làng văn · 2020-02-04 · xuân cảm, thơ thiện ngôn xuân quang phục, thơ hoàng xuyên...
TRANSCRIPT
làng văn SỐ 2 - THÁNG 1 NĂM 2015
Mừng Xuân Ất Mùi - 2015
làng văn Chủ nhiệm, chủ bút:
Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa
Bài vở:
Bút Chì – Cả Cười – Cao Xuân Lý -- Dương Thượng Ngã
Đỗ Quang Vinh -- Hoàng Hải Thủy – Lê Hoài Niệm – Lê Thị Việt
Nam Lê Hữu Mục -- Lý Thảo Yên -- Miên Kim
Minh Đức Hoài Trinh
Mõ Làng Văn -- Ngọc Anh -- Nguyên Hương – Nguyễn Bá Dĩnh
Nguyễn Mạnh An Dân -- Nguyễn Phù Sa -- Nguyễn Văn Thông
Phạm Khắc Trung – Phùng Nhân -- Phương Duy – Thủy Trang
Trần Quốc Bảo – Triều Vân – Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Việt Chi -- Việt Phương
Tri ân cộng tác viên quá cố:
An Khê – Bạch Thái Hà -- Bình Nguyên Lộc – Duyên Anh
Đan Quế -- Huỳnh Hữu Cửu – Hứa Hoành
Lãng Nhân Phùng Tất Đắc
Lê Đình Điểu -- Lê Thao Chuyên – Mai Thảo – Ngọc Khôi
Ngô Mạnh Thu -- Nguyễn Đình Hoà – Nguyễn Huy Phước
Nguyễn Tất Nhiên – Nguyễn Văn Ba – Quỳ Hương
Sắc Không Nguyễn Hữu Nhật -- Tạ Tỵ -- Thanh Nam – Thúy Sơn
Tô Giang -- Trần Cao Lĩnh
Trọng Kim (Đả Cẩu) Trương Trọng Trác
Trương Ái Minh -- Tử Vi Lang – Tự Tỉnh Nguyễn Nhật Tân
Vi An -- Vũ Kiện – Xuân Vũ
Địa chỉ email: [email protected]
Website: www.langvanonline.com
(Nếu trích đăng, xin ghi xuất xứ: Làng Văn Online 1-2015)
- TRONG SỐ NÀY - BÀI TẾT:
Hoa cảnh ngày Tết, tản văn Nguyễn Văn Thông
Nỗi niềm, thơ Lý Thảo Yên
Qui Nhơn, Bình Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư,
tản văn Mạnh An Dân
Điểm trang, thơ Thanh Thanh
Bài hành cuối năm, thơ Cao Ngọc Cường
Đêm giao thừa, truyện ngắn Miên Kim
Xuân lưu vong, thơ Túy Hà
Hoàng Ngọc, truyện ngắn Việt Phương
Xuân cảm, thơ Thiện Ngôn
Xuân quang phục, thơ Hoàng Xuyên Anh
Ngày đầu năm 2015, thơ Trần Vấn Lệ
Tản mạn đầu năm, tản văn Phạm Khắc Trung
Những mùa Xuân lưu lạc, Huỳnh Công Ánh
Thơ xướng họa Lý Thảo Yên, Cung Vũ, Phan Thị Anh Lê,
Yên Sơn
Bài hát chúc Tết ngày xưa, Nguyễn Hữu Nghĩa
Mừng năm mới, thơ Nghiêu Minh
Thơ Xuân đùa bạn, Cung Vũ
Thơ Đỗ Quang Vinh:
Anh hùng phạt Tống, Xuân phục hưng, Xuân khấn nguyện
Lỗi hẹn, thơ Bùi Quang Tuấn
CÁC BÀI KHÁC:
Phá rừng xã hội chủ nghĩa, tự truyện Lê Văn Hưởng
Tội nghiệp khoai sắn, tản văn Hoàng Long Hải
Thắp nén hương lòng tưởng nhớ Trần Văn Bá
Lá thư đầu tiên, Phương Duy TDC
TIẾNG VỌNG TỪ ĐÁY VỰC:
Bọ Lập và rừng cây, nhận định của Nguyệt Quỳnh
Xóm gái hoang, truyện ngắn Nguyễn Quang Lập
Hoa, Cảnh Ngày Tết
Nguyễn Văn Thông
Mùa Giáng Sinh trên đất Mỹ vừa xong thì người Việt mình
chuẩn-bị cho Tết. Người Việt miền Nam thì nghĩ tới cái không-khí
ấm nóng Sàigòn trong khi người Việt miền Bắc thì nhớ tới những
ngày mưa phùn rét co-ro Hà Nội. Chỉ có thời-tiết cao-nguyên như
Đà Lạt là vừa được hưởng cái không-khí se lạnh đầu xuân lại có
bầu trời trong xanh và nắng vàng lấp-lánh. Nhưng khắp miền đất
nước hình chữ S yêu-dấu của chúng ta đều có một trong các loại
hoa đặc-trưng của mùa xuân. Hoa đào miền Bắc, hoa mai miền
Nam, và anh-đào hay hồng-mai vùng cao-nguyên. Ngoài ra còn có
bao nhiêu là vạn-thọ, cúc, huệ, sen, lan, hồng có thể tìm thấy ở
khắp nơi. Hoa giấy là một trong những loài hoa tôi thương
đặc-biệt nhưng hình như không được xếp vào loại hoa Tết. Hoa
giấy không phải là loài hoa quí vì dễ trồng, trồng cả ngoài hàng
rào. Tuy vậy hoa giấy có nhiều mầu, nở thành từng chùm rực-rỡ
và lâu tàn. Bây giờ đã có nhiều nhà trồng-tỉa trồng hoa giấy trong
chậu làm cây kiểng. Thân hoa giấy cong-queo sần-sùi có dáng của
những cây bonsai. Tôi nghĩ nếu có cơ-hội, tôi sẽ dùng thêm hoa
giấy làm hoa ngày Tết.
Không hiểu sao ông bà mình lại đặt tên nó là hoa giấy, có vẻ như
hoa giả làm bằng giấy trong khi rõ-ràng nó là hoa thật. Nhưng cái
tên mộc-mạc và có vẻ không "thật" ấy lại khiến tôi thấy hoa giấy
đẹp hơn một tí. Cứ nhìn một cảnh đẹp thiên-nhiên mà xem, thiếu
gì người buột miệng khen: "Đẹp như vẽ!". Vậy mà ta thử bước vào
bảo-tàng viện nghệ-thuật mà xem. Không thiếu những bức tranh
giữ chân chúng ta lại, bắt ta nhìn ngây-ngất, trầm-trồ cảm-phục
nét vẽ và mầu-sắc của người họa-sĩ tạo nên bức tranh. Và câu
khen-tặng tuyệt-diệu nhất của ta lại là: "Đẹp như thật!"
Lạ chưa? Đẹp như vẽ và đẹp như thật! Vậy thì cái gì được dùng
làm mốc cho cái đẹp, vẽ hay thật? Tôi không dám dùng chữ
"tiêu-chuẩn" vì chuyên-môn quá. Cái bình-thường vượt cái mức
nào thì được coi là đẹp? Giống như vẽ hay giống như thật thì được
coi là đẹp? Vẽ là không thật, vẽ là sự diễn-đạt thay-thế cái thật. Ta
có thể nghĩ rằng, cái thay-thế thì làm sao bằng cái được thay-thế.
Vậy mà cảnh thật càng giống tranh vẽ thì mới được gọi là đẹp.
Ngược lại tranh vẽ càng giống cảnh thật bao nhiêu thì càng đẹp
bấy nhiêu. Lạ-lùng thay cái cảm-quan của con người.
Các nhà tư-tưởng về thẩm-mỹ học chắc có những nghiên-cứu và
luận-chứng của họ. Phần tôi hay nghĩ vụn thì thoáng thấy rằng,
cảm-quan về cái đẹp của chúng ta hình như đòi một sự hài-hòa thế
nào đó trong vạn-vật để giúp con người cảm-nhận được,
rung-động được, và dâng lên những cảm-xúc. Sự hài-hòa đó là sự
hòa-hợp giữa cái bên trong và bên ngoài, giữa sáng với tối, giữa
thật và mộng, giữa sinh và diệt, giữa âm với dương, giữa
thiên-nhiên với nhân-tạo, vân vân. Chúng ta hãy gợi lại một cảnh
đồi núi có cây xanh bao-phủ, hoàn-toàn thiên-nhiên chưa có vết
chân con người đặt tới. Có thể nói, đó là một cảnh đẹp thiên-nhiên.
Cũng cùng cảnh đẹp thiên-nhiên ấy, bây giờ lại có một dinh-thự
màu-sắc và đường-nét kỉ-hà học xen lẫn trong cái khối thiên-nhiên
xanh biếc ấy. Không phải là cảnh thiên-nhiên ấy được rực-rỡ lên
với công-trình của con người hòa-hợp vào đó hay sao? Và không
phải công-trình ấy của con người được nổi bật giữa thiên-nhiên
xanh biếc ấy ư?
Bây giờ ta hãy nghĩ tới những cái đẹp thật và giả khác. Một đàn cò
trắng tung bay trên cánh đồng xanh bát-ngát về phía chân trời nơi
có những ngọn núi nhấp-nhô dưới bầu trời xanh biếc. Trong vài
phút, đàn cò trắng ấy biến mất và cảnh-đẹp thiên-nhiên ấy không
còn như cũ. Tiếc ghê. Nhưng mới đây trên mạng thông-tin toàn
cầu, người ta chụp hình một tiệc cưới được sửa-soạn trong một
đại-sảnh treo hàng ngàn con hạc giấy. Một công-trình thật tỉ-mỉ và
cũng thật đẹp. Cảnh đẹp nhân-tạo ấy không biến mất trong
chốc-lát nên người ta có thể ngắm đi ngắm lại, ngó tới ngó lui từng
góc cạnh và chụp hình để lưu giữ.
Với kĩ-thuật hiện-đại, các nhà khảo-cứu và nghệ-sĩ có thể ghi lại
những thước phim hay những tấm hình trên không-gian, dưới đáy
biển và trên mặt đất những nét đẹp trong khoảnh-khắc. Ta thử hỏi,
những nét đẹp ấy là thật hay giả? Dĩ-nhiên chúng là thật bởi vì
được chụp hay ghi lại từ thiên-nhiên. Vậy những bức tranh vẽ ghi
lại theo cái nhìn của người họa-sĩ là giả hay thật? Ta dễ nói chúng
là giả, nhưng khoan đã, cái nhìn của người họa-sĩ ấy thua gì sự
thu-nhận trong khoảnh-khắc của chiếc máy hình. Ấy là chưa kể,
người nhiếp-ảnh phải chọn góc-cạnh và bấm máy đúng lúc cũng
như người họa-sĩ cũng phải ngắm-nghía và chụp bắt đúng lúc
những tác-động trong khoảnh-khắc thí-dụ một làn tóc bay bay,
một chiếc lá chao lượn.
Bây giờ nói đến ngày Tết. Cái gì làm nên ngày Tết của người Việt
chúng ta? Cái gì thật, cái gì giả? Cái gì tự-nhiên và cái gì
nhân-tạo? Khí-hậu thì trên suốt giải đất uốn khúc hình chữ S đã có
mấy thứ khí-hậu rất khác-biệt. Bây giờ con cháu Lạc Hồng có mặt
trên khắp thế-giới, khí-hậu và khung-cảnh thiên-nhiên còn thêm
nhiều sự khác-biệt nữa. Ở Bắc bán-cầu ngày Tết tuyết đổ ngập cả
thước trong khi phía Nam bán-cầu đang nắng cháy da, đổ mồ-hôi
hột. Không-gian và thời-gian theo truyền-thống thường được coi
là tạo cho chúng ta cái không-khí mùa xuân, ngày Tết thì bây giờ
trở-thành thứ yếu.
Phong-tục ngày Tết đóng một vai-trò quan-trọng thì lại là
nhân-tạo vì là văn-hóa, là nếp sống ta học được từ cha ông truyền
lại. Sự kính-nhớ tổ-tiên, anh-linh dân-tộc, các chiến-sĩ vị quốc
vong thân, và người thân-thuộc quá vãng trong việc thờ-cúng, cầu
kinh; những món ăn truyền-thống ngày Tết để sum-họp và nối-kết
tình gia-tộc; sự thăm-viếng, ăn-uống, chuyện-trò trao-đổi để thắt
chặt tình thân-ái; những ngày hội để chung vui và phát-huy
văn-hóa Tết... là những thứ đến từ bên trong, từ ý-thức của chúng
ta để tạo nên ngày Tết. Phải chăng chính ý-thức và ý-muốn của
chúng ta bây giờ làm nên ngày Tết hơn là thời-gian và không-gian
thiên-nhiên?
Nếp văn-hóa ấy dù là nhân-tạo nhưng đã trở thành tự-nhiên trong
lòng người Việt chúng ta trên khắp thế-giới. Nói giả với thật về
ngày Tết thì khó nghe, nhưng nét văn-hóa - nhân-tạo - đã hòa-hợp
vào không-gian và thời-gian để tạo nên ngày Tết. Dù ở chân trời
góc biển nào, chúng ta cũng có thể có một ngày Tết đẹp như ngày
Tết ngày xưa trên quê-hương. Tết ngày nay trên quê-hương thì
không thể đẹp khi mọi sự đều giả-dối đến mức tàn-bạo. Chỉ khi
nào sự thật trở về trong lòng người dân trong nước, khi thứ
chủ-nghĩa chỉ biết lừa-đảo dối-trá từ trên xuống dưới, từ thầy đến
trò sụp-đổ thì nét đẹp ngày Tết truyền-thống mới trở lại trên
quê-hương.
Nguyễn Văn Thông
Nỗi niềm
Cũng chỉ còn vài năm nữa thôi
Mà sao lòng chẳng phút nào vui
Mảnh tình rồi cũng như bèo bọt
Chút nghĩa như sông cạn đất bồi
Ai bảo công cha tựa Thái sơn
Chỉ là hạt cát sóng vùi chôn
Ta ngồi quạnh quẽ như con ốc
Bám tảng rêu xanh biết sống còn
Đợi mãi mùa xuân đến tái tê
Mà đông dài lạnh buốt ê chề
Ta ngồi ôm mặt như còn bé
Quà chợ tưng tiu đón mẹ về
Hình như lòng vẫn đợi chờ ai
Não nuột đâu đây tiếng thở dài
Có bóng người vừa qua cửa sổ
Hay sương chiều ướt lá lung lay
Dòng nước bạc trôi chẳng hẹn về
Mà lòng thì vẫn dại cơn mê
Thẫn thờ đếm mấy mùa rơi tuyết
Trên ngọn sầu đông mọc trước hè
Tôi viết bài thơ ngỏ nỗi niềm
Dìm sâu từ tận đáy cô miên
Bao giờ trời đổ cơn mưa xuống
Cho hết trong tôi những muộn phiền
lý thảo yên
Qui Nhơn, Bình Định
trong thơ người lính Trần Hoài Thư Nguyễn Mạnh An Dân
Gởi người lính Trần Hoài Thư, người đã đổ máu
để bảo vệ Qui Nhơn trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968
Sinh ở Đà Lạt, chạy loạn về Nha Trang, học ở Cô Nhi Viện Hòn
Chồng, 11 tuổi về Thừa Thiên, đi học ở Huế, ở Sài Gòn, đi dạy ở
Tam Kỳ, đi lính ở Thủ Đức, đi trận ở Bình Định. “Lý lịch” trông
có vẻ giang hồ lãng tử; tuy nhiên thời chinh chiến của thế hệ thanh
niên ra đời trên dưới thập niên 1940, an bình suông sẻ mới là lạ,
giang hồ lãng tử là nghề của chàng, có bất thường chăng là lính
tráng cái gì, lại là lính thám kích sinh tử, với một chàng trai cân
nặng không quá 40 ký lô lại kè kè đôi kính cận dày gần 8 độ.
Chuyện có vẻ như đùa mà có thật, người có vẻ như hư cấu mà có
máu có tim, biết cười biết khóc. Tên người lính trận lãng tử đó là
Trần Hoài Thư.
Có thể có nhiều ông lớn thắt cà vạt, ngồi xa lông, có thể có nhiều
chàng trai bận đồ trắng thể thao xách vợt tennis kiểu công tử thành
phố sẽ cau mày khó chịu hay cười khẩy chế nhạo khi nhìn thấy
một người lính râu tóc xồm xoàm, ao quần hành quân lấm lem bê
bết, lầm lì ngồi ở cà phê Dung, la cà lui tới nhưng căn phòng “khả
nghi” nơi phòng ngủ Thuận An, Chí Thành hay mặt mày đỏ gay
cười nói bạt mạng ở câu lạc bộ Gió Khơi, ở quán Hạ Trắng, Lệ Đá.
Có một chút phá phách ngang tàng, có một chút ngạo đời khinh
bạc, có một chút ba gai, có một chút -- cũng có thể có rất nhiều -- u
uẩn. Xin lỗi quí vị, xin hãy tự hỏi lại chính mình và đừng vội phê
phán. Người lính đáng trách hay đáng yêu trong những giây phút
bốc đồng ngắn ngủi giữa những lần hiếm hoi về phố sau những
tháng ngày gối đá nằm sương, vào sinh ra tử. Người lính yêu đời,
yêu người; người lính cũng hận đời, hận người và sòng phẳng
sống thật với lòng mình, không làm dáng đóng trò, không tô son
vẽ phấn, chuyện tự nhiên nhưng hiểu theo một cách nào đó cũng
có thể là một chuyện dài, chuyện lớn tôi không định nói và có lẽ
cũng không đủ chữ nghĩa để nói về những người lính hào hùng
nhưng bất hạnh, anh dũng mà oan khiên của chúng ta. Bài viết nhỏ
này đơn giản chỉ là những lan man bất chợt khi tình cờ đọc lại tập
thơ với lời đề tặng “những trang thơ đầy ngập Bình Định của tôi”
của Trần Hoài Thư, coi như một lời cảm ơn muộn màng của một
người Bình Định dành cho một người lính không sinh ra ở đây
nhưng đã từng sẵn sàng dùng máu của mình để bảo vệ vùng đất
khổ dân nghèo này.
Máu, đúng -- máu người, màu đỏ, vị mặn. Máu của người lính
Trần Hoài Thư đã đổ ra ngay những giờ phút thiêng liêng của
ngày đầu năm Tết Mậu Thân tại cây xăng Ông Tề, khu Năm, cửa
ngỏ của thành phố khi cùng đơn vị “xuống núi” từ một doanh trại
nghèo của Đại Đội 405 thám kích trên đồi Tháp Bánh Ít, băng đêm
về giải cứu Qui Nhơn:
… Tôi bỏ em về miền duyên hải
Ngày đầu năm lửa cháy Qui Nhơn
Bộ đồ vàng trung đội ngụy trang
Gian khổ lắm chiếm từng con phố
Nhớ thằng truyền tin bò qua con lộ
Cõng tôi về băng bó vết thương
Nhớ vô cùng cô gái không quen
Quên cả sợ, mang giùm tôi ly nước
Tôi đã uống vào cơn đau khát
Cả tình yêu chan chứa Qui Nhơn
…
(Sợi tóc nhớ nhung)
Tình yêu Trần Hoài Thư dành cho Bình Định không chỉ là Qui
Nhơn, nơi có những mái tóc dài ở trường Sư phạm, nơi có những
cô hàng cà phê môi mắt biết cười, nơi có ngôi nhà ở khu Sáu rộn
ràng bằng hữu, người lính Trần Hoài Thư trải đời mình trên từng
tấc đất quê hương:
Bồng Sơn mùa nước dâng sông Lại
Sũng loan trên những mảnh dừa
Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức
Nghe cận kề lửa hướng Tam Quan
Bồng Sơn mây ám toàn tin dữ
Chiều chưa buông, quận đóng năm giờ
Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn
Còn bên cầu, trơ trọi cây đa
…
Cây đa. Ngàn rễ đâm lòng đất
Như tấm lòng người với Bồng Sơn
Đa bám làng, tôi đi bám đất.
Đất với làng, thương quá quê hương.
(Cây đa bên cầu)
Thương quá quê hương. Mùa hè đỏ lửa 72, Bồng Sơn, mặt trận
bắc Bình Định, rất nhiều người đã đến đây và đã “bám đất”, đã
nằm lại nơi này, chỗ bờ bắc giòng sông Lại Giang, nơi có cây đa
trong “Đêm Trăng” yên bình của Võ Phiến đã là một bãi chiến
trường, là nơi mà một người lính, về sau thành một trong những
“bức chân dung trên công viên buồn” ở công trường Quách Thị
Trang: Hoàng Lê Cương đã nằm xuống để tạ tình với Bồng Sơn,
để trả cái giá danh dự của một người lính đúng nghĩa cho tổ quốc.
Trần Hoài Thư cũng đã đến đây, đã quặn lòng nhìn những hàng
dừa cụt ngọn, đã tê tái khi thấy những cô em hốt hoảng lìa xa
trường lớp hối hả tản cư, đã đứt ruột nhìn giọt lệ buồn trên mắt
người mẹ thời chiến.
Hôm qua tôi dừng chợ Bồng Sơn
Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc
Tôi nói làm sao qua dòng nước mắt
Thị trấn này vừa mất thằng con
Tôi quá buồn ra đứng bờ sông
Sông Lại Giang ráng chiều đỏ sậm
Nhớ nó ngã nhào trên bờ đá xám
Thấy cả ngọn đồi những xác Bắc Nam…
Bồng Sơn buồn, cả đất nước buồn, ai có trái tim cũng buồn nhưng
với người lính thì dường như không phải đôi lúc mà là thường
xuyên phải dằn lòng lại, phải cố dấu đi những nỗi buồn riêng vì
những tiếng gọi chung. Tiếng gọi có thể không lớn lao, lộng ngữ
kiểu vì nước vì dân gì hết mà tiếng gọi chỉ đơn giản từ ánh mắt
trông chờ của những bác dân quê, từ giọng reo vui của một bầy em
nhỏ, từ ánh nhìn trao gởi không lời của một bóng hồng thôn dã, từ
những gắng bó sống còn với những thằng em nhỏ nhoi, tội nghiệp
trong cùng đơn vị. Người lính phải đi tới, giá nào cũng phải đi tới
cho dẫu mỗi lần đi có thể là lần cuối cùng.
Xe đổ đoàn quân ngoài chợ Huyện
Hàng ngang quân lội ruộng băng đồng
Tuy Phước, Tuy Phước, đêm tiếp viện
Ta đã về, về lại quê em
Ta đã về, lửa đạn, xẹt ngang
Cây rào cản, vấp đau bầm ống quyển
Đại bàng ơi, xin đừng kêu pháo yểm
Tôi có người yêu, cô giáo trường làng
…
(Đêm tiếp cứu quận Tuy Phước)
Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại đội đi, một nửa không về
Lớp lớp người nhào lên, ngã gục
Đạn sủi bờ sủi đá, u mê
Kỳ Sơn cao độ hai trăm thước
Đêm hoảng kinh, đỏ huyết vần trăng
….
Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn
Người chưa về tóc mẹ bạc như sương
Ngày sau ai nhớ cho dòng lệ
Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn
(Kỳ Sơn)
“Đại đội đi một nửa không về”… Sợ không? - Sợ. Ớn không? - Ớn
lắm. Đừng nói dóc, đừng làm anh hùng rơm. Người lính Trần
Hoài Thư đã sống rất thật, rất người, biết sợ và cũng biết vượt qua
nỗi sợ hãi vì những gì to tát hơn, ý nghĩa hơn:
Thì ta ra trận, ta ra trận
Trăm lần thì cũng chuyện rong chơi
Vẫn chuyến bốc quân vào buổi sớm
Vẫn chuyến trở về không buồn vui.
…
Thằng Mỹ lái tàu chơi mất dạy
Hai càng chưa hạ đã bay cao
Ta nhìn xuống thấp, run không nhảy
Mày đạp ông, ông phải té nhào.
…
Lính cũ chỉ đường ta đánh trận
Quân bò, ta lại chạy khơi khơi
Phen này còn sống về thăm phố
Ghé lại em nuôi. Thưởng cuộc đời
(Nhảy trực thăng ở Phước Lý)
Như vậy đó, người lính ốm, cận thị Trần Hoài Thư “Rán giữ ống
chân cho khỏi gãy. Rán ôm khẩu súng như tình nhân. Cầu cho cặp
kính dày không vỡ. Nhớ cột dây thun cho chắc ăn” để làm “ông
Thầy” cùng “em út” trong Trung đội - chức vụ nhỏ nhất, trách
nhiệm nặng nề nhất và cũng dễ chết nhất trong một đơn vị bộ binh
tác chiến -- lao tới:
Băng đồng, băng đồng, đêm hành quân
Người đi ngoi ngóp, nước mênh mông
Về đây Bình Định ma thiên lãnh,
Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn
….
Mưa lạnh thèm tu hơi rượu đế
Để quên tim nhảy nhịp lo âu
Giơ tay vuốt mặt lau tròng kính
Giờ G, giờ G sao quá lâu.
….
Trung đội ta những thằng giữ đất
Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Ra Tam Quan qua rừng An Lão
Từ Kỳ Sơn, Phước Lý, An Khê
Đồng đội ta những người đã chết
Những Vọng, Nga, Nai, Bình Lò Heo
Những Chấn, Hảo, Sơn, Tài Xóc Dĩa
Đàn diều hâu thảm thiết khóc òa
(Trung Đội)
Người lính miền Nam oằn vai vì nhiệm vu, ứa lệ cho đồng đội, ứa
lệ vì đồng bào, vì mẹ già, vì em thơ, ứa lệ cho thân phận bi uất của
chính mình nhưng sẵn sàng chia xẻ với tổ quốc những tai ương,
chung chịu với với quê hương mọi bất hạnh với một cõi lòng tràn
ngập hào khí, một trái tim vượt thoáng, chất ngất thương yêu,
không thù hận:
Ta trở về giáp mặt chiến tranh
Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm đỏ
Thau rươu đế mừng ta thằng lính sữa
Dzô ông thầy! hữu sự có thằng em
….
Ta lính miền Nam hề, gốc nho phong
Không chiến tranh cũng thành đốc tờ đốc tiếc
Thời thế đẩy đưa ta thành lính chiến
Mang nỗi buồn như rừng lá khai quang.
….
Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng mạt kiếp
Ta trèo lên hỏi cây rừng có biết
Có một nơi nào hơn ở Việt nam
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam?
(Ta lính miền Nam)
….Cô hàng ơi cho tôi một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em….
(Một ngày không hành quân)
Người lính, người thơ Trần Hoài Thư đã buồn, đã vui, đã cười, đã
khóc, đã muộn phiền tiêu phí, đã kiêu hãnh hiến dâng cả tuổi
thanh xuân cho Qui Nhơn, Bình Định. Hàng hàng lớp những
Nguyễn Văn X, Trần Đình Y, Lê Văn Z cũng đã sống một thời
như thế ở Phong Điền, Cam Lộ, ở Tân Cảnh, Kom Tum, ở Bình
Long, Hậu Nghĩa, ở Chương Thiện, U Minh. Thời chiến, buổi
nhiễu nhương, trai thời loạn. Có lẽ tất cả đều kiêu hãnh ngẩng cao
đầu không hối tiếc về một thời đã qua nhưng chắc chắn sẽ ngậm
ngùi khi nhớ lại:
Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoắt giờ đây: tóc đã điểm hoa râm
Khi gặp lại từ phương này quả đất
Chợt nhìn lên: giờ vầng trán đã nhăn.
Trong đôi mắt mỏi mê cùng cơm áo
Có chút gì phảng phất của quê hương
Mây Đèo Cả như hôm nào dừng lại
Chiều Pleiku như buổi nọ mù sương
Thấy như thể trời Bồng Sơn mưa đổ
Chiều cuối năm quân chuyển xuống Đèo Nhong
Đường xe lửa ai ngồi châm điếu thuốc
Áo tơi dầu che khuất nẻo Cù Mông.
….
Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoắt giờ đây, tóc đã điểm hoa sương
Khi gặp lại từ phương trời viễn khách
Chợt nhìn nhau, sao đôi mắt cay nồng.
Trần Hoài Thư! Xin cảm ơn đã đổ máu cho Qui Nhơn, xin cảm ơn
đã đổ lệ cho vùng đất khô dân nghèo Bình Định, xin cảm ơn vẫn
luôn giữa trong tim “chút gì phảng phất của quê hương”. Buồn
phải không? Thôi, vòng vòng kiếm chỗ nào làm ly cà phê chơi, dù
chắc gì ly cà phê viễn xứ đủ hấp lực làm quên nỗi buồn quá nồng,
quá đậm trong lòng mỗi chúng ta.
Ghé lại Dunkin gọi cốc cà phê
Nhớ bạn, ra ngoài đường đốt thuốc
Một chút cay cay xé nồng đôi mắt
Như khói mù buổi sớm Việt Nam
Cốc xây chừng để lại Qui Nhơn
Chắc sẽ nguội và đọng thành lệ đá.
Nguyễn Mạnh An Dân
Điểm trang
Cho tôi xin tấm gương!
Cho tôi xin chiếc lược!
Xuân về trên Quê Hương,
Xấu-xí sao nhìn được?
Này, những sợi tơ vương
Đã một thời óng mượt:
Tay nào mà vuốt trượt?
Gió nào mà xuôi nương?
Này, ống kính thiên-phương:
Màn ảnh của trần-dương,
Sáng ngời hai mặt nước
Phản-chiếu bóng thiên-đường!
Này, đôi môi uyên-ương
Ngọt lịm lời yêu-đương,
Thắm tươi màu mộng-ước,
Rực-rỡ sắc hoa hường!
Này, hàm răng kim-cương
Trắng bóng ánh tinh-khương:
Môi nào mà mọng ướt!
Má nào mà thương-thương!
Này, vầng trán thanh-lương!
Này, sống mũi chân-phương!
Này, làn da má mướt!
Này, vành môi khiêm-trương!
Tóc tôi dù ngả ngược
Không thấy ngôi ngay đường,
Mắt tôi dù khổ-dượt
Chứng-kiến đời tang-thương...
Môi tôi... dù phai hường...
Má tôi... dù nhô xương...
Răng tôi.... dù sứt xước...
Da tôi... dù tái sương...
Xin cho tôi vững bước!
Xin cho tôi kiên-cường!
Cho tôi xin... chính-chước!
Cho tôi xin... hiền-lương!...
Cho môi đừng xấc-xược!
Cho tay đừng nhiễu-nhương!
Cho hồn đừng ô-trược!
Cho đời đừng tai-ương!
Xin cho óc ngay đường!
Xin cho lòng trong gương!
Xin cho đất thắm hường!
Xin cho trời ngát hương!
Cho tôi thần+trí lược!
Cho tôi thân+tâm gương!
Xuân về trên Quê Hương,
Xấu-xa: – sao chịu được?
Xuân về trên Quê Hương,
Xấu-xí sao nhìn được?
Xuân về trên Quê Hương,
Xấu-xa sao chịu được?
Thanh Thanh
(trong tập “Cơn Ác-Mộng”)
Bài hành cuối năm
Bạn gửi tặng ta chai rượu quý
Gọi là nhấm nháp để thơm râu
Biết tiếng bạn là người hay rượu
Nhưng thầy thuốc cấm, nhịn bấy lâu
Tàn năm rót tạ lòng tri kỷ
Tràn ly chẳng biết rót về đâu
Cứ ngỡ như trong câu thơ cổ
Cuối năm ngồi đối ẩm cùng sầu
Già! ừ thì cũng chưa già lắm
Mà trẻ, thời qua cũng đã lâu
Đôi khi nhìn cứ như ông lão
Mấy thuở được làm đứa trẻ trâu
Nhìn ngây đáy cốc trầm ngâm mãi
Hổ phách lên men óng ánh mầu
Bạn, ta mấy chục năm luân lạc
Cam làm thân Lã Vọng buông câu
Phế hưng lớp lớp nghe lòng đắng
Một sớm soi gương thấy bạc đầu
Ly hương một kiếp dài đăng đẳng
Năm thuở mười thì mới gặp nhau
Mà vẫn nhớ hoài tình tri ngộ
Dẫu bao con nước chảy qua cầu
Tàn canh ngồi ngẫm tình nhân thế
Bạc cái nỗi đời lắm bể dâu
Sấp ngửa bình sinh chưa nên chuyện
Mà thời gian cứ trôi qua mau
Mây vẫn lững lờ mây viễn xứ
Biền biệt phương người cánh hải âu
Cuối năm rượu rót buồn không nhấp
Dằng dặc tình bằng chuyện trước sau
Cơm áo nợ tình tròn một kiếp
Ngứa tay nguệch ngoạc một đôi câu
Thơ cứ viết tràn như đồng thiếp
Cho nhẹ lòng thôi chẳng vì đâu
Cuối năm chiều xuống rơi chầm chậm
Thấp thoáng vàng phai nhạt mấy mầu
Em hãy ngồi bên cho có bạn
Để ta soi bóng đáy mắt nâu
Chiêu ngụm rượu lên đầy cảm khái
Mà lời tận tuyệt chẳng thành câu
Em chớ nhìn ta mà ái ngại
"Bất tu dụng tửu phá thành sầu"
Thôi nhé ! lão đồ gàn vô dụng
Cả đời làm những chuyện ruồi bâu
Buổi chiều cuối năm như giấc mộng
Đời chia biên giới mấy vai cầu
Chẳng mảy may gì mà tâm động
Tỉnh ra, thơ nát rượu lưng bầu
Cao Ngọc Cường
Đêm Giao Thừa
Miên Kim
Bà Liên ngẩng đầu lên nhìn kim đồng hồ chỉ hơn bảy giờ. Bầu trời
qua cánh cửa sổ còn lờ mờ. Buổi sáng thật yên lặng. Chồng bà đã
đi làm. Có tiếng mưa rơi nhẹ trên mái nhà. Mùa Tết năm nào cũng
mưa, tuyết, hoặc thật lạnh lẽo, không có nắng ấm như xuân xưa
trên quê hương. Thời tiết tháng hai vùng Hoa Thịnh Đốn là như
vậy!
Bà bước xuống giường, mở máy vi tính để nó tự động tải nhu liệu
xuống trong lúc bà làm vệ sinh buổi sáng. Bà bấm nút hai ba lần,
màn hình vẫn bất động. À, bà quên nó đã bị trục trặc từ tối hôm
qua. Bà hành động theo thói quen nên không suy nghĩ. Bà cũng
nhớ đã điện thoại cho thằng cháu gọi bằng dì, nhờ chiều nay đến
sửa máy...
Mỗi năm trước Tết, nhà cửa thường đuợc trang trí rộn ràng với
những câu đối bằng khung đỏ chữ vàng, hoa cúc, bánh mứt… còn
thiếu món nào thì mấy em gái hoặc em dâu đem đến sau. Năm nay
nhà yên như tờ. Bà không thiết tha làm gì hết. Bà cũng không cho
đám em út, vợ chồng, con cái tụi nó tới họp mặt đón giao thừa như
mọi năm. Bà đang giận!
Đầu đuôi cũng tại con Thủy, đứa con đầu lòng của bà, có thằng bồ
người Nam Mỹ. Bà không thích đàn ông Nam Mỹ. Bà cấm không
cho nó lai vãng đến nhà. Đời sống con Thuỷ cũng không lấy gì êm
ả. Nó li dị, có con nhỏ. Bà đem cháu ngoại về nuôi dưỡng lúc con
bé mới lên hai, thấm thoát đã mười hai năm. Cấm con Thủy đem
bạn trai tới nhà thì tụi nó xách gói đi mướn chỗ khác để sống
chung, bắt luôn cả cháu ngoại của bà theo.
Bà có thành kiến với đàn ông người Nam Mỹ. Lúc con Thủy mới
mười chín tuổi, nó đã từng chống lại sự ngăn cản của bà, bỏ học,
lấy chồng là dân vùng đó. Thằng chồng nó lăng nhăng, bồ bịch, có
con với người khác trong khi vẫn còn hôn thú với con Thủy. Hai
mẹ con dọn về nhà bà sau khi li dị. Chuyện đã rồi, thương con, bà
chấp nhận cho nó về, khuyến khích nó đi học lại. Bà nghỉ làm, ở
nhà giữ cháu nhỏ để con gái rảnh rang đi học.
Bà tưởng một lần lầm lỡ đã quá đủ, ai ngờ học hành xong xuôi,
con Thủy lại lao đầu vào cuộc tình với một người đàn ông Nam
Mỹ khác. Bà không muốn tỏ ra kỳ thị và cố gắng thông cảm với
con nhưng khó quá. Vấn đề ngoại tình của đàn ông Nam Mỹ
dường như do nếp sống văn hóa của họ; thích chinh phục phụ nữ
bất kể trong hoặc ngoài hôn nhân, giống như đàn ông Tây Ban
Nha. Nhằm thỏa mãn mặc cảm giống đực, họ xun xoe, lượn quanh
phụ nữ chẳng khác gì những con hồng hạc bị kích thích lúc chớm
xuân. Có lẽ sau bốn thế kỷ bị người Tây Ban Nha đô hộ, họ đã bị
mẫu quốc đồng hoá.
Đám em út ít khi nào làm trái ý bà. Vậy mà gần đây, mỗi khi họp
mặt gia đình cứ mời hai đứa nó tới chơi. Thậm chí còn tổ chức
đám hỏi cho con Thuỷ mà không thông qua bà một tiếng. Bà giận
lắm. Giận tụi nó dám chen vô nội bộ gia đình bà, lại còn giúp đỡ,
khuyến khích cho hai đứa kia gần nhau. Bà đã lên tiếng cảnh cáo
các em, nếu còn tiếp tục thì đừng bao giờ đặt chân lên thềm cửa
nhà bà. Đám em nghĩ bà quá khắt khe với con cái nên làm ngơ như
không nghe.
Từ khi đứa cháu ngoại đi theo má nó, nhà trống trơn. Mười mấy
năm hai bà cháu quấn quít nhau, tự nhiên không còn nữa, cảnh nhà
đối với bà thật là buồn. Càng buồn bà càng đâm ra giận hơn…
* * *
Máy vi tính của bà Liên bị nhiễm khuẩn, loay hoay đến mười giờ
đêm mới sửa xong, thằng cháu còn chần chờ chưa muốn về. Bà
hỏi:
- Cháu cần sửa thêm gì nữa hả?
Thằng Tính ngần ngừ:
- Thưa dì, không ạ. Cháu muốn hỏi dì chuyện họp mặt gia đình
đêm giao thừa đó mà.
- Ừ, thì không họp gì hết.
Bà trả lời ngắn gọn làm thằng cháu hơi bối rối.
- Cháu biết ai cũng buồn chuyện này hết. Chính cháu cũng buồn
nữa huống chi má cháu và mấy dì, mấy cậu.
Giọng bà đầy giận dỗi:
- Không họp ở nhà dì thì họp ở nhà má cháu, có sao đâu.
- Thưa dì, không giản dị vậy đâu.
Thằng Tính nuốt nước bọt xong nói tiếp:
- Họp ở nhà dì đã thành một truyền thống. Con đã trên ba mươi, từ
nhỏ tới giờ chỉ biết đêm giao thừa là tới nhà dì. Buổi họp mặt đêm
giao thừa đem lại sự ấm cúng cho đại gia đình mình. Nó như sợi
dây kết nối bốn thế hệ. Ông ngoại mới chết, còn lại ba đời.
Bà không bao giờ nghĩ thằng cháu sinh ra ở Mỹ lại có những suy
nghĩ như vậy. Nó tiếp tục:
- Má cháu kể ngày xưa ở Việt Nam, dì đi làm xa, nếu dì không về
là nhà không có không khí Tết. Bà ngoại mất sớm. Ông ngoại là
đàn ông không tạo được sự ấm cúng trong gia đình như kho nồi
thịt, nấu nồi chè chẳng hạn. Má cháu với các dì cậu còn quá nhỏ để
bảo lãnh phần Tết. Tuổi dì mới trên dưới hai mươi nhưng dì như
người mẹ thứ hai vậy.
- Làm sao có thể là người mẹ thứ hai khi dì đi làm xa, mỗi năm chỉ
về thăm có đôi ba lần?
- Dì về không thường nhưng dì lo liệu cho kinh tế gia đình. Dì
không có công sinh thành nhưng có công nuôi dưỡng. Lương hằng
tháng của ông ngoại chỉ đủ mua một tạ gạo, tất cả chi phí còn lại
như học phí cho các em, thức ăn mỗi ngày đều từ tay dì hết. Má
cháu kể thêm, tới mùa Tết, má và các dì cậu chờ dì về để đi mua
quần áo mới, mua bánh mứt, trái cây… Tết không có dì chỉ vỏn
vẹn có bánh tét ông ngoại gói…
Bà ngồi thừ ra, nhớ lại hoàn cảnh gia đình hồi nhỏ. Má bà bịnh rồi
chết lúc bà mới mười bốn tuổi. Bầy em sáu đứa, nhỏ nhất hai tuổi.
Má chăn nuôi, buôn bán góp vô kinh tế gia đình nên đời sống tạm
đủ. Má mất đi, lương ba không thấm vào đâu. Bà thôi học năm lớp
chín đi làm kiếm tiền phụ giúp gia đình. Nhờ bạn bè giới thiệu, bà
đi hát cho chương trình Xây Dựng Nông Thôn Đà Lạt vài năm.
Sau đó xin vô sở Mỹ làm thời khoá biểu máy bay, lương tháng gấp
năm lần lương công chức cùng thời.
Vừa làm vừa học ban đêm, bà đã thi đỗ tú tài cùng lúc với bạn bè
cùng lứa. Bà ghi tên tiếp tục học luật hàm thụ Sài Gòn. Mỗi khi bài
vở, công ăn việc làm cho phép, và máy bay trực thăng có chỗ
trống vào cuối tuần, bà nắm lấy cơ hội về thăm nhà vài ba tiếng
đồng hồ hoặc qua đêm. Bà nhớ sự vui mừng của bầy em lắm chứ.
Thường thường bà mua kẹo cao su, sô cô la, đồ hộp… ở PX của
lính Mỹ làm quà cho ba và đám em. Những khuôn mặt rạng rỡ khi
thấy chị mình về làm bà ấm lòng biết bao nhiêu.
Đầu tháng ba năm bảy lăm, thời thế hỗn loạn, từng đoàn người từ
thành phố Đà Lạt lũ lượt di tản. Họ bồng bế nhau ra đi bằng xe
hơi, xe đò, xe gắn máy, xe đạp, đi bộ… Đang làm việc ở Nha
Trang, tìm máy bay về nhà không được, bà một thân một mình
mướn nguyên chiếc xe đò về Đà Lạt, đón gia đình xuống Nha
Trang. Giữa tháng ba, thành phố Nha Trang bắt đầu lộn xộn, bà
nhờ máy bay quân sự Mỹ đưa cả nhà vô Sài Gòn. Khi tình hình ở
Sài Gòn không ổn bà lại đưa cả bầy em vô toà đại sứ Mỹ, rồi phi
trường Tân Sơn Nhất, rồi Guam, rồi trại Pendleton California, rồi
định cư ở tiểu bang Virginia. Lúc đó bà mới hai mươi ba tuổi.
Thằng cháu nói bà là người mẹ thứ hai cho các em cũng không sai.
Chín năm ở Việt Nam sau khi má mất, gần bốn mươi năm ở Mỹ,
những quyết định lớn như học hành, mua nhà, gả chồng, cưới vợ
cho đám em đều có ý kiến hoặc quyết định từ bà. Bây giờ tất cả tóc
đã lấm tấm sương mà bà vẫn còn giữ vai trò bảo bọc, lo lắng...
Giọng thằng Tính vẫn đều đều bên tai:
- Má cháu nói sự hy sinh của dì không sao đền đáp cho vừa. Thí
dụ, có cơ hội đi du học ở Mỹ, dì từ chối; có lời cầu hôn dì cũng
không nhận vì kinh tế gia đình tuỳ thuộc vào dì quá nhiều...
Quả vậy, lúc mới đậu tú tài xong, nhờ làm sở Mỹ, tiếng Anh khá
giỏi. Ông xếp thấy bà thông minh, lanh lợi, tỏ ý muốn đài thọ cho
bà qua Mỹ học chung với con gái ông ta ở Texas. Một cơ hội ngàn
vàng nhưng suy đi nghĩ lại về đám em chắc phải nghỉ học để kiếm
tiền lo thân, bà đành từ chối. Chuyện tình duyên gia đạo bà còn
nhớ rõ lắm chứ. Luật sư Thông ngỏ lời cầu hôn. Bà ngại trách
nhiệm làm vợ, làm mẹ, sẽ phải nghỉ việc, không có tiền giúp đỡ
gia đình. Bà lần lữa rồi cuộc tình tan vỡ vì biến cố ba mươi tháng
tư.
Má cháu nói nhiều người trong trường hợp như dì có phương tiện,
có giấy tờ hợp lệ để di tản thì dắt theo bạn trai. Còn dì, dì mang
đám em đi, trách nhiệm thật nặng nề.Chợt nhớ lại lý do tại sao
không họp giao thừa ở nhà bà.
Bà nói:
- Dì hiểu cháu chứ, nhưng dì không hài lòng với cách cư xử của
má cháu và các dì cậu về con Thủy.
Thằng cháu ngập ngừng:
- Cháu xin lỗi dì. Cháu thì lại đồng ý với má cháu chuyện chị
Thủy.
Bà Liên có vẻ bắt đầu khó chịu:
- Có gì mà đồng ý chứ. Con Thủy theo trai mà cháu cho là phải à?
Thằng cháu thận trong hơn trước khi trả lời:
Cháu sẽ cắt nghĩa ý cháu nhưng xin dì đừng giận.
- Cháu cứ nói!
- Cháu nghĩ chị Thủy trải qua quá nhiều thử thách trong đời sống,
cả thể xác cũng như tinh thần, sống chết không biết ngày nào. Chị
ấy có chút hạnh phúc thì nên để chị ấy hưởng.
Bà chợt nghĩ tới bịnh tình của con Thủy. Nó bị tiểu đường bẩm
sinh cách đây hai mươi bảy năm lúc mới lên tám, mỗi ngày phải
lấy máu và thử máu ba lần rồi chích insulin. Vài năm gần đây thận
suy, mắt kém phải làm phẫu thuật thay lá mía, xong phải uống
thuốc chống phản ứng của cơ thể. Nó ra vô nhà thương như cơm
bữa. Thay lá mía, theo thống kê, thì chỉ sống thêm chừng mười
năm trừ khi thay lại cái mới.
Bà vẫn không thích thằng bồ của nó:
- Con Thủy bịnh nhưng có ăn nhằm gì tới thằng Juan đâu.
- Thưa dì, anh Juan lo lắng cho chị Thủy chu đáo lắm.
Bà bực bội:
- Bộ dì không lo cho nó à?
Từ ngày con Thủy mắt kém không lái xe được, bà mướn cho nó
căn phòng gần trạm xe điện để tiện đi làm. Vợ chồng bà bán nhà
cũ và mua nhà gần đó để dễ bề đưa đón con đi bác sĩ. Căn nhà cũ
chứa đựng bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, chồng bà không muốn rời
nó nếu không vì bệnh tình của con. Sau khi bán nhà và dọn nhà thì
nó bắt đầu thân với thằng Juan.
- Dì lo được chứ, nhưng không giống như anh Juan. Tình cảm từ
cha mẹ khác với tình yêu trai gái. Chị Thủy năm nay hơn ba mươi.
Cháu nghĩ chị ấy cũng mong có một mái ấm riêng. Anh Juan đi
làm, mỗi ngày chịu khó đưa đón chị Thủy ở trạm xe điện hoặc đưa
chị ấy đi tới sở; đi bác sĩ hoặc đi bệnh viện anh Juan cũng chu đáo
như vậy. Lúc chị Thủy phải giải phẫu thay lá mía, đêm nào anh
Juan cũng trực cả đêm ở nhà thương. Dì còn nhớ không?
Dĩ nhiên là bà nhớ thời gian con Thủy nằm ở bệnh viện. Bà công
nhận là thằng Juan chăm chút cho con Thủy từng li từng tí trong
khoảng thời gian đó. Bây giờ khi tới thăm bà vào lúc trời chạng
vạng tối, con Thủy mắt kém không thấy rõ, thằng Juan dắt nó đến
tận cửa rồi lủi thủi trở lại xe ngồi chờ. Khi con Thủy muốn về, nó
dìu con gái bà xuống từng bậc cấp rồi dìu lên xe cẩn thận lắm.
- Cháu thấy sức khỏe của chị Thủy như vậy mà anh Juan vẫn đem
lòng yêu mến, đáng quí lắm. Từ ngày có anh Juan bên cạnh, chị ấy
tươi hẳn lên.
Tâm bà có vẻ dịu xuống khi nghe thằng cháu phân tích. Bà vẫn
còn hờn chuyện đám em tổ chức đám hỏi cho con Thủy mà không
thông qua bà. Bà thẳng thắn nói cho thằng Tính nghe. Nó cười
cười:
- Dì à, dì đã cấm không cho anh Juan tới nhà, lẽ nào dì lại cho tổ
chức. Má cháu và mấy dì cậu làm theo sự khẩn khoản của chị
Thủy. Tất cả đều nghĩ không lay chuyển được ý của dì nên mới
...làm đại rồi chịu tội sau. Cháu biết chị Thủy mong mỏi có sự
đồng ý của dì về chuyện đám hỏi cũng như đám cưới. Chị ấy còn
rất muốn dì là người chủ xướng.
Thằng Tính lấy hơi rồi nói tiếp:
Trong xã hội này, tự do lấy nhau không cần hỏi ý kiến cha mẹ là
chuyện vẫn xảy ra luôn. Riêng chị Thủy, dù sinh trưởng ở Mỹ
nhưng ảnh hưởng lối sống gia đình Á đông nên rất muốn có sự
chấp thuận của cha mẹ. Chị ấy mong dì coi Juan như là một thành
phần trong gia đình. Nếu dì không đồng ý và từ chối chấp nhận
Juan, chị Thủy vẫn tự ý lấy anh Juan. Con theo mẹ mà mẹ lại theo
chồng, từ từ hai mẹ con chị Thủy sẽ ít tới lui thăm dì.
Bà Liên suy nghĩ. Câu cuối cùng thằng Tính nói thấm thía lắm. Bà
chống lại hôn nhân của tụi nó thì chẳng những mất con, mà còn
mất luôn cả cháu. Bà đâu có muốn sống quãng đời còn lại không
có con cháu bên cạnh.
Bà nhìn đồng hồ, mới đó mà đã gần một giờ sáng. Thằng Tính
phải về ngủ để mai còn đi làm. Bà giục:
- Thôi khuya rồi. Cháu về ngủ đi...
Bà lên giường nhưng trằn trọc, suy nghĩ về cuộc đối thoại với
thằng cháu vừa rồi. Bà không thoát ra được bản năng che chở, bảo
bọc các em nhiều năm qua. Ý nguyện bảo bọc em út, con cái, cháu
chắt đã như thấm vào trong xương tủy. Bà nhìn xa vấn đề để tránh
nguy cơ có thể xảy tới. Bà không muốn con Thủy thêm một lần
nữa lở dở tình duyên. Bà có cẩn trọng quá đáng không?
Mấy đứa em muốn tập trung vào cháu Thy, cháu ngoại bà. Tụi nó
quan niệm chuyện gì không thể thay đổi được thì cố gắng tạo hoàn
cảnh cho vấn đề hanh thông hơn. Không ngăn được con Thủy lấy
thằng Juan thì xây dựng cho tụi nó được hạnh phúc để cháu Thy
cũng có một mái ấm gia đình bên mẹ nó. Vì sự chống đối của bà,
cháu Thy thấy má nó buồn, nó buồn theo thấy rõ. Mới tuổi mười
mấy mà nó hay ngồi yên lặng trong trạng thái suy tư, không năng
động như trước.
Bà thương cháu như con. Bà nghĩ nó ở với bà tốt hơn vì má nó
bịnh hoạn. Bà cũng giằng co với con Thủy về vấn đề này. Đám em
không đồng ý. Cháu Thy muốn gần má nó là theo định luật của
thiên nhiên thôi.
Bà trăn trở. Bà suy nghĩ. Bà so sánh. Đàn ông ở Việt Nam chỉ
được lấy một vợ trên phương diện pháp lý bắt đầu tư gần cuối thập
niên năm mươi, nhưng câu “trai năm thê bảy thiếp” đã ăn sâu
trong văn hóa nước ta từ đời nào. Có lắm người đàn ông đang ở
Mỹ nhưng sinh trưởng ở Việt Nam vẫn còn nếp suy nghĩ đó. Tuy
nhiên với những cậu nhỏ sinh ra ở Việt Nam, lớn lên ở đây thì
quan niệm thê thiếp đã mất hẳn. Bà hy vọng thằng Juan hội nhập
vào xã hội này lâu năm đã được ảnh hưởng văn hóa Mỹ, không có
thói chấp chới như đàn ông Nam Mỹ thuần túy. Bà thấy cách nó ân
cần chăm sóc, thương yêu con Thủy như con trai Mỹ, bà đã có
phần ngấm ngầm hài lòng. Ở tuổi về hưu, có lẽ bà nên đặt tin
tưởng vào sự trưởng thành và quyết định của con Thủy để nó tự
vươn cánh bay xa. Bà không sống mãi để lo cho nó luôn được.
Cháu ngoại, bà thương nó. Bà cũng phải theo tâm lý tự nhiên để
hai mẹ con nó sống chung. Có lẽ bà nên tập trung và vui với vai trò
làm bà ngoại...
Bà từ từ chìm vào giấc ngủ…
Bà Liên đếm lại bao lì xì đỏ. Khi đồng hồ gõ tiếng thứ mười hai,
sau vài phút đọc kinh cầu nguyện trước bàn thờ gia tiên, tạ ơn
Thiên Chúa, con cháu sẽ xúng xính trong những chiếc áo dài lụng
thụng mới mua, xếp hàng nhỏ trước lớn sau chờ lì xì, chúc Tết.
Bà nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường, kim ngắn chỉ số mười
một, kim dài chỉ số mười hai. Không thấy bóng con Thủy và đứa
cháu ngoại, bà vội vả hối chồng:
- Anh đi đón con Thủy...
Thấy ông chồng vội vàng quày quả bước ra cửa, bà dặn với theo:
- Nhớ biểu thằng Juan ...qua luôn!
Như thằng Tính nói, buổi họp mặt Giao Thừa ở nhà bà như là một
truyền thống gia đình. Bà phải tập cho con cháu nốt tiếp truyền
thống đó, nhứt là thằng Juan, nó phải nhập gia tùy tục chứ!
Miên Kim
Xuân lưu vong
Đã là xuân đến trên tường
lịch bay năm hết dọn đường tân niên
chỉ còn lại nỗi ưu phiền
gầy trơ xương cốt trên nền lịch treo
kéo theo thời khắc ngặt nghèo
chiều ba mươi vẫn bọt bèo phận hoa
ngoài kia lạnh ngắt sương hòa
vào không khí đặc nhạt nhòa nắng xuân
đâu còn vàng lụa tơ tằm
bay bay trong gió như thầm reo vui
đã là xuân đến hay lùi
mà sao bóng ngả chiều vùi bụi tro.
xuân xứ người thêm âu lo
gánh đời không nổi buồn xo bóng hình
hoa chẳng nở cho riêng mình
mà sao cứ muốn tâm bình thế gian
qua xuân hoa nào chẳng tàn
hết ngày nắng quái còn gan ghẹo đời
hình ta muốn nói thiếu lời
tự dưng chữ nghĩa rong chơi mất rồi
bóng ta muốn nói lại thôi
quanh đi quẩn lại cũng trôi nổi đời
mùa xuân theo tờ lịch rơi
vào trong nỗi nhớ một thời quê ta
mùa xuân ơi hãy thật thà
hoa đại đóa nở ra tình người
xuân hình như đang cười
trêu người thất thế giữa đời lưu vong.
Túy hà
Hoàng Ngọ
Việt Phương
Hoàng Ngọ và Ngự Hiên cùng gặp anh ở Gia Hội. Buổi trưa. Nắng
hanh vàng. Nhìn dáng anh loay hoay với chiếc máy ảnh. Hiên bấm
tay Ngọ cười:
"Ngó hắn là biết Việt kiều rồi."
"Răng?"
"Bộ dạng."
Ngọ cười cười:
"Hắn cũng beau trai, lịch sự lắm. Đúng là Việt kiều."
Hiên nguýt Ngọ, mắt sắc như dao bổ cau:
"Việt kiều cũng có đứa trông dị òm, mi nợ. Vàng vòng đeo chói
con mắt."
Ngọ im lặng. Cô ngắm anh chàng "Việt kiều" đang say sưa thu
những góc hình ở bến đò Gia Hội. Nhìn máy ảnh với ống kính dài
thòng của anh, Ngọ đoán, anh không phải là tay chụp hình tài tử.
Đến đường Chi Lăng. Tới phố cổ Gia Hội. Hoàng Ngọ lại thấy
anh đang chăm chú chụp những mái nhà rêu phong, cổ kính.
Những ngôi chùa Chiêu Ứng, chùa Bà, chùa Quảng Đông... mòn
mỏi theo màu thời gian. Những cột ôn, cột mệ, cột mạ, cột con
đứng khắn khít bên nhau trong khu phố của người Hoa từ thế kỷ
thứ 19. Hiên khều khều vai Ngọ, khúc khích cười:
"Lại gặp nữa. Càng dòm, tau càng thấy anh chàng hay hay mi ơi."
Hoàng Ngọ giấu mặt trong vành nón:
"Dị òm. Con gái con đứa chi mà ngó trai không chớp mắt."
Ngự Hiên cười giòn tan:
"Mi cũng rứa. Mắt mi nhìn muốn lủng chiếc nón bài thơ."
Ngọ nghiêm mặt:
"Không giỡn nữa. Thôi về. Đứng bóng rồi."
Hiên phụ họa:
"Ừ! Về. Không mạ mi trách tau dẫn mi đi rượn."
"Nói chi gớm ghiếc rứa không biết."
Ngự Hiên leo lên ngồi yên sau. Hoàng Ngọ cho xe nổ máy, cô thả
Ngự Hiên trước căn nhà ở đường Ngự Viên. Xong, vội vã về nhà.
1. Mạ Hoàng Ngọ sống trong gian nhà cổ ở Kim Long với hàng rào bông
cẩn che kín không gian. Mạ canh giữ Ngọ như canh kem. Sợ ai đó
phà hơi, tan chảy. Hoàng Ngọ rón rén vào nhà. Căn nhà cũ kỹ như
suy nghĩ của mạ. Chính giữa nhà là bàn thờ tổ tiên ôn mệ. Hai bên
là hai cột gỗ lâu năm được treo liễn từ đời này qua đời khác. Mạ
sống khắc khoải trong căn nhà cổ này từ thời lấy ba. Lúc ấy còn
ôn, mệ nội. Ôn mệ cũng lần lược qui tiên. Ba vào Nam lập nghiệp.
Nói khi nào công thành danh toại thì mang mạ vào. Nhưng bóng
chim tăm cá. Ba đi. Đi mất. Mạ vẫn ở vậy. Trong gian nhà mà ba
là con độc tôn, độc tự. Sau này Hoàng Ngọ mới biết. Ba đã có
người bên ngoài. Người ba thương không phải là mạ. Mạ chỉ là
một cuộc hôn nhân gượng ép "môn đăng, hộ đối". Mạ âm thầm
làm dâu. Âm thầm đau khổ. Mọi cúng kiếng lễ lạc bên chồng, một
mình mạ gánh vác. Mạ chỉ có mình Hoàng Ngọ ra vào hủ hỉ. Nói
cho đúng. Ba ra đi, ông không mang gì cả, ngoài trái tim không có
hình bóng mạ. Ba để lại tất cả tài sản, đất đai nhà cửa cho mạ. Mạ
cai quản và sống trong nỗi đau không chồng. Sống trong nỗi lo
của những dị nghị, "trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường" của xứ
Huế.
Vời Ngọ. Mạ chưa bao giờ nói một lời trách móc tới ba. Mạ coi
như ba đã chết. Và mạ tôn thờ ba, tôn thờ một mối tình đầu trăm
cay nghìn đắng. Mạ yêu ba như bao nhiêu cô gái cùng lớp cũng đã
từng thích ba ôm đàn hát trong sân trường Văn Khoa ở Huế dạo
nào. Mái tóc bồnh bềnh, đôi mắt mênh mông giấu sau giọng kính
cận. Tiếng hát ba như tiếng rì rào của nước sông Hương vỗ nhẹ
mạn thuyền. Ba làm chao đảo gái thuyền quyên. Nghe người mai
mối dạm hỏi mạ cho ba. Mạ gật đầu không chút ốt dột lẫn ngần
ngại. Bởi vì mạ quá yêu ba, mạ không thèm biết ba có yêu mạ hay
không. Chiếm hữu ba trước rồi chuyện yêu đương sẽ tới sau. Như
tình duyên của ôn mệ ngoại do ba mạ đặt đâu con ngồi đó mà cũng
bền vững đá vàng. Nhưng mạ đã lầm. Ba chưa hề yêu mạ, dầu mạ
đẹp, nết na. Cuộc hôn nhân tự nó đã rạn nứt ngay từ đầu.
Mạ tân học, nhưng khi bước chân về làm dâu, sống trong căn nhà
cũ kỹ, bên người mẹ chồng còn mang nặng đầu óc phong kiến,
khiến mạ thu mình lại, sống trong vỏ ốc và sự nhào nặn của mệ
nội. Mạ bị mệ tẩy não, tẩy sạch sành sanh những điểu mạ học
được trong trường Văn Khoa. Ngày mạ cấn thai Hoàng Ngọ, chưa
kịp báo tin cho ba, là ngày ba ra đi không bao giờ trở lại.
Nghe tiếng bước chân Hoàng Ngọ. Mạ đang nằm nghỉ trưa trên
trường kỷ, nói vọng ra:
"Tốt nghiệp đại học rồi răng khôn kiếm một việc làm đàng hoàng
đi con? Bộ mi định lông bông suốt ngày với con Ngự Hiên hỉ?"
2. Ngự Hiên "Mi ở đường Ngự Viên, răng tên mi không là Ngự Viên, mà lại là
Ngự Hiên?"
Có lần Hoàng Ngọ đã hỏi Hiên. Hiên cười:
"Tên do ôn mệ đặt, tau mần răng biết?"
"Ngẫm kỹ thì tau thấy tên Hiên đẹp hơn mi nờ."
"Răng?"
"Mái tây Hiên che nắng, che mưa...."
Nói xong Ngọ cười thành tiếng. Biết Ngọ có ý định chọc quê.
Hiên tức:
"Tau biết mi chê hàm răng tau bị hô. Còn mi? Ngọ Môn, hay Ngựa
ở cửa... Thượng Tứ? Tau thích Ngựa Thượng Tứ hơn mi nờ."
Ngọ rượt Hiên chạy trên cầu Tràng Tiền. Hai chiếc áo dài trắng
bay như hai cánh bướm. Chiều chạng vạng. Ánh chiều loang
loáng trên sông. Khi cả hai dừng lại thở dốc. Hoàng Ngọ giả đò
nghiêm mặt:
"Ngựa Thượng Tứ là ngựa chiến, chỉ dành cho vua cưỡi thôi."
"Ừ! Thì ở đó mà chờ trẫm của ái khanh đi hỉ. Tau về. Sắp tối rồi,
về nhà nằm mơ là vừa kịp đó. Con... ngựa của trẫm."
Ngự Hiên là bạn học thời tiểu học với Ngọ. Cả hai thân nhau như
chị em ruột. Đi mô cũng như bóng với hình. Răng Hiên hơi hô,
nhưng đều như hạt bắp bên cồn, khi cười rất có duyên. Có điều
Hiên... mít ướt và... giận dai.
3. Phú Khi bóng Hiên đã khuất sau mấy hàng nón lá nhấp nhô theo những
bước chân vội vã về nhà. Ngọ thơ thẩn rãi bước qua cầu. Tà áo
trắng bay bay trong chiều hấp hối. Tiếng đàn ông bên tai làm Ngọ
giật mình:
"Thưa cô. Tôi có thể nói chuyện với cô được không?"
Bối rối, Ngọ quay lại. À! Thì ra anh "Việt kiều" với chiếc máy
ảnh. Tim Ngọ không dưng đập lạc một nhịp:
"Thưa ông cần chi?"
Giọng người thanh niên chút Bắc, chút Nam, chút lờ lợ âm thanh
của một người nói tiếng Việt không chuẩn. Nghe là lạ:
"Tôi tên Phú. Còn cô? Xin được mạo muội mong cô làm người
mẫu."
Ngọ nghĩ thầm trong đầu. Người chi mô lạ đời. Mới gặp đã hỏi tên
người ta rồi. Ngọ hỏi một chút tinh nghịch:
"Ông chỉ là thợ chụp hình tài tử thôi phải không?"
Phú nói khi bước song đôi với Hoàng Ngọ. Anh cũng thuộc loại
cao. Cao hơn Ngọ nửa cái đầu:
"Vâng! Cứ cho là như thế. Nói ra cô đừng cười. Tôi đang có tham
vọng làm một cuốn sách giống như du ký bằng song ngữ Việt
Anh, kèm theo những hình ảnh về xứ Huế."
"Tại sao anh chọn tôi để làm người mẫu?"
"Xin lỗi, tôi không quá đường đột khi mời cô một ly nước. Chúng
ta nói chuyện một chút."
Ngọ nghĩ trong đầu. A! Anh chàng này nói tiếng Việt chất giọng
không chuẩn, nhưng lời lẽ rất lịch sự. Ngọ cười, nói với giọng tự
tin:
"Không răng mô. Anh không phải là người đầu tiên mời tôi làm
người mẫu. Nhưng tôi thắc mắc mới gặp nhau lần đầu..."
Phú nhanh nhẹn lái câu chuyện, coi như Ngọ đã nhận lời đi uống
nước với mình:
"Ở Huế cô có biết quán cà phê L'Ami ở đường Hùng Vương
không?
"Anh rành quá hỉ?"
"Ồ không. Bác Google chỉ tôi mà thôi."
"Bác Google."
Hoàng Ngọ lập lại và bật cười. Anh chàng này cũng thật thà và có
máu tiếu lâm. Khi cả hai có được chỗ ngồi ở quán cà phê L'Ami.
Phú rút trong túi xách anh mang bên hông một bao thư cỡ tập vở
học trò. Anh đưa cho Hoàng Ngọ:
"Mong cô thứ lỗi. Tôi nghĩ là tôi sẽ có dịp gặp cô để trao cho cô
cái này."
Ngọ giơ hai tay đỡ lấy, giọng không khỏi ngạc nhiên:
"Chi rứa anh?"
Hoàng Ngọ định mở ra xem. Phú cản:
"Trước khi xem nó, cô có thể cho tôi biết quí danh được không?"
"Dạ. Hoàng Ngọ."
"Cám ơn cô Hoàng Ngọ. Cô không giống như những cô gái Huế
khác. Cô tự tin, mạnh dạn và cởi mở hơn nhiều. Xin lỗi, nói như
thế không phải là tôi chê gái Huế đâu nhé."
"Dạ không phải là anh chê. Mà anh chưa hiểu nhiều về gái Huế đó
thôi."
Hoàng Ngọ trách giọng nhẹ nhàng. Phú im lặng, khi người phục
vụ mang nước tới. Xong ngụm nước đầu tiên. Hoàng Ngọ đặt ly
xuống bàn, đổi cách xưng hô:
"Ngọ có thể coi cái chi ở trong bao thư này rồi phải không?" Ngọ
đùa, để tránh sự căng thẳng "Hy vọng không phải là thư tình."
"Phú ngả người ra phía sau, cười thành tiếng:
"Nói chuyện với cô thật lý thú. Xin cô Hoàng Ngọ cứ tự nhiên."
Hoàng Ngọ cẩn thận mở bao thư. Cô không khỏi xúc động khi
thấy hình mình dưới ống kính của Phú. Nửa khuôn mặt nấp sau
vành nón thấp thoáng, ẩn hiện giữa những cột mệ, cột con ở khu
phố cổ Gia Hội. Khuôn mặt sầu mộng của gái cố đô, mang vướng
vất chút hiền triết cuộc đời. Bố cục chặt chẽ, màu sắc hài hòa pha
chút hoài niệm, khiến bức ảnh mang theo nhiều điều muốn nói từ
đôi mắt nhìn của một người Việt Nam lớn lên ở một xã hội văn
minh Hoa Kỳ. Ngọ choáng ngợp trước tấm ảnh, chụp chính Ngọ,
mà chưa một lần cô mường tượng ra được. Không khí trong bức
ảnh gợn lên nét bi thương của Hoàng triều. Vệt nắng nhạt vắt
ngang qua vành nón Hoàng Ngọ như níu lại một thời quá vãng
vàng son. Cô "nghe thấy" tiếng vó ngựa gõ trên đường đá. Tiếng
ngựa bị ghìm cương. Một vùng bụi mịt mờ tung lên. Tiếng gót
chân đế vương nhảy xuống từ lưng ngựa và đang lần bước vào đời
cô từ quá khứ mịt mù nào.
Phú đánh thức cô về hiện tại:
"Sao? Cô bằng lòng cộng tác với tôi chứ? Dĩ nhiên khi cô làm
người mẫu. Tôi sẽ gửi cô tiền công đúng như giá trị của nó."
Anh chàng nói chuyện thẳng thừng. Đúng là Đông Tây không hợp
ở điểm này. Hoàng Ngọ hơi bực mình, cô mím chặt môi, nói giữa
hai kẽ răng:
"Để Hoàng Ngọ về xin phép mạ đã, rồi trả lời anh sau hỉ?"
4. Hoàng Ngọ Được mệnh danh là "Ngọ chân dài" hay "Ngọ Kim Long". "Kim
Long con gái mỹ miều / Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi."
Câu thơ của vua Thành Thái thuở nào quả thật vẫn còn có thể áp
dụng đến ngày nay. Nhìn Hoàng Ngọ, mới biết gái Kim Long mỹ
miều đến dường nào. Vương phi Mai Thị Vàng của vua Duy Tân
ngày xưa ở Kim Long chắc cũng chỉ đẹp cỡ Hoàng Ngọ bây giờ.
Có anh còn bảo. "Con nớ chân dài như ngựa." Ngọ nghe, nhưng
tảng lơ. Không biết họ khen hay chê. Tuy nhiên mấy buổi "biểu
diễn" thời trang áo dài được tổ chức ở Huế. Họ hay mời Ngọ. Có
người còn bảo Ngọ nên vào Sài Gòn làm người mẫu. Ngọ sẽ nổi
tiếng nhanh chóng. Nhưng Ngọ từ chối. Ngọ vào Sài Gòn bỏ mạ
cho ai?
Để được mạ đồng ý, Hoàng Ngọ phải rủ Ngự Hiên đi cùng. Những
ngày trên đồi Vọng Cảnh, lăng Tự Đức, lăng Minh Mạng,.. đã để
lại trong Ngọ những hình ảnh thật đậm nét về Phú. Bỗng nhiên,
Ngọ khám phá ra một điều, Ngự Hiên trở thành một chướng vật
giữa cô và Phú. Ngự Hiên quấn quít bên Phú, như hình với bóng.
Bởi Hoàng Ngọ là người mẫu, Hoàng Ngọ lúc nào cũng cách xa
Phú một khoảng cách đủ để nằm trong ống kính của Phú. Trong
khi Ngự Hiên là người được xem hình Ngọ trước, trong máy ảnh
của Phú khi vừa mới chụp xong, cả hai bàn tán, trầm trồ rồi lại
cười nói với nhau. Hoàng Ngọ tức lắm. Một hôm, Phú đề nghị để
Hoàng Ngọ nghỉ mệt, cho Ngự Hiên ra chụp vài pô hình. Ngọ nói
lẫy:
“Đúng rồi. Anh nhớ chụp cho Ngự Hiên vài bô sền sệt nghe anh."
Ngự Hiên giận quá, bật khóc:
"Noái chi mà vô hậu tam đợi rứa khôn biết."
Rứa là Ngự Hiên giận Hoàng Ngọ. Phú cũng đã trở về Hoa Kỳ.
Phú mới gặp đã như thấy quen nhau tự lúc nào. Hoàng Ngọ nhớ
quá dáng gầy gầy của Phú loay hoay với cái máy chụp hình, trong
khi miệng cứ không ngớt bảo Ngọ làm động tác này, động tác kia.
Hoàng Ngọ khi không mất cả Phú lẫn Ngự Hiên, cô thấy hụt hẫng
vô cùng.
Trời chuyển mưa dai dẳng, mưa như muốn thúi đất, thúi đai. Mưa
cầm chân Hoàng Ngọ trong nhà, với những tấm ảnh Phú chụp làm
choáng ngợp nỗi nhớ. Hoàng Ngọ lại nhớ đến những giọt mưa làm
áo dài Ngọ dính sát vào da thịt, mà một hôm tình cờ Phú chụp lén
được trong cơn mưa rào ở lăng Tự Đức. Hoàng Ngọ coi hình
xong, đỏ mặt:
"Anh chụp mà không báo trước? Tấm ảnh nom dị quá đi thôi."
"Đẹp lắm. Tự nhiên lắm. Nhưng nếu Ngọ không thích. Tôi sẽ xóa
bỏ."
Hoàng Ngọ im lặng. Một chút da thịt của cánh tay và chiếc vai
tròn nổi sau làn vải ướt, cùng những giọt mưa lăn tăn trên làn má
thắm, phía sau là thủy tạ mờ trong màn mưa. Tấm hình thật mỹ
thuật, xóa bỏ cũng tiếc. Mần răng mà kiếm được khoảng khắc như
rứa trong đời? Hoàng Ngọ tự nhủ, rồi nói:
"Thôi anh, cứ giữ để làm kỷ niệm, đừng in trong sách là được rồi."
Phú cười:
"Đúng là gái Huế."
5. Ba Nghe tin Phú đã trở về California. Ba Phú đến chơi. Chưa ngồi
xuống ghế, ông đã càu nhàu:
"Đang làm việc ngon lành lại bỏ, đi làm những chuyện tào lao."
Phú cười:
"Con bị mất việc, chứ không phải là bỏ việc ba à. Kinh tế thị
trường khó khăn. Cứ coi như con đang nghỉ xả hơi mà ba."
Nói xong, Phú trình bày ý định của mình cho ba nghe. Ông lấy
làm thích thú khi nghe Phú nói sẽ ra một tập du ký kèm theo tranh
ảnh về xứ Huế. Phú muốn được ba cho thêm ý kiến và những hiểu
biết của ba về Huế. Dầu sao, ba Phú cũng gốc Huế.
Nhìn "công trình" ba tháng ở Huế của Phú. Ông không khỏi ngạc
nhiên. Con ông đã trưởng thành. Tư tưởng của nó được gói ghép
trong những tấm hình nói về một cố đô, với nhiều tang thương,
hoài niệm.
Ông càng giật bắn người khi nhìn thấy cô gái người mẫu thấp
thoáng trong những tấm hình. Cô gái có nét đẹp sầu muộn nhưng
kiêu sa. Cô gái kéo ông về thời gian còn cắp sách đến trường. Nét
đẹp đó. Trời ơi! Giống một người như đúc. Một người ông đã
mang nợ suốt đời. Ông hỏi Phú về người con gái trong tấm hình.
Phú nói huyên thuyên. Cô gái mới gặp mà Phú đã thấy thương
mến. Ông cầm tấm hình Hoàng Ngọ bị ướt mưa trong lăng Tự
Đức. Nói sau khi thả tấm hình xuống bàn một cách bồn chồn:
"Con nói cô gái này ở Kim Long? Tụi con chưa có gì với nhau
phải không?"
Phú tròn xoe mắt nhìn ba. Chưa kịp trả lời ba đã hỏi tiếp:
"Tụi con đã yêu nhau chưa?"
"Con gái Huế mà ba. Cầm tay còn chưa được nữa là."
"Giống mẹ cô ấy như từ một khuôn đúc ra. Ba nghi cô gái này là
em ruột của con đó"
Phú kinh ngạc, miệng lắp bắp:
"Sao Ba lại nói thế?"
Ba Phú thở dài:
"Thật ra, ba và mẹ con gặp rồi yêu thương nhau trong một buổi
trình diễn văn nghệ giữa sinh viên Văn Khoa Huế và Sài Gòn. Sau
đó mẹ con đã có con với ba, nhưng ông bà nội không chấp nhận
mẹ con, cưới cho ba một người con gái khác. Khi nghe tin ba sắp
làm đám cưới, mẹ con mang con ra Huế để tìm ba. Ông bà nội cho
người đuổi mẹ con về lại Sài Gòn. Ba giận ông bà nội con nên bỏ
nhà vào Sài Gòn sống với gia đình bên mẹ con. Rồi ba vượt biên,
đưa mẹ con con qua Mỹ, lúc đó con chỉ mới 2 tuổi mà thôi. Và ba
không trở lại Huế từ dạo đó."
"Ngày xưa dì đẹp như thế mà ba vẫn bỏ dì à?"
Phú chép miệng:
“Tình yêu phát xuất từ con tim, không phải là con mắt. Con à."
"Mẹ con qua đời đã lâu năm, sao ba không tìm cách về thăm lại dì
ấy? Ba có biết dì đã có với ba một đứa con?"
"Sau này ba mới biết, nhưng đã quá muộn màng. Con ơi. Đừng
làm điều gì kiến con phải ân hận suốt đời. Cả cuộc đời ba phải
sống trong nỗi ân hận này. Bây giờ, ba không còn mặt mũi nào để
quay về Huế?"
Phú nhìn ba, nói như van xin:
"Ba chuẩn bị giấy tờ. Mình về Huế sớm chừng nào hay chừng đó.
Tránh gây thương tổn đến họ lần nữa. Con nghĩ cả ba lẫn con cần
phải nói tiếng xin lỗi với dì ấy và em Hoàng Ngọ."
Ba Phú cúi đầu, nói nhỏ:
"Phải! Ba cần phải nói điều đó từ lâu lắm rồi. Ba còn phải về đứng
trước vong linh của ông bà nội con mà xin ôn mẹ tha lỗi cho ba."
Ba Phú khóc. Ngay cả lúc mẹ mất, Phú vẫn không thấy ba chảy
nước mắt, ông nén giữ xúc động rất giỏi. Nhưng đây là lần đầu
tiên Phú thấy ba không kềm giữ được lòng mình. Ông khóc.
Những giọt nước mắt rơi trên khuôn mặt hạn hán lâu năm.
Việt Phương
Xuân quang phục
Ngựa đã về hưu, Dê đến rồi,
Chung trà, chén ruợu ấm bờ môi.
Xuân về đất khách, tình vương vấn,
Tết đến quê hương dạ rối bời.
Bản Giốc, Tây Nguyên, Tàu lấn chiếm,
Trường Sa, hải đảo Cộng buông lơi.
“Bình Ngô Đại Cáo” còn vang vọng,
Phục quốc, toàn dân nguyện đáp lời.
Phục quốc, toàn dân nguyện đáp lời.
Hô hào quật khởi, hỡi người ơi!
Trống đồng Trưng Triệu vang rền đất,
Vó ngựa Quang Trung run chuyển trời.
Quyết chí vùng lên khôi phục quốc,
Bền gan chiến đấu dựng xây đời.
Diệt Tàu, trừ Cộng không chùn buớc,
Rợp bóng cờ vàng Xuân khắp nơi.
Hoàng Xuyên Anh
Ngày đầu năm 2015
Ngày hôm nay, ngày-đầu-năm có khác:
Mặt trời lên từ lúc tám giờ
Không có mây, ngày chắc không mưa
Chim ríu rít hót chào Năm-Mới…
Ba trăm sáu mươi lăm ngày mong đợi
Chắc hôm nay ai cũng vui lòng?
Gió nhẹ nhàng đủ gợn nước con sông
Nắng dịu dàng làm màu hoa thêm thắm thiết!
Chiếc máy bay AsiaAir rớt-chìm-không-mất-biệt
Một trăm sáu mươi hai người rồi sẽ có mả mồ
Người làm vườn nâng nhẹ một chùm nho
Màu uất hận hẳn trôi về quá khứ?
Và năm qua đã thành năm lịch sử
Cả năm kia, năm kỉa, năm kìa…
Đã im lìm như sóng vỗ hồi khuya
Bầy chim hót sáng nay dẫu những lời rất cũ…
Người Việt Nam mình ba bốn triệu người xa xứ
Sáng hôm nay chắc đều ngó mặt trời?
Có người nào nét mặt không tươi?
Có người nào không mở lời thân ái?
Ở Trung Đông, ở Bắc Phi xa ngái
Tôi tin rằng tiếng súng cũng đang ngưng
Ngày đầu năm là ngày sáng trưng
Rồi mai mốt, thế nào kệ nó!
Hàng xóm tôi cửa nhà đã mở
Tôi thấy ai đang chải tóc trước gương
Ai có thấy tôi không nhỉ, trong vườn
Nâng nhẹ tay nụ hướng dương vừa nở…
Nếu bây giờ mà đường đi ngang ngõ
Có ai vừa yễu điệu dáng Xuân xưa
Dẫu cuối phố kia hoa cỏ sẽ nhòa
Thì…ai đã hiện ra như mặt trời đã hiện!
Tôi thú thật lòng tôi đang xao xuyến
Ngày đầu năm chưa trải hết bài thơ…
Những lời hôm nay tôi không nói vu vơ
Nhưng tôi sợ một mai tôi bâng quơ thương nhớ…
Trần Vấn Lệ
Tản mạn đầu năm
Phạm Khắc Trung
Đề tài "Để hấp dẫn chim mái? Hót hay!", được đăng trên mục Đời
Sống của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ − VOA, ngày 31.12.2013 (Trích):
"Muốn hấp dẫn một con chim mái ? Hót! Nhưng phải biết chắc
rằng tiếng hót thích hợp!
Đó là một trong những khám phá của một cuộc khảo cứu mới về
các con chim hoàng yến, có tiếng hót hay và thay đổi luôn theo
mùa. Kích thích tố nam (testosterone) đóng một vai trò trong sự
thay đổi trạng thái này, và các nhà khảo cứu tại Trường Đại Học
Johns Hopskins muốn biết sự gia tăng mức kích thích tố trong não
bộ của chim sẽ ảnh hưởng tới tiếng hót như thế nào.
Các nhà khảo cứu sử dụng ba nhóm chim. Một nhóm nhận được
testoterone chích vào POM - khu vực của não bộ kiểm soát động
lực tính dục nơi nhiều thú vật cũng như con người. Nhóm thứ hai
nhận được testoterone trên khắp não bộ. Nhóm thứ ba không được
chích gì hết.
Nhóm thứ nhất hót … nhưng không hay lắm. Các chim yến trong
nhóm thứ nhì có giọng hót rất hay.
Nhà nghiên cứu Beau Alward, tác giả chính của cuộc khảo cứu
này giải thích, “điều đó gợi ý rằng testoterone cần hoạt động tại
nhiều khu vực khác nhau của não bộ để điều chỉnh những thành tố
cụ thể của hiện tượng phức tạp này.” Những thành tố đó bao gồm
phẩm chất của giọng hót cũng như tiến trình hấp dẫn một chim
mái.
Bởi vì những kích thích tố nơi chim yến đồng nhất với những kích
thích tố nơi con người, kết quả của cuộc khảo cứu này có thể giúp
giải thích testoterone hoạt động như thế nào trong não bộ để điều
chỉnh lời nói và việc sử dụng kích thích tố ảnh hưởng tới hành vi
tính dục ra sao.
Cuộc khảo cứu này được công bố trong tạp chí chuyên ngành
Proceedings of the National Academy of Science". (Ngưng trích)
"Để hấp dẫn chim mái? Hót hay!" Tôi không đồng ý với kết luận
của cuộc khảo cứu này, khi các nhà khoa học đem những kích
thích tố nơi chim yến mà đồng nhất với những kích thích tố nơi
con người.
Để chứng minh cho lập luận này, trước hết, tôi xin nhắc đến câu
truyện cổ tích là "Trương Chi Mỵ Nương". Truyện kể rằng, có ông
quan thừa tướng sinh được người con gái nhan sắc tuyệt trần, đặt
tên là Mỵ Nương. Nàng sống trong ngôi lầu cao cạnh bờ sông.
Bấy giờ có một chàng trai con nhà thuyền chài tên là Trương Chi,
ngày ngày đến thả lưới kiếm ăn trên khúc sông đó. Chàng vừa
buông lưới, vừa cất tiếng hát du dương, khiến cho Mỵ Nương ở
trong lầu cao nghe được, đem lòng xao xuyến say mê tiếng hát.
Một dạo, Trương Chi đi đánh cá ở khúc sông khác. Vắng tiếng hát,
Mỵ Nương sinh ra sầu não, nàng bồn chồn trông đợi nhưng tiếng
hát vẫn biệt tăm. Nhớ nhung, nàng ngả bệnh.
Thừa tướng cho mời các lương y đến xem mạch, bốc thuốc, chữa
bệnh mà bệnh tình của Mỵ Nương vẫn không thuyên giảm. Sau có
người hầu bẩm báo sự việc, thừa tướng mới biết con mình mắc
bệnh tương tư, nên cho người đi đòi Trương Chi đến.
Trương Chi vào thăm Mỵ Nương, chàng đội chiếc nón lá che
khuất mặt. Mỵ Nương năn nỉ không được nên ra lệnh, Trương Chi
mới ngả nón ra. Vừa nhìn thấy mặt Trương Chi, Mỵ Nương vỡ
mộng vì Trương Chi xấu xí quá. Nàng bèn thả cho chàng về, và từ
đó không còn thiết tha gì đến tiếng hát của chàng ta nữa.
"Mỵ Nương vỡ mộng vì Trương Chi xấu xí quá", câu này có thể
ám chỉ đến dung mạo, có thể chỉ về tiền tài, có thể nói đến danh
vọng, sự nghiệp..., nghĩa là tất cả cái bề ngoài tạo thành Trương
Chi.
Hồi nhỏ lúc mới vào Trung Học, tôi từng nghe mấy chị lớn kháo
nhau rằng: "Thà làm bé ông lớn còn hơn làm lớn ông bé!"
Gần đây một số ca sĩ trong nước thẳng thắn tuyên bố: "Không ngu
đi yêu trai nghèo!"
Và điển hình là lá thư của một cô gái đăng trên mạng (Trích):
"Những gì tôi viết sau đây đều thật lòng cả.
Tôi 25 tuổi. Tôi rất đẹp, tôi có phong cách và khiếu thẩm mỹ cao,
tôi muốn cưới một anh chàng có thu nhập từ nửa triệu đô mỗi năm
trở lên. Bạn có thể nói tôi là người tham lam nhưng với thu nhập
mỗi năm 1 triệu đô thì chỉ được coi là tầng lớp trung bình ở New
York.
Yêu cầu của tôi không cao. Có ai trong forum này có thu nhập
hàng năm là 500 nghìn đô không? Trong số các bạn có ai lập gia
đình chưa? Tôi muốn hỏi: "Tôi phải làm gì để lấy một ông chồng
giàu như các bạn?" Trong số những anh chàng tôi hẹn hò, anh
giàu nhất thu nhập chỉ là 250 nghìn đô mỗi năm, đối với tôi mức
lương này là quá ít. Nếu như ai đó có ý định chuyển đến 1 căn
chúng cư ở phía tây New York Garden thì mức lương này không
đủ để chi tiêu.
Tôi có vài câu hỏi cho các bạn:
1)- Những anh chàng giàu có thường lui tới những địa điểm nào?
(làm ơn liệt kê ra tên và địa chỉ các quán bar, nhà hàng, phòng tập
thể dục ...)
2)- Tôi nên nhắm những độ tuổi nào?
3)- Tại sao mấy bà vợ của các đại gia chỉ có nhan sắc trung bình?
Tôi từng tiếp xúc với vài người trong số họ, họ chẳng xinh đẹp và
chẳng thú vị gì cả, nhưng tại sao họ cưới được những ông chồng
giàu có?
4)- Các bạn dựa vào những tiêu chuẩn nào để chọn vợ, và những
người nào chỉ có thể là bạn gái của các bạn thôi? (Mục tiêu của
tôi bây giờ là lấy chồng)
Ms. Pretty" (Ngưng Trích)
Lá thư trên đã được CEO thuộc tập đoàn J.P.Morgans thẳng thắn
trả lời (Trích):
"Dear Ms. Pretty:
Tôi đã đọc bài viết của bạn và cảm thấy rất thích thú. Tôi đoán có
rất nhiều cô gái cũng có những câu hỏi như bạn. Xin cho phép tôi
được phân tích tình huống của bạn với tư cách của một nhà đầu tư
chuyên nghiệp.
Trước hết, mức thu nhập của tôi là hơn 500 nghìn đô một năm,
đáp ứng được yêu cầu của bạn, vì thế hy vọng mọi người không
nghĩ rằng tôi đang phí thời gian ở đây. Đứng dưới góc độ là một
doanh nhân, tôi nghĩ cưới bạn quả là một quyết định thiếu sáng
suốt. Câu trả lời rất đơn giản, hãy để tôi giải thích cho bạn hiểu,
gạt qua những chi tiết linh tinh khác thì rõ ràng bạn đang cố gắng
trao đổi "nhan sắc" lấy "tiền", có nghĩa là: A có nhan sắc và B có
tiền để mua nó, công bằng và sòng phẳng.
Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt ở đây là nhan sắc có thể phai tàn theo
năm tháng nhưng tiền đầu tư thì không như vậy. Thực tế phũ
phàng là thu nhập của tôi tăng dần qua năm tháng, còn bạn thì
không thể ngày một đẹp hơn lên. Vì thế nếu xét dưới góc độ kinh tế
mà nói, tôi là một tài sản luôn luôn tạo ra giá trị gia tăng, còn bạn
chỉ là một tài sản hao mòn. Hơn nữa không phải hao mòn bình
thường mà là hao mòn theo cấp số nhân. Nếu đó là tài sản duy
nhất mà bạn có, thì giá trị của nó sẽ bị giảm rất nhiều sau 10 năm
nữa.
Nếu so sánh với các phiên giao dịch trên phố Wall thì việc tôi hẹn
hò với bạn cũng như một phiên giao dịch vậy. Nếu giao dịch bị
giảm giá thì chúng tôi sẽ bán, chẳng ai ngốc giữ nó trong một thời
gian dài -- cũng như việc kết hôn vậy. Có thể bạn nghĩ tôi thật dã
man khi nói ra điều này, nhưng một tài sản mà có giá trị khấu hao
lớn như vậy, thì tốt nhất là nên bán nó đi hoặc cho thuê.
Bạn cần phải hiểu rằng bất kỳ một gã đàn ông nào có mức thu
nhập nửa triệu đô mỗi năm đều không phải là những gã ngu.
Chúng tôi chỉ hẹn hò với bạn nhưng chúng tôi sẽ không cưới bạn.
Tôi khuyên bạn hãy quên chuyện tìm cách lấy chồng giàu đi. Thay
vào đó hãy tự kiếm cho mình khoản thu nhập nửa triệu đô mỗi
năm để trở thành đại gia. Việc này có nhiều cơ hội thành công hơn
so với việc tìm một thằng giàu mà ngu đấy.
Thân ái
Sumit Kishanpuria - Tổng giám đốc ngân hàng JP Morgan"
(Ngưng trích)
Thế thì sự thực ra sao?
Và tình cờ tôi lại tìm đến một câu truyện cổ tích khác, "Truyện
Đầm nhất dạ" (Trích):
"Hùng Vương truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh được một
người con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi vừa mười tám,
dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao du thiên
hạ. Vương chìu mà nghe theo. Mỗi năm khoảng tháng hai, tháng
ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngoài biển, vui chơi
quên cả ngày về.
Lúc bấy giờ ở làng Chử Xá có người tên là Chử Vy Vân sinh được
một người con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con vốn tính hiền
lành, nhà nghèo lại gặp nhà cháy, của cải khánh tận chỉ còn một
cái khố vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già,
cha bảo con rằng:
− Ta chết thì chôn lộ thể cũng được, để cái khố lại cho con mặc
kẻo xấu hổ.
Cha chết, người con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử
Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, đói rét khôn xiết, mới cầm
cần câu đi kiếm bờ sông câu cá, trông thấy thuyền buôn đi qua,
đứng dưới nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bỗng
đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi
tượng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi, không biết trốn vào đâu, trông thấy
trong bãi phù sa có chùm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân
vào đó, đào cát thành huyệt để giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên.
Giây lát, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên
bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm.
Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm; cát chảy,
thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên
Dung nói:
− Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp người này cùng lộ
thân với nhau trong một huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng?
Thôi người hãy dậy mà tắm rửa đi.
Rồi ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc;
người trong thuyền đều cho là một sự gặp gỡ tốt lành xưa nay
chưa từng có.
Đồng Tử nói rõ sự tích cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung thương
xót, bảo làm vợ chồng..." (Ngưng trích)
Nhờ cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra, Tiên Dung thấy biết là con
trai nên bảo làm vợ chồng. Điều đó có phải ý nghĩa của câu: "Đẹp
trai không bằng chai mặt" mà tôi thường nghe các cô bạn học kháo
với nhau?
Cách đây khá lâu, lúc đó tôi còn tham gia một diễn đàn văn nghệ
rất vui. Sau khi một người post lên bài "Cũng vẫn là một chuyện
tình", một chị khác viết (Trích):
"Đọc bài viết này tôi lại nhớ đến câu chuyện một người bạn đã kể:
Hai ông bà cụ tuổi đã gần chín mươi, đưa nhau ra tòa ly dị sau
gần bảy mươi năm gắn bó. Ông bà có với nhau sáu mặt con sau
bằng ấy năm chung sống.
Trong nghề đã lâu, và chứng kiến biết bao nhiêu vụ ly dị, những
thành phần bỏ nhau đa số là giới trẻ. Vì vậy, nhìn cặp vợ chồng
lưng còng tóc bạc này quan tòa ngạc nhiên lắm, ông hỏi:
− Tại sao đã sống với nhau một thời gian quá dài như vậy mà
chẳng có chuyện gì xảy ra. Thế lý do gì bây giờ ông bà lại muốn ly
dị trong khi tuổi đã cao?
Bà trả lời trước:
− Lấy nhau được mấy năm, lúc đó mới có đứa con đầu chúng tôi
đã muốn bỏ nhau vì tính nết khác biệt. Nhưng rồi suy đi tính lại, sợ
quyết định của người lớn làm khổ cho đứa nhỏ, nên cứ dần dà cố
đợi nó lớn. Chúng tôi cả hai chỉ vì thương con, cứ dần dà níu kéo
nên hậu quả là năm đứa nữa lần lượt ra đời. Thế rồi vì một đứa
không bỏ nhau được, thì làm sao sáu đứa bỏ cho đành, chúng tôi
lại phải tiếp tục cố gắng chịu đựng chín bỏ làm mười ở với nhau
để nuôi đàn con và đợi chúng khôn lớn rồi hãy tính. Nhưng theo
thời gian, đến khi chúng nó khôn lớn, trai có vợ, gái có chồng, rồi
nhìn chúng nó hạnh phúc, chúng tôi lại không nỡ làm vỡ đi cái
hạnh phúc của chúng nó đang có, nên đành tiếp tục hy sinh cho
con cho cháu...
Quan tòa tò mò muốn biết ngay mà bà cụ cứ từ từ kể làm ông sốt
ruột, ông ngắt hỏi:
− Thế thì lý do gì làm ông bà thay đổi?
Nghe giọng ông quan tòa có vẻ hơi gay gắt, ông cụ vội trả lời:
− Thưa quan tòa. Chẳng giấu gì ông, sở dĩ chúng tôi có mặt ở đây
ngày hôm nay là tại đứa con cuối cùng trong sáu đứa cũng vừa
qua đời cách nay ba tháng. Nên bây giờ chúng tôi chẳng còn gì
ràng buộc và phải trả tự do cho nhau thôi.
Ông quan tòa hết ý, không hỏi nữa, đành để cho ông bà tự ý."
(Ngưng trích)
Lúc đó tôi có đưa ý kiến thế này:
Lúc đọc câu chuyện cảm động “Cũng vẫn là một chuyện tình”, tự
dưng tôi lại thấy vui vui, bởi nó làm tôi nhớ tới lời nói của một anh
bạn vườn Nam bộ, gặp nhau ở London - Ontario, đã nói từ 30 năm
về trước rằng: “Thấy vợ người ta chết đông chết tây mà bắt thèm”.
Hôm nay đọc chuyện vui chị VCS kể, làm tôi suy nghĩ đôi chút về
việc ly dị của ông bà cụ tuổi đã gần chín mươi này:
Không biết dùng chữ “phú quý sinh lễ nghĩa” có thích hợp không,
chứ tôi thấy cuộc sống càng thoải mái thì cơ hội vợ chồng ly dị
nhau càng nhiều hơn, hay nói một cách khác, sự nghèo khó ràng
buộc người ta gắn bó với nhau hơn.
Ở đây, tôi chỉ bàn về một lý do đơn giản nhất là “xa mặt cách
lòng” thôi.
Sóng chén úp chung còn gây ra tiếng cọ xát, con người ăn ở chung
sao tránh được tiếng bấc tiếng chì? Vợ chồng ăn ở với nhau có
chuyện gây gỗ giận hờn là lẽ tự nhiên trong trời đất.
Nếu 2 vợ chồng ở trong căn nhà rộng lớn nhiều phòng. Khi giận
nhau, mỗi người ôm gối áng ngữ một phòng riêng cố thủ, thì cơ
hội làm huề khó hơn là bắt buộc phải nằm chung trong một chiếc
giường bé xíu, quay qua quay lại cũng đụng nhau, nửa đêm vờ vịt
choàng tay qua ôm ngực vợ,... nhất là dùng chiêu thức “thả em ra
chiêu dụ” là chắc ăn như bắp, bởi vậy mà dân gian vùng đồng
bằng Nam bộ mới có câu hò hữu tình như sau:
Hò... ơi...
Mù u hai trái mù u
Vợ chồng cãi lộn...
Hò... ơi...
Vợ chồng cãi lộn,
Con cu giảng hòa!
Thế thì, lý do hai vợ chồng tuổi gần 90 dắt nhau ra tòa ly dị, chính
vì không còn ai đứng ra giảng hòa nữa.
Phạm Khắc Trung
Những mùa Xuân lưu lạc
Xuân đến nữa! Tuổi thêm, bạn bớt
Chiến hữu thưa, văn hữu cạn lời nhau
Có chị, có anh bỏ đời về với đất
Ngưòi đó, ta đây, không ai đánh mà đau
Lòng người lạnh, lạnh tựa Xuân đất khách
Đời lưu vong sương tuyết bạc mái đầu
Ngần ấy tuổi, tập tành văn với bút
Nhân nghĩa ân tình chưa viết nên câu
Tiếng ai hát ngàn ngàn năm nước Việt
Rít bên tai, xoáy nhức nhối trong lòng
Son sử thắm, hồn Cha Ông lẫm liệt
Gương nào soi thấu lòng kẻ lưu vong
Này bạn! Khi nao về thăm Làng, Nước
Mang dùm ta chút quà tặng đồng bào
Đã dành dụm cả đời niềm mơ ước
Tổ Quốc trường tồn, dân tộc hết lao đao
Xuân về, Xuân đi những mùa Xuân lạt nhách
Rượu trà hương hoa, bánh mứt tưng bừng
Ngồi nhà ta, sao tưởng ta là khách
Nhắm miếng Xuân buồn vào tạng phủ rưng rưng
Huỳnh Công Ánh
THƠ XƯỚNG HỌA
Xướng:
Thăm bác Bảy mấy sao như vẫn chửa già
Lái xe thăm bác quãng đường xa
Sáu trăm cây số rồi mà đến
Bảy tiếng đồng hồ thế cũng qua
Tình bậu an nhiên giây chỉ buộc
Văn thơ quấn quýt hạt mưa sa
Mai này trời có đành chia cách
Nhớ chén rượu này bác với ta
lý thảo yên
Họa:
Gửi anh LTY: Bảy mấy, ông ui, tuổi chửa già
Anh hùng tay bánh ngại chi xa
Trước mặt bạn bè mong lão tới
Sau lưng gia quyến đợi chàng qua
Dặm thẳm chớ lo cơn bão táp Lối mù đừng ngại đám mưa sa
Về đây, rượu ấm chia nhau rót
Trần thế vẫn còn ta với ta...
Cung Vũ
Hay nhỉ? Bút tích truyền thông ngẫm đã già
Cam đành lặng tiếng... ngỡ trời xa
Sao người bằng hữu chào tâm đắc
Khiếp những a tòng điểm mặt qua
Rằng khéo chỉ chuyên đề lách luật
Khôn chăng loại những hạt châu sa
Vui trên bình phiếm khinh dư luận
Mặt mo... mặt thớt... cũng người ta
Phan Thị Anh Lê
Bảy mấy
Bảy mấy mấy ai nhận mình già
Sáu trăm dặm ngẫm có bao xa
Houston mời gọi chưa thấy tới
Phoenix có ngày cũng sẽ qua
Nâng chén cùng nhau vui chén rượu
Tâm sự sẻ chia đẹp cuộc trà
Mai mốt nếu trời quên chẳng gọi
Vẫn mãi còn đây bác với ta.
Yên Sơn
Bài hát chúc Tết ngày xưa
Nguyễn Hữu Nghĩa
Nói là “ngày xưa”, nhưng thực ra chỉ mới mấy mươi năm xa quê.
Hôm nay đã gần tháng chạp, sắp tết, nhìn chung quanh tuyết trắng
mịt mù, lòng chợt bâng khuâng chạnh nghĩ tới những bài hát dân
gian có tính cách chúc tụng.
Trẻ con miền Bắc vào tối giao thừa tụ tập nhau từng đám đi tới
từng nhà hát chúc lấy thưởng. Đứa dẫn đầu cầm giây tiền xu xâu
lại, róc lên từng tiếng “xúc xắc xúc xẻ” và cả bọn đồng thanh hát:
Xúc xắc xúc xẻ
Năm mới năm mẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
Mở cửa cho chúng tôi vào?
lên giường cao
Thấy đôi rồng ấp
Bước xuống giường thấp
Thấy đôi rồng chầu
Bước ra đàng sau
Thấy nhà ngói lợp
Voi ông còn buộc
Ngựa ông còn cầm
Ông sống một trăm
linh năm tuổi lẻ
Vợ ông sinh đẻ
Những con tốt lành
có con như tranh
có con như rối…
“Có con như tranh” là con đẹp như hình vẽ trong tranh; “có con
như rối” là con đẹp như con rối.
Rối là những hình nhân trong trò múa rối, được tổ vẽ rất màu
mè…
Lần bước vào trong Nam, để hát chúc tụng, có những hội ca cầm
bốn năm người, cũng tới từng nhà mà hát:
Là hội ca cầm
Là hội ca cầm
Chúc cậu với mợ giàu sang
Giàu sang giàu sang phú quới
Trên thì ô tô dưới thì ca nô
Nằm thì nằm giường Lèo
Đắp thì đắp nệm gấm
đi đôi giày Gia Định
Ngồi cái ghế phượng loan
Cậu bịt thêm cái răng vàng
Trên đầu cậu xịt dầu thơm dầu thơm…
“Giường Lèo” là giường bằng gỗ gụ (cây gõ), bốn bên có bốn trụ
cao, nệm bọc lụa, trên có màn với giây kéo. “Giày Gia Định” là
giày da đen bóng, hở gót.
So sánh hai bài hát chúc tụng của hai miền, người miền Nam thực
tế hơn, chỉ chúc những điều có thể có được: ô tô, ca nô, giường
lèo, nệm gấm, giày Gia Định, ghế phượng loan, bịt răng vàng, xịt
dầu thơm. Không có những thứ trong tưởng tượng: rồng ấp, rồng
chầu, sống lâu 105 tuổi,..
Ngày nay nhìn về đất nước với bốn phần năm dân số sống khổ,
biết chúc gì đây! “Độc lập” trong bàn tay đại Hán, “Tự do” nghèo
đói không được mở miệng thở than, hay “Hạnh phúc” chỉ thấy
trên giấy tờ!
Nguyễn Hữu Nghĩa
Mừng năm mới
Mừng quá, tôi già hơn một tuổi
Tuổi đòi quà ông đất ông trời
Tuổi được mấy nhỏ gọi bằng cụ
Dù trong tim chưa trổ đồi mồi!
Năm mới cũng xin bạn lì xì
Bỏ vào phong thư chút sân si
Tôi đem lên núi ngày nắng đẹp
Vui cùng bạn thả gió mang đi
Năm mới mừng bạn ly cà phê
Cho đắng đời cộng chút đam mê
Mang theo những nụ cười âm điệu
Bụi-ta-bụi-bạn hẹn nhau về
Mừng quá, tôi lớn thêm một tuổi
Tuổi lấn chen chưa kịp tu hành
Thôi thì kiếp sau tu sẽ ngộ
Ngộ tục thiền đi ngoài giới răn!
Nghiêu Minh
Thơ Xuân đùa bạn
Tặng Nghiêu Minh
Hồi nhỏ còn ham được "mừng tuổi"
Bây giờ nghĩ tới thêm buồn... tủi
Chân già run rẩy gượng khỏi té
Người đẹp nhìn chơi, không kham nổi!
Ông ơi, dù tim già chưa bạc
Ngoại hình đã trở thành tuổi hạc
Mỗi năm một lần nghe pháo nổ
Biết xuân, sao lòng càng ngơ ngác!
Cung Vũ
Thơ Đỗ Quang Vinh:
Anh hùng phạt Tống
(song thất lục bát liên-hoàn, thuận, nghịch-độc)
(thuận-độc)
Thanh-uy đổi chiến-chinh lừng-lẫy,
Cội nguồn vang tiếng dậy công-thành,
Danh lưu Kiệt-tướng hùng-anh
Vinh-quang giành thắng: Tống-thành tàn-hoang.
(nghịch-độc)
Thành-công dậy tiếng vang nguồn cội,
Lẫy-lừng chinh chiến đổi uy-thanh,
Anh-hùng Tướng Kiệt lưu danh
Hoang-tàn thành Tống: thắng giành quang-vinh.
(liên-hoàn)
Thanh uy đổi chiến chinh lừng-lẫy,
Cội nguồn vang tiếng dậy công-thành,
Danh lưu kiệt-tướng, v.v.
Xuân Phục Hưng Gió đông vờn lá tâm tình,
Lá thu run-rẩy rùng mình lá rơi
Yêu thương dâng ngập Đất Trời,
Tuyết băng ấp-ủ thắm tươi xuân tình,
Gió hoa rủ nắng bình-minh,
Mừng Xuân trỗi dậy phục-sinh huy-hoàng.
Xuân khấn nguyện (song thất lục bát liên-hoàn thuận-nghịch-độc)
(thuận-độc)
Trời đất rộn dâng lời khấn nguyện
Nạn khổ xong rồi, hết hoạ-tai
Mai vàng thắm rực xuân-đài,
Thai minh* ngời sáng núi đồi, kìa coi!
(nghịch-độc)
Tai-hoạ hết rồi, xong khổ nạn
khấn lời dâng rộn đất trời,
Đài xuân rực thắm vàng mai
Coi kìa đồi núi sáng ngời Minh-Thai*
(liên-hoàn)
Trời đất rộn dâng lời khấn nguyện
Nạn khổ xong rồi, v.v.
(*) Chú-thích:
- Theo sách chiêm-tinh, chòm sao Tam Thai có ba cấp, khi tất cả
mọc ngang hàng thì chòm sao rực sáng, ấy là điềm thiên-hạ
thái-bình (Ngô-tất-Tố, Thi Văn Bình Chú)
- Bài thơ Vịnh Hoa Sen của Lê Thánh Tôn kết bằng 2 câu:
Dao-trì lần thấy triều đi rước,
Hớn-hở Thai minh vận thái-giai.”
Đỗ Quang Vinh
Lỗi hẹn
Ta hẹn em về thăm tháng giêng
Mùa xuân đang đến gió rất hiền
Lượt là áo lụa thơm mùi Tết
Thẹn thùng em đứng nón che nghiêng
Ta hẹn em về thăm tháng hai
Đường xưa quen lối bóng sông dài
Mênh mông vô lượng mùa xuân tới
Gió vờn trên má nắng trên vai
Ta hẹn em về thăm tháng ba
Tháng tư hè gọi nắng chan hoà
Tháng năm sân đỏ mầu hoa phượng
Tháng sáu mưa về nghe xót xa
Tháng bảy đôi bờ xa cách nhau
Tình yêu một thưở chợt phai màu
Chiếc lá thu vàng theo tháng tám
Nỗi buồn như gió thoảng qua mau
Tháng chín tháng mười ta đợi nhau
Còn bao lâu nữa hết Đông sầu
Đã biết bao lần ta lỗi hẹn
Thôi không về nữa đợi xuân sau ...
Quang Tuấn
Phá rừng xã hội chủ nghĩa
Lê Văn Hưởng
Hôm đó là ngày mùng Ba Tết.
Cả nhà con cháu chú Hai Đức vừa tan tiệc tiễn đưa chú ngày mai
trở về Hoa Kỳ. Một đứa cháu thắc mắc, hỏi chú:
- Ngoại, tại sao nước mình ngoại không ở, qua Mỹ làm gì?
Chú Hai cười:
- Chuyện của tao dài dòng lắm, nếu bây muốn biết, tao kể cho bây
nghe.
Chú bưng tách trà lên, nhâm nhi vài hớp, nhìn vào thằng cháu
ngoại lối 19 tuổi đã hỏi câu đó và liếc qua nhìn ba đứa cháu khác
cùng trang lứa:
- Nhưng mà trước khi kể, tao hỏi tụi bây câu nầy, tao không nói
đâu xa, mấy đứa bây bây giờ đứa nào cũng có xe đạp, có xe gắn
máy, vậy có thằng nào vô nhà bây lấy xe của bây, vậy mấy thằng
đó là gì?
Cả bọn nhao nháo lên:
- Dạ, tụi ăn trộm, ăn cướp, tụi ăn cướp!
- Đó, nhà nước tụi bây là vậy đó! Không riêng gì xe máy, tất cả đồ
đạc, vàng vòng trong nhà, phải giao cho nó hết! Đó là lúc "giải
phóng" mới vô, ai mà chống lại là bị bắt, bị tù, bị đi kinh tế mới!
Tụi bây còn nhỏ mới lớn lên, bây không thấy nên không biết!
Mấy đứa cháu xích lại gần hơn:
- Nhưng đâu phải mọi người bị cướp đâu?
- Phải, bây nói đúng, mấy thằng nghèo, nó cướp làm gì, có gì để
cướp, nó nhắm người có tiền, có của!
Một đứa trong đám tỏ ra không đồng ý:
- Tại tụi nhà giàu, bóc lột nhân dân, nó mới giàu, cách mạng vô,
bọn tư sản đó phải trả lại cho nhân dân! Thầy giáo con nói vậy đó!
Chú Hai cười gằn:
- Vậy tao có bóc lột ai đâu mà toàn thể nhà cửa, chỗ làm ăn của tao
đều bị nhà nước tịch thâu? Tao làm ăn đầu tắt mặt tối mới ra tiền,
tao mà không vượt biển ra khỏi Việt Nam, đời tao như con chó
đói. Giờ nầy, ở Mỹ là xứ người mà tao được cấp nhà ở, lãnh tiền
già mỗi tháng, đau ốm, bịnh hoạn gì, chánh phủ Mỹ lo hết!
Nói xong, chú cởi áo ra, khoe mấy vết thẹo đầy ngực vì mổ tim:
- Tao bị nghẹt tim mấy lần, tưởng chết đi mấy đời rồi đó, vậy mà
tao được cứu sống, nằm nhà thương không tốn một đồng xu!
Chuyện đời của chú Hai nghĩ cũng ly kỳ lắm!
Sau khi sanh chú ra vài ngày, má chú chết. Trong khi bà con trong
gia đình bận lo việc chôn cất, chú bé bị bỏ rơi, không ai để ý lo cho
nó, kiến bu quanh thân thể, chú bé la khóc giẩy giụa, bà ngoại thấy
được, đem về nhà nuôi, nhà bà ngoại cách đó vài trăm thước. Vì
nhà nghèo, bà đâu có tiền mua sữa cho cháu, bà phải lấy gạo, đổ
nhiều nước nấu lên, và lấy nước cơm đó cho cháu bú thế sữa, nhờ
đó chú bé thoát chết.
Vì cảnh nhà nghèo và ở thôn quê, quận Dĩ An, tỉnh Gia Định, chú
bé chỉ trông vào sự dưỡng nuôi của bà ngoại: ba chú có vợ khác,
không lo gì cho chú bé, bỏ mặc cho bà. Đến khi vào trường tiểu
học, cậu bé học đến lớp ba, nhưng việc học hành chẳng đi đến đâu,
vì sau giờ học, cậu phải bưng rổ đi bán dạo trong xóm, tùy theo
món nào bà ngoại nấu, nay khoai lang luộc, ngày khác, khoai mì
luộc, có khi xôi đậu xanh muối đậu...
Mười mấy năm sau, cậu bé theo bạn học nghề đốn cây trong khu
rừng miệt Trảng Bôm, Xuân Lộc... Nghề dạy nghề, và nhờ tánh
tháo vát, chỉ vài năm sau, chú Hai Đức (tên gọi sau nầy) dành dụm
một số tiền, hùn hạp với vài người bạn cùng khai thác một khu
rừng. Bấy giờ là thời kỳ Việt Minh nổi lên, thôn xóm hoặc các
vùng xa xôi, hẻo lánh là vùng xôi đậu, du kích Cộng Sản sống trà
trộn trong dân chúng bắt đầu thâu thuế, kiểm soát... Mấy khu rừng
đốn cây phải đóng thuế cho Việt Cộng, điều nầy là bắt buộc.
Với nhiều kiên nhẫn, chịu đựng, chú Hai Đức thấy việc "làm cây"
của chú có chiều phát đạt. Ai cũng thương mến chú nhờ tánh tình
hào hiệp, chịu chi, chịu tốn kém để lo lót, tìm mọi sự dễ dãi trong
việc làm gỗ. Đối với người hợp tác, chú tỏ ra sòng phẳng, đối với
đàn em, chú không ke re cắc rắc về tiền bạc, đối với du kích Việt
Cộng, chú cam phận làm con giun, con dế, nhờ đó, chúng dễ dãi
với chú; đối với chánh quyền Cộng Hòa, chú đối xử "ngọt" với
nhân viên Kiểm Lâm để được "đóng búa" dễ dàng. ("Đóng búa" là
danh từ chuyên môn của Sở Kiểm Lâm, khi họ đóng dấu vào cây
súc, tức là cây súc được đốn đúng tiêu chuẩn, được cho phép chở
ra khỏi rừng).
Việc khai thác gỗ súc phát triển thuận lợi, Hai Đức ăn nên làm ra,
lập gia đình... Chú sửa nhà trên đất "thổ mộ" ở Dĩ An (nhà đất của
ông bà để lại dành chôn cất người trong gia tộc), mua đất xây một
căn
nhà lầu ở đường Công Lý, Phú Nhuận, mua mấy đầu xe be để kéo
gỗ về Sài Gòn, lập một trại cưa tại chỗ, gần khu đốn rừng để xẻ
cây...
Dịp may đến cho chú: Mỹ đổ quân ào ạt vào Việt Nam, cùng theo
đó là các cơ sở, tư nhân Mỹ; người Mỹ mướn căn nhà lầu đó, chú
bỗng nhiên trở nên giàu có. Không vì thế mà chú xao lãng việc
đốn cây rừng.
Nhưng, ngày 30 tháng Tư 1975 đến.
Chú về nhà ở Dĩ An, chờ, nghe ngóng thời cuộc. Gia đình, vợ con
chú lo lắng, hỏi chú phải làm gì, nhưng chú bình chân như vại, trả
lời dứt khoát:
- Tao có ở xấu với ai đâu, tao làm việc chết cha chết mẹ mới ra
đồng tiền, hơn nữa, mấy thằng du kích ở khu rừng đều là em út của
tao, làm gì phải lo?
Tuy nói vậy, nhưng cả gia đình đều cảm thấy không yên, thím Hai
Đức và các con bàn tính chuyện chôn giấu, tẩu tán tiền bạc, vòng
vàng, mặt khác lo gởi đến bà con ruột thịt cất giùm một ít.
Hai ngày sau, từ trên rừng Trảng Bôm, có người về gặp chú. Chú
vừa mừng, vừa lo, đây là thằng Méo, một nhân viên làm việc trong
trại cưa của chú:
- Mấy anh trên đó mời chú Hai lên gấp!
- Mầy thấy sao mậy? Mấy ảnh nói gì? - chú Hai tỏ vẻ lo lắng.
- Tui thấy mấy ảnh hội họp gì đó, mấy ảnh "kiu" tui vô, biểu tui
lấy xe gắn máy về Sài Gòn gấp, chở chú lên đây! Chú nhớ đem
theo vài bộ đồ để thay.
- Ủa, lên trển ở tới 2, 3 ngày hay sao mậy?
- Thì tính "dậy" cho chắc ăn mà!
Thế là thằng Méo đèo chú trên xe gắn máy trực chỉ Trảng Bôm.
Trên đường đi, chú hỏi thằng Méo nhiều câu mà nó không trả lời
được. Chú đâm lo không biết "mấy ảnh" định đoạt thế nào về số
phận của chú, nhưng đinh ninh là từ trước tới nay chú đã đóng
thuế đầy đủ cho "Cách Mạng", chắc không đến đỗi nào; hơn nữa,
trong cách đối xử của họ, chú thấy tình anh em rất thân thiết.
Ngoài thuế má sòng phẳng, chú còn chở cho "anh em trong rừng"
biết bao nhiêu lần thuốc men, thuốc hút Craven A, ba số 5, và
nhiều món cần thiết khác như gạo, muối, nước mắm, khô...
Khi thằng Méo chở chú về tới Trảng Bôm, trời đã tối mịt, Méo vô
gặp mấy anh lớn, khi trở ra, nó cho biết:
- Mấy anh lớn đang họp, thôi chú Hai ở đây ngủ đêm với tui, mai
mình vô gặp mấy ảnh.
Qua ngày sau, đợi hoài không thấy ai hỏi han mình, chú nhắc nhở
thằng Méo:
- Méo, sao mầy biểu tao lên đây gấp mà không ai nói chiện gì với
tao hết?
Thằng Méo tâm tình:
- Mấy ảnh đang họp để định tội chú đó chú Hai!
- Trời đất quỷ thần ơi! Tội tao là tội gì, mầy thấy mấy năm nay, tao
ăn ở hết mình với anh em, tao cũng có tội nữa à?
Sau hai ba ngày ở trên đó, chú Hai thấy một số "bạn bè" làm việc
trước với chú nhảy theo đám "Cách Mạng 30", riêng thằng Méo
thì lưng chừng. Còn anh phụ trông nom khu rừng của chú là một
cán bộ "gộc", tên anh là Tư Xe. Đến chiều tối, Tư Xe ra gặp chú.
Trước kia, Tư Xe kêu Hai Đức là chú Hai, xưng em, một điều "chú
Hai", hai điều chú Hai", tỏ sự kính nể đối với chú, nhưng chỉ mới
mấy ngày đây, anh theo cách xưng hô thời đại mới, gọi Hai Đức
bằng "anh". Nghe vậy, chú ngạc nhiên, nhưng linh tính cho biết
"có chuyện gì rồi" nên chú không dám "mầy tao chi tớ" với Tư Xe
hay lần khân với nó như trước.
Sau khi kể chuyện hội họp của mấy anh lớn cho Hai Đức nghe, Tư
Xe giả bộ như thương mến Hai Đức lắm:
- Chuyện của anh coi "dậy" mà không dễ đâu, tôi biết anh, tôi cũng
rán bào chữa cho anh mà không được, anh bị kết tội "phá rừng xã
hội chủ nghĩa".
Hai Đức la hoảng:
- Trời đất thiên địa ơi! Tui làm ăn có đóng thuế cho Cách Mạng
đàng hoàng, mà trước không ai nói tui "phá rừng xã hội chủ
nghĩa", để tới giờ nầy mới nói?
- Tốt hơn hết, anh nên nghe theo lời tôi -- Tư Xe lạnh lùng nói tiếp
-- thời thế bây giờ thay đổi, trước kia, anh khai khẩn rừng, toàn là
bóc lột mồ hôi, sức lao động của công nhân làm việc với anh. Nếu
không có họ, làm sao anh được giàu có như ngày hôm nay? Cách
Mạng sáng suốt, công bằng lắm, có vay phải có trả, anh phải ở lợi
đây. Bây giờ tôi đưa cho anh mấy tờ giấy để anh "thành khẩn khai
báo", anh có bao nhiêu của cải, tiền bạc, nhà cửa, của chìm, của
nổi, xe cộ,.. phải khai ra hết, nếu anh khai gian, tôi không bảo đảm
tánh mạng của anh! Mấy anh lớn biết hết rồi, chỉ chờ coi anh có
thành khẩn hay không mà thôi, còn nếu anh bỏ trốn, tội càng nặng
hơn nữa, không còn thấy mặt vợ con đâu!
Hai Đức không ngờ "tình đời đổi trắng thay đen" mau chóng như
trở bàn tay, chú trừng trừng ngó người giúp việc cũ của mình mà
lòng ngao ngán…
Hơn tuần lễ nay, tại nhà ở Dĩ An, ngày ngày thím Hai Đức trông
chú về, thím nóng ruột quá, sau đó cùng với đứa con gái 16 tuổi
lên Trảng Bôm kiếm chú. Tại trại cưa cũ của chú, người ta xác
nhận có chú ở đó, nhưng không cho chú tiếp xúc với gia đình.
Thím Hai năn nỉ cho gặp được Tư Xe vì thím nghĩ rằng Tư Xe lúc
trước được chồng mình mướn làm công, anh có thể dành cho gia
đình chú thím đôi chút dễ dãi. Thím đợi gần cả ngày mới được Tư
Xe cho vô gặp. Hồi nào tới giờ, khi gặp thím Hai Đức, Tư Xe vồn
vã xưng em, kêu bằng "Thím Hai" ngọt xớt, nhưng hôm nay, mặt
anh lạnh như tiền:
- Chị đi đâu đây?
Nghĩ tình như trước, thím chưa kịp đổi cách xưng hô:
- Cháu Tư ơi! Cháu làm ơn làm phước cho thím gặp mặt ông nhà
thím...
Tư Xe không trả lời ngay, vài giây sau, anh quay lại nhìn thím
Hai:
- Cách Mạng không bắt anh đi "kinh tế mới" là may, anh thuộc
thành phần bóc lột nhân dân, anh bị giữ tạm đây một thời gian, khi
nào xét xong, nhà nước cho anh về.
Sự thật ra sao?
Hai Đức không thuộc thành phần có "nợ máu" với nhân dân, theo
như từ của Cách Mạng, là không "bắn giết hay làm hại đến Cách
Mạng", tội của chú chỉ là "có nhiều tiền của", nhưng nhà nước
phải dùng mỹ từ "phá rừng xã hội chủ nghĩa" mới buộc tội chú
một cách danh chánh ngôn thuận hơn. Trong khi chờ đợi tờ báo
cáo tài sản của chú, Cách Mạng giữ chú lại, chờ tịch thâu hết nhà
cửa, xe cộ, cơ sở làm ăn, mới có thể cho chú về.
Hơn nữa, điều quan trọng hơn là Cách Mạng muốn tiếp tục khai
thác rừng, do đó, chú bị giữ lại để điều hành trại cưa một thời gian.
Chú bị giam lỏng, ở luôn tại trại cưa, nấu ăn tự túc theo khẩu phần
gạo muối do nhà nước cấp. Buổi chiều, sau giờ làm việc, có thời
giờ rỗi rảnh, chú mò xuống suối, xúc một ít cá con, đem về kho
mặn ăn với cơm đấp đỗi qua ngày. Cùng làm việc với chú là vài
công nhân mới do cán bộ chỉ định. Mỗi tối, có học tập kiểm thảo,
chú ngán nhứt là phải ngồi nghe cán bộ lải nhải nói về đường lối
"Cách Mạng" của Đảng, chú còn phải lặp lại cho tổ biết mình
"giác ngộ" tới mức nào.
Chú được phép gởi thơ về nhà khi cán bộ có công tác về Sài Gòn
đem thơ giùm, và lẽ đương nhiên, trong thơ, chú chỉ được quyền
cho biết về sức khỏe và thăm hỏi gia đình mà thôi. Sau một tháng,
toàn bộ tài sản của chú bị tịch thâu, gồm có căn nhà lầu đúc ở Phú
Nhuận do vợ chồng người cháu đang ở, hai đầu xe be (xe kéo cây),
hai chiếc cam nhông nết (camionnette), trại cưa ở Trảng Bôm.
Riêng căn nhà ở Dĩ An làm "từ đường" không bị tước đoạt; ngoài
ra, vòng vàng, tiền bạc, nhờ được gia đình tẩu tán đi trước, nên
không mất.
Bốn tháng sau, Cách Mạng nới lỏng cho chú, cho phép chú về
thăm gia đình trong chuyến công tác về Sài Gòn mua vật dụng cần
thiết cho xưởng cưa, cùng đi có người của Cách Mạng, và chỉ đi
trong ngày, sáng đi chiều về.
Lợi dụng cơ hội đó, chú căn dặn gia đình phải tìm đường vượt
biển.
- Má nó phải ráng thu xếp tìm đường đi, khi nào có dịp, tui trốn đi
sau -- chú nói nhỏ vào tai thím -- tụi nầy là quân ăn cướp, ăn
ngược nói ngạo, mình không sống nổi với tụi nó đâu!
Trước khi chú ra về, thím Hai lén nhét vào túi chú ít tiền tiêu vặt.
Có lịnh của cán bộ phải dời trại cưa vào trong rừng sâu hơn và nhà
nước có tăng cường thêm nhân viên và một kỹ sư phó tiến sĩ từ
Nga Sô về để điều hành xưởng cưa. Sau khi tháo gỡ máy móc và
lắp ráp lại tại khu rừng mới, máy cưa gặp trở ngại vì không chạy
tốt như trước: lưỡi cưa đứt hoài, gỗ xẻ ra bị mất cây rất nhiều. Chú
Hai thấy khuyết điểm nhưng không nói ra, nghĩ trong bụng: "Thây
kệ cha tụi bây! Đâu phải của ông, của cha tao đâu mà tao lo!"
Tuy học lực chẳng bằng ai, nhưng trong thời gian làm việc khi
trước, chú Hai Đức để ý, tìm tòi về máy móc, học hỏi cách ráp
máy cưa. Cưa phải đặt cân bằng trên mặt đất thế nào, phải biết đo
gốc độ của lưỡi cưa để xẻ gỗ không hao cây, phải biết cách mài
lưỡi cưa, chỉnh răng lưỡi cưa, canh không thẳng quá, không lơi
quá, ngoài ra còn phải biết hàn khi lưỡi cưa bị đứt ...
Anh chàng kỹ sư trẻ tuổi bị thủ trưởng cằn nhằn:
- Anh là kỹ sư phó tiến sĩ ở Nga về mà không sửa được máy cưa
sao, để anh em báo cáo là máy "ăn cây" quá, mất nhiều gỗ quá?
Anh kỹ sư bối rối, không biết trông cậy vào đâu, đợi lúc vắng
người, dùng lời nhỏ nhẹ với Hai Đức:
- Chú làm ơn giúp cháu điều chỉnh lại máy móc đi, cháu mang ơn
chú lắm!
Lâu ngày làm thân con bọ, con kiến, nay có người của nhà nước
xuống nước năn nỉ mình, đặc biệt người đó là một kỹ sư phó tiến sĩ
có bằng cấp Nga Sô, chú Hai càng tỏ ra cao ngạo hơn:
- Tui dốt nát, biết gì đâu?
- Thôi mà chú! Sửa giùm cháu đi! Hồi đó, chú có học kỹ sư hả?
- Lớp ba trường làng chưa hết, ở đó mà kỹ sư! Trong Nam tui, thợ
cưa giỏi không cần học bằng kỹ sư!
Sẵn trớn, chú bồi thêm mấy câu cho bõ ghét:
- Anh đi Liên Sô, học cái gì, bằng Phó Tiến Sĩ để làm gì?
Cực chẳng đã, anh kỹ sư mới thổ lộ tâm tình.
Theo câu chuyện, anh ta là con của một cán bộ tỉnh ủy ngoài Bắc,
và là một trong số mười lăm "con ông cháu cha" của đảng được đề
cử qua Nga Sô theo học chương trình kỹ thuật một năm rưỡi.
Khóa sinh không cần biết tiếng Nga, vì có một thông ngôn phiên
dịch: 16 tháng đầu học lý thuyết, 2 tháng sau, đi thăm viếng các cơ
sở kỹ nghệ, và trước khi về xứ, được trao bằng Kỹ Sư Phó Tiến Sĩ.
Sau cùng, anh kết luận:
- Chú thấy đó, cháu có biết gì đâu, chữ Nga, chữ Mỹ không rành,
cháu có rờ tới máy móc đâu mà biết ráp máy cưa toàn là của Mỹ?
Hai Đức trút sự bực tức của mình lên anh kỹ sư trẻ:
- Anh thấy hôn, buộc tội người dân là "phá rừng xã hội chủ nghĩa",
mà nhà nước mấy anh thì cứ đốn rừng, ai "phá rừng xã hội chủ
nghĩa" đây?
- Thôi mà chú Hai, đó không phải là chuyện của cháu!
Nhờ anh chàng kỹ sư, Hai Đức có dịp về Sài Gòn thường hơn, với
lý do mua sắm dụng cụ cho trại, luôn luôn có người trên đó chở đi.
Nhiều lần chú tính trốn, nhưng không dám vì nhớ lời của Tư Xe:
"Nếu anh bỏ trốn, tội càng nặng hơn nữa, không còn thấy mặt vợ
con đâu!"
Mỗi lần ghé về thăm gia đình, chú lấy thêm tiền bỏ túi. Kỳ nầy,
bận trở lên, chú mua cho anh em trong trại cưa nửa con heo quay
và một mớ bánh mì, một đêm vui nhộn trong rừng sâu như chưa
từng có!
Tuần sau, anh kỹ sư chở chú xuống Sài Gòn tìm mua lưỡi cưa. Sẵn
dịp đi ngang một tiệm phở đông khách gần chợ Bến Thành, chú
mời anh bạn đồng hành ghé vào ăn sáng. Lâu ngày, được nhìn
thấy tô phở bốc hơi thơm phức, anh Phó Tiến Sĩ cảm thấy vui vẻ
yêu đời, ăn rất ngon miệng...
Anh đâu để ý rằng chú Hai đã lẻn ra cửa sau biến mất. Đến khi hay
rồi, chỉ còn than thở: "Hỡi ôi, chim trời cá nước biết đâu mà tìm"?
Lê Văn Hưởng
Tôi nghiệp khoai sắn!
Hoàng Long Hải
Tính chủ quan làm cho người ta nhiều khi bị hố. Tôi cũng đã kinh
qua một lần như thế.
Nhân một dịp tết nào đó, cách nay cũng không lâu lắm, ông bà chủ
báo hay bạn bè, bảo tôi: Viết một bài cho báo tết. Dễ thôi! Thế là
tôi vào ngồi trước computer, đánh máy lóc cóc bài “Ngày tết nói
chuyện ăn… cà”.
Tưởng thế là hay lắm! Xong rồi, tôi nói với nhà tôi vừa viết xong
bài “tết nói chuyện ăn… cà”. Vợ tôi nói một câu khiến tôi chưng
hửng: “Tết nhứt thịt cá thiếu chi mà nói chuyện ăn cà”.
Tôi nghĩ nhà tôi nói đúng, nhất là ở bên Mỹ nầy, thực phẩm ê hề!
Nhưng vốn dĩ tôi là người chủ quan!
* * *
Tôi biết món cà từ lâu lắm, trước năm 1945, khi chưa đi học. Hồi
ấy, tôi đã nghe anh chị tôi học bài Lưu Bình - Dương Lễ trong
“Quốc Văn (?) Giáo Khoa Thư” truyện thơ cổ tích Việt Nam,
Dương Lễ bạc đãi bạn bằng “Dọn mâm cơm cơm với một quả cà.”
Ăn cơm với cà mà bạc đãi sao?
Tôi vốn con nhà nghèo, cơm cà là việc thường tình. Cơm với cà
tím (còn gọi là cà dái dê) mới là sang. Tết năm Dần, 1950, mẹ tôi
gặp khó khăn lắm. Chạy tản cư hơn hai năm, gia đình tôi mất hai
người: Chị đầu tôi qua đời vì bệnh cuối năm 1947 ở làng An Mỹ,
huyện Gio Linh, ở bờ nam sông Bến Hải. Thân phụ tôi cũng qua
đời năm sau vì bệnh khi ông theo Việt Minh đi kháng chiến ở
chiến khu Ba Lòng. Giữa năm 1949, anh cả tôi bị Tây bắt thủ tiêu
ở Huế khi ông làm báo chống Pháp và chính quyền tay sai ở Huế.
Bữa ăn những ngày tết năm đó thật đạm bạc, mâm cơm có quả cà
dĩa với nước mắm ớt là ngon lắm. Tôi khó quên.
Vậy mà, do đời đưa đẩy, tôi quên mất… cà.
Mãi tới những năm dạy học, tôi mới thấy lại cà trong… ca dao.
Người con trai mai mỉa nhà cô gái:
“Công anh làm rể có tài,
Một mình ăn hết mười hai vại cà,
Giếng đâu thì dắt anh ra…”
Chuyện cà còn dài, quý độc giả muốn đọc cho vui thì tìm trên
web, nhiều web có đang bài “Ngày tết nói chuyện ăn… cà”.
Bây giờ xin nói chuyện khoai sắn trong ca hát. Khoai sắn là một
loại thực phẩm bà con gần gũi với cà.
Thực phẩm người Việt có cơm là chính. Các món ăn phụ là ngô,
khoai, sắn. Người ta ăn ngô khoai sắn bình thường… Con nhà
nghèo, sáng ăn củ khoai, khúc sắn, chén bắp (ngô) đi học, Những
năm mất mùa, đói kém, thiếu gạo, người ta chỉ ăn ngô khoai… trừ
cơm hay ăn độn. Độn là khoai, sắn hay ngô nấu chung với cơm, để
tiết kiệm gạo… Khá giả một chút thì cơm nhiều, khoai sắn ít.
Nghèo thì chỉ thấy khúc sắn củ khoai mà không thấy cơm đâu cả.
Giỡn một cách mai mỉa như Vũ Ánh thì lát khoai mì cõng 300 hột
cơm. Trong “Thung Lũng Tử Thần”, tác giả viết: “Thực phẩm
gồm cơm và khoai mì. Thực tế mỗi bữa ăn chúng tôi được phát
khoảng 6 lát khoai mì phơi khô rồi luộc chín. Sáu lát khoai mì khô
ấy “cõng” thêm khoảng từ 250 đến 300 hạt cơm.” (trang 146)
Người ta chỉ ăn ngô khoai hay hay độn vào những năm đói kém,
mưa bão, lụt lội, mất mùa. Mất mùa thì không có gạo, phải ăn
khoai sắn, nên cha ông dặn rằng:
Được mùa chớ phụ ngô khoai.
Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng.
Những năm Thân, Dậu thường có bão lụt, mất mùa…
Ấy là nói chuyện cổ tích. Thời đại ngày nay, không bão lụt, hạn
hán, cơm không có để ăn mà khoai sắn cũng hiếm. Ấy là do chính
sách của nhà nước.
Hồi còn niên thiếu, khi làm precepreur ở nhà ông chú họ, tôi
thường nghe ông mai mỉa con cháu: “Thừa cơm rửng mỡ, đói rả
họng vào thì…” Hồi trước 1975, thanh niên, sinh viên miền Nam
thường biểu tình, tranh đấu, đả đảo, đòi hỏi chuyện nầy, việc kia.
Sau 1975, không thấy thanh niên, sinh viên biểu tình. Nói như ông
chú tôi: “Đói rả họng…” thì biểu tình gì nỗi. Ai nói đó không phải
là “nhờ ơn đảng, nhờ ơn bác…” nên thanh niên sinh viên không đi
biểu tình tranh đấu nữa.
Những ai không ăn khoai sắn, không ở tù dưới chế độ Việt Cộng,
khó hát câu “thương em dài lâu…” Và cũng khó nói nếu ai đó có ở
tù với Cộng Sản, mà lại không quen “chôm chĩa” khoai sắn.
Bấy giờ thì “đổi đời” rồi. Ngày trước, cơm là món ăn chính, khoai
sắn chỉ là phụ. “Đổi đời” thì khoai sắn là chính, cơm là phụ. Lâu
lâu mới được chén cơm. Cũng vì vậy nên dân Saigon có câu
chuyện đùa “Ăn cơm Ba Lan (g)”: Sáng khoai, trưa khoai, chiều
khoai, ngày “Ba”
bữa khoai “Lan(g)”. “Chính hiệu con nai vàng” là Cơm Ba
Lan(g). Đâu có ai nói vu!
Cái khổ ấy, dân miền Nam chịu sau dân miền Bắc những hai mươi
năm.
Trong vụ “Nhân Văn Giai Phẩm”, Phùng Quán bị “đánh tơi bời”
vì bài thơ “Chống tham ô, lãng phí” của ông. Bài thơ có một hình
ảnh đang nhớ, nói về cảnh sống của dân Bắc Kỳ hồi ấy:
“Tôi đã đi qua Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng Nước
biển dâng cao ướp muối các cánh đồng Hai mùa rồi, lúa không có
một bông Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ…
Người ta chỉ ăn toàn khoai sắn, ăn cả vỏ, mà vỏ thì không tiêu hóa
được!
Trong thơ, người ta nói về khoai sắn nhiều lắm, nay chỉ xin nói về
ca nhạc thôi.
Năm 1946, Phạm Duy theo kháng chiến. Theo kháng chiến, cũng
có nghĩa là bỏ thành thị, về vùng quê, sống với nông dân. Phần
đông, khi tản cư hay theo Việt Minh kháng chiến, về miền quê,
người ta ngại. Trước hết, ở thôn quê thiếu tiện nghi, không như ở
thành phố có sẵn điện nước, v.v.
Vì vậy, “theo chính sách”(?) của Việt Minh, Phạm Duy làm bài ca
ngợi cảnh sống ở nhà quê theo lời một bài ca dao, cũng trong
“Quốc Văn Giáo Khoa Thư” để khuyến khích người thành phố
“Về Đồng Quê”. “Về Đồng Quê” cũng là tên một bài hát của ông.
Ai bảo chăn trâu là khổ Chăn trâu sướng lắm chứ
Rồi Phạm Duy ca ngợi:
Khoai lùi bếp nóng Ngon hơn là (a à a) vàng.
Khoai sắn ngon hơn là vàng? Có thật chăng?
Thật đấy!
Năm 1980, khi tôi còn ở tù cải tạo Z30A, trại Xuân Lộc, gặp anh
Cao Văn Thanh, xuất thân Quốc Gia Hành Chánh, em một người
bạn học cũ, cô Cao thị N. Lần đầu tiên “ăn chung” với anh, bữa ăn
mỗi người lãnh một chén khoai mì lát. Nhìn lát khoai mì còn
trắng, anh ta nói: “Khoai mì ngon quá”. Nói như thế là vì anh ấy so
sánh với khoai mì được phát khi anh còn tù ở “Vương quốc Lừa
Dối” (nói theo cách của nhà thơ Lê Mai Lĩnh), lát khoai mì đã
thâm đen lại, mục, đã biến chất, chất bổ dưỡng chẳng còn bao
nhiêu.
Phạm Duy không ở tù Việt Cộng, sao ông ta biết khoai “ngon hơn
là vàng”. Đó chỉ là cách ông ta nói theo lối thậm xưng của người
nhà quê Bắc Bộ mà thôi!
Không chỉ “Em Bé Quê” là trẻ ngoan, người nhà quê cũng thật
thành, chất phát. Cũng trong đường lối ca ngợi thôn quê, người
nhà quê, Phạm Duy còn viết trong bài hát “Vợ Chồng Quê”:
Chàng là thanh niên mạch sống khơi trên luống cày.
Nói năng hiền lành như thóc với khoai.
Thóc khoai là biểu tượng cho sự thành thật, hiền lành của người
nhà quê Việt Nam?
Bài hát “Bà Mẹ Quê” cũng có tính chất quê mùa, thật thà, vất vả
của người mẹ nhà quê, nhưng không thấy Phạm Duy nói tới thóc
với khoai như trong bài hát vừa rồi.
Hết ca ngợi người, Phạm Duy ca ngợi cảnh thôn quê Việt Nam:
Trong “Nương Chiều” cũng không thiếu hình ảnh nương khoai,
(rẫy sắn);
Chiều ơi! Lúc chiều về rợp bóng nương khoai Trâu bò về rục mõ
xa xôi…
Trong số các nhạc sĩ theo kháng chiến, ca ngợi thôn quê Việt
Nam, không chỉ một mình Phạm Duy đâu! Người ta cũng thấy
điều ấy trong những bài hát của Hoàng Thi Thơ:
Mưa lay hoa cà da em quá mặn mà và thương bao giọt mồ hôi
(Duyên Quê)
Em ơi . . . Mướp cà mấy độ lên hoa? Hương cau còn tỏa mái nhà?
(Tình sầu biên giới)
Trong bài “Các Anh Đi”, Hoàng Thi Thơ diễn đạt một cách cảm
động hơn:
Anh đi một sáng Thu buồn Xao xuyến thôn nghèo và vườn dâu níu
tay anh Vườn khoai níu chân anh ngẩn ngơ bao lòng
(Các Anh Đi - Hoàng Thi Thơ)
Cành dâu vươn ra khỏi hàng, vướng vào tay người đi, như muốn
níu người ở lại. Giây khoai lang vươn ra khỏi vồng, vướng vào
chân anh, như muốn níu chân anh lại.
Trong kháng chiến, Phạm Duy đi “công tác” nhiều nơi. Lên mạn
ngược cùng Văn Cao, ông soạn bài “Rừng Lạng Sơn”, còn Văn
Cao soạn bài “Bắc Sơn”. Phạm Duy vào Bình Trị Thiên, soạn các
bài “Về Miền Trung” khi ông về Đại Lược (1) và “Quê Nghèo”,
khi ông về Quảng Bình.
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầỵ…
Nồi cơm ngô đầy mà cũng vui đến thế sao?!
Dĩ nhiên, người dân cũng không vui với nồi cơm ngô ấy. Họ ước
mong một cuộc sống no đủ hơn, không có cơm trộn ngô khoai,
v.v.
Phạm Duy biết điều ấy khi ông viết:
Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi Ðể cho cô con gái không
buồn vì gió Ðông Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em Ðể cho anh
trai tráng được gần người gái quê.
Trong chiến tranh chống Pháp, người dân quê khổ không ít về
binh đao, giết chóc. Câu chuyện “Bà Mẹ Gio Linh” được Phạm
Duy viết thành nhạc, khiến bao nhiêu người phải khóc. Người ta
kể cô Thái Thanh, mỗi lần hát bài hát nầy, cô từng chảy nước mắt
không ít lần:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Quê bà ở làng Mai Xá, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Con bà là
du kích ở làng, bị Tây ở đồn Nhĩ Hạ, bắt được, chặt đầu cắm vào
đòn xóc, đem bêu ở chợ. Nghe tin con bị giặc giết, bà mẹ lặng lẽ đi
lấy đầu con về, giấu trong thúng, rồi đem chôn…
Thương con, bà mẹ thương luôn cả những người bạn của con, đã
cùng con chiến đấu. Khi họ đến thăm bà. Bà có gì quí để đãi bạn
của con?
Mẹ già đi lấy nồi khoai
Bưng lên khói hương mờ bay
Có người nói rằng khi “Về miền Trung”, Phạm Duy soạn hai bài
hát đáng nhớ: Bài “Về Miền Trung” khi ông ở Quảng Bình, và bài
“Bà Mẹ Gio Linh” khi ông đến Quảng Trị.
Tôi không nghĩ vậy. Nếu Phạm Duy viết “Làng tôi không xa kinh
kỳ sang chói”, có nghĩa rằng làng ấy thuộc Quảng Trị. Quảng
Bình thì xa quá, cách một “Truông nhà Hồ”. Thật ra, cảnh làng xơ
xác ấy, tôi từng thấy ở quê tôi. Qua khỏi “phà Bồ Bản”, ở ngay
làng nầy, và kế đó là làng Tường Vân, người ta thấy ngay cảnh
Phạm Duy mô tả trong bài “Quê Nghèo”, ngay cả những sau năm
chiến tranh 46-54.
Vùng nầy, từ phía ngoài Cửa Tùng, kéo dài tới Phá Tam Giang,
Sịa, v.v… là vùng đất bị cát xâm thực, không trồng lúa được.
Người ta thường lên vồng trồng khoai lang. Trời mưa thì khỏi
tưới. Gặp khi hạn hán, người ta gánh nước sông lên tưới khoai
lang đến “mờ người”. Tôi từng đọc một truyện ngắn, kể về một cô
gái quê nghèo ở vùng Sịa, “theo cách mạng” chỉ vì một câu tuyên
truyền không mấy thực tế của một cán bộ Cộng Sản: “Cách mạng
thành công thì có máy tưới khoai lang, khỏi phải gánh hàng trăm
đôi nước mỗi ngày.”
* * *
Ở tù dưới chế độ Cộng Sản, không ít người bị “tụi nó” bắt đi cuốc
đất trồng khoai. Anh bạn tù thân yêu của tôi, cũng là “đội trưởng”
của tôi, gọi đùa việc lên luống trồng khoai là tập “thể dục tổng
hợp”. Người tù khi lên luống khoai, đứng một chân trước, một
chân sau, đưa cuốc lên thật cao, dáng mạnh xuống phía bên kia, để
lát cuốc ăn được sâu xuống đất, rồi kéo mạnh lên, kéo nguyên cả
tảng đất, đắp lên bổi. Bổi là các cành lá, bụi tranh, bụi cỏ, được sắp
hàng dọc, để làm phân xanh, củ khoai được to. “Bọn tù chúng tôi”
cũng không kém thông minh. Thỉnh thoảng xin cán bô xuống suối
lấy đá để mài cuốc. Cuốc không bén, lát cuốc không sâu. Cuốc của
chúng tôi đâu có lụt. Mài cuốc chỉ là cái cớ. Xuống tới suối, mài tí
chút, xong để ngang cây cuốc lót đít mà ngồi nói chuyện với nhau
chơi! Ấy là tội “trốn lao động”. Dĩ nhiên, cũng có anh chàng nào
đó đứng canh chừng cán bộ. Hễ cán bộ tới thì lại…mài cuốc!
Vậy thì sau chiến tranh, người dân quê được gì?
“Ngày Trở Về”, cũng do Phạm Duy viết “Ngày trở về, lúa ngô thi
nhau hát đùa trước ngõ”. Có lúa mà cũng có ngô. Hai thứ nầy
không rời nhau ra được sao?
Bài hát “Người Về” của Phạm Duy cũng vậy. Mấy đứa trẻ --
tương lai Dân Tộc Việt Nam đấy -- chúng như “Một đàn chim nhỏ
bé, Gọi về chia sớt miếng cơm khoanh cà.” Không ngô khoai thì
cũng cơm cà.
Hoàng Thi Thơ cũng không khác chi. Nguời đi kháng chiến nhắn
về hỏi vợ:
“Em ơi!
Mướp cà mấy độ lên hoa…”
(Tình sầu biên giới)
Ở đây, không cơm với cà thì cũng mướp với cà.
Sau chiến tranh, phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia “tiếp thu”
Nam Ngãi Bình Phú (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên), Phan Lạc Tuyên xúc động không ít vì cảnh sống nghèo khó
của người dân vùng nầy. Bài thơ “Tình Quê Hương” ông viết
trong chiến dịch nầy, được Đan Thọ phổ nhạc.
Mẹ già như chiều nắng, Nhớ con trai chưa về, Ruộng nghèo không
đủ thóc Vườn nghèo nong tằm thưa
“Con trai chưa về”? Anh ta theo Việt Minh, lên rừng hay “tập kết
ra Bắc”? Mẹ và con gái ở lại đó, đón người lính Quốc Gia “Về giải
phóng quê em” với tình cảm mặn nồng:
Em mời anh dừng lại, Đêm trăng ướt lá dừa, Bên nồi khoai mới
luộc, Ngát thơm vườn ngâu thưa,
Dù có mặn nồng như thế nào thì cũng chỉ có “nồi khoai mới
luộc”.
Bài hát nầy khá hay, nhưng kể từ khi Phan Lạc Tuyên đào tẩu qua
Miên vì tham gia cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960. Sau
ông theo Việt Cộng ra Bắc. Các ca sĩ miền Nam ít hát bài nầy. Ca
sĩ Cộng Sản thì chẳng bao giờ. Bây giờ Phan Lạc Tuyên đã bị Việt
Cộng hóa, chính anh em nhà ông cũng phê phán ông nặng nề, nói
chi dân chúng Việt Nam.
Dù có chiến tranh hay không, đồng quê Việt Nam không bao giờ
thiếu cảnh khoai cà. Đó là nhận xét của Phạm Thế Mỹ trong bài
“Rạng đông trên quê hương Việt Nam”. Nói cho cam, trước 1975,
giới trẻ miền Nam cũng có nhiều người ưa nhạc Phạm Thế Mỹ,
nhiều người hát bài “Trăng tàn trên hè phố”. Tuy nhiên, xem kỹ
lời ca ông viết, người ta biết ông thiên tả. Ít người biết ông là em
ruột nhà văn Cộng Sản Phạm Hổ.
Trên đò máy anh đi qua
Con sông nhỏ trôi hiền hòa Trong vườn cà đang ra hoa
Cánh bướm xuân múa mừng ta
Những lời ca sau đây, dĩ nhiên, cũng “ca ngợi” ngô khoai, nhưng
đây là dân ca:
Gió lên rồi căng buồm cho khoái.
Gác chèo lên ta nướng khô khoai hờ hơ!
Tình tang tang tính tính tang.
Khoan hỡi khoan hò.
Bỏ ghe mà nghiêng ngửa ớ ơ là hò.
Không ai chống chèo.
Không ai chống chèo ơ hò ơ hò là hò ơ
(Lý kéo chài)
Sau khi Việt Cộng “cởi trói”, người ta nghe không ít lần bài hát
“Về đây nghe em” của Trần Quang Lộc, một nhạc sĩ trẻ quê ở
Quảng Trị. Trước 1975, ông bị tất bẩm sinh nên khỏi bị động viên
vào quân đội.
Đừng hiểu lầm đây là bài hát Việt Cộng kêu gọi người Việt hải
ngoại về thăm quê hương.
Trước 1975, một dịp nào đó, tình cờ ông gặp vài cô gái cùng quê,
vì sợ bom đạn hơn là sợ nghèo đói, lên thành phố, làm nghề bán
“bar” Mỹ. Ông đau lòng cho người dân xứ ông, kêu gọi họ “Về
đây nghe em”:
Về đây mặc áo the, đi guốc mộc.
Kể chuyện tình bằng lời ca dao.
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai.
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới.
Những ai có trồng khoai thì biết việc ôm hom khoai dăm vào
luống. Có anh chàng mất người yêu, tìm “Người xưa đâu rồi” mãi
không thấy, than thở
Lá khoai ôm mãi chưa xong
em đi lấy chồng tui còn với ai!
ơi cò ới ơi cò ơi …
Sau khi đất nước chia đôi, miền Bắc thì, nói như Phùng Quán,
“phân người toàn vỏ khoai trắng đỏ” thì miền Nam là “Trăng
thanh bình”, đất ruộng miền Nam là:
Quê hương đôi ta đồng xanh xanh bao la! Tình thương như sắn cà
một niềm mặn mà
Người ta thương yêu nhau lắm đấy. Nói như Phạm Duy thì “hiền
lành như thóc với khoai”. Ở đây thì “sắn cà”.
Dù nói như thế nào, thì khoai sắn cũng là cảnh nghèo. Trang Thế
Hy, một cộng tác viên báo Nhân Loại hồi cuối thập niên 1950, sau
theo Cộng Sản, như Lê Vĩnh Hòa, tên thật là Đoàn Thế Hối, em
ông Võ Phiến, cũng có một bài thơ có khuynh hướng xã hội. Bài
thơ nầy được Phạm Duy, dựa theo ý thơ để phổ nhạc. Câu chuyện
xảy ra chung quanh một… củ khoai:
Khi họ còn thơ bé, từng chia nhau:
Em cầm một củ khoai Ghé răng cạp vỏ rơi Xong rồi mình chia đôi
Khoai sùng này lượm mót Sao ngọt lại ngọt ghê
Rồi cuộc đời đua đẩy, người con gái đã bỏ nhà ra đi, sống một nơi:
Dè đâu chẳng may là quán Em bẹo hình hài đem bán...
Bây giờ họ:
Bánh ngọt cùng mời ăn Nhớ chăng củ khoai ngon (Quán bên
đường,
thơ Trang Thế Hy, Phạm Duy phổ nhạc)
Không quên củ khoai ngon, dù hồi thơ ấu, nhà họ nghèo.
Bây giờ, nhiều người Việt Nam sống ở Mỹ, có ai nhớ khoai sắn?
Không ít lần tôi vào chợ Việt Nam. Khoai tây ở đây không thiếu
gì, nhưng khoai lang thì thấy ít. Đôi khi tôi tìm được khoai tím
Đà-Lạt, khoai trắng, khoai (màu, nghệ) vàng. Tôi nhớ sắn hơn, đôi
khi chợ Việt Nam không có, tôi vào chợ Mỹ tìm “Yucca”. Yuca là
tiếng “Xì” (Xì-pa-nish) Tây Ban hay tiếng Mỹ? Khoai mì phải
trồng ở vùng đất khô, như ở miền Đông Nam Bộ chẳng hạn. Tôi ở
miền Đông-Bắc Hoa Kỳ, không biết ở miền Nam Mỹ có trồng
khoai mì hay không. Khoai mì ở đây thường từ các nước Nam Mỹ
Châu đem lên.
Không phải chỉ riêng tôi hay nhiều người ưa khoai mì hay khoai
sắn, v.v.
Cũng có người “Em vẫn mơ một ngày nào”, dĩ nhiên là để trở về
quê hương mình, và để
Bên mái hiên ta ngồi chuyện trò. Khoai nướng thơm hương tình
ruộng đồng. Con thơ ngoan hiền ê a đánh vần
“Vê en-Nờ” là Việt Nam kiêu hùng.
Người sáng tác bài hát nầy là ca sĩ Nguyệt Ánh. Cô con gái một
ông đại tá miền Nam. Vậy thì có lẽ, trước 1975, không mấy khi cô
ta ăn khoai sắn chăng? Khoai sắn là món ăn của người nghèo mà!
Nhưng đã là người nghệ sĩ chân chính thì đâu cần phải vậy, đâu
cần phải có ăn hay không ăn khoai sắn mới biết, mới có tấm lòng!
Khoai sắn là món ăn của Dân Tộc. Cảm nhận được tình tự của Dân
Tộc là cảm nhận được cái gì thuộc về Dân Tộc. Có thể đó là Lịch
sử Dân Tộc, Văn hóa của Dân Tộc, Bản chất của Dân Tộc. Trong
viễn tượng đó, dù ăn thịt cá, sơn hào hải vị, hamburger hay hot
dog… Dù gì thì khi nhớ Việt Nam, nhớ Người Việt Nam, nhớ Quê
Hương Việt Nam, ai lại không thể nhớ tới khoai sắn được?
Sau khi chiếm miền Bắc, hai mươi năm sau cai trị toàn cõi, Cộng
Sản đẩy người Việt Nam tới tận đói nghèo, cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc. Ngày ba bữa khoai lang, mấy lát khoai mì, ăn vào
đau cả miệng, xót cả ruột, khiến người dân Việt Nam đâm ra sợ
khoai sắn hay chăng?
Hễ nói tới Việt Cộng là người ta nghĩ tới khoai sắn, làm như khoai
sắn cũng là… Việt Cộng.
Nghĩ vậy là nghĩ oan.
Nghĩ vậy là “Tôi nghiệp cho khoai sắn”!
Hoàng Long Hải
Chú thích:
* Trong một bài viết của Thanh Tịnh, ông kể chuyện “Đi buôn đò
dọc” là một hình thức thương mại của người dân Trị-Thiên trước
1945. Người ta mua hàng từ Chợ Huyện, Chợ Phủ ở Vĩnh Linh
hay Cầu Hai, Nước Ngọt ở phía nam Huế để bán lại cho người tiêu
thụ ở Huế, cố đô. Thương buôn thường chở hàng bằng Đò Dọc,
trong một khung cảnh rất hữu tình. Trên sông dài trời rộng, một
chiếc thuyền đi trước, một chiếc đi sau. Người chèo thuyền trên
hai chiếc thuyền thường hò đối đáp qua lại.
Người chèo thuyền đi sau hò một câu làm quen:
“Thuyền ai đi trước,
Cho tôi lướt đến cùng.
Cảnh đã chiều, trời đất mông lung.
Phải duyên thì xích lại cho đỡ não nùng tiếng sương.
Có tiếng hò phía trước đáp lại người chèo thuyền sau. Đến một lúc
nào đó, qua gần hết “Phá Tam Giang”, người ta hò chia tay:
“Thuyền về Đại Lược,
Duyên ngược Kim Long
Tới đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?
Từ ngữ trong câu hò, vừa mới mẻ, bóng bẩy và lãng mạn vô cùng.
Nhiều người mê đi buôn đò dọc là vì vậy. Trong ý nghĩa đó, ca
dao Trị Thiên lại có câu:
“Mẹ già cuốc đất trồng tiêu
Con buôn đò dọc mẹ liều con hư”
NGÀY 8 THÁNG GIÊNG THẮP NÉN HƯƠNG LÒNG
TƯỞNG NHỚ TRẦN VĂN Á VÀ CÁC LIỆT SĨ YÊU NƯỚC
Thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Chủ tịch Tổng hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, ông Trần Văn Bá
bị bắt đêm 11 tháng Chín năm 1984 tại vùng An Xuyên và Bạc
Liêu (hai tỉnh Nam Phần Việt Nam Cộng Hòa). Ngày 18 tháng
Mười Hai, cộng sản kết án tử hình 5 tù nhân yêu nước Trần Văn
Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch, Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh
Sanh. Ông Trần Văn Bá từ chối ký tên xin ân xá. Cộng sản cải án
tử hình ra tù chung thân cho hai ông Mai Văn Hạnh và Huỳnh
Vĩnh Sanh có quốc tịch Pháp.
Do cuộc vận động của cộng đồng người Việt tị nạn, các tổ chức
quốc tế bênh vực Nhân Quyền và nhiều nước dân chủ trên thế
giới, cùng chính phủ Thụy Sĩ, đã đồng thanh phản đối các bản án
tử hình bất công và vô nhân đạo. Sợ công luận bất lợi có thể lan ra
trên thế giới, các lãnh chúa bạo quyền Hà Nội đã ra lệnh khẩn cấp
hạ sát ba tử tù Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch trước
bình minh ngày 8 tháng Giêng năm 1985 :
Sài Gòn của chúng ta
Nặng trĩu những vầng mây tang
Dưới vòm trời Yên Bái
Nửa thế kỷ sắt máu trôi qua
Từ thực dân tới cộng sản
Đem súng đạn Trung Sô
Thay cho máy chém
Nhắm bắn Anh Em
Quân cuồng tín nhắm bắn
Trái tim linh hồn
Miền Nam Việt Nam bất khuất
Giặc bao giờ hiểu được vì sao
Khủng bố chẳng làm nao núng
Niềm Tin của chúng ta
Ở ngày mai
Nơi tương lai đất nước (…)*
Đó là một biến cố đau thương, một ngày phẫn uất, không thể nào
quên đối với Người Việt tị nạn cộng sản. Từ ấy, cứ đến Ngày 8
tháng
Giêng mỗi năm, nhớ lại Ước Mơ của Anh Em, Ước Mơ của những
người Việt Nam yêu Nước thương Dân, biết xót thương và biết
can trường.
Ước Mơ với lòng tin nơi con người và đất nước. Lòng tin như
những ngọn nến nhỏ, những vì sao long lanh trong đêm tối lịch sử
dân tộc. Nhưng sẽ soi đường cho hàng hàng lớp lớp những người
nô lệ cùng đứng lên và đi tới. Ước Mơ được ‘‘sống một mùa Xuân
– Xuân Việt Nam’’ lúc chồi non lá biếc trên những nhánh cành mặt
trời Tự Do đua nhau mọc lại. Ước Mơ với những em bé chăn trâu
phất cờ lau thay ‘’cờ sao vàng chìm giữa biển máu’’. Ước mơ với
những người chị những người em gái ‘’không còn quên mái tóc
thề’’, ‘’Giấu nhan sắc giấu hồn quê trong lòng’’. Ước mơ vì đồng
bào không muốn thấy nữa ‘’Vô duyên cờ đỏ búa liềm’’, ‘’Ai treo
rũ xuống trước thềm nhà ta’’ . Ước mơ với hàng triệu người vượt
biển đã quay nhìn lại lần cuối :
Mặt trời vừa lặn trên biển Đông
Ta quay nhìn lại phút sau cùng
Việt Nam một chút dung nhan ấy
Dù xa ngàn năm còn đứng trông
Em vẫn đợi anh, bạn đợi ta
Nuôi trong lòng nỗi nhớ vô bờ
Niềm tin địa chấn nào lay chuyển
Đối diện tay trần với chiến xa
Giặc cướp được đâu chiếm được đâu
Ta mang theo đi khắp tinh cầu
Quê hương tình cảm trung trinh ấy
Xa nhau để tìm thấy gần nhau (…)
Mẹ yêu thương ơi không khóc nữa
Nước mắt dành cho mùa đoàn viên
Đau khổ nẩy mầm thành cây lúa
Các con về vàng chói cánh đồng (…)
Mơ ngay cả trước khi bức tường ô nhục Bá Linh bị xô ngã, kéo
theo sự sụp đổ của Khối Liên Sô – Đông Âu, thành trì phe xã hội
chủ nghĩa của đảng xã hội đen Hà Nội. Ước Mơ của Anh Em,
những người hậu sinh dấn thân, nung nấu tinh thần Yên Thế và
Yên Bái, Kiên Giang và Nhựt Tảo, tinh thần Hoàng Sa 19 tháng
Giêng năm 1974, trước khi tuẩn tiết :
“VIỆT NAM MUÔN NĂM’’
Những tiếng hô sau chót
Dù máu tươi thuốc súng đã quánh khô
cháy bỏng lửa đạn
còn âm vang…
Chúng tôi, những người đến sau, xin được nói lên và viết ra, sẽ
làm chứng cho Anh Em trong chuyến hành hương trên quê hương
không còn bị cộng sản áp bức, đày đọa khổ nhục :
Ước Mơ của Anh Em
Đềy lùi tội ác
Soi thấu đêm đen
Đang phủ trùm thiên đường chết
Quê hương tù ngục lưu đày
Biết bao oán thù chờ cởi bỏ
Biết bao vết thương sâu chưa khâu vá
Ước mơ của Anh Em
Nhổ bật rễ bất công
bón mầm Nhân Ái
Tâm sự không còn dây leo sợ hãi
Hòa bình thơm nức trái Tự do.
Cho Bình minh của chúng ta
Hân hoan xòe cánh
Cho bầy bồ câu trắng
Đến đậu bờ vai đàn trẻ thơ
Khoan thai gõ nhịp
Cho đôi chim sơn ca
Thôi rụt rè cất tiếng hót
Cho những búp sen thanh khiết
Vươn lên từ đầm lầy
Giữa ngút ngàn điệp trùng bông lúa
Nở rộ thành những gương mặt Người. *
*Niềm Tin của chúng ta – Đêm Vượt Biển – Con Đường Ta Đi
(thơ NHBV)
Ngày 8 tháng Giêng năm 2015, chúng tôi thắp Nén Hương Lòng
Tưởng Nhớ ba liệt sĩ Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch
và tất cả những Người Yêu Nước đã hy sinh hay mất tích, được
biết tên hay còn vô danh.
Và xin được gởi đến quý bạn đọc bài thơ Hồn Thiêng Sông Núi
của thi hữu Nguyên Hoàng Bảo Việt, như Nén Hương Lòng
Tưởng Nhớ…
Hồn thiêng sông núi Tưởng nhớ Trần Văn Bá và các Liệt Sĩ
Núi mãi trầm tư ngó xuống đồng
Bạn về thành phố bên kia sông
Trao giùm lá thư mình chép vội
Nội ngoại bà con đỡ nhớ mong
Giữa trái tim ươn hạt ước mơ
Bông lúa chen bông lau dựng cờ
Ngày lên đường hẹn ngày sẽ đến
Nước Việt của người Việt tự do
Niềm tin nào đem so gang thép
Đường xa dấn bước chí không sờn
Giặc thờ Trung Sô quên tổ quốc
Ta giữ nguyên tình nghĩa sắt son
Khói trắng vườn cau ai đốt lá
Bâng khuâng hương lửa tối gia đình
Thao thức người đi tìm lịch sử
Sao trên rừng vì sao long lanh
Kín đáo bờ tre nhìn tríu mến
Giọng nói như che giấu ngậm ngùi
mấy nhịp cầu vùng tạm chiếm
Gần nhau mà tưởng quá xa xôi
Thương cảm hai triệu người bỏ nước
Vượt bình yên hay chết hãi hùng
Ở lại sống cuộc đời súc vật
Khổ sai tập thể tù tập trung
Sáng tháng giêng gió lùa buốt lạnh
Tin cầm tay nửa muốn hồ nghi
Ác mộng thấy sơn ca gãy cánh
Không gian dầy đặc khối mây chì
Giặc say tra tấn - quân cuồng tín
Trói siết anh em sát bức tường
Đứng trước mũi súng vẫn điềm tỉnh
Thiên đường đỏ đâu bằng quê hương
Mùa tang núi cũng tan thành lệ
Sông quặn đau lòng Mẹ Việt Nam
Bay từ Yên Bái về Yên Thế
Sài Gòn nghe tiếng Chim gọi Đàn.
Nguyên Hoàng Bảo Việt (1985)
Lá thư đầu tiên
Phương Duy TDC
Tokyo tháng 1 năm 2009
Anh Nguyễn thân mến,
Đây là lá thư đầu tiên em viết gửi đến Anh từ Nhật Bản, nơi lần
đầu em trở về thăm quê hương. Tất cả đối với em đều lạ hết chỉ trừ
ngôn ngữ em đang nói. ....
Nhân dịp năm mới 2009 em chúc Anh vui vẻ và hanh thông trong
công việc đang làm. Em sẽ kể cho Anh những ngày đầu tiên em ở
quê hương.
Theo tục lệ cổ truyền em ăn món “soba noodles” trong đêm trừ
tịch vì mọi người tin tưởng sẽ được trường thọ. Sáng ngày 1 nhìn
ánh sáng đầu tiên lúc mặt trời mọc cũng xem như rất may mắn
trong năm mới. Đi lễ chùa và mua những lá bùa hên để cầu may
mắn suốt năm. Em về đây một mình, đâm ra nhớ Anh mặc dầu khi
còn ở bên Mỹ em chẳng bao giờ nhớ. Em đọc trong một cuốn sách
người ngoại quốc viết về Tokyo “ một nơi mà tình cảm thầm kín
của con người dễ bộc lộ khi cảm thấy cô đơn đứng nhìn rừng hoa
“sakura” anh đào khoe sắc...”
Vì thế trong những ngày đầu năm, khi ăn món mì soba,nhìn ánh
sáng mặt trời đầu tiên, mua lá bùa hên... em đều dành cho Anh một
phần như Anh đang đứng cạnh bên em. Nếu trong thời gian tới
Anh được Sức khỏe, May Mắn, Phát Tài Lộc... là nhờ em xin hộ
cho Anh đấy!Đừng quên nghe Anh.
Anh yêu,
Thủ đô của Nhật bản nằm bên cạnh con sông Sumida chảy ra vịnh
Tokyo. Thời xa xưa đây là một làng đánh cá mang tên Edo trở
thành trung tâm quyền lực của một “shogun” từ năm 1590.
Từ một “Shitamachi” , một thị trấn thấp kém buôn bán nhỏ, tiểu
công nghệ, phục vụ cho một số dân ở vùng đồi núi phía tây, được
đổi tên Tokyo và trở thành kinh đô năm 1868.
Thành phố bị trận động đất mệnh danh “Great Kanto Earthquake”
năm 1923 tiếp theo những trận mưa bom cua phi cơ đồng minh
trong Đại chiến Thế giới lần thứ hai phá hoại gần như toàn bộ kiến
trúc.
Ngày nay Tokyo là một trong những thành phố hiện đại nhất,
đông dân nhất (12,064,000) kiến trúc đẹp đẽ hấp dẫn nhất và nơi
hoạt
động mãnh liệt về chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật nhất của
thế giới.
Thành phố Tokyo được chia thành ba vùng: vùng phía bắc, vùng
trung tâm và vùng phía tây.
Em đang sống trong vùng trung tâm , nằm về phía bắc và phía tây
của dòng sông Sumida. Vùng này được mệnh danh “quả tim của
Tokyo”, nơi có nhiều kiến trúc lịch sử như Cung điện Hoàng Gia
Nhật Bản, “Diet Building, Kabuki-za Theater .
Cung điện Hoàng gia thiết lập năm 1868 dưới thời Hoàng đế Meiji
( 1852- 1912), Minh Trị Thiên Hoàng. Truyền qua các thế hệ kế
tiếp nối ngôi: Thời đại Taisho (1912- 1926), thời đại Showa, Nhật
hoàng Hirohito (1926- 1989) và hiện tại thời đại Heisei, Nhật
hoàng Akihito (từ 1989 - )
Kabuki-za theater là nhà hát chuyên diễn các tuồng hát cổ truyền,
khánh thành năm 1889 dưới thời Nhật hoàng Meiji, bị hư hại
trong trận động đất lớn năm 1923 và bị phi cơ đồng minh ném
bom gần như sụp đổ toàn bộ trong thế chiến II và đã được tái thiết
năm 1951.
Trong những ngày đầu năm mới, em chưa đi học nên em đã đi
thăm nhiều nơi. Vì thích văn hóa và ngôn ngữ Pháp nên em dành
cho thương xá mang tên “Printemps” được em chọn tiếp sau khi
viếng ba kiến trúc lịch sử kể trên.
“Printemps” là chi nhánh một đại siêu thị của người Pháp. Cửa
hàng của người Paris đã xâm nhập thị trường Nhật bản từ thập
niên 1930 cho đến ngày nay. Em thích nhất là ngồi thưởng thức ly
café francais thơm ngon ở những quán Café Pháp và đi xem
những cửa hàng bán sản phẩm “Parisien” chính gốc đủ loại.
Nhưng cái lạ đầu tiên em cảm nhận là Nhật Bản có đến 5 mùa
trong một năm.
Mùa Xuân, mùa Mưa, Mùa Hạ, mùa Thu và mùa Đông. Em viết
thật đấy: có một mùa “đặc biệt” là “Mùa Mưa”, tuy chỉ xẩy ra
trong vòng một tháng.
Mặc dù nước Nhật là một nước theo trào lưu rất hiện đại của thế
giới ngày nay đang dùng Dương Lịch làm chuẩn. Nhưng nước
Nhật cũng như nhiều nước khác ở Á đông, nông nghiệp nhất là sản
xuất lúa gạo cũng chiếm phần quan trọng nên âm lịch và mùa (tính
theo tuần trăng âm lịch) dân chúng vẫn còn dùng song song với
dương lịch.
Mùa Xuân nằm trong các tháng March, April và May. Mùa Mưa
nằm trong háng June, mùa Hạ trong tháng July, August và
September, mùa Thu nằm tháng October, November và
December, mùa Đông chỉ gồm hai tháng January và February.
Như vậy ngày January 1 rơi vào tháng đầu của mùa Đông. Trời
Tokyo rất lạnh và em đang nhớ Anh thật nhiều. Bây giờ mà có
Anh bên cạnh, chúng ta tay trong tay đi đi thăm tất cả danh lam
thắng cảnh của Tokyo trong những ngày đầu năm.
Chúng ta cùng đi đến “Tsukiji fish market” Đó là một chợ cá
khổng lồ, không lồ vì số loại cá bày bán, khổng lồ vì quá nhiều
quày bán cá, khổng lồ vì số khách hàng đến mua, đặc biệt được
tính theo giá sỉ cho người tiêu thụ. Anh đừng nghĩ: “ ồ, chợ cá có
gì đặc biệt mà phải đến xem, Anh sẽ hỏi Em có bị “mát” không?”
Thưa Anh: Như em đã viết... một chơ cá khổng lồ.....đúng vậy.
Nguyên là một chợ cá ngày xa xưa tọa lạc tại Nihonbashi, sau năm
1923 bị trận động đất lớn làm cháy rụi chợ này nên được tân tạo
tại địa điểm hiện tại. Mỗi buổi sáng trong tuần lễ, trừ ngày chủ
nhật, từ 5 giờ sáng chợ bắt đầu mua bán đến 10 giờ sáng. Giờ đông
khách nhất là 5 đến 8 giờ. Lúc đó có 15 ngàn người bán trong các
nhà hàng ăn uống và những tiệm bán thực phẩm từ mọi nơi trong
thành phố đến mua 450 loại cá biển tại 1,700 gian hàng cung cấp
cá mới đánh bắt từ biển đem vào. bên cạnh đó là chợ bán đủ loại
rau quả cũng theo giá bán sỉ.
Một chiếc cầu nhỏ dẫn lối vào cổng chợ và phía trước chỗ này một
đoạn ngắn là “Namiyoke Inari Jinja” nơi các ngư phủ và người
buôn bán cá đang cúng vái cầu xin an toàn và thịnh vượng.
Đối diện, bên kia đường là những sạp bán sushi, tempura... và có
bán cả cà-ri nữa.
Quang cảnh mua bán tấp nập nơi này làm du khách phải chú ý khi
tình cờ đi ngang qua đây.
Đi thăm nhiều nơi, em cảm thấy mỏi chân nên tìm một nơi ngồi
nghỉ. Đó là “Shiba Park và “Tokyo tower”.
Công viên Shiba là nơi làm dịu mắt du khách bằng mầu xanh cây
cỏ trong một đô thị đầy mầu sắc chói chang của mặt trời, mầu xe
cộ, mầu các biển quảng cáo sặc sở. Vào công viên, ngồi dưới cỏ
xanh trên có những tàng cây che mát, nhìn dòng nước chảy em
quên hết nhọc mệt. Một nơi tĩnh lặng đầy không khí Thiền!
Về hướng tây của công viên là Tháp Tokyo. tháp này xây dựng
hoàn tất năm 1958, cao 333 mét (1,093 feet), cao hơn tháp Eiffel
của Paris, nước Pháp. Công viên này nguyên là một phần trong
nghĩa trang của dòng họ Zojo-ji.
Anh Nguyễn yêu mến,
Như Anh đã biết họ và tên của người Nhật theo thứ tự trước, giữa,
sau giống như họ và tên của người Trung Hoa và người Việt Nam.
Nhưng năm sinh, em rất mệt khi phải khai báo vì theo lối khai của
người Nhật, tuy vẫn dùng dương lịch nhưng khai năm phải ghi
năm sinh tương đương với năm thứ mấy của nhà vua đang trị vì.
Ví dụ: đương kim Nhật Hoàng Akihito lên ngôi năm 1989 thì ai
sinh ra năm này thì gọi năm thứ Nhất thời đại Heisei. Nếu không
nhớ thời đại hoặc không thuộc sử sẽ phải suy nghĩ để tính năm
sinh cũng mệt óc. Như vậy năm 2009 là năm Heisei thứ 20 đấy!
Hôm anh đưa em lên phi trường San Francìsco về Nhật là ngày 22
December, em đến Tokyo vào ngày 23 nên em kịp “ăn” Giáng
Sinh. Sở dĩ em dùng chữ “ăn” vì Nhật không chính thức nghỉ lễ
này. Tối 24 (Mỹ gọi Christmas Eve) ở Nhật dân chúng chỉ đón
chào Giáng sinh bằng cách ăn KFC “Kentucky Fried Chicken” và
uống nước trái dâu mà thôi. Sáng mai, ngày 25, nếu không phải là
ngày Chủ nhật, thì mọi người vẫn đi làm như thường lệ. Như vậy
“ăn” Giáng Sinh như người Việt Nam của anh (không theo đạo
Thiên Chúa) “ăn” réveillon lễ Noel” vậy.
Anh Nguyễn thương yêu của em,
Nhớ Anh nên em viết vài dòng thư cho Anh . Khi nào em đi học
bình thường sẽ viết về văn hóa, ngôn ngữ Nhật bản mà em tiếp thu
được.
Hôn Anh,
MICHIKO
Phương Duy TDC
Tin Xóm Chùa vùng Cabramatta NSW
Phùng Nhân
Khu phố Cabramatta thuộc miền Tây Sydney hiện nay phát triển
đến độ chóng mặt. Có tin mấy nhà tư bản họ đang dự tính xây
dựng một Trung Tâm Thương Mại cao tầng. Cũng ở nơi đây có đủ
thứ thượng vàng hạ cám, từ việc buôn bán đàng hoàng, cho tới ma
túy, thuốc lắc, xì ke đều có đủ. Người nào cần thứ chi thì cứ đến
phố Cabramatta, ngay như giấy tiền vàng mả để cúng cô hồn, hay
bàn thờ Thần Tài, phong thủy treo trước cửa gió thổi lục lạc kêu
leng keng, bùa bát quái, bàn Ông Thiên được sơn phết một màu đỏ
au cũng đều có hết. Dường như ở Cabramatta ngày nay là Chợ
Lớn ngày xưa. Mấy sạp bán trái cây người ta đứng ngoài mái hiên
rao hàng inh ỏi. Không khí náo nhiệt như một cảnh chợ trời, như
một cuộc mãi võ sơn đông của mấy anh chàng nhổ răng dạo ở
những chợ làng quê.
Rồi cũng ở nơi đây quanh khu vực nầy nào là Shop thời trang,
tiệm vàng, tiệm bán đồng hồ, tiệm cá, tiệm thịt đã phô bày một
khu phố đang hồi sung túc, nhưng tiền mướn Shop giá cao thấy sợ.
Người nào làm ăn thất bại, chỉ cần phá vỡ hợp đồng thì kể như
phải bán nhà để trả nợ như chơi, vì vậy lâu lâu lại có tin đồn giựt
hụi…
Chắc có lẽ nơi đây là một vùng đất thiên thời, điạ lợi nên mấy ông
“thầy” đã quy tụ về đây để mua đất cất chùa, rồi mỗi ông thầy
hùng cứ một phương, chuông mõ chùa ai nấy gõ, kinh kệ chùa ai
nấy đọc, Phật tử của ai thì nấy được cúng dường. Đó là một sự thật
rất hiển nhiên, vì Phật tử ở chùa nào thì làm công quả chùa nấy.
Trong khi đó thì mấy sắc dân khác họ cũng đâu có chịu nằm yên,
chùa Miên, chùa Tàu, chùa Lào thi nhau xây cất rất là đồ sộ.
Nhưng với người Tàu, không phải cùng một gốc đạo Phật giống
nhau, mà họ còn xây lên những đền thờ đạo Khổng, đạo bà Thiên
Hậu, đạo Ông Bổn và còn nhiều đạo khác nữa. Lâu lâu cũng có
thỉnh mấy đại sư Tây Tạng đến giảng kinh, khi họ “đọc chú” thì
cái giọng rền vang như sấm động, nhờ vậy mà bà con cô bác mới
có dịp thấy được các vị đại sư, chớ còn không thì dễ gì thấy mặt.
Khi lạy thì họ dập đầu xuống đất rất thành tâm, chớ không phải
như đạo Phật của Đại Hàn, khi hô lạy thì họ chỉ đứng xá xá rồi
xong…
Trong vùng Cabramatta đã có tới trên 10 ngôi chùa, nhưng trước
sân chùa ít khi nhìn thấy chú tiểu hay ni cô đứng quét sân, là hình
ảnh vừa đẹp, vừa tôn nghiêm ở các sân chùa, mà ngày xưa trong
tiểu thuyết mấy ông nhà văn hay mô tả. Còn ở nơi đây nó chỉ tấp
nập trong những ngày gây quỹ có nấu bún riêu, hoặc những ngày
dâng sớ cầu an, mà thông thường thì những ngày nầy phải có cúng
bao thơ. Như vậy thì tệ nạn “bao thơ” từ bên Việt Nam, đã bò qua
tới bên nây thật là khó nói.
Hễ là con người trước sau gì cũng phải chết, đó là qui luật tự
nhiên. Khi sống thì con người vì bận mưu sinh, có thể làm bất cứ
thứ gì, kể cả việc mua gian bán lận, nhưng đến khi chết thì con cái,
vợ chồng ai nấy cũng nghĩ đến việc cúng quảy siêu thăng, cho nên
phải nhờ đến tôn giáo đó là một chuyện mà tang chủ phải làm.
Người nào theo Chúa thì rước cha, còn người nào theo Phật thì
rước thầy chùa, nhưng ngày nay văn minh tiến bộ hơn ngày xưa,
người ta gọi là Đại Đức, hay Thượng Toạ. Nếu đám nào mà làm
lớn, trịnh trọng hơn nữa thì họ rước Hoà Thượng đến tụng kinh.
Không biết người chết nằm trong cỗ quan tài có hay biết gì không,
chớ trên dương gian nầy thì cũng làm ấm lòng gia chủ. Tục lệ như
vậy cứ kéo dài, đời nầy qua tới đời kia. Không ai muốn truy
nguyên, coi trong đạo Phật có những tục lệ như vậy hay không,
hay vì thấy tụng niệm cũng an ủi được người sống một phần, nên
con người làm thét rồi trở thành thông lệ, nếu người nào chết mà
thiếu kèn trống đám ma, còn đạo Phật mà thiếu ông thầy chùa gõ
mõ thì kể như vô phước.
Khi tụng niệm xong thì cũng phải có bao thơ, thành thử ra nếu xét
cho cùng, cho dầu ông Hoà Thượng, hay ông Thượng Toạ, ông
Đại Đức gì cũng đều làm mướn. Có lẽ nhờ vậy mà chùa chiềng,
mấy thầy mới có xe hơi, hoặc có tiền mua vé máy bay đi mây về
gió mỗi khi hữu sự. Đó là một sự thật rất hiển nhiên, từ trong nước
ra tới hải ngoại hiện giờ ở đâu cũng đều rặt khuôn như vậy. Nhiều
khi tôi nghĩ, một nhà tu đi xe hơi sang trọng, ăn uống có kẻ hầu
người hạ, trong phòng ngủ có TV, có Ipad, IPhone cầm tay, ai biết
khi vô Internet quí thầy có chịu bỏ qua hình ảnh của mấy em chưn
dài nhảy nhót hay không. Những nhà sư nào mà hưởng đầy đủ
những tiện nghi như vậy, liệu đức độ tu hành được bao nhiêu? Họ
có dám diệt được hết dục vọng tầm thường, để xả thân hoằng đạo?
Họ có nếm trải được sự đau khổ của cuộc đời khi phải vất vả mưu
sinh, hay là cứ hễ đi tu như quí thầy là được an hưởng “niết bàn”
ngay trong cõi thế, khỏi cần chờ đợi chi cho lâu lắc?
Cho nên ở quê tôi Bến Tre, ngay huyện Bình Đại đã có rất nhiều
ông thầy tụng. Gia đình nào nghèo khổ thì đi rước mấy ông nầy,
họ chẳng bày vẽ bàn thờ hoa quả làm chi, mà họ chỉ tụng trước cỗ
quan tài cho đến khi hạ huyệt. Thông thường một cái đám ma như
vậy, họ chỉ lấy có 200 ngàn đồng tiền Việt Nam rất là vui vẻ. Tụng
xong họ đi lại bàn ngồi nhậu rất bình thường, không phân biệt đồ
mặn, đồ chay, gia chủ đãi chi, thì họ “nhậu” nấy.
Theo tôi thà nghĩ như vậy mà tốt, chẳng khách sáo màu mè, vì tất
cả chúng sanh đều mang một kiếp con người như nhau cả, thì hà
tất gì phải “cung thỉnh” theo kiểu người cõi trên, làm như vậy có
khi còn mang tội, bởi ngày xưa đức Phật đã từ bỏ điện ngọc ngai
vàng còn mấy ông thầy ngày nay, từ trong hậu liêu bước ra cũng
đều có lộng che tàng phủ. Tại sao phải làm như vậy, có phí phạm
thời giờ hay không, hay đó là một lễ nghi để bắt mọi người tôn
kính? Hay đó là do mấy người hầu cận, họ bày vẽ để lấy lòng thầy.
Nhưng những bậc chân tu, là những người thoát tục thì phải thấy
những điều không nên làm đó…
Có lẽ cái nghề xuống tóc kiếm ăn cũng được dễ dàng, nên hiện nay
ở vùng Cabramatta hằng ngày có rất nhiều “ông thầy” khất thực
ăn xin, nhiều đến nổi có tiếng dèm pha nên “thầy” viết thơ đăng
báo phản đối. Đó là tôi chỉ nói riêng một số thầy người Việt, còn
người Miên, người Lào thì họ đi từng đoàn, họ khất thực ăn xin
tháng nầy tới tháng kia, không biết rồi họ làm sao cho hết với tài
vật mà thế gian bố thí.
Nhưng có một số thầy chùa trẻ, da vẻ trắng tươi không biết người
nước nào, sao tôi nhìn hơi giống mấy anh Chinese quá lẽ. Họ đi
mang giày xăng-đan ngon lành chớ không phải chưn không như
mấy ông thầy khất thực mà chúng ta thường ngó thấy. Có một cái
hơi lạ, là mấy “thầy” nầy tuy khất thực nhưng không lấy thức ăn
mà chỉ nhận tiền. Người nào cúng xong, mấy “thầy” nầy sẽ móc
trong tay nải ra một miếng cẩm thạch, hay xâu chuỗi gì đó, rồi hét
giá hẳn hoi. “Thí chủ” nào có máu mua bán thì cũng có thể trả giá
theo kiểu chợ trời, còn người nào chân thật ngay đơ, thì móc hầu
bao ra mà bố thí...
Xóm Chùa Cabramatta hôm nay nổi danh là vậy. Cho nên trong
mấy tiệm cà phê, hay tiệm phở bà con mới có chuyện tán gẫu qua
ngày, có lẽ nhờ vậy mà việc bán buôn mới có khách vào ra. Chớ
còn không, thì khách địa phương đâu có ồn ào tấp nập.
Không biết ai là người đầu tiên đặt tên cái Xóm Chùa của vùng đất
Cabramatta hiện nay, nhưng mấy bác tài xế xe Bus họ đều biết hết.
Tới ngày rằm, hay ngày vía trong tháng hằng năm, mấy tuyến
đường nào xe chạy có nhiều chùa, thì mấy ông già bà cả đều đứng
đón với gương mặt rất hân hoan, vì đinh ninh sẽ tới lễ Phật sẽ vơi
đi được một phần tục lụy. Có nhiều bà ngồi tâm sự nghe rất đau
lòng, đi xin rọc lá chuối về gói bánh tét ngồi canh củi lửa nấu cả
đêm, với tâm nguyện để có tiền đem cúng cho thầy để thầy mua vé
máy bay đi về Việt Nam ủy lạo người nghèo. Dường như nguồn
lợi tức của các ngôi chùa hiện nay, được cúng dường là do mấy
ông già bà cả nhiều nhứt. Trong khi đó thì ông thầy đâu có thấy
được sự cực khổ của người già, chỉ lo xả giao với hạng thương gia,
nên trong nhà chùa cũng phân chia giai cấp…
Cũng chính vì vậy mà khi mấy ông thương gia nầy tới thì thầy đon
đả đón chào, nói chuyện giòn tan, còn mấy người già cả, lọm
khọm thì đi ra hậu liêu lo nấu nướng. Cũng có nhiều chuyện cười
ra nước mắt. Có một bà già tới chùa làm công quả phồng tay,
mong sao cho được nghe tiếng nói của thầy, nhìn hình dáng của
thầy để khi chết được siêu thăng tịnh độ, nên khi thầy đi về Việt
Nam vừa qua tới phi trường, bà nầy cũng có giang xe đi đón thầy
cho ấm cúng. Nào ngờ khi chào hỏi thầy, thì thầy ngó lơ không
thèm ư hử, vì xung quanh thầy có mấy người giàu có đứng đó,
thầy mắc lo “xã giao”, thì mấy cái thân già lãnh tiền Bộ Xã Hội có
gì nhiều để cho thầy ban “pháp nhãn”, ngó tới. Bà già cảm thấy tủi
thân, từ đó về sau từ biệt nhà chùa. Bà tu tại gia mà lòng thanh
thản…
Nhưng cũng chính ở Xóm Chùa nầy đang xảy ra chuyện bàn tán.
Đó là có một nhà sư tu tập đã lâu năm, hiện là một ông Hoà
Thượng trấn danh một cõi. Ông Hoà Thượng nầy không biết có
còn nặng nợ hồng trần, hay là vì đồng tiền ở đây cám dỗ, mà lại
xăn tay áo lên nhào vô việc kinh doanh địa ốc tại Thủ Đô, khiến
cho bà con cô bác ở Xóm Chùa Cabramatta bàn ra tán vào không
ngớt.
Số là cách nay chẳng bao lâu, trên đài phát thanh sắc tộc quảng
cáo rằng cơ sở điạ ốc của Hoà Thượng hiện nay còn đúng là 60
căn nhà, ai muốn đặt cọc tiền mua, hoặc muốn biết thêm thủ tục
thì liên lạc với Hoà Thượng, hoặc vô Web site của Hoà Thượng để
biết thêm tin tức…
Trước một cái nguồn tin kinh doanh nháng lửa đó, cư dân vùng
Cabramatta xôn xao, vì người ta cứ nghĩ bậy trong đầu, chắc là
Hoà Thượng phải đem cái bằng khoán nhà chùa đi cầm cố nhà
băng thì mới có vốn để kinh doanh, chớ Hoà Thượng đâu có khờ
mà moi hết thùng tiền “Phước Sương” ra xây cất, vì nếu làm vậy
thì sở thuế nó đâu có buông tha, tới chừng đó thì làm sao có một
vốn kiếm được bốn lời, chi bằng đem “nhà chùa” cầm cố cho nhà
băng là thượng sách, dễ dàng chạy thuế.
Nhưng thiên hạ họ không dừng lại đó mà họ lại bàn tán thêm rất
đổi hùng hồn, cho rằng trong chùa thì phải có Phật, có Phật rồi
mới có tôn giáo là Phật Giáo, như vậy thì ông Hoà Thượng nầy sẽ
đem Phật, Tôn Giáo Phật đi cầm cố tuốt luốt hay sao. Đó là một
câu hỏi còn lửng lơ chưa ai giải đáp. Thời may sáng nay cũng
trong tiệm cà phê hẻm Bầu Trường, trong lúc mọi người đang
cười nói như bắp rang, lúc đó thì mấy ông, mấy cô, mấy bà, mấy
cậu họ cũng đem chuyện ông Hoà Thượng ra “hội luận” om sòm.
Trong đám bàn tán có một hảo hớn trung niên, dân chạy Mô Tô
trông rất là oằm trợn. Ông nầy không biết làm nghề gì, học lực tới
đâu, nhưng mỗi lời nói của ông ta xem chừng có trọng lượng. Ông
ta ngồi
xuống, lột bao tay da ra để trên bàn, sau đó thì lấy cặp kiếng mát
hiệu Rayban xuống đeo lên cái trán, mà hễ phàm dân chơi nào mà
đeo kiếng kiểu đó phải thuộc hạng vai vế đàn anh, chớ còn dân
chơi mới ra ràng thì không bao giờ dám. Rồi ông ta nói với mấy
người đồng bọn trong bàn, nhưng nói lớn và gằn giọng cốt để
người khác nghe chơi cho rõ. Ông ta nói như vầy:
“Đời nầy mà tu hành cái con mẹ gì. Toàn là lường gạt bá tánh của
mình không. Một ông Thượng Toạ ở đường đằng kia thì có tới cả
chục căn nhà rồi, hiện đang đập phá một lượt hết 6 căn để xây
chùa cho bự. Nhưng ông Thượng Toạ nầy đâu có chịu xây liền, cứ
đợi tới ngày rằm là nấu một nồi bún riêu chay rồi lượm bạc. Như
vậy thì ông thầy nầy, với ông Hoà Thượng mà thiên hạ đang bàn
tán có khác gì nhau. Tài sản ông nào cũng ngoi lên tới hàng triệu
phú. Mẹ kiếp; ở đây đi làm trong hãng, mua một căn nhà để ở
muốn hộc xì dầu, còn người ta chỉ có đi tu, một ông thì có trên 10
căn nhà, còn một ông thì làm chủ bất động sản đang rao bán một
lúc tới 60 căn, nghe đâu trước đó ông Hoà Thượng nầy cũng có
xây cất một dãy cư xá cho mướn rất là đình đám. Nói chuyện trần
tục mà nghe chơi, mai mốt hai ông nầy có chuyển nhượng hết tài
sản cho ai, thì làm sao biết được. Bởi của đó mang tiếng là nhà
chùa chớ trên cơ sở luật pháp là của tư nhân, ai có tư cách pháp lý
gì để đứng ra tranh cản”.
Ông thần lái mô tô nầy nói có bao nhiêu đó, làm cho buổi sáng dân
cà phê Xóm Chùa Cabramatta chắc cũng “hốt ngộ” ra, gương mặt
người nào cũng đăm chiêu nghĩ ngợi. Riêng tôi ngồi kế bên nghe
ké mà cứ nghĩ lẩn thẩn trong đầu, không biết ông thần lái mô tô
nầy nói đúng hay sai, mà sao mấy bàn cà phê ngồi bao quanh
không có phản ứng. Như vậy thì việc tu hành của các “bần đạo”
hiện nay, cũng phải có người tu thiệt, có người tu gian, chớ chẳng
lẽ Phật Giáo đã tới thời kỳ mạt pháp.
Chưa hết. Có một lần tôi đi họp bạn tại nhà một người bạn thân ở
Fairfield. Một bà tuổi tác cũng sồn sồn, cũng nổi tiếng làm thơ
đăng trên báo. Tôi cũng không biết bà nầy đạo gì, nhưng đã phán
một câu xanh dờn: “Phải biết cất chùa mà mau làm giàu như vầy
thì tôi lo cất chùa hốt bạc, chớ làm nghề may như tôi, suốt đời chỉ
có dành dụm mua một căn nhà thì làm sao khá nổi”. Đó là một câu
nói than thở có tính cách bông đùa, chẳng có hậu ý đả phá ai,
nhưng tôi nghe thật là chua chát. Còn mấy ông thầy thì chắc đã có
nghe nhưng nhờ mũ ni che tai nên chỉ loáng thoáng tiếng được
tiếng mất, hay có nghe hết thì rồi cũng cười trừ chớ không có gì
suy nghĩ…
Tôi mang bao ý nghĩ mơ hồ về nhà cũng chẳng biết tâm sự với ai.
Vì nói động tới mấy nhà sư, thì y như rằng bị người đời họ cho
rằng “tăng” là hiện thân của …“Phật”, chớ họ đâu có nhớ rằng ông
Phật ngày xưa chỉ đắc đạo khi ngồi tịnh dưới gốc cây bồ đề, chớ
đâu phải ngồi trong cung điện phết vàng ròng. Vậy mà bây giờ
mấy ông sư tranh nhau quyên tiền của bá tánh xây cất chùa vậy
thôi hết biết. Đúng là tróc gốc bồ đề cả đám!
Phùng Nhân
TIẾNG VỌNG TỪ ĐÁY VỰC:
Bọ Lập và rừng cây
Nguyệt Quỳnh
Có một cây là có rừng và rừng sẽ lên xanh…
Cách đây ít lâu tôi đọc một bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn
Khắc Mai với tựa đề “Hầu chuyện với anh Trương Tấn Sang” bài
viết của ông xoay quanh hiện trạng của đất nước. Như một lời nói
thẳng, nói thật, một lời tâm tình dựa trên câu nói mớm của ông
Trương Tấn Sang khi tiếp xúc cử tri tại Sài Gòn. Ông Sang nói:
“Chúng tôi sẵn sàng nghe những ý kiến cay đắng”.
Đúng như cảm nhận của ông Sang khi thốt ra lời nói trên. Ông
Nguyễn Khắc Mai là một trong số những đảng viên CS thầm lặng,
những người từng thiết tha với đảng, hết lòng với đất nước; và nay
đã thất vọng, đã cay đắng lắm trước thực trạng xã hội và lối điều
hành đất nước của lãnh đạo CS hiện nay. Ông Mai cố đem những
lý luận Mác Lê và lời nói ông Hồ làm chuẩn, nhưng người đọc có
thể thấu cảm được hết cả nỗi buồn, nỗi thất vọng của ông qua bài
viết mà có đến tám lần ông nhắc đến chữ Cay Đắng.
Tôi nghĩ đến những đảng viên thầm lặng khác qua ông Nguyễn
Khắc Mai. Những người ngày hôm nay, đi trên đất còn nghe được
máu ấm của đồng đội mình trên mỗi bước chân qua. Tôi chợt thấy
cảm thương những con người đã bỏ cả cuộc đời tin theo chủ nghĩa
cộng sản và chạnh lòng nhớ đến câu nói của một nhà văn: “Lệ rơi,
thật dễ để dùng ống tay áo lau đi, nhưng tôi phải làm thế nào để
xóa vệt nước mắt khỏi trái tim mình?”
Nếu thật đó là tấm lòng của ông Nguyễn Khắc Mai, nếu thật sự tổ
quốc không hề đánh mất họ, những người đã một thời lăn thân
trong lửa đạn vì độc lập dân tộc, chắc chắn họ biết điều mình phải
làm. Ông đã viết câu cuối trong bài tâm tình với ông Trương Tấn
Sang như sau:
“Liệu chúng ta có thật tâm sám hối đặng cứu rỗi đất nước thoát
khỏi tình thế hiểm nguy trước một Trung Hoa đế quốc, bá
quyền nước lớn (mà Tập Cận Bình vừa tuyên bố), liệu có nhanh
chóng thoát ra sự suy đồi, trì trệ, bảo thủ, lạc hậu hiện nay hay
không…”
Liệu những đảng viên cay đắng như ông Nguyễn Khắc Mai có góp
phần cứu nguy được vận mạng của đất nước đang chỉ mành treo
chuông không? Tôi cho rằng họ làm được, câu trả lời nằm trong
mỗi cá nhân của những Nguyễn Khắc Mai, và bằng vào quyết tâm
phải hành động. Rõ ràng chúng ta không còn nhiều thời gian. Tình
trạng nguy nan của đất nước không cho phép đợi chờ thêm nữa.
Và cũng bởi vì quanh họ, những người dân tuy cô thế, thấp cổ bé
miệng cũng đã bắt đầu từ lâu. Điển hình gần đây nhất là hình ảnh
đáng phục của Bọ Lập cùng những bạn hữu của anh.
* * *
Ít ai Bọ Lập bị liệt hẳn nửa người sau một tai nạn. Ngay cả đến
việc chuyện vệ sinh cho chính mình, anh cũng phải cậy dựa vào
vợ con. Cũng ít người biết rằng anh đã một lần toan tự vẫn. Nhà
văn Huỳnh Ngọc Chênh kể rằng: một hôm lựa lúc gia đình đi
vắng, Bọ Lập đã lăn xuống khỏi giường, anh bò từ căn hộ tập thể
của anh lên trên sân thượng. Anh định từ đó gieo mình xuống đất,
tự mình kết liễu để tránh gánh nặng cho gia đình. May mắn, có
người trong khu tập thể phát hiện và bồng anh xuống. Từ một
người từng lâm vào những hố thẳm cuộc đời như thế, Bọ Lập đã
vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn của chính mình để nghĩ đến nỗi
khổ đau của người khác, để lo lắng về sự tuột dốc thảm hại của đất
nước.
Biết được hoàn cảnh của Bọ, người ta thêm trân quý cảnh Bọ đi
biểu tình chống Trung Quốc ngày 11.5.2014. Hôm đó, Bọ tự mình
thuê taxi ra hiện trường tham gia với anh em. Lúc Bọ đến nơi thì
đoàn biểu tình đã kéo đi xa rồi! Một mình, Bọ vẫn làm cuộc biểu
tình dọc theo đường Đồng Khởi. Bây giờ nhớ lại, hình ảnh Bọ với
đôi chân khập khiễng bỗng làm tôi ý thức ra mức quan trọng của
TỪNG NGƯỜI ĐẤU TRANH trong tình cảnh hiện nay, đối với
đồng đội và đối với việc chung.
Thật vậy, thử tưởng tượng năm1285, khi quân Mông Cổ xâm lăng
ta lần thứ hai, Vua Nhân Tông đi thuyền nhỏ xuống gặp Hưng Đạo
Vương, ngài hỏi rằng: “Thế giặc to như vậy, mà chống chọi với nó
thì dân bị tàn hại, hay là trẫm chịu hàng để cứu muôn dân?” Nếu
lúc đó câu trả lời của vị Quốc Công Tiết Chế khác đi, không phải
là “ Bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần trước” thì liệu Đại
Việt có còn trường tồn đến ngày hôm nay không? Hưng Đạo
Vương đã dùng quyết tâm của chính ông mà bảo vệ được đất
nước. Nếu như quyết tâm của một người có sức lan toả đến nhiều
người như vậy và giúp cho quân đội của một đất nước nhỏ bé có
thể đánh thắng một đội quân lừng lẫy thế giới; thì mỗi chúng ta
với lòng thiết tha cùng vận nước, nếu đứng cùng nhau, chắc
chắn không có bất cứ một cường quyền nào có thể huỷ diệt được
dân tộc mình.
Một điều hệ trọng cũng cần được vạch ra: khi cuống cuồng "bắt
khẩn cấp" một Bọ Lập đang liệt nửa người và phải đánh máy bằng
một tay, lãnh đạo CSVN đã lộ rõ sự bối rối, yếu kém và lo lắng về
mức độ chán ghét của dân đối với chế độ. Lo lắng đến mức họ
không dùng Điều 258 - lợi dụng quyền tự do dân chủ - để buộc tội,
mà phải dùng đến Điều 88 - tuyên truyền chống chế độ - để buộc
tội anh. Bạn bè và dư luận khắp nơi lại càng chán ghét và căm
phẫn khi nhìn Bọ bị công an lôi đi trong tình trạng không có thuốc
men, không người giúp anh ngay cả trong việc vệ sinh hàng ngày.
Đây là một hành động tàn nhẫn của lãnh đạo CS, chẳng khác gì
một hình thức tra tấn nguội đối với một nhà văn đã cao tuổi lại
bịnh hoạn.
Nhưng những hành động trấn áp để dằn mặt người chung quanh
này, vẫn chỉ dẫn đến những tác dụng ngược, như những trò tương
tự trong suốt mấy năm qua đối với Linh mục Nguyễn Văn Lý, anh
Điếu Cày, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà báo Nguyễn Hữu
Vinh, blogger Người Lót Gạch, v.v... Cứ sau mỗi vụ bắt bớ vô lý
và hèn kém, phản ứng của giới đấu tranh dân chủ khắp nước đã
không xẹp xuống mà càng đông người xuất hiện công khai hơn,
hoạt động mạnh mẽ hơn. Đặc biệt với trường hợp của Bọ Lập. Sự
bất nhẫn trước cái ác, cái bạo ngược vô lối của nhà cầm quyền đã
dẫn đến hàng trăm bài viết, bài status trên mạng bày tỏ lòng yêu
thương và kính trọng đối với Bọ.
Đáng phục hơn nữa, một số bạn hữu xót xa cho Bọ, đã không ngần
ngại công khai tuyên bố sẵn lòng đi tù như Bọ, sẵn sàng lãnh còng
đôi 88 cùng Bọ:
Facebook ‘Lô Đề VN’ đăng hình hai blogger Nguyễn Xuân Diện
và Nguyễn Tường Thụy sát vai nhau với dòng chữ “2 tù nhân dự
khuyết HN có trong danh sách gặp nhau rất vui vẻ. Đang tranh
nhau xem ai được bắt trước, ai được bắt sau. Cả 2 đều muốn được
bắt điều 79, 88”
Blogger Nguyễn Lân Thắng phát biểu: “Bất cứ blogger chính trị
nào cũng có thể bị bắt bởi điều 88... chúng tôi đã sẵn sàng…!”.
Riêng Facebooker Hoàng Dũng còn đặt chỉ tiêu cho mình: “Phải
thế chứ! Đã bị bắt thì phải bị bắt vì chính trị và hẳn phải là 79 hay
88 chứ! Ước gì mình được như bọ Lập. Có bác nào biết những tài
liệu tàng trữ của bọ Lập là những tài liệu gì để rồi mà bị bắt
không? Chỉ cho tôi để tôi tự nguyện giao nộp với”.
Chính lòng yêu thương Bọ trong tình trạng thể chất hiện nay và sự
rành rẽ về khả năng hèn kém của lãnh đạo đã dẫn đến sự đồng tình
trong giới đấu tranh rằng: dẫu mai này nếu Bọ có đuối sức trong
tù, nếu Bọ cần phải về nhà uống thuốc, tịnh dưỡng thì chắc chắn sẽ
có nhiều anh chị em sẵn lòng thế chỗ cho Bọ, và họ vẫn luôn
thương quí Bọ hết lòng.
Đến lúc này, hình như mọi người đều đã nhận ra rằng nếu rụt lại
trong im lặng chúng ta chỉ yên ổn tạm thời, nhưng cùng lúc chấp
nhận cho nhà cầm quyền lại treo một cái mã tấu khác trên đầu
mình. Và nếu rụt lại thì cũng sẽ rất có lỗi với Bọ, với những hy
sinh cao quí của Bọ, của anh Ba Sàm, anh Duy Nhất, và bao người
khác. Tôi tin rằng nhiều người âm thầm ngoài kia đang muốn
được sống như Bọ. Họ thấy cần phải làm một điều gì đó với Bọ,
cho Bọ, và vì Bọ. Ai cũng muốn được cùng với Bọ dũa cho mòn,
cho đứt cái còng 88 này.
* * *
Bỗng dưng tôi nhớ đến cái ý niệm một mình trong bài hát “Một
Đời Người, Một Rừng Cây” của nhạc sĩ Trần Long Ẩn “…tôi vẫn
nhớ hoài một loài cây, sống gần nhau thân mới thẳng, có một cây
là có rừng và rừng sẽ lên xanh”. Tôi bỗng muốn cám ơn Bọ Lập,
cám ơn đôi chân khập khiễng trong buổi biểu tình một mình của
anh. Từ anh, tôi đã nhìn thấy một rừng cây đang lên xanh. Tôi
nhìn thấy Hoàng Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Nguyễn Tường Thuỵ,
Nguyễn Xuân Diện và nhiều, nhiều người khác nữa…
Và tôi nghĩ đến nỗi cay đắng của những Nguyễn Khắc Mai với
một niềm hy vọng lớn lao. Nói cho cùng, nếu so sánh tương quan
lực lượng giữa ta và giặc, thế hùng mạnh của Mông Cổ thời ấy và
sự hung hãn của Trung Cộng ngày hôm nay… không có gì khác
biệt. Rõ ràng, thắng hay bại, nhục hay vinh của một dân tộc tuỳ
thuộc vào sự quyết tâm và sáng suốt của mỗi con người.
Nguyệt Quỳnh (1-1-2015, khai bút cho một năm thật sự mới)
Xóm gái hoang
Nguyễn Quang Lập
LGT: Có thể nói Nguyễn Quang Lập là nhà văn, nhà biên kịch sân
khấu, tác giả kịch bản điện ảnh, blogger thành công và nối tiếng
nhất Việt Nam hiện nay. Văn phong của anh rất dân giã, mang
đậm tính hài hước được viết theo giọng thổ ngữ Quảng Bình mà
anh vẫn gọi vui là xứ Bọ, là Quê choa.
Nhưng điều luôn được khắc đậm trong các tác phẩm của Bọ Lập
không có gì khác hơn là số phận con người, những con người sống
xung quanh anh, từ các bạn học, những người dân quê hàng xóm,
từ cậu bé tật nguyền, anh chủ nhiệm, anh bí thư đoàn xã đến các
cô gái không chồng. Chính thông qua số phận của những con
người này, Nguyễn Quang Lập đã giúp cho độc giả có được môt
bức tranh sống động về xã hội Việt Nam trong hơn 40 năm qua.
Do Blog Quê choa đã bị đóng nên DL đã sưu tầm một số truyện
ngắn của Bọ Lập từ các nguồn khác nhau, xin giới thiệu để bạn
đọc hiểu thêm về "người lái đò nhỏ chở con thuyền sự thật" này.
1 Hồi sơ tán ở làng Đông, nhà mình ở đầu làng, từ đấy cứ đi ngược
lên phía Tây Bắc, băng qua rặng trâm bầu là gặp một cái bàu sen
cực rộng, rộng đến nỗi đứng bên này bờ cứ tưởng mặt trời chui lên
từ bờ bên kia.
Bàu sen nước đen ngòm, sen và súng mọc tràn lan, chẳng ai chăm
sóc. Không mấy khi thấy hoa sen, hễ có cái hoa nào mới nở là con
nít vặt liền, đài sen cũng không thấy, chỉ thấy mỗi lá không thôi.
Con nít ra đây không phải hái hoa sen, chủ yếu là bắt cá lia thia.
Cá lia thia ở đây rất đẹp, to, khoẻ, chọi nhau rất hay. Mình cũng
hay ra đây, lọ mọ suốt ngày phục bắt cá lía thia về chọi nhau với cá
tụi bạn.
Bên kia bàu là một xóm nhỏ, có mấy túp lều tranh cất tạm, núp
dưới rặng trâm bầu, xưa gọi là Xóm Bàu, bây giờ ai cũng gọi là
Xóm gái hoang. Ba người đàn bà ở đấy không phải gái chửa
hoang, đấy là những người đàn bà bất trị.
Người nhiều tuổi nhất là mụ Cà, năm 1967 mụ chỉ hơn bốn chục
tuổi.
Mụ Cà lấy chồng lúc 16 tuổi nhưng mãi không có con, chồng mụ
chán đời uống rượu say, té xuống ao, chết. Khi đó vào năm 1953,
mụ
mới 31 tuổi, tham gia đội du kích rất tích cực. Đội trưởng du kích
khi đó là cu Miễn, rất khen ngợi mụ, họp đội du kích nói đồng chí
Cà nợ nước thù nhà, chiến đấu rất hăng say.
Mụ Cà đứng lên nói bá cáo tui chỉ nợ nước thôi, không có thù nhà.
Cu Miễn nói Đế quốc Pháp lừa bịp dân ta, cho uống rượu say,
nhiều người chết, trong đó có chồng đồng Cà, thù nhà của đồng
chí Cà là ở chỗ đó đo.
Mụ Cà cười nói oa rứa a, oa rứa a.
Cuối năm 1953 Pháp từ Ba Đồn càn lên làng Đông, dân làng bỏ
chạy cả, chỉ còn đội dân quân vẫn ở lại giữ làng. Mụ Cà mải bắn
địch một hướng, không biết Pháp vào làng theo hướng khác, anh
em du kích bỏ chạy cả mụ vẫn không biết, bị một thằng Pháp xông
đến đè cổ mụ trên cát, hiếp.
Mụ Cà chống cự quyết liệt, liên tục hô đả đảo đế quốc Pháp, đả
đảo đế quốc pháp. Thằng Pháp khoẻ hơn, đè riết không cho mụ
động cựa. Mụ vẫn không sợ, miệng vẫn hô vang đả đảo đế quốc
Pháp.
Lúc đầu mụ còn hô to, đầy đủ cả câu đả đảo đế quốc Pháp, sau nhỏ
dần hụt hơi hơi dần, đã đảo đế quốc... rồi đả đảo đế... rồi đả
đảo...Cuối cùng chỉ còn mỗi đả ả ả ả... Xong om.
Chuyện mụ Cà bị một lính Tây hiếp cả làng ai cũng biết, bàn tán
xôn xao. Cu Miễn họp đội du kích phát động căm thù. Cu Miễn
nói đồng chí Cà kể lại cho anh em nghe. Mụ Cà nói kể cái chi? Cu
Miễn nói kể việc đồng chí bị giặc Pháp hiếp ra răng. Mụ Cà nói thì
cũng giống như lẹo chắc, nhưng đây là hiếp rứa thôi, chi mà kể.
Đồng chí Cu Miễn không biết lẹo chắc à?
Cu Miễn nói đồng chí Cà nghiêm túc vào, hiếp khác với lẹo chắc.
Mụ Cà nói nhưng tui không biết kể chi hết. Cu Miễn nói ví dụ giặc
Pháp đè đồng chí xuống, xé áo quần đồng chí rất dã man. Mụ Cà
nói đúng rồi rất dã man. Tui chống cự rất quyết liệt, vừa chống cự
vừa hô đả đảo đế quốc Pháp.
Miễn mừng rỡ nói rứa đo rứa đo, đồng chí kể tiếp đi. Mụ Cà nói
chỉ rứa thôi, biết kể chi nữa.
Cu Miễn nói lúc đầu răng, cuối cùng ra ra răng cứ rứa mà kể.
Mụ Cà hỏi kể thiệt a? Cu Miễn nói có răng đồng chí cứ kể rứa.
Mụ Cà nói bá cáo các đồng chí lúc đầu hắn đâm một phát tui chửi
rất hăng, sau hắn đâm nhiều quá, sướng rồi hết chửi.
Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè.
Cu Miễn tức, đập bàn chỉ tay mụ Cà quát phản động, bắt mụ ni trói
lại cho tui. Mọi người ngơ ngác không hiểu sao.
Cu Miễn nói, mụ ni hợp tác hủ hoá với giặc Pháp, rứa mà các đồng
chí không hiểu, còn vỗ tay hoan hô. Mất lập trường rồi các đồng
chí ơi!
Mụ Cà nói đồng chí Cu Miễn nói rứa oan tui. Cu Miễn nói mụ Cà
kia, tui không đồng chí với mụ.
Mọi người nói ua chầu chầu đồng chí cu Miễn nóng quá.
Cu Miễn hô cả trung đội đứng dậy, nghiêm! Tôi quyết định đuổi
mụ Cà ra khỏi trung đội dân quân. Từ nay không được ai kêu mụ
Cà là đồng chí, rõ chưa. Cả trung đội đập chân ưỡn ngực hô rõ.
Đáng lẽ mụ Cà im lặng không kiện cáo gì thì mọi chuyện cũng
qua. Nhưng mụ tức, mụ gặp xã đội trưởng kiện đi kiện lại, nói tui
không hủ hoá, giặc Pháp hiếp tui thiệt.
Xã đội trưởng nói bị giặc Pháp hiếp, đồng chí có căm thù không?
Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng có căm thù. Xã đội trưởng nói
căm thù răng lại nói sướng? Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui
không sướng.
Cu Miễn nói mụ đừng có chối, mụ nói sướng, cả trung đội nghe rõ
ràng. Mụ Cà nói tui không sướng.
Cu Miễn hỏi: mụ có nói sướng không, mụ Cà nói có. Cu Miễn nói
đó, mụ công nhận rồi đó, hết kêu oan nghe.
Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui vẫn oan. Xã đội trưởng nói
đồng chí Cà nói hay,vừa kêu sướng vừa kêu oan là răng?
Mụ Cà nói tui căm thù giặc Pháp, nó hiếp tui, tui không sướng, tại
cái bướm tui sướng chứ tui không sướng.
Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè.
Xã đội trưởng tức, đập bàn quát, bậy bạ, dung tục, phản động! Rứa
mà các đồng chí còn cười được à. Mất lập trường!
Mụ Cà khóc nói báo cáo xã đội trưởng oan tui quá. Xã đội trưởng
nói oan răng mà oan! Mụ Cà khóc rống lên, nói oan oan, các đồng
chí toàn cu, không ai hiểu được bướm...
Xã đội trưởng đập bàn quát câm mồm! Xã không có trách nhiệm
hiểu cái bướm của mụ!
Mụ Cà phủi đít quần, nói ẻ vô nói với các đồng chí nữa, rồi về.
Mấy thắng sau đi đâu cũng bị làng xóm chê cười, mụ Cà nói ẻ vô ở
làng ni nữa, rồi bỏ ra xóm Bàu ở.
Đó là người thứ nhất ra xóm Bàu, à quên, Xóm gái hoang.
2 Người thứ hai là chị đóc Xấu, mặt chị đẹp như mặt Đức Mẹ, phải
cái chị cao quá, gần mét tám, hồi này là có thể thi hoa hậu nhưng
ngày đó thì bị người ta coi là dị dạng. Bố mẹ chị nhiều năm hục
hặc cũng vì chị
càng ngày càng cao, mới 13 tuổi đã cao hơn hẳn đám trai làng,
nhiều người nói è he đóc Xấu con tây, không phải con Mẹt Huỳnh
mô. Bố chị nghi mẹ chị lấy Tây hoặc bị tây hiếp như mụ Cà. May
chị càng lớn càng có nhiều nét giống bố, nên thôi.
Chị đi đâu, tụi con trai lén đi sau lưng, nhảy nhảy lên cho cao bằng
chị, rồi bịt miệng cười với nhau, chị biết, không thèm ngoái lại,
mặt vênh lên vẻ bất cần. Nhưng tối về thì ra giếng ngồi bưng mặt
khóc. Có lần chị về chợ Ba Đồn, chợ phiên sáu đông nghịt, thế mà
chị đi đâu ai cũng thấy, cái đầu chị vượt lên cả ngàn người, chuyển
động từ đầu chợ đến cuối chợ, ai nhìn cũng tức cười.
Con trai Ba Đồn chạy rật rật theo chị, trầm trồ oa chà ăn chi cao
rứa hè, con ni e lấy voi. Có người vẽ cái bướm dài ba gang trên cột
điện, đề: Đây là l. đóc Xấu.
26 tuổi rồi chẳng ai dám mang cau trầu đến hỏi. Tuổi đó bị coi là ế
chồng. Bố mẹ chị lo lắng vô cùng, bữa cơm nào cũng càm ràm
răng con tui ế câm ế cảy ri hè. Chị nghe nói thế thì bỏ bát ra giếng
ngồi khóc.
Bố mẹ chị đánh tiếng ai muốn lấy đóc Xấu tụi tui cho không,
không cần cưới hỏi chi hết, nhắn nhe từ đầu làng đến cuối xóm
cũng chẳng ai thèm. Vừa lúc chiến tranh phá hoại miền Bắc, bom
rơi đạn nổ khắp nơi. Hễ có máy bay, mọi người ba chân bốn cẳng
chạy vào hầm, chị đóc Xấu không chạy, ngồi bó gối giữa sân. Bố
mẹ chị dục xuống hầm, chị nói để con chết bom cho xong, nhục
lắm.
Nhà ông Quắn ở Quảng Thuận lên sơ tán, chuyên nghề đúc soong
nồi từ vật liệu máy bay. Nhà này rất giàu, làng Đông hồi đó nhà
nào có vài nghìn đồng, dăm mười cây vàng gọi là giàu sụ, nhà ông
Quắn còn nhiều hơn thế.
Vợ chồng ông Quắn có đứa con trai tên Hào cao 2m, trắng trẻo
đẹp trai, phải cái bị ngất ngơ, hình như bị down, suốt ngày ngồi
ngạch cửa nhìn ra đường, thỉnh thoảng cười hậc cái, nói hay hè.
Chẳng có gì cũng cười hậc cái, nói hay hè.
Dòng họ ông Quắn chỉ mình ông là con trai, đẻ ra thằng con ngất
ngơ, vợ chồng ông lo lắm, sợ tiệt giống. Biết chị đóc Xấu ế chồng,
họ mừng húm, mang cau trầu đến hỏi liền. Lúc đầu chị đóc Xấu cự
nự không chịu, sau cả vợ chồng ông Quắn, cả bố mẹ chị quì lạy
như tế sao, chị tắc lưỡi nói lấy thì lấy.
Đám cưới chị đóc Xấu 1 bò hai lợn, to nhất lịch sử làng Đông. Cu
Miễn bây giờ là chủ nhịêm HTX, làm chủ hôn, như kiểu MC bây
giờ, nói alô alô trăng trên trời có khi tròn khi méo/ Xấu yêu Hào
thật khéo lắm thay.
Chị đóc Xấu lần đầu son phấn, mặt cúi gầm không dám nhìn ai.
Anh Hào ngồi cạnh chị , ngơ ngác nhìn mọi người, cười hậc cái,
nói hay hè.
Cu Miễn nói a lô a lô vui duyên mới không quên nhiệm vụ/ Xấu và
Hào ưu tú cả hai/ người quốc sắc kẻ thiên tài/ tình trong hợp tác
thuận, mặt ngoài hai họ ưa.
Ông Quắc vỗ tay đôm đốp nói đụ mạ Cu Miễn nói hay.
Rước dâu từ sân kho hợp tác, cô dâu chú rể cao lêu đêu nổi bật
giữa đám rước. Mọi người nói ua chầu chầu giống tây giống tây.
Chị đóc Xấu vấp cục đá, ngã quị. Anh Hào đứng trố mắt nhìn. Mọi
người nói kéo vợ lên tề, Hào tề! Anh cứ đứng ngơ, cười hậc cái,
nói hay hè.
Đêm động phòng bà Quắc kéo chị đóc Xấu ra sau hồi, nói có khi
chồng con không biêt mần chi mô, con phải bày cho hắn nghe con.
Chị đóc Xấu nói bày chi mạ. Bà Quắc làm động tác, nói đầu tiền
mần ri nì ri nì, sau nó chịu rồi thì ri nì ri nì, rồi ri nì ri nì, nghe
chưa. Chị đóc xấu ngượng nói dạ, bà Quắc nói cố lên con, đầu tiên
ngượng chút thôi, sau sướng mê man luôn, khe khe khe.
Vợ chồng ông Quắc nằm phòng bên nín thở nghe động tĩnh. Bà
Quắc nói không biết con mình có làm ăn chi được không. Ông
Quắc nói è he lo chi hè, chó mèo còn làm được nữa là người.
Trong buồng, chị đóc Xấu nằm ngửa chờ đợi, anh Hào ngồi bó gối
nhìn chị lom lom, cười hậc cái, nói hay hè. Chị đóc Xấu chờ mãi
không được, bèn trật vú ra nói đây nì đay nì. Anh Hào đặt tay lên
vú, cười hậc cái , nói hay hè. Chị đóc Xấu trật bướm ra nói đây nì
đây nì, anh Hào đặt tay lên bướm, cười hậc cái, nói hay hè.
Cứ để nguyên tay vú tay bướm, anh Hào ngồi nhìn lom lom, cười
hậc cái, nói hay hè, rồi lăn ra ngủ như chết.
Cả tháng trời sáng nào bà Quắc cũng kéo chị đóc Xấu ra sau hồi
nói răng rồi răng rồi, chị đọc Xấu ứa nước mắt nói không răng cả
mạ ơi. Bà Quắc lại làm động tác, nói đầu tiền mần ri nì ri nì, sau nó
chịu rồi thì ri nì ri nì, rồi ri nì ri nì, tóm lại vẫn không ăn thua. Chị
đóc Xấu ôm mặt khóc, nói mạ ơi cho con về nhà.
Không biết vợ chồng ông Quắc bàn bạc ra sao, tối đó ông Quắc
vào buồng, nói với chị đóc Xấu: thôi, con chịu khó để ba mần ví
dụ cho chồng con coi, lập tức ông bị ăn một cái tát rụng mất cái
răng cửa.
Ông Quắc nói hay để ba thuê đứa mô mần ví dụ, ông lại ăn thêm
một cái tát, rụng mất cái răng cửa nữa. Anh Hào nhin cái mồm đầy
máu của ông Quắc, cười hậc cái, nói hay hè.
Chị đóc Xấu đùng đùng xách áo quần ra về, hai vợ chồng ông
Quắc qùi xuống ôm chân chị khóc nói khoan khoan, còn nước còn
tát con ơi!
Cu Miễn nói với ông Quắc: chúng tôi coi gia đình bác là người của
hợp tác, cháu Hào chưa biết làm chồng thì hợp tác phải có trách
nhiệm.
Ông Quắc nói phải phải, hợp tác yêu cầu chi vợ chồng tui chấp
hành liền. Cu Miễn nói chủ nhiệm HTX mần ví dụ nhất định đóc
Xấu phải chấp hành. Ông Quắc nói phải phải.
Tối đó Cu Miễn vào buồng chị đóc Xấu, nóí đồng chí đóc Xấu, tui
được hợp tác giao nhiệm vụ mần ví dụ cho đồng chí Hào coi, đồng
chí cứ coi tui như đồng chí Hào, mần như thiệt nghe không?
Cu Miễn nói chưa xong đã ăn một cái tát, rụng liền hai cái răng
cửa. Cu Miễn tức, nhảy ra sân thổi còi gọi dân quân tới. Vợ chồng
ông Quắc lạy lục Cu Miễn, đền một trăm đồng Cu Miễn mới chịu
thôi, vụ án mần ví dụ tạm thời khép lại.
Cu Miễn nói đóc Xấu vô cớ đánh chủ nhiệm hợp tác, đuổi cổ nó ra
khỏi đoàn đội. Chị đóc Xấu nói không cần đuổi mất công, tui cút
khỏi làng giờ.
Chị ôm anh Hào khóc, nói ôi chồng ơi chồng ơi, chó mèo còn biết
làm răng chồng không biết. Anh Hào cười hậc cái , nói hay hè.
Chị đóc Xấu lạy ông bà Quắc, lạy bố mẹ mình đi thẳng ra xóm
Bàu. Đó là người thứ hai trong Xóm gái hoang.
3 Người thứ 3 là chị Mai. Chị hơi thấp, múp máp, da trắng ngần, đặc
biệt chị hát hay ngâm thơ đều hay cả. Người thì gọi chị là Châu
Loan* xóm, người thì gọi Tường Vi** xóm.
Họp đội, họp xóm, họp đoàn, đám cưới đám hỏi nhất nhất phải có
chị hát mới xong. Mọi người nói Châu Loan mô rồi hè? Chị đứng
lên liền, nói đây đây. Người nói ngâm bài rứa là hết đi, người nói
không không ẻ vô bài nớ, ngâm bài "chào sáu mốt đỉnh cao" tề.
Chị thuộc toàn thơ Tố Hữu thôi, mấy bài trong sách giáo khoa chị
thuộc sạch. Hỏi nước mình có ai là nhà thơ, chị nói Trần Đăng
Khoa với Tố Hữu, hỏi còn ai nữa không, chị nói từng nớ ngâm đã
rã họng ra rồi, nhiều chi lắm.
Đầu buổi ngâm thơ cuối buổi hát, hoặc ngược lại, khi nào cũng
vậy ở đâu cũng vậy. Mọi người nói Tường vi mô rồi hè, chị đứng
lên liền, nói đây đây. Người nói hát bài Noọng ơi trăm ngàn nở
hoa đi, người nói dở dở quẹt quẹt, hát nắng toả chiều nay tề.
Chị hát say sưa, miệng hát ngực rung hấp dẫn vô cùng.
Có hai người mê chị, một là anh Toả bí thư chi đoàn, hai là Cu
Mèo con trai cu Miễn. Mỗi lần chị Mai hát, anh Toả nhìn miệng
chị không chớp, miệng mấp máy, người đu đưa, nói hay hè hay hè;
cu Mèo nhóng cổ nhìn ngực chị rung rung, thè lưỡi liếm một vòng,
nói đụ mạ hát rứa mới hát chớ, lại thè lưỡi liếm một vòng.
Nhưng chị Mai ghét Cu Mèo, yêu anh Toả. Cu Mèo tức lắm, đứng
dạng háng chặn đường chị Mai hỏi tui thua cu Toả cái chi? Chị nói
không, bỏ đi. Cu Mèo vượt lên nói tui tên Mèo, xấu phải không?
Chị nói không, lại bỏ đi.
Tối cu Mèo trèo lên cây xoan sau hồi nhà chị Mai, dóng mồm
xuống cửa sổ nhà chị kêu vơ Mai nời... tui ưng Mai rồi vơ Mai! Vơ
Mai nời... cu Toả không bằng bãi cứt trâu, ưng hắn mần chi. Chị
Mai đóng cửa sổ, cu Mèo hát hờn căm bao lũ tham tàn... cu Toả!
Rồi lại hét Mờ eo meo huyền Mai! Mờ ai mai huyền Mèo. Tối nào
cũng ầm ĩ, không cho ai ngủ ngáy gì cả.
Buổi trưa nắng nóng chị Mai gánh lúa về, cu Mèo chặn đường,
dạng háng nói ưng tôi đi, mai mốt tui làm lái xe. Chị Mai đang
gánh lúa, mệt, nói ẻ vô, bỏ đi. Cu Mèo lại vượt lên trước, đứng
dạng háng, nói ưng tui đi, mai mốt bọ tui lên xã, tui làm chủ
nhiệm. Chị Mai đánh môi cái bịp nói ẻ vô, bỏ đi.
Cu Mèo vẫn không chịu, lại vượt lên, đứng dạng háng, tụt quần
nói, cặc tui ri nì, Mai ưng không? Chị Mai vứt gánh lúa, chồm tới
túm chim cu Mèo nghiến răng vặn, nói khoe cái cố tổ mi, khoe cái
cố tổ mi.
Cu Mèo kêu như cha chết, nhưng đi đâu cũng khoe em Mai cầm
chim tau rồi, khen chim tau đại chang, khe khe khe... bằng mười
chim cu Tỏa, khe khe khe...
Tết năm 1967, làng làm hội diễn văn nghệ ở đình làng. anh Toả
chị Mai hát song ca bài "Trước ngày hội bắn", chị Mai mặc váy,
cầm cái ô xoay xoay e thẹn, bắp chân trần trắng muốt, liếc cái, hát
"ai tin anh nói"... anh Toả mặc áo quần bộ đội, đội mũ tai bèo, liếc
cái, hát : "vì sao em nói nghe nào..."
Bà con nói ua chầu hầu hay hè hay hè. Cu Mèo đứng dậy nói hay
cái l. mạ bay! Bà con nói ua chầu chầu cu Mèo nói bậy quá hè. Cu
Mèo nói đồ xã viên biết cái chi! Rồi hát rống lên hờn căm bao lũ
tham tàn... Mai Toả!
Mọi người nói ua châù chầu cu Mèo ỷ thế con chủ nhiệm mất trật
tự quá hè. Cu Mèo nói đồ xã viên biết cái chi! Rồi lại hát cu cu Toả
ơi, cu cu Toả ơi.. chim mi mô rồi, chim mi mô rồi... đọ tau cái coi.
Bà con đòi đưa cu Mèo ra kiểm điểm, cu Miễn nói đồng chí cu
Mèo nóng tính, có nói bậy nhưng xuất phát từ tấm lòng yêu
thương xã viên nghèo như đồng chí Mai. Rứa là tốt. Quan trọng là
tấm lòng, không quan trọng cái lỗ mồm. Người nói tốt rứa a tốt
rứa a, người không nói gì, người nói tốt rứa đo tốt rứa đo.
Anh Toả nói đồng chí Cu Miễn sai rồi, nguỵ biện bao che con cái.
Cu Miễn nói chính đồng chí cu Toả mới nguỵ biện. Anh Tỏa hỏi
răng, cu Miễn nói đồng chí là bí thư chi đoàn, mồm nói căm thù
giặc sâu sắc, yêu Tổ quốc nồng nàn lại không chịu gương mẫu
xung phong đi bộ đội. Cu Toả nói khó chi, tui đi ngay!
Ra tết anh Toả đi bộ đội, cu Miễn nói rất hoan nghênh tinh thân
dám nghĩ dám làm của đồng chí cu Toả, rồì tổ chức cho làng Đông
học tập tinh thần đồng chí cu Toả. Cu Miễn đề nghị chị Mai làm bí
thư chi đoàn, gánh vác cho người đi xa. Chị Mai nghe nói vậy thì
nhận, cu Miễn nói rứa mới thấy hậu phương yêu thương tiền tuyến
chơ, khe khe khe.
Cu Mèo nói tui muốn lấy con Mai, làm răng bọ? Cu Miễn nói
mồm mi thối lắm, được con cặc là kiên cường, tận dụng thế mạnh
đi con. Rồi nói với chị Mai đồng chí cu Mèo chậm tiến, đồng chí
nên gặp riêng nhắc nhở.
Tối, chị Mai họp chi đoàn ở kho hợp tác, hết họp thì bảo cu Mèo ở
lại nhắc nhở, cu Mèo đè chị ra hiếp liền. Chị Mai xấu hổ không
dám nói ai, đi một mạch xuống Quảng Thanh, ngồi đợi máy bay
tới thả bom thì lao vào. Chị không chết, bị một mảnh bom đâm
đúng cuống họng, không nói được, nói gì cũng cứ dá da da da.
Cu Mèo nói tui cần mồm dưới, không cần mồm trên, Mai lấy tui
đi. Chị Mai trợn mắt đạp vào bộ hạ cu Mèo một phát, nói dá da da
da... dá da da da!
Cu Miễn nói hoàn cảnh đồng chí rất khó khăn, đồng chí về làm
dâu nhà tôi, chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ đồng chí. Chị Mai
trợn mắt đập vào mồm cu Miễn một phát, nói dá da da da... dá da
da da, rồi xách áo quần ra thẳng xóm gái hoang.
------------------------
* Châu Loan là nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng miền Bắc hồi đó, phục
vụ trong đoàn ca nhạc đài Tiếng Nói Việt Nam.
** Nữ ca sĩ Tường Vi , đoàn văn công Tổng cục Chính trị
QĐNDVN là người có giọng hát đã làm mê mẩn đại uý dù
Khong-Le (sau đảo chính được phong trung tướng), người hùng
của Vương quốc Lào.
4. Xóm chỉ có 3 nhà, về sau thì có cả trăm nhà nhưng năm
1967-1968 chỉ có ba nhà thôi. Mụ Cà nói tao trưởng xóm, hai đứa
bay xóm viên, khỏi bầu bán chi mệt. Chị đóc Xấu nói cho em xóm
phó cho oách, con Mai nhỏ tuổi nhất làm xóm viên, đồng ý
không? Chị Mai cười, nói dá da da da.
Phần vì xóm quá xa các làng, phần vì đồn đại, thêu dệt ba người
đàn bà Xóm gái hoang rất ghê rợn, nhiều người sợ cấm con cái
không được ra đó. Người ta đồn hễ ai ra Xóm gái hoang về thì
không cháy nhà cũng mất của, chết bất đắc kì tử không chừng.
Xóm không có ai vãng lai, cái xóm nhỏ ba ngôi nhà như một
vương quốc riêng.
Bàu sen mênh mông cho họ đủ thứ ăn, lại còn thừa mang bán.
Tôm cá ê hề, ngó sen đài sen hoa sen thu nhập cũng khá, họ còn
thả rau muống dây, mỗi tuần xuống chợ gánh rau muống, gánh cá,
gánh sen, ăn uống thoả thuê còn thừa cả nghìn đồng một tháng.
Chị đóc Xấu nói ua chà, răng sướng ri hè, biết rứa em bỏ hợp tác
từ khi mới đẻ. Mụ Cà nói hợp tác với hợp teo, cu Miễn mưu mô cả
năm không bằng tau ngâm l. bàu sen một buổi. Chị Mai cưòi nói
dá da da da.. dá da da da.
Nhưng buồn. Ngày mải làm,quên, tối buồn rũ ra. Buổi tối, ba
ngườì ăn cơm chung, ăn xong mụ Cà buông bát nằm dài ra, nói
bây chừ mần chi hè? Chị đóc Xấu cũng buông bát nằm dài ra, nói
mần chi hè? Chị Mai nằm dài ra theo, nói dá da da?
Mụ Cà bày rượu ra uống, một bát uống vòng, uống được ba bát thì
say, như lũ cuồng đập phá lung tung. Mụ Cà nhảy lên hòn đá, vỗ
bướm bôm bốp nói vơ đàn ông... đây nời đây nời! Chị đóc Xấu
chổng mông vỗ bem bép, nói đây nời đây nời! Chị Mai tụt quần,
cầm quần khua khua chạy quanh sân, nói dá da da.... dá da da!
Cả ba nằm vật ra, không ai nói với ai, thở vào thở ra, miệng chóp
chép. Mụ Cà nói đàn ông ngu chi ngu lạ, chị đóc Xấu nói ừ đo, ngu
chi ngu lạ! Chị Mai nói dá da da! Rồi ba chị ngồi ôm nhau khóc,
khóc đến dã rượu thì ngủ lịm.
Ba chị ra chợ, thấy có người đứng ôm cái đài orionton đòi bán, họ
mua ngay, 700 đồng cũng mua, về nhà tranh nhau mở. Đài phát tin
chiến thắng, mụ Cà vỗ đùi đánh bốp, nói thấy chưa, tau nói đúng
chưa, chết cha Mỹ Diệm chưa! Chị đóc Xấu nằm vật ngửa ra,
chổng chân lên trời, nói oa làng ơi sướng! oa làng ơi sướng ! Chị
Mai cười toét nhảy chồm lên chị đóc Xấu dập dập nói dá da... dá
da... dá da.
Nhưng nghe mãi cũng chán, quanh đi quẩn lại cũng chỉ tin chiến
thắng, hết chỗ này thắng lợi đến chỗ kia thắng lợi, Mụ Cà thở ra,
nói răng thắng hoài thắng huỷ rứa mà chưa thấy hoà bình chi cả
hè. Chị đóc Xấu nói ừ đo... ừ đo, chị Mai nói dá da... dá da.
Đài vẫn phát tin thời sự, miền Nam thắng lớn nơi này nơi kia,
miền Bắc sản xuất thắng lợi nơi này nơi kia, lãnh đạo thăm hỏi nơi
này nơi kia, mụ Cà nốp ruột kêu vơ đài nời, hát đi với, nói chi nói
lắm.
Nằm dài vuốt bụng chán thì vùng dậy lấy soong nồi gõ ầm ĩ, lại
còn múa hát. Mụ Cà nói lối như ta đây là Lê Thị Cà, một lần tây
hiếp đến già không quên, rồi gõ cái choeng! Chị đóc Xấu, chị Mai
nhảy nhảy gõ gõ choeng choeng!
Mụ Cà hát này này ơi chị em ơi, Chị đóc Xấu nói ơi, Chị Mai nói
dá da. Mụ Cà hát lũ đế quốc vô cùng tàn ác, sức đã dai mà cặc lại
to, thế nên ta phải căm thù, choeng! Chị Mai, chị đóc Xấu nhảy
nhảy gõ gõ choeng choeng!
Hát hò chán lại nằm vật ra, ba người ba góc, không ai nói với ai.
Máy bay xoẹt qua, mụ Cà nhảy lên hét vơ Đế quốc Mỹ nời, răng
không thả phi công, toàn thả bom, ngu rứa ác rứa. Chị đóc Xấu
cũng nhảy lên, hét ngu ngu!... ác ác! Chị Mai nhảy chồm chồm,
hét dá da... dá da!
Mơ được ước thấy, phi công nhảy xuống bàu sen thật.
Một đêm, bộ đội dưới cảng Gianh bắn trúng máy bay, chiếc F4H
cháy rùng rùng, đâm đầu xuống chân núi sau làng Trung Thuần,
dân các làng sung sướng reo vang. Ba chị cùng nhảy cà tẩng, lấy
soong nồi gõ ầm ĩ.
Chợt nghe cái bụp phía bàu sen, ngó ra thì thấy một cái dù đỏ xoè
rộng trên bàu. Ba chị sướng rêm, lội ra ngay.
Hồi này dù là một chiến lợi phẩm dân chúng rất mê. Hễ có một cái
dù pháo sáng, dù phi công nào rơi là từ dân chúng từ bốn phương
tám hướng nhào ra, tay lăm lăm dao kéo, mạnh ai nấy xẻo. Nhiều
khi tranh giành đập đánh nhau chí tử.
Ba chị cùng tay dao tay kéo lao ra. May tối hôm đó hình như mọi
người mải xem máy bay cháy, không để ý, chẳng thấy có ai chạy
ra, ba chị lân đầu được một cái dù trọn vẹn, lại dù đỏ, sướng ngây
ngất.
Cuốn xong dù thì thấy một cái đầu nhô lên, ba chị rú lên chực bỏ
chạy, cái đầu nói rốp rít xốp xít, ba chị nhìn lại, hoá ra là một phi
công Mỹ, họ cứ đứng trơ nhìn nhau.
Mụ Cà sực tỉnh chĩa dao vào thằng Mỹ, nói giơ tay lên. Thằng Mỹ
nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà dơ dao đe, nói đụ mạ tau nói mi giơ tay
lên. Thằng Mỹ cứ đứng trơ, nói rốp rít xốp xít. Chị đóc Xấu nói Đế
quốc Mỹ ngu chi ngu lạ.
Chị Mai vung hai tay lên, nói dá da da, thằng Mỹ giơ hai tay lên
liền. Mụ Cà, chị đóc Xấu trố mắt ngạc nhiên, nói con Mai nói chi
mình không hiểu mà thằng Mỹ hiểu liền.
Mụ Cà chỉ tay vào xóm, trợn mắt với thằng Mỹ, quát dá da da da!
Thằng Mỹ vội vàng đi vào xóm liền. Mụ Cà cười, nói è he, tưởng
răng, tiếng Mỹ dễ òm!
5. Mụ Cà nói giải nó lên huyện đội ngay, chị đóc Xấu nói cho nó tắm
rửa ăn uống đã chị, tội. Chị Mai gật gật đầu nói dá da.
Mụ Cà dắt thằng Mỹ đến cái giếng đất rộng bằng cái nong, sâu
chừng một mét, chỉ cái gàu nói dá da da, thằng Mỹ gật đầu nói rốp
rít xốp xít, rồi nhảy bùm xuống giếng, có lẽ nó tưởng cái bồn tắm.
Mụ Cà tức giận nhảy chồm chồm, nói, dá da da da, ngu ngu.
Thằng Mỹ nhăn răng cười nói rốp rít xốp xít. Chị đóc Xấu nói chị
nói rứa nó không hiểu mô. Mụ Cà hỏi nói răng thì hiểu, chị đóc
Xấu nói chị không nghe đài diễn kịch à, tụi Mỹ toàn nói không có
dấu.
Mụ Cà chõ mồm xuống giếng nói thang My kia may ngu qua,
giêng an sao may nhay xuông tam, thằng Mỹ lại nhăn răng cười
nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà tức, nói rốp rốp cái mả cha mi, ngu chi
ngu lạ.
Thằng Mỹ ăn cơm, chị đóc Xấu nói cơm, thằng Mỹ nói cóm, chị
đóc Xấu nói cơm ngon, thằng Mỹ nói cóm ngón. Chị đóc Xấu nói
canh, thằng Mỹ nói cắng. Chị đóc Xấu nói canh ngon, thằng Mỹ
nói cắng ngón.
Mụ Cà gật đầu khen thằng Mỹ, nói giỏi giỏi! Thằng Mỹ nói dòi
dòi, mụ Cà nói dòi dòi cái l. mạ mi, thằng Mỹ nói lón má ngón? Ba
chị cười nghiêng ngã.
Chị đóc Xấu nói hay để nó ở đây vài buổi cho vui, mình nuôi nó
như nuôi con chó béc giê, có chi mô mà. Mụ Cà nói ý con Mai
răng. Chị Mai gật đầu nói dá da.
Chỉ có giường chị đóc Xấu thằng Mỹ mới nằm vừa, chị để nhà cho
thằng Mỹ ở, sang ngủ với mụ Cà. Nửa đêm chị đóc Xấu trằn trọc
không ngủ được. Mụ Cà hỏi răng không ngủ, chị đóc Xấu nói nằm
giường chị đau lưng lắm.
Mụ Cà nói hay cho mi sang ngủ với thằng Mỹ? Chị đóc Xấu cười
rúc rích, ôm lưng Mụ Cà hỏi tây hiếp chị ra răng, Mụ Cà nói sướng
chơ răng. Chị đóc Xấu nói sướng răng sướng răng, kể đi kể đi.
Vừa lúc chị Mai nhảy xổ vào nhà khua chân múa tay nói dá da dá
da. Cả ba chạy ra thì thấy thằng Mỹ quỳ giữa sân làm dấu thánh,
vừa khóc vừa nói rốp rít xốp xít.
Chị đóc Xấu nói nó cầu chúa đó, mụ Cà nói Đế quốc Mỹ cũng có
chúa à, chị đóc Xấu nói có chơ, chúa che chở hết mà. Mụ Cà nói
chúa thần kinh, che chở tầm bậy tầm bạ, chị Mai lắc đầu nói dá da
da da. Chị đóc Xấu nói chà, còn hơn che chở cu Miễn cu Mèo.
Mụ Cà nói ngó bộ tui bay thương thằng Mỹ rồi đó, lộn xộn là tau
giết nghe chưa. Chị đóc Xấu nói mô có mô có, chị Mai nói dá da..
dá da! Mụ Cà nói chà còn chối, thấy thằng cao to đẹp trai, bướm
đứa mô đứa nấy nhóp nhép như mang cá mè, tau lạ chi . Chị đóc
Xấu nói mô có mô có, chị Mai nói dá da dá da
Sáng mai ba chị bắt thằng Mỹ tát giếng, đào lại giếng. Chị đóc
Xấu, chị Mai phụ với nó. Thằng Mỹ đưa thùng nước lên, chị Mai
đón lấy, cười cái, liếc cái. Thằng Mỹ nói rốp rít xốp xít. Chị Mai
cười cái, liếc cái, dẩu mồm nói dá da. Thằng Mỹ cười khư khư
khư.
Chị đóc Xấu tát nước, thỉnh thoảng hích thằng Mỹ, liếc cái. Thằng
Mỹ cũng hích lại, liếc cái. Chị đóc Xấu lườm yêu, đập phát vào
lưng trần thằng Mỹ, cười hi hi hi. Thằng Mỹ vuốt vuốt mông chị,
cười khư khư khư.
Chị Mai đứng trên bờ nhìn thấy, tức, chạy tìm mụ Cà, lôi ra giếng,
hết chỉ thằng Mỹ, nói dá da, lại chỉ chị đóc Xấu, nói dá da, hai tay
chị đập đập xoa xoa, nói dá da... dá da. Mụ Cà chỉ mặt chị đóc Xấu
nói tao cảnh cáo mi nghe chưa, giai cấp mô có con cu của giai cấp
đó, đừng có lộn xộn.
Chị đóc Xấu xịu mặt nói chị nói rứa oan em, em căm thù Đế quốc
Mỹ mà. Mụ Cà nói mi căm thù chớ bướm mi không có mắt, biết ai
mà căm thù, ngu lắm!
Mụ Cà thở ra nói, ua chao ôi, đế quốc thực dân toàn bọn to con đẹp
trai, tức chi tức lạ.
Đêm, mụ Cà kèm chặt chị đóc Xấu, nói đừng có lộn xộn em à, lộn
xộn là tao đem nó đi nộp huyện đội liền, chị đóc Xấu nói răng chị
không nghi con Mai, toàn nghi em.
Mụ Cà nghe nói thế thì giật mình, chạy sang tìm, cả thằng Mỹ cả
chị Mai đều không có. Hai chị chạy tìm khắp nơi thì thấy thằng
Mỹ đang đứng dựa gốc cây, bế xốc chị Mai lên hôn.
Mụ Cà nấp rình với chị đóc Xấu, thấy hôn môi, lạ quá, hỏi yêu là
hun rứa à, chị đóc Xấu nói yêu là hun môi, chị không biết à. Mụ
Cà nói tụi choa lớp trước, thích thì tụt quần mần đến mần đại, biết
hun hít chi mô.
Đến đoạn thằng Mỹ kéo quần chị Mai thì mụ Cà xông tới, giằng
chị Mai ra, đạp phát vào hạ bộ thằng Mỹ, tát một tát vào mặt chị
Mai, nói á a cái con ni gan trời, dám yêu Đế quốc Mỹ.
Chị Mai ôm chân chị Cà khóc nói dá da dá a.. Mụ Cà lại cho thêm
một tát nữa, nói mi là con phản động. Chị Mai lại ôm chân mụ Cà
khóc rú lên, nói dá da... dá da da.
Mụ Cà ôm đầu ngửa mặt kêu, ôi chúa ơi chúa ơi, chúa cho đàn ông
nước con to con đẹp trai đi chúa, không đàn bà con gái phản động
hết! Dứt lời mụ Cà cắp nón đi liền, nói tau lên huyện đội báo
người ta lôi cổ nó đi cho rồi, ngồi canh bướm tui bay nhọc lắm.
Mụ Cà gặp Cu Miễn đạp xe đạp dọc đường, Cu Miễn hỏi đi mô,
mụ Cà nói bắt được phi công, Cu Miễn nói để tui lên báo cho, tui
có xe đạp. Mụ Cà nói tui lên báo công để lấy bò chơ.
Cu Miễn nói bò mô trên huyện đội, người ta thưởng mồm thôi, bắt
hợp tác chi bò chơ ai chi. Mụ Cà nói thiệt không, Cu Miễn nói
răng không. Mụ Cà nói rứa Cu Miễn có thưởng bò tui không, cu
Miễn nói răng không.
Mụ Cà quay về, đến gần nhà thì chị Mai ra khoa chân múa tay, mặt
mày tái mét, nói dá da da da.... dá da da da. Mụ Cà lật đật chạy vào
nhà, vừa lúc thằng Mỹ và chị đóc Xấu kéo quần lên.
Mụ Cà xông tới tát thằng Mỹ tới tấp, nói cha tổ Đế quốc Mỹ cha tổ
Đế quốc Mỹ, bướm nước choa đã đau thương bọn bay còn hành
hạ. Chị Mai nhảy chồm chồm trước mặt thằng Mỹ, hai tay xỉa xỉa,
nói dá da... dá da... dá da!
Mụ Cà quay lại xốc cổ áo chị đóc Xấu, quát mi nói răng nói lại tau
nghe. Chị đóc Xấu ôm lấy Mụ Cà khóc nói em chừa rồi em chừa
rồi, đau lắm đau lắm, từ nay em ẻ vô Đế quốc Mỹ.
Cu Mèo đem đội dân quân xông vào, chĩa súng vào thằng Mỹ nói
giơ tay lên. Mụ Cà giật tay cu Mèo, nói mi về nói hợp tác đưa bò
cho tau, tau giao thằng Mỹ liền. Cu Mèo quát câm mồm, tội các
chị giấu thằng Mỹ tui chưa đem ra toà, còn dám đòi bò!
Nói xong cu Mèo áp giải thằng Mỹ đi. Mụ Cà nói Đế quốc Mỹ
mình không thua, chỉ thua cu Mèo cu Miễn thôi.
Tại hội nghị báo công, cu Miễn nói Đội du kích làng Đông đã mưu
trí dũng cảm tóm gọn tên phi công Mỹ, giải thoát cho ba phụ nữ
đang bị nó làm nhục.
Hội nghị ồ lên, người nói giỏi giỏi, người nói tài tài, người nói
phục phục.
Ua chầu chầu chầu.
Nguyễn Quang Lập
Sách Việt tại hải ngoại
ngày càng hiếm
Độc giả muốn mua sách,
xin mời xem tại
NHÀ SÁCH ONLINE:
www.langvan.net