóng phí thì chỉ khi có rủi ro nằm trong những điều kiện được bảo hiểm thì mới được bồi thường, còn nếu không họ sẽ không nhận được số phí đó. Về bản chất chúng khác hẳn nhau. Do đó các hoạt động kinh doanh và khai thác bảo hiểm của mỗi lĩnh vực cũng khác nhau. Người mua bảo hiểm và các công ty bảo hiểm cũng khác nhau. Chẳng thế mà trong luật của rất nhiều nước kể cả những nước phát triển không cho phép một công ty được kinh doanh cả trong hai lĩnh vực Bảo hiÓm Nhân Thọ và phi nhân thọ vì các chế độ giám sát tài chính và luật quy định khác nhau như Pháp, Đức. Ngay trong luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam 2001 cũng không cho phép một công ty hoạt động trong cả 2 lĩnh vực. Cũng chính vì sự khác biệt này nên dưới đây tôi xin phân tích tình hình của từng thị trường.
1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ.1.1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ từ khi thành lập đến 2002Tháng 8/1996, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được Bảo Việt
phát hành, đánh dấu sự ra đời của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam kể từ ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. Nhìn một cách tổng quan, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam thời gian qua có những điểm nổi bật sau:
+ Thị trường sôi động, vận động ngày một "trơn tru", cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Cạnh tranh có nhiều tác động tích cực, tuy nhiên những hạn chế cũng đã xuất hiện. Đến nay. các doanh nghiệp vẫn đặt trọng tâm vào mục tiêu tăng trưởng, mở rộng thị trường.
+ Thị trường đạt tốc độ tăng trưởng "siêu mã", mạng lưới kinh doanh đã phủ kín toàn quốc, lực lượng đại lý, cán bộ ngày càng đông đảo, mô hình
44
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
tổ chức và quản lý, các quy trình nghiệp vụ ngày một hoàn thiện, chất lượng khai thác bảo hiểm từng bước được nâng lên.
+ Sản phẩm ngày càng đa dạng, dịch vụ khách hàng phong phú, chất lượng dịch vụ bảo hiểm nhân thọ ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, đến nay thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vẫn là thị trường "ưa tiết kiệm" với tỉ trọng sản phẩm mang tính tiết kiệm chiếm phần lớn.
+ Thông qua hoạt động của mình, các doanh nghiệp góp phần tạo lập cuộc sống ổn định, đầy đủ, huy động và cung cấp nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao vai trò, uy tín và hình ảnh của ngành.
+ Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, đại lý và coi việc, đây là giải pháp chiến lược để nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh.
+ Nhận thức của công chúng về bảo hiểm nhân thọ ngày càng tăng, tập quán bảo hiểm nhân thọ dần dần được hình thành; các phương tiện thông tin đại chúng đóng góp vai trò khá tích cực trong thông tin và giáo dục thị trường, tuy nhiên đôi khi lại có tác động ngược lại.
+ Mặc dù có những điểm khác biệt về loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế, xuất xứ, kinh nghiệm... nhưng các doanh nghiệp ngày càng tiến tới sự tương đồng trên nhiều mặt, như là hệ quả của việc học hỏi lẫn nhau và nỗ lực thích ứng với thị trường Việt Nam.
+ Môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, từng bước thiết lập và duy trì thị trường cạnh tranh lành mạnh, tăng cường quản lý nhà nước. Nhà nước cũng đã có những chính sách ưu đãi, thúc đẩy thị trường phát triển.
Sau đây chúng ta cùng xem xét kỹ hơn những điểm nêu trên.1. Thị trường sôi động, cạnh tranh ngày càng gay gắt và toàn diện:Từ năm 1996 đến giữa năm 1999 chỉ có Bảo Việt "một mình một
chợ", đến nay trên thị trường đã có 5 doanh nghiệp: Bảo Việt, Bảo Minh -
CMG, Manulife, Prudential và AIA. Từ khi có sự góp mặt thêm của 4 doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - những tên tuổi lớn, đã có kinh nghiệm
45
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fhoạt động ở nước ngoài kèm theo cơ chế tài chính, thù lao linh hoạt, thị
trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã thực sự bước vào một giai đoạn mới -
giai đoạn sôi động, cạnh tranh toàn diện và phát triển với tốc độ cao. Tình
hình cạnh tranh càng gay gắt có thể thấy rõ ở các thị trường lớn như Hà Nội,
TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... Sự cạnh tranh thể hiện trên tất cả
các mặt như thu hút khách hàng, thu hút đại lý (qua chính sách thù lao, sản
phẩm, dịch vụ, địa bàn hoạt động, quảng cáo, khuyến mãi... Nếu như khi mới
bắt đầu hoạt động, Prudential, AIA, Manulife chỉ tập trung triển khai ở hai
"đại bản doanh" là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và chủ yếu hướng vào các
khách hàng có thu nhập trung bình khá trở lên, thì đến nay các công ty này đã
tích cực mở rộng phạm vi hoạt động sang các địa bàn còn lại và hướng tới cả
những khách hàng có thu nhập trung bình. Đến thời điểm này, các doanh
nghiệp đều lấy mục tiêu tăng trưởng, mở rộng thị trường là mục tiêu hàng
đầu.
Xét về mặt tích cực, cạnh tranh thực sự trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường phát triển. Chính nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của các doanh nghiệp, đã giúp dân chúng nhận thức rõ hơn về BHNT, giúp đưa dịch vụ BHNT đến tận nhà khách hàng. Cũng nhờ cạnh tranh, các doanh nghiệp đã nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, chất lượng khai thác, đa dạng hóa sản phẩm, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện điÒu khoản, quy trình nghiệp vụ (bảo hiểm tạm thời, đánh giá rủi ro...), bổ sung các dịch vụ gia tăng giá trị (cho vay phí tự động, cho vay theo hợp đồng, khôi phục hiệu lực hoạt động...), hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động, trong đó đáng chú ý là mô hình đại lý, chế độ thù lao cho đại lý theo hướng hiệu quả hơn, phù hợp hơn với đặc điểm của kinh doanh BHNT. Cạnh tranh cùng thôi thúc các doanh nghiệp tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh như ứng dụng tin học, đa dạng các kênh phân phối (dưới đây sẽ nêu rõ hơn). Thời gian qua, các doanh nghiệp BHNT rất tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào hầu hết các công việc như phát hành và quản lý hợp đồng, in hóa đơn, kế toán, thống kê, quảng cáo giới thiệu sản phẩm... Tuy vậy, hiện tượng cạnh tranh thiếu
46
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
lành mạnh (như tung tin thất thiệt), kinh doanh theo kiểu "chộp giật" đã xuất hiện, gây tác động xấu đến thị trường, làm tổn hại đến hình ảnh của ngành mặc dù các doanh nghiệp đã đạt được thỏa thuận hợp động tác chung tại Bản ghi nhí chung ngày 10/7/2000 nhằm thiết lập một thị trường cạnh tranh lành mạnh.
Hình 1: Thị phần bảo hiÓm nhân thọ qua các năm
(theo doanh thu phí)
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
47
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
DÉn đầu trên thị trường hiện nay vẫn là Bảo Việt - doanh nghiệp nhà
nước và là doanh nghiệp duy nhất không có vốn đầu tư nước ngoài với thị
phần trên 54%, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đạt 64,8% trong
năm 2001 và cũng là doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới khai thác phủ khắp
các tỉnh thành. Các doanh nghiệp khác cũng đã đạt được những kết quả rất
tốt, đặc biệt Prudential đã đạt được kết quả khá ngoạn mục - chỉ trong vòng
hơn 2 năm Prudential đã vươn lên vị trí thứ 2 với gần 30% thị phần, trở thành
một đối trọng lớn đối với Bảo Việt trên thị trường. AIA, Manulife, Bảo
Minh-CMG trong năm 2001 còng gia tăng thị phần, tuy nhiên tính đến thời
điểm này thì các công ty này còn chiếm thị trường khá nhỏ. Với đặc điểm
khách hàng chủ yếu là các cá nhân, số lượng các doanh nghiệp ngày càng
tăng, có thể nhận định được rằng trong thời gian tới, thị trường BHNT Việt
Nam sẽ thêm sôi động, cạnh tranh thêm sâu sắc trên tất cả các mặt theo
hướng có lợi cho khách hàng, đồng thời cùng chứa đựng nhiều yếu tố bất
ngờ.
Sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường BHNT thời gian qua còn tạo ra
sự cạnh tranh liên ngành, trong đó rõ rệt nhất là cạnh tranh giữa hệ thống
Ngân hàng, bưu điện với ngành BHNT trong việc thu hút tiền vốn nhàn rỗi từ
công chúng. Gần đây, ngành Ngân hàng (điển hình như Ngân hàng đầu tư và
Phát triển, Ngân hàng Sài Gòn Thương tín...) đã đưa ra những công cụ cạnh
tranh trực tiếp với BHNT như tiết kiệm trả góp (cho phép gửi tiền tiết kiệm
định kỳ với những khoản tiền nhỏ), tiết kiệm dài hạn (thời hạn tối đa có thể
tới 15 năm).
48
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Mặc dù là lĩnh vực kinh doanh chậm có lãi (đến thời điểm này tất cả
các doanh nghiệp BHNT Việt Nam đều chưa có lãi) nhưng BHNT là một lĩnh
vực kinh doanh màu mỡ và bền vững, hấp dẫn các nhà đầu tư nhất là các nhà
đầu tư nước ngoài. Có thể nhận định rằng, cùng với chính sách hội nhập của
Việt Nam cũng như việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, trong thời
gian tới chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều gương mặt mới trên thị trường BHNT
Việt Nam, làm cho thị trường thêm sôi động. Việc tăng vốn của các doanh
nghiệp đang hoạt động trên thị trường như Prudential cũng khẳng định điều này.
Mặc dù mới có hơn 7 năm nhưng thị trường BHNT Việt Nam đã đạt
được những kÕt quả khá cao. Cụ thể:
+ Đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu phí và số hợp đồng:
Nếu như năm 1996 Bảo Việt mới triển khai thí điểm BHNT tại một số
tỉnh thành và đạt được kết quả khá khiêm tốn với trên 1.200 hợp đồng và
doanh thu phí chưa đến 1 tỉ đồng thì đến năm 2000 doanh thu phí BHNT toàn
thị trường đã đạt gần 1.300 tỉ đồng và gần mét triệu hợp đồng có hiệu lực.
Đặc biệt, năm 2001 là năm đáng ghi nhớ của thị trường BHNT Việt Nam với
doanh thu phí đạt 2.786 tỉ đồng (tương đương 0,55% GDP), vượt khá xa so
với tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của toàn thị trường, số hợp đồng có
hiệu lực đến cuối năm 2001 đạt khoảng 1,6 triệu (tương đương 2% dân số).
So với năm 2000, tốc độ tăng doanh thu phí năm 2001 đạt 115,6%, trong đó
tốc độ tăng doanh thu phí của các hợp đồng mới đạt trên 89%. Nếu tính từ khi
mới bắt đầu triển khai, tốc độ tăng doanh thu BHNT bình quân trong những
năm qua đạt trên 250%/năm; còn nếu tính từ năm 1999 - năm bắt đầu có sự
gia nhập của các doanh nghiệp BHNT khác ngoài Bảo Việt, tốc độ tăng
doanh thu phí bình quân đạt trên 135%/năm (cao hơn tốc độ tăng GDP rất
nhiều). Đây là tốc độ tăng trưởng rất cao, phản ánh sự trưởng thành nhanh
chóng của thị trường BHNT Việt Nam. Thêm vào đó, chất lượng khai thác
cũng được nâng lên đáng kể, biểu hiện qua số tiền bảo hiểm trung bình/hợp
đồng, số phí bảo hiểm bình quân/hợp đồng ngày càng cao, công tác đánh giá
49
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Frủi ro được chú trọng hơn (thông qua việc áp dụng đánh giá rủi ro sức khỏe,
tài chính, mục đích tham gia, quyền lợi có thể được bảo hiểm), tỉ lệ hủy hợp
đồng của thị trường dưới 6%/năm (thấp hơn rất nhiều so với các thị trường
khác).
+ Thiết lập được mạng lưới kinh doanh phủ khắp cả nước, mô hình tổ
chức và quản lý ngày càng hoàn thiện.
+ Sản phẩm đa dạng, dịch vụ phong phú, khách hàng thuộc nhiều tầng lớp.
Khi Bảo Việt triển khai thí điểm BHNT, chỉ có 3 sản phẩm được đưa
ra thị trường là BHNT Hỗn hợp thời hạn 5 năm, thời hạn 10 năm và An sinh
giáo dục. Cùng với sự phát triển của thị trường, số lượng sản phẩm đưa ra thị
trường đã tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng.
Hình 2. Doanh thu phí BHNT toàn thị trường qua các năm (tỉ đồng)
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tốc độ tăng
doanh thu phí (So
với năm trước)
1.742,1% 1.060,0% 142,4% 162,6% 115,6% 89,7%
[Nguồn: Báo cáo củaHiệp hội bảo hiểm Việt Nam]
Tác động của thị trường bảo hiểm đến các thị trường khác:
Trên thị trường vốn, BHNT đã tỏ ra là một kênh huy động vốn rất hiệu
quả. Kết quả triển khai thời gian qua cho thấy, khách hàng tham gia BHNT rất
đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, nghề nghiệp và thu nhập rất khác nhau. Xét theo
yếu tố thu nhập, có khách hàng thuộc tầng lớp có thu nhập cao, thu nhập khá,
50
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fthu nhập trung bình, do vậy có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm chỉ 5 triệu
đồng nhưng cũng có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm tới vài tỉ đồng. Nếu
xét theo nghề nghiệp, những người làm công ăn lương, kinh doanh (có thu
nhập ổn định) chiếm phần lớn, khách hàng là nông dân còn chiếm tỉ trọng khá
nhỏ.
+ Tạo kênh huy động và cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
Với chức năng gom nhặt và tập trung những khoản tiền nhỏ, nhàn rỗi
nằm rải rác trong dân cư, BHNT đã hình thành một quỹ đầu tư lớn, cung cấp
vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ đắc lực
cho
công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội. So với ngành Ngân hàng, BHNT Việt Nam tuy mới có thâm niên hoạt
động còn rất ngắn nhưng đã thực sự trở thành một kênh huy động và phân
phối vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Với số tài sản quản lý được tích lũy (dưới
hình thức quỹ dự phòng) ngày càng lớn, cho phép các doanh nghiệp BHNT
thực hiện những khoản đầu tư lớn dưới các hình thức như góp vốn liên
doanh, mua cổ phiếu, cho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín
phiếu kho bạc nhà nước, gửi tiết kiệm Ngân hàng... lấy năm 2001 làm ví dụ,
như đã nêu trên, tổng số phí BHNT toàn thị trường đạt 2.786 tỉ đồng, chiến
0,55% GDP và như vậy tính đến thời điểm này, tổng số vốn mà các doanh
nghiệp BHNT có thể cung cấp cho nền kinh tế lên tới trên 4.000 tỉ đồng (chủ
yếu là quỹ dự phòng được tích tụ qua các năm). Hoạt động đầu tư tài chính
cũng trở thành xương sống nâng đỡ cho hoạt động kinh doanh BHNT, tạo
tiền đề và điều kiện để các doanh nghiệp BHNT tham gia vào thị trường tài
chính, tạo lập các quỹ đầu tư. Trên thực tế, các doanh nghiệp BHNT đã tham
gia vào rất nhiều dự án đầu tư, là cổ đông lớn trong nhiều công ty cổ phần
đồng thời cũng là thành viên thường xuyên trong các cuộc đấu thầu tín phiếu,
trái phiếu Kho bạc và cũng là những "người chơi" lớn trên thị trường chứng
51
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fkhoán. Năm 1999, Bảo Việt thành lập Công ty Chứng khoán Bảo Việt - công
ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam, tạo tiền đề để trở thành tập đoàn bảo
hiểm - tài chính tổng hợp hàng đầu ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy, cho
đến nay thị trường đầu tư của Việt Nam mới trong giai đoạn hình thành, còn
thiếu các công cụ đầu tư, nhất là các công cụ đầu tư dài hạn, do vậy hạn chế
rất lớn hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Đối với thị trường tài chính, thị trường bảo hiểm đang dần xâm nhập
và ngày càng có những sự liên kết chặt chẽ hơn. Để đưa sản phẩm BHNT ra
thị trường, đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đều sử dụng kênh phân phối
truyền thống - đội ngũ đại lý chuyên nghiệp. Gần đây, các doanh nghiệp
BHNT đã bắt đầu hợp tác với Ngân hàng trong khai thác và thu phí bảo hiểm,
điển hình là sự hợp tác giữa Bảo Việt và Ngân hàng công thương, Ngân hàng
Á châu (ACB), giữa AIA và Ngân hàng Hongkong & Thượng Hải (HSBC),
Prudential với ACB. Đến nay, sự hợp tác này đã thu được những kết quả nhất
định. Sự hợp tác bước đầu giữa Ngân hàng và BHNT còng cho thấy dấu hiệu
của sự thâm nhập lẫn nhau giữa hai ngành đồng thời cũng là tín hiệu báo hiệu
sự hình thành Ngân hàng bảo hiểm (bancas surance) ở Việt Nam trong tương
lai không xa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp BHNT cũng đã có ý tưởng về
internet, với việc giới thiệu sản phẩm qua mạng.
Đối với toàn xã hội , thị trường bảo hiểm góp phần tạo lập cuộc sống
ổn định, thịnh vượng, nâng cao nhận thức về BHNT. Qua việc giải quyết đầy
đủ và kịp thời quyền lợi của khách hàng, các doanh nghiệp BHNT đã giúp
khách hàng chẳng may gặp rủi ro nhanh chóng khắc phục rủi ro, ổn định cuộc
sống đồng thời cũng giúp cho khách hàng thực hiện tiết kiệm dài hạn và đều
đặn nhằm đạt những kế hoạch đã đề ra, tạo lập một cuộc sống đầy đủ về tài
chính, hạnh phúc, thịnh vượng. Đây cũng chính là một trong những lý do cơ
bản giúp dân chúng ngày càng hiểu rõ hơn về vai trò, ý nghĩa của BHNt, từng
bước hình thành tập quán tham gia BHNT ở Việt Nam và cũng là một trong
những lý do cơ bản đem lại sự thành công của thị trường thời gian qua. Đồng
52
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fthời, với cơ chế bù đắp tài chính, khắc phục hậu quả của rủi ro, hỗ trợ tài
chính khi không còn khả năng lao động (qua các sản phẩm hưu trí), chúng ta
có thể nhận định một cách lôgic rằng, BHNT đã, đang và sẽ góp phần tích
cực xóa bỏ bao cấp, giảm nhẹ các khoản trợ cấp của nhà nước, của xã hội đối
với các cá nhân gặp rủi ro đồng thời thực hiện xã hội hóa các đảm bảo xã hội.
Thêm vào đó, các doanh nghiệp BHNT cũng rất tích cực tham gia vào các
hoạt động từ thiện, tài trợ các chương trình văn hóa thể thao, tư vấn y tế, hỗ
trợ đào tạo, an toàn giao thông và các hoạt động xã hội khác, góp phần xây
dựng một xã hội an bình, thịnh vượng, nâng cao uy tín và hình ảnh của ngành
BHNT.
Thị trường lao động có lẽ là thị trường nhận được sự tác động lớn
nhất. Thời gian qua ngành BHNT đã thu hút, tạo công ăn việc làm cho một
lực lượng đông đảo lao động dưới hình thức đại lý chuyên nghiệp, đại lý bán
chuyên nghiệp và cộng tác viên. Đến cuối năm 2001, tổng số đại lý chuyên
nghiệp của toàn thị trường đã tới con sè 40.000 người (trong đó, Bảo Việt có
trên 12.000 người). Với những đặc trưng nổi bật: hoàn toàn độc lập, tự chủ về
thời gian, đòi hỏi tính tự giác cao, hưởng thù lao theo kết quả hoạt động, tự
hạch toán độc lập (có thể coi mỗi đại lý là một "doanh nghiệp", trên thực tế
có nhiều đại lý là một "doanh nghiệp" thực thụ), không yêu cầu quá cao về
bằng cấp, nghề đại lý (tư vấn) BHNT đã thực sự trở thành một nghề có tính
chuyên nghiệp, được xã hội thừa nhận và là nghề có thu nhập khá cao ở Việt
Nam hiện nay. Đồng thời, BHNT cũng đã tạo ra chỗ làm việc cho hàng nghìn
người với tư cách là cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp BHNT, ngoài ra
còn tạo thêm việc làm cho các ngành khác có liên quan như công nghệ thông
tin, Ngân hàng, in Ên, quảng cáo...
1.2. Thị trường bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2003
Sự phát triển kinh tế và sự ổn định về chính trị xã hội đã tạo những
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh Bảo hiểm phát triển.
53
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm thị trường bảo hiểm nhân thọ
nước ta vẫn hoạt động khá sôi động và tiếp tục phát triển theo chiều hướng
tốt. Toàn thị trường đạt tốc độ tăng trưởng 46% về doanh thu phí bảo hiểm.
Các doanh nghiệp đều có tốc độ tăng dương về doanh thu phí bảo hiểm so với
cùng kỳ năm trước. Dẫn đầu về doanh thu là Bảo Việt với 1.249.234 triệu
đồng, tiếp đến là Prudential với doanh thu phí đạt 1.142.044 triệu đồng tăng
gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2002 (686.790 triệu đồng). Các công ty còn
lại cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt là Bảo Minh CMG là AIA với
tốc độ tăng trưởng lần lượt là 78,47% và 70,39%.
Về thị phần: Dẫn đầu thị trường vẫn là Bảo Việt chiếm 42,36% thị
trường (cùng kỳ năm 2002 là 48,42%) nhưng thị phần của công ty đang ngày
càng bị thu hẹp lại với sự lớn mạnh của Prudential và các công ty bảo hiểm
nhân thọ khác. Nếu như cùng kỳ 2002, thị phần của Prudential là 34,05% thì
năm nay thị phần của họ đã là 38,72%, kém đôi chút so với Bảo Việt.
Về số hợp đồng khai thác mới: toàn thị trường đạt tốc độ tăng trưởng
24,02%, nâng tổng số các hợp đồng khai thác mới của toàn thị trường lên gần
1.000.000 hợp đồng (chính xác là 933.425 hợp đồng). Prudential là doanh
nghiệp dẫn đầu thị trường với 440.261 hợp đồng tăng 35,63% so với cùng kỳ
năm trước, tiếp đến là Bảo Việt với 328.080 hợp đồng đạt tốc độ tăng 4,3%
so với cùng kỳ. Mặc dù số hợp đồng khai thác mới của AIA chỉ đạt có 71.351
hợp đồng nhưng vẫn là doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng hợp đồng khai
thác mới cao nhất với 100,68%, tiếp đến là Baominh CMG với 85,64% tương
đương với 28.987 hợp đồng. Manulife là doanh nghiệp có tốc độ tăng thấp
nhất 2,72%.
Về số các hợp đồng đang có hiệu lực: Bảo Việt với ưu thế là công ty
đầu tiên khai thác bảo hiểm nhân thọ trên thị trường Việt Nam đã đạt được vị
trí số một về số lượng các hợp đồng đang có hiệu lực, 4.698.320 hợp đồng
(chiếm 58,97% tổng số hợp đồng khai thác mới của toàn thị trường), tiếp đến
là Prudential với 1.696.790 hợp đồng, các doanh nghiệp khác như AIA, Bảo
54
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38FMinh CMG và Manulife 291.897 hợp đồng, AIA 222.242 hợp đồng, Bảo
Minh CMG 94.786 hợp đồng). Xét về tốc độ tăng trưởng, toàn thị trường đạt
tốc độ tăng trưởng 52,69%, nâng tổng số các hợp đồng đang có hiệu lực của
toàn thị trường lên 7 triệu hợp đồng, trong đó AIA có tốc độ tăng trưởng cao
nhất 88,09% tiếp đến là Prudential 85,98%; Bảo Minh CMG 84,74%,
Manulife 53,89% và cuối cùng là Bảo Việt 41,7%).
Trên thị trường, tình hình cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt, các
công ty đang tích cực quảng bá cho hình ảnh của công ty mình thông qua việc
cải thiện dịch vụ mà mình cung cấp, tăng cường quảng cáo, hoạt động từ thiện,
hoạt động xã hội..., mở rộng thêm phạm vi hoạt động và mạng lưới phân phối
sản phẩm. Trên thị trường đã xuất hiện nhiều hình thức bán sản phẩm mới như
bán hàng thông qua các Ngân hàng (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Á
châu, Ngân hàng công thương, Ngân hàng HSBC...), bán hàng thông qua các
doanh nghiệp làm tổng đại lý, bán hàng qua mạng... Đến nay hầu hết các
doanh nghiệp đều có các trang Web riêng để giới thiệu về công ty mình.
Ngoài ra, các công ty đều có rất nhiều các hình thức ưu đãi dành cho
khách hàng của mình. Ví dụ Prudential, ngoài việc phát thẻ mua hàng giảm
giá Pru cad cho khách hàng, vào quý IV năm nay công ty đang có một
chương trình ưu đãi dành cho những khách hàng lớn (khách hàng ưu tiên).
Về kênh bán hàng truyền thống, trong 6 tháng đầu năm, số lượng đại
lý nhân thọ vẫn đang không ngừng tăng lên, đạt tốc độ tăng 57,94% so với
cùng kỳ 2002 đạt 82.534 đại lý, tuy nhiên kênh bán hàng truyền thống này
đang có xu hướng chững lại do tốc độ tăng trưởng đại lý mới không cao.
Trong 6 tháng đầu năm, toàn thị trường chỉ tuyển được 34.074 đại lý mới
nhưng số lượng đại lý này gần như chỉ đủ để bù đắp cho số đại lý thôi việc, vi
phạm quy chế... nên tổng số đại lý của toàn thị trường tăng không nhiều.
Để đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu phong phú đa dạng của khách
hàng, nhu cầu của từng bộ phận khách hàng, các công ty bảo hiểm nhân thọ
đang tiếp tục hoàn thiện các sản phẩm của mình và đưa ra các sản phẩm mới
55
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fnhư An bình hưu trí của Bảo Việt, Phú hoàn mỹ, Hỗ trợ viện phí và phẫu
thuật và Từ bỏ thu phí người hôn phối của Prudential, các sản phẩm đang
ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, chia sẻ các rủi ro với
khách hàng ví dụ như sản phẩm Hỗ trợ viện phí và phẫu thuật chẳng hạn, sản
phẩm này đã mang lại cho khách hàng sự trợ giúp về tài chính khi phải nằm
viện; ngoài ra, còn có sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp với thời hạn 5 năm của
AIA và sản phẩm bảo hiểm tử kỳ có hoàn phí và giá trị hoàn lại, bảo hiểm bổ
trợ quyền lợi các bệnh nghiêm trọng của Manulife.
1.3. Bảo hiểm phi nhân thọ.
1.3.1. Tình hình thị trường trong thời gian gần đây
Theo số liệu thống kê của Cơ quan Thường trực Hiệp hội Bảo hiểm
Việt Nam, tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ khá khả
quan với tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt 1.892.331,04 triệu đồng, tăng
26,81% so với cùng kỳ 2002. Loại hình nghiệp vụ có tốc độ tăng trưởng cao
nhất là Bảo hiểm xe cơ giới nhờ việc ban hành Chế độ bảo hiểm bắt buộc
TNDS chủ xe cơ giới. Tổng doanh thu của loại hình bảo hiểm xe cơ giới 6
tháng đầu năm đạt 582.760,52 triệu đồng, tăng 75,16% do yêu cầu tăng phí
của Hội P&I thế giới; bảo hiểm con người cũng có tốc độ tăng trưởng khá
cao, 40,13%; Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đạt tốc độ tăng khá (23%
nhờ sự gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu). Nghiệp vụ bảo hiểm hàng không
suy giảm do ảnh hưởng của dịch SARS và tình hình bất ổn trên thế giới khi
xảy ra chiến tranh Iraq.
Về thị phần: Bảo Việt vẫn dẫn đầu thị trường với 42,19% thị phần,
tiếp đến là Bảo Minh với 24,94%, PJICO và PV Insurance là hai công ty đang
có tốc độ tăng trưởng cao nhất với thị phần lần lượt là 10,46% và 15,77% và
có tốc độ tăng trưởng cao nhất thị trường lần lượt là 104% và 82,27%.
Về bồi thường: Công ty Gropama là công ty có tỷ lệ bồi thường bảo
hiểm gốc cao nhất 98,04% do đặc thù của loại hình bảo hiểm nông nghiệp,
56
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fcòn các doanh nghiệp bảo hiểm khác đều có tỉ lệ bồi thường ở mức cho phép.
Xét về khía cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm, nghiệp vụ bảo hiểm con người có tỉ
lệ bồi thường cao nhất 62,8% và thấp nhất là nghiệp vụ bảo hiểm hàng không
0,89%, các nghiệp vụ bảo hiểm khác đều ở mức dưới 40%.
Tình hình cạnh tranh: Mặc dù đã có một số thỏa thuận đồng bảo
hiểm hay không tranh giành dịch vụ của nhau nhưng các doanh nghiệp vẫn
không nghiêm túc tuân thủ. Các hình thức cạnh tranh như hạ phí, mở rộng
điều kiện, điều khoản bảo hiểm quá mức cho phép, trái với thông lệ quốc tế
vẫn tiếp tục xảy ra. Mức phí áp dụng cho các đơn bảo hiểm kỹ thuật ở Việt
Nam thường thấp hơn 25 - 50% so với mức phí đang áp dụng cho các dự án
tương tự trên thế giới. Tình trạng trên gây khó khăn khi thu xếp tái bảo hiểm.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu và TNDS chủ tàu, các doanh nghiệp đã
đồng loạt tăng phí những mức tăng phí chưa đủ. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm
cháy, các doanh nghiệp đã bớt hạ phí bảo hiểm hơn trước do áp lực của thị
trường bảo hiểm thế giới tuy nhiên thỉnh thoảng ở những hạng mục bảo hiểm
nhỏ vẫn diễn ra tình hình hạ phí.
Về công tác khai thác nghiệp vụ: nói chung trước đây gần như các
doanh nghiệp phi nhân thọ Ýt quan tâm đến công tác quảng cáo, tiếp thị hình
ảnh công ty, nhưng dần đây do tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt nên
các doanh nghiệp đã quan tâm nhiều hơn ví dụ PJICO đã tổ chức chương
trình tuyên truyền cho bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới với nhiều giải thưởng
khuyến mãi có giá trị dành cho khách hàng mua bảo hiểm TNDS chủ xe cơ
giới của công ty. Công ty Allianz cũng đang triển khai một chiến dịch tuyên
truyền về bảo hiểm dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sau khi được Bộ
Tài chính phê chuẩn khai thác đối tượng khách hàng này.
Số liệu mới nhất của ngành bảo hiểm cho thấy mức tăng trưởng của
doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam là khả quan. Nếu chỉ tính 6
tháng đầu năm, thì năm 1999 tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam là
739 tỉ đồng, năm 2000 là 851 tỉ đồng, năm 2001 là 1.024 tỉ đồng, năm 2002
57
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Flà 1.441 tỉ đồng, năm 2003 là 1.859 tỉ đồng. Mức tăng trưởng của doanh thu
phí bảo hiểm phi nhân thọ trong thị trường 6 tháng đầu năm nay đạt 29% so
với cùng kỳ năm trước.(Nguồn: Hiệp Hội Bảo hiểm Việt Nam)
1.3.2.Tình hình thị trường của một số ngành bảo hiểm quan trọng
a.Thị trường bảo hiểm xe cơ giới.
Sự phát triển của thị trường bảo hiểm cũng Theo thống kê thì bảo
hiểm trách nhiệm xe cơ giới có mức tăng trưởng cao nhất, tới hơn 65%.
Nguyên nhân đơn giản là do nhà nước ra chế tài xử phát với các chủ xe
không có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới theo Nghị
định 15 và lực lượng cảnh sát giao thông tăng cường công tác kiểm tra để lập
lại trật tự an toàn giao thông tại các thành phố lớn trong cả nước. Xếp thứ hai
về mức độ tăng trưởng là bảo hiểm hàng hóa. Chỉ tính riêng nửa đầu năm
nay, Việt Nam đã nhập khẩu 12,15 tỉ USD, tăng 38,5% so với cùng kỳ 2002,
tập trung chủ yếu vào các mặt hàng như máy móc, thiết bị, xăng dầu và sắt
thép. Còn kim ngạch xuất khẩu đạt 9,775 tỉ USD, tăng gần 32,6%, chủ yếu ở
các mặt hàng như dệt may, gạo và thủy sản. Đứng thứ ba là bảo hiểm P&I
tăng 30% do yêu cầu tăng phí của các hội tương hỗ và gia tăng số trọng tải
của các tàu tham gia mua loại bảo hiểm này. Bảo hiểm cháy cũng tăng 20%.
Trong khi đó, một số loại hình nghiệp vụ có mức tăng trưởng cao
trong năm 2002 như bảo hiểm kỹ thuật chỉ tăng 4,5%, bảo hiểm thân tàu tăng
trưởng khoảng 3%. Riêng bảo hiểm dầu khí giảm 45% so với cùng kỳ năm
trước do không có hợp đồng thăm dò khai thác nào được triển khai, số lượng
giếng khoan giảm.
Một điều có thể nhận thấy trong thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
trong vòng từ đầu năm tới nay là sự cố gắng của các công ty bảo hiểm. Với
bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới, Bảo Việt và Bảo Minh là hai công ty đi
đầu trong việc tập trung đào tạo lực lượng khai thác,tư vấn và giám định bồi
thường để đáp ứng nhu cầu mua bảo hiểm tăng đột biến. Lượng đại lý được
58
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Ftuyển dụng thêm khá lớn để có thể đáp ứng yêu cầu của khách hàng mọi lúc
và mọi nơi.
Trong khi đó, PJICO dường như là công ty bảo hiểm phi nhân thọ đầu
tiên đã triển khai một chương trình tuyên truyền báo bảo hiểm cho xe ôtô trên
toàn quốc. Theo đó, công ty này khuyến khích các khách hàng mua bảo hiểm
thiệt hại vật chất cho xe ôtô. Kèm theo việc mua là chương trình khuyến mại
với nhiều giải thưởng có giá trị lớn như ôtô, xe máy, tivi, tủ lạnh. Trong khi
Bảo Việt đã triển khai tốt hệ thống cứu hộ ôtô của mình tại Hà Nôik,
Tp.HCM và một số nơi khác thì PJICO còng cho thành lập hệ thống cứu hộ
tại Hà Nội, Tp.HCM, Hải Phòng công ty này có thể cử các đội cứu hộ tới hỗ
trợ khách hàng trong trường hợp tai nạn ở trong bán kính 70km. Dịch vụ sửa
chữa xe của khách hàng cũng được cung cấp với việc hợp tác giữa công ty
này và các hãng xe hơi lớn như Honda, Toyota và Ford.
Một công ty mới nổi lên trong cạnh tranh là Allianz. Sau khi được bộ
tài chính cho phép bán bảo hiểm phi nhân thọ cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Việt Nam, công ty này đã tích cực huấn luyện các đại lý và tiếp cận
nhanh với khách hàng. Chương trình bảo hiểm trọn gói nhiều rủi ro do
Allianz thiết kế cho các khách hàng thuộc nhóm này cũng được nhiều khách
hàng hưởng ứng và tốc độ phát triển nhiều khách hàng hưởng ứng và tốc độ
phát triển có thể nói là gia tăng nhanh.
b) Bảo hiểm kỹ thuật.
Trong vòng từ đầu năm 2003 đến nay, ngành bảo hiểm phi nhân thọ
cũng phải chịu sức Ðp cạnh tranh mạnh hơn. Thị trường bị phân chia lại sau
khi ba công ty mới đi vào hoạt động. Đó là công ty liên doanh bảo hiểm Châu
Á - Ngân hàng công thương Việt Nam với vốn điều lệ 6 triệu USD, trong đó
50% do công ty bảo hiểm Châu Á của Singapore đóng góp. Công ty này sẽ
tận dụng lợi thế của đối tác là các khách hàng của hệ thống Ngân hàng công
thương trên toàn quốc với 600 văn phòng chi nhánh và 20.500 khách hàng
có số dư nợ từ 50 triệu đồng trở lên. Công ty thứ hai là liên doanh bảo hiểm
59
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38FSamsung Vina có vốn điều lệ là 5 triệu đô la, trong đó Vinare đóng góp 50%
và Samsung Fire Marine insurance đóng góp 50%. Công ty này sẽ tận dụng
lợi thế là các khách hàng bảo hiểm Hàn Quốc tại Việt Nam. Bởi vì hiện nay
lượng vốn đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Bam đang đứng thứ tư của sau
Nhật, Singapore và Hồng Kông với số vốn là 3,7 tỉ USD. Và Việt Nam đang
được đánh giá là nước thứ hai hấp dẫn đầu tư sau Trung Quốc trong khu vực
với các doanh nghiệp Hàn Quốc. Vào tháng 9/2003, Grass Savoye, công ty
môi giới bảo hiểm lớn nhất nước Pháp và lớn thứ 3 trên thế giới cũng sẽ
chính thức hoạt động tại Việt Nam thay vì chỉ có căn phòng đại diện như
trước kia.
Trong năm nay, tình hình cạnh tranh phí bảo hiểm trong bảo hiểm phi
nhân thọ một vấn đề đau đầu với các nhà kinh doanh bảo hiểm Việt Nam đã
giảm bớt trong năm qua, nay lại tiếp diễn. Ghi nhận cho thấy tình hình cạnh
tranh nổi cộm nhất là ở một số dịch vụ bảo hiểm kỹ thuật cho những dự án
xây dựng lớn bằng vốn đầu tư của nhà nước. Cho dù có thỏa thuận đồng bảo
hiểm với nhau trong một số dự án nhất định thì cạnh tranh trong giảm chi phí
và hạ mức khấu trừ tới mức mà các nhà bảo hiểm đánh giá là phi kỹ thuật vẫn
xảy ra. Đó là chưa kể tới việc mở rộng điều kiện và điều khoản bảo hiểm quá
mức không phù hợp bới thông lệ quốc tế. Mức chi phí bảo hiểm kỹ thuật ở
Việt Nam đang thấp hơn từ 25% - 50% so với mức phí đang áp dụng cho các
dự án tương tự trên thế giới, trừ Trung Quốc. Trong bảo hiểm kỹ thuật dầu
khí, mức bảo hiểm cũng giảm nhiều do khách hàng lựa chọn giải pháp tăng
mức khấu trừ. Với bảo hiểm hàng hóa và thân tàu, P&I sự cạnh tranh gia tăng
giữa các doanh nghiệp cũng dẫn tới tỷ lệ phí áp dụng tiếp tục giảm, nhất là
chi phí cho những con tàu mới mua làm ảnh hưởng lớn tới việc thu xếp tái
bảo hiểm.
Và một khó khăn khác cũng ảnh hưởng tới tình hình chung của thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam trong vòng nửa đầu năm nay. Đó
là các tổn thất khá lớn, khoảng 14 triệu USD, chủ yếu của bảo hiểm kỹ thật
60
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fvà bảo hiểm cháy. Theo đó có thiệt hại máy phát điện của nhà máy điện Phú
Mỹ 3 bị rơi trong quá trình cẩu vào bệ máy gây thiệt hại 6 triệu USD. Vụ
cháy nhà máy chế biến thức ăn Interfood hồi đầu tháng tư năm nay ước bồi
thường 6 triệu USD. Vụ bồi thường khoảng 1 triệu USD do thiệt hại cáp điện
của nhà máy Phú Mỹ 3 trong quá trình vận chuyển . Vụ cháy nhà máy nhựa
Phú Mỹ do nổ nồi hơi cũng gây thiệt hại khoảng nửa triệu USD và cháy ở nhà
máy nhiệt điện Phả Lại 2 với số tiền bồi thường ước khoảng 430.000 USD.
Bảo hiểm kỹ thuật đang là một thị trường cạnh tranh mạnh mẽ,
trong đó các công ty đang chiếm thị phần hàng đầu vẫn là các nhà bảo
hiểm dày dạn kinh nghiệm như Allianz, PV Ins, PTI và Bảo Minh.
Theo thống kê của ngành bảo hiểm, trong vòng nửa đầu năm 2003,
Allianz đang là công ty dẫn đầu với 26,8% thị phần. Thứ hai là PV Ins với
20,79% thị phần. Kế đó là PTI với 19,35% thị phần, Bảo Việt đứng thứ tư với
16,36% thị phần, Bảo Minh với 7,21% thị phần. Các công ty khác như
PJICO , UIC, QBE, Bảo Long và Via chia nhau miếng bánh Ýt ỏi còn lại với
mức từ 3-4% thị phần cho 0,24% thị phần. Tuy nhiên bảo hiểm kỹ thuật
trong thời gian qua được đánh giá là tăng trưởng khác do dự tăng trưởng các
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội và sự phục hồi đầu tư nước ngoài ở VN.
Hết 6 tháng đầu năm 2003 doanh thu phí bảo hiểm kỹ thuật của toàn
thị trường là 13,6 triệu USD, tăng gấp 3 lần so cùng kỳ năm trước. Theo
Vinare thì mức tăng trưởng trên chưa phản ánh hết được tiềm năng của
nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật vì số lượng dự án lớn được bảo hiểm chưa đầy
10 dự án. Gần 30% trong sè 13,6 triệu USD nói trên được đóng góp từ số phí
của 3 dự án lớn chuyển từ năm 2001 sang là dự án nhà máy phân đạm Phú
Mỹ với bảo hiểm xây dựng lắp đặt và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp ,
các dự án BOT của nhà máy điện Phú Mỹ 3 và dự án cải tạo - nâng cấp Nhà
máy nước Thủ Đức - Tp.HCM.
Vào khoảng thời gian cuối năm, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
đang tích cực tham gia vào thị trường bảo hiểm kỹ thuật vì có hàng loạt các
61
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fcông trình mới được triển khai xây dựng và lắp đặt. Ví như công trình cầu
Thanh Trì bắc qua sông Hồng trị giá 400 triệu USD, hay dự án xây dựng
thêm 5 bậc thang thủy điện trên dòng Sesan do Ban quản lý dự án Nhà máy
thủy điện Yali triển khai, dự án BOT Nhà máy điện Phú Mỹ 2.2 với vốn đầu
tư 300 triệu USD, Nhà máy điện Phú Mỹ 4 và dự án cải tạo, nâng cấp nhà
máy điện Uông Bí. Các nhà bảo hiểm cũng hy vọng ở hàng loạt dự án mới
như nâng cấp quốc lộ 6 đoạn Hòa Bình - Sơn La với tổng mức đầu tư 2.563 tỉ
đồng, dự án mở rộng tuyến cao tốc Láng -Hòa Lạc với tổng mức đầu tư 1.279
tỉ đồng, dự án xây dựng đường cao tốc Tp.HCM - Tiền Giang dài 39,8 km
với tổng mức đầu tư 2.155 tỷ đồng, dự án cầu Yên Lệnh trên quốc lộ số 38
với tổng vốn 338,327 tỷ đồng và dự án Nhà máy điện Cao Ngạn trị giá 105 -
110 triệu USD tại Thái Nguyên.
Đánh giá của Vinare cho thấy thị trường bảo hiểm kỹ thuật ở VN
trong thời gian qua còn có những tồn tại nhất định. Đó là thị trường bảo hiểm
kỹ thuật trong nước chưa hòa nhập với xu thế phát triển chung của thị trường
bảo hiểm thế giới. Sau ngày 11/9/2001, các nhà bảo hiểm thế giới đã kiên
quyết chọn lọn lựa cẩn thận rủi ro bảo hiểm, tính phí cao hơn và kiểm soát
chặt chẽ phạm vi bảo hiểm, và họ áp dụng mức tang phí thay đổi khác nhau.
Có một số loại rủi ro đã tăng lên 75% so với mức phí cùng kỳ năm trước và
mức khấu trừ đã tăng mạnh.
Ngoài ra, một số phạm vi bảo hiểm không còn dễ dàng được mua
nữa. Đó là nhà bảo hiểm không sẵn lòng cung cấp phạm vi bảo hiểm cho
công tác bảo dưỡng cho chế độ bảo hành, hay hạn chế phạm vi bảo hiểm với
chi phí hoạt động bổ sung, các rủi ro vận chuyển và rủi ro tại cơ sở kinh
doanh của người cung cấp. Đối với tài sản trên bờ thì rủi ro khủng bố nói
chung bị loại trừ.
Trong khi đó ở VN, tỷ lệ phí bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm chưa
được cải thiện rõ rệt. Thực tế cho thấy vẫn xuất hiện tình trạng cạnh tranh gay
gắt giữa công ty bảo hiểm gốc dưới hình thức giảm chi phí, việc mở rộng
62
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fđiều kiện, điều khoản bảo hiểm quá mức kỹ thuật cần thiết vẫn tiếp tục diễn
ra. Và thực tế này đã dẫn tới tình trạng thu xếp bảo hiểm gặp nhiều khó khăn,
nhất là các công trình có số tiền bảo hiểm lớn lên đến vài trăm triệu USD và
có khả năng rủi ro cao như các nhà máy xi măng, nhà máy điện, xây dựng và
lắp đặt đường điện.
Vinare còng cho rằng tín hiệu báo động với thị trường bảo hiểm kỹ
thuật của VN hiện nay là mức phí cho bảo hiểm máy móc của nhiều công
trình quá thấp, gây tâm lý bất ổn cho các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm
truyền thống của thị trường VN. Điều này có lẽ vì lý do cạnh tranh mà các
công ty bảo hiểm dùng biện pháp hạ phí nhưng cũng có thể do bảo hiểm thị
trường VN chưa trải qua tổn thất máy móc nào quá lớn. Tính cho đến nay tổn
thất lớn nhất về máy móc cũng chỉ vào khoảng 400.000 USD.
Vinare khuyến cáo rằng các nhà khai thác bảo hiểm phải cảnh giác vì
trong bảo hiểm máy móc , nhất là bảo hiểm cho các rủi ro có tính nhạy cảm
của nhà máy xi măng, nhà máy điện thì chỉ cần một vụ nổ gây tổn thất lớn
cũng dẫn đến tình trạng không biết bao giờ phí bảo hiểm của thị trường mới
bù lỗ được. Các công ty bảo hiểm gốc cũng cần quan tâm đến chất lượng
thông tin của các công trình bảo hiểm kỹ thuật nói chung và các dự án BOT
nói riêng trong quá trình khai thác bảo hiểm, vì đây là những điều kiện tiên
quyết để thu xếp tái bảo hiểm.
c. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đang được coi là một loại hình bảo hiểm có tốc gia tăng rất mạnh với mức găng cao nhất hiện nay. Nếu như năm 2000, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chỉ tăng 15%, bảo hiểm nổ và hỏa hoạn tăng 15%, bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí tăng 17,32% thì bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đã tăng ở mức 20% so với năm trước.
Tuy nhiên nhận xét từ các chuyên gia trong ngành bảo hiểm cho thấy dù nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng-lắp đặt ở Việt Nam có tốc độ phát triển cao nhưng mới chỉ tập trung khai thác được ở các công trình của Nhà nước và đầu
63
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
tư nước ngoài, trong khi lẽ ra nên được triển khai rộng khắp đến tất cả mọi loại công trình xây dựng và lắp đặt. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt hiện vẫn là một nghiệp vụ không dễ thu lợi nhuận do những rủi ro trong lĩnh vực này khá cao. Lấy Bảo Minh làm ví dụ, vào năm 2000, tình hình tổn thất với các công trình mà Bảo Minh đã bảo hiểm xây dựng-lắp đặt thật đáng lo ngại với số tiền bồi thường trong năm qua lên đến 18,76 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 86,2%. Nguyên nhân là do các đợt bão lụt, thiên tai làm ảnh hưởng trực tiếp đến các công trình.
Phạm vi bảo hiểm khá rộng. Theo các chuyên gia bảo hiểm, nhìn chung với các công trình lớn thì theo thông lệ quốc tế, các chủ đầu tư, các nhà thầu tiến hành xây dựng công trình bao gồm cả các nhà thầu phụ, các đối tác liên quan đến công trình đều nhận thức được vấn đề và mua bảo hiểm xây dựng-lắp đặt cho chắc ăn. Nhưng với các công trình dân dụng và các công trình cả dân dụng lẫn công nghiệp nằm ngoài các dự án của Nhà nước hay dự án của DN có vốn đầu tư nước ngoài thì hiện nay nhiều công trình còn chưa mua nghiệp vụ này và chính vì vậy, những rủi ro trong phạm vi bảo hiểm có thể khiến cho họ bị thiệt hại.
Hiện nay Bảo Minh có bảo hiểm cho các Công trình xây dựng như nhà ở, trụ sở làm việc, bệnh viện, trường học, nhà hát, nhà máy, đường giao thông bộ, đường sắt, sân bay, cầu, cống, đập, đường hầm, công trình cấp thoát nước, cảng. Các công trình lắp đặt máy móc (cẩu, tời, giá đỡ, đường dây tải điện, các loại máy móc hoặc dây chuyền hệ thống máy móc khác). Phạm vi bảo hiểm là các tổn thất do thiên tai như sét đánh, cháy, nổ, máy bay rơi, lũ lụt, mưa tuyết lở, sóng thần, bão, động đất, đất lún, đất lở, trộm cắp hay do yếu tố chủ quan như sơ suất, hành động cố ý hay nhầm lẫn của con người, chập điện, điện áp cao, hồ quang. Ngoài ra còn có các sự cố bất ngờ và không lường trước được như rơi vỡ, thiệt hại khi vận chuyển và trách nhiệm với bên thứ ba.
Cụ thể hơn, các hạng mục trong bảo hiểm xây dựng gồm có các công việc xây dựng, trang thiết bị xây dựng, máy móc xây dựng, chi phí dọn dẹp hiện trường, trách nhiệm với bên thứ ba, tài sản xung quanh công trường…
64
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Bảo hiểm xây dựng-lắp đặt sẽ bảo hiểm cho mọi rủi ro, trừ những rủi ro đã bị loại trừ, điều này có nghĩa là tất cả các rủi ro bất ngờ và không lường trước xảy ra trong thời gian bảo hiểm với những tài sản được bảo hiểm trên phạm vi công trường đều được bồi thường.
Ngoài những tổn thất do thiên tai gây ra hay do tiến hành các biện pháp chữa cháy, lũ lụt, mưa, tuyết lở, sóng thần, các loại gió bão như động đất, đất lún, đá lở còn có các rủi ro như trộm cắp, tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm, sơ suất, hành động cố ý hay nhầm lẫn của con người cũng sẽ được đưa vào đơn bảo hiểm tùy theo thỏa thuận.
c. Bảo hiểm hàng hóa XNKLịch sử bảo hiểm hàng hóa XNK ở Việt Nam đã có từ lâu. Ngay từ
khi thành lập, ngày 15/1/1965, Công ty Bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Tính đến cuối năm 2000, các nhà bảo hiểm Việt Nam mới chỉ bảo hiểm được 4,7% kim ngạch hàng xuất khẩu và 23,26% kim ngạch hàng nhập khẩu. Đây là con số nhỏ bé không phản ánh đúng tiềm năng XNK của nước ta. Do đó đây là bộ phận thị trường còn rất tiềm tăng và cần phải có những giải pháp để đẩy mạnh phát triển. Về những giải pháp để đẩy mạnh bảo hiểm hàng hóa XNK tôi xin được trình bày kỹ ở chương sau.
2. Một số tin tức chính tình hình thị trường bảo hiểm trên thế giới năm nay.
Trung quốc:Ủy ban quản lý chứng khoán và ủy ban quản lý bảo hiểm Trung Quốc
đề xuất một đề án cho phép các Công ty bảo hiểm được đầu tư 5% giá trị tổng
tài sản của mình trực tiếp vào thị trường chứng khoán của Trung Quốc. Với
động thái này, các nhà quản lý Trung quốc muốn đẩy mạnh hơn nữa hoạt
động của thị trường bảo hiểm trong nước.
Quý 1: Bảo hiểm ôtô tăng trưởng 31%.
65
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Theo số liệu của ủy ban quản lý bảo hiểm Trung Quốc, doanh thu phí
bảo hiểm xe ôtô của quý 1 năm nay đạt 1.300 tỉ Yuan (157 tỉ Đô la Mỹ) -
tăng trưởng khoảng 31% so với cùng kỳ năm 2002.
Hồng Kông: Đơn bảo hiểm nhân thọ tăng 44%
Tỉ lệ lãi suất thấp của tiền gửi ngân hàng cũng là một nguyên nhân
đóng góp vào việc bán các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tăng 44% so với quý
1 cùng kỳ năm 2002.
Singapore: Hiệp hội bảo hiểm nhân thọ duy trì mức lãi chuẩn.
Hiệp hội bảo hiểm nhân thọ đã quyết định duy trì mức lãi suất tiêu
chuẩn đối với các dự án về lãi suất đầu tư dài hạn từ các dự án bảo hiểm ở
mức 5,25%. Quyết định của Hiệp hội là dũng cảm và cương quyết, mặc dù có
một số ý kiến từ các công ty bảo hiểm đề nghị hạ mức lãi suất này để giảm
bớt ảnh hưởng của thị trường cổ phần yếu kém, cổ tức thấp của đầu tư tài sản
cố định và môi trường lãi suất thấp.
Nhật Bản: Một năm khó khăn nữa đối với các công ty bảo hiểm
nhân thọ.
Bảy công ty bảo hiểm nhân thọ lớn nhát Nhật Bản đã báo cáo là tình
hình trở nên xấu hơn vẫn tiếp tục trong hoạt động kinh doanh của năm tài
chính vừa qua. Năm vừa qua, các công ty bảo hiểm nhân thọ đều gặp phải
vấn đề giá cổ phiếu sụt nhiều và tỉ lệ lãi suất thấp trong đầu tư. Trong khi đó,
có thêm nhiều khách hàng lại hủy đơn bảo hiểm. Vấn đề nan giải của lợi
nhuận trở lại khi mà cả 7 công ty bảo hiểm nhân thọ chỉ đạt được mức lợi
nhuận là 465 tỉ Yên của năm tài chính tính đến 31/3/2003 - trong khi đó số
này của năm trước là 498,2 tỉ Yên.
CHLB Đức: Mức lỗ của Munich Re trong quý 1 xấu hơn mức
bình thường.
Công ty tái bảo hiểm Munich Re - công ty tái bảo hiểm lớn nhất thế
giới đã thông báo rằng số lỗ thuần của quý 1 là xấu hơn dự đoán do chi phí
lớn về sự mất giá trong các dự án đầu tư của mình.
66
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Mặc dù có sự cải thiện trong môi trường kinh doanh về tái bảo hiểm,
Munich Re đang phải đấu tranh với thực tế mà chủ yếu là do các hợp đồng
bảo hiểm lớn của công ty đang bị chìm đắm trong thị trường cổ phần không
ưu đãi.
Với số lỗ 2,3 tỉ Euros (2,7 tỉ Đôla) trong đầu tư, công ty nói rằng
không thể dự đoán được doanh thu đầu tư trong cả năm do sự không chắc
chắn của thị trường tiền tệ.
Công ty thông báo rằng quý 1 có mức lỗ thuần là 238 triệu Euros, so
với cùng kỳ năm trước có số lãi là 4,5 tỉ Euro.
Munich Re cũng thông báo rằng tỉ lệ chi phí kết hợp của công ty là
96,8% so với cùng kỳ năm trước là 101,7%.
II. Mô hình tổ chức thị trường bảo hiểm.
1. Theo vai trò trong thị trường bảo hiểm.
a. Người tham gia bảo hiểm.
67
Ngêithamgiab¶ohiÓm
§¹ilýb¶ohiÓm C«ngtym«igiíib¶ohiÓm
C«ngtyb¶ohiÓmgèc
C«ngtyt¸ib¶ohiÓm
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Bao gồm tất cả các cá nhân, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, cơ quan
Nhà nước. Họ là những người mua và làm phát sinh mặt cầu của thị trường
bảo hiểm. Nhu cầu của họ rất đa dạng và phong phú, liên quan đến tất cả các
loại hình bảo hiểm.
Các cá nhân, gia đình thường tham gia các loại hình bảo hiểm nhân
thọ vì cúng mang tính chất tiết kiệm nhiều hơn. Song đối tượng của bảo hiểm
phi nhân thọ thì ngược lại, phần lớn là các công ty, các tổ chức kinh doanh
tham gia bảo hiểm không nhằm mục đích tiết kiệm mà chủ yếu là đề phòng,
hạn chế rủi ro tổn thất trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
b. Doanh nghiệp bảo hiểm gốc
Là các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ bảo hiểm trực tiếp cho các
tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. Họ thể hiện mặt cung của thị trường bảo
hiểm và được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp Nhà
nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài.
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Bảo Việt kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ có hệ thống các công ty thành
viên khắp các tỉnh thành trong cả nước: có quan hệ với nhiều công ty bảo
hiểm các nước trên thế giới.
Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) thành lập
28/11/1994, có vốn điều lệ 45 tỉ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ; có
mạng lưới văn phòng đại lý khắp nước.
Công ty bảo hiểm Dầu khí (PVIC) - công ty bảo hiểm ngành trong
tổng công ty lớn - Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được thành lập ngày
23/10/1996, với vốn điều lệ 22 tỉ đồng. PVIC kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ và được phép thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc đối với tất cả cán bộ công
nhân viên trong ngành dầu khí.
Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) thành lập
11/17/1995, vốn điều lệ 22 tỉ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ; có văn
phòng đại diện khắp các địa phương...
68
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Công ty cổ phần Petrolimex (PJICO) thành lập 21/6/1996, vốn điều
lệ 55 tỉ đồng (trong đó, các cổ đông là doanh nghiệp Nhà nước đóng góp hơn
80%), kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ có văn phòng đại diện khắp các địa
phương.
Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) thành lập cuối năm 1998,
vốn điều lệ 30 tỉ đồng (trong đó, các cổ đông là doanh nghiệp Nhà nước đóng
góp hơn 80%).
Ở Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài
chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ: Chẳng hạn, công ty
Prudential của Anh quốc, công ty AIA của Mỹ, công ty Manulife của Canada
v.v..
Hiện nay ở Việt Nam số công ty bảo hiểm liên doanh đang hoạt động:
- Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (V.I.A) thành lập
ngày 05/8/1996, vốn điều lệ 6 triệu USD. VIA là công ty liên doanh giữa Bảo
Việt của Việt Nam với công ty Tokio Marine and Fire Insurance Co, Ltd của
Nhật Bản và công ty Commercial Union của Anh. V.I.A kinh doanh trong
lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, chủ yếu đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
- Công ty bảo hiểm Liên hiệp (U.I.C) thành lập ngày 01/11.1997, vốn
điều lệ 6 triệu USD. U.I.C là công ty liên doanh giữa công ty bảo hiểm thành
phố Hồ Chí Minh - Bảo Minh (Việt Nam) với công ty Yasuda Fire and
Marine Insu rance Co, Ltđ và Mitsui Marineand Fire Insurance Co. Ltd của
Nhật Bản. Lĩnh vực kinh doanh là bảo hiểm phi nhân thọ.
- Công ty Liên doanh bảo hiểm Bảo Minh - CMG thành lập tháng
3/2000 với vốn điều lệ 10.000.000 USD. Bảo Minh - CMG là công ty liên
doanh giữa Bảo Minh (Việt Nam) với tập đoàn dịch vụ tài chính Colonial
(Australia). Bảo Minh - CMG kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
c. Công ty tái bảo hiểm.
69
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Nhằm mục đích ổn định kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm gốc
phải ký hợp đồng tái bảo hiểm, chuyển một phần trách nhiệm đã nhận bảo
hiểm và phí bảo hiểm cho các công ty nhận tái bảo hiểm. Khi có tổn thất
thuộc trách nhiệm bảo hiểm, công ty nhận tái bảo hiểm sẽ bồi thường lại cho
doanh nghiệp bảo hiểm gốc một phần tổn thất tương ứng với trách nhiệm đã
nhận.
Công ty Tái bảo hiểm quốc gia (VINARE) là công ty tái bảo hiểm
chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam.
d.Công ty môi giới bảo hiểm.
Để thị trường bảo hiểm hoạt động có hiệu quả, tạo điều kiện cho
người mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) tiếp xúc nhanh chóng với
người bán bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm), cung đáp ứng cầu, các công ty
môi giới đã hình thành và phát triển. Công ty môi giới là người đại diện cho
khách hàng lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm, thu xếp các hợp đồng bảo
hiểm để người tham gia bảo hiểm có được loại hình sản phẩm bảo hiểm phù
hợp với giá phí bảo hiểm tốt nhất. Môi giới bảo hiểm luôn bảo vệ quyền lợi
cho người tham gia bảo hiểm.
- Công ty Liên doanh môi giới bảo hiểm Aon- Inchinbrok thành lập
năm 1993, vốn điều lệ 250.000 USD. Aon - Inchinbrok là công ty liên doanh
giữa Tổng công ty bảo hiểm (Bảo Việt) Việt Nam với tập đoàn môi giới bảo
hiểm AON của Mỹ. Đây là công ty liên doanh môi giới bảo hiểm đầu tiên của
Việt Nam.
e. Đại lý bảo hiểm.
Cũng như môi giới bảo hiểm, đại lí bảo hiểm là người trung gian,
chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Đại
lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm tự tổ chức và họ có nghĩa vụ bán sản
phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm đó và bảo vệ quyền lợi cho doanh
nghiệp bảo hiểm đó. Đại lý bảo hiểm thường là các cá nhân và có hai loại là
đại lý chuyên nghiệp và đại lý bán chuyên nghiệp.
70
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
2. Theo tính chất sở hữu.
* Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước.
Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước
thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là người chủ sở hữu. Doanh
nghiệp bảo hiểm Nhà nước là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật
và bình đẳng trước pháp luật.
Ở Việt Nam hiện nay (2002) có 4 doanh nghiệp Nhà nước: Tổng công
ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh
(Bảo Minh), Công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVIC) và Công ty Tái bảo hiểm
quốc gia (VINARE).
* Công ty cổ phần bảo hiểm.
Công ty cổ phần bảo hiểm là loại doanh nghiệp do các cổ đông tham
gia đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiÕu và có
trách nhiệm hữu hạn. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia
lợi, cùng chịu lỗ tương ứng với số vốn góp.
Ở Việt Nam hiện nay (2002) có 3 công ty cổ phần bảo hiểm.
- Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long), kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ.
- Công ty cổ phần Petrolimex (PJICO) kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI)
* Công ty bảo hiểm tư nhân.
Công ty bảo hiểm tư nhân là công ty bảo hiểm do một cá nhân làm
chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty trước pháp
luật. Công ty được thành lập theo luật doanh nghiệp.
* Tổ chức bảo hiểm tương hỗ.
71
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được
thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên. Tành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là
bên mua bảo hiểm. Về mặt pháp lý, họ vừa là hội viên, vừa là những người
được bảo hiểm.
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác của tổ chức trong phạm vi tài sản của tổ chức.
* Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh.
Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh được hình thành trên cơ sở góp
vốn của các bên (trong nước và nước ngoài). Chẳng hạn, của bên Việt Nam
và bên nước ngoài. Vị trí các bên trong doanh nghiệp phụ thuộc mức vốn
góp. Các thành viên trong doanh nghiệp hưởng lợi nhuận cũng như chịu thua
lỗ tương ứng mức vốn góp.
Hiện nay ở Việt Nam số công ty bảo hiểm liên doanh đang hoạt động:
- Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (V.I.A)
- Công ty bảo hiểm Liên hiệp (U.I.C) Lĩnh vực kinh doanh là bảo
hiểm phi nhân thọ.
- Công ty Liên doanh môi giới bảo hiểm Aon- Inchinbrok.
- Công ty Liên doanh bảo hiểm Bảo Minh - CMG
* Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là các doanh nghiệp bảo hiểm do nước ngoài đầu tư vốn hoạt
động tại nước sở tại, theo luật pháp của nước sở tại đồng thời chịu sự chỉ đạo
của công ty mẹ ở chính quốc. Công ty Prudential của Anh quốc, công ty AIA
của Mỹ, công ty Manulife của Canada v.v.. Các công ty này chịu sù chi phối
của luật kinh doanh bảo hiểm, luật đầu tư, luật doanh nghiệp và các luật khác
có liên quan. Kinh doanh bảo hiểm là một ngành kinh doanh tài chính đặc
biệt. Các nghiệp vụ bảo hiểm có thể được thực hiện trong một thời gian ngắn
72
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fhoặc là các doanh nghiệp phải có khả năng thanh toán các khoản bồi thường
cho những người được bảo hiểm hoặc những người thụ hưởng vào bất kể thời
gian nào, có nghĩa là doanh nghiệp phải thường xuyên có khả năng thanh
toán. Cũng chính vì vậy, không phải mọi loại hình doanh nghiệp đều được
kinh doanh bảo hiểm. Hầu như trên thế giới, hoạt động kinh doanh bảo hiểm
chỉ được giới hạn trong các Công ty mà tính ổn định lâu dài không bị đe dọa,
có thể bởi chính sự xung đột giữa các thành viên chẳng hạn, hình thức Công
ty sẽ tiếp tục hoạt động bình thường sau khi một, một số hoặc toàn bộ chủ sở
hữu doanh nghiệp qua đời (tính chặt chẽ về cơ chế quản lý).-Việc qui định
các hình thức pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm xuất phát từ đòi hỏi, sự
linh hoạt về khả năng huy động vốn. Luật bảo hiểm Trung Quốc, điều 69 qui
định: chỉ có các doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần được kinh doanh
bảo hiểm[18]. Luật kinh doanh bảo hiểm Thái Lan qui định các loại hình
Công ty nhà nước, cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi
nhánh Công ty nước ngoài. Luật kinh doanh bảo hiểm Pháp cho phép các
Công ty bảo hiểm cổ phần và các Công ty bảo hiểm tương hỗ. [15]
III. Môi trường pháp lý đối với hoạt động của Thị trường bảo hiểm.
1. Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm
giai đoạn trước năm 1993
1.1. Một số đặc điểm của thị trường bảo hiểm Việt Nam trước năm
1993
1.1.1- Giai đoạn 1964 - 1987
Thị trường bảo hiểm thương mại và hoạt động kinh doanh bảo hiểm
đã được hình thành và phát triển từ năm 1964 đánh dấu bằng việc xuất hiện
của Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) vào ngày 17/12/1964.
Trong giai đoạn 1964 đến 1987 thị trường không tồn tại một cách thực tế mà
chỉ có duy nhất một Công ty bảo hiểm của nhà nước là Bảo Việt. Mọi hoạt
động của Công ty này đều chịu sự điều tiết của Nhà nước; sản phẩm của Bảo
73
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38FViệt nghèo nàn; đối tượng bảo hiểm chỉ áp dụng bảo hiểm tài sản đối với các
doanh nghiệp Nhà nước.
1.1.2- Giai đoạn 1987 - 1993
Trong giai đoạn 1987 đến 1993, sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, nền kinh tế của nước ta bước vào thời kỳ đổi mới đó là việc chuyển đổi
cơ chế nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Việc chuyển đổi này đã tạo ra một thị trường đối với hầu hết các
ngành nghề kinh doanh khác nhau mà trong đó có hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Tuy chính sách đổi mới đã được ra đời vào năm 1986 và chính sách mở
cửa nền kinh tế đã được thực hiện trong những năm 90, nhưng có thể thấy thị
trường bảo hiểm vẫn chưa có sự chuyển động tích cực. Trên thị trường vẫn
chỉ có duy nhất một Công ty là Bảo Việt; đối với người dân thì hầu như chưa
có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của bảo hiểm trong cuộc sống; số
lượng các nghiệp vụ bảo hiểm có tăng nhưng tổng số mới chỉ trên 30 và phần
lớn là các loại hình bảo hiểm hàng hải; đối tượng bảo hiểm chủ yếu vẫn chỉ là
các doanh nghiệp Nhà nước.
Mặc dù thị trường bảo hiểm thương mại và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm đã được hình thành và phát triển từ năm 1964, nhưng trong cả một giai
đoạn dài từ năm 1964 đến năm 1987, do hoạt động kinh doanh bảo hiểm
được thực hiện trong một cơ chế kinh tế bao cấp, độc quyền Nhà nước nên
thực chất về môi trường pháp lý trong thời kỳ không phục vụ mục đích kinh
doanh bảo hiểm mà chỉ phục vụ những chủ trương, định hướng của Nhà
nước về phát triển kinh tế xã hội..
1.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Có thể nói, hoạt động bảo hiểm thời kỳ này đã có một thị trường hoạt
động theo đúng nghĩa của nó, nhưng thị trường vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh
với một số đặc điểm mà ta đã đề cập ở phía trên. Các văn bản pháp lý ra đời
phục vụ hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng mang tính chất rời rạc, không
đồng bộ và thiếu sự thống nhất trên cơ sở một khung pháp lý hoàn chỉnh, các
74
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fvăn bản pháp lý ra đời chủ yếu liên quan tới bảo hiểm vận chuyển, còn các
loại hình kinh doanh bảo hiểm khác hầu như không được đề cập tới trong giai
đoạn này.
Các văn bản pháp lý trong thời kỳ này gồm:
- Quyết định số 179-TC/QĐ/BH ngày 8/7/1986 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính về việc cho phép Công ty Bảo Việt tiến hành bảo hiểm theo nguyên tắc
tự nguyện.
- Nghị định số 30-HĐBT ngày 10/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng
về chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
- Công văn số 224-BHTT/90 ngày 1/3/1990 của Tổng Công ty
bảo hiểm Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung quy tắc bảo hiểm vật chất trách
nhiệm dân sự, tai nạn thuyền viên, tầu thuyền đánh cá.
- Quyết định số 245-TC/QĐ-BH ngày 25/5/1990 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính về việc cho phép Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành
bảo hiểm tàu và thuyền viên.
- Quyết định số 305-TC/BH ngày 9/8/1990 của Bộ trưởng Bộ Tài
Chính ban hành Quy tắc chung về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
(QTC-1990).
- Quyết định số 365-PT/HK91 ngày 8/3/1991 của Tổng giám đốc
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam về việc ban hành Quy tắc bảo hiểm hàng không.
- Chỉ thị số 363 – CT ngày 6/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về chỉ đạo triển khai thực hiện chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới.
- Quyết định số 09-QĐ/TC-BH ngày 9/1/1992 của Bộ trưởng Bộ
Tài Chính về việc triển khai bảo hiểm hàng hóa vận chuyển trong lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù, việc ban hành chế độ, chính sách hướng dẫn hoạt động kinh
doanh bảo hiểm thời kỳ này vẫn còn rời rạc và chưa đầy đủ, nhưng có thể
thấy nó đã tạo ra được cơ sở ban đầu cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Cụ
75
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fthể là việc ban hành Quyết định số 179 - TC/QĐ/BH ngày 8/7/1986 của Bộ
trưởng Bộ Tài Chính về việc cho phép Công ty Bảo Việt tiến hành bảo hiểm
theo nguyên tắc tự nguyện.
Việc ban hành quyết định 179 này có thể coi là bước ngoặt trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm bởi trên thực tế, việc chuyển đổi từ chế độ bao cấp
sang chế độ tự hạch toán kinh doanh mới chỉ cho phép Bảo Việt trở thành
một doanh nghiệp, còn việc ra đời quyết định 179 mới thực sự biến Bảo Việt
trở thành một doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Trong giai đoạn này Bảo
Việt vẫn là doanh nghiệp độc quyền kinh doanh bảo hiểm, nhưng quyết định
tiến hành bảo hiểm theo nguyên tắc tự nguyện đã xóa bỏ cơ chế bảo hiểm bắt
buộc trước đây, đồng thời tạo điều kiện cho Bảo Việt có thể mở rộng các hoạt
động kinh doanh của mình.
1.3. Những tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh
bảo hiểm trong giai đoạn này.
Sau suốt một giai đoạn dài hơn 20 năm (từ năm 1964 đến năm 1987)
hoạt động trong cơ chế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung thì việc chuyển đổi
sang cơ chế thị trường tự hạch toán kinh doanh đã khiến cho không chỉ lĩnh
vực bảo hiểm mà còn trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế khác gặp phải không
Ýt khó khăn. Sự khó khăn này thể hiện ở rất nhiều mặt như nhân lực, nghiệp
vụ… mà trong đó đặc biệt là về quản lý cả ở tầm vi mô lẫn vĩ mô. Trong hoạt
động kinh doanh, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế đã mang lại một ưu điểm lớn
là cho phép hoạt động bảo hiểm có một thị trường riêng của mình, tạo cơ sở
ổn định cho một môi trường kinh doanh thông thoáng, đó cũng chính là tiền
đề cho sự phát triển của chính mình. Tuy nhiên bên cạnh đó, sự lúng túng
trong quản lý đặc biệt là trong khâu ban hành những chính sách, chế độ đã
làm cho môi trường pháp lý vẫn còn nhiều thiếu sót, chưa thực sự phù hợp
đối với sự phát triển chung của nền kinh tế.
1.3.1- Thiếu một cơ quan chuyên trách quản lý các hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
76
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Cơ cấu của ngành bảo hiểm tại bất kỳ một nước có hoạt động kinh
doanh bảo hiểm phát triển nào cũng đều phải có một cơ quan chuyên trách
riêng quản lý hoạt động, có thể là ban hành chính sách hay thanh tra giám sát
các doanh nghiệp bảo hiểm... Nhưng tại nước ta, trong giai đoạn này không
hề có một cơ quan chuyên trách riêng quản lý hoạt động kinh doanh bảo
hiểm.
Trên lý thuyết thì cơ quan có trách nhiệm quản lý hoạt động kinh
doanh bảo hiểm là Bộ Tài Chính bởi đây là cơ quan ra các văn bản pháp quy
cho mọi hoạt động bảo hiểm. Nhưng trên thực tế thì việc triển khai, cũng như
điều hành trực tiếp các hoạt động kinh doanh bảo hiểm lại giao cho Bảo Việt
tiến hành. Bảo Việt mới là cơ quan đề ra các điều lệ, các quy chế cho hoạt
động bảo hiểm nên có thể coi Bảo Việt chính là cơ quan chuyên trách quản lý
hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường Việt Nam.
Việc Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đảm nhận cả hai
chức năng vừa là cơ quan quản lý, vừa là cơ quan trực tiếp tiến hành các hoạt
động kinh doanh đã gây nên tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” mà theo
đánh giá thì đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân kìm hãm sự phát triÓn
của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nó cũng gây ra tình trạng độc quyền
kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt bởi một điều dễ hiểu là cơ quan quản lý
thị trường Bảo Việt khó có thể cho phép xuất hiện một doanh nghiệp bảo
hiểm khác trên thị trường cạnh tranh với mình.
Như vậy, việc giao trách nhiệm quản lý thị trường cho Bảo Việt thay
vì có một cơ quan chuyên trách riêng trong giai đoạn này có thể nói là một
trong những nhược điểm lớn nhất về môi trường pháp lý, mét lý do chính dẫn
đến tình trạng độc quyền. Từ đó, không tạo ra được động lực cho sự phát
triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường.
1.3.2- Môi trường pháp lý chưa thực sự tạo điều kiện thúc đẩy sự phát
triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
77
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Như đã phân tích ở phần trên, việc giao lại trách nhiệm quản lý thị
trường bảo hiểm cho Bảo Việt là một trong những tồn tại lớn nhất về môi
trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong giai đoạn này.
Nhưng nếu xem xét trong bối cảnh kinh tế xã hội cùng thời kỳ thì dường như
điều này là khó tránh khỏi bởi trong thời kỳ đầu đổi mới sang nền kinh tế
nhiều thành phần với mục tiêu vẫn phải đảm bảo vai trò chủ đạo của doanh
nghiệp Nhà nước thì chúng ta không thể thả lỏng thị trường bảo hiểm, một
lĩnh vực đóng vai trò không nhỏ của một nền kinh tế phát triển.
Tất nhiên, nếu chỉ giải thích sự kém phát triển của hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trong giai đoạn này là do thiếu một cơ quan chuyên trách đã
dẫn đến sự độc quyền của Bảo Việt là chưa đủ. Ta còn phải nhìn nhận ở một
góc độ lớn hơn đó chính là tổng thể của môi trường pháp lý, những thiếu sót
cũng như những tồn tại của nó đã không tạo cơ sở đảm bảo hay khuyến khích
nhằm định hướng cho sự phát triển chung của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Trong giai đoạn này, có rất nhiều sự tồn tại về mặt pháp lý cho kinh
doanh bảo hiểm như hệ thống văn bản chưa đầy đủ, chồng chéo, thiếu những
cơ chế thích hợp riêng cho các doanh nghiệp bảo hiểm... Ta có thể xem xét
tới một số tồn tại lớn về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm giai đoạn này:
*Thiếu một văn bản có tính pháp lý cao tạo hành lang ổn định cho
kinh doanh bảo hiểm:
Đối với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào mà trong đó có cả kinh
doanh bảo hiểm thì việc xây dựng một hành lang pháp lý có tính ổn định luôn
là sự cần thiết bởi nó chính là cơ sở quan trọng nhất để điều phối mọi hoạt
động kinh doanh đảm bảo các doanh nghiệp trong đó phải tuân thủ theo
những nguyên tắc nhất định phù hợp với mục tiêu, chính sách và định hướng
của Nhà nước cũng như các quy luật thị trường trong sự phát triển chung của
lĩnh vực kinh doanh đó.
78
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Nhưng có thể thấy, trong giai đoạn này ở nước ta chưa hề có một văn
bản cụ thể nào như vậy để điều phối cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Việc thiếu một văn bản có tính chất pháp lý cao cũng đồng nghĩa với việc ta
không thể xây dựng những nguyên tắc cơ bản, cũng như sự đảm bảo về
quyền lợi đối với các doanh nghiệp khi họ muốn tham gia vào thị trường bảo
hiểm. Thực tế đã chứng tỏ rằng, chỉ khi có một khuôn khổ pháp lý thực sự ổn
định thì các nhà đầu tư mới có thể yên tâm đầu tư vốn vào kinh doanh. Ngược
lại, đối với Nhà nước cũng chỉ khi đó mới có thể điều hành thị trường một
cách hiệu quả bởi các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường đều phải thực
hiện theo những nguyên tắc nhất định. Từ đó mới có thể thúc đẩy hoạt động
kinh doanh phát triển được.
Tóm lại, việc thiếu một văn bản có tính chất pháp lý cao cũng là một
trong những lý do để giải thích cho sự không phát triển của thị trường bảo
hiểm trong giai đoạn này. Đặc biệt có thể thấy, trong cùng giai đoạn, nhiều
ngành kinh doanh khác đã xuất hiện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Nhưng riêng hoạt động kinh doanh bảo hiểm vẫn mới chỉ dừng lại ở
một doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất là Bảo Việt, và thị trường bảo hiểm
cũng không phát triển so với giai đoạn trước đó là bao.
* Chưa tạo ra được cơ chế khuyến khích riêng nhằm thu hút các
doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh bảo hiểm.
Từ khi thực hiện chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào
nước ta, chóng ta mới có thể thấy được vai trò quan trọng của những chính
sách khuyến khích đầu tư. Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, sự khuyến
khích này được thể hiện rất rõ trong Luật đầu tư nước ngoài, hay trong các
Nghị định, các Thông tư ban hành. Sự khuyến khích đó đã thu được những
kết quả rất tích cực mà cụ thể là nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành
kinh tế trong những năm vừa qua đã trở thành một nguồn lực rất quan trọng
để phát triển kinh tế đất nước. Như vậy có thể thấy, để có thể thúc đẩy lĩnh
79
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fvực kinh doanh bất kỳ nào đó phát triển thì tạo ra các cơ chế khuyến khÝch
là hết sức cần thiết.
Thế nhưng trong giai đoạn này, chúng ta đã không tạo ra một cơ chế
khuyến khích nào đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Trong khi đó, như
đã phân tích ở trên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu phát triển của lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm, giai đoạn đang rất cần một động lực mạnh mà cụ thể là sự
khuyến khích, cơ chế ưu đãi về thuế, về vốn, nhân lực từ phía Nhà nước.
Điều này cũng là một phần nguyên nhân đã không tạo nên được động lực
thúc đẩy sự phát triển của hoạt động đầu tư nói riêng và lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm nói chung.
2- Thực trạng môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm từ năm 1993 đến trước khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời
2.1- Một số đặc điểm của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong giai
đoạn này.
Đây là thời kỳ thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam được định
hình trong hành lang pháp lý của Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh
doanh bảo hiểm. Thị trường dịch vụ bảo hiểm trong giai đoạn này bắt đầu sôi
động qua các hoạt động cạnh tranh từ năm 1995 và đặc biệt là từ năm 1996.
2.1.1- Giai đoạn 1993-1995
Sau gần hai năm thực hiện Nghị định 100/CP của Chính phủ, một thị
trường bảo hiểm đã thực sự hình thành ở Việt Nam. Thị trường bảo hiểm đạt
mức tăng trưởng khá cao. Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường đến năm
1995 đã đạt mức 1.026,47 tỷ đồng tăng gần 40% so với năm 1994. Địa bàn
khai thác kinh doanh bảo hiểm được mở rộng và phổ biến hơn do các Công ty
mới thành lập đã tổ chức mạng lưới chi nhánh và đại diện ở các địa phương.
Các nghiệp vụ bảo hiểm đã từng bước được đa dạng hóa và được quan tâm
triển khai đối với cả 3 nhóm nghiệp vụ bảo hiểm theo phân loại phổ biến của
quốc tế mà nền kinh tế có nhu cầu đó là: các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản; các
80
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fnghiệp vụ bảo hiểm con người; các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm. Hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm cũng hình thành và phát triển.
Tóm lại, thị trường bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn này đã đạt
được những chuyển biến sâu sắc mà các thời kỳ trước không có được.
[Nguồn: Báo cáo tổng quan tình hình thị trường bảo hiểm sau khi có
Nghị định 100/CP, Bộ Tài chính]
2.1.2- Giai đoạn 1996-2000
Trong giai đoạn 1996 - 2000, thị trường bảo hiểm đã phát triển đa
dạng với sự tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh cạnh tranh theo cơ chế thị trường, hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trong nước đã có những chuyển biến tích cực đạt hiệu quả
hơn với qui mô ngày càng mở rộng, công nghệ, phương thức quản lý, kinh
doanh từng bước được đổi mới và hiện đại hóa, đồng thời đã từng bước được
mở rộng phạm vi hoạt động sang lĩnh vực đầu tư tài chính.
Các nghiệp vụ bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm đã ngày càng được đa
dạng hóa và đáp ứng ngày một cao hơn nhu cầu phát triển của nền kinh tế –
xã hội. Trước năm 1994, Bảo Việt mới triển khai gần 20 sản phẩm bảo hiểm
và tập trung chủ yếu vào các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống thuộc lĩnh vực
bảo hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển..., bảo hiểm trách nhiệm và
bảo hiểm con người. Đồng thời, các doanh nghiệp bảo hiểm đã tích cực cải
tiến trong các khâu khai thác, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng; sửa
đổi bổ sung điều kiện, điều khoản, tỷ lệ phí bảo hiểm phù hợp để đáp ứng yêu
cầu bảo hiểm của các đối tượng khách hàng; giải quyết bồi thường đúng, đủ,
kịp thời đảm bảo ổn định kinh doanh cho khách hàng khi gặp rủi ro.
Công cụ quản lý giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thiết lập và từng bước hoàn thiện, tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển thuận lợi và có hiệu quả.
2.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nội dung chủ yếu
81
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong giai đoạn này tuy chưa có một luật cụ thể nào điều phối mà mới chỉ dừng lại ở mức Nghị định. Nhưng có thể thấy một sự tiến bộ hơn rất nhiều so với giai đoạn trước đó là đã xây dựng được một hành lang pháp lý ổn định, tạo ra được sức mạnh cần thiết điều tiết các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường. Hiệu quả rõ nét của nó là hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã và đang phát triển với tốc độ nhanh trong những năm vừa qua, tương ứng được với tốc độ phát triển kinh tế và từng bước khai thác một cách hiệu quả tiềm năng của thị trường, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế, xã hội của đất nước.
2.2.1- Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993.Sù ra đời của nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 được xem như là
một bước ngoặt lớn cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế đất nước. Với sự ra đời này, thị trường bảo hiểm thương mại nước ta đã có một cơ sở pháp lý ổn định để phát triển, điều này đã được chứng minh bởi tốc độ phát triển rất nhanh của thị trường bảo hiểm trong thời gian qua.
a) Ưu điểm của nghị định 100/CP. Khắc phục những tồn tại về môi trường pháp lý trong giai đoạn trước
Như đã phân tích ở trên, trong suốt cả một thời gian dài (1987-1993), môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn rất nhiều thiếu sót đã dẫn đến tình trạng kém phát triển của cả một ngành kinh tế quan trọng này. Sự thiếu sót này thể hiện ở nhiều mặt từ khâu ban hành các văn bản pháp quy đến quản lý Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm. Sự ra đời của Nghị định 100/CP đã khắc phục được rất nhiều tồn tại về môi trường pháp lý. Đây có thể coi là một cơ sở để hướng dẫn và điều tiết hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bởi trong Nghị định đã quy định khá cụ thể các vÊn đề liên quan tới việc tiến hành kinh doanh bảo hiểm, vấn đề quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm...
Giữ vai trò là một văn bản có tính pháp cao nhất, Nghị định 100/CP đã khắc phục được tình trạng buông lỏng quản lý thị trường như trước đây vào trong tay của Bảo Việt, cụ thể là cho phép xây dựng nên một cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động ban hành chính
82
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
sách pháp luật, xây dựng các tiêu chuẩn điều kiện... cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Tuy nhiên, cũng giống như rất nhiều các văn bản pháp luật khác ở nước ta, Nghị định 100/CP mới chỉ giải quyết được những nhu cầu tại thời điểm đó chứ chưa tạo được sự đảm bảo về mặt lâu dài cũng như chưa tính toán tới xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm. Cho nên đã béc lộ nhiều sót cần có sự thay đổi phù hợp.
Đẩy mạnh sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đẩy mạnh sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm có thể nói
là một trong những mục tiêu lớn nhất trong sù ra đời của nghị định 100/CP. ĐÓ thị trường bảo hiểm có thể phát triển đòi hỏi phải có sự cạnh tranh lành mạnh, sự đảm bảo của nhà nước trong sự cạnh tranh đó. Nghị định 100/CP đã đáp ứng được đòi hỏi này.
Cụ thể, Nghị định 100/CP đã cho phép hầu hết các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm được tiến hành kinh doanh bảo hiểm tại thị trường Việt Nam bao gồm Công ty cổ phần, Công ty bảo hiểm tương hỗ, Công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài, chi nhánh các Công ty bảo hiểm nước ngoài. Đồng thời trong Nghị định 100/CP cũng nêu rõ: nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm và Nhà nước cũng đảm bảo lợi Ých hợp pháp cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
Như vậy, Nghị định 100/CP ra đời đã xây dựng được nền tảng cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bằng việc tạo ra một cơ sở cho sự cạnh tranh. Đó cũng chính là động lực cho sự phát triển của bất kỳ lĩnh vực kinh tế nào.
Tăng cường sự quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Mục tiêu tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng được thể hiện rõ. Cơ cấu quản lý Nhà nước được xây dựng rất cụ thể: Bộ Tài chính là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước, dưới Bộ Tài chính là Vụ quản lý các ngân hàng và các Công ty bảo hiểm . Vụ này là cơ quan trực tiếp tiến hành quản lý các hoạt động trên thị trường bảo hiểm.
2.2.2- Nghị định 74/CP ngày 14/6/1997.
83
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Nghị định 74/CP là Nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 100/CP ra đời trước đó trên tinh thần sửa đổi để phù hợp hơn với tình hình thực tế và tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhưng vẫn chưa tạo bước ngoặt trong việc tạo ra một môi trường pháp lý hoàn thiện làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm một cách lâu dài.
2.2.3- Các thông tư hướng dẫn khác .
Ngoài hai Nghị định có tính chất rất quan trọng định hướng cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là 100/CP ngày 18/12/1993 và 74/CP ngày 14/06/1997 thì có các văn bản pháp lý khác, với trên 20 văn bản là những Thông tư hướng dÉn chi tiết của Bộ Tài chính và các bộ khác về vấn đề đã nêu trong hai Nghị định trên.
2.3. Những vấn đề còn tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong giai đoạn này.
2.3.1- Hệ thống văn bản còn rời rạc, không chi phối hoạt động kinh doanh một cách tổng thể.
Tại nước ta, kể từ năm 1993 đã có Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 đóng vai trò như một văn bản có tính pháp lý cao nhất làm công cụ điều tiết thị trường cũng như hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nhưng có thể thấy, sau Nghị định 100/CP ra đời vẫn còn có nhiều các Nghị định khác (xem dẫn chứng ở phần trên) do nhiều Bộ ngành khác nhau ban hành. Tuy mỗi nghị định có nội dung liên quan tới một vấn đề khác nhau, nhưng đối với một doanh nghiệp bảo hiểm thì trong hoạt động kinh doanh lại luôn đòi hỏi có sự tương hỗ, phối hợp trong các nghiệp vụ mà mình tiến hành.
Việc ban hành các văn bản pháp luật một cách thiếu đồng bộ, rời rạc không chi phối hoạt động kinh doanh một cách tổng thể đã gây ra không Ýt khó khăn cho doanh nghiệp, mà có thể thấy là các doanh nghiệp phải có sự thay đổi lại nhiều trong cơ cấu hoạt động của mình cho phù hợp. Đặc biệt là khó tạo nên sự khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Thực tế là suốt từ năm 1993 đến năm 1998, hầu như không có
84
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
một doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tiến hành kinh doanh tại thị trường Việt Nam mà chỉ có mặt dưới hình thức mở văn phòng đại diện.
2.3.2- Nhiều vấn đề liên quan nằm trong các bộ luật, các luật khác nhau dẫn đến sự thiếu đồng bộ.
Như đã phân tích ở trên, việc hoạt động kinh doanh bảo hiểm chịu sự chi phối bởi nhiều bộ luật, luật khác nhau là một điều tất yếu không chỉ tại Việt Nam mà còn tại hầu như tất cả các nước trên thế giới. Tại nước ta, hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngoài chịu sự chi phối của nghị định 100/CP còn chịu sự chi phối của Bộ luật dân sự, Luật hàng hải 1990, Luật thương mại, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc các bộ luật, các luật này quy định chung về một vấn đề nhưng lại có nội dung khác nhau là phổ biến đã dẫn tới tình trạng đan xen, dẫm chân nhau gây khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và cả trong sự quản lý của Nhà nước.
2.3.3- Các nghiệp vụ được phép tiến hành còn Ýt chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường.
Thị trường Việt Nam với số dân lên tới 80 triệu người thì có thể khẳng định rằng tiềm năng để phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm là vô cùng lớn. Tuy nhiên, theo đánh giá thì thị trường bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn này mới chỉ khai thác được khoảng 10% tiềm năng.
2.3.4- Vấn đề mở cửa thị trường bảo hiểm cho các Công ty nước ngoài.
Để có thể mở cửa cần thiết phải ban hành luật kinh doanh bảo hiểm. Trong giai đoạn này mới chỉ có Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm, các Công ty nước ngoài hoạt động vẫn chủ yếu theo các quy định của Luật đầu tư nước ngoài.
2.3.5- Quy định về mức tái bảo hiểm bắt buộc còn chưa hợp lý: quá cao so với thông lệ quốc tế
2.3.6- Nhiều vấn đề còn chưa được đề cập trong các văn bản pháp lý.Ngoài các hạn chế kể trên Nghị định 100/CP còn chưa đề cập đến một
số vấn đề như:Về hợp đồng bảo hiểm:
85
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Về việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm giữa các Công ty bảo hiểm với nhau trong trường hợp thanh lý, phá sản.
Việc thay đổi cơ cấu chủ sở hữu trong Công ty bảo hiểm, đặc biệt là hình thức Công ty liên doanh, Công ty cổ phần.
3. Sù ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam.Trong điều kiện mở cửa nền kinh tế sẽ phát triển với tốc độ cao,
trong khi đầu tư nước ngoài vào trong nước tăng nhanh, đời sống nhân dân đang được cải thiện thì nhu cầu đòi hỏi phải có môi trường pháp lý đầy đủ và hoàn thiện là một điều tất yếu. Hệ thống pháp luật về bảo hiểm cho tới năm 2000 chưa đáp ứng những yêu cầu hội nhập quốc tế trong tiến trình Việt Nam đã gia nhập ASEAN và đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Từ đó, qua nhiều lần sửa đổi bổ sung bản dự thảo Luật kinh doanh bảo hiểm, ngày 09/12/2000 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm, có hiệu lực từ ngày 01/04/2001 bao gồm 9 chương 129 điều. Luật này được xây dựng trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện các văn bản pháp luật trước đó về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tham khảo kinh nghiệm và thực tiễn lập pháp của các nước Châu Âu và các nước trong khu vực. Ngày 01/08/2001, Chính phủ ban hành Nghị định 42/CP và 43/CP hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
4. Một số nhận xét chung về luật kinh doanh bảo hiểm Vào những thời kỳ khác nhau, Nhà nước đã ban hành các văn bản
pháp luật phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định đời sống và sản xuất. Thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp, bảo hiểm là một trong những công cụ tài chính kiểm tra giám sát giai đoạn thứ hai của quá trình sản xuất, đồng thời thực hiện chức năng đối ngoại hợp tác quốc tế tài chính thông qua hoạt động tái bảo hiểm và đại lý giám định hàng nhập khẩu cho các Công ty bảo hiểm thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu.
Hoạt động kinh doanh Bảo hiểm từng bước củng cố vị trí trong nền kinh tế quốc dân và bổ sung cho các chính sách xã hội của Nhà nước với việc triển khai các loại hình bảo hiểm tai nạn hành khách đầu năm 1981. Việc ban
86
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
hành Nghị định 30/HĐBT ngày 10/3/1988 đánh dấu một bước chuyển mới về hoạt động xây dựng pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm, tạo tiền đề cho việc phát triển bảo hiểm và hội nhập quốc tế, bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp cho những người tham gia giao thông vận tải và bị tai nạn giao thông.
Nhà nước đã ban hành nhiều đạo luật trong lĩnh vực kinh tế có các quy định về hoạt động bảo hiểm như Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng, Luật Dầu khí. Nghị định 100/CP đánh dấu một bước chuyển lớn của hoạt động bảo hiểm Việt Nam trong việc đa dạng hóa các doanh nghiệp bảo hiểm, Nhà nước từ bỏ việc độc quyền, mở cửa trong lĩnh vực bảo hiểm, hoạt động bảo hiểm phát triển một cách lành mạnh; đa phương hóa các hoạt động kinh tế, đối ngoại, Bộ luật Dân sự được ban hành, thêm một lần nữa bổ sung vào hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm, các quy định có tính chất “khung” nhất cho hoạt động bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm đã tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý về bảo hiểm, cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm hoạt động trên một nền tảng pháp luật đầy đủ hơn và phù hợp hơn..
Có thể thấy rằng tuy đã có bước tiến quan trọng trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm, song hệ thống văn bản đến nay vẫn chưa tạo được môi trường pháp lý toàn diện, đầy đủ và vững chắc với hiệu lực cao, chưa đáp ứng được việc khai thác tiềm năng của thị trường bảo hiểm . Đặc biệt là còn nhiều hạn chế trong việc thiếu đồng bộ và chưa đầy đủ. Đây cũng chính là những vấn đề cần khắc phục của môi trường pháp lý Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
87
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
chương III
bảo hiểm Việt Nam trước thềm hội nhập và giải pháp đẩy mạnh sự phát triển của ttbh Việt Nam đến 2010
I. Bảo hiểm Việt Nam vào hội nhập
1. Xu hướng phát triển thị trường bảo hiểm thế giới.
Nền kinh tế thế giới cuối thế kỷ 20 được đánh dấu bởi sự phát triển cực kỳ
thịnh vượng của nhiều tập đoàn kinh tế, các công ty đa quốc gia và xuyên
quốc gia. Sự phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn này là nhân tố quan trọng
nhất quyết định đến sự thành công của nền kinh tế nhiều quốc gia nói riêng
cũng như nền kinh tế thế giới nói chung. Quá trình sáp nhập diễn ra không
chỉ trên lĩnh vực sản xuất (máy tính, ôtô...), mà còn cả về phân phối, tiêu
dùng, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. .. điển hình là
88
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fquá trình sáp nhập như vụ ngân hàng Tokyo sáp nhập với ngân hàng
Mitshubishi. Trong lĩnh vực bảo hiểm, hàng tháng đều diễn ra nhiều vụ sáp
nhập, mà đứng đầu là các tập đoàn bảo hiểm lớn như AIG, Prudential, Swis
Re..., thông tin này được cập nhật thường xuyên trên trang web fsonline.com
(Financial service online).
Nếu ở năm 1987, thị phần của 5 công ty tái bảo hiểm cỡ lớn thế giới chiếm khoảng 36% tổng số phí tái bảo hiểm của thế giới, thì ở năm 1997 chiếm trên 43%. Và cho đến nay, 25 công ty tái bảo hiểm lớn của thế giới đang kiểm soát 77,6% thị trường bảo hiểm thế giới. (nguồn : Asia Ins. Review 23/04/2003)
Quá trình toàn cầu hóa kinh doanh dịch vụ bảo hiểm và tập trung hóa các dịch vụ tái bảo hiểm đang diễn ra tích cực hiện nay, góp phần hình thành các tập đoàn tái bảo hiểm khổng lồ. Ví dụ, sau khi tuyên bố sáp nhập vào cuối tháng 5/2000, tập đoàn General Cologne Re đã trở thành tập đoàn tái bảo hiểm khổng lồ, gồm các công ty General Re (chủ yếu hoạt động ở Mỹ), Cologne Re (hoạt động ở Đức và một số nước khác, Cologne Re (Dublin) - tái bảo hiểm tài chính; General Re (Châu Âu) - hoạt động tái bảo hiểm trên thị trường Lodon, General Star- hoạt động bảo hiểm trực tiếp trên thị trường London, DPman - chi nhánh của hãng Lloyds hoạt động tái bảo hiểm thông qua các môi giới. Nói chung, tập đoàn này có các địa lý, chi nhánh và công ty con ở 75 nước. Nếu ở Berksline Hatkeway với tổng số vốn tư bản hóa của tập đoàn vào khoảng 110 tỉ Đôla và thành lập tập đoàn gồm một số công ty bảo hiểm chủ yếu hoạt động ở Mỹ, như National Indemnity (được xếp hạng) với tổng doanh thu phí bảo hiểm hàng năm khoảng 955,5 triệu Đôla, thì có thể hình dung được quy mô các quá trình tập trung vốn và toàn cầu hóa đang diễn ra tích cực trên thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới.
Cũng như trong lĩnh vực bảo hiểm trực tiếp, tập trung hóa sáp nhập và hợp nhất các doanh nghiệp tái bảo hiểm là nguyên nhân giảm số lượng công ty tái bảo hiểm. Ví dụ, ở Mỹ chỉ riêng trong thời gian 1985 - 1996, số công ty tái bảo hiểm đã giảm 25% (từ 97 công ty xuống còn 72 công ty). Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, quá trình sáp nhập hợp nhất như vậy vẫn còn
89
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
tiếp diễn, đặc biệt mạnh là ở các doanh nghiệp tái bảo hiểm có doanh thu hàng năm khoảng 50-200 triệu Đôla Mỹ. [20]
(Nguồn: Asia Ins . Review 23/07/2003)
Theo bản tin mới nhất của thị trường Lloyd's vào tháng 7/2003 ủy ban
thị trường Lloyd's đã đánh giá 6 xu hướng chủ yếu trong thị trường bảo hiểm
toàn cầu trong tương lai.
- Sự toàn cầu hóa.
- Sự hợp nhất giữa các nhà bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm.
- Thương phẩm hóa sản phẩm bảo hiểm.
- Khách hàng ngày càng tinh vi hơn và việc giữ lại rủi ro phổ biến hơn.
- Có nhiều yếu tố cạnh tranh mới.
- Công nghệ phát triển nhanh chóng.
Mét trong 6 xu hướng lớn đó là xu hướng sáp nhập giữa các công ty
bảo hiểm. Sáp nhập trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ hiện nay đã giúp các
công ty tăng cường sức mạnh đang trở thành xu thế tất yếu hiện nay không
chỉ trong lĩnh vực bảo hiểm.
2. Xu hướng phát triển thị trường Việt Nam
Sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu hướng phát triển chung của thế giới. Thế nhưng nó cũng có sự khác
biệt nhất định do các điều kiện phát triển khác nhau.
Với mức độ phát triển hiện tại: doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị
trường Việt Nam khi kết thúc năm 2002 đạt 7.707 tỉ đồng, trong đó doanh thu
phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 3.062 tỉ đồng và doanh thu phí bảo hiểm nhân
thọ đạt 4.645 tỉ đồng. Như vậy, trong vòng 8 năm từ 1995 đến 2002, doanh
thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam tăng đến gần 6 lần. Còn doanh
thu bảo hiểm nhân thọ từ 1 tỉ đồng năm 1996 đã tăng gấp vài ngàn lần.
Những con số này chứng tỏ thị trường bảo hiểm tại Việt Nam đang rất có
tiềm năng.
90
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Trong tương lai thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ thu hút mạnh mẽ
đối tác nước ngoài, thị trường sôi động hơn. Hiện tại, thị trường bảo hiểm
Việt Nam cũng được đánh giá là bắt đầu cơ hội cho sự cạnh tranh. Theo ông
Trương Mộc Lâm, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Hiệp hội bảo hiểm Việt
Nam thì sự ra đời của Công ty liên doanh bảo hiểm liên hiệp UIC, tiếp theo là
Công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài Chinfon Manulife (nay là
Manulife), Prudential và công ty 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực bảo
hiểm phi nhân thọ Allianz, công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Óc, công ty
liên doanh bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh - CMG và Groupama là một bước
chuyển hết sức mạnh mẽ trong thị trường bảo hiểm Việt Nam ở cả hai lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Hiện tại Việt Nam có 18 công ty bảo
hiểm được cấp phép, chưa kể 2 công ty môi giới bảo hiểm. Và nhìn vào giới
kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam có thể thấy đủ các thành phần như 3 công
ty bảo hiểm sở hữu Nhà nước, 3 công ty bảo hiểm cổ phần, 4 công ty bảo
hiểm 100% vốn nước ngoài, 7 công ty liên doanh trong đó có 4 công ty hoạt
động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
Sự góp mặt của các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và các
doanh nghiệp bảo hiểm với một bên là các đối tác Việt Nam và một bên là
các đối tác từ các quốc gia có nền tài chính và dịch vụ phát triển đã tạo cho
thị trường Việt Nam mét sắc thái mới, năng động hơn, cạnh tranh hơn và thúc
đẩy hoạt động của các công ty bảo hiểm. Đôi lúc, sự cạnh tranh đã lên tới
đỉnh cao và không khoan nhượng.
Tuy nhiên, với cam kết của Việt Nam sau khi hội nhập với AFTA, sau
khi ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và hòa nhập với kinh tế thế giới
sau khi gia nhập WTO trong thời gian tới, thị trường bảo hiểm chắc chắn sẽ
có những thay đổi mới. Theo đó, Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa thị trường bảo
hiểm trong vòng vài năm tới đây và ngày càng có nhiều các công ty và tập
đoàn bảo hiểm lớn của nước ngoài sẽ gia nhập thị trường này. Điều này dẫn
tới việc các công ty và tập đoàn bảo hiểm trong nước sẽ phải đối mặt với
91
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fcạnh tranh hết sức gay gắt. Thực sự thì cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm
phi nhân thọ và nhân thọ đã được nhìn thấy trong thị trường hiện tại, khi mà
sự hội nhập đang đến từ từ. Điều này có thể nhìn thấy qua sự cạnh tranh rất
gắt gao trong vấn đề giá phí bảo hiểm và dịch vụ khách hàng. Trong lĩnh vực
bảo hiểm phi nhân thọ, việc giảm giá phí bảo hiểm trong nhiều sản phẩm đã
là một vấn đề nóng từ nhiều năm nay và khiến cho các nhà kinh doanh bảo
hiểm phải đau đầu. Còn trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, cạnh tranh trong
cung cấp các dịch vụ đang có vẻ nghiêng phần ưu thế về các công ty bảo
hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài vốn có công nghệ tốt và rất chịu khó
đầu tư vào việc tung ra các dịch vụ cũng như nâng cấp chất lượng dịch vụ.
Song, có thể nhìn thấy sự cạnh tranh sẽ tăng lên rất mạnh mẽ khi hội nhập
xảy ra vì khi có càng nhiều các nhà bảo hiểm lớn trên thế giới vào kinh doanh
tại Việt Nam, họ sẽ dần giành được thế bình đẳng khi mà các lá chắn của sự
bảo hộ từ Nhà nước với ngành bảo hiểm trong nước giảm bớt. Hơn nữa, họ
mang theo vào Việt Nam mét cung cách điều hành kinh doanh có hiệu quả
hơn hẳn.
Các công ty bảo hiểm Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh từ việc cung cấp ngày càng nhiều hơn các sản phẩm bảo hiểm khi có
ngày càng nhiều các nhà bảo hiểm mới vào thị trường. Và những nhà bảo
hiểm này có ưu thế trong việc chỉ cần đưa sản phẩm mà họ đã bán sẵn trong
khu vực để bán tại Việt Nam sau khi có chỉnh sửa chút Ýt, thay vì phải mất
nhiều thời gian thiết kế các sản phẩm mới. Đồng thời họ cũng sẵn sàng cung
cấp hàng loạt các sản phẩm dịch vụ tài chính tổng hợp.
Các nhà kinh doanh bảo hiểm có kinh nghiệm cũng có thể nhìn thấy
sự thay đổi của thị trường từ khía cạnh những người mua bảo hiểm khi hội
nhập kinh tế. Khác với những năm đầu làm quen với các khái niệm liên quan
tới sản phẩm bảo hiểm và các dịch vụ kèm theo, các khách hàng sẽ ngày càng
hiểu rõ và nhận thức được nhiều hơn nhu cầu bảo hiểm của chính họ. Những
nhu cầu mới nảy sinh kèm theo các rủi ro mới.
92
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
Trong khi đó, thị trường này cũng sẽ ghi nhận sự đua tranh quyết liệt
của các công nghệ được đưa vào áp dụng trong kinh doanh bảo hiÓm và sự
gia tăng quảng bá cho các thương hiệu mới và cũ có mặt trên thị trường.
Để cạnh tranh và phát triển trong hội nhập, các công ty bảo hiểm
trong nước ở Việt Nam chắc chắn sẽ phải tìm tới việc liên kết, hợp nhất. Bởi
vì chỉ có liên kết, hợp nhất với một chiến lược chắc chắn thì họ mới có thể
giữ vững thị phần và phát triển tiếp tục. Đây là cách thức có vẻ hiệu quả hơn
cả. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm việc các công ty tập trung
vào việc tự gia tăng tài sản của bản thân họ sẽ cần quá nhiều thời gian, công
sức và có vẻ không khả thi.
Nếu đứng trên xu thế hợp nhất và liên kết, việc từ nhiều công ty bảo
hiểm trong nước hiện nay, sau khi hợp nhất có thể thành hai công ty lớn, một
công ty chuyên về bảo hiểm nhân thọ và một công ty chuyên về bảo hiểm phi
nhân thọ là một trong những phương án đang được các cấp thẩm quyền bàn
tính tới. Và hai công ty này cũng có thể được cổ phần hóa bằng cổ phần của
các doanh nghiệp Nhà nước hay các tổng công ty lớn. Một số nước tại khu
vực, ví như Malaysia đã làm điều này khi họ yêu cầu 56 công ty bảo hiểm
trong nước sáp nhập lại thành 10 - 15 công ty bảo hiểm để đẩy mạnh sự tập
trung hóa, có sức mạnh cạnh tranh trong hội nhập. Ngoài ra, việc các công ty
bảo hiểm trong nước tiếp tục mở rộng liên kết với các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng có mạng lưới khách hàng rộng khắp cũng sẽ là một hình thức đáng
quan tâm.
Và hơn bao giờ hết, để cạnh tranh trong hội nhập, các công ty bảo
hiểm Việt Nam sẽ phải quan tâm tới việc cải thiện năng suất và hiệu quả, làm
tốt công tác chuyên môn cũng như quảng bá mạnh mẽ thương hiệu của họ ra
công chúng.
Như vậy, sự mở cửa và hội nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam là tất
yếu. Và để có thể mở cửa và hội nhập tốt chúng ta cần phải có chiến lược
93
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fphát triển thích hợp, cải cách trong quản lý thị trường, hoàn thiện môi trường
pháp lý và cả những nỗ lực thay đổi của chính các doanh nghiệp bảo hiểm..
II. các giải pháp vĩ mô cho thị trường bảo hiÓm việt nam
Thị trường tài chính là một thị trường vô cùng quan trọng đối với mỗi
quốc gia. Nó quyết định rất lớn đến tốc độ tăng trưởng cũng như sự phát triển
ổn định của nền kinh tế. Trong đó thị trường bảo hiểm đang ngày càng có vai
trò quan trọng. Mặt khác, để phát triển được thị trường bảo hiểm phải có sự
nỗ lực từ nhiều phía: từ các công ty bảo hiểm, các nhà đầu tư, các cơ quan
quản lý. Trong đó, các cơ quan quản lý và các chính sách phát triển vĩ mô
đóng vai trò chủ đạo. Trong tình hình hiện nay, Nhà nước cần phải có những
chiến lược phù hợp: bảo hộ ở một mức độ nhất định để có thể hội nhập và
phát triển thị trường bảo hiểm. Đồng thời phải có chế độ quản lý giám sát
chặt chẽ để đảm bảo cho thị trường ổn định và cạnh tranh lành mạnh.
Các giải pháp vĩ mô bao gồm:
1. Đa dạng hoá sở hữu ngành bảo hiểm.
Theo "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm
2003 đến năm 2010", việc phát triển và sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục tiêu phát triển các loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
gốc, tái bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ theo hướng đa
dạng hình thức sở hữu bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tổ chức bảo hiểm tương hỗ.
Các doanh nghiệp Nhà nước không được dùng vốn Nhà nước để
thành lập doanh nghiệp bảo hiểm mới hoặc công ty cổ phần bảo hiểm mới
mang tính chuyên ngành, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước hiện nay để
nâng cao năng lực tài chính và năng lực hoạt động, giữ được thị phần lớn trên
thị trường trong nước và tham gia thị trường bảo hiểm quốc tế.
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) sẽ được xây dựng thành
một tập đoàn tài chính đa năng hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân
94
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fthọ, nhân thọ, đầu tư, chứng khoán. Trong đó hoạt động chủ yếu là kinh
doanh bảo hiểm và là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước duy nhất. Bảo Việt
sẽ tăng vốn điều lệ từ 586 tỉ đồng (hiện nay) lên mức 3.000 tỉ đồng (năm
2005) và 5.000 tỉ đồng (2010).
Các công ty bảo hiểm Nhà nước khác như công ty bảo hiểm Tp Hồ
Chí Minh (Bảo Minh), công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare) và
công ty bảo hiểm dầu khí (PVI) sẽ tiến hành cổ phần hóa. Bảo minh chuyển
thành công ty bảo hiểm cổ phần có vốn Nhà nước chi phối, chuyên kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ và thực hiện các loại hoạt động khác như: đầu
tư vốn, dịch vụ tài chính, trong đó bảo hiểm là hoạt động kinh doanh chủ yếu.
Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI) 100% vốn Nhà nước, trực thuộc
Tổng công ty dầu khí Việt Nam sẽ chuyển thành cổ đông của Bảo Minh.
Phần vốn Nhà nước của PVI sẽ là cổ phần của Tổng công ty dầu khí Việt
Nam trong Bảo Minh.
Hiện nay, số vốn điều lệ của Bảo Minh là 67 tỉ đồng. Trong 2 năm
2003 - 2004, Nhà nước sẽ có cơ chế để bổ sung vốn điều lệ cho Bảo Minh đủ
70 tỉ đồng, theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, đánh giá
lại giá trị tài sản và vốn của Bảo Minh để xác định vốn của Bảo Minh trước
khi thực hiện cổ phần hóa. Bảo Minh phát hành cổ phiếu mới (trị giá tối thiểu
500 tỉ đồng) để tăng vốn điều lệ và mở rộng cho các tổng công ty Nhà nước
có nhu cầu tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Trường hợp cả hai
nguồn vốn này chưa đủ 1.100 tỉ đồng trong giai đoạn 2005 đến 2010, Bảo
Minh sẽ bổ sung vốn điều lệ còn thiếu từ các nguồn: lợi nhuận để lại, chuyển
nguồn vốn dự phòng dao động lớn, các quỹ dự trữ tự nguyện bổ sung vào vốn
điều lệ hoặc tiếp tục phát hành thêm cổ phiếu mới.
Giống như Bảo Minh, Vinare còng chuyển thành công ty cổ phần, do
vốn Nhà nước chi phối, hoạt động chuyên lĩnh vực tái bảo hiểm duy nhất trên
thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đến năm 2010, Vinare có đủ năng lực tài
chính, năng lực kinh doanh để tham gia thị trường tái bảo hiểm quốc tế. Đến
95
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fnăm 2005, Vinare đủ sức giữ vai trò điều tiết thị trường tái bảo hiểm Việt
Nam. Không cho phép thành lập thêm doanh nghiệp tái bảo hiểm. Nhà nước,
không đầu tư vốn để thành lập thêm doanh nghiệp bảo hiểm tái bảo hiểm
100% vốn Nhà nước.
Việc cổ phần hóa Vinare sẽ được tiến hành theo hướng: vốn của
Vinare (vốn Nhà nước) giữ cổ phần chi phối với sự tham gia góp vốn của các
doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường nhằm nâng cao mức
giữ lại để hạn chế việc chuyển phí tái bảo hiểm ra nước ngoài, duy trì sù an
toàn và ổn định của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Củng cố công ty bảo hiểm
liên doanh Samsung Vina trực thuộc Vinare góp vốn thành lập các công ty
đầu tư, góp vốn vào các dự án lớn, phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án phục vụ
yêu cầu sản xuất, kinh doanh.
Hiện nay, số vốn điều lệ của Vinare là 40,5 tỉ đồng. Trong 2 năm
2003 - 2004. Nhà nước có cơ chế để bổ sung vốn điều lệ cho đủ 70 tỉ đồng,
theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm. Vinare phát hành cổ phiếu mới
(trị giá tối thiểu 200 tỉ đồng) để hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Như vậy, vốn điều lệ của Vinare sẽ bao gồm phần vốn sau khi đánh
giá lại giá trị và vốn cổ phần mới phát hành. Trường hợp cả hai nguồn vốn
này chưa đủ 500 tỉ đồng, trong giai đoạn 2005 đến 2010 Vinare sẽ bổ sung số
vốn điều lệ còn thiếu từ các nguồn: lợi nhuận để lại, chuyển nguồn vốn dự
phòng dao động lớn, các quỹ dự trữ tự nguyện bổ sung vào vốn điều lệ hoặc
tiếp tục phát hành thêm cổ phiếu mới.
2. Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín
thác và công ty quản lý vốn đầu tư.
Mét trong những giải pháp lớn nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược
phát triển ngành bảo hiểm đến năm 2010 là việc sử dụng tối đa, có hiệu
quả nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo đó, các giải
pháp sẽ thực hiện bao gồm, cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm thành lập
quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý vốn đầu tư theo quy định của
96
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fpháp luật để tạo cầu nối giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nhu cầu vốn dài
hạn trên thị trường. Khuyến khích các hình thức đầu tư dài hạn, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng phí bảo hiểm thu được đầu tư tại
Việt Nam được hưởng chế độ đầu tư bình đẳng như các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước.
Các doanh nghiệp được phép phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu và
tham gia thị trường chứng khoán, đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh và xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng.
Bảo hiểm là một tổ chức trung gian tài chính lớn của nền kinh tế, có
chức năng huy động các nguồn vốn và cung ứng vốn trung, dài hạn cho đầu
tư phát triển. Trên thế giới, các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ là người cung cấp chính nguồn vốn cho các quỹ
đầu tư trên thị trường vốn. Do công cụ đầu tư chủ yếu của quỹ đầu tư là
chứng khoán, các quỹ đầu tư có chức năng thúc đẩy sự phát triển thị trường
chứng khoán và tạo ra tính thanh khoản của thị trường này. Sự hình thành các
quỹ đầu tư độc lập của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tạo thành trung tâm thu
hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nhỏ thành nguồn vốn lớn, ổn định. Chính
vì vậy, quỹ đầu tư được coi là chiếc cầu nối tốt nhất giữa các nguồn vốn ngắn
hạn và nhu cầu vốn dài hạn trên thị trường chứng khoán.
Tính đến năm 2002, tổng số nguồn đầu tư là 6.700 tỉ đồng, theo dự
kiến đến năm 2010, tổng số nguồn vốn đầu tư đạt 90.000 tỉ đồng. Như vậy,
quỹ đầu tư bảo hiểm có vai trò rất lớn trong giai đoạn đầu của thị trường
chứng khoán Việt Nam khi mà các dự án, các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh đang cần vốn còn các nhà đầu tư chưa quen với việc đầu tư. Các doanh
nghiệp có đủ điều kiện về vốn, quy mô dự phòng lớn và khả năng đầu tư dài
hạn sẽ được xem xét cho phép thành lập quỹ đầu tư theo các quy định của
pháp luật.
Để các doanh nghiệp bảo hiểm tăng mạnh tỉ trọng đầu tư vào thị
trường vốn thì ngoài giải pháp chuyển dịch cơ cấu theo hướng nâng tỉ trọng
97
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fcác sản phẩm bảo hiểm nhân thọ dài hạn, Nhà nước cũng cần phải có các
chính sách đồng bộ cho việc phát triển thị trường vốn trong nước.
3. Sửa đổi, hoàn thiện môi trường pháp lý
Có thể thấy hệ thống pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam cho đến
tháng 6/2001 khá đồ sộ, nhưng nếu xét về số lượng các văn bản được ban
hành lại rất phân tán. Mỗi bộ luật, luật chuyên ngành lại đề cập tới một vấn
đề trong khi các vấn đề đó hoàn toàn có thể đưa vào trong Luật kinh doanh
bảo hiểm. Sự phân tán còn thể hiện ở các văn bản hướng dẫn. Các văn bản
hướng dẫn thực hiện Luật kinh doanh bảo hiểm không hướng dẫn thực hiện
các quy định về bảo hiểm hàng hải mà để các hướng dẫn thực hiện, Bộ luật
Hàng hải hướng dẫn luôn các quy định về bảo hiểm mà Bộ luật đề cập. Việc
phân tán như vậy dẫn tới việc tra cứu, hệ thống hết sức khó khăn, đặc biệt khi
cần trích dẫn tham chiếu.
Đặc biệt có những quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm
hoàn toàn trái ngược với thực tiễn kinh doanh và thực tiễn pháp luật về bảo
hiểm, ví dụ: điều 572 Bé luật Dân sự quy định: “Hợp đồng bảo hiểm tự
nguyện là sự thỏa thuận giữa các bên về các điều kiện bảo hiểm và mức phí
bảo hiểm”, trong khi hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng có tính chất chấp
thuận. Điều khoản, điều kiện bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm hoặc là do Bộ Tài
chính ban hành, hoặc là do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo và trình Bộ Tài
chính chấp thuận như quy định của điều 18 Nghị định 42/2001NĐ-CP ngày
1/8/2000. Hơn nữa, các văn bản pháp luật khác nhau sử dụng các định nghĩa,
khái niệm hay từ vựng khác nhau để chỉ cùng một việc. Lại còn có những quy
định pháp luật trái ngược nhau về nội dung. Ví dụ trong khi khoản 3 điều 203
quy định: “Đơn bảo hiểm có thể được cấp theo hình thức đơn bảo hiểm đích
danh, đơn bảo hiểm theo lệnh hoặc đơn bảo hiểm vô danh” thì khoản 4 lại
quy định phải có tên người được bảo hiểm hoặc có quyền lợi được bảo hiểm
và điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm cũng quy định về nội dung của Hợp
đồng bảo hiểm bao gồm “Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua
98
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fbảo hiểm, người được bảo hiÓm hoặc người thụ hưởng”. Như vậy không thể
có trường hợp đơn bảo hiểm vô danh như quy định của khoản 3 điều 203.
Một sè quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm không có
hướng dẫn thi hành làm cho việc thực hiện hết sức khó khăn. Ví dụ như khi
quy định nguyên tắc tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, Luật kinh doanh bảo
hiểm quy định: “Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia
bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam” mà không có
hướng dẫn nên tình trạng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nhập
CIF vẫn là phổ biến
Sửa đổi các quy định pháp luật về bảo hiểm chưa chuẩn xác, không
phù hợp với thực tiễn kinh doanh như điều 572 của Bộ luật dân sự, các quy
định tại Bộ luật hàng hải đã nêu.
Thống nhất sử dụng khái niệm và thuật ngữ trong bảo hiểm. Việc này
không phải chỉ đơn thuần là làm trong sáng các thuật ngữ pháp lý mà còn
tránh được các tranh chấp không cần thiết có thể phát sinh từ việc sử dụng
các khái niệm và từ ngữ này. Ví dụ trong các điều khoản bảo hiểm nhân thọ
mà Bộ Tài chính ban hành sử dụng thuật ngữ “giá trị giải ước” để chỉ khoản
tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người mua bảo hiểm sau khi hợp
đồng bị hủy bỏ, nếu hợp đồng đã có hiệu lực trên 2 năm, nhưng pháp luật
kinh doanh bảo hiểm lại sử dụng thuật ngữ giá trị hoàn lại để chỉ việc này
(khoản 3 điều 35 Luật kinh doanh bảo hiểm).
Bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến các khái niệm người
thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, hiện nay kể cả nghị
định 115/CP của Chính phủ lẫn quy tắc bảo hiểm xe cơ giới, các quy định của
pháp luật dân sự đều không có quy định rõ ràng thống nhất về khái niệm này.
Nhiều chủ xe cho rằng 2 xe cùng chủ được 2 lái xe khác nhau lại bị đâm va
thì thiệt hại cũng phải được xem xét theo các quy định của quy tắc bảo hiểm
trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, thiệt hại phải được doanh nghiệp bảo hiểm
bồi thường vì theo quy định của điều 3 Nghị định 115/CP thì: “Chủ xe cơ giới
99
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Flà cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu xe hay bất kỳ người nào được phép sử
dụng xe cơ giới, kinh doanh vận chuyển hành khách bằng xe cơ giới”.
Cần sớm ban hành các quy định pháp luật về bắt giữ tàu biển tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm, các nhà quản lý, kinh doanh hàng hải
tranh chấp, yêu cầu chủ tàu đã gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân Việt
Nam hoặc làm ô nhiễm môi trường biển Việt Nam phải bồi thường. Pháp luật
của nhiều nước trên thế giới quy định khá chi tiết về vấn đề này. Ví dụ: Trung
Quốc quy định 18 trường hợp có thể bắt giữ tàu. Pháp luật Cộng hòa Pháp coi
con tàu là tài sản dùng để trả những khoản nợ liên quan đến con tàu đó. Hầu
hết hệ thống luật lục địa và Anglô- Sắc xông đều có chung quan điểm này.
Công ước Quốc tế về bắt giữ tàu biển (1999) coi việc bắt giữ tàu là một biện
pháp quan trọng để giải quyết các khiếu nại hàng hải, trong khi đó Bộ luật
hàng hải Việt Nam cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có bất kỳ
một quy định nào về vấn đề này.
Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cần phải điều chỉnh luôn cả hoạt
động bảo hiểm tiền gửi do tổ chức bảo hiểm tiền gửi của ngân hàng Nhà nước
tiến hành. Như đã trình bày ở trên, hoạt động bảo hiểm tiền gửi cũng là một
dịch vụ bảo hiểm thương mại nên không thể không bị điều chỉnh bởi pháp
luật về kinh doanh bảo hiểm. Việc quản lý bảo hiểm phải thống nhất về một
mối, tránh việc thành lập các bộ máy cồng kềnh, chồng chéo kém hiệu quả.
III. các giải pháp phát triển vi mô
1. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
Các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cần có nhìn nhận về một thị
trường cạnh tranh mới, đó là quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa đang chuyển
biến ngày càng rõ nét, quyết định cho mình những chiến lược thích hợp
chuẩn bị cho hội nhập với thị trường thế giới.
Các công ty bảo hiểm không thể giữ mãi lối điều hành kinh doanh
theo kiểu truyền thống để tồn tại trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay
100
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fgắt, họ bắt buộc phải tái lập lại và nỗ lực trong việc xây dựng những hướng
dẫn kinh doanh để theo đuổi kịp những nhân tố thay đổi sau:
Thứ nhất, Sù gia tăng cạnh tranh ngày càng lớn. Cạnh tranh trong
lĩnh vực bảo hiểm theo xu hướng sẽ chủ yếu tập trung mạnh mẽ vào các yếu
tố về giá và dịch vụ khách hàng, nó như là kết quả của mậu dịch tự do và tự
do hóa trong ngành bảo hiểm. Những lực mới của sự cạnh tranh sẽ bị chi phối
bởi sự hiện diện của những tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thế giới có
phương pháp điều hành kinh doanh tốt nhất, cũng những nhà cung cấp dịch
vụ tài chính khác trong nước, chỉ những nhà cung cấp nào phù hợp nhất mới
tồn tại được.
Thứ hai, Sự hội tụ của những sản phẩm tài chính là xu hướng tất yếu.
Để đáp ứng những yêu cầu tổng hợp khác nhau của khách hàng và những
thay đổi về nhu cầu và đặc điểm của họ, xu hướng bắt buộc là theo đuổi sự
hội tụ những sản phẩm tài chính. Xu hướng này là hướng dẫn bắt buộc đối
với những công ty cung cấp dịch vụ tài chính cá biệt, đó là các công ty không
thể tự cung cấp toàn bộ các loại dịch vụ tài chính bởi riêng họ, tạo nên những
đồng minh hoặc có sự hợp nhất chung trong một tổ chức, nơi mà sẵn sàng
cung cấp hàng loạt những sản phẩm dịch vụ tài chính tổng hợp.
Thứ ba, Nhu cầu của khách hàng thay đổi. Khách hàng đang ngày
càng am tường và nhận thức rõ về những nhu cầu bảo hiểm của chính họ. Tại
một thời điểm khách hàng sẽ có sự phân biệt rõ ràng hơn cho mỗi nhu cầu, và
am hiểu về rủi ro tài chính họ sẽ phải đối mặt. Thị trường dành cho những
nhà bảo hiểm sẽ thay đổi với những khách hàng mới và nảy sinh nhiều loại
rủi ro mới cũng như việc xã hội ngay càng trở nên giàu có và nhận thức càng
rõ về nhu cầu cho những đảm bảo an toàn và bảo vệ tài chính.
Thứ tư, Những thay đổi nhanh chóng trong lĩnh vực công nghệ đang chuyển đổi cách thức kinh doanh với những xu hướng đang được kỳ vọng và lớn mạnh không ngừng cách thức kinh doanh. Khả năng của một công ty bảo hiểm khi tiếp cận với công nghệ mới trong mọi lĩnh vực hoạt động sẽ đảm
101
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
bảo cho công ty có đủ thế mạnh cạnh tranh với các đối thủ khác. Nó cũng có nghĩa rằng nếu công ty nào bị chậm lại quá lâu với sự thay đổi không ngừng của công nghệ sẽ dẫn đến sự tụt hậu và bị loại bỏ.
Để đối mặt với những thay đổi trong kinh doanh bảo hiểm, ngành bảo hiểm Việt Nam cần khẩn cấp lập kế hoạch cơ bản cho sự phát triển của mình thông qua hoàn thiện những nhiệm vụ sau:
* Phát triển một hạt nhân then chốt trong những công ty bảo hiểm trong nước trở thành người dẫn đầu thị trường và có tác động mạnh tới thị trường, đáp ứng hết những nhu cầu bảo hiểm của thị trường trong nước.
* Quan tâm để bảo hiểm là lĩnh vực quan trọng trong sự hợp nhất của hệ thống tài chính.
* Đưa ra những sản phẩm mới, sản phẩm cải tiến để tăng khả năng xâm nhập vào thị trường mới.
* Phát triển những kênh phân phối sản phẩm mới như thương mại điện tử, Marketing trực tiếp... đảm bảo chi phí và tăng hiệu quả phân phối sản phẩm tới tay khách hàng.
* Cải tiến việc nâng cao chất lượng dịch vụ đối với chủ hợp đồng (khách hàng) thông qua việc đáp ứng và quan tâm tới mối quan hệ cộng đồng và áp dụng những công nghệ mới nhất trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách hiệu quả.
Còn đối với các công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm trong nước ngay lập tức phải xem xét, đánh giá lại và điều chỉnh những chiến lược kinh doanh của mình. Đặt ra nhu cầu gấp cho việc quyết định những kế hoạch hành động mang tính chiến lược mà có thể bao gồm:
- Hợp nhất và mua lại.Hợp nhất và mua lại giữa các công ty, tập đoàn... là khá phổ biến, khi
thị trường đã trưởng thành, đảm bảo cho việc tăng sức mạnh vị trí thị trường. Nhằm đảm bảo không bị loại bỏ, các công ty bảo hiểm trong nước tự phải hướng tới cạnh tranh thông qua việc cải thiện sức mạnh tài chính, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, năng lực cạnh tranh bằng cách tìm đến nhau để có thể hợp nhất và mua lại. Ví dụ như ở Malaysia, đứng trước những
102
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
thách thức của quá trình tự do hóa, tập trung hóa và nhu cầu sử dụng những phương thức phân phối mới, ngân hàng trung ương nước này đã yêu cầu 56 công ty bảo hiểm trong nước sáp nhập lại thành 10 đến 15 công ty, việc sáp nhập này sẽ đẩy mạnh quá trình tập trung hóa nâng cao tính ổn định của ngành bảo hiểm.
- Chiến lược liên kết:Để tạo thế mạnh cũng như đáp ứng những đòi hỏi về sự thành thạo
bước vào môi trường cạnh tranh mới trong lĩnh vực tài chính một cách hiệu quả là tạo ra sự liên kết giữa những nhà bảo hiểm với nhau hay với các ngành dịch vụ khác, mối liên kết này được ví như sự "kết hôn", nhằm khai thác sự hiệp lực lẫn nhau. Một ví dụ điển hình và phổ biến đó là Ngân hàng bảo hiểm (bảo hiểm qua ngân hàng), mối liên kết này bao trùm lên cả các hoạt động ngân hàng và bảo hiểm. Nhằm đảm bảo đồng lúc những nhu cầu về tài chính và bảo hiểm của một khách hàng được đáp ứng trong cùng một tổ chức. Thông qua liên két mà những nhà bảo hiểm sẽ có cơ hội khai thác những kênh phân phối sản phẩm mới hiệu quả hơn cách thức truyền thống.
- Cải thiện năng suất và hiệu quả hoạt động.
Các chuẩn mực đối với các thực tế đang diễn ra trong những mặt đặc
biệt quan trọng của nhiều hoạt động và quản lý sẽ thường xuyên được dẫn dắt
điều chỉnh để áp dụng như là những tiêu chuẩn đối với các công ty bảo hiểm
nhằm tăng cường thành quả của họ. Đồng thời sẽ phải có một sự chuyển đổi
hệ thống, một sự thay đổi trong nhận thức để tái cấu trúc lại các quy trình
hiện hữu theo đó nhằm cải thiện năng suất và hiệu quả hoạt động.
- Đẩy mạnh việc phát triển kỹ thuật chuyên môn.
Các doanh nghiệp bảo hiểm nên đẩy mạnh cải thiến kỹ thuật chuyên
môn thông qua việc đào tạo kiến thức và kỹ năng hiệu quả cho lực lượng lao
động của mình. Mỗi cá nhân phải được đào tạo những kỹ năng hỗn hợp với
một khả năng hoàn thành cong việc ở mức cao nhất và luôn có quan điểm tích
cực công việc, theo kịp với sự phát triển không ngừng của tiến bộ kỹ thuật.
Các công ty bảo hiểm không thÓ thờ ơ với việc đầu tư phát triển nguồn nhân
103
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Flực ngay bây giờ, quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ chuyên viên cao cấp
luôn nhận thức được kiến thức, khoa học công nghệ là yếu tố của sự thành
công. Nhìn nhận kỹ thuật chuyên môn là yếu tố cơ bản trong việc làm thỏa
mãn những nhu cầu khác nhau và luôn thay đổi của khách hàng. Các công ty
bảo hiểm phải coi việc theo đuổi áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ
mới là đầu vào của hoạt động kinh doanh cũng giống như những khách hàng
của công ty.
- Khuyếch trương hình ảnh ra công chúng.
Ngành bảo hiểm cần phải quảng bá tới công chúng về bảo hiểm và
tầm quan trọng của nó trong cuộc sống của mọi người dân. Một sự gia tăng
về nhận thức và am hiểu bảo hiểm của công chúng sẽ xóa bỏ nhiều sự hiểu
không đúng và những mong đợi ảo tưởng về ngành bảo hiểm và mở đường
cho việc phát triển thị trường lớn hơn về sau. Đồng thời nó sẽ rất quan trọng
để đảm bảo cung cấp cho khách hàng những thông tin cập nhật. Nó đặt ra
việc sẵn sàng làm thỏa mãn dịch vụ sau bán hàng. Các công ty bảo hiểm phải
luôn tỏ ra cảm thông và nhạy bén đối với những khách hàng mà họ đang gặp
các vấn đề vướng mắc khi họ đưa ra khiếu nại hoặc tìm kiếm sự bồi thường,
bằng việc cung cấp những nhân viên có đủ năng lực, giỏi kỹ thuật và có đầy
đủ sự cảm thông để giải quyết chia sẻ khó khăn với khách hàng. Những nỗ
lực tận tâm trong phục vụ khách hàng phải được quan tâm sẽ là cách để xóa
bỏ tình trạng quan liêu, cửa quyền khi giải quyết vấn đề của khách hàng,
chiếm được lòng tin của khách hàng, giữ uy tín của ngành bảo hiểm nói
chung và vị trí thị trường của mỗi công ty bảo hiểm nói riêng.
Trong khi các công ty bảo hiểm trong nước còn yếu cả về vốn và công
nghệ, họ phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh là các tổ chức bảo hiểm
nước ngoài mạnh hơn về vốn và kinh nghiệm thì những chuẩn bị của ngành
bảo hiểm Việt Nam là rất cần thiết để đẩy nhanh quá trình hội nhập với thị
trường bảo hiểm các nước trong khu vực cũng như các tổ chức thương mại
quốc tế. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần phải củng cố đầu tư cho phát
104
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Ftriển quy mô, công nghệ kinh doanh bảo hiểm: kỹ thuật nghiên cứu nghiệp
vụ, nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp...
2. Những giải pháp và kiến nghị để phát triển bảo hiểm hàng hóa
XNK
Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt
động nhập khÈu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng được Đảng
và Nhà nước quan tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường
nội địa, cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh
chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu giai
đoạn 1991 - 2000 đạt trung bình khoảng 29%/năm. Cơ cấu mặt hàng nhập
khẩu có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất, giảm dần tỉ trọng hàng tiêu dùng.
Có thể nói, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn
vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh
tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu,
tạo việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác
kinh tế và đầu tư vào Việt Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu từng bước nâng
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thế nhưng tỉ lệ bảo hiểm cho
hàng hóa XNK của chúng ta vẫn còn rất thấp. Đó là do một số nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, Hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức
xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao
hàng CIF. Với các phương thức XNK trên đã hạn chế khả năng ký kết hợp
đồng bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam.
Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế
hóa bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong
đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử
dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để
đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng
105
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fthời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng
CIF còng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khái
lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận
chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro
đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm
này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu.
Như vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF,
quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó,
đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp
đồng với các công ty của nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế
có điều kiện phát triển hơn.
Hai là, Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
còn hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Ngoại trừ Bảo Việt thành lập năm 1965
có vốn lớn, các công ty bảo hiểm khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị
định 100/CP ngày 18/12/1993, với mức vốn kinh doanh chưa tới 80 tỉ đồng,
trong khi đó, nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài ra đời cách đây hàng trăm
năm, vốn kinh doanh hàng tỉ Đôla Mỹ. Thêm vào đó, trình độ cán bộ làm
công tác bảo hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của của thị trường
còn non yếu so với mặt bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà
XNK nước ngoài chưa thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm của Việt Nam và
điều này làm giảm sức thuyết phục khi các nhà đàm phán ngoại thương yêu
cầu đối tác nước ngoài trao cho ta quyền mua bảo hiểm.
Ba là: Các nhà XNK Việt Nam đã quen với tập quán thương mại xuất
khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF: Việc thay đổi tập
quán cũ nay khó thực hiện trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, ở một chừng
mực nhất định với phương thức giao hàng như trên, phía Việt Nam sẽ tránh
được nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đôi khi công việc này khó thực hiện
do phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước ngoài trong bèi cảnh năng
106
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Flực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam còn hạn
chế.
Cần phải nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong
nước. Ở tầm vĩ mô, nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong
nước có tác dụng góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc gia. Với hoạt
động xuất khẩu theo điều kiện CIF, hàng hóa được chuyên chở bằng tàu trong
nước và được công ty bảo hiểm trong nước bảo hiểm sẽ tạo nguồn thu ngoại
tệ và chi phí vận tải và phí bảo hiểm về thực chất được tính vào giá hàng và
do phía nước ngoài trả. Nhập khẩu theo điều kiện FOB có tác dụng giảm chi
ngoại tệ, trong trường hợp này chúng ta chỉ phải chi ngoại tệ để nhập khẩu
hàng hóa, mà không phải chi tiền nhập dịch vụ vận tải đường biển và dịch vụ
bảo hiểm của nước ngoài như trước đây. Số ngoại tệ chi cho mỗi hợp đồng
ngoại thương giảm sẽ cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài
trong nhiều năm như hiện nay của nước ta.
Đối với các công ty XNK nếu đơn bảo hiểm được ký kết với các công
ty bảo hiểm Việt Nam, công ty XNK tránh được những phiền phức về thủ tục
pháp lý, ngôn ngữ, địa lý... có thể sẽ gặp phải khi sự cố bảo hiểm xảy ra.
Trong trường hợp công ty bảo hiểm Việt Nam không đủ năng lực bảo hiểm,
phía Việt Nam vẫn có lợi do chóng ta có điều kiện lựa chọn công ty bảo hiểm
uy tín bảo hiểm cho hàng hóa của mình, đồng thời lựa chọn các điều khoản
bảo hiểm phù hợp với tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của
công ty. Hơn nữa, tập quán thương mại quốc tế chỉ yêu cầu bên xuất khẩu
mua bảo hiểm ở mức độ tối thiểu. Nhà nhập khẩu muốn an toàn hơn cho tài
sản của mình phải ký các hợp đồng bổ sung. Như thế, suy cho cùng công ty
nhập khẩu Việt Nam vẫn phải mua bảo hiểm trong trường hợp nhập khâu
CIF. Công ty sẽ chủ động hơn nếu giành được quyền mua bảo hiểm thông
qua hợp đồng nhập khẩu FOB hoặc C&F.
Kim ngạch hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý
nghĩa quan trọng thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển. Theo nguyên lý số
107
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Fđông, lượng khách hàng tham gia càng lớn công ty bảo hiểm càng có điều
kiện phân chia rủi ro giữa các đối tượng bảo hiểm, tránh cho công ty trước
những tổn thất lớn ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính công ty. Và
điều này càng có ý nghĩa hơn khi mà tỉ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa XNK nước ta trong những năm qua luôn ở mức cao, khoảng 65-
70%. Mức bồi thường này đặt công ty bảo hiểm trước những nguy cơ tiềm Èn
không lường trước được.
Tóm lại, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế nước ta
trước những thời cơ mới và thách thức mới. Trong bối cảnh đó, ngành bảo
hiểm Việt Nam nói chung, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải nói riêng cần chủ
động hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đa dạng
hóa sản phẩm bảo hiểm, tăng cường tiềm lực tài chính... để hội nhập thành
công và cạnh tranh có hiệu quả với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo cơ
sở nâng cao tỉ trọng kim ngạch hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước.
Để nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK được bảo hiểm trong nước trước
tiên cần có sự cố gắng nỗ lực của chính các công ty bảo hiểm. Trong những
năm qua, ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc
khai thác khách hàng mới. Chất lượng phục vụ được nâng lên rõ rệt. Ngoài
việc cung cấp sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp bảo
hiểm đã chủ động tăng cường tiếp cận khách hàng để tư vấn kỹ thuật chuyên
môn, giúp khách hàng lựa chọn rủi ro tham gia bảo hiểm cho phù hợp và đạt
hiệu quả. Tuy vậy, trong thời gian tới, ngành bảo hiểm Việt Nam cần không
ngừng hơn nữa nâng cao năng lực bảo hiểm lên ngang tầm quốc tế. Phải có
chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ, hiểu luật
pháp quốc gia, quốc tế, có nghệ thuật giao tiếp, ứng xử trước khách hàng;
phải đa dạng hóa sản phẩm, khai thác triệt để thị trường trong nước; phải có
chiến lược nâng cao năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm để các công
ty bảo hiểm Việt Nam có khả năng ký các hợp đồng bảo hiểm cho những tài
sản có giá trị lớn, đối với các công ty bảo hiểm nhỏ cần mạnh bạo sáp nhập
108
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38Flại thành các công ty lớn, Nhà nước cần tăng cường cung cấp vốn cho công ty
Bảo Việt để nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty này với các công ty
bảo hiểm nước ngoài, tạo uy tín với các công ty XNK nước ngoài khi họ ký
hợp đồng bảo hiểm với ta.
Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các công ty XNK ký kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập khẩu FOB hoặc C&F như: giảm thuế XNK cho chủ hàng nào tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng, giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch XNK cao hơn so với những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam... Như trên đã phân tích, điều kiện giao hàng có tác dụng chủ yếu đến phân định trách nhiệm giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế không rõ ràng. Với các chính sách ưu đãi trên, các công ty XNK sẽ chủ động hơn trong đàm phán ký kết, thực hiện phương thức xuất khẩu theo điều kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc C&F tạo cơ sở nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.
Đối với các công ty XNK cần nhanh chóng thay đổi tập quán thương mại cũ. Chuyển dần từ phương thức xuất khẩu FOB, nhập khẩu CIF sang xuất khẩu theo điều kiện FOB. Điều này xét về toàn cục có lợi cho nền Kinh tế quốc dân do đã tạo cơ hội cho ngành bảo hiểm hàng hải và ngành vận tải biển phát triển. Và chính sự phát triển của hai ngành này có tác động ngược trở lại góp phần mở rộng không ngừng hoạt động kinh tế đối ngoại. Sự phối kết hợp hỗ trợ nhau cùng phát triển của ba lĩnh vực XNK, bảo hiểm hàng hải, và vận tải đường biển có ý nghĩa quan trọng. Sẽ là rất khó cho hoạt động XNK nếu ngành bảo hiểm và vận tải biển kém phát triển, và ngành bảo hiểm và vận tải biển cũng không thể phát triển mạnh được trong điều kiện kim ngạch XNK thấp.
Tóm lại, để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm tới, các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay sẽ phải thay đổi rất nhiều về các cách tiếp cận khách hàng, khai thác sản phẩm và các chiến lược marketing bởi lẽ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước còn yếu kém về rất nhiều mặt nghiệp vụ kinh doanh lẫn tiềm lực tài chính. Nhưng hơn hết, Nhà nước cần phải kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để có thể có những giải pháp điều
109
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
chỉnh về quản lý các quỹ đầu tư, luật cạnh tranh v.v.. thì thị trường bảo hiẻm Việt Nam mới có thể đứng vững trong hội nhập Quốc tế.
MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦUChương I: Khái quát chung về thị trường bảo hiểm...................................1
I. Sù ra đời và phát triển của bảo hiềm. 1l. Nguồn gốc ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới. 11.l. Dự trữ thuần túy. 11.2. Cho vay nặng lãi. 21.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên. 22. Sự phát tiền của ngành bảo hiểm thế giới. 32.1. Các thị trường bảo hiểm Châu Âu. 32.2. Tình hình thị trường bảo hiểm toàn cầu. 7
II. Khái niệm và đặc điểm của thị trường bảo hiểm. 91. Các khái niệm cơ bản về bảo hiểm - tái bảo hiểm. 92. Thị trường bảo hiểm 132.l - Khái niệm về thị trường bảo hiểm 132.2. Các yếu tố cấu thành nên thị trường bảo hiểm. 142.3. Những đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm 193. Các loại bảo hiểm243.l - Bảo hiểm xã hội 243.2. Bảo hiểm thương mại 25
II. Vai trò của thị trường bảo hiểm271. Vai trò của thị trường bảo hiểm trong nền kinh tế 271.1 Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm và tập trung vào một
số đầu mối để đầu tư vào những lĩnh vực khác để phát tnển nền kinh tế quốc dân. 27
1.2. Bổ sung vào ngân sách của Nhà nước bằng lãi bảo hiểm. 281.3. Tăng thu và giảm chi cho cán cân thanh toán quốc gia. 281.4. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế
nhanh chóng hơn. 291.5. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện, bảo toàn vốn vay của
các ngân hàng thương mại một cách thuận lợi. 291.6. Thị trường bảo hiểm có lợi cho sự phát triển và củng cố nền kinh tế
hàng hóa ở nông thôn. 301.7. Thị trường bảo hiểm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc họp tác
kinh tế, kĩ thuật, thương mại với nước ngoài và cho việc thu hút đầu
110
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
tư của nước ngoài. 301.8. Thị trường Bảo hiểm có thể tăng cường đề phòng, hạn chế tai nạn
rủi ro, giảm bớt tổn thất của cải của xã hội. 312. Vai trò của thị trường bảo hiểm đối với các thị trường khác. 31
IV. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển một số TT trên thế giới 33l. Thị trường bảo hiểm Anh 332. Các thị trường bảo hiểm Châu Á. 35
Chương II: Tình hình TTBH Việt Nam trong những năm qua..................38I. Đánh giá tình hình phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam 38
1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ. 432. Một số tin tức chính tình hình TTBH trên thế giới năm nay. 63
II. Mô hình tổ chức thị trường bảo hiểm.651. Theo vai trò trong thị trường bảo hiểm. 652. Theo tính chất sở hữu. 68
III. Môi trường pháp lý đối với hoạt động của Thị trường bảo hiểm.71
1. Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm giai đoạn trước năm 1993 71
1.1. Một số đặc điểm của thị trường BHVN trước năm 1993 711.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 721.3. Những tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm trong giai đoạn này. 742. Thực trạng môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm từ
năm 1993 đến trước khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời 782.1. Một số đặc điểm của TTBH Việt Nam trong giai đoạn này. 782.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nội
dung chủ yếu 792.3. Những vấn đề còn tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trong giai đoạn này. 813. Sù ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam. 834. Một số nhận xét chung về luật kinh doanh bảo hiểm 84
Chương III. Bảo hiểm Việt Nam trước thềm hội nhập và giải pháp đẩy mạnh sự phát triển của TTBH Việt Nam đến 2010...................................86
I. Bảo hiểm Việt Nam vào hội nhập 861. Xu hướng phát triển thị trường bảo hiểm thế giới. 862. Xu hướng phát triển thị trường Việt Nam 88
II. Các giải pháp vĩ mô phát triển thị trường BHVN 911. Đa dạng hoá sở hữu ngành bảo hiểm.912. Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và
công ty quản lý vốn đầu tư. 933. Sửa đổi, hoàn thiện môi trường pháp lý 95
III. Các giải pháp phát triển vi mô 97
111
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F
1. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm 972. Những giải pháp và kiến nghị để phát triển BH hàng hóa XNK 102
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
112