lƯỢc sỬ phẬt giÁo Ấn ĐỘ
TRANSCRIPT
1
LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
(Giáo án dành cho khoa đào từ xa khóa II - Giảng viên Thích nữ Hương Nhũ)
Giới thiệu đôi nét về Ấn Độ.
Hiện nay, Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ
người, và đồng thời lớn thứ bảy về diện tích. Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế
giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc
đấu tranh của những người tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn
Độ là nơi sinh trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu),
Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh.
Trước ngày độc lập, Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ thuộc Anh.
Việc thành lập quốc gia này có công rất lớn của Mohandas Gandhi, người được ca tụng
là "người cha của Ấn Độ". Ông đã thuyết phục chính phủ Anh trao trả độc lập cho Ấn
Độ bằng con đường hòa bình và được chấp nhận. Nhưng Anh đã quyết định tách Ấn
Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân theo đạo Hindu là Ấn Độ; một có đa số dân
theo Hồi giáo là Pakistan, (nước này lại gồm hai phần: phần phía đông Ấn Độ gọi là
Đông Pakistan (sau này là Bangladesh), phần phía tây gọi là Tây Pakistan (Cộng hòa
Hồi giáo Pakistan ngày nay). Hai phần lãnh thổ này cách nhau trên 2000 km băng qua
lãnh thổ Ấn Độ.)
Đặc điểm địa lý xứ Ấn
Về địa lý, Toàn cõi Ấn Độ là một đại lục, chiếm gần hết bán đảo Ấn Độ, đây là một
quốc gia Nam Á, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng
rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên
ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Hai mặt Đông Nam và Tây
Nam giáp Ấn Độ Dương. Ấn Độ (tiếng Hindi: Bharat; Trung
Quốc gọi là: Thiên Trúc (天竺), Quyên Độc (身毒. Ấn Độ có ranh giới với Pakistan,
Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan. Ấn Độ có nền văn
minh sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Hymalaya dài 2600km,
trong đó có tới hơn 40 ngọn cao hơn 7000m, quanh năm tuyết phủ, Hymalaya theo
tiếng Phạn có nghĩa là nơi cư trú của tuyết, theo người Ấn Độ cổ Hymalaya cũng là nơi
cư ngụ của các đấng thần linh. Phía dưới là vùng đồng bằng Ấn - Hằng. Sông Hằng bắt
2
nguồn từ Hymalaya, chảy qua thành phố Varanasi (Benares) từ ngàn đời nay là dòng
sông linh thiêng của Ấn Độ.
Nhìn chung điều liện thiên nhiên của xứ Ấn rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều
núi non trùng điệp, nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú, có vùng khí hậu
nóng ẩm mưa nhiều, có vùng quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng sa mạc khô
khan, nóng nực… Tính đa dạng khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu Ấn Độ
cũng là một dấu ấn trong hình thành phong cách sống của người dân Ấn.
Chương thứ Nhất
XÃ HỘI ẤN ĐỘ THỜI TIỀN PHẬT GIÁO
(Khoảng từ cuối thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên
đến thế kỷ thứ V trước Công nguyên)
1. Nền văn minh Ấn Hà (Indus Civilization)
Nền văn minh sớm nhất của dân tộc Ấn Độ phải kể đến nền văn minh sông Ấn
(Indus river). Nhiều ý kiến cho rằng giống người Dravidian là dân bản địa xưa nhất và
nổi bật nhất trong số các dân tộc ở Ấn độ, là chủ nhân của nền văn hóa Indus. Họ thờ
nữ thần sáng tạo đất đai và dân tộc. Nền văn minh giai đọan này không thua gì nền văn
minh Lưỡng hà vùng Trung Á và văn minh nhà Thương của Trung Hoa thể hiện qua di
tích khảo cổ những thành thị thủ công nghiệp và thương nghiệp lớn, xuất hiện từ
khoảng giữa thiên niên kỷ III đến đầu thiên niên niên kỷ II trước công nguyên. Xã hội
Ấn Độ khi đó đã có sự phân chia giai cấp, dân cư biết chế tạo và sử dụng đồ dùng bằng
đồng. Ngành kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Từ cuối thiên niên kỷ thứ II BC, nền văn
hóa sông Ấn bắt đầu suy tàn. Người ta giải thích đó là do sự xâm nhập tàn phá của
nhóm người Aryans.
2. Sự xâm nhập của nhóm người Aryans
Văn hóa Ấn Độ cũng đã phát triển tới một trình độ khá cao, do tư tưởng sáng tạo
của giống người Aryan. Nguyên thủy, giống người Aryan cư trú tại miền Trung ương Á
Tế Á, lấy nghề du mục để sinh sống. Vào khoảng 3000 năm trước kỷ nguyên, giống
người này vượt qua dãy núi Hindukush di cư xuống vùng Đông nam Á Tế Á; một phần
3
của giống người này di chuyển về phía Tây nam thuộc Ba Tư (Iran), một phần thì tiếp
tục di chuyển về phía Đông nam, xâm nhập vào phía Tây bắc nước Ấn Độ, đánh đuổi
người bản xứ, chiếm lĩnh vùng Panjab (Ngũ hà địa phương), thuộc thượng lưu sông
Indus, và giống người này được gọi là dân tộc Aryan Ấn Độ.
Dân tộc Aryan Ấn Độ cư trú ở vùng Panjab, ngày một phồn thịnh, nhất là về mặt
tư tưởng thì rất phát đạt, vì thế, dân tộc này đã chế tác được bộ kinh điển đầu tiên, tức
là kinh điển Rg Veda (Lê Câu Phệ Đà) 40 quyển, là nguồn tư tưởng văn hóa ở thời kỳ
thứ nhất của Bà La Môn giáo, trong khoảng 1500 -1000 năm trước kỷ nguyên.
Nội dung của kinh điển Rg Veda chỉ là những bài ca tán có tính cách thần thoại,
nhưng bao hàm nhiều tư tưởng về vũ trụ và nhân sinh quan, tư tưởng Rg Veda là tư
tưởng mở đầu cho nền văn minh và triết học Ấn Độ, và cũng là cơ sở để khai triển cho
những trào lưu tư tưởng hậu lai.
Nguồn tư tưởng ở thời kỳ thứ hai của Bà La Môn giáo là thời đại Bràhmana
(Phạm thư), trong khoảng 1000 - 800 năm trước kỷ nguyên. Trong thời kỳ này, dân tộc
Aryan Ấn Độ lần lượt tiến về phía Đông, chiếm cứ khu đất đồng bằng phì nhiêu trên bờ
sông Hằng Hà (Gange), lấy nghề canh nông làm mục tiêu, đặt ra chức tước vua quan,
bắt những người khác giống làm nô lệ, chia xã hội thành bốn giai cấp khác nhau: Giai
cấp Bà-la-môn (Bràhmana), chủ trương việc nghi lễ tôn giáo; giai cấp Sát-đế-lợi
(Ksatriya) là giai cấp vua quan, nắm quyền thống trị; giai cấp Tỳ-xá (Vaisya) là giai
cấp bình dân, nông, công, thương; giai cấp Thủ-đà-la (Sùdra) là giai cấp tiện dân, đời
đời làm nô lệ. Vì giai cấp Bà-la-môn chủ trương công việc lễ nghi, tôn giáo, nên đã chế
tác ra bộ kinh điển Bràhmana, để chú thích và thuyết minh kinh điển Veda.
Nội dung của sách Bràhamana thì hoàn toàn là một pho sách có tính cách thần
học. Tư tưởng triết học của Bràhmana thì khai triển theo thứ tự trong ba giai đoạn. Giai
đoạn thứ nhất lấy Prajapati (Sinh sản) làm trung tâm. Tư cách của Prajapati là thần tối
cao, tạo ra vũ trụ, trời đất và hư không, rồi lần lượt tạo ra Thái Dương thần, Phong thần,
Hỏa thần, con người và vạn hữu, nên giai đoạn này thuộc về quan niệm sáng tạo. Giai
đoạn thứ hai, lấy Bràhaman (Đại ngã) làm trung tâm. Bràhman thay thế Prajapati để
nắm quyền chi phối các vị thần. Giá trị của Bràhman đứng trên hai phương diện, một
phương diện thì duy trì cái bản chất bất biến bất động của nó, mặt khác thì hoạt động
theo hai yếu tố là Nàma (Danh) và Rùpa (Sắc) để khai triển vạn hữu. Giai đoạn thứ ba,
lấy Àtman (Tự ngã) làm trung tâm. Bràhaman và Àtman tên tuy khác nhau nhưng cùng
một thể. Bràhman thuộc về phương diện vũ trụ; Àtman thuộc về phương diện tâm lý.
4
Căn cứ vào phương diện tâm lý thì linh hồn bất diệt, nghĩa là Àtman khi lìa thể xác thì
linh hồn được quy thuộc về Bràhman.
Nguồn tư tưởng ở thời kỳ thứ ba của Bà La Môn giáo là triết học Upanishad (Áo
nghĩa thư). Tiếp sau tư tưởng Bràhman là triết học Upanishad được thành hình trong
khoảng 800 - 600 năm trước kỷ nguyên. Nội dung tư tưởng triết học này chủ trương
thuyết PHẠM NGÃ ĐỒNG NHẤT (Bràhman, Àtman ailkyam), và lý tưởng giải thoát.
Lý tưởng giải thoát chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là việc đi tìm giải thoát,
nhưng giải thoát phải tìm ở tự nơi mình, không phải là tìm ở bên ngoài, cho nên nhân
của giải thoát là tự giác, nhân của luân hồi là bất giác. Giai đoạn thứ hai, muốn thoát
luân hồi cần phải an trụ cái bản tính, và bồi dưỡng phần trí tuệ. Giai đoạn thứ ba, phải
noi theo phương pháp tu trì để mong phát minh trực quán trí, tức là phép tu Du-già
(Yoga). Theo thứ tự như thế mà tu, dần dần chân ngã sẽ toàn hiện, tới lúc chân ngã toàn
hiện, thì Àøtman trở thành Bràhman, tức là giải thoát, chấm dứt luân hồi.
3. Tư tưởng triết học thời kỳ Veda
Chữ Veda bắt nguồn từ văn tự "vid", nghĩa đen là "tri thức", "hiểu biết". Nó cũng
được dùng chung với nghĩa là "thánh kinh", là "sự sáng suốt cao nhất". Có thể nói Veda
là một tác phẩm tổng hợp, có tính hỗn hợp và có nhiều cách phân chia
Kinh Veda là những bộ kinh cổ nhất của Ấn độ và của nhân loại. Đó là một bộ
sách thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư tưởng, quan điểm, những
tập tục, lễ nghi... của nhiều bộ lạc người Aryan.
Giai đoạn từ khoảng 2000 năm tr.CN đến thế kỷ VIII tr.CN
+Rig – Veda: Rig, có nghĩa là "tán ca", tán tụng Veda. Đây là bộ kinh cổ nhất
của nền văn hoá Ấn Độ bao gồm 1017 bài, sau được bổ sung thêm 11 bài dùng để cầu
nguyện, chúc tụng công đức của các vị thánh thần.
+Sama - Veda: Tri thức về các giai điệu ca chầu khi hành lễ, gồm 1549 bài.
+Yajur - Veda: Tri thức về các lời khấn tế, những công thức, nghi lễ khấn bái
trong hiến tế.
+ Atharva – Veda: gồm 731 bài văn vần là những lời khấn bái mang tính bùa
chú, ma thuật, phù phép nhằm đem lại những điều tốt lành cho bản thân và người thân,
gây tai họa cho kẻ thù.
5
Nhìn chung trong các tập Veda thời kỳ này tập trung phản ánh ước vọng của
người dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có thức ăn, có gia súc... ; đồng
thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết
học. Tuy nhiên qua các tập Veda đã thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong
đó người ta đã thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong
thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi lễ.
Giai đoạn từ thế kỷ VIII tr.CN đến thế kỷ V tr.CN
+ Brahmana: (gọi là Phạn chí hay kinh Bàlamôn), gồm những bài cầu nguyện,
giải thích các nghi lễ của Veda
+ Aranyaka: Nghĩa là suy tưởng trong rừng - kinh rừng, giải thích ý nghĩa huyền
bí của những nghi lễ Veda và phát hiện những ý nghĩa tượng trưng cao siêu của Veda.
+ Kinh Upanishad : Là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm 200
bài kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tôn giáo Veda.
Nó thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi lễ và
bàn đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự. Đây cũng là một trong những bộ
kinh quan trọng nhất của kinh Veda, được biên soạn (trong khoảng thời gian 800 – 600
năm trước kỷ nguyên) bởi các tông phái, các đạo sĩ trong những hoàn cảnh và địa
phương khác nhau. Nội dung tư tưởng triết học này chủ trương thuyết ―Phạm ngã đồng
nhất ‖ (Bràhman, Àtman ailkyam), và lý tưởng giải thoát. Lý tưởng giải thóat chia làm
ba giai đoạn
- Giai đoạn 1: là việc đi tìm giải thoát, nhưng giải thoát phải tìm ở tự nơi
mình, không phải tìm ở bên ngoài, cho nên nhân của giải thoát là tự giác và nhân của
luân hồi là bất giác.
- Giai đoạn 2: là muốn thoát luân hồi cần phải an trụ cái bản tính, và bồi
dưỡng phần trí tuệ.
- Giai đoạn 3: là phải noi theo phương pháp tu trì để mong phát minh trực
quán trí, tức là phép tu Du già (Yoga). Theo thứ tự như thế mà tu, dần dần chân ngã sẽ
toàn hiện, tới lúc chân ngã toàn hiện, thì Àtman trở thành Bràhman, tức là giải thoát
chấm dứt luân hồi.
6
4. Nguồn gốc giai cấp và thuyết Tứ Hành Kỳ
a. Nguồn gốc hệ thống đẳng cấp
- Đẳng cấp ở Ấn đã trải qua nhiều thay đổi trước khi trở thành có hệ thống
như hiện nay. Về mặt văn bản, đẳng cấp được đề cập đầu tiên trong Rg-
Veda, bản kinh cổ nhất của Bà La Môn giáo. Theo Rg-Veda thì bốn đẳng
cấp đều được sinh ra từ một nguồn, từ trên cùng cơ thể của con người sơ
thủy (Purusa): Bà La Môn được sinh ra từ miệng; Sát Đế Lợi sinh ra từ
tay; Phệ Xá sinh ra từ bắp vế; và Thủ Đà La sinh ra từ chân (Rg-Veda,
10.90).
Từ khởi đầu, sự phân chia cao thấp giữa các đẳng cấp được dựa theo vị trí
trên cơ thể của con người sơ thủy mà từ đó các đẳng cấp được sinh ra.
Đẳng cấp sinh ra từ miệng, do ở gần đầu nhất, nên được xếp cao nhất; và
ngược lại, đẳng cấp sinh ra từ chân thì được coi là thấp nhất. Như vậy theo
Rg-Veda, cả bốn đẳng cấp đều xuất phát từ một nguồn và có những liên hệ
với thần linh.
Có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc hệ thống đẳng cấp của Bà
La Môn giáo(6)
. Nếu xem xét những gì được mô tả trong các thánh điển
của tôn giáo này, ta thấy có hai vấn đề: 1. Đẳng cấp là một vấn đề ―siêu
hình‖, vì nó được cho là do thần linh tạo ra, hay nói cách khác, nó có
nguồn gốc từ thần linh, từ ―Con người sơ thủy‖. 2. Đẳng cấp được phân
chia dựa trên đặc điểm sinh học, tức dựa trên sắc da và tính cách của từng
nhóm người. Dựa trên sắc da, nhóm người có da trắng là các Bà La Môn;
nhóm người có da đỏ là Sát Đế Lợi; nhóm người có da vàng là Phệ Xá; và
nhóm người có da đen thuộc về Thủ Đà La. Về đặc tính, các Bà La Môn
thường được cho có các đặc điểm như thông minh, chân thật, thanh sạch
và những đặc tính tốt khác. Sát Đế Lợi và Phệ Xá thì được cho có các đặc
tính như dũng cảm, kiêu hãnh, hăng hái… Đẳng cấp cuối cùng, Thủ Đà
La, bị gán cho các đặc tính xấu như ngu muội, dơ bẩn và thiếu tính sáng
tạo...
Về phương diện lịch sử xã hội, hệ thống đẳng cấp được cho là sản phẩm
của những người Aryan khi những người này xâm chiếm Ấn Độ. Trước
khi những người Aryan đến, có nhiều tộc người khác nhau sinh sống tại
Ấn, trong đó tộc người Dravidian chiếm đa số. Sau khi chinh phục Ấn Độ,
7
trong quá trình phân bổ lao động, những người Aryan đã phân chia cộng
đồng của họ thành ba nhóm là Sát Đế Lợi, Bà La Môn và Phệ Xá để đảm
trách những công việc khác nhau. Về sau, những người Aryan đã lập nên
một đẳng cấp thứ tư, đó là Thủ Đà La, những cư dân bản địa được người
Aryan chấp nhận, hoặc những người pha trộn huyết thống giữa Aryan và
người bản địa. Ngoài ra, còn có một đẳng cấp thứ năm là Panchama,
những người tiện dân, là những cư dân bản địa mà người Aryan không
thừa nhậnTrong Upanishad, Bà La Môn thậm chí được đồng nhất với
Phạm thiên, và như vậy Bà La Môn cũng được xem là nguồn gốc mà từ đó
tất cả các đẳng cấp khác đã sinh ra. Do đó, các đẳng cấp khác không được
xâm phạm Bà La Môn, vì xâm phạm Bà La Môn là xâm phạm nguồn gốc
của mình. Sát hại một Bà La Môn bị xem là tội lỗi lớn nhất. Các đẳng cấp
khác, đặc biệt là Sát Đế Lợi, phải có nhiệm vụ bảo vệ đẳng cấp Bà La
Môn. Như vậy 4 giai cấp đã hình thành như sau:
- Thứ nhất: Giai cấp Bà la môn ( Bràhmana) tức giới tăng lữ đảm trách tín
ngưỡng
-Thứ hai: Giai cấp Sát đế lỵ (Khattiya) tức chiến sĩ, quý tộc nắm quyền
lãnh đạo, thống trị lãnh thổ.
-Thứ ba: Giai cấp Phệ xá (Vessas) tức là gồm cả thương gia và địa chủ.
- Thứ tư: Giai cấp Thủ đà la (Shadra) tức thợ thuyền, tôi tớ, là giai cấp tiện
dân, suốt đời làm nô lệ, phục vụ cho giai cấp trên.
Lưu ý: Chỉ có ba giai cấp đầu là được phép tụng đọc các Veda, còn giai cấp Shadra
bị cấm đoán hoàn toàn.
b. Thuyết Tứ hành kỳ
Cùng với chế độ giai cấp thì tư tưởng Bràhama cũng chủ trương mẫu thức lý
tưởng về cuộc sống theo tư tưởng Veda. Theo triết lý này, để mỗi cá nhân có thể đạt
đến sự mẫu mực, đạo đức, cũng như về con đường đi đến giải thoát thì đời người được
chia thành bốn giai đoạn cụ thể sinh hoạt, gọi tắt là Thuyết Tứ Hành Kỳ:
Phạn hành kỳ: đây là thời gian học tập Kinh điển Veda (từ 6 tuổi
đến 12 tuổi)
Gia trú kỳ: thời kỳ sống ở gia đình
8
Lâm thế kỳ: Là lúc phải nương náu ở trong rừng và nghiêm
chỉnh thực hành các quy định về cúng bái, nghiêm khắc khổ
hạnh và tu tập thiền định
Độn thế kỳ: Vân du bốn phương, sống hạnh khất sĩ và mong cầu
đạt được giải thoát.
Chương thứ Hai
GIAI ĐOẠN NGUYÊN THỦY PHẬT GIÁO.
(Từ thế kỷ VI trước Công nguyên đến thế kỷ X sau Công nguyên)
1. Tình hình chính trị xã hội
Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ Ấn độ đã phát triển cao, nhưng vẫn bị
bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, cùng sự thống trị của
nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng
cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng
chính thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này
với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau, vừa mang tính
chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến
đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Veda. Từ đó đã hình thành cách
phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết học thành hai phái chính:
- Phái triết học chính thống (Astika) thừa nhận uy thế tối cao của kinh Veda của
đạo Bàlamôn, bao gồm 6 trường phái chính là: 1)Samkhya, 2) Mimamsa,3) Vaisesika,
4) Nyaya, 5) Yoga và 6)Védanta.
- Phái triết học bác bỏ uy thế tối cao của kinh Veda đạo Bàlamôn gồm 3 trường
phái chính là: 1) Các trường phái triết học vô thần, duy vật trong phong trào mới đòi tự
do tư tưởng ở Đông ấn và trường phái triết học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ
nghĩa duy vật khoái lạc như Charvaka; 2) Phật giáo và 3) Đạo Jaina. Ngoại trừ Phật
giáo là một tôn giáo mang tính giác ngộ và giải thoát hoàn toàn, còn trường phái
9
Lokayata là trường phái triệt để duy vật, vô thần, các trường phái khác đều mang tính
chất nhị nguyên luận hay thiếu triệt để.
2. Tư tưởng triết học của sáu trường phái chính và những trường phái triết học
phủ nhận uy thế của Veda.
i. Trường phái Samkhya (Số luận): Khai tổ là Kapia (Ca Tỳ La)
Phái này chủ tương Nhị nguyên luận là tinh thần và vật chất. Vật chất là yếu tố
để thành lập vạn vật, đối lập với vật chất là vô số linh hồn. Linh hồn thì họat động tự
do kết hợp với vật chất để tạo thành sinh vật. Lý luận về bản nguyên vũ trụ là tư tưởng
triết học trung tâm của trường phái này. Họ cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại
ấy với luận điểm nổi tiếng " Trồng Sali đượcSali, trồng Vrihi được Vrihi". Với họ bản
chất của linh hồn là thuần túy chủ quan không biến động, vật chất là khách quan luôn
luôn biến hóa dao động, nương theo ba nguyên chất là ―sattva‖ (hỷ), ―Rajas‖ (ưu) và
―Tamas‖ (ám). Ba nguyên nhân này gọi là ba đức (guna). Căn cứ vào sự phối hợp của
ba đức này để thuyết minh hiện tượng vạn hữu.
ii. Trường phái Mimansa (Nhĩ Man Tát Phái) Khai tổ là Jaimimi
(Sà Y Nhĩ Ni)
Kinh điển của triết học Mimansa là "Mimansa - Sutra". Một đại biểu lớn của
trường phái này là Sabara, người viết chú giải cho "Mimansa - Sutra". Phái này chú
trọng về phương diện luân lý triết học, phục tùng mệnh lệnh và cấm chế của kinh điển
veda, chủ trương thuyết ―Âm thanh thường trụ‖. Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa
có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh ra từ các nguyên tử (Anu)Phái
Mimansa coi đời người là khổ và vấn đề đặt ra là phải thoát khỏi nỗi khổ ấy. Họ chủ
trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt là lễ "Hiến sinh". Khi giải quyết
mối quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm coi tinh
thần tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
iii. Trường phái Védanta (Phệ Đàn Đa Phái) Khai tổ là
Bàdarayana (Bà Đạt La Gia Na)
Tư Tưởng triết học của phái này chủ trương rằng Bràhman là tổng nguyên lý của
vũ trụ, vạn hữu, là duy nhất, là siêu việt. Các nhà tư tưởng Védanta hệ thống các tư
tưởng của Upanishad - tác phẩm được coi là kết thúc của Veda (Védanta. nghĩa là "kết
thúc Veda"). Tác phẩm Brahman - Sutra được coi là kinh điển của Védanta, nhưng nội
dung không rõ ràng, khá mơ hồ nên có nhiều cách giải thích khác nhau.Cách luận giải
10
có ảnh hưởng lớn nhất là " thuyết Védanta. nhất nguyên". Đó là triết học nhất nguyên
luận duy tâm chủ quan cho rằng chỉ có Brahman, tức ý thức thuần túy là tồn tại duy
nhất, mà Brahman lại được đồng nhất với "Cái tôi" (Atman). Thế giới vật chất không
tồn tại hiện thực, hình ảnh của nó chỉ là ảo ảnh do "Vô minh" sinh ra. Đại biểu cho
thuyết này là Sankara, người viết chú giải cho Brahman - Sutra.Các phái Védanta. sau
này lại giải thích Brahman - Sutra theo quan điểm hữu thần, hay duy tâm khách quan.
Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng; còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ
phận của linh hồn tối cao, tưc Thượng đế Brahman.
iv. Trường phái Yoga (Du già phái) Khai tổ là Patanjali (Bát Tử
Xà Lê)
Yoga xuất hiện rất sớm, từ nền văn minh Indus. Cuốn Yoga - Sutra được coi là
của Patanjali(Thế kỷ II tr.CN).Tư tưởng cốt lõi của trường phái này là sự thừa nhận
nguyên lý hợp nhất vũ trụ nơi mỗi cá thể. Yoga còn là phương pháp dưỡng sinh được
xây dựng trên cơ sở nhận thức về thế giới và con người. Phái này chú trọng ở pháp môn
thiền định để mong cầu giải thoát, theo phương pháp thực tu chia làm tám giai đoạn.
- Cấm chế (Yama): Giữ các điều răn (giới), bao gồm ngũ giới: Sát sinh, đạo,
vọng ngữ tà dâm,của riêng.
- Khuyến chế (Niyama): Thanh tịnh trong học tập kinh điển- Tọa pháp (Anasa):
Giữ vị trí thân thể đúng đắn
- Điều tức (Pranayama): Giữ hơi thở đều, sâu, nhịp nhàng.- Chế cảm
(Pratyahara): Điều khiển cảm giác sao cho lúc ngồi thiền, giác quan được thoải mái.
- Chấp trì (Dharana): Tập trung tư tưởng.
- Thiền định (Dhyana): Giữ tâm thống nhất
- Đẳng trì hay Tam muội (Samadhi): Đưa tâm đến hư không, chứng được cảnh
giới sán lạn.
Phương pháp tu luyện này sẽ sản sinh ra những năng lượng lớn mà những người
bình thường không đạt được. Nhiều phái cho rằng, nếu thực hiện các phương pháp
Yoga thì sẽ có sức mạnh siêu nhiên.
11
v. Trường phái Nyaya (Chính lý phái)Thủy tổ tên là Aksapàda
(Túc Mục)
Tư tưởng của phái triết học này thuộc Đa nguyên luận, lấy kinh điển Nyàya Sutra
làm căn cứ. Kinh này có 538 câu. Về quan niệm nhân sinh lấy phương châm lìa khổ tới
chỗ giải thoát làm mục đích. Phái này cho rằng con người được sinh ra nơi trần thế là
có đầy dẫy sự khổ mà nguyên nhân được sinh ra (janma) là do tác nghiệp (pravrtti), tác
nghiệp làm cơ sở cho phiền não (dosa), phiền não là căn bản của vô tri (mithyajnàna).
Vậy nên muốn lìa khổ phải tiêu diệt vô tri, tiêu diệt được vô tri tức là tới cảnh giới an
vui giải thóat (nihsreyasa). Lý thuyết này tương tự với thuyết mười hai nhân duyên
trong Phật giáo. Về phương thức nghị luận thì thuyết biện luận của phái Nyaya có đóng
góp quan trọng về lôgic hình thức. Họ đưa ra hình thức biện luận gọi là "Ngũ đoạn
luận" gồm năm mệnh đề: 1. Tôn (Pratijanà)), 2. Nhân (Hetu), 3. Dụ (Udàhadana), 4.
Hợp ( Upanaya), 5. Kết (Nigamana). Về sau phương thức luận lý này được phủ chính
những chỗ chưa hòan bị qua tay hai bậc thạc học trong Phật giáo là Thế Thân và Trần
Na, và được chuyển làm môn luận lý học trong Phật giáo.
vi. Trường phái Vaisésika (Thắng luận phái) Đại biểu cho phái
Vaisesika là Kananda, tác giả của "Vaisesika - Sutra" gồm
370 câu,
Trong đó có nêu ra sáu phạm trù là: Thực cú nghĩa, Đức cú nghĩa, Nghiệp
cú nghĩa, Đồng cú nghĩa, Dị cú nghĩa và Hòa hợp cú nghĩa, sáu nguyên lý kể trên
tức là sáu phạm trù căn bản để thuyết minh và lý giải vạn hữu. Nhưng tóm lại
vạn hữu đều do ba nguyên lý ―Thực, Đức, Nghiệp‖ (Thể, tướng, dụng) kết hợp
lại mà thành lập. Về phương diện nhân sinh quan, phái này cho con người được
được thành lập bởi tám yếu Àtman, Manas (ý), Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt
căn, Thân căn, Nghiệp lực đây là yếu tố cuối cùng, bởi nghiệp lực huân tập nên
bị luân hồi, muốn thóat luân hồi cần phải diệt nghiệp lực, muốn diệt nghiệp lực
cần phải tu trì khổ hạnh để mong đạt tới cảnh giới thuần túy của Àtman, đó là lý
tưởng giải thoát.
vii. Trường phái triết học Lokayata và phong trào tư do tư tưởng
ở Đông ấn
Trong học thuyết về tồn tại, phái Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện
tượng trong vũtrụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành.
Chúng có khả năng tự tồn tại, tựvận động trong không gian để tạo thành vạn vật,
12
kể cả con người. Tương ứng với bốn nguyên tố là bốn nguyên tử đất, nước, lửa và
không khí tồn tại ngay từ đầu, không thay đổi và không thể tiêu diệt được. Về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức, họ giải thích trên quan điểm duy vật thô sơ, mộc mạc.Theo
họ, ý thức là thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì người ta không thể có ý
thức.Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về "cái tôi" cũng hết.
Về nhận thức luận và lôgic học, phái Lokayata mang tính chất duy cảm, thừa
nhận cảm giác là nguồn gốc duy nhất xác thực của nhận thức. Chỉ có cái gì cảm giác
biết được thì mới tồn tại. Các giác quan có thể tri giác được sự vật bởi vì bản thân các
giác quan cũng gồm các nguyên tố giống như các sự vật. Theo họ, suy lý, kết luận hay
những chứng minh của kinh Véđa đều là những phương pháp sai lầm của nhận thức. Từ
đó, họ phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn.Về đạo đức học, họ phê phán những
thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cáchkiềm chế mọi ham muốn, dục
vọng và hy vọng cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia sau khi chết. Họ chủ trương hãy
để cho mọi người sống, hoạt động, hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc đời nên đạođức
học của họ được gọi là "chủ nghĩa khoái lạc".
viii. Triết học Phật giáo
Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ
VI tr.CN ở miền Bắc Ấn độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa Ấn độ với
Nêpan hiện nay. Đạo Phậtra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và
chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi
nỗi khổ đó.
Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện
chứng chất phác, phủ nhận tư tưởng về đấng sáng tạo Brahman, cũng như phủ nhận
"Cái tôi" (Atman) và dưa ra quan niệm "Vô ngã" (Anatman) và "Vô thường";
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp" trong Upanishad, Phật giáo đặc
biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho chúng sinh
khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana).Từ sự lý
giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Đức Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra thuyết "Tứ
diệu đế" và "Thập nhị nhân duyên" để giúp giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và
kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là triết lý nhân sinh chủ yếu của đạo Phật.
Trong giai đoạn đầu, thế giới quan nhân duyên của Phật giáo đã có những yếu tố
duy vật và biện chứng tự phát. Về lĩnh vực chính trị - xã hội, đạo Phật là tiếng nói phản
13
kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và
bình đẳng xã hội, nêu lên ước nguyện giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch cuộc đời,
khuyên dạy mọi người sống có đạo đức với từ bi.
ix. Trường phái triết học Jaina
Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần đồng thời với Phật giáo. Người sáng lập ra
trường phái nàylà là Maharvira, có hiệu là Jaina (nghĩa là Chiến thắng).Triết học cơ bản
của Jaina là học thuyết và "cái tương đối". Theo thuyết nay, tồn tại đầu tiên là bất biến,
vô thủy, vô chung, sự biến đổi của vạn vật là không cùng; thế giới vạn vật là sự thống
nhất của cái biến đổi và cái bất biến. Cái vĩnh hằng là vật chất; cái không vĩnh hằng là
các dạng của vật chất (Thí dụ: Đất sét thì không thay đổi, nhưng cái bình bằng đất sét
thì có thể thay đổi). Điều đóđược thể hiện qua các khái niệm: 1. Tồn tại; 2. Không tồn
tại; 3. Vừa tồn tại vừa không tồn tại; 4.Không thể miêu tả; 5. Tồn tại và không thể miêu
tả; 6. Không tồn tại và không thể miêu tả; 7. Tồn tại và không tồn tại và không miêu tả
được.
3. Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Vị giáo chủ sáng lập ra đạo Phật là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sàkyàmuni), Hán
dịch là Năng Nhân Tịch Mặc, lấy ý nghĩa Ngài là một bậc trí tuệ trong going họ Thích
Ca. Tên chính của Ngài là Cù Đàm Tất Đạt Đa (Gautama Siddhàtha). Cù Đàm nghĩa là
Giác Giả (Budha), hay là Thế Tôn (Bhagavat). Giác Giả và Thế Tôn là danh hiệu tôn
xưng về đức độ của Ngài. Ngài là con vua Tịnh Phạn nước Ca tỳ la vệ (Kapilavastu),
mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma da. Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba
la nại (Bénares) ngày nay.
Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là
ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch. Theo
tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu Ma da
trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới cây vô ưu. Khi
mới sinh, Ngài đứng trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: "Trên
trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn." Sau khi sinh Thái Tử được bảy ngày thì Ma Da
phu nhân từ trần. Thái Tử được kế mẫu là Ma ha Ba Xà Ba Đề (Prajàpati) trông nom
nuôi nấng.
Khi lên 8 tuổi, Thái Tử được trang bị kiến thức văn võ song toàn. Để tiếp xúc với
cuộc đời, đã ba lần Thái Tử được phép vua cha cho ra ngoài thành để quan sát cuộc
14
sống dân gian và tìm hiểu xã hội. Thái Tử đã mục kích thấy những cảnh tương tàn
tương sát của các loài sâu bọ chim muông, những cảnh già, ốm, chết của nhân thế. Vì
vậy, nên Thái Tử cảm ngay thấy cuộc đời không có chi là vui sướng, là bền vững, là
giải thoát, hết thảy đều là vô thường. Sau khi quan sát, Thái Tử sinh ra buồn rầu, và
luôn luôn suy nghĩ để tìm phương cách cứu khổ cho chúng sinh. Lại một lần nữa Thái
Tử ra chơi ngoài thành, lần này gặp một vị Sa môn, tướng mạo đoan trang, đi đứng ung
dung, trông có vẻ tiêu dao giải thoát, do đó Thái Tử liền nảy ra tư tưởng xuất gia cầu
đạo.
Thái Tử đã mấy lần xin phép vua cha đi xuất gia, nhưng vua cha đều không ưng
thuận. Vì sợ Thái Tử đi xuất gia nên vua bắt tìm đủ mọi sự khoái lạc để cho Thái Tử
khuây lòng. Khi 18 tuổi, Thái Tử đã phải vâng lệnh vua cha, thành hôn cùng công chúa
Da Du Đà La (Yásoddharà), con gái vua Thiện Giác (Suppabuddha) nước Câu Ly
(Koli), sau Thái Tử đã sinh một con trai tên là La Hầu La (Rùhula). Vua cha thấy thế lại
càng yêu quý, vui mừng, và sai tuyển thêm mỹ nữ vào cung để hầu hạ Thái Tử. Nhưng
vì chí xuất gia đã quyết, nên dù ở trong hoàn cảnh cao quý, xa hoa, lộng lẫy mà Thái
Tử cũng không say đắm.
Khi 29 tuổi (có thuyết 19 tuổi), là thời kỳ xuất gia đã đến, Thái Tử không thể
chậm trễ được nữa, liền trốn vua cha, từ giã vợ và con, bỏ nơi hoàng cung, nửa đêm
vượt thành ra đi, nhằm vào ngày mồng 8 tháng Hai. Đi sâu vào rừng đến bờ sông
Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo Xa nặc đem về dâng Phụ hoàng và
tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở thành một đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo.
Ngài đi đến thành Vương xá (Rajagrìha) xứ Ma kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la
môn mà tham khảo phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa
mãn vì cho rằng chưa được rốt ráo. Ngài liền vào rừng Ưu lâu tần loa, xứ Phật đà già da
(Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong
sáu năm, song vẫn thấy vô hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu
giải thoát. Và sau khi nhận bát sữa của nàng Su jà ta dâng cúng, thân thể bình phục, tâm
hồn sảng khoái, Ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát nguyện: "Nếu
không tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này". Trải một thời gian thiền
quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những ma chướng phiền não của thân và tâm.
Ngài lại dẹp được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài. Đầu đêm, Ngài chứng được
Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; nửa đêm, Ngài chứng
được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; cuối đêm vào lúc sao mai mọc, Ngài
chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là vô
15
minh, và hoàn toàn giác ngộ. Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng
Chạp.
4. Giáo lý căn bản nguyên thủy Phật giáo (Tứ đế, Duyên khởi và vô ngã,
Ngũ uẩn, Nhân quả và nghiệp báo, Niết bàn).
Trong khi luận điểm của các trường phái khác chấp nhận đấng sáng tạo
Brahman, cũng như chấp nhận "Cái tôi", thì giáo lý căn bản của Phật giáo là vạn vật
trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ nhân duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Ngay
bản thân sự tồn tại của thực thể con người cũng do nhân duyên kết hợp và được tạo
thành bởi hai thành phần là thể xác (Rupa - sắc) và tinh thần (Nâma- danh), do sự hợp
tan của ngũ uẩn (sắc - thụ - tưởng - hành - thức). Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta,duyên tan
ngũ uẩn ra thì không còn là ta, là diệt, nhưng không phải là mất đi mà là trở lại với ngũ
uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo luật nhân quả không ngừng
nên vạn vật,con người cứ biến hóa vụt mất, vụt còn, không có sự vật riêng biệt tồn tại
mãi mãi do đó không có cái tôi thường định (An - Atman).
Và cũng từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Đức Phật đã đưa ra
thuyết "Tứ diệu đế" và "Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi
khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là triết lý nhân sinh chủ yếu của đạo Phật.
"Tứ diệu đế" là bốn chân lý chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hơn hết, gồm:
+ Khổ đế : Phật giáo coi " đời là bể khổ". Có trăm ngàn nỗi khổ, nhưng có 8 nỗi
khổ trầm luân, bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt
ly (Yêu thương mà phải chialìa), Oán tăng hội (Oán ghét nhau mà phải sống với nhau),
sở cầu bất đắc (Cầu mong mà khôngđược), ngũ thụ uẩn (năm yếu tố vô thường nung
nấu làm nên sự đau khổ).
+ Tập đế: Giải thích những nguyên nhân gây nên đau khổ cho chúng sinh. Đó
là12 nguyên nhân (Thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc;
5. Lục nhập; 6.Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão, tử. Trong 12
nhân duyên ấy thì Vô minhtức là ngu tối, không sáng suốt là nguyên nhân đầu tiên.
+ Diệt đế : Là lần theo Thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi khổ, tiêu
diệt nó và đưachúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt tới cảnh trí Niết bàn.
16
+Đạo đế : Chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường "tu đạo",
hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo): Chính kiến; Chính tư
duy; Chính ngữ; Chính nghiệp; Chính mệnh; Chính tinh tiến; Chính niệm; Chính định.
Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào 3 điều phải học tập, rèn luyện là: Giới - Định -
Tuệ.
Niết bàn có nghĩa là diệt độ. Tức là đã đoạn diệt hết mọi khổ sinh tử tới cõi hoàn
toàn yên vui giải thoát. Nguyên lai ý nghĩa đó có hai phương diện là tiêu cực và tích
cực. Cần phải đoạn hết phiền não là nghĩa tiêu cực, cần phải đạt tới chỗ an lạc giải thoát
là nghĩa tích cực. Vậy bậc tu hành đã chứng tới Niết-bàn, thời không còn phải sinh tử,
tới chốn đại an lạc. Niết-bàn còn có nghĩa là hết mọi vọng động tới chỗ tịch tĩnh, lìa
mọi pháp hữu vi tới chỗ vô vi, lìa mọi hư vọng tới chỗ chân như, lìa mọi giả tướng tới
chỗ thực tướng, siêu việt mọi nghĩa đoạn thường của thế gian tới chỗ trung đạo, vượt
mọi ngã và phi ngã của thế gian thường kiến tới chỗ chân ngã.
5. Thành lập Tăng đoàn
Ngay từ những ngày tháng đầu tiên sau khi chứng ngộ, Đức Thế Tôn đã thiết lập
Tăng đoàn, mở đầu bằng sự quy ngưỡng Phật pháp của năm anh em tôn giả
Konỉdỉanõnõa (Kiều Trần Như). Nhóm bạn đồng tu khổ hạnh này đã trở thành những
thành viên đầu tiên của Tăng đoàn Phật giáo. Từ đó Tăng đoàn phát triển dần thành một
hội chúng đông đảo. Giáo đoàn của Phật giáo gọi là Tăng già (Sangha), nghĩa của Tăng
già là đại chúng hay hòa hợp. Thành phần tổ chức của Tăng già là đoàn thể tôn giáo.
Đức Thích Tôn khi còn tại thế, phương thức đoàn thể tôn giáo cũng đã được chế định.
Những pháp quy của đoàn thể Tăng già gọi là Luật tạng để quy định về cách tổ chức và
sinh hoạt. Thành phần của đoàn thể Tăng già gồm có bảy chúng xuất gia và tại gia.
Về mặt giáo hội, Tăng già là rường cột của Phật pháp. Vì thế, Đức Thế Tôn đặc
biệt chú trọng đến việc hoàn thiện từng cá nhân trong Tăng đoàn. Ngài sẽ chưa vào
Niết-bàn khi chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni chưa thành tựu Giới-Định-Tuệ, chưa đủ khả
năng truyền bá chánh pháp ở đời. Đó là lời Thế Tôn tuyên bố với Ác ma. Điều này nói
lên rằng, Đức Thế Tôn đã xác nhận Tăng đoàn là những người thay thế Ngài nối truyền
ngọn đèn Chánh pháp ở thế gian. Hẳn nhiên, đó là Tăng đoàn thanh tịnh gồm những
thành viên đã và đang nỗ lực trên con đường phạm hạnh. Chỉ có sự hưng thịnh của
Tăng đoàn thì Phật giáo mới thăng hoa theo chiều lịch sử. Sự tồn tại của Tăng đoàn là
sự tồn tại của Chánh pháp.
17
6. Thành lập ni đoàn
Như chúng ta thấy trên hết, đây là một giai đoạn đầy hiểm hóc có những thành
quả sâu xa nhất trong lịch sử giải thoát hàng phụ nữ. Hai ngàn năm trăm năm sau thời
Đức Phật, cuộc vận động để giải phóng nữ giới vẫn còn được mạnh mẽ tiếp diễn khắp
nơi trên thế giới. Tuy nhiên, hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước Đức Phật đặc ân công
nhận và cho phép hàng phụ nữ được xuất gia và gia nhập vào giáo hội, mặc dù không
khỏi phần nào do dự. Người trực tiếp đảm đang trách nhiệm đưa vượt qua khúc quanh
lịch sử, giải phóng nữ giới, không ai khác hơn là Bà Maha Pajapati Gotami vĩ đại. Bà
sanh trưởng tại thị trấn Devadaha của xứ Ấn Độ cổ xưa, trong gia đình Suppabuddha.
Bà là em của Hoàng Hậu Maha Maya, mẹ Thái Tử Siddhattha. Tên tộc bà là Gotami.
Người ta gọi bà là Maha Pajapati Gotami bởi vì các nhà tiên tri đoán rằng về sau bà sẽ
trở nên vị lãnh đạo của một nhóm người rộng lớn. ―Maha‖ có nghĩa lớn. ―Pati‖ là người
dẫn đầu và ―Paja‖ là một nhóm đông người có tổ chức. Vua Suddhodna, trị vì dân tộc
Sakyan tại Kapilavattu, cưới luôn cả hai bà, Maha Maya và em là Gotami.
Theo học giả E.J.Thomas vào năm thứ năm Đức Phật đã trở về cung thành Ca Tỳ
la vệ để thăm vua Tịnh Phạn đang lâm bệnh và thuyết Pháp giúp vua cha chứng đắc A
la hán trước giờ lâm chung. Cũng trong khoảng thời gian đó Đức Phật đã phải dàn xếp
sự mâu thuẫn giữa hai thị tộc Sakya và Koliyas để giúp họ tránh được cuộc chém giết
lẫn nhau. Vào dịp này, sau khi lo tang lễ của chồng là Tịnh Phạn vương, di mẫu Ma ha
Ba xà ba đề (Mahà Pajapàti) đến công viên Nirodha nơi đức Phật đang tạm trú, cầu xin
Ngài cho phái nữ được gia nhập tăng đoàn, xuất gia tu hành sống đời sống không gia
đình. Sau ba lần từ chối lời thỉnh nguyện của di mẫu, đức Phật trở về thành Tỳ xá li
(Vesali). Bà Gotami vẫn không nao núng, không ngã lòng vì những đợt thỉnh nguyện
bất thành, mà bền gan cam chịu mọi khổ nhọc và đương đầu với nghịch cảnh, quyết
định theo chân Đức Thế Tôn đến Vesali cùng với một số mệnh phụ phu nhân có niềm
tin nơi bà.
Cắt lìa những chùm tóc đẹp đẽ một thời nào, vứt bỏ những đồ trang điểm giàu
sang tráng lệ, và khoác lên mình tấm y vàng thô thiển, các bà cam chịu khổ nhọc đi bộ,
trải qua đoạn đường dài 150 dặm đến Vesali. Vốn chưa từng quen thuộc với những thử
thách quá cam go dường thế ấy trong quá khứ, các bà chiến đấu và vất vả khổ nhọc
trăm bề trên cuộc hành trình. Dài theo đường, nhiều người thấy vậy rất cảm kích, sẵn
lòng hào hiệp nhường chỗ trên xe, nhưng các bà lễ độ khước từ và tiếp tục nhọc nhằn lê
bước. Cảnh tượng thật não nề và rất đáng thương tâm. Cuối cùng các bà đến Vesali, suy
yếu và kiệt quệ, đùng trước cổng chùa, mình mẩy lấm lem cát bụi - y phục nhăn nhó tả
tơi, chân cẳng sưng vù đau nhức.
18
Đại đức Ananda, vị thị giả trung thành và rất tận tuỵ, người hầu cận thân tín và
cần mẫn siêng năng của Đức Phật, thấy cảnh tượng khổ đau như vậy, động lòng trắc ẩn,
ba lần Đại Đức Ananda cố nài xin, nhưng Đức Phật một mực từ chối. Tuy nhiên, Đại
Đức Ananda cũng không nản lòng. Khi một người thành thật và kiên trì cầu khẩn cho
người khác và tập trung cố gắng nhằm làm mềm dịu một thái độ cứng rắn thì không có
lý do gì để từ bỏ triển vọng. Lúc bấy giờ Đại Đức Ananda áp dụng đường lối khác, kính
cẩn bạch đấng Toàn Giác như sau: ―Bạch hóa Đức Thế Tôn, người phụ nữ có khả năng
thành đạt những mức sống cao thượng trong đời sống tinh thần - bốn tầng thánh(1)-
một khi họ từ bỏ cuộc sống tại gia, tiến đến đời sống không nhà cửa, tự khép mình vào
khuôn khổ của Giáo Pháp và Giới Luật của Đức Thế Tôn?‖ ―Có, này Ananda, họ có đủ
khả năng làm được vậy‖, Đức Phật trả lời. Trước lời khẩn cầu nồng nhiệt của Đại Đức
Ananda, Đức Phật không thể làm gì hơn là thuận lòng. Tuy nhiên, với trí tuệ nhìn xa và
hiểu rộng, Đức Thế Tôn có thể thấy những hiểm họa và những khuyết điểm không thể
tránh trong việc điều hành song song hai Giáo Hội Tăng Già cùng một lúc. Do đó Ngài
ban hành một vài điều kiện và quy định về giới luật cho Giáo Hội chư Tỳ kheo Ni
nhằm giữ gìn và bảo vệ tương lai cho cả hai Giáo Hội. Ngài dạy A Nan: "Những giới
luật và ―bát kỉnh pháp‖ phải được tôn trọng, khâm sùng, kính cẩn tuân hành, và nghiêm
túc thọ trì suốt đời, không được vi phạm dầu bất cứ trường hợp nào.
1. Môt vị Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ do sự thọ trì cụ túc gìới (upasamapada) phải
chào hỏi một vị Tỳ kheo, đứng dậy trước mặt vị Tỳ kheo, đảnh lễ và thực hành tất cả
những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo, mặc dầu vị này mới thọ cụ túc giới
trong ngày hôm nay.
2. Một Tỳ kheo ni không thể nhập hạ (vassa) ở một nơi mà không có Tỳ kheo.
3. Vào mỗi ngày sám hối (một tháng hai lần), vị Tỳ kheo ni phải hỏi Giáo Hội chư Tỳ
kheo ngày giờ nào một vị Tỳ kheo đến hành lễ phát lồ (uposatha)
4. Khi mãn thời gian an cư kiết hạ mỗi vị Tỳ kheo ni phải thọ lễ tự tứ (pavarana)(4)
trước cả hai Giáo Hội, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni (để kiểm thảo xem trong ba điểm: thấy,
nghe và hoài nghi, mình có làm điều chi lỗi lầm không).
5. Một vị Tỳ kheo ni đã phạm một trọng tội phải chịu hình phạt manatta (5) trước cả hai
Giáo Hội, Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni.
6. Một nữ giới tử (sikkhamana, trong thời gian học tập) đã có tu tập sáu giới trong thời
gian hai năm, có thể thọ trì cụ túc giới với cả hai Giáo Hội, Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni.
19
7. Bất cứ trong trường hợp nào một vị Tỳ kheo ni không quyền khiển trách hay nặng lời
một vì Tỳ kheo.
8. Kể từ hôm nay Tỳ kheo ni không được làm lễ sám hối cho Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo
ni có thể hành lễ sám hối cho Tỳ kheo ni.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử tôn giáo một Giáo Hội Nữ Tu Sĩ được thành
lập và nữ giới được chấp nhận vào đời sống tu viện. Cánh cửa đã rộng mở để cho hàng
phụ nữ xuất gia, đặc ân cho phái nữ gia nhập vào một Giáo Hội Nữ Tu Sĩ đã được ban
hành
7. Vấn đề Giới luật.
Theo lịch sử, trong 12 năm đầu, đức Phật chưa chế ra giới, vì chưa có chuyện gì
rắc rối xẩy ra trong Tăng đoàn, có thể gây nên cản trở cho sự tu tập của tăng ni. Nhưng
vào năm thứ 13, có xẩy ra chuyện Na-đề-tử ân ái với vợ cũ, cho nên Phật mới bắt đầu
chế giới. Mỗi khi chế một giới, ngài lại nói 10 lợi ích (" cú nghĩa ") của việc chế giới
đó: " Vì sự kiện toàn của Tăng già, sự trường tồn của Chánh Pháp, sự an lạc của Tăng
chúng, sự tăng trưởng của lòng tin, sự đoạn diệt phiền não trong hiện tại và tương lai...
"Cứ như vậy, mỗi khi xẩy ra một sự cố, ngài lại chế thêm một giới, và dần dần số giới
mỗi ngày một gia tăng, đa số là giới nhẹ và một số ít là giới trọng. Và sau khi Đức Phật
diệt độ, các bậc Kỳ túc Trưởng lão lại theo đấy mà giải thích và quy định lại, biên thành
Tỷ-khưu giới bản và Tỷ-khưu-ni giới bản. Y vào luật Tứ Phần thì kinh Giới bản của
Tỷ-khưu có 250 giới, Tỷ-khưu-ni có 348 giới. Theo Nam truyền Luật tạng thì giới bản
của Tỷ-khưu có 277 điều, Tỷ-khưu-ni có 311 điều. Các giới điều tuy có khác, nhưng
chỉ khác phần chi tiết, còn phần đại cương vẫn giống nhau. Giới bản của Tỷ-khưu có
250 giới. Người đi xuất gia sau khi đã được thọ giới Cụ túc rồi, cần phải nương theo
vào các điều giới luật như trong giới bản để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày. Vì "
tâm dẫn đầu các pháp " (Kinh Pháp Cú, 1), cho nên Giới có thể xem là một điểm khởi
đầu, một giai đoạn của sự tu tập: nhờ giữ Giới cho nên tâm mới Định, nhờ Định cho
nên mới có Huệ, nhờ Huệ mới có giải thoát.
Nhà tu hành thường ban đầu còn nhiều lậu hoặc, cho nên cần phải chú tâm đến
tác ý trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý. Phải tự kiểm soát, tự kiềm chế đừng để cho
tâm buông lung, ô nhiễm bởi các lậu hoặc, và làm nẩy lên những cái mà ngày nay
người ta gọi là " cảm xúc tiêu cực ". Đó là chức năng của các giới luật Ba-la-đề-mộc-
xoa (Biệt giải thoát giới) đặt ra cho các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni. Các giới luật này được
xem như là phương tiện nhiếp tâm trao cho bởi đức Phật: càng nhận được nhiều giới
luật tức là càng được ưu ái trên con đường giải thoát...
20
Về sinh hoạt của người xuất gia, phải nương vào Tứ y pháp:
1. Y vào khất thực để sinh sống;
2. Y vào áo vải thô để che thân;
3. Y vào dưới gốc cây để ngủ nghỉ;
4. Y vào thuốc dân gian để chữa bệnh.
Nghĩa là sự sinh hoạt hàng ngày của người xuất gia thì không chú trọng ở các vật
xa hoa, các món ăn cao lương mỹ vị, chỉ lấy sự thanh đạm làm mãn nguyện, đó là tinh
thần của Tứ y pháp. Tuy nương vào Tứ y pháp làm tiêu chuẩn cho sinh hoạt, nhưng tùy
từng địa phương, từng trường hợp các hàng tại gia Phật tử, đàn việt làm tinh xá, giảng
đường, áo mặc, đồ ăn đem cúng dường bố thí, cũng vẫn được thọ dụng, mà không trái
với Tứ y pháp.
8. Ảnh hưởng của Tăng đoàn Phật giáo đối với xã hội Ấn Độ.
Chúng ta đều biết rằng lúc bấy giờ xã hội Ấn Độ được thiết lập theo cấu trúc kim
tự tháp, gồm 4 tầng chồng chất lên nhau như nương dựa hữu cơ vào nhau. Có lẽ, với
thực tế xã hội lúc bấy giờ tại Ấn Độ, thì Tăng đòan của Đức Phật là một giáo đoàn có
một không hai trong một xã hội bất bình đẳng, một xã hội mà ở đâu đâu cũng là phân
biệt giai cấp kỳ thị chủng tộc. Vậy mà Tăng đoàn của Đức Phật đã triệt tiêu mọi cách
biệt của giai cấp, giáo pháp của Đức Phật, vốn định vị con người không phải trên giai
cấp nhưng trên luật Nhân quả và Nghiệp báo do mình quyết định và tự mình tạo ra, đã
san bằng mọi hố sâu thần quyền và chính trị, mọi cách biệt kinh tế và xã hội, mở cơ hội
cho mọi người đều bằng nhau: Những vị Phật sẽ thành! Như các con sông mất hết tên
gọi riêng biệt khi cùng đổ ra biển lớn (Trung A Hàm, 8.19). Trong Kinh Tập Đức Phật
có dạy như sau:
“Không phải do sanh ra người ta trở thành Bà La Môn
Không phải do sanh ra người ta trở thành kẻ hạ tiện
Do hành động (nghiệp) người ta trở thành Bà la môn
Do hành động (nghiệp) người ta trở thành kẻ hạ tiện”
Chính vì vậy mà Tăng đoàn Phật giáo được xem là hình ảnh tiêu biểu nhất cho sự
kiện lịch sử trong cuộc cách mạng xóa bỏ triệt để hệ thống đẳng cấp của tư tưởng Bà la
môn. Vì không có bất cứ một tổ chức nào của tôn giáo thời bấy giờ cho phép hay tiếp
21
nhận tất cả mọi thành viên củ mọi đẳng cấp xã hội vào tổ chức của nó ngoại trừ Phật
giáo. Đối với Tăng đoàn Phạt giáo những ai thật tâm quy y Phật Pháp, gia nhập Tăng
già thì sẽ không còn bận tâm đến dấu vết cội nguồn xã hội của mình.
Ví dụ như tôn giả Vô Não (Angulimala), người được chính vua Ba Tư Nặc tôn
kính cúng dường, trước khi trở thành Tỷ kheo Ngài là một tên cướp khét tiếng cướp
của giết người. Những nhân cách đặc biệt như Sunita là người quét dọn vệ sinh, Svàti
là thợ chài lưới, Nanda là kẻ chăn bò, Upàli là thợ hớt tóc, Ambapàli là gái làm tiền
hạng sang, Vimalà là con của cô gái điếm, Pùrna là con của người đàn bà nô lện, Chàpa
là con người thợ săn…..đây là những bài pháp sống động soi rọi tinh thần bình đẳng
trong Tăng đòan Phật giáo.
Một ảnh hưởng khác của Tăng đoàn Phật giáo đối với tư tưởng xã hội của Ấn Độ
thời bấy giờ là cuộc cách mạng giới tính. Bằng chứng rằng Đức Phật đã cho nữ giới gia
nhập Tăng đoàn. Trong nguồn sử liệu của lịch sử tôn giáo Ấn Độ chưa đề cập đến sự
kiện người nữ xuất gia và tổ chức tu hành cho đến khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
chấp nhận cho nữ giới xuất gia và cho phép thành lập Ni đòan. Do vậy, người ta thường
cho rằng Tăng đoàn Phật giáo là tổ chức đầu tiên đặt nền móng cho triết lý bình đẳng
giới tính trong lĩnh vực tâm linh ở xã hội Ấn Độ.
Chương thứ Ba
GIAI ĐOẠN BỘ PHÁI PHẬT GIÁO
1. Các kỳ kết tập Kinh điển
- Kết tập Kinh điển lần thứ nhất
* Lí do:
Khi Phật còn sinh tiền, các giảng thuyết đều chỉ truyền miệng. Phật lại
tùy theo trình độ hiểu biết và khả năng hấp thụ để có lời giảng thích
hợp. Các phương pháp dùng lại rất phong phú tùy theo hoàn cảnh và
phương tiện. Do đó, sự dị biệt khó tránh khỏi trong các lời giảng.
Ngay sau khi Phật nhập niết bàn, đã có các đệ tử cho rằng phải làm
điều này, không làm điều nọ, không chịu ràng buộc tâm ý... Để tránh sự
sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn vẹn, Ma-ha-
22
ca-diếp (Maha Kassapa) đã đề nghị kết tập và phân loại toàn bộ lời dạy
của Phật lại thành kinh điển để tránh chia rẽ, sai lầm về giáo pháp[2].
* Diễn biến và kết quả
Cuộc kết tập lần I đã được tổ chức tại thành Vương Xá (Rājagaha), gồm 500 A-
la-han Arhat. Được sự bảo trợ của vua A Xà Thế (Ajatasatru)là vua xứ Ma Kiệt Đà
(Magadha. Thời gian: vào mùa Hạ năm Đức Phật Niết-bàn. Ngài Ưu Ba Ly (Upali)
trùng tuyên Luật tạng trước, Ngài A Nan trùng tuyên Kinh tạng sau. Bộ luật được trùng
tụng là: Bát thập tụng Luật. Lý do kiết tập: Tỳ kheo Bạt Nan Đà vui mừng khi nghe tin
Đức Phật nhập niết bàn. Phương pháp kết tập được kể lại bằng trí nhớ và cũng không
có ghi thành văn bản. Những điều ghi nhận này sau đó được viết lại thành 4 bộ kinh:
1. Kinh Trường A Hàm (Digha agama)
2. Kinh Trung A Hàm (Majjhima agama)
3. Kinh Tăng Nhất A Hàm (Anguttara agama)
4. Kinh Tạp A Hàm (Samyutta agama)
Đây là các tài liệu cổ nhất có ghi lại cuộc đời của Phật và hoạt động của Tăng
đoàn, đánh dấu bước đầu hình thành Kinh tạng và Luật tạng. Các bộ kinh văn trên cũng
là căn bản cho Phật giáo nguyên thủy.
- Kết tập Kinh điển lần thứ hai
Lí do
Sau 100 năm (đầu thế kỉ thứ 5 TCN) thì có nhiều người muốn thay
đổi một số điều chi tiết trong giới luật. Đại hội kết tập lần thứ II cốt
để bàn thảo về những thay đổi này.
Đại hội còn nhằm mục đích ngăn không để các tư tưởng của các đạo
khác thâm nhập vào giáo lý Phật giáo.
Diễn biến và kết quả
Đại hội có 700 vị tỳ kheo, được tổ chức tại Vesali trong tám tháng dưới sự trợ
giúp của vua Kalasoka. Trong đại hội những người không đồng ý với việc giữ nguyên
giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị kết tập riêng và thành lập Đại chúng
23
bộ (mahāsāṅghika). Số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập kinh điển, sau đó hình thành
Thượng tọa bộ (Theravada).
- Kết tập Kinh điển lần thứ ba
Lí do:
Trong thời gian vua Asoka trị vì vào giữa thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo đã phát
triển rộng ra nhiều nơi. Một điều tất yếu là có nhiều sự phân hóa ngay trong đạo Phật.
Tăng đoàn cũng đã bị một số người trà trộn và lạm dụng, gây nhiều bất hòa nội bộ.
Diễn biến và kết quả:
Hội nghị được chủ trì bởi Moggaliputta Tissa, khoảng 1.000 tì kheo ưu tú được
cử đến. Hội nghị được tổ chức vào khoảng năm 225 TCN và kéo dài trong 9 tháng. Địa
điểm kết tập là thành Pataliputta thuộc về đế chế Magadhan dưới sự khởi xướng và
giúp đỡ của vua Asoka. Đây là lần đầu tiên Tam Tạng Kinh bao gồm Kinh tạng, Luật
tạng và Luận tạng được hoàn thiện.
Cuối đại hội, Moggaliputta Tissa đã chỉ ra "Những Điểm Dị Biệt" (Kathavatthu)
để bác bỏ luận thuyết không hợp lệ của một số bộ phái. Đại hội kết tập này có hạn chế
là chỉ được sự công nhận về giáo pháp của tông phái Thượng tọa bộ, tông phái chiếm
đa số lúc bấy giờ.
Sau đại hội, Tam Tạng kinh cùng với các chú giải được con trai vua Asoka là
Mahinda đem tới Tích Lan. Các kinh điển này sau đó đã được dịch sang tiếng Pali và
còn nguyên vẹn cho đến nay.
- Kết tập lần thứ IV và các lần sau đó
Đối với kì kết tập lần thứ IV thì các sử liệu đã không hoàn toàn thống nhất với
nhau về thời gian tính và địa điểm. Có hai thuyết đáng lưu ý là:
* Thuyết thứ nhất với lý do: Vua Kanishka là tín đồ trung thành với Phật giáo, rất ưa
được nghe giảng kinh văn nên thường mời nhiều tu sĩ Phật giáo đến giảng kinh. Tuy
nhiên, ông nhận thấy có rất nhiều sự khác biệt về các kiến giải trong Phật giáo nên khởi
tâm bảo trợ cho kì kết tập lần thứ IV.
Diễn biến và kết quả: Thời gian kết tập là vào khoảng 400 năm sau khi Phật nhập
niết bàn (thế kỉ thứ 1). Địa điểm là vùng Kasmira miền Tây Bắc Ấn Độ. Hội nghị bao
24
gồm 500 học giả giỏi về Tam Tạng kinh và do Vasamitra chủ tọa với sự trợ giúp của
Parsva
Sau khi kết tập, vua Kanishka đã ra lệnh khắc lại toàn bộ Kinh tạng, Luật tạng và
Luận tạng lên trên những lá đồng, bảo quản tại một nơi cố định, không cho mang ra
ngoài. Tuy nhiên, những di vật này đã bị thất lạc, nay chỉ còn phần thích luận A Tỳ Đạt
Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma Mahavibhasa sastra) mà Trần Huyền Trang đã dịch
sang tiếng Hán, gồm hai trăm quyển.
* Thuyết thứ hai: Thời gian kết tập là vào khoảng 400 năm sau khi Phật nhập Niết
Bàn, do vua xứ Tích Lan là Vattagàmani hỗ trợ. Kì kết tập này đã đọc, hiệu đính và sắp
xếp lại thứ tự của Tam Tạng kinh, cũng như dịch bộ kinh này sang tiếng Pali. Thuyết
này được nhiều học giả công nhận chính là kết tập lần thứ IV của Thượng Tọa Bộ
(Theravada).
* Các kì kết tập khác: Các lần kết tập còn lại đều là của riêng bộ phái Thượng Tọa
Bộ (còn gọi là Nam Truyền) tiến hành.
Kết tập lần thứ V được tổ chức vào năm 1871, trong suốt 5 tháng tại thủ đô của
Miến Điện lúc bấy giờ là Mandalay. Số người tham dự gồm 2.400 cao tăng dưới sự bảo
trợ của vua Mindon. Kết quả là 3 tạng kinh được hiệu đính lại và đem khắc trên 729
phiến đá hình vuông cất vào trong chùa tháp Kuthodaw.
Kết tập lần thứ VI bắt đầu ngày 17 tháng 5, nhân dịp lễ Phật Đản, năm 1954,
trong suốt thời gian là 2 năm. Địa điểm kết tập là phía Bắc của Ngưỡng Quang
(Yangon), trên núi Nghệ Cố. Dưới sự khởi xướng của Giáo hội Phật giáo Miến Điện và
bảo trợ của chính phủ Miến Điện. Kết quả là sự tham khảo lại tất cả kinh điển của các
nước Phật giáo Nam truyền, rồi đúc kết và đem xuất bản để truyền bá.
2. Sự phân phái ở Ấn Độ.
Mối phân liệt căn bản của Giáo đoàn Phật giáo là do sự đối lập của Thượng Tọa
bộ và Đại Chúng bộ, rồi từ hai bộ này đã chia thành nhiều mạt phái, gồm có 20 bộ, đó
là sự phân phái của Tiểu thừa.
o 2.1 Các phái bộ trong Đại Chúng bộ
Đại Chúng bộ có trung tâm hoạt động tại Amgotara, thuộc vùng Trung Ấn.
Nguyên có hệ tư tưởng cấp tiến nên đã xảy ra việc phân hoá trước. Các cuộc phân hoá
25
này tất cả đều tách ra từ Đại Chúng Bộ và hình thành tổng cộng thành 9 bộ phái trong
đó quan trọng về mặt lý luận bao gồm:
* Nhất Thuyết bộ (Ekavyavahàrikah) cho rằng mọi pháp thế gian hay xuất thế đều là
giả không có thực thể.
* Thuyết Xuất Thế bộ, hay Chế Đa Sơn bộ, (Lokuttaravàdinàh) quan niệm pháp thế
gian là do vọng tưởng mà ra, từ đó sinh phiền não, phiền não tạo nghiệp, do nghiệp mới
có quả báo. Do đó, các pháp thế gian đều là hư vọng. Bộ phái này thừa nhận các pháp
xuất thế gian là thật có.
* Kê Dận bộ (Kankkutikàh) cho rằng Kinh tạng và Luật tạng là giáo lý do Đức Phật
thuyết tùy căn cơ và hoàn cảnh, chỉ có Luận tạng mới là giáo lý chân thật vì nó giải
thích ý nghĩa của Kinh và Luật.
* Đa Văn bộ (Bàhusrutiyàh), do Yajnavalkya cổ xuý, cho rằng chỉ có ngũ ấm (vô
thường, khổ, không, vô ngã và Niết Bàn) và Bát chánh đạo mới là pháp xuất thế; những
lời dạy khác của Thích Ca là thế gian pháp.
* Thuyết Giả bộ (Prajnàptivadinàh), do Mahakatyayana chủ xướng, phân biệt giáo lý
thành nhiều cấp độ: giả lập, chân thật, có ý nghĩa tương đối, ý nghĩa tuyệt đối; các pháp
thế gian và xuất thế gian đều có một phần là giả thuyết.\
Các bộ phái khác là Chế Đa Sơn bộ (Caityasailàh), Tây Sơn Trú bộ (Aparasailàh) và
Bắc Sơn Trú bộ (Uttarasailàh).
o 2.2 Các phái bộ trong Thượng Tọa bộ
Sự thay đổi về điều kiện xã hội và điạ lý và sự phân hoá trong Đại Chúng bộ có
thể là nguyên nhân gây ra sự chia phái của Thượng Tọa bộ thành tổng cộng hơn 10 bộ.
Các phái có sự chuyển hoá về lý luận bao gồm:
* Nhất Thiết Hữu bộ (Saivàstivàdàh), hay Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, Thuyết Nhân
bộ (Hetuvàdàh), đề cao Luận tạng và cho rằng tất cả các pháp đều là thực hữu.
Từ khi phân phái Thượng Tọa bộ yếu thế hơn, chuyển căn cứ đến Tuyết Sơn đổi tên
thành Tuyết Sơn bộ (Haimavàtàh).
26
* Độc Tử bộ (Vatsipatriyàli) tách ra từ Nhất Thiết Hữu bộ. Bộ này vẫn đề cao Luận
tạng, nhưng điểm khác biệt là chỉ dựa vào Pháp uẩn túc luận (tương truyền do ngài Xá
Lợi Phất (Sariputra) soạn).
Sau đó, Độc Tử bộ phân hóa và thành bốn bộ phái là Pháp Thượng bộ
(Dharmottariyàh), Hiền Trú bộ (Dhadrayàniyàh), Chánh Lượng bộ (Sammitiyàh) và
Mật Lâm Sơn bộ (Sandagirikàh).
* Hóa Địa bộ (Mahìsarakàh). Hình thành từ Nhất Thiết Hữu bộ, sau khi Phật nhật
tịch khoảng 300 năm, và do sư Hóa Địa, nguyên là một Bà La Môn thông thạo Vệ Đà,
chủ xướng. Ông thường vận dụng hiểu biết của mình để giảng giải kinh Phật.
* Pháp Tạng bộ (Dharmaguptakàh), do Pháp tạng chủ xướng. Pháp Tạng
(Dharmagupta) là đệ tử của Tôn giả Mục Kiền Liên (Moggallàna). Pháp Tạng đã kết
tập những lời giảng của thầy và lập thành bộ phái mới, tách ra từ Hoá Địa bộ, chia giáo
lý thành năm tạng là Kinh, Luật, Luận, Chú và Bồ tát tạng.
* Ẩm Quang bộ (Kàsyapiyàh), do sư Ẩm Quang (Kàsyapa) tách ra từ Nhất Thiết
Hữu bộ, cho rằng những lời Phật dạy gồm hai dạng: một nhằm đối trị phiền não, và còn
lại là để chỉ ra những bất ổn của các học thuyết ngoại đạo.
Ngoài ra, lần phân hoá cuối cùng của Nhất Thiết Hữu bộ cũng tạo ra Kinh Lượng bộ
(Sautràntikàh), hay còn gọi là Thuyết Chuyển bộ (Samkràntivàdàh), xem Kinh tạng
mới là giáo lý quan trọng nhất.
3. Các nguyên do dẫn đến sự phân phái
* Từ thời Phật còn tại thế, ông đã dùng rất nhiều biện pháp, cách thức và công cụ
khác nhau để tuỳ theo trình độ, khả năng liễu đạo và tuỳ theo hoàn cảnh của đối tượng
để truyền giảng.
* Ngôn ngữ chỉ là phương tiện được mượn để Thích Ca chỉ rõ chân lý cho người
nghe. Chính vì sự linh hoạt, mềm dẻo và phong phú trong Phật giáo đã dẫn đến nhiều lý
giải khác nhau về các lời truyền giảng.
* Phật giáo đã tồn tại trong thời gian rất dài và lan toả ra nhiều địa bàn khác nhau.
Các đặc điểm của tôn giáo này sẽ chuyển vận để thích nghi môi trường và phù hợp với
phong tục tập quán của từng con người, từng cộng đồng khác nhau trong xã hội cũng
như các nền văn minh riêng biệt.
27
* Cốt tuỷ của đạo Phật không phải là các hình thức cứng nhắc của lễ đạo hay các lời
sấm giảng mà là các phương pháp thực hành đôi khi dị biệt để dẫn dắt hành giả chứng
ngộ được chân lý tối thượng. Sự hiện hữu của sự phân hoá về cách tu học, lý giải và
chứng đạo cũng là một phản ánh thực tế đặc điểm của đạo Phật. Sự khác biệt này không
chỉ tìm thấy được qua số lượng (lên đến vài trăm) các bộ phái trong Phật giáo mà còn
có thể thấy được qua các hình thức bề ngoài chẳng hạn như là các kiến trúc, tác văn và
các tượng Phật ở từng nơi, từng thời kỳ.
* Ngoài ra, khi số lượng người trong tăng đoàn thực sự đủ lớn thì việc khác biệt nhau
về quan điểm hầu như là thực tế tất yếu. Các quan điểm khác nhau về giới luật hay hình
thức tu học dù chỉ là những điểm nhỏ cũng là một nguyên nhân đủ để tạo được các cuộc
phân phái. Những cuộc phân phái xảy ra thời vua Asoka phần lớn là vì sự sai biệt về
giáo luật dù chỉ là các điểm nhỏ nhặt.
* Ngay trong thời kì đầu của giáo hội, việc chuyên biệt hoá đã xảy ra cho từng nhóm
tu học. Mỗi nhóm chuyên biệt có thể giữ một trọng trách để ghi nhớ một bộ phận khác
nhau của giáo lý. Những nhóm này thường chỉ nghiên cứu, học hỏi sâu trong các
chuyên phần mà họ có trách nhiệm. Đây cũng là nguyên nhân đưa đến phân phái sau
này.
* Trong mấy trăm năm đầu hình thành giáo hội, thì việc ghi chép lại giáo lý chưa
được tiến hành. Giáo lý chỉ được truyền miệng và đọc tụng bằng trí nhớ và thiếu hệ
thống ghi chép chặt chẽ. Kinh văn do từ các cá nhân nhớ, hiểu và đọc lại rất có thể nảy
sinh các dị biệt.
* Trong toàn bộ giáo hội không phải lúc nào cũng hoàn toàn trong sạch, có nhiều
thời kì vì lòng tham một số cá nhân đã tìm cách giành quyền lãnh đạo (dù rằng điều này
hoàn toàn đi ngược với giáo lý) cũng là nguyên nhân gây chia rẽ và phân phái.
Dù rằng Phật giáo đã có nhiều phân nhóm, nhưng tựu trung đây vẫn là tôn giáo ít
bạo động nhất. Chủ trương một cuộc sống hoà hợp với môi trường. Trong hơn 2500
lịch sử, Phật giáo đã chứng minh rằng đây là một tôn giáo của hòa bình. Với tinh thần
thanh tịnh và hòa hợp của Tăng đoàn là phương thức tu tập chung trên giáo lý và đời
sống của Tăng đoàn, làm nên một mô hình cho xã hội về một môi trường sống yêu
thương, hòa hợp, bình đẳng cho nhân loại, làm cho sự phát triển của con người thăng
hoa trí tuệ và từ bi. Tư tưởng và học thuyết của hai hệ phái tuy có sự khác biệt nhưng
đều dựa trên hình thức căn bản từ lời Phật dạy từ các bản kinh và giáo lý như Tứ đế,
Ngũ uẩn, Duyên khởi, Bát chánh đạo, Tam pháp ấn… những giáo pháp ấy chính là
28
những giềng mối quan trọng khiến tăng sĩ tu tập có kết quả và cũng là những phương
tiện rất hiệu quả giúp cho Phật giáo hòa vào sức sống của mọi thời đại.
4. Các bộ phái chính ngày nay
4.1 Theravada
Theravada còn gọi là Phật giáo Nguyên thuỷ, hay Phật giáo Nam tông. Tông phái này
hình thành ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi Đức Phật Thích Ca viên tịch. Chữ
Theravada có nghĩa là "Bộ phái kết tập bởi các Bậc Trưởng lão", do đó nhiều sách còn
gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ, hay còn gọi là phái Bảo thủ, nghĩa là hoàn toàn tôn
trọng và bảo toàn tất cả những lời dạy uyên nguyên của Đức Phật Thích Ca, không
thêm và cũng không bớt những gì mà Đức Phật đã thuyết giảng trong Tam tạng kinh
điển bằng ngôn ngữ Pàli. Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ 3, hội đồng tham gia kết
tập Tam tạng đã công nhận Bộ phái với tên gọi là Trưởng lão bộ. Sau đó, người con
trai của vua Asoka (A Dục vương) là Mahinda đã xuất gia cùng với một người em gái,
sau đó cả hai đã vâng lời ý nguyện của vua cha, đã cùng với một phái bộ hùng hậu
đem tất cả Tam tạng kinh điển đến truyền bá ở vương quốc Tích Lan. Vào thời kỳ đó,
Phật giáo Theravada đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của Đức vua và dân chúng xứ
quốc đảo sư tử nên đã có thời kỳ hưng thịnh rực rỡ như chưa từng thấy. Tam tạng kinh
điển bằng tiếng Tích Lan sau đó đã được chuyển dịch lại sang tiếng Pali và các tạng
kinh này đã được Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) duy trì và sử dụng cho đến tận
ngày nay.
* (Tiếng Pali còn gọi là tiếng Nam Phạn để phân biệt với tiếng Sanskrit Bắc Phạn là
ngôn ngữ mà Đức Phật Thích Ca dùng để thuyết pháp giảng đạo).
* Các bộ kinh chính của Theravada là Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), Trung Bộ
Kinh (Majjiima Nikàya), Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya), Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara Nikàya), Tiểu Bộ Kinh (Khudaka Nikàya).
Chính xứ Tích Lan (Sri Lanka ngày nay) là nơi bảo tồn được truyền thống của
Theravada mặc dù đạo Phật tại đó là một kế thừa từ trung tâm Ấn Độ. Phật giáo ở Ấn
Độ đã bị suy tàn và biến mất từ cuối thế kỉ thứ 11 do việc lan tràn của Hồi giáo và Ấn
Độ giáo.
4.2 Mahayana
29
Mahayana có tên gọi khác là Phật giáo Đại thừa. Từ thế kỉ thứ 1 TCN các tư tưởng Đại
thừa đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay Đại thừa, chỉ thực sự có khi nó
được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma pundarika sutra). Nói
chung, ý tưởng Mahayana là có xu hướng rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng
buộc của Theravada.
Đến thế kỉ thứ 3 khái niệm Mahayana mới được xác định rõ ràng qua các trước tác của
bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) trong Trung Luận (hay Trung Quán Luận), chứng minh
tính không của vạn vật. Các ý này đã được Long Thọ khai triển dựa trên khái niệm
"Vô ngã" và "Duyên sinh" đã có từ trong các kinh điển Pali.
Vài đặc điểm chính của Mahyana bao gồm:
* Nhấn mạnh đặc điểm vị tha và giác ngộ để trở thành bồ tát hay thành phật mà độ
cho chúng sinh thành phật. Từ bi và trí huệ trở thành hai điểm song song tồn tại và hỗ
trợ nhau.
* Bồ tát đạo (Bodhisattva path): bao gồm việc thực hiện rốt ráo các đức tính bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ.
* Nhiều hình ảnh phật ngoài Phật Thích Ca cũng đã được nêu lên và các vị phật này
thị hiện ở nhiều nơi trong nhiều dạng khác nhau. Chẳng hạn như Phật A Di Đà
(Amitabha).
* Như là sự phát triển của các tư tưởng có sẵn trong Phật giáo, Mahayana cho rằng
Phật hiện hữu 3 ứng thân: hoá thân, pháp thân và báo thân.
* Triết học về tính không (shunyata) của vạn vật.
* Các kinh điển chính bao gồm: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Pundarika
Sutra), Kinh Kim Cang (Vajara Sutra), Kinh Bát Nhã (Prajnà), Kinh Đại Bát Niết Bàn
(Mahàparinirvàna-sùtra), Kinh Lăng Nghiêm (Suramgama-sùtra), Kinh Viên Giác, Bát
Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Mahàprajnàpàramità-hridaya-sùtra), Kinh Duy Ma Cật
(Vimalakirti Sutra), Kinh A Di Đà (Amitabha Sutra), v.v.
Sự hình thành tư tưởng Đại thừa là một thể hiện của đặc tính mềm dẻo sáng tạo trong
đạo Phật của các vị đạo sư để giúp cho tư tưởng Phật giáo được phổ biến một cách
thích hợp hơn với thời đại. Chính vì các ưu điểm của mình mà Mahayana tồn tại và có
số người tu học cao nhất.
30
4.3 Vajrayana (Kim Cương thừa)
Varayjana còn có tên gọi là Tantra, Mật tông, Kim cương thừa. Khác với các bộ phái
khác, Mật tông thường có khuynh hướng giữ bí mật các thông tin nên khó xác định
được chính xác thời điểm ra đời của tông này. Nó xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 6,
hay chắc chắn hơn là thế kỉ thứ 7. Phái này chia sẻ chung nhiều tư tưởng với Đại thừa
nhưng có nhấn mạnh trong việc thực hành. Các truyền giảng được tập trung vào nhiều
phương pháp tu học thực nghiệm mãnh liệt để đẩy nhanh việc thăng tiến và có thể
ngay trong cuộc sống hiện tại sẽ đạt đuợc giác ngộ các thực nghiệm này thường được
gọi là phương tiện. Trong Mật tông, việc tu tập không thể tự tiến hành theo sách vở mà
phải có một đạo sư đã giác ngộ gọi là "guru" để chỉ dẫn thực hành. (Chữ guru này nay
đã trở thành phổ biến trong Anh ngữ và có nghĩa là người thấu triệt toàn bộ một việc gì
đó). Mật tông có rất nhiều phương tiện trong đó bao gồm cả những kỹ thuật được
nhiều người biết đến là: Mandala: Mật tông cho rằng có sự tương đương giữa bản thể
người và vũ trụMantra: Đây là các chú (hay thần chú). Nội dung trong các chú được
viết nguyên gốc tiếng Phạn (Sanskrit) được tin là có chứa đầy đặc các ý nghĩa thâm
sâu và năng lực huyền diệu Mudra: Là các thủ ấn (hay nôm na là "bắt ấn"). Thủ ấn
được coi là một biểu tượng cho phật hay bồ tát. Các pháp môn hành trì khác ít được
biết đến hơn là Chân ngôn, Thần thể, Đại thủ ấn, Ngũ Trí Như Lai, Kim cương chử và
Kiền trùy. Khối lượng kinh điển Mật tông rất khổng lồ chưa được biết hết. Trong đó
cần kể đến đại Nhật, Kim Cang Đảnh, Tô tất địa, Du ký, Yếu lược niêm tụng,...
Mật tông được chia làm hai nhánh Tả phái và Hữu phái. Riêng Mật tông Tả phái
phát triển nhiều quan điểm dị biệt trong đó đáng lưu ý là việc phái này sùng bái các
Sakti, các nữ thần về tính dục
4.4 Tịnh Độ tông
Tịnh Độ Tông xuất hiện vào giữa thế kỉ thứ 4 từ sự truyền bá của sư Huệ Viễn .Tư
tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn trong Phật giáo Ấn Độ nhưng tới khi sang Trung Hoa thì
nó phát triển thành một tông phái. Tịnh Độ tông cũng đuợc xem là một nhánh của Đại
thừa song tông này không có sự truyền thừa như các tông phái khác mà chỉ do sự đóng
góp công sức để phát huy giáo lý Tịnh Độ.
Kinh điển phái này phần chính là các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh
A Di Đà, cộng với luận Vãng sinh Tịnh độ. Theo sự tích thì Phật A Di Đà đã có phát
nguyện cứu độ tất cả chúng sinh nào muốn vãn sinh cõi Cực Lạc. Nguyên lý của tông
31
phái dựa vào nguyện lực (tha lực) của Phật A Di Đà và sự nhất tâm niệm danh hiệu
Phật. Phương pháp tu học có 3 nguyên tắc
* Tín: Phải có niềm tin tuyệt đối rằng Phật Di Đà và Cực Lạc quốc tồn tại.
* Nguyện: Các biểu hiện về tâm, khẩu và ý phải hướng về cõi Tịnh độ và làm suy
giảm các nghiệp khác bằng cách dẹp bỏ các ham muốn về vật chất, tình cảm, tư tưởng
trong đời sống.
* Hạnh: Tập trung, tích cực và chủ động tâm khẩu ý một cách liên tục để có thể đạt
trạng thái định và giải thoát.
Hình thức tu học phổ biến là: Niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tập trung nhìn tượng Phật
và quán các tướng tốt của Phật, quán tưởng đến hình ảnh Phật, hay là tập niệm Phật
cho đến khi đạt tới mức vô niệm.
4.5 Thiền tông
Thiền là một phương tiện căn bản đã được đạo Phật sử dụng ngay từ khởi thủy.
Nhưng cho đến khi thiền sư sơ tổ của môn phái thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma
(Bodhidharma) du hành sang Trung Hoa (năm 520) và truyền lại thì Thiền tông bắt
đầu trở thành một tông phái riêng biệt. Đến đời thứ 6, sư Huệ Năng (Hui-neng) đã đưa
Thiền tông dần dà phát triển và nó đã thịnh hành hơn tất cả các tông phái Phật giáo
khác ở Trung Hoa. Huệ Năng cũng là người đã hủy bỏ thông tục truyền thừa, nghĩa là
không có sư tổ đời thứ 7 của Thiền Tông, thay vào đó là hàng loạt các thiền sư có khả
năng mở thành các phái thiền khác dựa theo sự phân biệt về cung cách luyện tập và
cách để đưa thiền giả đến chỗ chứng ngộ chân lý. Ngày nay, Thiền tông là một trong
những pháp môn đuợc tu tập nhiều nhất ở các nước phương Tây. Theo nhiều nhà phân
tích thì Thiền tông là một phân nhánh của Mahayana.
Các hình thức luyện tập chính của Thiền tông là: Mặc chiếu; Tham vấn thoại đầu
hay công án. Ngoài ra, trong Thiền tông không có một chừng mực hay phương pháp
tuyệt đối nào. Thiền sư có thể dùng các phương pháp rất khó hiểu và kì lạ như là đánh,
hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà hay lặng thinh để kích hoạt cho việc đốn ngộ
của những thiền sinh đạt được mức độ chín mùi.
Hầu hết các kinh văn Phật giáo đều có thể được dùng trong Thiền tông để lý giải
hay giáo huấn, đặc biệt là các loại kinh điển Đại thừa. Những bộ kinh được xem là rất
quan trọng bao gồm kinh Kim Cang, kinh Lăng Già, kinh Lăng Nghiêm... Ngoài ra,
32
Thiền tông còn lưu truyền các bản kinh, luận riêng của tông phái như là kinh Pháp Bảo
Đàn (của Huệ Năng), và luận Tín Tâm Minh (của Tăng Xán)
5. Sự phân chia theo trường phái triết học
5.1 Sarvāstivādin (Nhất Thiết Hữu bộ)
Trường phái này ra đời khoảng thế kỷ thứ 3 TCN và đã phát triển ở Tây Bắc Ấn trong
thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ IV. Sau đó trở nên vững mạnh trong cả vùng Bắc và
Tây Bắc xứ Ấn trong khoảng một ngàn năm sau. Nó mở ra tới Kashmir, Trung Á và cả
Trung Hoa. Abhidharmakośa (Đại Tỳ Bà Sa luận) của đạo sư Thế Thân là tác phẩm
quan trọng nhất của phái này. Trường phái này nhấn mạnh lời dạy của Phật rằng "bản
chất đạo đức của các hành vi sẽ quyết định những kinh nghiệm tương lai của người
làm các hành vi ấy". Quan điểm của bộ này được xem như nằm giữa Tiểu thừa và Đại
thừa. Nhất thiết hữu bộ có kinh điển riêng viết bằng văn hệ Phạn ngữ, ngày nay chỉ
còn bản dịch chữ Hán và Tây Tạng.
Giáo pháp của Thuyết nhất thiết hữu bộ có tính đa nguyên, xuất phát từ sự phủ nhận
cái ngã (Vô ngã), một tính chất cá nhân hoặc linh hồn và thừa nhận những đơn vị luân
chuyển theo thời gian, được gọi là pháp. Bộ này cho rằng có 75 pháp, và cho đó là
những đơn vị cuối cùng, không thể chia cắt (tương tự khái niệm "nguyên tử" của Âu
Châu thời thượng cổ) đều hiện hữu đồng thời. Chỉ các pháp này là "có thật." Họ phân
biệt các pháp tuỳ thuộc, Hữu vi (sa. saṃskṛta) và các pháp độc lập, Vô vi (sa.
asaṃskṛta).
Các pháp độc lập là Hư không (sa. ākāśa), Niết-bàn vô trụ (sa. apratiṣṭhita-
nirvāṇa) và Niết-bàn thường trụ (sa. pratiṣṭhita-nirvāṇa).
Các pháp hữu vi được chia làm bốn nhóm: Sắc pháp (sa. rūpadharma), Tâm
(Thức) pháp (sa. citta, vijñāna), các hoạt động của những Tâm sở hữu pháp (sa.
cetasikadharma) và Tâm bất tương ưng hành pháp (sa. cittaviprayuktasaṃskāra)—các
pháp không thuộc tâm không thuộc vật như già, chết, Vô thường...
Tác phẩm quan trọng nhất của bộ này là A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (sa.
abhidharmakośa) của Thế Thân, Đại tì-bà-sa luận (sa. mahāvibhāṣā), một bộ luận được
biên soạn trong lần Kết tập tại Kashmir dưới sự chủ trì của Thế Hữu (sa. vasumitra).
Đại tì-bà-sa luận trình bày quan điểm chính thức của Thuyết nhất thiết hữu bộ và là tác
phẩm được hoàn tất cuối cùng trong bảy tác phẩm của Luận tạng (sa.
abhidharmapiṭaka, xem A-tì-đạt-ma). Một số tác phẩm khác cần được nhắc tới là A-tì-
33
đàm tâm luận (sa. abhidharma-hṛdaya), là bộ luận trung tâm của A-tì-đạt-ma với mười
chương. Tì-bà-sa luận của Ca-chiên-diên tử cũng viết tổng quát về giáo lí bộ này. Tác
phẩm Thế gian giả thiết (sa. lokaprajñapti) trình bày quan điểm về sự hình thành thế
giới đáng lưu ý. Các quan điểm về giới luật được trình bày trong Tì-nại-da-tì-bà-sa (sa.
vinayavibhāṣā).
5.2 Sautrāntika (Kinh Lượng bộ)
Tông phái này ra đời vào khoảng năm 50 TCN cho đến cuối thế kỷ thứ 1. Phái
này bác bỏ quan điểm dharmas của Sarvāstivādin và cho rằng mọi dharmas chỉ hiện
hữu tức thời. Để giải thích các vấn đề về nghiệp (karma), trường phái này đưa ra tư
tưởng về các bījas, hay hạt giống. Hạt giống được trồng bởi những hành vi với đặc tính
đạo đức nhất định, sau này mới đâm chồi, và khi điều kiện cho phép sẽ cho quả phù
hợp với hành vi tạo tác. Đối với phái này thì giáo lý của tạng Kinh thường tồn sẽ tạo
thành hạt giống trong tâm thức để khi có dịp sẽ phát huy tính năng (Tên Kinh Lượng
cũng do việc đề cao vai trò của tạng Kinh mà có). Một hệ quả của lập luận này là ngoài
tâm có pháp. Một cách diễn dịch dễ hiểu hơn là chân lý nằm bên ngoài tâm thức. Họ
cũng thừa nhận về lý duyên khởi (vì có cái này nên có cái kia) nhưng cho rằng tính
không được thể hiện trong mọi tình huống của nhận thức.
5.3 Yogācārin (Duy Thức Tông)
Phái Duy thức ra đời vào khoảng đầu thế kỉ thứ 4 do đạo sư Vô trước (Asaṅga)
(khoảng 310-390) sáng lập. Trường phái này nhấn mạnh rằng "vạn pháp duy tâm"
(nghĩa là mọi vật đều do tâm). Từ kinh nghiệm thiền định, thuyết này chỉ ra sự sai lầm
của nhận thức về các đối tượng đối với sự hiện hữu thực sự của chúng. Điều mà trường
phái muốn nói không phải là mọi sự đều được làm thành bởi cái tâm, nhưng muốn nói
rằng toàn thể kinh nghiệm đều lệ thuộc vào hay nhờ vào tâm của chúng ta. Mọi sự vật
mà chúng ta biết, mọi yếu tố của nhận thức của chúng ta, cơ bản đều là một thành phần
của một quy trình của tâm. Trường phái này cho rằng tâm thực sự hiện hữu (khác với
Trung quán). Như vậy, tâm thì trống rỗng theo nghĩa là tâm không có phân biệt chủ thể
và khách thể.
5.4 Mādhyamika (Trung Quán Tông)
Phái này do đạo sư Long Thọ (150-250) (Nāgārjuna, ) sáng lập. Phái Trung quán
tập trung vào chủ đề tính không. Đây là thuộc tính của vạn vật. Vạn vật chỉ do nhân
duyên sinh ra, cho nên những sự vật hiện thấy có là không thực sự tồn tại. Phái này có
34
tên là Trung quán là vì nó chỉ ra con đường ở giữa chủ nghĩa hằng cửu (mọi vật tồn tại
vỉnh viễn) và chủ nghĩa hư vô (không có gì tồn tại). Chủ thuyết này nhìn nhận sự hiện
hữu thông thường của các đối tượng xuất hiện trong dòng chảy liên tục của các nhân
duyên. Không vật gì có thể tồn tại một cách độc lập với mọi điều kiện bên ngoài (tính
hỗ tương tồn tại). Đồng thời, có sự liên hệ phụ thuộc giữa thành phần và toàn thể trong
mỗi sự vật. Thêm vào đó, do tính chất vô thường trên từng khoảnh khắc, không vật gì
có thể hiện hữu tuyệt đối kể cả tâm và và thế giới vật lý bởi vì chúng thiếu vắng đối
tượng thực sự của sự hiện hữu. Như vậy tính không ở đây so với trường phái Duy
Thức, đã được nới rộng áp dụng lên vạn vật.
Chương thứ Tư
GIAI ĐOẠN ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO
1. Ý nghĩa Đại thừa và Tiểu thừa.
Khi đức Phật còn ở đời, vì tùy trình độ của mọi người, mà Ngài thuyết pháp có
cạn sâu, cao thấp. Lại đôi khi, thính chúng tuy cùng nghe một giáo lý, nhưng sự lĩnh
hội của mỗi người có thấp cao, rộng hẹp không đồng. Nhân đó, về sau mới nảy sinh ra
sự phân biệt giữa Đại thừa (Mahàyàna) và Tiểu thừa (Hìnayàna). Chữ "Thừa" là vận
tải, vận độ, nghĩa là chuyên chở. Giáo lý của Phật dạy có đủ công năng, phương pháp,
dắt đường chỉ lối, chuyên chở chúng sanh từ cõi trần lao phiền não đến cảnh thanh tịnh
an vui, từ biển sống chết luân hồi đến bến niết bàn giải thoát, nên gọi là "Thừa".
Trên phương diện thực tiễn thì Tiểu thừa Phật giáo (hay Nguyên thủy Phật giáo)
chủ trương phần tự tu tập, đoạn tận lậu hoặc, Đại thừa chủ trương phần lợi tha. Ở
phương diện chứng quả, Tiểu thừa cho quả A-la-hán là cứu cánh, Đại thừa lại mong
đạt tới Vô thượng Phật quả làm viên mãn.
Như vậy ta có thể kết luận, giáo lý của Đại thừa Phật giáo là giáo lý thành Phật,
và giáo lý của Tiểu thừa Phật giáo là giáo lý đoạn tận lậu hoặc và chứng Niết-bàn. Có
thể nói, Nguyên thủy Phật giáo là cội gốc, Đại thừa Phật giáo là cành lá và hoa quả.
Kinh điẻn Phật giáo phải được xây dựng trên cả 2 cơ sở Nguyên thủy và Đại thừa mới
có thể phản ánh đầy đủ một đạo Phật vi diệu trên nguyên tắc Tùy duyên bất biến.
35
2. Khởi nguyên của tư tưởng Đại thừa Phật giáo.
Khởi nguyên tư tưởng Đại thừa Phật giáo lẽ dĩ nhiên là đã có từ khi Đức Phật
còn tại thế. Sau khi Phật diệt độ hơn 100 năm thì trong giáo đoàn Phật giáo chia ra
Thượng Tọa bộ và Đại Chúng bộ, rồi dần dần phân chia ra các bộ phái, trong giáo
nghĩa của các bộ phái đó phần nhiều cũng bao hàm cả giáo lý của Đại thừa. Tới thời
đại vua Asoka (A Dục Vương), đến thời đạivua Kaniska (Ca Nhị Sắc Ca) thì tư tưởng
của Đại thừa Phật giáo dần dần thực hiện. Mặt khác, sau Phật diệt độ 500 năm, các
phái ngoại đạo dần dần phục hưng, lý thuyết của họ càng ngày càng được cải cách
thêm đến mức siêu việt. Song song với phong trào đó, kho tàng Phật giáo cũng phải
được khai thác triệt để, mới có thể đối phó với ngoại đạo và giải quyết đầy đủ mối nghi
ngờ của học giả. Vì thế, Đại thừa Phật giáo phải ra đời để thích ứng với thời đại.
Vì vậy có thể nói khởi nguyên của Đại thừa Phật giáo phát triển theo hai phương
diện, nghĩa là, một mặt thì phát triển từ ở giáo nghĩa của bộ phái Phật giáo,một mặt thì
phản kháng giáo lý của Tiểu thừa Phật giáo để thích ứng với thời đại. Về niên đại
thành lập Đại thừa Phật giáo thì ở khoảng sau kỷ nguyên Tây lịch.
3. Các kinh điển của Đại thừa Phật giáo trước thời đại ngài Long Thọ
( Đại phẩm Bát Nhã Kinh, Tiểu phẩm Bát Nhã Kinh, Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Đại Vô lượng Thọ Kinh, Thủ Lăng
Nghiêm Tam Muội Kinh, Duy Ma Kinh….)
Đại thừa Phật giáo tuy thành lập trước thời đại ngài Long Thọ, nhưng về chân ý
nghĩa của Đại thừa Phật giáo được phát huy và được tổ chức thànhmột hệ thống rõ rệt
là do công huân của Thánh tăng Long Thọ Bồ-tát. Ngài Long Thọ tuy có công tổ chức
về giáo học của Đại thừa Phật giáo, nhưng không phải là nhà biên tập về kinh điển Đại
thừa mà chỉ chú thích nhữngkinh điển của Đại thừa đã sẵn có.
Về trước tác của ngài Long Thọ có rất nhiều, nhưng những kinh điển Đạithừa
được dẫn chứng nhiều, thấy ở các bộ ―Đại Thừa Trí Độ Luận‖ và―Thập Trụ Tỳ Bà Sa
Luận‖. Căn cứ vào sự dịch kinh ở Trung Quốc thì ngài Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksa, tới
Trung Quốc năm 167 TL), ngài Ngô Chi Khiêm (tới Trung Quốc năm 220), ngài Khang
Tăng Khải (Samghavarman,tới Trung Quốc năm 252), ngài Trúc Pháp Hộ
(Dharmaraksa, tới TrungQuốc năm 265), các vị kể trên đều là những nhân vật trước
hoặc cùng thời đại với ngài Long Thọ (thế kỷ thứ III), và đã phiên dịch rất nhiều kinh
điểnĐại thừa sang chữ Hán. Vậy các kinh điển đã dịch đó thành lập trước thời đại ngài
Long Thọ, gồm có những bộ chủ yếu như: Đại Phẩm Bát Nhã Kinh(25.000 bài tụng,
36
tức là Quang Tán hay Phóng Quang Bát Nhã), Tiểu PhẩmBát Nhã Kinh (8.000 bài
tụng, tức là Hành Đạo Bát Nhã hay Phật Mẫu Bát Nhã), Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Hoa
Nghiêm Kinh, Đại Vô Lượng ThọKinh, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, Duy Ma
Kinh v.v...
- KINH BÁT NHÃ (Prajnaparamita-sutra).
Bát Nhã là một bộ kinh tối cổ và căn bản nhất trong các kinh Đại Thừa, tư tưởng
―không‖ trong kinh Bát Nhã là kết luận của Duyên-sinh-quan trong Nguyên thủy Phật
giáo, là một tổng hợp của các tư tưởng ―không‖ đối với Bộ phái Phật giáo mà đã đồng
thời phát đại. Nhân sinh quan, thế giới quan trong tất cả các kinh Đại Thừa đều được
xây dựng trên nền tảng Bát Nhã. Kinh Bát Nhã có nhiều thứ khác nhau, căn cứ ở bộ Đại
Bát Nhã Kinh do ngài Huyền Trang dịch thì gồm có 600 quyển. Nhưng, ở thời đại ngài
Long Thọ chỉ thấy lưu hành có Tiểu Phẩm Bát Nhã(Astasàhasrikà prajnàpàramità). Về
nội dung tư tưởng của hai bộ này thì tương tự nhau, vì Đại Phẩm Bát Nhã chỉ là phần
tăng gia của Tiểu Phẩm Bát Nhã.
Tư tưởng ―Chân không diệu hữu‖ của kinh Bát Nhã chính là quan niệm căn bản
của tư tưởng Đại thừa Phật giáo, làm trung tâm xuất phát cho giáo lý Đại thừa, nên
kinh Bát Nhã chiếm một địa vị rất trọng yếu trong Đại thừaPhật giáo.
- KINH HOA NGHIÊM (Avatamsaka hay Gandavỳha).
Lập trường của kinh Hoa Nghiêm là ―Tịnh Tâm Duyên khởi‖, và khai triển thành
Diệu hữu thếgiới quan. Kinh Hoa Nghiêm có hai bản dịch là cựu dịch và tân dịch.
Cựudịch toàn bộ gồm có 60 quyển do ngài Phật Đà Bạt Đa La dịch; tân dịchgồm 80
quyển do ngài Thực Xoa Nan Đà dịch. Ở thời đại ngài Long Thọ,kinh Hoa Nghiêm đã
hoàn toàn trọn bộ hay không, không thể biết đượcchính xác, nhưng trước thời đại ngài
thì đại bộ phận của kinh Hoa Nghiêmđã được dịch sang chữ Hán, như ―Kinh Thập
Địa‖ và ―Phẩm Nhập PhápGiới‖. Như vậy, đại bộ phận của kinh này đã được thành lập
trước thời ngàiLong Thọ
Tư tưởng kinh Hoa Nghiêm cũng như kinh Bát Nhã thuộc Duy tâm luận.Trong
kinh Hoa Nghiêm nói ―Tam giới hư vọng, đãn thị nhất tâm tác‖, nghĩalà những sự hư
vọng trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới đều do nhất tâm tạo ra cả. Lập
trường kinh Bát Nhã là ―Vọng tâm duyên khởi’, mà lập trường kinh Hoa Nghiêm là
―Thanhtịnh tâm duyên khởi‖.
- KINH DUY MA (Vimàlakirtinirdésa Sutra).
37
Duy Ma là bộ kinh để đả phágiáo lý Tiểu thừa, tán dương giáo lý Đại thừa. Lập
trường của kinh này cũngchủ trương tư tưởng ―Không‖. Duy Ma Cật là chủ nhân ông
trong bộ kinhnày lại là một cư sĩ, hiện thân ở nơi trần tục, nhưng tư tưởng và nhân
cáchcủa ngài lại siêu việt thế tục. Ngài Xá Lợi Phất, một vị thông minh bậc nhấttrong
thập đại đệ tử của Phật, cũng phải thua kém. Giáo lý căn bản của bộkinh này là ―Sinh
tử tức Niết-bàn; phiền não tức Bồ-đề
- KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA (Saddharma Pundarika Sùtra)
Kinh Pháp Hoa,về Hán dịch có nhiều bản khác nhau, nhưng ở Trung Quốc, Nhật
Bản vàViệt Nam đều chuyên trì bản dịch của ngài La Thập, gồm 28 phẩm chia ra 7
quyển hoặc 8 quyển. Trong 28 phẩm, 14 phẩm đầu thuộc Tích môn, 14 phẩm cuối
thuộc Bản môn.
Tư tưởng then chốt của kinh Pháp Hoa là ―Khai quyền hiển thực‖. Nhưng khai
quyền hiển thực ngả theo hai phía, là chúng sinh và Phật. Về phía chúng sinh thì nói
giáo lý ―Khai tam hiển nhất‖. Khai tam hiển nhất nghĩa là khai triển ra Tam thừa là
Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, rồi quy tụ về Nhất thừa đạo. Tuy nói ra Tam thừa,
nhưng chỉ là phương tiện để dụ dẫn đóthôi, chứ thực ra chỉ có một thừa tức là Nhất
thừa đạo. Nên trong kinh PhápHoa nói: ―Duy hữu nhất thừa pháp, vô nhị diệc vô tam‖,
nghĩa là chỉ có Nhất thừa pháp, không có Nhị thừa và cũng không có Tam thừa. Về
phía Phật thì nói về giáo lý ―Khai tích hiển bản‖. Phật Thích Ca từ khi thành đạo, tới
lúc 80 tuổi Ngài nhập Niết-bàn, đó chỉ là một phương tiện quyền hiện ra cõi đời này,
chứ thực ra Pháp thân của Ngài vẫn thường trụ và đã thành Phật từ ở những kiếp xa
xưa mới chính là bản Phật. Đó là nghĩa ―Khai tích hiển bản‖.Phần giáo lý của kinh
Pháp Hoa thì bàn về nghĩa Pháp thân thường trụ, hay Phật thân thường trụ nêu rõ cái
mục đích cứu cánh của giáo lý Đại thừa là hết thảy chúng sinh đều được thành Phật
đạo.
……………
4. Các kinh điển của Đại thừa Phật giáo sau thời đại ngài Long Thọ
( Kinh Thắng Man, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Giải Thâm Mật,
Kinh Lăng Già).
Trong khoảng thời gian từ sau thời đại ngài Long Thọ tới thời đại ngài VôTrước,
Thế Thân xuất thế, có rất nhiều kinh điển của Đại thừa Phật giáo xuất hiện, nhưng
38
những kinh điển chủ yếu là: ―Kinh Thắng Man‖, ―Kinh Đại Bát Niết Bàn‖, ―Kinh Giải
Thâm Mật‖ và ―Kinh Lăng Già‖.
Kinh Thắng Man: Tức là kinh ―Thắng Man Sư Tử Nhất Thừa Đại Phương
Quảng‖. Kinh này có hai bản dịch: ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch (năm 436TL) và ngài
Bồ Đề Lưu Chi dịch (năm 700-713 TL). Giáo lý trung tâm của kinh này thì bàn tư
tưởng ―Như Lai tạng‖. Như Laitạng là một tên riêng của Phật tính.
Kinh Đại Bát Niết Bàn được dịch sang chữ Hán có hai bản là Bắc bản và Nam
bản. Kinh Đại Bát Niết Bàn (40 quyển) do ngài Đàm Vô Sấm dịch (42 TL) thuộc Bắc
bản, và ngài Tuệ Nghiêm đính chính lại kinh đó chia thành 36 quyển gọi là Nam bản.
Nội dung của hai bộ này thì giống nhau, nhưng khác nhau về lối hành văn và tên tác
phẩm. Kinh Đại Thừa Niết Bàn, một mặt thì kế thừa tư tưởng ―Không‖ của kinh Bát
Nhã và giáo lý ―Tâm tính bản tịnh‖ của Đại Chúng bộ; một mặt lại kế thừa tư tưởng
―Nhất thừa‖ của kinh Pháp Hoa. Đặc sắc về giáo nghĩa của kinh này là ―Pháp thân
thường trụ‖, ―Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính‖ và ―Xiển đề thành Phật‖
. Kinh Giải Thâm Mật có hai bản dịch: ―Thậm Thâm Giải Thoát Kinh‖ (5 quyển)
do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch (515) và ―Giải Thâm Mật Kinh‖ (5 quyển), do ngài
Huyền Trang dịch (647). Nội dung của kinh này là một tư tưởng rất trọng yếu cho môn
Duy thức. Tư tưởng đó có ba yếu điểm như sau:
Tư tưởng A-lại-da thức. Ở phẩm ―Tâm ý thức tướng‖ của kinh này có nói
đến tư tưởng ―Nhất thiết chủng tử tâm thức‖.
Thuyết Tam tướng, Tam vô tính. Ở phẩm ―Nhất thiết pháp tướng‖ của kinh
này có nêu ra ba tướng: ―Biến kế sở chấp tướng‖ (Parikalpita lakasanna), ―Y
tha khởi tướng‖ (Paratantra L.), và ―Viên thành thực tướng‖ (Parinispanna
L.).
Thuyết Tam thời liễu, Vị liễu. Kinh này còn thành lập ra ba thứ tính là Thanh
văn tính, Duyên giác tính và Bồ-tát tính.
Kinh Lăng Già, hoặc gọi là ―Nhập Lăng Già Kinh‖ (Lankàvatàra). Kinh này
được dịch sang chữ Hán có ba bản khác nhau: ―Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh‖ (4
quyển) do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch (443 TL); ―Nhập Lăng Già Kinh‖ (10 quyển),
ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch (513); ―Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh‖ (7 quyển), ngài Thực
Xoa Nan Đà dịch (704 TL).
39
Giáo nghĩa chủ yếu của kinh này còn là : Năm pháp (Danh, Tướng, Phân biệt
,Chánh trí, và Như như); Ba tính (Vọng kế tự tính, Duyên khởi tự tính và Viên thành tự
tính); Tám thức (A-lại-da thức, Ý, Ý thức và Tiền ngũ thức); Hai vô ngã (Nhân vô ngã
và Pháp vô ngã).
5. Giáo nghĩa và các trước tác của các Ngài Vô trước và Thế Thân
Sau ngài Long Thọ xuất thế hơn một trăm năm, thì có hai bậc đại học giả trong
Phật giáo ra đời, đó là ngài Vô Trước và Thế Thân. Ngài Vô Trước (Asanga) sinh ở
khoảng cuối thế kỷ thứ IV TL, tại thành Purusapura (Bá Lộ Sa), thuộc nước Gandhàra
(Kiều Đà La), Bắc Ấn, giòng dõi Bà-la-môn. Thân phụ là Kausika (Kiều Thi Ca), thân
mẫu là Virinci (Tỷ Lân Trì). Trong ba anh em, ngài là anh cả, ngài Thế Thân
(Vasubandhu) là em lớn, và Virincivaisa (Tỷ Lân Trì Tử) là em út, cả ba anh em đều
đầu Phật xuất gia.
Ngài Vô Trước lúc đầu tin theo Bà La Môn giáo, sau bỏ Bà La Môn giáo đi xuất
gia, học tập giáo lý Tiểu thừa thuộc Hữu bộ. Nhưng vì không mãn nguyện với giáo lý
Tiểu thừa, ngài lại chuyển sang nghiên cứu kinh điển của Đại thừa Phật giáo.
Tương truyền, ngài dùng sức thần thông lên cung trời Đâu Suất (Tusit) để nghe
Bồ-tát Di Lặc (Maitreya) giảng giáo lý Đại thừa. Sau khi nghe giảng xong, ngài lại
thỉnh Bồ-tát giáng xuống hạ giới, ngự tại một giảng đường thuộc nước Ayodhyà (A Du
Đà), Trung Ấn. Trong một khoảng thời gian 4 tháng, cứ về ban đêm thì ngài nghe Bồ-
tát thuyết pháp, ban ngày ngài lại đem những điều đã nghe được giảng lại cho đại
chúng. Nơi trung tâm hưng long Đại thừa Phật giáo của ngài là nước Ayodhyà, nước
Magadhà (Ma Kiệt Đà). Ngài thọ 75 tuổi.
Các tác phẩm còn lưu lại dưới tên Ngài hoặc dưới tên Di-lặc (trích):
1. Hiển dương thánh giáo luận (sa. prakaraṇāryaśāsana-śāstra, ārya-śāsana-
prakaraṇaśāstra), 20 quyển, Huyền Trang dịch;
2. Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra), 100 quyển, Huyền Trang dịch;
3. Nhiếp đại thừa luận (sa. mahāyānasaṃgraha), 3 quyển, Chân Đế dịch;
4. Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (sa. abhidharma-samuccaya), 7 quyển, Huyền Trang
dịch;
40
5. Đại thừa kinh trang nghiêm luận tụng (sa. mahāyāna-sūtralaṅkāra-kārikā), 13
quyển, Ba-la-phả-mật-đa-la (sa. prabhakāramitra) dịch, cũng có bản Phạn và Tạng ngữ;
6. Thuận trung luận (sa. madhyāntānusāra-śāstra), 2 quyển, Bát-nhã Lưu-chi (sa.
prajñāruci) dịch;
7. Năng đoạn kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh luận tụng (2 bản, sa.
āryabhagavatī-prajñāpāramitā-vajracchedikā-saptārtha-ṭīkā và triśatikāyā-
prajñāpāramitāyā-kārikā-saptati); 3 quyển, Bồ-đề Lưu-chi dịch, Nghĩa Tịnh cũng dịch
một bản;
8. Giải thâm mật kinh chú (sa. ārya-saṃdhinirmocana-bhāṣya), chỉ còn bản Tạng ngữ;
9. Hiện quán trang nghiêm luận tụng (sa. abhisamayā-laṅkāra-nāmaprajñāpāramitā-
upadeśa-śāstra [-kārikā] thường được viết ngắn là abhisamayālaṅkāra-śāstra), còn bản
Phạn và Tạng ngữ;
10. Biện trung biên luận tụng (sa. madhyānta-vibhāga-kārikā), bản Hán và Tạng ngữ
vẫn còn. Có hai bản dịch tại Trung Quốc, Huyền Trang dịch ra 3 quyển, Chân Đế dịch
ra 2 quyển dưới tên Trung biên phân biệt luận;
11. Pháp pháp tính phân biệt luận (sa. dharma-dharmatā-vibhāga), chỉ còn bản Tạng
ngữ.
Ngài Thế Thân vốn dĩ là em của Ngài Vô Trước, một năm sau khi người anh là
Vô Trước thụ giới cụ túc. Lúc đầu Ngài học giáo lí Tiểu thừa tại Phú-lâu-sa-phú-la (sa.
puruṣapura), sau đó tại Kashmir. Sau bốn năm ngụ tại Kashmir (342-346), Ngài trở về
Phú-lâu-sa-phú-la và soạn bộ A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (sa. abhidharmakośa). Sau đó,
Thế Thân đi du phương và danh tiếng của Ngài là một nhà biện luận xuất chúng vang
dội. Khi gặp Vô Trước tại Phú-lâu-sa-phú-la và được người anh giảng giải giáo lí Đại
thừa, Thế Thân bỗng nhiên tỉnh ngộ, bắt đầu say mê nghiên cứu Đại thừa và viết luận
về kinh điển hệ này, nhất là Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Thế Thân biên soạn nhiều bài
luận, trong đó Ngài hệ thống hoá tư tưởng "Duy thức" được lập nên bởi Vô Trước.
Cuối cùng ngài nhập diệt ở nước Ayodhyà (A Du Đà), hưởng thọ 80 tuổi.
Phần trước tác của ngài, cổ lai thường gọi ngài là bậc Luận chủ của ngàn bộ luận,
nhưng những bộ đã được dịch sang chữ Hán chỉ có các bộ sau:
41
1. ―A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận‖ (Abhidharma kosa sàstra), 20 quyển, ngài Huyền
Trang dịch.
2. ―A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Bản Tụng‖, 1 quyển, ngài Huyền Trang dịch.
3. ―Duy Thức Tam Thập Luận Tụng‖ (Vidyàmàtrasiddhi tridasa sàstra kàrikà), 1 quyển,
ngài Huyền Trang dịch.
4. ―Duy Thức Nhị Thập Luận‖ (Vidyàmàtra vìmsati sàstra), 1 quyển, ngài Huyền Trang
dịch.
5. ―Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận‖ (Mahàyànasatadharmavìdyàdvàra sàstra), 1
quyển, ngài Huyền Trang dịch.
6. ―Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận‖ (Mahàyànavaipulya Pancaskahdhaka sàstra), 1 quyển,
ngài Huyền Trang dịch.
7. ―Phật Tính Luận‖ (Buddhagotra sàstra), 4 quyển, ngài Chân Đế dịch.
8. ―Nhiếp Đại Thừa Luận Thích‖ (Mahàyànasamparigraha sàstravyàkhyà), 15 quyển,
ngài Chân Đế dịch.
9. ―Thập Địa Kinh Luận‖ (Dasabhùmika sùtra sàstra), 12 quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi
dịch.
10. ―Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá‖ (Saddharmapundarìca sùtra
sàstopadesa), 2 quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.
11. ―Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá‖ (Amitàyus sùtropadesa), 1 quyển, ngài Bồ Đề
Lưu Chi dịch.
12. ―Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu Ba Đề Xá‖ (Dharmacakrapravatana sùtropadesa), 1
quyển, ngài Tỳ Mục Trí Tiên dịch.
13. ―Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận‖ (Vajnaprajnàyaramità sùtra sàstra), 3
quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.
14. ―Lục Môn Giáo Thọ Tập Định Luận‖, 1 quyển, ngài Nghĩa Tịnh dịch.
42
Các tác phẩm kể trên của ngài Thế Thân, cũng như ngài Vô Trước và Long Thọ, đều là
những trước tác bất hủ trong lịch sử giáo lý của Phật giáo.
Về giáo nghĩa đặc sắc của ngài Vô Trước là tư tưởng ―A-lại-da duyên khởi luận‖,
tức là hết thảy mọi pháp ở trong thế gian đều không ngoài tâm thức của con người mà
có, thuộc Duy tâm luận và cũng là thuyết ―Vạn pháp duy thức luận‖. Nhưng cái nguồn
gốc năng hiện của mọi pháp lại là cái thức căn bản vẫn đầy đủ của con người, tức là
―A-lại-da thức‖. Vì vạn pháp đều y vào thức này mà xuất hiện, nên gọi là ―A-lại-da
duyên khởi‖, gọi tắt là ―Duyên khởi luận‖.. Ngài là bậc đại học giả hưng long cho Đại
thừa Phật giáo. Còn ngài Thế Thân, lúc đầu, ngài truyền bá Tiểu thừa Phật giáo, sau
mới hưng long Đại thừa Phật giáo. Ngài trước tác rất nhiều bộ luận, nên tư tưởng của
ngài thuộc nhiều phương diện, khó thể mà tổng hợp thành một thuyết đồng nhất. Tức
là, lúc đầu ngài được truyền thừa tư tưởng của Hữu bộ, sau kế thừa tư tưởng ―Đại thừa
A-lại-da duyên khởi‖ của ngài Vô Trước. Ngài lại nói ra các thuyết như: ―Chân Như
Duyên Khởi‖, ―Thực Tướng Luận‖ và ―Tịnh Độ giáo‖ v.v... Khi còn hưng long tư
tưởng Tiểu thừa, ngài đã trước tác bộ ―Câu Xá Luận‖, hoàn thành cho giáo nghĩa của
Hữu bộ; khi ở địa hạt Đại thừa thì ngài trước tác các bộ luận để hoàn thành giáo nghĩa
Duy thức Phật giáo.
6. Hai hệ thống lớn của Đại thừa Phật giáo
Vì ngài Long Thọ và Đề Bà khởi xướng ra tư tưởng ―Thực tướng luận‖, ngài Vô
Trước và Thế Thân xướng ra thuyết ―Duyên khởi luận‖, nên có hai hệ thống lớn của
Đại thừa Phật giáo được xuất hiện ở Ấn Độ, tức là hệ thống ―Thực tướng luận‖, hoặc
gọi là ―Trung quán phái‖ và hệ thống ―Duyên khởi luận‖ hoặc gọi là ―Du già hành
phái‖. Thực tướng luận thì quan sát về thực tướng của chư pháp, cho hết thảy mọi pháp
đều là không, để biểu hiện lý ―Trung đạo‖, nên gọi là ―Không tôn‖ hay ―Trung quán
tôn‖. Duyên khởi luận thì bàn về sự duyên khởi của hai pháp Chân và Giả để biểu hiện
phần ―Chân hữu‖ và nương vào phép quán Du-già (Yoga) để biểu hiện phần ―Chân
như‖, nên gọi là ―Hữu tôn‖ hay ―Du già tôn‖.
6.1 Các bậc luận sư thuộc hệ thống Thực Tướng luận.
Lập thuyết Chư-pháp-tướng-pháp nguyên từ hệ thống Đại-Chúng-bộ, do hai ngài
Mã-Minh, Long-Thọ đề xướng, và căn cứ truyền giáo khởi thủy ở Nam-Ấn. Sau đó
thừa kế tư tưởng này có các vị:
43
Ngài Đề-Bà (Àryadeva Thánh-Thiên) ra đời vào thế kỷ thứ ba, Ngài có
viết ra bộ Quảng-Bách-Luận
La Hầu La Bạt Đà La (Ràhula bhadra) là đệ tử của luận sư Đề Bà ngài đã
chú thích bộ Trung-Luận của Long-Thọ Bồ-Tát, nhưng rất tiếc không còn
truyền được tới ngày nay.
Ngài Thanh Mục (Pingala) khoảng thế kỷ thứ IV TL chú thích bộ ―Trung
Luận‖ của ngài Long Thọ
Ngài Kiên Ý trước tác bộ ―Nhập Đại Thừa Luận‖ (2 quyển), đều truyền về
tư tưởng ―Vô tướng giai không‖ của ngài Long Thọ
Ngài Phật Hộ (Buddhapàlita) ra đời trong thế kỷ thứ V, ở Nam Ấn, tuyên
dương về thuyết ―Phi hữu phi không luận‖ của ngài Long Thọ
Ngài Thanh Biện (Bhàvaviveka) ra đời ở thế kỷ thứ VI, cũng ở Nam Ấn,
chủ trương thuyết ―Vô tướng giai không‖.
Ngài Trí Quang (đệ tử ngài Thanh Biện) ra đời cuối thế kỷ thứ VI, khởi
xướng ra lối phán thích về giáo lý của Phật giáo, và sắp hạng giáo nghĩa
của ngài Long Thọ đứng ở vị trí tối cao của Phật giáo.
Ngài Nguyệt Xứng (Candrakìrti) ra đời cũng ở Nam Ấn, soạn bộ ―Trung
Luận Thích‖ (Madhyamikavrtti).
Ở đầu thế kỷ thứ VII, có Sư Tử Quang (đệ tử ngài Trí Quang) ra đời, giảng
về ―Tam luận‖ tại chùa Na Lan Đà.
Ngoài ra còn có các bậc Luận sư khác như Thắng Quang, Trí Hộ v.v... đều
là những vị tuyên dương về giáo nghĩa của ngài Long Thọ tại chùa Na Lan
Đà.
Như thế, hệ thống truyền thừa về Thật-tướng-luận thuộc Không-tông, có thể sắp
theo thứ tự như sau: Mã-Minh, Long-Thọ, Đề-Bà, La-Hầu-Đa-La, Thanh-Mục, Phật-
Hộ, Thanh-Biện, Trí-Quang, Sư-Tử-Quang, Thắng-Quang, Trí-Hộ...
6.2 Các bậc luận sư thuộc hệ thống Duyên Khởi luận.
Tư tưởng A-lại-da-duyên-khởi phát nguyên từ hệ thống Thượng-Tọa-bộ, do hai
ngài Vô-Trước, Thế-Thân đề xướng, và căn cứ truyền giáo khởi thủy ở Bắc-Ấn. Tư
tưởng nầy được truyền bá hầu khắp Ấn-Độ, đứng ngang hàng với lập thuyết Thật-
tướng-luận của hai ngài Mã-Minh, Long-Thọ, gây thành hai hệ thống Phật-giáo lớn lao
và có thế lực nhất đương thời. Thừa kế Duyên-khởi-luận, sau ngài Thế Thân, có các
luận sư:
44
Ngài Thân Thắng thì lược thích bộ ―Duy Thức Nhị Thập Tụng‖, rất tài về phần
cấu tạo ý tưởng
Ngài Hỏa Biện cũng chú thích bộ luận kể trên, lại rất khéo về lối hành văn.
Ngài Đức Tuệ (Gunamati), người Nam Ấn, trước tác bộ ―Tùy Tướng luận‖ (1
quyển) Ngài Chân Đế dịch.
Ngài Trần Na (Dignàga, hay Nahàdignàga) cũng người Nam Ấn bậc Luận sư nổi
tiếng , hoàn thành về môn học ―Nhân minh nhập chánh lý luận‖ và tuyên dương
về ―A-lại-da Duyên Khởi luận‖.
Ngài An Tuệ (Sthiramati, đệ tử ngài Đức Tuệ) ở thế kỷ thứ VI, chú thích bộ
―Duy Thức Tam Thập Tụng‖ và trước tác các bộ như ―Đại Thừa Trung Quán
Thích Luận‖ (9 quyển), ―Đại Thừa Quảng Ngũ Uẩn Luận‖ (1 quyển), ―Đại Thừa
A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận‖ (16 quyển), để tuyên dương giáo nghĩa Duy thức.
Ngài Nan Đà (Nanda) xướng ra thuyết ―Chủng tử‖
Ngài Tịnh Nguyệt (Suddhacandra) chú thích bộ ―Tập Luận‖
Ngài Hộ Nguyệt chú thích bộ ―Trung Biện Luận‖ v.v...
Sau ngài Hộ Pháp, có các ngài Giới Hiền (Silabhadra), Tối Thắng Tử (Jinaputra),
Thắng Hữu (Visesamitra), Trí Nguyệt (Jnànàcandra) và Thân Quang v.v... xuất
hiện. Ở đầu thế kỷ thứ VII, khi ngài Huyền Trang qua Ấn Độ, ngài Giới Hiền đã
hơn 100 tuổi già, ngài đem pháp môn Duy thức truyền cho ngài Huyền Trang.
Ngài Tối Thắng Tử chú thích bộ ―Du Già Luận‖. Ngài Thân Quang trước tác bộ
―Phật Địa Kinh Luận‖ (7 quyển).
Trong số các bậc Luận sư như trên đã thuật, thì các ngài Thân Thắng, Hỏa Biện,
Đức Tuệ, An Tuệ, Nan Đà, Tịnh Nguyệt, Hộ Pháp, Thắng Hữu, Tối Thắng Tử, Trí
Nguyệt được gọi là mười bậc đại Luận sư của Duy thức. Ngài Huyền Trang liền đem
tập trung tất cả các giáo nghĩa của mười bậc Luận sư kể trên mà dịch thành bộ ―Thành
Duy Thức Luận‖ (10 quyển), nhưng ngài lấy giáo nghĩa của ngài Hộ Pháp làm phần
chính, còn giáo nghĩa của chín bậc Luận sư khác chỉ là phần phụ thuộc.
7. Phật giáo giai đoạn ngài Trần Na, Giới Hiền, Hộ Pháp, Thanh Biện và
ngài Trí Quang
- NGÀI TRẦN NA
Sau khi ngài Thế Thân thị tịch, người kế truyền tư tưởng ―A-lại-da duyên khởi‖
đó là ngài Trần Na (Dignàgà, hay Màhadignàga). Ngài xuất thế ở cuối thế kỷ thứ V,
người Nam Ấn, sinh tại thành Kàncipura (Kiến Trì thành), thuộc nước Dràvida (Đạt
45
La Tỳ Trà). Lúc đầu, ngài học giáo lý Tiểu thừa, sau chuyển sang Đại thừa, nên ngài
đều thông hiểu thấu đáo cả giáo lý của Tiểu thừa và Đại thừa. Ngoài ra, ngài còn tinh
thông cả môn lý luận học của Ấn Độ là ―Nhân minh‖ (Hetuvidyà).
Khi ngài trụ ở chùa Ajantà (chùa Hang), thuộc nước Mahàrattha (Ma Ha Lạt Đà),
ngài soạn được nhiều bộ luận để tuyên dương tư tưởng ―A-lại-da duyên khởi‖. Trước
tác của ngài hiện còn thấy lưu truyền có các bộ như sau: Nhân Minh Chánh Lý Môn
Luận Bản, Quán Sở Duyên Duyên Luận, Vô Tướng Tư Trần Luận, Thủ Nhân Giả
Thiết Luận, Quán Tổng Tướng Luận Tụng, Chưởng Trung Luận.
Nguyên lai ở Ấn Độ, môn Nhân minh học đã có từ cổ xưa, nhưng người đứng ra
tổ chức thành một hệ thống nhất định, đó là ngài Aksapàda, thủy tổ phái Nyàyà
(Chánh Lý phái), một trong sáu phái của triết học Ấn Độ ở khoảng thế kỷ thứ III trước
Tây lịch. Trong thời đại các bộ phái Phật giáo, thì Nhân minh học cũng đã được manh
nha, và các bậc Luận sư từ thời đại sau Bộ phái Phật giáo cũng vẫn thường dùng môn
Nhân minh học trong khi tranh biện. Nhưng đến thời đại ngài Trần Na thì ngài tổ chức
Nhân minh học lại thành một hệ thống mới. Cho nên, Nhân minh học từ thời đại ngài
Trần Na trở về trước gọi là ―Cổ nhân minh‖, từ thời đại ngài Trần Na trở về sau gọi là
―Tân nhân minh‖. Cổ nhân minh có năm bộ phận, gọi là ―Ngũ chi tác pháp‖, tức là
―Ngũ đoạn luận pháp‖. Tân nhân minh có ba bộ phận, gọi là ―Tam chi tác pháp‖.
Sau Ngài Trần Na là Sankarasvàmin (Thương Yết La Chủ) soạn bộ ―Nhân Minh
Nhập Chánh Lý Luận‖ (Nyàyadvàratàraka sàstra), 1 quyển, thuyết minh về yếu nghĩa
Nhân minh của ngài Trần Na, ngài Hộ Pháp (Dharmakìrti) cũng trước thuật và chú
thích nhiều bộ luận về Nhân minh học, nên môn học này trở thành một môn học trọng
yếu trong Phật giáo.
- NGÀI THANH BIỆN
Người tuyên dương giáo nghĩa ―Thực Tướng luận‖ của ngài Long Thọ, đó là
ngài Thanh Biện (Bhavaviveka). Ngài người Nam Ấn, ở khoảng tiền bán thế kỷ thứ VI
Tây lịch. Lúc đầu ngài học giáo nghĩa ngoại đạo, đặc biệt nghiên cứu về Số luận, sau
ngài bỏ ngoại đạo chuyển theo Phật giáo, kế thừa giáo nghĩa của ngài Long Thọ và Đề
Bà. Nơi trung tâm bá giáo của ngài là nước Dhanakataka, thuộc Nam Ấn.
1. ―Đại Thừa Chưởng Trân Luận‖ (Mahàyànatà narasna sàstra), 2 quyển, ngài Huyền
Trang dịch.( Nói về giáo nghĩa ―Hữu vi không, Vô vi không‖)
46
2. ―Bát Nhã Đăng Luận Thích‖ (Prajnàdipà sàstra kàrika), 15 quyển, ngài Ba La Phả -
Mật Đa La dịch (giải thích về ―Trung Luận‖ của ngài Long Thọ)
- NGÀI HỘ PHÁP
Một bậc đại Luận sư kế thừa tư tưởng ―A-lại-da duyên khởi‖ và xác định lại môn
học của Duy thức Phật giáo, đó là ngài Hộ Pháp (Dharmapàla). Ngài cũng cùng thời
đại với ngài Giới Hiền, người nước Dràvida thuộc Nam Ấn. Lúc đầu, ngài học giáo lý
của Tiểu thừa, sau tới ngài Trần Na học môn Duy thức của Đại thừa. Ngài mất khi chỉ
mới 32 tuổi.
Các trước tác của ngài hiện còn như sau: Thành Duy Thức Luận (Vijnàpti
màtrata siddhi sàstra); Thành Duy Thức Bảo Sinh Luận; Quán Sở Duyên Duyên Luận
Thích; Đại Thừa Quảng Bách Luận.
- NGÀI TRÍ QUANG VÀ GIỚI HIỀN
Ngài Trí Quang (Jnànaprabha), đệ tử ngài Thanh Biện, đắc truyền hệ thống
―Thực Tướng luận‖ của ngài Long Thọ. Ngài là bậc tinh thông cả giáo nghĩa của Tiểu
thừa và Đại thừa, nên ngài tổng hợp tất cả giáo lý của Phật giáo, và phán thích ra làm
ba hạng. Tức là ―Tâm cảnh câu hữu giáo‖, ―Tâm hữu cảnh không giáo‖ và ―Tâm cảnh
câu không giáo‖. Tiểu thừa Phật giáo thì thuộc ―Tâm cảnh câu hữu giáo‖, ở hạng thấp
nhất; giáo nghĩa của ngài Vô Trước và Thế Thân, thuộc ―Tâm hữu cảnh không giáo‖, ở
địa vị trung gian; giáo nghĩa của ngài Long Thọ thuộc ―Tâm cảnh câu không giáo‖, ở
địa vị cao nhất trong Phật giáo. Đó là lối phán thích giáo tướng của Phật giáo, mà ngài
Trí Quang là người xướng xuất đầu tiên trong lịch sử Phật giáo.
Ngài Giới Hiền (Dìladhadra), đệ tử ngài Hộ Pháp, người nước Samatata thuộc
Trung Ấn. Ngài được ngài Hộ Pháp truyền cho pháp môn Duy thức tại chùa Na Lan
Đà, Ngài dần dần trở thành một bậc đại Luận sư của môn Duy thức học. Ở niên hiệu
Chính Quán năm thứ 16 đời Đường bên Trung Quốc (636 Tây lịch), khi ngài Huyền
Trang qua Ấn, lúc tới chùa Na Lan Đà, thì ngài Giới Hiền đã tới 106 tuổi, và được ngài
đem pháp môn Duy thức truyền lại cho.
47
Ngài Giới Hiền vì mục đích tuyên dương giáo nghĩa của Duy thức, để đối ứng
lại với lối phán giáo của ngài Trí Quang, nên ngài cũng thành lập ra ba giáo pháp để
định vị trí giáo lý của Phật giáo. Tức là ―Hữu giáo‖, ―Không giáo‖ và ―Trung đạo
giáo‖. Tiểu thừa Phật giáo thuộc ―Hữu giáo‖, ở ngôi thấp nhất; giáo nghĩa của ngài
Long Thọ thuộc ―Không giáo‖, ở ngôi giữa; giáo nghĩa của ngài Vô Trước và Thế Thân
thuộc ―Trung đạo giáo‖, ở ngôi cao nhất trong Phật giáo.
Chương thứ năm
GIAI ĐOẠN MẬT GIÁO
1. Sự quan hệ giữa Mật giáo và Ấn Độ giáo.
Chủ đề trung tâm của Mật giáo là năng lượng thiêng liêng hay sức mạnh sáng tạo
Shakti do đó, Mật giáo cũng hầu như được đồng hoá với hình thức thứ ba của Ấn giáo
là đạo thờ Shakti. Mật giáo với sự xuất hiện trễ tràng của các văn bản Tantra, cùng
những thực hành của nó cho thấy có ảnh hưởng qua lại với Phật giáo Ðại thừa. Ðây là
một hình thức hội nhập một số lý thuyết, nghi lễ và thực hành của Phật giáo vào Ấn
giáo.
Trên phương diện giáo lý và giáo tướng của Mật giáo thì được phát triển từ tư
tưởng của Đại thừa Phật giáo, nhưng ở phương diện sự tướng của Mật giáo thì chịu
ảnh hưởng nghi thức tác pháp của Tân Bà La Môn giáo, tức là Ấn Độ giáo. Thí dụ như
đồ hình Mandala (Mạn Trà La) của Mật giáo, trong đồ hình đó, một mặt thì phối trí
các hình chư Phật, một mặt kết hợp các vị thần của Bà La Môn giáo. Các đồ hình
Mandala tuy nhiều, nhưng hình tướng và sắc thể của nó đại khái có hai phương pháp là
hóa hiện và điều phục. Hóa hiện có ý nghĩa là chư Phật và Bồ-tát vì mục đích hóa độ
chúng sinh, nên phương tiện quyền hiện ra hình tướng các thần của ngoại giáo. Thí dụ
như Đức Quan Âm hóa hiện ra 33 thân là Phạm Thiên, Đế Thích và Đại Tự Tại Thiên
v.v... Điều phục có ý nghĩa là chư Phật và Bồ-tát dùng rất nhiều uy lực quyền thế để
chinh phục các thần của ngoại đạo, khiến các thần đó quay về với Phật giáo. Vì lý do
quan hệ đó nên hình tướng của chư Phật, Bồ-tát và các thần của Ấn Độ giáo dần dần
trở thành một quan điểm cộng thông.
Sự tướng của Mật giáo như các cách tụng thần chú, quán Du-già v.v... không
phải là lối tác pháp đặc biệt của Mật giáo mà cũng là chịu ảnh hưởng tập tục cổ truyền
48
của dân tộc Ấn Độ và Bà La Môn giáo. Thí dụ như pháp thiền định của Phật giáo thì
chú trọng ở chỗ đạt tới trí tuệ, nhưng phép quán Du-già của Mật giáo lại chú trọng ở
mục tiêu cầu phúc trừ tai cho thế gian.
Sau hết là sự quan hệ mật thiết giữa phái Sàkta (Tính lực phái) của Ấn Độ giáo,
và phái Kim Cương thừa (Vajrayàna) của Mật giáo. Nguyên lai phái Sàkta thì sùng bái
nữ thần Durga, nghi thức của phái này rất là bí mật, có nhiều trò ma thuật, nhiều hình
thức dâm đãng. Sau, lối hành pháp của phái này lạm nhập vào lối hành pháp của phái
―Kim Cương thừa‖, nên phái Kim Cương thừa dần dần bị đọa lạc vào vòng tà đạo, và
cũng là nguyên nhân đọa lạc của Mật giáo.
Sự giao thiệp giữa Mật giáo và Ấn Độ giáo cứ mỗi ngày một rõ rệt, một mặt thì
Mật giáo tiếp nhận các yếu tố hành pháp của Ấn Độ giáo, một mặt thì Ấn Độ giáo tiếp
nhận các lối hành pháp của Mật giáo, nên hai giáo trở thành một trạng thái hỗn hợp
khó thể phân biệt được rõ ràng.
2. Tư tưởng Mật giáo thành lập.
Khởi nguyên tư tưởng của Mật giáo có thể là đã có từ thời đại nguyên thủy kinh
điển. Vì trong nguyên thủy kinh điển có thấy chép các thần chú thủ hộ trong các bộ
luật và trong kinh Khổng Tước.
Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng
niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Cũng còn gọi là Lạt Ma tông, Mật tông
là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và nghi thức tác
pháp của Kim Cương thừa. Để làm chủ được các nghi thức tác pháp của Mật tông (còn
gọi là Kim Cương thừa - Vajrayana) thì điều tiên quyết là phải thấu hiểu giáo nghĩa
của Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita) của Long Thọ và Vô Trước. Giáo nghĩa
Bát-nhã-ba-la-mật-đa được gọi là "Nhân thừa", và giáo nghĩa Kim Cương thừa được
gọi là "Quả thừa". Tương truyền rằng Mật tông do đức Phật Đại Nhật khởi xướng. Mật
tông có hai bộ kinh cơ bản là Đại Nhật kinh và Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh.
3. Sự phát triển của Mật giáo.
Hai hệ thống ―Chân Ngôn thừa‖ và ―Kim Cương thừa‖ của Mật giáo sau khi xuất
hiện, thì tư tưởng Mật giáo phát triển mạnh mẽ trên lãnh thổ Ấn Độ. Trong hai hệ
thống này, ―Chân Ngôn thừa‖ thì chú trọng phần lý luận, nên kém phát triển ở phương
diện thực tế, trái lại ―Kim Cương thừa‖ chú trọng phần thực tế, nên kém phát triển ở
phương diện lý luận.
Trong lúc Mật giáo đang phát triển, các vương triều Pàla thuộc Đông Ấn đều bảo
hộ Phật giáo, nhất là vua Dharmapàla (Pháp Hộ, dựng ra ngôi chùa rất lớn ở thế kỷ thứ
49
VIII, tức là ngôi chùa Vikramasilà, để làm nơi đạo tràng căn bản cho Mật giáo. Các
bậc học tượng của Mật giáo phần nhiều đều xuất thân từ ngôi chùa này.
Trên phương diện truyền bá tư tưởng Mật giáo và làm cho Mật giáo được phát
triển ở Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng và các nước khác thì có các vị đại học giả như
ngài Thiện Vô Úy (Subha Karasimha, 637-735), người Trung Ấn; ngài Kim Cương
Trí (Vajra Bodhi, 671-741), người Nam Ấn, và ngài Bất Không Kim Cương
(Amoghavajra, 705-774), người Sri Lanka, ba vị này không những làm cho Mật giáo
hưng thịnh ở trong nước, mà các ngài đều cùng lần lượt đem tư tưởng Mật giáo sang
Trung Quốc, phiên dịch nhiều kinh điển của Mật giáo sang chữ Hán, làm cho Mật giáo
ở Trung Quốc phát triển rất mạnh mẽ.
4. Quân Hồi giáo xâm nhập và sự suy tàn của Phật giáo Ấn Độ.
Sau một thời gian dài rất rực rỡ, tới thế kỷ thứ 3 hoặc thứ 4 sau CN, Phật giáo bắt đầu
mờ nhạt dần. Sự suy vi Phật giáo tại Ấn Ðộ kéo dài chầm chậm trong một ngàn năm
tiếp sau đó được các học giả phân tích với các nguyên nhân đa dạng. Tuy thế, trong đó
có một số lý do quan trọng nhất.
a. Quân Hồi giáo xâm nhập:
Từ thế kỷ thứ VIII, quân Hồi giáo thuộc hệ thống Thổ Nhĩ Kỳ đã xâm nhập vào
phía Tây bắc Ấn Độ. Rồi từ thế kỷ này cho tới thế kỷ thứ XI, đã bao lần quân Hồi giáo
xâm nhập, đánh phá Trung Ấn Độ, gây nhiều tai hại cho Phật giáo và gieo bao nỗi đau
khổ cho dân tộc Ấn Độ. Mỗi lần xâm nhập như vậy, họ đốt hết tất cả những đền chùa
Phật giáo. Có thể thấy Phật giáo bị tổn hại rất nhiều. Lúc bấy giờ, tín đồ Phật giáo các
vùng từ hai bờ sông Hằng, Diêm Phù, phía Tây đến Ma-lạp-bà đều bỏ đạo tin theo Hồi
giáo ngày càng đông. Khu vực Phật giáo hoằng hóa chỉ còn lại vùng Ma-kiệt-đà dọc về
phía Đông Ấn Độ mà thôi. Đến khi vương triều Ba-la sụp đổ, Hồi giáo xâm nhập ngày
càng sâu, dần dần đến vùng Đông Ấn, Kim Cương thượng sư chỉ còn lại lác đác như
sao buổi sớm. Không lâu, vương triều thay đổi niềm tin tôn giáo, chùa Âu-đan-đa-phú-
lê (Udaṇḍapura) và chùa Siêu Nham (Vikramaśīla) lần lượt bị phá hủy, chỉ còn lại chùa
Na-lan-đà (Nālandā) với hơn bảy mươi người tu hành mà thôi. Phật giáo bị tiêu diệt ở
Đại lục Ấn Độ, lúc bấy giờ là thế kỷ XVI Phật nguyên. Phật giáo hưng khởi ở phương
Đông rồi dần dần lan rộng ra toàn đất Ấn, sau đó ngày càng suy thoái và cuối cùng bị
diệt vong ở phương Đông.
b. Sự thay đổi tình trạng kinh tế và chính trị
Lý do thứ hai liên quan tới quá trình tiến triển của Phật giáo về mặt xã hội. Vào
thời kỳ đầu, Phật giáo có sức lôi cuốn cực kỳ những người thuộc cấp bậc cao trong hệ
thống phẩm trật kinh tế, chính trị và xã hội. Thậm chí trong thời cực thịnh, Phật giáo
với truyền thống văn hóa và triết học rất cao, đã nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ của giới
50
ưu tuyển chính trị và kinh tế. Ðiều ấy không có nghĩa Phật giáo tự mình đoạn lìa với
các giai tầng xã hội thấp hoặc không thiết lập được cơ sở tại vùng nông thôn nơi sinh
sống đa số dân chúng Ấn Ðộ. Tuy thế, nó có nghĩa rằng Phật giáo không trải rộng và
thấu sâu vào người dân thường trong xã hội cho bằng Ấn giáo. Do đó, Phật giáo dễ bị
tổn thương trước các sức mạnh đang làm thay đổi tình trạng kinh tế và chính trị.
c. Tình trạng cô lập của tu viện
Lý do thứ ba liên quan mật thiết tới sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Ðộ là hố
ngăn cách ngày càng rộng giữa các cộng đoàn tu viện và quần chúng Phật tử tại gia, mà
cả hai vốn được giả định là cùng kết hiệp chặt chẽ.
Theo lý tưởng Phật giáo, giới tu sĩ và giới cư sĩ tương thuộc: tu sĩ cung ứng lý
tưởng tôn giáo và những lời giảng về Phật pháp, còn cộng đồng cư sĩ cung cấp những
hỗ trợ vật chất như thực phẩm, y phục và nơi ở, nói theo kiểu ngày nay là ―hộ trì tam
bảo‖. Tuy nhiên, khi các tu viện ngày càng trở thành những định chế tự túc dồi dào và
làm chủ đất đai, giới tu sĩ cảm thấy không nhất thiết phải chăm lo vận động sự hỗ trợ
của giới cư sĩ. Hậu quả là mối liên hệ hỗ tương giữa họ và dân chúng dần dần biến
mất.
d. Sự hồi sinh của truyền thống Bà-la-môn
Khoảng năm 186 trước CN, triều đại Sunga nắm quyền ở bắc Ấn, khước từ Phật
giáo và khích lệ các truyền thống ―chính thống‖ của Ấn giáo. Từ thời điểm đó, Phật
giáo phải đối mặt với sự hồi sinh của Ấn giáo. Tăng lữ Bà-la-môn sáng tạo các dạng
thức mới mẻ để triển khai tư tưởng triết học của mình, thí dụ hệ thống Phi nhị nguyên
chính thống của Sankara trong đó kết hợp nhiều cái nhìn thấu suốt của Phật giáo, để từ
đó thiết lập các hình thức mới của đời sống thảo am và tu viện. Giới tu sĩ Bà-la-môn
tìm cách chính thống hoá Ðức Phật, xem ngài là một hóa thân của Vishnu, vị thượng đế
có rất nhiều hóa thân, như Rama và Krishna, v.v., và đưa ngài vào đền thờ các thần linh
Ấn giáo. Người Ấn giáo cũng đặt ra một hệ thống nghi lễ tôn giáo có tính tổng hợp,
trực tiếp đáp ứng thoả đáng các nhu cầu tôn giáo và xã hội đa dạng của dân chúng. Cụ
thể là sự hỗ tương ảnh hưởng giữa Mật tông Phật giáo và Mật giáo Ấn độ đã góp phần
hóa giải ảnh hưởng đặc thù của Phật giáo. Trong khi đó, giới Bà-la-môn bắt đầu phát
động các phong trào tận hiến, ra sức lôi cuốn sự yễm trợ rộng rãi của người dân Ấn, và
Ấn giáo có thể thu hút và bảo lưu được ngày càng nhiều lòng trung thành của tầng lớp
thượng lưu cũng như dân giả.
e. Sự suy đồi của thành phần tăng đoàn
Riêng việc phát triển phân chia tăng đoàn Phật giáo tạo nên khoảng cách quá lớn
làm cho tăng sĩ khó nhận ra con đường tu tập chơn chánh và từ đó xảy ra những tệ nạn
như hình thức tổ chức những sòng bạc. Trong các tự viện, ban đầu họ cho rằng vì
51
không còn nhiều thí chủ ủng hộ tài vật cho họ an tu, họ mở Casino để có thêm lợi
nhuận để nuôi tăng chúng và để xây sửa chùa chiền. Đây cũng được sự tán đồng của
các vị lãnh đạo, tiền bạc có được với những hình thức như thế không tránh khỏi sự suy
đồi về đạo đức trong Tăng chúng. Phụ nữ và tiền là hai nguyên nhân căn bản khiến cho
tăng sĩ không lo tu tập, bỏ quên chính mình, xa rời lý tưởng giác ngộ, quên đi giáo lý
chính thống và không còn giữ được bản hoài của chư Phật chư tổ truyền trao, lại trở
thành một tệ nạn của xã hội, làm suy đồi Phật giáo
Tới đầu thế kỷ 13, Phật giáo gần như bị triệt tiêu tại Bắc Ấn ngoại trừ một số ít
nhóm sống rải rác. Tuy vậy, đạo Phật vẫn được thực hành tại Nam Ấn cho tới thế kỷ
15, rồi biến mất. Từ lúc ấy cho tới thế kỷ 20, tại Ấn Ðộ, Phật giáo được thể hiện chủ
yếu trong những di tích đền đài cùng ảnh hưởng thẩm thấu và trường tồn trong Ấn độ
giáo, Hồi giáo, đạo Sikh, và các truyền thống dân dã khác, làm thành văn minh Ấn độ.
Ngay trong tâm thức của người Ấn giáo, kể cả các bậc đạo sư lẫn giới trí thức, Ðức
Phật vẫn là niềm hứng khởi và hình ảnh của một đấng cứu độ, đại tôn sư về tâm linh và
giác ngộ.
Phật giáo ở Ấn Độ trải qua 1700 năm lịch sử, đã từng làm bá chủ về tư
tưởng của toàn Ấn Độ, đoạt hẳn được địa vị độc tôn của Bà La Môn giáo. Nhất là Phật
giáo ở dưới thời đại hai vương triều A Dục Vương và Kaniska (Ca Nhị Sắc Ca) thực là
cực kỳ phồn thịnh. Phật giáo đã phát triển thành một đại tôn giáo của thế giới. Qua thời
đại Đại thừa Phật giáo tới thời đại Mật giáo, đã có biết bao những vị Thánh tăng, học
tượng ra đời, tổ chức Phật giáo thành một hệ thống giáo học có quy mô trật tự. Nhưng
theo định luật biến thiên, di chuyển của thời đại có thịnh tất phải có suy, nên Phật giáo
cũng không thoát khỏi cái vòng định luật đó vậy.
Chương thứ sáu
SỰ PHỤC HƯNG PHẬT GIÁO TẠI ÁN ĐỘ
Phật giáo bị suy tàn ở Ấn Độ lúc đương thời, nhưng ánh sáng của Phật giáo đã
lan tràn đi các ngả, chiếu vào mọi chốn, khắp nơi, và hiện nay ánh sáng đó đang chiếu
trở về nơi bản xứ.
Nghĩa là, từ cuối thế kỷ XIV cho tới hiện nay, Phật giáo trên dải đất Ấn Độ đã có
cơ hội phục hưng và đang phát triển. Người đứng ra vận động phục hưng, trong đó có
nhà học Phật uyên thâm là Anagarika Dharmapala là, ông là người Sri Lanka con một
nhà tín đồ Phật giáo ở Colombo, thủ đô của Sri Lanka.
52
Năm 1891 là năm ông 29 tuổi. Ông qua Ấn Độ chiêm bái các nơi Phật tích. Ở
đây, ông đã chứng kiến di cảnh điêu tàn nơi Thánh địa. Gặp cảnh sinh tâm, nên ông vô
cùng xúc động mà phát ra lời thệ nguyện(1): ―Uy nghiêm thay! Nơi Thánh tích! Thực
quả là một thắng cảnh vô tỷ của thế giới. Mỗi Phật tử chúng ta, ai nấy phải có nhiệm vụ
bảo hộ duy trì, để nơi Thánh địa này tới khi nào có các vị tu hành tới quản đốc, không
thể để cho một Thánh địa vĩ đại như thế này phải đoạn tuyệt‖. Rồi ông lấy ngày ông
chiêm bái (ngày 21-1-1891) làm ngày kỷ niệm phục hưng Phật giáo Ấn Độ.
Chương trình tái thiết các Phật tích đổ nát của Anagarika Dharmapala đã gắn liền
với lý tưởng phục hưng giáo lý của đức Phật, đấng trọn đời đã theo đuổi đến cùng con
đường giác ngộ. Tháng 05 năm 1891, ngay khi về đến Tích Lan, Dharmapala liền thành
lập Hội ―Ðại Giác‖ hay Ma Ha Bồ Ðề (Maha bodhi Society). Hội này đã lo việc tu bổ
các chùa tháp ở Bồ Đề Đạo Tràng, thành lập tại đây một đoàn thể Tăng già Thế Giới
với sự tham gia của các quốc gia Phật giáo Á Châu và truyền bá Phật giáo bằng các
ngôn ngữ Đông và như Tây phương nhất là Anh ngữ.
Hội Ma Ha Bồ Đề đã trở thành công cụ thực sự trong việc phục hưng Phật giáo
tại Ấn Độ (13) và Tích Lan. Nhờ nỗ lực cố gắng liên tục của Hội, các Phật tích tại Ấn
Độ đã trùng tu trong sự đương đầu với mọi chống đối ngăn cản mãnh liệt của nhà cầm
quyền và Ấn Độ giáo đương thời.
Thắng lợi rực rỡ khác của tân phong trào chấn hưng này là Hội được chính
quyền ủy thác bảo trì những xá lợi của đức Phật do các nhà khảo cổ đào thấy năm 1891
ở Bhattiprolu gần Madras mà bấy giờ đang cất giữ tại Bảo Tàng Viện Madras. Năm
1920, các xá lợi này được chuyển giao cho ngôi chùa Dharmarajika ở Calcutta. Trong
buổi lễ Phật giáo được tổ chức trọng thể tại tòa đô chánh, ông Lord Ronaldshay (28) đã
kính cẩn trao những xá lợi cho ông chủ tịch hội Ma Ha Bồ Đề cung nghinh diễn hành
về ngôi chùa mới nói trên ở Calcutta.
Công tác đáng kể khác của Hội là đã gây được ảnh hưởng lớn lao đối với quần
chúng trí thức hơn là sự nghiệp trùng tu, kiến tạo chùa tháp và các trung tâm tu Thiền
Phật giáo của Hội. Đó là chương trình phiên dịch kinh tạng Phật giáo ra các ngôn ngữ
phổ thông Ấn Độ của Hội. Công tác này được Hội thực hiện với kiến thức quảng bá và
lòng nhiệt tâm. Với công việc phiên dịch tạng kinh và ấn hành bằng các ngôn ngữ
Hindi (34), Tamil, Telugu (35), Urdu (36) cùng nhiều thứ tiếng khác, những học giả Ấn
Độ bắt đầu trình bày sự lợi ích của giáo lý đức Phật trong đời sống. Ngoài ra, nhiều
buổi thuyết pháp về Phật giáo cũng được các chi Hội Ma Ha Bồ Đề thường xuyên tổ
chức tại Bồ đề đạo tràng và nhiều thành phố khác của Ấn Độ.
53
Đặc biệt, tính đến nay, các thánh tích Phật giáo: Nơi Đức Phật đản sinh, nơi đức
Phật thành đạo, nơi đức Phật chuyển bánh xe pháp đầu tiên và nơi đức Phật nhập Niết
bàn cùng nhiều thánh tích quan trọng khác của Phật giáo nằm sâu dưới lòng đất bao
năm qua đều được các nhà khảo cổ khai quật và khôi phục lại từ thế kỷ 18,19, 20 cho
đến nay. Tại các khu vực thánh tích, Phật giáo các nước trên thế giới đều xây dựng các
ngôi chùa theo truyền thống riêng của từng nước và có các tu sĩ cũng như các đoàn
hành hương về tu tập trên khu vực thánh tích hàng năm, Phân khoa Phật học tại các
trường đại học ở Ấn Độ đào tạo hàng loạt cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ phật học trên thế
giới, đặc biệt là giới tu sĩ càng tập trung về xứ Phật để nghiên cứu Phật học. Hàng năm
số lượng các đoàn chiêm bái hành hương đổ về đất Ấn ngày càng tăng, không chỉ tại
lưu vực sông Hằng mà các dãy hang động vùng Trung Ấn như dãy hang động Ajanta,
Ellora, tháp Sanchi… thể hiện một giai đoạn hoàng kim của Phật giáo đại thừa trên đất
Ấn độ.
Ở bên ngoài Ấn Ðộ, công cuộc hoằng pháp ngày càng thịnh đạt với những triển
khai muôn hình muôn vẻ. Ngay từ đầu công nguyên, nhờ con đường truyền giáo Nam
tông và Bắc tông, Phật giáo không biến mất mà càng lúc càng được kiến thiết và duy trì
sống động trong cuộc sống hằng ngày trên các miền đất mới. Sang tới đầu thế kỷ 21,
với tinh thần từ bi, phá chấp, phi cơ chế và chứng nghiệm của mình, Phật giáo ngày
càng được đón nhận rộng rãi, đầy nhiệt tình trong giới trí thức phương Tây, và đang
phát huy nền triết học thâm sâu cùng thể hiện tính cách bao dung và tự lực trên đường
trở thành một tôn giáo thế giới.
Nhìn vào một số đặc điểm căn bản của triết học Phật giáo. Trong khi từ Ấn Ðộ,
Tiểu thừa truyền qua ngả Tích Lan tới Miến Ðiện, vương quốc Khmer, Indonesia, và
vùng đất về sau là Thái Lan, Ðại thừa bắt đầu truyền sang Trung Á, Tây Tạng và đặc
biệt các nước Á đông đồng văn như Việt Nam, Trung Hoa, qua Triều Tiên tới Nhật
Bản. Hiện nay Phật giáo đã lan truyền trên khu vực toàn thế giới, ảnh hưởng lớn dến
các nước phương Tây. Bánh xe hoằng pháp càng lăn trên những vùng đất văn hoá xa lạ
thì càng cuộn vào nó vô số dấu vết mới mẻ và những hình thức chuyển động thích nghi.
Sự kiện ấy được phản ánh trung thực trong sinh hoạt nghi lễ và nét vẽ, chạm khuôn mặt
Phật cá biệt, tương ứng với hình ảnh người dân bản địa, cùng lối kiến trúc bên ngoài và
trang trí bên trong các đền chùa.
Phật giáo là một tôn giáo và cũng là một triết học, trong cuộc vận hành trên
những vùng đất mới ấy, nảy sinh những triển khai tư duy và thực hành đáp ứng yếu tính
và nhu cầu đặc thù mỗi dân tộc, nhưng tựu chung, vẫn dựa trên nền tảng Phật pháp
truyền thống với nguyên tắc: tùy duyên bất biến. Sự vận hành trên nguyên tắc ấy cùng
54
với tính chất từ bi và trí tuệ của đạo Phật, đạo Phật luôn xứng đáng là một tôn giáo điển
hình của nhân loại.
Tài liệu tham khảo
10 Tông Phái Phật giáo ở Trung Hoa -Thích Thiện Hoa
Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại - Doãn Chính, Trương văn
Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Tình.
Lược sử Phật giáo Ấn Độ - Thích Thanh Kiểm
Ấn độ Phật giáo sử luận - Thích Viên Trí
Các Bộ phái Phật Giáo ở Ấn Độ - Tiến sĩ Nalinaksha Dutt, Thích Nguyên Tạng
dịch
Đẳng cấp trong các tôn giáo Ấn Độ - Thích Nguyên Hiệp (Nguyệt san Giác
Ngộ)
Lý do phân phái và tình hình phân phái trong đạo Phật - Minh Chi
Đường vào Mật Tông - Lama Thubten Yeshe
Mật Tông - Thích Thiện Hoa
Kiến Thức Căn Bản Phật Giáo -Chương 6: Tông Phái Phật Giáo - Thích Bảo Lạc
Sơ lược lịch sử Phật giáo Ấn độ sau thời đức Phật - Thích Tâm Hải
Đại Cương Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới (A Concise History Of Buddhism) --
Andrew Skilton (Dharmacari Sthiramati)-- Thiện Minh dịch
Giới thiệu đường lối tu thiền của Phật giáo -- Thích Thanh Từ
Tinh Hoa và Sự Phát Triển của Đạo Phật (Buddhism- Its Essence and
Development) -- Edward Conze - Nguyễn Hữu Hiệu dịch
Lợi Ích của Thiền Tập và Quan Điểm của Phật Giáo về Thiền -- Thích Trí Châu
Vào cõi tranh thiền -- Lê Anh Minh
Tư Tưởng Phật Giáo Đối Diện Với Hư Vô -- Tuệ Sỹ
Thiền Tập - Nguyên Giác biên dịch
SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG, Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái
của Phật Giáo - Guy Newland - Tâm Hà Lê Công Đa dịch
Cuộc suy tàn Phật giáo tại Ấn Độ - Nguyễn Ước
Nguyên nhân suy tàn Phật giáo Ấn Độ - Thích Trí Hải