tập 79 - số 03 - năm 2011
TRANSCRIPT
HOGf,
NGHEI
AND TECHNOLOGY
0t llfl il[NH lll
a0 ctno DUC vA DAo rAoDAI HQC THAI NGUYEN
T+p ehi KHOA HQC vn C6NG NGHEJournal of Science and Technology
- tdng bi6n tAp:- Ph6 tdng bi6n tAp Thrrdng tn/c:- Ph6 Tdng bi6n tAp:- Trtt'&ng Ban bi6n tAp:- Thtr ky Tda soan:
GS.TS. ru QUANG HrdNPGS.TS. CHU HOANG MAUPGS.TS. TRAN THI VIOT TRUNG
az(
THS. Ltr TIEN DUNGTHS. DOAN OTJC UAT
TOA SOAN: Dai hoc Thr4i NguyOn, phudng TAn Thinh, thdnh phd Th6i NguyOn'
Tel. 02 8 0. 3 8 402 8 8. Fax. 0280. 3852665 * E-mail: tapchikhcn.dhtn@ gmail'com'
Gia,y ph6p Hoat dQng biio chi s6 1ZI)1GP-BTTTT, ngiry 261812010 cira BQ truong BQ Thong tin - Truyd-n^th0ng'
rn ioir .udn, iap zzior)nqdm 20rr taiNhh in eao ihat Nguyen. In xong vh nop luu chidu thi4ng 0V20ll.Bin dien tir tham khio iai rrang Web cira Trung ram Hoc 1i0u Dai hoc Th6i Nguyon: http://www'lrc-tnu-edu.vn
THE LE GTII BAITap chi Khoa hgc vd C6ng nghQ Dai hoc Th6i Nguy6n thucrng xuyOn nhAn ddng
nhirng Ual Uao cua cdn bQ gidng d4y. can.bQ.nghien 9YY ud.6: illkhoa hQc'..trong vir
ngouiDui hoo Th6i Nguy6n nhdm cdng bd k€t qua nghidn ctlu, bhi t6ng quan hodc nhirng
thbng tin trao C6i ttruqc mgi linh vuc khoa hoc c6ng nghQ. Sau ddy ld the 1€ gui bdi cho Toa
soan:1. T4p chi chi nhAn ddng nhirng bai b6o khoa hoc chua c6ng bd tr6n c6c b5o. t4p chi
khoa hgc trong nr.rcrc vd qudc t6.
2. Bai b6o khoa h'c co thti v_i€t bing titing ViQt ho4c ti6ng Anh. . .. i .,3. Khi n6p cho roa so4n. m5i Uai b6o can duoc in thdnh hai b6n tr€n giAy A+. kem theo
dia CD.4. CAu trirc bai b6o.
4.1. TOn bai b6o.
4.2. Ho tOn tac gid hoqc nhom ttrc gia, co quan cdng t6c.
4.3. M5i bdi bA; khdng ddi qu6 5 trang (khoang 3.000 tu). Trong bdi b6o, o nhirng nQi
dung tac gi6 da lham khdo hoAc su dpng_k*i*, n.elri€n .P lit,::. tdi liCu khoa hoc kh6c, cAn
danh dAl tang sd (dat trong m6c r.u6ng tl) - ld sd thu tg cua tdi liQu x€p trong danh mgc tdi liOu
tham khao4.4. Torn tirt n6i dung bdi b6o: tOi tneu i50 tir bang ti6ng Vi€t va duoc dich sang tiOng
Anh (k€ ca ri€u AC Uai b6o;,,dtroi muc tom t6t ti6ng Vi€t co "Tir khoa"; duoi tom tdt ti6ng
Anh co "'Key words" (t6i thi6u 05 tu hodc cum tu).4.5. TAi li6u tham kh6o:- TLTK sip x€p theo vAn A,B,C, tdi liQu titlng nu6c ngodi kh6ng phiOn 6m, kh6ng
dich.- DOi vcyi tdc gia la ngudi Viqt Nam x6p theo thir tg A, B, C theo ftn (kh6ng dAo t6n
len trtroc ho).- Ddi voi tac gia la ngtrdi nu6c ngodi x6p theo lhu tg A, B, C theo hp. ,,- D6i vcri nhirng tai liOu khdng co t6n tac giit xOp thu tU A, B, C cua tir dau ti6n lOn c<v
quan ban hanh tdi liQu (vi duiB0 Gi6o dgc vd Ddo t4o x6p vAn B)'TLTK la s6ch. lufln 6:n cAn ghi ddy du cdc thong tin theo thu tu: t€n t6c gia hodc co quan ban
lrdnh. Nam xuAt ban). ftn sdch,Nhd xudt bdn. noi xudt ban.
TLTK ld bdi bao hoflc bai trong mQt cudn s6ch... cAn ghi dAy du c6c th6ng.tin.theo thfr
tu: T6n tac gia. (NAm cdng b6), "TOn biri b6o", TAn Mp chi hoQc sdch, Tdp, (56), c6c s6
trang (gach ngang giira2 chir s6).
5.Hinh thfrc trinh bay:- Ngoai.phAl tieu d6, t6c gia va tom tit bdi b6.o (dAu tr4ngl) vd Summary (cu6i bdi).
bdi b6o yeu .A,, phai trinh bdy tr6n kh6 ,A4 theo chidu doc. dugc chia 02 c6t v6i c6c th6ng
s6 Pagesetup cu th6 nhu sau:Top:3.1cm, Bottom: 3.1cm, Left: 3.0cm. Right: 2.8cm,
Header: 2.85cm, Footer: 2.85cm, With:7.25cm, Spacing:0.8cm. TOn bai b6o cO 12' chir in
d6m: 10i dung bai b6o cd I 1; Font chir Unicode; hinh v6, dd thi trinh bdy phu hqp voi dQ
ron-s cdt (7 .25 cn-r); c6c bdng bi€u qu6 l6n trinh bay tlreo trang ngang (Landscape)'
- D6i vcyi c6c bai b6o i.O frle" bdng cdc phAn mdm chuy6n dpng nhu Latex, ACD/Chem
Sketch hodc Science Helper for Word cfrng trinh bdy theo khudn dang n6u trOn.
6. Ndu bdi b6o kh6ng ducyc su dung. Ban biOn tap kh6ng tra l4i bAn th6o.
7. Titc gia hoac tac giachfnh trong nhom t6c giA cAn gni Aia chi, s6 di6n tho4i vdo cu6i
A^
BAN BIEN TAP
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
Chuyên mục Mục lục Trang
KHOA
HỌC
XÃ
HỘI
NHÂN
VĂN
-
KINH
TẾ
-
KHOA
HỌC
GIÁO
DỤC
-
THÔNG
TIN
TRAO
ĐỔI
NGÔ THUÝ NGA - Vai trò thể hiện tính lịch sự trong hành vi ngôn ngữ xin phép của trợ từ
tiếng Việt
3
NGUYỄN THÀNH LÂM - Dạy học đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” - kịch “Vũ Như Tô”
của Nguyễn Huy Tưởng theo đặc trưng thể loại
9
DƯƠNG THỊ HUYỀN - Địa vị cao của người phụ nữ trong xã hội Ai Cập cổ đại 17
LƯƠNG THỊ HẠNH - Thờ cúng tổ tiên và các thần che chở gia đình của người Tày Bắc Kạn 23
NGÔ NGỌC LINH - Ảnh hưởng và tác động của tám tháng đấu tranh du kích chống địch
khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai đối với cách mạng Việt Nam
29
TRẦN CHÍ THIỆN, NGUYỄN THỊ THU HÀ - Giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường đầu tư
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
35
TRẦN ĐÌNH TUẤN - Số đề xuất nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
tỉnh Bắc Ninh
39
ĐỖ ĐỨC BÌNH, NGUYỄN TIẾN LONG - Một số ý kiến về chất lượng tăng trưởng kinh tế
Việt Nam dưới góc độ hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
45
NGÔ XUÂN HOÀNG - Thực trạng lao động và việc làm trong các hộ nông dân huyện Phú
Lương tỉnh Thái Nguyên
51
NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN, TRẦN PHẠM VĂN CƯƠNG - Phát triển sản phẩm dịch vụ
ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV)Hà Giang
59
THÁI THỊ THU TRANG, ĐÀM PHƯƠNG LAN - Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính hợp
nhất tại tập đoàn FPT
67
NGUYỄN THỊ YẾN, ĐỖ VĂN GIAI - Phát triển nông nghiệp, nông thôn với giảm nghèo tỉnh
Thái Nguyên
77
NGUYỄN THỊ LAN ANH, NGUYỄN VÂN ANH - Văn hoá và môi trường kinh doanh của
doanh nghiệp
83
HOÀNG THỊ MỸ HẠNH - Những yếu tố tác động đến sự phát triển Kinh tế - Xã hội tỉnh Thái
Nguyên
89
ĐẶNG HUY NGÂN - Quản trị rủi ro trong đầu tư chứng khoán 93
VŨ XUÂN HÙNG, TRƯƠNG ĐẠI ĐỨC - Thực tập sư phạm và thực trạng năng lực sư phạm
của đội ngũ giáo viên dạy nghề
99
LÊ THỊ THU HƯƠNG - Phân hóa nội dung dạy học môn Toán ở Tiểu học 105 VŨ XUÂN HÙNG - Một số vấn đề về thực trạng rèn luyện năng lực dạy học trong thực tập sư
phạm của sinh viên các trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
111 NGUYỄN THỊ QUẾ - Hiệu quả của phương pháp dạy học giao tiếp đối với khả năng sử dụng
tiếng anh của sinh viên năm thứ hai trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên 117
TRẦN THU HƯƠNG, NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG, TRẦN THANH VÂN, CHU
HOÀNG MẬU - Một số đề xuất phát triển chương trình đào tạo thạc sĩ của Đại học Thái
Nguyên
123
NGUYỄN BÁ DƯƠNG, ĐỖ NGỌC HANH - Phát triển tư duy lý luận để nâng tầm nhận thức
cho sinh viên về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
129
NGÔ THỊ LAN ANH - Sự tiếp biến khái niệm “Tâm” trong phật giáo Việt Nam và những biểu
hiện của nó trong đời sống đạo đức người Việt Nam
133
NGUYỄN THỊ GẤM - Lối sống của nữ giảng viên trẻ Đại học Thái Nguyên đối với quần áo
thời trang
139
PHẠM THỊ THANH MAI - Định hướng và giải pháp đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo
cho phát điện ở Việt Nam
145
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG NGA - Khai thác tài nguyên du lịch ở Vườn Quốc gia Ba Bể phục
vụ mục đích du lịch sinh thái
153
NGUYỄN ĐỨC HẠNH - Nghiên cứu giảng dạy phần văn học địa phương tại một số tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam - thực trạng và giải pháp
161
Journal of Science and Technology
79 (03)
N¨m 2011
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
Category Content Page
SOCIAL SCIENCE
AND HUMANITY
-
ECONOMICS
-
educational
science
-
Information &
communication
NGO THUY NGA - The role of the politeness of vietnamese supporting words in the
linguistic behavior to ask someone’s permission
3
NGUYEN THANH LAM - Teaching extract "vĩnh biệt cửu trùng đài" - drama "Vũ Như Tô"
- Nguyen Huy Tuong by feature categories
9
DUONG THI HUYEN - High status of women in ancient egypt society 17
LUONG THI HANH - The practice of worshiping ancestors and the gods protecting the families of the tay people in Bac Kan, Viet Nam
23
NGO NGOC LINH - The impacts and influences of first eight months of guerrilla fighting
against enemy offensive at Bac Son base – Vo Nhai on Viet Nam’s revolution
29
TRAN CHI THIEN, NGUYEN THI THU HA - Basic solutions to the improvement of
investment environment in Bac Kan province
35
TRAN DINH TUAN - Proposals to solve environmental pollution problems in conventional craft production villages in Bac Ninh province
39
DO DUC BINH, NGUYEN TIEN LONG - The quality of vietnam economic growth rate
under the view point of the economic effectiveness and competitve capability of the economy
45
NGO XUAN HOANG - The current status on labors and working in farmer’s household of Phu Luong dicstrict, Thai Nguyen province
51
NGUYEN THI HONG YEN, TRAN PHAM VAN CUONG - Development of bank products
and services at bank for investment and development of Viet Nam - Ha Giang branch
59
THAI THI THU TRANG, DAM PHUONG LAN - Improving the system of consolidated financial statements in FPT Corporation
67
NGUYEN THI YEN, DO VAN GIAI - Development of agriculture, rural with poverty reduction in Thai Nguyen province
77
NGUYEN THI LAN ANH, NGUYEN VAN ANH - Culture and business environment of
the business
83
HOANG THI MY HANH - The impact factors to the economic development social Thai Nguyen
89
DANG HUY NGAN - Risk management in stock market 93
VU XUAN HUNG, TRUONG DAI DUC - Pedagogical practice and teachers' capacity
status of teachers of vocational training
99
LE THI THU HUONG - Differentiating mathematics content at primary school 105
VU XUAN HUNG - Some issues on the status of teaching competence in the pedagogical
practice of students of universities technical pedagogic
111
NGUYEN THI QUE - The effects of communicative approach on the performance in
english of the selected sophomore students of College of Siences – Thai Nguyen University 117
TRAN THU HUONG, NGUYEN XUAN TRUONG, TRAN THANH VAN, CHU
HOANG MAU - Some proposed of master curriculum development in Thai Nguyen University
123
NGUYEN BA DUONG, DO NGOC HANH - Develop theoretical thinking to raise
students’ wareness of the path to socialism of our country
129
NGO THI LAN ANH - The adoption and adaptation of the concept “tam” in vietnamese
buddhism and how it reveals in the Vietnamese’s moral life
133
NGUYEN THI GAM - Lifestyle of young female lecturers of Thai Nguyen University towards fashion clothing
139
PHAM THI THANH MAI - Orientation and solutions to developing renewable energy for
power in Viet Nam
145
NGUYEN THI PHUONG NGA - tourism resource exploitation in ba bể national park purpose for ecotourism
153
NGUYEN DUC HANH - study on teaching local literature at some mountainous provinces
in the north vietnam - current situation and solutions
161
Journal of Science and Technology
79(03)
N¨m 2011
Ngô Thúy Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 3 - 7
3
VAI TRÕ THỂ HIỆN TÍNH LỊCH SỰ TRONG HÀNH VI NGÔN NGỮ
XIN PHÉP CỦA TRỢ TỪ TIẾNG VIỆT
Ngô Thuý Nga
*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trợ từ tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính uyển chuyển trong phát ngôn, nâng
cao hiệu lực phát ngôn. Lịch sự là yếu tố luôn có mặt trong lĩnh vực giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Hành vi ngôn ngữ xin phép là một trong những hành vi ngôn ngữ đƣợc sử dụng phổ biến trong
hoạt động giao tiếp của ngƣời Việt. Các phát ngôn thực hiện hành vi ngôn ngữ xin phép mang tính
lịch sự nhờ sự có mặt của một số trợ từ nhƣ: ạ, nhé, với… Những trợ từ này có giá trị thể hiện sự
lễ phép, kính trọng để bộc lộ sự tôn trọng ngƣời nghe khi xin phép, đồng thời tạo nên không khí
giao tiếp gần gũi, thân mật, lịch sự.
Từ khoá: Trợ từ tiếng Việt; Tính lịch sự; Hành vi ngôn ngữ xin phép
1. Trợ từ tiếng Việt*
Trợ từ tiếng Việt có vai trò quan trọng trong
sự hỗ trợ cho hoạt động giao tiếp của ngƣời
Việt. Trợ từ góp phần tạo nên tính uyển
chuyển trong phát ngôn.
“Trợ từ là từ biểu thị thái độ. Nó không làm
phần đề, phần thuyết của nòng cốt, không làm
chính tố, phụ tố của ngữ. Nó là một yếu tố
thƣờng đƣợc gia thêm vào cho câu để biểu thị
sự ngạc nhiên, nghi ngờ, mỉa mai, vui mừng,
lễ phép, hay sự khẳng định đặc biệt”.[6; tr72]
“Trợ từ là từ thuộc lớp từ tình thái, không
đảm nhận chức vụ cú pháp trong câu, đƣợc sử
dụng trong phát ngôn để biểu thị một số ý
nghĩa nhƣ: thái độ, tình cảm, sự đánh giá,…
của ngƣời nói đối với nội dung phát ngôn, đối
với hiện thực và/hay đổi với ngƣời đối thoại,
hoặc để tham gia biểu thị các mục đích của
phát ngôn”.[4; tr71]
“Trợ từ: Từ chuyên dùng để thêm vào cho
câu, biểu thị thái độ của ngƣời nói, nhƣ ngạc
nhiên, nghi ngờ, mỉa mai, vui mừng v.v…”à”,
“ƣ”, “nhỉ”, v.v… là những trợ từ trong tiếng
Việt”.[5; tr1045]
Qua các định nghĩa trên ta thấy có một điểm
chung mà các nhà nghiên cứu thống nhất về
trợ từ là nó biểu thị thái độ, tình cảm, sự đánh
giá của ngƣời nói.
* Tel: 0912138870
Trong thực tế, các trợ từ không thể xuất hiện
độc lập mà phải tồn tại trong môi trƣờng phát
ngôn. Trong một phát ngôn, ngoài lõi nội
dung “lôgic” thì còn có những thông tin về
tình cảm, thái độ, yêu cầu, nguyện vọng…của
ngƣời nói, mối quan hệ giữa ngƣời nói với
ngƣời nghe…Những thông tin này một phần
đƣợc thể hiện trong phát ngôn nhờ các trợ từ.
Trợ từ phản ánh thái độ, tình cảm của ngƣời
nói trong phát ngôn. Do đó, việc sử dụng trợ
từ một cách hợp lí trong hội thoại sẽ góp phần
đáng kể vào sự thành công của hoạt động giao
tiếp. Trợ từ là một trong những yếu tố quan
trọng không thể vắng mặt khi các đối ngôn
muốn nâng cao hiệu lực phát ngôn. Trợ từ
góp phần thể hiện đƣợc mối quan hệ giữa
những ngƣời tham gia giao tiếp, sự đánh giá,
nhận xét về vị thế xã hội, tuổi tác, trình độ, sự
thân thiện…của ngƣời nói với ngƣời nghe.
2. Lịch sự là yếu tố thƣờng xuyên có mặt
trong đời sống con ngƣời, nhất là trong
lĩnh vực giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Lịch sự:
* Có thái độ nhã nhặn, lễ độ khi tiếp xúc, phù
hợp với quan niệm phép tắc xã giao của xã
hội. Nói năng lịch sự.
* Đẹp một cách sang và nhã. Căn phòng lịch
sự. Ăn mặc lịch sự. [5; tr566]
“Các nhà văn hoá thuộc nhiều dân tộc khác
nhau đã quan niệm lịch sự là hành vi xã hội
có lễ độ hay là phép xã giao trong hành vi văn
hoá”. [1;tr100]
Ngô Thúy Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 3 - 7
4
“Lịch sự trƣớc hết là vấn đề văn hoá, mang
tính đặc thù của từng nền văn hoá. Xã hội nào
cũng phải lịch sự, có điều cái gì lịch sự, đến
mức độ nào đƣợc coi là lịch sự, biểu hiện nào
là lịch sự lại bị qui định bởi riêng của từng
nền văn hoá”.[3; tr282]
Nói năng lịch sự là cách ứng xử ngôn ngữ
khéo léo, tế nhị, nhằm tránh xúc phạm hay áp
đặt, làm tăng sự vừa lòng đối với ngƣời đối
thoại để đạt đƣợc hiệu quả giao tiếp cao nhất.
Đồng thời lịch sự trong giao tiếp còn là cách
ứng xử phù hợp với những chuẩn mực giao
tiếp xã hội, thể hiện sự tôn trọng về thứ bậc,
tôn ti, địa vị, tuổi tác, giới tính…của ngƣời đối
thoại. Tất cả các khía cạnh nói trên kết hợp hài
hoà với nhau hình thành nên nội dung khái
niệm lịch sự trong giao tiếp của tiếng Việt.
Các đối tƣợng khác nhau trong đời sống xã
hội có thể biểu thị tính lịch sự khác nhau.
Chẳng hạn: nói năng lịch sự; ăn mặc lịch sự;
căn phòng lịch sự…
Trong phạm vi bài này, ngƣời viết chỉ đề cập
đến một khía cạnh nhỏ của phạm vi nói năng
lịch sự.
3. Hành vi ngôn ngữ là loại hành vi đƣợc
thực hiện khi các bên tham gia giao tiếp tạo
ra một phát ngôn trong cuộc thoại giao tiếp.
Hành vi xin phép là hành vi ngôn ngữ tồn tại
trong môi trƣờng một cuộc thoại xin phép.
Trong hành vi xin phép có các nhân tố nhƣ:
ngƣời nói, ngƣời nghe, động từ xin phép,
hành động (A) nào đó mà ngƣời nói đề xuất
và mong muốn đƣợc thực hiện. Mỗi nhân tố
có một vai trò nhất định nhƣ: ngƣời nói
(ngƣời xin phép), ngƣời nghe (ngƣời đƣợc xin
phép), ngƣời nói dùng động từ xin phép đƣợc
thực hiện một hành động nào đó trong tƣơng
lai để hƣớng tới một mục đích giao tiếp nhất
định, ngƣời nghe có trách nhiệm hồi đáp hành
vi xin phép của ngƣời nói.
VD1: Em xin phép thày cho em vào lớp.
Ví dụ trên là một phát ngôn xin phép gồm có
danh từ chỉ ngƣời nói (em - học sinh), danh từ
chỉ ngƣời nghe (thày giáo), động từ ngữ vi
(xin phép), hành động (A) (vào lớp).
“Hành vi xin phép là một hành vi ngôn ngữ
trong đó ngƣời nói (chủ thể của hành vi xin
phép) là ngƣời trực tiếp đề xuất hành vi xin
phép hƣớng đến ngƣời nghe (ngƣời tiếp nhận
hành vi xin phép) để nhằm đạt tới hai mục
đích cụ thể: 1.Thực hiện một hành động A
nào đó trong tƣơng lai (hành động A có thể
đƣợc thực hiện trực tiếp bởi ngƣời nói hoặc
đƣợc thực hiện bởi ngƣời thứ ba) và 2. Thể
hiện phép lịch sự hoặc phản lịch sự (mỉa mai,
châm chọc…) trong giao tiếp”. [2; tr45]
VD2:
Sp1 (Speaker 1 - ngƣời nói 1): Xin phép quan
lớn cho con về.
Sp2 (Speaker 2 - ngƣời nói 2): Anh về đâu?
Sp1: Dạ, con xin về tỉnh.
Sp2 : Đƣợc.
(Trích “Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan” tập
1; tr 304)
Hành vi ngôn ngữ xin phép có đích là thuyết
phục ngƣời nghe ủng hộ, tạo điều kiện cho
mình (ngƣời nói) hoặc cho ngƣời thứ ba thực
hiện hành động A. Đích của hành vi ngôn ngữ
xin phép rất đa dạng. Tuỳ ngữ cảnh, tình
huống giao tiếp… mà hành vi ngôn ngữ xin
phép hƣớng đến những mục đích giao tiếp
khác nhau. Phần lớn các cuộc thoại xin phép
có mục đích là: xin phép để đƣợc thực hiện A
trong tƣơng lai.
VD3:
Sp1: Xin phép Trƣởng khoa cho tôi đƣợc đến muộn 5 phút trong cuộc họp tối nay.
Sp2: Vâng, nhƣng đừng muộn hơn nữa nhé.
Trong đoạn thoại trên, đích của hành vi xin phép của ngƣời nói là muốn ngƣời nghe cho phép mình đến muộn 5 phút so với giờ quy định của cuộc họp.
VD4:
Sp1: Nhà con bị mệt, xin ông cho phép con hoãn đến hôm sau.
Sp2: Anh cứ về chăm sóc chị, chuyện sang cụ đồ Nguyễn không cần vội, chậm một vài ngày cũng không sao mà.
(Trích “Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan” tập 1; tr523).
Trong đoạn thoại này, đích của hành vi xin phép của ngƣời nói là muốn ngƣời nghe cho phép mình hoãn việc sang cụ đồ Nguyễn đến hôm sau.
Ngô Thúy Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 3 - 7
5
Theo Đào Nguyên Phúc, có tới trên 90%
cuộc thoại xin phép có bản chất nhƣ trên.
Ngoài ra, có những khi ngƣời nói xin phép
ngƣời nghe nhằm thể hiện phép lịch sự với
ngƣời nghe, tôn trọng ngƣời nghe, đồng thời
cũng là tôn trọng chính thể diện của mình.
VD5:
Sp1: Xin phép các bạn, mình về trƣớc.
Sp2: Cậu thông cảm nhé, mình đang dở câu
chuyện.
Sp1: Không sao đâu, các bạn cứ tự nhiên.
Ngƣợc lại, có tình huống ngƣời nói cố tình sử
dụng chệch đích vốn có của hành vi ngôn ngữ
ấy để tỏ ra thiếu lịch sự với ngƣời nghe.
VD6:
Sp1: Xin phép chị đi, tôi đến đây không phải
để lấy nƣớc cho chị
Sp2: Sao chị lại nói thế, đấy là em nhờ chị.
Sp1: Nhờ mà nói thế à?
Sp2: Em xin lỗi.
Ở từng trƣờng hợp khác nhau, ngƣời nói xin
phép ngƣời nghe tạo điều kiện cho ngƣời thứ
ba thực hiện hành động A trong tƣơng lai.
(Ngƣời thứ ba có thể có mặt, cũng có thể
vắng mặt trong cuộc thoại).
VD7 (Ngƣời thứ ba có mặt ở bên cạnh Sp1
trong cuộc thoại)
Sp1: Bác ơi, cháu xin bác cho bạn Mai đi bảo
tàng với cháu ạ.
Sp2: Đi bây giờ à?
Sp1: Vâng, chúng cháu đi đến 11 giờ trƣa thì
về ạ.
Sp2: Hai đứa phải về đúng giờ nhé!
VD8 (Ngƣời thứ ba vắng mặt khi Sp1 đƣa ra
hành vi xin phép)
Sp1: Xin phép thầy cho bạn Lan vào lớp
muộm ạ.
Sp2: Bạn Lan đâu mà em phải xin phép hộ?
Sp1: Bạn ấy đang nhận tiền học bổng ở Tài vụ ạ.
Sp2: Em ngồi xuống.
Các tình huống nói trên đều là các hành vi xin
phép ở dạng tƣờng minh. Ngoài ra, trong thực
tế còn có hành vi xin phép nguyên cấp (không
có mặt động từ xin phép mà đƣợc thay bằng
các từ ngữ khác nhau nhƣ: vô phép, mạn
phép, trộm phép). Hành vi xin phép nguyên
cấp xét về bản chất nội dung ngữ pháp và
mục đích của ngƣời nói vẫn có giá trị nhƣ
hành vi xin phép tƣờng minh.
VD9:
Sp1: Tôi vô phép hai cậu nhé!
Sp2: Không sao, mời cậu cứ về trƣớc.
(Trích “Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan” tập
1; tr 275)
VD10:
Sp1: Con mạn phép quan lớn cho con bắt 10
phu tổng Tầm Phƣơng đƣơng làm ở chỗ ấy.
Sp2: Thôi thì vì dân các thày cứ liệu.
(Trích “Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan” tập
1; tr 243).
VD11:
Sp1: Lạy thày, con có ngƣời bạn có chân nghị
trƣờng, con trộm phép rủ anh con vào chào
thày để nghe bình văn, xin thày rộng cho.
Sp2: Đƣợc, hai thầy ngồi.
(Trích “Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan” tập
1; tr 491).
4. Trợ từ là một trong những yếu tố ngôn
ngữ gia tăng hiệu quả giao tiếp và tạo tính
lịch sự trong hành vi xin phép của ngƣời nói.
Trợ từ có khả năng giúp cho lời nói tế nhị,
không thô lỗ, cục cằn; thể hiện rõ mục đích
phát ngôn và tâm trạng của ngƣời nói khi phát
ngôn; ngƣời nghe có cơ sở lĩnh hội chính xác
sở nguyện của ngƣời nói.
Truyền thống của ngƣời Việt Nam khi giáo
tiếp là tôn trọng ngƣời có vị thế cao hơn
mình. Đó là cách ứng xử có văn hoá, lịch sự
và rất đƣợc coi trọng. Hành vi xin phép của
ngƣời nói nhiều khi phải viện tới sự có mặt
của những trợ từ có giá trị lễ phép, kính trọng
để thể hiện sự tôn trọng ngƣòi nghe khi xin
phép. Trợ từ tiếng Việt có nhiều vai trò khác
nhau khi xuất hiện trong phát ngôn. Thể hiện
tính lịch sự trong hành vi ngôn ngữ xin phép
thƣờng tập trung ở một số trợ từ nhất định.
- “Ạ”: Thể hiện sự kính trọng, lễ phép của
ngƣời nói với ngƣời nghe có vị thế cao hơn về
tuổi tác, địa vị xã hội…; Thể hiện sự thân tình
giữa ngƣời nói và ngƣời nghe.
Ngô Thúy Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 3 - 7
6
- “Nhé”: Biểu thị tình cảm thân mật của ngƣời
nói với ngƣời nghe với ý mong muốn lời nói
của mình đƣợc chú ý hoặc mong muốn ngƣời
nghe đồng ý với ý kiến của mình.
“Với”: Biểu thị ý cầu khiến với thái độ thân
mật hoặc tha thiết của ngƣời nói với ngƣời
nghe.
VD12:
Sp1: Cháu xin phép bà, cháu đi học đây ạ.
Sp2: Đến giờ đi học chƣa?
Sp1: Đến giờ rồi ạ.
Sp2: Cháu đi đƣờng cẩn thận nhé!
VD13:
Sp1: Xin phép cậu cho con về quê ít bữa ạ.
Sp2: Anh về có việc gì?
Sp1: Dạ… Việc này…
Sp2: Khó nói thế sao?
Sp1: Dạ … con nhớ các cháu quá.
Sp2: Trời đất… tôi đồng ý, nhƣng anh phải
thu xếp lên sớm, ngày kia lại có chuyến hàng
từ Lạng Sơn xuống rồi.
Sp1: Vâng, con hứa chỉ hai ngày là con lên để
đi nhận hàng.
(Trích “Truyện ngắn hay” – 1992 – nxb Hội
nhà văn, HN, tr91).
Ở các ví dụ trên, giả sử vắng mặt trợ từ “ạ”
(Cháu xin phép bà, cháu đi học đây; Xin phép
cậu cho con về quê ít bữa) ta sẽ thấy mất hẳn
đi phƣơng tiện biểu thị thaí độ kính trọng, lễ
phép của ngƣời nói đối với ngƣời nghe.
VD14:
Sp1: Ngày mai bà về quê. Con xin phép bố mẹ
cho con đi với bà nhé!
Sp2: Ngày kia phải lên để thứ 2 đi học đấy.
Sp1: Vâng ạ.
Ở ví dụ này, nếu không có mặt từ “nhé” (Con
xin phép bố mẹ cho con đi với bà) thì cũng
không có phƣơng tiện biểu thị tình cảm thân
mật của ngƣời nói với ngƣời nghe với ý mong
muốn ngƣời nghe đồng ý với ý kiến của mình.
VD15:
Sp1: Chị là…
Sp2: Tôi là cô ruột của cháu X nằm ở phòng này.
Sp1: Xin phép chị cho tôi vào thăm cháu với!
Sp2: Chị phải đợi có ngƣời ra mới đƣợc vào. Không vào đông đƣợc đâu.
Sp2: Vâng.
Ở ví dụ này, nếu không có từ “với” (Xin phép chị cho tôi vào thăm cháu) thì ý nghĩa cầu khiến với thái độ tha thiết của ngƣời nói đối với ngƣời nghe không đƣợc bộc lộ.
Ngoài các chức năng ngữ dụng của các trợ từ “ạ”, “nhé”, “với” đƣợc làm rõ ở các ví dụ trên, các trợ từ này còn có khả năng thể hiện ý nghĩa cầu khiến, nghi vấn...
Cùng với trợ từ “ạ”, “nhé”, “với‟ vừa nêu ở trên, các trợ từ khác nhƣ “à”, “ƣ”, “nhỉ”… cũng có giá trị thể hiện sự kính trọng, lễ phép góp phần tạo nên tính lịch sự cho phát ngôn.
Trợ từ có mặt trong hành vi xin phép làm cho thái độ, tình cảm của ngƣời nói thể hiện trong phát ngôn trở nên tế nhị, hàm ẩn, có sức truyền cảm cao làm cho ngƣời nghe dễ dàng tiếp nhận phát ngôn, đồng thời tạo nên một không khí giao tiếp gần gũi, thân mật, lịch sự và có tính văn hoá truyền thống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt
ngữ, Nxb ĐHQG HN.
[2]. Đào Nguyên Phúc (2007), Lịch sự trong đoạn
thoại xin phép của tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Viện Ngôn ngữ học- Viện KHXH VN HN.
[3]. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ
học, tập 2, Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục HN.
[4]. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng
Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội,HN
[5]. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng
Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học.
[6]. Ủy ban KHXH VN (1983), Ngữ pháp
tiếng Việt, Nxb KHXH, HN.
Ngô Thúy Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 3 - 7
7
SUMMARY
THE ROLE OF THE POLITENESS OF VIETNAMESE SUPPORTING WORDS
IN THE LINGUISTIC BEHAVIOR TO ASK SOMEONE’S PERMISSION
Ngo Thuy Nga
*
College of Education – Thai Nguyen University
Vietnamese supporting words have played an important role in creating the flexibility of speech
and improving its effectiveness. Politeness always presents in the communicative process of
language. Asking someone‟s permission is one of the most common linguistic behaviors in the
communication of Vietnamese people. The speech carries out the linguistic behavior to ask
someone‟s permission politely due to the presence of several supporting words such as “ạ”, “nhé”,
“với”, and so on. These words are available to express the politeness and the respect to listeners,
and also create a friendly and outgoing communicative environment.
Key words: Vietnamese supporting words; The politeness; The linguistic behavior to ask
someone’s permission
* Tel: 0912138870
Nguyễn Văn Hảo và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 35 - 38
8
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
9
DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI” - KỊCH “VŨ NHƢ TÔ”
CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
Nguyễn Thành Lâm
*
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ninh
TÓM TẮT
Tác phẩm kịch có những đặc điểm khác biệt so với các thể loại văn học khác. Thực tế nhà trƣờng
cho thấy việc dạy học thể loại kịch gặp nhiều khó khăn hơn so với các thể loại văn học khác. Đa số
giáo viên dạy nhƣ sách hƣớng dẫn, chƣa biết lựa chọn những kiến thức cơ bản, bài giảng chƣa phù
hợp với đối tƣợng học sinh, tham kiến thức mà chƣa áp dụng lý thuyết loại thể, dẫn đến hứng thú
học văn của học sinh chƣa đƣợc phát huy. Chính những biểu hiện nêu trên đã làm cho việc dạy học
kịch bản văn học ở trƣờng THCS, THPT chƣa mang lại hiệu quả cao.
Những lƣu ý khi dạy học và thiết kế giáo án thể nghiệm đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” –
kịch “Vũ Nhƣ Tô” của Nguyễn Huy Tƣởng là một minh chứng rõ nét cho phƣơng pháp tiếp cận
dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại.
Từ khóa: Dạy học, kịch, thể loại
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học cơ sở
và Trung học phổ thông, văn bản kịch chiếm
tỷ lệ rất khiêm tốn so với văn bản văn học
khác. Tâm lý phổ biến của đời sống văn học
nhà trƣờng là ít quan tâm đến kịch bản văn
học. Kinh nghiệm thƣởng thức kịch hạn chế,
tài liệu viết về kịch không nhiều, văn bản kịch
là loại văn bản có những nét đặc thù riêng.
Nhƣ chúng ta đã biết, kịch đƣợc giảng dạy
trong nhà trƣờng không phải với tính chất là
một loại hình nghệ thuật. Chúng ta giảng dạy
kịch trên phƣơng diện văn học, nhƣng kịch
không đơn thuần giống nhƣ tự sự bởi nó là
môn nghệ thuật tổng hợp, nó có mối quan hệ
với sân khấu nhƣ hình với bóng. Việc thƣởng
thức một tác phẩm thuộc thể loại kịch không
giống với mọi tác phẩm văn học khác.
Tiếp cận tác phẩm văn chƣơng, ngƣời đọc,
ngƣời học có thể đi theo nhiều con đƣờng
khác nhau. Mục đích cuối cùng là làm sao đạt
đƣợc hiệu quả tiếp nhận cao nhất. Các nhà
nghiên cứu văn học đã chỉ ra rằng: Một trong
những phƣơng pháp tiếp cận có hiệu quả là
dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chƣơng theo đặc
trƣng thể loại.
Trong bài “Về vấn đề giảng dạy tác phẩm văn
học theo loại thể” của cuốn “Vấn đề giảng
* Tel: 0982856686
dạy tác phẩm văn học theo loại thể” tác giả
Trần Thanh Đạm đã chú ý đến ba thể loại văn
học lớn: Tự sự, trữ tình, kịch. Tác giả khẳng
định “Nhà văn sáng tác theo loại thể thì
người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và
người dạy cũng giảng dạy theo loại thể”.
Chƣơng trình THPT đƣa vào ba tác phẩm
kịch, trong đó kịch của tác giả Việt Nam
chiếm số lƣợng là hai. Cụ thể là: Ở lớp 10
trích “Tình yêu và thù hận” – kịch “Rômêô
và Giuliet” của Uyliam Sêchxpia; ở lớp 11,
đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” – kịch
“Vũ Nhƣ Tô” của Nguyễn Huy Tƣởng; ở lớp
12, đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt”
– kịch của Lƣu Quang Vũ. Trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi muốn đƣa ra một biện
pháp thích hợp nhằm giảng dạy kịch: “Vĩnh
biệt Cửu Trùng Đài” trích “Vũ Nhƣ Tô” của
Nguyễn Huy Tƣởng.
MỘT VÀI LƢU Ý KHI DẠY KỊCH “VŨ
NHƢ TÔ”
- Khai thác ngôn ngữ, nhịp điệu kịch:
+ Ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp cao (kể,
miêu tả, bộc lộ…), nhất là trong hồi cuối Vũ
Như Tô, nhà văn đã đồng thời khắc họa tính
cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt hành động,
xung đột kịch khiến ngƣời đọc dễ dàng hình
dung cả một không gian bạo lực kinh hooàng
trong một nhịp điệu chóng mặt: Lê Tƣơng
Dực bị Ngô Hạch giết chết, Hoàng hậu nhảy
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
10
vào lửa tự vẫn (qua lời kể của Lê Trung Mại);
Nguyễn Vũ tự tử bằng dao (ngay trên sân
khấu), Đan Thiềm suýt bị bọn nội giám thắt
cổ ngay tại chỗ; Vũ Nhƣ Tô ra pháp trƣờng.
Rồi tiếng nhiếc móc, chửi rủa, la ó, than khóc,
máu, nƣớc mắt… tất cả hừng hực nhƣ trên
một chảo dầu sôi lửa bỏng khổng lồ.
+ Nhịp điệu kịch đƣợc tạo ra thông qua nhịp
điệu của lời nói – hành động (nhất là qua
khẩu khí, nhịp điệu, sắc thái lời nói – hành
động của Đan Thiềm – Vũ Nhƣ Tô đối đáp
với nhau và với phe đối nghịch; qua lời nói –
hành động của những ngƣời khác trong vai
trò đƣa tin, nhịp điệu “ra”, “vào” của các
nhân vật đầu và cuối mỗi lớp – các lớp đều
ngắn, có những lớp rất ngắn: chỉ dăm ba lƣợt
thoại nhỏ; những tiếng reo, tiếng thét, tiếng
động dội từ hậu trƣờng phản ánh cục diện,
tình hình nguy cấp, điên đảo trong các lời chú
thích nghệ thuật hàm súc của tác giả.
- Chú ý yếu tố lịch sử: Viết một vở kịch lịch
sử, Vũ Nhƣ Tô tất nhiên dựa trên các sử liệu:
sự kiện, nhân vật lịch sử, bối cảnh lịch sử.
Điều quan trọng là khai thác vận dụng các sử
liệu ấy nhƣ thế nào, sao cho phù hợp với yêu
cầu của bi kịch. Và lịch sử có lô gic và qui
luật của nó, tàn khốc, lạnh lùng. Cái lõi lịch
sử đƣợc nhà văn khai thác ở đây là câu
chuyện Vũ Nhƣ Tô xây Cửu trùng đài cho Lê
Tƣơng Dực (theo nhƣ sách Đại Việt sử kí và
Việt sử thông giám cương mục ghi lại). Đài
xây dang dở, ngƣời thợ tài hoa Vũ Nhƣ Tô đã
phải chịu cái chết oan khốc. Ở đây, để góp
phần làm nên cái khung cảnh và không khí bi
tráng của lịch sử, tác giả đã đặt hành động
kịch vào trong “một cung cấm”, nhiều nhân
vật kịch là những nhân vật lịch sử. Nhiều tên
đất tên ngƣời gắn với triều Lê… Đúng nhƣ lời
chú thích sân khấu của tác giả: Sự việc trong
vở kịch xảy ra ở Thăng Long trong khoảng
thời gian từ năm 1516 đến năm 1517, dƣới
triều Lê Tƣơng Dực.
- Thực tại đƣợc phản ánh trong bi kịch theo
lối cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày
những xung đột sâu sắc của thực tại dƣới
dạng bão hòa và căng thẳng đến cực độ mang
ý nghĩa tƣợng trƣng nghệ thuật. Tác phẩm
thƣờng đặt độc giả trƣớc những câu hỏi phức
tạp, hóc búa, nhức nhối của cuộc sống. Trong
lời Đề tựa viết một năm sau khi viết xong vở
kịch, chính Nguyễn Huy Tƣởng đã công khai
bày tỏ nỗi băn khoăn của mình: “Đài Cửu
Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?
Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết
Như Tô phải […]. Than ôi, Như Tô phải hay
những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm
bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Cho đến khi bi kịch hạ màn, ngƣời xem vẫn
chƣa thấy đâu câu trả lời dứt khoát của tác
giả. Nói đúng hơn ông nhƣờng câu trả lời cho
ngƣời đọc, ngƣời xem. Mâu thuẫn và tính
không dứt khoát trong cách giải quyết mâu
thuẫn này đƣợc thể hiện tập trung trong hồi
cuối của vở kịch. Cửu Trùng Đài sụp đổ và bị
đốt cháy, nhân dân trƣớc sau vẫn không hiểu
gì việc sáng tạo của nghệ sĩ, không hiểu nổi
Đan Thiềm, Vũ Nhƣ Tô cũng nhƣ “mộng
lớn” của hai nhân vật hiện thân cho tài sắc
này. Về phía khác, Đan Thiềm không cứu
đƣợc Vũ Nhƣ Tô và họ Vũ vẫn không thể,
không bao giờ hiểu đƣợc việc làm của quần
chúng và của phe cánh nổi loạn. Mâu thuẫn
mà vở bi kịch nêu lên thuộc loại mâu thuẫn
không bao giờ và không ai giải quyết cho thật
dứt khoát, ổn thỏa đƣợc, nhất là trong thời đại
Vũ Nhƣ Tô. Mâu thuẫn này may ra có thể giải
quyết đƣợc phần nào thỏa đáng khi mà đời
sống vật chất của nhân dân thật bình ổn, đời
sống tinh thần; nhu cầu về cái đẹp trong xã hội
đƣợc nâng cao lên rõ rệt. Mặc dầu vậy, chủ đề
và định hƣớng tƣ tƣởng của vở kịch vẫn đƣợc
phát triển tƣơng đối sáng tỏ. Một mặt, trên
quan điểm nhân dân, vở kịch lên án bạo chúa
tham quan, đồng tình với việc dân chúng nổi
dậy trừ diệt chúng; nhƣng mặt khác, trên tinh
thần nhân văn, vở kịch đã ca ngợi những nhân
cách nghệ sĩ chân chính và tài hoa nhƣ Vũ
Nhƣ Tô, những tấm lòng yêu quý nghệ thuật
đến mức quên mình nhƣ Đan Thiềm.
Đây là chủ đề đƣợc thể hiện chủ yếu qua
mâu thuẫn thứ hai của vở kịch: mâu thuẫn
giữa niềm khát khao hiến dâng tất cả cho
nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ đắm chìm trong
mơ mộng với lợi ích trực tiếp và thiết thực
của đời sống nhân dân. Vũ Nhƣ Tô là một tài
năng nhƣng chính vì không giải quyết đƣợc
mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống nên
ông đã thất bại.
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
11
- Xác định đƣợc một quan niệm nghệ thuật
đúng đắn: Nghệ thuật không thể đứng cao hơn
cuộc sống, ngƣời nghệ sĩ phải đứng về phía
nhân dân, chống lại cái ác, cái xấu, đồng thời
phải sáng tác những tác phẩm phục vụ cho
nhân dân có một chất lƣợng và giá trị lâu dài.
THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM DẠY HỌC KỊCH "VŨ NHƢ TÔ" CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG (TRÍCH HỒI V)
A. Mức độ cần đạt:
- Hiểu được bi kịch của người nghệ sỹ tài năng, giàu hoài bão và thái độ cảm thông trân trọng của nhà văn đối với họ.
- Thấy được nét đặc sắc trong nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng.
Trong đó trọng tâm kiến thức là:
+ Xung đột kịch, diễn biến tâm trạng, tính cách, bi kịch của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong hồi V.
+ Thái độ ngưỡng mộ, trân trọng của tác giả
đối với những nghệ sĩ tâm huyết và tài năng
nhưng phải chịu số phận bi thảm.
- Kĩ năng: Đọc – hiểu một trích đoạn kịch bản
văn học theo đặc trưng thể loại.
- Thái độ: Trân trọng, cảm thông với những
người nghệ sĩ trí thức có tài năng, hoài bão
lớn như Vũ Như Tô.
B. Phương tiện thực hiện: SGK 11- tập 1,
Chương trình chuẩn - NXB Giáo dục, 2007,
video clip kịch Vũ Như Tô, máy chiếu....
C. Phương pháp tiến hành: Sử dụng các
phương pháp như đọc phân vai, xây dựng hệ
thống lời gợi dẫn phối hợp với phương pháp
phân tích, bình giảng, so sánh để làm nổi bật
giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
cũng như tác phẩm.
D. Tiến trình dạy học:
Hoạt động của thầy - trò Nội dung
Giáo viên hỏi học sinh dựa vào phần tiểu
dẫn: Nêu những nét tiêu biểu về cuộc đời
Nguyễn Huy Tưởng, vị trí của ông trong nền
văn học hiện đại? Kể tên những sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng và cho biết các sáng tác
ấy bộc lộ phong cách nghệ thuật nào?
I. Tìm hiểu chung
1.Tác giả: Nguyễn Huy Tưởng
Giáo viên bổ sung và nhấn mạnh một số điểm
cốt lõi:
+ Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960), quê
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc
Đông Anh - Hà Nội).
+ Là người có thiên hướng rõ rệt về đề tài
lịch sử và thành công hơn cả ở thể loại kịch
và tiểu thuyết.
+ Trước cách mạng, ông là nhà văn tiến bộ
yêu nước, sau cách mạng ông là một trong
những nhà văn có công đầu trong việc xây
dựng nền văn học mới. Là nhà văn có ý thức
cao về trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với
đất nước và nền nghệ thuật nước nhà.
+Văn phong Nguyễn Huy Tưởng giản dị,
trong sáng, giàu chất lãng mạn, bày tỏ tấm
lòng chân thành, tha thiết, khát khao sáng
tạo, trăn trở về công việc của người cầm bút.
+ Tác phẩm chính
Kịch Vũ Như Tô (1941), tiểu thuyết Đêm hội
Long Trì (1942),Tiểu thuyết Ân Tư (1945), vở
kịch Bắc Sơn (1946), Những người ở lại
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
12
(1948), Sống mãi với thủ đô (1961), Kí sự
Cao - Lạng (1981). Ông được Nhà nước tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật năm 1996.
Giáo viên hỏi học sinh những đặc điểm cơ
bản của kịch, sau đó giáo viên có thể chốt lại.
Cho học sinh xem 1 đoạn kịch Vũ Như Tô
2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại kịch
- Kịch là loại hình nghệ thuật biểu diễn trên
sân khấu, là nghệ thuật tổng hợp với sự tham
gia diễn xuất của diễn viên, đạo cụ, âm nhạc,
hội họa. Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc
văn học.
- Kịch phản ánh đời sống qua các xung đột
kịch, tức xung đột cụ thể của các nhân vật,
thể hiện những mâu thuẫn sâu sắc về tư
tưởng quan điểm trong đời sống. Do đặc
điểm này, các nhân vật bị lôi cuốn vào các
xung đột căng thẳng từ đầu đến cuối. Nói
chung, nhân vật kịch không thảnh thơi như
nhân vật trong tác phẩm tự sự, trữ tình.
- Cốt truyện kịch được tổ chức thành hành
động kịch.
- Đối thoại kịch là cuộc đối thoại về lí trí, trí
tuệ, lương tâm đầy kịch tính.
- Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ có tính hành
động.
Giáo viên gọi học sinh nêu hoàn cảnh và mục
đích sáng tác.
3. Về vở kịch “Vũ Như Tô”
a. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
+ Kịch “Vũ Như Tô” là một vở bi kịch lấy
cảm hứng từ sự kiện lịch sử có thật xảy ra tại
Thăng Long vào khoảng năm 1516 - 1517
dưới triều Lê Tương Dực. Tác phẩm viết xong
vào mùa hè 1941. Đề tựa tháng 6/1992, đăng
trên tạp chí Tri Tân năm 1943 - 1944, in
trong tập kịch Nguyễn Huy Tưởng, NXB Văn
hoá Hà Nội, 1963.
+ Mục đích sáng tác: Đề cao vai trò của
người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật.
Giáo viên gọi học sinh tóm tắt tác phẩm hoặc
giáo viên có thể tóm tắt.
b. Tóm tắt tác phẩm: Tác phẩm có 5 hồi
Sau khi đọc xong đoạn trích, giáo viên yêu
cầu học sinh xác định vị trí đoạn trích, tóm
tắt nội dung đoạn trích.
c. Vị trí đoạn trích Đoạn trích thuộc hồi V của vở kịch kể chuyện Đan Thiềm đến gặp Vũ Như Tô khuyên ông trốn đi vì nghe tin Trịnh Duy Sản nổi loạn. Vũ Như Tô không tin mình có tội nên không chạy trốn. Kết cục, quân nổi loạn đã đốt phá, thiêu huỷ Cửu Trùng Đài, giết chết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm.
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
13
Gợi dẫn 1: Kịch thường được xây dựng trên
cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột muôn thuở (thiện và ác, ước
mơ và hiện thực). Trong hồi V đã tái hiện
những mâu thuẫn cơ bản nào?
II. Đọc - hiểu văn bản
1. Các mâu thuẫn cơ bản của kịch Vũ Như Tô
Các mâu thuẫn cơ bản của vở kịch được thể
hiện cụ thể trong hồi V là:
a. Mâu thuẫn giữa tập đoàn phong kiến thối
nát Lê Tương Dực với tầng lớp nhân dân
đang bị bần cùng vì sưu thuế, tạp dịch.
- Mâu thuẫn này chủ yếu thể hiện ở những
hồi trước của vở kịch, đã thành cao trào
trong hồi cuối này. Bạo chúa Lê Tương Dực
chết trong tay những người nổi loạn do Trịnh
Duy Sản cầm đầu, mọi uy quyền của bạo
chúa tiêu tan theo tro bụi Cửu Trùng Đài.
b. Mâu thuẫn giữa niềm khao khát hiến dâng
tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm
chìm trong mơ mộng với lợi ích trực tiếp và
thiết thực của đời sống nhân dân. Mâu thuẫn
này xuất phát từ niềm khao khát của người
nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng tập trung ở
sự việc xây dựng Cửu Trùng Đài (Đài càng
xây cao thì càng tốn kém nhiều, tổn thất lớn,
lại thêm các nạn đại dịch...).
Như vậy, dù muốn dù không Vũ Như Tô đã
bất đắc dĩ trở thành kẻ thù của nhân dân.
Cuối vở kịch người ta không chỉ nguyền rủa
mà còn theo lời của những kẻ cầm đầu cuộc
nổi loạn đốt phá tan tành Cửu Trùng Đài, bắt
bớ và trừng phạt tác giả của nó. Đây là lúc
mâu thuẫn xung đột kịch được đẩy lên đến
đỉnh điểm. Và nếu như trong hồi đầu, nó chỉ
là mâu thuẫn tiềm ẩn, thấp thoáng đằng sau
mâu thuẫn thứ nhất thì giờ đây, nó hầu như
đã hoà nhập vào mâu thuẫn thứ nhất. Thậm
chí lúc này dân chúng chỉ chăm chăm với
việc trả thù Vũ Như Tô và người cung nữ
"đồng bệnh" là Đan Thiềm chứ không quan
tâm đến việc trả thù bạo chúa Lê Tương Dực.
Gợi dẫn 2: Đan Thiềm là ai? Ở hồi V này,
Đan Thiềm đã có hành động gì và điều đó
chứng tỏ Đan Thiềm là người như thế nào?
2. Tìm hiểu nhân vật Đan Thiềm
a. Hành động, tính cách
- Đan Thiềm là một cung nữ đã bị ruồng bỏ,
là người thuyết phục Vũ Như Tô lợi dụng
quyền thế, tiền bạc của bọn bạo chúa để xây
dựng cho đất nước một công trình "bền như
trăng sao" "tranh tinh xảo hoá công" cho
"nhân dân nghìn thu còn hãnh diện". Lời
khuyên này chứng tỏ Đan Thiềm là một người
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
14
phụ nữ có trái tim lớn, tâm hồn lớn, ý thức rất
rõ về tinh thần dân tộc.
- Đan Thiềm là người biết trọng tài năng. Đó
là bậc "Mê đắm người tài hoa".
- Đến khi bạo loạn xảy ra, Đan Thiềm khuyên
Vũ Như Tô đi trốn (hồi V).
- Khi quân nổi loạn đến, Đan Thiềm có thể
quên mình để bảo vệ người tài. "Tướng quân
nghe tôi, bao nhiêu tội tôi xin chịu hết, nhưng
xin tướng quân tha cho ông cả. Ông ấy là một
người tài, tướng quân tha cho ông cả, nước
ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm".
- Đứng trước mộng lớn không thành, tâm trí
Đan Thiềm không hướng vào việc xây dựng
Cửu Trùng Đài thành hay bại mà hướng vào
sự sống còn của Vũ Như Tô.
- Khi tình thế không thể cứu vãn, Đan Thiềm
đành buông lời vĩnh biệt "Đài lớn tan tành!
Ông cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt". Đó là lời
vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, vĩnh biệt người tài
hoa. Hành động cao cả và cái chết của Đan
Thiềm ở hồi V đã khắc họa rõ nhân cách cao
đẹp của người cung nữ này.
Gợi dẫn 3: Trong lời đề tựa, Nguyễn Huy
Tưởng viết "Cầm bút chẳng qua cùng một
bệnh với Đan Thiềm. Theo em "bệnh Đan
Thiềm" là bệnh gì và tại sao "cầm bút" lại
cùng bệnh với Đan Thiềm?
b. Bệnh Đan Thiềm
-Mê đắm người tài hoa
3. Tìm hiểu nhân vật Vũ Như Tô
Gợi dẫn 4: Ngay ở những hồi đầu của vở kịch
đã cho thấy Vũ Như Tô là một kiến trúc sư
thiên tài. Ở hồi V này, cái tài ấy của Vũ Như
Tô được nhắc lại qua những lời thoại nào?
a. Tài năng
- Tài năng của Vũ Như Tô được nhắc lại
nhiều lần qua lời của Đan Thiềm.
- "Ông trốn đi, tài kia không nên để uổng.
Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không
còn ai tô điểm nữa" (lớp I), "Trốn đi!" Đừng
để phí tài tử, trốn đi" (lớp V).
- “Xin tướng quân tha cho ông cả. Ông ấy là
một người tài” (lớp VII).
Gợi dẫn 5: Những lời nói và hành vi của Vũ
Như Tô trong hồi V cho ta thấy Vũ Như Tô là
người có tính cách như thế nào?
b. Nhân cách - Nhân cách cao cả, hoài bão lớn lao, nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, không khuất phục trước uy quyền, thà chết chứ không chịu đem tài năng của mình phục vụ hôn quân bạo chúa.
- Khát khao suốt đời là xây được một toà lâu
đài nguy nga tráng lệ, bền vững muôn đời, để
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
15
dân ta nghìn thu hãnh diện. Nguyễn Huy
Tưởng đã xây dựng được một hình tượng đẹp
về người trí thức Việt Nam "Một Vũ Như Tô
cao đẹp, lộng lẫy, nghệ sĩ và kẻ sĩ với khát
vọng mênh mông về cái đẹp, dân tộc và nhân
loại" (Đỗ Đức Hiểu, Bi kịch Vũ Như Tô, Tạp
chí văn học, số 10/ 1997).
Gợi dẫn 6: "Hạt nhân của bi kịch là lỗi lầm
của nhân vật" (A-nit-tôt). Theo em ở hồi V
này Vũ Như Tô đã mắc phải lỗi lầm gì? Bi
kịch của Vũ Như Tô là bi kịch gì?
c. Lỗi lầm và bi kịch
- Lỗi lầm của Vũ Như Tô là không chịu nghe
lời khuyên của Đan Thiềm. Nguyên nhân dẫn
đến sai lầm đó là Vũ Như Tô không thoát
khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng của mình.
Vũ Như Tô không tin rằng việc cao cả mình
làm lại có thể xem là tội ác. Không tin việc
quang minh chính đại của mình lại bị rẻ
rúng, nghi ngờ. Mơ hồ về thời cuộc, không
hiểu biết về chính trị. Đến khi vỡ mộng, bị
bắt, Cửu Trùng Đài bị đốt cháy, Vũ Như Tô
mới chợt nhận ra đau đớn kinh hoàng. Nỗi
đau ấy bật thành tiếng kêu khắc khoải, bi
thiết đến não nùng.
Gợi dẫn 7: Đặc sắc nghệ thuật Kịch "Vũ Như
Tô" được thể hiện như thế nào qua đoạn
trích?
4. Tìm hiểu nghệ thuật kịch trong đoạn
trích
- Miêu tả thành công diễn biến tâm trạng
nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm.
- Khắc họa tính cách nhân vật với cá tính rõ
nét.
- Nhịp điệu được tạo ra qua đối thoại, hành
động.
- Ngôn ngữ tổng hợp (kể, miêu tả, bộc lộ) đã
tạo ra không gian bạo loạn kinh hoàng.
Gợi dẫn 8: Cảm nhận của em sau khi học
xong đoạn trích?
5. Hướng dẫn học sinh tổng kết
- “Vũ Như Tô” là bi kịch của người nghệ sĩ,
không giải quyết đúng mối quan hệ lý tưởng,
khát vọng nghệ thuật và hiện thực xã hội,
giữa người nghệ sĩ và người công dân. Qua
đó, khẳng định rằng nghệ thuật chân chính
có giá trị lâu dài phải xuất phát từ nguyện
vọng chính đáng của nhân dân và lợi ích của
dân tộc.
Giáo viên có thể kiểm tra, đánh giá bằng
cách đặt câu hỏi, cho học sinh đọc một vài
lớp kịch.
6. Kiểm tra, đánh giá
- Mâu thuẫn xung đột chính trong đoạn kịch
này là gì? Hãy chứng minh đoạn kịch là cao
trào của vở kịch?
- Đọc phân vai để lắng nghe ngôn ngữ kịch
của Nguyễn Huy Tưởng.
Nguyễn Thành Lâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 9 - 16
16
Nhƣ vậy, việc chiếm lĩnh tác phẩm văn
chƣơng theo đặc trƣng loại thể sẽ giúp ta hiểu
sâu sắc tác phẩm, vấn đề này rất cần đƣợc chú
trọng từ khâu xác định định hƣớng khai thác
đến khâu thiết kế bài soạn, thực hành bài
giảng. Mỗi thể loại trong văn học đều có
những đặc trƣng riêng, do đó cần có những
nguyên tắc dạy riêng phù hợp với đặc trƣng
của từng thể loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Thanh Đạm (1978) Vấn đề giảng dạy tác
phẩm văn học theo loại thể. Nxb Giáo dục.
[2].Đỗ Đức Hiểu (1997), Bi kịch Vũ Như Tô, Tạp
chí Văn học (10).
SUMMARY
TEACHING EXTRACT "VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI" - DRAMA "VŨ
NHƢ TÔ" NGUYEN HUY TUONG BY FEATURE CATEGORIES Nguyen Thanh Lam
*
Education and Training Department of Quang Ninh
Drama has quite different characteristics from other genres of literature. In fact, teaching drama
genre at school has more difficulty than other genres of literature. Most school teachers teach
lessons basing on guide books, not knowing how to select basic knowledge resulting the lesson is
not suitable to students. Additionally teachers are often greedy for much knowledge, not applying
the theory of the genre, that is why, the lesson doesn‟t attract students.
It is the above mentioned that makes teaching drama genre at lower and senior schools is not in
high efficiency.
Notes when teaching and designing lesson plans for the extract “Paying last respect to Cuu Trung
Dai” and Drama “Vu To Nhu” by Nguyen Huy Tuong are clear evidences for approaching
methodology of literature genres.
Key words: Teaching, drama, genre
* Tel: 0982856686
Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 17 - 22
17
ĐỊA VỊ CAO CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI AI CẬP CỔ ĐẠI
Dƣơng Thị Huyền
*
Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong thế giới cổ đại, Ai Cập là quốc gia mà ngƣời phụ nữ có địa vị tƣơng đối cao. Không những
phụ nữ cung đình quyền quý có địa vị chính trị và tôn giáo cao mà ngay những ngƣời phụ nữ lao
động bình thƣờng cũng đƣợc hƣởng những quyền lợi về kinh tế, luật pháp và giao tiếp xã hội nhƣ
nam giới. Phụ nữ Ai Cập có quyền đƣợc có tài sản riêng, truy tố chồng ra tòa và ly dị, nhất là trong
những trƣờng hợp bị đối xử tệ. Quan hệ nam nữ trong xã hội là quan hệ hoàn toàn bình đẳng, trong
đó ngƣời phụ nữ đƣợc xã hội kính trọng. Đó là điều mà không phải chỉ những phụ nữ Hy Lạp, La Mã
thời bấy giờ khao khát mà ngay cả thời nay, phụ nữ nhiều nƣớc vẫn đang đấu tranh để giành lại.
Từ khóa: phụ nữ Ai Cập; địa vị của người phụ nữ; hôn nhân; gia đình
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong xã hội nguyên thủy, chế độ mẫu hệ
xuất hiện trong một thời gian dài. Ngƣời phụ
nữ lúc đó phải gánh vác những trọng trách
nặng nề, lao động cực nhọc nhƣng họ hoàn
toàn có quyền tự do. Họ cai quản bộ lạc,
chăm sóc con gái, còn đàn ông đi kiếm ăn.
Bây giờ, lƣơng thực là của chung giúp cho
ngƣời phụ nữ chiếm ƣu thế trong xã hội và
gia đình. Dòng dõi của con cái sinh ra đƣợc
xác định về bên mẹ. Tất cả đã tạo nên cơ sở
cho sự thống trị của ngƣời phụ nữ. Nhƣng khi
nền kinh tế phát triển, nhất là khi bƣớc vào
thời đại khí, vai trò của ngƣời đàn ông trong
xã hội ngày càng đƣợc nâng cao, chế độ phụ
hệ dần đƣợc xác lập. Từ đó, vị trí và vai trò
của ngƣời phụ nữ bị suy giảm so với trƣớc.
Nhiều phụ nữ phụ thuộc vào chồng mình,
thậm chí còn bị đối xử rất tệ bạc. Khi bƣớc
vào xã hội văn minh thời cổ đại, địa vị của
ngƣời phụ nữ ngày càng thấp kém nhƣng Ai
Cập là một trong số ít các quốc gia còn duy
đƣợc địa vị và quyền lợi của ngƣời phụ nữ
nhƣ trong chế độ mẫu hệ thời nguyên thủy.
Ai Cập cổ đại là trung tâm văn minh sớm nhất
thế giới cổ đại, ra đời vào cuối thiên niên kỷ
IV TCN, ở lƣu vực sông Nil, phía Bắc châu
Phi. Nền văn minh Ai Cập nổi tiếng với các
kim tự tháp hùng vĩ, những bức tƣợng khổng
lồ, những xác ƣớp còn tồn tại đến ngày nay…
Chính vì vậy, đã có rất nhiều nhà khoa học,
* Tel: 0975702362; Email: [email protected]
nhà khảo cổ học tìm hiểu, nghiên cứu và
khám phá về đất nƣớc có nhiều điều bí ẩn
này. Nhƣng các tác giả với các tác phẩm, chủ
yếu tập trung nghiên cứu thiết chế chính trị,
tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa của Ai
Cập qua các triều đại. Cho đến nay, chƣa có
một tác giả và tác phẩm nào đi sâu nghiên cứu
về địa vị và đời sống của ngƣời phụ nữ Ai
Cập thời cổ đại. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi tập trung tìm hiểu các tài liệu khảo
cổ học mà các nhà khảo cổ đã khai quật đƣợc
ở Ai Cập nhƣ: những ngôi mộ hoàng tộc và
các đền đài, các xác ƣớp, các bích họa và
tƣợng, những ngôi nhà, làng mạc cùng với
những đồ dùng hàng ngày của ngƣời xƣa để
lại… Các phát hiện ấy giúp chúng ta hiểu rõ
hơn, tín ngƣỡng và lối sống của cƣ dân mà
trong đó phản ánh rõ nét đời sống và địa vị
của ngƣời phụ nữ. Phụ nữ Ai Cập có địa vị
ngang bằng thậm chí trong một số lĩnh vực
còn hơn hẳn nam giới. Đó là một điểm tiến
bộ, làm nên những giá trị của của nền văn
minh Ai Cập
VỀ CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI
Khác với các quốc gia cổ đại phƣơng Đông,
những phụ nữ trong các cung đình có địa vị
chính trị tƣơng đối cao. Hầu hết các Pharaông
có nhiều vợ nhƣng chỉ có một ngƣời đƣợc
công nhận là “chính cung”. Bà là đệ nhất phu
nhân của vƣơng quốc. Tiếp sau là bà mẹ sinh
ra nhà vua, bà cũng đƣợc mọi ngƣời rất kính
trọng. Hoàng tử có đủ tƣ cách kế vị hay
không phải xem đó có phải là con của chính
cung hoàng hậu hay không. Nếu không phải
Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 17 - 22
18
là con trai của hoàng hậu mà là con của thứ
phi thì phải lấy con gái hoặc em gái của
hoàng hậu, thậm chí phải lấy hoàng hậu thì
mới có tƣ cách trở thành quốc vƣơng. Do đó,
hoàng hậu của các triều đại giữ địa vị cực kỳ
quan trọng trong gia tộc, thƣờng tham dự vào
các hoạt động chính trị của nhà nƣớc.
Trở thành ngƣời đứng đầu của một quốc gia,
một dân tộc chƣa bao giờ là điều dễ dàng, đặc
biệt là đối với một ngƣời phụ nữ. Vậy mà ở
Ai Cập, nhiều phụ nữ Ai Cập đã trở thành Nữ
hoàng cai trị đất nƣớc trong một thời gian dài.
Nữ hoàng Nefertiti (1370 – 1330 trƣớc Công
nguyên) là vợ của vị Pharaong vĩ đại
Akhenaten. Nefertiti kết hôn với Akhenaten
vào năm trị vì thứ 2 của ông, khoảng năm
1.350 trƣớc Công nguyên. Chính theo ý thích
của Nefertiti, Akhenaten đã trao cho nàng
quyền lực tối ƣu trong một loại hình tôn giáo
mới, nhằm tôn vinh vị thần mặt trời Aten trên
mọi thần khác. Nefertiti đƣợc tôn vinh làm
Nữ thần bảo hộ nhà vua thay thế các vị thần
Isis, Nephthys, Selket và Neith trong tín
ngƣỡng cổ Ai Cập. Khi triều đại Akhenaten
đã suy tàn, Nefertiti càng trở nên quyền lực
hơn. Có thể vị vua đã bổ nhiệm Nefertiti là
ngƣời đồng nhiếp chính. Nefertiti đã trở
thành pharaoh Nefemeruaten, nghĩa là
“Người đàn bà mỹ lệ của Vầng hào quang sáng
chói Aten”. Hoàng hậu Nefertiti đƣợc coi là
ngƣời phụ nữ đẹp nhất thế giới trong thời đại
của mình. Bà không những đƣợc coi là biểu
tƣợng sắc đẹp của thời cổ đại mà còn là nguồn
cảm hứng cho các phong cách trang điểm, trang
phục, trang sức những năm sau này.
Nữ hoàng Hatchepsut đã trị vì Ai Cập từ
1479 TCN đến 1457 TCN. Bà lên nắm quyền
sau khi ngƣời anh trai, đồng thời cũng là
chồng mình, Pharaong Thutmose II qua đời
mà không có ngƣời kế vị. Hatshepsut là ngƣời
phụ nữ duy nhất đƣợc trao tƣớc hiệu
Pharaong ở Ai Cập. Một số biểu tƣợng mô tả
bà đeo bộ râu giả và mặc trang phục của các
vị đế vƣơng. Đền thờ của Hatshepsut cho thấy
những thành tựu đã đạt đƣợc trong thời gian
bà cai trị. Bà đã cho mở rộng giao thƣơng
xuống phía nam vốn bị gián đoạn bởi chiến
tranh. Bà đã thành lập một đội quân gồm toàn
nữ thủy thủ, có nhiệm vụ thám hiểm vùng đất
Punt (mũi Hảo Vọng của châu Phi. Chính đội
quân này đã mang về Ai Cập nhiều hàng hóa
có giá trị: gỗ mun, vàng, những động vật hiếm
và cây cảnh lạ. Một lời ca ngợi bên dƣới bức
điêu khắc trong đền thờ của bà: “Chưa từng có
vị vua nào trong lịch sử thế giới có thể mang
về cho đất nước mình nhiều thứ như thế”.
Công trình Kim tự tháp của Hatshepsut là một
trong những công trình xây dựng thể hiện
tham vọng của vị nữ Pharaong này so với các
vị Pharaong khác. Bà đã xây dựng hai tòa
tháp cao hơn 30m tại Tebơ, trung tâm hoàng
tộc và tín ngƣỡng của triều đại Thutmose.
Xung quanh đó, bà đã cho xây dựng những
con đƣờng hùng vĩ và những đền thờ uy
nghiêm. Tất cả những chi tiết này chứng tỏ
quyền lực của vị Nữ hoàng này là rất lớn
trong thời gian trị vì.
Cleopatra VII (69- 30 TCN), là con gái của
vua Ai Cập thuộc triều đại Ptolemy. Bà là một
Nữ hoàng Ai Cập nổi tiếng về sắc đẹp quyến
rũ, tính tình sắc sảo, thích quyền lực. Ngay từ
khi còn nhỏ, bà đã cai trị đất nƣớc cùng với
cha. Sau này, khi vua cha mất, dựa vào tƣớng
La Mã là Xêda và Ăngtoan, bà lên ngôi Nữ
hoàng Ai Cập (năm 51 TCN) và chi phối các
công việc chính trị của đất nƣớc.
Ở Ai Cập thời cổ đại, còn nhiều nữ hoàng có
quyền lực chính trị to lớn khác. Đây là điều
mà không phải một quốc gia cổ đại nào cũng
có đƣợc. Phụ nữ Hy Lạp cổ đại không đƣợc
tham gia vào công việc chính trị, không đƣợc
hƣởng quyền công dân. Điều đó thể hiện ở
việc họ không đƣợc tham dự vào các Đại hội
nhân dân, không thể giữ chức vụ trong guồng
máy cai trị hay bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử.
Phụ nữ Ai Cập cổ đại đƣợc hƣởng đầy đủ
quyền giao tiếp xã hội. Họ đƣợc phép có mặt ở những chỗ công cộng nhƣ chợ phiên, nơi vui chơi giải trí, những buổi yến tiệc mà không bị cấm đoán, hạn chế. Phụ nữ thích chơi nhạc hoặc múa vào các dịp lễ hội hoặc tiệc tùng và một số ngƣời còn coi đó là nghề
của mình. Họ đã chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau nhƣ cây đàn lia cổ có bảy dây, đàn hạc, đàn luýt, sáo... Một số bài hát còn lƣu lại đến ngày nay nhƣng âm nhạc thì không để lại dấu vết vì không đƣợc ghi chép.
Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 17 - 22
19
Phụ nữ Ai Cập rất quan tâm đến hình thức bề
ngoài. Điều đó thể hiện địa vị xã hội cao của
họ. Áo quần nhiều vẻ, không bị gò bó theo quy
định nhƣ phụ nữ Trung Quốc thời cổ trung đại.
Họ mặc quần áo bằng vải lanh, một loại vải
mỏng và thoáng mát rất thích hợp với khí hậu
nóng bức của đất nƣớc. Phụ nữ Ai Cập tự dệt
lấy quần áo và dệt thành những bộ có hoa văn,
màu sắc rất đẹp. Tấm áo dài, bó sát ngƣời và
có nếp là mốt thời Trung đế chế, đƣợc các bà
mặc trong những bữa cỗ bàn, tiệc tùng.
Ở Ai Cập, ngƣời phụ nữ biết dùng son phấn
sớm nhất thế giới. Mỹ phẩm của Ai Cập thời
kỳ này đƣợc làm từ chất khoáng. Phấn đen tô
mắt có gốc galen (sulphua), phấn xanh
malachite (xanh đồng) và son đỏ tô môi thì
làm từ ôxit sắt, còn phấn xoa má thì đƣợc làm
từ đất sét đỏ. Ngƣời ta tô mắt chắc hẳn để bảo
vệ đôi mắt chống lại nắng gắt. Trong tác
phẩm điêu khắc “Bức tượng chân dung Nữ
hoàng Nêphéctiti”, chúng ta thấy, lông mày
và môi của tƣợng đều tô màu, da màu rám
nắng thẫm.
Ngoài ra, phụ nữ Ai Cập cũng rất quan tâm
đến đầu tóc. Họ gội đầu thƣờng xuyên và hay
nhuộm tóc màu đỏ da cam. Những gia đình
giàu có thƣờng có thợ làm đầu. Họ còn dùng
tóc giả với những mái tóc dài và cầu kỳ hơn,
bên dƣới tóc giả, đầu nhiều khi đƣợc cạo trọc.
Đặc biệt, việc sử dụng nƣớc hoa trở nên rất
phổ biến ở những ngƣời phụ nữ tầng lớp trên
trong xã hội Ai Cập cổ đại. Các loại nƣớc hoa
đƣợc làm từ trầm hƣơng, nhựa trầm hƣơng và
các loại tinh dầu quý. Phụ nữ Ai Cập đều biết
cách trang điểm, họ không chỉ trang điểm cho
riêng mình mà còn trang điểm cho con cái và
chồng mình trong những dịp đặc biệt. Trong
những ngày lễ quan trọng, những ngƣời phụ
nữ đều mang tóc giả, tô son đánh phấn, xức
nƣớc hoa và đeo đồ trang sức.
Phụ nữ khi chết đƣợc chôn chung với chồng
mình, cùng hƣởng chung sự sang trọng của
ngôi mộ tùy theo đẳng cấp của chồng. Các
phụ nữ hƣởng đặc quyền có thể đƣợc ban tặng
rất nhiều nữ trang, kiềng cổ và những đồ
trang sức khác. Những phụ nữ hoàng tộc hoặc
phụ nữ của những gia đình giàu có còn đƣợc
ƣớp xác nhƣ đàn ông. Các nhà khảo cổ học đã
tìm thấy xác ƣớp của Nữ hoàng Hatshepsut, của
hoàng hậu và của các phụ nữ khác tại Thung
lũng các vị vua đã chứng minh điều này.
Ngƣời phụ nữ Ai Cập cũng giữ địa vị khá cao
trong lĩnh vực tôn giáo. Điều này đƣợc thể
hiện qua hệ thống các nữ thần. Ngƣời Ai Cập
thời cổ đại thờ hàng trăm vị thần linh khác
nhau với ý niệm các vị thần này sẽ che chở
cho con ngƣời trong cuộc sống hàng ngày.
Trong số hàng trăm vị thần ở Ai Cập, có rất
nhiều nữ thần bảo trợ cho ngƣời phụ nữ và
cho các hoạt động khác của con ngƣời: Nữ
thần Hathor- nữ thần bầu trời; Maat- nữ thần
sự thật, công lý và sự hài hòa của thế giới;
Mout- nữ thần đầu chim kền kền đƣợc thể
hiện nhƣ thần mẹ của nhà vua đang trị vì;
Isis- nữ thần sinh đẻ, là vợ của thần Osiris và
mẹ của thần Horus; nữ thần tổ ấm Toaueret
hoặc “nữ thần Lớn”, mang hình một con hà
mã cái bụng chửa, đây là nữ thần bảo trợ cho
những ngƣời phụ nữ trong lúc sinh nở… Nhƣ
vậy, thông qua tôn giáo, tín ngƣỡng, địa vị
cao của ngƣời phụ nữ trong xã hội Ai Cập
càng đƣợc khẳng định.
VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Trong tầng lớp bình dân, tình yêu nam nữ về
cơ bản đƣợc tự do. Đàn ông và phụ nữ Ai Cập
đã xem hôn nhân là điều đáng khát khao nhất
và thƣờng thành gia thất ở tuổi thiếu niên.
Nhiều cô gái lấy chồng từ tuổi mƣời hai,
mƣời ba và thƣờng kém chồng vài tuổi. Trên
bàn tay của một xác ƣớp Ai Cập, ngƣời ta đọc
thấy một dòng chữ viết tay chỉ ra rằng, đó là
xác của một phụ nữ đã kết hôn và mất vào lúc
11 tuổi.
Hôn nhân không đƣợc hợp thức hóa bằng
một nghi lễ tôn giáo, một đám cƣới thực sự
cũng nhƣ không đƣợc đăng ký trƣớc một cấp
chính quyền mà chỉ có sự thỏa thuận trƣớc
ngƣời làm chứng giữa hai bên nam nữ muốn
lập gia đình với nhau. Sự thỏa thuận này làm
cho việc kết hôn đƣợc nhân lên thành một sự
cam kết đặc biệt về tinh thần. Đôi khi có thể
có một hợp đồng công nhận tài sản của mỗi
bên. Mục đích của hợp đồng này chủ yếu
nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi
ngƣời vợ hay ngƣời chồng đòi ly dị. Những
điều đó, kết hợp với ý thức về lẽ phải đã góp
Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 17 - 22
20
phần củng cố sự ổn định về hôn nhân và gia
đình. Mặt khác, hôn nhân ở Ai Cập cổ đại đều
rất chú ý đến sự ƣng thuận của các đôi trai
gái. Trong các bản khế ƣớc hôn nhân, ngƣời
đàn ông phải ký tên bằng một dòng chữ “Tôi
đã lấy em làm vợ” và ngƣời phụ nữ cũng có
quyền của mình, mặc dù chỉ là câu “Anh đã
lấy tôi làm vợ”. Đây là quan điểm rất tiến bộ,
khác hẳn với quan điểm “cha mẹ đặt đâu, con
ngồi đấy” trong hôn nhân của một số quốc gia
khác trên thế giới thời bấy giờ.
Chế độ hôn nhân ở Ai Cập cũng rất tiến bộ,
đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Bởi
những khế ƣớc hôn nhân luôn đảm bảo quyền
lợi vật chất cho vợ con họ một cách tốt nhất.
Trƣớc khi lấy vợ, ngƣời đàn ông phải trả cho
bố vợ tƣơng lai một khoản tiền khá lớn. Sau
khi ly dị, ngƣời chồng bắt buộc phải nuôi
ngƣời vợ cũ của mình với số tiền bằng 1/3 thu
nhập của anh ta. Những quy định này khiến
hầu hết đàn ông Ai Cập chỉ có điều kiện lấy
một vợ mà thôi. Luật pháp Ai Cập cũng có
nhiều điều khoản bảo vệ quyền lợi phụ nữ và
trẻ em. Nếu ngƣời chồng bỏ rơi vợ con thì
phải xử phạt rất nặng về kinh tế.
Một đặc điểm nữa của đám cƣới thời Ai Cập
cổ đại là phải “môn đăng hộ đối”. Cả hai đều
phải xuất thân từ cùng một tầng lớp xã hội.
Ngƣời ta không quan tâm tới chủng tộc hay
quốc tịch. Vua thƣờng hết hôn với những cô
gái từ vƣơng quốc khác làm vợ hai. Vua
Ramsset II đã cƣới công chúa của Hitti và
phong chức hoàng hậu nhƣ ngƣời vợ đầu tiên
của mình. Những nữ nô lệ cũng đƣợc hƣởng
nhiều đặc quyền trong hôn nhân. Muốn có
đƣợc cuộc hôn nhân bình thƣờng, những cô
gái nô lệ phải mua tự do cho mình hoặc làm
con nuôi của một ngƣời tự do trƣớc khi lấy
chồng. Sau những cuộc hôn nhân này, những
nữ nô lệ này sẽ trở thành ngƣời công dân và
đƣợc hƣởng mọi đặc quyền của một ngƣời
phụ nữ trong xã hội. Ngƣời đàn ông đƣợc tự
do nhận những đứa con nô lệ mà ông ta đã
sinh ra làm con nuôi.
Khát khao có con cái thật phổ biến nhƣ một
bảo đảm để đối phó với tƣơng lai. Một nhà
thông thái thuộc triều đại XVIII đã khuyên
nhủ “hãy lấy vợ khi bạn còn trẻ để cô ta có
thể sinh con trai cho bạn. Hạnh phúc thay
người đàn ông có nhiều con cái vì anh ta
được kính trọng nhờ con cái của mình” [4,
tr.29]. Ngƣời phụ nữ thực hiện thiên chức của
mình là sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Các nhà
khảo cổ học đã phát hiện đƣợc những bức
tƣợng thể hiện sự mắn đẻ trong các ngôi đền,
ngôi mộ và ngôi nhà. Những bức tƣợng này
đƣợc dâng lên nữ thần Hathor “bà trời” mà
ngƣời Ai Cập cho là đóng vai trò chủ chốt
trong số phận của trẻ sơ sinh. Có nhiều bức
tƣợng khác thể hiện tâm trạng của ngƣời đàn
bà mong muốn sinh đƣợc nhiều con.
Trong gia đình, quan hệ vợ chồng đƣợc rập
theo mối quan hệ giữa các cặp vợ chồng Thần
Thánh “thời cổ sơ” hoàn toàn bình đẳng. Họ
đƣợc chồng yêu quý và kính trọng. Phụ nữ Ai
Cập giữ vai trò rất quan trọng trong gia đình,
họ đƣợc phong là “nội tướng” giúp đỡ ý kiến
cho chồng, trông nom quán xuyến mọi công
việc trong nhà và đóng góp một phần rất lớn
vào sự thịnh vƣợng của gia đình. Đƣợc chồng
chiều chuộng, đƣợc sự kính nể của con cái mà
mình mong cho đông đàn dài lũ, ngƣời phụ nữ
tìm thấy hạnh phúc ở chỗ cảm thấy mình là cột
trụ trong nhà và của tập thể gia đình. Con trai
cũng nhƣ con gái đều đƣợc chia sẻ một cách
công bằng sự chú ý chăm sóc của bố mẹ.
Tuy nhiên, trong trƣờng hợp, khi ngƣời phụ
nữ bị chồng đối xử tệ bạc hoặc khi cuộc sống
gia đình không hạnh phúc, ngƣời vợ có quyền
truy tố chồng ra tòa và ly dị chồng mà không
cần có thẩm quyền của ngƣời cha và ngƣời
chồng của họ. Luật pháp Ai Cập có nhiều
điều khoản bảo vệ những ngƣời phụ nữ ly
hôn. Họ đƣợc mang đi toàn bộ tài sản riêng
mà mình về nhà chồng và đƣợc hƣởng một
phần ba số tài sản của hai vợ chồng. Sau khi
ly hôn, ngƣời chồng vẫn phải chu cấp tiền cho
vợ của mình. Thậm chí, khi ngƣời chồng buộc
phải trả lại cho ngƣời vợ mà mình ly dị những
gì ngƣời vợ đã mang về nhà chồng thì ngƣời
chồng gần nhƣ bị phá sản. Các quy định này
đã bảo đảm cho quyền lợi của ngƣời phụ nữ,
có quyền quyết định số phận của mình đồng
thời là cơ sở để buộc ngƣời chồng thực hiện
nghĩa vụ của mình đối với vợ. Tuy nhiên, ở
Ai Cập, phụ nữ Ai Cập rất ít khi sử dụng đến
quyền này bởi ngày nay, các nhà khảo cổ học
Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 17 - 22
21
tìm thấy nhiều bằng chứng trong nhiều bức
tranh, bức tƣợng cảm động về gia đình, cha
mẹ, con cái… cho thấy những cặp vợ chồng Ai
Cập cổ đại thƣờng chung sống rất hạnh phúc.
Trong khi đó, ở Lƣỡng Hà cổ đại, theo điều
khoản 129 của bộ luật Hammurabi, ngƣời
chồng là “ông chủ”, nghĩa là kẻ chiếm hữu
đầy quyền hành với vợ mình. Ngƣời chồng
mua vợ về nhƣ mua nô lệ. Bộ luật đã thể hiện
địa vị thấp kém và dễ bị xâm hại của ngƣời
phụ nữ ở xã hội Lƣỡng Hà cổ đại. Mặt khác,
ở Ấn Độ, trong quan hệ hôn nhân, phụ nữ
cũng bị phân biệt so với đàn ông. Điều 46,
chƣơng 9 của luật Manu quy định việc vợ bị
tƣớc quyền ly hôn, tức là phụ nữ không đƣợc
bỏ chồng dù cho ngƣời chồng đó tệ bạc nhƣ
thế nào. Điều 47, chƣơng 9 của luật cho phép
chồng đƣợc quyền bỏ vợ nếu ngƣời vợ ghét
chồng. Nhƣ vậy, trong xã hội cổ đại, phụ nữ
ở Ai Cập có quyền bình đẳng với đàn ông
trong lĩnh vực hôn nhân hơn hẳn một vài
quốc gia khác.
VỀ TÀI SẢN
Đa số phụ nữ Ai Cập là những ngƣời nông
dân ít đƣợc học hành nhƣng họ đã có đƣợc
một số quyền hành mà các phụ nữ thuộc các
xã hội Hy Lạp- La Mã không có. Đáng lƣu ý
nhất là tầm quan trọng của quyền sở hữu đất
đai của ngƣời phụ nữ, đất đai trong cả nƣớc
thuộc quyền sở hữu của nhà nƣớc, chia cho
các công xã nông thôn quản lý nhƣng ngƣời
phụ nữ cũng đƣợc chia ruộng đất, số đất đai
này sẽ đƣợc trao từ mẹ sang con gái. Ngƣời ta
cho rằng có lẽ vì chuyện mẹ của một ngƣời là
ai luôn là điều rõ ràng, trong khi quan hệ cha
con là chuyện không lấy gì làm chắc. Tƣơng
tự, ngƣời ta thƣờng khẳng định lai lịch của
mình bằng cách nêu tên mẹ, chứ không phải
tên của cha. Đây là điều khá đặc biệt ở Ai
Cập cổ đại, chứng tỏ vai trò và vị trí của
ngƣời phụ nữ.
Phƣơng pháp chuyển giao tài sản có nghĩa là
phụ nữ có thể sở hữu và cai quản cả đất đai và
tài sản khác. Do đó, phụ nữ Ai Cập khi lấy
chồng không phải chuyển tài sản cho chồng
mình. Mặt khác phụ nữ có chồng vẫn có
quyền quản lý tài sản riêng của mình, đƣợc
quyền hƣởng một phần tài sản của chồng. Phụ
nữ cũng có thể khởi kiện, mua bán tài sản và
làm di chúc. Ngƣời chồng không có quyền
pháp lý đối với tài sản của vợ. Họ đƣợc tùy ý
để lại di sản của mình cho bất cứ ngƣời con
nào mà mình muốn cho thừa kế. Trong các
gia đình Ai Cập, ngƣời con trai trƣởng vẫn
nắm đầy đủ mọi quyền hành. Nhƣng anh ta
không phải là ngƣời thừa kế toàn bộ tài sản
của cha mẹ. Số tài sản đó đƣợc chia đều cho tất
cả con cái, không phân biệt nam nữ. Khi lấy
chồng, ngƣời phụ nữ đƣợc mang theo số tài
sản mà cha mẹ chia cho về nhà chồng. Nhƣ
vậy, qua quyền thừa kế tài sản đã cho thấy, phụ
nữ Ai Cập cũng nhƣ nam giới đƣợc cấp đầy đủ
các quyền theo luật pháp của đất nƣớc.
Trong khi đó, ở La Mã cổ đại, một thiếu nữ
khi lập gia đình thì mất hoàn toàn quyền sở
hữu tài sản trong gia đình của mình.
VỀ CÔNG VIỆC CỦA PHỤ NỮ
Những ngƣời phụ nữ Ai Cập thuộc tầng lớp
giữa và dƣới đều đƣợc ngang hàng với nam
giới về kinh tế. Họ có thể có nghề nghiệp
riêng và hƣởng thù lao nhƣ nam giới.
Đối với ngƣời Ai Cập, việc ăn uống và cỗ bàn
là chuyện rất đƣợc chú ý. Những gia đình
giàu có ăn thịt, uống rƣợu vang và làm cỗ bàn
sang trọng mời bạn bè. Ngƣời nghèo chỉ có
những bữa ăn đạm bạc với bánh mì, cá và bia.
Do đó, đàn bà, con gái dành nhiều thời gian ở
nhà để làm bánh, làm rƣợu bia và thổi nấu.
Tại những gia đình giàu có, những công việc
ấy đƣợc giao cho những ngƣời hầu gái. Vì
vậy, những phụ nữ quyền quý chỉ lo đi tế lễ,
vui chơi giải trí và nuôi dạy con cái. Tại
những gia đình nghèo, phụ nữ phải tham gia
công việc đồng áng, nhất là khi nhân công
nam giới không đủ. Một số phụ nữ làm thợ
bánh mỳ, thợ dệt. Một số phụ nữ làm nghề ca
múa và biểu diễn vào các dịp lễ hội, các cuộc
tiệc tùng gia đình. Ngoài ra, phụ nữ Ai Cập
cũng có thể đi mua sắm, một sự kiện mà sử
gia Hy Lạp- Hêrôdôt, lƣu ý với đầy vẻ ngạc
nhiên khi ông viếng thăm Ai Cập, điều mà
ông rất ít thấy ở một quốc gia nào khác thời
bấy giờ.
Đàn ông thƣờng nắm giữ những chức vụ quan trọng ở quốc gia và trong hệ thống quan lại. Bên dƣới mức độ ảnh hƣởng chính trị này,
Dƣơng Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 17 - 22
22
phụ nữ đã thực hiện những trách nhiệm nhƣ giám sát thợ dệt, ca sĩ và đầu bếp; một số là thủ quỹ cho những cơ sở buôn bán tƣ nhân. Một nghề đƣợc kính trọng là nghề bà mụ và những bà mụ đã đỡ đẻ cho đa số trẻ sơ sinh ở Ai Cập. Nhiều phụ nữ làm nghề khóc mƣớn cho các đám ma, để làm tăng thêm không khí đau buồn của lễ tang. Tiễn đƣa ngƣời quá cố về thế giới bên kia thƣờng có hai ngƣời đàn bà khóc mƣớn, biểu trƣng cho hai nữ thần Isis và Nephthy khóc em trai Osiris. Những ngƣời khóc mƣớn khác thì bôi tro lên mặt và đấm ngực để biểu thị sự đau buồn.
Trong số các chức vụ cao dành cho phụ nữ có nghề thầy tế lễ, thƣờng bao gồm các nữ tu sĩ tụng kinh hay chơi nhạc cụ ở các ngôi đền. Những nữ tu này thƣờng mặc một bộ áo da báo để thể hiện chức sắc tôn giáo của mình.
Thật ra, không phải tất cả các trẻ em Ai Cập đều đƣợc đến trƣờng, con gái nói chung lại càng ít đƣợc đi học so với con trai. Tuy vậy, cũng có một số con gái đƣợc học lên một cấp khá cao. Vì vậy, phụ nữ đã có thể làm nhiều nghề khác nhau trong cơ quan nhà nƣớc, trong ngành thƣơng mại thậm chí làm cả những nghề thuộc ngành khoa học: nghề thầy thuốc. Trong lịch sử loài ngƣời, phu nhân Pesechet là ngƣời đã trị bệnh cứu ngƣời ở Memphis từ thời các Kim Tự tháp, vào thiên niên kỷ III TCN.
KẾT LUẬN
Nhƣng phụ nữ chỉ đƣợc bình đẳng về pháp lý với đàn ông cùng giai cấp.
Ở Ai Cập cổ đại, phụ nữ có địa vị xã hội bình đẳng với nam giới, thậm chí còn có nhiều đặc
quyền hơn. Đây là điểm tiến bộ hơn rất nhiều so với các nền văn minh khác trên thế giới thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những đặc trƣng chủ yếu của nền văn minh Ai Cập thời cổ đại. Nhân loại ngày nay vẫn đánh giá cao nền văn minh rực rỡ này không chỉ bởi những giá trị vật chất mà cƣ dân Ai Cập đã sáng tạo nên mà ở cả những quan niệm tốt đẹp của xã hội đối với quyền lợi của ngƣời phụ nữ.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, địa vị của ngƣời phụ nữ ngày càng đƣợc nâng cao. Tuy nhiên, ở một số quốc gia trên thế giới, nhiều ngƣời phụ nữ vẫn bị đối xử một cách tệ bạc nhƣ không đƣợc tự do kết hôn, không đƣợc thừa kế tài sản, không đƣợc nhận những phúc lợi xã hội… Vẫn đề đấu tranh đòi quyền bình đẳng giới vẫn đang diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, việc đánh giá đúng đắn địa vị cao của ngƣời phụ nữ Ai Cập cổ đại cho thấy quan niệm tiến bộ và trình độ văn minh của cƣ dân Ai Cập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Almanach những nền văn minh thế giới, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995.
[2]. Avđiev V.I, Lịch sử phương Đông cổ đại,
Matxcơva, 1970.
[3]. Mortimer Chambers, Barbara Hanawalt,
David Herlihy, Theodore K.Rabb, Isser Woloch,
Raymond Grew, Lịch sử văn minh phương Tây,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà nội, 2004.
[4]. Nguyễn Quốc Hùng (Chủ biên), Những nền
văn minh rực rỡ cổ xưa, Tập 1 (Ai Cập, Tây Á,
Ấn Độ), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
[5]. Chiêm Tế, Lịch sử thế giới cổ đại, Tập 1,2,
Nxb Giáo dục, HN, 1978
SUMMARY
HIGH STATUS OF WOMEN IN ANCIENT EGYPT SOCIETY
Duong Thi Huyen
*
College of Sciences - Thai Nguyen University
In the ancient world, Egypt is a country where women have relatively high status. No royal women
Elites have the political and religious high that even those women with normal labor and enjoy the
benefits of economic, legal and social interaction with men. Egyptian women have the right to own
property, prosecution in court and divorce her husband, especially in cases of badly treated.
Relations between men and women in society is totally equal relationship, in which women are
socially respected. That's what these women not only Greek, Roman desire at that time that even
today, many countries women are still struggling to regain.
Keywords: Egyptian women, status of women, marriage, family
* Tel: 0975702362; Email: [email protected]
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 23 - 28
23
THỜ CÖNG TỔ TIÊN VÀ CÁC THẦN CHE CHỞ GIA ĐÌNH
CỦA NGƢỜI TÀY BẮC KẠN Lƣơng Thị Hạnh*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thờ cúng tổ tiên của ngƣời Tày là một hoạt động có ý thức của con ngƣời, là tình cảm biết ơn,
tƣởng nhớ, hƣớng về cội nguồn quá khứ. Cơ sở của sự hình thành ý thức về thờ cúng tổ tiên là
niềm tin rằng linh hồn tổ tiên còn sống cùng với con cháu, có thể che chở và ban phúc cho con
cháu. Cho nên, xét về mặt đạo đức, ý thức về tổ tiên mang giá trị nhân văn sâu sắc, nó phát khởi
mối thiện tâm ở mỗi con ngƣời trong cộng đồng xã hội.
Thờ cúng Tổ tiên là một trong những hình thức tín ngƣỡng chủ đạo không chỉ có ở dân tộc Tày,
mà có ở tất cả các tộc ngƣời nƣớc ta, hầu nhƣ không có gia đình nào là không thờ cúng tổ tiên,
không thực hành lễ nghi theo tập tục trong gia đình và cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành
một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm ngƣời, đồng thời là một phần quan trọng
trong đời sống tâm linh của ngƣời Tày nói riêng và ngƣời dân Việt Nam nói chung. Đó là một
phong tục đẹp, có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ.
Từ khóa: Tổ tiên; thờ cúng; tín ngưỡng; văn hóa; linh hồn; bàn thờ; huyết tộc; kiêng kỵ…
Thờ cúng tổ tiên là một hiện tƣợng mang tính
lịch sử - xã hội, tồn tại phổ biến ở nhiều nƣớc
trên Thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt tốt
của việc thờ cúng là nhắc nhở những ngƣời
đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ
kẻ trồng cây”, biết kính trọng, phụng dƣỡng
ông bà lúc sinh thời và thờ phụng khi mất.
Lâu dần, sự thờ phụng đã trở thành đạo lý,
thành lẽ sống, trở thành nét đẹp văn hoá
truyền thống của các dân tộc. Song kèm theo
nó là sự phiền toái, nặng nề khi mang màu sắc
mê tín dị đoan, vụ lợi, ảnh hƣởng không nhỏ
đến đời sống của con ngƣời.*
Trong quá trình phát triển của lịch sử, khái
niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Nó
không chỉ bó hẹp trong phạm vi huyết thống
gia đình, họ tộc… mà đã mở rộng ra phạm vi
cộng đồng xã hội ở ba cấp độ: Quốc gia thì thờ
Vua Hùng; làng bản thờ thần Thành Hoàng;
gia đình, dòng họ thì thờ tổ tiên.
Bài viết này, tác giả chỉ nghiên cứu về ý
nghĩa của việc thờ cúng Tổ tiên trong gia đình
và các vị thần che chở nhà cửa, làng bản của
ngƣời Tày Bắc Kạn, chứ không đi sâu tìm
hiểu về nguồn gốc và bản chất của tín ngƣỡng
thờ cúng và cũng không có ý định tìm hiểu về
đạo thờ Vua Hùng của quốc gia dân tộc.
* Tel: 0914 892 999; Email: [email protected]
Ngƣời Tày ở Bắc Kạn là tộc ngƣời đã cƣ trú
từ lâu đời, lại có số dân đông nhất trong toàn
tỉnh, theo điều tra dân số năm 1999, dân tộc
Tày có số dân là 149.459 ngƣời, chiếm
54,32% [3, tr.39]. Vì thế, ở vùng này ngôn
ngữ Tày cùng với tiếng phổ thông (tiếng
Kinh) đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp
giữa các dân tộc. Hơn nữa, văn hóa truyền
thống của dân tộc Tày lại rất phong phú, đa
dạng là nét đặc trƣng cho văn hóa vùng cao
Bắc Kạn, Bên cạnh những đặc điểm chung,
giống nhau còn có những nét riêng rất độc
đáo, chẳng hạn tín ngƣỡng thờ cúng Tổ tiên là
một trong những nét riêng độc đáo đó.
Theo tập tục của ngƣời Tày, nơi đặt bàn thờ
tổ tiên bao giờ cũng là gian giữa của ngôi nhà
với ba hoặc bốn ống hƣơng tùy từng dòng họ,
dù bố cục của ngôi nhà 5 gian hay 7 gian, thì
gian giữa vẫn là nơi trang trọng nhất; Còn ở
ngƣời Hmông thì chỗ thờ cúng tổ tiên luôn
nằm ở vách tƣờng (liếp). Nơi thờ làm hết sức
đơn giản, thƣờng chỉ là mảnh giấy tiền bằng
giấy bản, có hình chữ nhật dán lên vách, liếp
thuộc gian giữa của ngôi nhà. Khi cần cúng
thì cắm hƣơng xuống đất, đặt mâm cúng ngay
chân vách (liếp). Cũng có gia đình gài ống
hƣơng vào vách coi là nơi thờ tổ tiên, lại có
hộ làm bàn thờ nhƣ ngƣời Tày, Kinh…
Tuy nhiên, dù bố cục và bài trí bàn thờ tổ tiên
giữa các tộc ngƣời có khác nhau, song đều
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 23 - 28
24
xuất phát từ quan niệm cây phải có gốc, chim
phải có tổ, con ngƣời phải có cha mẹ, dòng họ
và quê hƣơng. Trong đó dòng họ là yếu tố
hàng đầu, tên ngƣời có thể thay đổi, có thể
nhiều quê, nhƣng họ thì không thể thay đƣợc,
dù có đi làm con nuôi từ bé, khi lớn lên nếu
biết đƣợc họ mình thì vẫn phải mang lại họ
của mình. Họ chính là nguồn gốc, mỗi dòng
họ lại có một nguồn gốc riêng. Do đó, ngƣời
Tày thờ cúng dòng họ, chứ không thờ một
con ngƣời cụ thể. Vì vậy, nếu trong gia đình
có ngƣời thân qua đời, ngƣời ta phải làm đủ
các thủ tục, các nghi lễ trong thời gian trở
tang, nhƣ cúng 40 ngày, 100 ngày, 1 năm, 3
năm là lễ đoạn tang (thực tế chỉ 2 năm). Theo
quan niệm của đồng bào, sau lễ đoạn tang linh
hồn ngƣời chết sẽ đƣợc giải thoát khỏi địa
ngục để về cõi thiên đƣờng với tổ tiên, vì thế
bát hƣơng, bài vị cũng đƣợc nhập chung với
bài vị tổ tiên và đƣợc thờ cúng chung ở đó.
THỜ CÖNG TỔ TIÊN
Theo quan niệm của ngƣời Tày, linh hồn
ngƣời đã mất luôn luôn ở trên bàn thờ tổ tiên
để đƣợc gần gũi con cháu, để hàng ngày theo
dõi và giúp đỡ phù hộ cho con cháu trong
việc làm ăn. Do vậy, việc thờ cúng tổ tiên
không chỉ thể hiện lòng biết ơn đối với cha
ông, với ngƣời đã khuất mà nhiều khi còn là
sự cầu mong, sự tạ lỗi, xin tha thứ… với tổ
tiên. Bởi tổ tiên luôn có sự chi phối đến số
phận tốt xấu của con cháu và có những quyền
năng khó lƣờng. Vì thế, việc thờ cúng tổ tiên
đã đƣợc duy trì qua nhiều thế hệ, chẳng ai bảo
ai mà cứ đời đời tiếp nhau thực hiện và trở
thành cốt lõi của thuần phong mỹ tục và là
hình thức thờ cúng quan trọng nhất trong đời
sống tâm linh của ngƣời Tày.
Về nội dung, hình thức và đối tƣợng thờ
cúng, cũng có nhiều loại và mức độ thờ cúng
khác nhau ít nhiều giữa các dân tộc. Ở ngƣời
Tày hình thức thờ cúng chủ yếu là thờ huyết
tộc, bên cạnh đó, cũng có một số ít hộ gia
đình ngƣời Tày thờ cúng bố mẹ vợ.
Các tổ tiên được thờ cúng:
- Thờ Tổ tiên theo huyết tộc: Trong mỗi gia
đình, việc thờ cúng tổ tiên trƣớc hết có tác
dụng củng cố mối quan hệ ruột thịt giữa
những ngƣời cùng máu mủ, dân gian có câu
“Một giọt máu đào hơn ao nƣớc lã” chính là
nói đến mối quan hệ máu mủ, huyết tộc này.
Các thế hệ tổ tiên đƣợc thờ phổ biến là 3 đời
từ cha mẹ, ông bà, cụ. Theo quan niệm của
đồng bào, bố mẹ, ông bà, các cụ là những
ngƣời trực tiếp gắn bó nuôi dƣỡng, bảo vệ,
phù hộ cho con cháu. Còn các đời, từ đời thứ
tƣ trở lên Tổ tiên biến thành thần chăm nom
nhà cửa, gia súc, tránh sự thâm nhập của các
ma quỷ lạ. Vì thế vào dịp Tết Nguyên Đán
ngƣời ta còn làm mâm cúng các vị Tổ tiên
này ở ngoài nhà (cúng ở dƣới sàn nhà đồng
bào gọi là an làng, để gia súc gia cầm không
bị toi dịch), nay nhiều gia đình đã bỏ lệ này.
Khi trong nhà có ngƣời thân vừa mới qua đời
thì không đƣợc đƣa lên cúng chung với tổ tiên
ngay mà phải thờ ở một góc riêng thấp hơn
bàn thờ tổ tiên đồng bào gọi là Bài vị (Chòong
eng), ngày nay còn có thêm tấm ảnh. Hàng
ngày, đến bữa ăn, con cháu xẻ cơm canh đặt
lên bàn thờ trong suốt 3 năm hoặc 1 năm, cũng
có nơi chỉ thực hiện trong vòng 100 ngày.
- Thờ cúng bố mẹ vợ: Việc thờ cúng bố mẹ
vợ chỉ là ngoại lệ chứ không phải là thông lệ,
thƣờng xẩy ra với những gia đình không có
ngƣời nối dõi tông đƣờng, không còn ngƣời
thừa tự theo trực hệ dòng cha, thì con gái đã
đi lấy chồng, rƣớc tổ tiên bố mẹ về thờ bên
nhà chồng. Nhƣng tổ tiên bố mẹ vợ chỉ đƣợc
cúng ở gian nhà phụ (có thể góc nhà) chứ
không đƣợc thờ chung trong gian chính của
gia đình, và không đóng vai trò trung tâm
trong nghi lễ thờ cúng của gia đình nữa.
Trong việc thờ cúng bố mẹ vợ, thƣờng chỉ thờ
cúng có một đời và những nghi lễ thờ cúng
cũng phải làm sau việc thờ cúng tổ tiên của
gia đình nhà chồng. Vậy, hồn ma tổ tiên trên
bàn thờ cƣ ngụ ở đâu? đồng bào cho rằng, hồn
ma trú ngụ trong bài vị hoặc bát hƣơng trên bàn
thờ hay trên vách thờ một cách chung chung
chứ chƣa có biểu tƣợng vật chất cụ thể.
Thiết chế bàn thờ: Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên
đã thành quy ƣớc trong việc bố trí kiến trúc
nhà ở của ngƣời Tày. Trƣớc đây đồng bào chủ
yếu ở nhà sàn 5 gian, 7 gian. Dù bố cục nhà
theo chiều dọc hay chiều ngang thì tập quán,
với số gian nhƣ thế, bao giờ gian giữa cũng là
nơi trang trọng nhất, đặt bàn thờ tổ tiên.
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 23 - 28
25
Bàn thờ tổ tiên trong tiếng Tày gọi Choòng
ham đƣợc đặt trang trọng tại gian giữa (phần
lớn để hƣớng phía trƣớc nhà, cũng có gia đình
để phía sau). Trƣớc bàn thờ tổ tiên gian giữa,
là nơi tiếp khách nam giới. Từ bàn thờ tổ tiên
bao quát mọi hoạt động của con cháu trong
nhà, cứ nhƣ tổ tiên vẫn hàng ngày, hàng đời
sống cùng con cháu, theo dõi, dẫn dắt mọi
công việc làm ăn của con cháu trong nhà. Bàn
thờ cúng tổ tiên của ngƣời Tày khá đơn giản,
không có hƣớng án sơn son thếp vàng nhƣ
ngƣời Kinh, có khi chỉ là một tấm ván đóng vít
vào tƣờng đủ đặt một bát hƣơng hoặc ba, bốn
bát hƣơng tùy từng gia đình. Những gia đình
khá giả, bàn thờ tổ tiên đƣợc làm cầu kỳ hơn,
có chạm trổ hình hoa, nhƣng không sơn son
thếp vàng. Bát hƣơng trên bàn thờ tổ tiên của
ngƣời Tày là thờ theo “chức danh”, không thờ
con ngƣời cụ thể, nhƣ bát hƣơng thờ tổ tiên
(thờ họ) thì đặt bên tay phải nhìn vào, thờ thổ
công chính giữa, bên tay trái thờ bà cô, ông
mãnh, cao hơn một chút phía trái thờ quan âm.
Nghi thức thờ cúng: Không có quy định bắt
buộc, đồng bào quan niệm, khi tổ tiên còn
sống ăn uống thứ gì, thì cúng giỗ tổ tiên thứ
đó trở thành lễ vật. Hàng tháng Tổ tiên đƣợc
con cháu cúng vào ngày rằm và mồng một với
nghi thức đơn giản chỉ thắp hƣơng, đèn, mời
trà hay rƣợu, có khi chỉ là nƣớc lã, ít khi có
xôi gà hay bánh kẹo. Vào những dịp lễ tết,
nhất là tết Nguyên đán và tết rằm tháng bảy,
cỗ bàn cúng Tổ tiên rất thịnh soạn, đủ các loại
bánh trái, rƣợu thịt. Khi trong gia đình có
công to việc lớn nhƣ cƣới xin, vào nhà mới, lễ
đầy tháng cháu, lễ tang ma,… bàn thờ Tổ tiên
cũng đƣợc bày cỗ linh đình, tuỳ từng nội
dung công việc mà bày cỗ bàn khác nhau,
chẳng hạn đám cƣới nhất thiết bàn thờ Tổ tiên
nhà gái phải có thủ lợn của chính con lợn nhà
trai mang sang, trong khi bàn thờ nhà trai chỉ
có con gà sống thiến. Kể cả khi nhà có việc
đột xuất dù lớn hay nhỏ, nhƣ trƣớc mỗi
chuyến đi xa, trƣớc ngày lên đƣờng dự kỳ thi,
khi một trẻ thơ mới cất tiếng khóc chào đời
trong gia đình, con xin đƣợc việc làm… thì
ngƣời ta đều thắp hƣơng cáo tổ tiên, thì đƣợc tổ
tiên phù hộ cho mọi việc tốt đẹp, may mắn.
Ở bàn thờ tổ tiên, ngày tết nguyên đán thƣờng
dựng hai bên, mỗi bên một đôi mía để cả
ngọn, có nhà để cả rễ. Cây mía ngọt, thể hiện
sự đoàn kết, thƣơng yêu, đùm bọc anh em
trong nhà, trong họ. Các đốt mía, biểu hiện
những nấc thang phát triển cho hiện thực cuộc
sống con cháu. Mía trở thành lễ vật cúng để
các cụ dùng làm gậy đi lại thăm nom con cháu.
Trong các dịp cúng lễ, thực hiện các nghi
thức thờ cúng chủ yếu là ngƣời cha, ngƣời
chủ gia đình. Trƣờng hợp cha mất sớm, con
còn nhỏ ngƣời mẹ sẽ trở thành ngƣời chủ trì
trong những dịp cúng lễ.
Những gia đình có ngƣời làm nghề thầy cúng
(Tào, Then, Pụt), hái thuốc chữa bệnh,... cũng
có riêng một bát hƣơng thờ Tổ sƣ nghề đƣợc
đặt cùng với gian thờ tổ tiên nhƣng ở vị trí
cao hơn và đặt chính giữa để phù hộ cho các
công việc hành nghề. Vào các dịp tết có mâm
cúng đồ chay. Đối với các thầy Tào, Then,
Pụt sau mỗi lần đi làm lễ cho gia đình nào đó,
thì gia đình đƣợc thầy làm lễ nhất thiết phải
có một con gà (gà luộc chín), vài ống gạo, một
lít rƣợu để giả lễ cho thầy. Đồ lễ này sẽ đƣợc
thầy mang về đặt lên trình báo với tổ sƣ nghề ở
nhà thầy, với hàm ý tạ ơn thánh thần đã giúp
thầy hoàn thành công việc giúp ngƣời. Nếu gia
chủ không có gà, thầy phải tự bắt gà nhà thịt để
cúng và trả ơn các thánh thần.
MỘT SỐ KIÊNG KỲ TRONG VIỆC
THỜ CÖNG TỔ TIÊN
- Những kiêng kỵ: Nhƣ đã trình bày ở phần
trên, ngƣời Tày thờ cúng Tổ tiên là thờ dòng
họ, họ chính là nguồn gốc, mỗi dòng họ lại có
một nguồn gốc riêng. Nhƣng trong cách thức
thờ cúng tổ tiên của các dòng họ cũng có cái
giống nhau, nhƣ hƣơng thắp có nhuộm chân
màu đỏ, cúng sớm tối bằng nƣớc trà mới pha,
cúng rƣợu cùng với thịt lợn, thịt gà và các loại
bánh trái tự làm, khi cúng nhà nào cũng thắp
đèn dầu, cúng xong đốt tiền (tiền bằng giấy
bản)… Những giống nhau về thờ cúng tổ tiên
giữa các dòng họ thì rất nhiều, song giữa các
dòng họ lại có sự khác nhau, nhƣ họ này thì
đƣợc cúng cá, họ khác lại không, có họ đƣợc
ăn thịt trâu, thịt bò, thịt chó… có họ lại kiêng,
nhất là những nhà có ngƣời làm nghề thầy cúng.
Nhƣ vậy, tùy từng dòng họ ngƣời Tày có
những kiêng kỳ riêng. Hầu hết các dòng họ
khi cúng ông bà tổ tiên không bao giờ cúng
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 23 - 28
26
thịt sống, thịt trâu, thịt bò, thịt ngựa. Thịt
sống chỉ để cúng cho ngƣời mới chết (bằng cả
con lợn phủ phục trƣớc linh cữu); kiêng cúng
đồ ăn thừa, không cúng rƣợu uống dở; tết
nguyên đán, rằm tháng giêng, rằm tháng bảy,
đồ cúng đều phải để nguyên miếng (thịt lợn),
cả con (gà, vịt), còn lại các lần cúng khác thịt
có thể chặt ra sắp nhƣ mâm cơm rồi cúng
cũng đƣợc. Bàn thờ của ông bà tổ tiên chỉ
đƣợc quét dọn và lau chùi vào chiều 30 tết,
lúc khác không đƣợc quét dọn, xê dịch, không
đặt các đồ vật lên bàn thờ, trừ hƣơng vàng,
ấm chén, hoa quả, bánh kẹo, không gây ồn ào,
náo động trong gian bàn thờ, khi nằm cũng
tránh không quay chân về phía bàn thờ, sản
phụ trong tháng không đi qua hoặc đến chỗ
bàn thờ tổ tiên, vì mới đẻ chƣa đủ 40 ngày
ngƣời phụ nữ vẫn bị coi là “bẩn” sẽ gây ô uế
đến chốn linh thiêng của các cụ.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên là chính, trong các
gia đình ngƣời Tày ở Bắc Kạn còn có những
tín ngƣỡng dân gian khác liên quan tới việc
thờ cúng các vị thần phù hộ cho gia đình, làng
bản. Theo quan niệm của ngƣời Tày, thần là
một nhân vật siêu nhiên, là ngƣời trực tiếp với
cuộc sống của con ngƣời, thần là ngƣời làm
đƣợc một số việc ở một làng, một vùng. Thần
giúp con ngƣời có cuộc sống bình yên, nhƣ
con ngƣời không bệnh tật, cây trồng không
sâu bệnh, gia súc không toi dịch, xóm làng
không hỏa hoạn thiên tai.
THỜ CÖNG CÁC THẦN LINH CHE CHỞ
GIA ĐÌNH
Đồng bào Tày – Nùng có câu ngạn ngữ:
“Nặm hêết đây, Phầy hêết mjạc” nghĩa là
(Nước làm cho tốt, Lửa làm cho đẹp). Do đó,
trong các gia đình ngƣời Tày đều thờ bếp lửa
(thờ Táo Quân), “phi cằn phầy, phi pình
phầy” (ma bếp lửa). Theo quan niệm dân
gian, phi cằn phầy là vị thần giữ bếp núc, giữ
lửa, giữ gìn sự ấm cúng và quản lí mọi việc
trong gia đình, nếu để thần lửa phật ý thì nhà
cửa cũng nhƣ mọi vật đều bị cháy ra tro.
Đồng bào thờ ma bếp ngay tại bếp lửa chứ
không có bát hƣơng riêng. Dịp tết làm mâm
cúng và thắp hƣơng cạnh bếp lửa. Khi cơm
chín ma bếp lửa đƣợc ăn hƣơng, bữa ngon
đƣợc nếm trƣớc, mọi việc thăng trầm, hoà khí
hay lục đục trong nhà ma bếp đều hiểu rõ. Do
đó, đồng bào kiêng nói to tiếng, khóc lóc bên
bếp lửa, không gõ vào kiềng, vào khung gỗ
giữ đất bếp lửa, không đun củi bẩn, (nhất là
những cây bị sét đánh, cây khiêng nhà
táng…). Hàng năm cứ vào ngày 23 tháng
Chạp âm lịch, gia đình làm lễ đƣa Táo Quân
lên trời báo cáo Ngọc Hoàng công việc của
hộ mình quản lý nơi hạ giới. Đến ngày
mồng một đầu năm (Tết) Ngọc Hoàng sai
một Táo Quân mới đến thay thế, cho nên
ngƣời ta cúng vị thần này vào ngày 23
tháng chạp và mồng một đầu năm.
Khi con ra ở riêng, không đƣợc xin lửa gia
đình khác, mà phải chia lửa từ bếp lửa của
nhà bố mẹ cho con cái và đây cũng là một
nghi lễ quan trọng trong lễ vào nhà mới.
Đúng ngày giờ tốt, mở đầu lễ vào nhà mới
bằng nghi thức, thầy (hoặc một ngƣời có tƣ
cách đạo đức tốt, đông con cháu, cần cù làm
ăn, sản xuất giỏi) cầm bó đuốc cháy to châm
lửa từ nhà bố mẹ đẻ sang nhóm ở bếp giữa
nhà của nhà mới. Trong khi châm lửa, những
ngƣời có mặt đều cùng hô to “ún bấu táy
phầy, đây bấu táy pò mè” (ấm không gì bằng
lửa, tốt không gì bằng vợ chồng). Đồng bào
tin rằng hô nhƣ thì vậy gia đình sẽ hạnh phúc
và làm ăn dễ dàng. Ngƣời ta cố giữ cho lửa
cháy liên tục trong ba ngày không để tắt, vừa
gây không khí ấm áp trong nhà, đồng thời
cũng với ý nghĩa là lửa hãy thiêu hủy đi những
gì gọi là rủi ro, xua đuổi tà ma ám khí, vừa làm
cho nguyên vật liệu nhà mới đƣợc khô ráo.
Trong nghi lễ ma chay ở huyện Chợ Đồn, có
tục đốt lửa hơ xung quanh 4 góc áo quan
trƣớc khi đƣa ma ra khỏi nhà. Trên đƣờng
khiêng quan tài, ngƣời ta dùng các bó đuốc
lớn hơ phía dƣới áo quan. Sau khi chôn cất
xong, các con cháu cởi bỏ đồ tang hơ qua lửa,
với ý nghĩa là chiêu hồn cho ngƣời sống, kỳ
ma ngƣời chết và các loại ma quỷ khác theo
ngƣời sống về nhà. Có thể nói, lửa là vật
thiêng, là thần che chở gia đình. Vì vậy, trong
ý thức tâm linh của ngƣời Tày lửa đƣợc quan
niệm linh thiêng trong đời sống của họ.
Phổ biến ở mọi gia đình ngƣời Tày, còn có
bàn thờ Mẻ bjoóc hay Mẻ va (Mẹ Hoa), ngƣời
Kinh gọi là bà Mụ. Thờ Mẻ bjoóc cũng giống
nhƣ hình thức thờ Mẫu trong tín ngƣỡng dân
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 23 - 28
27
gian của ngƣời Kinh. Nhƣng tín ngƣỡng thờ
Mẫu của ngƣời Kinh đƣợc phát triển thành hệ
thống thờ cúng có quy mô rất bề thế “Tam
Tòa Thánh Mẫu”, còn ở ngƣời Tày, tín
ngƣỡng thờ Mẫu tuy không phát triển bề thế
nhƣng nó giữ một vị trí hết sức quan trọng
trong đời sống tâm linh của đồng bào. Mẻ Va
trong thơ, then Tày – Nùng còn đƣợc gọi là
“Hoa Nƣơng Thánh Mẫu” là vị thần cai quản
việc nhân duyên, sinh nở nuôi dậy và bảo vệ
trẻ em. Bà ở trên cõi mƣờng phạ, bà có một
vƣờn đầy hoa. Hễ ngắt tặng nhà nào hoa bạc
thì sinh con gái, hoa vàng thì sinh con trai.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng cái thai
trong bụng mẹ là một bông hoa đƣợc bà mụ
ban cho, do đó, bàn thờ Mẹ Hoa đƣợc lập
hôm trẻ đầy tháng (thậm chí có nhà 3 ngày đã
đặt bàn thờ Mụ), ngƣời ta làm ống hƣơng
bằng nứa cắm vào vách buồng ngƣời mẹ và
tấm phản nhỏ để đặt lễ. Cũng có gia đình bàn
thờ bà mụ đƣợc đóng rất cẩn thận ngay cửa
buồng của ngƣời mẹ. Nhà có bao nhiêu con
dâu thì bấy nhiêu bàn thờ mẻ bjoóc ngay vách
buồng của ngƣời mẹ. Bàn thờ bà mụ cũng
đƣợc thắp hƣơng nhƣ các bàn thờ khác trong
nhà, cúng lễ là đùi gà, bánh coóc mò, bánh
kẹo… Hễ ông bà, cha mẹ đi đâu về có quà
bánh phải đặt lên đó mời mẹ bjoóc trƣớc rồi
mới cho trẻ ăn. Nếu đôi vợ chồng nào lấy
nhau lâu mà chƣa có con, thì phải làm lễ xin
Mẹ Hoa ban hoa (ban con), đồng bào gọi đó
là “Lễ bắc cầu xin hoa”, nên tục ngữ Tày có
câu “Mẻ bjoóc păn mà, mẻ va păn hẩư” (Mẹ
hoa phân về, mẹ hoa chia cho).
Bên cạnh các hình thức thờ cúng nêu trên,
trong đồng bào Tày còn phổ biến hình thức
thờ cúng thổ công. Nơi thờ cúng thổ công
không hoàn toàn giống nhau, có vùng để ngay
bàn thờ tổ tiên, cũng có gia đình, có vùng lại
để ngoài sàn… Theo quan niệm của đồng bào
thổ công sẽ giúp cho gia đình xua đuổi các tà
ma ra khỏi khu vực nhà ở, trông nom gia súc
khỏi nanh vuốt của hổ, báo… làm cho gia súc
sinh sôi chật chuồng, con ngƣời đƣợc bình
yên, hạnh phúc.
Trong phạm vi bản hay liên bản của ngƣời
Tày đều có hình thức thờ thần bản mệnh của
cộng đồng bản, phổ biến nhất là miếu thờ thổ
thần và đình thờ Thành Hoàng làng.
THỜ THẦN BẢN MỆNH CỦA LÀNG BẢN
Do sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp,
trong điều kiện còn phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên: Thời tiết, khí hậu, đất đai và xuất phát
từ quan niệm “Vạn vật hữu linh”, đồng bào
tin rằng, trong thiên nhiên cũng có nhiều lực
lƣợng siêu nhiên tác động đến cuộc sống an
khang thịnh vƣợng, trƣờng tồn của cộng đồng
làng bản. Cũng tƣơng tự nhƣ thế, ở bất cứ nơi
nào trên mặt đất nhƣ rừng núi, đồng ruộng,
đất đai, sông suối… đều có các thần linh cai
quản. Do đó, khi tiến hành khai phá trồng trọt
đều phải xin phép các thần linh. Thần linh có
loại lành và loại dữ. Loại dữ không đƣợc thờ
cúng thƣờng xuyên, chỉ khi nào ngƣời, vật bất
an ngƣời ta mới cúng. Còn loại lành là những
phúc thần luôn phù hộ, bảo vệ con ngƣời, nên
đƣợc con ngƣời thờ cúng chu đáo, không chỉ
mang tính chất từng gia đình mà còn mang
tính chất cả cộng đồng làng bản.
- Thần thổ địa: Là vị thần bảo vệ làng bản,
núi rừng, phạm vi đất đai, cây trồng, gia súc.
Nguồn gốc của thần linh này xuất phát từ
quan niệm “Vạn vật hữu linh”, có loại chỉ là
những thần linh, ma quỷ trú ngụ ở gốc cây to,
các hòn đá lớn, trong thẳm, các vũng nƣớc
sâu. Có loại là những hồn ngƣời chết vào giờ
thiêng – hồn ma trở nên mạnh mẽ đã đánh
đuổi các thổ thần ngự trị trong một vùng. Có
loại là những nhân vật lịch sử khi chết đƣợc
thƣợng đế phong làm thổ địa (nhƣ Nùng Trí
Cao, Nùng Văn Vân,… ).
Theo quan niệm của ngƣời Tày, các vị thần
này có công lao xây dựng làng bản, có công
dẹp giặc, nên khi qua đời, họ đƣợc dân bản
nhớ ơn, thờ làm thần bản mệnh, nhƣ ở một số
bản thuộc xã Yên Thịnh (Chợ Đồn) thờ phúc
thần họ Ma (dòng họ thổ ty từ Tuyên Quang
sang) đã có công khai phá rừng rậm, tạo dựng
đồng ruộng, làng bản [2, tr. 87, 88]. Ngoài ra,
còn có thổ địa là lực lƣợng siêu nhiên đã đƣợc
thần thánh hoá. Đa số các vị thần này không
có tên mà chỉ đƣợc gọi chung là “thổ thần”.
Nơi thờ thần thƣờng ở đầu hay cuối làng bản,
tại một gốc cây to hoặc chân núi đá, nơi có
nhiều ngƣời qua lại. Ngƣời ta làm một cái
miếu nhỏ với đôi gắp gianh, đặt một ống
hƣơng. Vào dịp tết Nguyên Đán hay dịp lễ
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 23 - 28
28
cầu mùa, các gia đình trong bản mang lễ vật,
hƣơng hoa tập trung ở miếu để cúng thổ thần.
Khi trong làng có ngƣời chết, có trẻ nhỏ mới
sinh, xây dựng công trình, đào móng nhà…
đều thắp hƣơng báo cho thổ thần biết.
- Thờ Thành hoàng
Bên cạnh sự phổ biến của miếu thờ thổ thần
là sự xuất hiện rải rác của những ngôi đình
thờ Thành Hoàng còn gọi là ma làng. Trong
quan niệm của ngƣời Tày nhiều khi đình còn
bao gồm cả đền. Vì vậy, tục thờ Thành Hoàng
của ngƣời Tày mang ý nghĩa dân gian sâu sắc,
nó đa dạng, ngoài thờ Thần Nông, đình còn
thờ những ngƣời có công khai phá đất đai, lập
bản, thờ phúc thần có công dẹp giặc và cả các
tà thần khác cầu mong cho bản mƣờng bình
yên nhƣ: Đình Đông Khăm xã Bằng Phúc thờ
hung thần Lƣơng Đình Xe, Lộc Đình Hồi;
Đình Nà Ngần xã Thƣợng Quan thờ Đinh
Quang Tƣơng, Chu Quang Hầu là ngƣời có
công khai phá vùng đất này; Đình xã Cao Kỳ;
Đình bản Tầu Đâu xã Cao Thƣợng thờ thần
Dƣơng Tự Minh...
Khác với thờ thổ công chỉ cắm hƣơng vào
gốc cây hoặc làm miếu nhỏ lợp đôi ba gắp
gianh, thì nhà thờ Thành Hoàng thƣờng làm
3 gian, ở nơi cao ráo, xa nhà, có ngƣời trông
coi thắp hƣơng gọi là Pò Thại. Thực trạng
các đình miếu thờ Thành Hoàng ngày nay ở
hầu khắp các vùng của tỉnh Bắc Kạn đã đổ
nát, chỉ còn lại dấu tích nhƣ sân đình, bãi vui
chơi, cây đa cổ thụ hoặc một số đoạn tƣờng
thành nhƣ các đình ở xã Yên Thịnh. Còn
việc thờ cúng Thành Hoàng hiện nay gần
nhƣ đã mất hẳn.
Tóm lại; Thờ cúng tổ tiên và các thần che
chở cho gia đình của ngƣời Tày Bắc Kạn đáp
ứng đƣợc nhu cầu tâm linh của đồng bào;
dân dã mà sâu sắc, sinh động mà quy củ, đơn
giản mà bền vững, là sự tƣởng nhớ những
ngƣời có công trong việc tạo lập cuộc sống
ngày nay trong mỗi gia đình và làng bản.
Đây là nét đẹp trong văn hóa của ngƣời Tày
Bắc Kạn cần đƣợc bảo lƣu và gìn giữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phan Kế Bính (1975), Việt Nam Phong tục,
Nxb Bút Việt, Sài Gòn.
[2]. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn (1999), Tín
ngưỡng dân gian Tày lịch sử và hiện tại, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số: B98-05-10.
[3]. Hà Văn Viễn, Lƣơng Văn Bảo, Lâm Xuân
Đình, Triệu Kim Văn, Bàn Tuấn Năng, Đàm Thị
Uyên, Hoàng Thị Lan (2004); Bản sắc và truyền
thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
[4]. Đặng Nghiêm Vạn (2007), Văn hóa Việt Nam
đa tộc người, Nxbản Giáo dục, Hà Nội.
SUMMARY
THE PRACTICE OF WORSHIPING ANCESTORS AND THE GODS
PROTECTING THE FAMILIES OF THE TAY PEOPLE IN BAC KAN, VIETNAM
Luong Thi Hanh
*
College of Sciences - Thai Nguyen University
Ancestor worship of the Tay people is a human conscious activity, which shows their gratitude and
tribute towards their original point. The basis of the sense of ancestor worship is the belief that
ancestral spirits still live with their descendents and can protect and bless them. Therefore, in terms
of morality, the sense of ancestors has profound human values and it helps initialize human
kindness in each individual in the social community.
Ancestral worship is one of the leading forms of belief not only in the Tay minority but also in all
ethnic groups of our country. There are almost no families that do not worship their ancestors or
practice rituals according to the traditions of the family and community. Ancestral worship has
become a tradition, an ethical standard a human principle, and an important part of the spiritual life
of the Tay people in particular and Vietnamese people in general. It's a beautiful tradition which
helps educate about traditions for all generations.
Keywords: Ancestor; Worship; Belief; Culture; Spirit; Altar; Blood race; taboo
* Tel: 0914 892 999; Email: [email protected]
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 29 - 34
29
ẢNH HƢỞNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TÁM THÁNG ĐẤU TRANH DU KÍCH
CHỐNG ĐỊCH KHỦNG BỐ TRÊN CĂN CỨ ĐỊA BẮC SƠN – VÕ NHAI
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Ngô Ngọc Linh
*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thắng lợi của Tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ
Nhai (1941-1942) không những có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách mạng Bắc Sơn –
Võ Nhai, mà còn tạo đƣợc ảnh hƣởng sâu rộng đến một loạt phong trào cách mạng đang diễn ra
trên toàn quốc; Căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai hình thành, phát triển qua tranh đấu cũng là yếu tố
quan trọng đƣa đến sự ra đời của Khu giải phóng trong cao trào kháng Nhật cứu nƣớc (1945). Đội
du kích Bắc Sơn – Võ Nhai đƣợc coi là một trong những đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Từ khóa: Đấu tranh du kích; Bắc Sơn – Võ Nhai; Đội du kích Bắc Sơn – Võ Nhai; Căn cứ địa
Bắc Sơn - Võ Nhai; Tám tháng đấu tranh du kích
Tám tháng đấu tranh du kích chống địch
khủng bố (từ tháng 07/1941 đến tháng
02/1942) diễn ra trên căn cứ địa Bắc Sơn –
Võ Nhai có những ý nghĩa lịch sử, bài học
kinh nghiệm rất quan trọng không chỉ đối với
phong trào cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai,
mà còn là bài học quan trong đối với phong
trào cách mạng cả nƣớc. Đó cũng chính là
động lực thúc đẩy cách mạng Việt Nam phát
triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn sau. Diễn
biến tiến trình vận động Cách mạng tháng
Tám 1945 đã chứng minh rõ sự ảnh hƣởng,
tác động của tám tháng đấu tranh du kích
chống địch khủng bố ở Bắc Sơn – Võ Nhai
trên nhiều phƣơng diện, cả về lý luận lẫn thực
tiễn cách mạng.*
Vấn đề “Tám tháng đấu tranh du kích trên
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai” là một vấn đề
cũng đã đƣợc giới sử học quan tâm, nghiên
cứu. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở
việc đề cập tới hoặc điểm qua một hay một
vài sự kiện có liên quan; mà chƣa nghiên cứu
một cách thực sự có hệ thống và ở mức độ
khái quát, toàn diện đến vấn đề này. Vì thế,
trong phạm vi của nghiên cứu nhỏ, chúng tôi
cố gắng đƣa ra và phân tích sâu về sự kiện
quan trọng này trên các góc độ ý nghĩa lịch sử
và bài học kinh nghiệm; từ đó chỉ ra đƣợc
những tác động, ảnh hƣởng sâu rộng của cuộc
* Tel: 0983851565
đấu tranh trên đối với phong trào cách mạng
Việt Bắc nói riêng và phong trào cách mạng
cả nƣớc nói chung.
1. Thắng lợi của tám tháng đấu tranh du kích
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai có ảnh
hƣởng mạnh mẽ và là nguồn cổ vũ, động viên
lớn lao cho phong trào cách mạng toàn quốc,
bồi dƣỡng lòng yêu nƣớc, niềm tin về tƣơng
lai tƣơi sáng của cách mạng cho quần chúng
nhân dân. Sức mạnh tinh thần của quần chúng
chính là cội nguồn của mọi thắng lợi trong
Cách mạng tháng Tám 1945.
Nhƣ chúng ta đã biết, từ sau năm 1939, thực
dân Pháp đã câu kết với phát xít Nhật tiến
hành đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng
khiến cho cách mạng Việt Nam có những tổn
thất lớn lao, vì thế đã xuất hiện một bộ phận
quần chúng cách mạng tỏ ra khủng hoảng,
mất niềm tin. Trong hoàn cảnh đó, thắng lợi
của cuộc đấu tranh chống địch khủng bố trên
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai do Cứu quốc
quân lãnh đạo mang một ý nghĩa vô cùng sâu
sắc. Thắng lợi này đã vực dậy tinh thần và
củng cố niềm tin của quần chúng vào sự lãnh
đạo cách mạng của Đảng, vào một tƣơng lai
sáng ngời của sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
Đó là nguồn cổ vũ, động viên to lớn, kịp thời
cho quần chúng, bồi dƣỡng lòng yêu nƣớc,
niềm tự hào dân tộc, lòng căm thù giặc sâu
sắc cho nhân dân. Điều này rất có lợi cho quá
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 29 - 34
30
trình vận động cách mạng của Đảng, lực
lƣợng cách mạng của Đảng không ngừng
đƣợc bổ sung: “Ngọn lửa mà kẻ thù đã đốt
hàng chục nóc nhà trong cuộc khủng bố
tháng Hai cũng tắt theo những âm mưu tiêu
diệt Cứu quốc quân của chúng; Tuy vậy ngọn
lửa ấy đã cháy thành ngọn lửa căm thù trong
đồng bào đồng chí chúng ta.”(1). Đây là
những sự chuẩn bị vô cùng cần thiết cho việc
hình thành một cao trào đấu tranh cách mạng
trên toàn quốc, tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền trong những năm tiếp theo.
Tiếng súng đánh địch của Cứu quốc quân và
tự vệ căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai có tác dụng
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng toàn
quốc phát triển, đặc biệt ở các địa phƣơng
thuộc những khu vực lân cận: “sự ra đời và
mở rộng hoạt động của Trung đội Cứu quốc
quân II đã có ảnh hưởng tích cực tới việc xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở các
huyện khác trong tỉnh” (2). Noi gƣơng các
chiến sĩ Bắc Sơn - Võ Nhai, nhiều đội tự vệ,
quân du kích ở các địa phƣơng lần lƣợt hình
thành và có những hoạt động rất sôi nổi.
Thời kỳ 1941 – 1945 là thời kỳ phong trào
đấu tranh cách mạng nƣớc ta phát triển vƣợt
bậc, có nhiều thành tựu rực rỡ, đặc biệt là từ
sau khi Mặt trận Việt Minh ra đời. Tám tháng
đấu tranh du kích chống khủng bố trên căn cứ
địa Bắc Sơn – Võ Nhai là một trong những
tiếng súng đầu tiên báo hiệu cho cao trào cách
mạng đó. Sau sự kiện này, quần chúng thêm
tin tƣởng vào sự nghiệp cách mạng do Đảng,
Bác Hồ lãnh đạo. Họ nô nức tham gia các tổ
chức quần chúng của Việt Minh, thi đua đánh
địch, diệt địch bằng chiến thuật du kích trong
các đội du kích, tự vệ địa phƣơng. Phong trào
cách mạng 1941 – 1945 vì thế mà sôi nổi lên
từng tháng, từng ngày và nó lan nhanh, mạnh
từ địa phƣơng này sang địa phƣơng khác.
Sự phát triển của phong trào Việt Minh và sự
lớn mạnh của lực lƣợng vũ trang cách mạng
là những điều kiện quan trọng, quyết định để
Trung ƣơng Đảng ta phát động Cao trào
kháng Nhật cứu nƣớc (từ tháng 3 tháng
8/1945), rồi tiến tới tổng khởi nghĩa trong
Cách mạng Tháng Tám 1945.
2. Lực lƣợng quân du kích hình thành trong
cuộc đấu tranh này, đặc biệt là đội Cứu quốc
quân II đã trở thành một trong những hạt nhân
nòng cốt để xây dựng lực lƣợng vũ trang cách
mạng của Đảng. Thực tế cho thấy, đây là một
trong những đội quân tiền thân của lực lƣợng
vũ trang nhân dân Việt Nam (ngày
15/05/1945 hợp nhất với đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải
phóng quân tại Định Biên Thƣợng, Định Hóa,
Thái Nguyên).
Đội du kích cách mạng bắt đầu hình thành từ
trong cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Tại
Hội nghị Trung ƣơng 7 (11/1940), Đảng ta
quyết định Đội du kích Bắc Sơn cần phải
đƣợc duy trì và phát triển, làm lực lƣợng nòng
cốt tiến tới xây dựng căn cứ địa lấy Bắc Sơn –
Võ Nhai là trung tâm; Đảng cũng vạch rõ
phƣơng hƣớng hoạt động của đội du kích là
vũ trang công tác, khi cần thì chống địch
khủng bố, xây dựng, mở rộng căn cứ địa cách
mạng. Thực hiện chủ trƣơng của Đảng, Đội
du kích Bắc Sơn ngày càng phát triển và lớn
mạnh qua đấu tranh; các trung đội Cứu quốc
quân I (1/5/1941), rồi Cứu quốc quân II
(15/9/1941) ra đời là những kết quả tất yếu
của quá trình phát triển đó. Trong quá trình
này, sự lãnh đạo về chủ trƣơng, đƣờng lối của
Đảng, thậm chí cả những nhân tố con ngƣời
cũng đƣợc thể hiện rất rõ (cử những cán bộ
cốt cán của Đảng tham gia lãnh đạo quân du
kích hoặc công tác lâu ngày tại khu căn cứ).
Khi khu căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai bị
khủng bố, Đảng ta đã luôn sát sao chỉ đạo,
động viên kịp thời đối với lực lƣợng du kích,
đặc biệt Đảng đã phát động một phong trào
ủng hộ du kích Bắc Sơn – Võ Nhai trên toàn
quốc nhằm hỗ trợ cho phong trào đấu tranh.
Nhƣng do thực dân Pháp bao vây chặt, cô lập
mạnh khu căn cứ nên phong trào này cũng
chƣa thực sự phát huy đƣợc những tác dụng
cần thiết.
Vậy, có thể thấy: trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta đã rất coi trọng lực lƣợng
quân du kích Bắc Sơn – Võ Nhai và coi đó là
lực lƣợng vũ trang nòng cốt xây dựng, bảo vệ
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, một trong hai
căn cứ địa cách mạng trung tâm của cả nƣớc
bấy giờ (căn cứ địa thứ hai là Cao Bằng);
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 29 - 34
31
Đảng cũng xác định lực lƣợng du kích Bắc
Sơn – Võ Nhai là một lực lƣợng cần phải
đƣợc duy trì, bồi dƣỡng và coi đó là một
trong những đội quân tiền thân của quân đội
nhân dân Việt Nam. Thực tế lịch sử cũng cho
thấy, các trung đội Cứu quốc quân Bắc Sơn –
Võ Nhai đã hợp nhất với Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân (ra đời ngày
22/12/1944) thành Việt Nam Giải phóng quân
(tại Định Biên Thƣợng, Định Hóa, Thái
Nguyên, ngày 15/5/1945) – một đội quân
đƣợc coi là lực lƣợng Quân đội nhân dân Việt
Nam lâm thời của cách mạng Việt Nam.
Ngoài ra, ta cũng thấy, đã có không ít cán bộ,
chiến sĩ Trung đội Cứu quốc quân trƣởng
thành trong cuộc chiến đấu về sau đã trở
thành những vị tƣớng tài, chỉ huy giỏi trong
Quân đội nhân dân Việt Nam (Chu Văn Tấn,
Nguyễn Cao Đàm, Lê Dục Tôn, Mông Phúc
Quyền, Chu Phóng…). Vậy, ta có thể coi
Cứu quốc quân là một trong những đội
quân tiền thân của lực lượng vũ trang nhân
dân Việt Nam sau này. Đây là vấn đề mang ý
nghĩa lịch sử hết sức quan trọng.
3. Những thắng lợi của cuộc đấu tranh du
kích diễn ra trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ
Nhai đã đánh dấu sự lớn mạnh của khu căn cứ
địa cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai. Nó ảnh
hƣởng lớn đến sự hình thành, phát triển của
các khu căn cứ địa cách mạng khác trên toàn
quốc; Đặc biệt, sự phát triển đó là tiền đề cho
sự ra đời của chiến khu Hoàng Hoa Thám và
Khu giải phóng Việt Bắc (tháng 6/1945) –
những chiến khu có vị trí, vai trò rất to lớn
trong sự thành công của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
Với tƣ cách là khu du kích đầu tiên trong thời
kỳ mới, theo chủ trƣơng chỉ đạo của Trung
ƣơng Đảng về vấn đề xây dựng căn cứ địa
Bắc Sơn – Võ Nhai (trong Hội nghị Trung
ƣơng 7 (1940)), quân và dân Bắc Sơn – Võ
Nhai cùng nhau đoàn kết, tích cực xây dựng
khu căn cứ. Chỉ trong vòng hơn một năm kể
từ ngày có chủ trƣơng trên, đến đầu năm
1942, một khu căn cứ địa cách mạng rộng lớn
đã đƣợc hình thành và ngày một phát triển.
Khu căn cứ này lấy Bắc Sơn – Võ Nhai làm
trung tâm, bao gồm nhiều địa phƣơng thuộc
các tỉnh: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang,
Tuyên Quang. Việc mở rộng căn cứ địa Bắc
Sơn – Võ Nhai giúp cho quân du kích có
thêm địa bàn để hoạt động, chống địch khủng
bố; xây dựng, phát triển các cơ sở cách mạng.
Căn cứ địa này nối liền với căn cứ địa Cao
Bằng (nơi Bác Hồ và Trung ƣơng Đảng hoạt
động) và là bàn đạp để phát triển phong trào
cách mạng từ Bắc xuống Nam, từ miền núi
đến miền xuôi, xuống đồng bằng và thông tới
nhiều địa phƣơng khác, thúc đẩy cao trào
cách mạng trên toàn quốc. Thực tế cho thấy:
sự ra đời của một loạt các khu căn cứ cách
mạng trong thời kỳ tiếp theo nhƣ: Chiến khu
Hoàng Hoa Thám (hình thành đầu năm 1944,
gồm hai phân khu, lấy Sông Cầu là ranh giới:
Phân khu A là phân khu Nguyễn Huệ; phân
khu B là phân khu Quang Trung, do đồng chí
Chu Văn Tấn làm Chỉ huy trƣởng) và đặc biệt
là Khu giải phóng Việt Bắc (thành lập ngày
04/6/1945, gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang,
Lạng Sơn, do Hồ Chủ tịch lãnh đạo Ủy ban
chỉ huy lâm thời Khu giải phóng) cũng là kết
quả của công tác xây dựng, mở rộng căn cứ
địa trong thời kỳ tám tháng đấu tranh du kích
chống địch khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn
– Võ Nhai.
4. Xuất phát từ chủ trƣơng đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ cách mạng hàng
đầu của Đảng ta, quân và dân Bắc Sơn – Võ
Nhai đã quyết tâm đứng lên đấu tranh chống
địch khủng bố. Những thắng lợi to lớn cả trên
mặt trận quân sự lẫn mặt trận chính trị đã cho
thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình, khéo
léo giữa đấu tranh chính trị và đầu trang vũ
trang của quân và dân Bắc Sơn - Võ Nhai; nó
cũng nói lên sức mạnh của việc kết hợp hai
hình thức đấu tranh: chính trị và vũ trang
trong quá trình khởi nghĩa ở từng địa phƣơng.
Cuộc đấu tranh này là sự kiểm nghiệm, làm
tiền đề vững chắc cho việc phát động một một
cao trào khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi
toàn quốc của Đảng ta.
Xuyên suốt thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta đã
vạch ra mục tiêu chính trị của cách mạng là
bằng mọi giá giành cho kỳ đƣợc độc lập, tự
do cho dân tộc. Thực hiện mục tiêu đó, Đảng
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 29 - 34
32
đã đề ra nhiều hình thức hoạt động phong phú
nhƣ: Vận động, tuyên truyền, giác ngộ quần
chúng; tập hợp, rèn luyện họ, đƣa họ vào các
cuộc đấu tranh…,vì thế, hình thức đấu tranh
chính trị luôn xuyên suốt và đi trƣớc trong tất
cả các thời kỳ cách mạng. Song, nếu chỉ có
đấu tranh chính trị, không có đấu tranh vũ
trang thì cách mạng khó có thể thành công
đƣợc, nhất là dƣới ách cai trị, đô hộ của bọn
thực dân, phong kiến, phát xít tàn bạo nhƣ ở
Việt Nam. Đấu tranh vũ trang là để hỗ trợ cho
đấu tranh chính trị, thực hiện những nhiệm vụ
chính trị. Hai hình thức này có mối liên hệ
chặt chẽ, biện chứng, tạo ra sức mạnh to lớn,
có đủ khả năng đƣa cách mạng thành công.
Tuy nhiên, cũng tùy từng nơi, từng điều kiện
mà có khi ta lấy đấu tranh chính trị làm trọng,
có khi ta lại coi đấu tranh vũ trang là chính;
đấu tranh chính trị có thể đi trƣớc, quyết định,
đấu tranh vũ trang đi sau ủng hộ, hỗ trợ và
ngƣợc lại.
Khởi nghĩa Bắc Sơn và tám tháng đấu tranh
du kích đã để lại những bài học kinh nghiệm
sâu sắc về việc vận dụng, kết hợp hai hình
thức đấu tranh này. Khởi nghĩa Bắc Sơn lúc
đầu nặng về đấu tranh chính trị, sau mới đấu
tranh vũ trang giành chính quyền. Song, sau
khi chính quyền địch tan rã ở địa phƣơng thì
quân cách mạng lại không đƣa cách mạng tiến
lên, tỏ thái độ cầm chừng, không kiên quyết
đấu tranh vũ trang, giành quyền làm chủ, gây
dựng phong trào cách mạng trên địa bàn rộng,
tự bó hẹp khả năng đấu tranh của mình, vô
tình tạo cơ hội để địch đàn áp và cuộc khởi
nghĩa đã đi đến thất bại. Tám tháng đấu tranh
du kích chống địch khủng bố đánh dấu bƣớc
nhận thức mới trong hình thức đấu tranh của
quần chúng nhân dân địa phƣơng. Với chiến
thuật du kích - lấy chính trị làm trọng tâm
công tác để gây dựng phong trào quần chúng,
nhƣng vũ trang lại đóng vai trò quyết định để
bảo vệ quần chúng, bảo vệ cơ sở cách mạng,
chống địch khủng bố - quân du kích Bắc Sơn
– Võ Nhai đã vận dụng rất khéo hai hình thức
đấu tranh này: Thời kỳ đầu của tám tháng đấu
tranh du kích thì ta đã lấy đấu tranh chính trị
là chính (khi cần mới đấu tranh vũ trang)
nhằm gây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức,
củng cố, phát triển lực lƣợng du kích quân về
mọi mặt (tập huấn, huấn luyện quân sự chính
trị); sang thời kỳ tiếp theo (từ tháng 9/1941
đến cuối năm 1941), trƣớc sự khủng bố ác liệt
của kẻ thù, ta lại chủ trƣơng đấu tranh vũ
trang bằng chiến thuật du kích để bảo vệ cơ
sở cách mạng, bảo vệ tài sản, tính mạng của
đồng bào…, vừa tiếp tục thực hiện đấu tranh
chính trị để hỗ trợ cho đấu tranh vũ trang
chống khủng bố bởi: “Muốn chống được
khủng bố phải có lực lượng võ trang của
mình chống lại kẻ địch” (3). Kết hợp nhuần
nhuyễn hai hình thức này, Cứu quốc quân đã
làm cho bộ máy chính quyền tay sai địch ở
địa phƣơng rệu rã, sụp đổ từng bộ phận, vì thế
sinh lực địch bị tiêu hao không nhỏ. Sang thời
kỳ cuối (cuối năm 1941 đến đầu năm 1942),
địch chủ trƣơng khủng bố mạnh hơn, chúng
thi hành nhiều thủ đoạn tàn bạo, tinh vi, khiến
quân cách mạng lâm vào thế nguy hiểm.
Trƣớc tình thế đó, ta đã quyết định tạm thời
chấm dứt các hoạt động vũ trang (nếu có cũng
chỉ là cầm chừng, trong những tình thế bắt
buộc), phân tán lực lƣợng vào trong dân
chúng, lãnh đạo dân chúng đấu tranh chính
trị, nhằm bảo toàn lực lƣợng, tránh những tổn
thất cho cách mạng.
Kế thừa những kinh nghiệm trên, trong những
năm 1944 – 1945, khi lực lƣợng cách mạng
đã lớn mạnh (đặc biệt từ sau sự kiện Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập
22/12/1944), việc kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang càng nhuần nhuyễn,
chặt chẽ hơn, “ta đã giành được từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, thực hiện khởi nghĩa
từng phần, tiến tới lập khu giải phóng rộng
lớn” (4). Trong khởi nghĩa tháng Tám năm
1945, có những nơi ta giành đƣợc chính
quyền qua đấu tranh chính trị, song cũng có
nơi ta phải sử dụng vũ trang để thực hiện mục
tiêu cách mạng (vì kẻ thù ngoan cố không đầu
hàng). Xét cho cùng thì muốn giành đƣợc
thắng lợi cuối cùng thì cần phải có bạo lực
chính trị, phải có đấu tranh vũ trang. Trong
quá trình đấu tranh cách mạng: “Đảng ta đã
khéo léo kết hợp hình thức đấu tranh chính trị
với hình thức võ trang. Một xứ thuộc địa và
bán phong kiến, kẻ thù vô cùng ác liệt, Đảng
đã giáo dục, tổ chức một đội quân chính trị
tiến lên có võ trang, chống kẻ thù có vũ khí
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 29 - 34
33
mạnh gấp mấy mình, giành được thắng lợi.
Đảng đã biết phát động cuộc chiến tranh du
kích dựa vào nhân dân, lợi dụng địa hình
thuận lợi, đã biết dùng thuật lấy súng địch
bắn địch, làm tan rã hàng ngũ địch để giành
lấy thắng lợi” (5). Đây chính là những kinh
nghiệm trong đấu tranh cách mạng đã đƣợc
Đảng ta rút ra và vận dụng - trong đó có sự
kiện tám tháng đấu tranh du kích của nhân
dân Bắc Sơn – Võ Nhai.
5. Trong cuộc đấu tranh chống địch khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, Cứu quốc quân và những lực lƣợng khác của quần chúng cách mạng trực tiếp tham gia chiến đấu, đã thực hiện, hoàn thành xuất sắc chủ trƣơng, đƣờng lối chỉ đạo của Đảng và Hồ Chí Minh. Chính cuộc đấu tranh ấy đã góp phần đƣa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn; kiểm nghiệm, rút ra nhiều bài học cho giai đoạn cách mạng sau.
Trƣớc hết ta phải khẳng định, chính những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng là ngọn đuốc soi sáng cho phong trào cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng tháng 11/1939 là một ví dụ, văn kiện này đánh dấu bƣớc chuyển hƣớng về đƣờng lối và phƣơng pháp cách mạng của Đảng. Sự ra đời của Nghị quyết, đặc biệt là những chủ trƣơng về phƣơng pháp cách mạng là cơ sở, là lý luận soi đƣờng cho việc bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp, trong đó có Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940).
Tiếp đó, Trung ƣơng Đảng đã có ngay những chủ trƣơng chỉ đạo cụ thể cho phong trào cách mạng ở Bắc Sơn – Võ Nhai bằng những Quyết nghị tại Hội nghị Trung ƣơng 7 (11/1940), đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 8 (5/1941). Đây là những văn kiện có ý nghĩa định hƣớng, chỉ đạo trực tiếp cho phong trào đấu tranh của quân và dân Bắc Sơn – Võ Nhai, nhất là đối với những hoạt động của Cứu quốc quân. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng còn có nhiều sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp bằng nhiều biện pháp nhƣ: Phát động phong trào ủng hộ Bắc Sơn – Võ Nhai trên toàn quốc; cử cán bộ nối liên lạc với phong trào cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai; bổ sung cán bộ lên khu căn cứ địa tham
gia lãnh đạo phong trào; mở nhiều lớp tập huấn chính trị, quân sự do Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng trực tiếp phụ trách…Mặt khác có thể thấy, cùng với truyền thống đánh du kích trong lịch sử dân tộc, những quan điểm quân sự của Nguyễn Ái Quốc về chiến tranh, chiến thuật du kích đã dần hình thành (đƣợc thể hiện trong một số tác phẩm về cách đánh du kích của Ngƣời viết đầu năm 1941) và đƣợc quân du kích lĩnh hội, áp dụng triệt để trong cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, góp phần tạo nên những thắng lợi lớn của quân du kích.
Nhƣ vậy, có thể thấy: Thắng lợi của tám tháng chiến tranh du kích chống địch khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (1941-1942) đã ảnh hƣởng sâu rộng, mạnh mẽ đến phong trào cách mạng Việt Nam. Đó là nguồn cổ vũ, động viên rất kịp thời cho quần chúng nhân dân trong “đêm trước” của một cao trào khởi nghĩa chắc chắn sẽ xảy ra. Mặt khác, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai hình thành, phát triển qua tranh đấu cũng là yếu tố quan trọng đƣa đến sự ra đời của Khu giải phóng trong cao trào kháng Nhật cứu nước (1945).
Diễn ra trong thời gian ngắn nhƣng cuộc đấu tranh trên đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quí giá về cả lý luận và thực tiễn. Đây là “vốn quí” đầu tiên của Đảng ta về đƣờng lối chỉ đạo cũng nhƣ công tác tổ chức, xây dựng lực lƣợng; về các vấn đề về kỹ thuật, chiến thuật… trong đấu tranh du kích; là cơ sở cho việc hình thành đƣờng lối, tƣ tƣởng chỉ đạo của Đảng về vấn đề chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân trong các thời kỳ cách mạng về sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tổng kết căn cứ địa – chiến khu Việt Bắc - căn
cứ địa chủ yếu của mọi thời kỳ đấu tranh vũ trang
cách mạng của nhân dân ta (1966), Lƣu trữ Tỉnh
ủy tỉnh Thái Nguyên, tr.12.
[2]. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên (1999),
Thái Nguyên - Lịch sử đấu tranh vũ trang cách
mạng và Kháng chiến chống Pháp (1941 -1954),
Nhà máy in Quân đội, tr.75.
[3]. Chu Văn Tấn (1959), Đảng Cộng sản Đông
Dương – Người lãnh đạo cuộc Bắc Sơn khởi
nghĩa, Lƣu trữ Tỉnh ủy tỉnh Thái Nguyên, cặp 12,
số 26, tr.13.
[4]. Thư của Ban Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương gửi các chiến sĩ Bắc Sơn,
17/12/1941, Kho lƣu trữ Trung ƣơng Đảng, tr.2.
Ngô Ngọc Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 29 - 34
34
SUMMARY
THE IMPACTS AND INFLUENCES OF FIRST EIGHT MONTHS OF
GUERRILLA FIGHTING AGAINST ENEMY OFFENSIVE AT BAC SON BASE
– VO NHAI ON VIET NAM’S REVOLUTION.
Ngo Ngoc Linh
*
College of Sciences - Thai Nguyen University
Victory of the guerrilla struggle eight months against the terrorist enemy in Bac Son - Vo Nhai
base (1941-1942) not only has important implications for the revolutionary movement Bac Son -
Vo Nhai, but also create to influence a revolutionary mass movement taking place across the
country, The formation and development of Bac Son - Vo Nhai base is also an important factor
leading to the birth of the liberation zone in the anti -Japanese climax to save the country (1945).
Guerrilla Bac Son - Vo Nhai is considered a precursor of the army of the Vietnam People's Army.
Key words: Guerrilla struggle; Bac Son – Vo Nhai; Guerrilla Bac Son - Vo Nhai; Bac Son - Vo
Nhai base; the guerrilla struggle eight months
* Tel: 0983851565
Trần Chí Thiện và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 35 - 38
35
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẢI THIỆN MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC KẠN
Trần Chí Thiện
*, Nguyễn Thị Thu Hà
Trường ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Môi trƣờng đầu tƣ là động lực quan trọng để thu hút nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế- xã hội
của mỗi địa phƣơng. Bài viết này nhằm mục đích tổng hợp và phân tích ý kiến đánh giá của các
nhà doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn về môi trƣờng đầu tƣ của Tỉnh. Từ
đó, đƣa ra các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng thu hút đầu tƣ trên địa bàn bao gồm đổi mới
chính sách ƣu đãi đầu tƣ, cải thiện chất lƣợng nguồn lao động, tạo cơ hội khai thác các tiềm năng
phát triển các ngành nghề và nâng cao chất lƣợng các dịch vụ hỗ trợ.
Từ khóa: giải pháp, cải thiện, môi trường đầu tư, tỉnh Bắc Kạn
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi phía Bắc, nằm
sâu ở trung tâm vùng núi Việt Bắc, có cơ sở
hạ tầng thấp kém, điều kiện kinh tế - xã hội
rất khó khăn, nguồn nhân lực hạn chế, nguồn
vốn đầu tƣ hạn hẹp. Thu hút đầu tƣ nhằm tăng
cƣờng nguồn nhân, tài, vật lực cho phát triển
là một trong những chiến lƣợc quan trọng
nhất giúp cho Bắc Kạn có thể dần theo kịp
trình độ phát triển chung của cả nƣớc. Bắc
Kạn muốn thành công trong việc thu hút đầu
tƣ cần tạo ra một môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi.
Đánh giá môi trƣờng đầu tƣ của Tỉnh dƣới
góc nhìn của các nhà doanh nghiệp, từ đó rút
ra các giải pháp chủ yếu để cải thiện môi
trƣờng đầu tƣ, do đó, có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng nhằm phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn.
CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
TỈNH BẮC KẠN
Theo số liệu của Phòng Công nghiệp và
Thƣơng mại Việt Nam (VCCI), Chỉ số năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bắc Kạn (PCI)
của Bắc Kạn qua nhiều năm vẫn ở mức thấp.
Năm 2010, PCI của tỉnh đạt số điểm là 51,49,
xếp thứ 58 trong 63 tỉnh thành (VCCI, 2011).
Điều này chứng tỏ năng lực cạnh tranh, sự
hấp dẫn các nhà đầu tƣ vào Tỉnh còn hạn chế
rất nhiều so với các tỉnh, thành trong cả nƣớc.
Đồ thị 1. Các tiêu chí cấu thành nên PCI các năm 2009, 2010 của Bắc Kạn*
(Nguồn:VCCI, 2010, 2011)
* Tel: 0989291958; Email: [email protected]
Trần Chí Thiện và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 35 - 38
36
Qua đồ thị trên, ta thấy trong 9 tiêu chí:
- Có tới 4 tiêu chí đạt điểm rất thấp đang là
các cản trở chính trong thu hút đầu tƣ của
tỉnh, cần phải đƣợc tháo gỡ, gồm:
- Thiết chế pháp lý: 3,51/10
- Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo
tỉnh: 4,55/10
- Đào tạo lao động: 4,65/10
- Chi phí không chính thức: 4,86/10
Có 3 tiêu chí đạt ở mức trung bình cần phấn
đấu vƣơn lên là:
- Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp: 5,23/10
- Tính minh bạch và tiếp cận thông tin:
5,27/10
- Chi phí thời gian để thực hiện các quy định
của NN: 5,61/10
Có 2 tiêu chí đánh giá đạt mức khá cần tiếp
tục phát huy:
- Tiếp cận đất đai và sự ổn định sử dụng đất:
6,33/10
- Chi phí gia nhập thị trƣờng: 6,28/10
Từ các trị số của 9 tiêu chí trên, ta thấy môi
trƣờng đầu tƣ của tỉnh Bắc Kạn thật sự còn
kém hấp dẫn.
CÁC NHÀ ĐẦU TƢ ĐÁNH GIÁ MÔI
TRƢỜNG ĐẦU TƢ TỈNH BẮC KẠN
Năm 2010, nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn
42 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất,
kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn theo
một bảng hỏi gồm 36 chỉ tiêu phản ánh đánh
giá của doanh nghiệp về 36 khía cạnh của môi
trƣờng đầu tƣ. Mỗi chỉ tiêu đƣợc từng doanh
nghiệp trả lời theo 5 mức của thang đo Likert
(rất không đồng ý, đồng ý, bình thƣờng-
không rõ quan điểm, đồng ý, rất đồng ý).
Tổng hợp lại, cho các kết quả sau:
Đánh giá mức độ cung cấp các dịch vụ công
a. Về dịch vụ cung cấp thông tin về lĩnh vực
Tỉnh thu hút đầu tư
Các doanh nghiệp chỉ quyết định đầu tƣ khi
đã có đầy đủ thông tin về lĩnh vực đầu tƣ. Tuy
nhiên, chất lƣợng cung cấp dịch vụ này không
cao. Còn tới 40,44% các nhà đầu tƣ cho rằng
việc cung cấp thông tin này là không tốt hoặc
rất không tốt. Có nhà đầu tƣ nhận đƣợc thông
tin, có nhà đầu tƣ không nhận đƣợc thông tin.
Nhƣ vậy, chƣa thực sự công bằng cho tất cả
các nhà đầu tƣ. Tỉnh chƣa có cơ quan chuyên
về xúc tiến đầu tƣ mà chỉ có Trung tâm xúc
tiến đầu tƣ thƣơng mại và du lịch trực thuộc
Ủy ban Nhân dân tỉnh. Hơn nữa, chất lƣợng
đội ngũ hiện nay của Trung tâm cũng chƣa
đáp ứng đƣợc yêu cầu của công tác này.
b. Về chất lượng dịch vụ hỗ trợ xúc tiến
thương mại
Kết quả khảo sát cho thấy, có 9,52% nhà đầu
tƣ đánh giá chất lƣợng dịch vụ này rất tốt,
60,9% đánh giá tốt, 26,19% đánh giá chƣa tốt
và chỉ có 2,38% đánh giá rất không tốt. Nhƣ
vậy, tỉnh Bắc Kạn đã cố gắng cung cấp dịch
vụ hỗ trợ xúc tiến thƣơng mại cho các doanh
nghiệp trên địa bàn. Phần đông các nhà đầu tƣ
hài lòng với dịch vụ này. Tuy vậy, vẫn còn tới
gần 30% các nhà doanh nghiệp không hài
lòng hoặc rất không hài lòng.
c. Về chất lượng dịch vụ hỗ trợ tuyển dụng và
môi giới lao động
Bắc Kạn là một địa phƣơng có chất lƣợng lao
động rất thấp. Năm 2009, tỷ lệ lao động không qua đào tạo ở tỉnh chiếm tới 84,2%; tỷ lệ lao động có trình độ đại học và cao đẳng trở lên chỉ có 4,88 (Cục Thống kê Bắc Kạn, 2010)
. Do vậy, các nhà đầu tƣ tại Bắc Kạn
gặp rất nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng
lao động. Đánh giá về dịch vụ tuyển dụng, đào tạo và cung ứng lao động của chính quyền địa phƣơng, chỉ có 4,76% nhà đầu tƣ đánh giá rất tốt, 47,62% đánh giá tốt và 47,62% đánh giá không tốt. Nhƣ vậy, gần một nửa các nhà đầu tƣ cho rằng chất lƣợng dịch
vụ hỗ trợ tuyển dụng và môi giới lao động là không tốt. Tỉnh cần chú ý công tác này vì các dự án đầu tƣ không chỉ khó tuyển dụng lao động trình độ cao mà thậm chí còn khó cả tuyển dụng lao động phổ thông.
Đánh giá thủ tục cấp phép đầu tƣ
Có 11,9% nhà đầu tƣ cho rằng quá trình đăng
ký thủ tục đầu tƣ của Tỉnh rất khó khăn,
28,57% đánh giá khó khăn, 40,48% đánh giá
gặp chút ít khó khăn, chỉ có 19,05% đánh giá
không gặp khó khăn nào. Nguyên nhân là
việc tuyên truyền quảng bá về quy trình đăng
ký đầu tƣ chƣa thực sự đến với nhà đầu tƣ
hoặc đến với hiệu quả chƣa cao.
Trần Chí Thiện và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 35 - 38
37
Đánh giá mức độ minh bạch trong quản lý
Có tới 35,71% các nhà đầu tƣ cho rằng không thực sự thuận lợi cho họ để có thể tiếp cận đƣợc những thông tin và tài liệu phục vụ cho hoạt động đầu tƣ. Trong đó, 9,52% đánh giá là không thể tiếp cận, 26,19% cho rằng có thể tiếp cận nhƣng gặp khó khăn.
54,76% các doanh nghiệp cho rằng cần thiết hoặc rất cần thiết phải thiết lập trƣớc các mối quan hệ với các nhà quản lý thì sẽ dễ dàng hơn trong việc giải quyết đƣợc các công việc trong đầu tƣ hiện tại.
Đánh giá những chính sách ƣu đãi, hỗ trợ đầu tƣ
Dù còn gặp nhiều khó khăn, song Bắc Kạn đã xây dựng một hệ thống những chính sách ƣu đãi đối với các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, tỷ lệ nhà đầu tƣ không hài lòng với chính sách này vẫn còn cao, 52,38% các nhà đầu tƣ chƣa hài lòng- chứng tỏ chính sách này chƣa thực sự hài hòa trong tất cả các lĩnh vực đầu tƣ của tỉnh.
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI MỨC ĐỘ SẴN LÕNG ĐẦU TƢ
Phƣơng pháp Phân tích Nhân tố (Factor Analysis) đƣợc vận dụng để ƣớc lƣợng mô hình hồi quy thông qua phần mềm SPSS.
Kiểm định Kaiser-Meyer-Olkin (KMO) để kiểm tra độ lớn của mẫu điều tra và kiểm định Bartlett để đánh giá tính hoàn chỉnh của bộ số liệu điều tra đều đảm bảo đạt yêu cầu.
36 chỉ tiêu về môi trƣờng đầu tƣ đƣợc sắp xếp, rút gọn thành 6 nhân tố: 1) Ƣu đãi của tỉnh cho hoạt động đầu tƣ (X1), 2) Chất lƣợng lao động (X2), 3) Tiềm năng phát triển của tỉnh (X3), 4) Dịch vụ hỗ trợ (X4), 5) Vai trò của chính quyền (X5) và 6) Tính sáng tạo, năng động của cán bộ quản lý cấp tỉnh; (X6).
Sử dụng phần mềm SPSS, hàm hồi quy tuyến tính phản ánh ảnh hƣởng của 6 nhân tố trên tới mức độ sẵn lòng đầu tƣ vào tỉnh của các doanh nghiệp (F) có dạng:
F = -1,299 + 0,359X1 + 0,404X2 + 0,362X3 + 0,423X4 +0,08X5 + 0,006X6
(t statistic ) (-3,621)***
(2,381)**
(2,340)**
(2,316)
** (2,228)
** (0,689) (0,051)
R2 = 0.819. n= 42;
***,** : mức ý nghĩa thống kê tƣơng ứng đạt 0,01 và 0,05. Các hệ số hồi quy β1, β2 , β3 và β4 đều có độ tin cậy là 95%
Các nhân tố trong mô hình giải thích 81,9% sự thay đổi về mức độ sẵn lòng đầu tƣ của các doanh nghiệp vào Tỉnh. Mức độ sẵn lòng đầu tƣ vào Tỉnh của doanh nghiệp cũng là một biến định tính với 5 mức độ có thể nhận các giá trị từ 1 đến 5 tƣơng ứng với 5 mức độ trong thang đo Likert (rất không sẵn lòng, không sẵn lòng, bình thƣờng-không rõ quan điểm, sẵn lòng, rất sẵn lòng).
Trong mô hình, có 4 nhân tố đƣợc khẳng định là có tác động đáng kể tới mức độ sẵn lòng đầu tƣ của doanh nghiệp với độ tin cậy cao là:
Nhân tố X1: ƣu đãi của Tỉnh đối với hoạt động đầu tƣ. Ƣu đãi càng lớn thì sẽ thu hút đƣợc nhiều nguồn lực cho địa phƣơng. Trong đó, cơ quan quản lý cần chú trọng vào ƣu đãi cả hoạt động trƣớc cấp phép, ƣu đãi hoạt động trong cấp phép và ƣu đãi cả trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
Nhân tố X2: chất lƣợng nguồn lao động của địa phƣơng, chất lƣợng cung ứng nguồn lao động do chính quyền tỉnh thực hiện, chất lƣợng đào tạo nghề cho ngƣời lao động. Nhƣ vậy, để doanh nghiệp có ý định đầu tƣ vào Bắc Kạn thì quan tâm hàng đầu của họ là chất lƣợng nguồn lao động.
Nhân tố X3: tiềm năng phát triển của Tỉnh: triển vọng phát triển cơ sở hạ tầng và cơ hội khai thác tiềm năng phát triển ngành nông lâm nghiệp, ngành khai khoáng và ngành du lịch văn hoá - lịch sử và sinh thái. Đây là một mối quan tâm lớn của các nhà đầu tƣ.
Nhân tố X4 : chất lƣợng dịch vụ cung cấp thông tin do các cơ quan tỉnh thực hiện, chất lƣợng dịch vụ công nghệ, chất lƣợng chính sách phát triển các khu/cụm công nghiệp cũng là những điều thiết yếu mà nhà đầu tƣ mong muốn đƣợc đảm bảo.
Tóm lại, ƣu đãi đầu tƣ, chất lƣợng nguồn lao động, cơ hội khai thác tiềm năng phát triển các ngành nghề và chất lƣợng các dịch vụ hỗ trợ là những yếu tố mà địa phƣơng cần cải tiến để thu hút nhiều hơn các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM CẢI THIỆN MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ TỈNH BẮC KẠN Một là, nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề cải thiện môi trƣờng đầu tƣ. Từng ngành, từng cấp phải nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của môi trƣờng đầu tƣ đối với sự
Trần Chí Thiện và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 35 - 38
38
phát triển của tỉnh, nhận thức các yếu tố ảnh hƣởng tới môi trƣờng đầu tƣ, từ đó chủ động xây dựng kế hoạch, chƣơng trình hành động và tổ chức cải thiện môi trƣờng đầu tƣ của cấp mình, ngành mình; phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc triển khai thực hiện các chính sách về cải thiện môi trƣờng đầu tƣ.
Hai là, phải tiếp tục cải cách hành chính, tạo ra sự minh bạch, thông thoáng trong quá trình quản lý của địa phƣơng. Tỉnh cần ban hành và niêm yết công khai các quy trình quản lý liên quan đến hoạt động đầu tƣ, ƣu đãi đầu tƣ; định kỳ gặp gỡ để trao đổi với các nhà đầu tƣ về các chính sách hỗ trợ đầu tƣ. Tỉnh nên sớm thành lập Trung tâm hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp. Trung tâm này có chức năng đƣa những chủ trƣơng, chính sách của nhà nƣớc và địa phƣơng đến với doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp khi có vƣớng mắc về chính sách trong quá trình hoạt động.
Ba là, quy hoạch các ngành nghề, các khu vực ƣu đãi đầu tƣ; rà soát, điều chỉnh hệ thống chính sách ƣu đãi đầu tƣ. Với lợi thế đất lâm nghiệp và đất chƣa sử dụng còn nhiều, với tiềm năng to lớn về du lịch sinh thái, văn hoá, lịch sử và tiềm năng phong phú về khoáng sản, Bắc Kạn cần quy hoạch đƣợc vùng nguyên liệu nông lâm nghiệp; quy hoạch các khu du lịch sinh thái, văn hoá - lịch sử; khảo sát, đánh giá về trữ lƣợng nguồn khoáng sản các loại ở từng điểm quặng. Từ đó, xây dựng chính sách ƣu đãi đầu tƣ vào phát triển vùng nguyên liệu và chế biến nông,
lâm sản và chính sách ƣu đãi đầu tƣ phát triển các khu du lịch và khai khoáng ở các khu mỏ tập trung.
Bốn là, xây dựng chính sách về đào tạo nguồn lao động, phối hợp với các trung tâm đào tạo trong vùng để đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao chất lƣợng nguồn lao động của địa phƣơng. Thành lập trung tâm tƣ vấn và môi giới việc làm, định kỳ tổ chức giới thiệu lao động cho các doanh nghiệp trong Tỉnh.
Năm là, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tƣ. Tỉnh cần phát hành các ấn phẩm giới thiệu về tỉnh Bắc Kạn, về các tiềm năng và các cơ hội đầu tƣ của tỉnh; về các chính sách ƣu đãi đầu tƣ. Tỉnh cần xây dựng Website với nội dung thông tin phong phú, cập nhật hơn để giới thiệu về tiềm năng, thế mạnh, các chủ trƣơng, chính sách ƣu đãi đầu tƣ của Tỉnh, các dự án kêu gọi đầu tƣ. Hàng năm, Tỉnh cần phải phối hợp với các đơn vị chuyên môn (các trƣờng đại học, Phòng Công nghiệp và Thƣơng mại Việt Nam- VCCI) mở các hội thảo về thu hút đầu tƣ, qua đó để quảng bá các tiềm năng, chính sách của Tỉnh đến các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc; phối hợp với các tỉnh trong khu vực mở hội chợ triển lãm thu hút đầu tƣ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cục Thống kê Bắc Kạn (2010), Niêm giám
Thống kê tỉnh Bắc Kạn năm 2009.
[2]. VCCI (2010), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh năm 2009.
[3]. VCCI (2011), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh năm 2010.
SUMMARY
BASIC SOLUTIONS TO THE IMPROVEMENT OF INVESTMENT
ENVIRONMENT IN BAC KAN PROVINCE
Tran Chi Thien
*, Nguyen Thi Thu Ha
Thai Nguyen University of Economics and Business Administration - TNU
Investment environment is an important motivation to attract investment to each province. This
paper aims to sum-up and analyse viewpoints of entrepreneurs who are doing businesses in Bac
Kan on their assessment about the investment environment of the province. Based on that, it
suggests basic solutions to attracting more investments to the province including supporting policy
renovation, local labor quality enhancement, accessibility to the exploitation of resources
potentials and supporting services improvement.
Keywords: solutions, improvement, investment environment, Bac Kan province
* Tel: 0989291958; Email: [email protected]
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 39 - 44
39
MỘT SÔ ĐÊ XUÂT NHĂM GIAI QUYÊT VÂN ĐÊ Ô NHIÊM MÔI TRƢƠNG
TẠI CÁC LÀNG NGHỀ TỈNH BẮC NINH
Trân Đinh Tuân
*
Trương ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Làng nghề là một hình thái sản xuất đăc thu đƣợc hình thành từ yêu cầu tồn tại và phát triển của
nông thôn Việt Nam, khai thác mọi tiềm năng về thời gian, nhân lực và điều kiện vật chất ở nông
thôn Việt Nam . Làng nghề đã đem lại thu nhập cho ngƣời dân , đong gop cho ngân sach cua đia
phƣơng, thƣc hiên xoa đoi giam ngheo , xây dƣng nông thôn mơi . Tuy nhiên , hiên nay 100% các
làng nghề đều vi phạm các quy định của Luật Bảo vệ môi trƣờng làm cho cảnh quan và môi trƣờng
sông bi đe doa . Măc du tinh Băc Ninh đa quan tâm va co nhiêu cô găng trong công tac bao vê môi
trƣơng, nhƣng viêc vi pham vê sinh môi trƣơng vân gia tăng , trơ thành một vấn đề lớn cần giải
quyêt. Đê thƣc hiên tôt vân đê bao vê môi trƣơng tinh Băc Ninh cân thƣc hiên đông bô nhiêu giai
pháp trong đó có 6 giải pháp cơ bản theo nhƣ đề xuất của tác giả.
Tƣ khoa: Ô nhiêm môi trương, làng nghề Bắc Ninh, Bảo vệ môi trường, môi trương vơi cuôc sông
LÀNG NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TÊ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
VÀ VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG*
Làng nghề là một hình thái sản xuất có tính
đặc thù, đƣơc hinh thanh nhăm khai thác mọi
tiềm năng về thời gian , nhân lực và điều kiện
vật chất ở nông thôn , găn liên vơi sƣ tồn tại
và phát triển của nông thôn Việt Nam.
Theo Thông tƣ 116/2006/TT-BNNPTNT của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày
18/12/2006, làng nghề phải có đủ 3 tiêu
chuẩn: có tối thiểu 30% tổng số hộ trong làng
tham gia hoạt động ngành nghề; hoạt động
kinh doanh ổn định ít nhất đã 2 năm; chấp
hành tốt chính sách của Đảng và Nhà nƣớc.
Cũng theo Thông tƣ này, làng nghề truyền
thống phải đạt các tiêu chuẩn trên và phải có
ít nhất 1 nghề truyền thống (là nghề đã xuất
hiện tại làng trên 50 năm, tạo sản phẩm mang
bản sắc văn hóa dân tộc, gắn với tên tuổi của
một hay nhiều nghệ nhân trong làng).
Hiện nay, bên cạnh các làng nghề truyền
thống, ngày càng xuất hiện nhiều làng nghề
mới, xuất phát từ yêu cầu gia công các sản
phẩm của các cơ sở sản xuất và kinh doanh
lớn, đáp ứng các nhu cầu của thị trƣờng
không chi cho nhu câu trong nƣơc ma con cho
* Tel: 0912039920
yêu câu xuât khâu . Theo Báo cáo Môi trƣờng
quốc gia 2008, làng nghề tập trung chủ yếu tại
Đồng bằng sông Hồng (60%), miền Trung
(30%) và miền Nam (10%).
Đƣợc sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, làng nghề đã
góp phần rất quan trọng trong việc cải thiện
bộ mặt của nông thôn mới ở Việt Nam, tạo
việc làm cho hơn 11 triệu ngƣời lao động
(chiếm 30% lực lƣợng lao động ở nông thôn ).
Đong gop môt phân đang kê cho ngân sach
của nhà nƣớc, ngân sach đia phƣơng, tăng thu
nhâp cho ngƣơi lao đông , góp phần xóa đói
giảm nghèo, xây dƣng nông thôn mơi.
Ngoài những mặt tích cực trên , hiên nay nan
ô nhiễm môi trƣờng tai cac lang nghê đang
trở thành vấn đề bức xúc. Làng nghề phát
triển, sản xuất kinh doanh đƣợc mở rộng thì
lƣợng chất thải gây ô nhiễm cũng phát sinh
ngày càng nhiều, tác động trực tiếp đến sức
khỏe ngƣời dân va anh hƣơng đên san xuât
nông lâm nghiêp . Theo bao cao điêu tra cua
các cơ quan chức năng cho thấy , 100% các
làng nghề đều bị ô nhiễm . Ƣớc tính mỗi ngày
các làng nghề thải ra từ 20 đến 30 tấn rác. Rác
thải rất đa dạng, chƣa qua xử lý, tồn tại trong
nhà, ngoài đƣờng. Rác và nƣớc thải đang ảnh
hƣởng không nhỏ tới đời sống của nhân dân.
Nguồn nƣớc, đất và không khí bị ô nhiễm đều
vƣợt nhiều lần các chỉ tiêu về vệ sinh môi
trƣờng... Các báo cáo còn khẳng định , do tác
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 39 - 44
40
động của các yếu tố vật lý (nhiệt độ, bức xạ,
bụi, lao động nặng nhọc, tƣ thế lao động gò
bó), yếu tố hóa học (các hóa chất hữu cơ, vô
cơ độc hại), yếu tố sinh học (virút, vi khuẩn,
nấm) trong môi trƣờng lao động và do không
đảm bảo các biện pháp bảo hộ lao động,
những ngƣời lao động trong các làng nghề
thuộc nhóm có nguy cơ cao đối với các bệnh
lý đƣờng xƣơng khớp và tim mạch. Tỷ lệ mắc
bệnh của những ngƣời lao động tại các làng
nghề cao hơn hẳn so với các vùng khác và
tuổi thọ trung bình của ngƣời lao động tại các
làng nghề thấp hơn từ 5 - 10 năm so với tuổi
thọ trung bình ở Việt Nam. Tỷ lệ mắc bệnh
của khu vực này cũng cao hơn nhiều lần so
với bình thƣờng. Ngoài ra, ô nhiễm làng nghề
ở mức độ cao còn gây ảnh hƣởng xấu tới các
hoạt động văn hóa, du lịch và làm nảy sinh
“xung đột môi trƣờng” đối với khu vực không
làm nghề,...
Vì vậy , việc bảo tồn và phát triển làng nghề
phải gắn liền với bảo vệ môi trƣờng . Đây la
vân đê không chi cua quôc gia , đia phƣơng ,
ngƣơi san xuât ma con đoi hoi sƣ th am gia
của cả cộng đồng.
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP
LUÂT MÔI TRƢƠNG TAI CAC LANG
NGHÊ TRÊN ĐIA BAN TINH BĂC NINH
Băc Ninh la tinh năm trong vung đông băng
châu thô sông Hông, vơi tổng diện tích 82.271
ha, dân sô la 1.022.300 ngƣơi, gôm 6 huyên,
thành phố Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn, 126 xã,
phƣơng, thị trấn. Năm 2010 GDP cua tinh đat
9.696,8 tỷ đồng, cơ câu kinh tê chuyên dich tich
cƣc, khu vƣc công nghiệp – xây dƣng chiêm ty
trọng 66,2%, nông lâm nghiêp va thuy san la
10,2% và dịch vụ là 23,6%.
Theo báo cáo của UBND tỉnh , hiện nay toàn
tỉnh Bắc Ninh có 62 làng nghề (32 làng nghề
truyền thống , 30 làng nghề mới hình thành ),
đƣơc phân bô ơ tât ca cac đia phƣơng trong
tỉnh (xem bang 1). Băc Ninh co nhƣng lang
nghê nôi tiêng trong dân gian tƣ lâu đơi nhƣ :
nghê lam tranh dân gian Đông Hô (Thuân
Thành); nghê đuc va gia công đông , nhôm
Mân Xa (Yên Phong ), Đai Bô (Gia Bình),
Quảng Bố (Lƣơng Tai); nghê môc dân dung ,
mỹ nghệ Đồng Kỳ, Kim Bang (Tƣ Sơn); nghê
xây dƣng Nôi Duê , Duê Đông (Tiên Du ),...
Hoạt động sản xuất công nghiệp , tiêu thu
công nghiêp va lang nghê cua Băc Ninh đa
đong gop m ột phần quan trọng vào việc thúc
đây phat triên kinh tê xa hôi , đơi sông nhân
dân ngay cang đƣơc cai thiên , bô măt nông
thôn va đô thi đƣơc đôi mơi.
Do lịch sử để lại, các làng nghề phát triển tự
phát, không đƣợc quy hoạch nên đã và đang
bộc lộ nhiều yếu kém trong công tác bảo vệ
môi trƣờng, tình trạng ô nhiễm môi trƣờng
đang có chiều hƣớng gia tăng, một số nơi tình
trạng ô nhiễm đã báo động.
Bảng 1. Danh muc lang nghê ơ tinh Băc Ninh
Sô
TT Đia phƣơng
Sô
làng
nghê
Ngành nghê san xuât chinh
1 Yên Phong 16 Chê biên tinh bôt , sản xuất rƣợu , giây tai chê , đuc nhôm , tơ
tăm, môc cao câp, dịch vụ vật tƣ
2 Thuân Thanh 05 Làm tranh dân gian , tơ tăm, sản xuất các sản phẩm từ tre , nƣa,
lá, chê biến thực phẩm, nuôi ƣơm giông thuy san ,...
3 Gia Binh 08 Đuc va gia công đông , nhôm, môc dân dung , nông cu , thêu
ren xuât khâu, sản phẩm từ tre, nƣa, lá,...
4 Lƣơng Tai 06 Đuc va gia công đông , nhôm, đan lƣơi vo , nâu rƣơu, môc dân
dụng, cày, bƣa, vân tai thuy, chê biên san phâm tƣ gao,...
5 Quê Vo 05 Sản xuất các sản phẩm từ tre , nƣa, cói, sản xuất đồ gốm , sản
xuât công cu băng săt,...
6 Tiên Du 04 Xây dƣng, sản xuất sản phẩm từ tinh bột ,...
7 Tƣ Sơn 18 Sản xuất sắt thép , môc dân dung , mỹ nghệ , dêt, thƣơng
nghiêp, nâu rƣơu, xây dƣng,...
Tông công 62
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 39 - 44
41
Kêt quả khảo sát điều tra chất lƣợng môi
trƣờng mới nhất tại các làng nghề Bắc Ninh
do Sở Tài nguyên và Môi trƣờng tỉnh thực
hiện cho thấy, tất cả các mẫu nƣớc mặt , nƣớc
ngầm, môi trƣờng không khí tại đây đều có
dấu hiệu ô nhiễm với mức độ khác nhau . Đất
đai bi xoi mon , thoái hóa , chât lƣơng cac
nguôn nƣơc suy giam manh.
Ô nhiễm môi trƣờng không khí làng nghề chủ
yếu do than và sau đó là các nguyên liệu, hóa
chất dùng trong các ngành nghề. Vì vậy, khí
thải tại các làng nghề thƣờng là CO2, CO,
SO2, NOx, các chất hữu cơ bay hơi. Theo kết
quả nghiên cứu của Cục Công nghiệp địa
phƣơng, Bộ Công Thƣơng, năm 2008, riêng ở
làng nghề Đa Hội, Bắc Ninh, mỗi năm sử
dụng 270.000 tấn than, thải ra 2.457 tấn bụi,
81 tấn CO, 2.894,4 tấn SO2, 2.359,8 tấn NO2.
Tại các làng nghề tái chế phế liệu, sản xuất
vật liệu xây dựng, ô nhiễm không khí rất nặng
nề. Kết quả khảo sát cho thấy, bụi trong
không khí tại các làng nghề này vƣợt tiêu
chuẩn cho phép từ 3 - 8 lần, SO2 có nơi vƣợt
6,5 lần. Đối với các làng nghề chế biến lƣơng
thực và thực phẩm, khí thải thƣờng chứa SO2,
H2S, NH3,... và các khí có mùi hôi thối. Làng
nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỳ, thị xã Từ Sơn
cũng bị ô nhiễm nặng do nồng độ bụi , khí
thải, tiếng ồn và nhiệt độ cao từ các xƣởng
sản xuất và các hoạt động vận tải . Theo khảo
sát cua cơ quan chƣc năng , hàm lƣợng bụi ở
làng nghề này đều vƣợt quá tiêu chuẩn cho
phép từ 1,5-3,6 lần, tiếng ồn cao hơn 10-20
dBA. Trong khi đó, hầu hết các làng nghề
không có các biện pháp giảm thiểu bụi và các
khí thải độc hại. Phƣơng tiện bảo hộ lao động
hoặc không có, hoặc chỉ là những khẩu trang
và kính che mắt thông thƣờng. Nhiều hộ gia
đình sinh hoạt (ăn, uống, ngủ) ngay tại môi
trƣờng lao động.
Để phục vụ cho sản xuất, làng nghề sử dụng
rất nhiều nƣớc, đặc biệt là các làng nghề chế
biến lƣơng thực, thực phẩm. Nƣớc thải từ các
làng nghề chế biến lƣơng thực, thực phẩm
chứa nhiều COD, BOD5, tổng N,... có nơi
vƣợt tiêu chuẩn cho phép hàng trăm lần. Các
làng nghề tái chế phế liệu không có nhiều
nƣớc thải nhƣng nƣớc thải rất độc hại vì có
nhiều hóa chất, đặc biệt các kim loại nặng,
axit, xyanua... Các làng nghề dệt, nhuộm, da
có nhu cầu sử dụng hóa chất rất lớn. Khoảng
85 đến 90% các loại hóa chất này đƣợc hòa
vào nƣớc thải. Vì vậy, nƣớc thải từ các làng
nghề này chứa nhiều hóa chất độc hại. Nƣớc
thải từ các làng nghề cùng với nƣớc thải từ
các khu công nghiệp và các cơ sở y tế là
nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm nặng nề
cho sông Cầu va sông Ngu Huyên Khê . Kết
quả phân tích cho thấy hầu hết các chỉ tiêu
kim loại nặng trong mẫu bùn ở đáy sông Ngũ
Huyện Khê đoạn đi qua làng nghề đều cao
hơn so với đoạn trƣớc khu vực làng nghề từ
1-2 lần. Ở đoạn sông chảy qua làng nghề sản
xuất thép Châu Khê, thị xã Từ Sơn, mức độ ô
nhiễm kim loại nặng nhƣ sắt tăng 2,1 lần,
đồng tăng 1.100 lần. Hàm lƣợng dầu mỡ vƣợt
tiêu chuân cho phep tƣ 6,6 đến 8 lân. Năm
làng nghề ven sông Ngu Huyên Khê (sản xuất
đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỳ, tái chế sắt Đa Hội ,
sản xuất thép Châu Khê, tái chế giấy Phú Lâm
và tái chế giấy Phong Khê ) thƣờng xuyên đổ
các chất thải rắn và nƣớc thải độc hại trực tiếp
xuông hai bên bơ sông . Nƣớc thải trong tình
trạng thiếu khí dẫn đến quá trình phân huỷ
yếm khí các chất hữu cơ gây mùi hôi thối khó
chịu. Chất lƣợng nguồn nƣớc ở Phú Lâm đã
bị xuống cấp nghiêm trọng, đây là một trong
những nguyên nhân gây ra các bệnh về mắt,
bệnh da liễu, bệnh đƣờng ruột… cho ngƣời
dân sống trong vùng và khu vực xung quanh.
Môi trƣờng không khí đang bị suy giảm do
khí thải phát sinh trong quá trình sản xuất.
Khí thải từ lò hơi bao gồm nhiều thành phần
khí độc hại: SO2, NOx, CO... là nguồn gây ô
nhiễm môi trƣờng không khí lớn nhất. Trung
bình mỗi hộ sản xuất có từ 1-2 lò hơi, vì vậy
lƣơng khi thai hang ngay rât lơn.
Diện tích nƣớc mặt, đất canh tác trong các làng
nghề đã hoặc đang bị lấp dần bởi chất thải .
Một số ao nuôi cá đã có hiện tƣợng cá chết
hàng loạt do ô nhiễm từ nguồn nƣơc thai san
xuât. Làng tái chế giấy Phong Khê, thành phố
Bắc Ninh, hàng ngày thải ra môi trƣờng
khoảng 4.500-5.000m3 nƣớc thải chứa lƣợng
độc tố cao gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép
nhƣ hàm lƣợng chất rắn lơ lửng cao hơn từ
4,5-11 lần, hàm lƣợng COD cao hơn từ 8-500
lần, hàm lƣợng Pb cao hơn 5,5 lần. Không chỉ
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 39 - 44
42
gây ô nhiễm nƣớc mặt, các làng nghề cũng
đang gây ô nhiễm nguồn nƣớc ngầm. Nƣớc
thải từ các làng nghề với khối lƣợng rất lớn và
bị ô nhiễm nặng nề nhƣng việc xử lý nƣớc thải
đã không đƣợc đầu tƣ phù hợp do nhiều
nguyên nhân. Nguyên nhân cơ bản là sự đầu tƣ
manh mún, thủ công, nhiều hình thức sở hữu
khác nhau và nhận thức, trách nhiệm về bảo vệ
môi trƣờng cũng rất khác nhau.
Chât thai răn tƣ cac lang nghê cung gây anh
hƣơng cho môi trƣơng ơ Băc Ninh . Một phần
không nhỏ từ các bã thải này đƣợc thải thẳng
ra môi trƣờng. Với các làng nghề tái chế phế
liệu, chất thải rắn rất đa dạng, là phôi sắt, rỉ
sắt, băng ghim và các tạp chất khác và ở mỗi
làng nghề quy mô trung bình, mỗi năm có thể
thải hàng nghìn tấn. Hầu hết, các chất thải rắn
của các làng nghề không đƣợc thu gom và xử
lý. Đa số chất thải rắn chỉ đƣợc chôn lấp đơn
thuần hoặc thiêu đốt, gây ô nhiễm thứ cấp.
Thƣc trang ô nhiêm trên đa gây anh hƣơng rât
lơn đên sƣc khoe con ngƣơi , cây trông , vât
nuôi, cảnh quan môi trƣơng,...
Ngƣời lao động trong làng nghề thƣờng
xuyên phải làm việc mỗi ngày 10-12 giờ
trong điều kiện diện tích làm việc chật hẹp,
mức ô nhiễm cao, không có trang phục và
thiết bị bảo hộ, không có biện pháp phòng
chống cháy nổ, mặc dù ở khắp các làng nghề
đều tiềm tàng những nguy cơ gây cháy nổ lò
hơi, điện, hóa chất, xăng dầu… Tất cả các yếu
tố trên tác động trực tiếp và thƣờng xuyên tới
môi trƣờng sống của ngƣời lao động và dân
cƣ trong làng nghề. Khoảng 60-70% số dân
cƣ trong khu vực mắc các bệnh thần kinh ,
ngoài da, đƣờng hô hấp , khô mắt , điếc và cả
bệnh ung thƣ đe doa tinh mang.
Theo điều tra của Tổng cục Môi trƣờng , năm
2009, chỉ riêng tại làng nghề Văn Môn (Bắc
Ninh), tỷ lệ bệnh hô hấp chiếm 44%, bệnh
ngoài da chiếm 13,1%,...
Nguyên nhân của tình trạng ô nhiêm là do
chính quyền địa phƣơng chƣa tham gia tich
cƣc vao công tac quan ly môi trƣơng , sƣ phôi
hơp giƣa cac nganh cac câp trong công tac
quản lý môi trƣờng chƣa chặt chẽ . Còn thiếu
các chế tài xử phạt các hành vi gây ô nhiễm
của các cơ sở sản xuất. Đối với các cơ sở nằm
trong các khu, cụm công nghiệp bên cạnh
làng nghề, chính quyền địa phƣơng không có
thẩm quyền kiểm tra, xử phạt mà chỉ đƣợc
phép phối hợp thanh kiểm tra cùng Ban quản
lý các khu công nghiệp tỉnh hoặc Ban quản lý
cấp huyện. Công tac thanh tra, kiêm tra, xƣ ly
vi pham hanh chinh vê môi trƣơng con nhiêu
hạn chế , chƣa kiên quyêt . Tại một số làng
nghề đã thành lập Tổ vệ sinh môi trƣờng
nhƣng thiếu kinh phí hoạt động. Hệ thống
thoát nƣớc chung của hầu hết các làng nghề
thƣờng xuyên bi ách tắc cục bộ , gây ô nhiễm
môi trƣơng do yêu tô lich sƣ lâu đơi cua lang
nghê, đầu tƣ mơi lai không đồng bộ . Có
nhƣng dƣ an hô trơ đâu tƣ xây dƣng hê thông
xƣ ly môi trƣơng nhƣng khôn g vân hanh hoăc
vân hanh không thƣơng xuyên , hiêu qua thâp.
Thêm vào đó , ý thức các hộ sản xuất còn rất
kém, hầu hết các hộ chỉ vi lơi ich ca nhân, chú
trọng sản xuất mà không quan tâm đến vấn đề
ô nhiễm môi trƣờng. Đặc biệt, các chủ cơ sở
sản xuất trong thƣc tê con không quan tâm
đến việc đầu tƣ cho việc xử lý chất thải , bảo
vê môi trƣơng.
Trƣớc thực tế đó , tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều
giải pháp cải thiện và bảo vệ môi trƣờng nhƣ
ban hanh nhiêu văn ban quy đinh va chi đao
công tac b ảo vệ môi trƣờng ; năm 2006
UBND tinh đa thành lập Trung tâm Quan trắc
Tài nguyên và Môi trƣờng thuôc Sơ Tai
Nguyên va Môi trƣơng nhăm kiêm soat diên
biên môi trƣơng cua tinh ; lập quy hoạch 53
cụm công nghiệp để tách các cơ sở sản xuất ra
khỏi khu dân cƣ; hỗ trợ 100% kinh phí để xây
dựng nơi tập kết rác thải tại 100% thôn, làng,
khu phố ; xây dựng hệ thống xử lý nƣớc thải
tâp trung lang nghê Phong Khê vơi công suât
5.000 m3/ngày đêm; dƣ an xy ly nƣơc thai tâp
trung làng nghề ba nh bún Khắc Niệm (thành
phố Bắc Ninh ) công suât 400 m3/ngày đêm ;
xây dƣng 06 hê thông xƣ ly khi thai lo tai chê
kim loai mâu tai 3 làng nghề: Văn Môn (Yên
Phong), Đai Bai (Gia Binh ), Quảng Bố
(Lƣơng Tai); tỉnh đã ban hành kế hoạch di dơi
và xử lý các cơ sở ô nhiễm môi trƣờng
nghiêm trong trên đia ban (QĐ sô 84/QĐ-
UBND ngay 8/6/2009); tỉnh cũng đã tăng
cƣơng công tac thanh tra , kiêm tra cac lang
nghê va co biên phap xƣ ly vi pham nhƣ căt
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 39 - 44
43
điên, ngƣng câp vôn,... đôi vơi nhƣng cơ sơ vi
phạm vệ sinh môi trƣờng . Năm 2006 đa kiêm
tra va xƣ phat vi pham hanh chinh 138 cơ sơ
sản xuất tại 3 làng nghề Vạn An , Phong Khê,
Phú Lâm , năm 2009 và 2010 đa căt điên 35
cơ sơ tai chê nhƣ a vi pham cac quy đinh cua
Luât Bao vê môi trƣơng,…
MÔT SÔ ĐÊ XUÂT GIAI PHAP NHĂM
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI
TRƢƠNG TAI CAC LANG NGHÊ TINH
BĂC NINH
Đê ngăn chặn ô nhiễm môi trƣờng tại các làng
nghề, tỉnh Bắc Ninh cần có một hệ thống
đồng bộ các giải pháp , gồm chính sách - pháp
luật, đổi mới công nghệ sản xuất , triển khai
các công nghệ xử lý các chất thải , bảo hộ lao
động, nâng cao nhận thức của hô san xuât
kinh doanh va ngƣời lao động.
Các giải pháp trên cần đƣợc tiến hành đồng
thời và cần thời gian song cần phải có những
giải pháp ƣu tiên và khả thi . Có thể đề xuất
môt sô giai phap nhƣ sau:
Nhà nƣớc nên có một chƣơng trình xử lý ô
nhiễm môi trƣờng làng nghề mà vấn đề cốt lõi
là xây dựng các hệ thống xử lý nƣớc thải và
rác thải cho các làng nghề và cơ quan Nhà
nƣớc vận hành hệ thống đó. Các hộ sản xuất
tại các làng nghề đóng góp vào chƣơng trình
đó thông qua việc nộp thuế sản phẩm, phí xử
lý nƣớc thải và rác thải.
Đối với tỉnh Bắc Ninh cần thực hiện mộ t sô
giải pháp sau:
- Có chính sách hỗ trợ giải quyết môi trƣờng
đăc thu lang nghê , cả về đầu tƣ xây dựng cơ
sơ vât chât cho xƣ ly chât thai , cả về nhân lực
và có chế độ thỏa đáng cho cán bộ , ngƣơi lao
đông lam công tác bảo vệ môi trƣờng.
- Cân phai tăng cƣơng công tac thanh tra ,
kiêm tra cac cơ sơ san xuât . Có biện pháp
mạnh để phạt nặng , cƣơng chê,... đôi vơi cac
cơ sơ vi pham quy đinh vê sinh môi trƣơng.
- Cân co sƣ phôi hơp cua ngành Thuế ,
Công an trong viêc thu phi bao vê môi
trƣơng theo Nghi đinh 67/2003/NĐ-CP cua
Chính phủ . 1% tông chi ngân sach cho sƣ
nghiêp môi trƣơng cua tinh Băc Ninh cân
thƣc hiên ro rang , hiêu qua .
- Tăng cƣơng công tac thông tin, tuyên truyên
vê vê sinh môi trƣơng . Tăng cƣơng viêc đao
tạo, tâp huân chuyên môn cho can bô lam
công tac bao vê môi trƣơng va nâng cao trinh
đô cho ngƣơi san xuât vê vê sinh môi trƣơng .
Phát động các phong trào thi đua v ề Bảo vệ
môi trƣơng sông ơ cac lang nghê , thƣc hiên
viêc thƣơng phat kip thơi.
- Bên cạnh các quy định pháp luật về bảo vệ
môi trƣờng, cần có cơ chế khuyến khích hình
thành các hƣơng ƣớc, quy chế bảo vệ môi
trƣờng của các làng xã để buộc ca c hô san
xuât kinh doanh va mọi ngƣời lao động có
trách nhiệm bảo vệ môi trƣờng và giám sát
bảo vệ môi trƣờng.
- Tỉnh Bắc Ninh ngoài các làng nghề , hiên
nay đa co 53 cụm công nghiệp và trong tƣơng
lai đang tiêp tuc phat triên thêm , vì vây ngoai
viêc thƣc hiên công tac bao vê môi trƣơng ơ
các làng nghề , tỉnh cũng cần phải tổ chức tốt
công tac nay ơ cac cum công nghiêp.
Trên đây chi môt sô giai phap cơ ban đôi vơi
công tac bao vê môi trƣơng cho cac lang nghê
ở tỉnh Bắc Ninh . Nhận thức, trách nhiệm bảo
vệ môi trƣờng chỉ có thể thực sự thay đổi khi
có các giải pháp trên và hình thành nếp văn
hóa môi trƣờng tại các làng nghề Việt Nam.
KÊT LUÂN
Các làng nghề đã có từ lâu đời và sẽ còn tôn
tại mãi trong tƣơng lai , găn liên vơi lich sƣ
phát triển của nông thôn Việt Nam . Băc Ninh
là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống đã nổi
tiêng trong ca nƣơc , có những sản phẩm đã
xuât khâu ra nƣơc ngoai . Làng nghề đ ã có
nhƣng đong gop đang kê cho ngân sach cua
đia phƣơng , đem lai thu nhâp cao cho ngƣơi
dân, thƣc hiên xoa đoi giam ngheo , xây dƣng
nông thôn mơi . Tuy nhiên ngoai nhƣng măt
tích cực trên , các làng nghề cũng đang làm
cho canh quan va môi trƣơng sông bi đe doa .
100% các làng nghề đều vi phạm các quy
đinh cua Luât Bao vê môi trƣơng đang hang
ngày, hàng giờ ảnh hƣởng trực tiếp đến đời
sông cua ngƣơi dân đang sông tai cac lang
nghê va môi trƣơ ng xung quanh . Măc du cac
câp chinh quyên đia phƣơng đa quan tâm va
có nhiều cố gắng trong công tác bảo vệ môi
trƣơng, nhƣng viêc vi pham vê sinh môi
Trần Đình Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 39 - 44
44
trƣơng vân gia tăng . Môt sô đê xuât vê giai
pháp trên nếu đƣợc thực hiện sẽ góp phần giải
quyêt vân đê bao vê môi trƣơng cua tinh Băc
Ninh trong tƣơng lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2010), Niên
giám thống kê.
[2]. Sơ Tai nguyên Môi trƣơng tinh Băc Ninh , Các
báo cáo quan trắc môi trường hàng năm; Báo cáo
kêt qua thưc hiên Luât Bao vê môi trương tai cac
làng nghề và cụm công nghiệp;...
[3]. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2011), Tình
hình thực hiện chính sách , pháp luật môi trường
tại các làng nghê trên đia ban tinh Băc Ninh.
[4]. Tài liệu VN , Ô nhiễm môi trường làng nghề
tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp
PROPOSALS TO SOLVE ENVIRONMENTAL POLLUTION PROBLEMS
IN CONVENTIONAL CRAFT PRODUCTION VILLAGES IN BAC NINH
PROVINCE
Tran Dinh Tuan*
Thai Nguyen College of Economics and Business Adminsitration
Conventional craft production at villages is a specific pattern of production which is formed from
the existing requirements and development of rural areas of Vietnam, and also to utilise time
available, manpower and material conditions in rural area of Vietnam. Conventional craft
production villages have brought income to local people, contributed to the local finances,
implemented poverty reduction, built new rural areas. However, currently, 100% of the villages
were violating the Law on Environmental Protection and threating to landscaping, and habitat.
Although Bac Ninh province has concerned and made the great efforts in environmental protection
program, but the violation of environmental sanitation is still growing, becoming a major problem
to be solved. To have a good solution on environmental protection, Bac Ninh province should
implement comprehensive solutions including six basic solution as proposed by this author.
Keywords: Environmental polution, Bac Ninh conventional craft production villages,
environmental protection, environment and life
* Tel: 0912039920
Đỗ Đức Bình và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 45 - 49
45
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
DƢỚI GÓC ĐỘ HIỆU QUẢ VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
Đỗ Đức Bình
1, Nguyễn Tiến Long
2*
1Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 2Trường ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Qua 25 năm đổi mới, nhờ có đổi mới cơ chế chính sách và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu
của khoa học công nghệ, mặc dù trong bối cảnh chịu ảnh hƣởng của khủng hoảng kinh tế thế giới
nhƣng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng dƣơng. Cụ thể, thời kỳ 2006 -
2010 bình quân tăng trƣởng 7%/năm (trong đó 2008: 6,23%; 2009: 5,32% và năm 2010: 6,78%).
Tuy nhiên, số lƣợng tăng trƣởng của nền kinh tế tăng lên nhƣng chƣa chú trọng đến chất lƣợng và
hiệu quả của tăng trƣởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế chƣa cao. Bài viết trên cơ sở làm rõ
những vấn đề lý luận về chất lƣợng tăng trƣởng, phân tích thực trạng chất lƣợng tăng trƣởng nền
kinh tế Việt Nam thời gian qua, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng
kinh tế theo hƣớng hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Từ khoá: Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, nền kinh tế
QUAN NIỆM VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ
*
Cho đến nay, đã có nhiều quan điểm khác nhau về chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế. Chẳng hạn, nếu tiếp cận từ “cơ cấu ngành kinh tế”, thì chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế là cơ cấu kinh tế tối ƣu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng nâng cao hiệu quả. Nếu từ góc độ “hiệu quả”, chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế đƣợc hiểu là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp hoặc của hàng hóa sản xuất trong nƣớc. Tổng quát hơn, theo quan điểm một số nhà kinh tế học nhƣ G. Beckeer, R.Lucas, J.Stiglitz,... thì cùng với quá trình tăng trƣởng, chất lƣợng tăng trƣởng đƣợc biểu hiện tập trung ở 04 tiêu chuẩn chủ yếu, đó là:
1) Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) cao bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trƣởng dài hạn và tránh đƣợc những biến động kinh tế từ bên ngoài;
2) Tăng trƣởng đi kèm với phát triển môi trƣờng bền vững;
3) Tăng trƣởng hỗ trợ cho việc nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc, đồng thời quản lý Nhà nƣớc hiệu quả sẽ thúc đẩy tăng trƣởng ở tỷ lệ cao hơn;
4) Tăng trƣởng phải đạt mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và giảm đƣợc số ngƣời đói nghèo.
* Tel: 0912485659, Email: [email protected]
Tuy nhiên, trên thực tế, tùy thuộc vào điều
kiện và gắn với từng thời kỳ phát triển nhất
định của mình, mà từng quốc gia đã có những
cách tiếp cận khái niệm về chất lƣợng tăng
trƣởng khác nhau. Dù lựa chọn cách tiếp cận
khái niệm về tăng trƣởng nhƣ thế nào, nhƣng
theo chúng tôi, việc lựa chọn mô hình phát
triển là hết sức quan trọng, phải xem xét đồng
thời cả hai nhóm chỉ tiêu số lƣợng và chất
lƣợng tăng trƣởng, nhưng trong đó phải thực
sự coi trọng các chỉ tiêu chất lượng tăng
trưởng (04 yếu tố với tư cách là 04 tiêu
chuẩn nêu ở trên). Nói một cách khác, chất
lƣợng tăng trƣởng phải đƣợc thể hiện ở năng
suất, hiệu quả của các yếu tố đầu tƣ, phải đi
liền với tính hiệu quả và nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, bao gồm cả các
yếu tố đầu vào nhƣ việc quản lý và phân bổ
các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất, lẫn
các kết quả đầu ra của quá trình sản xuất với
chất lƣợng cuộc sống đƣợc cải thiện, các sản
phẩm đầu ra đƣợc phân phối đảm bảo tính
công bằng và góp phần bảo vệ và ổn định môi
trƣờng sinh thái.
KHÁI QUÁT HIỆN TRẠNG TĂNG
TRƢỞNG VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Nhƣ chúng ta đều biết, ngay từ những năm
đầu của thời kỳ đổi mới (từ nửa cuối của
những năm 80 của thế kỷ trƣớc), đất nƣớc ta
đã có những thay đổi khá ngoạn mục từ một
Đỗ Đức Bình và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 45 - 49
46
nƣớc nhiều năm nông nghiệp tăng trƣởng âm
(phải nhập khẩu một lƣợng lƣơng thực không
nhỏ hàng năm) đã chuyển sang một nƣớc xuất
khẩu lƣơng thực lớn đứng thứ hai thế giới.
Trong 25 năm đổi mới, mặc dù thế giới đã trải
qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính
trầm trọng (bắt đầu vào năm 1997 và năm
2008) gây suy thoái, suy giảm cao nền kinh tế
trên toàn cầu, nhƣng nền kinh tế Việt Nam
liên tục trong các năm đạt tăng trƣởng dƣơng.
Cụ thể là:
- Thời kỳ 1986 -1990 bình quân tăng trƣởng
3,9%/năm;
- Thời kỳ 1991 -1995 bình quân tăng trƣởng
8,2%/năm;
- Thời kỳ 1996 - 2000 bình quân tăng trƣởng
6,7%/năm;
- Thời kỳ 2001 - 2005 bình quân tăng trƣởng
7,5%/năm;
- Thời kỳ 2006 - 2010 bình quân tăng trƣởng
7%/năm (trong đó 2008:6,23%; 2009: 5,32%
và năm 2010: 6,78%).
Có đƣợc thành tích trên là do nhiều nguyên
nhân, nhƣng trong đó phải kể đến sự tác động
tích cực của quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trƣờng mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá
toàn diện và vững chắc. Chính chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đã làm thay đổi cấu trúc của nền
kinh tế, chuyển dịch hàng triệu ngƣời từ khu
vực nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp
và dịch vụ (trƣớc đổi mới cơ cấu kinh tế phải
xây dựng là công – nông nghiệp – hiện đại,
nay cơ cấu kinh tế phải hƣớng tới là công –
nông nghiệp – dịch vụ, trong đó, công nghiệp
và dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong
GDP, còn nông nghiệp ngày càng giảm).
Mặc dù đạt đƣợc những thành tựu tăng trƣởng
đƣợc phản ánh qua các con số kể trên, nhƣng
có thể khẳng định rằng thời gian qua Việt
Nam mới chỉ chú ý nhiều đến tăng trƣởng về
lƣợng (theo chiều rộng), mà chƣa chú trọng
đến chất lƣợng tăng trƣởng, hiệu quả tăng
trƣởng (tức tăng trƣởng kinh tế theo chiều
sâu). Trên thực tế, tăng trƣởng của ta đã bộc
lộ không ít bất cập làm chất lƣợng tăng
trƣởng thấp, không hiệu quả. Cụ thể là tăng
trƣởng chủ yếu dựa vào thâm dụng vốn, tài
nguyên và lao động. Tăng trƣởng không đi
liền với hiệu quả, gây nhiều bất ổn trong xã
hội và hủy hoại môi trƣờng sinh thái. Chính
các vụ việc gây hủy hoại môi trƣờng của một
số công ty đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)
và những “kẽ hở lớn”, sự buông lỏng trong
quy trình kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan
quản lý Nhà nƣớc các cấp đang tiếp tục đặt ra
vấn đề cấp thiết phải coi trong tiêu chí đảm
bảo môi trƣờng là yếu tố quan trọng nhất của
chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế ở Việt Nam
hiện tại và tƣơng lai.
Trong năm 2010, mặc dù tình hình quốc tế và
trong nƣớc có nhiều khó khăn và bất ổn,
nhƣng Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tích
quan trọng và không đƣợc phép quá say mê,
thổi phồng các thành tích đã đạt đƣợc. Theo
báo cáo của Chính Phủ, có 16/21 chỉ tiêu đã
hoàn thành và hoàn thành vƣợt mức so với
Nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, chất
lƣợng tăng trƣởng vẫn chƣa cao, còn thiếu
tính bền vững; tăng trƣởng kinh tế nhƣng
chƣa gắn chặt với nâng cao đời sống nhân dân
– đây là một thực tế chƣa mấy đƣợc cải thiện.
Lạm phát cả năm ở mức gần 12%. Tăng
trƣởng kinh tế nhƣng chỉ số ICOR rất cao.
Điều đó có nghĩa là, đầu tƣ kém hiệu quả
(trung bình phải bỏ ra 10 đồng vốn mới đƣợc
1 đồng tăng trƣởng. Có lẽ ít nƣớc trên thế giới
có chỉ số ICOR cao nhƣ Việt Nam – theo
Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 14/01/2011).
Từ thực tế này, chúng tôi cho rằng đã đến lúc
chúng ta phải có sự thay đổi mang tính “đột
phá”, “cách mạng” về tƣ duy, nhận thức đối
với tăng trƣởng kinh tế và chất lƣợng tăng
trƣởng kinh tế; phải thay đổi mô hình tăng
trƣởng để đảm bảo tính bền vững trong phát
triển. Kiên quyết chấm dứt tƣ duy, quan điểm
muốn GDP tăng cao thì cứ khai thác và bán
tài nguyên đi; phải thực sự nghiêm túc và
khoa học trong việc cân nhắc, lựa chọn giữa
ra sức triển khai các dự án khai thác tài
nguyên khoáng sản hay giữ lại đất rừng, đất
ruộng để ngƣời dân sinh sống. Hoặc phải chặt
phá hàng nghìn hecta rừng để làm thủy điện
hơn là giữ rừng bảo vệ môi trƣờng sinh thái.
Theo chúng tôi, đã đến lúc không đƣợc phép
đề cao “tốc độ” tăng trƣởng mà phải là coi
Đỗ Đức Bình và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 45 - 49
47
trọng chất lƣợng tăng trƣởng (hiệu quả tăng
trƣởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế). Muốn vậy, không đƣợc phép
chấp nhận sự phát triển bằng mọi giá; phải
“giảm nhiệt” đối với sự đam mê thành tích;
hạn chế và sớm chấm dứt triệt để tình trạng
đẩy mạnh khai thác khoáng sản, dầu thô,… và
khẩn trƣơng đem bán đi. Mọi tƣ tƣởng và
hành động trái ngƣợc với xu thế này chỉ là xu
hƣớng chạy theo tốc độ tăng trƣởng, vẫn
ham tốc độ tăng trƣởng nhiều hơn chất
lƣợng tăng trƣởng.
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ THEO HƢỚNG HIỆU
QUẢ VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
Từ thực trạng bất cập của mô hình tăng
trƣởng dẫn đến chất lƣợng tăng trƣởng thấp
nhƣ đã khái quát ở trên, chúng tôi cho rằng
cần phải nhất quán quan điểm đổi mới chuyển
đổi mô hình tăng trƣởng cho thích ứng với
điều kiện và bối cảnh mới nhằm đảm bảo tính
bền vững và ổn định trong phát triển. Cụ thể
là phải chuyển mô hình tăng trƣởng dựa trên
lao động rẻ, đầu tƣ vốn và tài nguyên lớn sang
mô hình tăng trƣởng mới là dựa trên năng
suất lao động, hiệu quả các yếu tố đầu tƣ và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của
doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam trên
thƣơng trƣờng. Để thực hiện thành công sự
chuyển đổi này, trƣớc hết cần thực hiện tốt
một số giải pháp sau:
Nâng cao trình độ nhận thức, đổi mới tƣ
duy, quan điểm của các cấp lãnh đạo từ
Trung ƣơng đến địa phƣơng, ngành về
chất lƣợng tăng trƣởng
Đề cao chất lƣợng tăng trƣởng và không
ngừng nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng
không phải chỉ là “khẩu hiệu”, mà quan
trọng hơn là phải đƣợc quán triệt về tƣ duy,
nâng cao nhận thức và có quan điểm đúng
đắn và nhất quán ngay từ khâu xây dựng
đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách, trong
hoạch định chiến lƣợc, trong kế hoạch dài,
trung và ngắn hạn và đặc biệt là trong thực
thi ở các cấp, ngành, các địa phƣơng, …
Về tƣ duy, nhận thức và quan điểm cần phải
thống nhất và nhất quán rằng một khi định
hƣớng chính sách, mô hình chất lƣợng tăng
trƣởng đúng, biện pháp thực thi và tổ chức
thực thi tốt, tất yếu sẽ đƣa lại kết quả, mục
tiêu nhƣ mong muốn. Trƣờng hợp mô hình,
chính sách nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng
đúng, nhƣng biện pháp thực thi, cũng nhƣ tổ
chức thực hiện không phù hợp hoặc mô hình,
chính sách về chất lƣợng tăng trƣởng không
đúng, nhƣng chậm điều chỉnh một cách khoa
học, thậm chí bảo thủ không điều chỉnh, thì cả
hai trƣờng hợp đều dẫn đến ách tắc và rốt
cuộc là chất lƣợng tăng trƣởng không nhƣ
mong muốn (hiệu quả tăng trƣởng thấp).
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách
đầu tƣ theo hƣớng nâng cao chất lƣợng
tăng trƣởng
Để tạo đà tăng trƣởng và nâng cao chất lƣợng
tăng trƣởng, không quốc gia nào không có
nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp từ ngân sách Nhà
nƣớc. Bên cạnh tính tích cực và tính hiệu quả
xã hội của nguồn vốn đầu tƣ này (cần cho
quốc kế dân sinh mặc dù có thể kém hiệu quả,
dù phải lỗ, …), trong nhiều năm qua hệ số
ICOR của khu vực Nhà nƣớc đã tăng lên
nhanh chóng. Đầu tƣ Nhà nƣớc (gồm đầu tƣ
NSNN, đầu tƣ bằng vốn trái phiếu Chính phủ,
tín dụng đầu tƣ Nhà nƣớc và đầu tƣ của các
DNNN) đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng đầu tƣ xã hội, nhƣng hiệu quả không
cao, đang phân tán và bao trùm ở hầu hết các
ngành kinh tế, kể cả các ngành mà khu vực tƣ
nhân có khả năng đầu tƣ phát triển.
Để thực hiện tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả
đầu tƣ công, phải xã hội hoá đầu tƣ công.
Theo đó, không nên phân bổ đầu tƣ Nhà nƣớc
vào các ngành, các lĩnh vực mà tƣ nhân trong
nƣớc có thể kinh doanh nhƣ các loại dịch vụ
thƣơng mại, nhà hàng khách sạn, … phải lấy
hiệu quả kinh tế làm thƣớc đo và tiêu chí để
quyết định các dự án đầu tƣ.
Đối với việc thu hút FDI: không nên chỉ chú
trọng thu hút FDI, mà phải chú ý đặc biệt đến
vốn thực hiện và hiệu quả giải ngân vốn. Đã
đến lúc phải loại bỏ việc “trải thảm đỏ” trong
thu hút FDI, mà việc thu hút FDI phải gắn với
Đỗ Đức Bình và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 45 - 49
48
những điều kiện nhƣ “công nghệ xanh”, công
nghệ ít tiêu tốn năng lƣợng, nhiên liệu, …
kiên quyết loại bỏ công nghệ gây ô nhiễm
môi trƣờng, hạn chế sử dụng công nghệ bậc
trung, mà phải coi trọng công nghệ tiên tiến,
hiện đại (công nghệ nguồn) ở những quốc gia
công nghiệp. Tối ƣu là hƣớng vào thu hút các
Công ty xuyên quốc gia - TNC thuộc Top 500
TNC mẹ từ các quốc gia có nền kinh tế phát
triển. Chỉ có nhƣ vậy, Việt Nam mới thực sự
trở thành nƣớc công nghiệp vào năm 2020 và
mới có điều kiện đảm bảo hơn cho việc tham
gia vào mạng sản xuất, mạng phân phối và
chuỗi giá trị toàn cầu - điều kiện đủ để phát
triển bền vững trong tƣơng lai.
Nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tài
nguyên cho tăng trƣởng
Đối với mỗi quốc gia nguồn tài nguyên hữu
hình và vô hình đang sở hữu không phải là vô
hạn. Do đó, nếu càng sử dụng và sử dụng kém
hiệu quả, lãng phí thì tất yếu sẽ sớm cạn kiệt
và nhiều khi phải trả giá đắt hơn nhiều so với
lợi ích mang lại. Thực tế đã chứng minh nếu
ra sức khai thác và sử dụng không có chiến
lƣợc và không theo quy hoạch đồng bộ, khoa
học chỉ vì mục tiêu đạt tốc độ tăng trƣởng thì
chất lƣợng tăng trƣởng thấp và phải trả giá
cho vấn đề xã hội và môi trƣờng. Chính vì
vậy, để phát triển bền vững về cả kinh tế, xã
hội và môi trƣờng, cần phải có chiến lƣợc,
quy hoạch một cách khoa học để khai thác và
sử dụng một cách hiệu quả các nguồn tài
nguyên thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta -
đây là một lợi thế mà nhiều quốc gia (nhƣ
Nhật Bản, Hàn Quốc, …) không có, hoặc nếu
có nhƣng không dồi dào và đa dạng.
Tăng số lƣợng và nâng cao chất lƣợng
nguồn nhân lực
Đất nƣớc sẽ vƣơn cao và hội nhập có hiệu
quả, vững chắc bƣớc vào nền kinh tế khu vực
và toàn cầu, nếu có chiến lƣợc đúng về con
ngƣời. Đây là nhân tố quyết định nhất đến
nâng cao năng suất lao động và tăng năng
suất lao động một cách bền vững. C.Mác đã
từng nhấn mạnh máy móc, thiết bị dù có hiện
đại đến đâu, nhƣng nếu không có con ngƣời
thì chúng chỉ là những vật chết. Tuy nhiên,
không bất cứ ai, mà phải là những con ngƣời
với những kiến thức, trình độ ngày càng cao
và ngày càng sản sinh ra công nghệ tiên tiến,
hiện đại và đƣa những thành tựu này vào cuộc
sống vì chính con ngƣời. Trong thời đại ngày
nay, thế giới đang bƣớc vào nền kinh tế tri
thức, nơi “tri thức đang trở thành nhân tố
quan trọng nhất quyết định mức sống - quan
trọng hơn đất đai, hơn công cụ sản xuất, hơn
lao động”. Đội ngũ trí thức (nguồn nhân lực
có chất lƣợng) - những ngƣời sản sinh ra tri
thức và ứng dụng sáng tạo tri thức sẽ có đóng
góp ngày càng lớn cho sự nghiệp phát triển
kinh tế, xã hội, … của quốc gia.
Đáp ứng yêu cầu này, trong những năm tới
ngành giáo dục và đào tạo tiếp tục phải có
những điều chỉnh và đổi mới có tính đột phá
một cách toàn diện và đồng bộ, nhƣng không
đƣợc phép nóng vội, chủ quan, mà phải có lộ
trình và bƣớc đi “bài bản” để góp phần cùng
đất nƣớc sớm tạo ra một đội ngũ nhân lực đủ
về số lƣợng, đặc biệt đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao về chất lƣợng của sự nghiệp CNH,
HĐH, của hội nhập, cạnh tranh và phát triển.
Đội ngũ này không chỉ có tay nghề, học vấn,
trình độ khoa học công nghệ, mà còn phải có
tính chuyên biệt cao, tính năng động và tính
quyết đoán khoa học. Muốn vậy, đi liền với
việc tiếp tục thực hiện chủ trƣơng xã hội hoá
giáo dục và đào tạo, đa dạng hoá loại hình,
phƣơng thức đào tạo,… cần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát của các cơ
quan quản lý và phải kiên quyết “thổi còi” đối
với các đơn vị, cơ sở vi phạm để đảm bảo tính
nghiêm minh, công bằng và hiệu quả. Bên
cạnh đó, phải tạo ra môi trƣờng thuận lợi,
thực sự hấp dẫn nhằm tạo điều kiện cho mọi
ngƣời phát huy sức sáng tạo của mình cho đất
nƣớc. Cụ thể là phải có cơ chế, chính sách
tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ “nhân tài”
một cách rõ ràng, minh bạch và hấp dẫn nhằm
sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực có
chất lƣợng của đất nƣớc.
KẾT KUẬN
Để có thể phát triển nền kinh tế Việt Nam
nhanh và bền vững đáp ứng đƣợc yêu cầu của
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải
Đỗ Đức Bình và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 45 - 49
49
có chiến lƣợc phát triển toàn diện. Tuy nhiên,
trƣớc mắt cần tập trung nâng cao chất lƣợng
và hiệu quả của tăng trƣởng, tạo đà cho nền
kinh tế để có thể cạnh tranh mạnh mẽ trên thị
trƣờng quốc tế. Thực hiện một số giải pháp cơ
bản ở trên sẽ là tiền đề cho nâng cao chất
lƣợng tăng trƣởng và sức cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam, để đến năm 2020 Việt Nam
cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo
hƣớng hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam, năm
2010, Hà Nội.
[2]. Kinh tế Việt Nam 2009. CIEM, Nxb Tài chính
2010, Hà Nội.
[3]. Tạp chí kinh tế và phát triển, các số tháng
12/2010 và số tháng 01/2011, Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.
[4]. Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 28/12/2010;
số ra các ngày 4, 14, 18 tháng 01 năm 2011, Hà
Nội.
SUMMARY
THE QUALITY OF VIETNAM ECONOMIC GROWTH RATE UNDER THE
VIEW POINT OF THE ECONOMIC EFFECTIVENESS AND COMPETITVE
CAPABILITY OF THE ECONOMY
Do Duc Binh1, Nguyen Tien Long
2
1National Economics University
2Thainguyen University of Economics and Business Administration – TNU
Over 25 years of innovation, with the innovative mechanism and policies, the effectivene
appliation of scientific and technical achivements, the Vietnam economy maintained positive
growth rate even though it is affected by the word economic crisis. In the period of 2006 – 2010,
the average growth rate was 7% per year (of which 6.23% in 2008, 5.32% in 2009 and 6.78% in
2010 in detail). However, the growth rate in quantity does not mean the high effetiveness, quality
and competitve capability of the economy. This paper with the clarification of theoritical basis for
economic growth quality analizes the current status of economic growth quality of Vietnam
economy and proposes some solutions to improve the economic growth quality in the direction of
high effectiveness and competitive capability for the economy of Vietnam
Key words: growth quality, effectiveness, competitive capability, economy
Tel: 0912485659, Email: [email protected]
Đỗ Đức Bình và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 45 - 49
50
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
51
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TRONG CÁC HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN PHÖ LƢƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngô Xuân Hoàng
*
Trường Cao đẳng Kinh tế -Kỹ thuật, ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Huyện Phú Lƣơng có 66.132 lao động, trong đó lao động nông thôn có khoảng hơn 56.635 ngƣời
chiếm 85,64% lực lƣợng lao động trong huyện. 95% lao động nông thôn là lao động phổ thông,
không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Hệ số sử dụng thời gian lao động trong nông hộ thấp, năm
2009 là 74,7%. Tỷ suất sử dụng lao động của các hộ nông dân trong các xã điều tra dao động từ
72,51 đến 82,34%. Giá trị lao động và thu nhập thấp, phần lớn không có tích lũy đó là nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng đói nghèo ở khu vực nông thôn trong huyện.
Trong những năm gần đây, Huyện đã triển khai nhiều chủ trƣơng, chính sách để giải quyết việc làm cho
ngƣời lao động trong nông hộ và bƣớc đầu đã có chuyển biến tích cực, song chƣa cơ bản. Để giải quyết
việc làm cho lao động trong nông hộ, trong thời gian tới huyện cần tập trung giải quyết các vấn đề
sau: chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý và tăng diện tích gieo trồng; phát triển chăn nuôi; phát triển các
ngành nghề phi nông nghiệp; củng cố và xây dựng cơ sở hạ tầng; ổn định đất đai; tăng cƣờng đầu
tƣ vốn; tăng cƣờng khoa học kỹ thuật; Đào tạo nghề cho lao động nông thôn và đẩy mạnh xuất
khẩu lao động, đƣa lao động ra địa bàn ngoài huyện.
Từ khóa: Thực trạng, lao động, việc làm, hộ nông dân, Phú Lương
ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp
huyện Phú Lƣơng đã dần đi vào ổn định và
phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh. Sản
xuất nông nghiệp ở nhiều địa phƣơng trong
huyện đã bắt đầu chuyển sang hƣớng sản xuất
hàng hóa, mô hình kinh tế VAC, kinh tế trang
trại phát triển hầu hết ở các xã trong huyện.
Xuất hiện nhiều gia đình có quy mô chăn nuôi
lớn: hàng ngàn con gà, hàng chục con lợn
theo phƣơng pháp công nghiệp mang lại thu
nhập cao. Chăn nuôi cá theo phƣơng pháp
thâm canh với các giống có năng suất cao,
chất lƣợng tốt và chăn nuôi các loài đặc sản
đã dần dần thay thế thả cá theo kiểu quảng
canh. Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch
theo hƣớng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ
nông nghiệp ngày càng tăng, tỷ trọng ngành
trồng trọt giảm tƣơng ứng. Tuy nhiên với tốc
độ đô thị hóa và công nghiệp hóa cao, vấn đề
lao động việc làm trong các nông hộ cần đƣợc
tiếp tục xem xét và giải quyết, trong bài viết:
"Thực trạng lao động và việc làm trong các
hộ nông dân huyện Phú Lương tỉnh Thái
Nguyên" chúng tôi muốn đề cập tới vấn đề lao
* Tel: 0912.140.868
động việc làm trong các hộ nông dân ở huyện
Phú Lƣơng và đề xuất một số giải pháp khả thi
nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của lao động
trong nông hộ trên địa bàn trong những năm
trƣớc mắt và lâu dài.
PHƢƠNG PHÁP VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU
NGHIÊN CỨU
* Phương pháp nghiên cứu: Để tiến hành
nghiên cứu chúng tôi đã chọn 240 hộ nông
dân để điều tra. Các phƣơng pháp chuyên gia,
chuyên khảo, điều tra nhanh nông thôn, phân
tích định lƣợng, thống kê kinh tế…đã đƣợc sử
dụng để thu thập, phân tích thông tin, số liệu
trong quá trình nghiên cứu. Số liệu đƣợc kiểm
tra, chỉnh lý và phản ánh trong bảng thống kê,
đồ thị thống kê, bảng tính Exel.
* Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu: Trong quá
trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng các chỉ
tiêu: Cơ cấu lao động theo trình độ văn hóa,
trình độ chuyên môn; Cơ cấu lao động theo
ngành nghề; Số ngày lao động bình quân/lao
động/năm; Thu nhập bình quân/hộ/năm; Thu
nhập bình quân/lao động/năm; Thu nhập bình
quân/lao động/ngày; Thu nhập bình quân/
ngày lao động phân theo ngành nghề; Tỷ suất
sử dụng thời gian lao động.
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
52
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thực trạng lao động và việc làm trong các
hộ nông dân.
a. Số lượng và chất lượng lao động.
Số lượng lao động: Nhìn chung số nhân khẩu
dƣới độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ cao hơn số
lƣợng trên độ tuổi lao động, nhƣ vậy cho thấy
tiềm năng về lao động trẻ còn rất nhiều, lực
lƣợng lao động tƣơng lai này cần phải đƣợc
trang bị kiến thức về sản xuất để phục vụ cho
nền nông nghiệp.
Trong lực lƣợng lao động, có sự cân bằng về
giới. Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp,
lao động nam thƣờng có sức khỏe và trí óc
hơn lao động nữ, do vậy sự cân bằng về giới
trong độ tuổi lao động cần có sự phân công
cho phù hợp với sức khỏe và trình độ lao
động. Phân công công việc cho lao động nữ
làm công việc nhẹ nhàng và đơn giản hơn lao
động nam.
Chất lượng lao động: Lao động nông thôn của
các xã Yên Trạch, Động Đạt và Vô Tranh có
những đặc điểm đƣợc thể hiện qua bảng 02.
Số lao động ở trình độ văn hóa tốt nghiệp tiểu
học chiếm tỷ lệ lên tới 69.89% tức là 130 ngƣời
ở xã Yên Trạch, tiếp theo xã Động Đạt cơ cấu
này thấp hơn một chút đó là 68,42%, thấp nhất
là xã Vô Tranh là 66,82%. Nhƣ vậy có rất nhiều
lao động trong vùng điều tra của cả 3 xã này
đều có trình độ văn hóa thấp, mức tốt nghiệp
THPT và THCS là rất thấp. Qua số liệu trên cho
thấy trình độ văn hóa của cả 3 xã trong vùng
điều tra có trình độ văn hóa thấp, chỉ phù hợp
với trình độ lao động giản đơn, khó có thể tiếp
cận khoa học kỹ thuật hiện nay.
b. Tình hình trang bị đất đai cho người lao
động trong các hộ nông dân
Quy mô, cơ cấu đất đai các hộ điều tra của 3
xã đƣợc thể hiện qua diện tích các loại cây
trồng trong vùng điều tra đƣợc thể hiện qua
bảng 03. Bảng số liệu cho thấy diện tích trồng
lúa vùng điều tra trong 3 xã đều có tỷ lệ diện
tích trồng lúa lớn nhất so với cây trồng khác,
diện tích trồng cây sắn chiếm tỷ lệ nhỏ nhất,
cây ngô là sản phẩm để làm thức ăn chính cho
gia súc nhƣng cũng chỉ đạt tỷ lệ 4,56, 4,22 và
5,69 tƣơng ứng với các xã Yên Trạch, Động
Đạt và Vô Tranh. Diện tích trồng chè chiếm
một tỉ lệ khá cao, đặc biệt ở xã Động Đạt và Vô
Tranh có chất đất rất tốt để phát triển cây chè.
Bảng 01. Cơ cấu về độ tuổi của lao động tại xã điều tra
Chỉ tiêu
Yên Trạch Động Đạt Vô Tranh
Số lƣợng
(ngƣời) Cơ cấu
(%) Số lƣợng
(ngƣời) Cơ cấu
(%) Số lƣợng
(ngƣời) Cơ cấu
(%)
Tổng số 260 100 300 100 309 100
Dƣới độ tuổi lao động 59 22.69 63 21.00 61 19.74
Trong độ tuổi lao động 180 69.23 205 68.33 221 71.52
Trên độ tuổi lao động 21 8.08 32 10.67 27 8.74
Nguồn:Số liệu điều tra năm 2009
Bảng 02. Trình độ văn hóa của lao động tại xã điều tra
Chỉ tiêu
Yên Trạch Động Đạt Vô Tranh
Số lƣợng
(ngƣời) Cơ cấu
(%) Số lƣợng
(ngƣời) Cơ cấu
(%) Số lƣợng
(ngƣời) Cơ cấu (%)
Tổng 186 100 209 100 211 100
Chƣa học hết tiểu học 14 7,53 17 8,13 19 9,00
Tốt nghiệp tiểu học 130 69,89 143 68,42 141 66,82
Tốt nghiệp THCS 18 9,68 19 9,09 18 8,53
Tốt nghiệp THPT 24 12,90 30 14,35 33 15,64
Nguồn: Số liệu điều tra 2009
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
53
Bảng 03. Trang bị đất trồng trọt cho lao động tại xã điều tra
Chỉ tiêu
Yên Trạch Động Đạt Vô Tranh
Số lƣợng
(m2)
Cơ cấu
(%) Số lƣợng
(m2)
Cơ cấu (%) Số lƣợng
(m2)
Cơ cấu
(%)
1.Tổng diện tích 512.495 100 676.143 100 682.995 100
Diện tích trồng lúa 211.590 41,29 248.553 36,76 258.525 37,85
Diện tích trồng cây ngô 23.346 4,56 28.548 4,22 38.840 5,69
Diện tích trồng cây sắn 4.440 0,87 9.180 1,36 6.200 0,91
Diện tích trồng cây chè 123.687 24,13 145.637 21,54 160.793 23,54
Diện tích trồng các cây trồng
khác 149.432 29,16 244.225 36,12 218.637 32,01
2. Diện tích BQ/hộ 1.552 1.894 1.855
3. Diện tích BQ/L. động 520,5 578,7 598,9
Nguồn: Số liệu điều tra 2009
c. Kết quả sử dụng lao động của các ngành trong hộ nông dân.
* Ngành trồng trọt: Thực trạng về sử dụng
lao động và giá trị sản xuất của ngành trồng
trọt đƣợc thể hiện qua những cây trồng cụ thể
nhƣ cây lúa, cây sắn, cây ngô, cây chè, và một
số cây trồng khác. Để tính đƣợc ra giá trị sản
xuất của các loại cây trồng trên công lao động
phải tính toán đƣợc giá trị sản xuất của cây
trồng và số lao động đƣợc sử dụng cho loại
cây đó của vùng điều tra trong các xã đƣợc
thể hiện qua bảng số liệu 04. Qua bảng số liệu
về kết quả ngành trồng trọt của vùng điều tra
cho thấy giá trị sản xuất bình quân/lao
động/năm 2009 của các loại cây trồng chính
nhƣ sau:
Bảng 04. Kết quả sử dụng lao động ngành trồng trọt tại xã điều tra
Chỉ tiêu ĐVT Yên Trạch Động Đạt Vô Tranh
Tổng diện tích m2 512.495 676.143 682.995
1. Sản xuất lúa m2 211.059 248.553 258.525
Diện tích BQ/hộ m2 3.518 3.551 3.693
Lao động bình quân/hộ ngƣời 2 2 3
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 1.597,58 1.607,02 1.514,80
2. Sản xuất ngô m2 23.346 28.548 38.840
Diện tích BQ/hộ m2 389 408 555
Lao động bình quân/hộ ngƣời 1 1 1
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 1.956,78 1.762,21 1.845,35
3. Sản xuất sắn m2 4.440 9.180 6.200
Diện tích BQ/hộ m2 74 131 89
Lao động bình quân/hộ ngƣời 0,25 0,24 0,26
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 455,67 551,35 688,89
4. Sản xuất cây trồng khác m2 149.432 244.225 218.637
Diện tích BQ/hộ m2 2.490,53 3.488,93 3.123,39
Lao động bình quân/hộ ngƣời 0,67 0,67 0,64
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 698,70 673,89 754,06
5. Trồng rừng
Tổng số công lao động công 1.420 1.706 1.680
Tổng số lao động công 50 62 67
Lao động bình quân/hộ ngƣời 0,83 0,89 0,96
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 1.477,10 2.603,55 1.501,19
Nguồn: Số liệu điều tra 2009
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
54
Cây lúa ở xã Động Đạt có giá trị cao nhất là 1.607.020đ và thấp nhất là xã Vô Tranh là 1.514.800đ. Đối với cây ngô xã Yên Trạch lại đạt giá trị bình quân trên một lao động trên một năm cao nhất với mức 1.956.780đ và xã Động Đạt đạt giá trị thấp nhất là 1.762.210đ. Cây sắn ở xã Vô Tranh đạt mức 688.890đ và là mức cao nhất và xã Yên Trạch chỉ đạt mức 455.670đ. Đối với các cây trồng khác, tổng hợp giá trị của các laọi cây trồng khác cho thấy giá trị đạt ở mức rất thấp nhƣ ở xã Động Đạt chỉ đạt 673.890đ và xã Vô Tranh đạt giá trị cao nhất là 754.060đ.
Nhƣ vậy trong trồng trọt vẫn cần phải duy trì việc trồng lúa và kết hợp với việc xen canh gối vụ với các cây trồng khác đặc biệt là cây ngô vì cây này cho giá trị kinh tế cao. Diện tích trồng ngô xen canh gối vụ mới chỉ sử dụng hết khoảng 12% của diện tích trồng lúa, ngƣời dân nên thay thế các cây trồng khác bằng cây ngô thì sẽ thu đƣợc nhiều giá trị kinh tế hơn. Đối với ngành trồng rừng, theo kết quả của vùng điều tra năm 2009 thì xã Động Đạt có giá trị sản xuất bình quân/lao động/năm 2008 cao nhất là 2.603.550đ, và thấp nhất là xã Yên Trạch là 1.477.100đ.
* Ngành chăn nuôi
Qua kết quả điều tra của các hộ điều tra trong 3 xã cho thấy giá trị sản xuất bình quân /lao động /năm 2009 nhƣ bảng 05.
- Chăn nuôi trâu bò đạt giá trị sản xuất cao nhất nhƣ xã Yên Trạch có vùng chăn thả rộng lớn nên thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi loại đại gia súc này, cụ thể đã đạt 9.111.110đ. Xã Vô tranh là xã đạt giá trị sản xuất thấp nhất là 7.644.440đ
- Chăn nuôi lợn: Xã Yên trạch có giá trị sản xuất 4.711.760đ và đạt mức cao nhất, xã Động Đạt chỉ có 3.763.93đ và ở mức thấp nhất.
- Chăn nuôi gà: Xã Vô Tranh chỉ đạt 1.922.510đ, nhƣng xã Yên trạch đạt kết quả sản xuất bình quân cao lên tới 2.4449.280đ.
- Chăn nuôi các loại gia cầm khác: Xã Yên Trạch đạt mức cao nhất là 555.000đ, xã Vô Tranh đạt mức thấp nhất là 201.360đ và Vô Tranh là 358.750đ.
- Nuôi trồng thuỷ sản: Xã Vô Tranh là 527.500đ trên lao động trên năm 2007, xã Yên Trạch là 407.310đ và xã Động Đạt là 480.670đ.
Bảng 05. Kết quả sử dụng lao động ngành chăn nuôi tại xã điều tra
Chỉ tiêu ĐVT Yên Trạch Động Đạt Vô Tranh
1. Chăn nuôi trâu, bò
Tổng số con con 82 95 86
Lao động bình quân/hộ Ngƣời 1,20 1,21 1,29
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 9.111,11 8.941,18 7.644,44
Giá trị sản xuất BQ/hộ đ 10.933,33 10.857,14 9.828,57
2. Chăn nuôi lợn
Tổng số con con 180 164 185
Lao động bình quân/hộ ngƣời 1,70 1,74 1,83
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 4.711,76 3.763,93 4.046,88
Giá trị sản xuất BQ/hộ đ 8.010,00 7.653,33 7.400,00
3. Chăn nuôi gà
Tổng số con con 1.722 1.843 1.701
Lao động bình quân/hộ ngƣời 1 1 1
Giá trị sản xuất 1000đ 142.058 152.034 140.343
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 2.449,28 2.171,91 1.922,51
Giá trị sản xuất BQ/hộ đ 2.367,63 2.171,91 2.004,90
4. Chăn nuôi gia cầm khác
Tổng số con con 173 149 92
Lao động bình quân/hộ ngƣời 0,25 0,29 0,31
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 555,00 358,75 201,36
Giá trị sản xuất BQ/hộ đ 138,75 102,50 63,29
5. Nuôi trồng thủy sản
Lao động bình quân/hộ ngƣời 0,65 0,83 0,80
Giá trị sản xuất BQ/lao động đ 407,31 480,67 527,50
Giá trị sản xuất BQ/hộ đ 264,75 398,27 422,00
Nguồn: Số liệu điều tra 2009
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
55
d. Tình hình sử dụng thời gian lao động của
nông hộ
Hệ số sử dụng thời gian lao động của nông hộ
ở nông thôn mới chỉ đạt 74,7% (năm 2009).
Cơ hội việc làm trong địa bàn huyện chƣa
thực sự đáp ứng đƣợc nhu cầu của lao động
trong vùng. Tỷ suất sử dụng lao động vùng
điều tra của 3 xã dao động từ 72,51 đến
82,34%. Trong đó xã Động Đạt có tỷ xuất sử
dụng lao động cao nhất và tỷ suất lao động
chƣa đƣợc sử dụng là 17,66%, xã Yên trạch
còn dƣ thừa là 27,49% và xã Vô Tranh còn dƣ
thừa là 24,68%.
Kết quả một số chƣơng trình giải quyết
việc làm cho lao động của nông hộ.
a. Chương trình dạy nghề ngắn hạn
Đƣợc sự chỉ đạo của Sở Lao động TBXH và
Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động huyện trung
tâm Dạy nghề, trung tâm Giới thiệu việc làm
của huyện đã triển khai đƣợc một số chƣơng
trình. Đặc biệt về đào tạo nghề năm 2007 mới
chỉ có 900 ngƣời nhƣng đến năm 2009 đã lên
tới 1.505 ngƣời, hơn nữa năm 2009 trung tâm
đã kết hợp với trƣờng Đại học Nông lâm Thái
Nguyên mở lớp đào tạo về quản lý kinh tế hộ
gia đình cho 194 cán bộ cấp xã và nông dân.
Về xuất khẩu lao động 3 năm qua trung tâm
đã tƣ vấn giới thiệu việc làm cho 212 lao
động đi xuất khẩu lao động ở các nƣớc: Đài
loan, Inonexia, Hàn Quốc... có mức lƣơng
bình quân khoảng 8 triệu đồng/tháng.
b. Về tín dụng nông thôn
+ Chƣơng trình cho vay đối với hộ nghèo:
Theo thống kê thì toàn huyện có 7.943 hộ
nghèo chiếm tỷ lệ 3,5% số hộ trên toàn
huyện, để đẩy nhanh chƣơng trình mục tiêu
xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện, nghị
quyết Đảng bộ, Hội đồng nhân dân huyện Phú
Lƣơng đã đề ra mỗi năm phấn đấu giảm tỷ lệ
hộ nghèo xuống từ 2,5 đến 3%.
+ Chƣơng trình cho vay hộ sản xuất kinh
doanh vùng khó khăn, đƣợc triển khai thực
hiện trong năm 2007, NHCSXH huyện đã
triển khai cho vay thí điểm 3 xã: Phú Đô, Tức
Tranh, Động Đạt.
+ Chƣơng trình tín dụng cho vay đối với hộ
gia đình sản xuất kinh doanh, kinh doanh
vùng khó khăn, đƣợc thực hiện với mức lãi
xuất thấp hơn ngân hàng thƣơng mại, thủ tục
đơn giản, đối tƣợng vay vốn rộng, mức vay
vốn hộ sản xuất 30 triệu đồng trên hộ không
phải làm thủ tục thế chấp tài sản, phƣơng thức
cho vay theo tổ lập trong thôn, bản, thông qua
các tổ chức hội.
+ Thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo
Đảng, nhà nƣớc đã có chính sách cho vay vốn
đối với hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số,
chƣơng trình thể hiện sự quan tâm của Đảng,
nhà nƣớc, đối với đồng bào nghèo dân tộc
thiểu số, đƣợc vay vốn để định canh định cƣ;
ổn định cuộc sống từng bƣớc phát triển kinh
tế gia đình, vƣơn lên thoát khỏi nghèo đói
cùng hòa nhập với cộng đồng.
+ Chƣơng trình cho vay giải quyết việc làm:
Đây là chƣơng trình quốc gia nhằm mục đích
giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
trong xã hội. Năm 2003, NHCS nhận bàn giao
2.997 triệu đồng nguồn vốn quỹ quốc gia giải
quyết việc làm từ kho bạc huyện chuyển sang
NHCS huyện quản lý, với 23 dự án. Sau 5
năm hoạt động NHCS huyện Phú Lƣơng đã
phối hợp với phòng Nội vụ huyện, các ngành
chức năng, đoàn thể xã hội thẩm định giải
quyết cho 116 dự án kết quả thực hiện. Doanh
số cho vay trong 5 năm là 9.250 triệu đồng,
doanh số thu nợ trong 5 năm là 1.312 triệu
đồng, dƣ nợ đến 31/12/2007 là 4.601 triệu
đồng, bao gồm 116 dự án,.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
việc làm cho lao động của nông hộ huyện
Phú Lƣơng
a. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu cây trồng
hợp lý và tăng diện tích gieo trồng
Xã Vô Tranh và xã Động Đạt là 2 xã có nhiều
đồi núi với độ dốc thoai thoải, hơn nữa chất
đất ở đây rất thích hợp với cây chè. Trong các
loại cây trồng đã đƣợc phân tích ở phần thực
trạng cho thấy giá trị sản xuất của cây chè là
khá cao và sử dụng không nhiều công lao
động. 1 sào trồng chè có thể đem lại giá trị
sản xuất 3 triệu đồng/công lao động/năm
trong đó các cây trồng khác không có đƣợc.
Vùng trồng lúa nƣớc 2 xã Động Đạt và Yên
Trạch có địa hình bằng phẳng nên sử dụng
phƣơng pháp luân canh, trồng xen canh gối
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
56
vụ. Khuyến khích các hộ trồng rau sạch vì thị
trƣờng hiện nay rất khan hiếm nguồn rau sạch
và củ, quả có giá trị dinh dƣỡng cao.
Xã Yên Trạch là xã vùng cao có địa hình
phức tạp, có nhiều núi cao thích hợp cho
trồng rừng, vừa chống xói mòn vừa đem lại
hiệu quả kinh tế cao cụ thể nhƣ trồng cây
Keo, Mỡ, Bạch đàn ... Vùng trồng lúa nƣớc
có quy mô manh mún nên dùng phƣơng thức
dồn điền đổi thửa để thuận lợi cho việc canh
tác sẽ giảm thiểu đƣợc công lao động, chuyển
lao động này sang công việc khác. Những
vùng đất đồi thoải hơn nên trồng chè có năng
suất cao nhƣ chè cành, chè Bát tiên ...
b. Giải pháp về phát triển chăn nuôi
Cụ thể về chăn nuôi theo hƣớng sản xuất hàng
hóa nhƣ nuôi gà sạch, đặc biệt là giống gà lai
chọi hình thức nuôi nhƣ giống gà truyền
thống vừa nhanh lớn lại vừa có giá trị sử dụng
cao. Nhu cầu của thị trƣờng sử dụng sản
phẩm hƣớng nạc và sản phẩm thịt lợn quay
bằng lợn siêu nạc đang đƣợc thị trƣờng ƣa
chuộng, do vậy phát triển mô hình nuôi lợn
siêu nạc với quy mô lớn, tiếp cận học tập kinh
nghiệm ở một số trang trại nuôi loại siêu nạc
ở huyện Phổ Yên. Với địa hình và không gian
rộng và có nhiều đồi núi để chăn thả nhƣ
huyện Phú Lƣơng nên mở những trang trại
nuôi thả trâu bò để lấy thịt, bên cạnh đó mở
những cơ sở chế biến thịt xô và thịt lọc cung
cấp cho thị trƣờng trong và ngoài huyện, sẽ
thu hút đƣợc một số lao động dƣ thừa trong
lao động nông thôn.
c. Giải pháp về phát triển các ngành nghề phi
nông nghiệp
Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đa
dạng hóa ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hƣớng giảm tỷ trọng
của ngành nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng
của ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và
thƣơng mại là biện pháp cơ bản, lâu dài để
giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho
ngƣời lao động nông thôn. Phát triển ngành
nghề mây tre đan để tạo điều kiện cho những
lao động có sự khéo léo và sức khỏe kém đặc
biệt là lao động nữ không đủ điều kiện làm
những việc nặng nhọc, những lao động này
thƣờng không có cơ hội để tìm đƣợc việc làm
ngoài xã hội hoặc chỉ làm đƣợc những công
việc có thu nhập thấp.
d. Giải pháp về củng cố và xây dựng cơ sở
hạ tầng
Củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng là giải
pháp quan trọng để phát triển kinh tế và giải
quyết việc làm cho ngƣời lao động huyện Phú
Lƣơng. Những khó khăn về cơ sở hạ tầng nhƣ
hiện nay đã cản trở rất lớn đến chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, đến khả năng tự tạo việc làm và
tìm kiếm việc làm của ngƣời lao động trong
huyện. Muốn phát triển nghề trồng rừng cần
phải làm mới, làm kiên cố những con đƣờng
để phƣơng tiện vận tải vào đƣợc tận vùng
khai thác.
e. Giải pháp về đất đai
Hiện nay, đất canh tác của huyện vừa ít, vừa
manh mún lại vừa chƣa đƣợc sử dụng hợp lý.
Vì vậy, huyện cần phải có chính sách khuyến
khích ngƣời dân khai hoang phục hóa đƣa
diện tích đất chƣa sử dụng vào sản xuất.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
ngƣời dân tiến hành dồn điền đổi thửa cho
nhau để có diện tích canh tác trên mảnh lớn
hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phát
triển sản xuất hàng hóa. Những khu đất ở ven
quốc lộ 3, ven các đƣờng trục chính và khu
trung tâm nên quy hoạch chuyển vào đất thổ
cƣ để phát triển ngành nghề và dịch vụ. Cần
có những chính sách về đất đai hợp lý nhƣ
giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tiền thuê đất,…để
khuyến khích các nhà đầu tƣ vào sản xuất trên
địa bàn nhằm tạo ra nhiều việc làm cho lao
động trong huyện.
f. Giải pháp về vốn
Nhà nƣớc cần mở rộng hơn nữa các chƣơng
trình cho vay vốn đến tận tay ngƣời dân thông
qua các tổ chức tín dụng, các ngân hàng, các
tổ chức đoàn thể ở địa phƣơng nhƣ hội phụ
nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên việc cho
vay vốn phải xác định đúng đối tƣợng đƣợc
vay, số lƣợng vốn vay phải đảm bảo cho
ngƣời đi vay có đủ khả năng tái sản xuất mở
rộng, các phƣơng thức thu hồi vốn phải phù
hợp với đặc điểm và chu kỳ của sản xuất nông
nghiệp. Bên cạnh việc cho vay vốn cần làm
tốt công tác khuyến nông, hƣớng dẫn và tƣ
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
57
vấn cho ngƣời dân cách thức đầu tƣ và sử
dụng vốn vay để việc đầu tƣ mang lại hiệu
quả cao và phải giám sát việc sử dụng vốn
vay thông qua các tổ chức đoàn thể ở địa
phƣơng. Tránh tình trạng sử dụng vốn vay
không đúng mục đích và không có khả năng
hoàn trả. Ngoài ra có thể cho ngƣời nông dân
vay vốn bằng hiện vật thông qua hoạt động
của hợp tác xã dịch vụ nhƣ các tƣ liệu sản
xuất trong nông nghiệp. Ngƣời lao động,
trƣớc hết phải biết huy động vốn từ nguồn
vốn tự có của bản thân, của gia đình và quan
trọng là xác định đƣợc kế hoạch sử dụng và
phân bổ số vốn vay đó cho từng khâu của quá
trình sản xuất sao cho hợp lý và đem lại hiệu
quả đồng vốn cao nhất.
g. Giải pháp về khoa học kỹ thuật
Đối với ngƣời lao động nông nghiệp cần tập
trung nâng cao kỹ năng sản xuất của họ, từ
khâu chọn giống, làm đất canh tác, chăm sóc
và thu hoạch. Để thực hiện tốt điều này cần
tăng cƣờng công tác khuyến nông, cần trợ
giúp cho họ khâu kỹ thuật trong quy trình sản
xuất thử nghiệm, xây dựng mô hình điển hình
để chuyển giao khoa học kỹ thuật có hiệu quả.
Động viên và khuyến khích các hộ sản xuất
giỏi tham gia vào công tác khuyến nông để
việc chuyển giao khoa học kỹ thuật đạt kết
quả cao và sẽ dễ thuyết phục hơn.
Đối với lao động có tham gia hoạt động
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, cần khuyến
khích họ mở rộng quy mô đầu tƣ theo chiều
sâu, lựa chọn áp dụng công nghệ phù hợp với
một số khâu để có điều kiện nâng cao năng
suất, chất lƣợng sản phẩm. Thông qua các tổ
chức đoàn thể giới thiệu những ngành nghề
mới phù hợp với địa phƣơng để ngƣời dân áp
dụng vào sản xuất nhằm giải quyết việc làm
cho ngƣời lao động và tạo điều kiện thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
h. Giải pháp về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn
Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển mạng lƣới
đào tạo nghề đến năm 2020. Tiếp tục nâng
cấp trung tâm dạy nghề của huyện, dự kiến
đến năm 2010 huyện thành lập trƣờng dạy
nghề thuộc tỉnh quản lý. Tiếp tục thực hiện
chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối
tƣợng là lao động thuộc diện chính sách
ngƣời có công, chính sách xã hội và mở rộng
thêm đối tƣợng là lao động trẻ em, nông dân
không còn đất sản xuất. Thực hiện tốt chƣơng
trình đào tạo nghề cho nông dân của huyện,
nhằm tạo ra lực lƣợng lao động có trình độ để
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tổ chức kết nối tuyển sinh dạy nghề giữa các
cơ sở đào tạo nghề, trƣờng nghề với các
doanh nghiệp, phát triển mô hình đào tạo
nghề theo địa chỉ, theo đơn đặt hàng.
i. Giải pháp về đẩy mạnh xuất khẩu lao động
và đưa lao động ra ngoài địa bàn làm việc
Chính quyền địa phƣơng cần hợp tác tốt với
các cơ quan chức năng trong việc tƣ vấn, đào
tạo, hỗ trợ để ngƣời lao động đƣợc tham gia
xuất khẩu, đƣa xuất khẩu lao động thành giải
pháp hiệu quả trong công tác tạo việc làm cho
ngƣời lao động nông thôn trên địa bàn huyện.
Bên cạnh công tác xuất khẩu lao động ra nƣớc
ngoài thì việc hợp tác với các công ty, các tổ
chức trong nƣớc để tìm và giải quyết việc làm
cho ngƣời lao động địa phƣơng cũng là một
giải pháp tốt và có hiệu quả cao.
KẾT LUẬN
Huyện Phú Lƣơng có 66.132 lao động, trong
đó lao động nông thôn có hơn 56.635 ngƣời
chiếm khoảng 85,64% lực lƣợng lao động
trong huyện. Khoảng 95% lao động nông thôn
là lao động phổ thông, không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật. Hệ số sử dụng thời gian
lao động trong nông hộ thấp, năm 2009 bình
quân là 74,7%. Tỷ suất sử dụng lao động
trong nông hộ tại các xã điều tra dao động từ
72,51 đến 82,34%. Trong đó xã Động Đạt có
tỷ xuất sử dụng lao động cao nhất và tỷ suất
lao động chƣa đƣợc sử dụng là 17,66%, xã
Yên trạch còn dƣ thừa là 27,49% và xã Vô
Tranh còn dƣ thừa là 24,68%. Giá trị lao động
và thu nhập thấp, phần lớn không có tích lũy đó
là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói
nghèo ở khu vực nông thôn hiện nay.
Trong những năm qua huyện đã có nhiều chủ
trƣơng, chính sách để giải quyết việc làm cho
ngƣời lao động, tạo ra việc làm cho hàng
nghìn ngƣời lao động. Hệ số sử dụng thời
gian lao động trong nông hộ tăng lên, chất
lƣợng nguồn lao động bƣớc đầu có tiến bộ,
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 51 - 58
58
từng bƣớc đáp đƣợc yêu cầu của thị trƣờng
lao động trong và ngoài tỉnh. Vấn đề giải
quyết việc làm đƣợc triển khai bƣớc đầu đã có
chuyển biến tích cực, song chƣa cơ bản.
Để giải quyết việc làm cho lao động trong
nông hộ, trong thời gian tới huyện cần tập
trung giải quyết các vấn đề sau: chuyển dịch
cơ cấu cây trồng hợp lý và tăng diện tích gieo
trồng; phát triển chăn nuôi; phát triển các
ngành nghề phi nông nghiệp; củng cố và xây
dựng cơ sở hạ tầng; ổn định đất đai; tăng
cƣơng đầu tƣ vốn; tăng cƣờng khoa học kỹ
thuật; Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
và đẩy mạnh xuất khẩu lao động và đƣa lao
động ra địa bàn ngoài huyện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phan Sĩ Mẫn, “Giải quyết việc làm ở nông
thôn trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế số 225 - 2/1997.
[2]. Phòng Thống kê huyện Phú Lƣơng, Niên giám
thống kê huyện Phú Lương năm 2007 -2009.
[3]. Vũ Văn Phúc (2005), "Giải quyết việc làm và sử
dụng hợp lý nguồn nhân lực lao động nông thôn
Việt Nam hiện nay", Tạp chí Kinh tế châu Á-Thái
Bình Dƣơng.
[4]. Trung tâm giới thiệu việc làm huyện Phú
Lƣơng tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo cuối năm 2005,
2006, 2007.
[5]. Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp tạo việc
làm cho lao động nông thôn xã Thạch Xá – Thạch
Thất – Hà Tây, ĐHKT&QTKD
[6]. Tạ Đình Tứ (2007 ), Thực trạng và một số
giải pháp nhằm giải quyết việc làm nâng cao
thu nhập cho người lao động xã Lương Sơn –
TP. Thái Nguyên.
[7]. Ngô Xuân Hoàng (2009), “Giải pháp chủ yếu
nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của lao động
nông thôn huyện Phú Lương – tỉnh Thái Nguyên”
Báo cáo kết quả đề tài NCKH cấp Bộ..
[8]. UBND huyện Phú Lƣơng (2007): Báo cáo thực
hiện kế hoạch KT-XH năm 2007.
SUMMARY
THE CURRENT STATUS ON LABORS AND WORKING IN FARMER’S
HOUSEHOLD OF PHU LUONG DICSTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE
Ngo Xuan Hoang
*
College of Economic and Technology – TNU
Phu Luong district has 66,132 employees, of which the rural labor force has more than 56,635
accounts for 85.64% of the workforce in the district. About 95% of rural workers are unskilled
workers, with no technical expertise. Score labor time used in the household low as 74.7% in
2009. Ratio of the employers surveyed areas of the three communes ranged from 72.51 to 82.34%.
Value and low-income workers, the majority does not accumulate the basic causes that lead to
poverty in rural areas in the district.
In recent years many districts have policies to create jobs for workers, creating jobs for thousands
of workers. The issue of jobs initially deployed has changed, but not fundamental.
To create jobs for workers in the household, the district needs time to focus on the following
issues: restructuring and reasonable increase crop sown area, livestock development, developing
non-agricultural sectors, consolidate and build infrastructure, land stability, boost investment and
enhance scientific and technical vocational training for rural workers and boost the export of labor
and sending laborers into the area outside the district.
Key word: The carrent status, Labors, working, farmers, Phu Luong Dicstrict
* Tel: 0912.140.868
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
59
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN (BIDV) HÀ GIANG
Nguyễn Thị Hồng Yến
*, Trần Phạm Văn Cƣơng
Trường ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề mở cửa của ngành ngân hàng và thực tế nhu cầu dịch vụ ngày
càng phát triển đa dạng đòi hỏi các NHTM Việt Nam nói chung, BIDV Hà Giang nói riêng không
chỉ hoàn thiện các dịch vụ hiện có mà còn từng bƣớc tiếp tục phát triển các dịch vụ ngân hàng mới.
Dựa vào những tìm hiểu và đánh giá thực trạng cung ứng sản phẩm dịch vụ của BIDV Hà giang
nhằm đề xuất một số giải pháp khả thi vừa mang tính hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng hiện có
đồng thời phát triển thêm một số dịch vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, duy trì
thị phần và nâng cao khả năng cạnh tranh của Chi nhánh trong giai đoạn nền kinh tế của Việt Nam
sau khi gia nhập các tổ chức APEC, WTO,…
Từ khoá: ngân hàng thương mại, sản phẩm dịch vụ ngân hàng thương mại, phát triển sản phẩm,
giải pháp phát triển sản phẩm, BIDV Hà Giang
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế đang
diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh trong lĩnh vực
kinh doanh tiền tệ ngày càng quyết liệt, đòi hỏi
các NHTM phải không ngừng phát triển và đổi
mới theo hƣớng hoàn thiện các sản phẩm dịch
vụ sẵn có, tiếp cận và ứng dụng các sản phẩm
dịch vụ mới. BIDV Hà Giang là ngân hàng nằm
trên địa bàn miền núi, với phạm vi hoạt động
rộng do đó các sản phẩm dịch vụ còn chƣa phát
triển, đơn điệu tính tiện ích chƣa cao, chƣa thực
sự lôi cuốn và hấp dẫn khách hàng. Bởi vậy,
phát triển sản phẩm dịch vụ Ngân hàng là một
tất yếu khách quan. Vấn đề đặt ra là phát triển
và nâng cao chất lƣợng dịch vụ nhƣ thế nào để
không đồng nhất nó với việc dàn trải nguồn lực.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng tại Chi nhánh là
toàn bộ sản phẩm liên quan đến hoạt động tiền
tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối,… của hệ
thống ngân hàng đối với doanh nghiệp và công
chúng. Quan niệm theo nghĩa rộng này đƣợc
sử dụng để xem xét lĩnh vực dịch vụ ngân
hàng trong cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc
dân của một quốc gia. Quan niệm này phù hợp
với cách phân ngành dịch vụ ngân hàng trong
dịch vụ tài chính của WTO và hiệp định
thƣơng Việt Nam - Hoa Kỳ cũng nhƣ hiệp
định song phƣơng khác của Việt Nam.
* Emai: [email protected]
SẢN PHẨM NGÂN HÀNG LÀ GÌ?
Sản phẩm ngân hàng là một khái niệm khá
phức tạp bởi tính tổng hợp, đa dạng và nhạy
cảm của hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Sản phẩm ngân hàng đƣợc thể hiện dƣới dạng
dịch vụ. Theo Philip Kotler (Marketing
Managememt): dịch vụ đƣợc định nghĩa là
mọi hành động và kết quả mà một bên có thể
cung cấp cho bên kia, chủ yếu là vô hình và
không dẫn đến quyền sở hữu. Kết quả của
dịch vụ có thể hay không gắn liền với một sản
phẩm vật chất.(2)
Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng là một tập hợp
các đặc điểm, tính năng, công dụng do ngân
hàng tạo ra và cung cấp cho khách hàng để thỏa
mãn những nhu cầu, mong muốn nhất định nào
đó của khách hàng trên thị trƣờng tài chính.
Mỗi sản phẩm dịch vụ ngân hàng đƣợc cấu
thành bởi 3 cấp độ: Phần sản phẩm cốt lõi, phần
sản phẩm hữu hình và phần sản phẩm bổ sung.
Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thƣơng
mại: nhận tiền gửi, cho vay (chiết khấu, cho
vay thƣơng mại, cho vay tiêu dùng, cho vay
tài trợ dự án, dịch vụ cho thuê tài chính);
dịch vụ thanh toán (séc, thƣ tín dụng, UNC,
UNT, thẻ thanh toán); dịch vụ bảo lãnh, dịch
vụ uỷ thác, dịch vụ tƣ vấn, dịch vụ bảo hiểm,
dịch vụ môi giới đầu tƣ chứng khoán, dịch
vụ đại lý, quản lý ngân quỹ, bảo quản vật có
giá, trao đổi ngoại tệ.
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
60
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
Phát triển dịch vụ đƣợc phân tích trên hai khía
cạnh: phát triển về chiều rộng và phát triển về
chiều sâu. Phát triển có nghĩa là phải luôn đƣa
ra đƣợc dịch vụ mới, đáp ứng đƣợc những
yêu cầu của khách hàng. Phát triển sản phẩm
dịch vụ ngân hàng hƣớng tới mở rộng khả
năng “cung” dịch vụ ngân hàng, đồng thời
góp phần kích “cầu” về dịch vụ ngân hàng
của nền kinh tế.(3)
THỰC TRẠNG VIỆC CUNG ỨNG SẢN
PHẨM DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CHI
NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT
TRIỂN HÀ GIANG
Năm 1991 khi tỉnh Hà Tuyên đƣợc tách thành
hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, Ngân
hàng Đầu tƣ & Phát triển Hà Giang đƣợc
thành lập theo quyết định số 135/QĐ/NHNN
ngày 30/08/1991 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nƣớc Việt Nam.
Sơ đồ 1. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng đầu
tƣ & Phát triển Hà Giang
Bảng 1. Mạng lƣới giao dịch tại Chi nhánh
qua 5 năm 2005 – 2009
Loại
hình
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Phòng
GD 02 02 02 02 03
ĐGD và
QTK 02 02 02 03 03
Tổng 04 04 04 05 06
Chi nhánh có hai phòng Giao dịch tại hai
huyện vùng thấp là phòng Giao dịch Bắc
Quang tại trung tâm huyện Bắc Quang và
phòng Giao dịch Vị Xuyên tại trung tâm
huyện Vị Xuyên và 2 QTK ở trung tâm Thị
xã. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của
mạng lƣới hiện có, năm 2008 Chi nhánh đã
nâng cấp Bàn tiết kiệm số 01 tại trung tâm
thị xã lên thành Điểm giao dịch. Trong năm
2009, mở mới 01 Phòng giao dịch thuộc Chi
nhánh trên địa bàn Thị xã Hà Giang - tỉnh
Hà Giang.(1)
Thị phần hoạt động của Ngân hàng Đầu tƣ và
Phát triển Hà Giang chiếm tỷ trọng thấp, thị
phần huy động vốn năm 2009 là 29% (biểu đồ
01) và thị phần tín dụng là 9% (biểu đồ 02),
thị phần tín dụng thấp nguyên nhân một phần
do Chi nhánh chuyển ngoại bảng các khoản
nợ tồn đọng XDCB từ các năm trƣớc.(4)
Biểu đồ 1. Thị phần
HĐV của BIDV
Hà giang
Biểu đồ 2. Thị phần
tín dụng của BIDV
Hà giang
9
70
21
BIDV
Agribank
NHCSXH
9
70
21
BIDV
Agribank
NHCSXH
Trong những năm qua kinh doanh của Chi
nhánh bắt đầu có sự phát triển, lợi nhuận năm
sau cao hơn năm trƣớc. Cơ cấu một số khoản
mục thu chi của Chi nhánh các năm gần đây
nhƣ sau:
Biểu đồ 3. Kết quả kinh doanh của Chi nhánh
qua 5 năm 2005 - 2009
Số tiền (tỷ đồng)
-40
-20
0
20
40
60
80
100
2005 2006 2007 2008 2009
Năm
Doanh thuChi phíLợi nhuận
(Nguồn: Báo cáo thường niên BIDB Hà Giang)
P. Kế
hoạch
T.hợp
Giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
P DVụ
K.
hàng
P.Qtrị
tín
dụng
Tổ QLý
& DVụ
Kho quỹ
P.Q.Hệ
kh.hàng
Quỹ
T.Kiêm
V. Xuyên
P.G.dịch
B.Quang
P. HC&
TCCB Quản lý
rủi ro
P.t/chinh
kế toán
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
61
Nhóm sản phẩm huy động vốn
Hiện nay Chi nhánh đã và đang thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu trong công tác huy động vốn nhƣ:
Các sản phẩm phát hành thường xuyên: Tiền gửi thanh toán VND, tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm “ổ trứng vàng”, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm rút trƣớc hạn hƣởng lãi bậc thang theo thời gian thực gửi, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm rút dần, tài khoản thanh toán lãi suất phân tầng (đối với khách hàng là tổ chức).
Các sản phẩm phát hành theo đợt: Tiết kiệm dự thƣởng, trái phiếu (thông thƣờng), trái phiếu tăng vốn, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn.
Trong giai đoạn 2005 - 2009, Chi nhánh Ngân hàng đầu tƣ & Phát triển Hà Giang đã huy động đƣợc vốn lớn đáp ứng tốt nhu cầu cho vay, tốc độ tăng trƣởng vốn huy động tăng nhanh qua các năm, vốn huy động năm sau tăng hơn năm trƣớc. Tốc độ tăng trƣởng huy động vốn của Chi nhánh trên địa bàn là 20%. Trong đó cơ cấu tiền gửi đƣợc phân loại cụ thể nhƣ sau:
Biểu đồ 4. Hoạt động HĐV của BIDV
Hà Giang qua 5 năm 2005 - 2009
0
100
200
300
400
500
600
2005 2006 2007 2008 2009Năm
Số tiền (tỷ đồng) Nguồn vốn huy động
(Nguồn:B/cáo thường niên BIDB Hà Giang)
Từ những phân tích trên có thể thấy đặc điểm đầu tư tiền gửi của khách hàng tại BIDV Hà giang như sau: Về loại tiền: khách hàng vẫn ƣa chuộng tiền gửi VNĐ.
Về sản phẩm: các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thông thƣờng vẫn đƣợc khách hàng ƣu tiên lựa chọn.
Về kỳ hạn: Kỳ hạn 12 tháng đƣợc khách hàng ƣa chuộng vì đây là kỳ hạn có mức lãi suất hấp dẫn và phù hợp với khả năng kế hoạch hoá dòng tiền của khách hàng.
Sản phẩm tín dụng
Hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính,
đóng góp phần lớn vào lợi nhuận của Chi
nhánh trong những năm vừa qua.Các sản phẩm
tín dụng hiện có tại Chi nhánh là: Cho vay hỗ
trợ nhu cầu nhà ở, cho vay mua ôtô, cho vay
cán bộ công nhân viên, thấu chi tài khoản, cho
vay CBCNV mua cổ phiếu phát hành lần đầu
trong các DNNNCPH, cho vay có bảo đảm
bằng cầm cố GTCG, thẻ tiết kiệm.
Chi nhánh đã xây dựng tiêu chuẩn và kế hoạch
chất lƣợng cho các quy trình tín dụng ngắn
hạn, trung và dài hạn trên nguyên tắc: tìm hiểu
nhu cầu đề đảm bảo việc cho vay của ngân
hàng đáp ứng đƣợc yêu cầu của khách hàng.
Bảng 2. Tiêu chuẩn chất lƣợng của quy trình tín
dụng ngắn hạn tại Chi nhánh
TIÊU CHUẨN CHỈ TIÊU
I. KHÁCH HÀNG MONG ĐỢI:
1. Phục vụ nhanh nhất,
thủ tục đơn giản, rõ
ràng, tiện lợi.
Cam kết thực hiện
đúng thời gian xét
duyệt đã công bố cho
từng sản phẩm kể từ
khi Ngân hàng nhận
đƣợc đầy đủ hồ sơ
hợp lệ và thông tin
cần thiết từ khách
hàng theo quy định
đến khi Quyết định
cấp tín dụng đƣợc
cấp có thẩm quyền
của Ngân hàng ký
duyệt.
2. Có thái độ đón tiếp,
hƣớng dẫn và phục vụ
khách hàng chu đáo.
2. Thái độ phục vụ
văn minh lịch sự, tận
tình chu đáo.
3. Đảm bảo cung ứng
đúng, đủ lƣợng tiền và
thời gian theo hợp đồng
tín dụng đã ký.
3. Giải ngân theo
đúng hợp đồng tín
dụng đã ký với khách
hàng
4. Lãi suất, phí thấp 4. Lãi suất, phí phù
hợp với thị trƣờng,
đảm bảo hoạt động
kinh doanh của ngân
hàng có hiệu quả.
II. PHÁP LUẬT YÊU CẦU: Thực hiện đúng và đầy
đủ các quy định của
pháp luật.
Tuân thủ đầy đủ các
quy định của pháp
luật đảm bảo an toàn,
hiệu quả trong hoạt
động của Ngân hàng
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
62
Tốc độ tăng trƣởng tín dụng của Chi nhánh
trên địa bàn là 15%. Trong đó, cơ cấu tiền vay
đƣợc phân loại cụ thể nhƣ sau:
Biểu đồ 5. Hoạt động tín dụng của Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Hà Giang
qua 5 năm 2005 - 2009
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
2005 2006 2007 2008 2009Năm
Số tiền (tỷ đồng) Tổng dư nợ
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán của Chi nhánh
năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009)
Dƣ nợ tín dụng của Chi nhánh trên địa bàn
chiếm thị phần nhỏ (chủ yếu là cho vay hợp
vốn) nguyên nhân do ảnh hƣởng từ cho vay
xây lắp từ các năm trƣớc nợ xấu chiếm tỷ
trọng lớn nên Chi nhánh đặt trong tình trạng
kiểm soát đặc biệt của NHTW vì vậy tất cả
các khách hàng là doanh nghiệp và các khoản
vay cá nhân từ 50 triệu đồng trở lên phải
thông qua Hội đồng tín dụng. Mặt khác, do
mạng lƣới hoạt động của Chi nhánh còn
mỏng chƣa đƣợc bố trí rộng khắp tại các
huyện thị, hiện tại Ngân hàng Nông nghiệp,
NHCSXH có mạng lƣới rộng khắp ở các
huyện thị, đối tƣợng khách hàng cho vay đa
dạng ở cả các vùng nông thôn, cho vay hộ
nghèo… thủ tục cho vay, kiểm soát vay vốn
của các Ngân hàng này đơn giản hơn so với
Ngân hàng Đầu tƣ, việc cho vay chủ yếu căn
cứ vào tài sản thế chấp để quyết định cho vay.
Ngoài ra Hà Giang là một tỉnh nghèo nên các
đối tƣợng thuộc diện đƣợc vay vốn tại
NHCSXH lớn, lãi suất cho vay thấp nên trong
thời gian vừa qua dƣ nợ của NHCSXH tăng
trƣởng rất nhanh; trình độ dân trí của dân cƣ
trên địa bàn còn hạn chế nên việc hoàn thiện
hồ sơ vay theo yêu của Chi nhánh mất nhiều
thời gian; đội ngũ cán bộ của Chi nhánh còn
thiếu nên chƣa đáp ứng kịp thời nhu cầu vay
vốn của khách hàng. Chi nhánh chƣa khai
thác hết tiềm năng để tăng trƣởng tín dụng
đặc biệt là mảng tín dụng bán lẻ với các
khách hàng kinh doanh có doanh số chuyển
tiền lớn và sử dụng nhiều các dịch vụ tại
Ngân hàng.
Sản phẩm dịch vụ bảo lãnh
Đây là loại hình dịch vụ truyền thống nhƣng
vẫn rất phát triển vì đem lại thu nhập cao.
Hầu hết dịch vụ bảo lãnh đƣợc cung cấp cho
những khách hàng truyền thống, uy tín. Chi
nhánh rất nỗ lực trong việc đa dạng hoá về
thời hạn cũng nhƣ các loại hình bảo lãnh.
Thực hiện bảo lãnh theo thời hạn ngắn hạn,
trung - dài hạn cho các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, hợp tác xã và các thành phần
kinh tế khác với các loại hình dịch vụ bảo
lãnh: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
tiền ứng trƣớc, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
dự thầu, bảo lãnh đảm bảo chất lƣợng hợp
đồng. Giá trị các khoản bảo lãnh tại Chi nhánh
chƣa cao nhƣng đã có sự tăng trƣởng lớn.
Biểu đồ 6. Tổng giá trị bảo lãnh tại Chi nhánh qua
5 năm 2005 - 2009
0
5
10
15
20
25
30
35
2005 2006 2007 2008 2009 Năm
Số tiền (tỷ đồng) Tổng giá trị bảo lãnh
Biểu đồ 7. Phí thu từ hoạt động bảo lãnh tại Chi
nhánh qua 5 năm 2005 - 2009
0
100
200
300
400
500
600
700
800
2005 2006 2007 2008 2009 Năm
Số tiền (triệu đồng) Phí thu dịch vụ bảo lãnh
(Nguồn:B/cáo thường niên BIDV Hà Giang)
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
63
Các sản phẩm dịch vụ khác
Kết quả thu từ hoạt động dịch vụ khác tại Chi nhánh qua 5 năm 2005 - 2009 tăng trƣởng khá cao qua các năm: 2005; 2006; 2007; 2008 và năm 2009 lần lƣợt là: 286; 534; 930; 1578 và 1869 triệu đồng. Dịch vụ thanh toán vẫn là dịch vụ chủ đạo trong hoạt động dịch vụ tại Chi nhánh, các hoạt động dịch vụ khác có phát sinh song chiếm tỷ trọng thấp. Các hoạt động nhƣ kinh doanh ngoại tệ, chuyển tiền kiều hối, Chuyển tiền nhanh Westerunion..., có phát sinh nhƣng doanh số hoạt động thấp.
Biểu đồ 8. Kết quả thu phí dịch vụ khác tại Chi
nhánh qua 5 năm 2005 - 2009
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2000
2005 2006 2007 2008 2009 Năm
Số tiền (triệu đồng) Tổng phí thu dịch vụ khác
(Nguồn:Bảng cân đối kế toán của Chi nhánh năm
2005 - 2009)
* Dịch vụ thanh toán
Nguồn thu dịch vụ của Chi nhánh chủ yếu thu
từ chuyển tiền hàng của các hộ kinh doanh
buôn bán. Hoạt động dịch vụ thu đƣợc chủ
yếu từ nguồn dịch vụ thanh toán trong nƣớc.
- Dịch vụ thu tiền tại các điểm khách hàng
yêu cầu
Chi nhánh thực hiện dịch vụ này thông qua
hoạt động của tổ thu tiền lƣu động bằng việc
sẵn sàng đến địa điểm theo yêu cầu của khách
hàng để nhận tiền gửi của khách hàng. Dịch
vụ này đƣợc thực hiện nhằm tăng nguồn vốn
huy động của Chi nhánh.
- Dịch vụ thanh toán quốc tế và chi trả kiều
hối
Cùng với sự phát triển của hệ thống Ngân
hàng Việt Nam nói chung và sự phát triển của
hệ thống thanh toán quốc tế nói riêng, từ
tháng 9/2000, Chi nhánh đã đƣa nghiệp vụ
thanh toán quốc tế vào hoạt động.
Năm 2007 chuyển tiền kiều hối đƣợc 65 món, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 1.779 nghìn USD đã phản ánh sự cố gắng không
nhỏ của Chi nhánh. Trong năm 2008 thực hiện thanh toán biên mậu qua Chi nhánh Lào Cai, Lạng Sơn. Chi trả kiều hối với WU và các dịch vụ thanh toán quốc tế khác, thu từ dịch vụ chuyển tiền quốc tế đạt 40 triệu đồng. Năm 2009 Lợi nhuận từ chuyển tiền kiều hối:
50 triệu đồng.
Hình thức thanh toán thư tín dụng L/C: hình thức này đƣợc Chi nhánh quan tâm trong mấy năm gần đây với tỷ trọng số món cũng nhƣ tỷ trọng doanh số thanh toán qua ngân hàng tăng qua các năm.
+ Thanh toán qua ngân hàng
Phạm vi thanh toán không chỉ bó hẹp trong một lƣợng khách hàng ít ỏi là các TCTD và doanh nghiệp mà đã mở rộng tới mọi tầng lớp dân cƣ. Do đó doanh số thanh otán qua ngân hàng đã tăng lên đáng kể với tỷ trọng thanh
toán bằng tiền mặt giảm, tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt tăng nhanh. Thu từ dịch vụ thanh toán qua các năm: 2005; 2006; 2007; 2008 và 2009 lần lƣợt là 213; 333; 473; 784 và 1349 triệu đồng. Những con số trên chứng tỏ Chi nhánh đã làm tốt vai trò là trung gian
thanh toán đã thƣc hiện thanh toán một cách nhanh chóng, thuận tiện, an toàn theo nhu cầu của khách hàng.
Trong nghiệp vụ thanh toán vốn với các Ngân hàng khác để hoàn thành tiếp quá trình thanh toán cho khách hàng Chi nhánh đã áp dụng 4
phƣơng thức thanh toán là: thanh toán nội bộ hệ thống Ngân hàng đầu tƣ và Phát triển, thanh toán bù trừ, thanh toán qua tài khoản tại NHNN, thanh toán qua tài khoản của các TCTD.
Hiện nay, Chi nhánh đang sử dụng 4 hình
thức thanh toán qua Ngân hàng đó là: Séc, UNC chuyển tiền, UNT, thƣ tín dụng.
* Kinh doanh ngoại tệ
Kết quả kinh doanh ngoại tệ tại Chi nhánh qua 5 năm 2005 - 2009 có sự tăng trƣởng. Năm 2005 phí thu từ kinh doanh ngoại tệ đạt 16 triệu đồng. Năm 2006 là 21 triệu đồng. Năm 2007 (doanh số mua ngoại tệ đạt 539.423 USD, doanh số bán ngoại tệ đạt 438.423 USD) đạt 26 triệu đồng. Năm 2008 là 40 triệu đồng và năm 2009 là 57 triệu đồng.
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
64
Năm 2007 Doanh số mua ngoại tệ đạt 539.423
USD, doanh số bán ngoại tệ đạt 438.423 USD,
chủ yếu là từ thu đổi ngoại tệ từ khách hàng và
bán lại cho Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển
Việt Nam. Chi nhánh chấp hành nghiêm túc
việc niêm yết tỷ giá và giới hạn trạng thái
ngoại hối, thực hiện mua bán giao ngay theo
đúng quy định về kinh doanh ngoại tệ, phí thu
từ kinh doanh ngoại tệ đạt 21 triệu đồng,
chiếm tỷ trọng 3,9%/tổng thu dịch vụ.
* Dịch vụ ngân quỹ
Ngân hàng thực hiện các dịch vụ nhƣ: thu/chi
tiền mặt lƣu động tại địa chỉ của cá nhân; thu
đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lƣu thông (thu
đổi tiền VNĐ không đủ tiêu chuẩn lƣu thông,
nhờ thu đổi ngoại tệ tiền mặt không đủ tiêu
chuẩn lƣu thông), dịch vụ kiểm đếm tiền mặt
cho Chi nhánh. Tuy nhiên, kết quả đạt đƣợc
từ hoạt động này còn rất thấp.
* Dịch vụ thẻ
Bảng 3. Kết quả thực hiện dịch vụ thẻ tại Chi nhánh
Chỉ tiêu Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Số lƣợng thẻ
phát hành luỹ
kế
Số thẻ phát
hành (thẻ) 2040 3240 2300 7580
Thu phí dịch
vụ thẻ (triệu
đồng)
53 101 161
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
của Chi nhánh qua các năm 2007, 2008, 2009)
Chi nhánh đã triển khai dịch vụ thẻ từ tháng
06/2007, tổng số lƣợng thẻ phát hành luỹ kế
tại Chi nhánh đến nay đạt 7580 thẻ, thu phí
dịch vụ thẻ đạt 161 triệu đồng.
Về số lƣợng, phân bố: lắp đặt 3 máy, trong
đó tại địa bàn thị xã Hà Giang là 2 máy và
địa bàn huyện Bắc Quang (thị trấn Việt
Quang) là 1 máy.
BIDV phát hành 3 loại thẻ ghi Nợ nội địa: thẻ
Power (tiếp nối thành công); thẻ E - trans 365+
(cho quý khách 365 ngày trong năm và hơn thế
nữa) và thẻ Vạn dặm (một bƣớc vạn dặm).
* Dịch vụ Internetbanking
Từ năm 2007 Chi nhánh đã bắt đầu triển khai
các sản phẩm mới nhƣ: Dịch vụ gửi - Nhận
tin nhắn ngân hàng qua ĐTDĐ (BSMS).
Trong năm 2008, số lƣợng sản phẩm dịch vụ
ngân hàng đƣợc gia tăng, một số sản phẩm
dịch vụ mới đã đƣợc triển khai nhƣ: Dịch vụ
vấn tin tài khoản trên Internet - BIVD (Direct
Banking); BIDV - VnTopup doanh thu về sản
phẩm dịch vụ gia tăng. Năm 2008 thu phí
dịch vụ BSMS đạt 30 triệu đồng, tăng gấp 10
lần so với năm 2007. Đến năm 2009 thì phí
thu dịch vụ tăng mạnh với con số tuyệt đối là
110 triệu đồng.
* Dịch vụ ngân hàng bảo hiểm
Dịch vụ ngân hàng bảo hiểm là sản phẩm liên
kết giữa BIC (Công ty 100% vốn BIDV) và
BIDV. Mục tiêu hoạt động của công ty là:
nguồn thu phí bảo hiểm chủ yếu là từ thu phí
Bảo hiểm gốc và chú trọng khai thác triệt để
nguồn khách hàng có quan hệ với BIDV. Các
dòng sản phẩm bảo hiểm bao gồm: Sản phẩm
bảo hiểm kết hợp xe cơ giới (bảo hiểm ôtô), bảo
hiểm Mô tô - xe máy, bảo hiểm tai nạn con
ngƣời, bảo hiểm ngƣời vay vốn, bảo hiểm kết
hợp con ngƣời, sản phẩm bảo hiểm Nhà tƣ nhân.
Biểu đồ 9. Doanh thu khai thác phí
bảo hiểm tại Chi nhánh
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
2007 2008 2009 Năm
Số tiền (triệu đồng) Doanh thu khai thác phí BH
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN SẢN
PHẨM DỊCH VỤ CỦA CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN
HÀ GIANG
Những kết quả đạt đƣợc
Dịch vụ ngân hàng tại Chi nhánh hiện nay có
nhiều tiến bộ, song xét về số lƣợng, chất
lƣợng và chủng loại thì đây cũng là giai đoạn
phát triển ban đầu. Nhiều dịch vụ đang ở giai
đoạn thử nghiệm, một khoảng cách rất xa so
với các ngân hàng trong khu vực thậm chí đối
với các ngân hàng trên địa bàn.
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
65
Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của
hạn chế trong phát triển sản phẩm dịch vụ
ngân hàng Chi nhánh ngân hàng đầu tƣ và
phát triển Hà Giang
Những tồn tại, hạn chế
Danh mục dịch vụ cung ứng còn nghèo nàn
quy mô cung cấp dịch vụ còn nhỏ bé
Chất lượng một số dịch vụ còn hạn chế, thủ
tục rườm rà phức tạp
Việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ vẫn
mang nặng tính truyền thống
Nguyên nhân của hạn chế
Nhân tố khách quan: Tình hình kinh tế xã hội,
nền kinh tế vẫn nặng về thanh toán tiền mặt,
tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Nguyên nhân chủ quan: Chƣa có một chiến
lƣợc phát triển dịch vụ dài hạn và kế hoạch
phát triển cụ thể, năng lực tài chính của ngân
hàng còn ở mức thấp, ứng dụng dịch vụ thông
tin để phát triển các dịch vụ ngân hàng còn ở
mức rất hạn chế, chƣa có sự đầu tƣ thoả đáng
cho hoạt động phát triển dịch vụ ngân hàng
chiến lƣợc Marketing chƣa phù hợp để có thể
thu hút khách hàng, đƣa các dịch vụ mới đến
với khách hàng, nhân tố con ngƣời.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM
DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TẠI CHI
NHÁNH
Để có thể phát triển sản phẩm dịch vụ ngân
hàng tại Chi nhánh BIDV Hà giang trong
thời gian tới cần thực hiện các giải pháp cơ
bản sau:
(1) Xây dựng chiến lƣợc sản phẩm toàn
diện, đủ sức cạnh tranh và xác định đúng
vị trí của nó trong hệ thống chiến lƣợc kinh
doanh(5)
Mở rộng danh mục sản phẩm một cách hợp
lý, hiệu quả.
Chi nhánh cần chú trọng tới việc hoàn thiện
sản phẩm, nâng cao chất lƣợng sản phẩm,
tăng tiện ích, tính năng của sản phẩm hiện có.
Đổi mới, cải tiến quy trình, thủ tục cung cấp
các sản phẩm dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu khách hàng.
Bảng 4. Tiêu chí đánh giá chất lƣợng sản phẩm
dịch vụ tại Chi nhánh
Tiêu chí xác định chất lƣợng
sản phẩm dịch vụ ngân hàng
(xếp theo tầm quan trọng)
Điểm
(tổng = 100)
Mức độ tin cậy (khả năng đảm
bảo sản phẩm đã hứa hẹn một
cách chắc chắn và chính xác)
32
Thái độ nhiệt tình của nhân viên
ngân hàng đối với khách hàng 22
Sự bảo đảm (trình độ chuyên
môn và khả năng của nhân viên
ngân hàng trong việc gây đƣợc
tín nhiệm với khách hàng)
19
Sự thông cảm thái độ tỏ ra lo
lắng quan tâm đến khách hàng 16
Yếu tố hữu hình: cơ sở vật chất,
thiết bị,.... 11
(2) Nghiên cứu, áp dụng biểu phí cạnh tranh
(3) Củng cố và nâng cao tiềm lực tài chính
(4) Hoàn thiện hệ thống thông tin, nắm bắt nhu
cầu của các đối tƣợng khách hàng sử dụng sản
phẩm ngân hàng đặc biệt là các khách hàng
mục tiêu
Tăng cƣờng khả năng nắm bắt nhu cầu thị
trƣờng
Coi trọng và tổ chức tốt công tác nghiên cứu
khách hàng
Xây dựng, hoàn thiện và phát triển chiến lƣợc
khách hàng
(5) Đầu tƣ thoả đáng vào phát triển công
nghệ ngân hàng hiện đại, hệ thống hạ tầng
kỹ thuật công nghệ tiên tiến
(6) Củng cố, đầu tƣ đúng mức đa dạng
hoá kênh phân phối và thực hiện phân phối
có hiệu quả
(7) Xây dựng và khuyếch trƣơng hình ảnh
của Chi nhánh
(8) Xây dựng chính sách Marketing và ứng
dụng có hiệu quả kỹ thuật Marketing trong
quá trình cung cấp dịch vụ
(9) Đổi mới cơ chế tổ chức và hoạt động,
xây dựng các cơ chế khuyến khích, tạo
động lực đối với các bộ phận kinh doanh
(10) Đào tạo phát triển đội ngũ nhân lực
chuyên nghiệp đặc biệt là nhân viên thiết kế
sản phẩm và giao dịch trực tiếp quan hệ với
khách hàng
Nguyễn Thị Hồng Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 59 - 66
66
KẾT LUẬN
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phƣơng
pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu và phạm
vi nghiên cứu đề tài đã làm sáng tỏ và có một
số đóng góp cơ bản sau đây:
Một là: Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về
NHTM và dịch vụ của ngân hàng, từ đó nêu
lên vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế,
đặc trƣng của dịch vụ NHTM, phát triển dịch
vụ ngân hàng, các tiêu thức phản ánh mức độ
phát triển cũng nhƣ những nhân tố ảnh hƣởng
đến sự phát triển sản phẩm dịch vụ ngân
hàng.
Hai là: Làm rõ thực trạng hoạt động dịch vụ
ngân hàng của Chi nhánh BIDV Hà Giang
trong những năm gần đây thông qua việc
đánh giá các nhân tố thúc đẩy phát triển, các
nhân tố kìm hãm phát triển dịch vụ của Chi
nhánh BIDV Hà Giang.
Ba là: Đề xuất một số giải pháp khả thi vừa
mang tính hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng
hiện có của Chi nhánh BIDV Hà Giang, đồng
thời vừa phát triển một số dịch vụ mới đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng,
duy trì thị phần và nâng cao khả năng cạnh
tranh của Chi nhánh BIDV Hà Giang trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa
các hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng của
Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập các tổ
chức APEC, WTO,….
Bốn là: Đƣa ra một số kiến nghị với Chính
phủ, với NHNN Việt Nam, với BIDV Việt
Nam và các ban ngành có liên quan trong việc
hoạch định những chính sách, ban hành
những chính sách, phối kết hợp giữa các ban
ngành nhằm đƣa ra những chính sách hiệu
quả thúc đẩy phát triển sản phẩm dịch vụ
ngân hàng của BIDV Việt Nam nói chung và
BIDV Hà Giang nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo tổng kết, báo cáo hoạt động kinh
doanh các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009 của
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Hà Giang.
[2]. Đại học Kinh tế quốc dân (2002), Marketing,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
[3]. Lê Tiến Phúc (2001), Phát triển dịch vụ tài
chính - kế toán ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội.
[4]. Luận văn Thạc sỹ kinh tế.
[5]. Nguyễn Bá Minh (2001), “Xu hƣớng đa dạng
hoá dịch vụ ngân hàng trong chiến lƣợc kinh
doanh của NHTM ở nƣớc ta”, Tạp chí Ngân hàng,
số 3, trang 7 - 9.
SUMMARY
DEVELOPMENT OF BANK PRODUCTS AND SERVICES AT BANK
FOR INVESTMENT AND DEVELOPMENT OF VIET NAM - HA GIANG BRANCH
Nguyen Thi Hong Yen*, Tran Pham Van Cuong
Thai Nguyen University of Economics and Business Administration - TNU
International economic integration, the issue of opening the banking sector and the actual service
needs growing diversity requires commercial banks in Vietnam in general, BIDV Ha Giang in
particular not only improve existing services but also is continuing to develop new banking
services. Based on the study and assess the actual supply of products and services of Ha Giang
BIDV to propose a workable solution has improved the nature of banking services is also
developing additional services meet the increasing requirements of customers, maintain market
share and improve the competitiveness of the branch during the period of Vietnam's economy after
joining organizations APEC, WTO, ...
Keywords: commercial banking products, commercial banking services, product development,
product development solutions, BIDV Ha Giang
* Emai: [email protected]
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
67
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH HỢP NHẤT
TẠI TẬP ĐOÀN FPT
Thái Thị Thu Trang
*, Đàm Phƣơng Lan
Trường ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tất yếu cần có hợp
nhất kinh doanh nhằm giảm đối thủ cạnh tranh, đa dạng hóa ngành nghề và mở rộng thị trƣờng. Do
đó thực tế yêu cầu về thông tin tài chính của các tập đoàn kinh tế Việt Nam nói chung và của Tập
đoàn FPT nói riêng thông qua hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất ngày càng phải hiệu quả và toàn
diện. Những tìm hiểu và đánh giá thực trạng hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất tại Tập đoàn
FPT nhằm đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất, đáp ứng
yêu cầu cung cấp thông tin tài chính hiệu quả trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam sau khi thực
hiện cổ phần hóa và phát triển thị trƣờng chứng khoán.
Từ khóa: hợp nhất, báo cáo tài chính hợp nhất, hoàn thiện báo cáo tài chính hợp nhất, Tập đoàn FPT.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Với bối cảnh nền kinh tế nƣớc ta hiện nay
đang vận hành theo cơ chế thị trƣờng và trong
xu thế hội nhập, cạnh tranh diễn ra ngày càng
quyết liệt, tất yếu cần có hợp nhất kinh doanh
nhằm giảm đối thủ cạnh tranh, đa dạng hóa
ngành nghề và mở rộng thị trƣờng. Hệ thống
báo cáo tài chính hợp nhất ra đời cùng với sự
xuất hiện của mô hình tập đoàn kinh tế là một
hệ thống báo cáo mới, đặc thù và rất phức tạp
cần phải đƣợc nghiên cứu và hoàn thiện dần
trong thực tiễn.
CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
Công ty mẹ - công ty con là một hình thức
liên kết và chi phối lẫn nhau bằng đầu tƣ, góp
vốn, bí quyết công nghệ, thƣơng hiệu hoặc thị
trƣờng, giữa các công ty có tƣ cách pháp
nhân, trong đó có một công ty giữ quyền chi
phối các công ty thành viên khác (gọi là công
ty mẹ) và các công ty thành viên khác bị công
ty mẹ chi phối (gọi là công ty con) hoặc có
một phần vốn góp của công ty mẹ (gọi là
công ty liên kết hoặc liên doanh).
Theo diễn giải của chuẩn mực kế toán quốc tế
IAS (International Accounting Standard),
công ty mẹ là một thực thể pháp lý có ít nhất
một đơn vị trực thuộc – công ty con. Công ty
con là thực thể pháp lý bị kiểm soát bởi công
ty mẹ[2]
. Kiểm soát ở đây đƣợc hiểu là: (1) sở
* Tel: 0982198499; Email: [email protected]
hữu trực tiếp hoặc gián tiếp nhiều hơn 50% số
phiếu bầu; hoặc (2) sở hữu 50% số phiếu bầu
hoặc ít hơn nhƣng nắm quyền đối với hơn
50% số phiếu bầu theo sự thỏa thuận với các
cổ đông khác; hoặc nắm quyền lãnh đạo, điều
hành liên quan đến các chính sách tài chính
hay sản xuất kinh doanh của công ty và đƣợc
quy định tại điều lệ, theo sự thỏa thuận hay
hợp đồng; hoặc có quyền bổ nhiệm hay miễn
nhiệm phần lớn các thành viên của Hội đồng
quản trị, ban lãnh đạo; hay có quyền quyết
định, định hƣớng đến phần lớn số phiếu bầu
tại các cuộc họp của hội đồng quản trị, ban
lãnh đạo.
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI
CHÍNH HỢP NHẤT TẠI TẬP ĐOÀN FPT
Thành lập ngày 13/08/1988, FPT là Tập đoàn
công nghệ thông tin và viễn thông hàng đầu
Việt Nam với các mảng kinh doanh cốt lõi là
viễn thông, công nghiệp nội dung các dịch vụ
công nghệ thông tin.
Tập đoàn FPT (Tập đoàn) là doanh nghiệp tƣ
nhân lớn nhất Việt Nam theo xếp hạng của
VNR500 từ năm 2007 đến nay.
Nội dung của hệ thống báo cáo tài chính tại
Tập đoàn
Hệ thống báo cáo tài chính của công ty mẹ
và các công ty con
Công ty mẹ và các công ty con đều tổ chức bộ
máy kế toán riêng do đó hệ thống báo cáo đƣợc
lập là hệ thống báo cáo của đơn vị độc lập .
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
68
Hệ thống báo cáo tài chính của Tập đoàn
Hệ thống báo cáo tài chính của Tập đoàn là hệ
thống báo cáo tài chính hợp nhất, bao gồm
công ty mẹ, các công ty liên kết và tất cả các
công ty con do Tập đoàn kiểm soát. Tập đoàn
bắt đầu thực hiện lập báo cáo tài chính hợp
nhất từ năm 2006.
Đa số các công ty con của Tập đoàn đƣợc hợp
nhất khi Tập đoàn nắm giữ trên 50% quyền
biểu quyết tại các công ty đó. Ngoài ra có hai
công ty khác biệt:
- Công ty CP viễn thông FPT: Tập đoàn sở hữu 41,62% vốn và có 41,62% quyền biểu quyết ở Công ty. Tuy nhiên, Tập đoàn có quyền bỏ đa số phiếu tại các cuộc họp của Hội đồng quản trị của Công ty và do đó có quyền chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của Công ty. Nhƣ vậy, Tập đoàn có
quyền kiểm soát đối với Công ty và thực hiện hợp nhất các Báo cáo tài chính của Công ty vào các báo cáo tài chính hợp nhất của Tập đoàn
[1].
- Công ty CP dịch vụ trực tuyến FPT: Tập
đoàn sở hữu 34,67% vốn ở Công ty, trong đó
lợi ích trực tiếp là 23,33% và lợi ích gián
tiếp thông qua Công ty CP viễn thông FPT là
11,34%. Công ty CP viễn thông FPT cũng sở
hữu 27,22% vốn ở Công ty. Trên cơ sở Công
ty CP viễn thông FPT kiểm soát trên 50%
quyền biểu quyết thông qua các thỏa thuận
của họ với Tập đoàn và một nhà đầu tƣ cá
nhân khác của Công ty. Do đó, Tập đoàn
thực hiện hợp nhất các Báo cáo tài chính của
Công ty vào các báo cáo tài chính hợp nhất
của Tập đoàn[1]
.
Sơ đồ 1. Bộ máy tổ chức của Tập đoàn FPT
Bảng 1. Các công ty con tại ngày 31.12.2009 của Tập đoàn
Tên công ty con Quyền
sở hữu
Quyền
biểu quyết
Cty CP Hệ thống thông tin FPT 95% 95%
Cty CP phần mềm FPT 67,52% 67,52%
Cty CP thƣơng mại FPT 95% 95%
Cty CP viễn thông FPT 41, 62% 41,62%
Đại học FPT 100% 100%
Cty CP quảng cáo FPT 60% 60%
Cty TNHH bất động sản FPT 100% 100%
Cty TNHH truyền thông FPT 100% 100%
Cty TNHH dịch vụ tin học FPT 100% 100%
Cty CP dịch vụ trực tuyến FPT 34,67% 50,56%
Cty TNHH Phát triển khu công nghệ cao Hòa Lạc FPT 100% 100%
Cty CP FPT Visky 84,71% 100%
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
69
Bảng 2. Các công ty liên kết tại ngày 31.12.2009
của Tập đoàn FPT
Tên công ty liên kết Tỷ lệ
phần sở hữu
Cty CP chứng khoán FPT 25%
Cty CP quản lý quỹ FPT 33%
Ngân hàng thƣơng mại CP
Tiên Phong 15,96%
- Theo quy định (Chuẩn mực kế toán 07 - Kế
toán các khoản đầu tƣ vào công ty liên kết),
các công ty đƣợc coi là công ty liên kết với
Tập đoàn khi Tập đoàn có ảnh hƣởng đáng kể
(nắm giữ ít nhất 20% quyền biểu quyết)
nhƣng không phải là công ty con hoặc công ty
liên doanh của Tập đoàn. Tuy nhiên đối với
Ngân hàng thƣơng mại CP Tiên Phong là
công ty liên kết đồng thời là công ty đƣợc hợp
nhất. Cụ thể nhƣ sau:
- Tập đoàn nắm giữ 15,96% tại Ngân hàng.
Tập đoàn có ảnh hƣởng đáng kể tới Ngân
hàng thông qua đại diện có vai trò chủ chốt
của Tập đoàn trong Hội đồng quản trị của
Ngân hàng. Do đó, Tập đoàn thực hiện hợp
nhất các Báo cáo tài chính của Ngân hàng vào
các báo cáo tài chính hợp nhất của Tập đoàn
theo phƣơng pháp vốn chủ sở hữu[1]
.
Hệ thống BCTC hợp nhất của Tập đoàn:
- Bảng cân đối kế toán hợp nhất - Mẫu số B0-
DN/HN
- BC kết quả hoạt động KD hợp nhất - Mẫu số
B02-DN/HN
- BC lƣu chuyển tiền tệ hợp nhất - Mẫu số
B03-DN/HN
- Thuyết minh báo cáo tài chính - Mẫu số
B09-DN/HN
Ngoài hệ thống báo cáo tài chính của Tập
đoàn cung cấp cho ngƣời sử dụng những
thông tin tổng hợp về tình hình tài chính của
đơn vị, từ năm 2007 Tập đoàn đã lập Báo cáo
thƣờng niên theo mẫu CBTT-02 Ban hành
kèm theo Thông tƣ số 38/2007/TT-BTC ngày
18/4/2007 của Bộ trƣởng Bộ Tài chính hƣớng
dẫn về việc Công bố thông tin trên thị trƣờng
chứng khoán.
Thực trạng luân chuyển chứng từ, tài liệu
lập báo cáo tài chính tại các công ty con
Do đặc điểm lĩnh vực kinh doanh khác nhau,
nguồn nhân lực còn hạn chế nên công tác lập
báo cáo tài chính cũng nhƣ cung cấp các
thông tin liên quan cho Tập đoàn phục vụ lập
báo cáo tài chính hợp nhất còn có những hạn
chế nhƣ: cách cung cấp thông tin phục vụ lập
báo cáo tài chính hợp nhất tại Tập đoàn là
chƣa phù hợp, kế toán của các công ty con
chƣa chủ động trong việc cung cấp thông tin,
chƣa nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của
việc cung cấp thông tin của công ty mình với
việc lập BCTC hợp nhất của Tập đoàn.
Thời hạn lập và nộp báo cáo tài chính
Tập đoàn và các công ty con đều thực hiện
lập và nộp báo cáo tài chính vào cuối niên độ
kế toán cho các cơ quan chức năng theo quy
định. Đồng thời Tập đoàn lập báo cáo tài
chính giữa niên độ (dạng đầy đủ) theo quy
định tại thông tƣ số 38/2007/TT - BTC về
việc hƣớng dẫn công bố thông tin trên thị
trƣờng chứng khoán.
+ Đối với báo cáo niên độ:
Các công ty con phải lập, nộp báo cáo tài
chính và cung cấp thông tin qua mạng nội bộ
để Tập đoàn lập báo cáo tài chính hợp nhất
trong thời hạn 75 ngày.
Tập đoàn phải hoàn thành và nộp BCTC cho
các cơ quan chức năng trong thời hạn 90 ngày
kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Các báo cáo niên độ đều phải đƣợc kiểm toán
và ngày hoàn thành báo cáo tài chính niên độ
đƣợc tính từ ngày tổ chức kiểm toán đƣợc
chấp thuận ký báo cáo kiểm toán.
Là một công ty đại chúng, trong thời hạn
mƣời ngày, kể từ ngày có báo cáo tài chính
năm đƣợc kiểm toán, Tập đoàn phải công bố
thông tin định kỳ về báo cáo tài chính năm
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 16
Luật chứng khoán.
+ Đối với báo cáo giữa niên độ:
Tập đoàn lập báo cáo tài chính giữa niên độ
và nộp cho các cơ quan chức năng trong thời
hạn 25 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài
chính. Một số công ty con cũng trong phạm vi
bắt buộc lập báo cáo giữa niên độ nhƣ Công
ty hệ thống thông tin FPT, Công ty cổ phần
viễn thông FPT.
Báo cáo giữa niên độ phải thực hiện kiểm
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
70
toán, Tập đoàn phải công bố thông tin trong
vòng 5 ngày sau khi hoàn thành BCTC quý.
Trên thực tế, hệ thống báo cáo tài chính của Tập đoàn và các công ty con đều đƣợc lập và nộp trƣớc hạn quy định. Báo cáo tài chính năm đã đƣợc kiểm toán và công bố trên trang điện tử của Tập đoàn trong tháng 3 của năm sau, các báo cáo quý thƣờng đƣợc công khai trong vòng 10 ngày sau khi kết thúc quý.
Trình tự lập báo cáo tài chính hợp nhất
+ Bƣớc 1: Trên cơ sở các quy định về mẫu biểu báo cáo kế toán thống nhất toàn Tập đoàn (Theo QĐ số 15), các công ty con sẽ căn cứ vào sổ kế toán chi tiết và số kế toán tổng hợp tại công ty mình lập báo cáo tài chính riêng cho công ty và gửi về Ban Tài chính - Kế toán của Tập đoàn.
Đối với các giao dịch nội bộ của Tập đoàn có
liên quan đến các công ty con thì các công ty
con phải gửi chứng từ giao dịch nội bộ hoặc
bảng kê giao dịch nội bộ kèm theo để Ban Tài
chính - Kế toán dùng làm căn cứ để tổng hợp
số liệu lên Bảng cân đối thử trƣớc khi lập báo
cáo tài chính hợp nhất chính thức.
+ Bƣớc 2: Ban Tài chính - Kế toán tại Tập
đoàn tiến hành tổng hợp số liệu trên các báo
cáo tài chính của các công ty con và công ty
mẹ trong kỳ theo hai nhóm:
- Cộng các chỉ tiêu lại với nhau theo từng loại
tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn, nợ phải trả,
nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí, thu
nhập của BCTC của các công ty con để Tập
đoàn thể hiện quyền kiểm soát của mình.
- Loại trừ phần vốn chủ sở hữu và kết quả của
lợi ích cổ đông thiểu số để báo cáo tài chính
đƣợc lập theo đúng quan điểm hợp nhất.
Phƣơng pháp lập cụ thể từng mẫu biểu nhƣ
sau:
Bảng cân đối kế toán hợp nhất
Bảng cân đối kế toán hợp nhất đƣợc lập trên
cơ sở hợp nhất các Bảng cân đối kế toán của
công ty mẹ và các công ty con theo từng
khoản mục tƣơng đƣơng của tài sản, nợ phải
trả, vốn chủ sở hữu theo nguyên tắc:
- Đối với các khoản mục của Bảng cân đối kế
toán không phải điều chỉnh thì đƣợc cộng trực
tiếp để xác định khoản mục tƣơng đƣơng của
của Bảng cân đối kế toán hợp nhất;
- Đối với các khoản mục phải điều chỉnh
đƣợc thực hiện điều chỉnh sau đó mới cộng để
hợp nhất các khoản mục này và trình bày trên
Bảng cân đối kế toán hợp nhất. Các chỉ tiêu
đã đƣợc điều chỉnh liên quan đến Bảng cân
đối kế toán hợp nhất của Tập đoàn gồm:
+ Các khoản đầu tƣ của công ty mẹ vào các
công ty con;
+ Lợi ích của cổ đông thiểu số;
+ Các khoản phải thu, phải trả nội bộ giữa các
đơn vị trong Tập đoàn;
+ Các khoản lãi, lỗ nội bộ chƣa thực sự phát
sinh;
Sơ đồ 3. Trình tự lập báo cáo tài chính hợp
nhất tại Tập đoàn FPT
Việc điều chỉnh một số chỉ tiêu cụ thể nhƣ
sau:
+ Các khoản đầu tƣ của công ty mẹ vào công
ty con: Khoản đầu tƣ vào các công ty con của
Tập đoàn đƣợc hạch toán theo chuẩn mực số
25 “Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán các
khoản đầu tƣ vào công ty con”. Khoản đầu tƣ
này đƣợc phản ánh theo giá gốc, trình bày tại
khoản mục “Đầu tƣ vào công ty con” - mã số
252 trên Bảng cân đối kế toán riêng của công
ty mẹ, và trình bày tại mục “Vốn chủ sở hữu”
- mã số 410 trên Bảng cân đối kế toán riêng
của công ty con (chi tiết cho các khoản mục
Vốn chủ sở hữu). Khi lập Bảng cân đối kế
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
71
toán hợp nhất hàng năm, kế toán cần bù trừ
khoản đầu tƣ vào công ty con và vốn chủ
sở hữu của công ty con thuộc Tập đoàn
theo giá gốc.
Bút toán bù trừ:
Nợ TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh
Có TK 222 - Đầu tƣ vào công ty con
Kết quả là sau khi thực hiện bút toán bù trừ,
giá trị khoản đầu tƣ vào công ty con sẽ không
thể hiện trên Bảng cân đối kế toán hợp nhất.
+ Các khoản phải thu, phải trả nội bộ Tập
đoàn: Kế toán tổng hợp của Tập đoàn tiến
hành đối chiếu các khoản phải thu nội bộ của
Tập đoàn với các công ty con (trên sổ, Bảng
tổng hợp của Tập đoàn) và khoản phải trả nội
bộ cho Tập đoàn (trên sổ, Bảng cân đối kế
toán, thuyết minh BCTC của công ty con) về
các khoản nhƣ: khoản phải trả về cung cấp
dịch vụ Internet của các công ty con, phải trả
về thuế... Hai số liệu này ở Tập đoàn và công
ty con tƣơng ứng khớp nhau và đƣợc bù trừ ra
khỏi số liệu hợp nhất trên Bảng cân đối kế
toán của Tập đoàn.
Kế toán hợp nhất sau khi đối chiếu và khớp
đúng số liệu và phản ánh bút toán điều chỉnh:
Khoản phải trả nội bộ của Tập đoàn:
Nợ TK 336-“Phải trả nội bộ”–Tập đoàn
285.500.550
Có TK 136-“Phải thu nội bộ”–Cty CP Hệ
thống TT 285.500.550
Khoản phải thu nội bộ của Tập đoàn:
Nợ TK 336 - “Phải trả nội bộ” - Cty CP Hệ
thống TT 190.170.431.338
Có TK 136 - “Phải thu nội bộ” – Tập đoàn
190.170.431.338
Cuối cùng, sau khi bù trừ các khoản phải thu,
phải trả giữa các đơn vị trong Tập đoàn, sẽ
không có số dƣ tại các tài khoản phải thu,
phải trả nội bộ trên Bảng cân đối kế toán hợp
nhất của Tập đoàn.
Báo cáo kết quả hoạt động KD hợp nhất
Báo kết quả KD hợp nhất đƣợc lập trên cơ sở
hợp nhất các Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty mẹ và của các công ty con
trong tập đoàn theo từng khoản mục bằng
cách cộng các khoản mục tƣơng đƣơng theo
nguyên tắc:
- Đối với các khoản mục không phải điều
chỉnh thì đƣợc cộng trực tiếp để xác định
khoản mục tƣơng đƣơng của Báo cáo kết quả
KD hợp nhất.
- Đối với những khoản mục phải điều chỉnh
đƣợc thực hiện điều chỉnh sau đó mới cộng để
hợp nhất và trình bày Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh hợp nhất. Các chỉ tiêu đã
đƣợc điều chỉnh liên quan đến hợp nhất Báo
cáo kết quả hoạt động KD gồm:
Bảng 3. Số dƣ với các bên liên quan của Công ty Cổ phần Hệ thống thông tin FPT
(Đơn vị tính: VNĐ)
31.12.2009 31.12.2008
Phải thu
Công ty Cổ phần FPT 285.500.550 69.776.805
Công ty Cổ phần phần mềm FPT 4.314.132.801 1.149.176.489
Công ty TNHH Phân phối FPT 426.775.650 -
Công ty Cổ phần viễn thông FPT 2.597.883.503 865.225.921
Các công ty con khác của Cty Cổ phần FPT 202.729.300 -
Cộng 7.827.021.804 2.084.179.215
Phải trả
Công ty Cổ phần FPT 190.170.431.338 465.578.700.214
Công ty Cổ phần phần mềm FPT 2.931.752.514 22.682.062
Công ty TNHH Phân phối FPT 13.018.239.484 -
Công ty Cổ phần viễn thông FPT 323.367.000 -
Các công ty con khác của Cty Cổ phần FPT 9.008.079.176 1.123.798.242
Cộng 215.451.869.512 466.725.180.518
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
72
+Doanh thu, giá vốn hàng bán, lãi, lỗ nội bộ tập đoàn; + Lãi, lỗ nội bộ chƣa thực sự phát sinh;
+ Lợi ích của cổ đông thiểu số trong lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp; + Thuế thu nhập doanh nghiệp. Ví dụ: Số liệu về doanh thu thuần của Tập đoàn nhƣ bảng 4. Đây chính là doanh thu đã đƣợc hợp nhất, loại
trừ doanh thu với các đơn vị thành viên của Tập đoàn. Để có đƣợc số liệu hợp nhất kế toán tổng hợp doanh thu kinh doanh của Tập đoàn nhƣ bảng 5. Doanh thu nội bộ là doanh thu bán cho các đơn vị thành viên của Tập đoàn đã đƣợc loại
trừ toàn bộ. Nhƣ vậy, doanh thu hợp nhất của Tập đoàn là doanh thu bán cho các bên thứ ba (các đơn vị ngoài Tập đoàn), do đó chỉ tiêu “Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ” của Tập đoàn năm 2009 đƣợc trình bày trên Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất
là: 18.404.026.239.626đ. Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ hợp nhất
Với phƣơng pháp gián tiếp, Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ của Tập đoàn đã đáp ứng đƣợc nhu cầu cung cấp thông tin về tài chính của Tập đoàn đa chiều và đầy đủ, đã thể hiện
đƣợc những điểm đặc thù đối với Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ hợp nhất theo phƣơng pháp gián tiếp: + Lợi ích của cổ đông thiểu số trên Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất không ảnh hƣởng đến lƣu chuyển tiền tệ, do đó phải
cộng trở lại nhƣ khấu hao để tính lƣu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Cổ tức công ty con trả cho công ty mẹ sẽ không ảnh hƣởng đến lƣu chuyển tiền tệ hợp nhất của Tập đoàn. Cổ tức của công ty mẹ trả
cho cổ đông thiểu số sẽ làm giảm lƣu chuyển tiền tệ hợp nhất của Tập đoàn. Do đó cần có thuyết minh cổ tức trả cho cổ đông thiểu số. + Việc công ty mẹ mua thêm cổ phần thƣờng của cổ đông thiểu số là hoạt động đầu tƣ, do đó sẽ đƣợc báo cáo giảm tiền tệ hợp nhất ở
hoạt động đầu tƣ.
Thuyết minh báo cáo tài chính hợp nhất
Thuyết minh BCTC hợp nhất của Tập đoàn
đƣợc trình bày gồm 3 phần:
1. Giới thiệu tóm tắt về Tổng công ty: chức
năng, ngành nghề kinh doanh, cơ cấu vốn và
nhân sự.
2. Tóm tắt những chính sách kế toán chủ
yếu: là những chính sách kế toán mà Tập
đoàn và các công ty con sử dụng để lập
BCTC hợp nhất.
3. Phần thông tin chi tiết cho các khoản mục
đã đƣợc trình bày trên Bảng cân đối kế toán
và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, Thuyết minh báo cáo tài chính của
Tập đoàn còn có những khiếm khuyết:
- Thuyết minh BCTC niên độ và giữa niên độ
chƣa thống nhất về nội dung.
- Nguyên tắc ghi nhận doanh thu và thông tin
chi tiết trên thuyết minh BCTC là chƣa lôgic.
Tập đoàn nên trình bày chi tiết cho các nhóm,
tƣơng ứng với thông tin chi tiết cho giá vốn,
để ngƣời sử dụng dễ dàng có đƣợc thông tin
chi tiết cũng nhƣ việc phân tích thông tin
đƣợc lôgic, mang tính thuyết phục hơn.
Bảng 4. Doanh thu thuần của Tập đoàn FPT
(Đơn vị tính: VNĐ)
2009 2008
Doanh thu bán hàng và CC dịch vụ 18.442.051.089.298 16.429.737.389.964
Trong đó:
Doanh thu bán hàng hóa, SP
Doanh thu CC dịch vụ
11.843.586.973.412
6.578.464.115.886
13.570.434.743.802
2.859.302.646.162
Các khoản giảm trừ doanh thu (18.024.849.672) (47.897.605.482)
Bảng 5. Doanh thu kinh doanh của Tập đoàn
(Đơn vị tính: VNĐ)
2009 2008
Doanh thu thuần bán cho các bên thứ ba 18.404.026.239.626 16.381.839.748.482
Doanh thu thuần bán cho các đơn vị thành viên của
Tập đoàn
337.637.012.224
424.328.396.327
Tổng doanh thu kinh doanh 18.741.663.251.850 16.806.168.180.809
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
73
ĐÁNH GIÁ VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH HỢP NHẤT TẠI TẬP ĐOÀN FPT
Về báo cáo niên độ và báo cáo giữa niên độ:
Các BCTC này đều đƣợc kiểm toán bởi công
ty TNHH DELOITTE Việt Nam, đây là một
thành viên của nhóm “Big 4”- nhóm công ty
kiểm toán có chất lƣợng và độ tin cậy cao. Có
thể đánh giá hệ thống các chỉ tiêu trên báo cáo
tài chính của Tập đoàn theo chế độ hiện hành
đã đƣợc trình bày khá đầy đủ và hợp lý. Tập
đoàn thực hiện lập báo cáo giữa niên độ theo
chuẩn mực kế toán số 27 - Báo cáo tài chính
giữa niên độ. Về mặt nội dung, báo cáo tài
chính giữa niên độ gồm bốn BCTC nằm trong
nhóm đƣợc yêu cầu phải công bố. Tập đoàn
thực hiện lập báo cáo tài chính giữa niên độ
dạng đầy đủ, tuy nhiên các chỉ tiêu trên
BCTC niên độ và giữa niên độ còn có những
bất cập sau: Trên Bảng cân đối kế toán, chỉ
tiêu “Lợi ích của cổ đông thiểu số” có mã số
khác nhau. Trên Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh giữa niên độ không trình bày chỉ
tiêu “Lãi cơ bản trên cổ phiếu”. Chƣa trình
bày phần thuyết minh trên cả 3 báo cáo giữa
niên độ để có thể liên hệ thông tin giữa 3 báo
cáo này và thuyết minh BCTC. Thuyết minh
BCTC còn sơ sài.
Về báo cáo tài chính hợp nhất:
+ Về nội dung của BCTC hợp nhất: Hệ thống
BCTC hợp nhất của Tập đoàn đã tuân thủ
theo chế độ kế toán hiện hành của Việt Nam
gồm:
- Bảng cân đối kế toán hợp nhất (Mẫu số B01/HN)
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất (Mẫu số B02/HN) - Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ hợp nhất (Mẫu số B03/HN) - Thuyết minh báo cáo tài chính hợp nhất (Mẫu số B01/HN)
Khi trình bày Bảng cân đối kế toán hợp nhất, Tập đoàn đã tách biệt đƣợc khoản lợi ích của cổ đông thiểu số trong tài sản thuần của công ty con và trình bày thành một chỉ tiêu riêng biệt trên BCTC. Đồng thời lợi ích của cổ đông thiểu số trong lợi nhuận sau thuế TNDN
của các công ty con đƣợc tách và trình bày theo một chỉ tiêu riêng biệt trên Báo cáo kết quả hoạt động KD hợp nhất.
Ngoài ra để Tập đoàn có thể thực hiện lập
BCTC hợp nhất, thì Tập đoàn đã mở sổ kế
toán hợp nhất (Mẫu số S01/HN)
+ Về phƣơng pháp lập BCTC hợp nhất: Mặc
dù mới thực hiện lập BCTC hợp nhất nhƣng
Tập đoàn đã sử dụng phƣơng pháp tài khoản
để thực hiện cho các bút toán điều chỉnh khi
lập BCTC hợp nhất, phƣơng pháp này đã đảm
bảo đƣơc tính thống nhất, tính khoa học trong
hệ thống các phƣơng pháp kế toán. Bằng việc
sử dụng bút toán Nợ - Có, đảm bảo đƣợc tính dễ
hiểu, dễ kiểm tra đối chiếu số liệu của thông tin
kế toán.
Tuy nhiên, do mới thực hiện hợp nhất và lập
báo cáo tài chính hợp nhất từ năm 2006, công
tác lập BCTC hợp nhất của Tập đoàn không
đƣợc lập kế hoạch chi tiết một cách đầy đủ.
Do đó đến cuối năm tài chính, khi đặt ra vấn
đề lập BCTC hợp nhất thì các khó khăn mới
đƣợc đề cập. Ngoài khó khăn về nhân sự thì các
thông tin phục vụ cho quá trình hợp nhất thƣờng
không đầy đủ, không kịp thời và không đủ chất
lƣợng đáp ứng yêu cầu hợp nhất. Lý do đơn
giản là các thông tin này đã không đƣợc theo
dõi đầy đủ và theo một mẫu biểu thống nhất từ
khi nó phát sinh.
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI TẬP ĐOÀN FPT
Bổ sung thông tin trên báo cáo tài chính
của công ty cổ phần theo yêu cầu của thị
trƣờng chứng khoán;Bố trí lại các chỉ tiêu
trên báo cáo tài chính niên độ và giữa niên
độ thống nhất và hợp lý; Đồng nhất quy
trình khóa sổ và lập BCTC hợp nhất;
- Đồng nhất về chính sách kế toán áp dụng:
- Đồng nhất hệ thống mẫu biểu báo cáo:
- Quy định về thời hạn hoàn thành báo cáo tại
các công ty con.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO
CÁO TÀI CHÍNH TẠI TẬP ĐOÀN FPT
Hoàn thiện Bảng cân đối kế toán
Hiện tại bảng cân đối kế toán dùng cho Tập
đoàn FPT vẫn còn một số khiếm khuyết chƣa
đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin của các đối
tƣợng. Để góp phần hoàn thiện bảng cân đối
kế toán cần bổ sung thêm vào Bảng cân đối
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
74
kế toán hiện hành một số chỉ tiêu:
+ Chỉ tiêu “Phải thu vốn gọi chƣa góp của cổ
đông”. Chỉ tiêu khoản phải thu vốn gọi chƣa
góp đƣợc phản ánh riêng biệt và đƣợc bổ sung ở
phần Tài sản-Loại A-Mục III Các khoản phải
thu.
Chỉ tiêu này nhằm phản ánh lƣợng tài sản đơn
vị nhận đƣợc trong tƣơng lai khi các cổ đông
góp vốn theo thời điểm quy định trong hợp
đồng đặt mua cổ phiếu. Mã số đƣợc đề nghị là
137.
+ Chỉ tiêu “Phải trả cổ đông”: Đƣợc bổ sung ở
phần Nguồn vốn-Loại A-Mục I Nợ ngắn hạn và
đƣợc chi tiết theo hai nội dung thanh toán: cổ
tức trả bằng tiền và hoàn trả vốn góp của cổ
đông.
+ Chỉ tiêu “Nợ vay do phát hành trái phiếu”:
Đƣợc bổ sung ở phần Nguồn vốn-Loại A-Nợ
phải trả-Mục II Nợ dài hạn
+ Bổ sung các nội dung chi tiết liên quan đến
chỉ tiêu “Nguồn vốn kinh doanh”. Để cung
cấp thông tin đầy đủ chỉ tiêu nguồn vốn kinh
doanh cần đƣợc chi tiết theo nguồn hình
thành bao gồm: Vốn góp của cổ đông; Thặng
dƣ vốn cổ phiếu; Phát hành cổ tức cổ phiếu;
Vốn góp do biếu tặng; Vốn góp liên doanh
+ Bổ sung chỉ tiêu “Cổ tức phải trả bằng cổ
phiếu”.Chỉ tiêu đƣợc phản ánh ở phần Nguồn
vốn-Loại B-Nguồn vốn chủ sở hữu mã số
417.
+ Bổ sung chỉ tiêu “Vốn gọi chƣa góp”. Chỉ
tiêu đƣợc đặt ở phần Nguồn vốn-Loại B-
Nguồn vốn chủ sở hữu sau chỉ tiêu nguồn vốn
đầu tƣ xây dựng cơ bản, mã số đƣợc đề nghị
418.
Hoàn thiện Báo cáo kết quả hoạt động KD
Sau hàng quý, Tập đoàn nên tính lại EPS của 4 quý gần nhất (gồm LNST của 4 quý gần
nhất chia cho số cổ phiếu bình quân gia truyền lƣu hành trong 4 quý gần nhất), để có đƣợc những thông tin về khả năng sinh lời trên 1 đồng vốn cổ đông trong 4 quý gần nhất vừa qua, giúp cho nhà đầu tƣ đánh giá chính xác hơn “sức mạnh” của doanh nghiệp. Khi
đó chỉ tiêu “Lãi Cơ bản trên cổ phiếu” sẽ đƣợc trình bày chi tiết gồm:
+ Lãi trên cổ phiếu của kỳ báo cáo
+ Lãi trên cổ phiếu của 4 quý gần nhất (So
với thời điểm báo cáo)
Hoàn thiện Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
+Hoàn thiện về cấu trúc báo cáo lưu chuyển
tiền tệ
+Hoàn thiện nội dung các chỉ tiêu trong báo
cáo lưu chuyển tiền tệ
Hoàn thiện Thuyết minh báo cáo tài chính
+ Đối với Thuyết minh BCTC giữa niên độ:
Bổ sung thông tin lãi trên cổ phiếu
- Cơ sở tính lãi cơ bản trên cổ phiếu: Việc
tính lãi cơ bản trên cổ phiếu đƣợc tính dựa
trên số lợi nhuận thuộc về cổ đông sở hữu cổ
phiếu phổ thông và số lƣợng bình quân gia
quyền của số cổ phiếu phổ thông đang lƣu
hành trong kỳ.
- Lợi nhuận thuần thuộc về cổ đông sở hữu cổ
phiếu phổ thông
Chỉ tiêu
Luỹ kế
đến quý
(N-1)
Luỹ kế
đến quý
N
Lợi nhuận thuần trong
kỳ (luỹ kế 4 quý gần
kỳ báo cáo nhất)
- Số cổ phiếu phổ thông BQ gia quyền đang
lƣu hành trong kỳ:
Chỉ tiêu
Luỹ kế
đến quý
(N-1)
Luỹ kế
đến
quý N
- Cổ phiếu phổ thông đã
phát hành đầu kỳ
- Ảnh hƣởng của số cổ
phiếu phổ thông phát
hành trong kỳ
- Ảnh hƣởng của cổ
phiếu giảm trong kỳ
Ghi âm
(...)
Ghi âm
(...)
- Số cổ phiếu phổ thông
BQ gia quyền cuối kỳ
+ Đối với Thuyết minh BCTC niên độ: Bổ
sung thông tin thuế và các khoản phải nộp
Nhà nƣớc
KẾT LUẬN
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phƣơng
pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu và phạm
vi nghiên cứu đề tài đã làm sáng tỏ và có một
số đóng góp cơ bản sau đây:
Một là, hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất. Từ đó nêu lên mục đích của báo cáo tài chính hợp nhất, trách nhiệm, nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất cũng nhƣ các vấn
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
75
đề liên quan đến hợp nhất báo cáo tài chính.
Hai là, làm rõ thực trạng hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất trên các khía cạnh: Nội dung; thời hạn lập và nộp, trình tự và phƣơng pháp lập báo cáo tài chính tại Tập đoàn FPT. Qua đó đánh giá những ƣu, nhƣợc điểm của hệ thống báo tài chính tại Tập đoàn.
Ba là, đề tài đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất tại Tập đoàn nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng hiệu quả và nhanh chóng của các đối tƣợng sử dụng thông tin, nhất là sau giai đoạn Tập đoàn đã thực hiện cổ phần hóa và niêm yết cổ phiếu trên thị trƣờng chứng khoán.
Bốn là, tác giả đƣa ra một số kiến nghị với
Nhà nƣớc, Bộ Tài chính, Tập đoàn FPT
cũng nhƣ các ban ngành có liên quan việc
hoạch định chính sách, ban hành những
quyết định, thông tƣ nhằm hoàn thiện hệ
thống báo cáo tài chính hợp nhất của các
tập đoàn kinh tế Việt Nam nói chung và của
Tập đoàn FPT nói riêng.
Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính hợp
nhất là một đề tài rộng lớn, có nhiều hƣớng
tiếp cận khác nhau đối với các tập đoàn kinh
tế. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này,
tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu thực
trạng hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất tại
Tập đoàn FPT và đƣa ra hƣớng tiếp cận riêng
cho FPT nhằm hoàn thiện báo cáo tài chính hợp
nhất trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo tài chính, báo cáo thường niên các
năm 2006, 2007, 2008, 2009 của Tập đoàn FPT.
[2]. ISA 27 (2007), International Accounting
Standars
[3]. Huỳnh Thị Ngọc Phƣợng (2007), Nguyên tắc
và phương pháp điều chỉnh các chỉ tiêu khi lập
báo cáo tài chính hợp nhất, Luận văn Thạc sỹ
kinh tế - Học viện Tài chính, Hà Nội.
[4]. Nguyễn Văn Công (2005), Chuyên khảo về
Báo cáo tài chính và lập, đọc, kiểm tra, phân tích
báo cáo tài chính, Nhà xuất bản Tài chính, Hà
Nội.
[5]. Ngô Thế Chi (2005), Lập báo cáo tài chính hợp
nhất theo chuẩn mực kế toán Việt Nam - VAS 25,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Đình Đỗ, Nguyễn Tuấn Anh (2004),
Phương pháp lập báo cáo tài chính hợp nhất của các
tập đoàn kinh tế, Tạp chí nghiên cứu tài chính kế
toán, số 16, trang 19-20.
[7]. Võ Văn Nhị (2006), Hoàn thiện báo cáo tài
chính hợp nhất áp dụng cho Tổng công ty, công ty
mẹ - công ty con ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp
Bộ - Trƣờng ĐH Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
SUMMARY
IMPROVING THE SYSTEM OF CONSOLIDATED FINANCIAL STATEMENTS
IN FPT CORPORATION
Thai Thi Thu Trang
*, Dam Phuong Lan
Thainguyen University of Economics and Business Administration - TNU
In the trend of international economic integration, the enterprise consolidation is very essential to
reduce business competition, diversify the kinds of career and broaden the market. Therefore, the
currently financial information requirements of the economic group in Vietnam, in general and
FPT Group, in particular through its consolidated financial statements have to be more effective
and comprehensive. The current state understanding and assessment of the CFS system in FPT
Group aims to map out some solutions to improving the CFS system, meet the requirements of
providing effective financial information after the period of joint-stocking and developing
securities market in Vietnam.
Key words: consolidation, the consolidated financial statement (CFS), improving the
consolidated financial statement, FPT Group.
* Tel: 0982.198.499; Email: [email protected]
Thái Thị Thu Trang và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 67 - 75
76
Nguyễn Thị Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 77 - 81
77
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VỚI GIẢM NGHÈO
TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Yến*, Đỗ Văn Giai
Trường Đại học Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nghèo đói của Tỉnh Thái Nguyên có những mối quan hệ nhất
định và đã có sự thay đổi trong những năm trở lại đây. Tốc độ tăng trƣởng cao và liên tục trong
nông nghiệp; sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho sản xuất; cùng với việc đầu tƣ trong xây dựng
cơ sở hạ tầng; và sự đa dạng về địa hình là nhân tố có tác động tích cực đến thu nhập của hộ nông
dân, đặc biệt là những hộ nông dân nghèo.
Từ khoá: Nông nghiệp, nông thôn, nghèo đói, tăng trưởng, hộ nông dân.
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƢỞNG KINH
TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ GIẢM NGHÈO
Mặc dù quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và
giảm nghèo (xác định bằng độ co dãn tăng
trƣởng của giảm nghèo có thể đƣợc định
nghĩa bằng sự thay đổi tƣơng đối của giảm
nghèo trong hai thời kỳ tính toán cho 1% tăng
thu nhập [6]) không phải mang tính cơ học,
song nhìn chung những nƣớc giàu có tỷ lệ
nghèo thấp hơn, và tăng trƣởng kinh tế cao và
bền vững sẽ dẫn đến giảm nghèo. Trong suốt
thập kỷ 90 của thế kỷ XX và đến năm 2009
Việt Nam đã đạt đƣợc thành tích tăng trƣởng
cao đi đôi với giảm nghèo nhanh chóng. Tuy
nhiên tác động giảm nghèo của tăng trƣởng
kinh tế đã suy giảm trong những năm gần
đây: 1% tăng trƣởng GDP đƣa đến giảm
0,77% số ngƣời nghèo trong những năm
1993- 1998, nhƣng chỉ còn 0,66% trong giai
đoạn 1998- 2002. Điều này cho thấy tác động
rất khác nhau của chính sách thúc đẩy tăng
trƣởng kinh tế của từng giai đoạn [1].
Trong những năm qua, Thái Nguyên đã tập
trung mọi nguồn lực cho sản xuất nhằm thúc
đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế, đặc biệt
là phát triển kinh tế cho khu vực nông thôn.
Với tốc độ tăng trƣởng kinh tế bình quân giai
đoạn 2000- 2009 đạt trên 10%/ năm, tỷ lệ hộ
nghèo năm 2009 chỉ còn 13,9% đã làm cho
thấy thành tích tăng trƣởng kinh tế đi đôi với
giảm nghèo của Thái Nguyên khá ấn tƣợng.
Độ co giãn của tăng trƣởng với giảm nghèo
của Thái Nguyên có xu hƣớng tăng lên trong
khoảng thời gian từ năm 2006- 2009. Cụ thể,
năm 2007 khi thu nhập bình quân đầu ngƣời
tăng 1% thì hộ nghèo giảm xuống 0,03%,
năm 2009 là 0,15%. Thành tích mà tỉnh Thái
Nguyên đạt đƣợc về giảm nghèo là do một số
chính sách hỗ trợ kịp thời của nhà nƣớc trong
sản xuất và đời sống, cùng với nỗ lực của hộ
trong việc thoát nghèo.
Tuy nhiên, tăng trƣởng kinh tế tỉnh Thái
Nguyên đạt đƣợc do tăng thu nhập từ các hoạt
động kinh tế hiện hành (nông nghiệp) và tạo
ra nhiều hoạt động kinh tế mới thông qua việc
thu hút thêm lao động. Mặc dù tốc độ tăng thu
nhập bình quân đầu ngƣời trong giai đoạn
2006- 2009 khá cao nhƣng tốc độ giảm nghèo
tỉnh Thái Nguyên vẫn còn chậm, tỷ lệ hộ
nghèo giảm bình quân khoảng 2-3%/năm.
Bảng 1*Mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và giảm nghèo tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2004 - 2009
Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 2009
Thu nhập bình quân/ngƣời/năm Tr. đ 4,8 8,8 11,7 14,6
Tốc độ tăng TNBQ % 83,3 32,95 24,78
Tỷ lệ nghèo % 20,69 17,74 13,99
Giảm tỷ lệ hộ nghèo trong năm % -3,05 -2,95 -3,75
Độ co dãn tăng trƣởng của giảm nghèo % 0,03 0,08 0,15
(Nguồn: Niên giám TK Thái Nguyên 2006- 2009 và tính toán của tác giả)
* Tel: 0912737179, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 77 - 81
78
NGUỒN LỰC TRONG SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP VỚI GIẢM NGHÈO
Trong hoạt động sản xuất, kinh tế hộ nông
dân tỉnh Thái Nguyên chủ yếu diễn ra và xoay
quanh các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Thu nhập và theo đó là mức sống của hộ sẽ
quyết định bởi các nguồn lực đầu vào trong
sản xuất nhƣ đất đai, vốn và lao động. Có
nghĩa là, mức sống của nông hộ cao hay thấp
phụ thuộc phần lớn vào việc sử dụng các
nguồn lực hiệu quả hay không hiệu quả.
Đất đai là loại tƣ liệu sản xuất không thể thay
thế trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, đất
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra thu
nhập, đặc biệt là đối với những vùng có tỷ lệ
lực lƣợng lao động tập trung chủ yếu trong
khu vực nông nghiệp nông thôn nhƣ tỉnh Thái
Nguyên.
Để gia tăng thu nhập do đất mang lại, hai hình
thức thƣờng đƣợc các hộ nông dân áp dụng
đó là hình thức quảng canh và thâm canh.
Trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất thì
hình thức quảng canh sẽ đƣợc áp dụng là chủ
yếu, và điều này cũng đúng với hoạt động sản
xuất của hộ nông dân tỉnh Thái Nguyên. Sử
dụng hàm sản xuất Cobb- Douglas để phân
tích ảnh hƣởng của đất nông nghiệp đến thu
nhập của nông hộ đã cho thấy: Khi diện tích
đất nông nghiệp tăng lên 1% thì thu nhập bình
quân đầu ngƣời của hộ tăng lên 0,153%.
Tƣơng ứng, khi diện tích đất nông nghiệp
tăng lên 1ha, thu nhập bình quân của hộ sẽ
tăng lên 218,7 nghìn đồng/tháng [1].
Bảng 2. Diện tích đất nông lâm nghiệp bình quân
hộ nông dân khu vực miền núi Thái Nguyên
(ĐVT: ha)
Chỉ tiêu Hộ nghèo Hộ không
nghèo
Đất bằng 0,155 0.233
Đất dốc 0.493 0.850
Đất rừng 0.734 1.408
(Nguồn: Trần Chí Thiện, 2007)
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của
đất trong việc nâng cao thu nhập cho nông
hộ, tuy nhiên những nhóm hộ không nghèo,
có diện tích đất bình quân cao hơn dƣờng nhƣ
có sự thuận lợi hơn trong việc tạo ra thu nhập.
Kết quả ở bảng trên cho thấy: Diện tích đất
nông lâm nghiệp bình quân hộ nghèo thấp
hơn so với hộ không nghèo cả về quy mô diện
tích, chất đất và vị trí của đất. Trong khi hộ
nghèo có diện tích đất bằng bình quân là
0,233 ha; đất dốc là 0,85 ha và đất rừng là
0,734 ha thì hộ không nghèo có diện tích đất
tƣơng ứng là: 0,233; 0,850 và 1,408 ha. Với
hơn 90% số hộ nghèo tập trung trong khu vực
nông thôn, với quy mô diện tích đất manh
mún, nhỏ lẻ, là một trong những yếu tố cản
trở cho việc canh tác của hộ, đây cũng chính
là một trong những nguyên nhân ảnh hƣởng
đến nguồn thu nhập của hộ đƣợc tạo ra từ đất.
Trong điều kiện quỹ đất sản xuất nông lâm
nghiệp có xu hƣớng ngày càng thu hẹp, cùng
với phƣơng thức sản xuất quảng canh đã ảnh
hƣởng đến năng suất cây trồng của hộ nông
dân tỉnh Thái Nguyên. Nhằm tăng thu nhập
cho nông hộ bằng việc gia tăng năng suất trên
một đơn vị diện tích thì hình thức thâm canh
lại có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên hình
thức này lại đòi hỏi nguồn vốn đầu tƣ lớn.
Thực tiễn đã chứng minh tác động của
chƣơng trình đầu tƣ trong nông nghiệp, nông
thôn đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vùng nông thôn.
Nếu nhƣ vốn đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng
có tác động gián tiếp đến thu nhập của hộ thì
vốn đầu tƣ của các hộ gia đình có tác động
trực tiếp đến thu nhập của nông hộ. Trong
thời gian qua, vốn đầu tƣ cho sản xuất của
tỉnh Thái Nguyên đã không ngừng gia tăng về
số lƣợng và chất lƣợng, Tuy nhiên, hầu hết hộ
nông dân đều thiếu vốn, đặc biệt là những hộ
nông dân nghèo. Do vậy để có thể đầu tƣ
thâm canh, hộ nông dân thƣờng phải tìm các
nguồn vốn vay cho hoạt động sản xuất. Kết
quả khảo sát về nông hộ vay vốn năm 2008 đã
cho thấy: So với khu vực thành thị, khu vực
nông thôn có thu nhập thấp hơn nhƣng tỷ lệ
hộ vay vốn lại lớn hơn, trong khi khu vực
thành thị, tỷ lệ hộ vay vốn chiếm 43,1%, thì ở
nông thôn tỷ lệ này là 55,9%, cao hơn so với
khu vực thành thị 12,8 điểm phần trăm. Do
thiếu vốn, hộ phải vay các nguồn vốn từ bên
ngoài, điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng
Nguyễn Thị Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 77 - 81
79
thêm chi phí vốn vay. Nguồn chi phí này cũng
phần nào ảnh hƣởng đến thu nhập của nông
hộ, đặc biệt là những hộ nghèo.
Bên cạnh nguồn lực đất và vốn, lao động
cũng là một nguồn lực quan trọng trong việc
tạo ra thu nhập. Trong những năm qua, lực
lƣợng lao động khu vực tỉnh Thái Nguyên đã
có sự thay đổi đáng kể, đó là sự giảm xuống
về số lƣợng và sự gia tăng về chất lƣợng. Sự
thay đổi này đã có tác động tích cực đến sự
phát triển kinh tế xã hội khu vực nông thôn
tỉnh Thái Nguyên .
Năm 2006- 2008, tƣơng ứng với mức giảm về
số nhân khẩu bình quân hộ, số lao động bình
quân hộ cũng giảm từ 2,8 lao động/hộ năm
2006 xuống còn 2,64 lao động/hộ năm 2008,
tuy nhiên con số này vẫn cao hơn so với 2,57
lao động/hộ của bình quân chung cả nƣớc [5].
Xét theo nhóm thu nhập, năm 2008 khu vực
nông thôn nhóm thu nhập cao nhất có số lao
động bình quân hộ thấp nhất (1,93 lao động).
Điều này cho thấy, thu nhập đƣợc tạo ra
không chỉ từ quy mô số lƣợng lao động của
hộ mà còn từ chất lƣợng lao động và các yếu
tố khác. Xét theo trình độ học vấn, khu vực
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trình độ lao
động thấp, trình độ lao động chủ yếu là tốt
nghiệp tiểu học, chiếm tới 73,81%, trong khi
các ngành khác (dịch vụ, công nghiệp) tỷ lệ
này không có, hoặc nếu có cũng chỉ chiếm
một tỷ lệ rất nhỏ.
Số lƣợng và chất lƣợng lao động đã ảnh
hƣởng đến thu nhập của nông hộ, năm 2008
nhóm có thu nhập cao nhất đạt mức thu nhập
bình quân/khẩu là 23.169.000đ, trong khi
nhóm có thu nhập thấp nhất chỉ đạt
5.052.000đ, chênh lệch thu nhập giữa hai
nhóm này là 4,59 lần. Rõ ràng là nhóm hộ có
thu nhập cao tuy số lao động bình quân trên
hộ thấp hơn nhƣng do có thu nhập để đầu tƣ
vào giáo dục, nên trình độ lao động cao hơn
thu nhập có đƣợc cao hơn so với các nhóm hộ
có thu nhập thấp.
CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN VỚI
GIẢM NGHÈO
Bên cạnh việc tăng thu nhập của hộ nông dân
bằng việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
thì khả năng tiếp cận với cơ sở hạ tầng nông
thôn, đặc biệt là đƣờng giao thông nông thôn
cũng là một nhân tố quan trọng giúp hộ nông
dân đƣa ra những chiến lƣợc trong việc tạo ra
thu nhập. Tác động của cơ sở hạ tầng nông
thôn đến tăng thu nhập của hộ nông dân đƣợc
xem xét dƣới các khía cạnh nhƣ: (1) Việc
thực thi các chính sách nhà nƣớc và các dự
án; (2) Tiếp cận tiến bộ kỹ thuật; (3) Khả
năng tiếp cận với thị trƣờng; (4) Tìm hiểu các
cơ hội việc làm khác mà chủ yếu là các hoạt
động phi lâm nghiệp.
Trong những năm qua, Nhà nƣớc đã triển
khai nhiều chƣơng trình và dự án cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái
Nguyên, nhƣ chƣơng trình phủ xanh đất trống
đồi núi trọc; Dự án 5 triệu ha rừng; Chƣơng
trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt
khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi
tắt là chƣơng trình 135)... Những dự án đầu tƣ
xây dựng cơ sở hạ tầng đã đạt đƣợc những
thành quả nhất định, trong đó không thể
không kể đến kết quả của chƣơng trình 135.
Từ năm 2006- 2009, tổng vốn thực hiện cho
đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đạt
145.182,3 tr.đ /147.000 tr.đ bằng 98,76% so
với kế hoạch. Tổng số công trình đƣợc đầu tƣ
xây dựng trong giai đoạn này là 290 công
trình, trong đó: (1) Đầu tƣ tại xã đặc biệt khó
khăn là 207 công trình (giao thông 77 CT,
thuỷ lợi 20 CT, điện 05 CT, trƣờng học 88
CT, trạm y tế 11 CT, chợ 05 CT, nhà văn hoá
01 CT); (2) Đầu tƣ tại thôn, bản đặc biệt khó
khăn thuộc xã KVII là 83 công trình( giao
thông 39 CT, thuỷ lợi 07 CT, điện 02 CT,
trƣờng học 05 CT, nhà văn hoá 30 CT) [4].
Cơ sở hạ tầng nông thôn đƣợc cải thiện đã
giảm bớt chi phí trong việc di chuyển, nâng
cao khả năng thu hút sự hỗ trợ thông qua các
dự án, đặc biệt là các dự án của tổ chức phi
chính phủ nhƣ nhƣ PLAN, INSA- ETEA và
AIDA của Tây Ban Nha. Ngoài ra, hệ thống
giao thông thuận tiện cũng làm cho hoạt động
trao đổi, giao lƣu hàng hoá trong và ngoài
vùng có xu hƣớng ngày càng tăng lên.
Nguyễn Thị Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 77 - 81
80
Bảng 3. Địa hình và sự phân bố tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên năm 2009
Đơn vị hành chính Tổng số
(xã, phƣờng)
Trong đó Tỷ lệ nghèo
(%) Vùng cao (xã) Miền núi (xã)
TP Thái Nguyên 28 7 2,86
TX Sông Công 9 1 6,35
Huyện Định Hoá 24 3 21 23,21
Huyện Võ Nhai 15 11 4 25,20
Huyện Phú Lương 16 16 19,60
Huyện Đồng Hỷ 18 2 16 15,99
Huyện Phổ Yên 18 6 17,59
Huyện Đại Từ 31 31 18,80
Huyện Phú Bình 21 7 10,23
Tổng số 180 16 109
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2008 [3])
Nếu nhƣ trƣớc năm 1990, hoạt động sản xuất
của hộ nông dân chỉ đơn thuần là sản xuất tự
túc tự cấp, thì cho đến nay nhờ áp dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất thông qua các hoạt
động khuyến nông, nên đã làm cho năng suất
lao động tăng lên. Sự dễ dàng di chuyển từ
nơi này đến nơi khác cũng đã giúp hộ nông
dân đa dạng hoá nguồn thu nhập. Trƣớc đây,
nguồn thu nhập của nông hộ chủ yếu từ hoạt
động sản xuất nông nghiệp thì cho đến nay
thu nhập của hộ còn bao gồm cả nguồn thu từ
hoạt động phi nông nghiệp. Các hoạt động phi
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh gồm có: làm
việc trong các cơ quan nhà nƣớc, làm thuê
thời vụ và buôn bán nhỏ. Làm việc trong các
cơ quan nhà nƣớc và làm thuê (trong xã,
ngoài xã) đã giúp cho lao động nông thôn
tăng cƣờng và mở rộng các mối quan hệ, giúp
họ có đƣợc những thông tin về cơ hội việc
làm ở những khu vực có thu nhập cao hơn.
Nhờ sự gia tăng các mối quan hệ xã hội, cập
nhật thông tin về thị trƣờng lao động và tích
luỹ kinh nghiệm trong buôn bán đã làm cho
cơ cấu thu nhập của hộ nông dân có sự thay
đổi, thu nhập ngày càng tăng, đời sống ngày
càng đƣợc cải thiện. Công tác xoá đói giảm
nghèo đã đạt đƣợc kết quả tốt, giai đoạn
2006- 2009, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã 135 bình
quân mỗi năm giảm 4,83%, (cao hơn mức
giảm bình quân toàn tỉnh).
ĐỊA HÌNH VỚI NGHÈO ĐÓI
Sự đa dạng về địa hình đã tạo ra những nét
riêng biệt trong hoạt động sản xuất cũng nhƣ
đời sống cho hộ nông dân tỉnh Thái Nguyên.
Với 3 vùng địa hình là vùng gò đồi; vùng núi
thấp đồi cao và vùng núi cao đã có tác động
đến sự phân bố dân cƣ, các phƣơng thức canh
tác nông lâm nghiệp và mức sống của hộ.
Không thể phủ nhận rằng, sự đa dạng về địa
hình đã tạo ra tập đoàn cây trồng đa dạng và
phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho
nhu cầu cụ thể của ngƣời tiêu dùng. Tuy
nhiên, với loại đất đồi núi cao đƣợc hình
thành trên các loại đá mẹ có sự phân bố xen
kẽ, manh mún, bị chia cắt mạnh và dốc là
nguyên nhân của hiện tƣợng rửa trôi, xói
mòn, sự gặm mòn từ đỉnh núi đến chân núi ở
thung lũng. Trong khi địa hình phúc tạp, bị
chia cắt cùng với những thói quen canh tác
lạc hậu nên nguồn tài nguyên đất, rừng và
nƣớc ngày càng bị suy giảm. Điều này đã tác
động rất lớn đến sinh kế của hộ nông dân của
huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lƣơng và đặc
biệt là huyện Võ Nhai (là huyện có số xã
vùng cao nhiều nhất với 11 xã, có tỷ lệ đói
nghèo cao nhất là 25, 2% cao hơn so với mức
bình quân chung toàn tỉnh là 11,21 điểm %).
Có thể nhận thấy rằng, hoạt động sản xuất
nông nghiệp khi tiến hành trên những vùng có
nhiều đồi, núi sẽ cho năng suất lao động thấp,
thu nhập trên lao động thấp, khả năng cải thiện
mức sống chậm, làm cho tỷ lệ đói nghèo cao.
Tóm lại, tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao, sử
dụng các nguồn lực trong nông nghiệp nông
thôn có hiệu quả, đầu tƣ phát triển cơ sở hạ
tầng nông thôn đồng bộ và địa hình thuận lợi
là những yếu tố quan trọng để giảm nghèo
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu
này cũng đã góp phần lƣợng hoá mối quan hệ
Nguyễn Thị Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 77 - 81
81
giữa các yếu tố trên với giảm nghèo, và cũng
chỉ ra xu hƣớng vận động của chúng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của khu
vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ngô Quang Thành và Nguyễn Việt Cƣờng,
Tăng trưởng kinh tế, nghèo đói, bất bình đẳng thu
nhập và chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam,
TC Nghiên cứu kinh tế T3/2005.
[2]. Trần Chí Thiện, 2007, Thực trạng và giải
pháp xoá đói giảm nghèo cho đồng bào vùng núi
cao tỉnh Thái Nguyên, đề tài cấp bộ mã số: B2005-
18- 04.
[3]. Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 2009, tr 12
[4]. Ban Dân tộc tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo tình
hình và kết quả thực hiện các chương trình, chính
sách dân tộc từ năm 2006 đến năm 2009
[5]. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, 2009, Báo
cáo mức sống dân cư tỉnh Thái Nguyên năm 2008.
[6]. WB, Tăng trưởng, nghèo đói và bất bình đẳng
SUMMARY
DEVELOPMENT OF AGRICULTURE, RURAL WITH POVERTY REDUCTION
IN THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Thi Yen
*, Do Van Giai
Thai Nguyen University of Economics and Business Administration - TNU
Agricultural development, rural and poverty and the Thai Nguyen province has a certain
relationship and there was a change in those years. High speed and continuous growth in
agriculture, effective use of resources for production, along with investment in infrastructure
construction, and the variety of terrain is a factor affecting tubers positive income households,
especially poor farmers.
Key words: Agricultural, rural, poverty, growth, poor farmers
* Tel: 0912737179, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Yến và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 77 - 81
82
Nguyễn Thị Lan Anh và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 83 - 87
83
VĂN HOÁ VÀ MÔI TRƢỜNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Nguyễn Thị Lan Anh*, Nguyễn Vân Anh
Trường ĐH Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, văn hoá doanh nghiệp đƣợc coi nhƣ là một loại tài sản vô
hình, mà loại tài sản này có thể đƣa doanh nghiệp ngày càng làm ăn phát đạt, nhƣng mặt khác nếu
chúng ta không biết phát huy thì nó sẽ làm cho doanh nghiệp nhanh chóng đến chỗ phá sản. Vậy
văn hoá doanh nghiệp là gì ? Nhận thức nhƣ thế nào cho đúng ? Làm gì để nâng cao hiệu quả văn
hoá trong môi trƣờng kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một vấn đề mà tác giả muốn chia sẻ
trong bài báo
Từ khoá: Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp.
VĂN HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP*
Văn hoá doanh nghiệp đã đƣợc đƣa ra bàn từ rất lâu, và cho đến nay vẫn đang còn nhiều
cách hiểu khác nhau, đó là: văn hoá doanh nghiệp là lực lƣợng tinh thần, tinh thần ở đây là toàn bộ sự phấn kích, cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh theo đúng nghĩa lành mạnh; văn hoá doanh nghiệp là lực lƣợng vật chất, cách này cho rằng, nhờ có cách ứng xử văn
hoá mà doanh nghiệp tạo ra đƣợc một lƣợng vật chất nhiều hơn, tốt hơn văn hoá doanh nghiệp là lực lƣợng vật chất và tinh thần của doanh nghiệp. Cách này cho rằng, sự kết hợp hài hoà các yếu tố cần thiết trong mỗi doanh nghiệp để tạo ra bầu không khí làm việc hăng
say của ngƣời lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất, vật chất đƣợc tạo ra một phần sử dụng vào tái tạo sức lao động để mọi ngƣời lại tiếp tục lao động sáng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lƣợng tốt hơn và số lƣợng nhiều hơn. Bằng những quan niệm khác nhau mà
ngƣời ta ứng xử nó cũng khác nhau trong chính mỗi doanh nghiệp. Để hiểu đúng văn hoá doanh nghiệp chúng ta cần có điểm xuất phát đúng, tức là phải thừa nhận hai yếu tố cấu thành, đó là: văn hoá, theo đó là văn hoá phải gắn với doanh nghiệp.
Theo ông Amadau M.Bow, nguyên Tổng
giám đốc Unesco "Văn hoá là yếu tố cơ bản
cho sức sống của một dân tộc, nó tổng hợp
những hoạt động sáng tạo của một dân tộc,
những phương thức sản xuất và sở hữu,
những của cải vật chất, những hình thái tổ
chức, những tín ngưỡng và những đau
* Tel: 0916.258.995
thương, những sự nghiệp đang làm và những
giải trí, những mơ ước và khát vọng". Theo
Tổng giám đốc Unesco, ông Federico Mayor,
thì cách hiểu "Văn hoá bao gồm tất cả những
gì làm cho một dân tộc này khác với một dân
tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại
nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán,
lối sống và lao động" đã đƣợc cộng đồng
quốc tế chấp nhận và phê chuẩn năm 1982.
Theo PGS, TS Trần Ngọc Thêm, "Văn hoá là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất tinh
thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội của mình" theo PTS Lê Văn
Chƣởng "Văn hoá là tổng thể về những thành
tựu, những giá trị vật chất và tinh thần do con
người kiến tạo trong quá trình quan hệ với tự
nhiên, xã hội và đời sống tinh thần có tính
đặc thù của mỗi dân tộc".
Dù có những nét khác nhau trong những định
nghĩa nhƣng chúng có điểm giống nhau cơ
bản là:
(i) văn hoá vừa là những biểu hiện cơ bản của
con ngƣời trong quá trình sinh tồn và phát triển,
vừa là những hoạt động nhận thức thực tiễn
nhằm tạo ra những biến đổi của xã hội, của môi
trƣờng xung quanh và của bản thân mình.
(ii) văn hoá tác động theo ba quá trình: quá
trình cải tạo vật chất, quá trình cải tạo cơ cấu
xã hội, quá trình cải tạo tâm lý xã hội tức là
quan hệ giữa ngƣời với ngƣời.
(iii) văn hoá là một sản phẩm có tính cộng
đồng, từ đó triển khai thành một sản phẩm có
Nguyễn Thị Lan Anh và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 83 - 87
84
tính cá nhân với tƣ cách là một thành viên
trong cộng đồng.
Văn hoá có những đặc trƣng riêng và những
đặc trƣng đó tạo cho văn hoá những chức
năng khác nhau.
Thứ nhất, văn hoá có tính hệ thống, tức nó
bao gồm những mối liên hệ mật thiết giữa các
hiện tƣợng và sự kiện trong một nền văn hoá;
mỗi hệ thống văn hoá sẽ bao gồm những hệ
thống nhỏ hơn và là thành phần của một hệ
thống lớn hơn. Tính hệ thống đã tạo cho văn
hoá một chức năng tổ chức xã hội; nó thƣờng
xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội.
Thứ hai, văn hoá có tính giá trị - giá trị vật
chất và tinh thần; giá trị sử dụng, giá trị đạo
đức và giá trị thẩm mỹ, giá trị đồng đại và
giá trị lịch sử. Chính tính giá trị này tạo cho
văn hoá một chức năng điều chỉnh xã hội,
giúp cho xã hội duy trì đƣợc trạng thái cân
bằng động.
Thứ ba, văn hoá có tính nhân sinh. Tính nhân
sinh cho phép phân biệt hoạt động văn hoá xã
hội và văn hoá tự nhiên. Đặc tính nhân sinh
tạo cho văn hoá chức năng giao tiếp, văn hoá
là nội dung để giao tiếp.
Thứ tư, văn hoá đƣợc hình thành và tích luỹ
qua nhiều thế hệ. Tính chất này của văn hoá
đƣợc duy trì bằng truyền thống đƣợc duy trì
bằng truyền thống, tạo cho văn hoá chức năng
giáo dục và phát triển.
NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH VĂN
HOÁ DOANH NGHIỆP
Ngày nay văn hoá doanh nghiệp đƣợc xem
xét nhƣ một phần không thể thiếu, đồng thời
cũng giữ một vị trí quan trọng trong việc xây
dựng thƣơng hiệu của doanh nghiệp. Nếu có
thể ví thƣơng hiệu là tài sản của doanh nghiệp
thì cũng có thể ví văn hoá doanh nghiệp là
những vật dụng đặc biệt để bảo vệ và cất giữ
tài sản đó. Mỗi doanh nghiệp có bản sắc văn
hoá riêng, bản sắc văn hoá đƣợc hình thành từ
các nhân tố:
Xây dựng triết lý kinh doanh của doanh
nghiệp: triết lý kinh doanh của doanh nghiệp
là tƣ tƣởng chung chỉ đạo toàn bộ suy nghĩ và
hoạt động của doanh nghiệp từ ngƣời lãnh
đạo, bộ phận quản lý và những ngƣời lao
động trong doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp
thƣờng có triết lý kinh doanh riêng của mình
mặc dù có sự khác nhau nhƣ vậy, song nhìn
chung triết lý, kinh doanh của doanh nghiệp
có thể bao hàm trong nó.
- Mục tiêu của doanh nghiệp hƣớng tới sự
phát triển lâu dài, bền vững.
- Định hƣớng kinh doanh của doanh nghiệp
và việc phục vụ lợi ích của xã hội thông qua
phục vụ khách hàng.
- Đề cao giá trị con ngƣời đặt con ngƣời vào
vị trí trung tâm trong toàn bộ mối quan hệ
ứng xử trong doanh nghiệp.
Tinh thần của ngƣời sáng lập: nhƣ quan niệm
sống, cách nghĩ, cá tính của ngƣời sáng lập.
Quy phạm hành động hàng ngày: nhƣ mức độ
trách nhiệm, tính độc lập, và cơ hội mà một
cá nhân trong doanh nghiệp có đƣợc khi thực
hiện một nhiệm vụ nào đó.
Cấu trúc tổ chức: nảy sinh từ hệ thống quản
trị của doanh nghiệp nhƣ mức độ về quy tắc,
điều lệ và sự giám thị đƣợc sử dụng để quản
trị và kiểm soát hành vi của nhân viên.
Môi trƣờng xã hội: Bản sắc văn hoá dân tộc,
ngôn ngữ, sinh hoạt, tôn giáo, cơ cấu chính trị
- xã hội…
Các phong trào và ngày kỷ niệm của doanh
nghiệp ra đời từ các hoạt động theo nhóm nhƣ
về vui chơi, giải trí, trang phục, đề xuất ý
kiến…
Nhƣ vậy văn hoá doanh nghiệp là tổng hợp
những quan niệm mà các thành viên của
doanh nghiệp "học" đƣợc trong quá trình giải
quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề
với môi trƣờng xung quanh. Văn hoá doanh
nghiệp là "tổng hợp những quan niệm" vì thế
chƣa đảm bảo là tốt hay không tốt. Chẳng
hạn, quan niệm "khách hàng là thượng đế"
nếu nhìn theo một góc độ nào đó chỉ là một
quan niệm mang tính thực dụng. Hay trong
khi tiêu chuẩn đánh giá nhân viên của đa số
doanh nghiệp nƣớc ngoài chủ yếu dựa vào
năng lực, trình độ thì các doanh nghiệp Nhà
nƣớc của ta lại đề cao đạo đức, tính tập thể…
Khó có thể kết luận quan niệm nào đúng,
quan niệm nào sai nhƣng chắc chắn nó tác
động trực tiếp tới hành vi của doanh nghiệp,
từ đó tác động tới hiệu quả kinh doanh.
Nguyễn Thị Lan Anh và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 83 - 87
85
Ví dụ: Đặc điểm văn hoá của 2 doanh nghiệp A và B.
Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B
Là một doanh nghiệp có nhiều quy tắc và điều
lệ đòi hỏi phải quân thủ.
Là một doanh nghiệp có rất ít qui tắc và điều lệ
Nhân viên có phạm vi hoạt động trong công
việc rất hẹp, nếu có việc bất thƣờng phải trình
báo cấp trên giải quyết.
Nhân viên đƣợc khuyến khích phát triển tài
năng chuyên môn tự giải quyết khó khăn, tự do
hỏi ý kiến cấp trên nếu cần.
Nhà quản trị không tin tƣởng nhân viên vì vậy
mà quản lý và kiểm soát chặt chẽ.
Nhân viên chăm làm và đáng tin cậy vì sự quản
lý rất lỏng lẻo.
Những đức tính đƣợc đề cao và khen thƣởng:
Cố gắng
Trung thành
Công tác
Tránh sai lầm
Thăng thƣởng giành cho những ngƣời có đóng
góp nhiều nhất cho doanh nghiệp ngay cả khi
họ bị nhìn nhận là có những ý kiến lạ lùng,
những cử chỉ khác thƣờng, những tập quán làm
việc không theo quy ƣớc.
Những đặc tính mô tả về văn hoá của hai
doanh nghiệp này là ổn định và thƣờng
xuyên, ít thay đổi theo thời gian. Doanh
nghiệp A đƣợc mô tả là một doanh nghiệp
nghiêm túc, lạnh lùng và không ƣa may rủi.
Còn doanh nghiệp B ngƣợc lại không nghiêm
túc, cơ cấu lỏng lẻo có tính nhân bản cao. Tuy
trái ngƣợc nhau nhƣ vậy nhƣng cả hai đều là
những doanh nghiệp đƣợc quản trị tốt.
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ DOANH
NGHIỆP VÀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
Văn hoá doanh nghiệp hình thành cách nhìn
và quy định hoạt động của doanh nghiệp một
cách tự nhiên. Văn hoá doanh nghiệp có quan
hệ sâu sắc với động cơ hành động của doanh
nghiệp, tạo ra định hƣớng chiến lƣợc cho bản
thân doanh nghiệp. Rất nhiều công trình
nghiên cứu đã kết luận rằng các doanh nghiệp
thành công có nền văn hoá doanh nghiệp
mạnh đƣợc gây dựng trên cơ sở tinh thần
cộng đồng tập thể, đặc biệt là mối quan tâm
đối với những lợi ích của tập thể hoặc doanh
nghiệp. Đó là các công ty nổi tiếng IBM,
Proctec & Gamble, Mobil, Gillett. Ở nƣớc ta
hiện nay, Công ty phát triển đầu tƣ công nghệ
(FPT) cùng là một trong những đơn vị đi đầu
trong việc hình thành và xây dựng đƣợc văn
hoá doanh nghiệp mạnh. Mỗi doanh nghiệp
đều có văn hoá của mình, chỉ có điều văn hoá
đó có mạnh hay không và có tác động chủ yếu
là tích cực hay tiêu cực tới chất lƣợng kinh
doanh. Văn hoá doanh nghiệp mạnh chỉ khi
nó tác động tích cực tới hoạt động kinh
doanh, đồng thời đảm bảo tính bền vững. Một
doanh nghiệp có nền văn hoá mạnh sẽ có tác
dụng khuyến khích động viên nhân viên làm
việc tự nguyện, nhiệt tình, phát huy đƣợc tối
đa năng lực của mỗi cá nhân và hƣớng họ về
cùng một phía, đó là mục tiêu, tầm nhìn của
doanh nghiệp. Hơn thế nữa, nền văn hoá
doanh nghiệp mạnh sẽ có tác dụng thu hút,
duy trì những nhân viên có năng lực, có trình
độ gắn bó với doanh nghiệp. Rất nhiều nhà
doanh nghiệp lầm tƣởng rằng cứ trả lƣơng
cao sẽ thu hút, duy trì đƣợc ngƣời tài, tuy
nhiên tiền lƣơng mới chỉ là một phần, mà
quan trọng hơn là cá nhân đó phải cảm thấy
thích thú khi đƣợc làm việc trong tập thể.
Văn hoá doanh nghiệp ảnh hƣởng trực tiếp
đến những nhà quản trị, nó giới hạn sự lựa
chọn cho những khả năng hành động của nhà
quản trị. Những giới hạn này có thể đƣợc thể
hiện trong các quy định cũng có thể là những
quy ƣớc bất thành văn. Nhà quản trị cần nhận
thức đƣợc để có nghệ thuật thích hợp trong
quá trình quản trị. Chẳng hạn nhà quản trị
phải biết đƣợc trong doanh nghiệp mình
những tình hình nào cần bỏ qua, tình hình nào
cần nắm vững.
Văn hoá doanh nghiệp ảnh hƣởng đến chức
năng của quản trị, do đó cần có chiến lƣợc
quản trị thích hợp.
Chức năng hoạch định
Hoạch định là chức năng đầu tiên trong quá
trình quản trị, bao gồm :xác định mục tiêu, xây
dựng chiến lƣợc tổng thể, thiết lập một hệ
thống các kế hoạch để phối hợp các hoạt động.
Chức năng tổ chức:
Tổ chức: bao gồm việc xác định những việc
phải làm, những ai sẽ phải làm việc đó, các
Nguyễn Thị Lan Anh và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 83 - 87
86
công việc sẽ đƣợc phối hợp lại vơí nhau nhƣ
thế nào, những bộ phận nào cần phải đƣợc
thành lập, quan hệ phân công và trách nhiệm
giữa các bộ phận đó, và hệ thống quyền hành
trong doanh nghiệp.
Chức năng chỉ huy
Chỉ huy: công việc trong doanh nghiệp cần
phải có ngƣời thực hiện. Đáp ứng yêu cầu đó,
nhà quản trị phải tuyển chọn, thu dụng, bố trí,
bồi dƣỡng, sử dụng, động viên, kích thích.
Việc thiết lập quyền hành và sử dụng quyền
hành đó để giao việc cho nhân viên, ra nội
quy, quy chế làm việc, uỷ quyền cho thuộc
cấp, động viên nhân viên…. là chức năng thứ
3 của nhà quản trị,
Chức năng phối hợp
Chức năng này phối hợp theo chiều dọc là
phối hợp giữa các cấp quản trị và phối hợp
theo chiều ngang là phối hợp giữa các chức
năng,các lĩnh vực quản trị
Chức năng kiểm tra
Chức năng cuối cùng của nhà quản trị. Công
tác kiểm tra bao gồm việc xác định thu thập
thông tin về thành quả thực tế, so sánh thành
quả thực tế với thành quả kỳ vọng, và tiến
hành các biện pháp sửa chữa nếu có sai lệch,
nhằm đảm bảo tổ chức đang đi đúng đƣờng
để hoàn thành mục tiêu.
PHÁT TRIỂN LỢI THẾ CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP THÔNG QUA VĂN
HOÁ DOANH NGHIỆP
Muốn phát triển lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp trƣớc hết phải phát huy đƣợc tối đa
nhân tố con ngƣời, trong đó nền văn hoá
doanh nghiệp mạnh sẽ có đóng góp quan
trọng "Một nền văn hoá doanh nghiệp mạnh
khi những giá trị then chốt được giữ vững và
chia sẻ rộng rãi trong doanh nghiệp". Các
thành viên trong doanh nghiệp càng chấp
nhận những giá trị then chốt nhƣ tinh thần
đồng đội, tinh thần trách nhiệm, sự cam kết
trung thành với doanh nghiệp, sự công bằng,
sự trung thực… thì văn hoá doanh nghiệp càng
mạnh và chủ nghĩa cá nhân sẽ bị thủ tiêu.
Để tạo dựng và duy trì một nền văn hoá
doanh nghiệp thực sự mạnh, các nhà quản trị
cần phải thiết lập những quy chế, giới hạn rõ
ràng, phù hợp cho cấp dƣới đảm bảo cho họ
thực hiện tốt công việc của mình. Những biện
pháp cụ thể mà nhà quản trị tập trung thực
hiện là:
Khuyến khích tinh thần cộng đồng trong
doanh nghiệp.
Matsushita Konosuke, ngƣời đã xây dựng sự
nghiệp từ một xƣởng làm đui bóng đèn nhỏ
bé trở thành tập đoàn Matsushita nổi tiếng của
Nhật Bản đã đi đến kết luận "trí tuệ tập thể là
sức mạnh cơ bản phát huy sự tuyệt vời của
các tố chất con người". Chính niềm tin đó đã
giúp ông thành công trong hơn 60 năm trên
cƣơng vị lãnh đạo.
Muốn xây dựng đƣợc tinh thần cộng đồng
trong doanh nghiệp, nhà quản trị không chỉ
tập trung vào công việc hàng ngày của nhân
viên mà còn tập trung vào cả các việc:
- Khuyến khích và tạo điều kiện hình thành
các nhóm công tác tự nhiên. Sự say mê và
tinh thần làm việc của nhóm tự nguyện
thƣờng hơn nhóm do nhà quản trị chỉ định.
- Kết hợp hài hoà giữa lợi ích của doanh
nghiệp và lợi ích của cá nhân.
Việc này đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt
đƣợc nhu cầu, mục tiêu của các nhân viên và
biến những mục tiêu đó thành động lực thúc
đẩy họ trong công việc.
- Thƣờng xuyên tổ chức các hoạt động vui
chơi giải trí nhƣ thi đấu thể thao, dạ hội, dã
ngoại làm chất gắn kết giữa các thành viên
trong doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các
nhân viên hiểu nhau hơn, đồng thời qua đó
giáo dục đƣợc tinh thần đồng đội.
Đảm bảo sự công bằng trong doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp, việc thƣởng phạt công
minh sẽ khuyến khích ngƣời lao động làm
việc có trách nhiệm hơn, trung thực hơn, duy
trì mối quan hệ gắn bó giữa các thành viên tốt
hơn. Muốn đảm bảo sự công bằng, nhà quản
trị phải:
- Thực hiện trả lƣơng, thƣởng, thăng chức,
giáng chức dựa trên đánh giá kết quả thực hiện
công việc và khả năng của ngƣời lao động.
- Thƣởng, phạt phải công khai để tất cả mọi
ngƣời đều biết.
Nguyễn Thị Lan Anh và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 83 - 87
87
- Quan tâm đến các yếu tố chi phối nhận thức
của ngƣời lao động về sự công bằng và tạo
điều kiện để ngƣời lao động có đƣợc sự nhận
thức đúng đắn.
Xây dựng và thực hiện hệ thống quy chế,
quy định của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp cần có những quy chế,
quy định rõ ràng về chế độ làm việc, quản lý
các nguồn lực, chế độ thƣởng phạt… và đƣợc
công bố công khai cho tất cả mọi thành viên
trong doanh nghiệp biết để thực hiện. Sau khi
ban hành phải thực hiện ngay và phải thƣờng
xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các
quy chế, quy định.
Tóm lại: Văn hoá doanh nghiệp không tự
nhiên mà có, nó phải đƣợc xây dựng, có nghĩa
là phải đƣợc hình thành và phát triển. Một
doanh nghiệp có văn hoá ở thời điểm này,
những có thể mất đi ở một thời điểm khác sau
đó. Vì vậy phải coi việc xây dựng văn hoá
doanh nghiệp là một nhiệm vụ thƣờng xuyên
của doanh nghiệp, là nhiệm vụ không chỉ của
chủ doanh nghiệp, của cán bộ quản ý doanh
nghiệp, mà còn là nhiệm vụ của tất cả ngƣời
lao động trong doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp phải đƣợc xây dựng
bắt đầu tƣ việc xác định chiến lƣợc và sứ
mệnh của doanh nghiệp. Kinh doanh là một
sự nghiệp, mà công việc nghiêm túc, ngay từ
khi thành lập doanh nghiệp, phải xác định
đƣợc sứ mệnh doanh nghiệp, doanh nghiệp
đƣợc thành lập để làm gì, nhằm thực hiện
mục tiêu gì.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. PGS. TS. Lê Văn Tâm, PGS.TS Ngô Kim
Thanh ( 2008) Quản trị doanh nghiệp, Nhà xuất
bản Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[2]. PGS.TS Nguyễn Thức Minh ( 2008), Quản trị
kinh doanh, Nxb Tài chính, Hà Nội.
[3]. Ban Tuyên giáo TW, Hiệp hội doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam, Hiệp hội UNESCO Việt
Nam…. ( 2008), Hội thảo phát triển văn hoá
doanh nghiệp.
[4].TS. Vũ Thị Nhài (2008) Nâng cao hiệu quả
văn hoá doanh nghiệp thời kỳ hội nhập, Học viện
chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
SUMMARY
CULTURE AND BUSINESS ENVIRONMENT OF THE BUSINESS
Nguyen Thi Lan Anh
*, Nguyen Van Anh
Thai Nguyen Universiy of Economics and Business Administration - TNU
In the modern market economy, entreprenure culture is viewed as an intangible asset. This kind of
asset can quickly promote the business of entreprenure. Otherwise, it can make the entreprenure
come to bankrupt if we don‟t know how to develope it. Then, what is entreprenure‟s culture? How
to understand in correctly? What to do inorder to raise the effective of entreprenure‟s culture in it‟s
business environment? This is one of point that the author want to share in this article.
Key words: Entreprenure’s business culture
* Tel: 0916.258.995
Nguyễn Thị Lan Anh và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 83 - 87
88
Hoàng Thị Mỹ Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 89 - 92
89
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH THÁI NGUYÊN
Hoàng Thị Mỹ Hạnh
*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong sự vận động không ngừng và chuyển biến mạnh mẽ nền kinh tế- xã hội cả nƣớc, thực hiện
sáng tạo đƣờng lối đổi mới của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phƣơng, từ một nền kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp, với tiềm năng sẵn có, tỉnh Thái Nguyên đã góp phần quan trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội đất nƣớc. Với sự nỗ lực phấn đấu trong 13 năm từ khi tái lập tỉnh (1997 –
2010), Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã đạt đƣợc những thành tựu bƣớc đầu quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, song cũng còn bộc lộ những tồn tại, bất cập cần phải đƣợc khắc
phục. Trong sự phát triển đó, những tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực đóng vai trò quan
trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên.
Từ khóa: Thái Nguyên, kinh tế, xã hội, văn hóa, hội nhập
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du,
nằm trong vùng Đông Bắc. Phía bắc giáp Bắc
Kạn, phía nam giáp thành phố Hà Nội, phía
đông giáp với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang,
phía tây giáp với các tỉnh Tuyên Quang, Vĩnh
Phúc. Thái Nguyên không chỉ là một trong
những vùng chè nổi tiếng, mà nơi đây từng là
Thủ phủ Khu tự trị Việt Bắc, là “chiếc nôi” của
công nghiệp luyện kim Việt Nam, với khu
công nghiệp gang thép đƣợc xây dựng từ
những năm cuối thập kỷ 50 (thế kỷ XX). Sự ra
đời của các khu công nghiệp nặng, công
nghiệp nhẹ, cùng với nhiều khu mỏ, tạo cho
Thái Nguyên một dáng hình đặc trƣng một
trung tâm công nghiệp của miền Bắc.*
Trong sự vận động không ngừng và chuyển
biến mạnh mẽ nền kinh tế - xã hội cả nƣớc,
thực hiện sáng tạo đƣờng lối đổi mới của
Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phƣơng,
từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp,
với tiềm năng sẵn có, tỉnh Thái Nguyên đã
góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế-
xã hội đất nƣớc. Với sự nỗ lực phấn đấu
trong 13 năm từ khi tái lập tỉnh (1997 –
2010), Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái
Nguyên đã đạt đƣợc những thành tựu bƣớc
đầu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã
hội, song cũng còn bộc lộ những tồn tại, bất
cập cần phải đƣợc khắc phục. Trong sự phát
triển đó, những tác động của bối cảnh quốc
* Tel: 0942781982; Email: [email protected]
tế và khu vực đóng vai trò quan trọng đối
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Thái Nguyên.
* Vấn đề thị trƣờng:
Quá trình hội nhập mang lại thị trƣờng rộng
lớn cho hàng hóa và dịch vụ của Thái
Nguyên. Hội nhập cũng cho phép hàng nhập
khẩu thâm nhập thị trƣờng Thái Nguyên dễ
dàng hơn. Giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ
mang tính cạnh tranh hơn và đƣợc quyết định
bởi quan hệ cung cầu trên thị trƣờng.
Việc nƣớc ta là thành viên của Hiệp hội các
quốc gia châu Á (ASEAN) và tham gia các
Hiệp định về thƣơng mại, đầu tƣ của tổ chức
này nhƣ Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) với chƣơng trình trọng tâm
là ƣu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT), Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do
Trung Quốc – ASEAN (C – AFTA), Hiệp
định Khu vực đầu tƣ ASEAN (AIA) đã mở ra
nhiều cơ hội mở rộng thị trƣờng cho sản
phẩm xuất khẩu nƣớc ta nói chung và Thái
Nguyên nói riêng. Đặc biệt, việc nƣớc ta trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thƣơng mại thế giới (WTO) vào đầu năm
2007 đang mở ra rất nhiều cơ hội phát triển
thƣơng mại, hợp tác, đầu tƣ cho từng địa
phƣơng trong cả nƣớc.
Những xu thế này sẽ có những tác động thuận
lợi và bất lợi đối với Thái Nguyên. Thị trƣờng
ngày càng mở rộng cho phép tỉnh mở rộng
Hoàng Thị Mỹ Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 89 - 92
90
thêm quy mô sản xuất, phát triển thêm nhiều
sản phẩm mới, tăng thêm kim ngạch xuất
khẩu... nhƣng cũng đặt tỉnh đứng trƣớc những
thách thức, cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Do tỉnh có truyền thống sản xuất lâu đời và
nhu cầu đối với các mặt hàng luyện kim,
khoáng sản (thiếc, quặng kẽm) không ngừng
tăng lên, cho nên, đây là những sản phẩm có
khả năng cạnh tranh của Thái Nguyên. Tuy
nhiên, hạn chế đối với tỉnh là nguồn nguyên
liệu đầu vào ngày càng hạn hẹp nên không có
khả năng đáp ứng đủ nhu cầu thị trƣờng.
Đối với thị trƣờng chè, giá chè trên thế giới
đang có xu hƣớng giảm nhanh trong những
năm gần đây do lƣợng cung ứng trên thị
trƣờng vƣợt quá nhu cầu tiêu thụ. Tuy nhiên,
theo dự báo của Viện Nghiên cứu Thƣơng
mại (Bộ Thƣơng mại), giá chè có khả năng
phục hồi từ năm 2006 trở đi do tiêu thụ chè
tại các nƣớc nhập khẩu chè tiềm năng tăng lên
nhờ việc cắt giảm hàng rào thuế quan theo
Hiệp định về nông nghiệp của Tổ chức
thƣơng mại thế giới (WTO). Các nƣớc nhập
khẩu chè chủ yếu là Liên minh châu Âu (EU),
SNG, Pakixtan, Mỹ, Nhật Bản. Do thị trƣờng
chè có xu hƣớng dƣ thừa nên muốn mở rộng
thị trƣờng xuất khẩu chè, ngoài các thị trƣờng
truyền thống, Thái Nguyên cần khai thác các
thị trƣờng chè tiềm năng. Mặc dù, chè là một
mặt hàng xuất khẩu có tiếng lâu đời của Thái
Nguyên nhƣng giá chè xuất khẩu luôn thấp
hơn so với giá bán trong nƣớc. Muốn có đƣợc
nguồn thu ngoại tệ lớn hơn, tỉnh cần đa dạng
hóa các sản phẩm chè chế biến của mình theo
nhu cầu của thị trƣờng thế giới. Ngoài ra, yếu
tố chất lƣợng và vệ sinh thực phẩm cần đƣợc
liên tục nâng cao để đáp ứng yêu cầu ngày
càng khắt khe của các nƣớc nhập khẩu.
Hàng may mặc là một trong những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Thái Nguyên, từ năm
2002 đến nay, giá trị xuất khẩu hàng năm
luôn chiếm 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của
tỉnh. Nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc trên
thế giới đƣợc dự báo tiếp tục tăng lên, nhất là
ở các nƣớc mới phát triển. Với việc bỏ qua
quota hàng dệt may theo Hiệp định đa sợi
(MFA) của WTO, mức độ cạnh tranh trong
xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng nhanh. Các
đối thủ cạnh tranh chủ yếu của nƣớc ta là
Trung Quốc và một số nƣớc khác ở khu vực
châu Á. Các nƣớc nhập khẩu hàng may mặc
lớn nhất trên thế giới là Liên minh châu Âu
(EU) và châu Mỹ. Thái Nguyên cần chú trọng
khai thác những thị trƣờng này, đặc biệt là thị
trƣờng Hoa Kỳ - thị trƣờng có sức mua rất lớn.
Thị trƣờng các sản phẩm dịch vụ là khu vực
thị trƣờng rộng lớn, đa dạng, có nhiều tiềm
năng phát triển nhƣng cũng rất khó cạnh tranh
trong tƣơng lai. Thái Nguyên chỉ nên lựa
chọn một số dịch vụ quan trọng, có giá trị gia
tăng cao mà mình có lợi thế để xuất khẩu.
Trƣớc mắt, Thái Nguyên nên tập trung vào
dịch vụ thƣơng mại, giao thông vận tải và
các dịch vụ xuất khẩu tại chỗ (du lịch sinh
thái, du lịch nghỉ dƣỡng, bán hàng lƣu
niệm, ngân hàng, bƣu chính viễn thông...)
phục vụ khách du lịch.
Hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho hàng hóa,
dịch vụ của Thái Nguyên phải đối mặt với
nguy cơ cạnh tranh gay gắt hơn ngay cả trên
thị trƣờng nội địa. Các sản phẩm du lịch của
tỉnh có thể sẽ phải cạnh tranh với các sản
phẩm của một số nƣớc trong khu vực hoặc
của các địa phƣơng khác trong nƣớc nhƣ Bắc
Kạn, Lạng Sơn.
Xu thế này đòi hỏi Thái Nguyên phải có các
giải pháp và chính sách phù hợp trong các
chiến lƣợc phát triển của mình nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh để ngày càng có nhiều sản
phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng
trong nƣớc và quốc tế nhƣ cắt giảm thuế đối
với nhiều loại hàng hóa công nghiệp, thiết bị
điện tử, nông thủy sản; tăng cƣờng quan hệ
hợp tác kinh tế, thƣơng mại và đầu tƣ....
* Vấn đề chi phí sản xuất
Nhờ những ƣu đãi về điều kiện tiếp cận thị
trƣờng và thuế quan do hội nhập mang lại,
các doanh nghiệp sản xuất trong nƣớc nói
chung và các doanh nghiệp của Thái Nguyên
nói riêng có thể nhập khẩu vật tƣ, nguyên
liệu, máy móc, trang thiết bị (nhất là máy
móc, trang thiết bị công nghiệp luyện kim,
chế biến nông sản thực phẩm) với mức thuế
quan nhập khẩu thấp, nhờ đó giảm đƣợc chi
phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng
cao khả năng cạnh tranh.
Hoàng Thị Mỹ Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 89 - 92
91
* Vấn đề tiếp cận tiến bộ khoa học và
công nghệ
Hội nhập kinh tế quốc tế cho phép Thái
Nguyên tiếp cận dễ dàng hơn nhiều với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới. Những tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng, vật nuôi, thâm canh, chăn nuôi theo phƣơng thức công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, luyện kim, chế
biến nông sản, kinh doanh thƣơng mại, dịch vụ... mà Thái Nguyên có thể tiếp cận đƣợc trong bối cảnh hội nhập sẽ tạo điều kiện cho tỉnh đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, tăng đáng kể năng suất cây trồng, vật nuôi; sản xuất, chế biến các sản phẩm có chất lƣợng
cao đạt tiêu chuẩn quốc gia và xuất khẩu; áp dụng các phƣơng thức quản lý và kinh doanh hiện đại, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
* Vấn đề hợp tác kinh tế giữa Thái Nguyên
với các nƣớc
Thái Nguyên có nhiều tiềm năng hợp tác với
các quốc gia châu Á (ASEAN, Trung Quốc) về du lịch. Việc các nƣớc ASEAN có các chƣơng trình xúc tiến hợp tác du lịch nhƣ “ASEAN – một điểm đến” là cơ hội tốt để Thái Nguyên hợp tác với các nƣớc hình thành các tour du lịch xuyên Á, thu hút ngày càng
nhiều khách quốc tế và nội địa. Tuy nhiên, điều này cần đƣợc thực hiện trong khuôn khổ chung về hợp tác du lịch giữa nƣớc ta với các nƣớc ASEAN.
Thái Nguyên còn có khả năng hợp tác phát triển công nghiệp luyện kim với các nƣớc sản
xuất lớn và hiện đại trong khu vực, trƣớc hết là Trung Quốc và Hàn Quốc.
Xu hƣớng chung của các nƣớc công nghiệp có thu nhập cao là chuyển giao dần các ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên sang các nƣớc đang phát triển
có thu nhập thấp, nguồn lao động dồi dào và giàu tài nguyên thiên nhiên. Đây là cơ hội rất lớn để Thái Nguyên hợp tác và thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.
Ngoài ra, Thái Nguyên có nhiều khả năng hợp tác về nghiên cứu và đào tạo với các nƣớc vì là nơi tập trung đông các trƣờng đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề....
Với môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn của cả nƣớc, hơn nữa hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh đƣợc cải thiện đáng kể trong những năm gần
đây, theo đánh giá của nhiều nhà đầu tƣ nƣớc ngoài , triển vọng đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) vào nƣớc ta nói chung và Thái Nguyên nói riêng là tƣơng đối khả quan. Tỉnh cần tận dụng hiệu quả nguồn vốn này để nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của một số ngành và sản phẩm của mình, nhất là công nghiệp chế tạo cơ khí, công nghiệp điện tử, tin học, giáo dục – đào tạo. Một xu thế nổi bật trong luồng FDI quốc tế là các công ty, tập đoàn lớn trên thế giới đang đầu tƣ ngày càng nhiều vào xây dựng các trung tâm thƣơng mại, khách sạn, khu nghỉ dƣỡng, vui chơi giải trí cao cấp ở các nƣớc đang phát triển, nhất là các nƣớc ở châu Á. Do vậy, Thái Nguyên có thể tranh thủ nguồn vốn này để phát triển cơ sở hạ tầng cho du lịch và một số lĩnh vực dịch vụ khác, tạo thêm việc làm cho ngƣời lao động, đồng thời tranh thủ tiếp cận những kĩ năng quản lí, kinh doanh dịch vụ hiện đại.
Với sự tác động của bối cảnh quốc tế và khu
vực, cùng với những tiềm năng sẵn có của
mình, Thái Nguyên sẽ từng bƣớc khắc phục
những tồn tại, bất cập. Thái Nguyên sẽ tiếp
tục hoàn thành sứ mệnh là một trong những
trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng
trung du miền núi Bắc Bộ và là cửa ngõ giao
lƣu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền
núi Bắc Bộ với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc
định hƣớng kinh tế - xã hội phát triển theo
hƣớng Công nghiệp hóa sẽ góp phần làm tăng
năng lực sản xuất công nghiệp của tỉnh, thúc
đẩy sự phát triển công nghiệp của cả vùng.
Mặt khác, vai trò của tỉnh đƣợc nâng cao
trong việc thúc đẩy giao lƣu kinh tế, thƣơng
mại trong vùng và giữa vùng với các địa
phƣơng trong nƣớc cùng với các nƣớc khác,
nhất là các nƣớc trong khu vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên -Thai
Nguyen Statistical YearBook (2009),Thái Nguyên,
4/2010.
[2]. “Thái Nguyên- Thế và lực mới trong thế kỉ
XXI”, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005.
[3]. Tỉnh ủy- Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân
dân tỉnh Thái Nguyên, Địa chí Thái Nguyên, NXB
Chính trị Quốc gia, 2009.
[4]. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Thái Nguyên đến năm 2020”, 5/2007.
Hoàng Thị Mỹ Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 89 - 92
92
SUMMARY
THE IMPACT FACTORS TO THE ECONOMIC DEVELOPMENT
SOCIAL THAI NGUYEN
Hoang Thi My Hanh
*
College of Education Thai Nguyen University
In the non-stop movement and a vigorous economy and socio- country, implementing creative
renewal of the Party in the circumstances of the local economy from a mainly agricultural, with the
existing potentials, Thai Nguyen province has contributed significantly to economic development -
national society. With the joint efforts of the 13 years since the re-establishment (1997-2010), the
Party and people of Thai Nguyen has gained initial achievements in important economic sectors -
social, but also also reveal the shortcomings and inadequacies need to be overcome. In that
development, the impact of international context and the region plays an important role for
economic development - social, Thai Nguyen province.
Keyword: Thai Nguyên, economy, social, cultural, integration
* Tel: 0942781982; Email: [email protected]
Đặng Huy Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 93 - 98
93
QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
Đặng Huy Ngân
*
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
TÓM TẮT
Bài viết trinh bay cơ sơ ly thuyêt của hai mô hình : mô hinh phân tích trung bình - phƣơng sai ,mô
hình Black -Scholes. Trên cơ sơ đo tac gia đƣa ra cac phƣơng an đâu tƣ nhăm han chê rui ro cho
nhà đầu tƣ khi tham gia thi trƣơng chƣng khoan .
Từ khóa: Mean- variance analysis, portfolios, option, European option
MỞ ĐẦU*
Từ những năm 50 của thế kỷ trƣớc Harry
Markowitz đã nghiên cứu lý thuyết quản lý
danh mục đầu tƣ. Nội dung chủ yếu của nó đề
cập tới việc đa dạng hoá và phân tán rủi ro
trên cơ sở lựa chọn một số chứng khoán
tƣơng quan hoặc tƣơng quan yếu nhằm hạn
chế rủi ro toàn cục của danh mục đầu tƣ. Năm
1973 hai nha kinh tê kiêm toan hoc My la
Fisher Black va Myron Scholes cho ra đơi mô
hình Bl ack-Scholes đê đinh gia tai san trong
môt thi trƣơng vơi thơi gian liên tuc .Tƣ kêt
quả đó ta có thể định giá chứng khoán và các
hơp đông quyên chon đê rôi đƣa ra cac
phƣơng an đâu tƣ phu hơp . Tại Việt Nam,
những nghiên cứu toán ứng dụng trong tài
chính nói chung còn it , tuy nhiên cũng đã có
nhiều kết quả khá sâu sắc. Bài viết này đê câp
đến một lĩnh vực khoa học mới mẻ và hứa
hẹn nhiều ứng dụng trong tƣơng lai.
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH TRUNG BÌNH -
PHƢƠNG SAI
Một bài toán quan trọng trong quản lý danh
mục đầu tƣ là ta phải lựa chọn các chứng
khoán, tỷ trọng giá trị của chứng khoán sao
cho vừa giảm thấp nhất rủi ro (phƣơng sai hay
độ lệch chuẩn của lợi suất nhỏ nhất) vừa đạt
đƣợc một mức lợi nhuận mục tiêu nào đó.
a) Biên hiệu dụng: Giả sử một nhà đầu tƣ có
n tài sản đầu tƣ với véc tơ lợi nhuận là
1 2 nS (S ,S ,...,S ) và véc tơ trung bình
* Email: [email protected]
1 2 n( , ,..., ) . Ta xét tập các trung bình
và độ lệch chuẩn của phƣơng án đầu tƣ là:
2( ' ), ' ( ' ; ; ' 1nA E S E S E S e
Trong 2 phƣơng án đầu tƣ có cùng độ lệch
chuẩn, phƣơng án đầu tƣ nào có lợi nhuận
trung bình cao hơn đƣợc gọi là phƣơng án
trội. Nếu 2 phƣơng án có cùng lợi nhuận
trung bình, phƣơng án nào có độ lệch chuẩn
thấp hơn đƣợc gọi là phƣơng án trội hơn.
Biên hiệu dụng của tập A là tập tất cả các cặp
trung bình, độ lệch chuẩn mà chúng không
đƣợc làm trội hơn bởi 1 phƣơng án đầu tƣ nào
trong A.
Nhà đầu tƣ đƣơng nhiên quan tâm nhiều đến
biên hiệu dụng này để có thể đƣa ra quyết
định đầu tƣ.
Để xác định biên hiệu dụng của một tập A, ta
xét bài toán: cho trƣớc mức lợi nhuận m
và cực tiểu hoá độ lệch chuẩn (bài toán cho
trƣớc độ lệch chuẩn và tối đa hóa lợi nhuận
đƣợc giải quyết tƣơng tự).
Giả sử ma trận hiệp phƣơng sai của các cổ
phiếu là ma trận đối xứng xác định dƣơng
E (S )(S )' . Gọi là ma trận căn
bậc 2 của nghĩa là . ' . Ta có các bài
toán sau:
Bài toán 1: 1
2' . . min với ràng buộc
1' e
' . m
Đặng Huy Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 93 - 98
94
Sử dụng phƣơng pháp nhân tử Lagrange giải
hệ điều kiện cần
1 2
' 1
'
e
e
m
ta tìm đƣợc phƣơng án đầu tƣ m ,
với:
1 1
1
2 22
1
1
-1 -1 -1
-1 -1 -1
-1 -1 -1 ' -1
( ') [(e' e).( ') -(e' ) .e]
( ') (e' ) ( ' ) .e
.e . . (( .e) ( . ))
Do tính lồi của hàm mục tiêu và tính tuyến
tính của ràng buộc nên điều kiện đủ đƣợc thoả
mãn. Độ lệch chuẩn khi đó là:
'f(m) (m v) (m v) .
Ta cũng chứng minh đƣợc tính lồi của đƣờng
biên hiệu dụng
0( , ( ));A m f m m m (1)
với 0
' '
' '
em
e e
. Khi đó đƣờng biên
hiệu dụng là đƣờng cong phía dƣới với đƣờng
tiệm cận 0( ) ' m m .
b) Thị trƣờng tiền tệ: Xét thị trƣờng với tỉ
suất lợi nhuận là r, ở đó 00 r m . Trên sơ
đồ tài sản này biểu diễn bởi điểm (r,0).
Bài toán 2: Nhà đầu tƣ phải kết hợp đầu tƣ
vào một tài sản không rủi ro và một phƣơng
án đầu tƣ C nào đó thuộc biên hiệu dụng AE
theo cách nào để hiệu quả lại xuất hiện.
Từ điểm (r,0) kẻ tiếp tuyến tới đƣờng biên
hiệu dụng với tiếp điểm là * *,m và ta gọi
tiếp tuyến này là đƣờng giá trị. Ta có thể
chứng minh các phƣơng án trên đƣờng giá trị
có ƣu thế hơn so với các phƣơng án kết hợp
giữa một điểm trên biên hiệu dụng và điểm
(r,0).
Từ hệ điều kiện
* * * *
* * *
**
*
( ) '
( ) ( ) '( )
' ( )'( )
( )
f m
f m m r f m
mf m
f m
* * *
( ) '
( ) '
rm m
r
A
E
M
=f(m) = (m-m0)'. .
0 r,0 m0,0 m* m
*
p
Đặng Huy Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 93 - 98
95
Nhƣ vây vơi mô hinh thơi gian rơi rac ta co thê đƣa ra phƣơng an đâu tƣ hiêu qua , tuy nhiên cac diên biên tai chinh diên ra nhanh chóng và khó lƣờng, nhà đầu tƣ gặp khó khăn trong viêc điêu chinh danh muc đâu tƣ theo y muôn, câu hoi đăt ra la liêu co cach đâu tƣ nào khác vừa đem lại lợi nhuận vừa hạn chế tôi thiêu rui ro trên thi trƣơng chƣng khoan hay không?
MÔ HÌNH BLACK-SCHOLES
Giả sử ta có một thị trƣờng hoạt động liên
tục,có lãi suất không đôi, để đơn giản ta chƣa
xét chi phí giao dịch và cổ tức của cổ
phiêu.Ký hiệu St là giá cổ phiếu tại thời điểm
t, t
dS là lƣợng thay đổi của giá cổ phiếu trong
khoảng thời gian [t,t + dt]. Ta gia sƣ đô thay
đôi tƣơng đôi vê gia ti lê thuân vơi đô dai thơi
gian vơi môt ty lê nào đó:
t
t
dSdt
S .
Ngoài ra ta phải kể đến tác động của yếu tố
ngâu nhiên trong thi trƣơng . Các yếu t ố ngẫu
nhiên tao nên môt loai „nhiêu‟ ngâu nhiên .Đê
đơn gian ta xet nhiêu ngâu nhiên co phân phôi
xác suất chuẩn thể hiện qua vi phân ngẫu
nhiên t
dB của một chuyển đông Brown
tB vơi môt hê sô ty lê la nào đó .Do đo ta
đăt:
tt t t t t
t
dSdt dB dS S dt S dB
S
a) Công thưc Itô va công thưc nghiêm cua
phương trinh mô hinh Black-Scholes:
Xét quá trình Itô dXt=a(Xt,t)dt+b(Xt,t)dz (1),
a la phân quan tính ít thay đổi của Xt, b là
mƣc thay đôi ngâu nhiên theo thơi gian (Nêu
nghiên cƣu thi trƣơng gia cô phiêu phô thông
thì hầu hết chúng đều có một bộ phận cấu
thành của giá trị ít thay đổi có quán tính kéo
nhât đinh và phần bổ sung thêm cho phần
ngâu nhiên).
Bây giơ gia sƣ Y la ham cua qua trinh Itô vƣa
cho ,vân đê la xac đinh t
dY .
Xét trong một khoảng thời gian nhất định
công thƣc (1) có thể viết xấp xỉ nhƣ sau:
tX a t bdz. t
Loại bỏ các số hạng từ đạo hàm cấp 3 trơ đi ta
đƣơc:
Cho x dx; t dt ta đƣơc
22
2
1
2t
Y Y Y YdY (a b )dt b .dz
X t X X
Đây chinh la công thƣc Itô môt chiêu.Bây giơ
ta đăt ham
21
2f(t,x) exp ( )t x
;
Xét quá trình
2
0
1
2t t tS S exp ( )t B f(t,B )
Ta co
2 22
22
f f f( )f ; f ; f
t x x
Áp dụng công thức tích phân Itô ở trên ta
đƣơc
t t t tdS S dt S dB
Đặng Huy Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 93 - 98
96
Nhƣ vây phƣơng trinh thê hiên gia cô phiêu
theo thơi gian liên tuc la
2
0
1
2t tS S exp ( )t B
b) Đinh gia quyên chon băng môt phương an
đâu tư đê bao hô:
Xét một quyền chọn mua một cổ phiếu với
giá thực thi X thời điểm đáo hạn là T ;ký hiệu
TS là giá cổ phiếu tại thời điểm T.
+ Gọi V(S,t) là giá một quyền chọn mua ,giả
thiêt ham V (S,t) là hàm hai biến khả vi đến
môt câp nao đo . Ta se đi xây dƣng công thƣc
tính của V(S,t).
Sƣ dung công thƣc khai triên Taylor va t hay
dS băng biêu thƣc trong mô hinh Black -
Scholes, thƣc hiên tinh toan nhƣ ơ muc 2 ta
đƣơc phƣơng trinh đao ham riêng:
22 2
2
1
2
V V V VdV S S dt S dB
t S S S
(2)
Ta se cân băng gia tri cua quyên chon băng
cách tạo ra một phƣơng án đầu tƣ cù ng gia tri
do đo ta co phƣơng trinh
t t tV(S ,t) .S P (3)
St là giá một cổ phiếu, tP là giá một trái phiếu
thỏa mãn các phƣơng trình
t t t tdS S dt S dB ; t t
dP rPdt
3( ) dV ( S r P)dt SdB
Cân băng biêu thƣc dV nay vơi công thƣc (2)
ta đƣơc:
t
V(t) (S , t)
S
;
22 2
2
1
2
V Vr P S
t S
Măt khac V
P V S V SS
22 2
2
1
2
V V Vr(V S ) S
S t S
22 2
2
10
2
V V VS rS rV
t S S
Giải phƣơng trình đạo hàm riêng trên với các
điêu kiên biên:
i)V(S,T) (S X)
1S
V(S,T)ii) lim
S
iii)Nêu tai 0
t t mà 0
0S(t ) thì V(S,t) = 0
tại mọi 0
t t
Ta đƣơc kêt qua:
1 2
rT
t tV(S ,t) S N(d ) Xe N(d )
Vơi 2
1 2 1
1
2
Sd ln (r )T ;d d T
XT
2
21
2
x u
N(x) e du
+ Giá quyền chọn bán kiểu Châu Âu: Nhà đầu tƣ thƣc hiên mua môt cô phiêu vơi gia S , bán
môt quyên chon mua vơi gia C , đông thơi cũng mua một quyên chon ban vơi gia P (giá thƣc thi X , và thời gian đáo hạn T giống nh ƣ quyên chon mua). Giả sử thị trƣờng không có đô chênh thi gia.
Ta co đăng thƣc rT(S P C)e X
rTP C S e .X .Thay công thƣc gia
quyên chon mua vao va biên đôi ta đƣơc
công thƣc Black-Scholes đôi vơi quyên chon
bán là 1 2
rT
t tP(S ,t) S N( d ) Xe N( d )
Ví dụ : Ta sƣ dung chuôi gia cô phiêu cua công ty CP chƣng khoan Sai Gòn SSI tại thời điêm đong cƣa kể từ ngày 25/1/2006 đến ngày 03/03/2011.
Từ đó ta có đƣợc chuỗi lợi suất tƣơng ứng, và thu đƣợc độ dao động theo ngày của chuỗi lợi suất SSI: σ = 0.030595
- Độ dao động theo năm của chuỗi lợi suất
SSI:
483749.0030595.0*250*250 ngàynăă
- Trái phiếu có kỳ hạn 5 năm, phát hành ngày
15/6/2010, đáo hạn ngày 1/6/2015, lãi suất
danh nghĩa là 11,33%/năm, nhƣ vậy ta có thể
lấy mức lãi suất phi rủi ro Rf = 11.33%
- Ta tiến hành định giá quyền chọn mua hoặc
bán kiểu Âu về cổ phiếu SSI, kỳ hạn 6 tháng,
giá hiện thời của cổ phiếu SSI tạm lấy là giá
đóng cửa của SSI ngày 03/03/2011:
SSI=22 000 VND.
Đặng Huy Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 93 - 98
97
- Giá thực thi của quyền chọn: X=22 000 VND
- Với các thông số trên ta hoàn toàn tính đƣợc
giá của Call và Put kiểu Âu trên. Nhập các dữ
liệu đầu vào vào bảng tính Excel ta cũng thu
đƣợc: C = 3600 VND; P = 2300 VND
PHƢƠNG ÁN ĐẦU TƢ CƠ BẢN CÓ SỬ
DỤNG QUYỀN CHỌN
Xét một nhà đầu tƣ đầu tƣ vào cổ phiếu S .Sau
đây la môt sô kha năng đâu tƣ cơ ban co sƣ
dụng quyền chọn
a) Trương hơp nha đâu tư không co trong tay
cô phiêu
* Nêu gia cô phiêu hiên tai la S0 nhà đâu tƣ
sau khi phân tich đƣa ra dƣ bao gia cô phiêu
có thể tăng giá lên giá ST tại thời điểm T .
Nhƣng co thê đên thơi điêm T gia lai giảm
không đung nhƣ dƣ bao . Thê thi trong trƣơng
hơp nay ,để vừa giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực
hiên theo dƣ bao nha đâu tƣ co thê đâu tƣ vao
môt quyên chon mua cô phiêu vơi gia thƣc
hiên 0S tại thời điểm T . Và lợ i nhuân thu
đƣơc la max{ST - S0,0} - C. Nhƣ vây rui ro
lơn nhât ma nha đâu tƣ phai chiu la C -giá
quyên chon mua . Không nhƣng thê sô vôn
ban đâu bo ra chi la C (Ở nhiều thị trƣờng
trên thê giơi gia cô phiêu co thê la râ t cao, do
vây nêu đâu tƣ trƣc tiêp vao cô phiêu thi sô
vôn bo ra cung se lơn va không phai ai cung
thƣc hiên đâu tƣ trƣc tiêp đƣơc).
Bây giơ co môt vân đê đăt ra la nêu trong
khoảng thời gian từ nay cho đến thời điểm
đáo hạn T nếu giá cổ phiếu tăng mạnh đến giá
T 'S nào đó (mà T‟<T, nghĩa là chƣa thực hiện
đƣơc quyên chon mua ) nhà đâu tƣ muôn giƣ
lơi nhuân, phòng trƣờng hợp giá có thể giảm
vây nha đâu tƣ se han h đông nhƣ thê nao , và
giá ST nào đảm bảo lợi nhuận.
Trên cơ sơ phân tich ta co thê đƣa ra phƣơng
án nhƣ sau:
+ Phƣơng an 1: Nhà đầu tƣ bán quyền chọn
mua đa co vơi gia lơn hơn rT 'Ce để hiện thực
hóa lợi nhuân.
+ Phƣơng an 2: Nhà đầu tƣ mua thêm một
quyên chon ban (giá quyền chọn bán ký hiệu
là PT) vơi thơi điêm đao han la T , giá thực thi
chính là giá ST. Đê thu đƣơc lơi nhuân lơn
hơn lơi nhuân cua tai san phi rui ro t hì ta phải
có bất đẳng thức
0
rT r(T T')
T ' T 'P S S Ce .e
* Ngƣơc lai nêu nha đâu tƣ phân tich kha
năng gia cô phiêu nao đo co thê se giam nha
đâu tƣ se mua quyên chon ban vơi gia thƣc
hiên 0S tại thờ i điêm T . Và lợi nhuận thu
đƣơc la max{S0 - ST,0} - P. Trong trƣơng hơp
này rủi ro lớn nhất mà nhà đầu tƣ phải chịu là
P-giá quyền chọn bán.Cũng tƣơng tự nhƣ trên
nêu gia giam sâu tai thơi điêm T‟ chƣa phai
thơi điêm đao hạn thì nhà đầu tƣ có thể bán
quyên chon ban đa co vơi gia phu hơp đê hiên
thƣc hoa lơi nhuân hoăc mua thêm môt quyên
chọn mua (vơi gia thƣc hiên T 'S và thời điểm
đao han la T )và để thu đƣợc l ợi nhuận lớn
hơn lơi nhuân cua tai san phi rui ro thi ta phai
có bất đẳng thức
0
rT r(T T')
T ' T 'C S S Pe .e
* Nêu nha đâu tƣ không co cô phiêu va thƣc
hiên phƣơng an đâu tƣ nhƣ sau : Mua môt
quyên chon mua cô phiêu S vơi gia C (giá
thƣc thi la X, thơi gian cho đên đao han la T);
đông thơi cung lai ban môt quyên chon ban
vơi gia P (giá thực thi và thời gian đáo hạn
nhƣ quyên chon mua ). Vơi phƣơng an nay se
đam bao gia thƣc thi trong moi tinh huông la
X va lơi nhuân cua nha đâu tƣ la
T(P C) (S X)
Trong công thƣc trên sô hang (P-C) là sự
chênh lêch giƣa gia quyên chon mua va ban
vơi cung thông sô ky thuât do đo la tƣơng đôi
nhỏ ;nhƣ vây lơi nhu ận chủ yếu phụ thuộc
vào hiệu số ST - X mà thực chất là lƣợng thay
đôi gia giƣa gia cô phiêu luc đao han va gia
thƣc thi ; trong nhiêu trƣơng hơp hiêu sô co
thê la sô dƣơng lơn (lơi nhuân cao), ngƣơc lai
cũng có thể âm nhiêu (tôn thât lơn ).Hơn nƣa
chi phi bo ra ban đâu la (P C) nhỏ nên có
thê thƣc hiên nhiêu quyên chon do vây co thê
có lợi nhuận rất lớn,ngƣơc lai nha đâu tƣ cung
có thể phá sản .Vì vậy ta gọi đâu tƣ theo cach
này là sự đầu tƣ của những nhà đầu tƣ ƣa
mạo hiểm .Trong công thƣc trên nêu gia thƣc
thi băng gia hiên tai thi ta co thê xem phƣơng
Đặng Huy Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 93 - 98
98
án đầu tƣ trên nhƣ sự một đánh cƣợc vào sự
tăng gia cua cô phiêu sau khoảng thời gian T.
Trơ lai vi du ơ muc 3 ở trên giả sử nhà đầu tƣ 220 triêu vao cô phiêu SSI ngay thi lơi nhuân sau 6 tháng nữa là
110000 22
T(S ) trong
khi đo nêu đâu tƣ hêt vao quyên chon mua vơi gia thƣc hiên 22000 thì lợi nhuận là
2 2 1170000 22 17
T(S )
b) Trương hơp nha đâu tư co trong tay cô
phiêu:
Giả sử bạn là cổ đông của một công ty niêm yêt vi môt ly do nao đo ban không muôn ban cô phiêu cua minh nhƣng lai lo lăng v ề giá cổ phiêu co thê giam . Bạn có thể mua quyền chọn bán với giá hiện tại . Vơi cach nay ban mât phi la P đê đam bao gia tri cô phiêu đông thơi cung giƣ đƣơc lơi nhuân trong trƣơng hơp gia cô phiêu tăng.
- Môt ca ch khac ban co thê xem xet la ban
bán quyền chọn mua với số lƣợng phù hợp
và giá thực thi cao (Trong trƣơng hơp nay
nêu gia cô phiêu đi ngang thâp hơn gia thƣc
thi thi lơi nhuân ma ban thu đƣơc la gia
quyên chon mua ).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Vƣơng Quân Hoàng, Ngô Phƣơng Chí:
Nguyên lý tài chính - Toán của thị trường tài
chính Nxb chính trị quốc gia 2000.
[2].Nguyễn Duy Tiến, Vũ Viết Yên: Lý thuyết xác
suất, Nxb. Giáo dục, 2001
[3].Trần Hùng Thao (2003): Nhập môn Toán học
tài chính; Nxb Khoa học và Kỹ thuật .
[4].A.N. Shiryaev; Essentials of Stochastic
Finance,1999, world Scientific.
[5].David.C.Hedth,Glen Swindle and
Editor,Introduction to Mathematical Finance,San
Diego,Califorlia,1997.
SUMMARY
RISK MANAGEMENT IN STOCK MARKET
Dang Huy Ngan
*
National Economics University
Vietnamese stock market is newly established and inherits a great deal of potential risks. Therefore,
how to manage risk wisely when investing in the market is essential for investors. This paper
presents two theoretical models: mean-variance analysis model and Black- Scholes model, in which
stochastic differentials and stochastic integrals are used. We also apply the models to propose several
investment plans for investors in order to reduce the risk when participating the market.
Keywords: Mean- variance analysis, portfolios, option, European option
* Email: [email protected]
Vũ Xuân Hùng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 99 - 103
99
THỰC TẬP SƢ PHẠM VÀ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM
CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ
Vũ Xuân Hùng
1*, Trƣơng Đại Đức
2
1Tổng cục Dạy nghề, 2Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài viết trình bày những nghiên cứu về ảnh hƣởng của hoạt động thực tập sƣ phạm tới năng lực sƣ
phạm của đội ngũ giáo viên dạy nghề nhƣ năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực quản lý, tổ
chức hoạt động sƣ phạm. Bên cạnh đó bài viết đã có những phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng
năng lực dạy học, năng lực giáo dục và năng lực quản lý, tổ chức quá trình dạy học của đội ngũ giáo
viên dạy nghề để làm cơ sở đề xuất giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động thực tập sƣ phạm tại các
trƣờng sƣ phạm kỹ thuật, nâng cao năng lực sƣ phạm của đội ngũ giáo viên dạy nghề. Theo đó,
hƣớng tiếp cận đào tạo theo năng lực thực hiện đã đƣợc coi là giải pháp hiệu quả để nâng cao chất
lƣợng hoạt động thực tập sƣ phạm, từ đó nâng cao năng lực sƣ phạm của giáo viên.
Từ khóa: Sư phạm kỹ thuật; Năng lực sư phạm, Thực tập sư phạm; Giáo viên dạy nghề;Năng lực
thực hiện
Chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực lao động kỹ thuật là một
trong những yếu tố quan trọng trong phát
triển kinh tế-xã hội của mọi quốc gia, trong
đó có Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực, một trong những nhiệm
vụ cấp bách hiện nay là phát triển đào tạo
nghề nói chung, đội ngũ giáo viên dạy nghề
(GVDN) nói riêng. *
Trong thời gian qua, cùng với việc phát triển
mạng lƣới cơ sở dạy nghề, đội ngũ GVDN
cũng đƣợc phát triển mạnh cả về số lƣợng và
chất lƣợng, đóng góp quan trọng vào việc đào
tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nƣớc. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy năng lực nói chung,
năng lực sƣ phạm kỹ thuật của đội ngũ
GVDN tốt nghiệp các trƣờng sƣ phạm kỹ
thuật nói riêng còn nhiều bất cập. Trong nhiều
nguyên nhân, có nguyên nhân sâu xa từ việc
đào tạo nói chung, tổ chức thực tập sƣ phạm
(TTSP) nói riêng trong quá trình đào tạo
GVDN tại các trƣờng sƣ phạm kỹ thuật
(SPKT). Do vậy, thời gian tới đây, bên cạnh
nhiều giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ
GVDN đòi hỏi phải tìm ra đƣợc những giải
pháp ngay trong hoạt động đào tạo, TTSP để
nâng cao năng lực sƣ phạm cho sinh viên,
ngƣời GVDN tƣơng lai.
* Tel: 098.375.2225; Email: [email protected]
ẢNH HƢỞNG CỦA TTSP TỚI NĂNG LỰC
SƢ PHẠM NGƢỜI GVDN
Đào tạo sƣ phạm kỹ thuật có thể nói là hoạt
động phức tạp nhất trong các hoạt động đào
tạo sƣ phạm. Đối tƣợng sinh viên trong các
trƣờng sƣ phạm kỹ thuật là những giáo viên
tƣơng lai, ngƣời quyết định quan trọng chất
lƣợng nguồn nhân lực lao động kỹ thuật trực
tiếp cho quốc gia. Do vậy, những yêu cầu về
năng lực đặt ra đối với ngƣời học trong quá
trình đào tạo rất cao, họ vừa có năng lực của
nhà sƣ phạm, vừa có năng lực của nhà chuyên
môn nghề nghiệp và vừa có năng lực của nhà
hoạt động xã hội. Những đòi hỏi đó đã hình
thành nên năng lực sƣ phạm kỹ thuật của
ngƣời GVDN (H1).
Hình 1. Mô hình cấu trúc năng lực
sƣ phạm kỹ thuật
Năng lực SPKT
Năng lực
chuyên
môn
Năng
lực sƣ
phạm
Năng lực
xã hội
Vũ Xuân Hùng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 99 - 103
100
Trong các năng lực trên, năng lực sƣ phạm
đƣợc coi là năng lực chuyên biệt, đặc trƣng
của năng lực sƣ phạm kỹ thuật. Năng lực sƣ
phạm là tổ hợp những đặc điểm tâm lý của
nhân cách nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt
động sƣ phạm và quyết định sự thành công
của hoạt động sƣ phạm. Năng lực sƣ phạm
tựa nhƣ là hình chiếu của hoạt động sƣ phạm.
Năng lực sƣ phạm một mặt đƣợc hình thành
và phát triển thông qua quá trình đào tạo tại
các trƣờng sƣ phạm kỹ thuật và mặt khác là
thông qua giai đoạn TTSP.
TTSP đƣợc coi là một bƣớc trong quy trình
rèn luyện năng lực sƣ phạm, là giai đoạn
luyện tập nâng cao ở trên đối tƣợng thực.
Thông qua giai đoạn này, ngƣời học tiến hành
củng cố, vận dụng kiến thức lý thuyết, rèn
luyện kỹ năng bằng việc thực hiện một cách
tƣơng đối độc lập nhiệm vụ dạy học, giáo dục
và cũng qua đó hình thành và phát triển năng
lực sƣ phạm của ngƣời GVDN.
Năng lực sƣ phạm đƣợc hình thành từ nhiều
các năng lực. Tuy nhiên, trong đó có một số
năng lực đóng vai trò chủ yếu, quyết định đến
năng lực này đó là: Năng lực dạy học, năng
lực giáo dục và năng lực quản lý, tổ chức hoạt
động sƣ phạm [3].
Năng lực dạy học (bao gồm cả dạy lý thuyết
và thực hành nghề hoặc dạy tích hợp) là một
năng lực tổng hợp của nhiều năng lực và là
năng lực quan trọng trong năng lực sƣ phạm.
Trong một số trƣờng hợp ngƣời ta chỉ cần
thông qua năng lực dạy học cũng có thể đánh
giá đƣợc năng lực sƣ phạm của ngƣời GVDN.
Năng lực dạy học đƣợc biểu hiện qua các
năng sƣ phạm nhƣ năng lực thiết kế dạy học
(soạn giáo án, đề cƣơng, nghiên cứu tài liệu
giảng dạy, chuẩn bị các điều kiện bài học…);
năng lực sử dụng phƣơng pháp dạy học (lựa
chọn, vận dụng, phối hợp...); năng lực chuẩn
bị, sử dụng các phƣơng tiện dạy học; năng lực
giao tiếp (sử dụng ngôn ngữ nói, viết, ngôn
ngữ hình thể...); năng lực kiểm tra, đánh giá.
Ngoài ra, năng lực dạy học còn thể hiện
thông qua các năng lực khác nữa nhƣ năng
lực phân tích chƣơng trình đào tạo; năng
lực viết, vẽ trên bảng; năng lực dự giờ, rút
kinh nghiệm v.v....
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
ngƣời GVDN là hình thành nhân cách ngƣời
lao động mới cho thế hệ trẻ. Muốn vậy, ngƣời
GVDN phải có năng lực giáo dục nghề
nghiệp. Năng lực đó thể hiện ở khả năng cảm
hóa, thuyết phục học sinh của ngƣời thầy.
Ngƣời GVDN phải biết đặc điểm tâm lý của
từng ngƣời học để có phƣơng pháp giáo dục
phù hợp với từng đối tƣợng, nhất là với đối
tƣợng cá biệt. Muốn làm tốt công tác giáo
dục, ngƣời GVDN phải thực sự gƣơng mẫu
về mọi mặt để ngƣời học noi theo. TTSP
không chỉ là điều kiện rèn luyện các năng lực
dạy học mà còn là môi trƣờng thuận lợi để
ngƣời học vận dụng những hiểu biết về tâm lý
học, giáo dục học vào tổ chức hoạt động giáo
dục không chỉ trong giờ học mà còn cả ngoài
giờ học. Vì vậy, ngƣời GVDN sẽ có cơ hội và
điều kiện để rèn luyện các năng lực sƣ phạm
cần thiết nhƣ: Năng lực xây dựng kế hoạch
cho các hoạt động sƣ phạm; năng lực hình
dung đƣợc hiệu quả của các tác động giáo
dục; các năng lực làm công tác chủ nhiệm;
năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục
toàn diện v.v…
Dạy học, thực chất là quá trình tổ chức hoạt
động dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp, vì
vậy đòi hỏi ngƣời GVDN phải có năng lực
quản lý, tổ chức quá trình này. Năng lực quản
lý, tổ chức quá trình hoạt động thể hiện ở sự
phối hợp nhịp nhàng những hoạt động của
thầy và trò trong dạy lý thuyết, thực hành
nghề, tham quan thực tế và các hoạt động
ngoại khóa. Năng lực này đƣợc biểu hiện qua
các năng lực nhƣ: Năng lực tổ chức hoạt
động tập thể trong giờ học (hoạt động
nhóm); năng lực tổ chức hoạt động thực
hành, thực tập; năng lực xử lý thông tin;
năng lực lập kế hoạch; năng lực tổ chức thực
hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo; năng lực
chỉ đạo, điều hành v.v…
Nhƣ vậy, ảnh hƣởng của giai đoạn TTSP
trong quá trình đào tạo GVDN tại các trƣờng
sƣ phạm kỹ thuật là đã rõ. Quá trình TTSP
đảm bảo chất lƣợng tốt sẽ giúp cho ngƣời
ngƣời học, ngƣời GVDN tƣơng lai thực hiện
tốt nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục, tổ chức và
luôn vững vàng trong thực tiễn nghề nghiệp
đa dạng và phong phú.
Vũ Xuân Hùng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 99 - 103
101
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM
CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN GVDN
Trong những năm gần đây, đội ngũ GVDN đã
phát triển nhanh chóng. Theo số liệu thống kê
của Tổng cục Dạy nghề, tính đến tháng 12 năm
2009, cả nƣớc có 20.195 GVDN tại các trƣờng
cao đẳng nghề, trung cấp nghề và trung tâm
dạy nghề, trong đó, 4.678 giáo viên tại các
trƣờng cao đẳng nghề, 9.583 giáo viên tại các
trƣờng trung cấp nghề và 5.934 giáo viên tại
các trung tâm dạy nghề. Ngoài ra, còn có gần
16.000 giáo viên thuộc các cơ sở giáo dục có
tham gia dạy nghề, trong đó, riêng 142 trƣờng
đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có
7.006 giáo viên tham gia dạy nghề [7].
Góp phần vào việc phát triển số lƣợng đội
ngũ GVDN, mạng lƣới các trƣờng sƣ phạm
kỹ thuật đào tạo GVDN đã đƣợc củng cố,
phát triển. Tính đến năm 2009, cả nƣớc có 4
trƣờng đại học sƣ phạm kỹ thuật (ĐHSPKT)
(Trƣờng ĐHSPKT Hƣng Yên, ĐHSPKT Nam
Định, ĐHSPKT Vinh, ĐHSPKT Thành phố
Hồ Chí Minh), 01 trƣờng cao đẳng sƣ phạm
kỹ thuật (Trƣờng Cao đẳng sƣ phạm kỹ thuật
Vĩnh Long), và 15 khoa sƣ phạm kỹ thuật của
một số trƣờng đại học kỹ thuật tham gia đào
tạo GVDN.
Hiện nay, mặc dù không nhiều nhƣng số
giáo viên tốt nghiệp các trƣờng sƣ phạm kỹ
thuật đang đóng vai trò nòng cốt trong các
cơ sở dạy nghề. Tuy nhiên, một điều tra,
khảo sát trong phạm vi cả nƣớc với 112
giáo viên tại 40 cơ sở dạy nghề (15 trƣờng
cao đẳng nghề, 10 trƣờng trung cấp nghề, 5
trung tâm dạy nghề) cho thấy năng lực sƣ
phạm của đội ngũ GVDN tốt nghiệp các
trƣờng sƣ phạm kỹ thuật còn yếu, mặc dù
đƣợc đào tạo cơ bản, cụ thể:
- Thực trạng về năng lực dạy học
Theo kết quả điều tra, khảo sát về năng lực
dạy học (gồm cả dạy lý thuyết và thực hành
hoặc tích hợp), trong 215 giáo viên có 15 giáo
viên đạt loại giỏi (chiếm 6,97%), 45 giáo viên
đạt loại khá (chiếm 20,92%), 75 giáo viên loại
trung bình (chiếm 34,87%) và 80 giáo viên
loại yếu (chiếm 37,2%). Trong số 80 giáo
viên loại yếu thì có 52 là giáo viên trẻ mới ra
trƣờng. Số giáo viên đạt loại khá, giỏi đều là
giáo viên có thâm niên giảng dạy từ 3 năm
trở lên.
Thông qua kết quả điều tra, khảo sát cho thấy
đội ngũ GVDN là những ngƣời tốt nghiệp các
trƣờng sƣ phạm kỹ thuật đã bộc lộ những
điểm yếu về năng lực dạy học nhƣ sau:
+ Việc thiết kế dạy học (soạn giáo án) thiếu
tính khoa học, thuần túy dựa trên nội dung
dạy học, rất ít giáo viên quan tâm đến việc
xác định đúng mục tiêu dạy học cũng nhƣ
phân tích dạy học. Giáo án chỉ là một tài liệu
liệt kê lại dàn bài và nội dung chính, kèm theo
tên phƣơng pháp giảng dạy mà giáo viên chọn
hoặc cảm thấy nên chọn, không thể hiện đƣợc
hoạt động học và các tiêu chí phải đạt đƣợc
của hoạt động học. Sự phân bố nội dung, thời
gian chƣa hợp lý nhất là trong phần hƣớng
dẫn thực hành; Còn một số giáo viên xác định
không đúng mục tiêu dạy học, nhầm lẫn giữa
mục tiêu dạy và mục tiêu học, giữa mục tiêu
và yêu cầu;
+ Chƣa nắm vững các phƣơng pháp dạy học,
nên lựa chọn phƣơng pháp không phù hợp với
nội dung và đối tƣợng. Khi thuyết trình, giáo
viên không thể hiện đƣợc mục tiêu dạy học,
vì thế học sinh không đƣợc định hƣớng đƣợc
vấn đề. Khi đàm thoại, sau khi đặt câu hỏi
nhiều giáo viên đã yêu cầu học sinh trả lời
ngay. Nếu học sinh trả lời đúng thì giáo viên
chuyển sang họat động khác, nếu sai thì giáo
viên “truy” đến cùng hoặc là tự trả lời. Nhƣ
thế, thực sự chƣa có sự đối thoại trong giờ
học và không đánh giá đúng mức câu trả lời
của học sinh. Do vậy, chƣa phát huy đƣợc
tính tích cực của học sinh để biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
+ Hạn chế về năng lực sử dụng phƣơng tiện
dạy học, lạm dụng các phƣơng tiện trực quan,
nhất là các phƣơng tiện dạy học hiện đại làm
cho bài giảng trở thành nơi phô diễn thiết bị,
công nghệ mà hiệu quả tác động đến ngƣời
học thấp.
+ Yếu về sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt không
rõ ràng, ngƣời học khó tiếp thu bài.
+ Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
nặng về thành tích, không thực hiện đƣợc
chức năng quan trọng của kiểm tra, đánh giá
trong quá trình dạy học.
Vũ Xuân Hùng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 99 - 103
102
- Thực trạng năng lực giáo dục
Theo kết quả điều tra, khảo sát có 23,25%
giáo viên yếu về năng lực giáo dục. Chíếm
phần lớn trong số giáo viên yếu kể trên là số
giáo viên trẻ, có thâm niên từ 1 đến 2 năm,
chƣa có nhiều kinh nghiệm giáo dục. Những
điểm yếu cơ bản về năng lực giáo dục của
GVDN đƣợc bộc lộ nhƣ sau:
+ Chƣa kết hợp đƣợc việc giáo dục thái độ
đối với từng công việc cũng nhƣ các phẩm
chất nghề nghiệp thông qua giờ giảng nhất là
đối với các giờ giảng lý thuyết thuần túy, làm
cho quá trình hình thành nhân cách ở ngƣời
học chƣa đƣợc rõ nét;
+ Chƣa tạo cho ngƣời học lòng say mê nghề
nghiệp;
+ Thiếu kinh nghiệm trong công tác giáo dục
cá biệt, hay dùng mệnh lệnh, không làm cho
ngƣời học khâm phục; xử lý các tình huống
sƣ phạm chƣa khéo léo, cứng nhắc.
Thực trạng năng lực quản lý, tổ chức quá
trình dạy học
Về năng lực quản lý, tổ chức quá trình dạy
học có 7,9% giáo viên bị xếp loại yếu và chủ
yếu trong số giáo viên trẻ mới ra trƣờng. Hạn
chế về năng lực quản lý, tổ chức quá trình dạy
học biểu hiện cụ thể trên một số nội dung sau:
+ Thiếu tính kế hoạch trong các hoạt động
dạy học, hoạt động giáo dục; chƣa phối hợp
tốt đƣợc hoạt động dạy học và giáo dục;
+ Tổ chức quá trình thực hành, thực tập chƣa
phù hợp với quy luật hình thành kỹ năng, kỹ
xảo nghề nghiệp nên kết quả thực tập của học
sinh chƣa cao;
+ Thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức các
hoạt động tập thể của lớp học. Việc tổ chức hoạt
động nhóm thực hiện một cách máy móc,
cƣỡng ép, dẫn đến không đạt hiệu quả cao.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC SƢ PHẠM CHO ĐỘI NGŨ GVDN
Trong những năm gần đây, việc xây dựng,
nâng cao chất lƣợng đội ngũ nhà giáo nói
chung, GVDN nói riêng đã đƣợc sự quan tâm
của Đảng và Nhà nƣớc. Chỉ thị số 40/CT-TW
ngày 15/6/2004 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng
Đảng; Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày
11/01/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ đã
khẳng định rõ mục tiêu xây dựng đội ngũ nhà
giáo theo hƣớng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đảm
bảo chất lƣợng, đủ về số lƣợng, đồng bộ về
cơ cấu tiếp cận với chuẩn khu vực và thế giới.
Để nâng cao năng lực sƣ phạm kỹ thuật nói
chung, năng lực sƣ phạm cho đội ngũ GVDN
nói riêng, ngoài các giải pháp nhƣ nâng cao
năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi
dƣỡng GVDN; xây dựng lại chƣơng trình, nội
dung đào tạo thì cần tập trung vào những giải
pháp cụ thể, mang tính đột phá trong từng
khâu, từng giai đoạn của quá trình đào tạo tại
các trƣờng sƣ phạm kỹ thuật.
Nhƣ đã trình bày ở trên, năng lực sƣ phạm
của GVDN đƣợc hình thành, phát triển chủ
yếu trong giai đoạn TTSP. Mặt khác, thực tế
năng lực sƣ phạm của đội ngũ GVDN, nhất là
năng lực dạy học, năng lực giáo dục và năng
lực quản lý, tổ chức dạy học còn rất yếu, do
vậy theo chúng tôi nên đột phá vào việc nâng
cao chất lƣợng TTSP tại các trƣờng sƣ phạm
kỹ thuật theo một cách tiếp cận mới: Tiếp cận
năng lực thực hiện.
TTSP theo tiếp cận năng lực thực hiện chú
trọng vào đầu ra của quá trình đào tạo, nghĩa
là ngƣời học sau khi kết thúc giai đoạn TTSP
có khả năng thực hiện nhiệm vụ giảng dạy,
giáo dục, quản lý và tổ chức dạy học theo tiêu
chuẩn đặt ra đối với từng nhiệm vụ, công việc
cụ thể, thể hiện mức độ cao nhất năng lực sƣ
phạm của ngƣời GVDN, đáp ứng đƣợc ngay
những đòi hỏi của thực tiễn giáo dục, đào tạo.
Theo hƣớng tiếp cận này, giải pháp trong giai
đoạn trƣớc mắt là cần tập trung nghiên cứu,
vận dụng, triển khai tiếp cận năng lực thực
hiện trong đào tạo GVDN nói chung và TTSP
nói riêng. Giải pháp này là cần thiết, cấp bách
và có tính khả thi.
Nhƣ vậy, có thể thấy hoạt động TTSP có ảnh
hƣởng lớn, quan trọng tới năng lực sƣ phạm
của ngƣời GVDN. Năng lực sƣ phạm rất
phong phú và phức tạp nên việc hình thành nó
ở ngƣời học không phải dễ dàng. Để ngƣời
GVDN có năng lực sƣ phạm tốt, khắc phục
những yếu kém, bất cập hiện nay, ngay trong
quá trình đào tạo, nhất là quá trình TTSP, cần
có những đổi mới để nâng cao chất lƣợng
Vũ Xuân Hùng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 99 - 103
103
TTSP, có nhƣ vậy năng lực sƣ phạm của đội
ngũ GVDN mới thực sự đƣợc đảm bảo, góp
phần quan trọng vào việc nâng cao chất
lƣợng đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ
thuật cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nƣớc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Nguyễn Minh Đƣờng (2005), Tiếp cận hệ
thống trong nghiên cứu khoa học về sư phạm kỹ
thuật, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 1, tháng
10/2005
[2].Nguyễn Đình Chỉnh (1991), Thực tập sư
phạm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
[3].Phạm Minh Hạc (2001), Tâm lý học, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội
[4].Phan Kha (1992), Đánh giá đội ngũ giáo viên
dạy nghề. Đề tài Hd-92-95, Viện Viện Nghiên cứu
phát triển giáo dục, Hà Nội;
[5].Nguyễn Đức Trí (2004), Xây dựng mô hình
đào tạo giáo viên kỹ thuật ở trình độ đại học cho
các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề-
Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Hà Nội
[6].Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày
11/1/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê
duyệt đề án Xây dựng, nâng cao chất lƣợng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn
2005-2010;
[7].Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Dự
thảo Đề án phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề
giai đoạn 2009 - 2015
[8]. Hanno Hortsch (2003), Didaktik der
Berufsbildung, Hochschulskripten Universitaet
Dresden
SUMMARY
PEDAGOGICAL PRACTICE AND TEACHERS' CAPACITY STATUS OF
TEACHERS OF VOCATIONAL TRAINING
Vu Xuan Hung
1*, Truong Dai Duc
2
1General Department of Vocational Training, 2Thai Nguyen University
The paper presents research on the impact of pedagogical practice to the pedagogy competence of
vocational training teachers as teaching competence, education competence, management
organizational competence of teaching. Besides article has analysis and evaluation to clarify the
current status of teaching competence, education competence and management organizational
competence of vocational teachers as a basis for all solutions for improving the quality of
pedagogical practice at school technical teachers, teachers' capacity building of teachers training.
Accordingly, the approach to competence based training has been considered an effective solution
to improve the quality of pedagogical practice, thereby improving the capacity of vocational
training teacher.
Keywords: Pedagogical technical; pedagogy competence; practice pedagogical; vocational
training teacher
* Tel: 098.375.2225; Email: [email protected]
Lê Thị Thu Hƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 105 - 108
104
Lê Thị Thu Hƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 105 - 109
105
PHÂN HÓA NỘI DUNG DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC
Lê Thị Thu Hƣơng*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong lớp học phân hóa, giáo viên chủ động lên kế hoạch phân hóa cách thức tiếp cận với nội
dung, quy trình và sản phẩm của quá trình dạy học cho phù hợp với các cá nhân hoặc nhóm học
sinh. Mục đích của dạy học phân hóa là nhằm giúp tất cả các em cùng tiến bộ. Bài báo đề cập đến
định hƣớng phân hóa nội dung dạy học môn Toán ở Tiểu học dựa trên trình độ nhận thức và nhu
cầu học tập của học sinh. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu một vài chiến lƣợc phân hóa nội dung dạy
học môn Toán ở Tiểu học cùng với những ví dụ là những tình huống dạy học thực tế mà chúng tôi
đã tiến hành dạy thực nghiệm tại trƣờng Tiểu học Phố Cò – TX Sông Công tỉnh Thái Nguyên và
thu đƣợc những kết quả khả quan.
Từ khóa: Dạy học phân hóa; phân hóa nội dung; trình độ nhận thức, tiểu học
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Lí luận và thực tiễn dạy học cho thấy mọi
học sinh bình thƣờng đều có khả năng lĩnh
hội chuẩn chƣơng trình phổ thông [1] và
theo Levine (2003) “Bằng cách sử dụng dạy
học phân hóa, giáo viên có thể đáp ứng nhu
cầu của tất cả các cá nhân học sinh, giúp
các em đạt đƣợc, thậm chí vƣợt chuẩn
chƣơng trình” [3].
Theo Carol Ann Tomlinson (2004): Trong
một lớp học dạy học phân hóa, giáo viên phải
quan tâm đến ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau:
(1) Nội dung – đầu vào, cái mà học sinh học;
(2) quy trình - cách thức học sinh chiếm lĩnh
tri thức, kĩ năng; và (3) sản phẩm – đầu ra,
cách học sinh thể hiện đƣợc những gì mà họ
đã học [2]. Ở đó, giáo viên đƣa ra những cách
khác nhau để ngƣời học tiếp cận với những
vấn đề mà họ tìm hiểu, theo một cách nào đó
phù hợp và diễn đạt, trình bày lại những kiến
thức mình lĩnh hội đƣợc. Thông thƣờng, tất cả
giáo viên đều thiết kế kế hoạch dạy học sao
cho ngƣời học có thể khai thác và phát huy
đƣợc tốt nhất tiềm năng của mình.
Có thể hiểu, nội dung dạy học là “đầu vào”
của quá trình dạy học. Đó là tất cả những gì
mà giáo viên “dạy” cho học sinh và muốn học
sinh “học” đƣợc [2]. Nội dung dạy học môn
Toán ở Tiểu học là những kiến thức Toán học
tuy đơn giản nhƣng rất quan trọng vì đó là
* Tel: 0982002919, Email: [email protected]
những kiến thức mở đầu, làm nền tảng cho
việc học toán sau này.
Carol Tomlinson (2004) cho rằng phân hóa
nội dung dạy học có thể đƣợc tƣ duy theo hai
cách: Một là, giáo viên có thể điều chỉnh
những gì mà ta dạy. Hai là, giáo viên có thể
điều chỉnh hoặc bổ sung cách chúng ta hƣớng
dẫn học sinh tiếp cận những gì mà chúng ta
muốn học sinh học [20]. Giáo viên có thể giao
nhiệm vụ phù hợp với trình độ nhận thức và
khả năng của học sinh thay vì giao cho tất cả
các em cùng một nhiệm vụ, trong đó có cả
những em có trình độ nhận thức khá – giỏi, cả
những em trung bình, yếu – kém. Bên cạnh
đó, giáo viên cũng có thể đƣa ra cho học sinh
những yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giống
nhau nhƣng thay đổi sự hƣớng dẫn các em
tiếp cận với kiến thức, nhiệm vụ đó, yêu cầu
những học sinh khá – giỏi hoàn thành nhiệm
vụ với một thời gian ngắn hơn và làm việc
độc lập hơn trong khi cung cấp thêm những
hỗ trợ, gợi ý, hƣớng dẫn và thời gian cần
thiết. Có thể cần sử dụng cả sự hỗ trợ của các
bạn trong lớp để các em học trung bình, yếu –
kém vẫn hoàn thành đƣợc yêu cầu giống thế.
Nội dung dạy học có thể đƣợc phân hóa theo
trình độ nhận thức và nhu cầu học tập, hứng
thú học tập; phong cách học của học sinh và
tất nhiên, nó có thể đƣợc phân hóa cho phù
hợp với cả ba yếu tố này. Tuy nhiên, chúng
tôi chỉ tập trung vào việc phân hóa dựa trên
trình độ nhận thức của học sinh.
Lê Thị Thu Hƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 105 - 109
106
PHÂN HÓA NỘI DUNG DẠY HỌC
Dƣới đây là một số kế hoạch phân hóa nội
dung dạy học phù hợp với trình độ nhận thức
của học sinh.
a. Dạy học những kiến thức cơ bản
Trong quá trình dạy học, học sinh đƣợc học
rất nhiều khái niệm, quy tắc và các em cũng
quên nhiều những gì đã đƣợc học giống nhƣ
là để lại những khái niệm, quy tắc đó ở phía
sau để chuyển sang một vấn đề khác, một
kiến thức khác [2]. Thay vì học tập cần mẫn để
“nhồi nhét” một mớ kiến thức, bạn có thể giúp
học sinh hiểu rõ hơn và nắm đƣợc ý nghĩa của
tri thức đƣợc học thông qua việc nhấn mạnh
những khái niệm hoặc quy tắc cơ bản. Khi đó,
hệ thống tri thức mà các em thu đƣợc trong quá
trình dạy học sẽ trở nên vững chắc hơn.
Ví dụ 1:
- Giáo viên thực hiện: Cô giáo Triệu Thiên
Hƣơng – trƣờng Tiểu học Phố Cò
- Thời điểm thực hiện: Sau khi học sinh đã lập
đƣợc bảng nhân 2.
- Mục đích của giáo viên: Giúp học sinh ghi
nhớ Bảng nhân 2.
- Học sinh thực hiện: lớp 3B
- Hoạt động của giáo viên và học sinh: Giáo
viên chia học sinh trong lớp thành 2 nhóm:
+ Đối với học sinh trung bình – yếu: GV yêu
cầu các em nhận xét về hai tích liên tiếp trong
bảng nhân rồi rút ra kết luận (HS: hai tích liên
tiếp hơn kém nhau 2 đơn vị).
+ Đối với HS khá – giỏi: GV yêu cầu học
sinh nhận xét bảng nhân và giải thích rõ tại
sao lại rút ra đƣợc nhận xét đó (HS: hai tích
liên tiếp hơn kém nhau 2 đơn vị vì nếu viết
phép nhân đó dƣới dạng tổng thì tổng sau
nhiều hơn tổng trƣớc một số hạng bằng 2)
- Ý nghĩa của hoạt động: Thay vì phải học
thuộc lòng bảng nhân (học vẹt) học sinh có
thể tìm ra quy luật của các thừa số và tích
trong bảng để học thuộc bảng một cách dễ
dàng hơn. Đồng thời các em sẽ nhớ lâu và
hiểu sâu kiến thức đƣợc học hơn.
Việc học sinh hiểu rõ bản chất của một khái
niệm, một qui tắc hay một tính chất cơ bản sẽ
giúp các em: (1) hiểu chứ không chỉ là ghi
nhớ vấn đề; (2) ghi nhớ các kiến thức lí thuyết
và thực tiễn bởi vì điều đó có ý nghĩa hơn; (3)
tìm ra mối liên hệ giữa các đối tƣợng và các
khía cạnh của cùng một chủ đề; (4) liên hệ
kiến thức đƣợc học với thực tiễn cuộc sống và
(5) tìm ra mối liên hệ có ý nghĩa giữa những
kiến thức này với các kiến thức đƣợc học
trong thời gian tiếp theo. Đồng thời, nó cũng
giúp cho quá trình dạy học của bạn trở nên
hấp dẫn, lôi cuốn và hiệu quả hơn.
b. Chương trình dạy học tự chọn
Chƣơng trình dạy học này đƣợc phát triển bởi
Joe Renzulli ở Đại học Connecticut và đƣợc
thiết kế riêng cho những học sinh khá – giỏi
có thể tối ƣu hóa thời gian học tập của mình
(Reis & Renzulli, 1992) [4]. Theo Carol
Tomlinson (2004) [2, tr74], quá trình dạy học
tự chọn gồm 3 bƣớc:
Bƣớc 1: Giáo viên xác định những học sinh
nào có thể tham gia vào chƣơng trình dạy học
tự chọn và xác định kiến thức đã có, kiến thức
chƣa có của học sinh về vấn đề đó. Học sinh
có thể đƣa ra yêu cầu hoặc giáo viên có thể
quyết định nội dung chƣơng trình dạy học tự
chọn cho học sinh.
Những đánh giá ban đầu thƣờng xảy ra trƣớc
hoặc sớm hơn quá trình dạy học. Việc đánh
giá có thể diễn ra một cách chính thức (nhƣ
làm bài kiểm tra viết) hoặc đánh giá không
chính thức (ví dụ nhƣ giáo viên và học sinh
cùng ngồi thảo luận, trao đổi về chủ đề sẽ
học). Theo cách đánh giá này, giáo viên sẽ
nắm đƣợc những kiến thức và kĩ năng mà mỗi
học sinh đã có (ví dụ, học sinh nắm đƣợc
khoảng 70 – 75% nội dung dạy học hoặc
hơn). Những học sinh đƣợc tham gia vào
chƣơng trình dạy học này có thể đƣợc tách ra
khỏi nội dung và những hoạt động dạy học
của cả lớp mà họ đã nắm chắc để dành thời
gian cho những vấn đề nghiên cứu tiếp theo
mang tính thử thách hơn.
Bƣớc 2: Giáo viên xác định những kiến thức
và kĩ năng nằm trong vấn đề tìm hiểu mà học
sinh chƣa nắm vững hoặc chƣa nắm đƣợc và
lên kế hoạch để học sinh tìm hiểu, chiếm lĩnh
những điều đó. Kế hoạch này có thể yêu cầu
học sinh phải tham gia cùng các bạn khác
trong lớp để tìm hiểu một phần của nội dung
nghiên cứu, làm bài tập về nhà, nhờ đó, các
em sẽ đƣợc thực hành với những kĩ năng chƣa
Lê Thị Thu Hƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 105 - 109
107
nắm vững hoặc nắm đƣợc những kĩ năng này
để sẵn sàng chuyển sang bƣớc thứ 3.
Bƣớc 3: Bƣớc vào giai đoạn này, học sinh và
giáo viên thiết kế ra một nhiệm vụ nghiên cứu
để học sinh thực hiện trong khi những học
sinh khác vẫn thực hiện chung một yêu cầu.
Giáo viên và học sinh sẽ cùng thống nhất về
thời gian, cách thức, mục tiêu, tiêu chuẩn để
đánh giá và các nhân tố khác về việc hoàn
thành nhiệm vụ. Học sinh không phải mất thời
gian nghiên cứu lại vấn đề mà em đã đƣợc tìm
hiểu trong nội dung chƣơng trình tự chọn.
Ví dụ 2.1:
- Giáo viên thực hiện: Cô giáo Lƣu Thu Hà
- Đối tượng học sinh: Trong lớp 1A, GV chọn
ra đƣợc 7 học sinh giỏi tham gia vào nội dung
dạy học tự chọn;những học sinh còn lại làm
phần 1 bài tập 2 trang 88 SGK Toán 1.
- Những kiến thức, kĩ năng học sinh đã có:
Học sinh nắm đƣợc Bảng cộng và bảng trừ
trong phạm vi 10. Giáo viên có thể cần củng
cố cho học sinh mối quan hệ giữa phép cộng
và phép trừ.
- Bài 2 (SGK Toán 1 – tr88)
Số ?
- Nội dung dạy học tự chọn: Bạn Mai có một
số kẹo, Mai cho bạn Hƣơng 4 cái kẹo, sau đó
chị Nga lại cho Mai thêm 7 cái kẹo, chị Hà
cho thêm 2 cái kẹo, cuối cùng Mai có 10 cái
kẹo. Hỏi lúc đầu Mai có mấy cái kẹo?
Khi giải bài toán học sinh có thể vẽ sơ đồ sau
rồi lần lƣợt điền số thích hợp vào dấu hỏi (?)
- Mục đích của giáo viên:
Giúp học sinh khá giỏi rèn luyện và phát triển
khả năng mô hình hóa, sơ đồ hóa bên cạnh kĩ
năng tính toán thành thạo các phép tính cộng,
trừ trong phạm vi 10.
Ví dụ 2.2:
- Giáo viên thực hiện: Cô giáo Lƣu Thu Hà
- Đối tượng học sinh: Giáo viên chọn ra 20
em học sinh trong lớp tham gia vào nội dung
dạy học tự chọn, số còn lại làm bài tập 1 trang
101 SGK.
- Kiến thức, kĩ năng đã có: Biểu tƣợng các số từ
0 đến 12 và có kĩ năng so sánh các số đã học.
- Bài 1 (SGK tr101): Điền số thích hợp vào ô
trống:
- Nội dung dạy học tự chọn:
Hãy điền số và kí hiệu so sánh thích hợp:
- Mục đích của giáo viên: Ngoài việc củng cố
cho học sinh về biểu tƣợng của các số còn
củng cố thêm về kĩ năng so sánh các số đó.
c. Sử dụng các nguồn tài liệu học tập đa dạng
Nội dung dạy học trong sách giáo khoa
thƣờng đơn giản đối với một số học sinh
trong khi nó lại phức tạp đối với một số khác.
Sử dụng các nguồn tài liệu học tập khác nhau
và kết hợp chúng với những bổ sung khác sẽ
giúp giáo viên tiếp cận gần hơn với nhu cầu
học tập của từng các nhân học sinh. Giáo viên
có thể thu thập các tài liệu học tập này thông
qua sách, báo, sách tham khảo, internet,…
Đôi khi để tìm hiểu một vấn đề phức tạp,
những học sinh khá – giỏi có thể tìm thấy sự
hỗ trợ đắc lực từ những nguồn học liệu tham
khảo nhƣng cũng có khi họ chỉ cần đến nguồn
học liệu đơn giản là sách giáo khoa. Bên cạnh
đó, những học sinh trung bình, yếu – kém có
thể nhận thức một cách dễ dàng hơn thông
qua các sơ đồ hay mô hình đƣợc giới thiệu từ
những tài liệu tham khảo khác.
Ví dụ 3: Ở lớp 3B bên cạnh sách giáo khoa
Toán 3, cô giáo Triệu Thiên Hƣơng sử dụng
thêm sách tham khảo cho học sinh nhƣ sau:
10
-7 +2
-3
+8
10 + 2 ?
?
+ 7
- 4 ?
Lê Thị Thu Hƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 105 - 109
108
- Đối với học sinh trung bình – yếu: Vở bài
tập trắc nghiệm Toán 3
- Đối với học sinh khá - giỏi: Toán nâng cao
d. Kế hoạch học tập
Kế hoạch dạy học giữa giáo viên và học sinh
có thể đa dạng [2]. Nó cho phép học sinh có
thời gian để tự do trao đổi và hoạt động. Kế
hoạch dạy học có thể bao gồm cả phần kĩ
năng hoạt động và nội dung học tập thành
phần và nó hỗ trợ việc quản lí lớp học dạy
học phân hóa bởi vì các phần của bản kế
hoạch này đƣợc phân loại dựa trên nhu cầu
học tập của học sinh. Kế hoạch học tập này là
sự kết hợp giữa mục tiêu học tập của cá nhân
và các hoạt động độc lập. Học sinh cũng cần
đƣợc thảo luận và làm việc theo nhóm nhỏ
hoặc cá nhân dựa trên sự tiến bộ và nhu cầu
của mỗi em.
e. Các bài tập nhỏ
Khi giáo viên giới thiệu với toàn lớp một nội
dung dạy học, một số học sinh có thể nắm bắt
ngay đƣợc (hoặc có thể bỏ qua vì các em đã
thành thạo với kĩ năng, kiến thức đó). Bên
cạnh đấy, một số học sinh khác sẽ cảm thấy
khó khăn hoặc không tìm thấy mối liên hệ gì
giữa nội dung dạy học đó với vốn kiến thức,
kĩ năng đã có của mình. Với những trƣờng
hợp này, các bài tập nhỏ sẽ rất có ý nghĩa
trong việc phân hóa nội dung dạy học.
Dựa trên việc đánh giá vốn kiến thức, kĩ năng
đã có của học sinh, giáo viên có thể cần phải
dạy lại cho một bộ phận học sinh, tìm cách
tiếp cận dạy học khác với nhóm học sinh này
hoặc làm việc với một nhóm học sinh kia để
mở rộng kiến thức, kĩ năng cho các em.
Những bài tập nhỏ tỏ ra khá hiệu quả trong
việc thực hiện mục tiêu dạy học phân hóa.
Ví dụ 4:
- Giáo viên thực hiện: GV Triệu Thiên Hƣơng
- Đối tượng học sinh: Học sinh lớp 3B (nhóm
học sinh yếu - kém)
- Thời điểm thực hiện: Khi hƣớng dẫn học
sinh làm bài tập 4 trang 79 SGK Toán 2: Mỗi
gói mì cân nặng 80g, mỗi hộp sữa cân nặng
455g. Hỏi 2 gói mì và 1 hộp sữa cân nặng bao
nhiêu gam?
- Nội dung bài tập nhỏ: Để hƣớng dẫn học
sinh làm bài tập trên giáo viên đã đƣa ra bài
tập nhỏ sau:
Bài 4a: Mỗi gói mì cân nặng 80g. Hỏi 2 gói
mì cân nặng bao nhiêu gam?
- Mục đích thực hiện: Thông qua bài tập nhỏ
4a, học sinh có thể tính đƣợc cân nặng của 2
gói mì và từ đó tính đƣợc cân nặng của 2 gói
mì và 1 hộp sữa.
g. Sử dụng hệ thống hỗ trợ đa dạng
Giáo viên có thể phân hóa nội dung dạy học
phức tạp cho phù hợp với học sinh bằng cách
sử dụng hệ thống hỗ trợ đa dạng nhƣ học tập
cặp đôi, thông qua băng hình, công nghệ đa
phƣơng tiện, sự cố vấn của ngƣời lớn,…
Những chiến lƣợc này có thể giúp học sinh tối
đa hóa khả năng của các em.
Ví dụ 5: Ở lớp 3B trƣờng Tiểu học Phố Cò,
cô giáo Triệu Thiên Hƣơng đã dán Bảng cửu
chƣơng lên bức tƣờng phía cuối lớp học, nơi
học sinh có thể nhìn thấy thƣờng xuyên khi ra
chơi. Điều này sẽ giúp các em ghi nhớ bảng
dễ dàng hơn.
h. Các tài liệu in ấn có đánh dấu
Một giáo viên có thể đánh dấu những ý quan
trọng trong các văn bản hoặc tài liệu bổ sung
và lƣu lại một vài bản trên bàn giáo viên. Khi
học sinh gặp khó khăn trong việc nhận thức
toàn bộ một chƣơng, một bài, giáo viên có thể
cung cấp cho học sinh bản in đã đƣợc đánh
dấu này. Nhìn thoáng qua, tài liệu này cũng
giống nhƣ những tài liệu khác nhƣng vì chúng
đƣợc đánh dấu nên học sinh sẽ dễ dàng thông
qua nó để nắm đƣợc những ý chính, những
vấn đề cơ bản, thiết yếu [2].
Ví dụ 6: Dƣới đây là một bản ghi đã đƣợc
đánh dấu (chữ in đậm) của cô giáo Hoàng Thị
Hƣơng– giáo viên chủ nhiệm lớp 5B.
Diện tích xung quanh và diện tích toàn phần
của hình hộp chữ nhật
a) Diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật
là tổng diện tích bốn mặt bên của hình hộp chữ
nhật. Muốn tính diện tích xung quanh của
hình hộp chữ nhật ta lấy chu vi mặt đáy
nhân với chiều cao (cùng một đơn vị đo).
b) Diện tích toàn phần của hình hộp chữ
nhật là tổng của diện tích xung quanh và
diện tích hai đáy.
i. Tài liệu tóm lược vấn đề cơ bản
Hầu hết các giáo viên có kinh nghiệm đều có thể, với thời gian tối thiểu, tạo ra một đến hai
Lê Thị Thu Hƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 105 - 109
109
trang những vấn đề cơ bản của bài học. Bản tóm lƣợc nhƣ vậy có thể có ý nghĩa to lớn đối với những học sinh yếu – kém, gặp nhiều khó
khăn trong việc nắm bắt bài giảng hoặc tổ chức hoạt động. Các bản tóm lƣợc này có thể đƣợc trình bày dƣới dạng văn bản, sơ đồ hoặc hình ảnh minh họa. Nó cũng có thể là một danh sách những câu hỏi về các vấn đề then chốt trong bài. Bản tóm lƣợc này sẽ hỗ trợ GV
trong việc làm cho kiến thức trọng tâm của bài học trở nên dễ hiểu hơn, dễ nhớ hơn [2].
Ví dụ 7:
- Giáo viên thực hiện: Cô giáo Hoàng Thị Hƣơng, chủ nhiệm lớp 5B.
- Đối tượng học sinh: Nhóm học sinh yếu –
kém của lớp 5B.
- Thời điểm thực hiện: Khi dạy học bài Vận tốc, quãng đƣờng, thời gian (tr138 – SGK Toán 5)
- Nội dung của tài liệu tóm lược:
- Ý nghĩa của tài liệu tóm lược: Chỉ với
công thức trên, học sinh có thể nhớ ngay ra: Muốn tính vận tốc ta lấy quãng đƣờng chia cho thời gian.
i. Sự cố vấn của bạn học và người lớn
Tất cả mọi học sinh, không chỉ là những học sinh yếu – kém đều có thể nhận đƣợc những sự hỗ trợ, cố vấn từ phía ngƣời lớn, những ngƣời có thể trả lời câu hỏi của các em,
hƣớng dẫn các em cách thức rèn luyện kĩ năng,… [2] Một học sinh khá – giỏi lớp 5 có thể là một cố vấn tuyệt vời cho một học sinh lớp 3. Bạn cũng có thể tạo ra một hệ thống hỗ trợ mở rộng bằng cách sử dụng hệ thống con ngƣời và công nghệ trong lớp học, trƣờng
học, trong cộng đồng. Thông qua đó, trao cho mọi học sinh cơ hội học tập tốt hơn và có thể giúp đỡ ngƣời khác học tập tốt hơn.
Ví dụ 8: Trong lớp 3B, cô giáo chủ nhiệm Triệu Thiên Hƣơng đã thực hiện phân công em Đặng Lê Phƣơng (học sinh có trình độ nhận thức giỏi) ngồi cạnh em Trần Bình
Trọng (học sinh có trình độ nhận thức trung bình – yếu) trong các giờ học toán để em Phƣơng có thể giúp đỡ, hƣớng dẫn cho em Trọng khi cần thiết. Sau một học kì thực hiện phân công chỗ ngồi nhƣ vậy, cô Hƣơng thu đƣợc kết quả là em Trọng đã có nhiều tiến bộ
rõ rệt trong học tập. Đồng thời, khả năng diễn đạt của em Phƣơng cũng đƣợc rèn luyện và phát triển hơn.
Kết luận: Có nhiều cách để phân hóa nội
dung dạy học phù hợp với nhu cầu và trình độ nhận thức của từng ngƣời học và của bản thân giáo viên. Mục tiêu của phân hóa nội dung dạy học là đƣa ra cách thức tiếp cận với nội dung dạy học (kiến thức và kĩ năng) phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân học sinh
và giúp tất cả các em cùng tiến bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Hướng dẫn
thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở
Tiểu học – Lớp 3, Nxb Giáo dục.
[2]. Carol Ann Tomlinson (2004), How to
Differentiate Instruction in Mixed – Ability
Classrooms, Hawkwr Brownlow Education,
Australia.
[3]. M.Levine (2003). Celebrating diverse minds.
Educational Leadership, 61(2).
[4]. Reis, S., Renzulli, J., (1992), Using
Curriculum Compacting to Challenge the Above
Average, Educational Leadership 50(2), 51-57
SUMMARY
DIFFERENTIATING MATHEMATICS CONTENT AT PRIMARY SCHOOL
Le Thi Thu Huong
College of Education – Thainguyen University
In a differentiated classroom, the teacher proactively plans and carries out varied approaches to
content, process and product that meets students individually. The purpose of diferentiating
instruction is support students making progress in learning. This article mention of the way content
can be differentiated in response to a student‟s readiness level. Some examples (case study) were
experimented at Phoco Primary School successfully.
Key words: Differentiate instruction, differentiating content, readiness level, primary
Tel: 0982002919, Email: [email protected]
v = s : t
Vũ Xuân Hùng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 109 - 114
110
Vũ Xuân Hùng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 111 - 116
111
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG RÈN LUYỆN NĂNG LỰC DẠY HỌC
TRONG THỰC TẬP SƢ PHẠM CỦA SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT
Vũ Xuân Hùng* - Tổng cục Dạy nghề
TÓM TẮT
Bài viết trình bày những nghiên cứu về thực trạng rèn luyện năng lực dạy học của sinh viên đại
học sƣ phạm kỹ thuật trong thực tập sƣ phạm. Nghiên cứu đã phân tích, đánh giá làm rõ những
hạn chế, bất cập trong mục tiêu, nội dung, quy trình và đánh giá kết quả rèn luyện năng lực dạy
học, đã dẫn tới năng lực dạy học của sinh viên chƣa cao. Có nhiều nguyên nhân nhƣ mục tiêu rèn
luyện thiếu cụ thể, thiếu tiêu chuẩn năng lực thực hiện; nội dung rèn luyện năng lực dạy học đơn
điệu; quy trình thiếu tính khoa học; đánh giá kết quả rèn luyện năng lực dạy học còn phiến diện.
Trên cơ sở đó bài viết đã đề xuất một số giải pháp khắc phục thực trạng trên nhƣ: Đổi mới mục
tiêu rèn luyện, nội dung rèn luyện, quy trình rèn luyện và đánh giá kết quả rèn luyện năng lực dạy
học theo tiếp cận năng lực thực hiện.
Từ khóa: Thực tập sư phạm; năng lực sư phạm; năng lực dạy học; sư phạm kỹ thuật; giáo viên
dạy nghề; thực trạng rèn luyện.
Thực tập sƣ phạm (TTSP) là công đoạn quan
trọng trong quá trình đào tạo ngƣời giáo viên
nói chung và giáo viên dạy nghề (GVDN) nói
riêng. Thông qua TTSP nhiều năng lực của
sinh viên đã đƣợc hình thành và phát triển,
trong đó năng lực dạy học (NLDH) đƣợc coi
là năng lực quan trọng, tạo nên sự hoàn thiện
trong nhân cách ngƣời GVDN. Tuy nhiên,
việc tổ chức TTSP nói chung, rèn luyện
NLDH nói riêng trong các trƣờng đại học sƣ
phạm kỹ thuật (ĐHSPKT) hiện nay còn nhiều
hạn chế, dẫn đến NLDH của sinh viên sau khi
tốt nghiệp còn yếu, làm ảnh hƣớng lớn đến
chất lƣợng đào tạo nguôn nhân lực lao động
kỹ thuật. Điều đó đòi hỏi các trƣờng
ĐHSPKT phải tìm ra hƣớng giải quyết những
tồn tại trên để nâng cao chất lƣợng đào tạo. *
KHÁI QUÁT VỀ TTSP VÀ RÈN LUYỆN
NLDH CỦA SINH VIÊN TRONG TTSP
TTSP là hoạt động thực tiễn của sinh viên tại
các cơ sở giáo dục sau phần học lý thuyết
nhằm mục đích củng cố và nâng cao nhận
thức và lòng yêu nghề, áp dụng các kiến thức
vào thực tiễn, rèn luyện các năng lực dạy học,
giáo dục.
TTSP là hoạt động vận dụng những tri thức
khoa học về chuyên môn, nghiệp vụ của sinh
* Tel: 098.375.2225; Email: [email protected]
viên vào việc tập luyện giảng dạy và giáo dục
học sinh nhằm hình thành NLDH của ngƣời
giáo viên tƣơng lai. Trong quá trình tiến thành
TTSP, sinh viên tập làm một cách trọn vẹn các
nhiệm vụ của ngƣời giáo viên trong thực tế [1].
TTSP của sinh viên các trƣờng ĐHSPKT có
những điểm khác biệt so với TTSP tại các
trƣờng sƣ phạm đào tạo giáo viên phổ thông
về môi trƣờng TTSP (môi trƣờng thực tập của
sinh viên ĐHSPKT là các cơ sở dạy nghề);
đối tƣợng học (học sinh học nghề); điều kiện
thực tập (cơ sở vật chất, trang thiết bị bao gồm
cả trang thiết bị, máy móc phục vụ cho việc
đào tạo nghề nghiệp). Điều này dẫn tới việc tổ
chức TTSP, rèn luyện NLDH của sinh viên
ĐHSPKT cũng có những khác biệt cần lƣu ý.
Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm
TTSP của sinh viên ĐHSPKT là hoạt động
thực hành về nghiệp vụ SPKT nhằm hình
thành, phát triển các năng lực thực hiện
(NLTH) để tổ chức tốt hoạt động dạy học kỹ
thuật và giáo dục, hình thành và phát triển
nhân cách ngƣời GVDN.
TTSP là việc tổ chức rèn luyện nhiều năng
lực của GVDN, trong đó có NLDH. NLDH là
một thành phần quan trọng của năng lực sƣ
phạm và là một năng lực tổng hợp của nhiều
năng lực. Trong một số trƣờng hợp ngƣời ta
Vũ Xuân Hùng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 111 - 116
112
chỉ cần thông qua NLDH cũng có thể đánh
giá đƣợc năng lực sƣ phạm của ngƣời giáo
viên. NLDH lại đƣợc biểu hiện cụ thể qua rất
nhiều các năng lực khác nhau, tùy thuộc vào
cách tiếp cận, phân loại mà có các tên gọi
khác nhau nhƣ nhóm năng lực chuẩn bị dạy
học; NLTH dạy học; năng lực tổ chức thực
hành và năng lực kiểm tra, đánh giá.
Để hình thành và phát triển NLDH, đòi hỏi
trong quá trình TTSP các trƣờng ĐHSPKT
phải tổ chức tốt hoạt động rèn luyện NLDH
của sinh viên một cách đồng bộ, toàn diện từ
mục tiêu, nội dung, quy trình đến đánh giá kết
quả rèn luyện NLDH của sinh viên. Nếu
không, nhiều hạn chế, bất cập sẽ xảy ra, làm
ảnh hƣởng lớn đến chất lƣợng đào tạo.
THỰC TRẠNG RÈN LUYỆN NLDH
TRONG TTSP
Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, công tác
rèn luyện NLDH nói riêng trong TTSP, khâu
rất quan trọng trong đào tạo GVDN ở các
trƣờng ĐHSPKT còn những khoảng cách
đáng kể mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới giáo dục nghề nghiệp. Qua việc khảo
sát thực trạng rèn luyện NLDH trong TTSP
tại các trƣờng ĐHSPKT và một số cơ sở dạy
nghề với các đối tƣợng là giảng viên hƣớng
dẫn (40 ngƣời), cán bộ quản lý (40 ngƣời),
sinh viên năm thứ 4 (300 em) và GVDN (250
ngƣời) cho thấy hoạt động rèn luyện NLDH
trong TTSP tại các trƣờng ĐHSPKT còn có
những tồn tại nhƣ sau
Về mục tiêu rèn luyện NLDH
Mục tiêu rèn luyện NLDH đƣợc các trƣờng
ĐHSPKT xác định chung trong mục tiêu
TTSP và chƣa thống nhất cho các trƣờng
ĐHSPKT trong cả nƣớc. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu và tổng hợp của chúng tôi cho
thấy, về cơ bản mục tiêu chung về rèn luyện
NLDH của sinh viên ĐHSPKT trong TTSP
đều nhằm Chuẩn bị và thực hiện các bài học
lý thuyết, thực hành và tích hợp đƣợc phân
công với các mục tiêu cụ thể nhƣ sau:
- Hiểu đƣợc khái quát về công việc chuẩn bị
dạy lý thuyết, thực hành
- Soạn đƣợc bài dạy lý thuyết, thực hành theo
các chƣơng trình môn học;
- Chuẩn bị đƣợc đồ dùng, phƣơng tiện dạy
học; thiết bị, nguyên nhiên vật liêu
- Thực hiện đƣợc bài dạy lý thuyết, thực hành
theo các chƣơng trình môn học,
Kết quả khảo sát về mức độ phù hợp của
mục tiêu rèn luyện NLDH trong TTSP với
thực tiễn giáo dục, đào tạo ở các CSDN là
tƣơng đối phù hợp (chiếm 57,2%); 32 % ý
kiến cho rằng mục tiêu rèn luyện NLDH
trong TTSP là không phù hợp và ý kiến này
tập trung ở GVDN đang trực tiếp giảng dạy.
Có 6.1% ý kiến cho rằng mục tiêu rèn
luyện NLDH trong TTSP hoàn toàn không
phù hợp (xem thêm Bảng 1).
Bảng 1. Tổng hợp ý kiến đánh giá về mục tiêu rèn luyện NLDH trong TTSP
TT Mức độ
Giảng viên
hƣớng dẫn
Giáo viên dạy
nghề Sinh viên
Cán bộ
quản lý
Tỷ lệ
chung
SL % SL % SL % SL % %
5 Rất phù hợp 0 0.0 0 0.0 0 0.0 0 0.0 8.7
4 Phù hợp 6 15.0 4 1.6 17 5.6 1 3.3 28.0
3 Tƣơng đối phù hợp 20 50.0 137 54.8 181 60.3 17 56.6 57.2
2 Không phù hợp 8 20.0 87 34.8 97 32.3 7 23.3 32.0
1 Hoàn toàn không
phù hợp
6 15.0 22 8.8 5 1.6 5 16.6 6.1
Vũ Xuân Hùng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 111 - 116
113
Nhƣ vậy, rèn luyện NLDH trong TTSP là
hoạt động thực hành của sinh viên ĐHSPKT
năm cuối khóa, nhƣng mục tiêu rèn luyện
NLDH trong TTSP vẫn chỉ mang tính chất
định tính, chung chung, chƣa chỉ ra đƣợc
những công việc cụ thể mà sinh viên cần phải
thực hiện cũng nhƣ những chuẩn thực hiện
các công việc trong quá trình rèn luyện năng
lực dạy học.
Về nội dung, quy trình rèn luyện NLDH
Để đáp ứng mục tiêu nhƣ trên, nội dung và
quy trình rèn luyện NLDH tại các trƣờng
ĐHSPKT cũng hết sức đơn giản. Tuy cũng có
khác nhau đôi chút song vẫn bao gồm những
nội dung cơ bản và đƣợc thực hiện theo quy
trình chung nhƣ sau:
Bƣớc 1. Hƣớng dẫn của giảng viên hƣớng dẫn
(các thao tác sƣ phạm cơ bản, cách soạn bài,
lên lớp ….); Bƣớc 2. Đi dự lớp để học tập
kinh nghiệm; Bƣớc 3. Nhận bài giảng và
chuẩn bị dạy học (soạn giáo án, chuẩn bị đề
cƣơng (lý thuyết hoặc thực hành) và chuẩn bị
phƣơng tiện dạy học); Bƣớc 4. Tập giảng tại
nhóm; Bƣớc 5. Lên lớp
Đánh giá chung về nội dung rèn luyện NLDH
trong TTSP có 20% đánh giá mức độ phù
hợp; 35,1% đánh giá tƣơng đối phù hợp và có
45,7% cho rằng không phù hợp (Bảng 2). Để
rèn luyện NLDH, không chỉ rèn luyện các kỹ
năng mà cả những kiến thức và thái độ đối
với từng công việc của nghề, trong khi đó
những nội dung này chƣa đƣợc các trƣờng
ĐHSPKT chú ý đến trong quá trình rèn luyện
NLDH. Do vậy, với cấu trúc nội dung rèn
luyện nhƣ hiện tại khó có thể đáp ứng đƣợc
yêu cầu đó.
Đánh giá chung về quy trình rèn luyện NLDH trong TTSP có 31,5% đánh giá mức độ phù hợp; 51.2% đánh giá tƣơng đối phù hợp; 24.1% đánh giá mức độ không phù hợp (Bảng 3) Trong quy trình rèn luyện các nội dung nêu trên, có 57,5% ý kiến cho rằng quy trình soạn giáo án hiện nay không phù hợp với thực tế. Điều này cũng phù hợp với đánh giá về năng lực chuẩn bị dạy học của sinh viên còn thấp.
Bảng 2. Tổng hợp ý kiến đánh giá sự phù hợp của nội dung rèn luyện NLDH trong TTSP
TT Mức độ
Giảng viên
hƣớng dẫn
Giáo viên
dạy nghề Sinh viên
Cán bộ
quản lý
Tỷ lệ
chung
SL % SL % SL % SL % %
5 Rất phù hợp 0 0 0 0 5 1.6 2 6.6 1.1
4 Phù hợp 3 7.5 8 3.2 50 16.6 3 10 20
3 Tƣơng đối phù hợp 10 25 99 39.6 95 31.6 14 46.6 35.1
2 Không phù hợp 22 55 112 44.8 138 46 11 36.6 45.6
1 Hoàn toàn không
phù hợp
5 12.5 31 12.4 12 4 0 0 7.7
Bảng 3. Tổng hợp ý kiến đánh giá sự phù hợp của quy trình rèn luyện NLDH trong TTSP
TT Mức độ
Giảng viên
hƣớng dẫn
Giáo viên dạy
nghề Sinh viên
Cán bộ
quản lý
Tỷ lệ
chung
SL % SL % SL % SL % %
5 Rất phù hợp 0 0 3 1.2 18 6.0 4 13.3 4.0
4 Phù hợp 12 30.0 15 6.0 69 23.0 5 16.6 31.5
3 Tƣơng đối phù hợp 21 52.5 147 58.8 131 43.6 19 63.3 51.2
2 Không phù hợp 6 15.0 69 27.6 73 24.3 2 6.6 24.1
1 Hoàn toàn không
phù hợp
1 2.5 16 6.4 9 3.0 0 0 4.1
Vũ Xuân Hùng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 111 - 116
114
Qua đây có thể thấy, hệ thống các NLDH cần
rèn luyện chƣa đƣợc định hình rõ ràng, cụ thể;
Các nội dung rèn luyện NLDH trong TTSP có
cấu trúc chƣa chặt chẽ, thiếu logic, chƣa đầy
đủ, xa rời kiến thức lý thuyết trong việc rèn
luyện kỹ năng; sự liên kết các kiến thức về
tâm lý, giáo dục và những kỹ năng sƣ phạm
với lĩnh vực kiến thức chuyên môn nghề trong
các trƣờng ĐHSPKT còn yếu dẫn đến nhiều
trƣờng còn nhiều lúng túng khi xây dựng nội
dung rèn luyện NLDH trong TTSP. Mặt khác,
quy trình tổ chức rèn luyện NLDH trong
TTSP còn nặng về kinh nghiệm, chƣa có quy
trình cụ thể. Các bƣớc thực hiện các công việc
vẫn phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm của
từng trƣờng ĐHSPKT, thậm chí là của từng
giảng viên hƣớng dẫn, chƣa đƣợc thiết kế
theo một quy trình tổng quát một cách khoa
học vừa có cấu trúc đồng tâm, vừa có cấu trúc
tuyến tính để có thể vừa dễ dàng trong thực
hiện, vừa hiệu quả trong tổ chức rèn luyện
NLDH. Quy trình rèn luyện NLDH trong
TTSP chƣa mô hình hoá các bƣớc, các công
đoạn và toàn bộ qui trình thành một hệ thống
chuẩn để dễ thực hiện, có hiệu quả cao.
Về đánh giá kết quả rèn luyện NLDH
Đánh giá kết quả rèn luyện NLDH thực chất
là việc xác nhận, đƣa ra những nhận định về
NLDH của sinh viên, là kết quả của quá trình
rèn luyện NLDH trong TTSP. Đánh giá kết
quả rèn luyện NLDH trong TTSP ở các
trƣờng ĐHSPKT hiện nay cho thấy số sinh
viên đạt kết quả khá, giỏi là chủ yếu, cụ thể:
- Dự giờ, trao đổi học tập kinh nghiệm giảng
dạy: khá, giỏi chiếm 86%
- Chuẩn bị các bài dạy (lý thuyết, thực hành,
tích hợp): khá giỏi chiếm 83%
- Thực tập giảng dạy: khá, giỏi chiếm 75%
Ý kiến về mức độ phù hợp của việc đánh giá
kết quả rèn luyện NLDH so với thực tiễn
đƣợc thể hiện qua bảng 4.
Hiện nay, việc đánh giá kết quả rèn luyện
NLDH ở các trƣờng ĐHSPKT không thống
nhất, phiến diện. Nhiều trƣờng chỉ đánh giá
năng lực này của sinh viên thông qua một số
bài giảng thực tế với một bộ tiêu chí đánh giá
bài giảng. Điểm đánh giá kết quả NLDH của
sinh viên cũng chính là điểm đánh giá bài
giảng đó. Một loạt các công việc khác để hình
thành và phát triển NLDH nhƣ chuẩn bị dạy
học, thiết kế dạy học, soạn giáo án, đánh giá
bài giảng; tập giảng... thƣờng bị xem nhẹ.
Nhiều nội dung trong đó không có tiêu chí
đánh giá, nên nhiều khi có đánh giá nhƣng
mang tính cảm tính, đại khái, chung chung.
Cũng chính vì vậy, thông tin từ kết quả đánh
giá không phản ánh thực chất kết quả rèn
luyện NLDH của sinh viên, không giúp ích
cho việc điều chỉnh quá trình rèn luyện đó.
Việc đánh giá kết quả rèn luyện NLDH của
sinh viên trong TTSP đang bị mất đi ý nghĩa
đích thực của nó mà chỉ còn là một khâu
mang tính thủ tục.
Bảng 4. Tổng hợp ý kiến về đánh giá kết quả rèn luyện NLDH trong TTSP
TT Mức độ
Giảng viên
hƣớng dẫn
Giáo viên
dạy nghề Sinh viên
Cán bộ
quản lý
Tỷ lệ
chung
SL % SL % SL % SL % %
5 Rất phù hợp 0 0.0 0 0.0 0 0.0 0 0 0.0
4 Phù hợp 4 10.0 6 2.4 22 7.3 0 0 10.0
3 Tƣơng đối phù hợp 14 35.0 54 21.6 88 29.3 21 70.0 28.5
2 Không phù hợp 13 32.5 138 55.2 147 49.0 6 20.0 49.0
1 Hoàn toàn không
phù hợp
9 22.5 52 20.8 43 14.3 3 10.0 17.2
Vũ Xuân Hùng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 111 - 116
115
Đánh giá chung về NLDH và rèn luyện
NLDH của sinh viên
Việc tổ chức TTSP nói chung, rèn luyện
NLDH nói riêng tại các trƣờng ĐHSPKT đã
phần nào hình thành và phát triển NLDH cho
sinh viên, đóng góp quan trọng vào việc cung
cấp số lƣợng đáng kể GVDN cho các CSDN
những năm qua. Tuy nhiên, từ những hạn chế
về mục tiêu, nội dung, quy trình và đánh giá
kết quả rèn luyện NLDH đã dẫn tới NLDH
của sinh viên chƣa cao. Kết quả nghiên cứu,
khảo sát thực trạng, kết hợp với đánh giá từ
thực tiễn cho thấy, NLDH của sinh viên còn
nhiều hạn chế, cụ thể:
- Năng lực chuẩn bị dạy học còn yếu nhất là
trong khâu thiết kế dạy học (soạn giáo án, đề
cƣơng bài giảng). Còn một số sinh viên còn
nhầm lẫn giữa mục đích và mục tiêu dạy học;
không biết thiết kế hoạt động dạy học để phát
huy đƣợc tính tích cực của ngƣời học;
- Năng lực thực hiện dạy học còn hạn chế;
dập khuôn, giáo điều trong sử dụng phƣơng
pháp; lúng túng trong sử dụng, khai thác
phƣơng tiện dạy học; tùy tiện trong kiểm tra,
đánh giá; thiếu linh hoạt trong xử lý tình huống
sƣ phạm… dẫn đến kết quả dạy học thƣờng
không đạt đƣợc mục tiêu, nhất là mục tiêu ngoài
(chất lƣợng công việc thực tiễn đòi hỏi);
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên, nhƣng qua nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy, nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề tổ
chức rèn luyện NLDH trong TTSP, cụ thể:
- Thiếu tính cụ thể trong xác định mục tiêu
rèn luyện NLDH, thiếu chuẩn NLTH
(chuẩn đầu ra);
- Nội dung rèn luyện NLDH còn đơn điệu,
chủ yếu tập trung vào nội dung rèn luyện là
kỹ năng, chứ không phải là năng lực;
- Quy trình rèn luyện NLDH thiếu tính khoa
học; quy trình chƣa tối ƣu;
- Đánh giá kết quả rèn luyện NLDH còn phiến
diện, chƣa đảm bảo tính toàn diện, chính xác,
khách quan, không có đƣợc thông tin phản hồi
chính xác để điều chỉnh quá trình rèn luyện,
mang tính thủ tục; thiếu tiêu chuẩn đánh giá cho
từng nội dung rèn luyện NLDH cụ thể.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC
PHỤC BẤT CẬP HIỆN NAY
Xu thế đổi mới nội dung, phƣơng pháp đào
tạo đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều cơ sở giáo
dục đại học, và cơ sở dạy nghề, trong khi đó,
hoạt động rèn luyện NLDH trong TTSP ở một
số trƣờng ĐHSPKT vẫn áp dụng nội dung,
phƣơng thức cũ, dẫn đến những bất cập cả về
mục tiêu, nội dung, quy trình tổ chức và
phƣơng thức đánh giá nhƣ đã trình bày ở trên.
Do vậy, cần có những đổi mới để khắc phục
những tồn tại đó, góp phần nâng cao chất
lƣợng đào tạo GVDN.
Từ thực trạng nêu trên, theo chúng tôi để khắc
phục những bất cập đó cần tập trung vào việc
đổi mới rèn luyện NLDH theo một tiếp cận
mới có nhiều ƣu điểm hiện nay, tiếp cận đào
tạo theo năng lực thực hiện. Đào tạo theo
NLTH nhằm hình thành và phát triển ở
ngƣời học những kiến thức, kỹ năng, thái độ
cần thiết để sau khi tốt nghiệp họ có năng
lực để hoàn thành tất cả các công việc của
nghề, đạt chuẩn chất lƣợng trong những
điều kiện nhất định.
Theo đó, cần thực hiện đồng bộ vào một số
giải pháp sau:
a) Đổi mới mục tiêu rèn luyện NLDH theo
tiếp cận NLTH;
b) Đổi mới nội dung rèn luyện NLDH theo
tiếp cận NLTH;
c) Đổi mới quy trình rèn luyện NLDH theo
tiếp cận NLTH;
d) Đổi mới đánh giá kết quả rèn luyện NLDH
theo tiếp cận NLTH.
Chắc chắn rằng, với tiếp cận NLTH, những
giải pháp nêu trên sẽ góp phần giải quyết có
hiệu quả những hạn chế trong việc tổ chức rèn
luyện NLDH trong TTSP hiện nay, nâng cao
NLDH của sinh viên ĐHSPKT./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đình Chỉnh (1991), Thực tập sư
phạm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
[2]. Đại học Sƣ phạm kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh
(2002), Nâng cao chất lượng thực tập sư phạm,
Kỷ yếu hội thảo khoa học, Tp. Hồ Chí Minh
Vũ Xuân Hùng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 111 - 116
116
[3]. Nguyễn Minh Đƣờng (2005), Đào tạo theo
năng lực thực hiện. Tài liệu bồi dƣỡng Giáo viên,
Hà Nội
[4]. Phạm Minh Hạc (2001), Tâm lý học, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội
[5]. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn
Thàng (2001), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học
sư phạm, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội
[6]. Từ điển Bách khoa toàn thƣ,
www.bachkhoatoanthu.gov.vn
SUMARY
SOME ISSUES ON THE STATUS OF TEACHING COMPETENCE IN THE
PEDAGOGICAL PRACTICE OF STUDENTS OF UNIVERSITIES TECHNICAL
PEDAGOGIC
Vu Xuan Hung*
General Department of Vocational Training
This article presents research on the realities of practice teaching competence of students of
universities technical pedagogy in pedagogical practice. Studies have clarified the limitations and
inadequacies in the objectives, content, process and evaluate the capacity of teaching practice,
leads to the capacity of student teaching is not high. Current situation on many reasons such as
lack of goal specific training, lack of standards competence, training content monotonous teaching
competence, the process lacks scientific assessment competence of teaching practice also sighted.
Based on that article proposed some measures to remedy the situation focuses on: Innovation
training objectives, training content, training process and evaluation of teaching practice capacity
approach by competence.
Keywords: pedagogical practice; pedagogy competence; teaching competence; technical
pedagogical, trainers, training status.
* Tel: 098.375.2225; Email: [email protected]
Nguyễn Thị Quế Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 117 - 121
117
THE EFFECTS OF COMMUNICATIVE APPROACH ON THE
PERFORMANCE IN ENGLISH OF THE SELECTED SOPHOMORE
STUDENTS OF COLLEGE OF SCIENCES - THAINGUYEN UNIVERSITY
Nguyen Thi Que
*
College of Sciences - Thai Nguyen University
SUMMARY Communicative Approach refers to the beliefs and theories of the language teaching, which
emphasize that the goal of language teaching is communicative competence. This is quite a new
method of teaching English for teachers of Thai Nguyen University in general and of College of
Sciences in particular. Therefore, this study sought to answer the question of whether
Communicative Language Teaching (CLT) improves the performance in English of selected
second year students of the College of Sciences, Thai Nguyen University in the first semester of
Academic Year 2009-2010. Two groups of students experienced two different teaching methods
namely traditional method and CLT participated in the study. Pre-test means scores showed no
significant difference between the control and experimental groups while comparisons of the post-
test means scores showed significant differences in the achievement. The study concluded that use
of various activities in CLT in teaching English helps motivate and enhance EFL students' learning
and mastery of English communication.
Key words: Communicative Approach, communicative competence, effectiveness, significant
difference, achievement, sophomore students, College of Sciences, Thai Nguyen University
INTRODUCTION*
English has nowadays gained itself the status
of a world language, an international language,
or a lingua franca in almost all settings.
Knowing English well means holding a golden
key to open the great world of knowledge,
culture, technology, sciences etc.
Nguyen [3] stated that since our Party and
State have adopted a policy of
multilateralization and diversification of
external relations, particularly as Vietnam is
now a member of the World Trade
Organization (WTO), the teaching and
learning of foreign languages are facing new
requirements, in terms of size, scope, new
training methods characterized by high
quality, in order to meet the need for socio-
economic development of the country in the
renewal period. General speaking, more
attention is drawn to teaching of how to
communicate, rather than applying the old
methods, which was simply to provide
foreign language knowledge (principally
teaching how to translate a document) for
students.
* Tel: 0963 888 288, Email: [email protected]
However, it comes as no surprise that the
capacity of using English as a means of
communication of Vietnamese learners is still
under acceptable level, which is really a tough
issue for our educators to think over. And
after four years of experience in teaching
English at Thai Nguyen University, College
of Sciences, the researcher does agree that
one of the factors that deter the improvement
in possessing good English skills of students
at the university comes from teachers‟ sides.
Despite the fact that today‟s generation of
students enjoys new educational methods that
focus more on the growth of the individual
rather than mere academic achievement, most
of the teachers at the university in particular
and in Viet Nam in general still prefer
applying the traditional method with “bookish
practice” [4] that no longer motivates students
in learning. And therefore, choosing a suitable
and appropriate method to stimulate and
improve students‟ English competence,
especially communicative competence is
always of the author‟s concern.
Of all the prominent methods in teaching
English that the writer has so far known,
Nguyễn Thị Quế Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 117 - 121
118
Communicative Language Teaching (CLT) or
Communicative Approach has proved to be
widely accepted in different parts of the world
as the priority in teaching and learning a
foreign language. It is because of the fact that
CLT came into existence with the stress
placed upon language competence, which can
be understood as the “unconscious intuitions
about language” [2] and communicative
competence or the “internalized knowledge of
the situational appropriateness of language”.
Canale [1] mentioned about the main focus of
CLT, which is the “What” and the “How” the
English language is taught to learners. He also
emphasized that more focus would be placed
on the use of language for communication of
meaning than learning language structures,
forms and vocabulary. Ultimately, the “What”
aims towards “communicative competence”,
the use of language „accurately‟ and
„appropriately‟. Meanwhile, the “How” deals
with the specific techniques and procedures
used to unconsciously „acquire‟ and
consciously „learn‟ a language through
communication.
Consequently, the CLT is really an
appropriate approach in teaching English to
students. The application of this method in
teaching – learning process is expected to
enhance students‟ achievement in English.
Thai Nguyen city where the writer works is
one of the educational centers of Viet Nam.
However, as being located in a mountainous
area, the teaching facilities and teaching
methods have not yet been upgraded. College
students of the College of Sciences come
from different parts of the country with
dissimilar habits and styles in learning
English, let alone some are completely
illiterate in English. And to non-native
teachers of English, teaching a foreign
language to college students, especially
teaching oral communication is really a big
challenge.
In recent years, new generation of worldwide
teachers has tried to apply modern methods in
teaching English in order to make the lessons
less monotonous. And CLT is one of the
methods of choice. A positive signal is that
teachers and educators in many countries in
the world and several big cities of Viet Nam
such as Ha Noi capital, Ho Chi Minh city, and
others have claimed the improvement in
students‟ performance when using this
method in teaching English. With the hope of
finding suitable methods in teaching English
to students as well as testing the effectiveness
of this method in this disadvantaged region,
the researcher bravely experiments CLT in
her teaching. The question to rise when
applying CLT in teaching English is that what
particular communicative activities are
considered appropriate to most students in a
class. Since there is no single activity that is
claimed best for all students and all teaching
fields, hence, the combination of varied
activities in CLT is taken into serious account
in teaching English here.
Of all the aforementioned observations, together
with the researcher‟s own interest in teaching
English, the Effects of Communicative
Approach on the English Performance of the
selected sophomore students of the College of
Sciences of Thai Nguyen University has been
chosen as her study.
SUBJECT AND METHODOLOGY
An experimental design specifically the
matched groups design was used to find out
the effects of Communicative Approach in
teaching English. Two comparable sections of
Second Year College of Sciences students
were used as respondents of the study. The
results of their English scores, second
semester of the first year 2008-2009; as well
as their age and gender were used for
matching purposes. There were 30 students
for each group. The control group was
subjected to the traditional method while the
experimental group was exposed to
Communicative Approach. The study was
conducted at College of Sciences, Thai
Nguyen University during the first semester
of the second year Bachelor in the Academic
Year 2009-2010.
A teacher-made achievement test was
validated and administered as a pre-tests and
post-test to both groups.
Nguyễn Thị Quế Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 117 - 121
119
The t-test of dependent sample means was
employed to compare the pre-test mean of the
two groups and post-test mean of the two
groups. The t-test of dependent sample means
was also used to compare the pre-test and
post-test mean of each group.
FINDINGS
The following are the findings of the study:
1. There is no significant difference on the pre-test mean scores of the two groups using Communicative approach and the traditional approach.
The control group obtained the mean score of
25.36 while the experimental group gained
25.13 in the mean score. When subjected to t-
test, the result revealed that there was no
significant difference between two groups in
the pre-test. Therefore, the two groups were
homogeneous at the beginning of the study.
2. The mean score of students in the post-test using the Communicative approach differs significantly from that of those using the traditional approach.
After the treatment period, the two groups
were given a post-test. The mean scores of the
control and experimental groups were 29.23
and 32.6 respectively. The t-test showed that
there is a significant difference in the post-test
of the two groups as shown equal to 2.106.
The result proved that Communicative
Approach is more effective in improving
students‟ competence in English than the
traditional method.
3. There is a significant difference between
the mean score of students in the pre-test and
in the post test scores using the traditional
method.
The pre-test mean score of the control group
was 25.36, while the post-test mean score of
this group was 29.23. The low scores in the
pre-test was due to the fact that the students
had little knowledge about the subject matters
that were still to be discussed. And the gain
scores somewhat revealed their acquisition of
previous study. When subjected to t-test, the
result showed that there is a significant
difference between pre-test mean scores and
post-test mean scores of the respondents in
the control group.
Table 1. T-test Results of the Pre-test Scores of the Control and Experimental Groups
Groups Mean
Scores
Mean
Difference
t-computed t- tab
α = 0.05; df= 58
Remarks
Control
Experimental
25.36
25.13
0.23 0.159
1.67
Not
Significant
Note: t-tab: t value tabulated; df: degrees of freedom
Table 2. T-test Results of the Post-test Scores of the Control and Experimental Groups
Groups Mean
Scores
Mean
Difference
t-computed t- tab
α = 0.05; df= 58
Remarks
Control
Experimental
29.23
32.6
3.37 -2.106
1.67
Significant
Note: t-tab: t value tabulated; df: degrees of freedom
Table 3. T-test Results on the Pre-test and Post-test Scores of the Control Group
Control
Group
Mean
Scores
Mean
Difference
t-computed t- tab
α = 0.05; df=29
Remarks
Pre-test
Post-test
25.36
29.23
3.87 -6.87
1.699
Significant
Note: t-tab: t value tabulated; df: degrees of freedom
Nguyễn Thị Quế Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 117 - 121
120
4. The mean score of students in the pre-test
differs significantly from that in the post-test
using Communicative approach.
The pre-test mean score of the experimental
group was 25.13, while the post-test of this
group was 32.6. When subjected to t-test, it
was revealed that there is a significant
difference between the pre-test and post-test
scores at 0.05 probability level.
5. Students exposing to Communicative
Approach performed better than those using
the traditional method.
The mean gain scores of the control and the
experimental groups were 3.87 and 7.47
respectively. The t-test proved that there is a
significant difference in the mean gain scores
between two groups. The results also revealed
that the students being taught with
Communicative Approach performed better
than those being exposed to the traditional
method of teaching English.
CONCLUSIONS
Based on the findings of this study, the
following conclusions were drawn:
1. The hypothesis that there is a significant
difference in the pre-test scores of the two
groups using Communicative Approach and
Traditional Approach is not supported in this
study.
2. The hypothesis that the mean gain scores
in the post test of students using
Communicative Approach significantly differ
from those using the traditional method is
supported. It is evident that the mean score of
students using Communicative Approach is
significantly higher than that of students using
the traditional method.
3. The hypothesis indicating that there is a
significant difference between the pre-test
scores and the post-test scores of the control
group using the traditional method is also
supported in this study
4. The hypothesis that the mean gain scores
in the post test significantly differ from those
in the pre-test of students using
Communicative Approach is supported.
5. And the hypothesis that students in the
experimental group using Communicative
Approach perform better than those in the
control group using the traditional approach is
also supported.
RECOMMENDATIONS
Based on the conclusions of this study, the
following recommendations were drawn:
1. The results of the study prove that the mean scores of students using Communicative Approach is significantly higher than those of students using the traditional method. Therefore, teachers of English in the College of Sciences in particular and teachers in Vietnam in general may adapt Communicative Approach in their teaching with regard to applying different activities following this method to motivate and improve student‟s skills in English.
2. The study also reveals that there is a significant difference between the pre-test scores and the post-test scores of the control group using the Traditional Method. Hence, this method is still favorable for teachers to integrate in their teaching.
Table 4. T-test Results on the Pre-test and Post-test Scores of the Experimental Group
Experimental
Group
Mean
Scores
Mean
Difference
t-computed t- t-tab
α = 0.05; df=29
Remarks
Pre-test
Post-test
25.13
32.6
7.47 -11.019
1.699
Significant
Note: t-tab: t value tabulated; df: degrees of freedom
Table 5. T-test for Two Independent Samples for Mean Gain Scores
Groups Mean Gain Scores t-computed t- tab α = 0.05; df=58 Remarks
Control
Experimental
3.87
7.47
-4.087
1.67
Significant
Note: t-tab: t value tabulated; df: degrees of freedom
Nguyễn Thị Quế Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 117 - 121
121
3. The results infers that success in teaching
English to students may depend not so much
on the teachers‟ competency or the students‟
capability but more than the approaches and
strategies that the teacher may use. As a
consequence, it is recommended that teachers
of English take into serious consideration all
the conditions to apply these innovative
approaches as well as combine harmoniously
different methods in their teaching so that
they could facilitate the students‟ learning to
reach their utmost acquisition of the language.
REFERENCES
[1]. Canale, M (1993). From Communicative
Competence to Communicative Language
Pedagogy. In: Jack C. Richards & Richard
W.Schmidt. (Eds.), Language and communication.
London: Longman. 5th
printing.
[2]. Noam Chomsky (2005), On Nature and
Language. Cambridge University Press.
[3]. Nguyen Huy Can (2007). Teaching and
Learning Foreign Languages in Vietnam: The
Current Situation and some Solutions. English
Foreign Language Journal.
[4]. Phan Le Ha (2004). University Classrooms in
Vietnam: Contesting the stereotypes. English
Language Teaching Journal.
TÓM TẮT
HIỆU QUẢ CỦA PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC GIAO TIẾP ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG
SỬ DỤNG TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ HAI TRƢỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC, ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Quế
*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
Đƣờng hƣớng dạy học giao tiếp (CLT) bao gồm những lý thuyết về giảng dạy ngôn ngữ, trong đó
nhấn mạnh mục tiêu cần hƣớng tới của việc dạy ngôn ngữ đó là khả năng giao tiếp của ngƣời học.
Đây là một phƣơng pháp khá mới mẻ đối với giảng viên tiếng Anh của Đại học Thái Nguyên nói
chung và Đại học Khoa học nói riêng. Do đó, nghiên cứu này tập trung giải đáp câu hỏi liệu rằng
CLT có cải thiện khả năng tiếng Anh của sinh viên năm thứ 2, trƣờng Đại học Khoa học, Đại học
Thái Nguyên của học kỳ I năm học 2009-2010. Hai nhóm sinh viên đƣợc giảng dạy bằng hai
phƣơng pháp truyền thống và phƣơng pháp dạy học giao tiếp đã tham gia thử nghiệm trong nghiên
cứu. Điểm trung bình trƣớc khi thử nghiệm của 2 nhóm không có sự khác biệt đáng kể trong khi
điểm trung bình sau khi thử nghiệm 2 phƣơng pháp thể hiện sự khác biệt rất lớn trong khả năng sử
dụng tiếng Anh của 2 nhóm. Kết quả của đề tài cho thấy việc sử dụng đa dạng các hoạt động theo
đƣờng hƣớng dạy học giao tiếp trong giảng dạy tiếng Anh thực sự tạo ra động lực học tập và nâng
cao khả năng sử dụng tiếng Anh của sinh viên.
* Tel: 0963 888 288, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Quế Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 117 - 121
122
Trần Thu Hƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 123 - 127
123
SOME PROPOSED OF MASTER CURRICULUM DEVELOPMENT
IN THAI NGUYEN UNIVERSITY
Tran Thu Huong, Nguyen Xuan Truong, Tran Thanh Van, Chu Hoang Mau
Thai Nguyen University
ABSTRACT
Study on finding solutions to improve the quality of current master training are problems that
many educators and societies care about. In which making the master training program under
new approach plays a very important role in organizing master training program. Based on the
assessment of current state of undergraduate and master training in Thai Nguyen University
and the change in training regulation of the Ministry of Education and Training and the
requirement of society, this paper presents the orientation of principle and method for
designing and building a master program including curriculum, standard output and detailed
subject outline. This contributes to improving the quality of graduate training institutions.
Key words: Standard of output, details outline, curriculum, program development, masters.
INTRODUCTION*
In recent years, the process of renewing the
economy of Vietnam has achieved many
significant achievements, the life of the
people has been continuously improved. In
2007, Vietnam officially became one of the
member of the World Trade Organization [1].
The development of economic and social
demands higher requirements for the national
education system, particularly for
undergraduate education. Government of
Vietnam issued Resolution No. 14/2005/NQ-
CP on comprehensive reform of
undergraduate education to Vietnam for the
period of 2006-2020 to promote the reform of
higher education so that in 2020 Vietnam has
an advanced system of higher education [2].
Directive No 296/CT-TTg on 27/02/2010 of
the Prime Minister on the reform of higher
education management during the period
2010-2012 and building strategies period of
2011-2015 to towards to 2020 which
indicated the development of model of higher
education must be ensured as well as
improving the quality of training. Resolutely
put an end to uncontrolled quality training.
Need to create mechanisms and dynamics of
state management and Academic management
institutions to ensure implementation of goals
* Tel: 0912215929
and improving the quality of training [2]. In
the report of Education and Training of
Ministry on the development of solutions and
higher education systems to ensure and
improve the quality of training has been
confirmed: "In general the quality of higher
education, especially the Academic of masters
and doctors are still limited, It has been
affecting for the economy in a relatively long
time "and one of the solutions to ensure and
improve the quality of Academic in the period
of 2009 -2012 is "standardizing and
improving the quality of academic programs"
[3]. Reforms academic program and built the
standard output of the academic program is
one of the problems of quality undergraduate
academic should be discussed and clarified.
SITUATION OF MASTER ACADEMIC
PROGRAM OF THAI NGUYEN
UNIVERSITY
Thai Nguyen University is interdisciplinary
university in education system of Viet Nam
which is assigned to educate 20 specialities in
Doctoral of philosophy program and 40
specialities in master program by ministry of
education. Before 2006, master program
training was composed 100 units but the
structure of program has been reformed 2
times for suitable with education system after.
The first time in 2005 – 2008 periods, the
master academic program was followed as
Trần Thu Hƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 123 - 127
124
school year education system with 70 units
and delivered in 3 blocks of knowledge as:
general knowledge block (English and
Philosophy subjects), basic knowledge block
and specialized knowledge block and master
thesis included 15 units. From 2008-2009
school years, credit education system has
been applied to replace school year education
system including master academic program.
Master academic program include 50 credits
and to be able to graduate within 2 years with
3 blocks of knowledge, thesis and to be
delived follow as:
The general knowledge block (5 credits)
include philosophy and English subject.
English is not compulsory subject; depend on
the condition of school and the demand of
students to decide, but graduate students have
to submit English international certificate
before defend their thesis.
The basis knowledge includes 21 credits. The
specialized knowledge includes 12 credits,
and the master thesis includes 12 credits.
The differences of academic programs are
considered the different of contents,
compulsory subjects, elective subjects and
master thesis.
Regulation master's degree training issued
under Circular No. 10/2011/TT-BGDDT
dated Feb 28, 2011 by the Minister of
Education and Training has decided about 30
– 35 credits in master academic program and
to be derived in theory module(80%) and
master thesis (20%). The theory module
includes as: (i) the general knowledge block
with 3 credits of philosophy subject (social
science humanities specialized) or 2 credits
(others specialized); (ii) the basis and
specialized knowledge blocks including
compulsory and elective subjects (30% in
elective subjects) [5]. And the graduate school
must to finish the proposal of master academic
program at the last of 2011. Thus, improved
master academic programs of each institution
are required and are conducted regularly.
All of the schools base on the form of
ministry of education and training to set up
their academic program. But during the
process, some subjects which are available
proof and material facilities have been taught
and do not mention to the logical and
demands of program structures. It is common
in graduate academic program design that the
subjects belong to proof who set up the
program is more frequency in list of program
or they do not want to combine with other
subjects to become a new one. They did not
carry out surveys of the quality of graduation
students and not yet analyze and assess the
real needs of the knowledge that society
needs also.
In currently, our master quality is not satisfy
the requirements of social because of each
training institution have one type of training
only and to be affected others social problems
relative professors and students, material
facilities, reference books, Hences, it is
necessary to reform the structure of program
of each specialized for suitable and meet the
demands of socialities. The purpose of
development academic programs are able to
set up training programs to support each other
subjects and detail plan for integrating
between personal skills and communication
skills; product creation skills, processes,
systems to make sure the quality of
graduation students [1]. Beside that, English
is one of indispensable requirement to be able
to graduate of students. Thus, development of
master academic program is the best method
to improve the quality of masters.
PROPOSE A NEW APPROACH TO
CURRICULUM DEVELOPMENT
MASTER
The changing of curriculum will be affected
to all of lectures, staffs, and potential of
Vietnam National University have overcome
the difficulties during the process base on 12
factors as considered culture changing and 3
steps in organization: Starting right - Motivate
key activities.
- Institutionalizing change [1]. Base on the
status of master academic program of Thai
Nguyen University, we recommend some
strategies approach to improve the quality of
master.
Trần Thu Hƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 123 - 127
125
Curriculum development and requirement
satisfy of master graduation
Base on the master academic program
regulation of ministry of education and
training and status of College of Thai Nguyen
University to complete the master curriculum.
However, when developing training programs
should be rebuilt from scratch, pay attention
to continuity and can perform the procedure
as follows:
(1) Curriculum framework of each specialized
will be followed the rules and orientation of
Thai Nguyen University. And it is able to
design with 2 types of framework: (1)
Curriculum framework have only course
work and without thesis, but master students
have to finish a term paper before graduation
and not allow to take PhD with the same
specialized. (2) curriculum framework
include course work with general knowledge
block, basis knowledge block, and specialized
knowledge block and thesis with 20% of
course work among. The ones who graduate
to be able to take PhD.
(2) Graduate school has responsibility to
inform to faculties for review the objectives
and the existing framework. Establish project
team to develop training programs as the core
members of the Department of eel
management training program.
(3) Base on the objectives and curriculum
framework, the members of project team put
forward a proposed draft program and new
standard output (first version).
(4) Members of project team present to the
Scientific Council of Faculty Training
professionals to gather opinions and discuss
preliminary approval of the standard output to
deploy the survey process.
(5) Surveyed groups of stakeholders:
Teachers, graduate students, alumnus and
recruitors.
(6) Collection, processing and analyzing
information to propose the standard output
and curriculum framework (second version).
(7) Divisions have being made discussions for
introducing the third version to the Scientific
Council of Faculty Training professionals.
(8) Council for Science and Training to
discuss and make final decisions on
curriculum frameworks and standards of
professional output of the master that subject
(9) Complete the curriculum framework and
standard output of specialized training master
degree (final version)
The new curriculum framework should not
follow the old one to design. Do not base on
the potential available lecturers must be based
on the objectives and the standards output of
training programs. Base on survey the
stakeholders on the objectives and outputs
standard to design programs which include
training modules with appropriate subjects. In
the curriculum framework may have the new
courses, combine 2 or 3 subjects to form a
new course and it can be absent some subjects
which present in the old program. The new
curriculum framework is the brainchild and
will be tested, evaluated and improved during
the training process.
Standard output is the basis for set up an
integrated training program to ensure
achieving specific objectives. Integrated
curriculum includes many courses in close
contact with each other to provide the
knowledge, skills and attitudes for each
different level. It can be done by methods:
'from up to down‟ assume the hypothesis,
estimate the knowledge, skills, and attitudes
of standard output to decide the contents of
courses. Hence, we have from the standard
output of the whole program to determine the
structure of academic programs and then will
build a detailed outline for each subject; or
other method : from the current state of the
old academic program, with the outline of the
old subjects, but the link between the subject
has not been clearly defined, the standard
output of each subject is also unclear, we
have to redefine the standard output of each
subject in a match with the standard output of
the whole program, identified the integrated
sequence of subjects to edit the old course
outline proposals to new one.
It is not only base on the objectives of
training but also base on the survey
Trần Thu Hƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 123 - 127
126
stakeholders to set up the standard output.
The results of standard output survey may
show some problems: (i) which output is not
any stakeholders interested in? (ii) Which
output do not support by any subject? (iii)
The relative importance of each standard
output compared to the standard output Left
[7]. The objective of master academic
program is the product to be achieved after
the training process. Standard output is the
product-specific knowledge, skills, attitudes
can be measured to assess training objectives.
The construction of the training program
should have a consensus and concerns of the
leaders, lecturers, and academic program have
to meet the demands of stakeholder.
Survey the stakeholder
The results of survey stakeholder play an
important to assess practicability, logical of
standard output [8]. Objects are selected to be
surveyed are faculty, alumni and the
recruiters. Before conducting the survey, the
questionnaire design, methodologies of
survey must be done, and after conducting the
survey, all of information will be analyzed
and assessed. Questionnaire design, process
and methodologies have been suited with
each respondent.
Set up the detail outline
The detail outline and standard output are the
main component of master academic
program. A training program integrates many
subjects are related closely together to
provide knowledge, skills and attitudes for
each different level and in a sequence
determined [9]. Each course will be
determined by standard output specific
subjects to be able to achieve the standard
output of the training program.
Detailed course outline can be built under the
order include the following: (1) Determine the
objectives of subjects; (2) Determine the
correlation between the subjects under
consideration with other subjects in the series
subjects of the overall program;(3) Determine
the standard output follow criterion: scientific
knowledge, skills and attitude; (4) Determine
the correlation between the standard output
and standard output subject of training
programs, base on 3 criteria: Utilize- Teach-
Introduction; (5) Finally, selection
appropriate teaching methods for each of the
course content, the assessment methods to
ensure the attainment of the standard output
of the subjects mentioned.
It is complexity to develop the academic
program, identify the standard output, and
design the detail outline of subjects, so it is
necessary the corporation and effort of
managers and teachers for successful. The
managers have to innovate the method of
management and design the outline of
subjects. The teachers must boldly change,
have strong faith, always update their
knowledge and dare to innovate on the best
experiences of themselves. They must be
willing to listen and accept the opinions of
colleagues and others, enthusiasm, humility -
learning from mistakes and perseverance,
patience. Thus, the development of master
academic programs is archived efficiency and
goals.
REFERENCES
[1].Vietnam National University (2010),
"Proceeding an example CDIO model at the
Vietnam National University", Proceedings of
seminar on standard output and curriculum
development follow the model CDIO, pp. A1-A9
[2].www.chinhphu.vn (2005) Resolution No.
14/2005/NQ-CP on comprehensive reform of
Vietnam education period of 2006-2020 .
[3].Ministry of Education and Training (2010),
Innovation in management system of higher
education period 2009 to 2012, Education
Publishing House, pp. 28-44.
[4].Thai Nguyen University (2008-2010), Master
Academic program of Thai Nguyen University.
[5].Ministry of Education and Training (2011),
Regulations of Master Academic issued under
Circular No. 10/2011/TT-BGDDT on February
28, 2011 by the Minister of Education & Training
[6].Ho Tan Nhut, Doan Thi Minh Trinh (2009),
Reform and building training programs in
technical by method of approaching CDIO,
Publishing house of Vietnam National University.
[7].Dinh Ba Tien, Le Hoai Bac, Tran Dan Nhu,
Duong Anh Duc (2010), "Building Process of
Building standard output and training programs of
the Department of Information Technology, Ha
Trần Thu Hƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 123 - 127
127
Noi university of Science and Technology in
CDIO", Proceedings of Seminar on standard
output and curriculum development follow the
model CDIO, pp. B1 1-12.
[8].Lam Quang Vu, Van Chi Nam, Tran Minh
Triet (2010), "Survey of access on standard output
of Department of Information Technology, Ha Noi
university of Science and Technology",
Proceedings of Seminar on standard output and
curriculum development follow the model CDIO,
pp. B2 :1-12.
[9].Ho Bao Quoc, Le Hoai Bac (2010), "Some
experiences in developing syllabus of subjects
follow CDIO", Proceedings of Seminar on
standard output and curriculum development
follow the model CDIO, p. B3 :1-9.
TÓM TẮT MỘT SỐ ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ
CỦA ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Trần Thu Hƣơng*, Nguyễn Xuân Trƣờng, Trần Thanh Vân, Chu Hoàng Mậu
Đại học Thái nguyên
Chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu tìm giải pháp nâng cao chất lƣợng đào tạo thạc sĩ hiện nay đang
là vấn đề đƣợc nhiều nhà giáo dục học và cả xã hội quan tâm. Trong các giải pháp đó việc thiết kế
chƣơng trình đào tạo thạc sĩ theo hƣớng tiếp cận mới có vị trí hết sức quan trọng trong tổ chức đào
tạo thạc sĩ hiện nay. Trên cơ sở đánh giá hiện trạng về chƣơng trình đào tạo đại học và thạc sĩ hiện
nay của Đại học Thái Nguyên, những thay đổi trong quy chế đào tạo của Bộ Giáo dục &Đào tạo
và yêu cầu của xã hội, bài báo trình bày định hƣớng về nguyên tắc cũng nhƣ cách thức thiết kế và
xây dựng chƣơng trình đào tạo thạc sĩ bao gồm cả khung chƣơng trình, chuẩn đầu ra và đề cƣơng
chi tiết môn học, góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo thạc sĩ của các cơ sở đào tạo sau đại học.
Từ khóa: Chuẩn đầu ra, đề cương chi tiết, khung chương trình, phát triển chương trình, thạc sĩ
* Tel: 0912215929
Trần Thu Hƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 123 - 127
128
Nguyễn Bá Dƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 129 - 131
129
PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN ĐỂ NÂNG TẦM NHẬN THỨC CHO SINH
VIÊN VỀ CON ĐƢỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƢỚC TA
Nguyễn Bá Dƣơng
1, Đỗ Ngọc Hanh
2*
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
TÓM TẮT Trong bài viết, các tác giả đã tập trung luận giải vai trò của tƣ duy lý luận đối với hoạt động thực
tiễn của con ngƣời. Phát triển tƣ duy lý luận là việc làm cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn đối với sinh viên ở các trƣờng Đại học, Cao đẳng hiện nay. Đồng thời, các tác giả đã chỉ rõ
định hƣớng phát triển tƣ duy lý luận của sinh viên; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp đột phá
nhằm phát triển tƣ duy lý luận của sinh viên, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cấp bách của việc nâng cao
chất lƣợng giáo dục Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Nâng tầm nhận thức cho sinh viên
Trong bối cảnh lịch sử mới, sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của toàn Đảng, toàn dân đòi
hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối
đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh đó phải đƣợc
bắt nguồn trƣớc hết từ nhận thức đúng đắn
của mọi ngƣời về con đƣờng đi lên chủ nghĩa
xã hội (CNXH) của đất nƣớc, trong đó có một
bộ phận vô cùng quan trọng là thế hệ trẻ nói
chung, sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng
nói riêng:*
“Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH là mục tiêu phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta, là trách
nhiệm vẻ vang của thế hệ trẻ, là biểu hiện cụ
thể của chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam trong
thời kỳ mới. Chúng ta phấn đấu để xây dựng
và phát triển đất nƣớc, nhất thiết không thể để
tụt hậu so với các nƣớc xung quanh, đó là ý
chí, là quyết tâm không gì lay chuyển đƣợc
của dân tộc ta, của chính thế hệ thanh niên,
của sinh viên Việt Nam và đội ngũ tri thức trẻ
đang hoạt động trên khắp mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội” [2].
Để nhận thức đúng đắn về con đƣờng đi lên
CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã
lựa chọn; sinh viên phải thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ xã hội của mình, tránh tình
huống rơi vào sai lầm, khuyết điểm. Muốn
nhƣ vậy, họ cần sự chỉ dẫn của lý luận khoa
học. Song, thực tiễn lịch sử đã cho thấy rằng,
không phải khi nào sự vận dụng lý luận vào
* Tel: 0919.604.599; Email: [email protected]
thực tiễn cũng có thể đạt tới một hiệu quả cao,
bởi việc vận dụng đó đòi hỏi chủ thể vận
dụng lý luận phải có một trình độ tƣ duy lý
luận nhất định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý
luận nhƣ cái kim chỉ nam, nó chỉ phƣơng
hƣớng cho chúng ta trong công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng nhƣ nhắm mắt
mà đi” [3]. Nhận rõ tác dụng vô cùng to lớn
của tƣ duy lý luận, Ph.Ăng ghen từng nhấn
mạnh: “Một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao của khoa học thì không thể không có
tƣ duy lý luận” [1].Tƣ duy lý luận có vai trò
quan trọng đối với các lĩnh vực hoạt động của
xã hội, con ngƣời; đặc biệt là quá trình nhận
thức về con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta
đối với sinh viên hiện nay.
Sự phát triển vững bền của đất nƣớc theo định
hƣớng XHCN đòi hỏi tất yếu phải trang bị
cho sinh viên những nhận thức chính trị,
những kiến thức về mục tiêu, con đƣờng đi
lên CNXH của đất nƣớc, những kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ, ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trƣờng. Đây là điều có ý nghĩa
vô cùng quan trọng và cấp bách bởi vì, đứng
trƣớc những biến động phức tạp của tình hình
chính trị thế giới, khu vực; trƣớc chiến lƣợc
“diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch, tập trung chống phá
trên lĩnh vực tƣ tƣởng đối với thế hệ trẻ, nhận
thức của sinh viên các trƣờng đại học, cao
đẳng về con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta
vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Họ có những
Nguyễn Bá Dƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 129 - 131
130
hạn chế về kiến thức lý luận, tƣ duy lý luận,
thiếu sự quan tâm đến tình hình kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội của đất nƣớc. Nguy hiểm
hơn, một bộ phận sinh viên với trình độ tƣ
duy lý luận thấp kém, thiếu niềm tin vào con
đƣờng đi lên CNXH, quá đề cao lợi ích vật
chất, chƣa nhận thức đầy đủ vai trò, trách
nhiệm của mình đối với đất nƣớc.
Phát triển tƣ duy lý luận để nâng tầm nhận
thức của sinh viên về con đƣờng đi lên
CNXH ở nƣớc ta hiện nay cần thực hiện tốt
những định hƣớng cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển tƣ duy lý luận của sinh
viên phải hƣớng tới việc hoàn thiện phẩm
chất, năng lực toàn diện của họ.
Trƣớc yêu cầu xây dựng “con ngƣời xã hội chủ
nghĩa” để đáp ứng cuộc đấu tranh trên mặt trận
chính trị - tƣ tƣởng hiện nay, đòi hỏi sinh viên
cần phải có một chất lƣợng mới toàn diện.
Chất lƣợng mới toàn diện đó là kết quả tổng
hợp của sự phát triển nhiều yếu tố, trong đó sự
phát triển tƣ duy lý luận giữ vai trò nền tảng,
chi phối tới sự phát triển, hoàn thiện nhân cách
toàn diện của ngƣời sinh viên.
Thứ hai, phát triển tƣ duy lý luận phải hƣớng
vào nâng cao trình độ khoa học, các hoạt
động chuyên môn của sinh viên .
Quá trình học tập, công tác ở các trƣờng Đại
học, Cao đẳng, đội ngũ sinh viên cần phải
đƣợc trang bị kỹ năng, phƣơng pháp biết
thuyết phục, vận động, tổ chức và hƣớng dẫn
mọi ngƣời dân, mọi tổ chức trong nhà trƣờng
thực hiện thắng lợi đƣờng lối, nhiệm vụ chính
trị của Đảng; làm cho mọi ngƣời, mọi tổ chức
hoạt động một cách tự giác, sáng tạo, đúng
với đƣờng lối, quan điểm của Đảng bằng công
tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng và công tác tổ
chức. Để làm đƣợc điều này, sinh viên phải có
tính khoa học rất cao. Phát triển tƣ duy lý luận
cần hƣớng tới nâng cao trình độ khoa học, các
hoạt động chuyên môn của sinh viên .
Thứ ba, phát triển tƣ duy lý luận của sinh viên
phải gắn liền với quá trình hình thành ở họ
các phẩm chất trí tuệ cơ bản.
Trong hoạt động nhận thức cũng nhƣ trong
hoạt động thực tiễn, tƣ duy lý luận và các
phẩm chất trí tuệ của sinh viên luôn có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trí tuệ với tƣ cách là
nhận thức lý tính đã đạt tới trình độ cao luôn
đòi hỏi mỗi ngƣời, nếu muốn có một năng lực
trí tuệ nhất định, thì phải luôn nỗ lực tự giác
cao và thƣờng xuyên. Không ai có thể đem lại
cho họ một năng lực trí tuệ nào đó nếu mỗi
ngƣời không tự tìm đến với nó. Trí tuệ không
phải là một “khả năng thiên phú”, cũng không
thể có trí tuệ bằng những trao đổi vật chất.
Một trí tuệ uyên bác là một trí tuệ không chỉ
am hiểu tri thức vừa rộng, vừa sâu, mà ở mức
cao hơn, trí tuệ ấy phải đƣợc sử dụng vào
trong thực tiễn cuộc sống một cách tích cực,
lành mạnh, làm cho cuộc sống vận động, phát
triển theo hƣớng ngày càng phong phú hơn,
đậm chất nhân văn hơn. Bởi vậy, một trong
những định hƣớng cơ bản đặt ra là sự phát
triển tƣ duy lý luận của sinh viên phải gắn
liền với quá trình hình thành ở họ những
phẩm chất trí tuệ cơ bản.
Phát triển tƣ duy lý luận nhằm nâng tầm nhận
thức cho sinh viên về con đƣờng đi lên
CNXH ở nƣớc ta, đòi hỏi Đảng, Nhà nƣớc,
các cơ quan, ban ngành phải có biện pháp
thiết thực, hiệu quả để bảo đảm sự phát triển
vững bền của đất nƣớc theo CNXH; tập trung
vào một số biện pháp nhƣ:
Một là, đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng
nhằm bồi dưỡng tư duy lý luận, nâng cao
nhận thức của sinh viên về mục tiêu, lý tưởng,
con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lƣợc trong
việc nâng cao nhận thức của sinh viên về con
đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta. Để thực hiện
tốt giải pháp này cần phải:
- Nâng cao chất lƣợng đội ngũ giáo viên
giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng cộng sản
Việt nam, các môn khoa học xã hội và nhân
văn khác, góp phần nâng cao nhận thức chính
trị cho sinh viên trong nhà trƣờng.
- Tích cực đổi mới phƣơng pháp, hình thức
giáo dục chính trị; trên cơ sở giữ vững định
hƣớng chính trị trong mỗi bài giảng, mỗi hình
thức giáo dục. V.I.Lênin đã dạy “…Trong bất
kỳ một trƣờng học nào, điều quan trọng nhất
Nguyễn Bá Dƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 129 - 131
131
là phƣơng hƣớng chính trị và tƣ tƣởng của
các bài giảng” [4]; nghĩa là phải thể hiện đƣợc
tính đảng, tính giai cấp, tính khoa học trong
nội dung của từng chủ đề.
- Sự quan tâm của các cấp ủy đảng, các cơ
quan chức năng của ngành giáo dục đào tạo,
các nhà trƣờng, các tổ chức chính trị xã hội
trong giáo dục, nâng cao nhận thức của sinh
viên về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nƣớc ta.
Hai là, thường xuyên tổ chức các buổi Hội
thảo khoa học, Diễn đàn, Trao đổi… của sinh
viên các trường; tập trung chủ đề: “Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”
Phát huy sức mạnh tổng hợp của Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, đặc biệt là tổ chức đoàn trong
các trƣờng đại học và cao đẳng để nâng cao
chất lƣợng, hình thức giáo dục chính trị cho
sinh viên; trong đó có vấn đề “Nâng cao nhận
thức của sinh viên về con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta”.
Hàng năm, tổ chức các buổi Hội thảo: “Nhận
thức của sinh viên về con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta hiện nay”; các buổi
Diễn đàn: “Tuổi trẻ với khoa học và công
nghệ”; các buổi trao đổi trực tiếp giữa sinh
viên với các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà
nƣớc…
Ba là, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo
của tuổi trẻ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Hàng năm, Trung ƣơng Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh phát động phong trào “Mùa hè xanh”
khơi dậy lòng yêu nƣớc và vai trò xung kích
của tuổi trẻ, động viên họ tham gia các phong
trào “Thanh niên tình nguyện”, “Sinh viên vì
ngày mai của đất nƣớc…”. Đây là những hoạt
động thiết thực, bổ ích, có ý nghĩa chính trị to
lớn đối với sinh viên ở các trƣờng Đại học,
Cao đẳng hiện nay.
Tạo điều kịên để sinh viên phát huy tính tích
cực, độc lập, sáng tạo trong học tập, rèn
luyện, nghiên cứu khoa học…, đồng thời định
hƣớng cho sinh viên, để họ tự tìm tòi sáng tạo
và tham gia có hiệu quả vào quá trình xây
dựng và phát triển đất nƣớc.
Thế hệ trẻ nói chung và sinh viên ở các
trƣờng Đại học, Cao đẳng nói riêng cần có
một bản lĩnh vững vàng, một lý tƣởng sống
đúng đắn; bản lĩnh đó, lý tƣởng đó chỉ có
đƣợc trên cơ sở sinh viên có trình độ tƣ duy lý
luận cao, nhận thức đúng đắn và khoa học về
CNXH và con đƣờng đi lên CNXH của đất
nƣớc - con đƣờng mà cả dân tộc đã lựa chọn
và đang phấn đấu đi lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ph.Ăng ghen (1876), C.Mác & Ph.Ăng ghen,
Toàn tập, tập 20, Nxb. CTQG, Hà Nội 1994,
tr.489.
[2]. Nông Đức Mạnh (2003), Bài phát biểu của
Nguyên Tổng Bí thƣ Nông Đức Mạnh tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII Hội Sinh viên Việt
Nam.
[3]. Hồ Chí Minh (1948), Hồ Chí Minh, Toàn tập,
tập 5, Nxb. CTQG, Hà Nội 1995, tr.223.
[4].V.I.Lênin (1923), V.I.Lênin, Toàn tập, tập 47,
Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1981, tr.248.
ABSTRACT
DEVELOP THEORETICAL THINKING TO RAISE STUDENTS’
AWARENESS OF THE PATH TO SOCIALISM OF OUR COUNTRY
Nguyen Ba Duong, Do Ngoc Hanh*
Military Politics Academy, Ministry of Defense.
In this article, the authors have focused on interpreting the role of theoretical thinking to human
practical activities. Development of theoretical thinking is urgent need, which theorectically and
practically has meaning to students at universities and colleges today. Simultaneously, the authors
have clearly oriented students' thinking theoretical development; on that basis, we propose some
innovative solutions to develop students' theoretical thinking, to meet the requirements, urgency of
improving the education quality in Vietnam now.
Keywords: raise students’ awareness
* Tel: 0919.604.599; Email: [email protected]
Nguyễn Bá Dƣơng và ĐTG Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 129 - 131
132
Ngô Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 133 - 137
133
SỰ TIẾP BIẾN KHÁI NIỆM “TÂM” TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC
NGƢỜI VIỆT NAM
Ngô Thị Lan Anh
*
Trường Đại học sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Chữ "Tâm" trong Phật giáo là nội dung quan trọng góp phần tạo nên giá trị văn hóa Phật giáo. Khi
vào Việt Nam, hầu hết nghĩa của chữ "Tâm" vẫn đƣợc giữ lại. Vốn có cảm tình và ƣa chuộng đạo
Phật, nên ngƣời Việt Nam rất đề cao chữ "Tâm". Từ cái “Tâm” trong sáng, thuần khiết đã hình thành
ở ngƣời Việt Nam lối sống bình dị, chất phác, thật thà, rất đỗi thuỷ chung, có nghĩa có tình, có trƣớc,
có sau góp phần xây dựng lên một nền đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội, hƣớng nhân dân
vào việc thực hành những điều thiện, tránh xa điều ác; đem lại sự thanh thản trong “Tâm” mỗi con
ngƣời. Bên cạnh những mặt tích cực, cái "Tâm" trong quá trình hoà nhập vào đời sống ngƣời Việt,
vẫn còn có cả những mặt tiêu cực cần có những biện pháp thích hợp để khắc phục.
Từ khóa: Phật giáo; Phật giáo Việt Nam; “Tâm”; tiếp biến; đời sống đạo đức
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay,
Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh
thần của đời sống xã hội, là mục đích và động
lực của sự phát triển [1, tr.213]. Việt Nam
trên con đƣờng hội nhập, không thể không bắt
đầu từ những giá trị văn hóa truyền thống
trong đó có văn hóa Phật giáo. Chữ "Tâm"
trong Phật giáo là nội dung quan trọng góp
phần tạo nên giá trị văn hóa Phật giáo. Triết lý
về chữ "Tâm" trong Phật giáo có ý nghĩa rất
sâu sắc, nó đã ảnh hƣởng không nhỏ tới đời
sống đạo đức của ngƣời Việt Nam trong quá
khứ cũng nhƣ trong hiện tại và cả tƣơng lai.
SỰ TIẾP BIẾN KHÁI NIỆM "TÂM"
TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Theo quan niệm của Phật giáo phạm trù
“Tâm” có thể khái quát thành sáu cấp độ nhƣ
sau: 1. "Tâm" là trái tim bằng xƣơng, bằng
thịt (Phật giáo không để ý tới nghĩa này); 2.
"Tâm" là thức (vijnàna) và theo một nghĩa
nào đó, nó chính là ý thức thông thƣờng của
con ngƣời; 3. Nhƣng không chỉ ý thức, "Tâm"
còn là toàn bộ thế giới bên trong, cái chủ
quan, tâm hồn, tình cảm, ý đồ, tinh thần, tâm
lý. "Tâm" không chỉ là lý mà còn là tình. Cái
"Tâm" này chính là manas; 4. Ở góc độ
"Tâm" là thức thứ tám, thì nó bao gồm cả
* Email: [email protected]
tiềm thức, vô thức; 5. "Tâm" còn là sự tổng
hợp của tất cả cái "Tâm" theo nghĩa thứ hai,
thứ ba, thứ tƣ; 6. Trong Phật giáo, "Tâm" còn
là bản thể vũ trụ, đó chính là tâm thể, Chân
tâm [2, tr.31].
Khi vào Việt Nam, hầu hết nghĩa của chữ
"Tâm" vẫn đƣợc giữ lại. Vốn có cảm tình và
ƣa chuộng đạo Phật, nên ngƣời Việt Nam rất
đề cao chữ "Tâm". Quan niệm về “Tâm” của
Phật giáo ở Việt Nam phát triển theo hai
khuynh hƣớng:
Một là, cái "Tâm" theo hƣớng bác học mà nội
dung của nó bao gồm cả sáu cấp độ nhƣ đã
đƣợc trình bày ở phần trên. Cách hiểu về
"Tâm" theo khuynh hƣớng này, chịu ảnh
hƣởng trực tiếp từ quan niệm "Tâm" của Phật
giáo Trung Hoa. Chữ này có nghĩa khá rộng,
vừa chỉ tinh thần, ý thức, lại vừa chỉ tình cảm,
lý trí; vừa là trái tim lại vừa là tên chung để
chỉ những phẩm chất của trí óc. Ngoài ra, nó
còn chỉ những cái ở giữa (trung gian, trung
tâm). Khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc,
chữ này có nội hàm và ngoại diên càng mở
rộng. Ngoài nghĩa trên, nó còn chỉ tám thức
(bát thức): nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức,
thân thức, tị thức, ý thức, mạtna thức (thức
thứ bẩy), Alạida thức (thức thứ tám) và kết
hợp với nhau giữa chúng. Trong Phật giáo
còn một cái "Tâm" nữa, đó là tự tính, thanh
tịnh "Tâm" (Kiên thực tâm) hay Nhƣ Lai
Tạng tâm (Chân nhƣ).
Ngô Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 133 - 137
134
"Tâm" đƣợc hiểu là nơi cƣ trú của hoạt động
tinh thần con ngƣời. Nó còn mang ý nghĩa là
lƣơng tâm, đạo đức, tấm lòng, lòng bao dung,
nhân ái, độ lƣợng, vị tha, thƣơng ngƣời nhƣ
thể thƣơng thân. "Tâm" còn biểu hiện là sự
cảm thông, biết chia xẻ với ngƣời khác lúc
hoạn nạn, khó khăn. "Tâm" là tâm tính, tâm
can, tâm tƣ, tâm khảm, là toàn tâm toàn ý cho
công việc, cho sự nghiệp, lý tƣởng của mình.
Trong đời sống đạo đức ở nƣớc ta, cái "Tâm"
bác học cũng đã ảnh hƣởng nhiều tới con
ngƣời Việt Nam.
Hai là, cái "Tâm" bình dân, nó góp phần hình
thành nên nền Phật giáo dân gian ở Việt Nam.
Đây chính là một trong những biểu hiện sự
biến đổi của Phật giáo khi vào Việt Nam, để
hoà hợp với đời sống và sự nhận thức của
ngƣời dân nơi đây. Trong sáu cấp độ "Tâm"
nói trên, ở Việt Nam, Phật giáo, đặc biệt Phật
giáo dân gian nhấn mạnh mặt chủ quan, tình
cảm theo khía cạnh thứ ba trong khái niệm
"Tâm".
"Tâm" hiểu theo cách này chính là lòng,
bụng, dạ, ruột… là phần bên trong của cơ thể
con ngƣời, là cái quan trọng nhất, dễ nhận
biết đƣợc. "Tâm" là tâm lực, là sự tập trung
cao độ của sức lực con ngƣời. Ở mỗi ngƣời,
ai cũng tồn tại cái “Tâm” trong mình. Vì thế,
trong cƣ xử giữa con ngƣời với con ngƣời,
điều quan trọng là tấm lòng, là thành "Tâm",
thực bụng, sống hết lòng vì nhau.
Vì thế, với ngƣời Việt Nam, ngƣời ta thƣờng
sử dụng chữ lòng thay cho chữ "Tâm". Điều
này đƣợc phản ánh đậm nét trong kho tàng ca
dao, tục ngữ Việt Nam, trong các câu chuyện
cổ dân gian… Theo kết quả khảo cứu của
GS.TS Nguyễn Hùng Hậu:
"Trong cuốn "Tục ngữ ca dao dân ca Việt
Nam" của Vũ Ngọc Phan (in lần thứ tám, Nxb
Khoa học xã hội, 1978)… nếu gộp cả lòng,
bụng, dạ, ruột vào làm một thì tần suất xuất
hiện chữ lòng lớn gấp 26 lần tần xuất hiện
chữ "Tâm".
Nhƣng ngƣợc lại, trong các văn bản thành văn
bằng chữ Hán trƣớc năm 1282, tức trƣớc khi
có chữ nôm thì ta chỉ thấy có chữ "Tâm", và
sau này mới thay bằng chữ lòng. Đọc thơ văn
Trần Nhân Tông, ông dùng cả hai chữ "Tâm"
và lòng. Điều này lại dẫn ta tới một kết luận
cao hơn: ngƣời Việt dùng chữ lòng là chủ
yếu, dùng chữ lòng nhiều hơn chữ "Tâm".
Phần lớn những ngƣời tri thức có tinh thần
độc lập tự chủ về sau họ thƣờng dùng chữ
nôm, tức chữ lòng thay cho chữ "Tâm", mặc
dù cách viết hai chữ này nhƣ nhau. Qua đây ta
thấy chữ lòng xuất hiện và xuất phát từ chữ
"Tâm" [3, tr.407].
Có thể thấy rõ, trong suy nghĩ của ngƣời Việt
Nam, cái "Tâm" bắt nguồn từ trong chính bản
thân chúng ta. Bụng chúng ta nghĩ gì, thì hành
động của chúng ta sẽ nhƣ vậy. Cho nên, muốn
trở thành ngƣời tốt thì cần phải có cái "Tâm",
tức là chúng ta phải sống bằng cả tấm lòng
của mình, mọi cƣ xử, hành động phải từ đáy
lòng mình mà ra. Phải luôn giữ cho mình sự
ngay thẳng trong "Tâm", mới mong có đƣợc
sự ngay thẳng trong công việc, cuộc đời. Cho
nên cha ông ta mới dặn dò cháu con rằng:
Ở sao cho vừa lòng ngƣời
Dù ai giục đứng, giục ngồi mà nao.
Ngay trong cách thể hiện tình cảm lứa đôi, ngƣời Việt Nam cũng lấy bụng, lòng, dạ, ruột… ra bộc bạch tình cảm của mình. Coi đó là sự thành "Tâm" của mình đối với ngƣời mình thƣơng, mình yêu. Chỉ có những tình cảm đƣợc khơi mạch từ trong sâu thẳm cõi lòng mỗi con ngƣời mới là tình cảm chân thành, đáng quý, đáng đƣợc trân trọng, nâng niu. Cho nên mới có những hình ảnh nhƣ:
- Thƣơng anh bụng sát tận da
Anh thì không biết tƣởng là đói cơm
- Thƣơng anh, em chẳng nói ra
Trong ruột thì héo, ngoài da thì vàng.
Trong gia đình, tình cảm của con cái đối với
cha mẹ mình cũng đƣợc bắt nguồn từ trong
ruột, bụng, dạ... mỗi ngƣời:
- Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ, ruột đau nhƣ dần.
Tấm lòng của ngƣời con hƣớng về cha mẹ
mình đến mức "ruột đau nhƣ dần" cho thấy
một sự hiếu đễ rất lớn của ngƣời Việt Nam
đối với bậc sinh thành dƣỡng dục. Không chỉ
trong tình cảm, mà trong cả việc đánh giá,
nhìn nhận về con ngƣời, ngƣời Việt Nam
cũng dựa vào yếu tố bụng, dạ, lòng… coi đó
nhƣ thƣớc đo để căn cứ vào đó mà phán xét:
Ngô Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 133 - 137
135
- Sông sâu còn có kẻ dò
Lòng ngƣời nham hiểm, ai đo cho vừa.
- Dao vàng cắt ruột máu rơi
Ruột đau chẳng mấy bằng lời em than.
Nhƣ vậy, cái "Tâm" trong cách hiểu của
ngƣời Việt Nam theo dân gian nó là lòng,
bụng, dạ, ruột.... Cách hiểu này thật dân dã,
chân chất nhƣ bản tính con ngƣời Việt Nam,
khiến ai cũng hiểu đƣợc, nhận ra đƣợc cái
"Tâm" trong mỗi con ngƣời và biến nó trở
thành hành động của bản thân mình. Cái
"Tâm" ấy thấm đẫm hồn Việt, tính nhân văn,
nhân đạo trong đó. Đồng thời, nó cũng tạo ra
một màu sắc riêng trong quan niệm về "Tâm"
của Phật giáo Việt Nam. Bởi nó không chỉ
bao chứa tất cả thế giới nội tâm bên trong mà
còn bao chứa trong đó cả những mạch nguồn
cảm xúc, thăng hoa trí tuệ, sự cảm thông, sẻ
chia của mỗi con ngƣời sống trên cõi đời này.
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỦA "TÂM" TRONG
ĐỜI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM
“Tâm” trong Phật giáo Việt Nam đƣợc biểu
hiện ra vô cùng phong phú mà trong khuôn
khổ bài viết này chỉ nêu lên một số biểu
hiện sau:
Về mặt tích cực, hiện nay trong cuộc sống có
hiện tƣợng giả dối, nói một đƣờng làm một
nẻo. Trong cơ chế thị trƣờng, hiện tƣợng này
có chiều hƣớng phát triển. Bởi vậy, quan
niệm thật "Tâm", thật bụng của nhà Phật giúp
cho con ngƣời điều chỉnh hành vi của mình,
vì nếu không sẽ bị quả báo. Ngƣời lãnh đạo
không chỉ có tầm nhìn xa mà phải có cái
“Tâm” nữa. “Tâm” và “Tầm” không tách rời
nhau, trong lãnh đạo quản lý. Biểu hiện của
“Tâm” và “Tầm” theo một nghĩa nào đó cũng
là biểu hiện của đức và tài. Nhiều ngƣời ca
thán, ở một số cán bộ thiếu cả “Tâm” lẫn
“Tầm”. Bởi vậy, Đảng và Nhà nƣớc cần có cơ
chế cụ thể để chọn đƣợc ngƣời có cả “Tâm”
lẫn “Tầm” ra lãnh đạo, có nhƣ thế sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới nhanh đi
đến thắng lợi.
“Tâm” biểu hiện trong cuộc sống của người
Việt đó là lòng hiếu thảo, sự hiếu thuận, sống
có tình, có nghĩa, có trước, có sau.
Là ngƣời Việt Nam, đạo lý làm ngƣời đầu
tiên phải học đó là hiếu kính với cha mẹ, ông
bà. Nó đã ăn sâu vào tâm khảm ngƣời Việt
Nam, trở thành bản tính tự nhiên. Dƣới sự ảnh
hƣởng của các tôn giáo mà lớn nhất là đạo
Phật, lời dạy của Phật về việc nhớ ơn và báo
ơn cha mẹ đã khắc sâu hơn nữa trong mỗi con
ngƣời Việt Nam.
Tu đâu mà bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Với ngƣời Việt Nam dƣới ảnh hƣởng “Tâm”
của Phật giáo, nhân dân luôn nhắc nhở nhau
sống có tình, có nghĩa, có lƣơng tri với nhau,
để cùng nhau tạo lập một cuộc sống tốt lành,
tránh bị quả báo theo luật nhân quả. Ca dao
có câu:
- Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
“Tâm” theo hướng tích cực còn biểu hiện ra
ở lối sống từ bi, bác ái, không làm điều ác,
tích cực làm điều thiện, điều nhân đức.
Trƣớc khi Phật giáo vào Việt Nam, ở nƣớc ta
đã có truyền thống thƣơng ngƣời, nó xuất
phát từ chính cuộc sống của ngƣời Việt cổ đại
và phát triển theo lịch sử phát triển của dân
tộc Việt Nam. Những nét đẹp trong truyền
thống ngƣời Việt thể hiện ở tinh thần:
- Lá lành đùm lá rách.
- Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ.
Khi tƣ tƣởng từ bi của Phật giáo vào Việt
Nam, đã làm cho tình thƣơng của con ngƣời
Việt Nam đƣợc nhân lên, mở rộng. Lòng yêu
thƣơng con ngƣời, sự độ lƣợng bao dung,
khuyến thiện, trừ ác, sống vị tha… cái đó đã
phần nào ảnh hƣởng đến đời sống ngƣời Việt.
Con ngƣời biết lo lắng cho ngƣời khác hơn
bản thân; biết bao dung độ lƣợng hơn, biết tha
thứ cho ngƣời lỗi lầm biết hối cải. “Một
miếng khi đói bằng một gói khi no”, đã trở
thành phƣơng châm sống của ngƣời Việt Nam.
Tình thƣơng ấy còn là tình thƣơng muôn vật.
Cấm sát sinh, bố thí bắt nguồn từ đó.
Khi có cái “Tâm” thiện, cuộc sống sẽ an lạc,
thảnh thơi, thăng bằng, sống hoà hợp với môi
trường xung quanh và những người đồng loại.
Ngô Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 133 - 137
136
Trong cơ chế thị trƣờng hiện nay, những giây
phút này thật là quá hiếm, hình ảnh các ngôi
chùa với những cảnh quan tƣơi đẹp là điểm
dừng chân lí tƣởng cho tâm hồn mỗi con
ngƣời trong cuộc sống huyên náo nơi trần thế.
Những kiến trúc và cảnh vật trong chùa đã
mang đến với mỗi con ngƣời sự bình yên,
thảnh thơi, thƣ thái, bỏ lại đằng sau những lo
toan tất bật của cuộc sống.
Nhƣ vậy, cái "Tâm" trong quá trình hoà nhập
vào đời sống ngƣời Việt, bên cạnh những mặt
tích cực nhƣ đã trình bày ở trên, vẫn còn có
cả những mặt tiêu cực.
Một là, do quá đề cao chữ “Tâm”, nên ngƣời
Việt Nam có vẻ hơi nghiêng về tình cảm. Trong
hành động của bản thân mỗi ngƣời, nhiều khi vì
tấm lòng, vì chữ tình mà thành ra hỏng việc, bị
kẻ xấu lợi dụng để làm điều sai trái.
Quan niệm "một trăm cái lý, không bằng một
tý cái tình" đã trở thành thói quen của ngƣời
Việt. Họ giải quyết công việc không theo lý
mà chỉ luỳ tình. Ngƣời càng thân thì càng
đúng. Vì thế, ở rất nhiều làng quê Việt Nam
với lối hành xử theo kiểu trọng tình hơn trọng
lý đã khiến trật tự kỷ cƣơng làng nƣớc khó
đƣợc thực thi.
Hai là, vì cái "Tâm" của Phật giáo thể hiện tƣ
duy hƣớng nội, cho nên do ảnh hƣởng cái
“Tâm” của nhà Phật mà một số ngƣời Việt có
vẻ thiên trọng về tình cảm, đề cao cái thiện từ
"Tâm" mà ra. Vì thế, nó có phần ít quan tâm
đến khoa học kỹ thuật, ít quan tâm làm thế
nào cho của cải vật chất ngày càng tăng, làm
thế nào để giải phóng con ngƣời về mặt xã
hội… Đồng thời, nếu chỉ thế, thì cái ác sẽ vẫn
tồn tại, hiện hữu, phát triển trong đời sống của
chúng ta. Bởi vậy, không thể chỉ bằng sự nỗ
lực, rèn luyện của bản thân mỗi ngƣời, mà
còn cần phải có sự đấu tranh để loại trừ cái
xấu, cái ác khỏi cuộc sống xã hội.
Ba là, Phật giáo cho rằng “cuộc đời là bể
khổ”, hạnh phúc không phải ở trong chính đời
sống của con ngƣời, mà là ở nơi cực lạc. Điều
này, đã dẫn tới những tiêu cực, làm nhụt chí
phấn đấu của con ngƣời trong đời sống hiện
thực, sự bi quan, chán nản đối với hiện tại,
với những gì đang xảy ra trong chính đời
sống hiện thực của con ngƣời.
Con đƣờng tu luyện để “dĩ Phật trị Tâm” mà Phật giáo nêu ra cũng chƣa phải là giải pháp tối ƣu nhất. Bởi nó mới chỉ dựa vào năng lực, sự nhận thức của cá nhân mỗi con ngƣời. Đòi hỏi ở mỗi ngƣời tính tự giác, tinh thần tự phấn đấu vƣơn lên của mỗi con ngƣời, đó chƣa phải là con đƣờng có thể quy tụ đƣợc sức mạnh của quần chúng trong việc đấu tranh xoá bỏ những bất công trong xã hội hiện tại và xây dựng một xã hội hiện thực tốt đẹp hơn nơi trần thế.
Cho nên, rất nhiều ngƣời khi gặp phải những bất trắc, trắc trở trong cuộc đời đã tìm tới cửa Phật để ẩn náu mình, vô hình chung họ đang quay lƣng với hiện tại và quay trở về với quá khứ. Họ coi cửa Phật là “ốc đảo” để họ rũ bỏ trần ái, tu dƣỡng "Tâm" mình, để trở nên “thanh thản”, sống một đời sống bình lặng, vô lo trƣớc cuộc đời.
Tóm lại, “Tâm” của Phật giáo khi vào Việt Nam đã hoà nhập vào đời sống tín ngƣỡng của ngƣời Việt Nam, chi phối mọi hoạt động của quần chúng nhân dân. Với cách hiểu “Tâm” là tâm lực, là lòng chân thành, là sự ngay thẳng nó tồn tại trong tất cả ngƣời Việt Nam. Ai cũng có thể tìm thấy cái “Tâm” trong bản thân mình và nếu thực hiện theo cái “Tâm” Đức Phật chúng ta sẽ có Phật ở bên mình. Vì thế, cái “Tâm” trong Phật giáo đã chi phối, tác động lớn tới đời sống đạo đức của ngƣời Việt Nam, trong đó có cả những tác động tích cực và cả những hạn chế nhất định.
Để khắc phục những hạn chế và phát huy những giá trị tích cực trong quá trình ảnh hƣởng của cái “Tâm” trong Phật giáo nói riêng và Phật giáo nói chung tới đời sống đạo đức của con ngƣời Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta cần quan tâm hơn nữa tới các hoạt động tôn giáo trong đó có hoạt động của Phật giáo. Thực hiện các biện pháp để nâng cao trình độ nhận thức, đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đặc biệt đồng bào có đạo. Khuyến khích họ gắn niềm tin tôn giáo với chủ trƣơng, đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, để cùng đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nƣớc ngày một giàu đẹp hơn, có vị thế trên trƣờng quốc tế.
Chúng ta cần phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các ban ngành chức năng, các lực lƣợng
khác nhau trong xã hội để tạo nên sức mạnh
tổng hợp trong việc thực hiện công tác tôn
giáo, đƣa hoạt động của các tôn giáo trong đó
Ngô Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 133 - 137
137
có hoạt động của Phật giáo đi vào ổn định,
trật tự tuân thủ theo quy định pháp luật, đồng
thời cũng không gây ảnh hƣởng tới quyền tự
do tín ngƣỡng của nhân dân, để nhân dân tin
tƣởng và đi theo con đƣờng mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh lựa chọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2006.
[2]. Nguyễn Hùng Hậu, Góp phần tìm hiểu tư
tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
[3]. Nguyễn Hùng Hậu, Triết lý trong văn hoá
Phương Đông, Nxb Đại học Sƣ Phạm, Hà Nội, 2004.
[4]. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt
Nam", (in lần thứ tám), Nxb Khoa học xã hội, 1978.
SUMMARY
THE ADOPTION AND ADAPTATION OF THE CONCEPT “TÂM” IN
VIETNAMESE BUDDHISM AND HOW IT REVEALS IN THE VIETNAMESE’S
MORAL LIFE
Ngo Thi Lan Anh
* College of Education- Thainguyen University
In Buddism, “Tâm” (heart) is an important aspect partly contributing to the value of buddhistic
culture. When being introduced into Vietnam, “Tam” still remains almost all of its meanings.
Thanks to the available love for Buddhism, Vietnamese people highly respect the aspect of “Tam”.
Owning pure and warm hearts, the Vietnamese have led a plain, rustic and faithful life with a
closely sentimental attachment. This helps much to build a cultural basis that is appropriate for
social morals and leads the people to follow the good as well as to avoid the bad, which will bring
a peaceful heart for everyone. Apart from the positive points, “Tam” on the process of being
integrated in Vietnam unavoidably contains the negative points that need solving appropriately.
Key words: Buddhism; Vietnamese Buddhism; “Tam” (Heart); adoption and adaptation; moral life
* Email: [email protected]
Ngô Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 133 - 137
138
Nguyễn Thị Gấm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 139 - 144
139
LỐI SỐNG CỦA NỮ GIẢNG VIÊN TRẺ ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐỐI VỚI QUẦN ÁO THỜI TRANG
Nguyễn Thị Gấm
Trường ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
SUMMARY Nghiên cứu “lối sống của ngƣời tiêu dùng nữ đối với quần áo thời trang” đƣợc thực hiện nhằm xác
định các đoạn thị trƣờng quần áo thời trang của nữ giảng viên trẻ thuộc Đại học Thái Nguyên với
mục đích cung cấp thông tin cho các nhà sản xuất kinh doanh mặt hàng thời trang công sở trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau về lối sống giữa những
nữ giảng viên trẻ của đại học và họ là những ngƣời đánh giá cao tính hợp thời trang, lịch sự, tao
nhã và phù hợp với bản thân hơn là các yếu tố về chất lƣợng và giá cả. Dựa vào kết quả nghiên
cứu, một vài kiến nghị đã đƣợc đề xuất.
Từ khoá: Lối sống, người tiêu dùng, hành vi mua, thời trang
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Ngày nay nhu cầu về chất lƣợng cuộc sống
trong đời sống của ngƣời dân Việt Nam nói
chung và của cán bộ giảng viên các trƣờng
đại học nói chung ngày càng tăng. Ngoài nhu
cầu cơ bản của cuộc sống, thì trang phục đẹp,
hợp thời trang và chất lƣợng tốt,... là một
trong những mối quan tâm đặc biệt của các
cán bộ giáo viên trẻ trong các trƣờng đại học.
Trong xu hƣớng thay đổi đó, những nữ giảng
viên đại học đã sử dụng trang phục nhƣ thế
nào? Phong cách sống lựa chọn thời trang của
họ ra sao? Những yếu tố gì ảnh hƣởng tới
quyết định mua của họ? còn là một câu hỏi
đối với các nhà nghiên cứu, nhà sản xuất và
những đơn vị kinh doanh thời trang nói chung
và đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh trên
địa bàn Thái Nguyên nói riêng.
Cho đến nay chƣa có một đề tài nào nghiên
cứu phong cách sống cũng nhƣ những yếu tố
ảnh hƣởng đến quyết định mua của cán bộ
giảng viên đại học để giúp cho các công ty
sản xuất cũng nhƣ các cửa hàng thời trang
công sở có đƣợc những chiến lƣợc kinh doanh
của mình phù hợp hơn. Vì thế, chúng tôi lựa
chọn đề tài nghiên cứu “Lối sống của
người tiêu dùng nữ là các cán bộ giảng
viên trẻ Đại học Thái Nguyên đối với quần
áo thời trang”.
* Tel: 0912805980; email: [email protected]
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của bài viết là (1) nghiên cứu phong cách sống của ngƣời tiêu dùng nữ là cán bộ giáo viên trẻ của Đại học học Thái Nguyên (ĐHTN) và (2) xác định những yếu tố ảnh hƣởng đến quyết định mua của họ để cung cấp thêm sự hiểu biết sâu hơn về hành vi mua của nữ giáo viên trẻ với kỳ vọng kết quả thu đƣợc sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà kinh doanh trong quá trình xây dựng chiến lƣợc kinh doanh sản phẩm quần áo thời trang trên địa bàn thành phố.
Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu phong cách sống và hành vi mua của cán bộ giáo viên trẻ trong độ tuổi từ 22 – 35 của ĐHTN.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Số liệu thứ cấp đƣợc thu thập từ các ấn phẩm, tài liệu đã công bố về hành vi ngƣời tiêu dùng và thời trang
Số liệu sơ cấp đƣợc thu thập từ điều tra ngẫu nhiên 110 cán bộ giáo viên nữ của ĐHTN từ tháng 12 năm 2009, trong đó, 40 mẫu điều tra tại Trƣờng Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 35 mẫu Trƣờng Đại học Sƣ phạm và 35mẫu ở Khoa Công nghệ Thông tin. Phiếu điều tra đƣợc lấy từ phiếu điều tra của Khi Tchan Lan (2000).
Phƣơng pháp phân tích: Đề tài nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp phân tích yếu tố và phân tích mô tả để nghiên cứu hành vi của ngƣời tiêu dùng nữ là giảng viên trẻ của Đại học Thái Nguyên.
Nguyễn Thị Gấm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 139 - 144
140
Công cụ phân tích: phần mềm SPSS phiên bản 16 đƣợc sử dụng làm công cụ phân tích số liệu sơ cấp.
Giả thuyết nghiên cứu
H1. Các giáo viên nữ của ĐHTN có lối sống khác nhau
H2. Các nữ giáo viên của ĐHTN đánh giá tính hợp thời trang (lịch sự), phù hợp với bản thân của quần áo thời trang hơn so với các
yếu tố khác
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Chúng tôi xem những nữ giảng viên trong độ tuổi từ 22 khi mới tốt nghiệp ra trƣờng cho đến tuổi 35, có gia đình, có con, có tích luỹ là nhóm nữ giáo viên trẻ. Ở độ tuổi này, xu
hƣớng thời trang là một trong những yếu tố mà nhiều khách hàng nữ theo đuổi. Mẫu nghiên cứu bao gồm 110 các giáo viên nữ trẻ trong độ tuổi từ 22 đến 35 tuổi của Đại học Thái Nguyên, trong đó số giảng viên nữ trẻ trong độ tuổi từ 25 – 30 chiếm tới 64%.
Lối sống
Kiểm định KMO và Bartlett‟s Test có giá trị Kaiser Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy có giá trị là 0.564, lớn hơn giá trị cho phép là 0,5, có nghĩa là các số liệu đem phân tích là có ý nghĩa.
Lối sống của cán bộ giáo viên nữ (sau đây gọi là ngƣời tiêu dùng nữ) đƣợc phân tích bằng phƣơng pháp Phân tích các yếu tố (factor analysis). Phân tích này cho kết quả ma trận gồm 6 nhóm. Để tiện phân tích, chúng tôi đặt tên cho mỗi nhóm yếu tố ngƣời tiêu dùng và
đặc điểm của từng nhóm khách hàng (phụ lục 1) đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Nhóm 1, nhóm khách hàng theo thời trang truyền thống. Chúng ta có thể thấy đây là những ngƣời quan tâm đến hình thức, thích sản phẩm rẻ tiền, lựa chọn quần áo phù hợp
với nơi mình sẽ đến, mua quần áo phù hợp với những quần áo mình đã có. Điểm đáng chú ý là họ có quan tâm tới khuynh hƣớng thời trang và cố gắng bắt kịp nó.
Nhóm 2: Những người tìm kiếm chất lượng và
nhãn hiệu. Đây là những ngƣời quan tâm tới
chất lƣợng hơn giá cả, có nhãn hiệu yêu
thích, tin tƣởng vào sản phẩm của các công
ty nổi tiếng với chất lƣợng tốt và không
mặc quần áo đã lỗi mốt.
Nhóm 3: Người đổi mới thời trang. Đây là những ngƣời thích những loại quần áo bắt mắt, phù hợp với thời cuộc, mua quần áo phù
hợp với các quần áo khác và họ là những ngƣời chú ý tới khuynh hƣớng thời trang và cố gắng bắt kịp nó.
Nhóm 4: Đây là một nhóm có sự biểu hiện không rõ và tƣơng tự nhƣ biểu hiện của nhóm khách hàng khác. Chúng tôi tạm gọi là nhóm
những người theo xu hướng thời trang. Họ là những ngƣời quan tâm tới sự phù hợp của quần áo đối với mình khi quyết định mua,là ngƣời chú ý tới khuynh hƣớng thời trang và cố gắng bắt kịp nó.
Nhóm 5: Những người quan tâm tới kinh tế.
Họ là những ngƣời chú ý đến giá cả, chứ không quan tâm đến chất lƣợng và thiết kế, có thể mua ở gần nhà cho dù có đắt hơn một chút và thƣờng lựa chọn các cửa hàng hay nhãn hiệu đã quen biết trƣớc đây để mua.
Nhóm 6: Đây là một nhóm có sự biểu hiện
không rõ và tƣơng tự nhƣ biểu hiện của nhóm khách hàng khác. Chúng tôi tạm gọi là nhóm những khách hàng thực tế. Họ quan tâm đến tính thiết thực của quần áo và tìm mua ở nhiều của hàng khác nhau, miễn là tìm mua đƣợc quần áo rẻ.
Để xác định số các trƣờng hợp trong từng nhóm trên chiếm bao nhiêu trong tổng số mẫu nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp phân tích quick cluster. Kết quả phân tích ANOVA cho thấy nhóm 1 có 3 trƣờng hợp (2,7%), nhóm 2 có 8 trƣờng hợp (7,3%),
nhóm 3 có 1 trƣờng hợp (0,9%), nhóm 4 có 30 trƣờng (27,3%), nhóm 5 có 42 trƣờng hợp (38,2) và nhóm 6 có 26 trƣờng hợp (23,6%).
Kết quả nghiên cứu giá trị của F và mức ý
nghĩa của F <0.05 (xem Phụ lục 2 ANOVA)
cho thấy có đủ cơ sở để bác bỏ giả thuyết
không có sự khác nhau về phong cách sống
giữa các giảng viên nữ trẻ của ĐHTN và chấp
nhận giả thuyết thứ nhất (H1) là có sự khác
nhau về phong cách sống giữa các nữ giảng
viên này.
Hành vi mua quần áo thời trang của ngƣời
tiêu dùng nữ
* Phần thông tin chung:
Chúng tôi quan tâm tâm tìm hiểu loại quần áo mà những ngƣời đƣợc phỏng vấn thích mặc.
Nguyễn Thị Gấm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 139 - 144
141
Có tới 60.9% số ngƣời trả lời là thích mặc quần áo hợp với mình, 33,6% thích mặc quần áo thuận tiện và thoải mái. Chỉ có 5% thích đồ mốt thời trang. Không ai trong số ngƣời trả lời thích mặc quần áo truyền thống. Điều này có hoàn toàn đúng với nghiên cứu này khi đối tƣợng nghiên cứu là những khách hàng nữ, trẻ tuổi, những ngƣời thƣờng có xu hƣớng theo đuổi những thời trang tân tiến.
Liên quan tới hình ảnh về quần áo thời trang mà đối tƣợng đƣợc nghiên cứu theo đuổi, chúng tôi thấy tới 58,2% số ngƣời đƣợc trả lời mong muốn trang phục mình mặc thể hiện đƣợc sự thanh lịch, tao nhã cũng nhƣ hình ảnh nữ tính (19,1%) của chủ nhân. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với đối tƣợng nghiên cứu là những ngƣời trẻ tuổi, cần thể hiện sự thanh lịch, tao nhã của mình đối những ngƣời xung quanh, cũng nhƣ khi đứng trên bục giảng. Điều đáng ngạc nhiên là chỉ có 8,2% mong muốn hình ảnh thể thao và 5,5% muốn quần áo thể hiện hình ảnh trí thức.
* Hành vi mua quần áo thời trang:
Chúng tôi đi sâu tìm hiểu nguồn thông tin
chính về thời trang của đối tƣợng nghiên cứu.
Hầu hết các nữ giảng viên trẻ đều có đƣợc
thông tin về thời trang từ bạn bè đồng niên
của mình. Nguồn thông tin này chiếm tới
36,4% số ngƣời đƣợc hỏi, từ tivi 11,8% và
từ tạp chí phụ nữ 10,9%. Còn các nguồn
thông tin khác nhƣ nhân viên bán hàng,
internet,… đều phân bố đều trong khoảng
dƣới 10%.
Một câu hỏi đặt ra tại sao họ mua quần áo mới? Câu trả lời là tôi mua nó để thay đổi theo mùa và vì tôi thích nó chiếm tới 56,4 % số ngƣời đƣợc trả lời. 15,5% số ngƣời đƣợc hỏi cho rằng họ mua quần áo đó vì nghĩ rằng nó sẽ phù hợp với quần áo khác và 14,5% mua quần áo để có sự đa dạng trong tủ quần áo. Cũng rất ít ngƣời nói họ mua vì họ hết quần áo. Chỉ có 1,8 % ngƣời trả lời mua sản phẩm đó vì nó theo gu thẩm mỹ của mình hay vì muốn tạo ra sự mới mẻ và tự tin hơn.
Chúng tôi quan tâm tới việc nghiên cứu ngƣời tiêu dùng nữ đánh giá yếu tố nào là quan trọng nhất khi mua quần áo. Kết quả nghiên cứu cho thấy 56.4% ngƣời đƣợc hỏi trả lời họ đánh giá tính hợp thời trang và lịch sự của quần áo. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc thù nghề nhà giáo là cần có thời trang lịch sự, song đảm bảo hợp thời trang và hợp với thời cuộc. Con số này cũng nói lên rằng, hầu hết các giảng viên nữ trẻ trong đại học đều quan tâm đến xu hƣớng thời trang trong trang phục của mình. Tính thiết thực, kiểu cách, chất liệu và sự thoái mái là những yếu tố đi sau khi đánh giá về thời trang. Đặc biệt là rất ít ngƣời quan tâm đến nhãn hiệu (1,8%). Điều này có thể đƣợc giải thích là do tính chất nghề nghiệp, nên mối tâm lớn dành cho việc mua những quần áo đảm bảo tính lịch sự và hợp thời trang. Bên cạnh đó, do độ tuổi của đối tƣợng nghiên cứu là những nữ giảng viên trẻ, những ngƣời ƣa thích thời trang, thích thay đổi nên vấn đề về nhãn hiệu yêu thích không phải là mối quan tâm của họ.
Bảng 1. Lý do mua quần áo
Tại sao bạn mua quần áo
Tần suất %
Để có sự đa dạng trong tủ quần áo 16 14,.5
Thay đổi theo mùa 31 28,2
Bởi tôi thích quần áo đó 31 28,2
Để thay đổi tâm trạng 3 2,7
Bởi tôi chẳng có gì để mặc 6 5,5
Bởi trong tủ quần áo không còn cái
nào phù hợp 3 2,7
Toi mua nó vì mọi ngƣời nói với tôi
rằng tôi cần mua quần áo 1 0,9
Tôi mua nó bởi tôi nghĩ rằng nó sẽ phù
hợp với quần áo khác của tôi 17 15,5
Khác 2 1,8
Tổng số 110 100,0 Tai sao ban mua quan ao
KhacToi mua boi nghi rang no se phu
hop voi quan ao khac cua
toi
Toi mua quan ao khi moi
nguoi noi voi toi rang
toi can mua quan
ao
Boi trong tu quan ao khong con
cai nao phu hop
Boi toi chang con gi de mac
De thay doi tam trang
Boi toi thich quan
ao do
Thay doi theo mua
De co su da dang trong tu quan ao
Percen
t
30
20
10
0
Tai sao ban mua quan ao
Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả
Nguyễn Thị Gấm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 139 - 144
142
Bảng 2. Những yếu tố đánh giá khi mua thời trang
Đánh giá yếu tố quan trọng nhất
khi mua quần áo
Tần
số %
Hợp thời trang, lịch
sự 62 56,4
Tính thiết thực 18 16,4
Thuận tiện 5 4,5
Kích cỡ 2 1,8
Chất liệu 10 9,1
Nhãn hiệu 2 1,8
Kiểu cách 9 8,2
Giá cả 2 1,8
Tổng số 110 100,0
Ban thuong danh gia yeu to nao nhat khi mua quan ao
Gia caKieu cachNhan hieuChat lieuKich coThuan tienTinh thiet thuc
Hop thoi trang, lich
su
Per
cen
t
60
50
40
30
20
10
0
Ban thuong danh gia yeu to nao nhat khi mua quan ao
Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả
Có thể nói xu hƣớng mua sắm hiện đại đã
đƣợc phát triển trong giới tiêu dùng đối với
mặt hàng quần áo thời trang. Các siêu thị và
cửa hàng thời trang là địa điểm mua sắm
chính của phần lớn số ngƣời đƣợc điều tra
(65%). Số ít còn lại là mua ở các cửa hàng
quần áo nhỏ (9,1%), chợ (9,1) hay nhà may
(11,8%), nơi mà trƣớc đây vẫn đƣợc coi là
những địa điểm mua truyền thống của những
ngƣời tiêu dùng nữ khi mua quần áo. Điểm
đáng chú ý ở đây là các nữ giảng viên trẻ,
những ngƣời thích tính lịch sự và hợp thời
trang, lại không quan tâm nhiều đến việc mua
quần áo tại các cửa hàng giảm giá (1,8%), khi
mà các quần áo đó phần lớn đều là những
mốt đã cũ hay không còn hợp thời nữa. Kết
quả nghiên cứu còn cho thấy phƣơng thức bán
hàng qua mạng đối với những nữ giảng viên
trẻ chƣa phải là cách tiếp cận phù hợp (chỉ có
0.9% mua hàng qua mạng).
Các nữ giảng viên trẻ chính là những ngƣời
cuối cùng ra quyết định lựa chọn quần áo
thời trang cho mình. Tỷ lệ này chiếm tới
84,5%. Chỉ có 9,1% là do ngƣời yêu, bạn
trai hay chồng quyết định. Ảnh hƣởng của
gia đình tới quyết định mua của họ không
phải là lớn, chỉ có 2,7% số ngƣời lựa chọn
câu trả lời này.
Điều gì ảnh hƣởng tới quyết định mua của
những nữ giảng viên trẻ nhiều nhất khi họ đến
các cửa hàng mua quần áo. Chính việc mua
quần áo để mặc có ảnh hƣởng lớn nhất đến
quyết định mua của họ (60,9%). Chỉ trên
10% chịu ảnh hƣởng từ bạn bè và 9.1% từ
cách sắp xếp của cửa hàng. Ngoài ra, giới
thiệu của nhân viên (6,4%) và có một số yếu
tố khác (4,5%) nhƣ tiền có ảnh hƣởng tới
quyết định mua của họ.
Từ kết quả phân tích trên, chúng tôi có thể kết
luận giảng viên nữ Đại học Thái Nguyên đánh
giá cao tính hợp thời trang, lịch sự, tao nhã và
phù hợp với bản thân hơn là các yếu tố và
chất lƣợng và giá cả. Điều này do đặc thù
tính chất của công việc, nên việc đánh giá trên
là hoàn toàn phù hợp.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết quả nghiên cứu 110 nữ giảng viên trẻ trong độ tuổi từ 22 đến 35 cho thấy có sự khác nhau về phong cách sống giữa các nữ giảng viên trẻ của Đại học Thái Nguyên. Phƣơng pháp phân tích yếu tố cho ra 6 nhóm khách hàng khác nhau. Trong đó, nhóm những ngƣời thực tế (nhóm 6, chiếm 23,6%) và nhóm ngƣời tâm đến vấn đề kinh tế (nhóm 5 – 38,2%) và nhóm những ngƣời theo xu hƣớng thời trang (nhóm 4- 27,3%) chiếm tới 94% số mẫu nghiên cứu. Chỉ có 1 trƣờng hợp (chiếm 0,9%) là ngƣời đi đầu trong việc đổi mới thời trang (nhóm 3), 8 trƣờng hợp (chiếm 7,3%) là những ngƣời luôn quan tâm đến nhãn hiệu quần áo khi mua (nhóm 2) và có 3 trƣờng hợp (chiếm 2,7%) là ngƣời theo tƣ tƣởng truyền thống trong thời trang (nhóm 1).
Nguyễn Thị Gấm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 139 - 144
143
Giả thuyết thứ hai cũng đƣợc chứng minh qua
kết quả nghiên cứu giảng viên nữ thuộc Đại
học Thái Nguyên đánh giá cao tính hợp thời
trang, lịch sự, tao nhã và phù hợp với bản
thân hơn là các yếu tố và chất lƣợng và giá cả.
Từ nghiên cứu trên chúng tôi có một số đề xuất sau: 1. Do nhóm khách hàng là giảng viên nữ đƣợc phân chia thành nhiều nhóm đối tƣợng khác nhau ( 6 nhóm) với những đặc điểm khác nhau, khi sản xuất hay kinh doanh cần chú ý tới các đặc tính riêng biệt đó để có đƣợc các chiến lƣợc kinh doanh phù hợp với từng đối tƣợng. Cụ thể là, nhóm đối tƣợng khách hàng quan tâm đến kinh tế, những ngƣời theo xu hƣớng thời trang và nhóm những ngƣời thực tế là các nhóm chiếm số đông thì việc đƣa ra các sản phẩm nên có giá phải chăng song đảm bảo tính hợp thời trang, những nhãn hiệu quen biết là yếu tố quan trọng để có thể dẫn đến quyết định mua của ngƣời tiêu dùng. 2. Sự phù hợp của quần áo đối với chủ nhân và quần áo phải thể hiện đƣợc hình ảnh thanh lịch và tao nhã, nên việc thiết kết cũng nhƣ kinh doanh các mặt hàng quần áo, cần chú ý tới các đặc điểm trên để có đƣợc những thiết kế phù hợp với hình ảnh của một nữ giảng viên trẻ. 3. Việc đƣa sản phẩm thời trang tới ngƣời tiêu dùng nên sử dụng kênh phân phối qua các siêu thị và shop thời trang.
Hạn chế: Đề tài nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu đối tƣợng nữ giảng viên trẻ thuộc ĐHTN với 110 mẫu. Với số mẫu trên chƣa thực sự đủ đại diện cho toàn bộ giảng viên đại học nói chung, cũng nhƣ ngƣời tiêu dùng nữ ở độ tuổi 22-35 nói chung. Vì vậy, kết quả
nghiên cứu chỉ có thể áp dụng trong giới hạn nữ giáo viên trẻ của Đại học. Để hiểu sâu hơn về hành vi mua thời trang của ngƣời tiêu dùng nữ trên địa bàn Thái Nguyên nói riêng và các khu vực khác nói chung thì cần có nghiên cứu chuyên sâu hơn và với số mẫu nghiên cứu lớn hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Anderson WT and Golden LL (1984). Life
style and psygraphics: a critical view and
recommendation. Advances in Consumer
Research, vol 11, 1984.
[2].David L Loudon, Albert J Della Bitta (1993).
Consumer behavior, 4th
edition, McGraw – Hill
International editions, New York 1993.
[3].Hirschman EC and Holbrook MB (1982).
Hedonic cunsumption:emerging concepts,
methods and propositions. Journal of Marketing,
vol 46, 1982, trang 92-101.
[4].Khi Tchan Lan (2000). Female cconsumers’s
lifestyle and patterns of buying behavior of
fashiion clothing in Russian. MS thesis, 2000
[5].Philip Kotler (2008). Principles of Marketing.
Prentice Hall.
[6].Shifman và cộng sự (2003). Consumer
Behavior.
[7].Sproles G.B (1974). Fashion Theory.
Advances in Consumer Research, vol 1, 1974,
trang 463-472
[8].Tatzel M. (1982). Skill and motivation in
clothes shopping: fashion-conscious, independent,
anxious and apathetic consumers. Journal of
retailing. Vol 58, No4, 1982. trang 90-97.
[9].Tiger D.J and et all (1976). Fashin
involvement and buying behavior: a
methodological study. Advances in Consumer
Research, vol 3, 1976
SUMMARY
LIFESTYLE OF YOUNG FEMALE LECTURERS OF
THAI NGUYEN UNIVERSITY TOWARDS FASHION CLOTHING Nguyen Thi Gam
*
Thai Nguyen University of Economics anh Business Administration - TNU A study on “Lifestyle of young female lecturers of Thai Nguyen University towards fashion
clothing” is conducted in order to identify the segments of fashion clothing of Thai Nguyen
University‟s young female lecturers to provide useful information for manufacturers and traders of
fashion products in Thai Nguyen City. The research findings showed that there are several distinct
lifestyle types among young female lecturers of the university. They value fashinableness,
elegance and clothes “that look good on me” than quality and price. Baed on these findings, some
recommendations were forwarded.
* Tel: 0912805980; email: [email protected]
Nguyễn Thị Gấm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 139 - 144
144
Phụ lục 1. Đặc điểm của các nhóm khách hàng
Nhóm khách hàng Đặc điểm Factor’s
loadings
Nhóm 1:
Ngƣời theo thời
trang truyền thống
Dù có làm gì đi chăng nữa, tôi luôn quan tâm đến hình thức của mình .745
Tôi thích loại sản phẩm rẻ tiền -.692
Khi ra ngoài tôi luôn chọn quần áo phù hợp với nơi tôi đến .671
Tôi thƣờng mua quần áo phù hợp với quần áo khác của tôi .449
Tôi chú ý tới khuynh hƣớng thời trang và cố gắng bắt kịp nó .442
Nhóm 2: Ngƣời
tìm kiếm chất
lƣợng và nhãn
hiệu
Tôi nghĩ rằng chất lƣợng quan trọng hơn giá cả .730
Tôi không mặc quần áo đã lỗi mốt .726
Tôi có nhãn hiệu quần áo yêu thích .513
Tin những công ty nổi tiếng sẽ sản xuất sản phẩm có chất lƣợng tốt .388
Nhóm 3:
Ngƣời đổi mới thời
trang
Tôi thích mặc loại quần áo “bắt mắt” .756
Tôi có nhãn hiệu yêu thích .538
Tôi thƣờng mua quần áo phù hợp với quần áo khác của tôi .484
Tôi chú ý tới khuynh hƣớng thời trang và cố gắng bắt kịp nó .374
Nhóm 4: Ngƣời
theo xu hƣớng thời
trang
Khi mua tôi luôn xem xét quần áo đó có phù hợp với tôi không .740
Tin những công ty nổi tiếng sẽ sản xuất sản phẩm có chất lƣợng tốt .652
Tôi chú ý tới khuynh hƣớng thời trang và cố gắng bắt kịp nó -.437
Nhóm 6:
Ngƣời quan tâm
đến kinh tế
Tôi quan tâm tới giá hơn chất lƣợng và thiết kế sản phẩm -.751
Tôi thích mua sắm ở cửa hàng gần nhà nhất, dù đắt hơn một chút .701
Tôi thƣờng lựa chọn những nhãn hiệu quen biết đã mua trƣớc đây .503
Nhóm 6:
Những ngƣời thực
tế
Tính thiết thực của quần áo quan trọng hơn màu sắc và thiết kế .826
Tôi mua quần áo ở nhiều cửa hàng khác nhau và tìm mua loại quần
áo rẻ .678
Phụ lục 2. Kết quả phân tích ANOVA
Cluster Error
F Sig. Mean Square df Mean Square df
Nhóm 1 11.366 5 .502 104 22.657 .000
Nhóm 2 11.471 5 .497 104 23.098 .000
Nhóm 3 8.398 5 .644 104 13.033 .000
Nhóm 4 3.088 5 .900 104 3.432 .007
Nhóm 5 12.418 5 .451 104 27.531 .000
Nhóm 6 4.398 5 .837 104 5.256 .000
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
145
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NĂNG LƢỢNG
TÁI TẠO CHO PHÁT ĐIỆN Ở VIỆT NAM
Phạm Thị Thanh Mai
*
Trường ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Năng lƣợng là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với tăng trƣởng kinh tế, nhu cầu sử dụng
năng lƣợng cho sản xuất và đời sống ngày một tăng cao, trong khi nguồn năng lƣợng hoá thạch
ngày một khan hiếm, việc tiêu thụ năng lƣợng này đang gây ra ô nhiễm môi trƣờng nghiêm trọng.
Việt Nam có tiềm năng to lớn về NLTT, phát triển NLTT là góp phần giảm tiêu thụ than, dầu, khí
đồng thời giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên đây là nội dung còn mới nên khi triển khai Việt
Nam còn gặp nhiều khó khăn, rào cản. Bài báo này sẽ trình bày về tình hình sản xuất, sử dụng và
dự báo nhu cầu tiêu thụ điện ở Việt Nam đến năm 2030; Thực trạng khai thác và tiềm năng nguồn
NLTT cho phát điện ở Việt Nam; Những khó khăn thách thức trong triển khai nghiên cứu ứng dụng
NLTT; Định hƣớng và một số giải pháp đẩy mạnh phát triển NLTT cho phát điện ở Việt Nam.
Từ khóa: Năng lượng, tái tạo, phát điện, phát triển, bền vững
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Năng lƣợng (NL) là động lực phát triển kinh
tế - xã hội. Cùng với tăng trƣởng kinh tế, nhu
cầu sử dụng năng lƣợng cho sản xuất và đời
sống ngày một tăng cao, trong khi nguồn
năng lƣợng hoá thạch ngày một khan hiếm,
giá cả đắt đỏ. Mặt khác sức ép về môi trƣờng
ngày càng tăng. Vấn đề đảm bảo nhu cầu
năng lƣợng an ninh và bền vững là những
thách thức có tính thời đại. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quy luật chung đó. Để giảm
bớt khó khăn về nguồn năng lƣợng và giảm
thiểu ảnh hƣởng xấu tới môi trƣờng; việc phát
triển và sử dụng các nguồn năng lƣợng tái tạo
(NLTT) đã trở thành chiến lƣợc của hầu hết
các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là nƣớc đƣợc đánh giá có nguồn tài
nguyên năng lƣợng tái tạo phong phú và đa
dạng nhƣ: Thuỷ điện nhỏ, sinh khối, năng
lƣợng gió, mặt trời, địa nhiệt... có thể đƣợc
khai thác sử dụng cho các nhu cầu năng
lƣợng, đặc biệt là cung cấp điện cho các khu
vực ở xa lƣới điện. Tuy nhiên cho tới nay
Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn, thách
thức trong việc chuyển đổi nguồn năng lƣợng
dồi dào này thành điện năng sử dụng. Hiện
nay chúng ta chỉ mới khai thác và sử dụng
đƣợc một phần rất nhỏ của tiềm năng, theo số
* Tel: 0912804979; Email: [email protected]
liệu thống kê chƣa đầy đủ, lƣợng năng lƣợng
sử dụng đƣợc chỉ khoảng 1,5 - 1,8% tiềm
năng của NLTT [4], mặt khác giá thành cao,
tính ổn định thấp. Vì thế, hỗ trợ phát triển
NLTT đang là vấn đề đƣợc quan tâm trong
chiến lƣợc phát triển năng lƣợng ở Việt Nam.
Trên cơ sở những tài liệu, thông tin đã công bố về tình hình sử dụng điện năng, dự báo nhu cầu năng lƣợng điện, tiềm năng và hiện trạng khai thác, sử dụng nguồn NLTT bài báo đƣa ra một số định hƣớng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển NLTT cho phát điện ở Việt Nam.
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN
NĂNG LƢỢNG TÁI TẠO CHO PHÁT
ĐIỆN Ở VIỆT NAM
Các hệ thống điện hiện tại ở Việt Nam bao gồm nhà máy nhiệt điện khí trên (39%), các nhà máy thủy điện (37%), và than đốt nhiệt. Việc truyền tải và phân phối điện năng tại Việt Nam vẫn còn tổn hao lớn ngay cả khi nó đã đƣợc giảm mạnh từ 22% năm 1995 xuống 12% năm 2005. Điện lực Việt Nam đã phát triển một kế hoạch để giảm tổn thất truyền tải và phân phối đến dƣới 8% vào năm 2025 [2], [3] Sự phát triển của ngành năng lƣợng điện tại Việt Nam đƣợc quản lý bằng cách sử dụng Quy hoạch phát triển, trong đó ƣớc tính nhu cầu và kế hoạch phát triển chung của ngành điện trong thời gian 10 năm, tính đến 10 năm tiếp theo.
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
146
Hiện trạng và dự báo nhu cầu năng lƣợng điện ở Việt Nam
Hình 1. Bản đồ phân bố các nguồn điện ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 [5]
Nhu cầu tiêu thụ điện (TWh) tại kịch bản cao
Nhu cầu tiêu thụ điện (TWh) tại kịch bản thấp
Nhu cầu tiêu thụ điện (TWh) tại kịch bản trung bình
Nhu cầu tải cao điểm (GW) tại kịch bản trung bình
Nhu cầu tải cao điểm (GW) tại kịch bản cao
Nhu cầu tải cao điểm (GW) tại kịch bản thấp
Hình 2. Hiện trạng và dự báo nhu cầu năng lƣợng điện tại Việt Nam 1995 – 2030 [1]
Nhà máy than
hiện có
Nhà máy than
dự kiến
Nhà máy thủy
điện hiện có
Nhà máy thủy
điện dự kiến
Nhà máy dầu
khí hiện có
Nhà máy dầu
khí dự kiến
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
147
Năm 1990, khi Chính phủ Việt Nam phát
động một cuộc cải cách toàn diện, cải cách
này đã giúp cải thiện điều kiện sống của nhân
dân và đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế quốc gia. Giá trị sản xuất trong nƣớc
(GDP) tại Việt Nam đã tăng trƣởng nhanh
chóng 8,2% năm trong thời gian 1991-1995.
Sự tăng trƣởng kinh tế mạnh lý do chính là
nhu cầu điện đã tăng 13,5% so với cùng kỳ.
Nhu cầu đó đã tăng trƣởng nhanh hơn, tăng
14%, trong giai đoạn 1995-2005, cùng với
phát triển kinh tế. Tổng sơ đồ quy hoạch phát
triển điện VI đã xây dựng dựa trên kịch bản
sự phát triển của thành phần kinh tế khu vực
và phân tích, so sánh bằng cách sử dụng ba
phƣơng pháp dự báo của nhiều đàn hồi, hồi
quy và cƣờng độ. Theo kế hoạch này, nhu cầu
điện dự kiến sẽ tăng 15%/năm trong bối cảnh
nhu cầu thấp và 18%/năm trong kịch bản cao
nhu cầu trong giai đoạn 2010-2030. [1]
Tiềm năng nguồn năng lƣợng tái tạo ở Việt Nam
Loại nguồn
Tiềm năng
(ĐV tự
nhiên)
Tiềm năng
(Quy
KTOE)
Khả năng khai thác
SX điện (MW) Khu vực/đối tƣợng sử
dụng
1. Thủy điện nhỏ > 4000 MW > 1376
+ Kỹ thuật: >4000
+ Kinh tế: 2200
+ Muốn khai thác hơn
cần hỗ trợ giá
Khu vực miền núi: Đông
Bắc; Tây Bắc, Bắc Trung
bộ; Nam Trung Bộ; Tây
Nguyên. Cho nối lƣới và
lƣới điện mini
2. Gió
+ WB: >8700
-100000 MW
+ EVN: 1785
MW
Chƣa xác
định
+ Kinh tế: không kinh
tế ở giá bán hiện nay.
Cần hỗ trợ
+ Miền trung, tây nguyên,
các đảo
+ Các khu vực ven biển
và nơi có gió địa hình
khác
3. Mặt trời 4-5
kWh/m2/ngày
> 40000000 > 15 MW cho khu
vực ngoài lƣới
+ Nhiệt mặt trời: Tất cả
các khu vực dân cƣ
+ Điện mặt trời: Khu vực
dân cƣ ngoài lƣới
4. Sinh khối
+Gỗ củi
27,60
triệu tấn 9 660
Cho hộ gia đình, Tiểu thủ
công nghiệp các tỉnh
+ Phụ phẩm nông
nghiệp
72,37 triệu
tấn 21 711
+ Trấu: 197-225
+ Bã mía: 221-276
Trấu: Khu vực Đồng bằng
sông Mê Kông
Bã mía: Khu vực chế biến
đƣờng
5. NL sinh học
+Khí sinh khối >570 triệu m
3 285 58
+ Hộ gia đình nông thôn
+ Trang trại, Khu chế biến
+Nhiên liệu sinh
học
Chƣa xác
định Chƣa xác định
+ Giao thông vận tải
+ Sản xuất điện
6. Địa nhiệt 300- 400
MW 250
+ Hiện tại giá không
kinh tế . Cần hỗ trợ
Khu vực miền Trung, Tây
Bắc
7. Thủy triều > 100 MW Chƣa xác
định Chƣa xác định Các tỉnh duyên hải
8. Rác thải sinh
hoạt
10,54 triệu
tấn 1 581 222 Các khu đô thị
Nguồn: Báo cáo Chiến lược, Quy hoạch NLTT, BCT, 2008
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
148
Thực trạng khai thác nguồn năng lƣợng tái
tạo ở Việt Nam
a. Khai thác các nguồn NLTT để sản xuất điện
Hiện tại, có 5 loại NLTT đã đƣợc khai thác để
sản xuất điện, theo thống kê chƣa đầy đủ tổng
công suất lắp đặt khoảng 1260MW. Các
nguồn NLTT đang đƣợc khai thác là thuỷ
điện nhỏ (1100MW), sinh khối (150MW), rác
thải sinh hoạt (2,4MW), mặt trời (1,25MW)
và gió (1,2MW nhƣng chƣa hoạt động đƣợc).
Chi phí đầu tƣ cho sản xuất điện từ NLTT
hiện nay còn cao, nhất là đối với điện gió và
điện mặt trời.
- Thủy điện nhỏ (1500-2500) USD/kW tuỳ
theo vùng.
- Pin mặt trời (10.000- 11.000) USD/kWP.
- Điện gió (2500-3500) USD/kW.
Tổng sản lƣợng điện sản xuất từ các nguồn
NLTT trên mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ,
khoảng 1,8% tổng nhu cầu điện (năm 2005).
Trong đó, mới chỉ có 3 loại NLTT sản xuất
điện bán lên lƣới điện là thuỷ điện nhỏ (trên
100MW), sinh khối (bã mía 30MW), và rác thải
sinh hoạt (2,4MW). Giá mua điện hiện nay từ
các dự án điện tái tạo khoảng 4USCents/kWh là
không hấp dẫn các nhà đầu tƣ.
Ngoài ra, NLTT có thể khai thác và sử dụng
hiệu quả cho các khu vực dân cƣ xa lƣới điện
quốc gia. Hiện tại vẫn còn gần 500 xã phần
lớn nằm ở các vùng nông thôn miền núi và
hải đảo, chƣa có điện, trong đó có tới 200 xã
lƣới điện quốc gia không thể kéo tới đƣợc do
hiệu quả kinh tế quá thấp. Chƣơng trình điện
khí hoá nông thôn đã đặt mục tiêu đạt 90% số
hộ có điện vào 2010 và 100% số hộ có điện
vào 2020, trong đó khuyến khích sử dụng các
nguồn NLTT để cung cấp điện cho các vùng
lƣới điện quốc gia không thể kéo đến.
Có hai hình thức cung cấp điện từ NLTT cho
các khu vực ngoài lƣới đang đƣợc khai thác:
lƣới điện độc lập quy mô nhỏ; cung cấp điện
cho hộ gia đình riêng rẽ.
Theo kết quả điều tra, hiện có khoảng 50
nghìn hộ dân đang sử dụng điện từ các
nguồn thủy điện nhỏ, cực nhỏ, pin mặt trời,
gió, biogas.
b. Khai thác NLTT để cấp nhiệt và nhiên liệu
+ Củi gỗ và các phế thải nông - lâm nghiệp:
Đây là một nguồn NL khá quan trọng ở khu
vực nông thôn. Hiện có gần 70% dân số nông
thôn đang sử dụng các dạng nhiên liệu này để
đáp ứng nhu cầu nhiệt. Ngoài ra chúng cũng
đƣợc sử dụng làm nhiên liệu trong một số
ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp địa
phƣơng nhƣ sản xuất vật liệu xây dựng, chế
biến lƣơng thực-thực phẩm. Tổng tiêu thụ củi
gỗ và các phế thải nông - lâm nghiệp cho các
mục đích sử dụng nhiệt khoảng 13,5 triệu
TOE (tấn dầu tƣơng đƣơng), chiếm khoảng
38% tổng tiêu thụ NL cuối cùng của Quốc gia
(năm 2005).
+ Khai thác và sử dụng Khí sinh học
(KSH): Công nghệ KSH hiện đang đƣợc phát
triển và ứng dụng mạnh mẽ ở khu vực nông
thôn (hộ gia đình và quy mô trang trại). KSH
đang đƣợc sử dụng để đun nấu, thắp sáng và
gần đây chạy máy phát điện. Hiện cả nƣớc đã
xây dựng đƣợc hơn 80.000 công trình KSH
các loại. NL tạo ra hàng năm từ nguồn này
ƣớc đạt khoảng 50 nghìn TOE/năm.
+ Sử dụng NL mặt trời đun nƣớc nóng:
Các thiết bị đun nƣớc nóng mặt trời đƣợc chế
tạo trong nƣớc hoặc nhập khẩu đang đƣợc sử
dụng ngày càng phổ biến chủ yếu ở khu vực
thành thị. Năm 2005, cả nƣớc mới lắp đặt
4000m2 (2700 thiết bị), tỷ lệ giữa số thiết bị
với số hộ thành thị chỉ đạt 0,35%. Nhƣng
trong năm 2007, cả nƣớc đã lắp đặt đƣợc
khoảng trên 48000m2 (20000 thiết bị), đạt tỷ
lệ là 0,65%.Hiện cả nƣớc có khoảng 60 nhà
cung cấp thiết bị đun nƣớc nóng mặt trời. Đun
nƣớc nóng bằng NL mặt trời với mục đích là
tiết kiệm điện. Nhu cầu lắp đặt thiết bị này sẽ
tăng mạnh trong thời gian tới.
+ Sử dụng nhiên liệu sinh học (NhLSH):
Ngày 20/11/2007 Thủ tƣớng Chính phủ ký
Quyết định 177/2007/QĐ-TTg về việc phê
duyệt "Đề án phát triển nhiên liệu sinh học
(NLSH)". Hiện nay, trong nƣớc đang hình
thành 6 dự án sản xuất cồn nhiên liệu
(ethanol), trung bình mỗi dự án có công suất
khoảng 100 triệu lít/năm. (Một dự án dự kiến
sẽ đi vào sản xuất trong năm 2009–2010, một
dự án mới khởi công 6-2009) sẽ cung cấp một
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
149
lƣợng ethanol khá lớn có khả năng đảm bảo
xăng E5 (xăng pha 5% ethanol) cho nhu cầu
trong nƣớc. Tuy nhiên, để sử dụng chúng một
cách an toàn và bền vững cần có các tiêu
chuẩn về chất lƣợng. Mặt khác sản xuất
ethanol đại trà cần đƣợc quy hoạch đất đai và
cây trồng tránh tình trạng thiếu hụt nguyên
liệu và ảnh hƣởng tới lƣơng thực.
c. Những khó khăn thách thức trong triển
khai nghiên cứu ứng dụng NLTT ở Việt Nam
Việc nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển
năng lƣợng tái tạo ở VN đã đƣợc triển khai
khoảng 30 năm nhƣng kết quả còn rất hạn
chế. Có thể tóm tắt nhƣ sau :
- Phát triển có kết quả các động cơ gió phát
điện và bơm nƣớc ở công suất dƣới 1 kW
- Sản xuất các dàn đun nƣớc nóng dùng năng
lƣợng mặt trời,
- Lắp đặt các dàn pin mặt trời công suất nhỏ.
- Sản xuất và lắp đặt các trạm thủy điện nhỏ.
- Sản xuất các loại bếp đun ( than, củi,
rơm…) hiệu suất cao.
- Phát triển hơn 50 ngàn công trình biogas
quy mô gia đình và một số công trình quy mô
trang trại.
Tuy nhiên do không có cơ quan quản lý theo
dõi chuyên về năng lƣợng tái tạo nên không
có số liệu thống kê và đánh giá đầy đủ về tình
hình phát triển năng lƣợng tái tạo ở nƣớc ta.
Trong quá trình triển khai nghiên cứu ứng
dụng NLTT ở Việt Nam, thể hiện những khó
khăn thách thức chủ yếu nhƣ sau:
+ Thiếu khung thể chế, chính sách và các qui
định để khuyến khích phát triển, sử dụng;
+ Thiếu nghiên cứu điều tra cơ bản do đó
thiếu nguồn số liệu tin cậy cho quy hoạch và
phát triển các dự án;
+ Chi phí đầu tƣ cao đặc biệt đối với sản xuất
điện từ các nguồn NLTT cao hơn nhiều so với
các nguồn điện cổ điển, nên không hấp dẫn
các nhà đầu tƣ;
+ Một số vấn đề kỹ thuật và dịch vụ khác:
. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay cho
phát triển NLTT còn hạn chế
. Thiếu công nghệ và các kỹ năng thực hiện
các dự án điện NLTT
. Thiếu dịch vụ cung cấp công nghệ trong
nƣớc và các dịch vụ sau lắp đặt.
. Thiếu các tiêu chuẩn kỹ thuật cho các thiết
bị NLTT.
. Thiếu nguồn số liệu tin cậy về tiềm năng
NLTT
+ Nhận thức về tổ chức và phát triển NLTT
còn hạn chế.
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY
MẠNH PHÁT TRIỂN NLTT CHO PHÁT
ĐIỆN Ở VIỆT NAM
Định hƣớng phát triển năng lƣợng tái tạo
cho phát điện ở Việt Nam
Việc định hƣớng phát triển năng lƣợng tái tạo
ở nƣớc ta cần dựa vào các yếu tố sau :
a. Đặc thù khí hậu và sản xuất ở toàn lãnh
thổ và từng vùng miền
Đặc thù khí hậu ở nƣớc ta là khí hậu nhiệt đới
ẩm, nhờ vậy mà có tốc độ tăng trƣởng sinh
khối cao, đồng nghĩa với tiềm năng năng
lƣợng sinh khối rất lớn. Theo số liệu thống kê
năm 2004, tổng năng lƣợng sơ cấp tiêu thụ
trong nƣớc là 28,8 triệu TOE (dầu 38,3%,
than 26,8%, thuỷ điện 20,2%, khí đốt 14,7%).
Tổng tiêu thụ năng lƣọng phi thƣơng mại (củi
gỗ, than gỗ, phụ phẩm nông nghiệp nhƣ trấu ,
bã mía…) cũng tức là năng lƣợng sinh khối là
14,82 triệu TOE. Nhƣ vậy năng lƣợng sinh
khối sinh khối chiếm khoảng 33% tổng tiêu
thụ năng lƣợng trong nƣớc. Tuy nhiên năng
lƣợng sinh khối hiện nay vẫn trong tình trạng
thả nổi, để mặc cho dân tự lo.
Trấu là nguồn năng lƣợng sinh khối đang bỏ
phí, nhiều nơi đốt bỏ đi hoặc đổ xuống sông,
gây ô nhiễm. Trấu chiếm trên 20% trọng
lƣợng của thóc. Với sản lƣợng thóc hiện nay,
mỗi năm có gần 10 triệu tấn trấu. Cứ 2,7 kg
trấu cho 1kWh điện. Chỉ cần tận dụng trên nửa
lƣợng trấu hàng năm đƣa vào phát điện, mỗi
năm sản xuất đƣợc khoảng 2 tỷ kWh điện.
Khí sinh học cũng đƣợc coi là nguồn năng
lƣợng tái tạo. Các công trình khí sinh học quy
mô gia đình đủ cung cấp lƣợng khí dùng cho
đun nấu và thắp sáng. Các công trình khí sinh
học quy mô trang trại (lợn hoặc bò) với quy
mô từ hàng trăm đến hàng nghìn con thì
lƣợng khí sinh ra rất lớn, chỉ có các máy phát
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
150
điện công suất hàng chục tới hàng trăm kW
mới tiêu thụ hết khí. Hiện nay các công trình
khí sinh học quy mô gia đình đang phát triển
mạnh ở 30 tỉnh/thành phố và sẽ phủ kín toàn
quốc trong vài năm tới. Tuy nhiên các công
trình khí sinh học quy mô trang trại còn phát
triển chậm và chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của
trên 16000 trang trại chăn nuôi.
Nhƣ vậy năng lƣợng sinh khối và khí sinh học
là nguồn năng lƣợng tái tạo có tiềm năng lớn
nhất ở nƣớc ta, nó có thể đảm bảo năng lƣợng
đun nấu cho khoảng 70 triệu dân sống ở nông
thôn, thậm chí ven đô, đồng thời cung cấp
điện cho nhu cầu ở nông thôn.
b. Những tiến bộ kỹ thuật của thế giới về từng
chuyên ngành
Tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực năng lƣợng
mặt trời là Pin mặt trời nối lƣới (grid
connected Photovoltaic) đã mở ra triển vọng
rất lớn về sử dụng pin mặt trời. Từ chỗ điện
từ pin mặt trời cung cấp qua ắc quy đã hạn
chế công suất sử dụng ở quy mô kW thì nay
pin mặt trời nối lƣới không còn hạn chế công
suất sử dụng. Pin mặt trời nối lƣới là giải
pháp tốt cho việc xã hội hoá sản xuất điện vì
vốn đầu tƣ không lớn và phân tán, không cần
nhiên liệu, không cần nhân viên kỹ thuật quản
lý. Điều cần thiết nhất là chính sách khuyến
khích của nhà nƣớc (ƣu đãi đầu tƣ, giá cả,
miễn giảm thuế…) và các công ty điện phải
cùng hợp tác với dân, vì pin mặt trời nối lƣới
là nguồn điện phủ đỉnh cho lƣới điện (giờ
nắng từ 9 giờ đến 17 giờ). Có chính sách tốt
cùng với tổ chức tốt, mỗi năm ta có thể phát
triển hàng chục MWp pin mặt trời nối lƣới.
Tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực giàn đun
nƣớc nóng bằng năng lƣợng mặt trời là hệ
thống xy phông nhiệt với bộ thu ống chân
không làm tăng hiệu suất nhiệt.
Tiến bộ kỹ thuật chính về máy phát điện gió
là đã giảm tốc độ khởi động máy phát điện
500kw từ 6m/giây xuống 2,5 m/giây. Nhờ vậy
Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển
phong điện.
Qua các thông tin nêu trên cho thấy, trọng
tâm phát triển năng lƣợng tái tạo nên tập
trung vào :
1/ Năng lượng sinh khối.
2/ Sản xuất điện từ các nguồn năng lượng
tái tạo như trấu, khí sinh học và pin mặt trời
nối lưới.
Đối với các nguồn năng lƣợng tái tạo khác
đều đƣợc khuyến khích phát triển.
Các giải pháp đẩy mạnh phát triển năng
lƣợng tái tạo
a. Xây dựng và triển khai chương trình sản
xuất điện từ năng lượng tái tạo (gọi tắt là
chương trình điện tái tạo).
Chƣơng trình điện tái tạo gồm 3 thành phần,
mỗi thành phần đƣợc tổ chức thành 1 dự án.
- Sản xuất điện từ trấu gọi tắt là điện trấu,
- Sản xuất điện từ khí sinh học gọi tắt là điện
khí sinh học,
- Sản xuất điện từ pin mặt trời nối lƣới gọi tắt
là điện pin mặt trời nối lƣới,
Chƣơng trình đƣợc triển khai theo 3 bƣớc ;
- Bƣớc 1: Xây dựng đề án khả thi và trình
duyệt.
- Bƣớc 2: Triển khai các điểm trình diễn và
rút kinh nghiệm.
- Bƣớc 3 : Triển khai mở rộng.
Hiệp hội Năng lƣợng là tổ chức lớn, có uy tín
nên chủ trì xây dựng và triển khai Chƣơng
trình điện tái tạo. Cụ thể cần đƣa ra các mốc
thời gian cho từng bƣớc, từng giai đoạn và đề
xuất các đơn vị tham gia xây dựng đề án khả
thi nhƣ: Trung tâm Enerteam lập đề án khả thi
về điện trấu; Trung tâm khí sinh học lập đề án
khả thi về điện khí sinh học; Trung tâm tiết
kiệm năng lƣợng lập đề án khả thi về điện pin
mặt trời nối lƣới. Từ đó, trung tâm tƣ vấn
năng lƣợng sẽ tổng hợp thành đề án khả thi
của chƣơng trình điện tái tạo để Hiệp hội
Năng lƣợng trình duyệt.
Nên ƣu tiên mô hình nguồn điện tập trung có
lƣới tải và phân phối điện mini 220V-50Hz.
Nguồn điện này thích hợp với các thiết bị
điện phổ thông; điều hoà đƣợc nhu cầu phụ
tải, giảm thiểu lãng phí; quản lý vận hành,
bảo trì bảo dƣỡng thuận lợi dễ dàng. Với hệ
thống này có thể tổ chức tổ kỹ thuật chuyên
trách và thuận lợi hơn cho việc bán điện.
Không cần có các dịch vụ đặc biệt. Nếu có
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
151
điều kiện có thể kết hợp với các nguồn năng
lƣợng khác (hệ lai ghép). Cần tổ chức mạng
lƣới dịch vụ cung cấp các phụ kiện chuyên
dụng trong hệ điện NLTT nhƣ đèn 12VDC,
Bộ Điều khiển, Bộ Biến đổi điện,....Cần biên
soạn các tài liệu hƣớng dẫn vận hành, bảo trì,
bảo dƣỡng dƣới dạng ngắn gọn, dễ hiểu cung
cấp rộng rãi cho ngƣời dân khu vực dự án.
b. Thành lập cơ quan quản lý phát triển năng lượng tái tạo
NLTT chiếm tỷ trọng đáng kể trong hệ thống năng lƣợng của nƣớc ta, đa dạng và phân tán, nhƣng do nhà nƣớc chƣa có chính sách khuyến khích phát triển NLTT, và chƣa có cơ quan chuyên trách quản lý phát triển NLTT, nên NLTT không phát triển đƣợc ở nƣớc ta. Vì vậy muốn phát triển NLTT thì nhà nƣớc cần thành lập cơ quan quản lý phát triển NLTT (tƣơng đƣơng cấp Cục). Cơ quan này có chức năng nhƣ sau:
- Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển NLTT để trình chính phủ phê duyệt.
- Tổ chức triển khai chính sách khuyến khích phát triển NLTT đã đƣợc chính phủ phê duyệt.
c. Tăng cường đầu tư nghiên cứu cơ bản về NLTT
Nƣớc ta có tiềm năng rất lớn về NLTT nhƣng cho tới nay vẫn chƣa có những nghiên cứu đầy đủ, cụ thể và chính xác rằng tiềm năng đó là bao nhiêu, khả năng khai thác và sử dụng đến mức độ nào. Chính vì vậy cần tăng cƣờng đầu tƣ cho những nghiên cứu cơ bản về NLTT để có số liệu đầy đủ, hệ thống và tin cậy về tiềm năng khai thác, sử dụng NLTT cho phát điện cho từng vùng, miền ở Việt Nam.
d). Xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu ứng dụng NLTT
Không có sự hỗ trợ này thì không thể triển khai rộng rãi công nghệ nguồn điện thích hợp với nông thôn vùng sâu vùng xa. Có thể nói gần nhƣ tất cả các nƣớc phát triển và rất nhiều nƣớc đang phát triển đều đã có chính sách hỗ trợ ứng dụng điện NLTT. Đã đến lúc nƣớc ta cần phải có các chính sách, chiến lƣợc quốc gia về NLTT.
e. Xây dựng cơ chế quản lý sau dự án:
Nên có sự tham gia của chính quyền đoàn thể
quần chúng địa phƣơng vào công tác quản lý
này. Tổ kỹ thuật cần đƣợc lựa chọn và đào tạo
kỹ càng, không nên tổ chức một cách hình
thức. Nên ƣu tiên mô hình nguồn điện tập
trung có lƣới tải và phân phối điện mini
220V-50Hz. Nguồn điện này thích hợp với
các thiết bị điện phổ thông; điều hoà đƣợc
nhu cầu phụ tải, giảm thiểu lãng phí; quản lý
vận hành, bảo trì bảo dƣỡng thuận lợi dễ
dàng. Với hệ thống này có thể tổ chức tổ kỹ
thuật chuyên trách và thuận lợi hơn cho việc
bán điện. Không cần có các dịch vụ đặc biệt.
Nếu có điều kiện có thể kết hợp với các
nguồn năng lƣợng khác (hệ lai ghép). Cần tổ
chức mạng lƣới dịch vụ cung cấp các phụ
kiện chuyên dụng trong hệ điện pin mặt trời
nhƣ đèn 12VDC, Bộ Điều khiển, Bộ Biến đổi
điện,....Cần biên soạn các tài liệu hƣớng dẫn
vận hành, bảo trì, bảo dƣỡng dƣới dạng ngắn
gọn, dễ hiểu cung cấp rộng rãi cho ngƣời dân
khu vực dự án.
KẾT LUẬN
Nguồn năng lƣợng truyền thống của nƣớc ta
đang suy giảm dần do trữ lƣợng có hạn, công
nghệ khai thác còn lạc hậu, tổn thất, lãng phí
lớn, chƣa hiệu quả và chƣa có kế hoạch khai
thác hợp lý, kèm theo đó là việc tiêu thụ năng
lƣợng này đang gây ra ô nhiễm môi trƣờng
nghiêm trọng. Việt nam có tiềm năng to lớn về
năng lƣợng tái tạo, phát triển năng lƣợng tái
tạo là góp phần giảm tiêu thụ than, dầu, khí
đồng thời giảm phát thải khí nhà kính. Vì thế,
Việt Nam cần hỗ trợ phát triển NLTT để bảo
vệ môi trƣờng, đảm bảo năng lƣợng phát triển
theo hƣớng hiệu quả và bền vững trong chiến
lƣợc phát triển an ninh năng lƣợng quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Công thƣơng, 2007 - Tổng sơ đồ phát triển
Điện lực VN giai đoạn 2006-2015 và định hướng
đến 2025.
[2]. Điện lực Việt Nam, 2006a. Kế hoạch Báo cáo.
Hà Nội, Việt Nam.
[3]. Điện lực Việt Nam, 2006b. Báo cáo tổng kết
của giá nhiên liệu và công nghệ thế hệ trong
ngành điện Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam.
[4]. Nguyễn Thƣờng, Hội thảo quốc tế về phát triển
năng lƣợng Việt Nam lần thứ 2, Hà Nội-2008
[5]. Nhan T. Nguyen, Minh Ha. Duong, Economic
potential of renewable energy in Vietnam’s power
sector, Energy Policy 37 (2009) 1601–1613,
France.
[6]. Website: www.unfccc.org.cdm
Phạm Thị Thanh Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 145 - 152
152
SUMMARY
ORIENTATION AND SOLUTIONS TO DEVELOPING RENEWABLE ENERGY
FOR POWER IN VIETNAM
Pham Thi Thanh Mai
*
Thai Nguyen University of Economics and Business Administration - TNU
Energy is the driving force of economic development - social. Along with economic growth,
energy demand for production and living on a rise, while fossil energy sources on a scarce, the
energy consumption is causing serious environmental pollution. Vietnam has great potential for
renewable energy, renewable energy development is to reduced consumption of coal, oil, gas and
reduce greenhouse gas emissions. But this is also new content so when deployed VietNam still
faces many difficulties and barriers. This paper will present the status of production, use and
forecast the demand for electricity in Vietnam to 2030; situation and the potential exploitation of
renewable energy sources for electricity generation in Vietnam; These challenges and the research
in renewable energy applications; orientation and a number of measures to promote development
of renewable energy for electricity generation in Vietnam.
Key words: Energy, renewable, power generation, development, sustainability
* Tel: 0912804979; Email: [email protected]
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
153
KHAI THÁC TÀI NGUYÊN DU LỊCH Ở VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ
PHỤC VỤ MỤC ĐÍCH DU LỊCH SINH THÁI
Nguyễn Thị Phƣơng Nga
Trường Trung học phổ thông Vùng cao Việt Bắc
TÓM TẮT
Vƣờn quốc gia Ba Bể có nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch sinh thái. Tài nguyên tự nhiên là
thế mạnh của vƣờn quốc gia để hình thành các tuyến điểm du lịch với nhiều địa danh du lịch.
Thảm thực vật với thành phần loài đa dạng, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thuận lợi cho phát triển du
lịch sinh thái. Địa chất, địa hình, khí hậu, sông ngòi tạo nên các thắng cảnh đẹp. Bên cạnh đó,
phong tục tập quán, sản phẩm văn hoá truyền thống tạo nên cho Ba Bể sức hấp dẫn riêng, thu hút
khách du lịch.
Từ khóa: Tài nguyên du lịch, du lịch sinh thái, vườn quốc gia Ba Bể.
MỞ ĐẦU*
Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào
thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa
phƣơng với sự tham gia của cộng đồng hƣớng
tới phát triển bền vững. Vƣờn quốc gia
(VQG) Ba Bể có nhiều tiềm năng cho phát
triển du lịch sinh thái. Vƣờn quốc gia có diện
tích 10.048 ha do Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc
Kạn quản lý, đƣợc phân thành các khu vực:
phân khu bảo vệ nghiêm ngặt có 3931 ha,
phân khu hành chính dịch vụ có 34 ha, phân
khu phục hồi sinh thái có 6083 ha. Năm 2004,
vƣờn quốc gia Ba Bể đƣợc UNESCO công
nhận là vƣờn di sản ASEAN và hiện tại đang
trong quá trình đề nghị xét duyệt hồ sơ công
nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Vƣờn quốc gia Ba Bể đƣợc thành lập nhằm
mục đích bảo tồn cảnh quan tự nhiên đặc
trƣng cho hệ sinh thái rừng nguyên sinh trên
núi đá vôi. Khu vƣờn này bảo tồn đa dạng
sinh học cho 1281 loài thực vật bậc cao, trong
đó có 77 loài bị đe dọa ở mức quốc gia và
toàn cầu, 53 loài đƣợc ghi trong Sách đỏ Việt
Nam... Với vai trò là tăng cƣờng chức năng
phòng hộ đầu nguồn cho hồ Ba Bể, nhằm
phục vụ trực tiếp đời sống và sản xuất của
cộng đồng dân cƣ trong khu vực. Đồng thời,
vƣờn quốc gia Ba Bể phát triển, mở mang du
lịch sinh thái tạo điều kiện cho ngƣời dân
trong khu vực có thêm thu nhập dựa trên cơ
sở du lịch cộng đồng, nâng cao nhận thức về
bảo vệ môi trƣờng cho ngƣời dân.
* Tel: 0983746476; Email: [email protected]
TÀI NGUYÊN DU LỊCH VƢỜN
QUỐC GIA BA BỂ
Tài nguyên du lịch tự nhiên.
* Hệ động và thực vật
Thảm thực vật với độ che phủ 73,68% diện
tích rừng kín thƣờng xanh, trong đó rừng
nguyên sinh ít bị tác động chiếm 40,39% tổng
diện tích vƣờn quốc gia. Đây là một trong
những vƣờn quốc gia có độ che phủ và tỷ lệ
rừng nguyên sinh cao trong hệ thống các khu
rừng đặc dụng của Việt Nam và các khu vực
núi đá vôi trên thế giới.
Kiểu rừng kín thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới
trên núi đá vôi có diện tích 3421 ha, chiếm
34,11% tổng diện tích vƣờn quốc gia, phân bố
thành các mảng tƣơng đối lớn trên địa hình
núi đá vôi. Thực vật tạo rừng khá phong phú,
phổ biến là các loài nhƣ Nghiến, Trai, Mậy
Tẹo, Ô rô, Teo Nông, Lát Hoa, Sâng, Cà Lồ,
Đinh.... Rừng thƣờng chia làm 4 tầng: tầng ƣu
thế sinh thái gồm các cây có kích thƣớc lớn
phổ biến nhƣ Xoan nhừ, Mọ, Cà Lồ, Trai,
Gội, Lim xẹt, Chò Chỉ... Chiều cao cây rừng
thƣờng đạt 20 - 30 m, đƣờng kính bình quân
trên dƣới 30cm. Tầng dƣới tán rừng cao dƣới
15m, gồm các cây gỗ nhỏ hơn nhƣ các loài
trong chi Đại phong tử, Chi Trâm, Chò xanh,
Ô Rô...... Tầng cây bụi cao dƣới 5 m với
nhiều loài khác nhau và phân bố rải rác dƣới
tán rừng, phổ biến là các loài Ba Gạc, Đùng
Đình, Búng Báng, Lấu, Găng, Hồng bì dại....
Tầng thảm tƣơi ở các thung lũng ẩm ƣớt phát
triển dày đặc, còn trên sƣờn núi đá dốc thƣa
thớt hơn. Các loài phổ biến là các loài trong
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
154
họ Gai, họ Thài Lài, họ Tai Voi, họ Ô Rô, họ
Thu Hải, họ Lan, họ Ráy.... Thực vật ngoại
tầng cũng khá phong phú.
Kiểu rừng thƣờng xanh bị tác động trên núi
đá vôi có tổng diện tích 3345ha, chiếm
34,11% diện tích vƣờn quốc gia Ba Bể. Đây
là kiểu rừng bị tác động bởi những hoạt động
khai thác của con ngƣời nhƣng cũng đã phục
hồi theo hƣớng hồi nguyên. Kiểu phụ này
phân bố rải rác khắp vƣờn quốc gia với 3
phân tầng rõ rệt. Tầng ƣu thế sinh thái có rất
nhiều loài tham gia tạo tán rừng liên tục với
các loài nhƣ Sấu, Đinh thối, Cơi, Dọc, Vối,
Mùng quân nhớt, Kháo nhớt, Trâm trắng,
Sâng, Đẻn, Kẹn... Tầng dƣới tán rừng bao
gồm những cây tái sinh của tầng ƣu thế cùng
các loài nhƣ Rau sắng, Thiết đinh, Hèo Gân
đầy, Mùng quân, Sanh, Cám, Dâu da xoan,
Na hồng... Tầng cây thảm bụi tƣơi cao trên
dƣới 5m, gồm các loài Đơn, các loài Lấu,
các loài phổ biến trong họ Ráy, họ Dƣơng
xỉ, họ Kim cang, họ Nam mộc hƣơng, họ
Cam quýt...
Kiểu rừng thƣờng xanh bị tác động trên núi
đất chiếm diện tích không đáng kể trong vƣờn
quốc gia với khoảng 6,34% diện tích tự nhiên
và phân bố chủ yếu ở phía bắc và tây bắc của
vƣờn quốc gia.
Kết quả ban đầu của cuộc khảo sát hệ thực vật
vƣờn quốc gia Ba Bể có 162 loài, 672 chi,
1281 loài thực vật bậc cao. Áp dụng khung
phân loại các yếu tố địa lý của Nguyễn Nghĩa
Thìn (1999) và Lê Trần Trấn (1999) có kết
quả sau:
- Yếu tố toàn cầu có 1 loài cây (Thầu dầu)
chiếm 0,19% tổng số loài.
- Yếu tố liên nhiệt đới gồm 8 loài, chiếm
1,49% tổng số loài của toàn hệ
- Yếu tố nhiệt đới châu Á gồm 3 loài là Cà
Gai, Chùm Bo, Dầu Mè, chiếm 0,56% trong
tổng số loài trong họ.
- Yếu tố châu Á gồm 70 loài, chiếm 13,01%
tổng số loài trong hệ.
- Yếu tố Đông Nam Á gồm 67 loài, chiếm
12,4% số loài trong hệ.
- Yếu tố Nam Trung Quốc gồm 51 loài,
chiếm 9,5% số loài trong hệ.
- Yếu tố Đông Dƣơng gồm 50 loài, chiếm
9,5% số loài trong hệ.
- Yếu tố đặc hữu Việt Nam gồm 52 loài,
chiếm 9,6% số loài trong hệ.
- Yếu tố đặc hữu miền Bắc Việt Nam gồm 35
loài, chiếm 6,52% số loài trong hệ.
- Yếu tố đặc hữu Ba Bể: loài Trúc dây
- Yếu tố cổ nhiệt đới gồm 3 loài, chiếm 2,4%
số loài trong hệ thực vật
Về động vật, đã phát hiện 77 loài thực vật quý
hiếm trong sách đỏ Việt Nam và sách đỏ
IUCN. Khu hệ động vật bƣớc đầu thống kê
đƣợc 553 loài động vật có xƣơng sống, trong
đó thú có 81 loài, bò sát 27 loài, chim 322
loài, cá 106 loài... Trong số các loài đã thống
kê có 76 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam
(2002), 32 loài cần ƣu tiên bảo vệ mức độ
toàn cầu và đã ghi trong sách đỏ các loài động
vật có nguy cơ bị đe doạ của IUCN, 1997.
Bảng thống kê các loài động vật của 5 vƣờn
quốc gia điển hình trong đó có vƣờn quốc gia
Ba Bể cho thấy hệ thú rừng của Ba Bể có mức
độ đa dạng đƣợc liệt vào thứ hạng cao nhất,
chiếm tới 29% số loài toàn quốc.
Bảng 1. Tài nguyên thú rừng ở một số vƣờn quốc gia trong cả nƣớc
STT Tên vƣờn quốc gia Loài Họ Bộ % số loài toàn quốc
1 VQG Ba Bể 81 26 8 29
2 VQG Ba Vì 43 21 8 19
3 VQG Cát Bà 20 10 5 9
4 VQG Bến En 53 21 10 23
5 VQG Bạch Mã 55 23 9 24
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
155
* Đặc điểm địa chất, địa hình.
Các điều kiện tự nhiên khác cũng thuận lợi
cho phát triển du lịch sinh thái ở vƣờn quốc
gia Ba Bể. Đặc điểm địa hình nơi đây khá
phức tạp, bao gồm phức hệ sông - suối - hồ -
đầm- núi đá - núi đất xen kẽ với nhau với 3
kiểu địa hình chính:
- Kiểu địa hình núi trung bình nằm ở phía
nam và đông nam của vƣờn quốc gia, cới dãy
Phia-Bi Ooc cao trên 1000m. Đặc điểm của
dãy núi có độ dốc lớn, khá hiểm trở, là nơi
đầu nguồn của sông Chợ Lèng.
- Kiểu địa hình núi đá vôi phân bố tập trung
xung quanh hồ Ba Bể, dọc theo hai bên bờ
sông Năng, độ cao trung bình của núi đá vôi
khoảng 600 - 700m. Kiểu địa hình núi đá vôi
hiểm trở, sƣờn dốc đứng, bị chia cắt mạnh.
Phía bắc là dãy Lung Nham và núi Án với
đỉnh cao trên 1000m, phía đông là dãy Khau
Vai với độ cao từ 800 - 1000m.
- Kiểu địa hình hồ và thung lũng với hồ Ba
Bể là trung tâm của vùng, đồng thời là trung
tâm của vƣờn quốc gia. Đây là hồ kiến tạo lớn
nhất nƣớc ta. Hồ co hẹp lại ở giữa có dạng
một hành lang bị kẹp giữa các dãy núi đá vôi.
giữa hồ có 3 đảo nhỏ, trong đó đảo lớn nhất là
An Mã, đáy hồ không bằng phẳng và có nhiều đá
ngầm. Hồ dài 9km, chu vi của hồ là 22km, độ
sâu trung bình 17 - 23m, nơi sâu nhất là 35m,
tổng lƣợng nƣớc trong hồ đạt khoảng 90 triệu m3.
Cấu trúc địa chất của khu vực khá phức tạp,
trong vùng có phổ biến các thung lũng và các
cánh đồng karst khá rộng ăn thông với nhau,
nhiều núi karst trở thành núi sót, độ cao
khoảng 800 - 900 m. Nhiều nơi trong khu vực
địa hình karst, sông Năng và sông Chợ Lèng
chảy qua nhƣ một lát xẻ sâu. Đặc biệt, khi
sông chảy ngầm qua núi đã tạo thành Động
Puông và động Na Phòng có vòm rộng và
cao, trở thành những địa điểm du lịch thu hút
khách khi tới thăm Ba Bể.
* Đặc điểm Khí hậu, thủy văn
Khí hậu của vùng nằm hoàn toàn trong vùng
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, sự bốc hơi
nƣớc của hồ Ba Bể diễn ra liên tục quanh năm
tạo nên tiểu khí hậu xung quanh hồ mát mẻ và
ẩm. Chênh lệch về nhiệt độ, độ ẩm giữa các
tháng trong năm không lớn. Nhiệt độ trung bình
năm là 22oC, nhiệt độ không khí trung bình cao
nhất là 390C, nhiệt độ trung bình thấp nhất là
0,60C. Lƣợng mƣa trung bình năm: 1343,5 mm,
độ ẩm tƣơng đối trung bình năm: 83%.
Hệ thống thuỷ văn VQG Ba Bể bao gồm 4
con sông, suối chính nối với hồ Ba Bể. Phía
nam và tây nam có sông Chợ Lèng, suối Bó
Lù và Tà Han đổ nƣớc vào hồ với tổng diện
tích lƣu vực là 420 km2. Ba con sông, suối
này đổ nƣớc vào hồ, sau khi đƣợc điều tiết,
một phần nƣớc hợp lƣu với sông Năng ở phía
bắc hồ, tiếp tục chảy về sông Gâm. Sông
Năng là một nhánh thƣợng nguồn của sông
Gâm và sông Lô, chảy theo hƣớng đông tây.
Tổng diện tích lƣu vực sông Năng là 1.420
km2. Cả 4 con sông, suối nói trên đều bắt
nguồn từ những đỉnh núi cao, địa hình dốc,
thƣờng gây ra lũ lớn.
Hồ Ba Bể là trung tâm của vƣờn quốc gia, có
diện tích rộng hơn 500 ha. Nếu tính cả hồ phụ
và mặt nƣớc sông rộng 575 ha. Tốc độ dòng
chảy trung bình 0,5 m/s. Về mùa lũ dòng chảy
ứ lại, mực nƣớc dâng cao. Hồ vừa mang tính
chất của hồ nƣớc thiên nhiên vừa mang tính
chất của một khúc sông rộng và sâu (đƣợc coi
là phụ lƣu của sông Năng).
Tài nguyên du lịch nhân văn.
Ngoài nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên
phong phú, đa dạng thì tài nguyên du lịch
nhân văn với các lễ hội truyền thống của đồng
bào các dân tộc cũng mang lại những nét đặc
trƣng cho Ba Bể.
* Các di tích lịch sử
Vƣờn quốc gia Ba Bể là khu vực sinh sống
lâu đời của một số dân tộc và lịch sử của khu
vực cũng gắn liền với lịch sử dựng nƣớc và
giữ nƣớc của dân tộc ta. Do đó nơi đây cũng
có nhiều di tích lịch sử có thể khai thác phục
vụ hoạt động du lịch.
- Động Puông: Có chiều dài 300 m, cao 50m.
Đây là thủy động, một đoạn con sông Năng
chảy xuyên qua núi đá vôi, trƣớc khi sông
chảy đến thác Đầu Đẳng. Đây là phần còn sót
lại của hệ thống hang động và suối ngầm
trƣớc đây. Dấu hiệu chứng minh hệ thống này
từng tồn tại chính là các nhũ đá treo lơ lửng
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
156
trên những vách động. Động Puông đã từng là
nơi dấu quân trong trong các cuộc giao tranh
giũa nhà Lê và nhà Mạc thế kỉ XVI. Những
phế tích về thành nhà Mạc vẫn còn đƣợc giữ
lại các đài quan sát trên núi Puông.
- Động Na Phòng thực chất là một hang sâu
và nhiều ngóc ngách nên đã từng là nơi trú
ngụ của quân nhà Mạc trong các cuộc giao
tranh. Đây cũng là nơi Đài tiếng nói Việt
Nam đặt cơ sở hoạt động thời kì đầu cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-
1954). Động Tiên nằm ở phía bắc của hồ Ba
Bể, cách mặt hồ 15 m, cửa hang cao 15m và
rộng 35m. Động có nhiều thạch nhũ, đá xếp
nếp nhiều tầng. Từ động Tiên có thể ngắm
toàn cảnh Hồ Ba Bể. Các nhà khảo cổ học đã
từng xác định khoảng 12 nghìn năm trƣớc đây
các cƣ dân thời kì đồ đá mới đã từng định cƣ
tại đây. Nhiều công cụ bằng đá nhƣ rìu, dao,
cuốc cùng nhiều cối chày và nhiều vỏ ốc bị
vùi lấp đã đƣợc tìm thấy.
- Động Thẳm Thinh: Đây là nơi mà các nhà
nghiên cứu cho rằng con ngƣời đã định cƣ
sớm nhất ở Ba Bể vào cuối thời kì đồ đá cũ,
khoảng 17 - 22 nghìn năm trƣớc đây. Các
bằng chứng khảo cổ học tại đây cho thấy
ngƣời nguyên thuỷ sống dựa vào săn bắn, hái
lƣợm và đã làm ra các công cụ sản xuất để lấy
các sản phẩm cần thiết từ sông Chợ Lèng nằm
cách đó không xa.
- Tại các địa điểm nhƣ Nà Cà, Nà Têm và
Khau La bƣớc đầu đã tìm thấy một số di chỉ
khảo cổ của nền văn hoá Hà Giang thuộc hậu
kì đá mới - sơ kì kim khí (4000 năm - 3000
năm trƣớc đây).
Ngoài ra khu vực VQG Ba Bể còn có các di
tích khác nhƣ Đảo Pò Dạ Mải có bia đá khắc
vua Khải Định thứ 9, có miếu thờ Bà Goá.
Trên đảo An Mã có có miếu thờ vua thuỷ tề
và quan nhà Lê.
* Văn hoá của dân tộc thiểu số
Văn hoá các dân tộc của Ba Bể cũng để lại
dấu ấn sâu sắc cho khách du lịch. Ngƣời Tày
định cƣ dọc theo thung lũng các sông suối và
thung lũng các tỉnh Đông Bắc nƣớc ta. Trong
VQG Ba Bể, ngƣời Tày chiếm đa số trong
tổng số dân. Do vậy văn hoá dân tộc Tày trở
thành văn hoá đặc trƣng cho khu vực này.
Ngƣời Tày định cƣ thành từng làng bản đông
đúc. Ngôi nhà truyền thống của họ là nhà sàn.
Ở VQG Ba Bể, ngƣời Tày chọn hƣớng nhà
theo thuật phong thuỷ: Tiền thoáng hậu thế.
Phía sau nhà dựa vào núi. Phía trƣớc là con
sông hoặc cánh đồng rộng, thoáng. Cửa nhà
không hƣớng vào nhà ngƣời khác, không
hƣớng thẳng vào con đƣờng. Quan trọng nhất
của căn nhà sàn là bộ khung nhà gồm cột,
kèo, xà. Gỗ làm nhà thƣờng là gỗ tốt nhƣ
nghiến, chò chỉ, đinh, lim… Nhà kết cấu theo
kiểu 5 - 7 gian, hàng cột kê trên đá tảng. Các
cột liên kết với nhau bằng xà dài xuyên qua
các cột. Mái nhà lợp bằng ngói âm dƣơng,
nhẹ nhƣng cách nhiệt tốt. Ngoài ra, có thể lợp
bằng tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thƣng
bằng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.
Về ẩm thực, ngƣời Tày trƣớc kia ăn cơm nếp
là chính trong bữa ăn hàng ngày. Hiện nay đã
thay đổi thói quen, nhƣng hầu nhƣ gia đình
nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các
ngày lễ tết, họ thƣờng làm các loại bánh trái
nhƣ bánh chƣng, bánh dầy, bánh gai, bánh
gio, bánh rán,bánh trôi, bánh khảo… Cùng
với chế biến các món ăn từ lƣơng thực, ngƣời
Tày còn chế biến các món ăn từ thịt, cá, xào
nấu rau, măng, .... Những món ăn dân dã nhƣ
thịt gà xào gừng nghệ, thịt lợn hầm nhừ với lá
mác mật, cá hầm với quả trám trắng, cá,
nhộng tằm, nhộng ong khoái, nấm đất xào nấu
với măng chua, bát canh rau ngót rừng ... rất
đƣợc đồng bào ƣa thích. Ở Ba Bể còn có mắm
tép, tôm chua và rƣợu ngô đƣợc coi là đặc sản
của vùng.
Về trang phục: Bộ y phục cổ truyền của ngƣời
Tày là áo chàm đƣợc làm từ vải sợi bông tự
dệt, nhuộm chàm, hầu nhƣ không có thêu thùa
trang trí. Khi mặc thƣờng kèm theo còng cổ
và xà tích bằng bạc. Phụ nữ đầu vấn khăn,
mặc áo dài tới bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách,
cài cúc ở bên phải, thắt lƣng bằng vải.
Về phong tục, lễ hội: Trong một năm có nhiều
ngày tết với ý nghĩa khác nhau. Tết nguyên
đán, rằm tháng 7 và tết thanh minh (mùng 3
tháng 3) đƣợc tổ chức linh đình hơn cả. Hội
xuân Ba Bể đƣợc tổ chức hàng năm kéo dài
trong 3 ngày mùng 9, 10, 11 tháng 1 âm lịch.
Lễ hội là nơi phô diễn bản sắc các dân tộc với
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
157
nhiều trò chơi truyền thống nhƣ đua thuyền
độc mộc trên hồ Ba Bể, ném còn, chọi bò,
múa sạp…cùng nhiều hoạt động văn hoá khác
của đồng bào dân tộc Tày cũng nhƣ các dân
tộc khác trong vùng để cầu khấn cho vụ mùa
năm mới mƣa thuận gió hòa, an khang thịnh
vƣợng. Thuyền độc mộc là phƣơng tiện đi lại
đặc sắc của ngƣời dân tộc Tày nơi đây và
cũng là nét đặc sắc của du lich Ba Bể. Xƣa
kia hầu nhƣ nhà nào cũng có thuyền nhƣng
nay đƣờng sá mở mang, thuyền máy và xuồng
máy nhiều nên thuyền độc mộc ít dần. Để làm
đƣợc thuyền độc mộc ngƣời ta phải xẻ cây gỗ
to rồi tính toán tỉ mỉ, chính xác, chi li rồi đục,
đẽo, vạt, bào…tốn rất nhiều thời gian và công
sức nên thuyền độc mộc đƣợc coi nhƣ tài sản
có giá trị của mỗi gia đình.
Các sản phẩm văn hoá truyền thống của đồng
bào các dân tộc thể hiện đời sồng tinh thần
phong phú, các lễ hội truyền thống với nhiều
loại nhạc cụ nhƣ: đàn tính của ngƣời Tày,
khèn và sáo của ngƣời Mông... Tết đến trong
các bản làng của ngƣời Tày, tiếng đàn Tính
và điệu hát then thƣờng vang lên rộn rã đón
xuân về. Âm nhạc đối với dân tộc Tày dƣờng
nhƣ có một sức mạnh kỳ diệu. Họ dùng đàn
tính và những điệu then để biểu lộ tâm tƣ tình
cảm của mình. Tiếng đàn giúp họ quên đi bao
vất vả, lo toan đời thƣờng, đắm mình trong
dòng âm thanh đầy sức quyến rũ để hy vọng
vào một ngày mai tƣơi sáng hơn. Tiếng Khèn
ngấm sâu vào máu thịt ngƣời Mông, thân
quen nhƣ miếng "mèn mén" (bột ngô đồ) mẹ
mớm từ lúc mới biết ăn dặm. Con trai 13 tuổi
đã có cây Khèn trên vai mỗi khi lên nƣơng,
xuống chợ. Âm thanh của Khèn mạnh mẽ nhƣ
chính cuộc sống ngƣời Mông, bởi nếu không
kiên cƣờng mạnh mẽ, ngƣời Mông xƣa kia
chắc khó lòng đƣơng đầu nổi với sự khắc
nghiệt nơi núi cao, đá dựng.
KHẢ NĂNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN
PHỤC VỤ MỤC ĐÍCH DU LỊCH SINH
THÁI Ở VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ
Hiện nay, VQG Ba Bể đã khai thác tài nguyên
tự nhiên cũng nhƣ tài nguyên nhân văn để
hình thành các tuyến, điểm du lịch để thu hút
khách du lịch. Các điểm du lịch nổi bật của
VQG Ba Bể chủ yếu nhƣ khu đảo An Mã,
khu động Ao Tiên, khu Pắc Ngòi, hình thành
các tuyến du lịch sinh thái và du lịch nhân văn
trong khu vực hồ Ba Bể.
Tuyến tham quan hồ Ba Bể
Đây là tuyến thu hút khách du lịch lớn nhất
hiện nay. Khách tham quan có thể lên thuyền
từ bến phía đông hoặc bến Pác Ngòi đi bằng
thuyền trên hồ ngắm cảnh và ghé thăm các
điểm danh thắng kì thú nhƣ: Đảo Bà Goá, đảo
An Mã, động Tiên, Ao Tiên, hang Thẳm Kít.
Hồ Ba Bể là hồ nƣớc ngọt tự nhiên đẹp nhất
nƣớc ta với diện tích khoảng 500 ha. Thực
chất hồ Ba Bể gồm 3 hồ lớn thông nhau là Pé
Lầm, Pé Lù và Pé Lèng. Hồ dài 9 km, rộng
0,2 - 1,0 km (thậm chí tới 1,7 km vào mùa
nƣớc lớn). Hồ có chu vi là 22 km, độ sâu
trung bình từ 17 - 23m, nơi sâu nhất lên tới
35m. Tổng lƣợng nƣớc trong hồ lên tới 90
triệu m3. Hồ bốn mùa nƣớc trong xanh, tràn
đầy. Nơi đây đƣợc ví nhƣ một Hạ Long trên
cạn. Trong khu vực hồ có các thắng cảnh nhƣ:
- Đảo Bà Goá (Pò Dạ Mải): Đảo này nằm
cạnh ở bến Phía nam, là một đảo đá. Trên đảo
có các cây cổ thụ nhƣ lát, nghiến, trai xen kẽ
gợi nên cảnh đẹp hữu tình. Trên đảo có di tích
và đền thờ Bà Goá.
- Đảo An Mã: Là đảo đá vôi, đảo cao hơn
mực nƣớc hồ khoảng 27 - 30 m. Trên đảo có
nhiều cây cổ thụ. Nóc đảo có nhiều chỗ có đất
mùn, có thể trồng rau xanh đƣợc. Xƣa kia có
đền thờ vua thuỷ tề và các quan nhà Lê. Đây
là chốn tâm linh cầu bình an, rất cần cho các
tuyến du lịch.
- Động Tiên: Nằm ở phía bắc của Hồ Ba Bể,
cách mặt hồ 15m, cửa hang cao 15m và rộng
35m. Động có nhiều thạch nhũ, đá xếp nếp
nhiều tầng. Từ Động Tiên có thể ngắm toàn
cảnh Hồ Ba Bể. Các nhà khảo cổ học đã từng
xác định khoảng 12 nghìn năm trƣớc đây các
cƣ dân thời kì đồ đá mới đã từng định cƣ tại
đây. Nhiều công cụ bằng đá nhƣ rìu, dao,
cuốc cùng nhiều cối chày và nhiều vỏ ốc bị
vùi lấp đã đƣợc tìm thấy.
- Ao Tiên: Nằm ở phía bắc của hồ, nằm trên
núi đá vôi, cách mép hồ 120m, rộng 1,5 ha.
Mặt hồ yên tĩnh, nƣớc trong xanh, nơi đƣợc ví
nhƣ là “gƣơng trời”.
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
158
- Hang Thẳm Kít: Hang nằm ở độ cao 200m,
cửu hang cao 10 - 20 m, rộng 50 - 80 m. Ánh
sáng vào sâu tận vách đá các phòng ngoài.
Động có nhiều phòng, nhiều ngách sâu, bố trí
thành nhiều tầng lớp
- Động Chân Voi: Động nằm gần hang Thẳm
Kít. Động rộng và nông, thạch nhũ trên vách
đá ở cửa hang tạo thành nhiều cột nhƣ chân
voi, vòi voi. Đây là một trong những điểm
đẹp để ngắm hồ nên cần đƣợc tôn tạo lại.
- Động Ba Cửa: Cách hang Chân Voi 50 m.
Cửa hang nhìn sang phía tây nam và xóm Pác
Ngòi. Hang cách mặt hồ 2 m, có 3 cửa vào
hình tròn. Vách có thạch nhũ nhiều tầng, có
một ngách hầm dài 70m đƣa tới vách hồ nhìn
thấy đảo Bà Goá.
- Động Na Phòng: Nằm gần bến phía nam
khoảng 2,5km và cách bản Bó Lù khoảng 2,0
km. Miệng hang nhìn về phía Bắc. Hang cao
từ 80 - 90m và rộng 100 – 200m.
- Bản Pác Ngòi nằm ngay bên bờ hồ Ba Bể,
thuộc xã Nam Mẫu, là một trong 10 làng văn
hoá tiêu biểu của cả nƣớc. Năm 2008, bản
đƣợc Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch chọn
xây dựng thành làng văn hoá đặc sắc. Pác
Ngòi hiện có 80 hộ dân với 400 nhân khẩu.
Ngƣời Tày chiếm 98,5%. Bởi vậy có thể xem
Pác Ngòi nhƣ bản văn hoá Tày nằm trên địa
thế cửa sông, bên danh thắng hồ Ba Bể.
Tuyến hồ Ba Bể đi thác Đầu Đẳng
Theo tuyến, khách tham quan lên bến phía
đông đi tham quan trên hồ, dọc sông Năng và
xuôi theo sông thăm thác Đầu Đẳng sau đó
quay ngƣợc lại. Ngoài các điểm tham quan ở
tuyến trên Hồ thì còn có thể thêm điểm tham
quan bản Him Đăm. Đây là một bản du lịch
văn hoá dân tộc Tày.
Thác Đầu Đẳng nằm ở phía tây bắc, xuôi theo
sông Năng khoảng 3km, gần bản Tà Kèn của
ngƣời Tày. Thác nằm gần nơi tiếp giáp giữa
Bắc Kạn với tỉnh Tuyên Quang. Thác Ðầu
Ðẳng nằm giữa hai dãy núi đá vôi, có độ dốc
lớn, là nơi con sông Năng bị chặn lại bởi
những tảng đá lớn, nhỏ xếp chồng lên nhau
với độ dốc chừng 500m, tạo thành một thác
nƣớc ngoạn mục kỳ vĩ, hoà với phong cảnh
rừng nguyên sinh tạo ra một ấn tƣợng khó
quên. Không những vậy, tại đây còn xuất hiện
loại cá chiên (có những con nặng trên 10kg)
là loại cá hiếm thấy hiện nay.
Tuyến Hồ Ba Bể đi Động Puông
Khách du lịch đi bằng thuyền từ bờ hồ phía
nam đi tham qua trên mặt hồ, sau đó ngƣợc
dòng sông Năng đi thăm Động Puông và
thành Nhà Mạc. Tuyến này có thể thăm tất cả
các điểm của tuyến hồ. Ngoài ra còn thêm 2
điểm là Động Puông và thành Nhà Mạc.
Ra khỏi Hồ Ba Bể du khách sẽ đi thuyền vào
dòng sông Năng. Sông Năng bắt nguồn từ dãy
Phia Dạ, chảy qua ven hồ Ba Bể nơi hợp lƣu
là đầu bản Cám. Từ đây, ngƣợc sông Năng
trên hẻm sông chừng 6 km hai bên là vách dá
dựng đứng chạm vào Động Puông huyền ảo
đặc sắc (Có lẽ đọc là động Cuông thì đúng
với phát âm của dân tộc Tày địa phƣơng và
đúng với thực tế hơn vì Cuông có nghĩa là “
rỗng”).
Các tuyến tham quan đi bộ
- Tuyến Keo Siu- An Mã. Khách đi bộ từ Keo
Siu, cách khu trung tâm hành chính dịch vụ
khoảng 1 km theo đƣờng đi bộ tham quam
kiểu rừng trên núi đá, qua cầu treo xuống đảo
An Mã. Tuyến này có thể tham quan các loại
cây nghiến, cây thung cổ thụ.
- Tuyến đi bộ Buốc Lốm - Thành Nhà Mạc.
Khách du lịch qua sông theo đƣờng du lịch
qua sông theo đƣờng đi bộ lên trên đỉnh núi
Lung Nham (phía dƣới là động Puông). Tại
đây khách du lịch có thể tổ chức cắm trại, pic
níc hoặc leo lên chòi quan sát phong cảnh
hoặc động vật hoang dã.
- Tuyến Pác Ngòi - Động Hua Mạ - Khu du
lịch sinh thái Đồn Đèn. Tuyến này du khách
có thể thăm quan bản Pác Ngòi, Động Na
Phòng sau đó quay ngƣợc lại dọc theo sông
Năng 5 km đến động Hua Mạ. Sau đó tiếp tục
đến thăm khu du lịch sinh thái Đồn Đèn, thăm
bản Nà Cọ, Bản Nà Niêng. Ngoài ra, trên
đƣờng trở về có thể ghé vào thác Tát Mạ (hay
còn gọi là Thác Bạc - Hoàng Trĩ).
Động Hua Mạ nằm cách hồ Ba Bể khoảng 6
km về phía nam. Động Hua Mạ còn gọi là
động treo vì động nằm ở lƣng chừng núi, có
độ cao so với mực nƣớc biển là 350m, chiều
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
159
dài hơn 700 m, trần động có chỗ cao và rộng
tới 40 - 50m. Động có cửa vào ở phía đông
thông ra phía nam. Theo các nhà chuyên môn
và du khách đến thăm thì động Hua Mạ đƣợc
đánh giá là một trong những động đẹp nhất
trong khu vực và có thể sánh với những hang
động đẹp của Vịnh Hạ Long.
KẾT LUẬN
Vƣờn quốc gia Ba Bể đƣợc thành lập nhằm mục đích bảo tồn cảnh quan tự nhiên đặc trƣng cho hệ sinh thái rừng nguyên sinh trên núi đá vôi. Với vai trò là tăng cƣờng chức năng phòng hộ đầu nguồn cho hồ Ba Bể, nhằm phục vụ trực tiếp đời sống và sản xuất của cộng đồng dân cƣ trong khu vực. Ngoài các chức năng trên, hiện nay vƣờn quốc gia Ba Bể phát triển, mở mang du lịch sinh thái tạo điều kiện cho ngƣời dân trong khu vực có thêm thu nhập dựa trên cơ sở du lịch cộng đồng, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trƣờng cho ngƣời dân. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng chƣa phát triển, đặc biệt là đƣờng giao thông, công tác quảng bá chƣa tốt... cho nên khả năng phát triển du lịch còn hạn chế. Với sự đầu tƣ của nhà nƣớc, sự quan tâm của các cấp, các ngành, đặc biệt là tỉnh Bắc Kạn, du lịch Ba Bể sẽ có cơ hội phát triển trong những năm sắp tới, đặc biệt là hình thức du lịch cộng đồng và du lịch sinh thái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo tổng hợp “Nhu cầu và cơ hội thiết lập
cơ chế tài chính bền vững cho VQG Ba Bể và khu
bảo tồn thiên nhiên Na Hang”, Tổ chức bảo tồn
quốc tế IUCN, 2002.
[2]. Báo cáo Thực trạng du lịch VQG Ba Bể 2005,
2006, 2207, 2008, 2009. Trung tâm du lịch sinh
thái VQG Ba Bể.
[3]. Phạm Trung Lƣơng (1999), Tiềm năng, hiện
trạng và định hướng phát triển du lịch sinh thái ở
Việt Nam. Tuyển tập báo cáo hội thảo xây dựng
chiến lƣợc quốc về phát triển du lịch sinh thái ở
Việt Nam.
[4]. Phạm Nhật - Lê Trọng Trải (1993), Báo cáo
chuyên đề tài nguyên động vật VQG Ba Bể mở
rộng. Viện Điều tra quy hoạch rừng, 3/1993.
[5]. Phạm Nhật (2003), Đa dạng thú VQG Ba Bể:
Thực trạng và giải pháp bảo tồn. Báo cáo hội thảo
khoa học quốc gia VQG Ba Bể, khu bảo tồn thiên
nhiên Na Hang.
[6]. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Địa lý du lịch,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010.
[7]. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2002),
Quy hoạch chung khu du lịch hồ Ba Bể đến 2010
và định hướng đến 2020.
[8]. Một số trang Web:
- www.vuonquocgia.com
- www.dulichvietnam.com.vn
- www.backan.gov.vn
- www.babenatinonalpark.org
SUMMARY
TOURISM RESOURCE EXPLOITATION IN BA BỂ NATIONAL PARK
PURPOSE FOR ECOTOURISM
Nguyen Thi Phuong Nga
*
Vietbac High school
Ba Be National Park has great potential for ecotourism development. Natural resources is the
strength of the national park for the formation of many tourist destinations tourist destination.
Vegetation with diverse species composition, tropical moist forest types favorable for development
of ecotourism. Geology, topography, climate, rivers create beautiful landscapes. Customary
practices, traditional cultural products created for Ba Be own attractiveness, attract tourists.
Key words: Ba Be National Park, ecotourism development, resources of tourist.
* Tel: 0983746476; Email: [email protected]
Nguyễn Thị Phƣơng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 153 - 159
160
Nguyễn Đức Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 161 - 163
161
NGHIÊN CỨU GIẢNG DẠY PHẦN VĂN HỌC ĐỊA PHƢƠNG TẠI MỘT SỐ
TỈNH MIỀN NÖI PHÍA BẮC VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nguyễn Đức Hạnh
*
Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong chƣơng trình Ngữ văn giảng dạy ở cấp THCS có phần văn học địa phƣơng giảng
dạy cho từng tỉnh. Qua khảo sát của chúng tôi tại 6 tỉnh miền núi phía Bắc, việc giảng dạy
chƣơng trình văn học địa phƣơng vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu giáo trình thống
nhất, giảng dạy một cách tự phát vẫn còn xảy ra. Vì thế, chúng tôi muốn đề xuất một số
giải pháp để giải quyết những tồn tại này.
Từ khóa: Văn học địa phương, nghiên cứu giảng dạy, miền núi phía Bắc Việt Nam
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN*
Thực trạng
1. Sau khi hoàn thành cuốn “Văn học Thái
Nguyên” năm 2008, chúng tôi tiếp tục thực
hiện đề tài “Nghiên cứu triển khai giảng dạy
phần văn học địa phƣơng cho cấp Trung học
cơ sở tại hai tỉnh Bắc Kạn và Tuyên Quang”.
Từ thực tế khảo sát việc giảng dạy phần văn
học địa phƣơng cho cấp Trung học Cơ sở tại
một số tỉnh nhƣ Thái Nguyên, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Hà Giang… chúng tôi thật sự
lo lắng trƣớc một thực trạng: trong rất nhiều
năm qua, việc thực hiện chƣơng trình văn học
địa phƣơng 24 tiết theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo ở cấp Trung học Cơ sở hầu
nhƣ bị bỏ trắng. Các trƣờng Trung học Cơ sở
trên địa bàn các tỉnh đƣợc khảo sát đều không
có một giáo trình thống nhất. Tình trạng giảng
dạy tùy tiện tự phát đã xảy ra và kéo dài trong
nhiều năm. Các thầy cô giáo tại các trƣờng
Trung học Cơ sở đành phải khắc phục bằng
cách tìm đƣợc tài liệu nào thì giảng dạy bằng
tại liệu ấy, nếu không tìm đƣợc tài liệu thì
biến tiết học về văn học địa phƣơng thành tiết
học hát tập thể hay giáo viên chuyển bài học
khác vào để lấp “chỗ trống”. Thực trạng đáng
buồn và khá phổ biến này vẫn tồn tại mà
ngành giáo dục ở nhiều tỉnh vẫn chƣa có giải
pháp thích hợp để tháo gỡ. Đến năm 2010,
nhờ có dự án Việt Bỉ, các trƣờng Cao đẳng Sƣ
* Tel: 0913394322
phạm các tỉnh đều thực hiện và xuất bản một
giáo trình có tên gọi “Văn hóa, văn học và
ngôn ngữ địa phương tại tỉnh X” của mình.
Nhƣng với mục tiêu biên soạn cho công tác
giảng dạy và học trong trƣờng Cao đẳng Sƣ
phạm, lại không chỉ tập trung nghiên cứu
phần văn học địa phƣơng, giáo trình này
không đáp ứng đƣợc mục tiêu giảng dạy phần
văn học địa phƣơng cho cấp Trung học Cơ sở
tại từng tỉnh. Chƣơng trình ấy đòi hỏi phải có
một giáo trình dành riêng cho nó.
2. Với thực trạng kể trên, các giáo viên dạy
văn tại các trƣờng Trung học Cơ sở ở từng
tỉnh gặp nhiều khó khăn. Chƣơng trình giảng
dạy phần văn học địa phƣơng theo quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo không đƣợc thực
hiện nghiêm túc. Các em học sinh ở cấp
Trung học Cơ sở gặp nhiều thiệt thòi khi
không đƣợc học các tác phẩm của các tác giả
đang sống và viết trên ngay quê hƣơng mình.
Tình trạng tùy tiện tự phát của các giáo viên
văn khi dạy chƣơng trình này, tuy là giải pháp
đối phó và tạm thời, vẫn dẫn tới hậu quả là
những tác phẩm không phù hợp với tâm sinh
lý và trình độ tiếp nhận của học sinh cấp
Trung học Cơ sở vẫn đƣợc giảng dạy. Điều
đó có thể dẫn học sinh tới cái nhìn lệch lạc
phiến diện, thậm chí là sai lầm về văn học địa
phƣơng của tỉnh mình. Trong cơ chế ai cũng
có thể bỏ tiền ra in sách của mình hôm nay,
tiêu chuẩn cấp phép xuất bản của nhiều nhà
xuất bản có nhiều điều khoản chặt chẽ, nhƣng
Nguyễn Đức Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 161 - 163
162
không hề có tiêu chí là tác phẩm ấy phải hay,
vì vậy vẫn có nhiều tác phẩm kém chất lƣợng
đƣợc xuất bản và có mặt trong đời sống xã
hội. Với sự non nớt trong nhận thức, nếu
các em học sinh cấp Trung học Cơ sở phải
học tác phẩm yếu kém ấy thì hậu quả còn
nguy hại hơn.
Nguyên nhân
Vậy nguyên nhân nào dẫn tới thực trạng đáng
buồn kể trên? Theo chúng tôi có một số
nguyên nhân cơ bản sau:
1. Các Sở Giáo dục và Đào tạo tại các tỉnh
phần lớn chƣa thực hiện hết trách nhiệm của
mình. Bởi thực trạng kể trên đã kéo dài nhiều
năm, ai cũng biết nhƣng cấp lãnh đạo cao
nhất trong ngành giáo dục ở từng tỉnh lại chƣa
có giải pháp cụ thể nhằm giải quyết thực
trạng ấy. Hơn thế nữa, dù có những khó khăn
cả về phía chủ quan và khách quan, việc
không thực hiện nghiêm túc chƣơng trình
giảng dạy do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành cũng là một thiếu sót không thể để kéo
dài hơn đƣợc nữa.
2. Công tác lý luận và phê bình văn học ở các
Hội Văn học nghệ thuật các tỉnh còn yếu và
nhiều bất cập trong cơ chế hoạt động. Với lực
lƣợng còn rất “mỏng”, hầu hết lại không
chuyên, kinh phí rất eo hẹp, việc biên soạn
một giáo trình văn học địa phƣơng là không
hề dễ dàng.
3. Các trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm ở từng tỉnh
có nhiệm vụ đào tạo giáo viên từ cấp học của
Mầm non, Tiểu học, Trung học Cơ sở có trình
độ từ Trung cấp đến Cao đẳng Sƣ phạm cho
tỉnh nhà. Đây cũng là nơi tập trung đội ngũ
giáo viên có trình độ cao nhất của từng địa
phƣơng, nếu tỉnh đó chƣa có trƣờng Đại học
nhƣ Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang,
Lạng Sơn…Nếu các trƣờng Cao đẳng Sƣ
phạm của từng tỉnh sớm phát huy vai trò
“đầu tàu” của mình thì thực trạng đáng
buồn kể trên đã không tồn tại.
3. Sự phối kết hợp giữa Sở Giáo dục và Đào
tạo, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh và trƣờng
Cao đẳng Sƣ phạm tỉnh chƣa tốt. Với một
giáo trình văn học địa phƣơng nhƣ chúng tôi
đã thực hiện ở Thái Nguyên, việc phối kết
hợp giữa ba cơ quan kể trên đã đem lại kết
quả tích cực.
GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM
Giải pháp
1. Giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất là ý
thức trách nhiệm của các Sở Giáo dục và Đào
tạo ở các tỉnh. Chỉ có Sở Giáo dục và Đào tạo
mới có thể có nguồn kinh phí (hoặc từ nguồn
ngân sách hoặc từ nguồn xã hội hóa) để biên
soạn giáo trình văn học địa phƣơng bám sát
chƣơng trình đã quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo cho tỉnh mình. Việc thực hiện kế
hoạch đó không thể thiếu sự phối hợp chặt
chẽ với Hội Văn học Nghệ thuật địa phƣơng
và trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm của từng tỉnh.
2. Mời các chuyên gia có kinh nghiệm từ các
Trƣờng Đại học để biên soạn giáo trình văn
học địa phƣơng cho tỉnh mình.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trƣơng và
kinh phí cho các Sở Giáo dục và Đào tạo tại
các tỉnh thực hiện nhiệm vụ này. Không chỉ
dừng lại ở đó, cần có một tầm nhìn xa để xây
dựng các bộ giáo trình văn học địa phƣơng
cho từng vùng văn hóa trên cả nƣớc nhƣ văn
học địa phƣơng vùng văn hóa Việt Bắc, Tây
Bắc, đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên,
đồng bằng sông Cửu Long… Để từ đó, giáo
viên và học sinh cấp Trung học Cơ sở từng
tỉnh vừa có cái nhìn chuyên biệt vừa có cái
nhìn toàn diện khi đặt nền văn học địa
phƣơng của tỉnh mình đối sánh với các nền
văn học địa phƣơng cùng nằm trong một vùng
văn hóa. Chỉ có nhƣ vậy, chúng ta không chỉ
tạo sự thống nhất về giáo trình trong chƣơng
trình giảng dạy phần văn học địa phƣơng cho
từng tỉnh, mà còn qua đó giáo dục cho học
sinh tình yêu, lòng tự hào với quê hƣơng, đất
nƣớc, qua thành tựu của văn học địa phƣơng
gần gũi với mỗi ngƣời.
Một số bài học kinh nghiệm
Sau khi nghiên cứu và biên soạn xong ba cuốn
giáo trình văn học địa phƣơng cho ba tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang, chúng tôi
thấy có một số bài học kinh nghiệm sau:
1. Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Nguyên đã có
một cách làm hay khi chủ động hợp tác với
Nguyễn Đức Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 161 - 163
163
Hội Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên, một số
chuyên gia có kinh nghiệm của trƣờng Đại
học Sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên cùng
biên soạn cuốn “Văn học Thái Nguyên” in
lần đầu 26.000 cuốn và có sự phản hồi tích
cực từ các trƣờng Trung học Cơ sở trên toàn
tỉnh. Hiện nay, yêu cầu hoàn thiện và tái bản
đã đƣợc đặt ra, nhóm biên soạn đang tích cực
làm việc để sớm đáp ứng yêu cầu đó.
2. Cái khó nhất là xây dựng tiêu chí để tuyển
chọn tác phẩm đƣa vào giảng dạy trong nhà
trƣờng. Chúng tôi đã xây dựng một số tiêu chí
sau để tuyển chọn tác phẩm: Tác phẩm hay
của tác giả là ngƣời địa phƣơng; Tác phẩm
hay của những tác giả đang sống và viết ở địa
phƣơng; ƣu tiên tác phẩm hay viết về đát và
ngƣời ở địa phƣơng ấy; Dù viết về đề tài nào
thì tác phẩm đƣợc lựa chọn cũng phải phù
hợp với tâm sinh lí và trình độ tiếp nhận của
học sinh cấp Trung học Cơ sở.
3. Sau khi biên soạn, giáo trình ấy không chỉ
đƣợc đƣa ra hội thảo mà còn đƣợc dạy thử
nghiệm ở một số trƣờng Trung học Cơ sở
trong tỉnh (từ trƣờng ở thành phố đến trƣờng
ở vùng sâu, vùng xa). Từ việc xử lí các ý kiến
phản hồi thu đƣợc mà chỉnh lí để giáo trình
phục vụ thiết thực cho đối tƣợng tiếp nhận.
KẾT LUẬN
Việc xây dựng giáo trình văn học địa phƣơng
là việc làm trƣớc hết của ngành giáo dục ở
từng tỉnh. Việc mời, thuê khoán chuyên gia
thực hiện cũng cần có sự phối hợp đồng bộ
với Sở Giáo dục và Đào tạo, Hội Văn học
Nghệ thuật ở từng địa phƣơng. Bởi mỗi nền
văn học địa phƣơng ở từng tỉnh đều có bản
sắc riêng, lại gắn bó chặt chẽ với điều kiện,
đặc điểm kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội của
từng địa phƣơng, do đó, giáo trình văn học
địa phƣơng không chỉ thấm đƣợm tinh hoa
của văn hoc tỉnh nhà mà còn phải làm nổi bật
bản sắc văn hóa của tỉnh, của vùng miền.
Không chỉ có thế, bên cạnh thành tựu thì hạn
chế và hƣớng phát triển của nền văn học địa
phƣơng ấy cũng phải đƣợc đề cập tới. Chỉ có
nhƣ vậy, giáo trình văn học địa phƣơng mới
đáp ứng đƣợc mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra
trong chƣơng trình giảng dạy phần văn học
địa phƣơng cho cấp Trung học Cơ sở do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành. Dù đã là
muộn, công việc biên soạn giáo trình văn học
địa phƣơng của từng tỉnh cũng là một nhiệm
vụ cấp thiết đòi hỏi sự „đi đầu” của từng Sở
Giáo dục và Đào tạo và sự chung tay của các
cơ quan văn hóa trong tỉnh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].TS. Nguyễn Đức Hạnh, “Nghiên cứu triển khai
giảng dạy phần văn học địa phương cho cấp Trung
học Cơ sở tại hai tỉnh Bắc Kạn và Tuyên Quang” –
Đề tài cấp Bộ, Mã số B2009 – TN04 – 10.
[2]. Nhiều tác giả, “Văn học Thái nguyên”. Sở
Giáo dục và Đào tạo Thái Nguyên, (2008)
[3]. Nhiều tác giả, “Văn hóa, văn học và ngôn ngữ
địa phương tỉnh Thái Nguyên”, Trƣờng Cao đẳng
Sƣ phạm Thái Nguyên, (2010).
[4]. Nhiều tác giả, “Văn hóa, văn học và ngôn ngữ
địa phương tỉnh Tuyên Quang”, trƣờng Cao đẳng
Sƣ phạm Tuyên Quang, (2010).
SUMMARY
STUDY ON TEACHING LOCAL LITERATURE AT SOME MOUNTAINOUS
PROVINCES IN THE NORTH VIETNAM - CURRENT SITUATION AND
SOLUTIONS Nguyen Duc Hanh
* - College of Education - TNU
In the teaching of literature program for secondary schools. There is a part for teaching at
provincial level. Our survey in six northern mountainous provinces, teaching literature localities
program has still inadequate.
Lack of uniform syllabus, spontaneous teaching is still occurring. So, we want to propose some
solutions to address these shortcomings.
Key words: local literature, research teaching, mountainous northern Vietnam
* Tel: 0913394322