tailieu.vncty.com chuyen de bao hiem y te tu nguyen

66
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp MỤC LỤC Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

Upload: tran-duc-anh

Post on 02-Jul-2015

303 views

Category:

Documents


0 download

DESCRIPTION

http://tailieu.vncty.com/

TRANSCRIPT

Page 1: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

MỤC LỤC

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

Page 2: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHYT : Bảo hiểm y tế

BHYT TN : Bảo hiểm y tế tự nguyện

PTTT : Phương thức thanh toán

KCB : Khám chữa bệnh

HSSV : Học sinh, sinh viên

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

Page 3: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Bảng 1: Số học sinh – sinh viên tham gia BHYT giai đoạn 1998-2009............Error:

Reference source not found

Bảng 2: Số đối tượng tham gia BHYT TN nhân dân......Error: Reference source not

found

Bảng 3: Số thu BHYT HSSV và BHYT TN nhân dân giai đoạn 2003-2009...........39

Bảng 4: Tình hình chi BHYT HSSV tại BHXH Việt Nam năm 2003-2009.....Error:

Reference source not found

Biểu 1: Cơ cấu diện bao phủ BHYT năm 2007.....Error: Reference source not found

Biểu 2: Cơ cấu diện bao phủ BHYT năm 2008... . .Error: Reference source not found

Biểu 3: Diện bao phủ BHYT tự nguyện nhân dân. Error: Reference source not found

Biểu 4: Tình hình thu BHYT tự ngyện..................Error: Reference source not found

Biểu 5: Tổng chi phí KCB BHYT của đối tượng tự nguyện: Error: Reference source

not found

Biểu 6: Tổng chi phí KCB BHYT nội trú..............Error: Reference source not found

Biểu 7: Chi phí bình quân KCB ngoại, nội trú/thẻ.Error: Reference source not found

Biểu 8: Cân đối thu-chi BHYT tự nguyện.............Error: Reference source not found

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

Page 4: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU

Để đảm bảo chăm sóc sức khoẻ cho mọi người dân và đảm bảo sự bình đẳng

trong khám chữa bệnh thì việc thực hiện BHYT là vô cùng cần thiết. Điều 39, Hiến

pháp nước CHXHCN Việt Nam khẳng định: "Thực hiện BHYT tạo điều kiện để mọi

người dân được chăm sóc sức khoẻ".

Theo Luật BHYT số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 của Quốc

hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến năm 2014 sẽ thực hiện BHYT

toàn dân bằng cách chuyển dần các đối tượng tham gia BHYT sang diện BHYT bắt

buộc. Trong luật cũng quy định lộ trình để thực hiện BHYT toàn dân, các đối tượng

trong thời gian chưa thực hiện BHYT bắt buộc theo lộ trình quy định có quyền tham

gia BHYT tự nguyện theo quy định của Chính phủ.

Tuy nhiên, hiện nay nước ta vẫn còn trên 50% dân số chưa có BHYT. Trong đó

phần lớn là những người nông dân, những lao động tự do,... thuộc nhóm đối tượng

tham gia BHYT tự nguyện. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, khi chưa thể triển khai

BHYT toàn dân thì việc phát triển BHYT tự nguyện là việc làm cần thiết, là giai

đoạn quá độ để tiến tới BHYT toàn dân. BHYT tự nguyện tạo điều kiện để các đối

tượng không thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc, đặc biệt là những người có thu

nhập thấp được khám chữa bệnh, giúp họ thoát khỏi bẫy nghèo do ốm đau, bệnh tật.

Như vậy, BHYT tự nguyện là chính sách an sinh xã hội. Một trong những

nguyên tắc cơ bản của hệ thống an sinh xã hội là đảm bảo tính bền vững tài chính.

Trong những năm qua, nếu như BHYT tự nguyện học sinh, sinh viên ngày càng

phát triển và đi vào nề nếp thì việc BHYT tự nguyện nhân dân (BHYT tự nguyện ở

nước ta bao gồm BHYT tự nguyện học sinh, sinh viên và BHYT tự nguyện nhân

dân) còn gặp nhiều khó khăn trong tổ chức thực hiện, trong việc cân đối quỹ do số

lượng người tham gia ít, do mức đóng thấp, do có sự lựa chọn ngược,….Đặc biệt là

từ khi thực hiện BHYT theo Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị Định số

63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ, chính sách BHYT TN càng tỏ ra

có nhiều vấn đề bất cập. Vì muốn đi sâu nghiên cứu về BHYT TN nhằm góp một

vài ý kiến căn cứ vào lý luận và thực tiễn, do vậy em đã chọn đề tài: “Bảo hiểm

y tế tự nguyện Việt Nam giai đoạn 2003-2009”.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

1

Page 5: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Đề tài được kết cấu thành 3 chương:

Chương I : Cơ sở lý luận về bảo hiểm y tế và bảo hiểm y tế tự nguyện.

Chương II : Thực trạng triển khai bảo hiểm y tế tự nguyện Việt Nam.

Chương III : Giải pháp trong công tác triển khai bảo hiểm y tế tự nguyện

Việt Nam.

Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Ts. Nguyễn Thị Hải Đường,

chú Minh Thảo- Phó tổng giám đốc BHXH Việt Nam và các cố chú trong ban

thực hiện chính sách BHYT thuộc BHXH Việt Nam đã tận tình hướng dẫn em

hoàn thành đề tài này.

Em xin chân thành cảm ơn!

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

2

Page 6: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ1.1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ

1.1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm y tế.

Con người ai cũng muốn sống khỏe mạnh, ấm no, hạnh phúc. Nhưng trong đời

người, những rủi ro bất ngờ về sức khỏe như ốm đau, bệnh tật luôn có thể xảy ra.

Các chi phí khám và chữa bệnh này không được xác định trước, mang tính đột xuất,

vì vậy cho dù lớn hay nhỏ đều gây khó khăn cho ngân quỹ mỗi gia đình, mỗi cá

nhân, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp. không những thế, những rủi ro này

còn tái phát, biến chứng…vừa làm suy giảm sức khỏe, suy giảm khả năng lao động,

vừa kéo dài thời gian không tham gia lao động sẽ làm cho khó khăn trong cuộc sống

tăng lên.

Để khắc phục khó khăn cũng như chủ động về tài chính khi rủi ro bất ngờ về sức

khỏe xảy ra, người ta đã dùng nhiều biện pháp khắc phục khác nhau như tự tích lũy,

bán tài sản, kêu gọi sự hỗ trợ của người thân, đi vay mỗi biện pháp đều có ưu điểm

và hạn chế nhất định. Tuy nhiên, không thể áp dụng trong trường hợp rủi ro kéo dài

về thời gian và lặp đi lặp lại. Vì thế, cuối thế kỉ XIX, BHYT ra đời nhằm giúp đỡ

mọi người lao động và gia đình khi gặp rủi ro về sức khỏe để ổn định đời sống, góp

phần đảm bảo an sinh xã hội.

Đồng thời cùng với tăng trưởng kinh tế, đời sống con người được nâng cao

và nhu cầu khám chữa bệnh cũng tăng lên. Bởi vì khi điều kiện kinh tế cho phép thì

dù trạng thái sức khỏe thay đổi rất ít như nhức đầu, mệt mỏi kém ngủ…đều có nhu

cầu khám chữa bệnh. Hơn nữa, một số bệnh mới và nguy hiểm xuất hiện, đe dọa đời

sống con người. Trong lúc đó chi phí khám chữa bệnh ngày càng tăng lên vì:

- Ngành y tế sử dụng các thiết bị y tế hiện đại, đắt tiền trong việc chuẩn đoán

và điều trị bệnh.

- Các loại biệt dược, thuốc men tăng giá do biến động giá cả chung của thị

trường. Đặc biệt có những bệnh phải dùng thuốc quý hiếm, chi phí rất lớn.

Do đó phải huy động các thành viên trong xã hội đóng góp nhằm giảm gánh nặng

cho ngân sách nhà nước, và cũng để phục vụ chính bản thân mình khi gặp rủi ro về sức

khỏe. Càng ngày BHYT càng tỏ ra không thể thiếu trong đời sống con người.

Trong đời sống kinh tế - xã hội, ngoài những tác dụng to lớn của bảo hiểm nói

chung, BHYT còn có tác dụng góp phần khắc phục những thiếu hụt về tài chính,

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

3

Page 7: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, đồng thời nâng cao chất lượng và thực hiện công

bằng xã hội trong khám chữa bệnh cho nhân dân. Chính vậy BHYT ngày càng tỏ ra

không thể thiếu trong đời sống của mọi người.

1.1.2 Khái niệm, bản chất, vai trò, chức năng của bảo hiểm y tế.

1.1.2.1 Khái niệm

Đối với mỗi cá nhân, nhu cầu về chăm sóc y tế phần lớn là không thể đoán

trước được và khi tình trạng ốm đau xảy ra, người bệnh phải chi trả chi phí y tế rất

lớn và đối mặt với việc không có tiền do không làm việc vì ốm đau. Bảo hiểm là

một cơ chế chuyển tiền từ lúc khỏe cần ít sang cho lúc cần nhiều - ốm. Bằng cách

chia sẻ rủi ro của mình với những người cũng mua bảo hiểm y tế, một cá nhân có

thể bảo đảm một sự bảo vệ hạn chế rủi ro tài chính do ốm đau bằng cách trả trước

một khoản phí bảo hiểm không nhiều trong từng khoảng thời gian đều đặn.

Có 2 loại hình BHYT chính là BHYT xã hội của Chính phủ (phi lợi nhuận)

và BHYT thương mại của tư nhân (có lợi nhuận).

Bảo hiểm y tế xã hội là một quỹ độc lập do Chính phủ thành lập, qui định

những quyền lợi bảo hiểm y tế rõ ràng cho người tham gia BHYT. Quỹ này thường

được gọi là BHYT quốc gia. Việc tham gia bảo hiểm y tế xã hội là bắt buộc đối với

một số nhóm dân cư nhất định và mức đóng góp được xác định dựa trên thu nhập

(khả năng chi trả) chứ không phải dựa trên mức độ rủi ro về sức khoẻ .

Mối quan hệ giữa các bên trong thị trường bảo hiểm y tế được Catherine P Conn &

Veronica Walford (1998) tóm tắt như sau: Người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo

hiểm y tế cho cơ quan BHYT hay quỹ BHYT. Cơ quan BHYT chịu trách nhiệm thu

phí và chi trả chi phí y tế cho các cơ sở khám chữa bệnh. Cơ sở khám chữa bệnh thực

hiện các dịch vụ y tế cho người có thẻ và thanh toán chi phí với cơ quan BHYT :

Do mối quan hệ 3 bên như trên và kết hợp với các đặc trưng của khu vực y

tế nên thị trường BHYT có các đặc tính cần lưu ý so với các loại thị trường bảo

hiểm khác:

- Bất đối xứng thông tin: Trong thị trường bảo hiểm sức khỏe có hai khía cạnh

mà thông tin bất đối xứng cần nhận biết đó là: phía cầu (người tiêu dùng muốn mua

bảo hiểm) là người có nhiều thông tin hơn về giao dịch, về trạng thái sức khỏe hiện

tại hay tương lai và xu hướng sử dụng chăm sóc y tế của mình so với nhà cung cấp

bảo hiểm. Xuất phát từ đặc tính bất đối xứng thông tin mà trong thị trường bảo hiểm

y tế cũng phải đối mặt với sự chọn lọc có hại (Adverse selection) vì những người có

hay chắc chắn có bệnh sẽ cần điều trị nhiều hơn, cần nhiều thuốc hơn nhưng quỹ

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

4

Page 8: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

bảo hiểm không có thông tin này và mức phí được xác định ở mức trung bình để

bảo vệ cả nhóm dân trong xã hội. Điều này sẽ dẫn đến việc chi trả của quỹ BHYT

tăng cao, khi đó cơ quan BHYT sẽ tăng mức phí. Khi tăng mức phí đóng BHYT sẽ

hạn chế sự tham gia của những đối tượng có mức độ rủi ro thấp (người khỏe, thanh

niên…). Bất đối xứng thông tin giữa phía cung (bác sĩ, tổ chức cung ứng dịch vụ)

thường biết nhiều hơn về đối tượng của giao dịch, về việc điều trị thích hợp đối với

bệnh nhân, về lợi ích và toàn bộ chi phí của việc đó, kể cả các rủi ro và những tác

động phụ so với phía cầu - bệnh nhân hoặc hãng bảo hiểm trả thay cho bệnh nhân.

Sự bất đối xứng thông tin như vậy ảnh hưởng mạnh đến ứng xử của cả hai phía.

Hậu quả là sẽ có hiện tượng thuốc, các dịch vụ y tế được chỉ định quá mức cần thiết

hoặc có sự lạm dụng các dịch vụ kỹ thuật cao đắt tiền trong chẩn đoán và điều trị

dẫn đến chi phí y tế gia tăng.

- Hậu quả về tính nhân đạo - Moral hazard: Trường hợp bảo hiểm y tế trả toàn

bộ chi phí điều trị thì một mặt là thực hiện việc chữa bệnh tốt hơn, mặt khác khi

bệnh nhân không phải chi trả gì nên sẽ không khuyến khích các bệnh nhân sử dụng

tiết kiệm các nguồn lực y tế. Trong trường hợp này, bác sĩ và bệnh nhân là đồng

minh. Bác sỹ do lương tâm nghề nghiệp thúc đẩy họ muốn chữa trị bệnh nhân càng

nhanh và càng hiệu quả không chú ý đến việc họ được thanh toán lại là bao nhiêu và

sự liên minh giữa bác sĩ và bệnh nhân đã đối đầu với cơ quan bảo hiểm y tế và làm

cho chi phí y tế gia tăng, mất cân bằng quỹ, giảm khả năng bao cấp chéo - cơ sở của

tính nhân đạo trong BHYT.

Đúc rút kinh nghiệm trên thế giới, ngày 15/8/1992 Hội đồng bộ trưởng ( nay là

chính phủ ) đã ban hành Nghị định số 229/HĐBT ban hành điều lệ BHYT, khai sinh

ra chính sách BHYT ở Việt Nam, BHYT Việt Nam chính thức ra đời, được coi là

một loại hình đặc biệt, là chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện mang ý

nghĩa cộng đồng sâu sắc. Hay BHYT là cơ chế kinh tế, là nơi tập chung nguồn lực tài

chính từ sự đóng góp của cộng đồng xã hội để chi phí khám chữa bệnh cho người

tham gia đóng góp vào quỹ khi họ gặp rủi ro về sức khỏe cần phải khám chữa bệnh.

Theo quy định của pháp luật nước ta: BHYT là một chính sách xã hội do nhà nước tổ

chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người lao động, các tổ chức và cá

nhân để thanh toán chi phí KCB cho người có thẻ BHYT khi họ bị ốm đau. Tôn chỉ

của BHYT không nằm ngoài mục tiêu an sinh xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận.

Đây không là loại hình bảo hiểm thương mại. Đặc điểm cơ bản của BHYT xã hội so

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

5

Page 9: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

với các loại hình bảo hiểm thương mại là mức đóng góp vào khả năng thu nhập của

mỗi nhóm dân cư, nhưng mức hưởng thụ lại theo nhu cầu điều trị. Khi số người tham

gia càng đông thì khả năng đáp ứng quyền lợi của người tham gia BHYT càng tốt,

ngược lại nếu số người tham gia càng ít thì việc đảm bảo quyền lợi cho người tham

gia cũng bị hạn chế.

Khái niệm về BHYT được trình bày trong cuốn “ từ điển bách khoa Việt Nam

I” xuất bản năm 1995, nhà xuất bản Bách khoa – trang 151 như sau: “BHYT: Loại

hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức, quản lí nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân,

tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe cho nhân dân”.

1.1.2.2 Bản chất của BHYT.

Từ những khái quát trên, cùng với những thực tế đã diễn ra trong lịch sử phát

triển BHXH, BHYT trên thế giới hơn 100 năm qua và ở nước ta hơn 13 năm nay,

chúng ta có thể phân tích đầy đủ hơn về bản chất của BHYT.

BHYT trước hết là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội. Cùng

với các hệ thống an sinh xã hội và hệ thống cứu trợ xã hội, hoạt động BHYT nói

riêng và hoạt động của BHXH nói chung đã thực sự trở thành nền móng vững chắc

cho sự bình ổn xã hội. Chính vì vai trò quan trọng của BHXH, cho nên mọi quốc gia

trên thế giới hoạt động BHXH luôn do nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện theo hệ

thống pháp luật về BHXH.

Là một chính sách xã hội, BHYT vừa mang tính chất xã hội, vừa mang bản chất

kinh tế.

- Bản chất xã hội.

BHYT là loại hình bảo hiểm vì mục tiêu an sinh xã hội. Bản chất xã hội của

BHYT được thể hiện trên các khía cạnh sau:

+ Thứ nhất là sự bảo trợ của Nhà nước về chăm sóc y tế dành cho các thành

viên tham gia thể hiện BHYT một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội của

mỗi quốc gia nhằm đảm bảo một trong những quyền thiêng liêng của con người, đó là

quyền được chăm sóc y tế. Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe không phải thuần túy chỉ là

trách nhiệm của mỗi cá nhân riêng lẻ, mà là trách nhiệm chung của cả cộng đồng. Bởi

lẽ, nguy cơ về bệnh tật có thể đến với bất kể ai, không phân biệt quốc gia, dân tộc, và

hơn nữa không ai có thể một mình đơn phương chống lại bệnh tật. Lẽ đương việc bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe trước tiên thuộc về mỗi cá nhân, nhưng vẫn cần sự trợ giúp

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

6

Page 10: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

mang tính nhà nước. Ở đó Nhà nước giữ vai trò quan trọng, là người tổ chức, quản lí

và bảo trợ.

+ Thứ hai: Là sự liên kết, chia sẻ mang tính cộng đồng giữa các thành viên

trong xã hội. Bên cạnh sự trợ giúp mang tính Nhà nước, tính chất xã hội của BHYT

còn thể hiện ở sự chia sẻ, liên kết của các thành viên trong xã hội thông qua đóng góp

dựa trên thu nhập. Các thành viên trong xã hội tham gia đóng góp một phần thu nhập

vào quỹ chung để chăm sóc y tế cho bản thân mình và cho các thành viên khác. Bệnh

tật và những rủi ro về sức khỏe không phải lúc nào cũng xuất hiện cùng một lúc với

tất cả mọi người, chúng cũng không xuất hiện giống nhau ở mỗi người. Nếu cứ để ai

có bệnh người đó tự chống đỡ sẽ gây khó khăn cho chính họ. Thực tế này đòi hỏi cần

có một sự liên kết mang tính cộng đồng rộng rãi để chia sẻ rủi ro bệnh tật. Một quỹ

chung cho chăm sóc sức khỏe sẽ điều tiết để nhiều người chưa hoặc không ốm đau

cho người ốm, người ốm nhẹ giúp người ốm nặng.

Tính xã hội tương trợ cộng đồng nhân văn của BHYT còn thể hiện ở sự đoàn

kết xã hội trong chăm sóc y tế. Chăm sóc y tế thông qua BHYT không phân biệt đóng

nhiều hay ít, không phân biệt thành phần xã hội, tôn giáo, giai cấp mà phụ thuộc vào

mức độ rủi ro về bệnh tật. Thực tế cho thấy những người nghèo, người có thu nhập

thấp thường là người hay ốm đau và cần nhiều kinh phí chữa bệnh. Hơn nữa khi ốm

đau lại làm giảm hoặc mất thu nhập nên càng làm cho họ khó khăn hơn về tài chính

để tiếp cận các dịch vụ y tế. BHYT mang tính xã hội là một giải pháp thực tế đưa họ

tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Như vậy bản chất xã hội của BHYT thể hiện sự trợ giúp mang tính Nhà nước và

sự tương hỗ mang tính cộng đồng. BHYT thể hiện bản chất nhân đạo và trình độ văn

minh của xã hội phát triển.

- Bản chất kinh tế.

BHYT là một chính sách xã hội, hoạt động vì mục tiêu trợ giúp xã hội, không vì

lợi nhuận nhưng nó lại mang yếu tố kinh tế, thuộc phạm trù kinh tế – y tế. Thực hiện

BHYT có hiệu quả là thực hiện một bài toán kinh tế y tế. BHYT có chức năng làm

nhiệm vụ phân phối lại thu nhập. Có thể thấy được điều này nay chính trong bản chất

xã hội ở sự tương trợ xã hội mang tính cộng đồng của BHYT. Có hai góc độ thể hiện

chính đó là sự phân phối trực tiếp và sự phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp thể

hiện ở sự chuyển phần thu nhập của người tạm thời khỏe mạnh sang người đang ốm,

của người bệnh nhẹ sang người bệnh nặng, của người trẻ sang người già yếu, thông

qua sự điều hành luân chuyển của chính phần thu nhập đóng trực tiếp cho quỹ

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

7

Page 11: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHYT. Phân phối gián tiếp thể hiện ở sự hỗ trợ giữa người giàu và người nghèo,

người thu nhập cao và người thu nhập thấp.

1.1.2.3 Vai trò của BHYT.

BHYT là một phạm trù kinh tế tất yếu của xã hội phát triển, đóng vai trò quan

trọng không những đối với người tham gia bảo hiểm, các cơ sở y tế, mà còn là thành

tố quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác y tế nhằm huy động

nguồn tài chính ổn định, phát triển đa dạng các thành phần tham gia KCB cho nhân

dân. Vai trò của BHYT được thể hiện như sau:

Thứ nhất: BHYT là nguồn hỗ trợ tài chính giúp người tham gia khắc phục

những khó khăn về kinh tế khi bất ngờ ốm đau, bệnh tật. Bởi vì trong quá trình điều

trị bệnh chi phí rất tốn kém ảnh hưởng đến ngân sách gia đình, trong khi đó thu nhập

của họ bị giảm đáng kể thậm chí mất thu nhập.

Thứ hai: Góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. quốc gia trên thế

giới thường có các khoản chi từ ngân sách cho hệ thống y tế. Tuy nhiên ở một số

quốc gia khác, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển các khoản chi này thường

chưa đáp ứng được nhu cầu ngành y. Ở phần lớn quốc gia, chính phủ chỉ đầu tư

khoảng 60% ngân sách y tế. Có nhiều biện pháp mà chính phủ nước ta đã thực hiện

để giải quyết vấn đề này, như sự đóng góp của cộng đồng xã hội, trong đó có biện

pháp thu viện phí của người đến khám, chữa bệnh. Nhưng đôi khi biện pháp này lại

vấp phải vấn đề trở ngại từ mức sống của dân cư. Vì vậy, biện pháp hiệu quả nhất là

thực hiện BHYT để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, khắc phục sự thiếu hụt

về tài chính, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của người dân.

Thứ ba: BHYT góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện công

bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, thể hiện rõ nét tính nhân đạo, công

bằng xã hội sâu sắc. Những người tham gia BHYT, dù ở địa vị, hoàn cảnh nào, mức

đóng là bao nhiêu, khi ốm đau cũng nhận được sự chăm sóc y tế bình đẳng như nhau,

xóa bỏ khoảng cách giàu nghèo khi thụ hưởng chế độ KCB. Sự thiếu hụt trong ngân

sách thực tế đã không đảm bảo nhu cầu KCB. Số lượng và chất lượng cơ sở vật chất

trang thiết bị của ngành y tế không những không theo kịp sự phát triển nhu cầu KCB

của người dân mà còn bị giảm sút. Vì vậy thông qua việc đóng góp vào quỹ BHYT sẽ

hỗ trợ ngân sách y tế, nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng phục vụ của ngành y.

Thứ tư: BHYT nâng cao tính cộng đồng và gắn bó mọi thành viên trong xã hội.

Trên cơ sở quy luật số lớn, phương châm của BHYT là “ mình vì mọi người, mọi

người vì mình”, “lá lành đùm lá rách”,lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Vì vậy mọi thành

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

8

Page 12: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

viên trong xã hội gắn bó và tính cộng đồng được nâng cao đặc biệt là giúp giáo dục

trẻ em ngay từ khi còn nhỏ tuổi tính cộng đồng thông qua loại hình BHYT học sinh –

sinh viên.

Thứ năm: BHYT làm tăng chất lượng khám chữa bệnh và quản lí y tế thông qua

hoạt động quỹ BHYT đầu tư. Lúc đó trang thiết bị về y tế sẽ hiện đại hơn, có kinh phí

để sản xuất các loại thuốc đặc trị khám chữa bệnh hiểm nghèo, có điều kiện nâng cấp

các cơ sở KCB một cách hệ thống và hoàn thiện hơn, giúp người dân đi khám chữa

bệnh được thuận lợi. Đồng thời đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo tốt hơn, cá y bác sĩ

có điều kiện nâng cao tay nghề, tích lũy kinh nghiệm, có trách nhiệm đối với công

việc hơn, dẫn đến sự quản lý dễ dàng và chặt chẽ hơn trong KCB.

Thứ sáu: Chỉ tiêu phúc lợi xã hội trong mỗi nước cúng biểu hiện trình độ phát

triển của nước đó. Do vậy, BHYT là một công cụ vĩ mô của nhà nước để thực hiện

tốt phúc lợi xã hội, đồng thời tạo nguồn tài chính hỗ trợ, cung cấp cho hoạt động

chăm sóc sức khỏe của người dân.

Thứ bảy: BHYT còn góp phần đề phòng và hạn chế những bệnh hiểm nghèo

theo phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Với việc kết hợp với các cơ sở

khám chữa bệnh BHYT kiểm tra sức khỏe, từ đó phát hiện bệnh hiểm nghèo và có

phương pháp chữa trị kịp thời, tránh được những hậu quả xấu.

Thứ tám: BHYT còn góp phần đổi mới cơ chế quản lý, cụ thể: Để có một lực

lượng lao động trong xã hội có thể lực và trí lực, không thể không chăm sóc cho bà

mẹ và trẻ em, không thể để người lao động làm việc trong điều kiện không đảm bảo

vệ sinh, môi trường ô nhiễm….Vì thế việc chăm lo bảo vệ sức khỏe là nhiệm vụ của

mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp và cũng là nhiệm vụ chung của xã

hội.Thông qua BHYT, mạng lưới KCB sẽ được sắp xếp lại, sẽ không còn phân tuyến

theo địa giới hành chính một các máy móc, mà phân theo kỹ thuật. đảm bảo thuận lợi

cho người bệnh, tạo điều kiện cho họ lựa chọn cơ sở điều trị có chất lượng phù hợp.

BHYT ra đời đòi hỏi người được sử dụng dịch vụ y tế và người cung cấp dịch vụ

này phải biết rõ chi phí của một lần KCB đã hợp lí chưa, chi phí cho quá trình vận

hành bộ máy của khu vực KCB đã đảm bảo chưa, những chi phí đó phải được hạch

toán và quỹ bảo hiểm phải được trang trải, thông đó đòi hỏi cơ chế quản lý của ngành

y tế phải đổi mới, để tạo ra chất lượng mới trong dịch vụ y tế phù hợp với tiến trình

đổi mới đất nước và định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

1.1.2.4 Chức năng của BHYT.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

9

Page 13: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHYT là một chính sách kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, góp phần ổn định đời

sống xã hội và mang tính nhân văn cao cả. Do vậy, BHYT có một số chức năng sau:

• BHYT là một hoạt động dịch vụ:

Thực vậy khi có người tham gia BHYT thì cơ quan BHYT có nhiệm vụ phục

vụ người được bảo hiểm trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực.Khi hợp

đồng thực hiện, cơ quan BHYT có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện hợp đồng

để người được bảo hiểm đảm bảo và t tài chính khi bị ốm đau và thực hiện chi

trả chi phí KCB cho người tham gia BHYT. Mục đích của BHYT là nhằm

đảm bảo sự tiếp cận dịch vụ y tế và công bằng trong KCB cho người tham

gia. Hoạt động BHYT không vì mục đích lợi nhuận mà vì mục đích xã hội.

Khác với BHYT thương mại, BHYT thương mại là hoạt động kinh doanh vì

mục đích lợi nhuận và nó chỉ cung cấp dịch vụ cho nhóm thu nhập khá,

không bao gồm cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo, cho đối tượng được

ưu đãi như trong BHXH về y tế.

• BHYT là một công cụ an toàn:

Vì khi bị ốm đau, bệnh tật, nhất là trong trường hợp bệnh hiểm nghèo hoặc

thời gian KCB kéo dài. Khi đó người bệnh và gia đình họ phải mất một khoản chi phí

lớn, có thể họ có khả năng thanh toán được hoặc họ sẽ lâm vào tình trạng kiệt quệ về

kinh tế. Nhưng khi tham gia BHYT người bệnh sẽ được trả hoàn toàn hoặc một phần

chi phí KCB. Như vậy sẽ bớt được phần nào gánh nặng về tài chính cho người bệnh

cũng như nhân thân của họ. Vì vậy, thông qua việc chi trả trước quỹ BHYT, người

tham gia BHYT sẽ thoát khỏi nỗi lo lắng khi bị ốm đau bệnh tật, đặc biệt trong

trường hợp bệnh nặng phải sư dụng các dịch vụ y tế có chi phí cao.

• BHYT là một công cụ tiết kiệm:

Khi tham gia BHYT mọi người đều có nghĩa vụ đóng góp phí. Và từ đây hình

thành lên quỹ BHYT, quỹ này dung để chi trả các chi phí KCB cho bệnh nhân tham

gia BHYT, phần còn lại có thể đem đi đầu tư để đảm bảo và tăng trưởng quỹ. Tuy

nhiên chi phí cho hoạt động BHYT luôn phát sinh, nguồn quỹ cho vay phải sau một

thời gian mới thu hồi và khi đem đi đầu tư kinh doanh sẽ gặp phải một số rủi ro nhất

định. Vì vậy, cơ quan BHYT phải có quỹ dự phòng và phải được tính toán hợp lý.

Việc đầu tư tăng trưởng quỹ phải được thực hiện theo nguyên tắc bảo toàn và thực

hiện các quy định của pháp luật về vốn hiện hành.

1.1.3 Nội dung cơ bản của BHYT.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

10

Page 14: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1.1.3.1 Đối tượng bảo hiểm y tế.

Hoạt động bảo hiểm y tế thường bao gồm: phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi

chức năng. Tùy theo tính chất và phạm vi hoạt động, BHYT ở mỗi quốc gia có tên

gọi khác nhau như bảo hiểm sức khỏe BHYT.

Dù tên gọi có khác nhau nhưng đối tượng BHYT đều là sức khỏe của người

được bảo hiểm. Có nghĩa là khi người được bảo hiểm gặp rủi ro về sức khỏe (bị ốm

đau, bệnh tật…) thì sẽ được cơ quan BHYT xem xét chi trả bồi thường.

BHYT nói riêng và bảo hiểm sức khỏe nói chung là một dịch vụ rất phổ biến

trên thế giới và được đông đảo nhân dân tham gia. Bất kì ai có sức khỏe, có nhu cầu

bảo hiểm sức khỏe đều có quyền tham gia bảo hiểm. Như vậy đối tượng tham gia

BHYT là mọi người dân có nhu cầu BHYT cho sức khỏe của mình hoặc cũng có thể

là một người đại diện cho một tập thể, một đơn vị, một cơ quan…Đứng ra kí kết hợp

đồng BHYT cho tập thể, đơn vị, cơ quan đó…Trong trường hợp này, mỗi cá nhân

tham gia BHYT tập thể sẽ được cấp một văn bản chứng nhận quyền lợi BHYT của

riêng mình.

1.1.3.2 Phạm vi bảo hiểm y tế.

BHYT là một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện nhằm huy động

sự đóng góp của các cá nhân, tập thể để thanh toán chi phí cho người tham gia bảo

hiểm. Thông thường BHYT hoạt động trên cơ sở quỹ tài chính của mình, nhà nước

chỉ hỗ trợ tài chính khi cần thiết. Vì hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi như

vậy, nên tuy mọi người dân trong xã hội đều có quyền tham gia BHYT nhưng thực tế

BHYT không chấp nhận bảo hiểm cho những người mắc bệnh nan y nếu không có

thỏa thuận gì thêm.

Những người đã tham gia BHYT khi gặp rủi ro về sức khỏe (như ốm đau, bệnh

tật) đều được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức độ khác nhau tại các

cơ sở y tế. Tuy nhiên nếu khám chữa bệnh trong trường hợp cố tình tự hủy hoại sức

khỏe, trong tình trạng say, vi phạm pháp luật hoặc một số trường hợp loại trừ theo

quy định của BHYT…thì không được cơ quan BHYT chịu trách nhiệm.

1.1.3.3 Phương thức bảo hiểm y tế.

Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ

BHYT, BHYT được phân thành:

-BHYT trọn gói: Là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách

nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT.

- BHYT trọn gói, trừ các đại phẫu thuật: Là phương thức BHYT trong đó cơ

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

11

Page 15: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người

được BHYT, trừ các chi phí y tế cho các cuộc đại phẫu thuật.

- BHYT thông thường: Là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ

quan BHYT được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của người được

BHYT.

Đối với các nước phát triển, mức sống dân cư cao, hoạt động BHYT đã có

từ lâu và phát triển, có thể thực hiện BHYT theo cả ba phương thức trên. Đối với các

nước nghèo, mới triển khai hoạt động BHYT thường áp dụng phương thức BHYT

thông thường. Đối với phương thức BHYT thông thường, có hai hình thức tham gia

bảo hiểm, đó là BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện. BHYT bắt buộc được thực hiện

với một số đối tượng nhất định, được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật

về bảo hiểm. Dù muốn hay không những người thuộc đối tượng này đều phải tham

gia BHYT. Số còn lại, tùy theo nhu cầu và khả năng có thể tham gia BHYT tự

nguyện.

1.1.3.4 Hoạt động của BHYT.

Thống nhất với các nước trên thế giới trong việc triển khai hoạt động của BHYT

thì hoạt động đó được cụ thể là: trong trường hợp gặp phải rủi ro ốm đau phát sinh

nhu cầu KCB thì hoạt động BHYT sẽ đền bù rủi ro về mặt kinh tế bằng hai phương

pháp phân phối như sau:

- Phân phối lại từ những người khỏe mạnh cho những người ốm đau. Tại một

thời điểm nhất định phải có sự đóng góp của một số người tham gia đủ lớn để

chi trả chi phí KCB cho một nhóm người hiện đang ốm đau. Vào thời điểm đó

những người khỏe mạnh vẫn phải đóng góp cho cộng đồng những người tham

gia BHYT.

- Phân phối lại theo thời kì từ thời kì có tình trạng sức khỏe tốt cho thời kì sức

khỏe yếu. những người khỏe mạnh vẫn phải đóng góp BHYT để dự phòng cho

những khi ốm đau, những lúc khỏe còn làm việc đóng góp cho chính bản thân

khi về già nhiều bệnh tật không có thu nhập.

Từ đây ta thấy hoạt động BHYT có những đặc thù sau:

- Người tham gia đóng góp bằng tiền nhưng khi khám chữa bệnh lại nhận được

quyền lợi bằng hiện vật, những quyền lợi này bao gồm các dịch vụ y tế như

KCB bằng các thiết bị y tế chuẩn đoán và chữa trị bệnh tật của các bác sĩ,

thuốc men và chăm sóc y tế tại bệnh viện…

- Đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro quyết định phương thức hoạt động trong

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

12

Page 16: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHYT. Sự chia sẻ rủi ro trong phạm vi cộng đồng những người tham gia bảo

hiểm với giá trị bằng nhau khi có cùng bệnh như nhau và với sự điều tiết xã

hội. Căn cứ vào quyền hạn và nghĩa vụ trong pháp luật quy định, hoạt động

BHYT không chỉ đảm bảo cho từng thành viên trước những lợi ích chính đáng

mà còn đảm bảo cân đối giữa tổng số đóng góp với sự thanh toán cho những

rủi ro ốm đau chung của từng cộng đồng. Phương thức đóng góp căn cứ vào

thu nhập chứ không căn cứ vào tuổi tác, khả năng bệnh tật, giới tính. Đây là vai

trò quan trọng của sự điều tiết công bằng xã hội theo nguyên tắc đoàn kết

tương trợ cùng chia sẻ rủi ro.

- Hoạt động BHYT luôn luôn được chính phủ các nước quan tâm tổ chức thực

hiện. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội, mỗi nước có cách thức tổ chức BHYT

khác nhau, song đều được coi là giải pháp hữu hiệu trong công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khỏe cho người dân.

1.1.4 quỹ và cơ chế quản lí quỹ BHYT.

1.1.4.1 Nguồn hình thành quỹ BHYT.

quỹ BHYT là một quỹ tài chính độc lập có quy mô phụ thuộc chủ yếu vào số lượng

thành viên đóng góp và mức độ đóng góp vào quỹ của các thành viên đó.

Thông thường, với mục đích nhân đạo, không đặt mục đích kinh doanh lên hàng

đầu, quỹ BHYT được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của người tham gia bảo

hiểm, gọi là phí bảo hiểm. Nếu người tham gia BHYT là người lao động và sử dụng

lao động thì quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp của cả hai bên. Thông

thường người sử dụng lao động đóng 50-66 % mức phí bảo hiểm, người lao động

đóng 34-50 % mức phí bảo hiểm.

Phí BHYT phụ thuộc vào nhiều yếu tố như xác suất mắc bệnh, chi phí y tế, độ tuổi

tham gia BHYT…Ngoài ra, có thể có nhiều mức phí khác nhau cho những người có

khả năng tài chính khác nhau trong việc nộp phí lựa chọn…Trong đố chi phí y tế lại

phụ thuộc vào các yếu tố sau: tổng số lượt người khám chữa bệnh, số ngày bình quân

của một đợt điều trị, chi phí bình quân cho một lần khám chữa bệnh, tần suất xuất

hiện các loại bệnh…

Phí BHYT thường được tính trên cơ sở các số liệu thống kê về chi phí y tế và số

người tham gia BHYT thực tế trong thời gian liền trước đó.

Công thức tính: P= f + d

Trong đó: P: Phí BHYt/người/năm

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

13

Page 17: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

f: Phí thuần

d: Phụ phí

Ngoài ra quỹ BHYT còn được bổ sung bằng một số nguồn khác như: sự hỗ trợ

của ngân sách nhà nước (thông thường chỉ trong trường hợp quỹ mất khả năng chi

trả), sự đóng góp va ủng hộ của các tổ chức từ thiện, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi

theo các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật về BHYT nhằm bảo toàn và

tăng trưởng quỹ…

1.1.4.2 Cơ chế quản lí quỹ.

quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống BHYT Việt

Nam, hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước được nhà nước bảo hộ.

quỹ BHYT tự nguyện được hạch toán và quản lý độc lập với quỹ BHYT bắt buộc

nhằm phục vụ cho công tác triển khai BHYT tự nguyện.

Sau khi hình thành, quỹ BHYT được sử dụng như sau:

- Chi thanh toán chi phí y tế cho người được BHYT;

- Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn;

- Chi đề phòng hạn chế tổn thất;

- Chi quản lý.

- …

Tỷ lệ và quy mô các khoản chi này thường được quy định trước bởi cơ quan

BHYT và có thể thay đổi theo từng điều kiện cụ thể.

Ở Việt Nam hiện nay, điều lệ BHYT ban hành kèm theo NĐ 63/2005/NĐ-CP

quy định:

- quỹ BHYT là quỹ thành phần của quỹ BHXH, được quản lý tập trung thống

nhất, dân chủ và công khai theo quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt

Nam.

- Bộ tài chính và bộ y tế hướng dẫn chi tiết về quản lý và sử dụng quỹ BHYT

Đối với hình thức BHYT bắt buộc, quỹ BHYT được sử dụng như sau:

- Dành 91.5% cho quỹ KCB trong đó dành 5% lập quỹ dự phòng KCB. Nếu trong

năm không sử dụng hết quỹ KCB thì kết chuyển vào quỹ dự phòng và ngược lại sẽ

bổ sung vào quỹ dự phòng.

- 8.5% cho chi phí quản lý thường xuyên của toàn hệ thống BHYT Việt Nam theo

quy định.

- Tiền tạm thời nhàn rỗi cảu quỹ BHYT được mua tín phiếu, trái phiếu kho bạc

nhà nước, các ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành và được thực hiện các

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

14

Page 18: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

biện pháp khác nhằm bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHYT nhưng phải đảm bảo

nguồn chi trả cần thiết.

Đối với loại hình BHYT tự nguyện quỹ được hạch toán riêng và được sử dụng

như sau:

- 87% lập quỹ KCB BHYT tự nguyện;

- 2% lập quỹ dự phòng,

- 8% dành cho chi trả các hoạt động phối hợp tổ chức thực hiện việc thu phí,

phát hành thẻ BHYT tự nguyện và hỗ trợ cho các cơ sở khám chữa bệnh để tổ

chức thu viện phí và thanh quyết toán chi phí KCB cho người bệnh BHYT tự

nguyện.

- 3% dành chi đào tạo đại lý bổ sung cho công tác tuyên truyền, vận động khen

thưởng và nâng cao năng lực cán bộ.

quỹ KCB BHYT tự nguyện được sử dụng để thanh toán chi phí KCB ngoại trú,

nội trú, KCB theo yêu cầu riêng, chi phí chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nhà trường

và chi trả trợ cấp tử vong đối với đối tượng là học sinh, sinh viên theo quy định.

BHXH Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý thống nhất quỹ BHYT TN, Liên bộ y

tế- tài chính quy định chi tiết hướng dẫn sử dụng quỹ BHYT tự nguyện.

1.1.5 Giám định BHYT.

Nghiệp vụ giám định BHYT là một trong những nghiệp vụ quan trọng của

hoạt động BHYT, đây là công tác nhằm đảm bảo quyền lợi cho nguời tham gia

thông qua hoạt động giám sát chi quỹ KCB BHYT. Chi đúng chi đủ các chi phí

khám chữa bệnh BHYT. Như vậy mục đích của nghiệp vụ giám định y tế là

nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT thông qua việc xác định chi

phí KCB, phạm vi chi quỹ BHYT đúng quy định và đúng người được thụ hưởng.

Giám định BHYT được thực hiện theo quy trình nhất định mà pháp luật

BHYT Việt Nam quy định. Nhìn chung hoạt động nhiệm vụ giám định đối với

BHYT gồm có 4 giai đoạn sau:

- Giai đoạn chuẩn bị tiếp nhận: Trong giai đoạn này người giám định

viên phải giám sát ngay từ khâu bệnh viện xây dựng danh mục thuốc, danh

mục các vật tư tiêu hao y tế sử dụng cho bệnh nhân BHYT và quản lí giá.

- Giai đoạn giám định tại cơ sở KCB: thực hiện BHYT theo loại hình

KCB ngoại trú do vậy quy trình giám định tại cơ sở khám chữa bệnh cũng

được quy định riêng cho từng loại.

- Tiếp đến là quy trình thực hiện công tác giám định đối với người bệnh

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

15

Page 19: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHYT KCB đúng tuyến chuyên môn kĩ thuật và ngoài nơi đăng kí trên thẻ.

Trong quy trình này giám định viên có vai trò là cầu nối giữa cơ quan BHYT

với cơ sở y tế thông qua phối hợp với bệnh viện tổ chức mạng lưới tiếp nhận,

KCB, giải quyết BHYT cho bệnh nhân có thẻ BHYT.

- Cuối cùng là quy trình giám định BHYT phục vụ việc thanh toán trực

tiếp tại cơ quan BHYT. Trong quy trình này công việc của người giám định

viên bao gồm tiếp nhận, chi trả cho người có thẻ BHYT đi KCB do vậy áp

lực công việc là khá lớn. Đây là một khâu quan trọng góp phần thể hiện được

chất lượng của BHYT.

Như vậy tác dụng của giám định BHYT là nhằm mục đích đảm bảo được

quyền lợi cho người tham gia trong KCB, bên cạnh đó là kiểm soát chi phí tại

các bệnh viện. Hiện nay nước ta áp dụng phương thức thanh toán theo dịch vụ

phí với sự phát triển của BHYT thì công tác giám định hiện nay khó mà có thề

hoàn thành được nhiệm vụ của mình do việc lạm dụng quỹ là rất dễ từ cả phía

người dân có thẻ BHYT, cả từ phía cán bộ y tế. Từ đó ảnh hưởng tới quyền lợi

của những người thực sự có nhu cầu KCB, ảnh hưởng tới an toàn của quỹ

BHYT.

Việc giám định dựa vào những chỉ số căn bản theo quy định của cơ quan

BHYT đánh giá tình hình KCB và chi phí KCB ngoại trú và điều trị nội trú. Trên

cơ sở số liệu thống kê chi phí tập hợp trong kì quyết toán, phát hiện những hình

thức lạm dụng từ các phía, các nguyên nhân, và các biện pháp khắc phục trong

kỳ sau. Từ chối thanh quyết toán đối với những trường hợp lạm dụng quỹ

BHYT.

1.1.6 Thanh toán chi trả trong BHYT.

Chi phí y tế được quyết định bởi số lượng thuốc được kê đơn, dịch vụ y tế

được sử dụng và giá cả của chúng. Cả hai nhân tố trên đều bị ảnh hưởng bởi

phương thức được chọn để thanh toán cho người cung cấp dịch vụ. Trên thực tế

có nhiều phương thức thanh toán (PTTT) khác nhau được sử dụng đơn lẻ hoặc

kết hợp với nhau. Tùy điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia có thể chọn

cho mình PTTT phù hợp.

+ Thanh toán theo chi phí dịch vụ: Đây là phương thức thanh toán khá phổ

biến trên thế giới và đang được thực hiện ở Việt Nam. Người cung cấp dịch vụ

được thanh toán cho mỗi hoạt động KCB và sản phẩm họ đã cung cấp. Phương

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

16

Page 20: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

thức thanh toán này khuyến khích chất lượng dịch vụ y tế trong môi trường có

cạnh tranh, nhưng lại tốn kém chi phí quản lý do quy trình quản lý khá phức tạp

nhằm hạn chế sự lạm dụng.

+ Thanh toán theo khoán định suất: Là phương thức thanh toán qua đó

người cung cấp dịch vụ nhận được một khoản tiền cố định cho mối người đăng

kí khám chữa bệnh tại đó, trong một thời gian nhất định mà không tính đến số

lượng dịch vụ y tế sẽ cung cấp.

+ Thanh toán theo ca bệnh: Là phương thức thanh toán cho người cung cấp

dịch vụ căn cứ theo các tiêu chuẩn điều trị bệnh. Thanh toán theo ca bệnh là hình

thức đơn giản nhất, theo đó người cung cấp dịch vụ sẽ nhận được một khoản tiền

cố định mà không tính đến mức độ khó khăn của bệnh tật cũng như nguồn kinh

phí được sử dụng để chữa trị bệnh cho bệnh nhân.

+ Thanh toán theo ngày giường: PTTT được sử dụng để chi trả chi phí KCB

cho bệnh nhân tính theo ngày, chủ yếu để thanh toán cho điều trị nội trú tại bệnh

viện và các cơ sở y tế điều trị bệnh nhân dài ngày. PTTT này có thể thực hiện kết

hợp với các PTTT khác như phí dịch vụ, thanh toán theo ca bệnh. Mức thanh

toán được tính toán trên cơ sở tổng chi phí của cơ sở y tế và tổng số ngày điều trị

trong một năm. Mặt khác mức thanh toán này được tính toán còn phải đảm bảo

tất cả các dịch vụ y tế và chi phí y tế cho mỗi bệnh nhân. PTTT theo ngày giường

là phương thức được đánh giá là có khả năng khống chế chi phí y tế, dễ quản lí

và có chi phí hành chính thấp.

+ Thanh toán theo tiền thưởng: Là phương thức được sử dụng để khuyến

khích người cung cấp dịch vụ thực hiện những mục tiêu xác định, thường liên

quan đến chính sách quốc gia về y tế hoặc vì lợi ích kinh tế nhất định.

+ Thanh toán theo tỉ lệ cố định: PTTT này được sử dụng đối với các hoạt

động đầu tư tài chính nhằm đảm bảo các chi phí mua sắm máy móc và thiết bị

theo danh mục chi tiết theo thời gian nhất định. Phương thức thanh toán này

được dùng để hỗ trợ chi phí đầu tư ban đầu cho cơ sở y tế mới thành lập hoặc

thay thế máy móc và thiết bị. Mức thanh toán được tính toán dựa trên chi phí

mua trang thiết bị. Khi áp dụng PTTT này điều quan trọng là phải xây dựng danh

mục và xác định tiêu chuẩn để quản lý chất lượng trang thiết bị

+ Thanh toán lương: Theo phương thức thanh toán này là người cung cấp

dịch vụ được trả lương hàng tháng không tính đến số lượng bệnh nhân được chữa

trị mà dựa trên hợp đồng lao động giữa từng cá nhân và quỹ BHYT. PTTT này

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

17

Page 21: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

được áp dụng thanh toán cho bác sĩ gia đình, dược sĩ, y tá…, tại các cơ sở KCB

ban đầu, đa số áp dụng ở cơ sở thuộc sở hữu của quỹ BHYT.

+ Thanh toán theo ngân sách: Theo phương thức thanh toán này người cung

cấp dịch vụ y tế được chi trả toàn bộ số tiền bao gồm tổng chi phí của các dịch

vụ và sản phẩm được cung cấp theo một thời gian nhất định, thường là một năm.

Theo PTTT này cả quỹ BHYT và người cung cấp dịch vụ y tế đều phải quan tâm

đến rủi ro do việc tăng lên các phí ngoài mong đợi như tỉ lệ ốm đau, bệnh tật.

quỹ BHYT quản lý rủi ro để các chi phí thực sữ thấp hơn ngân sách trong khi đó

người cung cấp dịch vụ quản lý rủi ro để các cho phí cao hơn ngân sách . Việc

xác định ngân sách thường dựa trên chi phí trước đó, hoặc chi phí thực tế hiện tại

của người cung cấp dịch vụ. Ngân sách có thể cố định hoặc không cố định theo

thỏa thuận giữa quỹ BHYT và người cung cấp dịch vụ.

Việc thanh toán chi trả trong BHYT tại nước ta hiện nay được quy định tại

chương II, điều lệ BHYT 2005 như sau:

Chi phí khám, chữa bệnh của người tham gia BHYT bắt buộc theo quy định của

điều lệ này được quỹ BHYT thanh toán toàn bộ theo giá viện phí hiện hành của

nhà nước, trừ những trường hợp sử dụng dịch vụ kĩ thuật cao có chi phí lớn được

thanh toán theo quy định: Những trường hợp sử dụng những dịch vụ kĩ thuật cao

có chi phí lớn được quỹ BHYT thanh toán nhưng không vượt quá tỉ lệ và mức

thanh toán tối đa theo quy định. Bộ y tế phối hợp với bộ tài chính quy định cụ thể

danh mục các dịch vụ kĩ thuật cao và mức tối đa được quỹ BHYT thanh toán với

mỗi loại dịch vụ cho đó cho phù hợp.

Chi phí khám chữa bệnh được thanh toán theo hai hình thức:

- Tổ chức bảo hiểm xã hội thanh toán các cơ sở khám, chữa bệnh BHYT theo

hợp đồng giữa hai bên.

- Tổ chức BHXH thanh toán trực tiếp với người bệnh bảo hiểm y tế chi phí

khám chữa bệnh.

• Thứ nhất thanh toán giữa cơ quan BHXH và cơ sở khám, chữa bệnh. Các

hình thức thanh toán giữa tổ chức bảo hiểm xã hội với cơ sở khám, chữa

bệnh bảo hiểm y tế được áp dụng như:

+ Thanh toán theo phí dịch vụ;

+ Thanh toán theo định suất;

+ Thanh toán theo nhóm bệnh;

+ Hình thức thanh toán thích hợp khác;

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

18

Page 22: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Tổ chức BHXH thực hiện hình thức thanh toán cụ thể theo hướng dẫn của liên

bộ y tế và tài chính.

Trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, của các cơ sở

khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế và sự an toàn của quỹ BHYT, phù hợp với

chính sách viện phí và thuận tiện cho các bên, BHXH Việt Nam hướng dẫn

thực hiện hình thức thanh toán mới sau khi thống nhất với Bộ y tế Bộ tài chính.

• Thứ hai là thanh toán trực tiếp giữa cơ quan BHXH với người bệnh BHYT

những chi phí KCB trong trường hợp người có thẻ bảo hiểm y tế khám,

chữa bệnh riêng theo yêu cầu riêng của bản thân như: Tự chọn thầy thuốc,

tự chọn buồng bệnh, tự chọn cơ sở khám, tự chọn các dịch vụ y tế, khám

chữa bệnh vượt tuyến chuyên môn kĩ thuật theo quy định của bộ y tế…Thì

quỹ bảo hiểm y tế chỉ thanh toán cho người bệnh bảo hiểm y tế chi phí

khám, chữa bệnh theo giá viện phí hiện hành của cơ sở y tế nhà nước theo

tuyến chuyên môn kĩ thuật phù hợp với quy định của Bộ Y Tế và trong

phạm vi quyền lợi quy định của điều lệ BHYT hiện hành.

1.1.7 BHYT tự nguyện.

Bảo hiểm y tế tự nguyện được xác định là cơ sở để thực hiện BHY toàn dân là

một hình thức BHYT được áp dụng cho người có thu nhập thấp không đủ điều

kiện tham gia BHYT bắt buộc hoặc BHYT tư nhân, do người dân tự nguyện

tham gia.

Như vậy đối với bất kì một quốc gia nào khi mới triển khai BHYT, hoặc khi

chưa triển khai được BHYT toàn dân hay BHYT cộng đồng thì đối tượng tham

gia bắt buộc chỉ chiếm một phần nào đó trong xã hội chỉ bao gồm những người

có thu nhập ổn định và những đối tượng được nhà nước cấp tiền tham gia

BHYT, phần còn lại sẽ không được tham gia BHYT, đây sẽ là gánh nặng rất

lớn cho họ bởi phần lớn là những người có thu nhập không ổn định như lao

động tự do, học sinh, sinh viên… Để góp phần nâng cao công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khỏe của những đối tượng này, để đảm bảo công bằng trong chăm

sóc sức khỏe của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội thì việc triển khai BHYT tự

nguyện là rất cần thiết. Mặt khác ngân sách nhà nước chi cho y tế hàng năm có

hạn, mà chi phí chữa bệnh ngày một tăng cao do vậy việc thực hiện BHYT TN

sẽ là giải pháp hiệu quả cho toàn ngành y tế trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Bảo hiểm y tế tự nguyện có những điểm khác biệt so với bảo hiểm y tế bắt

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

19

Page 23: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

buộc như sau:

- Đặc điểm nổi bật của BHYT tự nguyện chi phối quá trình tổ chức thực hiện

không chỉ có riêng ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia có trình độ phát triển

cao trên thế giới và khu vực chính từ hình thức tham gia là tự nguyện nên số

lượng tham gia nhỏ, không ổn định dễ bị lựa chọn ngược bởi chỉ có một số ít

người có nguy cơ ốm đau bệnh tật cao, người già mới tham gia. Việc huy

động được số lượng đông đảo người tham gia, nhất là những người đang khỏe

mạnh, tuổi trẻ là cực kỳ khó khăn. Trong BHYT bắt buộc số lượng người

tham gia thường thì ổn định và tăng qua các năm còn trong BHYT TN thì lại

không có điều đó, các mô hình BHYT TN được thực hiện thường là thiếu bền

vững một phần do trong thời gian tham gia họ không phát sinh nhu cầu KCB

từ đó không muốn tham gia tiếp khi hết hạn hợp đồng hoặc do quỹ BHYT TN

không đủ chi trả cho nhu cầu KCB của số ít người tham gia.

- Hoạt động của BHYT TN do chính cộng đồng người tham gia đảm nhiệm với

nguyên tắc tài chính là phi lợi nhuận, do vậy mức đóng BHYT tự nguyện

không hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập của người tham gia. Nếu mức đóng

của BHYT bắt buộc được quy định bằng một tỷ lệ phần trăm nào đó so với

thu nhập tức thu nhập cao thì mức đóng cao, thu nhập thấp thì mức đóng của

loại hình BHYT TN thường là thấp mà các dịch vụ y tế được hưởng là như

nhau khi phát sinh nhu cầu KCB. Đây cũng là cách để thu hút số lượng người

tham gia BHYT TN.

- Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động, mà trước hết là

nhận thức của người, là điều kiện kinh tế của từng cá nhân và từng cộng đồng

là thói quen nếp sống và nhiều nguyên nhân khác tùy theo đặc điểm của mỗi

nước làm cho việc vận động người dân tham gia luôn là thách thức lớn đối

với mọi cơ quan thực hiện BHYT tự nguyện.

- Không hoàn toàn giống như BHYT bắt buộc theo luật định, BHYT nguyện

được tiến hành hướng tới việc đảm bảo quyền lợi cho người tham gia một

cách mềm dẻo và đồng thuận trong cộng đồng đó. Chính từ tiêu chí này mà

hình thức BHYT tự nguyện rất phong phú và đa dạng ở mỗi quốc gia, không

thể áp đặt hoặc sao chép nguyên bản mô hình ở nước này cho nước khác và

ngay trong một nước cũng thường không có sự giống nhau về mô hình triển

khai BHYT tự nguyện khi thực hiện ở những vùng mà có sự khác nhau về

điều kiện kinh tế xã hội hoặc phong tục tập quán…

Mặc dù có nhiều hạn chế và khó khăn khi thực hiện các mô hình BHYT tự

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

20

Page 24: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

nguyện nhiều năm nay đều khẳng định: BHYT tự nguyện là bước quá độ, là

bước tập dượt cần thiết để tiến tới BHYT toàn dân…Trong giai đoạn đầu

triển khai BHYT thì đối tượng bắt buộc tham gia có phạm vi rất hẹp chỉ bao

gồm những người có thu nhập ổn định do đó mà phạm vi những đối tượng

không đủ điều kiện tham gia BHYT là rất đông, phần lớn trong xã hội ,

BHYT TN sẽ đáp ứng được nhu cầu tham gia của những người này từ đó góp

phần nâng cao công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân

trong xã hội. Do không có tính chất bắt buộc như trong như trong BHYT bắt

buộc nên BHYT TN thực hiện được gọi là thành công phụ thuộc rất lớn vào

đường lối chính sách và quan điểm của mỗi quốc gia trong phát triển sự

nghiệp bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nước mình. Mặt khác tùy vào điều kiện

kinh tế xã hội mà mỗi nước chọn cho mình một cách riêng để thực hiện bởi

để thực hiện thành công không phải là dễ mà đó là cả một quá trình. Quá trình

đó là quá trình đưa khái niệm BHYT tự nguyện vào trong nhận thức của mọi

người dân trong xã hội, khi họ hiểu rằng tham gia BHYT TN họ và gia đình

của họ sẽ được an toàn, được bảo vệ trước những rủi ro ốm đau bệnh tật thì

họ sẽ tự giác tham gia. Một khi có đông đảo người trong xã hội tham gia thì

khả năng đáp ứng cho số ít những người bị ốm đau bệnh tật là rất tốn, kể cả

khi mà cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế chi phí KCB đang tăng lên

một cách chóng mặt thì một cá nhân khó mà có thể tự trang trải mọi chi phí

cho mình lúc lâm bệnh và trong giai đoạn phục hồi.

Thực tế trong quá trình thực hiện BHYT TN ở các nước thì loại hình bảo

hiểm này đã bộc lộ ra những ưu nhược điểm sau:

+ Ưu điểm: BHYT TN dù mô hình có khác nhau nhưng đều thống nhất ở lợi

ích cho cộng đồng người tham gia, đó là làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y

tế cho người có thu nhập thấp và người lao động tự do, bảo vệ người nghèo

trước nguy cơ “bẫy nghèo”, góp phần cải thiện công tác KCB, chăm sóc sức

khỏe ban đầu tại cộng đồng; góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng; thực

hiện hiệu quả công bằng trong KCB, nâng cao vị thế của người nghèo trong

xã hội, khắc phục được những mặc cảm do tình trạng thu nhập thấp của người

nghèo gây ra.

+ Nhược điểm: Bên cạnh những ưu điểm về lợi ích và ý nghĩa xã hội to lớn

mà nó mang lại, BHYT tự nguyện luôn gặp phải một số hạn chế đó là khả năng huy

động vốn thấp vì mức đóng thường nhỏ và số lượng người tham gia ít, không ồn

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

21

Page 25: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

định và thiếu bền vững, khả năng gánh vác rủi ri thấp của quỹ, rất ít quỹ BHYT tự

nguyện có thể cân đối được thu chi trong thời gian dài mà nguyên nhân chính là

mức đóng căn bản không đủ để trang trải chi phí KCB, là tình trạng lựa chọn ngược

của người tham gia, bên cạnh đó nếu quỹ hoạt động độc lập, phân tán thì nhược

điểm còn ở năng lực quản lý hạn chế và quyền lợi có thể không đồng nhất.

Và để thực hiện BHYT tự nguyện thành công theo các nhà nghiên cứu cần một số

điều kiện:

+ Đơn giản về thủ tục, rõ ràng về quyền lợi, đơn giản về thanh toán chi phí, tạo điều

kiện cho người dân hiểu và tự nguyện tham gia.

+ Mức đóng phù hợp với khả năng tài chính của người dân.

+ Phải giúp người tham gia dễ dàng tiếp cận với dịch vụ y tế, thuận tiện, đỡ tốn kém

chi phí đi lại, thời gian chờ đợi.

+ Yếu tố tự quản, người tham gia BHYT nắm được nguồn quỹ mà mình đã đóng

góp, người dân tham gia quản lý quỹ bằng các hình thức phù hợp, người dân tự

quyết định mức hưởng và mức đóng trong từng giai đoạn.

Ngoài nắm bắt được những đặc thù của mô hình bảo hiểm này để phát huy được

những ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm vốn có thì một điều không thể thiếu

đó là vai trò của nhà nước trong tổ chức thực hiện BHYT tự nguyện:

BHYT nói chung và BHYT tự nguyện nói riêng luôn luôn cấn có sự can thiệp của

nhà nước, biểu hiện cụ thể là:

- Nhà nước xây dựng chính sách, xây dưng luật BHYT, thiết kế chương trình

BHYT tự nguyện chung của quốc gia thông qua hàng loạt chính sách quy định về

điều kiện triển khai, đối tượng mức đóng và ban hành các văn bản dưới luật hướng

dẫn các địa phương thực hiện;

- Nhà nước thực hiện việc quản lý giám sát hoạt động của cả thống làm BHYT tự

nguyện;

- Nhà nước phân cấp việc đào tạo, tổ chức huấn luyện đội ngũ cán bộ làm BHYT tự

nguyện;

- Cuối cùng bằng nguồn ngân sách to lớn, nhà nước thực hiện bao cấp một phần

mức phí, bao cấp dịch vụ y tế có chi phí lớn, bổ sung và hỗ trợ chi phí hoạt động

điều hành quỹ BHYT tự nguyện.

Thực tế ở Việt Nam, vấn đề này đã được nhà nước cụ thể là hệ thống BHXH quan

tâm và triển khai đồng bộ bằng cơ chế phân phối và quản lý quỹ BHXH nói chung,

quỹ BHYT nói riêng.

Nhưng để lâu dài, để có thể tiến tới mục tiêu mọi người dân đều có BHYT,

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

22

Page 26: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

điều cốt yếu không thể chỉ là việc tăng cường vận động tuyên truyền, không chỉ là

việc xã hội hóa BHYT mà vai trò quyết định là tiềm lực kinh tế cả nước, hậu thuẫn

vững chắc và khả thi để hỗ trợ mức đóng cho người dân từ ngân sách nhà nước,

nhất là đối tượng cận nghèo và lao động tự do. Chỉ khi có sự hỗ trợ của nhà nước về

chính sách, định hướng và kinh phí, đặc biệt là trong thời gian đầu triển khai và một

số năm tiếp theo, hoạt động BHYT tự nguyện mới có cơ hội phát triển một cách bền

vững, là tiền đề để tiến tới BHYT toàn dân.

1.2 Kinh nghiệm thực hiện BHYT tự nguyện tại một số nước trên thế giới.

Từ khi bảo hiểm y tế ra đời cho đến nay, loại hình BHYT tự nguyện tồn tại và

phát triển ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, mô hình tổ chức và tác dụng

mô hình BHYT tự nguyện là rất khác nhau.

Tại các nước phát triển ở châu Âu, BHYT tự nguyện được xem là một loại

hình BHYT bổ sung nhằm thanh toán cho các dịch vụ y tế mà BHYT cơ bản không

chi trả hoặc đáp ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe nằm ngoài qui định của BHYT cơ

bản. BHYT tự nguyện, trong đó việc tham gia do các nhân tự quyết định. Mức phí

được định trên tình trạng sức khỏe cá nhân. Hầu hết các nước phát triển đều sử dụng

nguyên tắc định phí theo tình trạng sức khỏe cá nhân khi bán BHYT tự nguyện bổ sung

cho người tham gia. Các yếu tố được đưa ra làm cơ sở tính toán như tuổi, giới, nghề

nghiệp, số người trong gia đình, tình trạng sức khỏe, bệnh sử của cá nhân, gia đình,

mức độ quyền lợi được hưởng.

1.2.1. BHYT tại Cộng hoà liên bang Đức:

Cộng hòa liên bang Đức là một đất nước có bảo hiểm y tế tương đối sớm trên

thế giới. Từ những năm 1884, bảo hiểm y tế Cộng hoà liên bang Đức đã tương đối

hoàn thiện và đã đạt tiêu chí bảo hiểm y tế toàn dân trên cơ sở hoạt động bảo hiểm y tế

theo luật định. Vì vậy, tất cả mọi người đều phải tham gia BHYT bắt buộc, BHYT tự

nguyện chỉ cho phép các cá nhân có mức thu nhập xã hội cao (trên 45.900 Euro/năm)

hoặc các công chức viên chức có mức thu nhập dưới 45.900 Euro sau khi đã đóng bảo

hiểm y tế bắt buộc, được phép mua các loại hình bảo hiểm y tế bổ sung khác cho bản

thân hoặc cho gia đình.

Quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện vì thế cũng rất khác

nhau, tùy theo các mức phí mà có các gói dịch vụ tương ứng, nhằm chi trả một phần

chi phí cho người bệnh và hầu hết các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện đều do tư

nhân cung cấp. Vì vậy, từng mức thu và chi đều phải được xác định và cân đối cụ

thể trong đó có tính đến cơ cấu lợi nhuận. Tính đến 2003, tỷ lệ người tham gia bảo

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

23

Page 27: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hiểm y tế tự nguyện tại Cộng hoà liên bang Đức chỉ chiếm có 9,7% dân số.

1.2.2. Bảo hiểm y tế tại Pháp:

Tại Pháp, tài chính cho y tế chủ yếu từ nguồn bảo hiểm y tế bắt buộc. Đến

năm 2000, toàn bộ dân số Pháp đều có BHYT bắt buộc. Quỹ BHYT bắt buộc chỉ

đảm nhiệm được 3/4 chi phí y tế, phần còn lại do bảo hiểm y tế bổ sung do

BHYT tư nhân thực hiện và hoạt động trên nguyên tắc mức hưởng tương xứng

với mức đóng góp.

1.2.3. BHYT tại Thái Lan:

Thái Lan bắt đầu làm BHYT tự nguyện từ năm 1983. Tại thời điểm đó, GDP

của Thái Lan là 563USD/bình quân đầu người. Chương trình BHYT tự nguyện này

được tổ chức cho nông dân cận nghèo và trung lưu, được nhà nước hỗ trợ tới 50%

phí BHYT thông qua Bộ Y tế. Mỗi thẻ BHYT được Bộ Y tế Thái Lan cấp 500 bạt.

Người có thẻ BHYT được khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập và phải đi

khám chữa bệnh theo tuyến chuyên môn kỹ thuật. Năm 1988, sau 5 năm, toàn quốc

có 2,1 triệu thẻ; tới năm 1996 được 6 triệu thẻ trong tổng số 60 triệu dân của Thái

Lan. Với 18 năm làm liên tục, được Nhà nước hỗ trợ nguồn kinh phí rất lớn, tỉ lệ

tham gia BHYT tự nguyện mới đạt 9-10% dân số.

1.2.4. BHYT tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào:

BHYT tại Lào mới được thí điểm vào năm 2002. Chương trình BHYT dựa

trên cộng đồng được thực hiện tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào do WHO trợ

giúp kỹ thuật. Đây là mô hình được WHO đánh giá là có tính khả thi cao cho một số

nước đang phát triển. Hoạt động BHYT dựa vào cộng đồng của Lào được điều hành

từ các Ban Quản lý dự án ở địa phương bao gồm: Chủ tịch quận, huyện làm trưởng

ban, các thành viên là đại diện bệnh viện huyện, cơ quan tài chính, các đoàn thể và

trưởng các thôn.

Đối tượng vận động và điều kiện tham gia BHYT dựa vào cộng đồng là

toàn thể gia đình, những người có tên trong hộ khẩu được coi là một đơn vị tham

gia BHYT.

Quỹ BHYT từ quĩ đóng góp của cộng đồng theo hộ gia đình có áp dụng giảm

phí cho các loại hộ tham gia đông. Phí thu theo tháng hoặc quí, được gửi tại tài

khoản ngân hàng và được thanh toán cho bệnh viện có ký hợp đồng khoán quĩ.

Quyền lợi người tham gia:

- Được khám chữa bệnh ngoại trú sau khi đã đóng phí BHYT ít nhất 2 tháng,

được nằm viện sau khi đã đóng BHYT ít nhất 4 tháng. Có các thời gian chờ đợi điều

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

24

Page 28: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

trị cho các loại hình điều trị đặc biệt khác nhau.

- Khám chữa bệnh ngoại trú cũng theo hình thức khoán quỹ và qui định danh

mục thuốc thiết yếu. Khám chữa bệnh nội trú có bao gồm cả tiền ăn, tiền vận

chuyển bệnh nhân nếu là cấp cứu, tuy nhiên chỉ được hưởng 90 ngày nằm viện

trong 1 năm và không thanh toán các trường hợp không có trong chế độ BHYT

hoặc ở các cơ sở y tế không do BHYT chỉ định.

- Ngoài chế độ khám chữa bệnh, bệnh nhân còn được chăm sóc y tế khi bị

tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

25

Page 29: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN

2.1 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM Y TẾ VÀ BẢO

HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN VIỆT NAM.

2.1.1 Bảo hiểm y tế ở Việt Nam.

Tại Việt Nam, chính sách BHYT được xây dựng theo loại hình bảo hiểm y tế

xã hội, là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự

đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ chức, cá nhân để

thanh toán chi phí KCB theo quy định cho người có thẻ BHYT khi ốm đau. Ra đời

từ năm 1992 bằng Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/08/1992 của Hội đồng Bộ

trưởng, sau 17 năm chính sách BHYT ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi về cách thức

tổ chức, phương thức chi trả chi phí KCB cho người tham gia BHYT. Trước năm

2003, BHYT Việt Nam do Bộ Y tế trực tiếp quản lý, điều hành. Từ năm 2003 đến

nay, chính sách BHYT do BHXH Việt Nam tổ chức thực hiện dưới sự chỉ đạo trực

tiếp của Chính phủ. Từ 01/07/2005 đến 30/9/2009, chính sách BHYT được thực

hiện theo Nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ. Điểm cơ bản

trong phương thức chi trả chi phí KCB cho người có thẻ BHYT trong giai đoạn này

là thanh toán thực chi, bãi bỏ trần thanh toán trong điều trị nội trú, một số loại thủ

thuật, phẫu thuật được thanh toán trong điều trị nội trú, chi phí của nhiều loại vật tư

y tế tiêu hao được BHYT thanh toán không nằm trong cơ cấu giá dịch vụ y tế, đối

với đối tượng bắt buộc là bãi bỏ quy định cùng chi trả 20%. Riêng đối với các dịch

vụ kỹ thuật cao theo danh mục của Bộ Y tế có chi phí lớn trên 7 triệu đồng thì bệnh

nhân BHYT bắt buộc được thanh toán 60% chi phí nhưng không được vượt quá hai

mươi triệu đồng cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật đó, phần còn lại người bệnh

tự thanh toán với cơ sở KCB (trừ người nghèo, người có công, hưu trí được thanh

toán 100%). Vì vậy, quyền lợi của người có thẻ BHYT giai đoạn này được mở rộng

gần như tối đa nhưng từ năm 2005 quỹ BHYT bắt đầu bị bội chi. Ngày 14/11/2008

Luật BHYT đầu tiên tại Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong chính

sách BHYT tại Việt Nam. Từ 1/10/2009, chính sách BHYT tại Việt Nam được thực

hiện theo Luật BHYT số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội, Nghị định

số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 của Chính phủ, Thông tư số 09/2009/TTLT-

BYT-BTC ngày 14/8/2009 của liên Bộ Y tế - Tài chính hướng dẫn thực hiện

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

26

Page 30: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHYT. Điểm thay đổi cơ bản trong chính sách BHYT mới là bệnh nhân phải cùng

chi trả chi phí KCB (trừ một số đối tượng đặc biệt), tăng mức đóng, mở rộng đối

tượng và có lộ trình tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2014 bằng cách chuyển dần

các đối tượng tham gia BHYT tự nguyện sang diện BHYT bắt buộc. Trong thời

gian các đối tượng chưa thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc thì tiếp tục tham gia

BHYT tự nguyện, BHYT tự nguyện là giai đoạn quá độ để tiến tới BHYT toàn dân.

* Các loại hình bảo hiểm y tế ở nước ta hiện nay

- BHYT bắt buộc: áp dụng cho các đối tượng được hưởng lương và sinh hoạt

phí, bao gồm cán bộ công chức, người lao động trong các doanh nghiệp, các tổ chức

kinh tế, tổ chức chính trị xã hội, người về hưu, mất sức, các đối tượng ưu đãi xã hội,

các đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp kinh phí thông qua BHXH, thân

nhân sĩ quan quân đội, công an nhân dân Việt Nam, người nghèo theo chuẩn của Bộ

Lao động - TB&XH. Trừ đối tượng người nghèo có mức đóng 130.000

đồng/người/năm còn các đối tượng khác trong nhóm BHYT bắt buộc có mức đóng

bằng 3% tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động, tiền sinh hoạt phí hoặc 3%

mức lương tối thiểu hiện hành tuỳ theo từng nhóm đối tượng.

- BHYT tự nguyện: áp dụng đối với mọi đối tượng có nhu cầu tham gia BHYT

[16], bao gồm 2 nhóm đối tượng là BHYT tự nguyện học sinh, sinh viên và BHYT tự

nguyện nhân dân. Ngày 27/8/2008 Thủ tướng Chính phủ có quyết định số

117/2008/QĐ-TTg về việc triển khai loại hình BHYT tự nguyện cho người cận nghèo

nhưng sang năm 2009 mới bắt đầu được triển khai thực hiện.

2.1.2. Sự hình thành và phát triển của bảo hiểm y tế tự nguyện Việt Nam.

Ở Việt Nam, BHYT tự nguyện được áp dụng với mọi đối tượng có nhu cầu tham

gia BHYT, được triển khai thực hiện theo địa giới hành chính và nhóm đối tượng theo

loại hình KCB nội, ngoại trú như đối với đối tượng BHYT bắt buộc.

- Tuỳ theo từng giai đoạn, BHYT tự nguyện nhân dân có thể có các đối tượng:

thành viên hộ gia đình, hội viên hội đoàn thể, thân nhân người lao động, cá nhân.

* Quá trình hình thành và phát triển BHYT tự nguyện nhân dân tại Việt Nam: Từ

khi BHYT được thực hiện từ năm 1992 đến nay, BHYT tự nguyện nhân dân được

chia làm 4 giai đoạn:

2.1.2.1 Giai đoạn từ năm 1992 đến tháng 8/1998

Giai đoạn chính sách BHYT được thực hiện theo Nghị định số 299/HĐBT

ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).

Trong giai đoạn này, mặc dù các cơ quan quản lý nhà nước chưa có văn bản

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

27

Page 31: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện cho các đối tượng dân cư nông thôn và lao

động tự do, song căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, trên cơ sở Điều lệ BHYT và các chủ

trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, hệ thống cơ quan BHYT đã nỗ lực phối

hợp với chính quyền các cấp xây dựng và triển khai thí điểm nhiều mô hình BHYT

tự nguyện cho nhân dân theo các đề án đã được UBND tỉnh, thành phố phê duyệt.

Điển hình trong giai đoạn này là mô hình thí điểm BHYT tự nguyện cho

nông dân của Hải Phòng. Hải Phòng là địa phương thực hiện thí điểm BHYT tự

nguyện từ rất sớm với các hình thức đa dạng và được duy trì qua nhiều năm. Để

triển khai BHYT tự nguyện cho nông dân, Hải Phòng xây dựng mức đóng BHYT tự

nguyện là 35.000đ/người/năm; trong đó có khoảng 20% số đối tượng tham gia được

ngân sách xã hỗ trợ 1/3 mức đóng; người tham gia được hưởng quyền lợi như người

tham gia BHYT bắt buộc. Điều kiện triển khai để phát hành thẻ là có ít nhất 50%

dân của một đơn vị thôn hoặc xã tham gia BHYT.

Trong quá trình thực hiện, do công tác quản lý và tổ chức thiếu chặt chẽ, các

Chi nhánh BHYT huyện chạy theo số lượng nên bỏ qua nguyên tắc, phát hành thẻ

cho các đơn vị dân cư chưa đạt tỷ lệ quy định. Năm 1997 Hải Phòng đã phát hành

được: 130.000 thẻ cho những người tham gia BHYT tự nguyện, đưa tổng số người

có thẻ BHYT chiếm gần 40% dân số toàn thành phố, đó là năm số người tham gia

BHYT cao nhất trong các năm và cũng là cao nhất trong cả nước. Nhưng sau đó,

tình trạng mất cân đối quỹ (thu không đủ chi) đã xuất hiện và đến năm 1998 thì quỹ

đã mất cân đối trầm trọng, sang năm 1999 buộc phải ngừng phát hành thẻ BHYT tự

nguyện nhân dân đại trà trên địa bàn.

Nhìn chung, việc cân đối quỹ BHYT tự nguyện của các địa phương đều gặp

khó khăn, năm nào cũng phải điều chỉnh tăng mức đóng, nên số người tham gia

BHYT tự nguyện ngày càng giảm, thời điểm người dân tham gia nhiều nhất là năm

1996, sau đó giảm dần theo từng năm:

- Năm 1993: 99.202 thẻ

- Năm 1994: 165.572 thẻ

- Năm 1995: 167.144 thẻ

- Năm 1996: 337.777 thẻ

- Năm 1997: 284.788 thẻ

(Nguồn: Phòng kế hoạch – tổng hợp ban BHYT-BHXH Việt Nam)

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

28

Page 32: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2.1.2.2 Giai đoạn từ 8/1998 đến năm 2002

Giai đoạn chính sách BHYT được thực hiện theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP

ngày 15/8/1998 của Chính phủ, nhưng chưa có Thông tư hướng dẫn về BHYT tự

nguyện nhân dân.

Vì vậy, việc triển khai BHYT tự nguyện nhân dân vẫn tiếp tục dưới hình thức

thí điểm, mang tính nhỏ lẻ, thiếu thống nhất, kết quả thu được không đáng kể. Mô

hình BHYT cho thân nhân người lao động, thành viên, hội viên của một số hội,

đoàn thể cũng bước đầu được thí điểm. Nổi bật trong giai đoạn này là thành phố Hà

Nội, khi năm trước triển khai BHYT tự nguyện nhân dân tại Gia Lâm, năm sau lại

triển khai tại Sóc Sơn, với mong muốn thực hiện BHYT toàn dân trên địa bàn thành

phố Hà Nội. Tuy nhiên, dù đầu tư nhiều tiền của và công sức, hầu hết các mô hình

thí điểm đều thất bại, đa số duy trì không được quá 1 năm mà nguyên nhân chính là

do số người tham gia ít, không cân đối được thu chi quỹ BHYT tự nguyện. Đến

cuối năm 2002, trên địa bàn cả nước chỉ còn 30.000 người tham gia BHYT tự

nguyện.

2.1.2.3 Giai đoạn từ 2003 đến 01/7/2005

Giai đoạn chính sách BHYT được thực hiện theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP

ngày 15/8/1998 của Chính phủ, Thông tư số 77/2003/TTLT-BYT-BTC ngày

7/8/2003 của liên Y tế - Bộ Tài chính .

Trong giai đoạn này, BHYT tự nguyện được áp dụng cho mọi đối tượng có

nhu cầu tham gia BHYT và được thực hiện theo quy định của Nghị định số 58, Thông

tư số 77, Thông tư đầu tiên hướng dẫn BHYT tự nguyện. Nội dung cơ bản của Thông

tư là triển khai BHYT tự nguyện nhân dân theo hộ gia đình và hội viên hội đoàn thể, có

điều kiện về tỷ lệ số người tham gia trong cộng đồng mới phát hành thẻ (triển khai tại

xã phường theo hộ gia đình khi có ít nhất 100% thành viên trong hộ gia đình và 20% số

hộ gia đình tại xã, phường tham gia; triển khai theo hội đoàn thể khi có ít nhất 40% số

người trong hội tham gia), mức đóng phân theo khu vực thành thị và nông thôn., có

một số thời gian tham gia đủ lâu theo quy định mới được hưởng một số dịch vụ kỹ

thuật như thai sản, phẫu thuật tim, chạy thận nhân tạo, 1 số dịch vụ kỹ thuật cao…

Người có thẻ BHYT tự nguyện nhân dân được thanh toán chi phí KCB theo phương

thức thực chi, có trần trong điều trị nội trú, cùng chi trả 20% chi phí KCB. Sau 2 năm

thực hiện (2003, 2004), quỹ BHYT tự nguyện nhân dân tại một số địa phương không

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

29

Page 33: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

cân đối được nhưng quỹ BHYT tự nguyện chung của toàn ngành vẫn bảo đảm và có

một phần kết dư : năm 2003 kết dư 32 tỷ đồng, năm 2004 kết dư 16 tỷ đồng.

2.1.2.4 Giai đoạn từ 10/2005 đến 30/9/2009

Giai đoạn chính sách BHYT được thực hiện theo Nghị định số 63/2005/CP

ngày 16/5/2005 của Chính phủ.

- Từ tháng 10/2005 đến 3/2007: BHYT tự nguyện nhân dân được tổ chức,

thực hiện theo Nghị định số 63 và Thông tư liên tịch số 22/2005/TTLT-BYT-

BTC ngày 24/8/2005 của liên Bộ Y tế - Tài chính.

BHYT tự nguyện nhân dân theo vẫn được triển khai theo hộ gia đình và hội viên

hội đoàn thể nhưng giảm bớt điều kiện về tỷ lệ số đông khi tham gia (triển khai tại

xã phường theo hộ gia đình khi có ít nhất 100% thành viên trong hộ gia đình và 10% số

hộ gia đình tại xã, phường tham gia; triển khai theo hội đoàn thể khi có ít nhất 30% số

người trong hội tham gia), bỏ điều kiện tham gia đủ lâu theo quy định mới được

hưởng một số dịch vụ kỹ thuật. Với Điều lệ mới ban hành kèm theo Nghị định số

63, quyền lợi của bệnh nhân BHYT nói chung và BHYT tự nguyện nhân dân nói

riêng được mở rộng gần như tối đa: được thanh toán thực chi, không có trần

thanh toán trong điều trị nội trú, không cùng chi trả (trừ một số dịch vụ kỹ thuật

cao chi phí lớn theo danh mục của Bộ Y tế), được thanh toán một số chi phí mà

trước đây không có như chi phí điều trị do tai nạn giao thông, chi phí thủ thuật,

phẫu thuật, chi phí vật tư tiêu hao y tế.

Kết quả là số người tham gia BHYT tự nguyện nhân dân tăng nhưng quỹ bị

thiếu hụt nghiêm trọng: Năm 2005 số người tham gia BHYT tự nguyện nhân dân là

1.534.233 người, năm 2006 là 3.069.550 người, gấp 10 lần số người tham gia

BHYT tự nguyện nhân dân của năm 2004. Theo số liệu quyết toán của BHXH Việt

Nam, bắt đầu từ năm 2005 quỹ khám chữa bệnh BHYT tự nguyện bắt đầu bị mất

cân đối thu chi: năm 2005 thiếu 246 tỷ đồng, năm 2006 thiếu 1260 tỷ đồng, trong

đó chủ yếu tập trung ở BHYT tự nguyện nhân dân, quỹ BHYT tự nguyện học sinh

cũng bị thiếu nhưng không nhiều, chỉ vượt 10-15% số thu BHYT học sinh.

Trước tình trạng quỹ BHYT tự nguyện bị thiếu hụt nghiêm trọng, BHXH

Việt Nam đã tập trung nghiên cứu, phân tích số liệu thu chi và tình hình triển khai

BHYT tự nguyện tại 30 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, qua đó tìm hiểu, xác

định các nguyên nhân dẫn đến sự tăng đột biến chi phí khám chữa bệnh BHYT tự

nguyện. Có một thực tế là tỉnh, thành phố nào, số người tham gia BHYT tự nguyện

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

30

Page 34: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

nhân dân càng nhiều, thì quỹ BHYT tự nguyện bị bội chi càng lớn. Qua kiểm tra

ngẫu nhiên 487 trường hợp bệnh nhân BHYT tự nguyện, có chi phí KCB tương đối

lớn trong một quý, thì hầu hết các trường hợp này rơi vào tình trạng vừa mua thẻ

BHYT đã sử dụng ngay để KCB. Đây có thể coi là ví dụ điển hình của việc “lựa

chọn ngược” của BHYT tự nguyện, cứ khi nào có bệnh nặng, phải điều trị tại bệnh

viện, khi đó người dân mới mua thẻ BHYT. Vì vậy, BHXH Việt Nam đã tạm dừng

việc triển khai BHYT tự nguyện cho các đối tượng tham gia lần đầu, đề nghị liên

Bộ nghiên cứu, điều chỉnh lại các quy định, hướng dẫn về BHYT tự nguyện trong

những tháng đầu năm 2007.

- Tháng 3/2007, liên Bộ Y tế - Tài chính ban hành Thông tư số

06/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 24/8/2005 hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện,

thay thế cho Thông số 22. Thông tư số 06 hướng dẫn bỏ hai loại đối tượng BHYT

tự nguyện nhân dân là hội viên hội đoàn thể, và thân nhân người lao động, thân

nhân của hội viên hội đoàn thể, chỉ còn một đối tượng duy nhất là thành viên hộ gia

đình, đồng thời thực hiện việc cùng chi trả chi phí KCB, có thêm điều kiện tham gia

đủ lâu mới được quỹ BHYT thanh toán đối với một số bệnh. Đây thật sự là một giai

đoạn rất khó khăn đối với đơn vị tổ chức thực hiện chính sách, bởi các quy định của

Thông tư 06 về BHYT tự nguyện đã không nhận được sự đồng tình của một bộ

phận nhân dân, đặc biệt là những người bệnh, những người đã có thẻ BHYT, nay

thẻ hết hạn, nhưng không được mua thẻ BHYT do quy định mới… và áp lực của

công luận cũng ngày một lớn. Thực tế triển khai BHYT tự nguyện năm 2007 cho

thấy, số học sinh, sinh viên tham gia BHYT vẫn được giữ vững ở mức trên 8 triệu

em, còn số nhân dân tham gia đã giảm đáng kể, chỉ còn 1.371.008 người, chỉ bằng 40%

so với năm trước. Số thu về quỹ đạt trên 831 tỷ đồng, tăng so với năm trước do mức

đóng được điều chỉnh tăng, tuy nhiên quỹ khám chữa bệnh BHYT tự nguyện vẫn thiếu

1.546 tỷ đồng, do số đối tượng nhân dân tham gia BHYT năm 2006 (trên 3 triệu người),

vẫn KCB sang năm 2007.

Những điều chỉnh về chính sách trong thực hiện BHYT tự nguyện theo

Thông tư số 06 của liên Bộ chưa đủ thời gian để có thể điều chỉnh, khắc phục những

vấn đề cần thiết, thì một lần nữa liên Bộ lại phải thực hiện việc sửa đổi một số điểm

của Thông tư số 06 vì mục tiêu an sinh xã hội, kết quả là 10/12/2007, liên Bộ Y tế -

Tài chính ban hành Thông tư số 14/2007/TTLT-BYT-BTC sửa đổi, bổ sung một số

điểm của Thông tư số 06: quy định mức đóng của các đối tượng tham gia BHYT tự

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

31

Page 35: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

nguyện là mức tối đa quy định tại thông tư số 06, bỏ điều kiện quy định tỷ lệ số

đông trong triển khai, ai muốn tham gia đều được đáp ứng, không phụ thuộc vào

các thành viên khác trong gia đình, trong cộng đồng.

* BHYT tự nguyện nhân dân tại Việt Nam năm 2008:

- Điều kiện triển khai: Theo cá nhân, bỏ điều kiện có đủ tỷ lệ theo số đông trong

cộng đồng mới được tham gia.

- Mức đóng phí BHYT: Khu vực thành thị (các quận nội thành) là 320.000

đồng/người/năm, khu vực nông thôn (các quận ngoại thành) là 240.000

đồng/người/năm.

- Quyền lợi được hưởng:

Cũng giống như bệnh nhân BHYT bắt buộc, bệnh nhân BHYT tự nguyện

nhân dân khi đi khám chữa bệnh đúng tuyến được cơ quan BHXH thanh toán chi

phí khám chữa bệnh nội, ngoại trú, bao gồm:

+ Khám bệnh, điều trị và phục hồi chức năng;

+ Xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng;

+ Thuốc, dịch truyền theo danh mục Bộ y tế quy định;

+ Máu và các chế phẩm của máu;

+ Các phẫu thuật, thủ thuật;

+ Sử dụng vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh.

Khác với bệnh nhân BHYT bắt buộc không phải cùng chi trả, bệnh nhân

BHYT tự nguyện nhân dân được thanh toán 80% chi phí KCB theo quy định (trừ

chi phí điều trị ngoại trú dưới 100.000 đ thì được thanh toán 100%). Riêng đối với

các dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn theo danh mục của Bộ Y tế thì được thanh toán

80% chi phí nhưng không được vượt quá hai mươi triệu đồng cho một lần sử dụng

dịch vụ kỹ thuật đó, phần còn lại người bệnh tự thanh toán với cơ sở KCB.

Thời gian để được hưởng quyền lợi BHYT:

Thẻ có giá trị sử dụng và được hưởng quyền lợi theo quy định sau 30 ngày kể từ

ngày đóng BHYT lần đầu hoặc gián đoạn.

Thẻ có giá trị sử dụng và được hưởng quyền lợi khi sử dụng các dịch vụ kỹ

thuật cao chi phí lớn sau 180 ngày kể từ ngày đóng BHYT lần đầu hoặc gián đoạn.

Thẻ có giá trị sử dụng và được hưởng quyền lợi về chăm sóc thai sản, sinh đẻ

sau 270 ngày kể từ ngày đóng BHYT lần đầu hoặc gián đoạn.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

32

Page 36: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Người bệnh có thẻ BHYT có thời gian tham gia BHYT liên tục đủ 36 tháng,

từ tháng thứ 37 trở đi, khi sử dụng các thuốc điều trị ung thư, thuốc chống thải ghép

ngoài danh mục quy định của Bộ Y tế nhưng được phép lưu hành tại Việt Nam thì

được cơ quan BHXH thanh toán 50% chi phí các loại thuốc này.

2.2 THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN.

2.2.1 Thuận lợi

Công tác triển khai BHYT TN đã nhận được sự phối hợp, quan tâm chỉ đạo

của các cấp ủy Đảng, chính quyền sự phối hợp của các sở, ban ngành ở địa phương

và sự hưởng ứng ngày càng đông đảo của nhân dân.

Trong tổ chức thực hiện BHYT TN đối với học sinh – sinh viên (HSSV) có

một số thuận lợi sau:

- Đặc điểm của đối tượng HSSV là: Chiếm tỉ lệ cao trong tổng số dân cả nước

(gần 20%) sinh hoạt tập trung thuận lợi cho việc triển khai. Công tác thông

tin tuyên truyền được tập trung tại trường học, mặt khác thông qua nhà

trường việc thu phí cũng trở nên dễ dàng hơn cho cán bộ BHYT cơ sở.

- Được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, liên bộ, các cấp ủy đảng chính

quyền, sở, ban ngành địa phương.

- Tiếp đến BHYT HSSV không hạn chế trần tối đa chi phí KCB một đợt khám

và điều trị cũng như số lần khám và điều trị do đó nhiều trường hợp HSSV

tham gia BHYT có chi phí KCB đến hàng chục triệu đồng thậm chí lên đến

100 triệu đồng cũng được cơ quan BHYT thanh toán từ đó tăng phần hấp dẫn

của chương trình BHYT HSSV.

- Một thuận lợi cơ bản nữa đó là BHYT HSSV phần nào đáp ứng được nguyên

tắc số đông bù số ít do đó mức tham gia thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho

người tham gia BHYT được dễ dàng hơn

Đối với BHYT TN nhân dân trong quá trình triển khai cũng có nhiều điều kiện

thuận lợi đáng kể, cụ thể là:

- Tính đặc trưng của BHYT đó là phát triển BHYT TN tiến tới BHYT toàn dân

đã được khẳng định trong văn kiện của Đảng và nhà nước ta. Do việc thực

hiện và phát triển BHYT không phải là nhiệm vụ của riêng cơ quan nào,

ngành nào mà nó trở thành một và chính sách của đảng và nhà nước tại địa

phương.

- Tính ưu điểm của chính sách BHYT do nhà nước tổ chức thực hiện và cụ thể

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

33

Page 37: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

của BHYT nhân dân đó là: Người tham gia BHYT TN được chăm sóc sức

khỏe ban đầu tại sơ sở y tế, được khám chữa bệnh ngoại trú theo tuyến

chuyên môn kĩ thuật phù hợp không hạn chế số lần, mức phí tham gia thấp so

với mức bình quân chung của đối tượng tham gia BHYT bắt buộc.

2.2.2 Khó khăn.

Khó khăn chung trong việc thực hiện BHYT TN là tình trạng bội chi quỹ KCB

BHYT vẫn tiếp tục tăng với mức độ nghiêm trọng diễn ra trong năm 2005 và 2006.

Sự gia tăng chi phí y tế và việc ứng dụng rộng rãi công nghệ kĩ thuật cao trong

KCBC cùng với khả năng không kiểm soát được kinh phí BHYT TN trong giai đoạn

hiện tại. Ngoài ra chính sách BHYT TN chưa được những người dân trong độ tuổi trẻ

khỏe đón nhận một cách tích cực chỉ có những người có nhu cầu về KCB quan tâm

và tham gia BHYT TN. Mặt khác đội ngũ cán bộ làm công tác về BHYT tự nguyện

tại các địa phương chưa thật ổn định, trình đọ chuyên môn còn nhiều hạn chế.

Bên cạnh những thuận lợi trong việc triển khai BHYT TN đối với HSSV thì

còn những khó khăn mà BHXH Việt Nam đang gặp phải như sau:

- Phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của bảo hiểm thương mại trong triển khai

BHYT cho HSSV.

- Kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn, ở nước ta hiện nay dân số sống ở

nông thôn vẫn chiếm chủ yếu, lứa tuổi học sinh còn tập trung nhiều ở nông thôn do

hậu quả sinh đông con từ thế hệ trước để lại. Thêm vào đó kinh tế ở nông thôn còn

nhiều khó khăn nên việc tham gia BHYT TN cho con em mình là điều rất khó.

- Khâu tiếp đón HSSV đến KCB tại các cơ sở y tế với tinh thần thái độ của

nhân viên y tế chưa tốt, thủ tục để hưởng chế độ BHYT nhiều khi còn phức tạp,

phiền hà…Do đó những bậc làm cha làm mẹ sẽ khó đồng ý cho con cái mình tham

gia vì đây là loại hình BHYT tự nguyện không ép buộc ai.

Trong thực hiện BHYT TN cho nhân dân cũng vướng phải những khó khăn:

- Đối tượng rất phong phú BHYT TN nhân dân rất khó khăn trong việc đưa ra

một hoặc những mô hình thu hút được nhiều người quan tâm tham gia cũng như

thông suốt trong quá trình thực hiện.

- Công tác thông tin tuyên truyền vận động đến người dân còn hạn chế: Chưa

tranh thủ được sự ủng hộ đúng mức của các cấp đảng ủy chính quyền địa phương

đoàn thể, tổ chức xã hội đối với với việc thực hiện BHYT trong nhân dân, chưa tác

động được đến sự chuyển biến về dân trí cũng như thói quen của người dân đối với

việc tham gia BHYT TN

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

34

Page 38: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Đại đa số người dân lao động nước ta là thu nhập thấp, tính chất công việc và

đời sống lại gặp nhiều khó khăn nên đã hình thành thói quen tiết kiệm coi trọng lợi

ích trước mắt, khi gặp ốm đau phần lớn mọi người đều tìm cách chữa trị tại nhà khi

bệnh tình trở thành nặng rồi mới đến bệnh viện…

2.3 TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN.

2.3.1 Quản lí đối tượng tham gia BHYT tự nguyện.

Ngoài BHYT bắt buộc, việc mở rộng khai thác phát hành thẻ cho khu vực

BHYT TN đã được quan tâm thực hiện, tạo tiền đề cho việc tiến tới BHYT toàn

dân. Trong đó các đối tượng được ưu tiên phát triển tham gia BHYT TN bao

gồm: Học sinh, sinh viên, thân nhân người lao động hay của hội viên hội đoàn

thể, hộ gia đình.

BHYT TN là một loại hình bảo hiểm do vậy một nguyên tắc không thể thiếu là

“Số đông bù số ít” chính vì vậy mà việc mở rộng đối tượng tham gia của

BHYTN ở nước ta gây ra những khó khăn nhất định cho quá trình triển khai, mở

rộng BHYT TN ở nước ta hiện nay.

Trong thực tế đang xảy ra “sự lựa chọn ngược” từ cộng đồng người tham gia

tức chỉ khi ốm đau mới phát sinh nhu cầu mua thẻ BHYT. Tức là đông đảo người

tham gia đóng góp vào một quỹ chung để chi trả cho số ít những người không

may gặp rủi ro mà BHYT là ốm đau bệnh tật. Bất kì một loại hình bảo hiểm nào

đi chăng nữa nếu không đảm bảo được nguyên tắc này thì sẽ không thể hoạt

động, không thể phát huy tác dụng, cho dù quỹ BHYT TN được ngân sách nhà

nước bảo trợ, nhưng ngân sách nhà nước không phải là vô hạn.

Từ thực tế triển khai BHYT TN, thì số lượt KCB của người tham gia BHYT

TN, thì số lượt KCB của người tham gia BHYT TN nhân dân cao vượt trội hơn

so với các nhóm đối tượng khác, nhiều người vừa mua thẻ BHYT đã sử dụng

ngay để đi KCB, các trường hợp bệnh nặng có chí phí KCB khá lớn là phổ

biến… Như vậy, ở đây có vấn đề của công tác khai thác, thu, phát hành thẻ

BHYT tự nguyện nhân dân.

Nhìn trên tổng thể, số người tham gia BHYT TN nhân dân hiện nay vẫn tối

thiểu (chiếm 7,5%) so với “thị trường tiềm năng” (trên 40 triệu người) thuộc diện

vận động tham gia BHYT. Trong tình huống này điều không tránh khỏi là những

người đã có bệnh, những người cao tuổi, những người có nhu cầu khám chữa

bệnh sẽ quan tâm và mong muốn được tham gia BHYT TN.

Hơn nữa việc kê khai không đúng và những hạn chế trong kiểm tra danh sách

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

35

Page 39: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

người tham gia BHYT TN. Nhóm hội viên đoàn thể và thân nhân người lao động

tham gia BHYT tự nguyện khá đông ở các địa phương, mặc dù đã có những quy

định về điều kiện thực hiện, song phải nói là nhiều tổ chức hội, đoàn thể, cơ quan

đơn vị và người lao động đã kê khai danh sách mua thẻ BHYT không đúng thiếu

trung thực. Tình trạng phổ biến là hợp thức hóa các thủ tục nhằm đáp ứng các

điều kiện quy định, đưa người đã có bệnh ngoài phạm vi hướng dẫn vào danh

sách mua BHYT và vấn đề ở đây là các cơ quan, đơn vị và tổ chức lập.

Trong triển khai BHYT TN nhân dân đã buông lỏng công tác thẩm định và

kiểm tra danh sách người tham gia BHYT TN, từ đó cũng tạo điều kiện cho một

số người dân chỉ khi ốm đau mới tìm mua thẻ BHYT. Việc thực hiện BHYT TN

cho một nhóm dân cư đang cần KCB hoặc đang điều trị tại bệnh viện, điển hình

ở một số thành phố lớn, cơ quan BHXH đã phải thực hiện BHYT TN cho hàng

chục nghìn người, những người này đang là bệnh nhân hoặc ở một số địa phương

khác, lại yêu cầu thực hiện BHYT TN cho các em bị sơ hóa cơ đen-ta…Như vậy

khó có thể cân đối được thu chi quỹ BHYT TN, đặt quỹ BHYT trở thành quỹ “đa

chức năng”, không đơn thuần chi trả khi người tham gia BHYT không may gặp

rủi ro ốm đau bệnh tật nữa.

Một điểm nữa đó là điều kiện triển khai BHYT TN theo hộ gia đình và nhân thân

người lao động còn sơ hở: Đối với hộ gia đình, yêu cầu phải 100% thành viên

tham gia BHYT TN và phải có ít nhất 10% số hộ gia đình trong xã phường đăng

ký tham gia đạt hoặc vượt tỉ lệ quy định (trên 10%), nhưng khi thu tiền lại chỉ có

một số hộ gia đình nộp tiền, tính theo tỉ lệ chỉ đạt vài % số hộ. Tuy nhiên theo

quy định thì cơ quan BHXH vẫn phải thu tiền, phát hành thẻ BHYT cho các hộ

gia đình. Hoặc thực hiện BHYT TN cho nhân thân người lao động, điều kiện duy

nhất là 100% thân nhân của người lao động tham gia, như vậy trong một đơn vị,

nếu chỉ một người lao động mua thẻ cho nhân dân của mình thì vẫn không hợp

lệ.

Để hoàn thành được mục tiêu là tiến tới thực hiện BHYT toàn dân vào năm

2010 thì công tác mở rộng đối tượng tham gia BHYT TN trong giai đoạn này có

vai trò rất quan trọng nhưng trong giai đoạn hiện nay thì nguyên tắc cộng đồng

trong mô hình BHYT TN là chưa đạt được.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

36

Page 40: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Bảng 1: Số học sinh – sinh viên tham gia BHYT giai đoạn 1998-2009

Năm họcSố HSSV tham gia

(người)Chênh lệch

( Người)Tốc độ tăng

(%)1998-1999 3.396.400 - -1999-2000 2.955.160 - 441.240 -12,992000-2001 3.101.123 145.963 4,942001- 2002 4.201.514 1.100.391 35,482002-2003 4.910.640 709.126 16,882003-2004 5.078.730 168.090 3,422004-2005 6.946.962 1.868.232 36,792005-2006 7.460.320 513.358 7,392006-2007 8.019.041 558.721 7,492007-2008 8.150.021 130.984 1,632008-2009 8.500000 349.979 4,29

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Như vậy, tính đến hết năm 2009 cả nước hiện có 8,5 triệu học sinh sinh viên

tham gia BHYT tự nguyện, so với năm 1998 có 3.396.400 người tức tăng

5.103.600 người tương đương với tăng 150,26 %.Nguyên nhân làm tăng đối

tượng HSSV tham gia BHYT TN là việc triển khai công tác tuyên truyền đã khá

thành công, cúng như việc triển khai đồng bộ và khoa học của loại hình BH này.

Bảng 2: Số đối tượng tham gia BHYT TN nhân dân.

Năm

Số người tham gia

BHYT TN nhân dân

Chênh lệch

( Người)

Tốc độ tăng

( %)2003 31.473 - -2004 310.398 278925 8.862005 1.534.484 1224086 3.942006 3.073.767 1539283 1.002009 2.500.000 -573.767 -0,18

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Theo bảng trên ta thấy giai đoạn 2003-2006, số người tham gia BHYT TN nhân

dân năm sau gấp nhiều lần năm trước song có xu hướng giảm.Đến năm 2009 thì

số người tham gia BHYT TN nhân dân là 2,5 triệu người như vậy là giảm so với

năm 2006. Như vậy việc triển khai BHYT TN nhân dân là chưa thành công vì do

tâm lý và người dân chưa có điều kiện để tham gia BHYT.

2.3.2 Quản lí thu quỹ BHYT TN.

Cơ quan thực hiện việc thu phí BHYT TN là hệ thống bảo hiểm xã hội tại các

cấp. Hệ thống tổ chức theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương. Cơ quan

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

37

Page 41: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHYT tại cấp xã, phường, thị trấn thực hiện thu phí sau đó kết chuyển lên BHYT

cấp tỉnh, sau đó BHYT cấp tỉnh nộp về BHXH Việt Nam. Công tác thu phí BHYT

TN là rất phức tạp. Nếu thực hiện không tốt thì rất có thể xảy ra trường hợp gian lận

do các đối tượng tham gia và cũng có thể do chính cán bộ làm công tác thu phí

BHYT.

Trong khi nguời tham gia BHYT TN được hưởng quyền như người tham gia

BHYT bắt buộc, thì mức đóng của người tham gia BHYT TN chỉ bằng 20-30% so

với mức đóng của người tham gia BHYT bắt buộc. Mặt khác để khắc phục được

tình trạng thâm hụt quỹ trong khi chờ đợi tiến tới BHYT toàn dân, để tăng quy mô

quỹ và tiếp tục thu hút đối tượng tham gia thì việc tăng như thế nào mức đóng

BHYT TN đang là một vấn đề rất khó giải quyết.

Quyền lợi của người tham BHYT nói chung, BHYT TN nói riêng được mở

rộng nhiều so với các quy định trước đây, vì vậy chi phí KCB mà cơ quan BHXH

thanh toán với khu vực cung cấp dịch vụ cũng tăng cao mà không tương xứng với

mức đóng góp vào quỹ. Với việc bổ sung danh mục kĩ thuật cao, danh mục thuốc,

danh mục các bệnh phục hồi chức năng, việc thanh toán các vật tư y tế tiêu hao,

thanh toán chi phí cho người có thẻ BHYT KCB tại nước ngoài hay tại các cơ sở

KCB tư nhân không có hợp đồng với cơ quan BHXH, chi phí sàng lọc xét nghiệm

HIV và việc người bệnh không phải thực hiện chế độ cùng chi trả. Trước tình hình

quyền lợi của người tham gia BHYT được mở rộng, mặc dù cơ quan BHXH đã điều

chỉnh mức đóng BHYT TN nhân dân đến giới hạn tối đa của khung mức đóng do

liên bộ quy định, song vẫn chưa thể bù đắp được sự thiếu hụt của quỹ BHYT TN.

Bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 mức đóng hàng tháng đối với đối tượng

tham gia BHYT TN bằng 4,5% mức lương tối thiểu và do đối tượng đóng. Căn cứ

mức đóng bảo hiểm y tế, người tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế đóng sáu tháng

một lần hoặc đóng một lần cho cả năm vào quỹ BHYT.

Bảng 3: Số thu BHYT HSSV và BHYT TN nhân dân giai đoạn 2003-2009

Đơn vị: Triệu đồng

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

38

Page 42: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Năm Số thu BHYT HSSV Số thu BHYT TN nhân dân

2003 171.669 2.601

2004 219.846 22.407

2005 273.197 120.601

2006 381.943 363.750

2009 850.000 750.000

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT –BHXH Việt Nam.

Như vậy số thu BHYT TN tăng qua các năm, Từ năm 2003 đến năm 2009 tổng

số thu BHYT TN tăng 1425730 triệu đồng. Và số thu BHYT HSSV luôn cao

hơn số thu BHYT tự nguyên nhân dân.

2.3.3 Quản lí chi quỹ BHYT TN.

Số thu bảo hiểm y tế tự nguyện được hạch toán, phân bổ và sử dụng phù hợp với

yêu cầu đảm bảo chi phí khám, chữa bệnh cho người tham gia và phục vụ sự phát

triển của bảo hiểm y tế tự nguyện.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện việc chi, quản lí và quyết toán quỹ bảo hiểm

y tế theo quy định của pháp luật. 90% số thu bảo hiểm y tế để lại cho BHYT tỉnh

quản lý, 10% còn lại chuyển cho BHXH Việt Nam quản lý để lập quỹ dự phòng

khám chữa bệnh và chi quản lí.Ngoài ra BHXH Việt Nam có trách nhiệm thực hiện

các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ từ số tiền tạm thời nhàn rỗi. Hoạt động

đầu tư tăng trưởng quỹ đảm bảo an toàn, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết.

Hiện nay việc coi chính sách xã hội được ngân sách nhà nước bảo trợ đã gây ra

tình trạng lạm dụng quỹ BHYT ở nước ta trong giai đoạn mở rộng chính sách

BHYT. quỹ KCB của đối tượng là người nghèo và BHYT TN nhân dân là có số bội

chi cao nhất, mà hình thức BHYT cho người nghèo và BHYT TN nhân dân lại có

mức phí tham gia thấp nhất, quy mô tham gia không phải là số nhiều so với quy mô

tiềm năng, do vậy không đảm bảo được nguyên tắc “số đông bù số ít”. Mặt khác

qua khảo sát tình hình khám chữa bệnh BHYT trong một số tỉnh, vấn đề lạm dụng

quỹ xảy ra ở cả phía các cơ sở y tế và người tham gia BHYT. Hầu hết các trung tâm

y tế ở các tuyến không quản lý nổi người bệnh đến đến khám ầ ạt ở các cơ sở khám

chữa bệnh. Tình trạng quá tải ở các cơ sở KCB dẫn đến tình trạng khó kiểm soát

việc lạm dụng quỹ BHYT TN. Tình trạng lạm dụng phổ biến nhất là rất nhiều người

dân tham gia BHYT TN nhân dân đi KCB nhiều lần không phải bị bệnh mà chỉ lấy

thuốc dùng vào việc khác, cho người khá, phổ biến người có thẻ BHYT đi khám,

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

39

Page 43: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

khám giúp người khác lấy thuốc mà đem bán lại xảy ra ở nhiều nơi. Còn có lạm

dụng quỹ của nhân viên y tế và thân nhân ngành y tế như đi khám lấy thuốc dự

phòng trong dịp tết…

Như vậy ở phía người tham gia không xem quỹ BHYT là do chính bản thân

mình và cộng đồng đóng góp cần phải được bảo vệ, mà xem là quỹ của nhà nước

ban phát cần kha thác triệt để. Hơn nữa, do không phải cùng chi trả nên việc lạm

dụng quỹ là rất phổ biến. Tham gia quá trình khai thác triệt để quỹ BHYT ngoài

chính người tham gia BHYT còn có các cơ sở y tế. Do không còn trần thanh toán,

nên xu hướng tăng cường sử dụng dịch vụ y tế, thuốc men đắt tiền đang trở thành

phong trào, thói quen trong các cơ sở y tế.

Vấn đề lạm dụng quỹ BHYT TN hiện nay đang là phổ biến góp phần bởi chi

quỹ BHYT TN. Và việc quản lý và sử dụng quỹ cho hợp lý là vấn đề đặt ra cho các

cấp quản lý.

Bảng 4: Tình hình chi BHYT HSSV tại BHXH Việt Nam năm 2003-2009

Đơn vị: triệu đồng

Năm họcTổng chi

BHYT HSSVTổng chi

BHYT TN nhân dân

2003 101.698 1.1402004 143.801 41.1672005 165.558 103.9792006 451.914 1.039.1242007 528.341 1.229.4502008 645.438 1.508.2212009 800.000 1.700.000

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Qua bảng trên ta thấy số chi BHYT TN tăng qua các năm, và số chi cho BHYT

HSSV ít hơn chi cho BHYT tụ nguyện nhân dân. Do số đối tượng tham gia BHYT

TN nhân dân gặp rủi ro ốm đau nhiều hơn và một phần là do tình trạng lạm dụng

quỹ gây ra.

2.4 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRIỂN KHAI BHYT TỰ NGUYÊN TẠI VIỆT

NAM TRONG THỜI GIAN QUA.

Chính sách BHYT được hình thành và phát triển hơn 19 năm qua đã minh

chứng cho một hướng đi đúng đắn của một nước phát triển, tiềm năng về kinh tế

không dồi dào dẫn đến việc đầu tư bao cấp cho chăm sóc sức khỏe còn nhiều hạn

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

40

Page 44: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

chế. BHYT ra đời cung cấp một nguồn tài chính cho ngành y tế để chăm sóc sức

khỏe cho đối tượng tham gia BHYT đến nay đã chiếm trên 43% dân số cả nước.

Mỗi năm ngành BHYT quản lý chi khám chữa bệnh cho đối tượng hàng ngàn tỷ

đồng và hàng chục triệu người đi khám và chữa bệnh nội trú và ngoại trú.

2.4.1 Cơ cấu diện bao phủ BHYT

Biểu 1: Cơ cấu diện bao phủ BHYT năm 2007

Đơn vị: %

11.3

15.1

82.2

46.8

BB

NN

HSSV

TNND

Còn lại

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Cơ cấu diện bao phủ BHYT năm chiếm 43,8% dân số trong đó BHYT tự nguyện nhân

dân có 2,2 triệu người chiếm 6% người có thẻ BHYT và chiếm 2,6% dân số cả nước.

Số đối tượng chưa có thẻ BHYT là 46,8% triệu người (bao gồm cả HSSV đã

tham gia BH nhân thọ khác) chiếm trên 50% dân số là tiềm năng cho phát triển

BHYT tự nguyện.

Biểu 2: Cơ cấu diện bao phủ BHYT năm 2008.

Đơn vị: %

12.8

15.2

7.92.4

45.6

BB

NN

HSSV

TNND

Còn lại

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Cơ cấu diện bao phủ BHYT năm 2008 chiếm 45,6% dân số trong đó BHYT tự

nguyện nhân dân có 2,4 triệu người chiếm 6,3% người có thẻ BHYT và chiếm 2,8%

dân số cả nước.

Số đối tượng chưa có thẻ BHYT là 45,6 triệu người chiếm trên 50% dân số là tiềm

năng phát triển BHYT tự nguyện.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

41

Page 45: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Biểu 3: Diện bao phủ BHYT tự nguyện nhân dân.

Đơn vị: %

4.90%

95.10%

5.30%

94.70%

5.40%

94.60%

0.00%

20.00%

40.00%

60.00%

80.00%

100.00%

2007 2008 2009

Có BHYT

Chưa có BHYT

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Đối tượng tự nguyện nhân dân năm 2007 chiếm 4,9% và năm 2008 là trên 5,3%

tổng số đối tượng cần thực hiện mua BHYT tự nguyện nhân dân, số còn lại khoảng

95% là người chưa có thẻ BHYT , và năm 2009 số tham gia BHYT tự nguyện nhân

dân chiếm 54%, số còn lại khoảng 94,6% là người chưa có thẻ BHYT đây là nhóm

đối tượng đầy tiềm năng cần phải khai thác cho những năm sau này.Tỷ lệ tham gia

BHYT của đối tượng tự nguyện nhân dân tăng qua các năm. Đây là một dấu hiệu

khả quan cho việc tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2014.

Như vậy đối tượng tham gia BHYT TN còn quá ít so với tổng dân số. Do vậy đời

sống nhân dân còn gặp còn nhiều khó khăn, một mặt họ không có điều kiện tham

gia BHYT TN, và khi bị ốm đau bệnh tật thì đã nghèo lại nghèo hơn. Do đó việc

làm tăng đối tượng tham gia BHYT TN là vấn đề đặt ra đối với các cấp quản lý.

Phải nói đến ở đây là sự kiện năm 2005 chính phủ ban hành điều lệ bảo hiểm y

tế kèm theo nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 theo điều lệ này đối tượng

và phạm vi bao phủ của BHYT tăng nhanh. Tỷ lệ tham gia là thấp là do thu nhập

của người dân còn thấp, sự hiểu biết của họ về BHYT chưa đầy đủ và chưa tin

tưởng vào chất lượng dịch vụ y tế theo chế độ BHYT.

2.4.2 Tình hình thu chi BHYT tự nguyện.

2.4.2.1 Thực trạng thu quỹ BHYT TN

Biểu 4: Tình hình thu BHYT tự ngyện.

Đơn vị: Tỷ đồng

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

42

Page 46: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT – BHXH Việt Nam.

Ta thấy số thu BHYT ự nguyện năm 2008 tăng 255 tỷ so với năm 2007, và năm

2009 thì số này đã tăng lên rất nhiều, số thu năm 2009 tăng lên 513 tỷ đồng so với

năm 2008.Năm 2009 riêng đối tượng BHYT tự nguyện nhân dân có số thu tăng 370

tỷ đòng so với năm 2007. Số thu tăng của nhóm BHYT tự ngyện tăng chủ yếu do

mức tham gia BHYT tăng vì theo quy định của thông tư số 06 thì mức thu BHYT

có mức thu BHYT có khung và BHYT Việt Nam quy định mức thu cụ thể cho từng

đối tượng, từng vùng, từng tỉnh và bình quân chung toàn quốc trên mức trung bình

của khung liên Bộ quy định. Số thu BHYT theo thông tư số 14 thì quy định luôn

mức tối đa của khung liên bộ (vùng nông thôn: HSSV: 100000 đ/thẻ, TNND:

24000; thành thị: HSSV: 120000 đ/thẻ, TNND: 320000 đ/thẻ) nên số thu năm 2009

tăng cao.

2.4.2.2 Thực trạng chi phí KCB BHYT TN

Biểu 5: Tổng chi phí KCB BHYT của đối tượng tự nguyện:

Đơn vị: Tỷ đồng

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

43

480352

832

565 522

1087

850750

1600

0

200

400

600

800

1000

1200

1400

1600

2007 2008 2009

HSSV

TNND

TC

Page 47: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

514

1467

1981

519.0

1578

2097

800

1700

2500

0

500

1000

1500

2000

2500

2007 2008 2009

HSSV

TNND

TC

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Từ năm 2007 đến năm 2009 tổng số chi đã tăng từ 1981 tỷ đồng đến 2500 tỷ, qua

2 năm số thu đã tăng 403 tỷ đồng. Việc chi trả cho đối tượng tự nguyện nhân dân

thường cao gần gấp hai số chi cho đối tượng HSSV.

Biểu 6: Tổng chi phí KCB BHYT nội trú.

ĐV: Tỷ đồng

257

828

1085

229

778

1007

220

770

990

0

200

400

600

800

1000

1200

2007 2008 2009

HSSV

TNND

Tæng céng

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

- Chi phí KCB nội trú của nhóm BHYT tự nguyện nhân dân năm 2007 là 828 tỷ

đồng, năm 2009 là 770 tỷ đồng, bằng gần 93% so với năm 2007.

- Tổng chi phí nội trú năm 2007 là 1085 tỷ đồng, năm 2009 là 990 tỷ đồng bằng

91,2% năm 2007. Như vậy tổng chi phí KCB nội trú giảm dần.

Biểu 7: Chi phí bình quân KCB ngoại, nội trú/thẻ

ĐV: Nghìn đồng

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

44

Page 48: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

74

663

212

83.0

628

265

85

615700

0

200

400

600

800

2007 2008 2009

HSSV

TNND

Chung

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT- BHXH Việt Nam.

- Chi phí bình quân một đợt điều trị ngoại trú của đối tượtng tự nguyện nhân dân có xu

hướng giảm. Chi phí bình quân của đối tượng tự nguyện có xu hướng tăng.

Biểu 8: Cân đối thu-chi BHYT tự nguyện.

Đơn vị: Tỷ đồng.

-253

-1249

-1502

-92

-1003-1095

-50

-850 -900

-2000

-1500

-1000

-500

0

2007 2008 2009

HSSV

TNND

TC

Nguồn: Ban thực hiện chính sách BHYT-BHXH Việt Nam.

Năm 2007 quỹ BHYT tự nguyện nhân dân bị bội chi là 1.249 tỷ đồng trong khi

toàn bộ đối tượng tự nguyện bội chi là 1.502 tỷ đồng. Năm 2008 đối tượng tự

nguyện nhân dân bội chi 1.003 tỷ đồng và toàn bộ đối tượng tự nguyện bội chi 1095

tỷ đồng. Năm 2009 đối tượng tự nguyện nhân dân bội chi 850 tỷ đồng và toàn bộ

đối tượng tự nguyện bội chi 900 tỷ. Như vậy số bội chi cho đối tượng tự nguyện

nhân dân cao hơn rất nhiều so với bội chi cho đối tượng HSSV.

Do mức đóng của đối tượng BHYT tự nguyện năm 2008 được tăng theo quy định

của thông tư số 14 nên số thu năm 2009 tăng hơn năm 2007 và tình trạng bội chi

giảm so với năm 2007.

2.4.3 Những vấn đề còn tồn tại trong việc triển khai BHYT tự nguyện.

BHYT tự nguyện được thực hiện ở nước ta đã trên 10 năm song chủ yếu chỉ là

các mô hình thí điểm ở một số địa phương như: Hải Phòng, Hà Nội…Do số người

tham gia ít, lại phân tán trên phạm vi rộng, mức đóng và quỹ lại thấp nên hầu hết

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

45

Page 49: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

các mô hình thí điểm đều không duy trì được lâu, nhiều nơi chỉ thực hiện được một

năm sau đó dừng lại. Nguyên nhân chủ yếu là do không cân đối được thu chi quỹ

BHYT TN.

Trong loại hình BHYT TN thì BHYT TN học sinh sinh viên bắt đầu được triển

khai từ năm 1994-1995, còn BHYT TN nhân dân mới được triển khai trên diện rộng

và không còn là thí điểm từ cuối năm 2003 sau khi Bộ Y Tế - Tài chính ban hành

Thông tư số 77?2003/TTLT-BYT-BTC, thông tư đầu tiên hướng dẫn BHYT TN.

Đến năm 2005, Chính phủ ban hành Điều Lệ BHYT kèm theo nghị định số

63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 theo đó liên Bộ ban hành Thông tư số

77/2003/TTLT-BYT-BTC đây là một bước đột phá đối với công tác khám, chữa

bệnh BHYT. Trong đó có việc mở rộng quyền lợi tối đa cho người tham gia BHYT,

BHYT chi trả cả trong trường hợp: Tai nạn giao thông, bệnh bẩm sinh, chi phí vận

chuyển…; thay đổi phương thức thanh toán: bỏ phương thức cùng chi trả 20% chi

phí ở mọi đối tượng , bỏ trần thanh toán nội trú ở các cơ sở khám chữa bệnh đã tạo

điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT TN nói riêng và

BHYT nói chung . Với vai trò là một chính sách xã hội, thì điều này là hợp với long

dân nhất là với những đối tượng nghèo, cận nghèo nhằm đảm bảo công bằng trong

KCB cho họ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nghị định này và thông tư liên

tịch số 22/2005/TTLT-BYT-BTC về hướng dẫn thực hiện BHYT TN đã nổi lên một

số vấn đề mà ngành y tế và BHXH Việt Nam phải đối mặt đó là chi phí KCB

BHYT tăng vọt trong hai năm liền là 2005, 2006 khi mà mức đóng đã được tăng lên

sau quyết định số 2992/QĐ-BHXH ngày 09/08/2006 của tổng giám đốc BHXH Việt

Nam thay cho khung mức đóng được quy định trong thông tư số 22 nhưng tăng

không đáng kể. Ngoài ra, cũng còn một số yếu tố khác tham gia vào việc làm gia

tăng đột biến chi phí KCB BHYT là trong thới gian qua các cơ sở KCB tăng cường

bị nhiều thiết bị y tế hiện đại chi phí cao, danh mục thuốc sử dụng do bộ y tế ban

hành quá rộng rãi, công tác KCB BHYT đã và đang triển khai cho 100% trạm y tế

phường xã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia BHYT đi KCB. Cũng từ

đó mà dẫn đến tình trạng bệnh nhân đến KCB tăng nhanh làm hầu hết các cơ sở

KCB đều quá tải từ tuyến trạm y tế huyện, tỉnh và trung ương, do số đối tượng tham

gia BHYT ngày càng cao (số người nghèo và đối tượng BHYT TN tăng nhanh).

Hầu hết các cơ sở KCB quá tải do số người mua thẻ BHYT TN tăng nhanh.,

điều này sẽ là hết sức bình thường nhưng điều không bình thường đó là chi phí

KCB tăng lên một cách đột biến.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

46

Page 50: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Có thể nhận thấy, với việc gia tăng các yếu tố về quyền lợi của người tham gia thì

việc bội chi quỹ KCB BHYT là không thể tránh khỏi, đặc biệt là quỹ KCB BHYT

TN. Vấn đề âm quỹ BHYT đã ở mức độ trầm trọng, nếu không có giải pháp khắc

phục thì hậu quả về kinh tế-xã hội sẽ là một vấn đề lớn. Những hạn chế cơ bản

trong chính sách và triển khai BHYT TN tại Việt Nam trong mấy những năm vừa

qua có thể nói đến là:

- Đối tượng tham gia BHYT tự nguyện.

BHYT TN là một loại hình bảo hiểm do vậy một nguyên tắc hoạt động không thể

thiếu là “số đông bù số ít” chính vì vậy mà việc mở rộng đối tượng tham gia của

BHYT TN ở nước ta gây ra những khó khăn nhất định cho quá trình triển khai, mở

rộng BHYT TN ở nước ta hiện nay.

Trong thực tế đang xảy ra “sự lựa chọn ngược” từ cộng đồng người tham gia

tức chỉ khi ốm đau mới phát sinh nhu càu mua thẻ BHYT, BHYT Việt Nam trong

vài năm gần đây nhất là sau khi có nghị định số 63/NĐ-CP ban hành điều lệ BHYT

được kết luận là đang di ngược quy luật số đông bù số ít, tức là đông đảo người

tham gia đóng góp vào một quỹ chung để chi trả cho số ít những người không may

gặp rủi ro mà ở BHYT là rủi ro ốm đau bệnh tật. Bất kì một loại hình bảo hiểm nào

đi chăng nữa nếu không đảm bảo được nguyên tắc này thì sẽ không hoạt động,

không thể phát huy tác dụng, cho dù quỹ BHYT TN được ngân sách nhà nước tài

trợ, Vì ngân sách nhà nước không phải là vô hạn.

Từ thực tế triển khai BHYT TN, thì số lượt KCB của người tham gia BHYT TN

nhân dân cao vượt trội hơn so với các nhóm đối tượng khác, nhiều người vừa mua

thẻ BHYT đã sử dụng ngay để đi KCB, các trường hợp bệnh nặng có chi phí KCB

khá lớn khá phổ biến… Như vậy, ở đây có vấn đề của công tác khai thác, thu phát

hành thẻ BHYT nhân dân.

Hơn nữa việc kê khai không đúng và những hạn chế trong kiểm tra danh sách

người tham gia BHYT TN. Nhóm hội viên đoàn thể và thân nhân người lao động

tham gia BHYT khá đông ở các địa phương, mặc dù đã có những quy định về điều

kiện thực hiện, song phải nói là nhiều tổ chức hội, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và

người lao động đã kê khai danh sách mua thẻ BHYT không đúng thiếu trung thực.

Tình trạng phổ biến nhất hiện nay là hợp thức hóa các thủ tục nhằm đáp ứng các

điều kiện quy định, đưa người đã có bệnh ngoài phạm vi hướng dẫn vào danh sách

ma BHYT và vấn đề ở đây là cơ quan BHXH không có khả năng và không thể kiểm

soát việc kê khai của các cơ quan đơn vị tổ chức, thường phải tin và chấp nhận thực

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

47

Page 51: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hiện trên danh sách do các cơ quan đơn vị tổ chức lập.

Một thực tế nữa là trong triển khai BHYT TN nhân dân đã buông lỏng công tác

thẩm định và kiểm tra danh sách người tham gia BHYT TN, từ đó cũng tạo điều

kiện cho một số người dân chỉ khi ốm đau mới tìm mua thẻ BHYT. Việc thực hiện

điển hình ở một số thành phố lớn, cơ quan BHXH đã phải thực hiện BHYT TN cho

hàng chục nghìn người, những người này đang là bệnh nhân, hoặc ở một số địa

phương khác, lại yêu cầu phải thực hiện BHYT TN cho các em bị xơ hóa cơ đen-

ta…Như vậy khó có thể cân đối được thu chi quỹ BHYT TN, đặt quỹ BHYT trở

thành “quỹ đa chức năng” không đơn thuần chi trả khi người tham gí BHYT không

may gặp rủi ro ốm đau bệnh tật nữa.

Một điểm nữa đó là điều kiện triển khai BHYT TN theo hộ gia đình và thân nhân

người lao động còn sơ hở: Đối với hộ gia đình yêu cầu phải 100% thành viên tham

gia BHYT TN và phải có ít nhất 10% số hộ gia đình trong xã phường đăng ký tham

gia. Trên thực tế triển khai, số hộ đăng ký tham gia đạt hoặc vượt tỷ lệ quy định

(trên100%), nhưng khi thu tiền lại chỉ có một số hộ gia đình nộp tiền, tính theo tỷ lệ

chỉ đạt vài % số hộ. Tuy nhiên theo quy định thì cơ quan BHXH vẫn phải thu tiền,

phát hành thẻ BHYT cho các hộ gia đình. Hoặc thực hiện BHYT TN cho thân nhân

người lao động tham gia, như vậy trong một đơn vị, nếu chỉ một người lao động

mua thẻ cho thân nhân của mình thì vẫn hợp lệ.

Để hoàn thành được mục tiêu là tiến tới thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2010

thì công tác mở rộng đối tượng tham gia BHYT TN trong giai đoạn này có vai trò

rất quan trọng nhưng trong giai đoạn hiện nay thì nguyên tắc cộng đồng trong mô

hình BHYT TN Việt Nam là chưa đạt được.

- Mức đóng và khung mức đóng.

Trong khi người tham gia BHYT TN được hưởng quyền như người tham gia BHYT

bắt buộc, thì mức đóng của người tham gia BHYT TN chỉ bằng 20-30% so với mức

đóng góp của người tham gia BHYT bắt buộc . Mặt khác để khắc phục được tình

trạng thâm hụt quỹ trong khi chờ đợi tiến tơi BHYT toàn dân, để tăng quy mô quỹ

và tiếp tục thu hút đối tượng tham gia thì việc tăng như thế nào mức đóng BHYT

TN cũng đang là một vấn đề rất khó giải quyết.

Quyền lợi của người tham gia BHYT nói chung, BHYT TN nói riêng được mở

rộng nhiều so với các quy định trước đây, vì vậy chi phí KCB mà cơ quan BHXH

thanh toán với khu vực cung cấp dịch vụ cung tăng cao và không tương xứng với

mức đóng góp vào quỹ. Với việc bổ sung danh mục dịch vụ kĩ thuật cao, danh mục

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

48

Page 52: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

thuốc, danh mục các bệnh phục hồi chức năng, việc thanh toán vật tư y tế tiêu hao,

thanh toán chi phí khi người có thẻ BHYT KCB tại nước ngoài hay tại các cơ sở

KCB tư nhân không có hợp đồng với cơ quan BHXH, chi phí sang lọc xét nghiệm

HIV và việc người bệnh không phải thực hiện chế độ cùng chi trả. Trước tình hình

quyền lợi của người tham gia BHYT được mở rộng, mặc dù cơ quan BHXH đã điều

chỉnh mức đóng BHYT TN nhân dân đến giới hạn tối đa của khung mức đóng do

liên bộ quy định, song vẫn chưa thể bù đắp được sự thiếu hụt của quỹ BHYT TN.

Việc quy định tham gia BHYT nói chung và BHYT TN nói riêng được hưởng

quyền lợi KCB BHYT ngoài phạm vi rủi ro ốm đâu: điều trị bệnh bẩm sinh, dị tật

bệnh bẩm sinh, điều trị khi bị tai nạn giao thông càng làm tăng nguy cơ “vỡ quỹ”.

Giá thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật cao là những yếu tố cơ bản cấu thành tổng

chi phí KCB và đây là các yếu tố biến động nhiều nhất và khó kiểm soát nhất ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, khung mức đóng như hiện nay là không

phù hợp với những quyền lợi của người tham gia BHYT TN được hưởng.

-Phương thức thanh toán, chi trả chi phí KCB

Sau khi có nghị định số 63/NĐ-CP của chính phủ ngày 16/5/2005 về ban hành

điều lệ BHYT và thông tư hướng dẫn của liên bộ, có thể nói công tác kiểm soát chi

phí KCB BHYT tại các bệnh viện hầu như không còn nữa và đây là một trong

những nguyên nhan đưa chi phí KCB tăng cao.

Một là điều lệ BHYT ban hành kèm theo nghị định số 63/NĐ-CP ra ngày

16/5/2005 của chính phủ đã bỏ cơ chế cùng chi trả, bỏ trần thanh toán với khu vực

nội trú, làm mất đi sự giám sát quan trọng của người bệnh, với tư cách là thành viên

của quỹ BHYT. Khi được yêu cầu nộp 20% chi phí KCB người bệnh sẽ quan tâm

đến những gì mà bệnh cung cấp, họ sẽ yêu cầu xóa những gì không được cung cấp

khỏi phiếu thanh toán, nếu kỹ hơn họ còn quan tâm đến giá cả thuốc nếu thấy không

hợp lý. Từ việc nộp 20% chi phí KCB, người bệnh BHYT đã gián tiếp kiểm tra

80% chi phí còn lại mà quỹ BHYT phải thanh toán với bệnh viện. Ngược lại, nếu

không phải nộp 20% chi phí KCB, thì hiện tượng người bệnh BHYT đòi hỏi bệnh

viện cung cấp các dịch vụ kĩ thuật, chiếu chụp, xét nghiệm tràn lan, không cần thiết

cũng khá phổ biến, việc phải nộp 20% chi phí đã hạn chế phần nào những nhu cầu

không cần thiết, như vậy quỹ quỹ BHYT được bảo toàn tốt hơn.

Hai là phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT, một vấn đề vô cùng quan

trọng trong công tác kiểm soát chi phí KCB và là giải pháp nhằm chống lạm dụng

quỹ BHYT. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, phương thức thanh

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

49

Page 53: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

toán theo phí dịch vụ là phương thức mà các cơ sở KCB và người tham gia BHYT

đều rất thích, bởi họ đáp ứng được đầy đủ yêu cần điều trị theo mong muốn của cả

hai phía. Tuy nhiên, phương thức này không thể tồn tại bởi vì chi phí KCB không

ngừng leo thang, không có giới hạn và không có quỹ bảo hiểm, quỹ tài chính nào có

thể chịu nổi. Điều đó cho thấy, việc thực hiện BHYT hiện nay đang áp dụng PTTT

này cũng là nguyên nhân đẩy chi phí KCB tăng cao. Phương thức thanh toán theo

phí dịch vụ, điều này có nghĩa là không có sự kiểm soát từ bất kỳ cá nhân hay tổ

chức đối với sự chỉ định của thầy thuốc.

- Công tác giám định y tế.

Trong bối cảnh ngành Y tế đang thực hiện công tác xã hội hóa y tế, thì công việc

xác định quỹ BHYT chi đúng quy định càng có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm

quyền lợi về KCB cho người có thẻ BHYT và góp phần bảo toàn quỹ BHYT. Thực

tế hiện nay các quy định về giá thuốc, giá các dịch vụ kĩ thuật lại không giống nhau

giữa các cơ sở KCB, thủ tục hưởng BHYT TN được quy định bởi nhiều văn bản,

các bệnh viện đang hoạt động với nhiều nguồn cung ứng tài chính khác nhau do vậy

công tác giám định BHYT đang gặp những khó khăn riêng.

Đó là vấn đề về nhân lực các giám định viên y tế. Tại các bệnh viện cơ sở KCB

có ký hợp đồng với cơ quan BHXH ở các tỉnh, thành phố đặc biệt ở các trung tâm

như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh…do số lượng người tham gia tăng, nhất là

nhu cầu KCB của người dân có tham gia BHYT TN tăng đột biến do vậy gây khó

khăn trong giả quyết cho bệnh nhân có thẻ BHYT. Nhất là trong quy trình chi trả

trực tiếp với hồ sơ tiếp nhận và hồ sơ phải trả trong một ngày thì bộ phận chi trả

trực tiếp phải chịu một áp lực khá lớn.

Một vấn đề nữa nổi lên là số lượng giám định viên ít, số có thâm niên thấp dưới

một năm chiếm tỷ lệ cao (ở thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 80 người, nhưng

50% có thâm niên làm việc dưới một năm, tính bình quân 01 giám định viên phụ

trách hai cơ sở KCB). Nếu thực hiện quy trình có giám định viên thường trực sẽ rất

khó khăn về mặt nhân sự, trong khi đó hiện giám định viên rất hạn chế. Còn nếu

thực hiện quy trình không có giám định viên thường trực việc giám định sẽ lỏng lẻo,

gây khó khăn trong việc giải quyết quyền lợi cho người bệnh có tham gia BHYT

TN hơn nữa làm cho cơ sở thanh toán chi phí KCB là không chắc chắn.

Tóm lại công việc chủ yếu của giám định viên là bảo đảm quyền lợi cho người

tham gia BHYT nói chung và BHYT TN nói riêng thông qua việc kiểm soát chi phí

tại các bệnh viện.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

50

Page 54: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Quản lý và sử dụng quỹ BHYT tự nguyện.

Theo quy định ở điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị Định số 63/2005/NĐ-CP

của chính phủ ra ngày 16/5/2005 thì quỹ BHYT được quản lý như sau:

+ Số thu bảo hiểm y tế tự nguyện được hạch toán, phân bổ và sử dụng phù hợp với

yêu cầu đảm bảo chi phí khám, chữa bệnh cho người tham gia và phục vụ sự nghiệp

phát triển của BHYT TN.

+ Liên bộ Tài chính – Y tế hướng dẫn chi tiết việc thực hiện, quản lý và sử dụng

quỹ bảo hiểm y tế tự nguyện theo quy định trrn và phù hợp với quy chế quản lý tài

chính của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Hiện nay việc coi BHYT là chính sách xã hội được Ngân sách nhà nước bảo trợ đã

gây ra tình trạng lạm dụng quỹ BHYT ở nước ta trong giai đoạn mở rộng chính sách

BHYT. Quỹ KCB của đối tượng là người nghèo và BHYT TN nhân dân lại có mức

phí tham gia thấp, quy mô tham gia lại không phải là nhiều so với quy mô tiềm

năng do vậy không đảm bảo được nguyên tắc “số đông bù số ít”. Mặt khác qua khảo

sát tình hình KCB BHYT trong một số tỉnh, vấn đề lạm dụng quỹ xảy ra cả ở phía

các cơ sở y tế và người tham gia BHYT. Hầu hết các trung tâm y tế ở các tuyến

không quản lý nổi người bệnh đến khám ồ ạt ở các cơ sở KCB. Tình trạng quá tải

tại các cơ sở KCB dẫn đến tình trạng khó kiểm soát việc lạm dụng quỹ KCB BHYT

TN. Vấn đề lạm dụng quỹ hiện nay đang rất phổ biến góp phần làm tăng mức độ bội

chi quỹ BHYT TN. Việc bội chi quỹ BHYT những năm gần đây đáng là tín hiệu

báo động nguy cơ vỡ quỹ BHYT TN trong thời gian gần, đó cũng là thách thức của

các cán bộ ngành liên quan trong việc triển khai BHYT TN.

CHƯƠNG III

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

51

Page 55: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC TRIỂN KHAI

BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN

Năm 2014 nước ta triển khai bảo hiểm y tế toàn dân. Để tiến tới bảo hiểm y tế

toàn dân thì việc triển khai bảo hiểm y tế tự nguyện hiện nay là một vấn đề quan

trọng và cấp bách. Nó không chỉ là vấn đề của ngành y tế mà còn là vấn đề của các

cấp, các ngành …

3.1 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ BHYT TỰ NGUYỆN.

Ngay từ đại hội VI năm 1986, cùng với sự đổi mới toàn diện về kinh tế xã hội

của đất nước, đảng đã ra nghị quyết đổi mới trong lĩnh vực y tế, từ đó ngành y tế

cũng có những đổi mới bước đầu. Cơ chế bao cấp trong KCB dần chuyển sang cơ

chế xã hội hóa trong thanh toán chi phí KCB bằng việc hình thành quỹ BHYT do

Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động cùng đóng góp.

Đến năm 1992 sau khi ban hành nghị định 299/HĐBT ngày 15/8/1992 ban hành

điều lệ BHYT, ban chấp hành TW đảng khóa VII ngày 14/1/1993 đưa ra nghị quyết số

04/NQ-HNTW 4 đã nêu lên một định hướng mới trong công tác y tế “tạo nguồn kinh

phí để phát triển sự nghiệp y tế, thực hiện thu một phần viện phí, phát triển BHYT”.

Năm 1996, Chính phủ ra nghị quyết số 37/CP ngày 20/6/1996 về định hướng

chiến lược công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 1996- 2000 khẳng định

tiếp tục thực hiện tốt việc thu một phần việc phí và phát triển BHYT tăng nguồn tài

chính phục vụ KCB cho nhân dân…”.

Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng, đảng ta đã đề ra định hướng

phát triển BHYT: “tăng đầu tư của nhà nước kết hợp với tạo nguồn thêm nguồn

kinh phí khác cho y tế phát triển BHYT”. Với những nghị quyết quan trọng của

đảng ta, trong giai đoạn 1992-1998, BHYT phát triển mạnh.

Tiếp đến trong văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “thực hiện đồng

bộ các chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân nhằm ngoài tỷ lệ mắc

bệnh, nâng cao thể lực tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi, củng cố và hoàn thiện

mạng lưới y tế, đặc biệt là cơ sở. Xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu. Đẩy

mạnh sản xuất dược phẩm, bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đến với mọi địa bàn

dân cư. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, đổi mới cơ chế chính sách

viện phí có chính sách BHYT cho người nghèo, tiến tới BHYT toàn dân”.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

52

Page 56: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Để đạt được mục tiêu này có ý nghĩa là mọi người dân Việt Nam sống trên đất

nước Việt Nam không phân biệt người giàu, người nghèo, người già, người trẻ,

vùng sâu, vùng xa, người sống ở thành phố…đều được chăm sóc sức khỏe bằng

mạng lưới BHXH về y tế do nhà nước lập lên và thực hiện. Mọi công dân có quyền

và nghĩa vụ như nhau trong việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau bệnh tật.

Theo báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng khóa VIII đã nêu: “Thực hiện

công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, đổi mới cơ chế và chính sách viện phí,

có chính sách trợ cấp và BHYT chi người nghèo, tiến tới BHYT toàn dân”.

Như vậy là thực hiện BHYT, tạo tiền đề cho mọi người được chăm sóc sức khỏe

theo điều 39, hiến pháp 1992 của nước ta đã và đang từng bước trở thành hiện thực

với quan điểm: “thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới

BHYT toàn dân”

Năm 2005 chính phủ ban hành nghị định số 63/2005/NĐ-CP của chính phủ kèm

theo điều lệ BHYT đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Nhằm thực hiện quan điểm của đảng về xây dựng một nền y tế định hướng công

bằng hiệu quả và phát triển. Ngày 23/2/2005, bộ chính trị đã ra nghị đã ra nghị

quyết số 46/NQ-TW về công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân

trong tình hình mới. Nghị quyết đã nêu ra nhiệm vụ đổi mới chính sách tài chính y

tế với nhiều giải pháp, trong đó nêu rõ “đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính y

tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài chính công, giảm dần hình thức

thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh. Xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến

tới BHYT toàn dân vào năm 2014, tuyên tuyền giáo dục để mọi người dân đều tự

nguyện tham gia BHYT. Đa dạng hóa các loại hình BHYT, chú ý các loại hình

cộng đồng, quỹ xóa đói giảm nghèo….Để hỗ trợ hộ nghèo, người sống ở nông thôn,

miền núi, vùng sâu, vùng xa tham gia các loại hình BHYT phù hợp. Hoàn thiện cơ

chế chính sách củng cố tổ chức và nâng cao năng lực quản lí điều hành của hệ thống

BHYT, có phương thức thanh toán phù hợp để người tham gia BHYT được chăm

sóc với chất lượng tốt, không bị phân biệt trong khám chữa bệnh.

Ngày 14/11/2008 luật Bảo hiểm y tế được quốc hội ban hành. Và bắt đầu áp dụng

từ ngày 1/1/2010. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực

tế. Luật này được ban hành là một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện chính

sách BHYT và là cơ sở để tiến tới thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2014.

Tóm lại, sự phát triển của BHYT ở nước ta gắn liền với những định hướng, quan

điểm của đảng.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

53

Page 57: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ THỰC HIỆN BHYT TỰ NGUYỆN

TẠI VIỆT NAM.

3.2.1 Về chính sách BHYT tự nguyện.

BHYT là một chính sách lớn, đã được quy định trong hiến pháp, được phát triển

phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn từng thời kì đổi mới, hoàn

thiện và phát huy tác dụng nhằm đảm bảo đời sống cho người dân khi họ gặp rủi ro,

ốm đau, bệnh tật. Thông qua việc đảm bảo ổn định đời sống cho người dân khi gặp

rủi ro bệnh tật đã góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng và bảo

vệ đất nước.

Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường,

có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa chế độ chăm sóc sức

khỏe nhân dân trong cơ chế tập trung, bao cấp không còn phù hợp và đã được sửa

đổi cơ bản thông qua việc ban hành luật BHYT.Tuy nhiên luật BHYT hiện nay

cũng bộc lộ một số vấn đề bất cập. Luật BHYT được thực thi vào ngày 1/1/2010,

đây là cơ sở để triển khai BHYT toàn dân vào năm 2014. Để thực hiện luật BHYT

thành công các nhóm đối tượng dần được đưa vào diện bắt buộc tham gia tham gia

BHYT, nhưng đối tượng người nông dân, người lao động tự do (theo hộ gia đình)

có mức sống trên trung bình, trong thời gian chưa quy định bắt buộc tham gia

BHYT thì thuộc nhóm đối tượng tự nguyện tham gia BHYT. Người dân thuộc

nhóm tham gia BHYT tự nguyện chủ yếu có mức thu nhập thấp nên nhà nước cần

có chính sách hỗ trợ mức đóng BHYT cho đối tượng này. Thực hiện thu viện phí

đúng và đủ để công bằng trong KCB và chuyển cơ chế bao cấp cho cơ sở KCB sang

bao cấp cho người sử dụng dịch vụ y tế (lấy nguồn kinh phí từ cấp cho các cơ sở

KCB sang mua thẻ BHYT cho người dân). Mặt khác có cơ chế cho hỗ trợ công tác

thu BHYT (8% số thu BHYT) theo luật là chưa đủ để trả thù lao cho đội ngũ cán bộ

làm công tác tại các xã phường nhằm thúc đẩy việc thực hiện BHYT việc thực hiện

BHYT TN nhân dân phát triển nhanh.

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần can thiệp, xem xét lại các điều kiện trong

luật BHYT theo hướng có lợi cho những người có thẻ BHYT đặc biệt là người

nghèo. Bên cạnh nhiệm vụ hoàn thiện luật BHYT thì chính sách BHYT TN cần

quan tâm hoàn thiện ở những điểm sau:

- Định hướng đối tượng tham gia BHYT tự nguyện.

Để mở rộng đối tượng tham gia BHYT TN chúng ta tiếp tục triển khai các mô

hình BHYT theo nguyên tắc cộng thể cộng đồng , phát huy vai trò của các cấp

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

54

Page 58: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

đảng ủy, chính quyền đoàn thể trong vận động nhan dân tham gia BHYT TN.

Phát triển BHYT TN theo chiều sâu nhằm đảm bảo tính bền vững, đồng thời

triển khai theo diện rông tại các xã, phường, quận huyện trong cả nước cả nước.

Hình thức thực hiện theo các nhóm đối tượng như học sinh, sinh viên, hội viên

hội, đoàn thể, thân nhân của người lao động hoặc của hội viên hội đoàn thể theo

đó cấn xác định tiềm năng tham ga BHYT TN ở từng nhóm đối tượng sẽ giúp

chúng ta phân loại các đối tượng đưa vào chương trình mở rộng và phát triển

BHYT.

Trước tiên là thực hiện BHYT đối với học sinh-sinh viên: Việc thực hiện

BHYT TN trong những năm qua cho thấy tính ưu việt của BHYT học sinh, sinh

viên số lượng thẻ phát năm sau luôn cao hơn năm trước, tỷ lệ thu của đối tượng

này cũng là cao trong tổng thu BHYT TN. Do vậy trong thời gian tới BHYT TN

ở các tỉnh, thành phố tiếp tục tranh thủ tối đa sự chỉ đạo sự chỉ đạo của UBND

cấp tỉnh thành phố và sự phối hợp chặt chẽ với các ngành y tế với ngành giáo

dục-đào tạo, ban chỉ đạo ngành y tế học đường trong triển khai BHYT TN đối

với học sinh-sinh viên. Cùng với việc vận động học sinh tham gia BHYT, thu

đóng góp và cấp thẻ BHYT thì còn thực hiện chăm sóc sức khỏe ngay tại trường

như trang bị tủ thuốc, sắp xếp cán bộ y tế học đường đảm bảo y tế học đường cho

các em. Đồng thời BHXH cũng cần đăng kí hợp đồng với các bệnh viện, trung

tâm y tế để tiếp nhận cho học sinh, sinh viên tại các cơ sở y tế được thuận tiện.

Đối với BHYT TN nhân dân: Việc triển khai cho đối tượng này ở nước ta đã

khá rộng rãi. Với khó khăn trong tuyên truyền vận động tham gia BHYT TN,

một mặt do đối tượng này rất đa dạng lại hạn chế về nhận thức, điều kiện sống

của họ nói chung chỉ vượt trên giới hạn đói nghèo do vậy rất khó kêu gọi họ

tham gia BHYT TN. Cũng có bộ phận dân cư khác như kinh doanh buôn bán ở

thành phố do kinh tế khá giả nên họ cũng không mặn mà tham gia BHYT TN.

Mặt khác, sự tham gia của họ cũng khó đảm bảo được liên tục, thường xuyên

năm này qua năm khác, để đảm bảo thì cần tiến hành thực hiện từng bước vững

chắc vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Trước mắt tiếp tục mỗi huyện ở các tỉnh chọn

ra một xã có chất lượng và người dân có khả năng đóng góp cũng như được

chính quyền địa phương ủng hộ triển khai BHYT TN. Ngoài ra cũng cần khai

thác yếu tố: tập quán, dòng tộc, hương nước của từng địa phương thôn xóm,

tranh thủ sự giúp đỡ của những người có uy tín trong dòng tộc, những già làng,

trưởng bản mà đề ra biện pháp vận động tham gia BHYT TN một cách hợp lý.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

55

Page 59: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Đa dạng hóa các loại hình BHYT TN tại Việt Nam.

Đa dạng hóa các loại hình tham gia BHYT TN là giải pháp tốt nhất để thúc đẩy

lộ trình BHYT toàn dân. Quy luật trong cơ chế thị trường là sự phân hóa giai

tầng trong xã hội nhanh chóng do vậy đa dạng hóa loại hình BHYT TN là để đáp

ứng được nhu cầu của đông đảo tầng lớp nhân dân trong xã hội từ đó thu hút

được số lượng lớn người tham gia trong toàn xã hội đó cũng là mục tiêu trong

triển khai BHYT TN trên cả nước.

- Xây dựng khung mức đóng phí hợp lý.

Chính sách BHYT là một trong những chính sách xã hội nhạy cảm và được

mọi người quan tâm, vì vậy chính sách BHYT nói chung và nhất là BHYT

TN nói riêng cần có một hệ thống pháp luật quy định rõ ràng mức đóng góp

của từng nhóm đối tượng. Với mức đóng động bộ như luật BHYT hiện nay là

chưa hợp lí. Theo tôi với các nhóm đối tượng khác nhau tham gia BHYT TN

sẽ đóng phí theo nguyên tắc phù hợp với từng tình hình kinh tế xã hội theo

từng khu vực thành thị, nông thôn của từng địa phương, khả năng đóng góp

của người dân, có kế hoạch hỗ trợ tiền đóng BHYT cho một bộ phận dân cư

cận nghèo. Do vậy cần có một khung mức đóng hợp lí đáp ứng được nhu cầu

này mặt khác khi xây dựng cũng cần quan tâm đến tới đảm bảo cân đối thu

chi cho quỹ BHYT TN nhất là trong điều kiện gía cả leo thang như hiện nay.

Việc xây dựng khung mức đóng BHYT TN phải căn cứ vào các yếu tố như:

nhóm đối tượng, khu vực sinh sống là thành thị hay nông thôn, phân tích số

liệu thống kê về số lượng đối tượng tham gia BHYT TN, tình trạng đi khám

chữa bệnh của từng nhóm đối tượng các năm trước, các yếu tố về lạm phát,

mức sống dân cư, hay căn cứ vào mục tiêu của đảng và nhà nước ta trong

triển khai đối với một số nhóm đối tượng đặc biệt nào đó.

- Quy định rõ các phương thức thanh toán chi phí KCB.

Phương thức thanh toán chi phí KCB hiện nay là theo phí dịch vụ có chi phí

quản lý hành chính cao và có nguy cơ bội chi quỹ BHYT TN cao. Ảnh hưởng

lớn tới an toàn quỹ BHYT TN nói riêng và tới sự nghiệp BHYT nói chung ở

nước ta. Cần từng bước thí điểm và áp dụng rộng rãi các phương thức thanh

toán khác để chọn ra phương thức thanh toán KCB hợp lý nhất, tích cực nhất

với điều kiện nước ta như phương thức thanh toán định suất, thanh toán theo

chuẩn đoán… để đảm bảo sử dụng quỹ BHYT đạt hiệu quả nhất cho người

tham gia BHYT và người cung cấp dịch vụ y tế. Trong những năm gần đây

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

56

Page 60: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

không chỉ ở nước ta vấn đề hạn hẹp về nguồn tài chính và gia tăng chi phí

trong cung cấp dịch vụ y tế đã dẫn đến sự thay đổi trong PTTT đối với cơ sở

KCB. Hai phương thức thanh toán đã và đang được sử dụng rộng rãi trong

vòng 15 năm trở lại đây là phương thức khoán quỹ và phương thức thanh

toán theo chuẩn đoán. Tuy nhiên đối với các nước đang phát triển như nước

ta, PTTT chuẩn đoán là quá phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện hệ thống

thông tin, năng lực quản lý hiện có. Do vậy phương thức khoán quỹ theo định

suất kết hợp với sự theo dõi đảm bảo về chất lượng dịch vụ y tế có thể là giải

pháp phù hợp về thanh toán đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bởi

theo PTTT này các cơ sở KCB được các cơ quan BHXH trả trước một khoản

tiền nhất định theo định kì căn cứ theo số thẻ BHYT đăng ký tại cơ sở KCB

đó. Phương thức khoán quỹ khác về căn bản so với PTTT theo dịch vụ . Đối

với PTTT theo phí dịch vụ, chi phí mà cơ quan BHXH phải thanh thanh toán

cho cơ sở y tế căn vào chi phí thực tế mà bện việc đã cung cấp cho bệnh

nhân. Từ đó gây ra tình trạng gia tăng cho phí y tế không kiểm soát nổi do cơ

sở KCB có xu hướng tăng cung cấp dịch vụ y tế để tăng nguồn thu thực tế ở

Việt Nam nay đã chứng minh được điều này. Ngược lại, cơ chế khoán quỹ cơ

sở KCB phải chịu trách nhiệm về cân đối quỹ KCB cho nên họ phải quan tâm

đến hiệu quả chi phí trong điều trị để giảm những chi phí không cần thiết,

ngoài ra PTTT này còn khuyến khích cơ sở KCB tăng cường chăm sóc sức

khỏe ban đầu và phòng chống bệnh tật. Nhưng hạn chế của phương thức này

là tình trạng cơ sở KCB cung cấp không đủ hoặc hạn chế chất lượng dịch vụ

để giảm chi phí song có thể khắc phục được nếu người tham gia được quyền

lựa chọn lại nơi đăng ký KCB theo định kỳ. Trong môi trường cạnh tranh

này, các cơ sở KCB phải quan tâm đến việc thỏa mãn nhu cầu KCB của

người tham gia khi gặp rủi ro ốm đau bệnh tật. Mặc dù có nhiều hạn chế

trong thực hiện nhưng trong tình trạng chi phí KCB tăng đột biến như hiện

nay, khi mà quỹ BHYT TN chưa thu hút được phần đông dân cư trong xã hội

tham gia thì phương thức khoán quỹ theo định suất sẽ hạn chế những vấn đề

lạm dụng quỹ KCB phát sinh trong khi thực hiện PTTT theo phí dịch vụ. Từ

bài học kinh nghiệm của các nước và thực tế thí điểm tại Việt Nam, BHXH

Việt Nam có thể mở rộng phạm vi thí điểm khoán quỹ tại các cơ sở KCB để

khẳng định tính khả thi, hiệu quả của phương thức này tại tại nước ta, trên cơ

sở đó áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn quốc.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

57

Page 61: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Nâng cao quyền lựa chọn cơ ở KCB ban đầu của người dân trong việc sử

dụng dịch vụ KCB bằng BHYT tự nguyện.

Hiện nay khi tham gia BHYT và BHYT TN người tham gia vẫn phải KCB theo

trình tự đúng tuyến mà không được lựa chọn cơ sở KCB. Đây cũng là một hạn

chế khi tham gia vào hệ thống chính sách BHYT. Việc nâng cao quyền lựa chọn

cơ sở KCB ban đầu trong việc sử dụng dịch vụ KCB bằng BHYT, BHYT TN là

việc làm cần thiết quan trọng bởi vì nó tạo tâm lí yên tâm cho người bệnh khi

tham gia KCB tại cơ sở y tế, mọi người cũng yên tâm và thoải mái hơn khi tham

gia BHYT nói chung và BHYT TN nói riêng.

- Tăng cường công tác thanh kiểm tra đối với công tác quản lí thu và chi

quỹ BHYT

Việc thanh kiểm tra đối với công tác thanh kiểm tra sẽ hạn chế được tình

trạng lạm dụng quỹ BHYT TN từ đó quỹ BHYT giảm tình trạng bị thâm hụt quỹ.

Công tác thanh kiểm tra nên giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tổ

chức thực hiện. Nên thực hiện chế độ kiểm tra định kì kết hợp với kiểm tra đột

xuất để phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm.

3.2.2 Đối với BHXH Việt Nam trong triển khai BHYT trong triển khai

BHYT tự nguyện.

Cơ quan BHXH Việt Nam cần tham gia đóng góp ý kiến với các bộ ban ngành

trong các lĩnh vực sau: Cải tiến thủ tục hành chính trong lĩnh vực khám chữa

bệnh cho người tham gia BHYT TN; quản lí quỹ BHYT TN hay việc thu , quản

lí quỹ BHYT TN hợp lí tránh phân tán từ đó giúp ổn định quỹ, kiện toàn tổ

chức, đảm bảo phát huy được sự kế thừa, tính năng động, hiệu quả của hệ thống

BHYT TN. Trong quá trình cải cách hành chính, mục tiêu hiệu quả của hệ thống

BHYT TN. Trong quá trình cải cách hành chính mục tiêu hiệu quả của hệ thống

phải là ưu tiên số một, điều chỉnh các chính sách gián tiếp tới sự phát triển

BHYT bao gồm: điều chỉnh chế độ tiền lương cán bộ y tế, tăng cường cơ chế

quản lí dịch vụ y tế ngoài công lập, xây dựng gói dịch vụ y tế thiết yếu. Ngoài ra

BHXH Việt Nam chỉ đạo BHXH tỉnh, thành phố thực hiện những nội dung sau:

- Đào tạo bài bản các lớp huấn luyện đại lý thu BHYT tự nguyện.

Đại lý thu BHYT TN là người được cơ quan BHXH ủy quyền, thực hiện các

hoạt động liên quan đến việc khai thác đối tượng tham gia BHYT TN, thu phí

BHYT, chuyển thẻ BHYT và các hoạt động khác trong khuôn khổ về quyền,

trách nhiệm của đại lý thu BHYT TN được ghi trong hợp đồng thu BHYT TN

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

58

Page 62: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

cũng như trong các quy định về tổ chức và quản lý thu BHYT. Một người đảm

nhận vai trò là đại lý thu BHYT TN muốn bám trụ lâu dài chỉ có thể là những

người kiên nhẫn và chấp nhận đi trên con đường gập ghềnh của công việc còn

nhiều khó khăn do vậy ngoài quyền lợi được đào tạo cơ bản, nâng cao miễn phí,

được tham gia các khóa học, hội thảo, chương trình về BHYT, về kĩ năng truyền

đạt, kĩ năng khai thác đối tượng và vận động nhân dân tham gia thu nhập theo kết

quả công việc nhằm khuyến khích họ gắn bó với nghề. Đào tạo bài bản họ sẽ góp

phần đưa BHYT TN vào đời sống nhân dân, từ đó làm cho sự nghiệp BHYT ở

nước ta ngày một phát triển.

- Công tác tuyên truyền BHYT và BHYT tự nguyện đến với người dân.

Ở nước ta hiện nay không phải ai cũng nhận thức đúng và đầy đủ ý nghĩa vai trò

của BHYT mà cụ thể là BHXH về y tế. Muốn nâng cao nhận thức này công tác

thông tin tuyên truyền đóng vai trò quan trọng . Do vậy trong thời gian tới nên

bằng cách đa dạng hóa các hình thức và nội dung tuyên truyền BHYT TN cho xã

hội, cho mọi người cùng hiểu đúng và thực hiện tốt chính sách. Mục tiêu công

tác tuyên truyền BHYT TN là nâng cao nhận thức cho người dân, hướng tới mở

rộng đối tượng, giúp mọi người hiểu rõ bản chất nhân đạo cộng đồng và quyền

lợi nghĩa vụ khi tham gia. Hiện nay BHXH đang tổ chức hoạt động đại lý phát

hành thẻ BHYT TN, họ chính là cầu nối hữu hiệu để đưa chính sách BHYT đến

với người dân, nếu phát huy tốt kênh thông tin này cùng với những hình thức

thường sử dụng lâu nay, vừa làm cho công việc của đại lý bớt “vạn sự khởi đầu”

và giúp họ thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, đi sâu giải thích và hướng dẫn các

quy trình, quy định, từng bước triển khai BHYT TN một cách vững chắc và bền

vững.

- Ràng buộc cơ sở khám chữa bệnh.

Các cơ sở khám chữa bệnh tiếp tục củng cố đội ngũ cán bộ BHYT, cơ quan

BHYT khi thỏa thuận với các cơ sở KCB cần xem xét và cân nhắc kỹ các điều

khoản cũng như các quy định mà các cơ sở KCB có thể đáp ứng. Những quy

định này không phải ký xong là để đấy mà cần được kiểm tra thường xuyên định

kỳ các cơ sở KCB. Công việc này đòi hỏi phải nâng cao trình độ chuyên môn đội

ngũ giám định viên có chuyên môn về y học đồng thời cũng am hiểu về nghiệp

vụ. Trên thực tế hiện nay các cơ sở KCB khi thấy người mang thẻ BHYT đến để

KCB thì việc phục vụ tỏ ra rất lơ là và không nhiệt tình phục vụ. Đây cũng là lí

do mà người dân không mấy nhiệt tình khi tham gia BHYT vì vậy việc triển khai

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

59

Page 63: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHYT TN cũng khó khăn hơn. Công tác kiểm tra đôn đốc thường xuyên của cơ

quan BHYT với cơ sở KCB là cần thiết cho việc nâng cao sự phục vụ của cơ sở

y tế với người KCB BHYT nói chung và BHYT TN nói riêng.

- Làm tốt công tác thống kê phục vụ việc triển khai BHYT tự nguyện

những năm sau.

Đây là công việc quan trọng phục vụ cho nhiều công việc khác trong quá trình

triển khai BHYT TN ở Việt Nam. Qua số liệu thống kê giúp ta có thể biết được

tình trạng triển khai BHYT TN, tốt hay chưa tốt…Hơn nữa nếu có số liệu thống

kê của nhiều năm ta có thể xây dựng được khung mức đóng hợp lý từ đó giúp

triển khai BHYT TN.

Hiện nay công tác thống kê ở BHXH Việt Nam còn chưa được đầu tư và sự

quan tâm thực sự đúng mức. Số liệu thống kê sẽ chỉ là những con số không phản

ánh được điều gì nếu không có sự phân tích những con số đó. Như vậy BHXH

Việt Nam trong thời gian tới nên xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống

kê cho phù hợp với pháp luật, với cơ chế quản lý và điều kiện kinh tế xã hội

trong từng thời kỳ về cả số lượng các chỉ tiêu cần thiết, xây dựng về nội dung và

phương pháp tính toán từng chỉ tiêu, nguồn tài liệu thu thập. Bên cạnh đó công

việc thu thập, chỉnh lý, tổng hợp và phân tích các số liệu thống kê cũng sẽ phục

vụ cho công tác quản lý của toàn ngành. Cuối cùng là tổ chức các cuộc điều tra

thống kê cần thiết để phục vụ công tác quản lý đồng thời có thể bổ sung hoàn

thiện chính sách BHYT nói chung.

3.2.3 Đối với các cơ quan liên quan.

BHYT TN là một chính sách của Nhà Nước nhằm đảm bảo công bằng trong

KCB của các tầng lớp dân cư trong xã hội do vậy cần mang tính tổ chức, không thể

là tự phát nhỏ lẻ và không chỉ riêng một cơ quan BHXH Việt Nam có thể thực hiện

mà có thể mang lại những kết quả tốt. Để thực hiện BHYT TN thành công góp phần

nâng cao sức khỏe cho nhân dân các cơ quan có liên quan như các Bộ, Ngành, Hội

trung ương, các cấp đảng chính quyền, đoàn thể địa phương cần có phối hợp để

thực hiện để thực hiện mục tiêu chung này. Đặc biệt ngành y tế vì chế độ BHYT khi

thực hiện luôn đi cùng với hệ thống cung cấp và phân phối dịch vụ y tế của mỗi

quốc gia. Nhưng đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT lại luôn là mục tiêu

chung trong triển khai BHYT. Quyền lợi của người tham gia BHYT thể hiện bằng

việc bảo đảm đáp ứng thuận tiện và đầy đủ các dịch vụ y tế mà người tham gia

BHYT có quyền sử dụng chứ không đảm bảo cung cấp toàn bộ các dịch vụ y tế. Do

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

60

Page 64: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

vậy việc thực hiện thành công và phát triển bền vững chính sách chính sách BHYT

phụ thuộc không nhỏ vào sự phối hợp với ngành y tế đặc biệt là trong cung ứng

dịch vụ chăm sóc y tế, trong kiểm soát việc tăng giá thuốc…khi mà xu hướng chung

yêu cầu phải phát triển nhanh chính sách BHYT tức tăng cầu trong chăm sóc và bảo

vệ sức khỏe nhân dân cần có sự đồng bộ trong cung cấp các dịch vụ y tế đây là vấn

đề đặt ra đối với ngành y tế.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

61

Page 65: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

KẾT LUẬN

BHYT nói chung và BHYT TN nói riêng với bản chất nhân đạo phù hợp với

truyền thống đạo lí dân tộc Việt Nam cho nên đã nhanh chóng nhận được sự hưởng

ứng nhiệt tình của đông đảo quần chúng nhân dân. Sự ra đời và phát triển của

BHYT đã chứng minh được tính đúng đắn trong chính sách xã hội của nhà nước.

Sau 18 năm hình thành, xây dựng và phát triển, chính sách BHYT đã đạt được

những thành tựu quan trọng góp phần đắc lực vào công cuộc đổi mới đất nước nói

chung cũng như sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân nói riêng.

Kết thúc năm 2009 BHYT đã thu hút được khoảng 50% dân số cả nước tham gia,

riêng BHYT TN đã thu hút được hơn 11 triệu người đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức

khỏe của nhân dân, đặc biệt là trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Số tiền thu về quỹ

BHYT TN là một nguồn tài chính quan trọng cho ngành y tế. Đảm bảo về mặt tài

chính cho người tham gia trước mọi rủi ro ốm đau bệnh tật, mọi chi phí y tế.

Tác dụng thực tiễn của BHYT TN là điều hiển nhiên, tuy nhiên trong quá trình

triển khai BHYT TN đã gặp không ít khó khăn do hạn chế trong nhận thức của quần

chúng nhân dân và còn nhiều lúng túng, vướng mắc từ phía tổ chức thực hiện.

Đến năm 2014 nước ta thực hiện BHYT toàn dân, để tiến tới BHYT toàn dân thì

việc thực hiện BHYT TN trong thời gian này là rất cần thiết. Ngày 1/1/2010 luật

BHYT đã được đưa vào thực hiện song vẫn còn quá sớm để đánh giá hiệu quả đạt

được. Hi vọng luật mới này góp phần hạn chế được những khó khăn trong thực hiện

BHYT TN, không để xảy ra tình trạng vỡ quỹ BHYT TN ở nước ta trong thời gian

tới.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

62

Page 66: Tailieu.vncty.com   chuyen de bao hiem y te tu nguyen

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo hiểm xã Việt Nam, Quá trình hình thành và phát triển BHYT Việt

Nam”, nhà xuất bản Hà Nội – 2002.

2. Tạp chí bảo hiểm xã hội số các năm 2007, 2008, 2009.

3. Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định 299/HĐBT, nghị định

58/1998/NĐ-CP, Nghị định 63/2005/NĐ-CP.

4. Thông tư liên tịch số 77/2003/TTLT-BYT-BTC, Thông tư liên tịch số

22/2005/TTLT-BYT-BTC, Thông tư liên tịch số 06/2007/TTLT-BYT-BTC.

5. Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12.

Phạm Thị Mai Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

63