mÙa xuÂn trong thƠ thiỀn - chuaphatgiaovietnam.com xuan trong tho thie… · trong bài thơ...

365
MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN Sưu tập của www.chuaphatgiaovietnam.com II Mục lục 87. Xuân Cảm, Thích ðức Nhuận 88. Xuân Như Tại, Thích Tâm Châu 89. Nam Mô Hoa ðào, Nhật Chiêu 90. Mắt thiền nhìn xuân, Hoàng Thiệu Khang 91. Mùa Xuân Hạnh Phúc, Thích ðức Niệm 92. Thêm hai cách đọc bài thơ/kệ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền Sư, NHƯ HUY 93. Hài cú Xuân, Nguyễn ðăng Thường dịch 94. TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG THI CA VIỆT NAM, Thái Tú Hạp 95. ðọc vần thơ cũ nhớ mùa Xuân xưa, Phạm Trương 96. NHẤT CHI MAI, nguyễn như hải 97. Tảo Mai, Tề Kỷ 98. NHẤT CHI MAI, Trần Tuấn Kiệt 99. Bên Lề Bài Thơ Cổ ðiển Nhất Chi Mai , David Lý Lãng Nhân 100. Tết Cùng Ai, Thế Huyền 101. Tản Mạn Với Hoa Mai, 4u.jcisio.com 102. Cáo Tật Thị Chúng, Mãn Giác Thiền Sư, Thư Pháp của Nguyễn Quốc ðoan 103. MAI NỞ TRỜI TÂY, Linh Thảo

Upload: vanhanh

Post on 29-Aug-2019

226 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN

Sưu tập của www.chuaphatgiaovietnam.com

II

Mục lục 87. Xuân Cảm, Thích ðức Nhuận

88. Xuân Như Tại, Thích Tâm Châu

89. Nam Mô Hoa ðào, Nhật Chiêu

90. Mắt thiền nhìn xuân, Hoàng Thiệu Khang

91. Mùa Xuân Hạnh Phúc, Thích ðức Niệm

92. Thêm hai cách đọc bài thơ/kệ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền Sư, NHƯ HUY

93. Hài cú Xuân, Nguyễn ðăng Thường dịch

94. TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG THI CA VIỆT NAM, Thái Tú Hạp

95. ðọc vần thơ cũ nhớ mùa Xuân xưa, Phạm Trương

96. NHẤT CHI MAI, nguyễn như hải

97. Tảo Mai, Tề Kỷ 98. NHẤT CHI MAI, Trần Tuấn Kiệt

99. Bên Lề Bài Thơ Cổ ðiển Nhất Chi Mai , David Lý Lãng Nhân

100. Tết Cùng Ai, Thế Huyền

101. Tản Mạn Với Hoa Mai, 4u.jcisio.com

102. Cáo Tật Thị Chúng, Mãn Giác Thiền Sư, Thư Pháp của Nguyễn Quốc ðoan

103. MAI NỞ TRỜI TÂY, Linh Thảo

104. XUÂN ðà VỀ ðÂY, Thạch Thảo 105. Hạnh Phúc Và Mùa Xuân, Tịnh Nghiêm-Nghiêm Xuân Cường

106. Tối Qua, Sân Trước Một Cành Mai, Trần Trung ðạo

107. Mai Vàng, Mùa Xuân và Việt Nam, Lý Lạc Long

108. Xuân Miên Viễn Và Thi Nhân, Hạt cát Phú Xuân

109. Gia Phong chư Phật và mùa Xuân, Trần Quê Hương

110. Mùa Xuân và Thơ Bùi Giáng, Hà Quảng

111. Sư về muộn, Phổ ðồng 112. BÓNG NGUYÊN XUÂN, Huỳnh Ngọc Chiến 113. XUÂN VỀ, NGUYỄN BÍNH 114. Xuân tha hương, Nguyễn Bính 115. XUÂN, CHẾ LAN VIÊN 116. MÙA XUÂN CHÍN, HÀN MẶC TỬ 117. Mùa Xuân Trong Cõi Thơ Bùi Giáng, Nhất Thanh

118. Thơ XUÂN, Mai Hữu Phước

119. MÙA XUÂN TRONG THƠ ðƯỜNG - VIỆT, LINH THẢO 120. NGUYỄN DU VỚI DÒNG THỜI GIAN, Nguyễn Xuân Vinh, Thư hoạ: Vũ Hối

121. Thơ của Thiền Sư Bankei – Bàng Uẩn

122. Cáo Tật Thị Chúng, thơ và thư pháp

123. Những bài thơ hoa đào hay nhất , Thái Tú Hạp

124. Xuân chín bên cội bồ đề, Trần Kiêm ðoàn

125. Mai vàng chốn non thiêng Yên Tử, Lê Hải 126. Bên mé rừng đã nở rộ hoa mai, Nhất Hạnh

127. Xuân với Tăng thân “vầng trăng sáng” , Trần ðan Hà

128. Mai nở lòng xuân, Minh Triết Trần Thiện ðạt

129. Hoa Xuân bổn môn, Thích Nữ Giới Hương

130. Thế Lữ, "Giây phút chạnh lòng", Nhất Hạnh

131. Xuân Trong cửa Thiền, Thích Thanh Từ

132. Bài thơ XUÂN VÃN của ðiều Ngự Giác Hoàng - Trần Nhân Tông, Thích Thông Huệ

133. "Cáo Tật Thị Chúng" và Ẩn Ngữ Của Nền Văn Hóa Phương ðông

(Từ thực tại biểu kiến đến thực tại tiềm ẩn), Nguyễn Chí Trung

134. Bướm bay vườn cải hoa vàng, Thích Nhất Hạnh

135. Mùa Xuân Di Lặc, Thích Thanh Từ

136. Thông điệp của thơ, Thích Nữ Trí Hải

137. Tranh Chợ Tết

138. Tết xưa trong tranh ðông Hồ, Hàng Trống, Trang Thanh Hiền

Xuân cảm

Thích ðức Nhuận

ðông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang

Cảnh vật dường như mới điểm trang.

Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp;

Nước non rạng rỡ nắng hanh vàng.

Hồi chuông trừ tịch vừa buông tiếng

Tràng pháo giao thừa đã nổ vang.

Thiên hạ rủ nhau đi lễ Phật

Người người náo nức đón xuân sang.

1991. trích Sáng một niềm tin

Xuân như tại

Thích Tâm Châu

Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng (1) vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương, Mầm ẩn hiện dệt hồn xuân như-tại.

Lòng gió chuyển kinh qua thiên vạn tải, Hư không tràn thanh-khí ngợp chân-không. Mây xa xưa vẫn thanh-thản trập-trùng, Trăng Viên-Giác vẫn là trăng muôn thuở. Tràn pháp-giới ánh linh quang rực rỡ, Chim thênh-thang, hoa bướm rộn ràng tươi. Non xanh xanh, bất động, ngút chân trời, Biển bát ngát, một mùi (2) không giới hạn. Nước vẫn ướt từ đáy nguồn vô tận, Sóng gầm vang, thể tính vẫn thường như. Ánh dương hồng hơi ấm hệt ban sơ, Sao lấp-lánh trên màn tơ xanh thẳm. Nhịp bước nhẹ in dấu chân lẫm-chẫm, Tóc phơ màu, run gọi bóng thời-gian. Rằng vinh-hoa, phú-quý trộn cơ-hàn, Xưa, sau mãi vẫn một nguồn sinh-lực. Hoa-tạng-giới trùng trùng vô cùng cực, Luồng tâm-tư vi-tế bản nhiên hoài. Lầm sự-vật làm chi thêm bải-hoải Xuân là xuân trong tự-tại như-như! (1) Sự vật luôn luôn trong trạng thái: đầy, vơi, mòn, nở. (2) Nước biển có một vị mặn, đạo Phật có một vị giải thoát. trích Cánh hoa tâm

"Sen tàn cúc lại nở hoa.

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân".

Nguyễn Du

NAM MÔ HOA ðÀO

Nhật Chiêu

Trước cành đào hoa Rộ đời hương sắc Nam Mô hoa đào! Bashô

Nam Mô là dâng hiến thân tâm mình cho ðức Phật. Trước hoa đào, Bashô niệm Phật (Hana nimo nenbutsu) và như thế, Bashô đang niệm hoa đào. "Muôn triệu đóa hoa chính là hoa Phật Tổ", Thiền Sư Dôgen nói: "là vang rền tiếng gọi: Chư Phật hiện thân giữa đời" (1)

Hoa đào, hoa mơ, hoa ưu đàm… muôn triệu loài hoa. Do nhân duyên mà hoa đào được nói tới. Trong họ nhà hồng, chỉ có anh đào (Sakura) là vươn thành cây lớn, hoa phủ cành như mây và chỉ hiện thân trong vài ngày, sau đó tung tán mình trong gió dưới một bầu trời Xuân, không luyến tiếc. ðó là cái đẹp vô ngã. Và Bashô cúi mình đảnh lễ. Anh hoa phát tiết, mùa Xuân xuống đời (Sakura đọc theo âm Hán Việt là Anh)

Và cũng như Bashô, Issa đến bên hoa đào với một thân tâm hoàn toàn thuần khiết:

Nước nóng tắm rồi Vừa xong lạy Phật Hoa đào ta ơi! Issa

Nước nóng, Phật, hoa đào, Issa đang sống với Niết Bàn. Tắm đi, niệm Phật đi, ngắm hoa đào đi. Issa đang sống với mùa Xuân. Và đọc Issa, ta muốn sống với Issa.

Có một nhà thơ Haiku khác, Onitsura khi nhìn vào hoa đào núi (yamazakura) đã nghe ra một tiếng hát kỳ diệu: Bài ca của đá cuội.

Hoa đào núi ðá cuội hát ca Dưới lòng con suối. Onitsura

Bạn sẽ hỏi: Suối hát hay cuội hát. Tất nhiên là cả hai ca hát. Và cả hoa đào nữa, nó đang ca hát. Cả ngọn núi, và cả con suối kia. Trong Sơn Thủy kin (Sansui-kyô) của Dôgen, ta thấy núi đi, núi trôi chảy, đó là vì núi đang ca hát. Vì sơn thủy là Pháp, sơn thủy cũng là Kinh. Sơn Thủy Kinh. Vì hoa đào là Pháp, hoa đào cũng là Kinh. Kinh Hoa ðào.

Và ta tiếp tục đọc Kinh Hoa:

Gió và mưa Giữa những cơn cuồng dại Những cánh hoa đầu mùa. Chora

Hoa đào nở ra mùa Xuân. Gió và mưa không ngăn được điều đó. Hoa mong manh đến thế, vô thường đến thế nhưng chẳng gì mãnh liệt hơn hoa. Giữa gió và mưa, hoa là tình yêu. Hoa là thiên sứ của tình yêu, của bờ bên kia. Như lời Tagore: "Ở giữa thế gian như thành vàng Ravana, chúng ta luôn luôn sống lưu đày khi cõi trần giăng bã vinh hoa và muốn chiếm hữu chúng ta. Hoa lại đến với chúng ta, hoa mang tin từ bờ bên kia. Hoa thì thầm vào tai chúng ta: Em đến đây, người bảo em đến. Em là sứ giả của cái đẹp, của người mà tâm hồn chan chứa tình yêu…"(2)

Hoa xuống đời, lẫn vào cuộc sống, lẫn vào tiếng chuông chùa.

Một đám mây hoa Chuông chùa Ueno vọng Hay chùa Asakusa? Bashô Nhà thơ không phân biệt được tiếng chuông từ đâu vọng tới. Và cần

gì phân biệt? Hoa đào không nở từng đóa đơn độc mà nở thành quần thể muôn nghìn đóa, vì vậy được gọi là "mây hoa" (Hana no kumo: hoa vân).

Hoa không tự phân biệt mà hòa lẫn vào nhau. Hoa vì tiếng chuông mà đến hay chuông vì hoa mà ngân? Hoa chẳng phải là "một công án sống" sao? Chẳng hạn:

Hoa đào nở Chim thì hai cánh Ngựa có bốn chân. Onitsura

Cái như tính của sự vật (Hoa đào tính, chính, ngựa tính…) có thể làm ta ngạc nhiên, có thể không. Onitsura đơn giản ghi lại cái như như đó.

Trong cõi chân không diệu hữu, sao mai vẫn cứ là sao mai, hoa đào là hoa đào và mây là mây: Kìa ngôi sao mai

Tách khỏi hoa đào Giữa trận mây bay. Kikaku

Sao mai trên trời thì tách mình khỏi hoa đào nhưng áo rơm người trần thế thì lại muốn giữ hoa trên mình. Giữa cơn gió loạn, hoa đào tung tán khắp nơi, khi rơi xuống chiếc áo rơm mà người phu chèo chống chiếc bè đang mặc, hoa đã dính mắc đầy áo, như trong bài thơ sau: Trên bè giông bão

Áo rơm người chèo chống Hóa áo hoa đào. Buson

Khi hoa đào nở (sau 51 tuần vắng bóng trong năm) thì khắp nơi vây phủ mây hoa. Thế giới trong vài ngày biến thành thế giới của hoa đào.

Bước vào hoa đào Người người lũ lượt Bước ra hoa đào. Chora

ðào nguyên có giữa lòng đời. Chúng ta "bước vào" nó và chúng ta "bước ra" nó. Thiền Sư Ikkyu (Nhất Hưu) có viết một bài đạo ca như sau: "Từ dục tình của đời, tôi trở về cõi vô dục, một thoáng nghĩ ngơi, mưa có rơi thì rơi, và gió lên mặc gió!"

Hoa đào đến thế gian, đến cõi Ta bà này như để cứu rỗi nó. Cái đẹp cứu rỗi thế gian, Issa dường như nói vậy, cũng như Dostoievsky từng nói?

Hoa đào ban đêm Như từ trời xuống Những người con gái tiên. Issa

Hoa đào với Issa, Buson, Bashô và với hầu hết nhà thơ Nhật thường chứa đựng trong nó một vẻ huyền ảo, linh thiêng:

ðỉnh Yoshino Nuốt mây trên trời cao Và thở ra hoa đào! Buson Chuông chiều tắt dần Hương hoa đào ấy Vẫn còn rung ngân. Bashô

Issa dù được mệnh danh là "nhà thơ của đời thường" nhưng dường như với ông, đời thường chính là tôn giáo. Cho nên:

Quan Âm Phật Bà Nơi nào có mặt Anh đào ra hoa. Issa

Như vậy, có thể nói nơi nào có hoa, nơi đó có Phật. Tính chất hoa đào, hay hoa nói chung và tình yêu là một.

__________________________ (1) Moon in a Dewdrop, Zen Master Dôgen, Element Books, 1988, trang

115. (2) Sadhana, Tagore. Theo bản Việt dịch của NXB An Tiêm: Thực hiện toàn

mãn.

[7] Thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

[8] Như trên.

[9] Tam Bảo: Phật, giáo Pháp của Phật và các vị ðệ tử của Phật.

[10] Zen Master Thích Nhất Hạnh’s Meditative Poem.

[11] Vu Lan 2007, thơ “Kính dâng Mẹ” của tác giả Nguyễn Nguyệt. Trong bài thơ này, người viết có đổi một vài từ cho phù hợp với ngữ cảnh Mùa Xuân, kính mong tác giả hoan hỷ và thông cảm. Mến chúc tác giả vui Xuân.

[12] Người viết, tập làm thơ cho dzui cho dzui, hòa với đời vui cùng chánh Pháp.

Mắt thiền nhìn xuân

Hoàng Thiệu Khang

Lịch trình tư tưởng thiền học là sự thoát khỏi cái thường đề thấy được cái vô thường, thoát khỏi cái ngã để tiến tới cái vô ngã. Lịch trình mỹ học của thiền học là sự nhìn nhận chân phạm trù cái bi để tiến đến cái đẹp nơi từng nhân cách. Hai lịch trình đó là linh hồn của Thiền Học.

Như vậy, Thiền là tư tưởngtriết học, cũng vừa là thái độ, cách thể sống của con người giác ngộ.

Con người giác ngộ ấy, trước hết bộc lộ mình nơi con mắt nhìn cõi tự nhiên và nhìn cuộc sống. đó là đôi mắt đạt đến độ Tuệ Nhãn

Bằng đôi mắt Tuệ Nhãn ấy, các vị Thiền Sư đã nhìn cảnh mùa xuân. đó là ý niệm thời gian của bậc minh triết

Muà xuân được Thiền cảm nhận như là một tương đối của cái vô thường tuyệt đối. đó là thời gian được hiện tượng hóa, vật thể hoá, biểu thị cho quy luật đang vận hành ẩn tàng trong vũ trụ. đó là dòng chảy mang tính chất tự nhiên, khách quan.

Mãn Giác Thiền Sư đã nhìn mùa xuân:

Xuân trôi trăm hoa rụng Xuân tới trăm hoa cười (Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai)

Vạn Hạnh thiền Sư cũng đã nhìn mùa xuân:

Cây cối xuân tươi, thu não nùng (Vạn mộc Xuân vinh, thu hựu khô)

Trung tâm nội dung của những câu kệ và câu thơ trên được nằm trong ý nghĩa của hai chữ "vô tình". Nó không mang nghĩa thông thường, nghĩa tâm lý, tình cảm (thờ ơ, lạnh nhạt...) đó chỉ là một thuật ngữ triết học. Nó chỉ định tính chất khách quan của quy luật. đã là quy luật thì không phụ thuộc vào bất cứ ý chí ý muốn chủ quan nào cả, không thiên ái thiên vị. Như vậy "vô tình"là một khái niệm nằm trong phạm trù vô thường. Dưới một thác nước từ trời cao đổ xuống thì nhà sang hay nhà hèn...đều bị cuốn trôi như nhau.

Tư tưởng này cũng được Lão Tử đề cập tới trong chương V của đạo đức Kinh:

Trời đất không có nhân Coi vạn vật như loài chó rơm Thánh nhân không có nhân

Coi trăm họ như loài chó rơm.

(Thiên địa bất nhân Dĩ vạn vật vi sô cẩu

Thánh nhân bất nhân Dĩ bách tính vi sô cẩu)

Thoạt nghe thấy lạ lùng! Nhưng nếu hiểu cái nghĩa đích thực của chữ "đạo" thì sẽ hết thắc mắc. đạo là cái luật lạnh lùng của trời đất, không tư vị ai cả nên gọi là " bất nhân". Bậc thánh nhân đã đại giác lẽ đạo nên cũng hành xử theo quy luật. Về sau Lão tử nói rõ cái nghĩa hai chữ " bất nhân"này trong bài "Sô Cẩu"

Như vậy, cặp mắt nhìn vũ trụ trong vô thường là cặp mắt khám phá được luật biến động, vận động, đổi thay...cuả vũ trụ, dẫu chúng đã hiện hành nơi cõi tự nhiên hay đang âm thầm tiềm ần.

Cặp mắt đại giác ấy đã nhìn vào cõi nhân sinh. Cõi ấy cũng vô thường. Nó luôn luôn vận động tuyệt đối, một thay đổi liên tục"Thế gian biến cải vũng nên đồi"(Nguyễn Bỉnh Khiêm), hay "Sông xưa rày đã biến nên đồng"

Trước cái lẽ biến đổi bất tận ấy, con người phải cảm nhận và xử xự như thế nào? đó là cái lẽ thứ hai của Thiền.

Vạn Hạnh thiền Sư đã nhìn vào thân để chiêm nghiệm:

Thân như bóng chớp có rồi không (Thân như điện ảnh hữu hoàn vô)

Như vậy, đừng bao giờ nghĩ rằng cái thân của ta là vĩnh viễn có, là thường. Tất cả tạo vật, con người đang sống chỉ là ở "trọ "mà thôi "Con chim ở đậu cành tre.

Con cá ở trọ trong khe suối nguồn... Trăm năm ở trọ ngàn năm"

(Trịnh Công Sơn)

Lầm tưởng mình là có cũng vì cái căn ngã của mình còn nặng. Thường và Ngã là hai biều hiện tập trung của ngộ nhận, của cái bi thẩm mỹ. Tất cả đều là trong sự điều hành vô hình của vô thường. Cho nên đừng mãi miết đi trong cõi phù du mờ mịt của thân ta đòi hỏi:

"Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt Trên hai vai ta hai vầng nhật nguyệt

Rọi suốt trăm năm một cõi đi về"

Con người phải tiến được đến cách thế vô ngã. Có như thế thì con người mới được an nhiên tự tại. đã thức nhận được thân như là bóng chớp, thức nhận được "cây cối xuân tươi, thu não nùng" thì không còn cảm giác sợ hãi:

"Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi" (Nhiệm vận thịnh suy vô bổ uý)

Ta coi thịnh cũng như suy đều chỉ là tạm thời. Chúng đều nhẹ như giọt sương đọng trên lá cỏ(Thịnh suy như lộ thảo đầu phô). Vả chăng trong thịnh có suy và trong suy có hàm chứa một tiềm năng, một khả thể cuả thịnh. Nhìn được thịnh suy như vậy mới thanh thản tinh thần. Lão Tử cũng đã nói cái nghĩa ấy trong một câu ở chương XIII của đạo đức Kinh:"Vinh trên thì nhục dưới"(Sủng vị thượng, nhục vị hạ). đó chính là lẽ biện chứng nhân sinh.

Lại nữa thịnh suy cũng chỉ là những cái diễn ra trong cõi hiện tượng, cõi ":sự vật cho ta"(I.Kant) mà thôi. Thật ra là cõi huyễn tượng.

Giác Hải Thiền Sư đã nhìn vào cái tươi tốt rộn rã của mùa xuân bằng cặp mắt đại giác ấy:

Xuân sang hoa bướm khéo quen thì Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo Thấy hoa mặc bướm để lòng chi

(Xuân lai hoa điệp thiện tri thì Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ Hoa điệp bản lai giai thị uyển

Mạc tu hoa điệp hướng tâm tri)

Tất cả thế giới hiện hình chỉ là một cõi bát ngát của huyễn ảo. Cho nên cũng đừng bị huyễn hoặc bởi nó. Không bị huyễn hoặc nữa thì lòng ta thanh thản. Lúc ấy nói như Thiền Sư Hiện Quang:

Mông mênh quãng đồng ruộng Tùy ý tự rong chơi

(Vô vi cư khoáng dã Tiêu dao tự tại thân)

Thoát khỏi thường và ngã, con người trở thảnh lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Thiền sư Mãn Giác đã phát biểu tư tưởng ấy:

đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết đêm qua sân trước một cành mai

(Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận đình tiền tạc dạ nhất chi mai)

Không phải đến muà Xuân sau, ngay trong mùa Xuân tàn này vẫn đang chất chứa một tiềm năng của sự sống sinh nở. đó là cái nhìn biện chứng của Thiền.

Mùa Xuân Hạnh Phúc

Thích ðức Niệm

Người sống trên đời, ai cũng có một thời xuân xanh, ai cũng mong ước mình được hạnh phúc mãi mãi. Nhưng trên thực tế thì thời xuân xanh rồi cũng qua đi và hạnh phúc cũng chẳng mấy khi trường tồn. Tại sao thời xuân xanh lại trôi qua và hạnh phúc chẳng mấy khi trường tồn? Bởi tâm chúng sanh vô thường biến đổi không cùng, như ngựa không cương dong ruổi đồng nội, như vượn khỉ chuyền cành không phút giây ngừng nghỉ. Tâm người phút trước nghĩ như thế này, phút sau nghĩ như thế khác. Giờ trước vui, giờ sau buồn. Ngày hôm nay thương, ngày mai lại ghét. Tháng này phát tâm hành thiện tu học, tháng sau thối thất đạo tâm. Tâm ý lăng xăng như ngọn sóng triều trong cơn gió lốc. Bởi tâm biến chuyển không ngừng, nên dẫn tạo thân vô thường và theo đó hình thành hoàn cảnh vật đổi sao dời, ruộng dâu cồn bể. Tâm là chánh nhân đã bất định, nên hình thành vạn cảnh muôn hình vạn trạng sự vật chuyển biến đổi thay, và cứ như thế quay cuồng muôn đời suốt kiếp không bao giờ chấm dứt. Tâm biến chuyển, sự vật theo đó đổi thay tạo thành kiếp của chúng sanh từng giây từng phút biến động hồi hộp lo âu không tìm thấy đâu là bóng hình của mùa xuân hạnh phúc chân thật trường cửu. Tâm ô trược phức tạp uẩn khúc, nên tạo thành cảnh đời bất tịnh

tạp loạn lắm nỗi đắng cay. Tâm khi nầy khi khác, khi thiện khi ác, khi phấn chí lúc bi ai, do đó tạo thành cảnh đời thạnh suy, thăng trầm, thanh bình, chiến loạn. Tất cả đều do tâm. Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm như công họa sư, tạo chủng chủng chư pháp”. Nghĩa là tâm như người họa sĩ tài ba, vẽ vời ra các cảnh vật thiên sai vạn biệt. Trẻ thơ sống với cha mẹ ngày ngày được sự nuông chiều, mọi điều ước muốn cha mẹ đáp ứng đầy đủ, không thiếu một thứ gì, thật là cực kỳ êm đềm hạnh phúc. Nhưng sau đó khởi lòng yêu đương, ái tình vương vấn, nên sanh ra lắm chuyện hẹn hò nghi kỵ hờn dỗi dẫn đến nói dối mẹ cha, từ từ xa dần tình thương gia đình anh chị em, xem thường tình thương của cha mẹ, xao lãng học hành, từ đó tâm thần bất an, đầu óc hoang mang suy tư nghĩ nhớ bóng hình vơ vẩn, dẫn đến tâm lo trí rối, thân thể mỗi lúc mỗi mỏi mòn ốm gầy xanh xao, tạo thành bệnh hoạn v.v... cũng từ đó kết thúc thời xuân xanh, tan tành hạnh phúc, chỉ vì một chút móng khởi vọng tâm. Do tâm vọng động biến đổi dẫn đến thân thể chuyển thay, hình thành dây chuyền ảnh hưởng đến gia đình xã hội hoàn cảnh. Thế nên kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm sanh nên các pháp sanh. Tâm diệt thì các pháp diệt. Người thể đạt lý này, đồng giác tánh như Phật”. Một chú điệu từ thuở bé thơ, theo thầy học đạo suốt mười mấy năm trời, tâm hồn thư thái sáng sạch như buổi bình minh, sống bên cạnh thầy, ngày ngày vui với hoa rừng chim muôn dã thú không gợn chút âu lo tư lự buồn phiền, lòng nhẹ như áng mây bay, tâm thanh tịnh thơm lành như hoa rừng sáng sớm rạng đông, trí trong mát nhẹ nhàng như những hạt sương buổi sáng lóng lánh trên cành, suốt mười mấy năm trời với cuộc sống trong lành thanh đạm an nhàn giải thoát: Thoát trần một gót thiên nhiên

Cái thân ngoại vật là tiên trong đời Có những đêm trăng, sau giờ nghe thầy giảng kinh kể chuyện đạo, chú điệu một mình dưới mái am tranh thưởng thức ánh trăng thanh mát dịu với cõi lòng an lành thanh thoát thênh thang. Thỉnh thoảng vài chú thỏ rừng, đôi ba con nai nhỏ, năm bảy chàng khỉ tung tăng đến gần bên chú. Chúng ngửi tay liếm chân rồi cắn áo lôi chú ra ven rừng giỡn chơi với chúng như bạn cùng bầy. ðôi lúc những chú thú rừng ngây thơ hiền hòa này mang trái cây rừng đến cho chú điệu mà chúng hái từ non cao rừng thẳm xa xăm. Nhờ vậy mà chú điệu có trái cây xanh tốt cúng Phật dâng thầy và chú cũng có dịp hưởng đủ loại trái cây rừng thơm ngon mà chợ đời đô thị không có. Cuộc sống như thế hạnh phúc hơn gấp muôn triệu lần những mùa xuân xác pháo đầy đường ồn ào huyên náo của thế nhân thị thành. Nhưng với người trần tục thử hỏi mấy ai cảm thấy được mùa xuân tuyệt vời của chú? Chẳng những người đời nặng chĩu lòng trần không cảm nhận được cái thanh thoát hồn nhiên, với cõi lòng thênh thang vô biên cùng vũ trụ của chú điệu, mà còn cho cuộc sống ở chùa quá quạnh quẽ buồn hiu! Chính vì không cảm nhận được sự an lành thanh thoát trong cảnh sống tịch tĩnh thanh sơ, e ngại chú hành đạo chốn núi rừng quạnh hiu khổ cực, nên đã bao lần cha mẹ anh em đến dùng đủ lời ngon ngọt khuyên dụ chú về nhà với gia đình để cùng hưởng cảnh đoàn viên hạnh phúc trong những thú vui dục lạc trần gian. Mỗi lần bị dụ dỗ như thế, chú điệu chỉ biết im lặng để từ chối. Chú thấy cuộc sống nơi am tranh thanh tịnh với thầy thật là giải thoát, hạnh phúc bao la, không một chút bận lòng. Thời gian lặng lẽ trôi qua theo ngày tháng, chú chả để tâm đến cảnh đời chuyển biến ra sao, chỉ biết sống hồn nhiên vô tư lự, không vướng mắc sự đời. Nhưng cha mẹ chú nào có cảm nhận được sự giải thoát an lạc ấy, nên dùng đủ mọi thứ khổ nhục kế để quyết thuyết phục chú xiêu

lòng hoàn tục cho được! Anh chị em chú có lúc đã quỳ hàng giờ lạy ôm chân chú ràn rụa nước mắt với những lời thảm thiết nỉ non khiến cho chú xúc động, lòng nao núng, tâm rung cảm, chí không còn kiên trì, nên một ngày nọ chú điệu xiêu lòng vào lạy thầy từ tạ để theo cha mẹ gia đình về lại thế tục. Thế là ma quyến thuộc đã buộc chặt chú vào lối đi tình cảm, lôi chú ra khỏi cảnh giới an lành thanh thoát của chốn thiền môn, để rồi sau đó từ từ chôn đời sống thanh tịnh của chú vào biển đời ngũ dục phiền lụy. Chẳng bao lâu, chuyện lập gia đình, chuyện trăm năm môn đăng hộ đối, chú gặp phải người bạn đời (vợ) tánh tình lúc đầu khá tương hợp, lý tưởng dễ dung hòa, nhưng thời gian tâm đầu ý hợp êm ấm hạnh phúc chẳng bao lâu thì ý tưởng mỗi người một hướng, vô hình chung tạo thành cảnh đồng sàng dị mộng, tuy không tan rã, nhưng chú đành phải bóp bụng buồn lòng sống trong câm lặng khổ đau, sống là sống gượng, vì thương các con và để cho cha mẹ gia đình vừa lòng, cũng để người đời nhìn vào còn lấy thể diện! Thực tế cảnh sống gia đình đã làm cho chú âm thầm khổ tâm ray rứt, rồi dần dần về sau, ngày biếng ăn, đêm trằn trọc khó ngủ và dần dần chú trở nên người ít nói, không còn thích thú tiếp xúc với mọi người. Nhiều đêm một mình một bóng suy tư, nghĩ nhớ cảnh thanh tịnh chốn thiền môn, chú tiếc nuối cái thời sống với thầy, cùng đùa giỡn với dã thú hoa rừng sao mà thanh tịnh giải thoát quá, giờ đây còn đâu nữa! Có những đêm một mình nhìn ánh trăng khuya qua cửa sổ, chú tự nghĩ trách thầm cho mình vì một niệm tình cảm vô minh lầm nghe lời quyến thuộc thế tục khuyên dụ mà rời bỏ đời sống quyến thuộc Bồ-đề, đánh mất nguồn sống an lạc! Biết chừng nào mới thoát được cảnh vợ buộc con trói để trở lại cảnh thiền môn thanh tịnh: Ta về nơi cảnh tĩnh Vui lại thiền thống xưa

Trăng nhìn qua kẽ lá Hoa rừng ngát hương đưa Suối reo tròn năm tháng Hoa dại nở suốt mùa... Nhưng cảnh tĩnh đâu còn nữa! Mà cảnh sống thực tế giờ đây quá phũ phàng, vợ con nhà cửa buộc ràng đủ thứ phiền lụy! Chỉ vì một niệm khởi tâm bất giác xiêu lòng nghe theo lời ngọt mật nỉ non của gia đình bà con quyến thuộc mà dẫn đến sự tan tành hạnh phúc mùa xuân đạo hạnh đã có trong cảnh Phật. Chú không dám trách tình thương của cha mẹ anh chị em đã đặc biệt dành cho chú, lôi kéo chú xa lánh cuộc đời giải thoát an vui trong chốn thiền môn, để ngày nay phải rơi vào cảnh tục lụy thê thằng tử phược chán chường như thế này, mà chú chỉ tự trách mình thiếu kiên tâm vững chí, chỉ một phút khởi vọng tâm nghe lời dụ dỗ ngon ngot không nhận chân ý nghĩa của tình đời “thương ái là họa hại”, để phải hủy hoại một đời thăng hoa thánh thiện, đánh mất mùa xuân hạnh phúc miên trường trong cửa Phật từ bi mà thế nhân không làm sao có được. Cửa chùa vốn thanh tịnh hiền hòa dù đó là mái tranh vách lá, nhưng không vướng bận bụi nhơ hơn thiệt thị phi của trần thế. Người Phật tử đến với đạo, nếu biết vận dụng tâm thành, gạt bỏ lợi danh, một lòng chánh niệm chuyên việc tu tâm dưỡng tánh, thì công quả vun bồi phước đức vẹn toàn, hiện đời đạt được thanh tịnh an lành. Một khi tâm thành chánh niệm thì tự nhiên tạo cho mình mùa xuân vạn hạnh vô biên. ðến chùa học đạo tu tâm mà còn thấy mình có công có danh có quyền có lợi, muốn thầy phải nghe lời mình thế này thế khác để vừa lòng mình, được lòng vợ con bạn bè mình, những người như thế muôn đời vẫn cảm thấy lòng bất an, mùa xuân hạnh phúc

vẫn mãi mãi xa vời, và cửa hang ba đường ác đạo sẵn sàng mở toang chờ đón bước vào. Bởi vì một khi thấy có thì sẽ thấy không, thấy được thì sẽ thấy mất. Tâm bệnh của chúng sanh nếu không tu sửa tánh tình thì sẽ mỗi ngày càng thêm vô minh dầy đặc u muội, từ đó phải khổ lụy vì những thứ có không, còn mất, đắc thất, khen chê. Chính vì tâm chấp trước có không, được mất, đắc thất, khen chê mà đã làm não nề thê thảm kiếp kiếp khách trần danh lợi ái tình. Họ sẽ phải mãi mãi sống trong những mùa đông điêu linh băng giá, và ngàn đời không bao giờ được sưởi ấm ánh xuân dương an lành hạnh phúc thanh thoát. Kẻ hám danh trục lợi dục tình, dù thân có mang đầy chuỗi hạt anh lạc, mặc áo của thần tiên thánh Phật thì áo chuỗi đó cũng trở thành áo ma chuỗi đá, chỉ để che đậy cái thân xác dục vọng mà thôi. Tâm nặng lợi danh tranh hơn hận thua, mà xây chùa đúc tượng thì chùa đó dĩ nhiên Phật không dám ở, tượng đó tất phải quỷ tàng hình. Thậm chí họ có tự vẽ vời giả trang ngồi tòa sen hay phóng hào quang thì những thứ đó cũng trở thành đồ vàng mã rơm rác. Kẻ tà niệm cho dù có thuộc làu kinh điển nói cũng trở thành lời của tà ma, bởi do bản chất của họ là tà tâm tham vọng, chẳng khác nào bình chứa rượu lâu năm không xúc rửa chùi lau, đem nước đổ vào thì nước đó tất nhiên hôi mùi rượu. Huống chi họ nhận là Phật tử thì đó là loài ma vương tham vọng ngụy hình để nhập vào hàng tứ chúng đệ tử Phật với ý đồ cầu lợi tìm danh tranh giành lũng đoạn, khiến cho người hoài nghi Phật pháp, làm cho Phật pháp mau suy tàn! Kinh Phật dạy: “Kẻ tà nói chánh pháp, chánh pháp biến thành tà. Người chánh nói tà pháp, tà pháp biến thành chánh”. Những người đã có tà niệm lợi danh thì ở đâu, đến đạo tràng nào, trước sau gì cũng tạo sự ồn loạn phiền não nghi kỵ cho đại chúng,

và cuối cùng thủ đoạn ăn-không-được-thì-khuấy-cho-hôi, được-làm-vua-thua-làm-giặc, có làm như thế tặc tâm ác ý họ mới an vui hả dạ. Ngày xưa Phật còn tại thế cũng đã có xảy ra những chuyện tương tự. Ngày nay vào thời mạt pháp, cách Phật đã xa, nhân tâm lại càng vọng động, đạo tâm suy vi, thì tình trạng phiền nhiễu này lại càng thêm dẫy đầy trong cửa Phật! Vì vậy, những ai còn nặng tâm phàm phu, không đủ nghị lực thanh tịnh hóa thân tâm thì muôn đời khó mà cảm thấy được mùa xuân hạnh phúc. Xuân tết nhà Phật thường gọi là xuân Di-Lặc. Tại sao gọi là xuân Di-Lặc? Lý do là vía của đức Di-Lặc đúng vào ngày mồng một Tết. Với đức tánh hỷ xả, với nụ cười cởi mở hả hê, với gương mặt tròn đầy, thân hình nở nang, thể hiện thật tánh vô tư tự tại với các chú lục tặc, Ngài hoàn toàn hiển lộ trạng thái an nhiên hỷ xả, ai nhìn vào cũng sanh tâm hoan hỷ. ðức Di-Lặc tượng trưng cho niềm an vui hạnh phúc vô biên muôn thuở. Ở nơi Ngài tỏa ra bầu trời xuân an lạc. Ngày xuân Tết là ngày vui mừng hoan hỷ, ngày tràn đầy hy vọng hạnh phúc của thế nhân. Thế nên, nhà Phật lấy niềm hoan hỷ của đức Di-Lặc tượng trưng cho mùa xuân hạnh phúc chơn thường bất diệt tạo niềm hoan lạc cho trần gian. Nếu mùa xuân là mùa cho mọi người vui cười hạnh phúc, cho hy vọng tương lai tươi sáng, cho một năm tràn đầy ý nguyện, thì chính hạnh hỷ xả của nhà Phật qua nụ cười hoan hỷ bất diệt của đức Di-Lặc có thể hình dung mùa xuân hạnh phúc muôn đời. Người có đức tánh hỷ xả là người có bầu trời xuân hạnh phúc. Xả là xả bỏ không luyến tiếc, không câu nệ chấp nê, cái gì qua thì cho qua, không vướng tâm bận lòng, dứt khoát buông xả như gió thoảng, như tiếng vang, như nhạn bay qua mặt hồ, như gió thoảng qua cành trúc, như người có lỗi lầm với mình thì mình xả

bỏ tha thứ, không chấp trách, không hạch sách, không để tâm ghim gút hận thù. Như thế thì mình và người thông cảm hòa vui. Nhờ đó dễ dàng tạo cho nhau mùa xuân an lành hạnh phúc chân thật: Người có lỗi lầm ta thứ tha Khoan dung đại độ tánh ôn hòa ðã không buồn tức mà yên tĩnh Mở rộng lòng thương sống vị tha Những ai trong cuộc đời một khi những thứ quyền cao chức trọng danh vọng giàu sang rời khỏi tầm tay mà lòng vẫn thản nhiên không mảy may xao xuyến luyến tiếc, thì người đó đích thực thể hiện cõi lòng tự tại thanh thoát, xem nhẹ danh lợi ái tình chẳng khác như cánh hoa hồng gai từ tay rơi xuống đất. Những người như thế lòng tràn đầy mùa xuân hạnh phúc, thong dong tự tại giữa dòng đời phiền lụy trầm luân. Các bậc thánh nhân giác ngộ xem danh lợi ái ân như rác bụi dính trong con mắt nên các Ngài lúc nào cũng thoải mái tự tại an vui trước cảnh đời thạnh suy tan hợp, qua lời khuyên của bậc cổ đức: “Ngộ thanh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết.” ðại ý rằng, tài hoa sắc đẹp trên đời chẳng qua là trò chơi bóng nước, như cây mọc trên đá; danh vọng tiền tài làm hại đạo tâm như rác bụi dính vào mắt. Người biết xem nhẹ lợi danh, khinh thường quyền chức, dứt bỏ dục vọng, khi danh lợi ái tình rơi mất thì như rũ sạch bụi áo, người ấy chắc chắn sẽ tạo cho mình mùa xuân hạnh phúc chân thường bất diệt và sẽ thưởng thức vẻ đẹp muôn hình muôn sắc của trời xuân bất tận. Những ai trong chúng ta nếu liễu đạt cái thân này là giả hợp tạm bợ, sự còn mất của thân nầy chẳng khác nào như bánh đất của

trẻ con chơi, thì người đó liễu thoát sanh tử. Cái thân này sống qua hơi thở, thở ra mà không hít vào là bước vào đời khác. Mạng sống mong manh như sương trên đầu cành buổi sáng sớm, như áng mây hồng vào lúc hoàng hôn. Hôm nay còn vui cười xum hợp chưa chắc còn được ngày mai. Sự lìa xa thân thuộc để ra người thiên cổ, giờ phút trước mạnh khỏe khó lường được giờ phút sau, đấy là chuyện thường tình thế gian. Sự đời thay đổi chóng mau trong khoảnh khắc. Thân này đã không chắc thật, thì tiền tài danh vọng là những thứ chúng ta tạo ra, ngoài thân ta, là thứ phụ thuộc chúng ta thì làm sao được lâu bền? ðiều này rõ như ban ngày. Thân ta đã không chắc thật thì cảnh vật chung quanh nào có trường tồn? Người có tâm chí cầu đạo Bồ ðề sao không lãnh hội, để sớm đổi cái giả tạm mà nhận lấy cái chân thường, từ đó có được mùa xuân vạn hành miên trường? ðể cho thế nhân triệt ngộ chân tướng của sự vật ở đời là vô thường ngõ hầu từ đó tạo cho con người tỉnh thức để trọn hưởng bầu trời xuân hạnh phúc, nên Vạn-Hạnh thiền sư đã có bài kệ khai thị đại chúng: Thân như bóng chớp chiều tà Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời Xá chi suy thịnh cuộc đời Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành (Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.) Cùng ý nghĩa đó, kinh Kim-Cang đức Phật dạy rằng: Xưa nay vạn vật trên đời Bọt bèo mộng huyễn có rồi hoàn không Kìa xem điện chớp trên không

Hạt sương sáng sớm đem lòng quán xem. (Nhứt thiết hữu vi pháp Như mộng huyễn bào ảnh Như lộ diệc như điển Ưng tác như thị quán.) Người biết sống trong chánh niệm, khéo điều tâm khiển thân, chân thành hành đạo, tu tâm dưỡng tánh, từ đó tạo thành phước đức, thì mặc sức hưởng mùa xuân hạnh phúc. Ngược lại, kẻ không biết sống trong chánh niệm, lệ thuộc ngoại cảnh, chạy theo tà tâm tham vọng thúc đẩy thì sẽ phải trôi lăn đắm chìm trong biển đời danh lợi thị phi, nổi trôi trong dòng sông ái ân dục vọng, sống ngày nào chỉ tạo thêm tội lỗi. Kinh Bát-ðại Nhân-Giác đức Phật dạy: “Tâm là nguồn ác, thân là rừng tội” (Tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu). Thế nên Cổ-đức nói: Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. Người đắm chìm trong vòng tâm thức vô minh dục vọng, không biết hồi tâm giác tỉnh thì cứ mải đắm đuối theo đuổi danh lợi, tranh đua hơn thiệt tất phải không bao giờ có được mùa xuân hạnh phúc. Mùa xuân hạnh phúc lúc nào cũng tràn ngập trong cuộc sống của những ai biết sống trong chánh niệm, biết sống thúc liễm thân tâm, biết sống với cõi lòng thanh tịnh từ bi, hỷ xả, vị tha, và trí túc. Không sống theo dục tình tham vọng là cõi lòng được an lạc tràn ngập trời xuân.

Thêm hai cách đọc bài thơ/kệ "Cáo tật thị

chúng" của Mãn Giác Thiền Sư

NHƯ HUY

CÁO TẬT THỊ CHÚNG [1]

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

1 – Bài thơ "Cáo tật thị chúng"

Dưới góc độ là một bài thơ, có thể nói sáu câu thơ trong bài "Cáo

tật thị chúng" trên đây ngay lập tức đã cung cấp cho người đọc

cảm giác về tính chất nhất tâm, nhất khí, thông qua sự trôi chẩy

của vần điệu, cũng như sự vững chãi đăng đối của khung vòm

chung

Ta thấy, hai câu đầu của bài thơ:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

(Xuân ruổi trăm hoa rụng

Xuân tới trăm hoa cười)

đã chính là một cặp đối nhau hoàn hảo cả về nội dung (ý nghĩa

của các cặp chữ đối) lẫn hình thức (số lượng và vị trí của các cặp

chữ đối). Có thể ví hai câu thơ này như hai nửa vòng tròn có bán

kính bằng nhau. Và rồi, khi được xếp kề sát bên nhau, hai nửa

vòng tròn ấy – bởi tính chất tương tác và bổ nghĩa trực tiếp cả về

vị trí, số lượng cũng như nội dung của các cặp chữ chung chức

năng được đặt đứng xây mặt lại nhau – dường như đã tự động

dịch chuyển khép đóng lại, để trở nên một vòng tròn hoàn hảo

duy nhất

Hai câu tiếp theo:

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

(Trước mắt việc đi mãi

Trên đều già đến rồi)

Ở hai câu này, sự đăng đối về cả hai mặt nội dung và hình thức

cũng chặt chẽ như trường hợp hai câu thơ trước, và vì thế, chúng

cũng lại sẽ tiếp tục - y như trường hợp của hai câu thơ trước - tự

xoay ghép vào với nhau để tạo nên thêm một vòng tròn hoàn hảo

nữa.

ðiểm lý thú là cả hai vòng tròn hoàn hảo (được ghép bằng bốn

câu thơ) trên đây đều mang chứa trong lòng chúng những thành

tố nghĩa chữ chỉ sự di chuyển: khứ, đáo, quá, lai (ruổi, tới, đi,

đến). Chính những thành tố chỉ sự di chuyển này, rốt cục, đã trở

nên những động lực thúc đẩy và làm cho hai vòng tròn, hai bánh

xe đồng bán kính và đối xứng, bắt đầu xoay, tạo nên một đôi

chuyển động tuần hoàn đồng hướng.

ðôi vòng chuyển động tuần hoàn đồng hướng này, bằng lực ly

tâm của chính chúng, ngay tiếp đó, đã tạo nên một vòng chuyển

động tuần hoàn rộng hơn.

Và rồi, câu thơ thứ năm trong bài thơ:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

(ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết)

đã xuất hiện đúng lúc như một gạch nối cần thiết mà một đầu

được mắc vào vòng chuyển động của đôi vòng tuần hoàn vĩnh

cửu bán kính bằng nhau kia, còn một đầu lại được mắc nhuần nhị

vào một tình huống mới, khi mà, ở ngay chính câu kết của bài thơ

(câu thứ sáu tiếp sau), một hình ảnh mới đã bất ngờ xuất hiện:

ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

(ðêm qua sân trước một cành mai)

Về mặt nội dung, hình ảnh cành mai bé nhỏ (nhất chi mai) bất

ngờ xuất hiện trong câu cuối của bài thơ này chính là một thành

tố mới, giúp mở ra cho bài thơ cả một chiều kích mới. Cành hoa

ấy, ngay lúc xuất hiện, đã mang dáng vẻ của một ngọn lửa mà,

từ sau khi loé cháy lần đầu tiên, đã mãi bập bùng không nguôi

suốt gần mười thế kỷ, xuyên không gian và thời gian, để mang

tới cho lớp lớp những người đọc chân lý về sự thanh xuân vĩnh

cửu của tính giác, cái chân lý của:

Bồ đề bản vô thọ

Xuân đáo, hoa khai[2]

Nhìn từ góc độ này, và có lẽ cũng cần thêm đôi chút tưởng tượng

nữa, ta đã có thể hình dung câu thơ thứ năm của bài thơ:

Mạc vi xuân tàn hoa lạc tận

chính là một sợi dây rọi dẻo chắc, mà một đầu được nối vào vòng

xoay của hai bánh xe đang nhịp nhàng luân chuyển, trong khi

đầu kia được nối vào với câu thơ kết - mà do mang theo sự rung

động không nguôi của hình ảnh cành mai "tính giác", cho nên

cũng đã trở thành (hoặc mang tính chất của) một vồ chuông mãi

mãi đung đưa theo chiều từ trong ra ngoài (trái với nhịp chuyển

động xoay ngang của hai bánh xe đăng đối mang theo bốn khổ

thơ đầu) để thúc gõ vào "trái chuông tâm trí" của những người

đọc (thậm chí là những người đọc của ngàn năm sau), gây nên

cho họ những cú giật thót mình. Và sau những cú giật thót mình

ấy, những người đọc, chí ít, có lẽ cũng đã có thể mang máng nhớ

ra được cái hữu hạn đến nực cười của cuộc đời họ.

Sau đây, xin được dựng lại hình ảnh bài thơ theo góc nhìn của

đoạn diễn giải trên:

2 – Bài kệ "Cáo tật thị chúng"

Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc bài thơ " Cáo tật thị chúng" này từ

một góc độ khác – góc độ diễn ngôn thiền - tức là góc độ của một

bài kệ (từ đây, xin gọi bài thơ " Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác

Thiền Sư trở lại là một bài kệ) theo nghĩa: coi các câu trong bài

như thể những dấu vết của ánh chớp huệ giác mà thiền sư để lại

cho chúng ta trong giây phút ngài đắc ngộ và cảm thấu vạn vật,

thì rõ ràng là sẽ có một cách diễn giải khác về các khổ kệ ấy.

Dưới cách nhìn mới, xin được chia bài kệ này ra làm ba phần mà

mỗi phần là một gói tâm trạng và không gian khác biệt, qua đó,

hiển lộ trọn vẹn ba trạng thái tâm trí của thiền sư- khi ngài quán

chiếu vào thế giới.

a/ Phần thứ nhất:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

(Xuân ruổi trăm hoa rụng

Xuân tới trăm hoa cười)

Ta thấy, ở đây, cái hình ảnh khách quan và chân lý hiển nhiên

đến từ ngoại giới:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

đã hiện lên thông qua con mắt nhìn từ trong ra ngoài. Con mắt

của chủ thể (có lẽ có đôi chút thờ ơ) "NHÌN" vào đối vật, và rồi,

một cách khách quan, phát biểu lên cái hiện tượng logic bề ngoài

của đối vật để chứng minh cho " SỰ BIẾT” (bằng kinh nghiệm cũ)

của chủ thể.[3]

b/ Phần thứ hai:

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

(Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi)

Rõ ràng là ở giai đoạn kế tiếp này, con mắt của chủ thể, sau khi

nhìn vào ngoại giới đã quay (hay nhắm) lại để soi chiếu vào chính

nội tâm mình. Và chính từ góc nhìn đó, mà cả hai chiều kích

không gian: "Sự trục nhãn tiền quá", và thời gian: "Lão tòng đầu

thượng lai" đã được "THẤY RA". Ở đây, "CÁI NHÌN", sau khi quay

ngược vào trong, đã chuyển thành sự "THẤY". Và cái hiện thực

sau khi được"THẤY RA” này cũng đã không còn chỉ là một hiện

thực nằm im "phẳng","tĩnh" và xa lạ ở bên ngoài chủ thể nữa,

cũng như sự hiện diện của cái hiện thực được gọi ra ấy đã không

đơn thuần chỉ để chứng minh cho bất kỳ chân lý "có sẵn" nào

nữa. Trong khoảnh khắc này, hiện thực đã hoá thân ngoạn mục

để trở thành một "nghiệm trải" - là kết quả của sự tương tác giữa

tâm và cảnh.

c/ Phần cuối cùng:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

(ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

ðêm qua sân trước một cành mai)

Có thể nói giai đoạn này chính là giai đoạn tượng trưng cho cú

quẫy "đáo bỉ ngạn" thanh thoát nhất, khi mà, sau hai cái nhìn ra

ngoài và vào trong (hay, nhìn ra ngoài để nhìn vào trong), con

mắt của chủ thể đã bỗng dưng hòa vào với cảnh vật, làm cho sự

nhìn và cảnh vật tan rã vào nhau để trở thành một thể lưỡng lai

bất khả chia tách - "N C H Ả Ì N N H " - là kết quả của cái nhìn,

sau khi thoát xác, đã trở nên chính là cảnh vật –đã đạt tới cảnh

vật.

Xin lưu ý đôi chút về sự xuất hiện trở lại của hình tượng đóa hoa

trong phần cuối của bài kệ:

ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

Sự xuất hiện lần thứ hai này của hình tượng hoa đã mang tới cho

bài kệ một thông tin khác hẳn với cái thông tin mà trước đó,

trong hai khổ kệ đầu, hình tượng hoa – qua sự xuất hiện lần đầu

tiên của mình - từng đem tới:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

(Xuân ruổi trăm hoa rụng

Xuân tới trăm hoa cười)

Trong trường hợp này, hình tượng hoa rõ ràng đã chỉ là một hình

tượng hời hợt bề ngoài, là một cái cớ để qua đó, chứng minh cho

một sự "BIẾT" cũ.

Trái lại, trong lần xuất hiện ở câu thơ cuối, tuy hoa vẫn (lại) là

hoa, thế nhưng hoa cũng đã đã không chỉ còn là hoa chung chung

nữa, mà giờ đây, hoa đã trở nên một cành hoa mai cụ thể (nhất

chi mai), ở tại một nơi chốn cụ thể: đình tiền (sân trước), trong

một thời gian cụ thể: tạc dạ (đêm qua).

Cành hoa này đã không còn là một cành hoa của cái "BIẾT", sự

"NHÌN" hay thậm chí sự "THẤY" đơn thuần nữa. Nó đã hoá thân

để nhập làm một với tâm trí thiền sư trong giờ phút ngài cảm ngộ

vạn vật, để rồi trở nên một cành hoa của sự "NHẬN RA".

Và thế là, chỉ nhoáng trong một ánh vàng rực loé phắt lên nơi góc

sân rêu cũ, cành hoa bé nhỏ của sự "NHẬN RA" ấy – vì đã trở nên

nhất thể với (hoặc đã chính là) cái "chân tâm" (mà hẳn) được

sinh ra trong giây phút tuyệt đối "vô sở trụ"[4] của trí tuệ thiền sư

– nên đã có thể thu gọn vào trong lòng nhụy mong manh bé nhỏ

của nó trọn cả cái chân lý tối thượng mang chứa sức mạnh "làm

rúng động cả ngàn thế giới".[5]

Cái chân lý mà, năm xưa, vào lúc "NHẬN RA", Kasipa đã nhoẻn

miệng cười.

*

Nhìn một cách nào đó, ba khổ thơ trong bài kệ "Cáo tật thị chúng"

này hình như cũng chính là vết dấu những cú quẫy nhẩy thanh

thoát nhất của con "chim hồng" huệ giác [mà Tuệ Sỹ từng diễn

tả],[6] lưu ghi lại trên dòng hiện sinh.

Những cú quẫy nhẩy thanh thoát từ "đất cạn, qua gò cao… tới

nhành cây" vượt thoát khỏi khỏi chiếc lồng son của hư ngụy để

rồi cuối cùng, tung mình…

"… bay trong thương khung, đem lông cánh làm đẹp cho

bầu trời." [7]

17.02.2005

-------------------

Ghi chú về khái niệm "thi/kệ", và tiểu sử của Mãn Giác

Thiền Sư:

Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tại mục "Thiền ngữ và

hình ảnh thi ca", khi phân tích về mối tương quan giữa thiền ngữ

và hình ảnh thi ca, Nguyễn Lang đã viết về tính chất thi/kệ bất

phân như sau:

"…Thiền học …rất gần với thi ca ở chỗ chú trọng tới hình ảnh

mà xem thường những khái niệm trừu tượng. Thi ca không có

hình ảnh thì không còn là thi ca nữa, cũng như đi vào suy luận

siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền. Cho nên, ta không

lấy làm lạ khi thấy có những thiền sư dùng những câu thơ làm lời

thiền ngữ…” (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập I,

NXB Văn Học, Hà Nội, 1994, trang 205).

Gần đây, trong cuốn Văn học Phật giáo thời lý Trần: diện mạo

và đặc điểm (NXB ðại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh, 2003), bài

thơ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền Sư cũng đã được tác

giả cuốn sách là TS. Nguyễn Công Lý xếp vào thể loại "kệ được

thi vị hóa", một thể loại "về mặt hình thức, thường được các tác

giả sử dụng thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn, với ngôn ngữ lung

linh, đầy hình ảnh đẹp và gợi cảm, giàu chất thơ, nhưng đằng sau

cái vỏ hình thức ngôn ngữ ấy, ẩn tàng triết lý nhiệm mầu của nhà

Phật." (trang 126)

Mãn Giác Thiền Sư (1052–1096) tên thật là Lý Trường,

người đất Lũng Triều, Hương An Cách, là con viên quan trung thư

ngoại lang Lý Hoài Tố. Ông từng được vua Lý Nhân Tông yêu mến

và ban hiệu: Hoài Tín. Vào khoảng niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thăng

(1076–1084), Mãn Giác đã dâng biểu xin xuất gia, theo học thiền

sư Quảng Trí. Sau này, Mãn Giác trở nên một nhân vật nổi tiếng

trong thế hệ thứ 8 của dòng thiền Quan Bích, dòng thiền xuất

phát từ vị sư Vô Ngôn Thông (? – 826) đời ðường, người cũng

từng là học trò của Mã tổ ðạo Nhất (709–788).

Một chi tiết đáng lưu ý là năm sinh của Mãn Giác Thiền Sư

cũng chính là năm tịch của Thiền sư Tuyết ðậu Minh Giác tại

Trung Hoa, vị thiền sư từng được xem như có công phục hưng

thiền phái Vân Môn. Thiền sư Tuyết đậu Minh Giác cũng từng

được vua Tống ban hiệu cho là Minh Giác ðại sư và ông cũng

chính là thầy của thiền sư Thảo ðường, người khai sáng thiền

phái Thảo ðường tại ðại Việt. Thiền sư Thảo đường cũng từng

được vua Lý Thánh Tông phong là quốc sư tại ðại Việt vào năm

1069 (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập I, NXB Văn

Học, Hà Nội, 1994, trang 224).

_________________________

[1]Tựa bài thơ/kệ "Cáo tật thị chúng" do Lê Quý ðôn đặt. Bản dịch của Ngô Tất Tố: Xuân ruổi trăm hoa rụng Xuân tới trăm hoa cười Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết ðêm qua, sân trước, một cành mai (theo Thơ văn Lý Trần, tập I, NXB Khoa Học Xã Hội, 1977, trang 298)

[2]Câu đối tại chùa Dư Hàng, Hà Nội.

[3]Trong bài diễn văn "Tâm phân học và Thiền" đọc tại hội thảo về Thiền và Tâm phân học vào thượng tuần tháng tám năm 1957 tại Cuernavaca, Mexico (Thiền và tâm phân học, bản dịch Như Hạnh, NXB Kinh Thi 1973; NXB Xuân Thu tái bản tại California. tháng 11 năm 1990), nhà tâm phân học nổi tiếng Erich Fromm đã phân tích rất kỹ về tình huống khi "kẻ nhìn áp đặt bản thân hình ảnh tư tưởng của hắn vào sự vật, để rồi "NHÌN" sự vật ấy trong ánh sáng của những hình ảnh, ảo tưởng và kinh nghiệm già nua của tư tưởng hắn." Erich Fromm cũng đã đưa ra một thí dụ về một kẻ nhìn vào quả bóng lăn trên sàn. Ông viết: "… khi đó, kẻ nhìn này tưởng rằng hắn đang thấy được quả bóng lăn thực sự, thế nhưng, trái lại, thật ra,vào lúc kẻ nhìn ấy, sau khi nhìn và thốt lên rằng "quả bóng đang lăn" thì hắn đã chỉ xác nhận vài điều logic: 1/ hắn biết rằng cái đối tượng tròn tròn kia là một quả bóng 2/ hắn biết rằng những vật tròn, về mặt logic, luôn sẽ lăn, khi được đặt trên một bề mặt nhẵn và khi có một lực tác động vào Và Erich Fromm kết luận: "…như thế,vào lúc này, đôi mắt ( hay "SỰ NHÌN") của kẻ nhìn đã chỉ đơn thuần là một công cụ để chứng minh cho lý tính của hắn rằng hắn "BIẾT".

[4]"Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" (Kinh Kim Cương). Trích theo Thích Thanh Từ, Trần Thái tông: Khóa Hư Lục giảng giải, Thiền Viện Thường Chiếu ấn hành, 1996, trang 18.

[5]Lời kết của kinh Brahmajàlasutta: "Trong khi kinh này được truyền thuyết, một ngàn thế giới đều rúng động" (Imasmim ca pana veyyàkaranasmim bhannamane sahast loka – dhàtu

akampitthàti). Trích theo Tuệ Sỹ, "Tánh Không luận là gì", Triết học về tánh không, NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1970, trang 17.

[6]Tuệ Sỹ, sđd, trang 8

[7]Như trên.

Tienve.org

Hài cú Xuân

Nguyễn ðăng Thường Dịch

Mến tặng độc giả Tiền Vệ những cảm nghĩ về mùa Xuân của người xưa, có thể đã lỗi thời vì chúng là âm vọng từ một thế giới nhân cách hoá tối đa? [NðT]

Kamata No Baien (Vườn đào ở Kamata)

Tranh Ando Hiroshige (1797-1858).

Xuân này trong căn lều của ta — chả có gì cả

mà lại có tất cả!

Yamaguchi Sodô

*

Mùa xuân báo rằng ta đã bốn ba[1]

nhưng ta và bát cơm trắng vẫn còn đây mà!

Kobayashi Issa

*

Ta rửa chân thùng nước chảy như mùa xuân!

Yosa Buson

*

Mùa xuân đầu tiên — mưa ngọc

trên những cành còn trụi lá

Takahama Kyoshi

*

Một gói dược thảo trên giường bệnh của ta mùa xuân đang hồi sinh

Masaoka Shiki

*

Nỗi cô đơn cái lạnh của mùa xuân

chả có gì khác nữa

Uemura Sengyo

*

Sáng mùa xuân — chiếc bóng ta cũng vậy

tràn đầy sinh lực!

Kobayashi Issa

*

Sáng nay mặt trời đã loé lên

từ một cái đầu cá mòi[2]

Yosa Buson

*

Ngày xuân — chỉ có một vũng nước cầm chân hoàng hôn

Kobayashi Issa

*

Sự ấm áp của mùa xuân — cái mùi hương tóc ấy

trong chiếc cầu thang máy!

Imazumi Ugai

*

Trên cát của bãi bờ ở mỗi vết chân xuân nằm duỗi

Masaoka Shiki

*

Một mình chỉ một mình ta thôi đang mài giũa thơ

trong ánh ngày lưu luyến[3]

Takahama Kyoshi

*

Không một nhịp cầu — ngày nằm xuống

trên những dòng nước xuân

Yosa Buson

*

Dọc theo con sông ta chẳng thấy một cây cầu

ngày hôm nay bất tận

Masaoka Shiki

*

Khi ta hoá lão — chiều dài của ngày cũng là nguồn lệ

Kobayashi Issa

*

Thuyền và bến tương ứng nhau

trong chiều dài của ngày

Masaoka Shihi

*

ðêm xuân — từ cây nến này đến cây nến kia

ngọn lửa di chuyển[4]

Yosa Buson

*

Sự êm ả của mùa xuân — nơi biên giới của sự vật

sắc trời

Iida Dakotsu

*

Trong núi tháng tư những xác chôn vùi —

phù du!

Takahama Kyoshi

*

Mùa xuân ra đi ngập ngừng

giữa những gốc anh đào cuối cùng

Yosa Buson

*

Mùa xuân bỏ đi bên cây ngải hương

những khúc xương người

Seifu-ni

*

Tiễn xuân lên đường chim vang ca —

cá khóc

Matsua Basho

*

Tặng mảnh trăng chiều tiếng con rái cá

dâng cá

Yoshida Tôyô

*

Tuổi của Hằng Nga? mười ba —

hay là xấp xỉ!

Kobayashi Issa

*

Buồm trăng — một chú ếch

khua nước và khuấy trời

Yosa Buson

*

Nơi giang đầu tiếng lưới quăng dưới trăng mờ

Tan Taigi

*

Dưới bóng trăng

bóng hoa bóng đàn bà!

Natsume Sôseki

*

Gặp buổi sương mù tiên nữ trên trời

có buồn không nhỉ?

Kobayashi Issa

*

Trên thảm cỏ uể oải rơi

sương mù của cái nóng

Natsume Sôseki

*

Trong sương mù của mùa xuân vòng bay trắng

của một côn trùng vô danh

Yosa Buson

*

Trong sương khói của cái nóng

vài lỗ nhỏ trên mặt đất của chiếc gậy đi lên đền

Kobayashi Issa

*

Sự êm ả của gió trong màu xanh của nghìn ngọn đồi

một ngôi đền lẻ loi

Masaoka Shihi

*

Mưa xuân ngoài cổng

con vịt bước thấp bước cao

Kobayashi Issa

*

Trên mặt nước những vòng lụa —

mưa xuân

Ryôkan

*

Mưa xuân — ao và sông

hoà hợp

Yosa Buson

*

Trên vai tượng Phật lớn tuyết đã tan

Masaoka Shiki

*

Dưới chân núi trong ánh nắng bao dung

một hàng mộ

Taneda Santôka

*

Bước trên cỏ xanh ta đạp

một tảng mây

Kawabata Bôsha

*

Líu lo không ngừng buổi sáng hôm nay

trong cánh rừng ngả màu lam

Ozaki Hôsai

---------------

Nguồn: Haiku: Anthologie du poème court japonais, Corinne Arlan và Zéno Bianu tuyển chọn, chuyển dịch, và giới thiệu (Paris: Poésie / Gallimard, 2002). _________________________ Chú thích của Corinne Arlan và Zéno Bianu:

[1]ðối với người Nhật, bốn mươi là cái tuổi của hiểm nguy, vì trong Nhật ngữ "tư" (bốn) và "tử" (chết) là hai từ đồng âm.

[2]Trong nguyên bản, đầu cá mòi được vẽ hướng lên trời. Khi vẽ chữ này, Buson — nhà hoạ sĩ — đã tìm về cội nguồn của hoa tự Nhật, bởi vì lúc khởi thủy các chữ [Tàu, Nhật] là những hình vẽ [biểu tượng] dựa trên những hình ảnh thực tế được cách điệu.

[3]Bài "tử thi" (thơ về cái chết) này của Kyoshi đã phơi bày nỗi xót xa của thi nhân. Nó ám chỉ hai thi hữu rất thân của Kyoshi đã mất sớm: Masaoka Shiki (người thầy) và Kawahigashi Hekigotô mà Kyoshi đã có những liên hệ vừa thân mật vừa đối nghịch.

[4]Ngọn lửa này cũng là ngọn lửa của ý thức liên tục chuyển truyền khi hoá kiếp. Yamaguchi Sodô (1642-1716) Kobayashi Issa (1763-1827) Yosa Buson (1716-1783) Takahama Kyoshi (1874-1959) Masaoka Shiki (1867-1902) Uemura Sengyo (1921-1996) Yosa Buson (1716-1783) Imazumi Ugai (1883-1951) Iida Dakotsu (1885-1962) Seifu-ni (Enomoto Seifujo, 1732-1814) Matsua Bashô (1644-1694) Yoshida Tôyô (1892-1956) Tan Taigi (1709-1771) Natsume Sôseki (1865-1915)

Ryôkan (1758-1831) Taneda Santôka (1882-1940) Kawabata Bôsha (1900-1941) Ozaki Hôsai (1885-1926)

www.tienve.org

TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO

TRONG THI CA VIỆT NAM

Thái Tú Hạp

Cho đến nay tư tưởng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn Dân Tộc Việt Nam thành một khối keo sơn khó phai mờ và lay chuyển. ðạo Phật đã gắn liền với giòng Văn Học và cùng với sinh mệnh thăng trầm của Dân Tộc đã gần hai mươi thế kỷ. Tư tưởng sâu xa vi diệu của Phật Giáo đã hiện hữu trong mạch sống dân tộc ngay từ những khởi nguyên Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh ngày nay) do Ngài Mâu Tử, một vị chân tu Phật Giáo đến từ Trung Hoa khởi dựng, phát huy song song với hai trung tâm Phật Giáo của Trung Hoa là Lạc Dương và Bành Thành, khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch. Liên tục nhiều năm sau đó, những vị Thiền Sư được tôn kính như vị Bồ Tát sống, Ngài Tỳ Ni ða Lưu Chi từ Trung Hoa đến cư trú tại chùa Chúng Thiện truyền dạy về tinh hoa cao quý của ðạo Phật.

Qua nhiều thế kỷ kế tiếp Phật Giáo càng ngày càng phát huy rộng lớn do các Ngài Khương Tăng Hội, Ngài Vô Ngôn Thông, Ngài

Khuông Việt Thái Sư. ðến thế kỷ thứ ba Ngài Khương Tăng Hội, người Giao Chỉ đã viết luận giải về ðại Thừa và Thiền Tông nên được nhiều người cho rằng chính Ngài Khương Tăng Hội là vị Thiền Sư lập nên Thiền Việt Nam chứ không phải truyền nhập từ Trung Hoa của Ngài Bồ ðề ðạt Ma. Và trải dài trong nhiều thời đại ðinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn... cho đến thời đại hôm nay, với thể tính triết học, khoa học, tâm lý nhân sinh... tư tưởng Phật Giáo đã hiển nhiên thấm thấu vào tâm hồn, hiện hữu thường trực trong đời sống của đại chúng dân Việt, từ những câu kinh tiếng kệ, hồi chuông ngân, tiếng trống Bát Nhã, trầm hương nghi ngút, mái chùa uy nghi ẩn khuất sau những tàng cây xanh, tĩnh mịch trầm lắng. Tư tưởng ðạo Phật quá cao siêu mênh mông và vời vợi như những đỉnh trời Hy Mã, suốt cả một đời tu học chưa hẳn đã bước tới ven khu rừng giáo lý uyên thâm vi diệu đó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin mạo muội đề cập tới vài nét ảnh hưởng Phật Giáo trong thi ca Việt Nam như giòng suối nhỏ từ một vách đá núi thăm thẳm. Cho đến nay, chúng ta chỉ cần đọc qua bất cứ tuyển tập thi ca Phật Giáo Việt Nam cổ điển nào, là y như chúng ta đều cảm nhận ngay hồn tính dân tộc ẩn dụ qua từng giòng chữ nồng thắm quê hương sâu thẳm tình người. Các Thiền Sư Việt Nam bao giờ cũng là những đại biểu độc đáo của giòng thi ca chính thống của dân tộc trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử dân tộc. Trong cuộc hành trình đầy khởi sắc và phong phú của nguồn văn học ảnh hưởng Phật Giáo, chúng ta bắt gặp những dấu vết tuyệt vời của Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Huệ Sinh, Ngộ Ấn, Mãn Giác, ðạo Hạnh, Không Lộ, Diệu Nhân, Huyền Quang, Trúc Lâm, Thượng Hải, Chân Nguyên... Chưa kể đế kho tàng văn chương bình dân, ca dao, tục ngữ. Chúng tôi xin đan cử một vài thi phẩm của các vị Thiền Sư danh tiếng như bài Trăng và Nước của Từ ðạo Hạnh :

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không Hữu không như thủy nguyệt Vật trước hữu không không

(Thủy Nguyệt)

Có thì có tự mảy may Không thì cả vũ trụ này cũng không Có, không : bóng nguyệt lòng sông

Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào (Võ ðình dịch)

Nói đến cái không của tâm để hòa nhập vào cái tâm ảo hóa của vũ trụ, Thiền Sư Hương Hải đã thể hiện rõ nét trong bài Nhạn Ảnh :

Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm Nhạn vút qua không Bóng chìm nước lạnh

ðể dấu : nhạn không có ý Giữ bóng : nước cũng vô tâm

(Nhạn và Bóng)

Sự cấu tạo nên thể xác con người do sự kết hợp tứ đại (đất nước gió lửa), cho nên qua thời gian con người phải chấp nhận sự hủy hoại một cách tự nhiên, cũng như loài hoa sớm nở tối tàn, vô thường, biến chuyển theo cái nghiệp nhân quả luân hồi, cứ thế tiếp tục từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thấu triệt nguyên lý tử sinh đó Thiền Sư Viên Chiếu đã viết nên thơ dạy đệ tử :

Thân như tường bích dĩ đồi thì

Cử thế thông thông thục bất bi Nhược đạt tâm không vô sắc tướng

Sắc không ẩn hiện nhiệm suy di (Vô Tật Thị Chúng)

Thân như tường nát đợi ngày

Trăm năm vất vả tới rày xót thương Tâm không nếu đạt nẻo đường

Mặc cho không sắc vô thường đến đi (Răn Chúng Khi Thầy Còn Mạnh - Võ ðình dịch)

Thiền Sư Mãn Giác cũng cảm nhận kiếp sống vô thường như

huyễn của nhân thế. Tất cả lợi danh chỉ như giọt nước trên cành, như bóng mây qua cửa, có đó rồi mất đó, sắc sắc không không. Nhưng đời sống không phải là chuỗi ngày đầy bi lụy tối tăm, đầy đau thương khổ ải với nghiệp chướng oan khiên tràn đầy lệ thảm... Người đã thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, tự lý giải căn nguyên của khổ đau, luôn tỉnh thức, biến đau thương thành hy vọng hạnh phúc của cuộc sống. Hiên ngang chấp nhận mọi thử thách gian nguy của cuộc đời, bước tới đem đến nguồn sống đầy an vui hỷ lạc cho mọi người. Qua bài Dặn Dò Tăng Chúng của Thiền Sư Mãn Giác đã cho thấy một cách sâu sắc tinh tế bằng đức tin mãnh liệt vào sự tuần hoàn tự nhiên của tạo hóa, của kiếp nhân sinh để thắp lên niềm lạc quan, hy vọng ở ngày mai bằng những bông hoa trí tuệ nhân ái:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai Mạc vi xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

Xuân đi trăm hoa rãi

Xuân đến trăm hoa khai Xem chuyện đời trước mắt

Tóc trên đầu đã phai Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Tối qua vườn trước một cành mai (Có bệnh, dặn dò tăng chúng)

Lịch sử đã từng chứng minh một cách cụ thể nhất ở vào thế kỷ

thứ mười, khi ðinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân lập nên nước ðại Cồ Việt thống nhất và độc lập.

Trong thời đại này Mật Giáo và Thiền là hai hệ thống Phật Giáo

hưng thịnh nhất. Qua triều đại vua Lý Thái Tổ, các Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Pháp Thuận đã bước ra cổng Thiền Môn

trực tiếp giúp minh quân đem lại cảnh sống thái bình an lạc cho dân chúng kéo dài đến hơn cả trăm năm từ 1010 đên 1225. Trong thời gian này văn học dân tộc ảnh hưởng sâu đậm đạo Phật. tỏa sáng từ những áng văn chương tuyệt tác của các Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Giác, Bảo Giác, Pháp Thuận, Thường Chiếu, Hải Chiếu, Huệ Hưng... Như những giòng lưu lượng thác đổ từ những ghềnh núi Trường Sơn cuồn cuộn ra biển lớn. Ở mỗi nhánh sông tạo thành những bãi phù sa trùng điệp phì nhiêu màu mỡ, cho cây trái vường lên xanh thắm ngàn đời liên tục hình thành. ðến hậu bán thế kỷ mười tám, mười chín và hai mươi, những trang văn học Việt Nam ươm đầy những tinh hoa tuyệt kỷ của tư tưởng Phật Giáo. Từ những sáng tác đại chúng điển hình thơ truyện Sự Tích Quan Âm Thị Kính dưới nhiều hình thức và thể loại vừa để ngâm ca, vừa để trình diễn trên sân khấu, đại thể như :

... Chân như đạo Phật nhiệm mầu

Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân Hiếu là độ được đấng thân

Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài Tinh thông nghìn mắt nghìn tay

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra Xem trong biển nước Nam ta

Phổ môn có đức Phật Bà Quan Âm...

Danh từ Quan Thế Âm có nghĩa là Người lắng nghe tiếng kêu trầm thống của cuộc đời, Lắng nghe để tìm tới cứu độ. Những tác phẩm đáng kể khác như Thánh ðăng Lục, Thiền Tông Bản Hạnh, Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, Kế ðăng Lục, Khóa Hư Lục, Tam Tổ Thực Lục, ðại Nam Thiền Uyển Truyền ðăng Tập Lục... Thực sự chúng ta không thể kể hết những kho tàng văn học Việt Nam ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng siêu việt và uyên bác của Phật Giáo từ nghìn xưa.

Trong văn chương bác học, chúng ta nhận thấy có các nhà Vua

thể hiện tâm đạo qua thơ văn như Lý Thái Tổ, Lý Nhân Tông, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Tự ðức... các thi hào lỗi lạc Nguyễn Du, Ôn Như Hầu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trãi... đã chứng

minh điều đó. Trong tác phẩm "Cung Oán Ngâm Khúc" Ôn Như Hầu đưa lên hình ảnh thâm thúy khơi sáng ngọn đuốc tuệ vượt qua khỏi kiếp luân hồi. Cuộc nhân sinh đầy khổ lụy vô thường, hãy nương vào cửa Phật để dứt sạch thất tình lục dục:

Thà mượn thú tiêu dao của Phật

Mối thất tình quyết dứt cho xong ða mang chi nữa đèo bòng

Vui gì thế sự mà mong nhân tình

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa Mượn "hoa đàm" "đuốc tuệ" làm duyên

Thoát trần một gót thiên nhiên Cái thân ngoại vật là tiên trong đời...

ðến đại thi hào Tiên ðiền Nguyễn Du đã viện dẫn lý nghiệp

báo luân hồi một cách triệt để của Phật Giáo. Cái nghiệp như hình với bóng đeo đuổi con người đến suốt một đời. Và cái tâm, căn nguyên của mọi vọng tưởng u minh mê lầm. Ở trong tác phẩm ðoạn Trường Tân Thanh, Sư Tam Hợp đã giải bày:

... Sư rằng : "Phúc họa đạo trời

Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra Có trời mà cũng tại ta

Tu là cõi phúc, tình là dây oan... ... ðã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa Thiện căn vốn tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài...

Hoặc ở những đoạn đầy thiền duyệt, thiền vị bàng bạc nhưng sâu sắc khác:

... ðã đem mình gởi am mây Thân này sánh với cỏ cây cũng vừa

Mùi thiền đã bén muối dưa Mầu nhiệm ăn bận đã ưa nâu sồng

Sự đời đã tắt lửa lòng Còn chen vào chốn bụi hồn làm chi...

Thi hào Nguyễn Du còn thể hiện diệu tâm của đa số Phật tử

Việt Nam qua các tác phẩm Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh, chẳng khác nào như một bài thuyết pháp thi vị và chân xác về lý giải vô thường và nhân quả luân hồi.

Thi sĩ Chu Mạnh Trinh, trong cõi thơ của ông, chúng ta có thể

tìm thấy những giao động mạnh mẽ khi ông diễn tả những cảnh trí lung linh huyền ảo của núi rừng tĩnh mịch nhuốm vẻ an nhiên tự tại của tinh thần Phật Giáo:

... Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái

Lững lờ khe yến cá nghe kinh Thoảng bên tai một tiếng chày kình

Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng ðề cập đến Nguyễn Công Trứ là nói tới một văn hào nổi danh

lúc vinh quang tột đỉnh, khi thảm thê tận cùng vực thẳm đắng cay, từng trải trăm đường tân khổ. Nhân sinh quan của Nguyễn Công Trứ là hưởng lạc hưởng nhàn.

Thơ văn Nguyễn Công Trứ chịu ảnh hưởng khá sâu đậm Phật

Giáo :

... Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe Trần có vui sao chẳng cười khì ?

Khi hỉ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi Chứa chi lắm một bầu nhân dục...

Hay ở trong bài "Vịnh Nhân Sinh Quan" Nguyễn Công Trứ đã

thể hiện rõ tưởng triết học Phật Giáo ở một trình độ cao hơn :

… Ôi nhân sinh là thế ấy Như bóng đèn, như mây nổi,

Như gió bấc, như chiêm bao Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,

Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín…

ðến cuối thế kỷ thứ 19 và 20, văn học sử Việt Nam chuyển mình tiếp thu những giòng văn học của thế giới. Thời điểm này đánh dấu biến cố lịch sử làm phong phú rực rỡ và mới mẻ mọi khuynh hướng tư tưởng để hình thành hướng đi và ý thức mới về văn học nghệ thuật dân tộc. Tuy nhiên sự hiện diện của những trào lưu văn học mới, không phải những nhà văn nhà thơ Việt Nam đã quên lãng từ bỏ cốt tủy đã ảnh hưởng sâu đậm trong hồn tính dân tộc từ ngàn xưa, những chất liệu tinh hoa của Phật Giáo. Chúng ta ghi nhận trong những tác phẩm của các nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn ðoàn. Trong thơ của Nguyễn Nhược Pháp, Tự ðức, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Tế Hanh, Thanh Tịnh, Lưu Trọng Lư… Nhưng rõ nét nhất trong thi phẩm Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp :

… Thuyền đi, bến ðục qua

Mỗi lúc gặp người ra Thẹn thùng em không nói:

"Nam mô A Di ðà". …

Mẹ bảo "ðường còn lâu Cứ vừa đi vừa cầu

Quan Thế Âm Bồ Tát Là tha hồ đi mau !"

… Khi qua Chùa Giải Oan

Trong mấy bức tường ngang Chàng đưa tay lẹ bút

Thảo bài thơ liên hoàn. …

Ô! Chùa trong đây rồi ðộng thắm bóng xanh ngời Gấm thêu trần thạch nhũ

Ngọc nhuốm hương trầm rơi ! …

Ngun ngút khói hương vàng Say trong giấc mơ màng

Em cầu xin Trời, Phật Sao cho em lấy chàng…

Quan niệm một số chân tu Phật Giáo trong những kỷ nguyên

trước là tìm nơi non cao tĩnh lặng để diện bích soi tâm, hay ít ra cũng lánh xa cõi trần đầy ô trọc có thể ảnh hưởng đến tâm thức tu học. Phải chăng đấy là cái tâm "ưng vô sở trụ" đã dẫn dắt Huệ Năng đến Tào Khê. Một số tăng lữ khác quan niệm hãy đem đạo vào đời như kim chỉ nam làm sáng tỏ cái tâm của Thái Tông thoát nhiên tự ngộ nhận lãnh vai trò lãnh đạo nhân dân "dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục" cứu nhân độ thế.

Trong thời đại cận kề với những tư duy hiện sinh, những nhà

thơ Việt Nam khoác áo nâu sồng cũng đã xuống núi, hiện đại hóa phương thức truyền bá đạo giáo hay hòa nhập tư tưởng tôn giáo vi diệu này vào cuộc đời một tu sĩ, thi sĩ muốn bùng vỡ tâm thức sâu kín của ông đến phương tuệ giác nào chăng? Tình cảm tha nhân rộng lớn ư? Cái điều ỡm ờ lãng mạn nửa đời nửa đạo thật khác thường của Phạm Thiên Thư đã làm cho nhân thế ngẩn ngơ hoài nghi cái chân lý đạo giáo Thi sĩ đang theo đuổi. Một nhà sư biểu lộ tình cảm một cách hồn nhiên bộc trực quá quắt khác thường còn hơn những nhà tơ trữ tình ngoài đời quả là một ngạc nhiên thích thú:

… Em tan trường về

Anh theo Ngọ về Chân anh nặng nề Mai vào lớp học

Anh còn ngẩn ngơ… … Môi em mỉm cười

Mang mang sầu đời, tình ơi ! …

Em làm trang tôn kinh Anh làm nhà sư buồn

ðêm đêm buồn tụng đọc Lòng chợt nhớ vương vương

ðợi nhau từ mấy thuở Tìm nhau cõi vô thường Anh hóa thân làm mực

Cho vừa giấy yêu đương. (Pháp Thân)

Tuy nhiên công trình thi hóa Kinh Ngọc - Qua Suối Mây Hồng -

Kinh Hiền - Kinh Thơ và ðoạn Trường Vô Thanh thực sự Phạm Thiên Thư đã tỏa sáng giá trị tuyệt đỉnh của ảnh hưởng cao xa Phật Giáo trong nền tảng văn học Việt Nam hiện đại. Vũ Hoàng Chương được đánh giá cao như một Bắc ðẩu của giòng thi ca lỗi lạc với nội dung chứa chan tình yêu quê hương, tình yêu giữa con người với con người, qua thể tính triết lý nhân bản khai phóng và từ ái của đạo giáo Á ðông, nhất là tính chất bất bạo động, cho dù phải thầm lặng chấp nhận sự hủy thể để cúng dường đạo pháp như trường hợp Lửa Từ Bi hay trong thơ Pháp Nạn như một thảm họa chung của Dân Tộc:

… Bầy chim kêu thương

Nặng trĩu một trời oan khuất Ngóng về Nam, về Bắc

Cả hai phương sừng sững dựng may thành Sân chùa cây bật gốc

Triền miên tử khí vây quanh Giờ cúng trái hãi hùng mưa gió

Từng tiếng kêu bé nhỏ Rào kẽm gai xé nát hồi thanh

Cá dưới khe vọng về đông khắc khoải Sao lắng nghe từ màu xanh

Của sông phiêu lưu của biển tunh hoành Chỉ thấy nước hồ ao nằm trong tù độc thoại

Muôn trùng cửa khóa Hơi bốc lên mùi máu còn tanh Biển cuốn về bao nhiêu góc

Sông chia làm mấy mươi ngành Bọc trong gai, nghẹn lời kinh

Giạt về đâu lúc tâm tình nửa khuya Nhưng đá núi đây

Và lá rừng kia Căm thù gan héo nát

Mồ hôi nước mắt tháng năm đầy Thoắt đã cùng chim cá

Vùng lên tất cả Niệm mười phương Phật hướng về Tây

Cờ phất năm màu rợp sử xanh Một phương chim Việt ngóng mây lành

Cản tay bạo ngược liều bom đạn Nỗi từ bi giải sắt đanh

Phật hiện bóng lên người vững bước

Trời quay mặt lại quỷ rơi nanh Rằng xe diệu pháp ba ngàn cõi

Một cõi này thơm vết đấu tranh…

Những ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Phật Giáo trong thi ca chúng ta còn tìm thấy trong những tác phẩm của Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Phạm Công Thiện, Tuệ Mai, Bùi Giáng, Nhất Hạnh, Cao M. Nhân, Nhã Ca… Trong mỗi sát na của đời sống con người cuốn hút vào cơn lốc đảo điên của vọng tưởng. Qua bao nhiêu sinh diệt của kiếp người, tâm động triền miên như sóng vỗ vào ghềnh đá. Thời gian trôi qua, lịch sử đã biến thiên theo từng giai đoạn thăng trầm. Con người đã tự chia phân từng biên giới ý thức hệ khác nhau.

Tự trói buộc vào sự ích kỷ đầy trầm thống khổ đau, u minh mê

muội, đã phá sản bản chất từ thiện uyên nguyên. Như những đứa con của Mẹ qua cơn bão lửa khủng khiếp trên quê hương đã xuôi ngược bạt ngàn trên khắp cùng thế giới.

Cuộc hành trình vào miền đất tự do nghiệt ngã xót xa, ở nơi

chốn lưu đày đất khách, lúc nào tâm tưởng cũng hướng về nơi nguồn cội sinh thành. Ở đó hình ảnh mái chùa cong ẩn sau vòm lá xanh biếc, hồi chuông công phu sớm chiều tỏa rộng trên giòng sông êm ả, tỏa ngát trên những cánh đồi đầy sương mai, dìu dặt trong thinh không buổi hoàng hôn hiu hắt vàng trên đỉnh núi :

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng Có con đường đỏ chạy lang thang

Có hàng tre gợi hồng sông núi Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng Có những cây mai sống trọn đời

Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa

ðức Phật từ bi miệng mỉm cười Tôi nhớ làm sao những buổi chiều Lời kinh giải thoát vọng cao siêu ðây ngôi chùa cổ ngày hai buổi

Cầu nguyện dân làng sống mến yêu (Huyền Không)

ði đâu rồi cũng cảm thấy mình cô đơn buồn nhớ quê nhà. Nỗi

niềm thương cảm vẫn ray rứt như vết chàm khó phai trong tâm kham người đi. Thi sĩ Huyền Không đã thể hiện trung thực nỗi cảm hoài đó trong bài thơ Nhớ Chùa:

…Biết đến bao giờ trở lại quê

Phân vân lòng gởi nhớ nhung về Tan thương dù có bao nhiêu nữa Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê Chuông vẫn nơi nao nhớ lạ lùng Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông (Huyền Không)

ðời sống chưa hẳn chỉ có nhu cầu vật chất cơm ăn áo mặc, tiện

nghi đầy đủ, sẳn sàng phục vụ thể xác tối đa, nếu cứ buông thả tự biến mình như con ốc vô tri buồn thảm trong guồng máy thực dụng. Con người vôn dĩ là "cây sậy có tư tưởng" (Pascal) nên chúng ta cưu mang trăm ngàn mối tư duy, xem cuộc sống như mây trôi, như nước lũ qua cầu, trở về cõi an nhiên tự tại để chiêm nghiệm nỗi niềm xót xa của kẻ lưu đày nơi đất khách mơ về quê cũ:

Giọt sương khuya đọng ba ngàn cõi Tịch mịch trầm tư ngọn cỏ bồng

Vết trăng loang lổ trên thềm vắng Ai bảo dùm ta lẽ có không

Vẫn một cành mai xa xưa cũ Mang đầy bản vị thuở ban sơ

Có chi trường cửu trong ttần thế Bên thềm trăng vẫn sáng lung linh

Cỏ bồng, đêm vắng sương khuya giọt Vô tận thời gian câm lặng qua

Ngày đi đêm lại sương đong trọn Vô lượng hà sa thế giới trung

ðiệp trùng chuỗi xích Hoa Nghiêm kết Quê cũ đường xưa mây lửng lơ.

(Viên Lý)

Cho dù không gian, thời gian nào, những nhà thơ nhà văn Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước những phá sản tâm hồn, tiếp tục bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Chúng ta ghi nhận những đội ngũ văn hóa như Võ Phiến, Mai Thảo, Du Tử Lê, Minh ðức Hoài Trinh, Duy Lam, Nguyên Sa, Nghiêu Minh, Nguyễn Mạnh Trinh, Luân Hoán, Vi Khuê… Ngoài những thi phẩm chất chứa tình quê, nỗi nhớ nhung quá khứ êm đềm, còn ẩn dụ trong tư duy sâu thẳm, lối đi về thiên cổ vượt tới bến bờ Bát Nhã Chân Như trong những trang thơ nguồn thiền như huyễn của Thi sĩ Nghiêm Xuân Hồng :

… Học người ðồng Tử miền Hoa Tạng

Túy lúy càn khôn một lỗ lông Thấy Sái - Cam Lồ bừng chiếu sáng

Hào quang muôn trượng - dạ thong dong ðáy nước mò trăng trăng nào thấy Chỉ thấy muôn vàn đốm lửa yêu Hãy mò Tâm để quang lồng lộng

Một điểm không hư vạn kiếp đầy…

Từ ngày ở quê nhà, nữ thi sĩ Tuệ Nga đã tạo hướng thơ độc đáo tỏa ngát hương ðạo Từ Bi, bàng bạc nét vẽ Thiền Môn Tịnh Lạc. Ở

hải ngoại, hơn hai mươi năm qua, cõi thơ Tuệ Nga vẫn tiếp tục lên đường với hành trang đầy đạo hạnh và chứa chan tình tự quê

hương :

… Chiều về mây trắng đan tơ Mây nghiên thung lũng nghe bơ vơ sầu

Thoảng xa chợt tiếng kinh cầu Gió chiều thanh thản nhiệm mầu Nam Mô

ðêm về kệ biến thành thơ Dòng xanh xanh ngát lờ hoa Chiên ðàn

Nam Mô Vô Lượng Thọ Quan Lại nghe thanh thoát ngân vang chuông hiền

Như dòng suối mát triền miên Búp Lan Vừa Nở cánh trên giấy hồng

ðất trời một thoáng Hư Không Lời Thơ Tiếng Kệ bềnh bồng hoa mây

(Búp Lan Vừa Nở)

Tập thơ đầu tiên cũng là tập thơ duy nhất của nhà văn Mai Thảo "Ta Thấy Hình Ta Những Miếu ðền" ấn hành ở hải ngoại có nhiều bài ảnh hưởng sâu xa tư tưởng Lão và Phật Giáo. Cái thân chẳng khác căn nhà trú tạm ở thế gian. Cuộc rong chơi đầy men say và văn chương lý thú, khắp cùng với bằng hữu cho đến ngày mỏi mệt và nằm dưới bóng mát Phật ðài vĩnh hằng cực lạc:

Nằm đây dưới bóng cây xanh

Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời Mát thơm đất trải bên người

Nghe trong ấm lạnh da người cũng thơm ðất lên hương, thấm qua hồn

Nghe Vui thoáng đến với Buồn thoảng đi Giữa giờ trưa nắng uy nghi

Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu Người nằm nghe đất bao lâu

Tai nương ngợ tiếng đời sau thở dài Lung linh sóng nắng đan cài

Cõi Trong điệp điện Cõi Ngoài mang mang

Chợt đâu rụng tiếng phai tàn Rơi ngưng nửa dáng nắng vàng trôi qua

Linh hồn thiếp giữa triều hoa Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân

(Nghe ðất)

Vốn dĩ đã có Phật tính trong tâm hồn, nên cho dù ở cõi thơ nào của sáng tạo, những nhà thơ Việt Nam đều chuyên chở những ý niệm Phật giáo, như trường hợp Du Tử Lê đã biểu lộ trong bài Sơn Tự Thi khi tỏ tình với người yêu bằng triết lý hiện sinh đầy giây oan trói buộc. Ông không thánh hóa tình yêu vào những trang kinh mầu nhiệm, những thi sĩ cảm nhận sự hiện hữu "cành hoa tay Phật: lòng Ca Diếp" tuyệt vời ở chung quanh đời sống:

… Người trốn vô kinh vẫn thấy đời

Khắp cùng sơn tự ảnh hình tôi ðừng quên sẽ chẳng bao giờ nhớ Ai khảo ra mà ngươi cung khai

Nếu hiểu rồi ra là cát bụi Kinh nào uyên áo hơn vô ngôn

Sơn tự là tôi em hãy trú Có cũng xong. Mà không cũng xong

Hãy khép trang kinh trả lại đời Cứ gì sơn tự mới an vui

Ủ hương cuối kiếp cho nhân loại Ngã mạn đời sau, em của ta

Diện bích ngàn năm vẫn bất an Nhờ em thưa lại với Quan Âm

Cõi tâm tôi trụ nơi nào nhỉ Phải chính tình em? Chính mắt em…

Thế giới thi hóa tình yêu là ngôn ngữ vượt thoát tới đỉnh cao

tuyệt vời của nghệ thuật, của sự thăng hoa đích thực chân thiện mỹ, vì thơ là sứ giả của Tình Thương và Hòa Bình đã đưa nhân loại gần gũi nhau hơn. Những ý thức sâu xa bén rễ từ máu huyết tư tưởng Phật giáo hơn hai mươi thế kỷ, Dân Tộc Việt Nam đã từng biểu hiện bản chất hiền hòa, nhân hậu, không thù hận lâu dài. Lấy tình thương xóa

bỏ hận thù. Không có chiến công nào oanh liệt bằng chiến thắng tự lấy tâm mình. Trong kinh Pháp Cú đã dạy: "Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp kéo đến như bóng theo hình".

Chúng ta hãy tưởng tượng một cách hạnh phúc, một ngày nào

đó trên quê hương Việt Nam, đích thực có mùa Xuân thanh bình Tự Do Dân Chủ thực sự, sớm chiều tiếng chuông ngân vang, tiếng trống trường khua giữa tiếng cười trẻ em rộn rã vào lớp học. Chuyện đầu sông hay cuối sông không còn là nỗi ly cách triền miên.

Người đã gặp lại người như câu chuyện trùng phùng lịch sử của

đàn con yêu dấu Mẹ Âu Cơ. Những bão tố đau thương sẽ tan đi, tâm sẽ lắng đọng như mặt hồ tĩnh lặng. Tất cả rồi sẽ tan chìm trong mỗi phút giây đời sống phù trầm oan nghiệt. Cuộc đời sẽ tươi đẹp hơn, rực rỡ hơn, tương lai êm đềm như suối nghe kinh, chim cúng trái, hoa Vô Ưu tỏa ngát hương trần gian.

Mùa xuân đạo hạnh chứa chan trong lòng nhân thế, mọi giấc

mơ an lành hôm nay chúng ta hãy cầu nguyện sớm trở thành sự thật.

Ngồi đây và thấy bình an Ô hay ! năm mới đã sang bao giờ

Trong lòng như có câu thơ Rơi trên biển biếc dọc bờ cố hương

Bóng ai ở cuối con đường Có nghe xao xuyến cội nguồn mình không ?

Lý Thừa Nghiệp

Ngày Xuân tha hương, đọc lại mấy vần thơ cũ, bất chợt lòng thấy nao nao nhớ lại hình ảnh những ngày tết xa xưa. Và dường như trong những vần thơ Xuân ngày trước, người ta mới thưc sự tìm lại được những hình ảnh, tập tục ngày Xuân, và lãng đãng cái hương Xuân của quê nhà.

Trong di sản văn học cổ của ông cha ta, có rất nhiều viên ngọc quý, chỉ cần phủi nhẹ lớp bụi thời gian là chúng lại sáng lên lấp

lánh. ðặc biệt văn học Thiền Tông đời Lý, để lại không nhiều, nhưng những gì còn lại hôm nay quả là vô giá. ðặc biệt bài kệ nhuốm mùi thiền học "Cáo Tật Thị Chúng" của thiền sư MÃN GIÁC ( 1052-1096) (nhiều người còn gọi là bài thơ NHẤT CHI MAI) vẫn sống mãi với thời gian, đã vĩnh viễn in sâu trong lòng biết bao thế hệ:

CÁO TẬT THỊ CHÚNG

Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai, Sự trục nhỡn tiền qua,ù Lão tòng đầu thượng lai,

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Ngô tất Tố dịch :

CÁO BỆNH VỚI MỌI NGƯỜI

Xuân qua trăm hoa

rụng Xuân tới trăm hoa

cười Trước mắt việc đi

mãi Trên đầu già đến

rồi ðừng bảo xuân tàn

hoa rụng hết ðêm qua sân trước

nở cành mai

Bùi Vĩnh Hưng dịch :

Xuân đi hoa cũng rụng tàn

Xuân về lai láng ngút ngàn hoa xuân

Chuyện đời trước mắt chưa xong

Mái đầu đã bạc chẳng mong vẫn là

Xuân tàn chưa phải hết hoa

Có cành mai nở trước nhà đêm qua

Tiến sĩ LÊ ðỨC MAO ( 1462-1529), với "BÀI HÁT XUÂN ðÌNH" nói lên cảnh mùa Xuân thanh bình của một thời thịnh trị :

Nhị nguyệt huyên hòa tuyết

Thập đình cổ vũ xuân Tiệc mở hát thồ thần kỳ phúc

Vạn vạn niên tề chúc thánh cung Hoan thanh ba tiếng hô tung

Hương nghi ngút khói rượu nồng nàn hoa

ðình tấu nhạc miếu dâng ca Vẻ thanh múa phượng

khúc hòa bay loan Ngày xuân xuân tịch thừa hoan

Thọ trăm tiếng chúc phúc ngàn câu ca Kể từ đó bình hòa vĩnh nhạ

Vỗ tay mừng huệ ngã vô cương Xuân kỳ giải thưởng đào nương

Cửu như dâng phúc ba hàng nức vui

Cảnh đón Xuân nhàn nhã, tiêu dao của NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491-1585) :

THÚ NHÀN

Lẩn thẩn ngày qua lại tháng qua Mät năm Xuân tới, một phen già Aùi ưu vằng vặc trăng in nước

Danh lơị dửng dưng gió thổi hoa Aùn sách hãy còn án sách cũ

Nước non bạn với nước non nhà

TỰ TIÊU DAO

Xóm tự nhiên, lều một căn Quét không thảy thảy bụi hồng trần

Nghìn hàng cam quất, con đòi cũ Mấy đưá ngư tiều, bộ bạn thân Thấy nguyệt tròn thì kể tháng

Nhìn hoa nở mới hay Xuân.

Bài thơ TRỪ TỊCH nổi tiếng của ðẶNG ðỨC SIÊU (1755-1813), gồm 8 câu, nhưng hai câu 5 và 6 bị thất truyền. Năm 1926, người ta chỉ đọc được trên Văn ðàn Bảo Giám sáu câu (bốn câu đầu và hai câu 7-8). Hai câu 5-6 dưới đây là do thi sĩ ðông Hồ viết để điền vào :

Tháng lụn năm cùng sự chẳng cùng Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông Chi lan tiệc cũ hương man mác ðào lý vườn xưa tuyết lạnh lùng

(*ðất có bâng khuâng chờ hội ngộ *Trời như thao thức đợi tao phùng)

Gà kêu pháo nổ năm canh trót Mừng cội mai già gặp chúa ðông

Bài thơ TÌNH XUÂN, viết theo điệu Tây Giang Nguyệt của Tiêu Sơn Tráng Sĩ PHẠM THÁI (1777-1813) trong Thi Tập "Sơ Kính Tân Trang" :

Ai lên tử các thanh vân Hỏi thăm ả Tố chiều xuân thế nào

Cầm âm một khúc gởi trao Cậy lòng dì gió đưa vào xuân cung

Oanh yến véo von gọi khách Cỏ hoa hớn hở mừng ai

Gió xuân hây hẩy dịu đưa người Dễ khiến lòng thơ bối rối

Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu Thung thăng phấm bướm dồi mai

Vũ lăng xa viễn biết bao vời Khôn hỏi đào nguyên đâu tá Khôn hỏi đào nguyên đâu tá Dòng ngự câu đeo lá tình thi May thay một hội tương kỳ

ðã bên tình phận lại bề phong lưu Câu hảo cầu đợi người thục nữ

Năm mây phong đôi chữ đồng tâm ðón xuân nhắn với tri âm

Tính tình xin tỏ tiếng cầm này cho Rắp hẹn hò ngồi hoa đứng tuyết Lòng còn e không biết nói năng Bây giờ mượn gió cung ðằng

Vì duyên đưa mối xích thằng lại đây

Bài thơ "CẢNH TẾT" của nhà thơ khá quen thuộc, NGUYỄN CÔNG TRỨ (1778 - 1858);

Ai dám chê ta tết nhất nghèo Nghèo mà lịch sự đố ai theo

Bánh chưng chất chặt chừng ba chiếc Rượu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo

Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu Ai xuân ta cũng chơi xuân với

Chung đỉnh ơn vua ngày tháng nhiều .

Bài thơ "XUÂN CẢM" của nhà thơ Tam Nguyên Yên ðổ NGUYỄN- KHUYẾN (1835 - 1909):

Tuổi thêm thêm được tóc râu phờ Nay đã năm mươi có lẻ ba Sách vở ích gì cho buổi ấy

Aùo xiêm nghĩ lại thẹn thân già Xuân về ngày loạn còn lơ láo

Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng Sao con đàn hát vẫn say sưa

Trong thi ca Việt Nam cuối thề kỷ XIX, TÚ XƯƠNG (1869 - 1906) là người đã để lại nhiều bài thơ cay đắng nhất cho phận mình, cho đời. Trong cái cay đắng ấy đuợm nỗi buồn xa vắng, nỗi nhớ mênh mông, làm cho ngưòi đọc cảm động vô cùng. Trong đó có nhiều bài thơ về Xuân về Tết.

TẾT SUÔNG

Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu

Rượu cúc nhắn đem hàng biếng quẩy Chè sen mượn hỏi giá còn kiêu

Bánh đuờng sắp gói e mồm chảy Giò lụa toan làm sợ nắng thiu Thôi thế thì thôi đành Tết khác

Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo

XUÂN HỨNG

Một ngọn đông phong sẽ thổi phào ðông quân nhường tỏ lối ra vào Tường mai ngõ hạnh tuy như cũ Lá bướm cành chim đã thế nào Tranh pháo vui xem con trẻ nọ Tóc râu thêm sợ tuổi trời cao Tìm xuân dễ biết xuân đâu tá

Hương khói nhà ai cũng ngạt ngào

CHÚC TẾT

Bắt chước ai ta chúc mấy lời Chúc cho khắp hết cả trong đời

Vua quan sĩ thứ người muôn nước Sao được cho ra cái giống người

TẢN ðÀ Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939) với bài thơ "GẦN TẾT TIỄN NĂM CŨ":

Gần Tết bao nhiêu cảnh khác nhau Người vui sắm sửa, kẻ lo sầu

Phong lưu thiên hạ nghe chừng ít

Lo Tết trần gian chẳng thiếu đâu ! Quanh năm luống những túng cùng lo

Tết nhất xem ra cũng lắm trò Lễ nghĩa muốn thôi, thôi chẳng rứt

Nợ nần vay trả, khất quanh co . . . . .

Tiễn năm ta có mấy vần thơ Năm hết cho người cũng hết lo

Sắp sửa cành nêu Xuân đón chúa Thử xem năm mới có ra trò !

Năm 1936, nhà thơ "Hương ðồng Cỏ Nội" NGUYỄN BÍNH, viết bài thơ MƯA XUÂN, với nhiều tình tự thật dễ thương :

Em là cô gái trong khung cửa Dệt lụa quanh năm với mẹ già Lòng trẻ còn như cây lụa trắng Mẹ già chưa bán chợ làng xa

Bữa ấy mưa xuân phơ phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng ðặng đi ngang ngõ Mẹ bảo "thôn ðoài hát tối nay"

Lòng thấy giăng tơ một mối tình Em ngừng tay lại giữa tay xinh Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh Bốn bên làng xóm đã lên đèn

Em ngữa bàn tay trước mái hiên Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem Em xin phép mẹ vội vàng đi Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe

Mưa bụi nên em không ướt áo Thôn ðoài cách có một thôi đê

Thôn ðoài vào đám hát thâu đêm Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng ! Mình em lầm lũi trên đưiờng về

Có ngắn gì đâu một dải đê ! Aùo mỏng che đầu mưa nặng hạt Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya

Bửa ấy mưa xuân đã ngại bay Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng ðặng về ngang ngõ Mẹ bảo "mùa xuân đã cạn ngày" Anh ạ ! Mùa xuân đã cạn ngày Bao giờ em mới gặp anh đây ? Bao giờ hội ðặng di ngang ngõ ðể mẹ em rằng hát tối nay ?

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1915 - 1976) với hai bài thơ Năm Dậu:

1.-Xuân Kỷ Dậu 1789 là mùa xuân rạng rỡ nhất trong lịch sử nước ta , khi Vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào mấy ngày Tết. ðúng 180 năm sau, Xuân Kỷ Dậu 1969, nhà thơ Vũ Hoàng chương nhớ lại và hào hứng làm bài thơ chữ Hán :

KỶ DẬU HỒI THANH

Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền

Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên

ðặng Tiến dịch :

Gà thúc bình minh sông núi xưa Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa

Sườn non lưng núi lời hoa nở Nội cỏ hòa xuân, nhạc tấu mùa

2.- Và cũng mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1969, lúc ông vừa được 55 tuổi, khi nghe hòa hội Paris vừa khai mở, hy vọng hòa bình ló dạng, Ông phấn khởi viết bài thơ "MỞ BÚT GHI ðIỀM" sau đây:

Tin Xuân gà gáy rách trời đêm Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm ðủ thấy điềm lành hai nửa nước Một nhà trong ấm với ngoài êm

Tiếc thay, "điềm lành" ấy đã không đến với ông. Năm 1976 ông bị bắt giam, bị bệnh nặng trong tù và mất ngày 06.09.76, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn:

ðể nhớ về tuổi ấu thơ, ta hãy nghe nhà thơ Lan-Sơn kể lại :

Thuở bé tôi đeo chiếc khánh vàng Quần đào xẻ đũng, áo hàm lam

Chân đi hài đỏ, tay thu pháo Nhộn cả nhà lên, tiếng hát vang

Ta hãy cùng theo thi sĩ Bàng bá Lân nhớ lại ngày Tết ở miền Bắc:

Tết về nhớ bánh chưng xanh Nhớ tràng pháo chuột nhớ tranh lợn gà

Nhớ cành đào thắm đầy hoa Nhớ giây phút đợi giao thừa nghiêm trang

Nhớ ngũ vị, nhớ chè lam Nhớ cây nêu, nhớ khánh vang tiếng sành

Nhớ tam cúc tẹt, nhơ ùmình Nhớ cân mức lạc, nhớ khoanh giò bì

Tự những ngày xa xưa, bà con đã đón Tết với lòng ước mơ đất nước thanh bình, Bàng Bá Lân với bài thơ Khai Bút năm ðinh Dậu 1957:

Nắng soi vàng ánh mai vàng Nắng soi hồng má cô hàng bán dưa

Vui cùng nắng, đẹp quên mưa

Quên hoa đào thắm, nhưng chưa quên mình Bao giờ non nước thanh bình

Mà xem cái gánh chung tình ai mang ?

Cảm hứng trước đất trời mùa Xuân, Hàn Mặc Tử đã viết những vần thơ thật dễ thương trong Mùa Xuân Chín:

Trong làn nắng ửng khói mờ tan ðôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lý, bóng Xuân sang ..

Và ta hãy nghe nhà thơ Trần Trung Phương tả lại cảnh gia đình đón giao thừa :

Tiếng pháo nổ rồi từng tràng pháo nổ Trên bàn thờ mâm cổ đã bày xong

Mẹ tôi đang châm dở nén hương vòng Và xếp lại trái hồng mâm ngũ quả Anh tôi cắt khoanh giò đang bốc lá

Chị tôi bưng đĩa cá để lên mâm Oâng tôi ngồi im lặng nghĩ trầm ngâm Người sẽ đọc thì thầm câu đối Tết ..

Người Việt tha hương chúng ta, đọc thơ của Hoàng Bảo Việt viết cách nay đã trên năm mươi năm vẫn còn thấy thấm thía vào nhừng ngày Tết đến ở quê người :

ðất nước nơi nào đất nước ơi Xa xa bụi tuyết phủ chân trời Nhớ sao là nhớ, sao là nhớ

Lại một mùa Xuân nữa viễn khơi Quê mẹ mơ hồ mắt mỏi trông

Vì sao thổn thưcù mãi trong lòng Mười năm đã quá nhiều tang tóc Em bên này, anh bên kia sông

Ngày mai anh vượt Thái Bình Dương

Hỏi mây và gió có lên đường Hỏi dòng nước chảy qua ðông hải Cho tôi gởi hồn về cố hương.. . .

Người viết ngồi nhớ lại những vần thơ Xuân của các nhà thơ xưa, mà lòng lâng lâng nhiều cảm xúc, tiếc nuối cho một thời đã qua. Bây giờ chỉ còn lại mơ hồ trong ký ức.

Những người muôn năm cũ Hồn bây giờ ở đâu ???

(Vũ ðình Liên )

Vương quốc Nauy, cuối năm Giáp Thân Phạm Trương

NHẤT CHI MAI

nguyễn như hải

Hàng năm cứ độ xuân về, các giai phẩm xuân, báo xuân đều trình làng những bài thơ mới . Tuy nhiên có một bài thơ cũ cách đây gần ngàn năm vẫn thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần hàng năm mà không làm ai chán cả. Ðó là bài thơ của Thiền Sư Mãn Giác. Nó được nhiều học giả và các nhà sư lý giải qua nhiều lăng kính khác. Nhân dịp xuân về tôi cũng mạo muội trình bày nó qua lăng kính của một người Thông Thiên Học.

Bản Hán Việt như sau:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

Bài thơ này được Cụ Ngô tất Tố dịch như sau:

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Ðêm qua sân trước một cành mai

Về phương diện văn chương, bản dịch của cụ rất hay. Nó được thi nhân lồng vào đó cảm xúc của mình và thi vị hóa thêm (hoa cười- việc đi mãi- già đến rồi). Cái đẹp thi văn chú trọng nhiều vào nét thẩm mỹ hơn.. Ðể cho phù hợp với góc nhìn của mình, mang tính khoa học quy luât hơn. Ðồng thời giữ được nét thản nhiên của thiền và hai cặp đối đại nhị nguyên (bốn chữ cuối của bốn câu đầu) mà thiền sư rất chú trọng. (Tôi xin mở ngoặc ở đây một chút . Mỗi góc nhìn đều có một sắc thái riêng và giới hạn của nó. Ở đây tôi chỉ nêu ra sắc thái chứ không có ý phê bình.) Tôi xin được dịch như sau:

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa khai

Dòng đời qua trước mắt

Tuổi già đến sau lưng

Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Ðêm qua sân trước một cành mai “Hoa rụng”, “Hoa khai”, “qua trước mắt” , “đến sau lưng” đó là những chữ tôi dùng để mô tả cuộc đời bằng sự quan sát khách quan , một đặc tính của khoa học. Ðồng thời vẫn giữ được âm điệu thản nhiên, một hương vị của thiền . Ngoài ra tôi dùng hai cặp “hoa rụng/hoa khai” và “trước mặt/sau lưng” để đối hai cặp “hoa lạc/ hoa khai” và “quá/lai”. Tuy rằng không chỉnh về lời, nhưng chỉnh về ý vì nó tạo được hai cặp đối đãi mà Thiền Sư Mãn Giác đã dụng công đưa vào mà đa số những bài dịch khác từ trước tới nay ít chú ý đến điểm này, một điểm then chốt khi bàn luận về thiền.

Trở lại bài thơ trên với hai câu đầu, Thiền Sư Mãn Giác trình bày một quy luật bất di bất dich của thế giới sắc tướng này: đó là lẽ sinh diệt, diệt sinh, thành, trụ, hoại, diệt, xuân ,hạ, thu, đông, v…v , quy luật tuần hoàn của vũ trụ, nét đặc thù của thế giới sắc tướng - ẩn hiện, biến ảo và quy luật này chi phối tất cả mọi phần tử trong vũ trụ . Câu ba và câu bốn thiền sư đem quy luật này ứng dụng cụ thể vào con người. Theo dòng đời con người sẽ già và mất . Cái hay của bốn câu thơ trên là chổ một quy luật khoa học đã được thiền sư trình bày bằng một tiết điệu của thi ca mà không làm mất đi tính chầt khách quan của định luật khoa học. Ðọc bốn câu thơ trên ta thấy thiền sư không dùng bất cứ một tĩnh từ hay trạng từ nào (thường thì những tĩnh từ hay trạng từ hay được thi nhân dùng dể diển tả những cảm xúc của thi nhân cùng tăng phần thẩm mỹ. Tuy nhiên, đôi

khi chúng làm mất đi cái tính khách quan).Thay vào đó thiền sư dùng toàn động từ để mô tả tánh cách vận hành của một quy luật khoa học một cách rất chính xác, nhưng khi đọc lên lại vẫn có giai điệu thi ca mới hay (thường trong thơ mà dùng toàn động từ đơn điệu thì nó dễ thành văn xuôi ). Ngoài ra thiền sư đã khéo léo trong khi gieo vần, đặt bốn chữ cuối cùng của bốn câu thơ đầu thành ra hai cặp, lạc/khai ( diệt/sinh), quá/lai (đi/đến) để tạo thành ấn tượng cho người đọc. Bằng lối điệp ý, Thiền Sư đã xử dụng hai cặp đối đãi nhị nguyên liên tục trong bốn câu đầu. Ðiều này cho chúng ta thấy thiền sư muốn nhấn mạnh đến quy luật tất yếu này, quy luật của thế giới nhị nguyên đầy sắc tướng này. Nhìn thấy việc dụng công trong việc dùng chữ của tác giả, nên tôi cũng theo ấy mà dịch .

Trong câu ba thiền sư dùng chữ “nhãn tiền”, hẳn là thiền sư muốn nói cái quy luật này quá rõ ràng ai cũng nhìn thấy, nó quá hiển nhiên, lồ lộ giữa ban ngày. Quả thật, quá rõ ràng. Hoa nở rồi hoa tàn, rụng - MẤT. Con người sinh ra, trưởng thành, bịnh tật rồi chết, hình hài tan biến - MẤT. Quả thật,không còn trật vào đâu KHI NÓ BIẾN MẤT trong thế giới sắc tướng này, và rồi ai cũng đinh ninh là như vậy. Nhưng vừa dứt câu bốn qua câu năm thiền sư liền cảnh giác : “Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết”. Bây giờ chúng ta lần lượt xem xét từng chữ trong câu trên xem thiền sư muốn truyền đạt điều gì. Xuân tàn ý nói đến quy luật. Còn hoa ở đây biểu tượng cho Sự Sống là Chơn Nhơn là Bản Ngã, là Bản Lai Diện Mục , là cái gì cũng được tùy bạn gọi. Hoa lạc tận là hoa rụng hết, không còn hoa nữa -biến mất. Tóm lại ý của câu thơ thứ năm là đừng lầm lẫn khi nghĩ rằng sự hủy diệt hình hài, sắc tướng cũng hủy diệt luôn sự sống ẩn tàng ở bên trong mà Thông Thiên Học gọi

là gọi là Chơn Nhơn, con người thực thụ của mình- bất tử, không bao giờ chết. Chỉ có Phàm Nhơn ẩn hiện theo quy luật. Sự hiển rồi ẩn của Phàm Nhơn cho chúng ta cái cảm giác mất mát. Theo Thông Thiên Học, Phàm nhơn không chỉ là Thể Xác này mà nó còn có hai thể khác nữa; đó là Thể Vía và Thể trí. Theo chu kỳ tiến hóa ( luân hồi),con người thể hiện qua các thể để tiến hóa nên cái định luật xuân tàn này chỉ ứng dụng cho thế giới sắc tướng của các thể mà thôi. Hình tướng biến thiên, còn mất, ẩn hiện, đôi khi người ta còn gọi nó là thế giới mộng ảo nhưng Sự Sống, Chơn Nhơn, con người thực, linh hồn vẫn trường tồn bất diệt.

Câu sáu thiền sư sẽ cho chúng ta thấy cái trường tồn bất diệt ấy, một câu thơ thật thần kỳ. Chúng ta hãy xem câu sáu nói gì.

“Ðêm qua” nói về ngày tháng, biểu tượng cho thời gian.

“Sân trước” nói về nơi chốn, biểu tượng cho không gian.

Một cặp nhị nguyên : không gian/ thời gian.

Thường thì chúng ta thấy cặp nhị nguyên xuất hiện dưới dạng có/không, trắng/đen, phải /trái, trước /sau, sinh/tử như một dạng hình học phẳng. Nhưng ở câu kết thiền sư cho chúng ta thấy thêm một dạng thức khác đó là cặp thời gian và không gian như dạng hình học không gian đa chiều. Nó biến ảo khôn lường rất khó mà nhận dạng được chúng. Hải ở Việt Nam, Hải ở Hoa Kỳ, Hải 1960,Hải

2000 Hải nào là Hải đây? Cặp nhị nguyên này cũng rất quen thuộc với người Thông Thiên Học.

Ngoài ra thiền sư cũng cho chúng ta thấy chúng trong dạng thức nhị nguyên khác: âm /dương.

“Ðình tiền”- sân trước ý là lồ lộ công khai biểu tượng cho dương tính .

“Tạc dạ” - đêm tối ý là ẩn kín biểu tượng cho âm tính.

Quả thật là tài tình khi dụng ngữ. Cùng một chữ mà Thiền sư làm cho người đọc nhận ra được tính đa dạng biến hóa của một cặp nhị nguyên như một viên kim cương lấp lánh nhiều mặt.

Theo tôi câu sáu này có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất thiền sư muốn truyền đạt là Sự Sống Duy Nhất (nhất chi mai) hay Chơn Nhơn nó thường hằng. Nó lồ lộ giữa ban ngày(đình tiền) vì vô minh (tạc dạ) nên chúng ta không nhận ra được . Chúng ta chỉ thấy cái sắc tướng bề ngoài mà thôi.

Muốn hiểu được nghĩa thứ hai mà thiền sư muốn truyền đạt, chúng ta phải để ý đến cách hành văn trong câu sáu. Nó không phải là một câu mà là ba nhóm chữ kết hợp mà không có động từ_: “Ðình tiền_ tạc dạ _nhất chi mai”. Những khoảng hở không động từ này chính là hành động mà hành gỉa phải tự điền vào. Thật vậy, qua một khoảng cách thì chúng ta phải làm thế nào? Chỉ có một cách duy nhất là phải vượt qua. Phải vượt qua thế giới nhị

nguyên đầy sắc tướng này để đến bờ nhất thể _nhất chi mai . Nếu thiền sư dùng động từ vượt ở trong câu thì nó là cái vượt của nhị nguyên mất rồi. Không thể nói được, chỉ có sống thôi, chỉ có hành động thôi. Thiền sư đã dẫn dắt hành gỉa một đoạn đường rồi để hành gỉa phải tự mình tìm lấy cho mình một hành động thích hợp mà sống-sống thiền . Như thế mới quả thật là thiền. Không nói mà là nói. Không dùng động từ mà đầy cả hành động. Khi sự sống được người ta trình bày, được nói, đươc chuyển thành khái niệm hay được định nghĩa thì nó đã chết tức thì cho nên thiền sư không nói mà để dành cho hành gỉa tự điền vào chỗ trống- tự hành. Quả thật là đầy tính thiền.

Nói tóm lại bài thơ trên thiền sư Mãn Giác đã dẫn dắt hành giả từ thế giới nhị nguyên đến thế giới trường tồn bất diệt một cách mạch lạc và đầy hương vị của thiền học. Thiền sư ân cần nhắc nhở dù cho sắc tướng có biến thiên thế nào cũng đừng lầm lẫn. Hình tướng bị hủy diệt, tan biến đó chỉ là những biến ảo của thế giới nhị nguyên đầy sắc tướng mà thôi. Hành gỉa phải hiểu rằng còn có "một cành mai " một Sự Sống Duy Nhất vẫn trường tồn, một Bản Ngã duy nhất vẫn bất diệt đang ẩn tàng trong đó. Theo chu kỳ tiến hóa, Phàm Nhơn ẩn, hiện - chết, sống nhiều kiếp làm cho chúng ta có cảm giác mất mát. Sự mất mát, sự ẩn rồi hiện chỉ là sắc thái của những chu kỳ tiến hóa mà thôi .Nên dẫu Phàm Nhơn có ẩn,hiện ,biến mất nhưng Chơn Nhơn vẫn còn đó bất diệt.

Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Ðêm qua_ sân trước_một cành mai.

www.thongthienhoc.com

Tảo Mai Tề Kỷ*

Vạn mộc đống dục chiết Cô căn noãn độc hồi

Tiền thôn thâm tuyết lý Tạc dạ nhất chi khai.

Phong đệ u hương khứ Cầm khuy tố diễm lai

Minh niên như ưng luật Tiên phát ánh xuân đài.

Dịch Nghĩa: Mai Sớm Vạn cây bị băng giá sắp chết Riêng một gốc nhờ hơi ấm vẫn còn sống.

Dịch Thơ: Mai Sớm

Vạn cây băng giá chết Một cội ấm mọc ra

ðầu xóm trong tuyết

Ngoài đầu thôn, từ trong chỗ tuyết dày đặc, ðêm qua có một cành nở hoa. Gió từ xa thổi đến mùi hương u ẩn Chim muôn đến nhìn hoa trắng nỏn nà Năm tới nếu theo đúng thời tiết Trước tiên vườn xuân sẽ sáng lạng.

đặc Một cành đêm nở hoa. Gió xa đem hương ẩn Chim ngắm hoa trắng

ngà Năm tới như đúng tiết Vườn xuân sáng ánh

tà.

*Sư Tề Kỷ họ Hồ là một thi sỉ sống vào cuối đời nhà ðường và đầu thế kỷ thứ 10. Ông sanh tại Trường Sa tỉnh Hồ Nam. Mồ côi từ thuở nhỏ, Ông xuất gia tu học Thiền Tông tại chùa ðồng Khánh trên núi ðại Khuê(?). Sau trụ trì tại chùa Chi Long Hưng tại Giang Lăng tỉnh Hà Bắc. Thơ của Sư Tề Kỷ hơn 800 bài được sưu tập trong 10 quyễn Bạch Liên Tập và có thể tìm thấy trong Toàn ðương Thi chương 838 đến 847. Cũng tương tự như thơ của Giả ðảo, thơ Tề Kỷ ý binh dị, trực tiếp, ít xài điển tích, không diễn tả nhiều tình cảm sôi động, bình thản và chấp nhận. VDK

NHẤT CHI MAI

Trần Tuấn Kiệt

Tôi ngồi nghe và nghe nhiều lần bản nhạc "ðóa Hoa Nghiêm" của Nguyễn Tuấn. Nhạc của anh Tuấn thì khỏi nói rồi, rất thơ mộng, giọng điệu kể lể nhẹ nhàng, lắm khi làm buốt con tim của người ta! Không biết cuộc đời của anh ấy có bềnh bồng như tiếng nhạc không? ðóa Hoa Nghiêm không thấy ngoài đời,

nhưng trong lòng mọi người đều có, nó vô hình vô sắc và, tùy trạng thái, có chút hương thơm. Nhân đây, tôi gởi anh một đoạn viết về một loài hoa có thật, rất đặc trưng và thanh khiết. ðó là đóa hoa Mai , phỏng theo tài liệu của tác-giả Trương Quang với tựa đề Nhất Chi Mai. Văn thơ từ xưa đến nay viết về hoa Mai thì rất nhiều, đặc biệt nhất là hai bài thơ xưa từ cửa Phật : một Trung Hoa, một Việt Nam gặp nhau ở câu cuối cùng có ba chữ Nhất Chi Mai được truyền tụng đến giờ. Tại Trung Hoa dưới thời Nhà ðường, nhà sư Tề Kỷ có bài ngũ ngôn tuyệt cú Mai Thi rất nổi tiếng, được Thi Thoại Tổng Qui chép là :

Vạn hủy đống dục chiết, Cô căn noãn độc hồi. Tiền thôn thâm tuyệt lí, Tạc dạ sổ chi khai. Dịch nghĩa: Vạn mầm đều tàn rụi vì băng giá Riêng một gốc vẫn còn sống nhờ hơi ấm. Ngoài đầu thôn, từ trong chỗ tuyết dày đặc, ðêm qua có mấy cành mai nở hoa.

Trịnh Cốc rất tán thưởng bài thơ trên, nhưng đề nghị nên thay chữ "sổ" bằng chữ "nhất" Tạc dạ nhất chi khai (ðêm qua có một cành nở hoa ). ðược một chữ tinh hoa, sư Tề Kỉ nhận nhà thơ Trịnh Cốc là "Nhất tự sư" (thầy dạy một chữ). Bài Mai thi đúng là bài ngụ ngôn, vỏn vẹn 20 chữ mà tóm lược được lẽ tuần hoàn, biến dịch của vạn hữu. Vòng quay của tạo hóa, hết ðông tới Xuân, trong khí âm giá lạnh đã manh nha mầm sống của hoa lá - âm trung hữu dương - Có đêm tối nào âm u vô tận ? Ngày mai trời lại sáng ! Ở Việt Nam, thiền sư Mẫn Giác (1052 - 1096) có bài thơ, cũng thường được gọi là Nhất Chi Mai, tương tự như bài trên nhưng

có phần thâm viễn hơn. Khi lâm bệnh, ngài muốn nhắn gởi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không chao động đến tâm an nhiên của ta. Bài "Cáo Tật Thị Chúng" như sau :

Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch thơ:

Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa cười Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết, ðêm qua sân trước một cành mai.

Ngô Tất Tố

Xuân đi trăm cánh hoa tàn Xuân sang tươi thắm muôn ngàn

sắc hoa Sự đời tuần tự diễn qua

Trải bao năm tháng tóc đà bạc phơ

Xuân tàn đừng tưởng cành trơ ðêm qua mai nở nhởn nhơ trước

nhà. Phí MinhTâm

Người đời đều thể nghiệm được Xuân và Hoa là bước đi của thời gian trong không gian và đều cảm nhận tính lạc quan, tích cực của hai câu cuốị Xuân đi hoa rụng, thế nhân buồn, Xuân đến hoa nở, thế nhân vui. ðó là cái đi và đến trong thực tại dung tục trầm luân. Chuyện đổi thay qua thời gian in dấu nhăn cuối mắt và tóc trắng trên đầu. Vượt lên trên những biến dịch vô thường đó là cánh hoa mai thường hằng của trí tuệ viên mãn, nở bừng lên ở nơi ta không hề trông đợi. "Hoa lạc tận" là hư vô, đã hóa thân ra thực tại "Nhất chi mai ", thực tại chính là giác ngộ, là sự giải thoát của Bát Nhã Tâm Kinh "Yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha" (Gate gate para gate para samgate buddhi svaha). Tạm dịch là: "Qua đi, qua đi, qua bờ bên kia đi, hoàn toàn qua bờ bên kia đi, thì giác ngộ."

Bên Lề Bài Thơ Cổ ðiển Nhất Chi Mai

David Lý Lãng Nhân

1. Một chút Tiểu sử về Mãn Giác thiền sư (1051-1096)

Theo tài liệu Hán Việt thi tuyễn (trên Internet), Mãn Giác thiền sư tên là Lý Truờng, nguời đất Lũng Triền, Huơng (làng) An Cách, là con của Lý Hoài Tổ, một vị quan chức Trung Thư Ngoại Lang, duới triều Lý (Việt Nam); xuất gia khoảng năm 1076-1084, đuợc Quãn Trí thiền sư truyền tâm ấn. Vua Lý Nhân Tôn xây chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng, mời thiền sư đến trụ trì. Ngày 30 tháng 11, năm Hội-Phong thứ 5 (1096), thiền sư Mãn Giác cáo bệnh, gọi môn đồ đến, đọc bài kệ Cáo Tật Thị Chúng rồi mất. Thiền sư được vua sắc thụy (vua ban tên mới) là Mãn Giác (hoàn toàn giác ngộ). Bài kệ Cáo Tật Thị Chúng (cũng được gọi là bài thơ Nhất Chi Mai) được truyền tụng nhiều thế kỷ ở Việt Nam vì lời thơ đẹp và có ý nghĩa thâm sâu về triết lý ðông phương.

2. Vài nhận xét về ngôn tự của bài thơ Nhất Chi Mai

Bài Nhất Chi Mai là một bài thơ danh tiếng trong văn học cổ điển Việt Nam, được viết bằng chữ Hán, tức là chữ Trung Hoa (chữ Tàu, chữ Nho – Chinese script), không phải là ngôn tự Việt Nam. Bài thơ đó không viết bằng chữ Nôm (demotic script), một hệ thống văn tự đặc biệt của người Việt sáng chế với căn bản Hán tự hai thế kỷ sau để viết tiếng Việt. Người Trung Hoa không đọc được những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, như Truyện Kiều hay thơ Hồ Xuân Hương. Chữ Nôm chỉ được áp dụng rộng rãi kể từ thế kỷ thứ 13 trở về sau. Trước triều Lý, Việt Nam không có văn tự chính thức riêng, phải dùng văn tự Trung Hoa (chữ Hán) để thông đạt. Dưới triều Lý, chữ Nôm tuy được khuyến khích nhưng vẫn phải dùng song song với chữ Hán, vì chữ Nôm không đủ chữ,

phải vay muợn chữ Hán rất nhiều, và chữ Nôm không được tiêu chuẫn hóa, không đồng nhất và dễ bị hiểu sai. Người học chữ Nôm trước hết phải thông thạo chữ Hán. Các học giả Việt Nam ngày xưa thường phải dùng chữ Hán trong những văn tự quan trọng. Hán học rất cần thiết để giao dịch và thông đạt trong chính trường cũng như trong dân gian qua nhiều thế kỷ tại Việt Nam, trước khi người Pháp đô hộ nước Việt. Mãi cho đến 1917, Việt nam mới bãi bỏ chữ Hán và chữ Nôm để hoàn toàn áp dụng chữ Quốc Ngữ viết với mẫu tự La tinh (Roman alphabet).

Ngày nay bài thơ chữ Hán Nhất Chi Mai đã phiên âm ra chữ Quốc ngữ, và thế hệ người Việt hiện đại có thể đọc được, mà không nhứt thiết hiểu nghĩa, vì lẽ văn tự của bài thơ Nhất Chi Mai nguyên thủy là chữ Hán (chữ Trung Hoa). Ngược lại, người Tàu sẽ trực tiếp hiểu nghĩa ngay bài thơ Nhất Chi Mai nguyên tác vì đó là văn tự của họ. Tuy nhiên, người Trung Hoa Bắc Kinh sẽ đọc với giọng nói khác hơn người Trung Hoa Quảng ðông. Cũng vậy, người Việt có kinh nghiệm Hán học đọc thơ văn viết bằng chữ Hán sẽ hiểu trọn nghĩa, mặc dầu họ phát âm theo giọng nói người Việt.

Những bài thơ viết bằng chữ Hán, tức thơ Hán-Việt, phải được diễn dịch ra Việt ngữ cho người Việt thường, không biết chữ Hán, hiểu nghĩa. Thơ Hán-Việt có thể được diễn dịch từng câu, hoặc thích nghĩa từng chữ. Thông thường người ta phỏng dịch nguyên bài thơ chữ Hán bằng một bài thơ chữ Việt (Nôm). Người có căn bản Hán học có thể dịch thoát ý không khó khăn lắm một bài thơ văn chữ Hán qua Việt ngữ, mặc dù ngôn ngữ giữa Tàu và Việt đôi lúc không có từ ngữ tuơng đuơng (equivalent) tuy gần gũi và văn phạm (cú pháp) cũng khác nhau. Giá trị của một bài thơ dịch Hán-Việt tuơng đối tùy thuộc kinh nghiệm và cảm quan của dịch giả và độc giả.

Có một điểm cần ghi nhận là tiếng Trung Hoa rất cô đọng so với tiếng Việt. Do đó dịch thơ Tàu ra thơ Việt thường khi bị khó khăn trong sự diễn đạt hết nguyên ý và thi vị của bài thơ nếu phải gò bó trong thể thơ ngắn ngũ ngôn (5 chữ) như trong nhiều nguyên tác. Còn dịch thơ Tàu (Hán-Việt) thể ngũ ngôn 5 chữ bằng thể thơ

thông dụng lục-bát 6/8 Việt nam thì tuơng đối rộng đuờng cho dịch giả diễn đạt hơn. Nhưng nếu không thận trọng, đôi khi lại đánh mất cái sắc thái trang trọng, cổ kính của văn chuơng cổ điển Hán-Việt.

Thêm vào đó, có những điển từ (clichés, metaphors) hay thổ ngữ (idioms) Trung Hoa mà dịch giả cần phải cẩn thận khi dịch sát qua tiếng Việt (bằng thơ) để tránh ngây ngô, vô nghĩa, giảm mất ý đẹp nguyên thủy.

Bài thơ Nhất Chi Mai được viết vào khoảng thời Trung ðuờng, nên còn phản ảnh lối thơ ngũ ngôn 5 chữ và kết bằng 2 câu thơ thất ngôn 7 chữ của thời đó. Vào thời Mãn ðuờng (cuối đời ðuờng) thơ ðuờng được qui lệ thành thể 7 chữ (thất ngôn) - 4 câu (tứ tuyệt), hay 8 câu (bát cú), và niêm luật bằng trắc cũng khắc khe hơn truớc (xem Luật thơ ðuờng trong phụ đính). Theo ý tôi dùng thể thơ Ðuờng luật 7 chữ để dịch bài Nhất Chi Mai ra Việt ngữ, thì rất thích hợp vì nó cho phép dịch giả rộng đuờng dùng chữ, khỏi bị gò bó trong câu thơ ngắn 5 chữ, đồng thời vẫn giữ được sắc thái cô đọng, trang nhã và hàm súc của thơ cổ điển Hán-Việt. Nhưng đây là một thử thách.

Theo kinh nghiệm bản thân tôi câu thơ thứ 4 trong bài Nhất Chi Mai khó dịch nhất, bất luận dịch giả dùng thể thơ nào.

Câu đó tiếng Hán như sau: Lão tùng đầu thuợng lai.

Dịch từng chữ ra tiếng Việt: Già theo đầu trên đến.

Có tác giả truớc đây dịch thoát ý là : Tóc đã suơng pha mái đầu.

3. Ba bài dịch của bài thơ Nhất Chi Mai

Tôi đã dịch ra Việt ngữ bài Nhất Chi Mai bằng thơ ngũ ngôn 5 chữ, thể thơ của nguyên tác, bằng thể thơ ðuờng luật 7 chữ, và bằng thể thơ lục bát(6/8) để so sánh, xem bài dịch nào dễ nghe hơn và có thể giữ được ít nhiều cái hàm súc thiền vị của bài thơ nguyên thủy. Nhưng phải thú nhận là cho dù tôi có cố gắn bao

nhiêu chăng nữa, tôi nhận thấy bài dịch nào của tôi cũng không thể gây được cảm xúc mạnh mẽ trong lòng tôi bằng nguyên tác Hán-Việt.

Cáo Tật Thị Chúng (Nhất Chi Mai)

Thiền Sư Mãn Giác

(1051-1096)

Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thuợng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

Cáo Tật Thị Chúng viết bằng chữ Hán

Bài dịch số 1 (thể 5 chữ theo nguyên tác):

Một Cành Mai

Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa cuời

ðời thoáng qua truớc mắt Già đến đầu bạc phai

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết ðêm qua sân nở một cành mai

Bài dịch số 2 (thể 7 chữ) :

Một Cành Mai

Xuân đi tơi tả trăm hoa rơi Xuân dến trăm hoa hé nụ cuời Thế sự xoay vần qua truớc mắt Già nua thôi đã bạc đầu phai

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết ðêm qua sân nở một cành mai

Bài dịch số 3 (thể 6/8):

Một Cành Mai

Xuân đi trăm cánh hoa rơi Xuân về trăm cánh hoa cuời đó đây

Việc đời truớc mắt đổi thay Tuổi già đầu đã nhuộm đầy bạc phai

Xuân tàn hoa dẫu rụng rơi ðêm qua nở một cành mai truớc thềm

4. Kết luận

Theo sự nhận xét của tôi sở dĩ bài thơ Nhất Chi Mai được truyền tụng nhiều thế kỹ tại Việt Nam với nguyên tác bằng chữ Hán, phần lớn là nhờ giá trị triết lý của nó và môi truờng văn hoá đặc biệt của những thế hệ truớc. Với kinh nghiệm Hán học thời đó người ta chỉ thuởng thức thơ Hán-Việt trực tiếp không cần diễn dịch. Dù rằng có thể có vài bản dịch Việt ngữ của bài thơ Nhất Chi Mai truớc đây, hình như tới nay không có bản dịch nào chính thức tồn tại với thời gian. Có phải chăng một phần lớn là vì bài thơ nguyên tác Hán-Việt của thiền sư Mãn Giác rất ngắn nhưng rất hàm súc và dễ nhớ? Khách thơ mộ điệu và hoài cổ thường thích ngâm nga bài thơ ấy bằng tiếng Hán-Việt.

Biết đâu khi ngâm nga mãi bài thơ (hay bài Kệ) Nhất Chi Mai bằng tiếng Hán-Việt, có một ngày nào đó bỗng dưng mình bừng giác ngộ và hiễu tận nghĩa của bài thơ, với cái cảm quan đặc biệt thiền vị của nó! Một cách rất bí ẩn. Như câu thần chú. Mà rất nên thơ!

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Hậu đề

Cá nhân tôi lấy làm thích thú và hãnh diện thấy thơ Việt Nam được ký giả, học giả Tây phuơng và Á Châu bắt đầu chú ý và giới thiệu trên diễn đàn quốc tế. Hai năm truớc đây trên tờ New York Times có bài nói về thơ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Huơng. Giáo Sư Keith Weller Taylor (Cornell University) từng sống ở Việt Nam và sưu tầm về lịch sử và văn hóa Việt Nam, cũng có đề cập đến bài thơ bất hủ Hán-Việt Nhất Chi Mai trong sách nói về Văn học ðông Nam Á Châu của ông.

Thế giới con người nay đã gần gũi và đang trao đổi tư tuởng với nhịp độ nhanh chóng phi thường. Trên Web Site Le World nầy, Giáo Sư Thomas D. Le cũng cố gắn tạo một giao điểm, một môi truờng đặc biệt để trao đổi thơ văn Việt Anh Pháp. Số bạn bè thân hữu cộng tác cho Web site nầy cũng bắt đầu gây một vài ảnh huởng tốt đẹp trên diễn đàn chung. Thi sĩ Việt Nam ngày nay ngoài những hoat động thường xuyên trên lãnh vực thi thơ Việt Nam, cũng bắt đầu làm thơ bằng tiếng Pháp và tiếng Anh; và một vài công trình của họ đã bắt đầu được phổ biến rộng rãi nhờ sự truyền đạt nhanh chóng và hữu hiệu của kỹ thuật truyền thông hiện đại. Thật là điều đáng quí và đáng khuyến khích.

***

Phụ Ðính

Thơ ðường Luật

Thơ ðuờng Luật chiếm một chỗ quan trọng trong kho tàng văn hóa Việt nam cổ điển. Loại thơ nầy phải viết theo một khuôn khổ nhất định về cách gieo vần, cách đối từ ngữ và luật bằng trắc, những yếu tố có ảnh huởng quan trọng đến âm điệu của bài thơ. Ðể giúp bạn đọc có một tài liệu chỉ dẫn rút ngắn về thơ Ðuờng Luật, tôi xin kèm theo đây 2 bài thơ cổ điển của Bà Huyện Thanh Quan, để làm bài mẫu về cách đối và luật Bằng Trắc của thơ ðuờng Bát cú (tám câu).

Những chữ in đậm là những chữ bắt buộc phải áp dụng luật Bằng Trắc; có nghĩa là chữ thứ 2, thứ 4 và thứ 6 trong mỗi câu thơ phải theo đúng âm luật.

Thơ ðuờng chỉ có một vần “đuôi” nằm ở cuối câu thứ 1, thứ 2, thứ 4, thứ 6 và thứ 8.

Chú thích: Những chữ không dấu hoặc dấu huyền, thuộc về thanh Bằng. Những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, ngã, nặng thuộc thanh Trắc.

Bốn câu thơ in nghiêng - ở giữa bài - cần phải “ đối ” nhau từng cặp một.

Chiều hôm nhớ nhà

(Bài thơ nầy viết theo Ðuờng Luật Bằng : chữ thứ 2 trong câu 1, âm Bằng)

Trời chiều bãng lãng bóng hoàng hôn Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn Gát mái ngư ông về viễn phố Gỏ sừng mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dậm liễu sương sa khách bước dồn Kẻ chốn chương đài người lữ thứ

Biết ai mà kể nỗi hàn ôn

Qua ðèo Ngang tức cảnh

(Bài thơ nầy viết theo ðuờng Luật Trắc : chữ thứ 2 trong câu 1, âm Trắc)

Bước tới ðèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nuớc đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân ngoãnh lại trời non nước Một mãnh tình riêng ta với ta

Madison, AL, March 22, 2004

Tết Cùng Ai

Thế Huyền

Tới đây, bỗng giật mình, phải chăng, đó là cành mai Ngài Mãn Giác âm thầm trao gởi? Nghe cành mai mà gần gũi như mùa đông. Mời bạn, mời ai, đây chén trà, đây lát mứt, xin ngồi lại, ấm tình đạo và cảm nhận những nhiệm mầu của cuộc sống, trên bao ảnh hình vang vọng đâu đây.

Viết về tết ư? Viết gì bây giờ? Thú thật, hai mươi mấy năm hiện hữu trong kiếp sống này, mình chưa từng nghĩ về một bài viết cho tết.

Mình thích mùa thu có mưa bay và gió lạnh, được êm đềm thả mình trên mấy vòng xe chạy qua bao con đường im lìm và rất thơ xứ Huế.

Mình thích mùa thu để ngồi bên song cửa, nghĩ ngợi mông lung và chợt ngẫu hứng, “Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi, lòng vắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu, ai khóc ai than hời…” để sư phụ đi ngang, ghé mắt vào, này, hát chi đó? Sợ không tả nổi.

Mình thích mùa đông lạnh xứ Huế, để đêm đêm, sau giờ học, ngồi lắng lòng nghe tiếng còi tàu kéo về trong mưa, xa xa áo não như tiếng người vừa chia tay nhau cuối đường, nhớ ai nói, cuộc đời chỉ

Tết và ánh mắt xa

là sự mất đi chứ không bao giờ thêm vào, thấm thía.

Mình thích mùa đông, lúc đó, mình sẽ đi, lang thang, và nhận ra trên liếp đường hoang lạnh, có bà lão nghèo cụm rụm bởi gánh hàng rong không được mấy thứ ở trong, có phải mưa và lạnh làm gánh hàng thêm nặng. Rồi còn bao cảnh đời nữa, trong mưa đông sẽ hiện ra rõ rệt, đầy cô đơn và trống vắng. Tất cả điều ấy, mình có thể gởi tâm sự vào trang giấy nhanh chóng và xúc cảm tận đáy lòng.

Còn tết? Còn mùa xuân? Trời, viết gì đây?

Thiền sư Mãn Giác viết cành mai, người ta nhớ và rưng rưng nhất vì cái gì đây? “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. ðình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Chớ bảo xuân tàn hoa rung hết. ðêm qua sân trước một cành mai). ðó, thấy chưa, viết về mai, mà phải là cành mai sau mùa xuân, đó mới là mai bất sinh diệt, lạ lùng! Thế thì xuân là gì đây mà viết được chứ?

Mình không muốn viết về mùa xuân, tại vì, ở đó có quá nhiều lời nói phân chia đúng-sai, tốt-xấu… ngặt nỗi, sự phân chia đó nhiều lúc… cũng lắm nợ nần!

Cái tốt, đúng với chỗ này nhưng sai lắm với chỗ kia, mà xét cho cặn nguồn, sai cả. Như ngày tốt chẳng hạn. Ngày tốt, tổ chức đám cưới, đám tang, rồi giết hại loài này loài khác, cho rằng thế là tốt. Ôi chao, với sinh vật, quả thật, đó là ngày địa ngục. Tốt và địa ngục, sao mà gần gũi nhau ngay trong từng món ăn như vậy nhỉ? Mà tết hay phân chia lắm. Thế Tôn dạy: “ðối với bậc thạnh tịnh, ngày nào cũng ngày tốt; đối với bậc thanh tịnh, ngày nào cũng ngay lành”, tốt-xấu là gì đây? Thêm ví dụ nữa.

Mồng một, Huế có tục “đạp đất” hay “xông đất” đầu năm. Người không máu mặt, không khá giả, không trí thức, nếu tới “đạp đất” đầu tiên nhà ai đó, họ sẽ buồn khổ, thầm trách, lo lắng, cho rằng cả ăm đó không làm ăn gì được. Thì ngay trong giờ đầu tiên đã lolắng, suốt năm lo lắng, cái tâm không trống rỗng, lấy đâu ra chỗ bình an cho hạnh phúc ùa vào trú ngụ chứ. Thêm ví dụ nữa.

Tết, người ta lần lượt về quê ấm tình cùng gia đình. Mà ai được về ai phải tha phương? Con số nào cũng lớn cả. Người về thấy vui, kẻ tha phương lòng sẽ lạnh gấp bao lần mùa đông, dù bước đi bên mai vàng nở rộ. ðường về xa xa gần gần, mơ hồ nên bước mãi chẳng bao giờ về quê cũ bao la. Quê nhà, mẹ già còn mỏi mắt chờ trong, cha già quên uống tách trà vừa pha ấm. Hai đầu nỗi nhớ hai cái lạnh quàng vai.

Sao mình thấy tết mà buồn đến thế! ðáng phải vui chứ? Cái vui ở đó, mong mọi người đều cảm nhận được. ðức Phật dạy mục đích duy nhất trong 45 năm truyền trao chân lý là dạy khổ và con đường thoát khổ, để rồi Ngài khẳng định “Khi thanh tịnh ta thấy thế giới thanh tịnh” dù ngoài đạo vẫn bảo “Khi thanh tịnh ta thấy thế giới bất tịnh”. Nhìn khổ, mà thoát chấp thủ tham ái, bỗng dưng thế giới rộng thênh thang và cuộc đời bỗng bao dung thanh tịnh. Con đường mình đi đều phải thế.

Tới đây, bỗng giật mình, phải chăng, đó là cành mai Ngài Mãn Giác âm thầm trao gởi? Nghe cành mai mà gần gũi như mùa đông. Mời bạn, mời ai, đây chén trà, đây lát mứt, xin ngồi lại, ấm tình đạo và cảm nhận những nhiệm mầu của cuộc sống, trên bao ảnh hình vang vọng đâu đây. Yêu thương và Trí tuệ, ươm mầm ngày mới thăng hoa…

Tản Mạn Với Hoa Mai

4u.jcisio.com

Người ta từng gọi tên của một quốc gia bằng một loài hoa, dù loài hoa đó không là tài sản riêng của đất nước ấy mà hiện diện ở hầu khắp thế giới. Hoa mai ở Việt Nam thì không như thế, dù cái tầm của mai thì dư sức đạt đến điều đó.

Bungari là đất nước hoa hồng, Hà Lan là xứ sở của hoa tuylip, cũng như hoa anh đào được coi là biểu tượng của xứ Phù Tang. Cũng là hoa, là lá, là cỏ cây như bao loài thảo mộc khác, nhưng những loài hoa ấy mang trên mình sứ mệnh của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả dân tộc. Người Nhật từng tôn sùng hoa anh đào là kuni no hana (quốc hoa) cũng với ý nghĩa ấy. Hoa mai ở Việt Nam thì không như thế, dù cái tầm của mai thì dư sức đạt đến điều đó. Ấy là tôi “nghĩ hộ” cho hoa mai vậy, chứ bản thân hoa mai chắc cũng đã hài lòng với các “tước hiệu”: sứ giả của mùa xuân, loài hoa cao quý, kẻ song hành với các nhà thơ... mà bao thế hệ con Rồng, cháu Tiên dành tặng cho mai.

Cũng như hoa đào ngoài Bắc, hoa mai đến với dân Việt Nam mỗi năm chỉ một lần vào dịp xuân về, nhưng sức sống của mai trong lòng người thì không chỉ giới hạn trong vài ba ngày Tết mà trở nên trường cửu. Người ta ngóng trông mai suốt cả năm ròng nên khi cái Tết qua đi, hầu như không ai muốn rời bỏ hoa mai ngay lập tức mà còn cố vương vấn, níu kéo mai ở lại với họ thêm đôi ba bữa nữa. Tôi cũng vậy.

Có lần, một người bạn ngoài Bắc vô thăm Huế, ghé nhà tôi chơi. Tết đã qua được gần một tháng, song trên bàn làm việc, tôi vẫn còn chưng một cành mai, và hoa thì không còn lấy một nụ. Bạn tôi thắc mắc: “Hoa đã rụng hết sao anh chưa vứt bỏ?”. Tôi cười bảo: “Anh có biết hai câu kết trong bài Cáo tật thị chúng của Mãn

Giác thiền sư: 'Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai' không? Vẫn biết là thiền sư có ý dạy rằng “đừng có nghĩ xuân tàn thì hoa rụng hết, bởi đêm qua trước sân vẫn có một nhành mai” để nói về cái vòng chu chuyển tất yếu của thiên nhiên và sinh mệnh. Nhưng sao tôi vẫn nghĩ hơi khác một chút. Ðã tàn xuân mà thiền sư trông thấy mai. Ấy mới là sự lạ. Phải chăng có cành mai nở muộn, hay chỉ là lối ẩn dụ của cách nói “xuân rày tiếp nối xuân kia”. Tôi đồ rằng thiền sư đã nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân nơi một cành mai tàn có thực trước chùa mà nói vậy. Cành mai này hẳn là không có hoa rồi, nhưng sư Mãn Giác đã nhận ra thông điệp của mùa xuân kế tiếp, của thế hệ kế tiếp nơi cành mai ấy mà truyền bảo cho đệ tử. Tôi giữ cành mai tàn trong nhà cũng là mong được nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân trong căn phòng của mình vậy”. Bạn tôi đáp: “Người Huế các anh thi vị cuộc sống quá. Dân Bắc chúng tôi, sau Tết là ném ngay cành đào lên chiếc xe rác chạy ngang trước cửa cho nó rảnh nhà. Hơi đâu mà...”. Anh bỏ lửng câu nói, nhưng tôi đoán anh đang cười thầm suy nghĩ có vẻ lẩn thẩn của tôi.

Mà đâu chỉ một mình tôi có lòng với mai. Thử ngẫm mà xem có loài hoa nào được văn chương nước Việt nhắc đến nhiều như hoa mai. Mai đi vào “thơ thiền” của sư Không Lộ thời Lý, có mặt trong “thơ thần” của Nguyễn Trãi thời Lê. Hình ảnh của hoa mai cũng được thi hào Nguyễn Du mượn để tả về nét đẹp quý phái, đoan trang của chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Tản Ðà thì dùng hình ảnh “xương mai một nắm hao gầy” để nói lên nỗi niềm của mình trong lời thề non nước. Ngay như Nguyễn Ðình Chiểu, khi đôi mắt của ông không còn nhìn được sắc vàng rực rỡ của mai, thì hình ảnh về loài hoa xuân ông từng yêu quý vẫn được ông ghi lại trong ký ức và được vẽ ra bằng một nét bút tài hoa: “Hữu tình thay ngọn gió đông. Cành mai nở nhụy, lá tòng reo vang”. Và khi muốn nói về cuộc hội ngộ đầy chất thi vị, tao nhã giữa đôi trai tài gái sắc Vân Tiên - Nguyệt Nga, Nguyễn Ðình Chiểu lại mượn hình ảnh của mai để so sánh: “Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai”. Rồi Thanh Hải, Chế Lan Viên, Lê Văn Thảo ... những văn, thi sĩ thời đánh Mỹ, giữa những đau thương, khốc liệt của chiến tranh vẫn có những vầng thơ, những áng văn đằm thắm, trữ tình viết

về hoa mai. Chừng đó thôi cũng nói lên cái địa vị cao quý của hoa mai trong lòng thi nhân Việt Nam.

Song theo thiển ý, có hai câu thơ, tương truyền là của Chu Thần Cao Bá Quát, xứng đáng là những ngôn từ đẹp nhất, trân trọng nhất mà người ta có thể viết ra để xưng tụng hoa mai:

Thập tải luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.

(Mười năm chu du tìm gươm cổ

Cả đời chỉ cúi lạy hoa mai).

Hoa mai với riêng tôi cũng đầy ắp những nỗi niềm. Trong bước đường phiêu lãng của mình, tôi có nhiều kỷ niệm với mai. Ðó là những ngày tôi là một sinh viên nghèo, không đủ tiền xuôi Nam ăn Tết cùng gia đình, đành ở lại ký túc xá, kiếm cành mai làm bạn, ngồi uống rượu suông, chờ mùa xuân mang thêm cho mình một tuổi. Ðó là những ngày theo chân bè bạn về quê người ăn Tết, ngắm nhìn vườn mai vàng rực như muốn dát vàng lên đồi cát trắng Phong Thu. Ðó là lúc tôi ngồi ngắm trăng nơi vườn mai nở muộn trong Hoàng Thành Huế, rưng lòng trước cái đẹp mờ ảo của đêm nguyên tiêu, mà ngâm ngợi bài Nguyệt mai - một bài cổ thi có trên chiếc dĩa trà sứ men đồ men lam Huế, tôi đã thuộc nằm lòng từ cái ngày đầu tiên theo nghiệp khảo cứu đồ xưa:

Mai hoa đắc nguyệt cánh thiêm thần

Nguyệt lý mai hoa sắc dũ chân

Quế điện lung linh hoa lộng ảnh

Hoa chi diêu duệ nguyệt xâm nhân

Mê ly nguyệt để hoa xâm ngọc

Tịch mịch hoa gian nguyệt tuyệt trần

Ngã ái mai hoa kiêm ái nguyệt

Nhất mai nhất nguyệt lưỡng giai xuân

Cũng vì mai, mà tôi từng liều lĩnh dấn thân vào cuộc bút đàm với các bậc cao minh trong làng cổ ngoạn về gốc gác hai câu thơ: “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người xưa”. Thơ của ai đây? Của Nguyễn Du như người đời từng gán ghép, hay của Ðịnh Viễn Quận Vương, hoàng tử thứ 6 của vua Gia Long, hoặc của Ðông Các đại học sĩ Ðinh Phiên, người đã phụng mệnh vua Gia Long làm phó sứ cho Cần Chánh đại học sĩ Nguyễn Xuân Tình sang Thanh năm 1819, như một giả thuyết đang gây tranh luận.

Song cái kỷ niệm đáng nhớ nhất là khi tôi đứng dưới chân lâu đài Osaka vào ngày 6/3/1998 trong một rừng mai muôn hồng nghìn tía. Hôm ấy, cô Junko Kusaka, một người bạn Nhật, biết tôi thích mai nên rủ tôi đến chân thành Osaka để ngắm hoa. Tôi hào hứng theo chân cô, những tưởng là sẽ được ngắm một rừng mai vàng rực như ở chốn quê nhà sau một cái Tết vắng bóng mai vàng. Tôi hồi hộp bao nhiêu khi thấy hai chữ Mai lâm (Rừng mai) ở lối vào vườn mai, thì càng thất vọng bấy nhiêu khi trước mắt là một rừng đầy mai đỏ và mai trắng mà không một bóng mai vàng. Hóa ra cái tôi thèm muốn, cái tôi nhớ nhung và cái tôi tản mạn nãy giờ là hoàng mai, là mai vàng xứ Huế chứ không phải một thứ mai nào khác.

Ừ nhỉ! Họ hàng mai vốn có nhiều loại, nhưng ta chỉ nặng lòng với chỉ mình ngươi. Mai vàng ơi!

Cáo Tật Thị Chúng

Mãn Giác Thiền Sư

Thư Pháp của Nguyễn Quốc ðoan

Tranh thơ by Cát Vân

Cáo tật thị chúng Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai. --Bản dịch của Hoà Thượng Quãng ðộ-- Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa cười Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết Ðêm qua sân trước một cành mai

--Bản dịch của Nguyễn Tấn Hưng-- Cáo bệnh dặn bảo các môn đồ Xuân đi trăm thứ hoa tàn, Xuân về lại thấy rộn ràng muôn hoa. Việc đời chớp mắt thoảng qua, Thoáng thôi, tóc đã sương pha rối bời. Chớ hiềm xuân cỗi hoa rơi, Ðêm qua nở một cành mai trước thềm. --Lời bình của Nguyễn Trí Trung-- (Trích từ Cáo Tật Thị Chúng Và Ẩn Ngữ Của Nền Văn Hóa Phương ðông của Nguyễn Chí Trung) Cáo Tật Thị Chúng của Mã Giác Thiền sư thực là một tuyên ngôn triết học mang đầy tính chất đặc trưng của nền văn hóa của phương ðông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, đặc biệt là văn hóa thời Lý-Trần. Nhưng đây không phải là một thứ tuyên ngôn triết học được xây dựng bằng những hệ thống khái niệm trừu tượng, con đẻ của tinh thần phân tích lý trí như thường thấy trong các hệ thống triết học của phương Tây. Trái lại, đây là một văn bản triết học được sáng tạo bằng trực giác thẩm mỹ qua những hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật đầy chất thơ, chất thiền. Cái đẹp của bài kệ cũng là cái đẹp của sự thống nhất ba phạm trù Chân, Thiện, Mỹ trong cùng một Thực Tại Tối Cao, cũng như của sự cảm thông, hòa hợp giữa khách thể với chủ thể ... ðẹp thay, một cành mai của sự giải thoát và thực chứng. Và mãi cho đến tận ngày nay, khi sự tôn sùng lý trí khoa học được đẩy lên đến tột đỉnh, cành mai Mãn Giác ấy vẫn rung rinh bừng nở trước sân như một biểu tượng bất diệt của cái đẹp Uyên Nguyên toát ra từ sự thực chứng sâu sắc về bản chất của thế giới thực tại.

Và đó cũng là một trong những cành mai đẹp nhất của khu vườn văn học phương ðông. Mai ở trong tâm hồn tôi hay ở ngoài trời? Tất cả chỉ là Một.

Hoasontrang.us Chú thích: Mãn Giác thiền sư (1052-1096) tên là Lý Trường, người đất Lũng Triền, hương An Cách, là con của Trung Thư Ngoại Lang Lý Hoài Tố. Ham học, thông hiểu cả Nho lẫn Phật. Khoảng năm 1076-1084 xuất gia, được Quản Trí thiền sư chùa Quán ðỉnh truyền tâm ấn . Vua Lý Nhân Tôn xây chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng mời sư đến trụ trì để tiện hỏi han. Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (1096) sư cáo bệnh, gọi môn đồ lại đọc bài kệ trên rồi mất. Vua sắc thuỵ là Mãn Giác.

MAI NỞ TRỜI TÂY Linh Thảo

ðêm giao thừa năm ấy đi lễ chùa cõi ngoài trời Tây mai vắng bóng cây sân trồng khác loài ngày nguyên tiêu trở lại nén hương trước Phật đài mắt ngước nhìn bỡ ngỡ trước bệ đôi chậu mai thân gầy xương mỏng mảnh đúng kỳ hoa mãn khai hỏi thăm người được biết ấy đạo hữu vãng lai đem mai dâng cúng Phật một công quả thiện tai nhớ thiền sư Mãn Giác ngày xưa đã kiến khai với ý thơ huyền diệu "Sân đêm nở cành mai" Lục Tổ lại truyền dạy "Bồ ðề chẳng có cây" nguồn đạo vốn bàng bạc liễu ngộ chẳng kể ai chùa tha hương vãn cảnh điện trong đến sân ngoài trời Tây mai xuân thiếu hoa ðạo vẫn nở hoài.

XUÂN ðà VỀ ðÂY Thạch Thảo

Xuân đã về đây tuyết thưa dần trời Tây vạn vật vui chào đón những sóng tươi đầu ngày Người cũng vừa thức dậy đón bình minh cuộc đời trong nắng hồng chân bước dạo trên đường thảnh thơi Gió xuân chừng gõ cửa mời ra vườn nhìn xem trăm cây vừa nẩy lộc cỏ non cũng trồi lên Xuân đã về rồi đây tiếng chim cũng vang đầy báo mùa xuân vừa đến tháng ba ở trời Tây Ngọn nắng còn non lắm nhưng mái tóc sương dày chén xuân dù uống cạn mặt trời chưa đỏ gay

mắt nhìn qua khung cửa con sóc nhẩy trên cành hết mùa đông giá lạnh bắt đầu kiếm ăn quanh Bên ngoài dòng xe cộ vẫn xuôi ngược trên đường hôm nay sao thấy vẻ nhộn nhịp khác ngày thường Sớm hôm ngắm cảnh dần thay đổi với mùa xuân thấy niềm vui vừa dậy pha lẫn chút bâng khuâng Xuân đã về rồi đây mình vẫn ở trời Tây trông về phương đông ấy mây Tần xa thoáng bay. (*) GC (*) mây Tần: Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa... (Kiều - Nguyễn Du)

Hạnh Phúc Và Mùa Xuân

Tịnh Nghiêm-Nghiêm Xuân Cường

Là mùa cỏ cây đâm chồi nẩy lộc cho nên tự muôn đời xuân đã trở thành biểu tượng của sự làm mới. Xuân đến, vạn vật như thay hình đổi dạng, đang im lìm trong trời đông giá lạnh bỗng chuyển hóa khoác lên mình chiếc áo xuân muôn mầu rực rỡ. Trăm hoa đua nở, khắp nơi ấm áp, lòng người cũng rộn rã theo với đất trời cho nên mùa xuân còn được đồng hóa với sự an vui. ðó là cách nhìn sự vật qua hình tướng, nhưng người con Phật thì đâu thấy mọi vật qua cái dáng vẻ bên ngoài như Thiền Sư Mãn Giác (đời nhà Lý, 1052-1096) viết:

Xuân khứ bách hoa lạc Xuân ruỗi trăm hoa rụng

Xuân đáo bách hoa khai Xuân tới trăm hoa cười

Sự trục nhãn tiền quá Trước mắt việc đi mãi

Lão tùng đầu thượng lai Trên đầu già tới rồi

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

ðình tiền tạc dạ nhất chi mai. ðêm qua sân trước một cành mai.

(bản dịch Ngô Tất Tố)

Mùa xuân đâu chỉ có ở trong cánh hoa, cho nên nếu còn vướng vào dáng vẻ bên ngoài người ta dễ bị lạc trong vòng sầu khổ. Thấm nhuần lời Phật dạy, chúng ta thấy xuân chỉ là một ý niệm trong lòng, khi đã an trú trong Tam Bảo rồi thì đó chính là niềm vui của ta, không cần phải phụ thuộc vào bốn mùa biến chuyển. Ý niệm về tuổi và hạnh phúc cũng vậy. Người ta thường do cái hình thức bên ngoài mà xét đoán cho nên cố giữ dáng vẻ trẻ trung của mình bằng y phục, trang sức, thậm chí bằng cả những xảo thuật của y học hiện đại như botox, căng da, hút mỡ, tẩy răng…nhưng tất nhiên đi kiếm hình ảnh của hạnh phúc trong cái vô thường, cái biến đổi từng giây phút là một việc làm vô vọng, như chàng Don Quixote của Cervantes suốt đời đuổi theo và đánh nhau với những cái cối xay gió. ði kiếm hạnh phúc trong cái hình tướng bên ngoài, ta sẽ dễ dàng mang tâm trạng như một thi sĩ cận đại đã viết:

Tôi có chờ đâu có đợi đâu

Ai đem xuân đến để tôi sầu

Với tôi tất cả là vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau

So với cái nhìn của Thiền Sư Mãn Giác quả có khác nhau như đêm ngày. Hạnh phúc và mùa xuân chỉ là một ý niệm trong lòng cho nên đi tìm kiếm cái hạnh phúc ấy ở những cảnh vật ngoại giới người ta chẳng bao giờ được toại nguyện, ví như người khách đi đường xa, nhìn thấy ánh đèn phía trước, định bụng là đến đó thì sẽ nghỉ qua đêm song khi đến nơi thì biết nó chỉ là một ảo tưởng của thị giác. Cũng vậy, con người sống trong một xã hội mà các "nhu cầu" đều do sự giật dây của sự quảng cáo thì không

bao giờ hài lòng được bởi hết cần mua cái này rồi lại cần sắm cái nọ, lòng lúc nào cũng ở trong trạng thái "cầu bất đắc" mà cầu bất đắc liên miên thì sẽ khổ liên miên.

Cho nên, vướng vào cái hình tướng bên ngoài là một nguồn gốc của khổ đau. Trong Tạng Thư Sống Chết (The Tibetan Book of Living And Dying, Việt dịch Ni Sư Thích Nữ Trí Hải, NXB Thanh Văn, CA 1996)) Sogyal Rinpoche thuật lại một giai thoại lý thú về một vị thiền sư, thầy của Ngài . Thường thì ở nơi nào cũng vậy, mỗi đầu năm như Tết Nguyên ðán ở nước ta, người người tụ họp lại ăn uống, nói cười vui vẻ, chúc tụng nhau bằng những lời hoa mỹ, khách sáo. Chỉ riêng có vị thiền sư này, mỗi lần chứng kiến những cuộc vui như thế Ngài lại ôm mặt khóc. Khi có người hỏi vì sao lại khóc trong ngày tiệc đầu năm, thiền sư trả lời:

“Tôi khóc vì một năm đã qua tức là người người ai cũng già đi một tuổi, nghĩa là bước thêm một bước gần cửa tử sinh, thế mà họ nào có biết, vẫn cứ nhởn nhơ, không lo tu tập mà chỉ vui chơi cho qua ngày đoạn tháng.

Phât pháp cho ta cái nhìn vô tướng để không chỉ thấy cái hiện tượng bề mặt mà còn thấy sự tương quan giữa mọi người và mọi vật. Ta đâu có bao giờ nghĩ là những con gấu trắng Bắc Cực (polar bear) là có liên hệ gì đến mình, nhưng nếu chúng bị diệt chủng trong vài thập niên sắp tới vì hiện tượng toàn cầu bị hâm nóng (global warming) thì loài người chúng ta sớm muộn rồi cũng khốn khổ long đong. Người biết an vui thực sự, do đó là người không những biết lo cho mình mà còn lo cái lo chung của mọi người như ðức ðạt Lai Lạt Ma Thứ Mười Bốn nói:

“Nếu ta biết kềm chế những động lực ích kỷ trong ta -giận dữ chẳng hạn -và phát triển lòng tử tế và tâm từ cho tha nhân, thì rút cục ta sẽ là người được lợi lạc hơn cả. Thành ra tôi vẫn thường hay nói với mọi người là kẻ ích kỷ khôn ngoan (the wise selfish person) phải thực tập như thế. Kẻ

vô minh lúc nào cũng nghĩ về mình và kết quả chỉ là tiêu cực, khổ đau. Kẻ ích kỷ khôn ngoan hay nghĩ đến người khác và giúp người bằng hết sức mình và như vậy họ cũng hưởng lợi lạc.”

Cũng vậy, Shantadeva, một nhà hiền triết Phật Giáo sống cách đây trên mười hai thế kỷ, đã viết:

Difference*

All the joy the world contains

Has come through wishing happiness for others

All the misery the world contains

Has come through wanting pleasure for oneself

Is there need for lengthy explanation

Childish beings look out for themselves

While Buddhas labor for others

See the difference that divides them.

*đề tựa do người viết đặt

(trích từ Glimpse After Glimpse, Sogyal Rinpoche, HarperCollins, 1995)

tạm dịch:

Trầm Luân

Có gì đáng nói nữa đâu

Kẻ vô minh muốn lợi mau về mình.

Bậc Bồ Tát giúp chúng sinh,

Thoắt trông đã thấy muôn phần khác xa.

Nếu mang hạnh phúc về ta

Mà bao đau khổ tạo ra cho người

Tức thì Phật tánh buông lơi

Có vui chăng cũng ngàn đời trầm luân.

Nói tóm lại, chỉ cần quan sát một chút ta sẽ thấy rõ ràng là vạn vật nương tựa lẫn nhau trong

một lưới liên hệ trùng trùng điệp điệp, cái này có vì cái kia có, cái kia có vì cái này có. Thân thể

này chẳng kết hợp bởi tứ đại - đất, nước, gió, lửa- đó chăng? Thiếu bất cứ một thứ nào, dù chỉ là

trong khoảnh khắc, mạng sống của ta cũng có cơ lâm nguy. Một phim đang được trình chiếu tại các

rạp tại Bắc Mỹ từ Giáng Sinh 2006- Charlotte’s Web (Lưới Của Charlotte) -nói về tình bạn giữa chú

heo con (Wilbur) và cô nhện khôn ngoan (Charlotte) trong một nông trại. Nhờ sự can thiệp của cô

nhện Charlotte mà người chủ nông trại thấy được giá trị của chú heo con Wilbur và không giết thịt nó.

Kết quả là Wilbur thắng giải thưởng đặc biệt (Governor’s Prize) trong một kỳ triển lãm nông phẩm

và người dân trong vùng tự nhiên thấy cuộc sống của mình quan trọng hơn, tươi đẹp hơn. Cái quan hệ

liên đới giữa các con vật trong nông trại và mọi người trong vùng chẳng khác gì ý tưởng “cả vũ trụ

nằm trong một hạt cát” của nhà thiền

Thế nên, chìa khóa của hạnh phúc bền lâu, của một mùa xuân bất tận nằm trong cái nhìn bao quát,

không vướng vào sự hời hợt bề ngoài, cũng như trong cách sống ung dung tự tại, đem lại lợi ích cho

mình, cho người. Xuân của đất trời sẽ mãi mãi còn tươi mới khi tâm ta đã thực sự bình an. Xin mượn

bốn câu thơ tuyệt tác của cố thi sĩ Huyền Không tức Hòa Thượng Thích Mãn Giác (1929-2006) thay

cho lời kết

Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ ?

Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình

Sáng nay thức dạy choàng thêm áo

Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh.

Tối Qua, Sân Trước Một Cành Mai

Trần Trung ðạo

Mùa Xuân 1981, tôi từ ðà Lạt về Hội An thỉnh an bổn sư chúng tôi trước khi vào Nam tìm đường vượt biển. Chân bước một mình trên đường Phạm Phú Quốc mà nghe lòng xao xuyến với bao nhiêu kỷ niệm đang nao nức trở về. ðường phố buồn như có một đám ma vừa mới đi qua. Nhà thơ Luân Hoán một lần đã viết trong ngày anh trở lại Hội An:

ðêm trở lại mưa sa mù Phố cũ ðường hoang vu thao thức ánh đèn vàng Dáng âm thầm muôn thuở của Hội An Bước khe khẻ sợ phố phường thức giấc

(ðêm Mưa Về Hội An, thơ Luân Hoán)

Tôi không cần phải bước khẻ. Sáu năm sau ngày 29 tháng 3 năm 1975 định mệnh, Hội An vẫn chưa thức giấc. Thành phố lịch sử bị chính lịch sử bỏ quên suốt mấy trăm năm như còn chìm trong giấc ngủ.

Chùa Viên Giác với hai cây đa già, chiếc cỗng Tam Quan màu nâu đậm, Văn phòng Ban Hướng Dẫn Gia ðình Phật Tử tỉnh Quảng Nam với hàng chữ nổi chạy dài trên tường. Tất cả vẫn còn đó. Tôi đứng lặng yên nhìn cảnh cũ như tìm lại chính mình trong một quá khứ nhiều trắc trở. Văn phòng Ban Hướng Dẫn trống hoang, không một huynh trưởng nào làm việc. Chiếc máy in Roneo thân yêu của tôi ngày nào nằm trơ trọi trong một góc phòng. Thằng bé chùa Viên Giác như bà con hàng xóm thường gọi tôi ngày xưa để phân biệt với các chú tiểu chùa Viên Giác, đã về đây.

Tôi trở về nơi tôi đã dành khoảng thời gian trong trắng nhất để học, xây dựng cho mình một nhân sinh quan, tập một cách sống và chọn một hướng đi.

Tôi muốn cúi nhặt một chiếc lá, vuốt nhẹ đầu con lân bằng sứ trước cỗng chùa, dựa lưng một chút vào hai chiếc cửa sắt rỉ đã hoen màu. Với tôi, mỗi viên sỏi, mỗi chỗ ngồi và mỗi chiếc lá

trong sân chùa là một kỷ niệm, một phần của đời sống tôi, một phần của tâm hồn tôi.

Thầy tôi, Hòa Thượng Thích Long Trí, ngạc nhiên khi tôi trở lại. Thầy mững rỡ, đưa tay choàng lấy vai tôi thân thiết như ngày nào. Thầy nói như than thở "trong lúc mọi người đều bỏ đi thì con lại trở về." Tôi ngước nhìn lên như muốn bạch với thầy "nhưng rồi con cũng sẽ ra đi, đi xa lắm." Tuy nghĩ thế nhưng tôi không dám đáp lại, chỉ sợ thầy buồn.

Thầy trò chúng tôi ngồi trong giảng đường Thanh Niên và nói về những đổi thay trong giáo hội. Thầy nói rất nhiều về đất nước, về đạo pháp. Thầy nói nhiều hơn về Gia ðình Phật Tử, tổ chức mà tôi đã phát nguyện đi theo từ năm 7 tuổi và cũng là tổ chức mà thầy chúng tôi dành cả cuộc đời để gieo trồng, vun xới và vất vả trông nom. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó, đừng nói gì đến chuyện phát triển, chỉ tồn tại được đã là một điều khó khăn lắm rồi. "Phải tồn tại", thầy nhấn mạnh từng chữ. Thầy nói với tôi nhưng thật ra đang dặn dò với chính mình.

Thầy hãnh diện về quê hương xứ Quảng ðịa Linh Nhân Kiệt của thầy. Ngày xưa thầy thường dạy chúng tôi "Huế là chiếc nôi của Gia ðình Phật Tử nhưng Quảng Nam lại là nơi chôn nhau cắt rốn của người đã góp phần lớn nhất để tạo dựng nên tổ chức này." Ý thầy muốn nhắc đến Bác Sĩ Tâm Minh Lê ðình Thám, người sáng lập nên Gia ðình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia ðình Phật Tử Việt Nam. Quê hương của thầy cũng là nơi dừng chân cuối cùng trên đường hành đạo của Thiền Tổ Minh Hải, tổ sáng lập nên dòng Lâm Tế Chúc Thánh từ thế kỷ 17. Cũng tại tổ đình Chúc Thánh uy nghiêm cỗ kính này, năm 1917 hai tăng sĩ trẻ từ Huế vào thọ Tỳ Kheo trong Ðại Giới Ðàn Minh Hải. Hơn nửa thế kỷ sau, hai vị tăng sĩ trẻ đó đã trở thành ðệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết và ðệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Cách chùa Viên Giác vài trăm mét là nhà thờ thân tộc của văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, người đã để lại cho muôn đời sau câu nói bất hủ "đời tôi để lịch sử xử" trong cuộc đấu tranh của Phật Giáo 1963. Quảng Nam cũng là quê hương của Phật Tử Phan Châu Trinh, nhà cách mạng lãnh đạo

phong trào Duy Tân và cũng người một lần đã viết: "thời đại nào Phật Giáo suy yếu là thời đại đó Dân Tộc suy yếu." Quê hương xứ Quảng của thầy cũng là quê hương của nhiều Phật Tử khác đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc.

Chiều xuống, tôi phải ra đi. Thầy cùng đi với tôi ra cửa chùa. Tôi cố nén lòng để thưa thật với thầy, "lần này con vô Sài Gòn để tìm đường vượt biển. Nếu đi được, không biết ngày nào con mới về thăm thầy." Thầy nhìn tôi và nói một cách tự tin "các con như những chiếc lá trong sân chùa, dù có bay đi xa bao nhiêu rồi cũng rơi về cội." Tôi khẻ đáp "con cũng tin như thế." Tôi chấp tay lạy thầy để ra đi. ðó cũng là lần cuối cùng tôi gặp lại người đã mang tôi ra khỏi thôn làng nhỏ bé ở Mã Châu về dạy dổ, đã truyền cho tôi niềm tin vào Chánh Pháp và niềm tự hào về Dân Tộc Việt Nam.

Chúng ta sống trên đất tự do, dể dàng nói về nhau về tinh thần vô úy, dễ dàng nói với nhau về tự do tôn giáo, về dân chủ đa nguyên. Nhưng nếu chúng ta có cơ hội để sống một ngày, chỉ một ngày thôi, trong đời của chư tôn giáo phẩm GHPGVNTN sau 1975, chúng ta sẽ biết đước thế nào là ý nghĩa đích thực của tinh thần Bi Trí Dũng.

Chúng ta sống trên đất tự do, dễ dàng nói với nhau về yêu nước, yêu đạo, dễ dàng nói với nhau về hy sinh, đại nguyện. Nhưng nếu chúng ta có cơ hội sống một đêm, một đêm thôi, trong đau thương trăn trở giữa ngục tối Hàm Tân như HT Thiện Minh, một đêm mang nặng ưu tư đau nhức tại nhà tù Phan ðăng Lưu như HT Quảng ðộ, một đêm trầm mặc suy tư trên mỗi bước thiền hành ở Quảng Ngãi như HT Huyền Quang, chắc chắc chúng ta sẽ hiểu ra rằng Bồ Tát giống tất cả chúng ta nhưng chúng ta không phải dễ dàng là Bồ Tát.

Trong 6 năm ở lại Sài Gòn, tôi đã bao lần tôi lo âu tự hỏi "Dân Tộc sẽ về đâu và Phật Giáo sẽ về đâu?." Nhìn cảnh Hòa Thượng Thích Trí ðộ trong chiếc áo sơ-mi trắng ngắn tay, già nua run rẩy trên khán đài đưa tay hoan hô đả đảo theo đám thiếu nhi quàng khăn đỏ trong buổi "diễu binh mừng chiến thắng" trước dinh ðộc Lập

mấy ngày sau 30-4-1975, tôi cảm thấy đau xót và xấu hổ. Phật Giáo Việt Nam chẳng lẽ từ nay sẽ không còn bao nhiêu cơ hội nữa hay sao?. Một chiếc áo tràng nâu ngài cũng không được mặc đừng nói gì là giáo hội, là tiền đồ đạo pháp. Phật Giáo miền Bắc gần như không còn gì cả. Những ngôi chùa nỗi tiếng như Trấn Quốc, Chùa Thầy, chùa Dâu, chùa Tây Phương, chùa Hương Tích v.v. chỉ là những di tích lịch sử của một thời phong kiến xa xưa còn để lại. Phật giáo Việt Nam, nếu may mắn được nhắc đến chỉ là Phật Giáo của đời Lý, đời Trần, Phật Giáo của Lý Công Uẩn, của Trần Thái Tông, chứ không phải Phật Giáo của thời ngài Tố Liên, ngài Vĩnh Nghiêm, ngài Tuệ Tạng. ðảng và nhà nước Cộng Sản ra công nghiên cứu Phật Giáo Lý Trần chỉ để chứng minh tính thời đại, tính lịch sử đã qua của một món đồ cỗ văn hóa, dấu vết của một thời vang bóng chứ không nhằm khai triển và phát huy các tinh hoa vượt thời gian và vượt không gian của Phật Giáo. Sự thật đúng như thế. Trong suốt mấy mươi năm, Phật giáo miền Bắc không được phép xây thêm được một ngôi chùa nào, không được phép xây dựng được một Phật Học Viện nào, không được phép tổ chức được một Giới ðàn nào và dĩ nhiên cũng không đào tạo được thế hệ tăng ni nào cả. Tiền đồ Phật Giáo nói như lời Hòa Thượng Quảng ðộ trong đại hội đặc biệt 1978: "Tiền đồ Phật Giáo Việt Nam như chiếc thuyền nan trong cơn sóng dữ". Tuy nhiên dù chỉ còn một viên gạch cũng phải giữ, còn một nắm đất cũng phải giữ, như thầy tôi đã dặn "Phải tồn tại", bởi vì:

Mái chùa che chỡ hồn dân tộc Nếp sống bao đời của tổ tiên (Nhớ Chùa, thơ Huyền Không)

Cũng vì "nếp sống bao đời của tổ tiên" đó mà bao nhiêu đệ tử của đức Bổn Sư mang tinh thần của ngài ðại Vô Úy Phu Lâu Na, của Khuông Việt Thiền Sư, đã đứng dậy, cùng vươn vai gánh lấy quê hương và đạo pháp. Các Hòa Thượng Thiện Minh, Hòa Thượng Huyền Quang, Hòa Thượng ðức Nhuận, Hòa Thượng Quảng ðộ, Hòa Thượng Thuyền Ấn, Hòa Thượng Thông Bửu, Thượng Tọa Trí Siêu, Thượng Tọa Tuệ Sĩ, Thượng Tọa Liễu Minh ..đã chọn một con đường hành đạo mà cách đây 2546 năm ðức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đã chọn: đi vào thế gian ô trược của con người, chịu đựng

nỗi khổ đau Sinh Lão Bệnh Tử của kiếp người để rồi gieo rắt Chánh Pháp nhằm giúp con người giải thoát. Chư tôn đức lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 1975, những bậc Như Lai Trưởng Tử của thời đại Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ 20, kế thừa đại nguyện của đức Bổn Sư, đã chọn chịu khổ đau cùng với dân tộc, ở tù chung với dân tộc, để cuối cùng mong cứu lấy dân tộc Việt Nam. Nước và sữa có thể phân ly nhưng ðạo Phật Việt Nam và Dân Tộc Việt Nam không thể nào và cũng không ai có thể làm phân ly được.

Bởi vì ðạo Phật là đạo của Tự Do, Sự Thật và Khai Phóng. Trong suốt 49 năm hành đạo, ðức Phật không rao giảng một hệ thống tín điều tuyệt đối nào. ðạo Phật không bắt tôi phải tin những điều mà tôi không thấy và không biết. ðạo Phật không bắt anh tin vào những điều anh không thấy và không biết. Những lời ngài đã nói với người dân xứ Kàlama đã chứng minh điều đó: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. ðừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi những thích thú trong lý luận, hay bởi những điều dường như có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩa đây là bậc ðạo Sư của chúng ta. Nhưng này các Kàlama, khi nào các ông biết chắc những điều ấy là thiện, là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng. (Tăng Chi I).

Bởi vì ðạo Phật là đạo Nhân Bản và Nhân Chủ, là chiếc ghe giúp cho con người tìm đến tự do vĩnh cửu bằng cách giải thoát khỏi mọi sự ràng buột siêu nhiên và hệ lụy của kiếp người. Thuyết Nghiệp Báo cho chúng ta thấy rằng, hơn ai hết con người là kẻ duy nhất chịu trách nhiệm và cũng là kẻ kế thừa hậu quả các hành động của họ. Hành trình Tri Kiến là nỗ lực của mỗi người, không ai, kể cả ðức Phật, có thể thay đổi được hoàn cảnh của con người. Con người là chủ nhân và cũng là quan tòa cho chính mỗi hành động của chính họ như ðức Phật đã dạy "Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình".

Bởi vì ðạo Phật là đạo của Dân Chủ và Bình ðẳng. Không phải đợi đến Tổng Thống Lincoln mới giải phóng nô lệ hay cách mạng

1789 mới tuyên bố khẩu hiệu "tự do dân chủ và bình đẳng", cách đây trên 2000 năm đức Phật đã từng tuyên bố mọi giai cấp, địa vị quyền thế chỉ là những hàng rào của xã hội, chỉ có giới hạnh mới làm cho mỗi chúng ta khác nhau mà thôi. ðức Phật đề cao tin thần dân chủ đến mức độ khi nhập diệt, ngài đã không chỉ định một ai thay thế ngài đễ lãnh đạo tăng đoàn hay lãnh đạo đạo mà ngài khai sáng. Trái lại, mỗi đệ tử của ngài đương thời, và ngay mỗi chúng ta ngày nay, phải chọn giới luật để tu học và thăng tiến lấy chính mình. Mười nguyên tắc lãnh đạo ðức Phật đã để lại trong Kinh Bổn Sinh, không chỉ đúng trong các quốc vương thời Phật còn tại thế mà đúng ngay cả trong thời đại ngày nay:

Phải cởi mở và không ích kỉ;

Duy trì đạo đức cao;

Sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân để phục vụ cho an sinh của dân chúng;

Phải thành thật và ngay thẳng;

Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái;

Phải sống giản dị để làm gương cho dân chúng;

Phải vượt lên trên mọi hận thù;

Biết áp dụng tinh thần bất bạo động;

Biết nhẫn nại;

Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp.

Bởi vì ðạo Phật là đạo của Tình Thương và Bao Dung. ðức Phật từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc để tìm đạo Giải Thoát. Ngài đi vào cuộc đời bằng chiếc áo vàng và đôi chân đất. ðức Bổn Sư không đi tu chỉ tìm kiếm một đời sống vĩnh hằng, an lạc cho chính mình mà vì tình thương ngài đối với chúng sanh, nhân loại.

Hãy nhìn từ Âu sang Á, nhiều nơi tôn giáo đã trở thành một phương tiện để bành trướng các thế lực chính trị, để đàn áp, thu phục, thôn tính đất đai lãnh thổ, để phục vụ cho các mục đính cá nhân, phe nhóm, thế lực và đế quyền, trong lúc đó, Phật Giáo vẫn thơm ngát như một cánh hoa sen trong vũng bùn lầy của nhân loạị

Hãy nhìn từ ðông sang Tây, thịt xương nhân loại đã chất chồng từ bao nhiêu thế kỷ vì những cuộc tranh chấp chứa đầy lòng sân si, thù hận, trong lúc đó, Phật Giáo, sau gần 2500 năm, vẫn là một giòng suối tình thương chảy róc rách trong tâm hồn khao khát tự do, tình thương và an lạc của con người.

Tháng 6 năm 1981 tôi ra đi. Tôi ra đi khỏi nước mang theo dáng nghiêng nghiêng của Hòa Thượng Thích Thiện Minh trong những ngày còn ở 294 Công Lý, Sài Gòn. Có lần thầy đã tâm sự với chúng tôi "Trước đây, thầy đã từng khóc vì các lớp anh đàn chị của các con." Ý Hòa Thượng muốn nhắc đến phong trào sinh viên Phật Tử đầy nông nổi từ 1971 trở về trước. Những thao thức thời đại và những hào quang danh vọng hảo huyền được Cộng Sản nằm vùng trong báo giới thổi phồng mỗi ngày trên các tờ Tin Sáng, ðiện Tín, ðại Dân Tộc, đã đẩy các "lãnh tụ sinh viên" và hàng ngàn bạn bè của họ vào những chọn lựa sai lầm tai hại. Những năm sau 1975, Hòa Thượng Thiện Minh bị chế độ mới đuổi ra khỏi Tổng Vụ Thanh Niên, thầy đã phải chống gậy từ chùa này sang chùa khác. Hòa Thượng Thiện Minh, Cố Vấn Hội ðồng Viện Hóa ðạo GHPGVNTN bị bắt vào ngày 13 tháng 4 năm 1978. Sáu tháng sau, nhà nước thông báo cho HT Trí Thủ ra trại tù Hàm Tân, Phan Thiết để nhận xác HT Thiện Minh. Hòa Thượng Thiện Minh, nhà kiến trúc của các quan điểm về tương lai dân tộc của GHPGVNTN thời cận đại không còn nữa, nhưng trong những buổi chiều vắng lặng ngồi nhớ lại thời sinh viên, tôi như vẫn còn nghe:

Bước chân thầy đi khập khểnh những buổi chiều Dọc hai hành lang Trung Tâm Quảng ðức Vết thương nặng dù nhiều năm đau nhức Vẫn cố nghiêng người mang ðạo Pháp lên vai

Thầy còn đây với biển rộng sông dài ... (Hoa ðạo)

Tôi ra đi mang theo hình ảnh của Hòa Thượng Huyền Quang, Viện Trưởng Viện Hóa ðạo GHPGVNTN, khi thầy bị chế độ đem lên bêu xấu và nhục mạ trên đài truyền hình Sài Gòn đầu năm 1979. Thầy ngồi trên chiếc giường tre nhỏ trong nhà tù Cộng Sản, trong lúc người xướng ngôn kể tội Hòa Thượng nào là "chống phá Cách Mạng", nào là "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân" và hàng trăm "tội ác" khác. ðó là lần đầu tiên tôi biết đến thế danh của thầy là Lê ðình Nhàn vì Công An gọi thầy bằng thế danh trước khi gọi pháp hiệu. Thầy ốm và già đi nhiều dù chỉ mới hai năm kể từ khi chúng tôi gặp thầy lần cuối. Hòa Thượng Huyền Quang không tỏ ra một chút lo âu hay sợ sệt. Thầy nhìn thẳng vào ống kính truyền hình và mỉm cười như nhắn nhủ với nhiều triệu đồng bào Phật Tử Việt Nam "Tôi vẫn bình an, hãy giữ lấy niềm tin vào Chánh Pháp." Trong những năm tháng lưu đày ở Quảng Ngãi, thầy vẫn tiếp tục lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong âm thầm và nhẫn nhục.

Tôi ra đi mang theo hình ảnh hiền hòa của Hòa Thượng Tổng Thư Ký Thích Quảng ðộ. Trước ngày thầy bị bắt, mỗi tuần hai buổi tôi vẫn gặp Hòa Thượng đi bộ từ chùa Giác Minh trên đường Lý Thái Tổ xuống ngã sáu Trần Quốc Toản, để từ đó đón xe Lam qua Thanh Minh Thiền Viện giảng thiền học. Dáng thầy thanh cao, nghiêm trang, vầng tráng rộng, miệng thầy luôn mỉm cười. Phải chăng ngay cả trong lúc mang nặng ưu tư về tiền đồ dân tộc và đạo pháp, tâm Hòa Thượng Quảng ðộ vẫn an nhiên, tự tại. Hành trình đầy bi tráng của thầy trong suốt 10 năm bị bắt giam tra tấn và lưu đày cùng với bà mẹ già trên 80 tuổi ở Thái Bình đã để lại một niềm thương yêu và kính phục sâu xa không những trong lòng nhiều triệu Phật Giáo đồ Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cả trong cộng đồng nhân loại. ðến nay đã có 209 Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu và Trí Thứ khắp nơi trên thế giới đề nghị Ủy Ban Giải Nobel trao thầy giải Nobel Hòa Bình. Một bài thơ cảm động đầy tâm đạo và tâm huyết thầy viết ở Thái Bình trong mười năm lưu đày được gởi ra hải ngoại. Bài thơ không có tựa đề. Tôi chuyển

bài thơ nầy lên Internet ngày 22 tháng 8 năm 1992 và mạo muội đặt tên là Chiều ðông.

Nghe lòng xa vắng những chiều đông Nhìn nước mênh mông khắp mặt đồng Bát ngát núi xa mờ bóng cọp Thăm thẳm trời cao bặt cánh hồng Bao độ cà tan cà nở nụ Mấy mùa luá rụng luá đơm bông Năm tháng mõi mòn đầu đã bạc Còn chút lòng son gởi núi sông (Thơ HT Thích Quảng ðộ)

Xuân Di Lặc lại sắp sửa trở về. Xuân đến nhắc chúng ta về một bài kệ nỗi tiếng của ngài Mãn Giác Thiền Sư đời Lý:

Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

Xuân đi, trăm hoa rãi Xuân đến,trăm hoa khai Xem chuyện đời trước mắt Tóc trên đầu đã phai Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Tối qua, sân trước một cành mai. (Thi sĩ Võ ðình dịch)

Chu kỳ Sinh Trụ Dị Diệt là một chu kỳ luân hồi diễn ra trong từng sát na của vạn vật và đời sống. Tuy nhiên nếu chúng ta định tâm thanh tịnh làm chủ lấy chính mình thì dù "tóc trên đầu đã phai" của chúng ta hay " Xuân đi, trăm hoa rãi" của thiên nhiên vạn vật cũng chẳng thể nào làm thay đổi cái nhìn về thế giới của chúng ta. Quan điểm "Tâm Bình Thế Giới Bình" của Phật Giáo là vậy.

Trong một ý nghĩa khác, trước cảnh vật đổi thay, xuân đến và xuân đi, trăng tròn rồi trăng khuyết, tóc xanh rồi tóc bạc, thay vì chúng ta ngồi thở ngắn than dài cho số phận ngắn ngủi của kiếp nhân sinh như thế, thì trái lại, nên hãy vươn lên, bước ra khỏi vòng lo âu số phận để hóa giải nghiệp báo cho chính mình, để đóng góp vào sự an vui của đồng bào, nhân loại, chúng sinh.

Và cũng từ ý nghĩa đó, Phật Giáo Việt Nam trong 26 năm qua đã có những Cành Mai ðạo tuyệt vời: Cành Mai Viên Lạc Phạm Gia Bình, Cành Mai Hạnh Minh Hồ Tấn Anh, Cành Mai Huyền Quang, Cành Mai Quảng ðộ, Cành Mai ðức Nhuận, Cành Mai Không Tánh, Cành Mai Long Trí, Cành Mai Thông Bửu, Cành Mai Tuệ Sĩ, Cành Mai Trí Siêu và .. những Cành Mai Âm Thầm, Cành Mai Nhẫn Nhục, Cành Mai Hóa Thân khác.

Ngày mai đây trên nước Mỹ, khi các em trong các Gia ðình Phật Tử lớn lên, các em và các thế hệ sau các em, cũng sẽ là những Cành Mai. Các em có thể không biết những Cành Mai Huyền Quang, Cành Mai Quảng ðộ, Cành Mai Long Trí là ai, các em có thể không còn nghe ai nhắc về một chặng đường bi tráng mà thầy tổ các em đã đi qua, các em có thể không còn nói được, viết được tiếng Việt Nam để đọc bài tôi đang viết hôm nay. ðiều đó không quan trọng bởi vì tôi tin rằng trong Tâm các em, trong dòng máu Việt của các em đã có sẳn một cành mai mà cách đây gần một ngàn năm, Thiền Sư Mãn Giác đã tìm thấy trước sân ngài: Cành Mai Chánh Pháp

Mai Vàng, Mùa Xuân và Việt Nam

Lý Lạc Long

Mai, Lan, Cúc, Trúc là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, ðông. Mai vàng, một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp Xuân về, với dân Việt, hoa mai đã trở thành sứ giả biểu tượng cho mùa xuân của vùng đất phương Nam từ nghìn năm trước. Trong văn chương, hoa mai đã có mặt trong thơ của thiền sư Không Lộ, thiền sư Mãn Giác từ thời nhà Lý, thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần, trong thơ của Nguyễn Trãi thời nhà Lê, trong những tác phẩm nổi tiếng như ðoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, trong Lục Vân Tiên của Nguyễn đình Chiểu ... và rất nhiều những vần thơ, những áng văn của các văn thi nhân khác từ cổ chí kim viết để ca tụng hoa mai. Trong số này, có hai câu thơ, tương truyền là của Chu Thần Cao Bá Quát, mà khi đọc sẽ thấy ngay địa vị của hoa mai trong tâm tưởng của thi nhân Việt. “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. (Mười năm chu du tìm gươm cổ Một đời chỉ cúi lạy hoa mai.) Thiền sư Huyền Quang, ông tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã "phong" cho hoa mai ngang hàng "ngự sử". "Ngự sử mai hai hàng chầu ráp

Trượng phu tùng mây rặng phò quang" Mai cũng có mặt trong hai câu thơ khắc trên chiếc dĩa cổ cuả triều Nguyễn, trưng bày ở Huế mà tác giả theo tương truyền là của Nguyễn Du. "Nghêu ngao vui thú yên hà Mai là bạn cũ, hạc là người quen" Nhưng hiện nay tác giả của hai câu thơ trên là đề tài đang được tranh luận . Giữa Nguyễn Du, ðịnh Viễn Quận Vương và ðông Các ðại Học Sĩ ðinh Phiên, ai là tác giả vẫn chưa có kết luận.( Ðịnh Viễn Quận Vương là hoàng tử thứ 6 của vua Gia Long. Ðông Các đại học sĩ Ðinh Phiên là người đã phụng mệnh vua Gia Long làm phó sứ cho Cần Chánh đại học sĩ Nguyễn Xuân Tình sang Thanh năm 1819). Xuân đến- xuân đi, những ngày Xuân trôi qua, nhìn những cánh hoa mai vàng rơi lìa khỏi thân cành như nhắc nhở dòng thời gian đến-đi, hoa nở- hoa tàn, tóc xanh- tóc bạc . Vòng đời luân chuyển, mọi việc trên đời đều vô thường. Vô thường của thời gian, vô thường của cỏ cây hoa lá, vô thường của kiếp người. Một sự chu chuyển tất yếu của thiên nhiên và sinh mệnh. Ai cũng đến đi, ai cũng trẻ già, ai cũng sống chết. Ngắn ngủi một kiếp người, đã là thế nhân làm sao thoát khỏi vòng sinh tử. Phàm nhân tục tử, như hầu hết chúng ta, chắc ai cũng có những cảm giác băn khoăn, nuối tiếc, lo lắng, sợ hãi... khi nghĩ đến thời điểm phải rời xa trại tạm trú trần gian này. Làm sao có thể an nhiên, tự tại, thanh thản, sẳn sàng đón nhận sanh tử vô thường như các bậc giác ngộ ? Dù có chờ hay chẳng đợi, thì con người vẫn phải phụ thuộc theo sự vận hành của đất trời, như một phần tử của bộ máy tạo hóa xoay chuyển và biến hóa mãi không ngừng. Dù vui hay buồn thì Xuân cũng đến và đi . Như tâm sự của Chế Lan Viên khi xuân về : " Tôi có chờ đâu có đợi đâu ðem chi xuân lại gợi thêm sầu Với tôi tất cả là vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau…" Mỗi độ xuân về, có lẽ bài kệ thi "Cáo Tật Thị Chúng " của thiền sư Mãn Giác được nhắc đến nhiều nhất vì cái hay, cái đẹp của tứ thơ và phong thái của một bậc giác ngộ đối diện với Sinh, Trụ, Dị và Diệt của vạn vật và con người . Cáo Tật Thị Chúng "Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tùng đầu thượng lai Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai." (Xuân đi, trăm hoa rụng Xuân đến, trăm hoa khai ðời thoáng ngang qua mắt Tóc trên đầu bạc phai Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết ðêm qua, sân trước một nhành mai.) Xuân đến trăm hoa khoe sắc thắm, xuân đi qua trăm hoa rơi rụng. Xuân đến và đi, với thiền sư, thanh thản, nhẹ nhàng, bình yên và an lạc . Với thời gian, tóc xanh mới đó đã thành bạc thì cũng chẳng có gì vướng bận tâm hồn. Những gì đã qua không nuối tiếc, những gì chưa đến không mong cầu. Bình thản, tự tại và an lạc sống với hiện hữu, trước những cảnh biến đổi của thời tiết thiên nhiên, trước những đổi thay dâu bể của cuộc đời. Nhưng đây là cách ứng xử của một bậc chân tu, đã giác ngộ lẽ sinh tử vô thường của cuộc sống. Còn thế nhân như chúng ta, tâm tư đầy ắp bóng dáng khổ lụy của kiếp người. Lúc được thì vui, lúc mất thì buồn. Khi gần gũi thì hạnh phúc, khi ly biệt thì đau khổ. ðược khen thì tươi tắn, bị chê thì ủ rũ. Như ý thì hân hoan, trái ý thì cáu giận ... Tóm lại, chúng ta là phàm nhân, rất khó kềm chế lòng ham muốn của con người nên luôn bị chi phối bởi những cảm giác thương

yêu, ghen ghét, lo âu, sợ hãi, buồn sầu, vui vẻ, khổ đau, hạnh phúc ... và làm sao không nao núng tâm thần trước những biến đổi lớn lao của cuộc sống. Nhưng đã sinh ra làm kiếp con người, dù có "Trải qua những (một) cuộc biển dâu; Những điều trông thấy mà đau đớn lòng", dù không đủ khả năng giác ngộ mọi việc như một bậc chân tu, dù phải chân ngắn bước dài, lên cao xuống thấp, thăng trầm theo buồn vui nhân thế thì chúng ta cũng phải sống, và sống cho trọn một kiếp trăm năm. Dù vẫn biết bài thi kệ "Cáo tật thị chúng", thiền sư Mãn Giác có ý nhắn dạy thế nhân về qui luật vận hành tất yếu của thiên nhiên và cái vòng tử sinh luân hồi của kiếp người. Nhưng mùa xuân đã qua mà thiền sư vẫn trông thấy một nhành mai ở sân trước. "Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận; ðình tiền tạc dạ nhất chi mai." Có chăng một cành mai nở muộn lúc xuân tàn? Hay thiền sư đã nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân nơi cành mai tàn có thực trước sân chùa? Theo qui luật thiên nhiên thì cành mai chắc chắn là không có hoa , nhưng sư Mãn Giác đã nhận ra thông điệp của mùa xuân kế tiếp, của thế hệ kế tiếp nơi cành mai không hoa ấy mà nói thế để truyền dạy cho thế nhân thông điệp: Mùa Xuân trường cửu trong vạn vật. Ước mong chúng ta có thể nhìn thấy sự trường cửu của mùa Xuân trong mọi việc đã qua, đang xảy ra và sắp đến. Mùa Xuân là mùa cây lá đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa khoe sắc thắm... Mùa Xuân là mùa của sự sống, là biểu tượng cho sự cát tường của đời sống. Hoa mai đã đươc tao nhân, mặc khách ưa chuộng bởi cái vẻ đẹp thanh khiết cao quý, hương hoa nhẹ nhàng thanh tịnh . Trời càng lạnh, hoa càng tỏa hương thơm hơn nên hương của hoa mai còn được gọi là "lãnh hương" (hương lạnh). Màu vàng của hoa mai là màu tượng trưng cho sự vinh hiển cao sang, màu tượng trưng và dành riêng cho vua chúa thời xưa. Theo thuyết ngũ hành, thì màu vàng thuộc hành Thổ, nằm ở vị trí Trung Ương của bốn hướng ðông, Tây, Nam, Bắc. Màu vàng cũng là màu biểu tượng cho nòi giống Việt. Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên khi dân Việt phuơng Nam chọn mai vàng để đón Xuân, để đón cái Tết Nguyên đán thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc . Nhiều quốc gia trên thế giới có một tập quán rất hay, họ gọi tên quốc gia bằng tên của một loài hoa như : Hòa Lan là xứ sở của

hoa tulip, Bungari là đất nước hoa hồng, Nhật Bản là đất nước hoa anh đào, lá phong (maple leaf) là biểu tượng của Canada ...v.v Cũng là thảo mộc như bao loài thảo mộc khác nhưng nhưng những hoa, lá đó là biểu tượng của một quốc gia, mang trên mình sứ mệnh của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả một dân tộc. Cũng với định ý này, người Nhật đã vinh danh hoa anh đào là quốc hoa (kuni no hana) của Nhật Bản. ChoViệt Nam, nếu theo tập quán có ý nghĩa, hay và đẹp này thì hoa mai có thừa đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Mặc dù là vậy, ở Việt Nam, hoa mai vẫn chưa được "vinh danh" xứng đáng với tầm vóc và phẩm chất của một loài hoa cao quý. Có lẽ, mọi người dân Việt nên suy nghĩ "dùm" cho hoa Mai . Có thể nói, đây là suy nghĩ cho cả dân tộc và đất nước VN luôn chứ không phải cho riêng hoa mai. Phần của hoa mai thì chắc cũng đã hài lòng với những tước hiệu như "sứ giả của mùa xuân", " ngự sử", "loài hoa cao quý", "bạn song hành với thi nhân" ... mà dân Việt đã dành tặng cho hoa mai qua bao nhiêu thế hệ. Mỗi độ xuân về, ngoài trời tuyết phủ trắng cảnh vật. ðã bao nhiêu cái Tết chẳng có mùi vị Xuân trôi qua im lặng đến lạnh lùng như khí hậu lạnh lẽo của nơi này. Giao thừa đến không hay, giao thừa đi chẳng biết. ðôi khi có dịp cùng vài người bạn thân cạn vài ly rượu mừng Xuân, cũng thấy ấm áp, khuây khỏa vơi bớt nỗi buồn ngày Xuân xứ lạ đôi chút. Cùng nhau ôn lại quá khứ, nhắc lại những kỷ niệm đã qua. Chợt nhận ra, đã có quá nhiều thay đổi, khác biệt do cuộc sống mang lại . Những giấc mơ đầy nhiệt huyết thuở nào dường như đã bị chôn vùi sâu dưới lớp bụi thời gian. Nhạt nhoà và mất dần dấu tích theo năm tháng trôi qua. Buồn lại kéo về tràn ngập, tát không vơi. ðón Xuân nơi xứ lạ Cành mai giả, màu vàng Ngoài trời tuyết phủ trắng Những giấc mơ muộn màng Ngày Xuân đem rao bán Tiếng tơ lòng ai mua ? Nỗi lòng người xa xứ Chờ cơn gió giao mùa.

Thêm một mùa Xuân đang chờ ngoài ngõ, nỗi nhớ quê hương càng thêm da diếc. Tự nhủ lòng : Thôi đừng buồn nữa tôi ơi! Quê hương còn đó, bè bạn còn đây. Rồi sẽ có một ngày đất nở hoa, đón xuân về ngắm huỳnh mai nở hoa sân trước. Cầu nguyện cho mùa Xuân dân tộc và Việt Nam trường cửu trong lòng người dân Việt ly hương. Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Xuân Miên Viễn Và Thi Nhân

Hạt cát Phú Xuân

Nhân đọc bài « Xuân Miên Viễn » của HT Thích Thanh Từ, xin viết đôi giòng gọi là mừng mùa Xuân hy hữu của văn thơ, của triết lý nhà Phật trên hai ngàn năm soi sáng … Xin mạn phép HT Thích Thanh Từ [1] góp lại 4 đóa mai đẹp : 1. Thiền sư Chân không :

Xuân đến, Xuân đi ngỡ xuân hết. Hoa nở, hoa tàn chỉ là Xuân.

2. Thiền sư Ni ở Trung Quốc đời Tống :

Tận nhật tầm Xuân bất kiến Xuân, Mang hài đạp phá đỉnh đầu vân

Qui lai khước quá mai hoa hạ Xuân tại nhi đầu dĩ thập phân.

3. Thiền sư Mãn Giác đời Lý trong bài « Cáo tật thị chúng »:

Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa kha Sự trục nhãn tiền quá Lão tùng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Ðình tiền tạc dạ nhứt chi mai.

4. Thiền sư Trần Huyền Quang đời Trần,« Xuân nhựt tức sự «

Nhị bát giai nhân thích tú trì Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly Khả liên vô hạn thương xuân ý Tận tại đình châm bất ngữ thì.

5. Bốn bông mai rưc rỡ trên cành mai nhà Phật từ hơn nghìn năm qua bên bờ Thái Bình Dương. Rồi đêm qua, chằng ai ngờ , lại xuất hiện thêm môt đóa mai vàng mong manh của thi nhân Hàn Mạc Tử [2] :

ðiềm ngọc ấm như ngà, Thơ có tuổi và chiêm bao có tích, Và tâm tư có một điều rất thích, Không nói ra vì sợ bớt say-sưa - Chàng ơi ! Chàng ơi ! sự lạ đêm qua ! Mùa Xuân tới mà không ai biết cả …

6. Rồi đến lược ‘trung niên thi sĩ ‘ Bùi Gíáng « Chào Nguyên Xuân « [3]

Thưa rằng nói nữa là sai Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào

7. Bông mai gần nhất của Trịnh công Sơn, trong ca khúc «Hoa vàng mấy độ », mà ‘nào có ai hay’, tình cờ bên phố, một ngày hè …

Em đến nơi này Hoa vàng rực rỡ Một thoáng hương bay Bên trời phố Hạ Nào có ai hay …

ðiểm chung của 7 trích đoạn thơ nhạc trên đây chính là mùa Xuân, biểu tượng bằng cành mai trời đất dành cho chúng sinh. Hơn một ngàn năm xa cách, từ thiền sư Ni đời Tống Trung Quốc đến thi nhân Hàn Mạc Tử giữa thế kỷ 20, đến TCS giao thời thế kỷ 20-21. Họ cùng đề cập đến một mùa Xuân nguyên vẹn « tại nhi đầu », trước «đình tiền », « Xuân đến Xuân đi ngỡ Xuân hết », nơi «đình châm », cũng chính là « sự lạ hôm qua mà không ai biết cả ». Hoặc là « mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào », hoặc Xuân đã về «bên trời phố hạ nào có ai hay … »

Phải chăng chính là Xuân Miên Viễn mà các tác giả chân thiền, qua không gian thời gian, bằng những vần thơ điệu nhạc nhẹ nhàng đã nối vòng tay chuyển về cho chúng ta phúc âm tuyệt vời hôm nay ?

Gia Phong chư Phật và mùa Xuân

Trần Quê Hương

I.

ðời Trần, Trần Nhân Tông (1258-1308), một nhà vua đi tu đắc đạo, trở thành vị Thiền sư sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm.

Khi còn làm vua, Trần Nhân Tông đã viết bài Thơ Cảnh Xuân:

"Liểu rủ hoa hồng chim hát ca Mây chiều in bóng trước hiên nhà Khách vào, thế sự không cần hỏi Chỉ tựa lan can ngắm cỏ hoa". (Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì Họa đường thiền ảnh mộ vân phi Khách lai bất vấn nhân gian sự Chỉ bạng lan can khán thúy vi)

Lời thơ cho chúng ta thấy dấu ấn "Gia phong của chư Phật" tiềm ẩn trong bài "Cảnh Xuân" rất đậm nét, và chính dấu ấn này đã khơi lại mạch đạo "tầm tứ" làm tiền đề nối nhịp cho nhà vua Trần Nhân Tông hội nhập Phật cảnh chân tâm.

Sau khi đi tu trở thành một vị Thiền sư, Trần Nhân Tông tiếp tục soi sáng:

"Thân như hơi thở qua buồng phổi Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa Chim khuyên kêu rã bao ngày tháng ðâu phải mùa Xuân dễ luống qua?" (Thân hư hô hấp tỵ trung khí Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân ðỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú Bất nhị tầm thường không quá Xuân).

ðây chính là một thắi độ tỉnh giác trước vô thường, biết quý trọng và làm chủ tâm thức mình trước sự chuyển dịch của thời gian.

Câu chuyện đối đáp truyền trao ý pháp của Thiền sư với các học nhơn sau đây cho chúng ta thấy rõ hơn. Một hôm có một Thiền sinh đến tham vấn:

-- Bạch Hòa Thượng, gia phong của ðức Phật quá khứ thì thế nào?

Thiền sư đáp: "Vườn rừng vắng mặt người chăm sóc Lý trắng đào hồng tự nở hoa". Hễ còn phàm phu thì trú trong vòng tương đối -- có đến có đi,

có thị có phi, có hôm qua, có ngày nay. Lý đào dù ở trong rừng vắng, dù không người chăm sóc, nhưng đến thời tiết nhơn duyên hoa tự nở. Cũng vậy, một khi đạt đến đỉnh cao của tâm thức, an trú trong đạo quả rồi thì dù ở đâu, đi đâu, động hay tịnh, hôm qua hay ngày nay -- Phật pháp muôn đời vẫn là Phật pháp ; ðức Phật Di ðà mãi mãi vẫn là ðức Phật Di ðà.

Thiền sinh lại hỏi tiếp: -- Gia phong của các ðức Phật hiện tại thì thế nào ? Thiền sư đáp: "Nhạn sớm lạc trên hồ nước bạc Gió Xuân say giữa khóm đào hồng". Tinh thần "Ngã bất nhập địa ngục, thùy nhập địa ngục" hay tư

tưởng "Phật pháp bất ly thế gian giác" đã được Thiền sư thi vị hóa một cách sinh động tuyệt vời. Phật pháp thường khi không hề bị ngăn ngại, mà trái lại còn chủ động hội nhập một cách năng động để tiếp chúng độ sanh. "Lạc" hay "say" đây chính là triển khai tính "cơ, lý", là truyền thống, nề nếp của ba đời chư Phật mà ðức Phật Thích Ca là một hiện thân.

Thiền sinh lại hỏi tiếp: -- Còn gia phong của ðức Phật vị lai ? Thiền sư đáp: "Bãi biển đợi triều, mây nhớ nguyệt Thôn chài nghe sáo, khách trông nhà". Những động từ: đợi, nhớ, nghe, trông... là những ngôn ngữ kết

nối sự quay về hội nhập giữa các chủ thể - sắc: bãi biển, thôn chài, áng mây, ngôi nhà... với các khách thể - trần: nước triều, ánh trăng. tiếng sáo và khách lữ hành. Bãi biển sẽ đẹp, sống động khi có nước triều lên; thôn chài sẽ mơ màng thơ mộng biết bao khi có tiếng sáo nhẹ vang; áng mây trời càng thêm lung linh khi có ánh trăng rằm ẩn chiếu và ngôi nhà trở nên ấm áp khi

người khách (chủ) lữ hành đã trở về. Vì thế, chúng ta dễ dàng nhận ra nơi ðức Phật Di Lặc là một hiện tượng của ý Pháp"... luôn luôn du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người".

Thiền sinh lại hỏi: -- Còn gia phong của Hòa Thượng thì sao ? Thiền sư đáp: "Áo rách đùm mây đun cháo sớm Bình xưa đựng nguyệt nấu trà khuya". Ôi! Lời thơ uyên áo, thiền vị, một ý nghĩa đẹp tuyệt vời làm

sao! Hình ảnh một vị đạo sư nương chiếc thân tứ đại giả hợp, vui sống đời sống thiểu dục tri túc (áo rách đùm mây) để hằng ngày tinh tấn hành trì đạo nghiệp (đun cháo sớm) trưỡng dưỡng tâm chơn. Và cũng chính nơi xác thân xa xưa cũ kỹ này (bình xưa đựng nguyệt) mà con người luôn biết gìn giữ một tâm thức trí tuệ trong sáng như ánh trăng hiền diệu để mỗi ngày (nấu trà khuya) tích lũy tư lương.

ðến đây, học nhơn lại hỏi: -- Ngày xưa, khi Linh Vân thấy hoa đào nở mà chứng ngộ thì

thế nào ? Thiền sư đáp: "Hoa tàn, hoa nở theo thời tiết ðông quân bị hỏi cũng không lời".

Ngày xưa, Thiền sư núi Linh Vân, mùa Xuân đến, thấy hoa đào nở mà chứng ngộ Phật pháp tức là sự tương ứng tâm cảnh của người đắc nhập. Nay ta chưa đủ năng lực thời duyên thì dù có nhìn ngàn cánh hoa nở, họa chăng cũng chỉ biết vui đón mừng Xuân. Vì thế dù có hỏi các vị ðông quân (ý chỉ mặt trời hay mùa Xuân) thì cũng không có ai đáp lời.

II.

Thân phận con người là một hệ quả tất yếu trong đời sống hiện hữu.

Giác ngộ làm chủ cuộc sống của chính mình, của một đời người không phải là điều dễ làm. Từ khi mới lọt lòng Mẹ cho đến khi trưởng thành, già yếu và mất đi... mỗi đời người chúng ta trải qua không biết bao nỗi thăng trầm, khổ vui, được mất. Thiền sư Trần Nhân Tông thương tưởng chúng sanh, thể hiện lòng đại từ đại bi vạch lối chỉ đường:

"Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc - không Xuân sang hoa bướm rộn tơ lòng Chúa Xuân nay đã từng quen mặt Thiền tọa ngồi yên, ngắm rụng hồng". (Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung Như kim khám phá ðông Hoàng diện Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng).

Nếu mỗi người chúng ta không tỉnh giác, tự mình không dừng chân thì cuộc luân hồi dài khó nổi thoát ra.

ðến cuối đời, Thiền sư Trần Nhân Tông vẫn không quên để lại một bài thơ -- vừa cảnh tỉnh, nhắc nhở môn sinh hậu bối mà cũng để khẳng định giềng mối gia phong của chư Phật:

"Số đời một hơi thở Tình đời hai biển trăng Cung ma đâu xá kể Nước Phật một trời Xuân". (Thế số nhất tức mặc Thời tình lưỡng hải ngân Ma cung hồn quản thậm Phật quốc bất thắng Xuân)

Ôi! Gia phong của chư Phật -- một mùa Xuân miên viễn trong lòng.

______

Tham khảo và sử dụng các tư liệu: Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang Thiền Sư Việt Nam của Thích Thanh Từ Thơ văn Lý Trần của Viện Văn học

Mùa Xuân và Thơ tình Bùi Giáng

Hà Quảng

Thưa rằng ly biệt mai sau Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân…

Bùi Giáng, một thi sĩ đặc biệt của nền thơ đa dạng Việt Nam hiện đại.

Ngưòi ta đã nói nhiều về ông và chắc theo thời gian về ông còn nói nhiều nữa! Bùi thi sĩ sinh ngày 17-12-1926 tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, mất năm 1998 tại Sài Gòn. Ông là con trai thứ của ông Bùi Thuyên và bà vợ lẻ Huỳnh Thị Kiềng. Tốt nghiệp trung học khi tuổi vừa đôi mươi , học chưa xong ðại học Văn khoa, ông bỏ dở, đeo đuổi sự nghiệp văn chương. Văn nghiệp của ông gồm nhiều thể loại: Lý luận - phê bình , biên khảo triết học, dịch thuật văn chương, sáng tác Thơ, Văn …Lĩnh vực được người đọc nhắc đên nhiều chính là Thi ca, có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu : Mưa nguồn, Rong rêu, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột, Mười hai con mắt, Mùa màng tháng tư, Bài ca quần đảo,Màu hoa trên ngàn, ðêm ngắm trăng, Thơ vô tận vui v.v. Bằng một phong cách nghệ thuật rất riêng, ông đã tạo nên một cõi mông lung huyền ảo về quê hương ,đất trời , về cỏ hoa muôn vật, về nhân sinh, về ðạo… Tất cả như lãng đãng sương mù ,như hoa đăng, ảo ảnh.Thế giới trong thơ ông như trong một kính vạn hoa. Ông là một bậc thầy về ngôn ngữ Việt và thể tài thơ lục bát. Thơ ông có nhiều câu, nhiều bài rất thuần khiết nhưng cũng có nhiều bài lời thơ mơ hồ phiêu lãng chập chờn giữa đôi bờ thực và mộng, nối cõi nhân sinh trầm luân thực tại và thế giới ảo huyền siêu thoát . Nó là những cơn mơ giữa đời thực, đôi khi như là một “ru - bích” của trò chơi tâm linh . Trong cái biển thơ mông lung huyền ảo đó ta bắt gặp một dải thơ nói về tình yêu khá chân tình và giản dị, tuy cũng không thoát khỏi cái sương khói mơ màng chung của thơ ông . Thơ tình Bùi Giáng tỏa thành hai nhánh, một về cõi thực, một về cõi mơ và đều gắn với một không gian, một xứ quê mà ông gọi

là “cố quận”. ðó là một quê thực xứ Quảng của ông nhưng cũng là một xứ mơ, một quê xưa , nước cũ đầy khái quát mơ hồ .

…ðất hoa khóc vĩnh biệt người Ngàn cây cố quận đôi lời sương thu …

Dọc theo miền Trung cằn khô chúng ta tới đất Quảng, ngược dòng Thu Bồn đến sông Vu Gia, rồi ngược mãi lên sông Côn, sông Bung, qua Hòn Kẽm, ðá Dừng…nghe bâng khuâng những câu ca dao xa xót một thời xứ sở phân tranh

“Ngó lên Hòn Kẽm , ðá Dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi !”.

Cuộc hành trình tiếp tục , ta sẽ như thấy mình trôi trong cổ tích: một sông nước mênh mông, những làng thôn trải dài qua những nương dâu xanh ngát, kẽo kẹt xa quay tơ tằm vàng óng, sẽ hiểu thêm một phương diện thực tế của hai từ “cố quận”. ðó chính là nơi chôn rau cắt rốn, nơi chứa đầy những kỷ niêm một thời của ông. Nhớ người từ những buồn vương, xa người từ thuở đoạn trường diễn ra? Cuộc thế thăng trầm buồn vui hư ảo, khi muốn trở về thưc tại,về với những an ủi, về với cái thuở ban đầu đầy ấp iu nồng đượm, con đường ngắn nhất và dễ tìm về nhất là cố quận – quê xưa! Khi nói về những mối tình, về những người con gái đi qua đời mình, Bùi thi sĩ đều mơ màng và nâng niu. Kỷ niệm sau đây về một người cũ nơi miền quê xa thấm đượm một tình cảm se sắt , trìu mến:

Bây giờ em đứng nơi đâu Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao? Gắng thu xếp gấp rồi vào Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?

Trong này thiên hạ rất đông Ăn mặc thật đẹp nhưng trong không mặn mà bằng em..

Nhà thơ buồn nhớ không biết em giờ ở đâu và “ngọn cỏ trong mình mẩy” của em “sầu ra sao?”. Câu thơ đầy ẩn ý, hư hư thực thực, trần thế mà phiêu bồng, rồi “Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?" Tại sao là “tấm” mà không là “cái”, là “chiếc” hay chỉn chu hơn là ”manh” (tấm áo, manh quần). Chữ “tấm“ ở đây rất dân giã thể hiện được cái nghèo của đối tượng nhưng phủ đầy sự thân thương của tác giả .Chao, thi sĩ tuy mơ màng nhưng câu hỏi ở đây, rất thực, rất chân tình, có cái gì như bẽ bàng như trách móc mà cũng đầy thương yêu! “Trong này thiên hạ rất đông” - người thành phố mà, ăn mặc cũng thật đẹp nhưng tác giả không thấy “mặn mà” như em nơi thôn dã ( chắc em ở miệt ngoài chân quê). Con người bao năm mơ màng nơi phố phường nhưng tận sâu trong lòng vẫn da diêt một thâm tình quê kiểng, nâng niu vẻ đẹp mặn mà nguyên sơ .Và với một tình cảm như vậy nên từ khi cất bước “khắp bến giang hà” thì ở đâu cũng không nghĩ đến ai khác ngoài em thân thuộc, ngọc ngà “Nơi nào cũng thấy ngọc ngà đèo truông”. Câu thơ gợi cả hai trường nghĩa đen và nghĩa bóng ! Còn thì nhớ nhung , mất thì xa xót, cái tình người của Bùi cũng rất nhân thế . Người bạn tấm mắn của Bùi Giáng qua đời đã ngót nửa thế kỷ, có lẽ cảnh chia biệt đó đã tạo cho ông những xót xa buồn khổ, để rồi từ đó ông thổ lộ một cách vô cùng sâu sắc trên những trang thơ, dựng nên bóng dáng ấm áp của những người em, người vợ . Một nỗi nhớ nhung xa xót khôn nguôi, đôi tình nhân lỗi hẹn:

Em ở lại với đời ta em nhé Em đừng đi cho ta nắm tay em ..

Bên cạnh những người em rất thực thì thơ Bùi cũng thường nói nhiều đến những người em rất mộng - nguồn tạo sinh muôn màu

trong cuộc thế ! Những vần thơ xinh tươi diễm ảo đầy sức khêu gợi nói về cây cỏ , mặt trời , chim chóc …tất cả đều trào dâng sức sống , đều từ em, nhờ em mà sinh sôi.

…Một hôm nào em mở cửa đầu khe Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ …

Em là cái chân dung toàn thiện toàn mỹ của người nữ trong cuộc đời : em ở khắp nẻo đường, em là mây gió, là cây lá, là sông hồ..Tác giả nâng hình ảnh em lên tầm hoàn vũ :

…Em là em anh đợi khắp nẻo đường Em có nụ cười buồn mây mọng Em có làn mi khép lá cây rung Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng !

Những câu thơ vừa thực vừa ảo. Những câu thơ nói về một người con gái đẹp đẽ, thánh thiện nhưng là của một tình yêu chiêm bao, một tình yêu khoáng dật vô thường !

Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt … Ồ thưa em ta thấy mộng không thường .

Cái chất Bùi Giáng huyễn hoặc thể hiện ở cái “mộng không thường” này. Em như sương khói, như suối nguồn, em đến làm dịu mát tâm hồn thi sĩ nhưng em không hiện hữu trong đời thực, dẫu “ôm em trong vòng tay” thì “ em vẫn trôi”, “vẫn chảy lọt qua hai vòng tay khép chặt” !

Ta thả một chiếc lá, chiếc lá trôi Ta thả một con thuyền giấy, con thuyền giấy trôi Ta ôm em trong vòng tay, Em vẫn trôi…

Tình yêu trong thơ Bùi Giang, đối với chúng ta vẫn như một định đề muôn thuở , vừa quen vừa lạ. Quen vì nó mang đến cho hồn ta sự ngọt ngào của tình người như rượu ngọt và cũng mặn chát bẽ bàng như thuốc đắng, mà thiếu nó vũ trụ sẽ không hồn. Nó lạ vì khác những tình yêu mà ta đã gặp hoặc nồng nàn như Xuân Diệu, bẽ bàng như Huy Cận, phiêu du như Vũ Hoàng Chương…, tất cả đều rất thực , thực đến mức “cắn”vào được, nhưng cáí tình của Bùi lại lưỡng phân vừa thực vừa mộng, vừa đời vừa đạo ,vừa chạm tay vào đã sương khói bay xa, đôi lúc ảo giác và cuồng vọng gần với Hàn Mặc Tử … Một sắc thái khác của thơ tình Bùi Giáng không thể không nói đến, bên cạnh cái đằm thắm , cái ảo huyền lại còn nữa cái đuà cợt châm biếm . Một sắc thái “tự trào” làm đa dạng thêm cái “Tình” trong thơ ông. Một cái tình thoáng qua, một cái tình thất vọng nhưng sự thất vọng, sự bất lực được thể hiện trong một chuỗi cười rất đáng được chia xẻ.

Gọi là gặp gỡ giữa đường Trái tim không chịu giữa đường rút lui Bỏ đi buồng phổi sụt sùi Trái tim không chịu lau chùi máu me… ( Kẻ qua đường )

Nhà thơ không nói gì đến cái đối tượng ái tình cuả mình , không cầu xin, không trách móc như những vần thơ khác trong trường hợp tương tự ta thường gặp .Ở đây nhà thơ chỉ nói về cái “tình si” quá mức của mình, vừa bày tỏ vừa chế giễu , nhưng chắc

rằng, sau cái “sụt sùi” , cái “máu me” này nhà thơ chúng ta vẫn vui vẫn sống. ðó là cái nét ngồ ngộ của ái tình Bùi Giáng mà có nguời cho rằng “thái độ hậu hiện đại trong thơ”( Hoàng Ngọc Tuấn ). Bản chất của những vần thơ tự trào là nhà thơ “tự yêu” cái kém cỏi, cái bất lực, cáí vô dụng của mình ; tự cười nhạo , tự chế giễu, nhưng đằng sau cái cười nhạo đó âm thầm che giấu một tâm tình kiêu bạc thách thức “ta trong giữa đời đục” ! ðã mười mùa xuân thi sĩ ra đi , văng vẳng bên tai ta một câu hỏi đau đáu khi xuân về :

Mùa xuân em có về không? Nhành mai cố quận trổ bông dịu dàng…

Câu hỏi nghe xao xuyến và nếu ta thay “cố quận” bằng một tên làng cụ thể thì câu thơ quả thực chính là tâm trạng của chính ta, của bao người xa quê, bao kẻ ra đi vì cuộc mưu sinh mong ngóng ngày gặp gỡ nhất là những dịp xuân về tết đến.… Nhưng “cố quận” của Bùi Giáng phải chăng là một từ phiếm chỉ , một miền đất đã lìa xa, một kỷ niệm, một ước vọng hơn là một thực tại. Và người em, và tình yêu nơi ông cũng chỉ gợi ta về một giấc mộng nơi “bờ nước cũ” của người “em xưa” .

Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ Mộng xanh ngần giậy nối giấc em xưa…

hoặc may mắn hơn, thì cũng chỉ là chốn đào nguyên tương tư hai hình bóng: Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu…

Bùi Giáng quả một thi sĩ đặc biệt, thật khó hình dung nền thơ Việt Nam hiện đại lại thiếu ông.Thơ tình của thi sĩ góp phần tạo nên cái sự riêng, cái nét đặc biệt đó .

Sư về muộn Phổ ðồng

ðêm nghiêng ngõ gác trăng vàng Mấy tầng chuông điểm đổ tràn thái hư Sư về gõ cửa phù hư Tam sinh đế mộng trầm hư vỡ bờ Uống tàn sương, giọt xuân mơ ðiểm trang hồng nguyệt kinh thơ vô phiền Trăng lay bóng chếch giường thiền Tụng âm đá dựng tiếng rền vọng không.

Mùa xuân én trải nắng hồng Nụ xanh say gió vàng hong hiên chùa Gió về

mở mắt nghìn hoa Gốc mai năm trước rụng vài đóa hoa! Trà xanh Thềm thoảng hương mùa Gió hây hây thổi ngày đưa qua ngày Niềm vui còn một chút này Dâng người ở lại từ rày về sau.

BÓNG NGUYÊN XUÂN

Huỳnh Ngọc Chiến

Có khi suốt đời ta nhớ thương một người con gái không phải vì người con gái đó là một cái gì toàn bích, mà chỉ vì một cái má lúm đồng tiền, một chiếc răng khểnh dưa duyên hay một con mắt lá răm lúng liếng. Cũng như có những bài thơ ta nhớ hoài không phải vì toàn bài đều hay, mà chỉ vì trong đó có đôi câu, thậm chí một câu thơ hay. Những câu thơ đó khi tách ra khỏi mạch ngầm nội tại của nguồn thơ đôi khi bỗng nhiên lại mang một ý nghĩa khác, giúp ta nhìn lại toàn bài dưới một cái nhìn khác. Như nàng Kiều quay về lại mái nhà xưa thì cái chân dung sau mười lăm năm lưu lạc đó đã thay đổi quá nhiều so với buổi du xuân thời trẻ. ðó là cảm giác của tôi khi đọc một vài câu trong bài thơ “Chào Nguyên Xuân” của Bùi Giáng. Xin chào nhau giữa con đường Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau Nhà thơ Bùi Giáng đã nói lên hai câu lục bát khôn hàn kỳ tuyệt đó để rồi bỏ lại mùa Xuân phía sau và đi vào cõi miên trường vô tận.

Hai câu thơ “vịnh” mùa Xuân - Nguyên Xuân - mà sao nghe ra man mác tâm sự của Thúy Kiều âm thầm ngõ với Ðạm Tiên nhân ngày Tảo mộ. Thử thong thả chấm xuống hàng để tìm ra chút tố chất hàm ẩn bên trong: Mùa Xuân? Phía trước? Miên trường? Phiá sau? Phía trước và phía sau của một cái gì? Phải chăng có một người đứng ra làm băng nhân cho cuộc hôn phối giữa cõi miên trường vô tận phía sau và một mùa Nguyên Xuân mênh mông phía trước? ðể cho điệu chào của mùa sơ ngộ được đón chào trên một con đường nào đi về trên những dặm đường dâu bể? Hay phía sau mùa Xuân kia là một cõi miên trường? Xin chào nhau giữa con đường Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau Mà sao gọi là Nguyên Xuân? ðó là mùa Xuân còn Trinh Nguyên Trọn Vẹn? hay là mùa Xuân từ cõi Nguyên Thủy Sơ Khai? Dù sao thì dù, ông Bùi Giáng đã nối tiếp thiên tài Tố Như đi theo cung bậc của các tâm hồn tài hoa, để cùng nhau bước vào lễ hội trần gian. Mùa Xuân phía trước? Vâng, lộng lẫy xiết bao là cảnh huy hoàng tấp nập của ngày Xuân. Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước, áo quần như nêm (Kiều) Thế nhưng linh hồn tài tử, ngay khi đối diện với cảnh sắc huy hoàng của ngày Xuân vẫn luôn luôn dự cảm được vẽ bấp bênh phù động của thiều quang thấp thoáng, trong tương phùng vẫn luôn dự cảm sự chia ly. Thế cho nên trong cảnh du xuân náo nhiệt vẫn man mác điệu buồn:

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay và Bóng tà như giục cơn buồn (Kiều) Người ta thường nói đến vẻ buồn của mùa thu. Người ta thường bảo mùa thu là mùa của thi nhân. Mùa thu là mùa buồn của trời đất, nên nó gây nên những nỗi sầu mênh mông lắm. Tiếng thu xao xác, cảnh thu hắt hiu, hơi thu lạnh lẽo, buồn thu diệu vợi. Và nhà thơ mở rộng hồn ra để nỗi buồn mùa thu len vào sâu trong tâm tưởng, rồi biến nỗi buồn thành những lời thơ man mác mênh mông. Nỗi buồn mùa thu của Verlaine, Appolinaire, Beaudelaire kéo theo những nỗi buồn thu của Lưu Trọng Lư, Văn Cao, ðặng Thế Phong thời tiền chiến. Les sanglots longs Des violons De l'automne Blessent mon coeur D'une langueur Monotone. ðiệu vĩ cầm mùa thu Buồn như tiếng thở dài Khiến hồn tôi rướm máu Trong nỗi nhớ tàn phai. (Chanson d’automne – Paul Verlaine) Thơ văn cổ Trung Quốc thường nói nhiều về nỗi sầu thu. Nhà thơ Tô Ðông Pha bảo : Tao nhân trường thụ nhất thu bi (Nhà thơ mang mãi mối sầu thu) (Họa Triều Ðồng niên cửu nhật kiến kí) Nhưng rồi cũng chính Tô ðông Pha lại nói :

Xuân lai, cố quốc vô quy kỳ Nhân ngôn thu bi, xuân cánh bi (Xuân đến, quê xưa chưa trở lại Thu buồn, xuân thắm vẫn buồn hơn) (Pháp Huệ tự Hoành Thuý các) Mùa Xuân là mùa bắt đầu một chu kỳ mới của trời đất, mùa đem lại sinh khí cho tạo vật, nhưng sao lời thơ lại man mác nỗi ngậm ngùi, như giai điệu buồn mênh mang trong bài “Happy New Year” bất tử! Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già (Xuân Diệu) Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới (Thanh Tâm Tuyền) Thử thay chữ “em” trong câu thơ trên bằng chữ “Xuân,” ta thấy có khác gì câu thơ Xuân Diệu? Mùa xuân buồn, không phải vì nỗi buồn không biết ngày nào quay lại quê xưa, mà vì mùa xuân là dấu hiệu của mùa thu. Buồn vì “xuân đang qua” và “xuân sẽ già.” Cho nên “thu bi, xuân cánh bi”. Trong niềm vui ðạp Thanh vẫn man mác nỗi sầu Tảo Mộ. Lễ là Tảo Mộ, hội là ðạp Thanh (Kiều) Bởi vậy, kẻ tha thiết yêu đời sẽ luôn có những nỗi buồn vô cớ. ðứng ngắm ánh bình mình mà luôn dự cảm được bóng hoàng hôn. Rồi niềm dự cảm đó sẽ đẩy con người đi khắp cõi biển dâu để tìm lại hương màu của Nguyên Xuân sau bao năm lưu lạc. Ông Bùi Giáng thì bóng bẩy hơn : Xin chào nhau giữa con đường Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.

Chính bởi niềm dự cảm mùa Thu mai hậu ngay giữa mùa Xuân nên có kẻ làm thơ cuống quít vội vàng như Xuân Diệu, có kẻ tư lự ngậm ngùi như Huy Cận, có kẻ phiêu dật mênh mông như Lý Bạch, có kẻ đạm nhiên thông tuệ như Nguyễn Du, có kẻ đăm chiêu phiêu bồng như Bùi Giáng. Bước vào mùa Xuân với niềm dự cảm thế kia là bước chân vào cuộc “Lữ” miên trường. Như Thúy Kiều nhìn thấy nấm mộ của ðạm Tiên nằm lặng lẽ bên đường. Một cõi biển dâu thăm thẳm đột ngột mở ra giữa lòng người trong buổi du xuân. Và người sẽ hân hoan lên đường để đi đến chốn tận tuyệt của đoạn trường khổ lụy. Sau bao tháng năm lang bạt kỳ hồ trong cuộc đời, trong tình yêu, trong nỗi nhớ, trong đam mê cay đắng, trong thương nhớ ngọt ngào, trong đoạn trường khổ lụy, con người, một ngày, chợt dừng lại và bắt gặp hình ảnh nào của buổi ra đi. Lời thơ cũ sẽ ngân lên theo một cung bậc khác: Hỏi rằng: đất trích chiêm bao Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau Thưa rằng: ly biệt mai sau Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân. Con người hoang mang bước chân vào lễ hội trần gian như bước chân vào một vùng đất trích lưu đày. Ly biệt là qui luật của cõi bể dâu. Nhưng ly biệt là để trùng phùng, trong một cung bậc khác. Ở cuối cuộc Lữ, mùa Xuân sẽ hiển thị trong tố chất long lanh, để trở thành nơi tao ngộ của Sương Bình Nguyên và Trăng Châu Thổ. Con người sẽ đi dưới bóng sương bình nguyên và vầng trăng châu thổ để đi tìm lại bóng Nguyên Xuân.

Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa cười Trước mặt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết ðêm qua sân trước một cành mai. Ngô Tất Tố dịch. Xuân đi, trăm hoa rãi Xuân đến, trăm hoa khai. Xem chuyện đời trước mắt

Tóc trên đầu đã phai. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Tối qua, vườn trước một cành mai. hoạ sĩ Võ ðình dịch. Xuân đi trăm hoa rơi Xuân đến trăm hoa nở Việc đời qua trước mắt Già theo đến trên đầu Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết ðêm qua sân trước một nhành mai Thích-Chân-Tuệ dịch _____________________________ Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) họ Nguyễn tên Trường, người xứ Lũng Chiền, làng An Cách, con của Trung Thư Viên Ngoại Lang Hoài Tố, ham học, từ trẻ đã học hỏi nhiều và thông hiểu về Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo, được vua Lý Nhân Tông khen ngợi, triệu vào cung và ban cho tên Hoài Tín. Sau đó xuất gia, thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, thế hệ thứ 8. Vua Lý Nhân Tông và Hoàng Hậu rất mến trọng sư, cho xây một cảnh chùa cạnh cung Cảnh Hưng để tiện việc tham hỏi về Phật học. Thiền sư mất năm 45 tuổi. Vua ban hiệu là Mãn Giác. Rất tiếc các sáng tác của sư không còn giữ lại, chỉ còn một bài "Cáo tật thị chúng" (Báo bệnh dạy chúng) rất nổi tiếng trong văn đàn Việt Nam.

XUÂN VỀ NGUYỄN BÍNH

ðã thấy xuân về với gió đông. Với trên màu má gái chưa chồng Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm

Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.

Từng đàn con trẻ chạy xun xoe Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe

Lá nõn nhành non ai tráng bạc Gió về từng trận gió bay đi

Thong thả dân gian nghỉ việc đồng

Lúa thì con gái mượt như nhung ðầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng

Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.

Trên đường cát mịn một đôi cô Yếm đỏ khăn thâm trảy hội chùa

Gậy trúc giắt bà già tóc bạc Lần lần tràng hạt niệm nam mô.

Xuân tha hương

Nguyễn Bính

(Gửi chị Trúc)

Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng Ôi, chị một em, em một chị

Trời làm xa cách mấy con sông Em đi trăng gió đời sương gió

Chị ở vuông tròn phận lãnh cung Chén rượu tha hương, trời: đắng lắm Trăm hờn nghìn giận một mùa đông

Chiều nay ngồi ngắm hoàng hôn xuống Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng... Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng

Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở Chị vẫn môi son vẫn má hồng?

Áo rét ai đan mà ngóng đợi Còn vài hôm nữa hết mùa đông! Cột nhà hàng xóm lên câu đối

Em đọc tương tư giữa giấy hồng Gạo nếp nơi đây sao trắng quá

Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết Một mình em vẫn cứ tay không Vườn nhà Tết đến hoa còn nở Chị gửi cho em một cánh hồng

Tha hương chẳng gặp người tri kỷ Một cánh hoa tươi đủ ấm lòng Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng...

Chao ơi, Tết đến em không được

Trông thấy quê hương thật não nùng Ai bảo mắc duyên vào bút mực Sòng đời mang lấy số long đong Người ta đi kiếm giàu sang cả

Mình chỉ mơ hoài chuyện viễn vông Em biết giàu sang đâu đến lượt Nợ đời nặng quá gỡ sao xong? Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng

Tết này, ô thế mà vui chán

Nhưng một mình em uống rượu nồng Rượu cay nhớ chị hồi con gái

Thương chị từ khi chị lấy chồng Cố nhân chẳng biết làm sao ấy

Rặt những tin đồn chuyện bướm ong Thôi, em chẳng dám đa mang nữa Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng

Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc Chấp nối nhau hoài cũng uổng công!

(Một trăm con gái đời nay ấy ðừng nói ân tình với thuỷ chung!)

Người ấy xuân già chê gối lẻ Nên càng nôn nả chuyện sang sông

ðò ngang bến dọc tha hồ đấy Quý hoá gì đâu một chữ đồng! Vâng, em trẻ dại, em đâu dám

Thôi, để người ta được kén chồng

Thiếu nữ hoài xuân mơ cát sĩ

Chịu làm sao được những đêm đông Khốn nạn, tưởng yêu thì khó chứ

Không yêu thì thực dễ như không! Chị ơi, Tết đến em mua rượu

Em uống cho say đến não lòng Uống say cười vỡ ba gian gác

Ném cái chung tình xuống đáy sông Thiên hạ "Chi nghinh Nam Bắc điểu" Tình đời "Diệp tống lãng lai phong"

Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một chút lòng

Sương muối gió may rầu rĩ lắm Còn vài hôm nữa hết mùa đông Xuân đến cho em thêm một tuổi

Thế nào em cũng phải thành công Em không khóc nữa, không buồn nữa

ðây một bài thơ hận cuối cùng Không than chắc hẳn hồn tươi lại Không khóc tha hồ đôi mắt trong Chị ơi, Em Cưới Mùa Xuân nhé?

ðốt pháo cho thơm với rượu hồng Xa nhà xa chị tuy buồn thật

Cũng cố vui ngang gái được chồng Em sẽ uống say hơn mọi bận Cho hồn về tận xứ Hà ðông

Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng

Với lá thư này là tất cả

Những lời tâm sự một đêm đông Thôn gà eo óc ngoài xa vắng

Trời đất tàn canh tối mịt mùng ðêm nay em thức thi cùng nến

Ai biết tình em với núi sông Mấy sông mấy núi mà xa được Lòng chị em ta vẫn một lòng

Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng

Cầu mong cho chị vui như Tết Tóc chị bền xanh, má chị hồng

Trong mùa nắng mới sầu không đến Giữa hội hoa tươi ấm lại lòng

Chắc chị đời nào quên nhắc nhở: - Xa nhà, rượu uống có say không?

XUÂN

CHẾ LAN VIÊN

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu, Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu ?

Với tôi, tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Ai đâu trở lại mùa thu trước ?

Nhặt lấy cho tôi những lá vàng, Với của hoa tươi, muôn cánh rã, Về đây đem chắn nẻo xuân sang.

Ai biết hồn tôi say mộng ảo ? Ý thu góp lại cản tình xuân.

Có một người nghèo không biết Tết, Mang lì chiếc áo độ thu tàn.

Có đứa trẻ thơ không biết khóc, Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran. Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ, Một cánh chim thu lạc cuối ngàn!

< ðược sửa bởi: thanhthuduc lúc 1/23/2009 3:08:06 PM >

MÙA XUÂN CHÍN

HÀN MẶC TỬ

Trong làn nắng ửng: khói mơ tan, ðôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc, Trên giàn thiên lý bóng xuân sang. Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời. Bao cô thôn nữ hát trên đồi. - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi. Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây, Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc, Nghe ra ý vị và thơ ngây. Khách xa gặp lúc mùa xuân chín, Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng: "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc, Dọc bờ sông trắng nắng chang chang..."

Mùa Xuân Trong Cõi Thơ Bùi Giáng

Nhất Thanh

ðã qua đã tới đã về Tết từ bao bận tết đề huề đi ði về đi ở đi đi ði là đi biệt từ khi chưa về[01] Một bài thơ Xuân lạ lùng! Người làm thơ cứ như nhảy chân sáo trong thơ. Rất bông đùa, hóm hỉnh mà lại triết lý đến không ngờ. Qua tới đi về, cứ như mùa Xuân đang lượn lờ trước mắt chúng ta. Thế mà nó đã đi, đi biệt khi tất cả chúng ta chưa kịp thấy nó về. Hay nói cách khác, mùa Xuân vẫn mãi đi về giữa đất trời lớn rộng, trong khi lòng người quá nhiều bận rộn nên chưa kịp thấy hết nhịp điệu đến đi phiêu bồng của một cõi Nguyên Xuân. Những nhành mai sớm sương bên lá Những nhành liễu chiều gió bên cây Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ Thế nên chi anh cũng viết dòng này. (Những nhành mai) ... Mùa Xuân hẹn giữa ngàn mai Nguyên hình nữ chúa trên ngày phù du (Nausicaa) ðang choáng ngợp giữa cỏ cây kỳ ảo, chợt nghe ra một lời chào thân thiết và thanh tân đến lạ thường:

Xin chào nhau giữa con đường Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau. (Chào Nguyên Xuân) Xin chào nhau? Lạ! Ai quen biết đâu mà chào? Ồ không! Chẳng phải chúng ta đang cùng đi trên bước đường gập ghềnh sỏi đá “Lộ trường nhơn khốn kiểng lô tê” (Tô ðông Pha) đó sao? Chẳng phải cuộc trăm năm là cuộc giã từ cõi mộng miên trường để tìm về bến bờ chân phúc đó sao? Lời lẽ nào khơi mở nguồn cơn giúp người tỉnh mộng? Dấu hỏi nào ngấn tích chiêu sa để gọi mời chúa Xuân về ngự yên bình trên ánh chiều vàng vọt ðông phương? Thưa rằng nói nữa là sai Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào Hỏi rằng: đất trích chiêm bao Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau. (Chào Nguyên Xuân) Bùi Giáng xé nát trang thơ triết lý, Bùi Giáng thổi tan lớp mây mờ hý luận, xốc tay người hỏi dắt đến bên mép rìa thực tại, dõng dạc thưa: Thưa rằng: ly biệt mai sau Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân. *** ðọc thơ của Bùi Giáng là bước vào một thế giới kỳ lạ trong nền thi ca Việt Nam – đặc biệt là tập Mưa nguồn. Ở trong đó dù nói gì, nói với ai và ở đâu, ta cũng thấy ngàn ngập một cõi miền kỳ diệu, linh thánh, đa âm sắc và lộng lẫy đến kỳ cùng. Có thể nói Nguyên Xuân là suối nguồn chảy mãi và nhuần thắm cả hơn 60 tác phẩm viết và dịch sau đó của Bùi Giáng. Và đặc biệt hơn nữa, nó cũng là chất liệu làm nên một “huyền thoại Bùi Giáng” – kẻ tự hủy toàn triệt để sống trọn vẹn với thi ca, với hương màu Nguyên Xuân chất ngất giữa cuộc bình sinh hãn hữu này.

Bùi Giáng là kẻ lữ hành cô độc suốt cả xưa sau. Từ một kẻ mục tử lùa bò vào rừng sim trái chín, như một hài nhi hồn nhiên nhìn đất trời cây cỏ, sông núi trăng sao, người chợt thấy: Cũng vô lý như lần kia dưới lá Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành ðời đã mất tự bao giờ giữa dạ Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh. (Hư vô và vĩnh viễn) Từ sự ngỡ ngàng phiêu hốt, thi nhân bỗng nhận ra, bỗng nhớ lại, như tự một kiếp xa xưa nào, con người đã ở trong thế giới này ra đi, đi mãi, tưởng chừng đã hun hút miền xa, thì chợt nhận ra thế giới ấy vẫn hiện hữu giữa cỏ hoa hồn du mục, giữa cô thôn sớm tối đi về: Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm Là quê thân thiết biết bao chừng (Người về) Như đứa cùng tử trong kinh Pháp Hoa được trở về nơi cố quận, thi nhân loáng thoáng thấy: Xưa kia tôi đã có lần Và bây giờ đã đôi phần tôi quên Viết thơ là trở lại bên Con người thôn nữ răng đen hai hàng (Ca dao) Như một sự nuối tiếc, một sự phản tỉnh hồn nhiên đến lạ lẫm, thi nhân kể: Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước Cỏ mùa Xuân bị dẫm nát không hay Chợt có lúc hai chân dừng một lượt Người đi đâu, xưa chính ở chỗ này. (Chỗ này)

Bắt đầu từ đó, thi nhân choáng ngợp giữa trời Xuân huyền ảo. Thì ra, thế giới ba ngàn này vẫn lung linh lấp lánh như tự bao giờ vẫn vậy. Chỉ ở đây thôi, khi con người nhận ra được “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Kinh Kim Cang) thì sẽ trực nhận được hương màu Nguyên Xuân dào dạt. Trời đất tụ về chung một góc. Một năm nào đời đứng lại nghe Xuân. Về trong thu sương huyễn ải vô chừng (…) ðứng một mình thơ dại ngó mông lung. Em nghe không, em nghe nhé, nghe cùng (Trời Nam Việt). Thi nhân hoàn toàn không dắt ta vào mộng, thi nhân chỉ kể lại những gì chính mình thấy. Vẫn những hình ảnh trời mây lá cỏ, nhưng kỳ lạ vô cùng: Ánh sáng xa đâu gió cây mù mịt trăng trời vòng cửa khép tiếng sóng vỗ ngoài linh hồn lạc bước người em người chị người bạn người thù ngồi lại bên nhau (…) Mùa Xuân bữa trước Mùa Xuân bữa sau Mùa Xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích. Nắm hai bàn tay lại khi một trời sao đỏ lấm tấm đập cánh bay qua… (Bờ Xuân). Nhìn thấy đó, cũng chỉ là giây phút cảm ngộ tuyệt vời của vô thức. Thi nhân quyết không làm kẻ đứng ngoài. ðây là phút giây quan trọng nhất của lộ trình đi về cõi trực tâm. Hố thẳm gọi mời một bước nhảy – một bước nhảy nghìn trùng diệu tưởng sẽ thu về trong gang tấc nếu không có sự lưỡng lự của ý thức nhị nguyên. Thi nhân nhìn lại: Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu (Những nhành mai) Thế giới bây giờ không còn xa cách nữa. Thi nhân tắm mình trong một nguồn sáng ảo hiệu. Thấp thoáng những bàn tay, với vòng tay của, mười ngón tay măng; thấp thoáng những bước chân, một dấu chân bước của, một bàn chân bé con. Lạ lẫm quá! Cát xa bờ tơ chỉ rối chiêm bao. Tiên thiên quá! Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm. Lãng đãng quá! Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn. Ngôn từ không còn đủ dung tích để ôm trọn nguồn ánh sáng tinh diệu. Thi nhân phải mượn những ngôn từ đại thể, uyên mặc, như Nguyên hình nữa chúa, Bờ cõi thanh tân, ðài vũ trụ… để xin mở

một lần màu thiên thanh của (Màu thiên thanh) Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa. Hồn bỏ lại mộng thừa trong thớ đất, anh nhìn em trong suốt giữa xương da (Màu Xuân). Những cảnh vật của thi nhân nhìn thấy chẳng xa lạ gì với thế giới chúng ta. Cũng những hình ảnh ấy, nhưng ánh sáng và màu sắc lại lộng lẫy, sang trọng vô ngần. Ai là người dự được bữa tiệc của đất trời xuân sắc? Ai nhấm nháp được chút rượu “pha màu bình nguyên” của trời trăng bữa nọ? Biển dâu sực tỉnh giang hà Còn sơ nguyện mộng sau tà áo xanh. *** Thơ không đủ gọi, lời không đủ gọi. Mỗi ngôn từ đã được nhân lên rất nhiều lần ý nghĩa ban sơ của nó để giao hòa cùng thực tại, thì việc phân tích, chẻ chia là một trò hề đối với thơ Bùi Giáng. Hỏi tên rằng biển xanh dâu, hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa, gọi tên rằng một hai ba, đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm. Máu lệ và xương da, hình hài và thân thể, tất cả được phụng hiến một cách trọn vẹn, đầm đìa sương khói, lãng đãng chiêm bao nhưng vẫn tĩnh tại vô ngần, nguyên tuyền rất mực. Muốn thấy nó một cách thường hằng thì phải sống thường trực từ cội nguồn căn để. Mạnh tử nói: “Dục thường thường kiến chi cố nguyên nguyên nhi lai” là vậy! Bùi Giáng đã hớp tận ngụm suổi đầu nguồn, lẫm liệt và tàn khốc từ đời sống phiêu bồng tận hiến; đã rong chơi ngoài vạn dặm, bầu bạn với cỏ hoa, thương hết thảy dế giun sâu bọ, cánh bướm, cánh chuồn chuồn. Ông sống thực, thực đến nỗi xót xa, bi tráng. Xin chào nhau giữa con đường, con đường của tóc tơ lau lách, máu lệ xương da, của cảo thơm lần giở, của phong tình cổ lục xưa sau. Kể từ Socrate đến Heidegger, văn hóa phương Tây chẳng biết có cõi nào kỳ dị như cõi thơ Bùi Giáng không? Kể từ thời đại sử thi Mahabharata, Ramayana đến Rabindranath Tagore, từ Lý Bạch, Tô ðông Pha đến Nguyễn Du, Tản ðà, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại, thi ca phương ðông không biết đã có thế giới nào đìu hiu phiêu hốt đến dường ấy chưa? ðã có những oic thơ nào ngời những nhịp cầu tương ứng luân lưu như vậy chưa? ðiều đặc biệt là thế giới ấy không hề siêu thực, mà trái lại rất hiện thực. Một thứ hiện thực ảo (Realistic vision), không phải dạng “mặt trời cắt cổ” của Apolinaire, không phải kiểu “xử thế nhước đại mộng,

hà vi lao kỳ sinh” của Lý Bạch. Xuân là Xuân của Ngày trống rỗng không gian trôi vào cõi, nghe mùa Xuân không đổ lục bên hường (Xuân giữa ngọ); Xuân là Xuân của ðồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt, dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi (Người đi đâu). Bùi Giáng cùng nường Thúy du xuân trong hội ðạp thanh, nhưng thi nhân đã khóc ngang ngửa mộng, đã xót xa thân sầu chảy máu bên xương, đã chấp nhận ngàn lần trong thổn thức, đã bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm, đã cam chịu cuồng si để sáng suốt, và đui mù cho thỏa dạ yêu em. Tận hiến đến hơi thở cuối cùng, để ngắm được hoa đào của Linh Vân[02] , ngắm được nhành mai sân trước của Mãn Giác[03] , nghe được tiếng sỏi vang bờ trúc của Hương Nghiêm[04] , nghe được tiếng vượn trầm của Tuệ Trung Thượng sĩ[05] , “tiếng nước ôi chao” của Basho[06] … Mùa Xuân đã hiện về trọn vẹn, uyên nguyên trên từng giọt trăng hòa tan giữa biển lòng bát ngát. Và đó cũng là sứ mệnh của thi ca. “Sa mạc hồi khan thanh cấm nguyệt” – Nguyễn Du đã mở trang hồng phạm; “Hồng sơn sơn hạ quế giang thâm – Bùi Giáng vẫn còn trang thơ thắm lại cõi trời hồng. Thi ca Việt Nam sẽ vút lên tiếng sáo diều thánh thót giữa đất trời lồng lộng ðông Tây, du dương trước thềm thế kỷ XXI. Riêng Bùi Giáng vẫn cứ lặng lẽ, thủy chung và ẩn mật tuyệt trù: Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ Bụi thu mờ ai phủi với hai tay. ðà Lạt mùa hoa dã quỳ Thơ Bùi Giáng Xuân Chểnh mảng mùa Xuân vẫn tới gần Muôn nghìn hồng tía quá thanh tân Sắp về lũ lượt thân cùng thể Sẽ đến huy hoàng mỹ với nhân Thân thiết như hồn thanh thiếu nữ Thuần nhiên tợ mộng tuyết băng tâm

Người từ xa lắc về thăm viếng Xuân sắc quê hương đẹp quá chừng. Bao giờ Bằng bút chì đen Tôi chép bài thơ Trên tường vôi trắng Bằng bút chì trắng Tôi chép bài thơ Trên lá lục hồng Bằng cục than hồng Tôi đốt bài thơ Từng phút từng giờ Tôi cười tôi khóc bâng quơ Người nghe cười khóc có ngờ chi không? [01] Tất cả những chữ in nghiêng không nằm trong ngoặc kép trong bài này đều là thơ trích từ tập Mưa nguồn của Bùi Giáng. [02] Linh Vân (?-?), Thiền sư Trung Quốc, sống vào đời ðường,nhân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo [03] Mãn Giác (1052-1069), Thiền sư Việt Nam, sống vào đời Lý, nổi tiếng với bài kệ Cáo tật thị chúng. [04] Hương Nghiêm (?-898), Thiền sư Trung Quốc, nhân nghe tiếng sỏi văng vào bụi trúc mà hốt nhiên đại ngộ. [05] Tuệ Trung Thượng sĩ, Thiền sư Việt Nam, sống vào đời Trần. Bùi Giáng từng dịch hai câu thơ của Tuệ Trung “Nhân gian tận kiến thiên sơn điểu. Thùy thính cô viên đề xứ thâm” thành “Nhân gian đều thấy ngàn non sáng, ai lắng nghe ra tiếng vượn trầm”. [06] Basho, Thiền sư thi sĩ nổi tiếng của Nhật Bản, chuyên làm thơ Hài cú (Haiku), trong đó có bài “Con ếch”: Một vũng lầy hiu hắt, một con ếch nhảy vào, và tiếng nước ôi chao! (Tuệ Sỹ dịch).

Thơ XUÂN

Mai Hữu Phước

...............................(Thủ bút Mai Hũư Phước)

.

MÙA XUÂN GÕ CỬA

Mắt ai màu nhung êm

Nhìn nắng rơi bên thềm.

Mùa xuân về gõ cửa

Tiếng chim hờ quen tên.

.

Mưa đan từng sợi nhỏ

Gió so làn tóc mây,

Áo xanh màu nhung nhớ

Ngẩn ngơ hồn đêm vây.

.

Tay ngà nâng phiến lá

Cánh hoa vàng mong manh,

Làn môi hờ ngây ngất

ðắm say dòng thư xanh.

.

Em như mùa xuân chín

Anh nghe lòng tha phương.

Tình nào như mây trắng

Bao nhiêu là tơ vương...

.

Xuân lại về gõ cửa

Em reo mừng xuân tươi,

Gã khờ năm xưa ấy

Bên em chừ yên vui.

(12.2006)

.

ðÓN XUÂN

Muôn vật tưng bừng khoe sắc mới

Thôi chào đông lạnh mắt em vui.

Vườn ai rộn rã chim về hót

Ngõ vắng chiều qua rộn tiếng cười.

.

DỊU DÀNG XUÂN

Nắng trải xuân vàng khắp núi sông

Ý xuân nao nức giục trong lòng,

Mưa xuân đan nhẹ trên bờ tóc

Em chút mơ màng tiễn gió đông.

.

Gió nhẹ đùa trên tóc em vui

Vườn xanh thanh thoát nụ em cười,

Anh xin gom sắc mùa xuân lại

Cho rạng ngời em nét thắm tươi.

.

Em bước bên xuân rất dịu dàng

Cánh mềm én lượn chở mùa sang,

Mai vàng đơm nụ chờ khoe sắc

Em để mùa xuân anh xốn xang !

MÙA XUÂN TRONG THƠ ðƯỜNG - VIỆT LINH THẢO

Trung Hoa là xứ sở với thời tiết có đủ bốn mùa trong năm: xuân, hạ, thu, đông. Có lẽ mùa xuân được nhắc nhở nhiều trong thơ văn của họ, mặc dầu người Trung Hoa có những thú hưởng thụ trong bốn mùa:

Xuân du phương thảo địa

Hạ thưởng lục hà trì

Thu ẩm hoàng hoa tửu

ðông ngâm bạch tuyết thi

(Xuân chơi miền cỏ thơm

Hạ thưởng hồ sen biếc

Thu nhắm rượu cúc vàng

ðông ngâm thơ tuyết bạc)

Nhưng hồn xuân vẫn bộc lộ trong những thú hưởng lạc ấy của con người. Mùa xuân là mùa hồi sinh của vạn vật. Cây trổ lộc đơm hoa, đồng cỏ khô héo trong mùa đông trở nên xanh tốt. Người Trung Hoa thường có hội “đạp thanh” (dẫm trên cỏ xanh) hàng năm, vào tiết thanh minh:

Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh (Kiều)

Cỏ xanh tốt trên những cánh đồng bao la biểu hiện sức sống mãnh liệt, sự trường tồn, vươn lên, bất khuất của muôn loài trong thiên nhiên.

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Kiều)

Màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê, hai màu hòa hợp làm nổi bật sắc thái tươi đẹp của mùa xuân. Cỏ là loài cây có tính sinh tồn mạnh mẽ, vượt qua mọi hoàn cảnh sinh tử:

Ly ly nguyên thượng thảo

Nhất tuế nhất khô vinh

Dã hỏa thiêu bất tận

Xuân phong xuy hựu sinh

(Bạch Cư Dị)

(Cỏ trên đồng bát ngát

Hàng năm lượt khô xanh

Lửa thiêu không cháy sạch

Gió xuân về nẩy sinh)

Cỏ xanh tươi, mượt mà trong mùa xuân lại là nguồn cảm hứng cho thi nhân:

Viễn phương xâm cổ đạo

Tình thúy tiếp hoang thành

Hựu tống vương tôn khứ

Thê thê mãn biệt tình

(Thảo – Bạch Cư Dị)

Xa dài thơm ngát lối

Tạnh mưa biếc gợn thành

Vương tôn lại tiễn bước

Lai láng nỗi ly tình

(Cỏ – Bạch Cư Dị)

Cỏ là cái nền mà hoa là những nét chấm phá của bức tranh xuân. Xuân đến, muôn hoa nở rộ. Người ta dạo chơi miền cỏ thơm, uống rượu xem hoa, như Lưu Vũ Tích trong bài “Ẩm tửu khán mẫu đơn” (Uống rượu xem hoa mẫu đơn):

Kim nhật hoa tiền ẩm

Cam tâm túy sổ bôi

ðãn sầu hoa hữu ngữ

Bất vị lão nhân khai

(Hôm nay bên hoa uống

Say sưa vài chén qua

Chỉ buồn hoa biết nói

Nở đâu vì tuổi già)

Hoặc người ta thưởng ngoạn hoa mai. Mai là một trong bốn loại cây quí (tứ hữu): mai, lan, cúc, trúc. Mai thường nở hoa đầu xuân, ở Việt Nam, vào dịp Tết nguyên đán, cùng lượt với hoa đào.

Ở Trung Hoa, người ta thường có cái thú “ đạp tuyết tầm mai” (dẫm tuyết tìm mai), nghĩa là dạo chơi trong mùa tuyết để ngắm hoa mai nở đẹp trong mùa xuân.

Hoa mai và quả mai (mơ) thường tượng trưng cho mùa xuân và tuổi trẻ, cũng như hoa đào và quả đào (mận) vậy:

Quả mai ba bảy đương vừa

ðào non sớm liệu xe tơ kịp thì (Kiều)

- ðào hồng hựu kiến nhất niên xuân (ðường Thi)

(ðào (nở) hồng lại thấy một mùa xuân)

Những bậc danh sĩ một khi lánh đời, tìm nơi ẩn dật ở chốn lâm tuyền thường lấy cỏ cây, chim muông làm bạn, cũng là một cách hưởng thụ xuân đời, như Nguyễn Du khi hết vướng bận với quan trường:

Nghêu ngao vui thú yên hà

Mai là bạn cũ hạc là người quen

Hoa đào nở vào mùa xuân còn được xem như là biểu tượng của tình yêu. Thôi Hộ, một thi nhân đời ðường, tình cờ đi ngang qua cửa một vườn nhà, say sưa ngắm giai nhân đứng bên gốc đào. Năm sau trở lại không thấy người đẹp. Ông buồn lòng ghi lại cảm xúc trong bài thơ:

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

ðào hoa y cựu tiếu đông phong

Ngày này năm ngoái bên hiên

Má hồng soi ánh hồng bên hoa đào

Má hồng nay vắng tăm hao

Hoa đào năm ngoái cười chào gió xuân

Thiên huyền thoại về hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi chơi núi Thiên Thai, men theo rừng đào tình cờ gặp các tiên nữ rồi sống với họ trong một thời gian. Sau nhớ quê trở về thì cõi trần đã trải qua hàng trăm năm. Lưu Nguyễn tìm đường trở lại Thiên Thai, mong nối lại cuộc sống cũ thì động tiên không còn nữa. Hoa đào hiện diện trong thơ Tào ðường, mô tả cuộc gặp gỡ kỳ thú của hai chàng Lưu Nguyễn:

Bất tri thử địa qui hà xứ

Tu tựu ðào nguyên vấn chủ nhân

(ðây thuộc về đâu ai ấy chủ

Nguồn ðào muốn đến hỏi thăm nhau)

Ngọc sa dao thảo duyên khê bích

Lưu thủy đào hoa mãn giản hương

(Cát nâng bờ cỏ ven khe biếc

Nước cuộn hoa đào ngát suối trôi)

ðào hoa lưu thủy y nhiên tại

Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân

(Hoa đào nước chảy còn trơ đó

ðâu bóng người xưa chuốc chén say

Mùa xuân hồi phục thiên nhiên, làm tươi trẻ cuộc đời, tạo dịp vui sống cho con người. Nhà thơ Lý Bạch cùng bạn hữu nhóm họp, mở tiệc trong vườn đào lý:

“Huống dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh, đại khối tá ngã dĩ văn chương, hội đào lý chi phương viên tự thiên luân chi lạc

sự...” (Huống chi ngày xuân hiến ta cảnh đẹp, đất trời cho mượn nguồn văn, họp mặt vườn thơm đào mận, niềm vui từ nơi đạo lớn...)

Nhóm thi nhân nầy quan niệm cuộc đời chỉ là hư ảo và họ chỉ muốn tận hưởng niềm vui xuân như người xưa, đốt đuốc chơi đêm, vầy tiệc, uống rượu, làm thơ.

“Nhi phù sinh nhược mộng vi hoan kỷ hà ? Cổ nhân bỉnh chúc dạ du lương hữu dĩ dã... Khai quỳnh diên dĩ tọa hoa, phi vũ trường nhi tuế nguyệt. Như thi bất thành, phạt y kim cốc tửu số.” (Mà kiếp phù sinh như mộng, vui được bao nhiêu? Người xưa đốt đuốc chơi đêm, quả điều hay vậy... Mở tiệc quỳnh ngồi ở bên hoa, tung chén cánh say lả dưới trăng. Thơ làm chẳng xong, phạt đúng số rượu ở vườn Kim.)

Mùa xuân quá quyến rủ con người với nắng ấm, với trăng thanh gió mát. Cho nên vào dịp nầy, Lý Bạch không những vầy bạn cùng uống rượu để tìm hứng cảm cho thơ, giải buồn muôn thuở:

Hội tu nhất ẩm tam bách bôi...

Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu

(Ba trăm chung đánh ngã một hơi...

Uống cho vạn cổ sầu vơi)

Mà khi thấy trăng đẹp chiếu trên đá, ông cao hứng tự chuốc rượu cho mình:

ðối thử thạch thượng nguyệt

Trường túy ca phương phi

(ðối bóng trăng trên đá

Say hát khúc phương phi)

Ông uống say mèm, đến khi tỉnh giấc chẳng biết hôm ấy là ngày nào, chỉ nghe tiếng chim hót trong hoa, gió xuân thoang thoảng:

Giác lai phán đình tiền

Nhất điểu hoa gian minh

Tá vấn thử hà nhật

Xuân phong ngữ lưu oanh

(Tỉnh dậy trông sân trước

Tiếng chim hót trong hoa

Hôm nay ngày nào nhỉ

Gió xuân thoảng oanh ca)

Cảnh xuân nhiều vẻ, trong thơ cũng không ít màu sắc, hình ảnh, ý tưởng được phô diễn đa dạng. Lý Bạch vui xuân với tâm hồn phóng khoáng, đầy tính chất hưởng lạc, bởi vì ông xem cuộc đời như một giấc mộng lớn:

Xử thế nhược đại mộng

Hồ vi lao kỳ sinh

(ðời như giấc mộng lớn

Sống lao đao làm gì ?)

Khác với Lý Bạch, ðỗ Phủ một đời lận đận trên đường bôn ba, thời loạn cũng như thời bình, xa gia đình xứ sở, ông nhìn xuân với nhãn quan của một người ưu thời mẫn thế:

Quốc phá sơn hà tại

Thành xuân thảo mộc thâm

Cảm thời hoa tiền lệ

Hận biệt điểu kinh tâm

Phong hỏa liên tam nguyệt

Gia thư để vạn câm (kim)

Bạch đầu tao cánh đoản

Hồn dục bất thăng trâm

(Xuân vọng)

(Nước mất còn sông núi

Thành xuân cây cỏ cao

Cảm đời hoa rơi lệ

Hận biệt lòng chim đau

Khói lửa liền ba tháng

Thư nhà đắt giá sao

Bạc đầu tóc ngắn gãi

Không dễ búi cài đâu

(Trông Cảnh Xuân)

Cái tinh thần “tiên ưu thiên hạ chi ưu” (lo trước cái lo của thiên hạ) này, vẫn từng có ở danh tướng Trần Quang Khải (đời Trần) dù đến tuổi già vẫn tưởng nghĩ đến ơn vua nợ nước, nói

lên lòng cảm khái trong buổi ngày xuân:

Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện

Ân ba hải khoát túng lân trì

Sinh bình đởm khí luân huân tại

Giải đảo đông phong nhất phú thi...

Khư sầu lại hữu tam bôi tửu

Phủ kiếm du du ức cố sơn

(Xuân Nhật Hữu Cảm)

(Nước cũ hồn mơ chim mỏi cánh

Ơn xưa bể thẳm cá chùng vây

Bình sinh chí khí giờ chưa nhụ u

Quật gió xuân xoay xướng vận hay...

Tiêu sầu những cậy ba chung rượu

Gõ kiếm non xưa vọng nhớ về)

Văn nhân không có được cái “đởm khí” của bậc danh tướng, xuân đến chỉ cảm thấy nỗi buồn xa nhà, xa người thân và nỗi lụy thân vào vòng danh lợi, như Nguyễn Du từng than thở:

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên

Hồng lĩnh vô gia huynh đệ tán

Bạch đầu đa hận tuế thời thiên

(Xuân hứng một trời nhà ai rụng

Quỳnh Châu muôn dặm cảnh quây quần

Nhà tan ngàn Hống lìa huynh đệ

Hận chất đầu phơ vút tháng năm)

Anh hùng tâm sự hoang trì sính

Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần

Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

ðoàn thành thành hạ nhất triêm cân

(Nản chí anh hùng rong ruổi bước

Lụy thân danh lợi buộc lơi vòng

Lòng người sầu não xuân tươi thắm

Thành Lạng vành khăn đẫm lệ ròng)

Vui buồn lúc xuân đến tùy theo cuộc sống và cảnh ngộ của mỗi người. Có người lên núi ngắm cảnh trăng sáng đêm xuân và cảm thấy thú vị, như Vu Lương Sử:

Xuân sơn đa thắng sự

Thưởng ngoạn da vong qui

Cúc thủy nguyệt tại thủ

Lộng hoa hương mãn y

(Non xuân lắm vẻ đẹp

Nhìn ngắm đêm quên về

ðầy tay trăng nước vốc

Thưởng hoa áo hương đầy)

Bạch Cư Dị thích ngắm cảnh hồ xuân ở Hàng Châu với tình luyến:

Hồ thượng xuân lai tự họa đồ

Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô...

Vị năng phao đắc Hàng Châu khứ

Nhất bán câu lưu thị thử hồ

(Xuân đến trên hồ đẹp tựa tranh

Nước phô gương lặng núi vây quanh...

Hàng Châu chưa nỡ rời đi được

Một nửa luyến lưu hồ nước xinh)

Với tinh thần “cư an tư nguy” (ở nơi yên nghĩ đến chỗ nguy), ðỗ Phủ vẫn thường lo đời, thấy mưa đêm xuân thì mừng với tiết mưa thuận gió hòa, đem lại cảnh an lạc, trong bài “Xuân dạ hỉ vũ” (ðêm xuân mừng mưa):

Hảo vũ tri thời tiết

ðương xuân nãi phát sinh

Tùy phong tiềm nhật dạ

Nhuận vật tế vô thanh

(Mưa lành hay thời tiết

Nẩy sinh buổi đang xuân

Vào đêm ngầm theo gió

Muôn vật lặng thấm nhuần)

Vốn là nhà thơ lãng mạn, Lý Bạch thích tán dương vẻ đẹp của giai nhân, mượn cảnh xuân để mô tả vẻ đẹp của họ, đặc biệt là Dương Quý Phi, trong bài “Thanh Bình ðiệu”:

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung

Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng

Giải thức xuân phong vô hạn hận

Trầm hương đình bắc ỷ lan can

(Mây ngờ xiêm áo hoa dung nhan

Sương đượm nồng hoa, hiên gió xuân

Trong gió xuân tan niềm oán hận

ðình Trầm hương bắc, tựa lan can)

Nguyễn Du, một tài thơ của đất Việt, đã diễn đạt rất thần tình vẻ đẹp của hai nàng tố nga bằng những ý thơ đậm màu sắc xuân:

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh...

hoặc: Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai... (Kiều)

Mai, tuyết, trăng, mây, hoa, liễu, thu thủy, xuân sơn, xuân lan, thu cúc... đều là những yếu tố đặc biệt của hai mùa (xuân, thu) đẹp nhất trong năm.

Nguyễn Du cũng từng mô tả lễ hội trong mùa xuân với nhịp sống vui tươi rộn rịp của du khách:

Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm...

Và cảnh đẹp nhất trong ngày hội ấy là cuộc gặp gỡ giữa

đôi người trẻ, “người quốc sắc kẻ thiên tài”, giữa một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ ánh xuân:

Trông chừng thấy một văn nhân

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng

ðề huề lưng túi gió trăng

Sau lưng theo một vài thằng con con

Tuyết in sắc ngựa câu dòn

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời

Nẻo xa mới tỏ mặt người

Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình

Hài văn lần bước dặm xanh

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao...

(Kiều)

Nguyễn Công Trứ cho rằng xuân là mùa quí nhất trong bốn mùa, một khắc đêm xuân đáng giá nghìn vàng:

Hội đạp thanh xa mã dập dìu

Nghìn vàng một khắc xuân tiêu

(Cảnh Xuân)

Người ta vui đón lúc xuân mới sang và không khỏi buồn tiếc lúc xuân tàn:

Lạc hoa phi nhứ thành xuân mộng

Thặng thủy tàn sơn dị tích du

(Mộ xuân hoài cảm – ðái Thúc Luân)

Cảm xúc nhất là lúc cuối xuân, khách đi xa về thăm nhà thấy cảnh vật hoang vắng, tiêu sơ, chỉ còn khóm trúc xanh chờ đợi chủ về ngắm đỡ buồn:

Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi

Tân di hoa tận hạnh hoa phi

Thỉ liên u trúc sơn song hạ

Bất cải thanh âm đãi ngã qui

(Mộ Xuân Qui Cố Sơn Thảo ðường-Tiền Khởi)

Cửa động xuân tàn oanh yến thưa

Tân di cạn lứa hạnh phai vừa

Cảm thương khóm trúc bên song ấy

Vẫn bóng xanh chờ đón chủ xưa

(Cuối Xuân Về Nhà Trên Núi Cũ)

Không phải chỉ cảnh xuân tàn người ta mới thấy buồn. Lúc xuân đến, thăm lại ngôi nhà hoang vắng với cảnh vật vô tình, cái cảm giác bâng khuâng ngậm ngùi lại càng tăng gấp bội:

Lương viên nhật mộ loạn phi nha

Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia

ðình thụ bất tri nhân khứ tận

Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa

(Sầm Tham – Sơn Phòng Xuân Sự)

Xao xác vườn Lương lượn quạ chiều

Nhà xa dăm mái ngó tiêu điều

Cây sân, người vắng, sao hờ hững

Xuân đến hoa xưa lại nở nhiều

(Cảnh Xuân Nhà Trên Núi)

Vua Trần Thánh Tôn (đời Trần) khi dạo vườn trong cung thấy hoa xuân nở, buồn nhớ người xưa:

Môn không trần yểm kính sinh đài

Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai

Vạn tử thiên hồng không lạn mạn

Xuân hoa như hử vị thùy khai

(Cung Viên Xuân Hoài Cựu)

ðường rêu bụi phủ cửa bên ngoài

Hiu quạnh ngày thưa kẻ vãng lai

Nghìn tía muôn hồng đua sắc thắm

Hoa xuân còn đó nở vì ai ?

(Vườn Cung Xuân Nhớ Người Xưa)

Cảnh xuân làm vui người vô sự, nhưng lại làm buồn nhiều

cho những người sống trong cô đơn, phòng không gối chiếc, những ly phụ thời chinh chiến, đêm nằm mơ đến chỗ chồng đi thú ở Ngư Dương, trong thơ ðái Thúc Luân:

Niểu niểu thành biên liễu

Thanh thanh mạch thượng tang

ðề lung vong thái diệp

Tạc dạ mộng Ngư Dương

(Xuân Khuê)

Bên thành phất phơ liễu

Xanh xanh dâu trên đường

Giỏ đeo quên hái lá

ðêm qua mộng Ngư Dương

(Xuân Của Người Phòng Khuê)

Hay người chinh phụ mong đợi chồng về theo lời hẹn năm trước:

Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu

Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca

Nay quyên đã giục oanh già

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo

Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ đào bông

Nay đào đã cuốn gió đông

Phù dung lại nở bên sông bơ sờ

Hẹn cùng ta Lũng Tây năm ấy

Sớm đã trông nào thấy hơi tăm...

(ðoàn Thị ðiểm – Chinh Phụ Ngâm)

Người thiếu phụ của Vương Xương Linh thì hối tiếc đã xui chồng đi xa tìm đường công danh, thấy khuê phòng vắng lạnh lúc xuân về:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu

(Khuê Oán)

Phòng khuê sầu hận chẳng vương nàng

Lên gác ngày xuân đẹp điểm trang

Bất chợt bên đường trông dáng liễu

Công danh tìm kiếm tiếc xui chàng

(Oán Hận Phòng Khuê)

Bi thảm nhất là cảnh ngộ người chinh phu trở thành vị vong nhân khi chồng bỏ thân nơi chiến trường, để buồng xuân lạnh lẽo:

Thệ tảo Hung Nô bất cố thân

Tam thiên điêu cẩm táng Hồ trần

Khả liên vô định hà biên cốt

Do thị xuân khuê mộng lý nhân

(Trần ðào – Lũng Tây Hành)

Hung nô thệ diệt vẫn quên thân

Vùi xác đất Hồ biết mấy quân

Vô định bên sông xương xót lấp

Chỉ còn trong mộng kẻ buồng xuân

(Khúc Hát Lũng Tây)

Cảnh xuân tươi đẹp cũng có khi làm chết lòng người trong cuộc chia tay giữa hai người bạn thân thiết, trong thơ Trịnh Cốc:

Dương tử giang đầu dương liễu xuân

Dương hoa sầu sát độ giang nhân

Sổ thanh phong địch ly đình vãn

Quân hướng Tiêu tương ngã hướng Tần

(Hoài Thượng Biệt Hữu)

ðầu sông dương liễu xuân tươi

Hoa dương buồn chết dạ người sang sông

Ly đình sáo vẳng từng không

Dặm Tiêu anh ruổi tôi trông nẻo Tần

(Sông Hoài Biệt Bạn)

ðáng buồn cho duyên phận người cung nữ được vua yêu quí lúc ban đầu với tuổi xanh đẹp như hoa xuân:

Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ

ðóa hải đường thức ngủ xuân tiêu

Cành xuân hoa chúm chím chào

Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai

nhưng rồi lại gặp cảnh phòng không chiếc bóng vì tình vua đã phai nhạt:

ðông quân sao khéo vô tình

Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân

(Nguyễn Gia Thiều - Cung Oán Ngâm Khúc)

ðời người vẫn được xem như là một giấc xuân mộng, cuộc sống chỉ là phù du:

Xử thế nhược đại mộng

Hồ vi lao kỳ sinh

(Lý Bạch)

(Cuộc đời như mộng lớn

Sống lao đao làm gì ?)

Cho nên ðỗ Phủ vốn là con người của cuộc đời thực tế mà còn có lúc thấy xuân qua cũng than buồn và không màn đến danh lợi; nên vui chơi:

Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân

Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân...

Tế suy vật lý tu hành lạc

Hà dụng phù danh bạn thử thân

(Khúc Giang)

Một cánh hoa bay giảm vẻ xuân

Sầu ai bàng bạc gió xoay vần...

Gẫm suy lẽ vật nên vui thỏa

Danh vọng mà chi bận tấm thân

(Sông Khúc)

Lý Bạch từng mô tả: “Phù thiên địa giả vạn vật chi nghịch lữ, quang âm giả bách đại chi quá khách...” (Ôi trời đất là quán trọ của muôn vật, ánh sáng là khách qua của trăm đời...)

Thấu rõ lẽ đó, Vương Duy có thơ:

Nhật nhật nhân không lão

Niên niên xuân cánh qui

Tương hoan hữu tôn tửu

Bất dụng tích hoa phi

(Tống Xuân Từ)

Ngày ngày người lớn tuổi

Năm năm xuân lại về

Vui say vò rượu đó

Hoa rụng tiếc làm chi

(Thơ Tiền Xuân)

Xuân, hưởng thụ với rượu với thơ, hoặc khác hơn, sống bình thản và quên lãng mọi sự ở đời như Mạnh Hạo Nhiên:

Xuân miên bất giác hiểu

Xứ xứ văn đề điểu

Dạ lai phong vũ thanh

Hoa lạc tri đa thiểu

(Xuân Hiểu)

Giấc xuân sáng nào biết

Khắp nơi chim ríu rít

ðêm nghe tiếng gió mưa

Hoa rụng nhiều hay ít ?

(Sáng Xuân)

Như vua Trần Nhân Tôn, trong bài “Xuân hiểu”:

Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ qui

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi

(Thức giấc vén song the

Nào hay xuân đã về

Sóng đôi cánh bướm trắng

Phơ phất lượn hoa kia)

Tính cách nhàn dật, phóng khoáng làm cho đời người bớt buồn lo trong cuộc sống thường ngày. Ở bậc cao hơn, các thiền sư nhìn đời theo lẽ vô thường, cảnh xuân trước mắt dù tươi đẹp, quyến rủ bao nhiêu cũng là ảo ảnh:

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì

Hoa điệp ưng tu cọng ứng kỳ

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn

Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

(Giác Hải)

(Xuân đến bướm hoa quen tiết ra

ðúng kỳ xuất hiện bướm cùng hoa

Bướm hoa vốn gốc đều hư ảo

Chẳng để loài kia vương vấn ta)

Xuân đến xuân đi chỉ là chỉ là sự tuần hoàn của trời đất, không có gì là tồn tại miên trường, cũng không có gì là mất đi vĩnh viễn:

Xuân khứ bách hoa tận

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

(Mãn Giác)

(Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân về trăm hoa tươi

Việc đời qua trước mắt

Trên đầu già đến thôi

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng sạch

Sân đêm vừa nở một cành mai)

Huống chi thân phận con người rất mong manh, đời người ở cõi trần là tạm bợ, chỉ tìm thấy cuộc sống miên viễn ở thế giới khác, thành thử không nên sợ về sự sống chết hiện tại:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Thảo mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

(Vạn Hạnh)

(Thân như ánh chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi thu úa ròng

Gẫm lẽ thịnh suy lòng chẳng bận

Thịnh suy đầu cỏ hạt sương trong)

Lý hội lẽ nhiệm mầu của trời đất như vậy, nên dù ở cương vị một vị vua, sống trong cảnh vương giả, Trần Nhân Tôn vẫn xem thường mọi việc ở đời, chỉ ngắm nhìn trời xuân xanh biếc mà thấy lòng thanh thản:

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì

Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi

Khách lai bất vấn nhân gian sự

Chỉ bạng lan can khán thúy vi

(Xuân Cảnh)

Tiếng chim thưa hoa liễu đầy cành

Chiều dọi thềm hoa mây thoáng nhanh

Khách đến chuyện đời không hỏi tới

Chỉ bao lơn tựa ngắm trời xanh

(Cảnh Xuân)

oOo

Ngoài những vần thơ xuân biểu hiện cảm xúc về thiên nhiên, gia đình, đất nước, thân phận con người trong xã hội, ta thấy một số nhà thơ Trung Hoa có khuynh hướng Lão Trang khi diễn đạt tư tưởng về cuộc sống nhàn dật, phóng khoáng của mình, coi đời như là mộng, nên muốn tận hưởng các thú vui

xuân như uống rượu, ngâm thơ, xem hoa, ngắm trăng, hoặc lãng mạn hơn, chiêm ngưỡng giai nhân, hay triết lý hơn, sống lãng quên đời, như Lý Bạch, ðỗ Phủ, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên...

Khác với họ, các thi gia Việt muốn hiển dương thiền đạo, trong khi hội nhập vào cuộc vận hành của thiên nhiên, quán triệt lẽ vô thường của vạn vật, xem sự hưng thịnh, suy vong, sống, chết là một nhất thể, hay là một diễn biến liên tục của đời người từ cõi trần qua một cảnh giới khác (sinh ký tử qui : sống gởi thác về), như trong thơ của các thiền sư Giác Hải, Mãn Giác, Vạn Hạnh, vua Trần Nhân Tôn (cũng là thiền sư về sau)...

Mùa xuân được diễn tả thật đa dạng với những lời thơ tuyệt diệu, hình ảnh, ý tưởng tân kỳ của những thi tài bất hủ Hoa-Việt, dù có tính chất lạc quan hay bi quan.

Ta không khỏi cảm xúc nhiều khi ngâm ngợi những vần thơ đẹp ấy, bên cốc rượu ngọt hay tách trà hương mỗi độ xuân về, tết đến, nhất là khi ở quê người bắt gặp những dòng thơ mang đầy tâm sự của kẻ tha hương./.

ðồng Xuân (Be In Accord), oil on canvas, 24"x36"

Trương Thị Thịnh

NGUYỄN DU VỚI DÒNG THỜI GIAN

Nguyễn Xuân Vinh Thư hoạ: Vũ Hối

Hai trăm ba mươi năm, kể từ ngày sinh của Nguyễn Du (1765), và tròn một trăm bẩy mươi chín mùa thu đếm từ ngày thi hào lìa trần thế (1820), Truyện Kiều vẫn được nhắc nhở đến bằng nhiều thứ tiếng như là một áng thơ tuyệt tác trong nền văn học thế giới. Ngày 13 tháng Sáu năm 1999, vào buổi chiều ở Thung Lũng Hoa Vàng, tại Santa Clara Convention Center, bộ CD Kiều Ca do nghệ sĩ Thu Ha øthực hiện được đưa ra mắt trước một số đông người ái mộ. Thu Hà chính là nữ nghệ sĩ duyên dáng, có tiếng ca thật nồng

nàn và giọng ngâm đầm ấm trong ban Tam Ca ðông Phương đã đoạt giải nhất tại ðại Hội Dân Ca Á Châu tổ chức ở ðài Loan năm 1972. Tôi biết Thu Hà như là bác sĩ Nguyệt Mehlert tại San José và, một lần tôi tới đây nói chuyện, chị đã ngâm một bài thơ tôi mới làm trong phần văn nghệ giúp vui. Tôi được biết thêm là trong hai chiếc CD của bộ Kiều Ca, Thu Hà đã thực hiện sau một năm làm việc, có lời giới thiệu và ngâm thơ của Thu Hà, Kiều Loan và Thanh Hùng, và nhiều đoạn thơ được phổ nhạc rất truyền cảm. Cũng vì thế mà khi nhận được hai vé mời của nhóm y sĩ thân hữu, chúng tôi đã thấy rất hứng khởi khi đến tham dự buổi trình diễn. Trước khi đi, một người bạn là y sĩ đồng nghiệp với Thu Hà đã nói riêng với tôi là ban tổ chức có ý muốn tôi nói đôi lời cảm nghĩ. Tôi đã sắp sẵn mấy điều để nói. Theo tôi, sau CD Minh Hoạ Kiều của Phạm Duy, Kiều Ca của Thu Hà sẽ góp thêm phần truyền bá tập thơ Kiều bằng thanh âm tới giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại, đặc biệt tới một số rất nhiều các em không đọc được thơ Kiều trong nguyên bản quốc ngữ.

Hai câu thơ của Nguyễn Du thường được người đời nhắc nhở không phải là hai câu lấy trong Truyện Kiều mà lại là hai câu thơ chữ Hán là những câu kết trong bài ðộc Tiểu Thanh Ký

ðọc câu chuyện thương tâm của nàng Tiểu Thanh đời nhà Minh, khoảng ba trăm năm trước đó, nhà thơ nghĩ cảnh đồng điệu mà than rằng: hơn ba trăm năm về sau có còn ai đọc truyện mà thương cảm đến Tố Như hay không? Nỗi khổ tâm của Nguyễn Du, và cuộc đời phong trần của nhà thơ trong thời Lê mạt là cha mẹ mất từ lúc còn ít tuổi, ở với các anh, có văn tài, lại giỏi nghề cung kiếm, nhưng thi cử chỉ đậu được tam trường, ngoài hai mươi tuổi vừa ra làm chức võ quan nhỏ ở Thái Nguyên thì vua Lê rời nước lưu vong, ông phải về ẩn ở quê vợ ở Thái Bình trong mười năm gió bụi, đói khổ. Sau này vua Gia Long thống nhất sơn hà, lên ngôi cửu

ngũ, ông được vời ra làm quan, có lúc ở, có lúc về, có lần được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh tuế cống, mức công danh làm tới Lễ bộ Hữu Tham Tri, phong Hầu tước Du ðức, nhưng ông vẫn không tha thiết với quan trường, chốn triều trung vẫn dè dặt lời nói, tránh sự tị hiềm. Nhiều học giả phê bình tư tưởng của Nguyễn Du thường cho rằng ông thuộc giòng dõi thế gia vọng tộc, thân phụ là Hoàng giáp Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm làm Tể Tướng thời Lê, Trịnh, các anh đều thi đỗ làm quan to nên ông vẫn giữ lòng trung với nhà Lê, phải miễn cưỡng ra làm quan với nhà Nguyễn nên lúc nào ông cũng

Nếu nghĩ như vậy thì cho Nguyễn Du là người yếm thế, chán nản sự đời. Nhưng dù bản tính là người trầm lặng, ít nói, Nguyễn Du đã sống trong một thời đại có nhiều thăng trầm của đất nước, từ những năm cuối cùng của Trịnh Nguyễn phân tranh, đưa đến sự sụp đổ của triều Lê, rồi tiếp theo đó là một thời gian ngắn ngủi có những chiến tích oai hùng của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và lúc cuối đời ông đã được chứng kiến những thắng lợi ngoại giao của niên đại Gia Long mà ông đã là một trong những người đóng góp. Tuy không lộ ra ngoài là một anh hùng cái thế nhưng Nguyễn Du cũng là một tay hào kiệt, đã dùng văn tài của mình để gây nên sự nghiệp, giúp ích cho quốc gia và dân tộc. Cái dũng của Nguyễn Du đã ẩn trong kẻ sĩ của con người ông. Vì đã từng chịu đói khổ mười năm để chờ thời, vì tự biết mình là người có toàn tài, cả văn lẫn võ, nên trong những năm về cư ngụ ở quê nhà trong giải núi Hồng Lĩnh, tuy vẫn làm văn thơ nhưng ông đã tự mệnh là Hồng Sơn Liệp Hộ, là người săn bắn ở núi Hồng. Cái nhàn tản của cuộc đời giữa khung cảnh núi rừng thâm u đã được trải trong một thời gian tồn trữ năng lượng văn hoá để chờ một xuân thời trổ lộc đâm hoa. Trong những bài thơ chữ Hán mà Tố Như tiên sinh để lại, nhiều bài được sáng tác trong thời gian về sau khi ông làm chánh sứ đi tuế cống ở Yên Kinh (1813-1814), những bài thơ đã gây được sự kính nể của những vị quan trong bộ Lễ của phương Bắc. Trong Bắc Hành Tạp Lục, ông để lại nhiều bài vịnh những anh hùng liệt sĩ trong sứ Trung Quốc. Qua sông Hoài, ông nhớ đến Hàn Tín khi xưa,

thời trẻ lưu lạc có lúc bị đói đã nhận được bát cơm của bà Phiếu Mẫu để lót lòng, sau này nhờ Tiêu Hà tiến cử nên được vua Hán trao ấn Thượng Tướng, sẻ cơm nhường áo, mà sau cũng bị giáng xuống làm Hoài Âm Hầu để rồi bị vạ chu di tam tộc. Làm bài thơ tưởng niệm người xưa nhưng ông dè dặt lời ăn tiếng nói ở chốn triều trung. Sau đó, qua nơi mà khi xưa Hàn Tín dụng binh, Du ðức Hầu cũng cảm khái viết một bài thơ bát cú mở đầu bằng

tỏ cái hùng khí khi xưa, vị tướng quân phất cờ lệnh cho trăm vạn quân vượt sông qua phía Bắc, để đời sau dưới trận địa nước Yên còn đào thấy gươm giáo của tử sĩ để lại chiến trường. Trong thời gian đi sứ, mỗi khi qua nơi nào có ghi tích lịch sử Trung Hoa, Nguyễn Du đều làm thơ để lại, trong đó có chen tâm sự của mình. Khi đi qua làng cũ của Lạn Tương Như, ông viết bài thơ ngũ ngôn với bốn câu đầu bộc lộ quan niệm người anh hùng của thi hào

Những câu thơ có nghĩa là người có dũng lớn không cần dùng đến sức mạnh. Lạn Tương Như là người được như thế. Chỉ dùng tài năng và trí tuệ mà giữ được ngọc quý cho nước Triệu để đem về. Câu cuối nói về chuyện mỗi lần Lạn Tương Như đi đâu mà gặp xe của Liêm Pha là bậc Thượng Khanh có công giữ nước Triệu thì ông lại cho xe rẽ đi ngả khác để tránh sự tranh chấp giữa hai công thần. Sau này Liêm Pha hiểu được tấm lòng cao thượng của Lạn Tương Như và thân đến nhà để tạ lỗi, xin kết bạn tâm giao. Cũng vì quan niệm người hùng không phải qua vũ dũng mà qua trí tuệ nên Nguyễn Du mới coi Vương Thúy Kiều là người anh hùng qua lời nói của Từ Hải

Câu "anh hùng nhiên hậu thức anh hùng" được nhà thơ nhắc lại cũng là câu tự hỏi đời sau có ai hiểu được mình hay không? Muốn nhìn thấy Nguyễn Du như là một con người có nghị lực phi thường, vượt qua được nhiều gian lao khổ ải, khắc phục được những trở ngại để một mặt sáng tác văn thơ tuyệt mỹ để lại đời sau, và cùng một lúc ra gánh vác việc công, có khi làm tri phủ Thường Tín ngoài Bắc, rồi có lúc được tiệu về Kinh lãnh chức đại thần, có năm dài đi sứ, mang trọng mệnh quân vưong ký thác, thì chỉ việc đọc lại những đoạn tả Từ Hải gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo, khi buông cuốn cảo thơm người đọc phải nhận thức rằng nhà đại thi hào không phải là người yếm thế, buông tay theo thế sự xoay vần để ngồi nhà tưởng nhớ tới một thời xưa huy hoàng đã vang bóng. Trái lại, tuy là một nhà thơ thường hay ngâm vịnh nhưng Nguyễn Du cũng giầu khí lực để vượt qua nhiều đoạn trường cam khổ. Vào đầu thế kỷ XIX, các quan triều mỗi lần đi sứ, dọc theo đường bộ từ Thuận Hóa đến Yên Kinh rồi trở về thì thật là trần ai khổ sở. Lần làm chánh sứ đi tuế cống năm ông 48 tuổi, bắt đầu đi từ tháng Hai năm Quí Dậu (1813), bằng đường bộ phái đoàn đi qua nhiều tỉnh như Quảng Tây, Quảng ðông, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Hà Bắc, Giang Tô ..., rồi lúc trở về đất Hà Nam, Hà Bắc có nhiều giặc giã, sứ đoàn phải đi tránh vòng về phía ðông dài thêm hàng ngàn dặm. Nhà thơ đã bộc lộ cảnh ngộ này trong bài Tố Sơn ðạo Trung, có những câu

có nghĩa là những ngày trước, hai tỉnh Hà Nam và Hà Bắc có chiến trận, thành ra đi vòng thêm ngàn dặm càng thấy nhớ quê. ði giữa đám bụi hồng, tóc càng thêm thấy bạc. Về chiều mà đường còn phải đi lên cao, còn gì thấy buồn hơn. Cảnh binh biến trong khi đi đường, Nguyễn Du đã tả trong bàiTrở Binh Hành dài sáu mươi ba

câu, nói về cảnh loạn lạc, dân chúng trẻ già dắt díu nhau bỏ nhà hoang vắng để di tản cư, hai huyện Hoạt và Tuấn nổi loạn, quan lại mười người thì tới tám hay chín người bị giặc giết, các tỉnh Sơn ðông và Trực Lệ đều hưởng ứng nên đi tới đâu các quan địa phương tiếp đón phái đoàn cũng bối rối không biết đường tiến hay lui ra sao. Có khi ông đi qua sông Hoàng Hà, nước dâng lớn, phải kẹt lại trên một bãi cát năm ngày không có ăn. Hơn môt năm sau, tới thàng Tư năm Giáp Tuất (1814), phái đoàn mới trở về kinh thành. Vì Nguyễn Du đã chu toàn sứ mệnh, vượt được bao nhiêu trở ngại của thiên nhiên, thời sự, trên đường đi lại dùng thiên tài văn thơ gây được sự kính nể của ngoại bang, nên chỉ sáu năm sau, vào năm Canh Thình là Minh Mệnh Nguyên Niên (1820), ông lại được chọn làm chánh sứ để đi Yên Kinh cầu phong cho tân Vương. Tuy chưa kịp đi Nguyễn Du đã mất vì bạo bệnh, nhưng trong cuộc đời ông đã chứng tỏ rằng là kẻ sĩ gặp thế cuộc thăng trầm, triều đại này đổi sang triều đại khác, ông có trí mà cũng có hành, những điều ông làm đều đưa lại vẻ vang cho quốc gia và dân tộc. Nỗi băn khoăn của Nguyễn Du, sợ người đời sau không hiểu mình, không khóc Tố Như như ông đã viết, không phải là vì sợ bị hiểu là không giữ vẹn lòng trung với triều Lê, mà là ngại rằng sự nghiệp văn thơ và công sự của ông không được nhận xét đúng mức. ðặc biệt là những áng văn nôm của Nguyễn Du, nổi bật là cuốn ðoạn Trường Tân Thanh, tức là Truyện Kiều mà ông đã dày công tạo dựng, ông sợ rằng sẽ bị dần dần quên lãng trong những thế hệ sau. Ta nên nhớ lại là hơn hai trăm năm về trước, về thời đại của Nguyễn Du, chữ Hán vẫn là văn tự chính, dùng trong công văn và thi cử. Dù cuốn Truyện Kiều, sau khi được cụ Hoa ðường Phạm Huy Thích, tiến sĩ triều Lê (1779), cho khắc bản gỗ để in ra và được phổ thông tới quần chúng, nhưng lúc đầu vẫn chỉ có một số ít người khoa bảng tìm đọc, mà chính yếu chỉ là do khẩu truyền trong dân gian, nhất là trong giới phụ nữ là những người ít được đến trường theo học. Chỉ sau khi Nguyễn Du qua đời, Truyện Kiều được các bậc vương gia chú ý đến, vua Minh Mệnh viết bài Tổng thuyết năm 1830, và năm 1871 chữa văn bản và chép lại để truyền đi thì áng thơ này mới được mọi tầng lớp người trong nước, từ vua quan, sĩ phu cho đến dân giả hết lòng ưa chuộng. Riêng đối với tôi thì lần đầu tiên được nghe thơ Kiều là do bà nội luôn luôn nhắc nhở con cháu:

Nội tổ tôi là người sinh ở cuối thế kỷ XIX, vốn chữ Hán, học lúc còn là con gái, chỉ đủ viết tên họ hay học được vài bức hoành phi, câu đối chứ đâu có đủ để đọc văn bản ðoạn Trường Tân Thanh, còn gọi là Kim Vân Kiều Tân Truyện, viết bằng chữ Nôm. Nguyễn Du lúc sinh tiền không biết rằng đời sau tiếng Việt được chuyển văn tự La Tinh và nhờ đó mà Truyện Kiều lại được phổ thông ra đại chúng tới tất cả mọi tầng lớp, già trẻ, trai gái trong dân gian. Vì vậy chúng ta có thể nghĩ rằng Tố Như đã lo ngại rằng áng thơ tuyệt tác của mình mấy trăm năm sau sẽ không còn phổ thông để người sau tìm đọc, như là hiện nay mình đang được đọc tập văn ký sự tả cuộc đời của nàng Tiểu Thanh. ðiều này không phải là vô lý, vì ngoài mấy bản thảo cuốn thơ viết bằng tay, mà nghe nói có một bản được bọc gấm Nguyễn Du dâng vua Gia Long, còn những bản khác in được phổ biến bởi tiến sĩ PhạmQuý Thích, được gọi là bản Hoa ðường, thì chỉ ít lâu sau là không còn lưu hành nữa và Truyện Kiều chỉ được ngâm nga truyền khẩu lại mà thôi. Trong bài Tổng thuyết viết năm 1830, nghĩa là mười năm sau khi Nguyễn Du qua đời, vua Minh Mệnh đã hạ bút rằng: "Hoa ðường dĩ viễn, phá bích tiêu điều ..." nghĩa là bản của Hoa ðường in ra đã cũ rồi, như vách nát tiêu điều. Vua Tự ðức, trong bài Tổng từ, viết năm 1871, thì lại rõ ràng hơn qua những câu thơ: "Cận lai, danh sơn phong vũ thực; Hoa ðường bình bản vô lưu truyền", nghĩa là núi lưu danh bị gió mưa soi mòn, như cuốn thơ Hoa ðường nay cũng không còn nữa.

Thời nay chúng ta không còn phải lo ngại là Truyện Kiều không tồn tại với thời gian vì cuốn thơ đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và ghi bằng những nét vàng son trong văn học sử thế giới. Nhưng chúng ta cũng cảm thông với những lời để lại của Nguyễn Du mà sợ rằng tâm sự của nhà thơ gửi gắm trong phong cảo có thể bị những con người theo duy vật chủ nghĩa làm mờ ám trên quê hương, và với thế hệ trẻ Việt sống ở hải ngoại, mỗi ngày một bành trướng, sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Du không được hiển hiện ra rực rỡ đúng mức như những công trình của các tác giả nước ngoài mà các em đã được biết tới ở học đường. Kiều Ca của Thu Hà được ra đời

đúng lúc, và qua hai CD, giọng ngâm, tiếng hát của các nghệ sĩ sẽ truyền cảm tới người nghe, đặc biệt là các bạn trẻ, theo chính lời Thu Hà tâm sự. Từ nghe Kiều Ca, biết đến nàng Kiều và những nhân vật liên hệ, biết những tình tiết trong truyện, biết thêm được tiếng Việt và hiểu được giá trị văn chương của cuốn thơ, dưới góc nhìn của các bạn trẻ Việt trưởng thành trong đầu thế kỷ XXI, biết đâu chúng ta chẳng được biết những khám phá mới về Truyện Kiều. Mỗi người trong chúng ta nhìn luân lý trong cuốn thơ dưới một khía cạnh riêng biệt. Riêng tôi, từ khi nghe bà nội nhắc nhở đến hai câu thơ đã nói ở trên, mới đầu tôi không nhận thấy cái hay của lời thơ mà chỉ tò mò muốn biết thêm về Hoàng Sào mà tôi chỉ biết sơ qua là một tướng giặc. Về sau tôi tìm đọc ở những cuốn Truyện Kiều có chú giải mới biết thêm là Hoàng Sào chính là một nho sinh hay chữ đời ðường, khi đi thi bị các giám khảo bất công đánh trượt mà uất ức nổi quân làm phản. Từ khởi sự dấy quân ở Sơn ðông, Hoàng Sào đã đánh phá được các tỉnh Hà Nam, Giang Tây, Phúc Kiến..., trong mười năm trời (675-884), rồi sau chiếm được Trường An lên ngôi ðế là Tần Kim Thống, nhưng sau cũng bị thua quân triều đình và bị thủ hạ hãm hại để cho ngàn đời sau không được một ai khen là người có tài đức. Cùng một lúc được biết đến những vẻ tuyệt mỹ trong thơ Kiều, tôi ghi nhớ lời khuyên của nội tổ rằng trong cuộc đời dù sự việc có xẩy ra không thuận với lòng người cũng nên kiên nhẫn, tìm cách vượt qua chứ đừng nổi lòng căm thù mà có thể làm việc trái với đạo nghĩa, thủy chung.

Trên đây là những ý kiến tôi đã ghi sẵn vào một trang giấy để sẽ nói đôi lời trong phần khán thính giả góp ý kiến sau khi dự buổi giới thiệu Kiều Ca của Thu Hà. Trước đây, trong vài dịp khác, tôi đã được nghe Thu Hà, Kiều Loan và Thanh Hùng ngâm thơ, và tôi tin rằng sau khi đã đưa vào CD với những kỹ thuật thu âm tân kỳ, người nghe sẽ được những giờ phút thưởng thức lời thơ, tiếng nhạc thật lạ

Nếu những đọan thơ trích được chọn lọc và trình bày đầy đủ những diễn tiến quan trọng trong cuốn thơ và làm nổi bật được giá trị văn chương của tác giả qua sự chọn chữ và gieo vần, cùng kỹ thuật miêu tả, từ cảnh vật đến hình dáng và dung nhan của từng nhân vật trong truyện, sự liên hệ và tình cảm giữa những vai chính, thì hai CD Kiều Ca của Thu Hà thật là một đóng góp quý giá vào sự phổ biến và lưu truyền áng thơ tuyệt tác này ở hải ngoại. Nhưng khi tới Santa Clara Convention Center, trước giờ khai mạc chút ít mà đã đông chật người, tôi lại được một thân hữu trong y giới cho biết là chương trình giới thiệu Kiều Ca đã được sửa đổi và sau nghi lễ khai mạc và lời chào mừng của ban tổ chức, tôi sẽ là người được mời lên nói đầu tiên. Tôi chỉ có ít phút để ghi chép vội vàng lên một mảnh giấy vài câu thơ Kiều và thay đổi lại dàn bài nói chuyện, và lúc được mời lên sân khấu, tôi đã nói về sự đóng góp quý giá của Thu Hà trong sự giới thiệu bằng thanh âm Truyện Kiều tới giới trẻ Việt ở nước ngoài. Sau đó, nhớ lại những bài nói chuyện về Kiều trước đây của tôi với học sinh Trung học ở đô thành Sài Gòn và để gợi trí tò mò, tìm hiểu của thế hệ trẻ hiện nay, tôi đã nói về nghệ thuât siêu việt của Nguyễn Du đã tả tâm tình của các nhân vật trong Truyện Kiều biến đổi theo với thời gian. Theo lời đề nghị của một số thân hữu dự buổi ra mắt Kiều Ca, tôi đã viết lại phần hai của bài nói chuyện như ở dưới đây, gọi là ít lời góp mặt dông dài trên văn đoàn hải ngoại.

Là một nhà toán học, và từ mấy chục năm nay chuyên tâm nghiên cứu các chuyển động của các vật thể trong không gian, theo với thời gian, mỗi lần đọc lại Truyện Kiều tôi lại thêm một lần thán phục Nguyễn Du ở chỗ thi hào luôn luôn có một nhận định chính xác về sự luân lưu của thời gian. ðề có một nhận định tổng quát, ta chỉ cần đọc câu đầu và câu cuối của cuốn sách

là có thể đoán ngay được rằng dòng thời gian sẽ luôn luôn hiển hiện trong cuốn thơ. Các nhà bình luận Kiều ai cũng công nhận là Nguyễn Du có biệt tài tả cảnh, tả người và tả tình. Trong bài này tôi sẽ nói về cách dùng cảnh vật để tả thời gian và cách tả tâm tình người trong cuộc biến đổi theo vơi thời gian của thi hào.

ðể tả thời gian trôi đi, Nguyễn Du dã dùng sự thay đổi của bốn mùa xuân, hạ, thu và đông qua cảnh vật và chim muông một cách tuyệt vời. Chỉ dùng hai câu lục bát, tác giả vẽ ra được một bức tranh linh động để ấn định thời gian. ðể dẫn tới một cảnh trưa hè, Thúy Kiều chăng tấm màn hồng, tắm nước thang lan, Nguyễn Du đã viết

Hai câu thơ gợi cảnh vào hè, nghe tiếng chim đỗ quyên kêu ban đêm, rồi sang ban ngày nhìn ở góc tường thấy cây thừu lựu đã nở hoa chói lọi. Tuy không tả rõ ra, nhưng người đọc cũng thấy một khung cảnh vắng lặng, để rồi sau đó, buồng the gặp buổi thong dong, chỉ có riêng Thúc sinh và Kiều, chàng mới thấy rõ ràng trong ngọc trắng ngà để thảo nên một thiên ðường luật tả cảnh tắm hoa. Và cũng để tạo ra khung cảnh hợp ý, hợp tình để sau đó Kiều căn vặn đến điều, bắt chàng Thúc phải tính sao cho trọn mọi đường, đưa nàng ra khỏi lầu xanh.

Ngày tháng nối tiếp nhau trong Truyện Kiều cũng được Nguyễn Du sắp đặt đúng mức. Lấy một thí dụ, ta theo dõi thời gian đã xẩy ra mối tình đầu của nàng Kiều. Lần đầu tiên Kiều gặp Kim Trọng để cho người quốc sắc, kẻ thiên tài, mới thoạt nhìn đã luyến ái, cơn tỉnh cơn mê, là vào tiết Thanh Minh, tức là đầu tháng Ba

Kim Trọng về nhà mơ tưởng tới người đẹp, ôm mối tương tư, cũng phải mất gần một tháng trời. Sau đó chàng buâng khuâng, nhớ cảnh, nhớ người, nhớ nơi kỳ ngộ tìm đến thì khi xưa cỏ non xanh tận chân trời, mà nay đã thành một vùng cỏ mọc xanh rì. Từ xanh non cho tới xanh thẫm, mầu sắc của cỏ cây đã được vẽ ra theo với diễn tiễn của thời gian. Chàng Kim lân la tìm đường và thuê được một căn nhà ở bên cạnh nhà Kiều. Sau đó ngày ngày đứng bên tường đông trông ngóng, phải mất hai tháng trời mới có dịp may được gặp lại nàng

Gặp nhau lần này là lần thứ hai, tính thời gian tất nhiên phải ở vào khoảng cuối tháng Năm. Sau đó hai người cách tường mà không được chạm mặt để phải đợi ít lâu mới có dịp cha mẹ và hai em đi dự sinh nhật ngoại gia vắng nhà, nàng mới được gặp lại ý trung nhân. Lần gặp này xẩy ra vào đầu mùa hè và Nguyễn Du đã viết

ðêm ngày nối tiếp nhau là diễn biến của thời gian, theo với ngày tháng, mầu hoa đỏ của mùa xuân bớt dần và mầu xanh thẫm của lá cây đã tới cùng với mùa hè. Vừa qua một đêm thề thốt, hẹn trăm năm đầu bạc với Kiều thì tảng sáng Kim Trọng nhận được tin của nghiêm đường gọi đi Liêu Dương để hộ tang thúc phụ. Trên đường đi của Kim Trọng, ngày tháng đi dần vào cuối hè để ta nhìn thấy và nghe thấy qua lời thơ của thi hào

Tiếng đỗ quyên vẫn kêu ra rả trong mùa hè, nhưng loáng thoáng đã có vài cánh nhạn đến trước khi có mùa thu. Như tất cả các thi sĩ từ cổ chí kim, Nguyễn Du cũng ưa tả mùa thu. Cảnh mùa thu mà

vào ban đêm thì dễ gây cảm súc cho người trong cuộc. trong đoạn Thúy Kiều đi trốn theo Sở Khanh, Nguyễn Du đã viết

Ban đêm, nghe tiếng đồng hồ nước nhỏ giọt, ta thấy được thời gian lặng lẽ trôi. Trời đã vào thu, lá cây vàng rơi rụng theo từng cơn gió, và ánh trăng tà treo đầu núi chiếu xuống một cách mờ ảo lối mòn đi trên cỏ. Cảnh vật như thế, ai là người xa quê chẳng thấy chạnh lòng đau khi bước chân đi. Ý kiến diễn tả như vậy mà được gói trọn vào bốn câu thơ tả cảnh, tả tình, và tả thời gian thật là tuyệt diệu. Thúc sinh từ giã Kiều để về thăm nhà ở huyện Tích, châu Thường và dò ý người vợ cả là Hoạn Thư cũng vào mùa thu

Khi chàng lên ngựa, nàng còn níu áo bào. Mùa thu đã nhuộm vàng lá phong, trông theo lối đi chỉ thấy bụi hồng, còn người đã khuất sau mấy ngàn dâu xanh. Mấy câu thơ đã tả được cảnh, được tình, rất linh động như cảnh chia tay đã hiển hiện trước mắt, tuy không nói đến thời gian nhưng thực là một hoạt cảnh sống dộng. Riêng câu cuối cùng đã thu gọn mấy câu thơ Chinh Phụ Ngâm của ðặng Trần Côn: "Tương cố bất tương kiến. Thanh thanh mạch thượng tang. Mạch thượng tang, mạch thượng tang. Thiếp ý, quân trung, thùy đoản trang?" đã được bà ðoàn thị ðiểm dịch là

Trong truyện Kiều, Nguyễn Du hay tả mùa thu với lá vàng, nhưng

tả ở đoạn nào cũng hợp tình hợp cảnh, đặc biệt là ở khung cảnh nào cũng có sự chuyển động để gợi ý thời gian đang trôi đi. Sau khi về nhà được một năm tròn, Thúc sinh nhìn thấy lá cây ngô đồng rụng mà nhớ lại cũng mùa thu này năm ngoái từ biệt Kiều để lên ngựa thăm quê

Nguyễn Du đã dùng những câu thơ tả cảnh vật thay đổi để định mức thời gian mỗi khi có một lớp chuyển tiếp trong truyện, và cùng một lúc khơi động chút ít tâm tình của những người trong cuộc. Những khoảng thời gian thi hào hay dùng là nửa năm hay một năm. Trong mười lăm năm bèo dạt mây trôi, xa bố mẹ và các em, Thúy Kiều đã hai lần ở thanh lâu, hai lần khoác thanh y làm kẻ tôi đòi, và ba lần đi tu ở chùa nếu kể cả lần cuối cùng ở thảo am ăn mặc nâu sồng với Giác Duyên, nhưng cũng có những năm có thể gọi là vui hạnh phúc với Thúc sinh và những năm ở bên Từ Hải đường đường là một vương phi, vinh hoa bõ lúc phong trần. Qua những câu thơ của Nguyễn Du tả tháng ngày trôi đi trong truyện ta cũng có thể ước lượng một cách khá chính xác những tháng năm Kiều thoát cảnh thanh lâu, không phải làm vợ khắp người ta, như nàng đã rền rĩ than khóc hộ ðạm Tiên. Ta có thể lấy vài thí dụ những đoạn năm tháng được ghi rõ thành lời thơ. Sau khi được Thúc sinh thu xếp cho Kiều thoát vòng trần ai, để một nhà trúc mai xum họp, thì nàng được hương lửa đượm nồng đúng sáu tháng trời, trước khi bị Thúc ông thưa kiện tới phủ đường

Lúc này trời đã về thu. Vị phủ quan, sau khi chấp pháp, cho nàng một trận đòn tan nát cành hoa, một sân lầm cát, lại cảm vì thi tài mà rộng lượng khuyên Thúc ông cho nàng về làm dâu chính thức.

Thời gian huệ lan thơm nức một nhà lần này được thêm chín tháng nữa cho tới muà hè

lúc này hoa đào nở mùa xuân đã phai sắc thắm, và lá sen đã mọc báo hiệu mùa hè bắt đầu. Kiều khuyên Thúc sinh về nhà để dò ý Hoạn Thư vì hai người đã ăn ở với nhau được gần một năm, nếu kể từ ngày nàng được Thúc ông chính thức nhận làm dâu. Như đã ghi ở đoạn trên, Thúc sinh đã nghe lời khuyên của Kiều và khi người lên ngựa kẻ chia bào trời cũng đã vào mùa thu. Như vậy Kiều chung sống hạnh phúc với Thúc sinh được một năm rưỡi. Khi tiễn chân, nàng hẹn một năm sẽ gặp lại

Sau khi đã về nhà với chính thê, vào mùa thu năm sau, khi lá ngô đồng đã rơi rụng xuống giếng, Thúc sinh nhớ lời hẹn ước và mấy mùa trăng gió với Kiều mà toan tính trở về thì Hoạn Thư cũng đã mớm lời nhắc chàng

Thúc sinh đi trên đường chưa về tới nhà thì Kiều đã bị Hoạn phu nhân cho người di bắt. Như vậy Kiều đã được sông dưới mái nhà của Thúc sinh ở Lâm Truy vào khoảng hai năm rưỡi, nếu không kể những ngày trăng gió vớichàng khi Kiều còn nấn ná ở chốn Bình Khang. Phải một năm sau Thúc sinh mới gặp lại Kiều vì

Tuy chỉ là lời đoán của phù thủy đạo nhân nhưng sự việc đã xẩy ra

đúng như vậy. Một năm sau khi tưởng Kiều đã bị chết thiêu, Thúc sinh về Vô tích thăm nhà thì Hoạn thư gọi nàng ra lậy mừng. Sau khi làm cho hai người giáp mặt chiền chiền mà không dám thở than cùng nhau, Hoạn tiểu thư đã hả dạ và cho Kiều xuất gia ở gác Quan Âm. thời gian ở chùa này chừng vài tháng cho đến cuối mùa thu

Sau đấy vì Thúc sinh tới thăm và khóc lóc kể nỗi đoạn trường với Kiều ở vườn sau và bị Hoạn Thư nghe thấy tỏ tường nhưng chưa ra tay, Kiều sợ hãi phải đi trồn và được sư Giác Duyên cho nương nhờ ở Chiêu Ẩn am. Nương nhờ cửa Phật cho đến cuối xuân thì chuyện ăn cắp chuông vàng, khánh bạc ở nhà Hoạn thư bị người biết, và nàng lại bị rơi vào tay Bạc bà, là cùng phường với mụ Tú bà

Từ cuối thu sang cuối xuân, tính cho tròn cũng là nửa năm

Như vậy, từ ngày Kiều rời nhà Tú bà cho đến lúc rơi vào tay Bạc bà là vào khoảng bốn năm cộng thêm chừng ba hay bốn tháng

Thời gian nương nhờ Từ Hải thì Kiều được thong dong hơn. Thời gian đầu sống chung để phỉ nguyện sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng cũng là sáu tháng

Lúc rứt áo ra đi để gây sự nghiệp, Từ hẹn là cùng lắm là một năm sẽ đưa

mười vạn tinh binh về đón nàng nghi gia. Thời gian chờ đợi này có lẽ chừng nửa năm mà thôi nếu ta so sánh những câu tả sân nhà nàng

với cảnh nhà cũ của Vương viên ngoại bỏ hoang vắng khi Kim Trọng tới dó la sau thời gian đi hộ tang nửa năm ở đất Liêu Dương

Thời gian làm Vương phi, ngồi sánh vai với ðại vương Từ Hải được ghi rất rõ ràng là năm năm qua những câu thơ tỏ khí phách ngang tàng

và cũng có những câu đượm ai oán

hay chỉ là một lời hẹn tiên tri

nhưng tựu trung về khoảng thời gian này thì Nguyễn Du đã ghi lại một cách rất chính xác. Tóm lại thời gian Kiều làm vợ Từ Hải là tròn sáu năm. Cộng với thời gian đã tính ở trên là hơn bốn năm trời, thì thòi gian nàng Kiều ở thanh lâu, ong qua bướm lại đã thừa xấu xa, thật chưa tới năm năm

Một khoảng thời gian nữa mà Nguyễn Du ghi nhận qua rất nhiều câu thơ là thời gian mười lăm năm lưu lạc giang hồ của Kiều. Có một điều đáng chú ý là những câu nói về khoảng thời gian này lại là những câu thơ đượm tình tha thiết. Khi gặp lại những người thân yêu, Kiều gục đầu vào lòng mẹ già

thổn thức

Mười lăm năm xa nhà cũng là mười lăm năm chờ đợi của những người thân như Thúy Vân

để đưa Thúy Kiều đến tái hợp với chàng Kim

Phải chăng trong quãng đời của Tố Như cũng có một khoảng thời gian mười lăm năm phong trần trôi nổi nên đã làm cho nhà thơ viết lên những lời tha thiết như vậy ? Chiếu theo niên biểu Nguyễn Du thì nếu thi hào có mười lăm năm gió bụi thì khoảng thời gian này ứng chiếu từ năm 1787 khi vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Kinh Bắc, quân Tây Sơn ra thu phục Bắc Hà, Nguyễn Du bỏ chức chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên để về quê vợ ở Thái Bình bắt đầu một quãng đời đói khổ. Năm 1796, một năm sau khi bà vợ họ ðoàn mất sau khi sinh nở, Nguyễn Du trong cảnh cùng cực, ôm cậu con trai trở về làng Tiên ðiền là quê cũ để gần họ hàng. Ông xếp sách vở lại, hàng ngày đi câu và săn bắn để kiếm lương thực nhưng cũng không đủ ăn. ðến năm Gia Long nguyên niên, 1802, ông được vời ra làm quan, bổ tri huyện Phù Dung và ba tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, hoạn lộ thênh thang, kết thúc khoảng mười lăm năm bẩy nổi, ba chìm, cuộc đời như bèo trôi sóng vỗ.

Ngoài nghệ thuật tả cảnh, tả người, Nguyễn Du lại có biệt tài tả tâm tình người trong truyện biến đổi, khi tăng, khi giảm theo với thời gian. Tôi không đi đến chỗ thái cực mà nói rằng thi hào cũng là một nhà toán học, nhưng lấy khách quan mà nhận định, Tố Như cũng biết tình người thay đổi, có thể vì xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Trong thời đại của Nguyễn Du, ở Âu châu bắt đầu môt thế kỷ phát triển tuyệt mức môn toán học, và đặïc biệt là lý thuyết những hàm số, nghiên cứu sự biến thiên của một lượng tùy thuộc một lượng khác gọi là biến số, thường thường gọi một cách chung là biến số thời gian. Lấy môt thí dụ giản dị, nhiệt độ trong một ngày không phải là một hằng số mà luôn luôn thay đổi theo với thời gian. Dòng thời gian luân lưu một chiều, nghĩa là lúc nào cũng tăng. Nếu nhiệt độ tăng theo thời gian,

ta nói là nhiệt độ là một hàm số đồng biến. Nếu nhiệt độ giảm, ta nói là hàm số nghịch biến. Ban ngày nhiệt độ tăng lên rồi tới một thời điểm nào đó, nhiệt độ giảm đi. Từ đồng biến chuyển sang nghịch biến, hàm số nhiệt độ lúc đó qua một trị số cực đại. Ngược lại, khi thời gian đi về đêm nhiệt độ giảm đi rồi tới một thời điểm gần về sáng, nhiệt độ bắt đầu tăng lên với ánh dương. Từ nghịch biến chuyển sang đồng biến, hàm số nhiệt độ phải qua một trị số cực tiểu. ðơn vị thời gian có thể là giờ, hay nếu hàm số là tình người thì đơn vị thời gian có thề là ngày hay tháng, nhưng bao giờ cũng phải kể từ một điểm gốc. Trường hợp nhiệt độ trong một ngày thì điểm gốc thời gian là lúc nửa đêm. Một điều cần thiết khác để có thể viết theo một hệ thống quy chiếu là lượng biến thiên theo với thời gian là một lượng có thể đo được như trong thí dụ đang kể thì đó là nhiệt độ bách phân. Vì vậy khi nói rằng tình người là một hàm số của thời gian, ta mặc nhiên công nhận rằng có máy đo tình cảm con người. Nhiệt độ trong một ngày có thể chuyển từ số dương sang trị số âm, thì tình người, nếu đo lường được, cũng có những trị số dương và những trị số âm, và khi biến thiên theo thời gian, có thể mỗi ngày một tăng, hay mỗi ngày một giảm, có thể đổi tăng thành giảm sau khi qua một trị số cực tiểu. Khi yêu thì tình cảm có những trị số dương và khi hận thì tình cảm có những trị số âm, và dĩ nhiên khi tình cảm có trị số không thì

Trong Truyện Kiều, để ấn định gồc thời gian, Nguyễn Du đã dùng một chữ "tưø" một cách tuyệt diệu. Ở trên ta đã có một vài câu trích dẫn có ghi gốc thời gian. Ở dưới đây ta trích dẫn thêm vài câu nói lên những hàm số biến thiên theo với thời gian kể từ ngày băt đầu

Hàm số tăng theo với thời gian băt đầu từ thời điểm gốc ở đây là đống hài cốt những tử sĩ. nếu theo những câu

thì ta lại có mỗi oán hận của nàng Kiều, nay là một hàm số giảm đi theo với

thời gian. Bốn câu thơ Kiều hay được nhắc nhở như là lời nhắn nhủ của chí sĩ Phan Bội Châu gửi tâm sự tới các đồng chí khi đến thăm cụ ở Bến Ngự là

Một thí dụ nữa cho ta tới bốn hàm số biến thiên, kể từ gốc thời gian, lấy ở tình cảnh của Hoạn thư

Từ thời điểm gốc, nghĩa là kể từ ngày được tin Thúc sinh cưới thêm vợ lẽ thì đối với Hoạn thư tin buồn đưa tới thì nhiều mà tin chàng thì lại không có gì. Lòng tức giận mỗi ngày một tăng, nàng sinh oán hận người chồng đen bạc.

Trong cuốn truyện, vì đeo tình cảnh hoa trôi bèo dạt nên Thúy Kiều đã nặng tình luyến ái nhiều người. Ta lựa ra ít câu tả tâm tình của nàng tăng theo với thời gian. ðối với Kim Trọng, khi chàng đi xa thì

Kiều yêu Thúc sinh vì chàng là người ăn chơi hào phóng, biết đủ bốn thú chơi tao nhã là cầm, kỳ, thi và tửu. Cũng bằng hai câu lục bát, Nguyễn Du đã tả mối tình của nàng thắm đậm theo với thời gian

Nếu còn ai thắc mắc rằng hai câu này đã tả mối tình của chàng Thúc thì coi thêm ở đoạn dưới sẽ thấy là Kiều đã rất sung sướng trong hạnh phúc khi được cưới về làm vợ

Khi bị bắt về làm hoa tỳ cho Hoạn thư, Kiều vẫn chỉ nghĩ đến Thúc sinh mà thôi qua những câu thơ

Sau này Kiều gặp Từ Hải, là người trượng phu, anh hùng, mang lại cho nàng uy quyền và phú quý, tất nhiên nàng phải nặng tình

Mối tình với Từ vương cũng là mối tình mỗi ngày một tăng theo với thời gian. Chỉ riêng Kim Trọng là người thật nặng tình với Kiều kể từ ngày đầu tiên gặp mặt

Nguyễn Du đã tả mối tình này từ lúc khởi đầu, luôn luôn là một hàm số tăng theo biến số thời gian

ðể tả tâm tình của Kim Trọng như là một hàm số, Nguyễn Du trước hết tả cảnh trăng tròn rồi khuyết, và đĩa đèn dầu thắp cạn năm canh như là biến số thời gian trôi đi và sau đó nói đến mối tình tăng lên như sau

ðể kết luận, ta thử lấy mấy câu trong Kiều để chứng minh rằng có mối tình,

sau khi tăng lên rồi lại có thể giảm, nghĩa là qua một trị số cực đại, và cũng có mối tình tuy khởi đầu có giảm nhưng rồi lại tăng, sau khi đã qua một mức thấp nhất. Những mối tình lên xuống bập bềnh như thế, tất nhiên ta tìm thấy ở chàng Thúc là con người tuy mê gái nhưng lại sợ uy quyền của kẻ lớn trong nhà. Ta trở về lúc Kiều nỉ non khuyên Thúc sinh về thăm nhà

từ lúc bắt đầu được chính thức về làm dâu, nàng tính thời gian chim nhạn đến mùa thu, chim yến tới mùa đông, thấm thoát cũng đã gần một năm trời qua. Thế mà tình của chàng Thúc thì

Mối tình của Thúc sinh đối với Kiều, vi như cát lũy là phận giây leo, sắn bìm thì ngày một mặn mà, và tình đối với Hoạn thư là người vợ tao khang, ăn tấm, ăn cám từ thuở hàn vi, thì mỗi ngày môt nhạt đi. Ở trên ta đã trích dẫn nhiều câu để tả mối tình của Thúc sinh với Kiều ngày một thắm đậm. lên đến cao độ là khi chàng Thúc tưởng rằng Kiều đã mắc nạn thiêu thân. ðiều này được tả trong bốn câu

Ta chỉ cần để ý đến chữ "tưø" để chỉ thời điểm gốc, những chữ "tháng ngày" để chỉ thời gian trôi đi và những chữ "bội phần" để chỉ mối tình thương xót người xưa tăng lên vòn vọt là thấy ngay thi tài và óc luận lý của Nguyễn Du. Nhưng ở chỗ này mối tình chưa lên đến mức cực đại vì chưa có chiều hướng giảm đi. Phải đợi gần một năm sau khi chàng Thúc muốn trở lại nhà

Hai câu đầu, Nguyễn Du tả một năm trôi qua, hết mùa hạ sen tàn rồi đến mùa thu cúc nở, qua mùa đông rồi lại tới mùa xuân, ngày đi chong vánh mà mối sầu lại dài. Hai câu tiếp theo tả chàng Thúc tuy thương nhớ người xưa nhưng rồi cũng lấy câu số mệnh để khuây dần nỗi sầu. Chỉ ở thời điểm này ta mới có thể kết luận rằng mối tình của Thúc sinh với Kiều đã qua mức cực đại vì đã bắt đầu giảm đi. Hai câu cuối chỉ rõ rằng chàng lại nhớ nhà, nơi có người vợ chung tình và khéo chiều chuộng là Hoạn thư. Hai câu thơ có hai chữ "nhớ", gợi cho người đọc niềm thương nhớ, và cùng một lúc có ý nghĩ rằng mối tình với người vợ tao khang tuy xưa có phần phai nhạt nhưng nay đã dần ấm lại.

Bài nói chuyện mở đầu của tôi ở buổi ra mắt CD của Thu Hà chỉ ngắn gọn, dài chừng mươi phút, tôi nhớ được câu nào đưa ra câu ấy. Nay tôi viết lại thành một bài dài, dành cho những độc giả muốn hiểu thêm về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Với niềm hy vọng sẽ nhận được những ý kiến của độc giả, tôi xin kết luận bằng cách hoán vị lại hai tiểu đề đã viết ở trên cho bài này và xin thưa rằng đây chỉ là mấy lời chắp nhặt dông dài và mong được những lời góp ý để xin lắng tai Chung Kyø.

Thơ của Thiền Sư Bankei – Bàng Uẩn

Bài thuyết pháp của vật vô tình

BANKEI

Mùa xuân hoa đào nở

Mùa thu có lá rơi

Cảnh sắc tự nhiên của trời đất

Tất cả đều là ngữ ngôn của diệu pháp

Ngẫu hứng

Thiện thật kinh khủng

Ác cũng kinh khủng

Sự vật và biến cố

Chỉ là do duyên sinh

Thiền thất của tôi

(Bài thơ này có lẽ được sáng tác vào lúc Sư 13-14 tuổi, thời gian bị anh đuổi ra khỏi nhà vì tội hay trốn học. Cuối cùng một người bạn cũ của gia đình, làm lý trưởng khu làng lận cận, thấy tình cảnh Sư nên đã xây cho Sư một cái chòi trên đỉnh núi để nhập

thất. Thiền thất này ngự trị trên một quang cảnh kỳ bí của vùng biển nội địa và quần đảo Ejima đối diện bờ biển.)

Khi tôi nhìn xung quanh

Sương mù đã phủ

Qua những lớp sương dày

Hoặc qua làn sương mỏng

Mùa xuân ló dạng trên quần đảo Ejima

Bài ca về tâm bản nhiên

(Dường như Bankei đã sáng tác loạt bài thơ này vào năm 1653 khi Ngài đang nhập thất trong núi Yoshino. Có nhiều cách xếp đặt khác nhau về những đoạn trong đây, nên chúng ta không biết hình dạng bài thơ nguyên ủy như thế nào. Có chỗ cho rằng Bankei làm bài này để giảng dạy cho những trẻ làng. Lại có người giải thích rằng trong một kỳ hạn hán khắc nghiệt tại khu vực này, Bankei đã cùng với dân làng già trẻ hát lên những vần thơ này cùng với vũ điệu tại ngôi chùa ở địa phương. Kết quả một trận mưa trút xuống tràn trề, và từ đấy về sau, trong làng ấy, có truyền thống cử hành bài hát cầu mưa của Bankei. Vì lý do đó bài thơ này còn được gọi là "bài ca cầu mưa" hay là "bài vũ ca". Nhưng người ta không rõ vì sao đôi khi nó được gọi là "bài ca xay bột", một loại bài hát được hát lên trong lúc xay bột.)

Bất sinh bất diệt

Là cái bản tâm

ðịa thủy hỏa phong

Chỗ đêm trú tạm

Vì vướng cái này

Một gian nhà lửa

Chính bạn châm ngòi

ðốt mình ra lửa

Hãy tìm trở lui

Về thời gian ấy

Khi bạn mới sinh

Nhớ được chút gì ?

Hãy để tâm bạn

Như mới lọt lòng

Thì thân tâm này

Là một vị Phật

Tất cả ý nghĩ

Gì tốt gì xấu

ðều phát sinh từ

Cái ngã mà ra

Hỏa lò về đông

Thật là thú vị

Nhưng qua mùa hạ

Nóng bức làm sao

Ngọn gió mát mẻ

Mùa hè bạn yêu

Qua hết mùa thu

Nó thành nỗi khổ

Khi bạn có tiền

Bạn khinh kẻ nghèo

Bạn đã quên sao

Hàn vi thuở ấy ?

Tiền bạn tích lũy

Với tâm tham lam

Bị quỷ đói giật

Bạn đâm kinh hoàng

Bỏ cả cuộc đời

Chạy theo tiền bạc

ðến khi nhắm mắt

Tiền của ích gì ?

Tham lam chấp thủ

Tâm tôi toàn không

Nên thế gian này

Thuộc về tôi cả !

Bạn mong nhớ người yêu

Chỉ trong thời hiện tại

Nhưng lòng mong nhớ ấy

Có trước họ ra đời

Khi bạn nhớ người nào

Là bạn không thể quên

Nhưng không nhớ họ

Là chưa từng quên

Khi nhìn lại quá khứ

Thấy như một giấc mơ

Nhận thức được vậy rồi

Thấy mọi sự giả dối

Những người thấy đắng cay

Trong cuộc đời chìm nổi

Là tự làm khổ mình

Vì một giấc chiêm bao

Cuộc thế phù hư

Thảy đều không thật

ðừng đeo việc đời

Nào, ta múa hát !

Chỉ cái tâm bản lai

Trùm quá khứ vị lai

ðừng đeo đẳng vật gì

Hãy nên buông bỏ hết

Tâm không bám víu vật

ðời phù hư chấm dứt

Không còn một vật gì

Ấy nghĩa là Phật sống

Tâm quỷ trong bạn

Tự tác tự thọ

Nó hành hạ bạn

Thì chớ trách ai.

Khi bạn làm sai

Tâm bạn là quỷ

Ngoài ra không có

Quỷ nào ngoài tâm

Chán ghét địa ngục

Khao khát thiên đường

Là tự khổ mình

Trong thế giới vui

Tưởng rằng điều thiện

Nghĩa là ghét ác

Nhưng chính tâm ghét

Mới là không lành

Bạn cho rằng thiện

Nghĩa là làm lành

Nhưng thật xấu xa

Cái tâm nghĩ vậy!

Thiện cũng như ác

Vo tròn một khối

Gói vào giấy bao

Ném hết xuống hào

Diệu dụng thần thông

Toàn là không có

ðừng tìm kiếm gì

Kỳ quan nở rộ

Con ma lừa dối

Nó xúi giục ta

Nên xem là thực

Cuộc đời dối giả

Danh tài ăn ngủ...

Năm dục bén mùi

Thì ở trong đời

Chúng làm thầy tổ.

Ý niệm nên hư

Lúc đầu không có

Phấn đấu thị phi

Toàn do bản ngã

Khi đã học hành

Phật pháp rốt ráo

Bạn sẽ thấy mình

Chẳng có thêm chi

Giác ngộ và mê si

Lúc đầu không có gì

Toàn ý tưởng lượm lặt

Bẩm sinh nào có chi ?

Nếu nảy ra ý tưởng

Rằng cái tâm giác ngộ

Chính là tâm của tôi

Thì càng thêm lôi thôi

Chẳng bận tâm chút nào

Ngộ hay là không ngộ

Tôi được cái kết quả

Sáng thức dậy khoái sao !

Cầu giải thoát sinh tử

Cho riêng bản thân mình

Là chỉ có chất chồng

Thêm kiêu căng chấp ngã

Nay tôi cũng chán luôn

Cả chuyện cầu giải thoát

Chỉ một việc thong dong

ðể hơi thở ra vào

Chết đi rồi sống lại

Ngày và đêm trên đời

Nếu làm được như vậy

Nắm vũ trụ trong tay !

Tội nghiệp thay chư Phật :

ðược trang sức cùng mình

Chắc các ngài cũng phải

Quáng mắt vì hào quang

Thật còn quá sớm

ðể ta thành Phật

Hãy làm hộ pháp

ðứng gác cổng chùa !

ði tìm tịnh độ

Cố được đền bù

Thì bạn chỉ thấy

Phật tổ cười cho

Từ lúc khởi thủy

Vốn không kẻ thù

Tự tạo kẻ thù

Tà chánh tranh nhau

Nhân quả rõ ràng

Vì mê không biết

Chính mình đã tạo

ðấy là ngã chấp

Tập quen thói đời

Thế giới phù du

Mê si như vậy

Chính mình thua đau !

Cái tâm vô vi

Bản lai bất sinh

Hữu vi không thực

Nên hết mê lầm

Năm tháng trôi qua

Tâm vẫn không già

Cái tâm như như

Lúc nào cũng vậy

Kỳ thay! Diệu thay !

Khi bạn tìm ra

Cái gì không già

Chỉ có tâm ta !

Cõi nước trong sạch

Trong tâm an bình

Không phải xa xôi

Cách hàng triệu dặm

Khi ai ném cho bạn

Một cái tách uống trà

Hãy khéo léo bắt lấy

Với tâm mềm như tơ.(1)

(1) Ở đây Bankei dường như nói với thính giả: "Tôi truyền cho

các bạn giáo lý quý báu này, hãy nhận lấy, đừng bỏ lỡ cơ hội. Nó dễ vỡ như một cái tách quý hiếm, bởi thế hãy nhận nó với một cái tâm nhu nhuyến mềm mại. Nếu nhận bằng một tâm cứng cỏi thì nó sẽ vỡ tan tành."

Cáo Tật Thị Chúng

Mãn Giác Thiền Sư

(1052-1096)

Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tòng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc, Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Ngô tất Tố dịch :

Xuân ruổi trăm hoa rụng, Xuân tới trăm hoa cười. Trước mắt, việc đi mãi. Trên đầu, già đến rồi. Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết, Ðêm qua, sân trước, một càng mai.

(Thơ Văn Lý Trần)

Nguyễn Ðăng Thục dịch :

Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân về trăm hoa tươi. Sự đời dòng nước chảy, Tuổi già đầu tóc phai. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Ðêm qua sân trước một cành mai.

(Thiền Học Việt Nam)

Hòa Thượng Ðức Nhuận dịch :

Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến nở ...trăm hoa. Trước mắt đời chuyển biến ! Ðầu xanh tuyết điểm pha, Dừng nghĩ : Xuân tàn hoa rụng hết, Bên thềm mai nở ... trắng đêm qua.

(Sáng Một Niềm Tin)

Trần Trọng San dịch :

Xuân đi hoa cũng rụng rơi, Xuân về, hoa lại nở tươi trước nhà. Sự đời vút mắt trôi qua, Trên đầu thắm thoát cái già đến ngay. Tàn xuânchẳng hết hoa nầy, Ðêm qua sân trước, cành mai vẫn còn.

Bài kệ nguyên bản Hán văn của thiền sư Mãn Giác

Bản dịch của Tản ðà :

Xuân đi muôn vạn hoa tàn Xuân về thắm lại ngập tràn những hoa

Việc đời thế sự đi qua Trên đầu tuyết điểm một vài cọng sương

Chờ cho xuân hết hoa tàn ðêm qua sân trước nở vàng cành mai

Những bài thơ hoa đào hay nhất

Thái Tú Hạp

Thời gian rồi sẽ qua đi như dòng sông thầm lặng trôi về biển cả

để rồi hòa tan không lưu lại một dấu tích cội nguồn. Dòng sông

tâm thức tan đi những khắc khoải thổn thức nhớ nhung quê nhà

đã nhiều tháng năm qua sau những giông bão thảm khốc tàn phá

phương trời cố quận. Bây giờ ta đang vương mắc trong mạng lưới

buồn phiền, thường trực đối diện với những chán ngán thê lương

đang diễn biến như những tấn tuồng bi hài trong đời sống, với

những chiếc mặt nạ toan tính sâu độc, những bon chen hối hả lợi

danh, đâu còn hay biết. Những lo âu trong vòng quay mệnh số

tuổi già bệnh hoạn và con đường sắp sẵn vào cõi hư vô. Có thể vì

chúng ta lý luận, không gian xứ sở Hoa Kỳ quá mênh mông nên

chúng ta có cảm tưởng như thời gian qua đi rất nhanh. Mới xuân

qua rồi xuân lại đến. ðôi khi chính ta có cảm tưởng như tâm hồn

đóng băng và trái tim cằn khô sỏi đá. Chất lãng mạn cố hữu ngày

xưa cũng phai dần theo năm tháng nơi viễn phương. Người nghệ

sĩ mà mất đi chất liệu lãng mạn chẳng khác chi người mù đi trong

sa mạc. Có nhiều người bày tỏ chân thật “thôi hãy để cho dòng

sông tự nhiên hòa nhập vào đại dương, đừng nên nuôi ảo tưởng

ngăn đê xây đập để mang nước ngược ngọn nguồn, chuyện cá hồi

chỉ là một hiện tượng quá hiếm hoi...”. Lời khuyên có tính cách

hiện thực chỉ đúng một phần trong ý niệm người lưu vong.

Cũng có thể vì quá thương nhớ sông núi nơi sinh thành nên đã

dứt bỏ tất cả để quay về nơi cố xứ, ngờ đâu thực tế phủ phàng,

cảnh cũ nhưng người xưa đã biền biệt ngàn phương. Cảnh tình

buồn đau não nề làm cho chúng ta liên tưởng đến bài thơ Hồi

Hương Ngẫu Thư của Thi sỹ Hạ Tri Chương nhà ðường Trung Hoa:

Ly biệt gia hương thế nguyệt đa

Cận lai nhân sự bán tiêu ma

Duy hữu môn tiền Kính hồ thủy

Xuân phong bất cải cựu thời đa

Chuyển dịch:

VỀ LÀNG NGẪU HỨNG

Quê nhà xa cách trải bao thu

Nhân sự gần đây đã xác xơ

Riêng có Kính hồ bày trước cửa

Gió xuân không đổi sóng thời xưa

Trần Trọng San

Nói đến ðường Thi chúng ta không thể không nhắc đến thời đại

hoàng kim của thi ca Trung Quốc. Nguyên nhân nào đã tạo nên

sự hưng thịnh rực rỡ nhất. Các luận giả uyên bác đã nêu lên

những sự kiện cụ thể ảnh hưởng sâu xa vào sự thành công hưng

thịnh vượt bậc này trong lãnh vực Văn học đời ðường.

Những nhân tố được ghi nhận như:

- Hầu hết các vua quan nhà ðường đều yêu chuộng thơ văn.

- Các đời vua nhà ðường đều dùng thi ca trong các khoa cử.

- Khuyến khích dân gian làm thơ để thi tuyển có giải thưởng

xứng đáng.

- Luôn luôn phát huy sáng tạo những thể thơ mới để bắt kịp ý

tưởng hiện đại.

- Phát triển những sinh hoạt trong giới trí thức không phân biệt

khuynh hướng tư tưởng Khổng, Nho, Phật giáo.

Mặc dù có sự phá chấp trong sáng tạo tác phẩm của đa số các

thi sỹ đời ðường về ảnh hưởng tôn giáo, tuy nhiên ảnh hưởng tư

tưởng Phật giáo hầu như chiếm một ưu thế sâu xa hơn. ðường

Thái Tông đã sáng tác bài Tam Tạng Thánh Giáo Tự để tỏ lòng

cảm phục công lao của Huyền Trang du hành sang Ấn ðộ trong

suốt 14 năm, vượt qua một chặng đường bộ đầy gian nan dài

thăm thẳm xuyên suốt hành trình qua nhiều quốc gia để đem về

650 bộ kinh Phật giá trị. ðến đời vua ðường Cao Tông khuyến

khích Thiền sư Nghĩa Tịnh vượt biển Nam Hải sang Ấn ðộ để

mang về hơn 400 bộ kinh… Các nhà thơ nổi danh như Giả ðảo,

Vương Duy đã từng là những bậc cao tăng…

Bước vào thế giới ðường Thi là bước vào khu rừng hoa muôn

màu hương thơm bát ngát. Kim Thánh Thán, một nhân vật lỗi lạc

đã từng ngợi khen “ðường Thi là tuyệt xướng của ngàn bậc

thánh…”

Sau cả ngàn năm, giá trị của ðường Thi càng bay bổng đến

đỉnh cao nghệ thuật thi ca của nhân loại. ðường Thi được chuyển

dịch ra nhiều ngôn ngữ trên khắp thế giới qua các tác giả nổi

tiếng như Henry H. với Poems of the Hundred Names xuất bản ở

New York năm 1968. Robert Payne (The White Pony, An

Antheology of Chinese Poetry) xuất bản năm 1947. W.J.B

Fletcher Gary Snyder, H. C. Chang, William Mc Naughton, Chang

Yinnan và Lewis Walnisley, Michael Bullock. Francois Cheng, G.

Margoulies. Octavio Paz. Tản ðà, Trần Trọng Kim, Vũ Hoàng

Chương, Ngô Tất Tố, ðỗ Bằng ðoàn, Bùi Khánh ðản, ðào Hữu

Dương, Trần Trọng San, Chi ðiền, Giản Chi, Nam Trân, Khương

Hữu Dụng… Tuy nhiên trong số hàng ngàn bài thơ ðường được

lưu truyền qua hậu thế cả ngàn năm nay, vượt trội hơn hết vẫn là

những bài thơ tuyệt tác nhất được thẩm định qua nhiều thế hệ

yêu thơ ðường trên khắp thế giới là những bài thơ như Hoàng Hạc

Lâu của Thôi Hiệu, Lộc Trại của Vương Duy, Phong Kiều Dạ Bạc

của Trương Kế, Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch, Phục Sầu của ðỗ Phủ,

Hồi Hương Ngẫu Thư của Hạ Tri Chương, ðằng Vương Các của

Vương Bột, Thạch Hào Lại của ðỗ Phủ, ðề Tích Sở Kiến Xứ của

Thôi Hộ… Khoảng chừng 50 bài được chọn lựa theo sở thích của

mỗi người yêu thích ðường Thi.

Mỗi lần xuân đến, nhìn những cánh hoa đào lấp lánh trong

nắng mai trong khu vườn tịnh vắng, chúng tôi lại liên tưởng đến

bài thơ ðề Tích Sở Kiến Xứ của Thôi Hộ:

Khứ niên Kim Nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

ðào hoa y cựu tiếu đông phong

CHỐN CŨ VẮNG NGƯỜI XƯA

Năm ngoái ngày nầy qua cánh song

ðào hoa phản ánh má ai hồng

Người xưa nay đã về đâu nhỉ!

Chỉ thấy hoa cười trong gió đông

Cổng vào năm ngoái qua đây

Ánh hoa đào thắm má ngây thơ hồng

Người xưa vắng lạnh bên song!

ðìu hiu chốn cũ gió đông hoa cười

(Ái Cầm)

Giai thoại về thi phẩm tuyệt tác này có nội dung thật cảm động

kỳ thú không kém những giai thoại Từ Thức hội ngộ Giáng Hương,

Tú Uyên với Giáng Kiều hay thơ mộng huyền ảo của giai thoại Lưu

Nguyễn lạc Thiên Thai... của Văn chương trữ tình Việt Nam.

Thôi Hộ là một chàng thư sinh tuấn tú trên đường từ quê lên

Trường An ứng thí, đi ngang qua một ngôi làng có nhiều nhà

trồng hoa đào. Hoa đang nở rực rỡ, lòng chàng thư sinh bâng

khuâng ngơ ngẩn trước vườn hoa đào lẳng lơ khoe màu trong

cánh nắng huy hoàng, Thôi Hộ lần vào gõ cửa để xin nước uống.

Không ngờ một thiếu nữ xinh đẹp đem nước ra mời khách. Lặng

lẽ xem hoa và lưu luyến cảm tạ người đẹp lên đường. Qua hết

thời gian ứng thí, Thôi Hộ quay về quê cũ chạnh nhớ người con

gái duyên dáng đã cho nước uống và trao cho chàng nụ cười thật

dễ thương dưới cội đào nở hoa tươi thắm. Nhưng tường xưa đã

rêu phong, người xưa đã biền biệt phương nào. Trong khu vườn

đìu hiu chỉ còn thấy hoa đào bay bay trong gió đông buồn bã.

Nhà thơ vô cùng xúc động nhớ lại giây phút đầu tiên hội ngộ với

người đẹp nên lấy bút đề bài thơ lên tường rồi lặng lẽ ra đi. Thôi

Hộ trúng tuyển kỳ thi nên vội vàng lên đường đến Tràng An. Tiết

Thanh Minh khí trời bắt đầu ấm áp, chim đã về hót líu lo trên

ngàn cây, hoa đua nở khắp nơi trên con đường Thôi Hộ đi qua,

lòng xuân cũng bồi hồi nhớ đến người đẹp vườn đào năm xưa nên

đã tìm lối vào thăm hỏi. Khi vừa đến cổng vào, Thôi Hộ không

nhìn thấy hoa đào lẳng lơ cười trong gió đông mà lại nghe tiếng

khóc thê lương vọng ra từ trong ngôi nhà cổ kính ở sâu trong khu

vườn. Chàng thi sỹ si tình đánh liều gõ cửa bước vào để xem sự

thể ra sao. Không ngờ một cảnh tượng bi thương hiện ra trước

mắt là song thân của kiều nữ đang nằm bất động trên giường như

đang giã từ cõi thế. Sau khi nghe ông cụ kể lại chuyện con gái đã

gặp một người thanh niên tuấn tú trên đường đi Tràng An ứng thí

vào xin nước uống rồi một thời gian chờ đợi, người con gái không

thấy chàng thanh niên trở lại mà chỉ thấy đề trên vách một bài

thơ thầm trách thở than... ðọc bài thơ, người con gái sầu muộn

tương tư rồi ngã bệnh càng ngày càng trầm trọng trông thật quá

đau lòng. Thôi Hộ nghe kể xong câu chuyện không cầm được xúc

động vội vàng chạy đến bên giường người thiếu nữ ôm chầm lấy

khóc nức nở. Không ngờ nghe giọng nói của Thôi Hộ, đôi má xanh

nhạt đã dần dần thắm hồng, đôi môi nở nụ cười rồi từ từ mở đôi

mắt trìu mến nhìn Thôi Hộ như người tình hò hẹn trăm năm. Song

thân mừng rỡ liền thiết hương án để tạ ơn Trời ðất rồi làm lễ

thành hôn cho đôi tình nhân trai tài gái sắc để bắt đầu cho một

cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời.

Cho đến bây giờ các nhà nghiên cứu nguồn gốc và sự thăng

hoa của dòng văn hóa Việt Nam đều phải công nhận ảnh hưởng

rất sâu xa từ nguồn văn hóa Phật giáo. Chúng ta có thể khẳng

định trong suốt hai ngàn năm lịch sử, ðạo Phật luôn luôn hiện

hữu trong lòng dân tộc Việt Nam trên khắp nẻo đường đất nước

trong những giai đoạn bi hùng thăng trầm vinh nhục. Nguồn văn

hóa dân tộc liên tục mở ra những chân trời kết hợp tuyệt vời với

các trào lưu văn hóa ðông Tây qua các tôn giáo để hình thành

một nền văn hóa độc lập, nhân bản, dân chủ và khai phóng.

Trong những tác phẩm văn chương có tầm vóc quốc tế được các

nhà khảo cứu Tây phương chọn để chuyển dịch qua nhiều ngôn

ngữ quốc tế như một biểu tượng văn học Việt Nam. Một tác phẩm

có ảnh hưởng sâu rộng trong mọi tầng lớp quần chúng từ vua

quan, trí thức, nghệ sỹ đến những thứ dân nghèo hèn trong xã

hội, và đã vượt qua không-thời-gian hơn hai trăm năm nay là tác

phẩm truyện Kiều của Văn hào Nguyễn Du. Ngoài ra cụ Tiên ðiền

Nguyễn Du còn để lại ba tác phẩm thi ca: Thanh Hiên tiền hậu

tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc Hành tạp lục… ghi lại tâm sự

Nguyễn Du trong mười năm ẩn cư (từ quan lên núi rong chơi với

mây ngàn cỏ nội). Chúng tôi đơn cử một bài thơ U Cư (Nhị Thư)

có liên quan đến hoa đào mà chúng tôi yêu thích:

ðào hoa, đào diệp lạc phân phân

Môn yểm tà ghi nhất viện bần

Trú cửu đốn vong thân thị khách

Niên thâm cánh giác lão tùy thân

Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục

Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân

Lưu lạc bạch đầu thành để sự

Tây phong xuy đảo tiểu ô cân

Dịch nghĩa:

Hoa đào lá đào bay la tả

Cánh cổng xiêu vẹo, mái nhà bần bạc

Trú ngụ ở đây lâu ngày

Quên bẵng mình là khách

Trải qua nhiều năm tháng, biết tuổi già đã đến

Kẻ tục sống buổi loạn lạc

Muốn giữ toàn tính mệnh, thấy ai cũng sợ

Phiêu giạt đến đâu mà nào được việc gì đâu!

Ngọn gió tây thổi rơi chiếc khăn đen nhỏ...

(Ở nơi u tịch)

Hoa lá vườn đào rụng tả tơi

Một nhà bần bạc cổng xiêu cài

Ở lâu quên bẵng mình dân ngụ

Sống mãi hay đâu tuổi lão rồi

ðất khách giả ngây phòng kẻ tục

Giữ mình thời loạn sợ lòng người

Linh đinh đầu bạc không nên chuyện

Ngọn gió tây thổi chiếc khăn rơi...

Thế giới bây giờ có nhiều điều lạ lắm. Sự kiện xảy ra đôi khi

nghịch lý từ tâm thức. Nhiều người dân ở các nước nhược tiểu

trên thế giới đều mơ ước đến định cư ở các quốc gia Tây phương

giàu mạnh cũng giống như tâm trạng của Lưu Nguyễn ngày xưa

lạc đến Thiên Thai. Không biết giai thoại lãng mạn đầy chất thơ

mộng của hai chàng Lưu Nguyễn có thật hay không hay chỉ là

tâm thức giác ngộ quay về cội nguồn của ý tưởng sĩ phu cảnh tỉnh

những bậc thức giả thời đại hãy sống với hiện hữu cho dù hiện

hữu của đời sống có phũ phàng nhiễu nhương. Xin hãy yêu đời và

yêu người cùng quê hương đồng cảnh ngộ. Núi bao năm vẫn đứng

sững phơi gan cùng tuế nguyệt, thác vẫn cuồn cuộn đổ xuống

trăm sông bồi đắp phù sa nuôi muôn rừng cây trái. Chưa bao giờ

chúng ta thấy thiên nhiên hài hòa bao dung đến như thế, thiên

nhiên đã chuyển hóa bao hận thù. Trong khi con người quay về

như loài thú trong hang động hoang sơ.

Nhà thơ Tản ðà xuất hiện như một lãng tử giang hồ cùng khắp

đất trời quê hương. Với bản chất khẳng khái, ngay thật, đả phá

mọi định kiến hẹp hòi phe phái trong sinh hoạt giao mùa của trào

lưu văn học mới-cũ:

Ra văn mà chẳng ra tiền

Cái nghiệp văn chương nghĩ thật phiền

Văn ế bao giờ cho bán hết

Phen này có nhẽ gánh lên tiên!

Lên rừng mới gặp được tiên. Tiên đi rồi bỏ thi sỹ một mình với

bao nỗi nhớ bâng khuâng:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai

Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai

Ước cũ duyên thừa có thế thôi

ðá mòn rêu nhạt

Nước chảy hoa trôi

Cái hạc bay lên vút tận trời

Trời đất từ nay xa cách mãi

Cửa đóng

ðầu non

ðường lối cũ

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

(Tống biệt)

Trong thời gian gần đây những hiện tượng thư pháp

(Calligraphy) có nhiều nghệ sỹ dùng chữ Hán, chữ Nôm như rồng

bay phượng múa thật tuyệt vời… rồi đến thi sỹ Vũ Hoàng Chương,

Cao Tiêu, họa sỹ Vũ Hối... chuyển qua phương thức chữ Việt cũng

tuyệt vời không kém... và bất ngờ nhất là hiện tượng yêu thích

thư pháp này càng ngày càng phát triển ở quê nhà và trong các lễ

hội xuân trong cộng đồng người Việt khắp nơi ở Hải ngoại. Trào

lưu giới trẻ đang quay về cội nguồn đã tạo cho tôi một niềm tin

dòng văn hóa truyền thống Việt Nam sẽ không phai mờ trong tâm

hồn các thế hệ mai sau, chắc chắn sẽ vượt qua thời gian mơ ước

của Tiên ðiền Nguyễn Du:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Ba trăm năm sau không biết có ai còn nhớ đến Tố Như)

Cứ mỗi độ xuân về với cơn gió mùa đông thổi lành lạnh nơi xứ

người, buổi sáng nhìn ra khu vườn, cành đào đã nở trong nắng

mai, làm cho tôi chạnh nhớ đến hình ảnh một cụ ðồ quắc thước

hiên ngang, ung dung tự tại của kẻ sỹ ngồi giữa phố đông người

qua, bày mực tàu giấy đỏ chờ đợi người thuê viết những câu đối

đầu xuân. Bài thơ Ông ðồ của Nhà thơ Vũ ðình Liên của thời tiền

chiến như in rõ nét những ấn tượng ngậm ngùi trong tâm hồn tôi:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông ðồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Trên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc khen ngợi tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu

Ông ðồ vẫn ngồi đó

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông ðồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ

Vũ ðình Liên

Từ nghìn xưa khi con người hiện hữu giữa thế gian vẫn thắc

mắc là mình từ đâu đến và sau khi thân xác này hủy hoại trả về

cho đất nước gió lửa, hồn sẽ lưu lạc về đâu? Và cái vô lý nhất con

người sinh ra rồi sớm muộn gì cũng phải ra đi. Thiền sư Chân

Không giải đáp bằng hai câu kệ:

Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận

Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân

Giáo sư Nguyễn ðăng Thục chuyển dịch:

Xuân qua xuân đến ngờ xuân tận

Hoa nở hoa tàn vẫn là xuân

ðừng bao giờ nghĩ rằng sau khi xuân đến rồi xuân đi thì cho là

xuân đã hết. Và đừng nghĩ rằng lúc hoa tàn thì xuân cũng tàn

theo. Sự thực hiện tượng xuân đến xuân đi chỉ là sự tuần hoàn

của vũ trụ thiên nhiên, đã có từ thuở khai thiên lập địa cho đến

vô tận mai sau.

Tất cả những hiện tượng vật chất đều tan biến theo tiến trình

sinh trụ dị diệt… Không có gì trên thế gian này tồn tại vĩnh viễn,

cuộc đời là vô thường nên lợi danh chỉ là phù vân hư huyễn. ðạo

Phật không phải là tôn giáo nói lên sự bi quan của kiếp sống con

người, mà thật sự con đường tuệ giác đầy lạc quan để nhận thấy

cái ta hiện hữu đang hòa nhập cảm thông với vũ trụ trong ý niệm

tiểu ngã hòa nhập vào với cái đại ngã vô thủy vô chung của trời

đất, còn gì phải suy tư đến chuyện hoa nở xuân tàn. Cứ mỗi lần

nhìn thấy hoa đào lấp lánh trong nắng xuân, chúng ta lại liên

tưởng đến hình ảnh ông ðồ già quen thuộc từ trong tiềm thức vực

dậy một cách thân thương. Ông ðồ và Hoa ðào là một hiện tượng

vĩnh cữu trong truyền thống văn hóa dân tộc khi xuân về. Hồn

ông vẫn quanh quẩn với chúng ta trong những ngày đầu xuân:

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay…

Cho dù chúng ta đang lưu lạc nơi ngàn phương viễn xứ, nhưng

tâm thức chúng ta đang hướng về sông núi quê hương cội nguồn.

Ở đó ông ðồ không bao giờ chết khi hoa đào rực rỡ trên ngàn

cây.

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu

Có buồn chăng thời gian đã biến đổi cung cách hiện đại hóa

trong sáng tạo. Các thế hệ hậu duệ của ông ðồ không còn dùng

bút lông mà chuyển sang bút sắt để viết Thư pháp bằng chữ Việt,

chữ Anh thay chữ Nôm, chữ Hán như ngày xưa... ngay trên

đường phố đông người qua ở quê nhà.

* * * * * * * * * * * * * * *

Tài liệu tham khảo:

- Nguyễn Du Toàn Tập của Nguyễn Thạch Giang

- ðường Thi Tuyển Tập của Chi ðiền Hoàng Duy Từ

Xuân chín bên cội bồ đề

Trần Kiêm ðoàn

Xuân, Hạ, Thu, ðông... rồi Xuân! Có một cuốn phim ðại Hàn mang phong vị cửa Thiền có tên như thế. Người xem có nhiều phản ứng khác nhau, nhưng lại cùng chung một tâm trạng lắng đọng và một ý nghĩ đầy trăn trở, trải dài đến mênh mông về lý vô thường của cuộc sống.

Vào lứa tuổi lục tuần, tôi thuộc về thế hệ “chiến tranh Việt Nam”, một thế hệ mà các bạn cùng lớp, cùng lứa với tôi ở trường Hàm Nghi và Quốc Học Huế có đến hai phần ba đã ra đi... về đất! Những người còn lại ở bên nầy đại dương hay bên kia đất nước thường hỏi thăm nhau với nỗi ám ánh về sự xế bóng giữa vô thường: Bên bờ sinh tử vẫn còn có nhau.

Ba mươi năm nhìn lại. Mùa Xuân rất xanh ngày nào bây giờ đã... chín.

Mùa Xuân chín tới trên quê hương vì bao nỗi lo lắng tận tình vào thời điểm cuối năm để nghênh đón mùa Xuân. Nhưng mùa Xuân cũng “chín tới” ở quê người vì sự vô tình và lặng lẽ quên mất mùa Xuân. Hai đầu múi -- thái quá hay bất cập -- đều làm cho mùa Xuân mau già mà đời thường cho là "Xuân chín tới"; nghĩa là đã hết một thời Xuân xanh hoa mộng, hồn nhiên!

Một mùa Xuân hai mươi lăm năm trước, tôi đang ở trên một quê hương mà ngày đầu năm, mùa Tết mang một ý nghĩa trọng đại trong cả lòng người và vạn vật. Rồi tôi bỗng hụt hẫng khi đi qua một vùng đất lạ mà những ngày như thế chẳng mang một ý nghĩa gì cả. Mồng Một Tết -- cũng chỉ là một ngày bình thường -- như mọi ngày theo kim đồng hồ lững thững trôi qua.

Bé Quan Thư ngày đó hỏi một câu thật bất ngờ:

- Ba ơi! Mỹ có trồng Tết được không ba?

Cội bồ đề

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

- Trồng Tết? Tết là... là... làm sao trồng được hở con?

Tôi không biết phải gọi tên, định nghĩa Tết là gì cho hợp người, hợp cảnh, hợp với sự nhận biết của một người chưa từng có kinh nghiệm "ăn Tết" trên quê hương Việt Nam. Ngay cả những nhà ngôn ngữ học tài danh xứ Anh, xứ Mỹ cũng chỉ có thể gọi cái Tết Việt Nam bằng cái tên cúng cơm nguyên thủy là "the Tet of Vietnam" mới lột tả được khái niệm tròn đầy của nó. Bé Thư nhìn Tết với đôi mắt trẻ thơ. Vì trẻ thơ nên hồn nhiên và không dính mắc, mới đủ tươi mát để cảm nhận xuyên suốt cả mùa Xuân:

- Trồng Tết là trồng cây Mai cho có bông, trồng cây chuối cho có lá mà gói bánh như mệ nội, o Thuyền dưới làng đó Ba tề.

Ý nghĩ của tuổi măng non thật ngộ nghĩnh. Ngày đó, tôi đã đóng khung lòng mình bằng hoài niệm. Tôi mang nỗi nhớ không nguôi nhốt trong chiếc lồng định kiến để tự cho rằng, "làm gì có Tết trong lòng người đi!" Có chăng một hình ảnh Tết mang theo là nỗi nhớ, nỗi buồn, nỗi xót xa của sự mất mát lạc loài sạch nhẵn. Hình ảnh lễ hội tưng bừng của ngày Tết chỉ còn là dư vang quá khứ mà thôi.

Cuộc sống đời thường thì đang thay đổi như chong chóng trong vòng "không-có, có-không" qua từng chớp mắt mà định kiến của con người thì lại đóng khung trong cách kiểu tượng đài ngỡ như thường hằng bất biến. Niềm vui tươi mới của con người mang nhiều định kiến thường bị đóng băng trong lúc những mùa Xuân tươi mầm, xanh lá vẫn xôn xao đi về không ngớt. Làm người xa xứ trong mùa Tết, tôi cứ sống hoài trong quá khứ. Ý nghĩ "đất lề quê thói" già khằn và mỗi ngày một khô quắt trong tôi. Ý nghĩ về làng xóm, phố phường xinh đẹp nhất; con vịt con gà thơm ngon nhất; nãi chuối buồng cau tươi ngọt nhất chỉ có trên quê hương mình... bao năm làm tôi không "lớn" nổi để thật sự làm khách ly hương trọn vẹn ở xứ người.

Tết đã mất trong lòng người đi chăng? Khi tự hỏi "mất chưa" là đã tự đã lời trong nỗi bâng khuâng nhận ra rằng... đã mất! Nỗi thương nhớ sụt sùi xa xứ rất "mít ướt" đó chỉ còn là nỗi nhớ -- một nỗi nhớ liên tưởng thuần cảm tính -- rằng: Nhớ Tết là nhớ quê hương; nhớ quê hương là nhớ Mẹ; và... nhớ làm thơ (rất chi là Nguyễn Bính) để khỏi làm thinh:

Bóng Mẹ khuất rồi Xuân vẫn đến

Mưa trời đang rũ bụi bên sông

Mẹ ơi trong bóng Giao Thừa cũ

Con nhớ ngàn xưa dáng Mẹ trông...

Tôi yên chí như thế cho đến năm thứ 5 sống trên đất Mỹ. Lần đầu tiên đi viếng phố Tàu (China Town) ở San Francisco trong chiều Ba Mươi và Mồng Một Tết. Tiếng trống múa lân và pháo Tết nổ ran khắp các dãy phố từ nhà nầy sang nhà kia không ngớt. Cảnh sát gốc da trắng và Á châu tuần tra quanh các khu phố cười toe với lời chúc xôi đậu điển hình cho Năm Mới: "Happy New Year -- Cung Hỷ Pạt Chòi!" không ngớt trên môi. Cả khu phố Tàu rộng lớn tràn ngập mầu sắc rực rỡ của đèn lồng, bánh mứt, cây trái, hoa kiểng... ngày Xuân. Hình ảnh Chợ Tết và cảnh Ăn Tết của Thượng Hải, Bắc Kinh, Hồng Kông, Chợ Lớn... đang ngự trị nơi đây. Tết Trung Hoa đã được gieo trồng và mọc lên trên đất Mỹ từ những năm 1850, khi từng đợt người Trung Hoa đặt chân lên châu Mỹ để làm thuê, làm mướn, tìm vàng hay lao động làm đường rầy xe lửa. Hơn một trăm năm sau mới có bước chân người Việt Nam đặt lên xứ nầy. Những hạt mầm Tết truyền thống Trung Hoa gieo xuống đất nầy hơn cả trăm năm trước bây giờ đã mọc lên thành cây đại thụ. Dường như khi những hạt mầm truyền thống còn tươi và khi chất phù sa của tấm lòng chưa cạn kiệt thì những chồi xanh văn hóa có thể nẩy mầm, đâm nhánh và mọc lên khỏe mạnh bất cứ nơi đâu.

Tôi thường đi chùa sáng Chủ Nhật hằng tuần như phần đông những người Việt khác ở Mỹ. Nhưng tất cả lễ nghi và nếp sinh hoạt chùa chiền, tự viện vẫn là nếp cũ, không có gì khác hơn ở quê nhà. Sự lập lại đó không “trồng” mà cũng chẳng “mọc” nên sức hút không mấy mạnh để mời gọi những tâm hồn tươi mới – trẻ trung và chưa quy y – vào cửa nhà chùa.

Có một đôi lần tôi không đến chùa vào ngày Chủ Nhật mà vào ngày thứ Bảy. Gặp lúc các em trong Gia đình Phật tử đang sinh hoạt. Lẫn trong tiếng Việt có tiếng Anh, có nụ cười vang hồn nhiên như nhạc... Rock, có những điệu bộ tự nhiên rất “Mỹ Việt đề huề.” Tôi tìm trong phong thái sinh hoạt và hành xử của các em một nét gì tươi mới như những chồi xanh Việt Nam không “đốn nguyên gốc” từ quê cũ mang theo mà mọc lên từ vùng đất nầy. Tôi có cảm tưởng như đó là một sự “chuyển cành” tự nhiên và đầy ý thức.

Tôi học cách trồng Tết bằng phương pháp chuyển cành. Nghĩa là cành mới, được chiết ra từ gốc cũ để ươm vào đất mới. Như khái niệm về Hoa Xuân chẳng hạn. Tại sao phải dính chặt vào Hoàng Mai một khi những rừng mai dại và những vườn mai khôn không thể mọc được ở bờ đất bên nầy. Sao lại không thể thay bằng anh đào, hoa đào, thủy tiên, quince, tulip, huệ, hồng đại đóa... Tuy những loài hoa Xuân mới ấy không e ấp như Mai Vàng "xóm cũ" nhưng vẫn vươn mình nở nang và đầy tròn mời đón mùa Xuân nơi đây.

Trà, mứt, bánh, trái, thịt mỡ, dưa hành... câu đối đỏ tìm đâu cũng có trong các chợ Tàu và phố Tàu bày bán la liệt. Tại sao phải chăm bẳm trụ vào "vườn rau trước ngõ, bụi chuối sau hè" không hề có ở nơi nầy.

Ngày ấy trên quê hương, khi nói về Tết, Năm Mới chẳng hạn, tôi thường chỉ đơn giản nghĩ đến Tết Ta theo âm lịch và Tết Tây theo dương lịch cũng gọi là đủ. Mãi cho đến khi sống chung với các dân tộc khác giữa cộng đồng thế giới, chúng ta mới thấy là "hàng xóm láng giềng không giống như ta." Người láng giềng Nhật bỏ "tết Ta" theo "tết Tây" từ năm 1873. Anh hàng xóm Lào,

Miên theo lịch Gregorian để mừng năm mới vào giữa tháng 4. Chú bạn Hờ-Mông mừng Tân Niên sau mùa gặt cuối Xuân; qua Mỹ hết gặt hái thì chọn ngày "đầu năm" lửng lơ, du mục không nhất định.

Sự dính mắc là một hệ lụy nhân sinh. Khi suy nghĩ về mùa Xuân, về Tết, về quê hương bên kia và bên nầy tôi liên tưởng đến đạo Phật, đến đóa sen vật lý mọc lên từ bùn; đóa sen tâm lý mọc ra từ lửa; và đóa sen triết lý mọc từ nụ cười Ca Diếp. Hoa Phật, cành Phật, mầm Phật trồng đâu cũng nẩy mầm xanh lá, nhưng chẳng bị dính mắc từ chốn sinh thành. Sao con người phải bị dính mắc, phải cột chặt cái tâm vào thế giới hình tướng thoắt đến, thoắt đi như Xuân, như Tết.

Phật giáo Việt Nam đến Mỹ cùng thời với Tết và đang đứng trước một sự thử thách chưa từng có trong môi trường xã hội Âu Mỹ. Văn hóa và nếp nghĩ kinh tế thị trường đang ngự trị xã hội Âu Mỹ. Phật giáo ðài Loan, Nhật bản, Tây Tạng, ðại Hàn đã và đang thâm nhập vào xã hội phương Tây bằng hai hình thức: Chùa chiền, tự viện nguy nga, đồ sộ, có tầm cỡ thu hút được sự quan tâm của người bản xứ. Bên cạnh đó, hình thái tu học tăng đoàn, đa số tu sĩ trẻ được đào tạo từ các trường đại học và thông thạo ngoại ngữ. Trong lúc đó đạo Phật Việt Nam tại hải ngoại thì có vẻ như đang phát triển theo chiều ngược lại. Chùa chiền Việt Nam phát triển rất nhiều nhưng phần lớn chưa thoát khỏi hình thức “thảo am” đơn sơ và đạm bạc so với các nước châu Á trong vùng. Rất có thể đây là hậu quả trực tiếp của hình thái sinh hoạt tăng đoàn ngày một mỏng, phân hóa và phần đông các tu sĩ trẻ tuổi có khuynh hướng “thầy cúng” phổ biến hơn là khuynh hướng thiền sư.

ðất Âu Mỹ không có nguồn mạch của Hồng Hà, Cửu Long nhưng mầm văn hóa và văn hiến Việt Nam vẫn có thể gieo trồng và mọc lên tươi tốt. Thế hệ đàn anh đã ươm mầm một bản sắc Việt Nam. Tất nhiên trong đó có cả mầm Tết, mầm đạo Phật Việt Nam nơi đây. Nhưng cội bồ đề Việt Nam mai kia có phát triển sum sê đủ cho thế hệ đàn em Việt Nam núp bóng mát khi mùa Xuân chín tới -- tất sẽ chuyển sang mùa Hè nóng bức -- hay

không thì vẫn còn là một câu hỏi.

Chùa Kim Quang, Sacramento, ngày đầu năm 2007

Mai vàng chốn non thiêng Yên Tử

Lê Hải

Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Vì vậy rừng mai cổ Yên Tử phải được gìn giữ, bảo tồn...

Mai, lan, cúc, trúc được người đời tôn là tứ quý và được coi là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, ðông. Mai vàng là một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp xuân về.

Với người dân nước Việt, hoa mai đã trở thành sứ giả biểu tượng cho mùa xuân ở vùng đất phương Nam. Thế nhưng ít ai biết rằng ở Quảng Ninh cũng có rất nhiều loài mai, đặc biệt phải kể đến cây mai vàng Yên Tử. Mai Yên Tử có sức sống mãnh liệt, thuộc họ mai vàng có tên khoa học là OCHNACEAE. Các cụ xưa thường gọi giống mai vàng là Kim liên mộc, còn người dân địa phương thì gọi là Mai ký đá.

Cây mai ký đá thường có rễ len lỏi ở các khe đá. Mai vàng Yên Tử sống thành quần thể rừng, ước định trên 800 năm tuổi. Có thể rừng mai cổ này được hình thành từ khi vua Trần Nhân Tông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, các vị tu thiền đã tự tay trồng và chăm sóc. Mai Yên Tử có điểm khác biệt với các loài mai khác là lá non của nó lúc nào cũng xanh mướt chứ không nhuộm sắc tím, vàng như các giống mai khác.

Yên Tử từ lâu đã nổi tiếng là chốn “non thiêng” và mọi người quan tâm nhiều tới Yên Tử không chỉ vì quy mô, kiến trúc đặc biệt mà chính bởi Yên Tử vốn là một trong những trung tâm Phật giáo Việt

Hoa mai vàng Yên Tử

Nam. Cũng là hữu duyên khi tôi được trò chuyện với sư thầy Thích Quang Huệ tại chùa Lân (Yên Tử) để được hiểu thêm về giáo lý của đạo Phật và dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Bảy trăm năm qua, Yên Tử nổi danh là phúc địa, gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp phi thường của ðức Hoàng đế anh hùng Trần Nhân Tông, sau hai lần lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi (1385-1288), đã từ bỏ ngai vàng về tu tại Yên Sơn, sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm, xây dựng nơi đây trở thành một trung tâm văn hoá, kinh đô Phật giáo của ðại Việt và Người trở thành ðức Phật của Việt Nam. Chợt nhớ đến những câu thơ viết về Người:

ðể lại sau lưng cả cung điện vàng son

Những châu báu ngọc ngà, những cung tần mỹ nữ

Ta đến với rừng thiêng Yên Tử

Gió trăng ơi xin hãy đón ta về...

Và tự lúc nào, câu chuyện lại xoay quanh về cây mai vàng Yên Tử. Theo lời sư thầy Quang Huệ, Sơ Tổ khi xưa đã dạy các đệ tử: Hãy buông bỏ hết những cái không buông bỏ được thì chính là cây mai vàng Yên Tử. Qua đó, ðiều Ngự Giác Hoàng muốn ám chỉ đến hành giả, chỉ tu thành chính quả khi đã rũ bỏ được mọi vướng luỵ, nhưng điều cao quý nhất không thể nào rũ bỏ được chính là tâm thiền của mỗi nhà sư. Tâm thiền đó được ví như tinh thần, cốt cách của cây mai vàng Yên Tử.

Vẻ đẹp của mai và là vẻ đẹp thanh khiết cao quý, màu vàng tượng trưng cho sự vinh hiển cao sang. Theo thuyết ngũ hành, thì màu vàng thuộc hành Thổ, nằm ở vị trí trung tâm của bốn hướng ðông, Tây, Nam, Bắc. Màu vàng cũng là màu biểu tượng cho nòi giống Việt. Hương của hoa mai còn được gọi là “lãnh hương” bởi trời càng lạnh, hoa càng toả hương thơm. Bất chợt hiểu thêm một chút về hai câu thơ của thiền sư Mãn Giác:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.

(ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

ðêm qua, hiên trước một nhành mai).

Xuân đến - xuân đi, những ngày xuân trôi qua, nhìn những cánh hoa rơi lìa khỏi thân cành như nhắc nhở dòng thời gian đến - đi, hoa nở - hoa tàn, tóc xanh - tóc bạc. Vòng đời luân chuyển, mọi việc trên đời đều vô thường. Ai cũng đến đi, ai cũng trẻ già, đã là thế nhân làm sao thoát khỏi vòng sinh tử, làm sao thoát được tâm tư khổ luỵ của kiếp người. Lúc được thì vui, khi mất thì buồn. Lúc gần gũi thì hạnh phúc, khi biệt ly thì đau khổ...

Dù vẫn biết, thiền sư Mãn Giác có ý nhắn dạy thế nhân về quy luật vận hành tất yếu của thiên nhiên và vòng tử sinh luân hồi của kiếp người. Nhưng mùa xuân đã qua, tưởng hoa đã rụng hết mà nhà sư vẫn thấy một nhành mai nở muộn lúc xuân tàn? Có thể nhành mai mà thiền sư đã trông thấy chỉ là trong tâm thiền, nhành mai đó chính là biểu tượng cát tường của đời sống.

Kể về mai vàng Yên Tử, bà Lê Chinh Thuần, một trong những Phật tử thuần thành bảo vệ rừng mai cổ, cho biết: "Rừng ðại lão mai vàng Yên Tử này rất linh thiêng, bởi đây chính là nơi các thiền sư đã từng ở. Với tâm thành dâng lên Sư Tổ thiền viện, nhóm Phật tử Minh Thành Tuệ đã làm lễ xin hạt ở rừng ðại lão mai vàng về ươm thành cây để trồng ở chùa Vân Tiêu, Bảo Sái, Hoa Yên...

ðến nay, một số cây mai đã phát triển tốt, khai hoa kết nụ làm đẹp thêm chốn non thiêng trong mùa lễ hội. Trơ gan cùng tuế nguyệt, giữa sương tuyết lạnh lùng, mai vẫn âm thầm đơm hương và đến thời khắc dẫu gió xuân chưa về, mai vẫn khai hoa.

Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Vì vậy rừng mai cổ Yên Tử phải được gìn giữ, bảo tồn...”.

Lặng ngắm nhìn những thân mai khẳng khiu, thanh thoát mà không yếu đuối; mạnh mẽ, cương trực mà không hề thô kệch và ngắm những nụ mai vàng cứng cáp đang nhú lên trong giá lạnh để chuẩn bị khai hoa đón mùa xuân tới, tôi mới phần nào hiểu được tại sao mai vàng lại chiếm một vị trí quan trọng trong thơ ca cổ đến vậy.

Tạm biệt Yên Tử vào một ngày cuối đông, nghe tiếng chuông chùa ngân nga, nhịp nhàng hoà theo với gió để rồi tan dần trong sương chiều bảng lảng và nghe tiếng Mô Phật thay cho lời chào tạm biệt của các thiền sư vừa hiền hoà, vừa thanh thoát, thấy tâm mình nhẹ nhàng hơn...

Bên mé rừng đã nở rộ hoa mai

nhất hạnh

Thầy đi tìm con

Từ lúc non sông còn tăm tối Thầy đi tìm con

Khi mọi loài còn chờ đợi ánh dương lên Thầy đi tìm con

Khi con còn đắm chìm trong một giấc ngủ triền miên Dù tiếng tù và đã vọng lên từng hồi giục giã

Không rời non xưa Thầy đưa mắt về phương trời lạ

và nhận ra được trên vạn nẻo đường từng dấu chân của con Con đi đâu?

Có khi sương mù đã về giăng mắc chốn cô thôn

Mà trên bước phiêu linh con vẫn còn miệt mài nơi viễn xứ Thầy đã gọi tên con trong từng hơi thở

Tin rằng dù con đang còn lạc loài đi về bên nớ

Con cũng sẽ cuối cùng tìm ra được lối trở về bên ni Có khi Thầy xuất hiện ngay giữa đường con đi

Nhưng mắt con vẫn nhìn Thầy như nhìn một người xa lạ Không thấy được mối túc duyên

Không nhớ được lời nguyền xưa vàng đá Con đã không nhận ra được Thầy

Vì tâm con còn vướng bận những hình bóng xa xôi

Trong kiếp xưa con đã từng nhiều lần nắm tay Thầy rong chơi Thầy trò ta đã ngồi thật lâu cạnh những gốc thông già trăm tuổi

ðã từng đứng yên cùng lắng nghe tiếng gió thì thào mời gọi và ngắm nhìn những cụm mây trắng bay

Con đã từng nhặt đưa Thầy những chiếc lá ngô đồng đầu thu đỏ thắm

Thầy đã từng đưa con vượt qua những khu rừng tuyết phủ giá băng

Nhưng đi đâu Thầy trò ta cũng luôn luôn trở về nơi non xưa chốn cũ, để được gần gũi sao trăng

ðể được mỗi khuya gióng tiếng chuông đại hồng cho mọi loài tỉnh thức

Thầy trò ta đã từng ngồi yên trên An Tử Sơn cùng đại sĩ Trúc Lâm bên những cây đại già nở hoa thơm ngát

ðã từng đưa tàu ra khơi vớt người thuyền nhân phiêu dạt

ðã từng giúp Thiền Sư Vạn Hạnh thiết kế thành Thăng long ðã từng cùng nhau đánh tranh dựng chiếc thảo am bên sông

và giăng lưới vớt Trạc Tuyền khi Tiền ðường đang đùng đùng dậy sóng

Thầy trò ta đã mở lối bước lên trời ngoại phương lồng lộng Sau bao tháng ngày công phu chọc thủng lưới thời gian ðã từng cất giữ được ánh sáng của những vì sao băng

Làm đuốc soi đường cho những ai muốn trở về sau những tháng ngày rong ruổi

Nhưng cũng có khi hạt giống lãng tử trong con bừng sống dậy

Con đã rời bỏ Thầy, rời bỏ huynh đệ một mình thất thểu ra đi… Thầy nhìn con xót thương

Tuy biết rằng đây không thực sự là một cuộc phân kỳ

Bởi vì con đang có Thầy nơi từng tế bào trong cơ thể Biết con còn phải thêm một lần đóng vai người cùng tử

Nên Thầy đã nguyện sẽ có mặt đó cho con mỗi lần con gặp bước gian nguy

Có khi con nằm thiếp đi trên cát nóng sa mạc chốn biên thùy Thầy đã hóa thân làm đám bạch vân đem cho con bóng mát

ðến giữa khuya đám mây đọng lại thành sương, cam lộ rơi từng hạt

để con uống lấy trong cơn mê Có khi con ngồi dưới vực sâu tăm tối, hoàn toàn cách biệt trời quê Thầy đã hoá thân thành chiếc thang dài và nhẹ nhàng bắc xuống

Cho con leo lên vùng chan hoà ánh sáng ðể tìm lại được màu trời xanh và tiếng suối tiếng chim

Có lúc Thầy nhận ra được con ở Birmingham Ở quận Do Linh hay miền Tân Anh Cát Lợi

Có lúc Thầy gặp con ở Hàng Châu, Hạ Môn hay Thượng Hải Có lúc Thầy tìm được con ở St Peterburg, hoặc ở Tây Bá Linh

Có khi mới lên năm mà thấy con, Thầy cũng nhận được chân hình Thấy được hạt giống bồ đề nơi con, mang trong trái tim còn niên

thiếu Thấy con, Thầy đã luôn luôn đưa tay lên làm dấu hiệu

Dù nơi gặp con là ở miền Kinh Bắc vùng Bến Nghé hay ở cửa biển Thuận An

Có khi con là trái trăng vàng ửng chín lơ lửng treo trên đỉnh Kim Sơn

Hay là con chim con chiêm chiếp kêu đêm đông bay qua rừng ðại Lão

Rất nhiều khi Thầy thấy được con nhưng con không thấy được Thầy,

dù trên nẻo đường con đi sương chiều đã thấm vào ướt áo Vậy mà cuối cùng con cũng đã trở về

Con trở về ngồi dưới chân Thầy nơi chốn non xưa ðể rồi tiếng chim kêu tiếng vượn hú lại cùng hòa với tiếng công

phu sớm trưa Con đã về bên Thầy, thực sự muốn chấm dứt cuộc đời lãng tử

Sáng nay chim chóc ca mừng vầng ô lên rạng rỡ

Con có hay Trên bầu trời xanh mây trắng vẫn còn bay?

Con ở đâu? Cảnh núi xưa còn đó nơi hiện pháp chốn này Dù đợt sóng bạc đầu vẫn còn đang muốn vươn mình đi về phương

lạ Nhìn lại đi, Thầy đang ở trong con, và trong từng nụ hoa, chiếc lá

Nếu gọi tên Thầy, con sẽ tự khắc thấy Thầy ngay Con đi đâu? Cây mộc già đã nở hoa, thơm nức sáng nay

Thầy trò ta thật chưa bao giờ từng cách biệt Xuân đã về, các cội thông đã ra chồi óng biếc

Và bên mé rừng đã nở rộ hoa mai

Xuân với Tăng thân “vầng trăng sáng”

Trần ðan Hà

Xuân lại đến vẫn ngoài trời tuyết trắng lạnh lùng thêm cho một kiếp tha hương nhưng trong đây nghe ấm áp nên lòng cũng vơi bớt bao buồn thương xa nhớ Mừng xuân đến lòng trăm hoa đua nở thắp tin yêu lên sáng đẹp cuộc đời … tình anh em thêm thắm thiết muôn nơi nên xuân đến chúc mừng em thêm tuổi Em khôn lớn giữa thênh thang nguồn cội dấu trong lòng tình nghĩa của Tăng thân những niềm vui thường ghé đến đôi lần để thăm viếng từng chuổi đời thanh quý ðường hôm nay hướng về chân thiện mỹ

xây dựng ngôi nhà “huyết thống tâm linh” cùng chung nhau nguồn sống với tâm tình thắp lên sáng một phương trời hạnh phúc Rất hân hạnh đến với cùng chung bước sống cùng nhau trong chánh niệm lục hòa thấy tình đời như đua nở giữa ngàn hoa như hạnh phúc đang vang lời tâm nguyện Nguyện giữ mãi đóa hoa lòng thân mến để dìu nhau qua “cầu hiểu đến cầu thương” cho xuân về thêm ấm áp tha hương “Vầng Trăng Sáng” trên khung trời Stuttgart Xin cầu nguyện xuân vẫn hồng hương ngát dẫu đời trôi trên vạn nẽo vô thường nhưng chúng ta còn “thêm nghĩa yêu thương” bằng chánh niệm sống cuộc đời tỉnh thức ðể hóa giải những buồn đau phiền trược bằng thảnh thơi trong mỗi bước thiền hành quên cuộc đời sống bằng những lợi danh nguyện giữ mãi tình Tăng thân bền vững Xuân lại đến xin cầu chúc đại chúng tròn một năm hạnh phúc sống bình an dẫu đường đời còn tràn ngập giá băng nhưng vẫn ấm trong nhau tình huynh đệ

Mai nở lòng xuân

Minh Triết Trần Thiện ðạt

Cảm khái sau khi đọc bài kệ Cáo Tật Thị Chúng của thiền sư Mãn Giác đời Lý

Sách đã mở, bâng khuâng mà chẳng đọc Ngoài thềm khuya trăng dọi một cành mai Vẫn nâng niu như thuở bước vào đời Hương thoang thoảng cả một thời xưa ấy Dòng sông nhỏ vẫn êm đềm xuôi chảy Sỏi cát nằm in dấu nguyệt trong mây Khói sóng xưa ... lầu Hạc bỗng dâng đầy Cỏ Anh vũ bờ xa ... miền khách địa ðêm tĩnh lặng chợt vô cùng thấm thía "Một cành mai" - lời kệ nở bừng thơ Giữa lòng ta từng đợt sóng xô bờ Như hát với biển đời Xuân bất tận

Hoa Xuân bổn môn

Thích Nữ Giới Hương

Một nụ mai hé nở Khoe sắc bên thềm chùa

Giờ Xuân hay là ðông Mà điểm vàng bông tuyết?

Tôi khó phân biệt được mùa đông hay xuân nơi Milwaukee này. ðã hai năm tôi lưu trú nơi đây, tuyết rơi và gió lạnh mùa đông hình như bắt đầu từ tháng 11, 12 kéo dài đến cả tháng 4 và 5, tức đông trong xuân và lấn cả qua hạ. Mà thôi, đừng bàn đến nữa. Biết bao giờ nói cho cùng chuyện vô thường chuyển đổi của thời tiết, mùa màng và thế giới hữu vi sanh diệt. Dù sao, nụ mai nhỏ thật là kỳ diệu! Không cần phải ngắm cả rừng mai hay làng mai… chỉ một nụ hoa tượng trưng thôi. Khiêm nhường nhỏ bé khéo đâm chồi nẩy lộc vươn lên từ kẽ lá, thế nhưng… nó đã tô điểm cả góc trời Milwaukee, bức tranh vĩ đại của vũ trụ bao la và nhất là bao dung những tấm lòng của người con Việt, người con Châu Á để báo cho biết rằng ‘hương Xuân đang đến’.

Mây xanh, xanh tận chân trời Cành mai sắc thắm, vẫy mời hương

xuân. Xuân đến, mai vàng, đào nở, dưa hấu, bánh tét, bánh chưng, hạt dưa,

bánh mứt, câu đối đỏ, hồng bao lì xì vv… như mang đến một sức sống mới đầy hứa hẹn của đầu năm, mang đến nụ cười của hạnh phúc, may mắn và thịnh vượng; mang đến cả bầu không khí trẻ trung, vui tươi, lành mạnh, hân hoan, lạc quan và mới mẻ. ðó là xuân của thế giới tích môn như trong kinh Pháp Hoa đã nói. Thế nào là xuân trong thế giới bản môn?

Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết Hoa nở, hoa tàn chỉ là xuân.

(Thiền sư Chân Không)

‘Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết’ là xuân theo vòng xoay vận hành của sanh, trụ, dị và diệt của tích môn, của thế nhân đời thường. Vì chúng ta sống theo sự vận hành này nên chúng ta bị chi phối, bị buồn khi thấy mai xuân đã tàn và khởi lòng hân hoan khi thấy đào đỏ bắt đầu khoe sắc. Chúng ta cột mình trong tích môn, nên chúng ta thấy có tự ngã của chính chúng ta, người thân, chùa chiền và cảnh vật. ðó là chúng ta bị lệ thuộc vào khổ tập (dukkha - suffering) chi phối. ‘Hoa nở, hoa tàn chỉ là xuân’ là xuân theo quan điểm bổn môn, đó là diệu dụng nhiều phương diện của chân tánh, là nhậm vận tuyệt vời kỳ diệu của chính tâm hoa xuân chúng ta. ðừng tự mặc cảm và phủ định để tự làm chàng cùng tử nghèo nàn rách rưới, lang thang khổ đau mãi trong ba cõi sáu đường không biết chán, dù hiện tại chúng ta có nhà lầu, xe hơi và của cải. - Nhận được giá trị tuyệt vời của tâm mình? (tự hỏi?) - Không dễ và không khó! Một hố sâu đọa lạc và một biển trời giải thoát chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của tri kiến (cho nên việc học-tu-chứng là

quan trọng). Xin đừng chẻ nó ra thành ngàn triệu tỷ mảnh để tìm sự thật. Hoa xuân bổn môn nằm ở thái độ vững chãi, bình thản nhận diện những hạnh phúc bình dị hàng ngày, nhận đuợc mình và người trong tầm tay của cuộc sống và vũ trụ. Mang ơn ðức Phật, các thiền sư và chư tổ đã chuyển tải gia tài tâm linh giàu có của xuân thịnh vượng, xuân miên viễn, xuân vượt thời gian và không gian, xuân bổn môn đến với chúng ta. ðem thân tâm cúng dường Tam bảo và phụng sự chúng sanh suốt đời, suốt kiếp, a tăng kỳ kiếp cũng không đền đáp nổi ơn của các ngài đã thương tưởng chúng ta. Xin hãy sống với HOA XUÂN BỔN MÔN. Mong lắm thay!

Thư phòng Phước Hậu - ngày 10/1/2008

Thế Lữ,

"Giây phút chạnh lòng"

Nhất Hạnh

iao thừa năm nay tôi xin đọc cho quí vị nghe một bài thơ

của Thế Lữ, bài Giây Phút Chạnh Lòng. Bài thơ này viết năm 1936

(lúc đó tôi mới 10 tuổi) để tặng cho Nhất Linh, tác giả tiểu thuyết

ðoạn Tuyệt. Tôi nhớ là bài thơ này được in vào đầu trang tiểu

thuyết ðoạn Tuyệt.

Trong cuộc sống hàng ngày lâu lâu tâm mình có hơi chùng xuống

một chút, hơi yếu xuống một chút, mất đi một ít năng lượng, giây

phút ấy gọi là giây phút chạnh lòng.

Anh đi đường anh, tôi đường tôi,

Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

G

ðã quyết không mong sum họp mãi.

Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

Lời của người con gái nói với người con trai trong giờ phút người

con trai từ giã để lên đường phụng sự lý tưởng của mình. Chuyện

đã xảy ra nhiều năm trước và hôm nay người con trai ngồi nhớ

lại.

ðất nước hồi đó còn nằm dưới sự đô hộ của người Pháp. Những

người thanh niên Việt Nam lớn lên bắt đầu có ý thức rằng đất

nước mình không phải là một đất nước độc lập cho nên tâm tư họ

có những xao xuyến, thao thức: làm thế nào cho đất nước mình

được độc lập, tự mình làm chủ lấy mình?

Trong khi đó guồng máy công an, cảnh sát dưới sự cai trị của

người Pháp rất hùng hậu, rất vững mạnh. Họ tìm mọi cách để cho

người Việt không có cơ hội đứng dậy để giành lại chủ quyền độc

lập cho đất nước mình. Nhưng những thanh niên tân học thấy rõ

ràng rằng người dân của một nước mà không làm chủ được đất

nước của mình là chuyện rất nhục nhã, không những đối với quốc

dân trong giờ phút hiện tại mà còn đối với tổ tiên của mình, tại vì

tổ tiên của mình cũng đã từng tranh đấu để quốc gia có chủ

quyền, có độc lập. Trong quá khứ có lần Trung quốc chiếm cứ đất

nước Việt Nam đến một ngàn năm. Việt Nam trở thành lãnh thổ,

một tỉnh của Trung quốc. Việt Nam trong thời ấy hoàn toàn bị

mất chủ quyền đối với người Trung quốc.

Vào lúc Thế Lữ viết bài này là Việt Nam đã bị nước Pháp chiếm cứ

gần một trăm năm. Thế Lữ cũng như một số các bạn đã từng có

cơ hội đi sang Pháp du học, đậu bằng cử nhân khoa học. Vì vậy

những người đó biết thế nào là một nước có chủ quyền, một nước

có độc lập nên khi về nước họ rất thao thức, muốn kết hợp bạn

bè, tìm mọi cách để có thể có cơ hội giành lại chủ quyền cho đất

nước.

Người Pháp không cho phép ra những tờ báo hay in những cuốn

sách và thành lập những tổ chức với mục đích gây ý thức cho

quốc dân nhằm khôi phục lại nền độc lập. Nhưng các thanh niên

đó đã tìm mọi đủ cách khéo léo để xuất bản những tờ báo, lập

những nhà xuất bản sách để truyền bá gián tiếp những tư tưởng

đó cho quốc dân. Họ chỉ cần một tờ báo thôi, một nhà xuất bản

thôi, vậy mà trong vòng sáu năm, bảy năm họ đã gây được ý

thức trong quốc dân và ảnh hưởng của họ đối với quốc dân rất

lớn. Nhất Linh là một người đã từng bí mật tổ chức những đảng

chính trị để hoạt động, đã từng bị người Pháp bắt bỏ vào tù và đã

từng trốn qua Trung quốc để lánh nạn nên những điều mà Nhất

Linh nói, những điều Thế Lữ nói là những điều phát xuất từ kinh

nghiệm.

Anh đi đường anh, tôi đường tôi.

Tình nghĩa tôi ta có thế thôi.

ðã quyết không mong sum họp mãi.

Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

Người con gái nói với người con trai: anh đi cứu nước đi, em sẽ ở

nhà. Người con gái này tên là Loan và người con trai tên là Dũng.

Loan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống, cổ điển, có

những lề thói không còn phù hợp với nếp sống mới nữa và nhất là

tình trạng mẹ chồng nàng dâu đã làm Loan rất khổ sở. Loan là

người đã từng được đi học trường Tây và đã học hết bằng trung

học Pháp. Loan đã tiêm nhiễm tư tưởng mới của Tây phương về

tình yêu tự do và không muốn bị ràng buộc vào đại gia đình.

Nhưng vì hoàn cảnh, Loan bắt buộc phải lấy Thân mà không được

lấy người yêu là Dũng. Tại vì Dũng có những tư tưởng cách mạng

nguy hiểm nên cha mẹ Loan cấm Loan không được phép yêu

Dũng, lấy Dũng và bắt Loan phải lấy Thân, một người con trai rất

tầm thường.

Hai vợ chồng có một đứa con nhưng chẳng may đứa con đó đã

chết và bà mẹ chồng nghĩ rằng vì Loan không thể sinh đẻ được

nữa nên đã bắt ép Loan phải đồng ý cho Thân cưới một người vợ

lẽ, một người vợ thứ hai. Loan là một cô thiếu nữ được học trong

trường Tây, được tiêm nhiễm tư tưởng tự do cá nhân của Tây

phương mà phải sống trong khung cảnh gia đình phong kiến với

những lề thói bắt buộc như vậy thì rất là đau khổ, cho nên Loan

thường hay nhớ tới người yêu xưa là Dũng. Dũng thì thấy mình

không còn có cơ duyên nào để có thể cưới Loan nên quyết tâm đi

kháng chiến, đi cách mạng.

Có một nguyên do thầm kín nữa là mẹ của Loan có mắc nợ mẹ

của Thân và vì vậy phải hứa gả Loan cho Thân. ðiều này Loan chỉ

khám phá ra sau này khi mà sự việc bị đổ vỡ. Trong một cuộc

xung đột, khi Thân xông tới để đánh Loan thì tai nạn xảy ra. Thân

vấp té vào lưỡi dao Loan đang cầm để rọc giấy, lưỡi dao đó đâm

vào trong bụng Thân và Thân chết. Lúc đó báo chí Hà nội loan

tin: Cô Loan giết chồng! Cô Loan giết chồng! Rốt cuộc nhờ một

cặp vợ chồng người bạn vận động các luật sư giỏi để cãi cho Loan

nên cuối cùng thì Loan được tha bổng vì đây là trường hợp tai nạn

chứ không phải là tội cố ý giết chồng. Lúc đó Dũng đang hoạt

động cho cách mạng, bí mật đi công tác về thành phố và đã nghe

tin có buổi xử án như vậy.

ðêm đó là một đêm giao thừa, đêm đó là ngày cuối năm và người

con trai không có gia đình đã bôn ba nhiều năm, sống rất vất vả,

rất khó khăn, trong khi về công tác ở thành phố và được nghỉ

ngơi một vài ngày trước khi tiếp tục lên đường thì nghe tin tòa xử

trắng án cho Loan. Dũng nhớ tới ngày xưa khi hai người yêu

nhau, và có ý muốn rằng bây giờ Loan được tự do rồi, thì mình sẽ

tìm cách liên lạc với Loan để nối lại tình yêu ngày xưa. Dũng nhờ

hai vợ chồng cô giáo Thảo liên lạc để do xem ý của Loan như thế

nào? ðây là những ý tưởng tới với Dũng khi Dũng nằm trên căn

gác một mình lạnh lẽo chiều cuối năm và nhớ lại những điều ngày

xưa Loan đã nói với Dũng lúc hai người chia tay nhau.

Anh đi đường anh, tôi đường tôi,

Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

Loan dùng giọng điệu rất là anh hùng để người con trai phấn chấn

lên đường, để cho người con trai có thêm nghị lực mà đi hoàn tất

được nhiệm vụ của mình.

Anh đi đường anh, tôi đường tôi,

Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

Nếu chúng ta không có điều kiện thuận lợi thì em đi lấy chồng,

còn anh đi làm cách mạng. Tại sao phải vương vấn với nhau cho

nó khổ? Anh cứ đi đi và em sẽ âm thầm yểm trợ.

ðã quyết không mong sum họp mãi.

Bận lòng chi nữa lúc chia phôi ?

Tại sao phải bịn rịn, anh cứ đi và em cứ ở lại.

Non nước đang chờ gót lãng du

ðâu đây vẳng tiếng hát chinh phu

Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc

ðưa tiễn anh ra chốn hải hồ

Nưóc non đang cần những ngưòi con trai như anh.

Non nước đang chờ gót lãng du,

ðâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,

Chinh phu là những người con trai đi đánh trận, đi làm cách

mạng, đi đánh đuổi quân ngoại xâm.

ðâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,

Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc,

Tôi có thương, tôi có tiếc nhưng vì lý tưởng mà tôi đành để cho

anh đi và tôi thúc đẩy cho anh đi, anh là con trai, anh không nên

bịn rịn.

ðưa tiễn anh ra chốn hải hồ.

Hải hồ tức là sông biển, nơi người nam nhi, người con trai có

không gian thênh thang để tung hoành. Ý nói rằng tình là cái

vướng víu, nếu anh có chí hướng cao cả, anh phải giật đứt sợi

giây tình để anh có không gian thênh thang mà làm công việc của

người trai.

Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,

ðem chí bình sinh dãi nắng mưa,

Thân đã hiến cho đời gió bụi

ðâu còn lưu luyến chút duyên tơ?

ðường anh đi là con đường rất đẹp, con đường của cách mạng,

con đường đem lại độc lập tự do cho đất nước và anh đã có chí

bình sinh, đã có năng lượng của tình yêu nước thì anh sẽ không

có sợ gì nắng, sợ gì mưa, sợ gì khó khăn nữa.

ðem chí bình sinh dãi nắng mưa,

Thân đã hiến cho đời gió bụi

Thân anh, đời sống của anh đã hiến cho lý tưởng phụng sự đất

nước thì tại sao anh lại phải bịn rịn?

ðâu còn lưu luyến chút duyên tơ ?

Người con gái đem chút duyên tơ, sự thông minh và thiện chí của

mình để giúp người con trai ra đi, rất vững vàng. Nhưng sức

người có hạn, cô chỉ nói được như thế trong mười hai câu thôi,

đến câu thứ mười ba thì người con gái chùng xuống.

Rồi có khi nào ngắm bóng mây,

Chiều thu đưa lạnh gió heo may.

Dừng chân trên bến sông xa vắng,

Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây.

Mình thấy tâm tình Loan trong bốn câu này bắt đầu chùng xuống

và tất cả những thiện chí được diễn tả trong mười hai câu trên do

đó đã tan thành mây khói.

Rồi có khi nào ngắm bóng mây?

Trên con đường anh đi, có khi nào anh dừng lại ngắm một bóng

mây ở chân trời? Và một buổi chiều nào lành lạnh có gió heo

may, đứng trên bờ sông xa vắng thì xin anh nhớ lại một chút là

ngày xưa chúng ta đã từng yêu nhau.

Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây,

Như vậy là chết rồi !

Xin anh cứ tưởng, bạn anh tuy

Giam hãm thân trong cảnh nặng nề.

Vẫn để hồn theo người lận đận,

Vẫn hằng trông đếm bước anh đi.

Anh nên nhớ bạn của anh tuy đang bị kẹt trong một hoàn cảnh

nặng nề, khó thở, nhưng mà trái tim của người đó vẫn luôn luôn

theo dõi bước chân anh đi và cầu nguyện anh đạt thành chí

nguyện. ðó là những lời mà cô nàng đã nói nhiều năm về trước

và bây giờ anh chàng nhớ lại. Anh chàng cảm thấy cô độc, cảm

thấy cuộc đời của người chinh phu lạnh lẽo, có những giây phút

nhớ nhà, có những giây phút cần có sự ấm cúng, có những giây

phút cần sự có mặt của một người thương. Giây phút đó là giây

phút chạnh lòng.

Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,

Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.

Nhưng chính lòng em còn thổn thức,

Buồn kia em giấu được ta đâu?

Người con trai ngay từ lúc đó đã biết rằng tuy người con gái đang

dùng những lời khẳng khái để động viên mình nhưng kỳ thực trái

tim của người con gái đang còn thổn thức lắm.

Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,

Em muốn cho ta chẳng thảm sầu,

Là sự vuốt ve, là lòng tốt của người con gái.

Nhưng chính lòng em còn thổn thức

Anh biết rằng trái tim của em đang thổn thức, nhưng nỗi buồn kia

của em, làm sao giấu được anh?

Em đứng nương mình dưới gốc mai,

Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,

Cười nâng tà áo đưa lên gió,

Em bảo: hoa kia khóc hộ người.

Khi hai người chia tay, họ đứng ở dưới một gốc mai.

Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,

Loan vịn vào cành mai và có những hoa mai rơi rụng xuống.

Em đứng nương mình dưới gốc mai,

Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,

Cười nâng tà áo đưa lên gió,

Em bảo : hoa kia khóc hộ người.

Hoa khóc chứ em đâu có khóc, Loan đã nói như vậy.

Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,

Nhìn nhau bình thản lúc ra đi.

Nhưng trong khoảnh khắc thờ ơ ấy,

Thấy cả muôn đời hận biệt ly.

Hai người nói nói, cười cuời nhưng tới giây phút biệt ly, người con

trai phải đi thôi. Hai người không còn nói nữa, họ im lặng, họ im

lặng trong chốc lát rồi thì người con trai bước đi. Giây phút đó là

giây phút khó khăn nhất của cả hai người vì không có hy vọng gì

để trong tương lai hai người có thể đoàn tụ với nhau được.

Anh đi đường anh, tôi đường tôi

Tình trạng đất nước, tình trạng của chế độ gia đình phong kiến

bắt buộc phải như vậy và không thể nào làm khác hơn được. Có

hai vấn đề lớn của đất nước vào khoảng năm 1930.

- Vấn đề thứ nhất : đất nước không có chủ quyền.

- Vấn đề thứ hai : xã hội đang bị chìm đắm, đang bị ràng buộc

trong những lề lối phong kiến, xưa cũ.

Dân trí chưa mở và những tập tục phong kiến chưa có thể tháo ra

được là hai trở lực mà cả hai người đang phải chịu đựng. Người

con trai ra đi hoạt động để thay đổi tình trạng, còn người con gái

ở nhà có thể làm được gì hay chỉ tiếp tục làm nạn nhân cho

những tập tục phong kiến của một gia đình cổ?

Nhất Linh sanh vào năm 1905 và viết cuốn tiểu thuyết này lúc 31

tuổi. Cuốn này tên là ðoạn Tuyệt, muốn đoạn tuyệt với tất cả

những cái gì cổ hũ, phong kiến của xã hội, của gia đình, nó đã

làm cho con người không còn tự do. Thế Lữ đã viết bài thơ Giây

Phút Chạnh Lòng này để tặng cho Nhất Linh cũng vào năm đó,

tức là năm 1936.

Hồi đó họ chỉ là một nhóm nhỏ có khoảng sáu bảy người thôi*. Họ

sanh ra vào đầu thế kỷ thứ hai mươi, vào khoảng năm 1905,

1906 và 1907. Họ có cơ duyên được đi học và tiêm nhiễm được tư

tưởng dân chủ, tự do của Tây phương và họ quyết định làm một

cái gì cho đất nước. Một mặt họ muốn tổ chức những hội kín để

vận động quần chúng đi tới chuyện lật đổ chánh quyền Pháp, một

mặt họ biết rằng mật thám Pháp có khắp nơi, trong đó có rất

nhiều người Việt đi theo Pháp để làm tay sai, để mà dọ thám họ

vì vậy công việc của họ rất là khó khăn. Biết bao nhiêu người đã

bị bắt, đã bị ở tù, bị xử tử vì đã muốn đứng dậy để làm cách

mạng đuổi Pháp đi.

Năm 1932, có một tờ báo sắp chết tên là Phong Hóa, họ xin lại

giấy phép của tờ báo đó và với tài năng của nhóm, họ làm cho tờ

báo đó trở thành một tờ báo rất nổi tiếng trong quốc dân. Họ viết

những truyện ngắn, những truyện dài, họ làm những bài thơ, họ

viết những bài khảo luận đánh động vào tâm trí của giới trẻ và

tức khắc rất nhiều thanh niên trong toàn quốc đã trở thành độc

giả của báo Phong Hóa (Bộ mới 1932, số 13).

Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có người em trai tên là Nguyễn

Tường Long lấy bút hiệu Tứ Ly. Tứ ly là giờ xấu nhất trong ngày

(khi mình muốn làm chuyện gì hay thì đừng làm vào cái giờ này.

Anh chàng này lấy Tứ Ly làm bút hiệu của mình; tôi cứ lấy cái tên

đó nếu rủi thì tôi chịu, tôi không mê tín như vậy) và Tứ Ly đã thật

sự là một cây bút châm biếm tài tình. Tất cả những gì cổ hủ, tất

cả những gì lỗi thời, tất cả những gì lố bịch, ông ta đều dùng ngòi

bút của ông ta để châm biếm và cây bút Tứ Ly đã làm cho chánh

quyền, nhất là chánh quyền Pháp, rất sợ hãi và đến năm 1936

chánh quyền Pháp bắt buộc phải đóng cửa tờ Phong Hóa.

Sau đó mấy anh em tìm cách để ra một tờ báo khác nữa gọi là tờ

Ngày Nay và kỳ này Nguyễn Tường Long bỏ bút hiệu Tứ Ly và lấy

bút hiệu mới là Hoàng ðạo. Hoàng đạo là giờ tốt nhất trong ngày

và họ tiếp tục cái lý tưởng của họ. Với những bài khảo luận,

truyện ngắn, truyện dài, họ giúp mở dân trí ra và chỉ trong vòng

bảy tám năm họ thay đổi sự suy nghĩ của cả một thế hệ thanh

niên ở trong nước. Tôi lớn lên và đã bị ảnh hưởng tư tưởng và văn

chương của Tự Lực Văn ðoàn khá nhiều.

Một người con trai lớn lên trong cái không khí văn nghệ đó sẽ

thấy rõ ràng mình chỉ có hai đường thôi, một là vâng lời cha mẹ

đi cưới vợ và sống trong môi trường cũ, hai là bỏ nhà đi làm cách

mạng. Một là làm như Loan, lập gia đình, sanh ra vài ba đứa con,

cho nó đi học rồi chịu đựng tất cả những và những tập tục cổ; hai

là làm Dũng, cương quyết bỏ ra đi để đi làm cách mạng. Nếu như

không có một nguyên làm cho tôi trở thành một người xuất gia

thì tôi đã đi vào một trong hai con đường đó và ngày hôm nay tôi

đã không ngồi ở đây.

Thời đó ảnh hưởng của Tự Lực Văn ðoàn rất lớn, thơ của Thế Lữ,

của Xuân Diệu và tiểu thuyết của Khái Hưng và của Nhất Linh ảnh

hưởng đến tuổi trẻ rất nhiều. Thơ của Nguyễn Bính, những câu

thơ rất đơn giản cũng đã ảnh hưởng tôi rất nhiều. Xin đọc lại vài

câu để xem có thầy cô nào nhớ nhà không?

Tết này chưa chắc em về được

Em gửi về đây một tấm lòng

Ôi, chị một em, em một chị

Trời làm xa cách mấy con sông

……………………………………

Cột nhà hàng xóm lên câu đối

Em đọc tương tư giữa giấy hồng

Gạo nếp nơi đây sao trắng quá

Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông

Tôi đọc nhưng dòng này hồi mười mấy tuổi mà tới bây giờ vẫn

còn thuộc.

Gạo nếp nơi đây sao trắng quá

Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông

………………………………….

ðêm nay em thức thi cùng nến

Ai biết tình em với núi sông

Khi tôi lớn lên thì đêm giao thừa nào cũng ưa ngồi một mình, đốt

đèn bạch lạp lên và đọc thơ, năm nào cũng như năm nào, chỉ vì bị

ảnh hưởng vỏn vẹn có hai câu thơ đó của Nguyễn Bính.

Ngày xưa có cái mốt là những người trí thức văn nghệ sĩ tới giờ

giao thừa là phải đốt nến, đốt trầm lên để đọc thơ, nhất là nến

bạch lạp (đèn cầy trắng) và thơ phải in trên giấy thật tốt tức là

giấy bản trắng. ðọc thơ ðường in trên giấy lụa dưới ánh sáng của

bạch lạp là một hình ảnh đẹp. Hồi đó chưa có đèn điện, mà thắp

đèn dầu mờ mờ thì đọc thơ không được rõ lắm. Vì vậy thắp lên

một ngọn bạch lạp, thắp lên hai ngọn bạch, hoặc thắp lên ba

ngọn bạch lạp để đủ ánh sáng mà đọc thơ.

Lúc còn là một ông thầy tu trẻ, tết nào tôi cũng làm như vậy, thế

nào cũng tìm ra cho được ba ngọn bạch lạp cắm và đốt lên trên

một cái đĩa và đem thơ của các thi sĩ mình thích ra đọc. Bây giờ

tôi đã bỏ cái tật ấy rồi, đêm giao thừa ưa ngồi như thế này chơi

với đệ tử thôi.

Ngày hôm kia Thầy thấy có một vị trên xóm Thượng đọc tiểu

thuyết của Minh ðức Hoài Trinh, tôi nói thôi đừng có đọc cái này.

Tại vì tôi biết hơn ai hết, mình đọc cái gì là mình thường chịu ảnh

hưởng cái đó. Vì vậy về nội dung văn nghệ mà mình tiêu thụ,

mình phải cẩn thận lắm mới được. Trong luật nói rằng, vị sa di, sa

di ni muốn đọc sách gì thì phải hỏi thầy trước là đúng như vậy.

Rủi mình đọc lỡ những cuốn có chất độc, nó hại mình lâu lắm.

Hồi đó khi tôi còn làm học tăng tại Phật học đường Báo Quốc thì

tất cả các tiểu thuyết của Tự Lực Văn ðoàn đều không được đọc.

Rồi mấy chú học tăng ăn gian, làm một thư viện bí mật, mua

những cuốn tiểu thuyết của Tự Lực Văn ðoàn, đem giấu lên trên

một cây nhãn và khi nào chú nào muốn đọc thì ra leo lên trên cây

nhãn, mở một cuốn ra đọc, ở dưới dù có các thầy đi ngờ ngờ mà

không biết rằng trên đầu mình học tăng đang đọc tiểu thuyết.

Mình tưởng như vậy là mình khôn ranh lắm, mình qua mặt được

mấy thầy, ai dè làm như vậy là tự đầu độc mình. Dầu mình đã là

Tỳ kheo, Tỳ kheo ni rồi, mình cũng phải cẩn thận lắm mới được,

mình chỉ nên đọc những cuốn sách nào, và thưởng thức những

tác phẩm văn nghệ nào mà không đem lại độc hại cho trái tim

của mình mà thôi.

Năm một ngàn chín trăm ba mươi lăm Hội Phật giáo Bắc kỳ xuất

bản một tạp chí Phật học tên là tờ ðuốc Tuệ và sự xuất hiện của

tờ ðuốc Tuệ, đã cứu được tôi. Nếu chỉ có Tự lực văn đoàn thì một

là tôi làm Loan và hai là làm Dũng. Nhờ tờ ðuốc Tuệ cho nên tôi

đã làm Phùng Xuân. Tuy đã là Phùng Xuân rồi nhưng Loan, Dũng

vẫn cứ đi theo. Tại vì những hạt giống mình đã gieo trước đó vẫn

tiếp tục đi theo mình. Hạt giống của ðuốc Tuệ rất mạnh và vì vậy

hạt giống ðuốc Tuệ có thể ôm lấy hai hạt giống kia mà không có

sao cả. Tờ ðuốc Tuệ có những bài viết về Nhân Gian Phật Giáo,

tức là về đề tài Phật Giáo ði Vào Cuộc ðời. Cái mà mình ngày nay

gọi là Engaged Buddhism đã có mầm móng từ hồi tôi đọc báo

ðuốc Tuệ.

Tờ ðuốc Tuệ có nói đến các thiền sư Việt Nam trong quá khứ, đến

những công việc của các vị thiền sư làm để giúp dân, giúp nước.

ðiều này cho tôi thấy rằng đạo Phật có thể đóng một vai trò rất

lớn để xây dựng đất nước và cứu độ con người. ðây là một con

đường khác để phục vụ đất nước, đã mở ra cho tôi một chân trời

mới rất là rộng.

Tại thư viện quốc gia Pháp ở Verseille nếu quí vị có thì giờ, quí vị

còn có thể thấy được những tờ ðuốc Tuệ ngày xưa, tại vì mỗi khi

xuất bản một tờ báo thì phải đem nạp lưu chiểu một bản. Vì vậy

người Pháp đã đem về đầy hết và chúng ta có thể thấy được

những tờ ðuốc Tuệ từ số đầu cho đến khi bị đình bản. Số đầu ra

khoảng năm 1935 và đến năm 1945 thì tờ báo bị đình bản, tính

ra tờ ðuốc Tuệ chỉ được lưu hành trong vòng mười năm thôi. Hãy

tưởng tượng nếu không có tờ ðuốc Tuệ và không có mười năm đó

thì đã không có tôi đang ngồi đây. Cho nên những cái mà quí vị

đang làm như Lá thư Làng Mai, nhà xuất bản Parallax, nhà xuất

bản Lá Bối, những khóa tu được tổ chức khắp nơi, những thứ ấy

sẽ có ảnh hưởng rất lớn, có thể là trong vòng năm năm hay mười

năm nữa mình sẽ có thể tạo ra được một thế hệ mới, mình có thể

làm ra được lịch sử. Mình nên biết rằng mình đang cầm lịch sử

trong tay.

Ngày xưa nhóm Tự lực văn đoàn chỉ có dưới mười năm nhưng đã

làm được chuyện rất lớn. Chúng ta với tư cách là một tăng thân,

nếu ý thức được con đường chúng ta đi thì trong mười năm chúng

ta cũng có thể làm được lịch sử.

Năm năm theo tiếng gọi lên đường,

Tóc lộng tơi bời gió bốn phương,

Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại,

ðể hồn mơ tới bạn quê hương.

Cuộc sống của người chiến sĩ, của người đang ở chiến khu rất cực

nhọc, không có sự an ủi, thiếu tình thương và vì vậy thỉnh thoảng

trong lòng ta hay nhớ lại người yêu cũ. ðây là một điểm yếu và

người con trai, biết rằng nếu muốn thành đạt chí nguyện của

mình thì mình phải cương quyết đi tới, đừng để cho tâm hồn mình

chùng lại, đừng để cho lòng có những giây phút trầm lắng

xuống. Nhưng đã sinh ra làm con người thì mìnhlàm sao thoát

khỏi được những giây phút gọi là chạnh lòng đó, và do đó lòng

của mình, trái tim của mình tự nhiên nó bất chợt yếu đi.

Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng,

Gác tình duyên cũ thẳng đường rong.

Song le hương khói yêu đương vẫn,

Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.

Người con trai nào lớn lên hoặc người con gái nào lớn lên mà

không khao khát thương yêu? Dầu lý tưởng của mình có vĩ đại

cách mấy, dầu Bồ đề tâm của mình có vững chãi cách mấy thì sự

khao khát ấy cũng luôn luôn còn đó. Trên bước đường phụng sự,

trên bước đường cách mạng, trên bước đường lý tưởng nếu có

xảy ra những giây phút như vậy cũng chỉ là chuyện bình thường

thôi. Tôi đã quán chiếu và đã thấy trong trường hợp của một nhà

cách mạng và trong trường hợp của một người tu, có sự khác

nhau.

Có một bài thơ khác của Thế Lữ có thể giúp mình hiểu được thêm

về bài Giây Phút Chạnh Lòng này, đó là bài Tiếng Gọi Bên Sông.

Tôi xin đi lạc đề một chút xíu để đọc bài thơ này.

Ta là một khách chinh phu, (một người đi làm cách mạng, một

chiến sĩ)

Dấn bước truân chuyên khắp hải hồ.

Mũ lượt bốn bề sương nắng gội,

Phong trần quen biết mặt âu lo.

Vất vả bao từng, chi xá kể?

Gian lao như lửa rèn tâm trí,

Bấy lâu non nước mãi xông pha,

Chưa phút dừng chân, chưa lúc nghỉ.

Trong thuở bình sinh đôi mắt ta

Không hề cho đẫm lệ bao giờ. (tôi chưa bao giờ khóc)

Cười theo thất bại, khinh nguy hiểm,

Nện gót vang đường nhịp khúc ca.

ðang độ nam nhi vui trẻ hoài,

Sầu tư bi thiết, gác bên tai.

Trái tim chỉ rộn khi căm tức,

Ghét lũ vô minh, giận nỗi đời.

Vì bất bình, vì muốn có tự do dân chủ và bình đẳng xã hội mà đi

làm cách mạng vậy thôi.

Trong khi lật đật rẻo sông Mê,

Trận gió heo may đuổi nhạn về.

Bụi cuốn đường xa, chinh khách mỏi,

Bỗng nghe tiếng hát vẳng bên kia.

Cố nhiên trên bước đường của người chiến sĩ, lâu lâu cũng có

những giờ phút mỏi mệt và trong những giờ phút mỏi mệt ấy nếu

có một tiếng hát rất trong trẻo vẳng lên thì lòng người chinh

khách sẽ bị chùng lại:

Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền,

Êm như hơi gió thoảng cung tiên,

Cao như thông vút, buồn như liễu,

Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.

Một người đi đường trường từ ngày này sang ngày khác, hai chân

đã mỏi, mồ hôi đầm đìa, khát nước, cổ cháy khô mà tự nhiên

thấy được một dòng nước trong, nghe được tiếng suối reo thì

không dừng lại sao được? Trong lúc mệt mỏi lại được nghe một

tiếng hát vẳng bên đường.

Chinh phu trong dạ dường tê tái,

Quay gót ta buồn trông trở lại.

ðường vẫn còn xa, còn phải đi,

Song le tiếng hát bên sông gọi.

Người thiếu nữ bên sông nói rằng anh đi đâu mà vội mà vàng,

anh hãy ngừng ở lại đây, và cái đó đánh động tới sự khao khát

yêu thương của người con trai.

Tiếng ái ân kia réo rắt hoài,

Mà lời mây nước giục bên tai.

Có hai khuynh hướng chống đối nhau, một bên là tiếng hát của ái

ân, cứ tiếp tục réo rắt; một bên là lời mây nước giục bên tai, anh

phải đi, anh phải đi, tại vì chí nguyện anh buộc anh phải dứt

khoát lên đưòng.

Tiếng ái ân kia cứ réo rắt hoài,

Mà lời mây nước giục bên tai.

ðau lòng dứt mối tơ vương vấn,

Nước mắt đầu tiên lã chã rơi.

Người con trai vừa khóc vừa bước đi vì không thể nào dừng lại

được nữa, tại vì dừng lại là phản bội chí nguyện của mình. Có cái

thế tương phản ở trong lòng làm người con trai phải khóc.

ðau lòng rứt mối tơ vương vấn,

Nước mắt đầu tiên lã chã rơi.

ðây là lần đầu người con trai khóc.

Trong thuở bình sinh, đôi mắt ta,

Không hề cho đẫm lệ bao giờ,

Tôi chưa bao giờ khóc hết, tôi chỉ :

Cười theo thất bại, khinh nguy hiểm,

Nện gót vang đường nhịp khúc ca.

Và bây giờ đây tôi phải khóc tại vì có sự mâu thuẫn ở trong lòng

mà cái mâu thuẫn đó là sự khao khát yêu thương và chí nguyện

muốn thành tựu.

Tiếng ái ân kia réo rắt hoài,

Mà lời mây nước giục bên tai,

ðau lòng dứt mối tơ vương vấn,

Nước mắt đầu tiên lã chã rơi,

Vì chưng ta cũng biết yêu thương,

Mà cuộc tình duyên gặp giữa đường.

Trong lúc non sông mờ cát bụi,

Phải đâu là hội kết uyên ương?

Là người con trai mới lớn lên, mình cũng khao khát yêu thương

như bất cứ người con trai nào, nhưng trong lúc non sông mờ cát

bụi, đất nước đang chờ mình đi tới, nếu mình vương vấn vào đó

thì biết làm thế nào để thành đạt chí nguyện của người con trai,

cho nên phải rứt lòng ra đi và lần đầu tiên nước mắt mới chảy.

Bài thơ này còn dài, tôi chỉ đọc chừng đó thôi để quí vị hiểu thêm

bài thơ mà mình đang đọc.

Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng. (ðó là cái lý trí)

Gác tình duyên cũ thẳng đường trông

Song le hương khói yêu đương vẫn

Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng (không đuổi nó đi được,

nó vẫn còn nằm trong trái tim)

Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan

Trong lúc gần xa pháo nổ ran

Rũ áo phong sương trên gác trọ

Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang

ðây là một đêm giao thừa, đây là giờ phút người con trai chùng

chân mỏi gối, đây là giờ phút người con trai nhớ về người yêu cũ

và cảm thấy rất cô đơn, rất khao khát thương yêu.

Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi

Ai cũng đang lo chuẩn bị đón giao thừa. Ở Việt Nam có tám chục

triệu người, ở Trung quốc có một tỷ hai trăm ngàn người đang

chuẩn bị đón giao thừa. Nhà nào cũng có một cành mai, cũng có

một cành đào, cũng có năm bảy cái bánh chưng, cũng có một

phong pháo, chỉ có một mình là không có gì cả, ngoài một cái áo,

một đôi giầy đầy bụi đường. Khi mùa xuân về và mọi người đang

được đoàn tụ thì mình thân chiến sĩ cô đơn trong cuộc đời, mình

thấy mệt mỏi và khát khao.

Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,

Trên đường rộn rã tiếng đua cười,

ðộng lòng nhớ bạn xuân năm ấy,

Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

Bốn câu thơ này có ba chữ xuân, ta thấy xuân nồng thắm khắp

nơi, xuân đã về; trên đường rộn rã tiếng đua cười, ai cũng cười

hết; động lòng nhớ bạn xuân năm ấy, bạn xuân tức là người bạn

trẻ của mình; Loan và Dũng cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

Ngày chia ly của hai đứa là một ngày mùa xuân. Ngày hôm đó

Loan mặc áo dài, tay vịn vào cành mai, nói những lời tiễn biệt.

Loan rung cành mai, những cánh mai rơi xuống và Loan nói cây

mai khóc dùm em, chớ em đâu cần khóc, em bảo hoa kia khóc hộ

người.

Lòng ta tha thiết đượm tình yêu.

Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,

Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,

Phút giây chừng mỏi gót phiêu lưu…

Cuộc sống của người chiến sĩ quá kham khổ, quá khắt khe, thiếu

vắng những cái vỗ về và nuôi dưỡng cho nên ý tưởng muốn bỏ

cuộc đời chiến sĩ nó hấp dẫn, nó cứ tới ám ảnh hoài.

Cát bụi tung trời - ðường vất vả

Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân.

Người chiến sĩ, người con trai cho phép lòng mình chùng xuống

trên căn gác trọ phong sương đó.

Tưởng người trong chốn xa xăm ấy

Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?

Không biết Loan còn nhớ mình hay không? Loan còn thương mình

hay không? Dũng rất cần tình thương đó.

ðêm hôm đó liên lạc được với vợ chồng cô giáo Thảo, Dũng biết

là Loan được tha bổng, Loan bây giờ có tự do rồi. Dũng có thể trở

về với Loan như một cặp thanh niên tự do, không còn bị lề lối

phong kiến ràng buộc nữa. Loan có thể xin đi dạy học hay đi làm

nghề nào đó, Dũng cũng có thể đi kiếm một việc làm, hai người

có thể kết hợp lại thành một gia đình. Trong căn gác đó Dũng lấy

cây viết chì và một tờ giấy viết thơ cho Loan: Nếu em còn thương

anh thì chúng ta hãy nghĩ tới chuyện trở về với nhau.

Nếu chuyện này xảy ra thì không biết rằng lý tưởng của anh

chàng sẽ đi tới đâu? Tại vì khi hai người đã cưới nhau, rồi hai

người đi làm việc kiếm sống thì lý tưởng của người chiến sĩ, người

chinh phu đâu còn giữ được nữa? Vì vậy coi như con đường của

Dũng bị thất bại.

Quí vị nào chưa từng có cơ hội nghiên cứu về lịch sử của đất

nước, chưa biết những gì đã xảy ra cho những thế hệ con trai và

con gái sinh ra từ đầu thế kỷ thứ hai mươi thì đây là sự mời gọi,

quí vị phải tạo ra cơ hội để làm chuyện đó.

Quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy con đường cách mạng cứu nước

là một con đường rất hấp dẫn đối với thanh niên và con đường

làm cách mạng xã hội để giải thoát thân phận của con người cũng

là một con đuờng rất hay và những thanh niên sinh ra từ đầu thế

kỷ thứ hai mươi đã dấn thân vào một trong hai con đường đó.

Khi đem vào tình trạng một chiều thứ ba, tức chiều tâm linh,

chúng ta thấy rằng chúng ta có thể có một bức tranh khác. Tờ

ðuốc Tuệ đã đem tới một chiều thứ ba trong không gian của tôi

và trong lòng người con trai mười lăm tuổi hồi đó đã mở ra được

một hướng đi.

Bây giờ nhìn lại, tôi thấy một cách rất là rõ rệt là khi mình đi tu,

cũng giống như mình đi làm cách mạng, tại vì hành động cạo đầu

của mình đích thực là một hành động rất cách mạng. Hủy hình

phi pháp phục, tức là hủy cái đẹp hình thức, mặc cái áo thầy tu là

hành động can đảm. Cát ái từ sở thân, cắt đứt những dây lưu

luyến ràng buộc với những người thân, đó là quả thực là một

hành động cách mạng.

Hủy hình phi pháp phục

Cát ái, từ sở thân

Bỏ cái đẹp hình thức, mặc vào cái áo thầy tu, xa lìa những người

thân yêu để đi tới lý tưởng độ chúng sanh, đó là phần đầu của bài

kệ bài kệ mình đọc lên khi đưa mái tóc cho Thầy cạo. ðó là con

đường lớn của cách mạng.

ði vào trong môi trường của người xuất gia cũng giống như đi vào

trong môi trường của cách mạng nhưng có khác. Trong đoàn thể

xuất gia, cũng có một mái nhà, cũng có một gia đình gọi là gia

đình tâm linh, có những giới luật, có sự thực tập.

Khi đi làm cách mạng mình chia sẻ với những người đồng chí của

mình cái lý tưởng cách mạng tức là phục hồi độc lập cho quốc gia,

thực hiện dân chủ, mình có chung một lý tưởng nhưng những

phương tiện để đi đến mục tiêu đó, có rất nhiều chánh kiến tức là

những cái thấy về chính trị khác nhau và trong giới những người

cách mạng, có rất nhiều đảng, như Quốc Dân đảng, ðại Việt

đảng, đảng Cộng sản v.v… và những đảng đó có thể là không

sống được với nhau một cách hài hòa, có thể chống đối nhau và

muốn loại trừ nhau. ðó là những chuyện thường xảy ra trong

hàng ngũ cách mạng Việt Nam.

Nếu có cơ hội quí vị nên đọc lại giai đoạn lịch sử đó của đất nước.

Giữa Quốc Dân đảng, giữa đảng ðại Việt với đảng Cộng sản và

những đảng khác có những bất hòa nào? Có ý hướng loại trừ

nhau, tiêu diệt nhau, ám sát nhau như thế nào? Những chuyện đó

gây ra niềm đau rất lớn cho người thanh niên đi làm cách mạng.

Tuy cùng là những người trẻ đi làm cách mạng nhưng khi theo

đảng của họ, họ bắt buộc phải lên án những người anh em của họ

trong các đảng khác và đôi khi phải ám sát, phải giết người đó

đi.

Trong môi trường của người tu thì không có chuyện đó xảy ra.

Trong tăng thân mình đã có giới luật, mình đã có lý tưởng, mình

đã có nguyên tắc Lục Hòa, mình đã có những phương pháp thực

tập và vì vậy cho nên dầu người kia theo Tịnh độ, dầu người kia

theo Thiền, dầu người kia theo những Tông phái khác thì không

có lý do gì mình phải chống đối. ðạo Phật có tới tám vạn bốn

ngàn pháp môn và tinh thần của đạo Phật là tinh thần của sự bao

dung cho nên những người xuất gia không bao giờ nghĩ đến

chuyện thủ tiêu nhau, tiêu diệt nhau. ðó là một sự khác biệt rất

lớn giữa những người đi xuất gia với những người đi làm cách

mạng.

Cái khác biệt thứ hai là khi mình đi làm cách mạng, có thể là

mình thấy con đường quá dài. Có khi mình sống hết cuộc đời của

mình rồi mà vẫn chưa thấy một thành quả nào hết của cách

mạng? ðảng của mình, đường lối của mình đôi khi bị tiêu diệt, bị

đàn áp cho đến nổi không còn ai có thể gầy dựng trở lại được

nữa. Có khi hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm vẫn

không thấy được một kết quả nào cụ thể mà sự tổn thất về nhân

mạng vẫn tiếp tục xảy ra.

Trong khi đó ở trong tăng thân nếu tu học cho đàng hoàng thì nội

trong vài ba tháng mình đã thấy an lành và mình có thể bắt đầu

độ được người. Một sư cô, một sư chú vừa mới tu sáu tháng hay

một năm, nếu đi đứng có chánh niệm, có oai nghi thì đã làm được

hạnh phúc cho những người tới với mình rồi. Các thiền sinh từ xa

tới, thấy sư chú đó, sư cô đó đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như

vậy, nói năng hành xử như vậy, nụ cười tươi như vậy thì họ đã có

niềm tin ở nơi giáo pháp rồi và họ đã đỡ khổ rất nhiều.

Ngày xưa khi số lượng các thầy, các sư cô còn ít thì tôi hay đi

hướng dẫn các khóa tu một mình, tuy những khóa tu đó rất thành

công nhưng không thể so sánh được với những khóa tu sau này.

Khi tôi đem tới khóa tu ba mươi vị xuất gia hay năm mươi vị xuất

gia thì thiền sinh thấy các vị xuất gia đi theo đều là hình ảnh của

Thầy vì tất cả đều biết đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm, nói

cười trong chánh niệm và nhìn phía trước họ cũng thấy Thầy, nhìn

phía bên trái cũng thấy Thầy, nhìn phía bên phải cũng thấy Thầy

và biết rằng đi sau lưng mình cũng có Thầy. Vì vậy thiền sinh rất

hạnh phúc. Chúng ta không cần phải tu tới bốn chục năm, năm

chục năm hay sáu chục năm mới có thể làm hạnh phúc cho người

khác đuợc. Có thể chỉ trong ba tháng, năm tháng, sáu tháng sự

hành trì giới luật, uy nghi và chánh niệm của mình đã có thể biểu

hiện ra trong đời sống hàng ngày của mình rồi và thấy được nụ

cười và ánh mắt của mình người ta cũng có thể thấy được hiệu

quả của con đường xuất gia của mình.

Trong khi đó người thanh niên đi làm cách mạng có thể thấy con

đường dài hun hút, tổn thất có thể tới hàng ngày mà sự ích lợi

thiết thực của con đường lý tưởng chưa thấy đâu cả?

Mình không cần phải đợi năm năm được giáo thọ hay sáu năm

được làm giáo thọ mới bắt đầu độ đời. Ngay trong ngày giờ đầu

nếu mình có hạnh phúc và nếu mình thực sự nương tựa vào tăng

thân thì cái hạnh phúc đó được biểu hiện ra ngay từ nơi lời nói,

tiếng cười, dáng đi của mình và như thế mình đã bắt đầu làm

hạnh phúc cho tăng thân và cho những người tới với mình rồi.

Sự khác biệt thứ hai giữa người đi tu và người làm cách mạng ở

chỗ người tu thấy được kết quả của hành động của mình, cho nên

chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại hoài là giáo lý của Bụt không phải là

vấn đề thời gian, Akalika, vượt thoát thời gian, đến để mà thấy,

có hiệu lực ngay trong giây phút hiện tại, hễ bắt đầu nắm lấy

pháp môn mà tu học thì thấy có kết quả liền ngay lập tức, dầu là

kết quả đang còn khiêm nhượng.

ðiểm khác biệt thứ ba là những người đi làm cách mạng ít được

hưởng tình huynh đệ, tình gia đình, cuộc sống của họ phong

sương rất nhiều. Trong khi đó sự thực tập của chúng ta như một

tăng thân là nhắm tới làm cho người sư anh của ta trở thành ra

một người thương, người sư chị của ta trở thành ra một người

thương, rồi người sư em của ta trở thành ra một người thương.

Chúng ta xây dựng tình huynh đệ, chúng ta xây dựng không khí

đầm ấm của một gia đình tâm linh và do đó chúng ta có cơ hội

mỗi ngày để thương và để được thương.

Trong đời sống hàng ngày chúng ta không có thiếu thốn tình

thương như trong trường hợp của một chàng chiến sĩ. Ngày nào

ta cũng thương, ngày nào cũng được hiến tặng tình thương. Tại vì

sự thực tập của chúng ta là thực tập thương, thương theo từ, theo

bi, theo hỷ và theo xả, thứ tình thương không bi lụy, không

vướng mắc. Ta thực tập như thế nào để mỗi ngày có thể hiến

tặng được tình thương của ta cho các sư anh, sư chị, sư em. Ta

hiến tặng tình thương của ta cho những người tới đây tu học với

ta. Vì vậy chúng ta không lâm vào tình trạng của Dũng.

Lớn lên như một người con trai, như một người con gái, ai trong

chúng ta cũng có sự khao khát yêu thương. ði tu không có nghĩa

là không có quyền yêu thương, chúng ta được khuyến khích nên

yêu thương, thương càng nhiều càng tốt, nhưng thương như thế

nào mà đừng bi lụy, đừng đánh mất tự do của mình và của người

kia. Giáo lý dạy về thương yêu trong đạo Bụt rất là rõ ràng, cho

nên không có ngày nào là chúng ta không học thương. Học

thương như thế nào để trái tim chúng ta mỗi ngày mỗi đầy ắp vì

vậy chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng như tình trạng của

Dũng.

Khi đọc bài thơ này, ta thấy rất thương, thương cho những người

con trai đã ra đi để tranh đấu cho chủ quyền quốc gia, bình đẳng

xã hội. Lý tưởng đó rất đẹp, lý tưởng đó không thua gì lý tưởng

của một vị Bồ tát, nhưng tổ chức cách mạng có thể đã không nuôi

dưỡng được người cách mạng như tăng thân nuôi dưỡng được

những người xuất gia.

Một đảng chính trị, một đảng cách mạng, một hội cách mạng

cũng có thể áp dụng những phương thức để có thể nuôi dưỡng

được những thành viên của họ. Nhưng cho tới bây giờ chúng ta

chưa thấy được gì rõ rệt. Trong khi đó 2500 năm lịch sử của tăng

thân cho chúng ta thấy rất rõ là chúng ta có đủ những lề lối,

những phương thức, những pháp môn áp dụng để chúng ta có thể

đi trọn được con đường tu tập của chúng ta với tư cách một vị Bồ

tát. Và ðức Thế Tôn mong muốn rằng chúng ta trở thành ra

những vị Bồ tát có thể độ được mình và độ được người.

Khi phát nguyện đi xuất gia chúng ta dấn thân vào một cuộc cách

mạng lớn, cuộc cách mạng này chúng ta có nhiều cơ hội để thành

công, tại vì chúng ta có tăng thân và có pháp môn rõ rệt. Vấn đề

là vấn đề nuôi dưỡng và được nuôi dưỡng, nếu chúng ta thực tập

cho khéo léo thì mỗi người trong tăng thân ngày nào cũng được

nuôi dưỡng và mỗi người trong tăng thân ngày nào cũng có cơ hội

để nuôi dưỡng những người anh, người chị, người em của mình,

nuôi dưỡng bằng tình thương. Vì vậy cho nên chúng ta sẽ không

có những giây phút gọi là “giây phút chạnh lòng”. Giả sử có xảy

ra những giây phút như vậy thì chúng ta cũng vượt qua rất là

mau, tại vì tình thương có đó, tình thương của Thầy, tình thương

của anh, tình thương của chị, tình thương của em, tình thương

của Bụt, luôn luôn có mặt và mình biết rằng mỗi giây phút của

đời mình là mỗi giây phút để mình chế tác tình thương, cho nên

mình sẽ không lâm vào tình trạng của Dũng trong bài thơ này.

Bài thơ này nói về tình yêu ở ngoài đời, nhưng nếu mình có con

mắt của chánh pháp thì khi đọc mình cũng có thể sử dụng những

yếu tố không phải là Phật pháp để làm thành Phật pháp. Phật

pháp tức Thế Gian Pháp, đó là điều mình đã học.

Khi đọc bài thơ này với con mắt trạch pháp và quán chiếu thì

mình sẽ thấy tình thương trào dâng. Mình thương cho Loan, mình

thương cho Dũng, mình thương cho biết bao thế hệ thanh niên đã

có một tấm lòng, đã có chí nguyện thương nước, thương dân và

cải tạo xã hội. Nhưng tại vì không có những điều kiện thuận lợi để

thực hiện cho nên biết bao nhiêu người đã ngã gục trên quá trình

hoạt động của họ.

ðiều tôi muốn nhắn với quí vị ngay từ lúc đầu là chúng ta đang

nắm lịch sử trong hai bàn tay của chúng ta. Nhóm Tự lực văn

đoàn có ít hơn mười năm để hoạt động. Từ khi tờ Phong Hóa ra

đời vào năm 1932 cho đến khi tác phẩm ðoạn Tuyệt ra đời tức là

năm 1936 chỉ có bốn năm thôi. Bài thơ Giây Phút Chạnh Lòng Thế

Lữ viết vào năm 1936, tức là bốn năm sau. Nhóm Tự Lực Văn

ðoàn đã hoạt động trong một hoàn cảnh rất khó khăn, dưới con

mắt dò xét của mật thám Pháp tuy vậy họ đã làm được công việc

khai mở cho dân trí.

Hoàng ðạo, em ruột của Nhất Linh, ngày xưa đã lấy bút hiệu là

Tứ Ly viết ra một tác phẩm gọi là Mười ðiều Tâm Niệm. Mười ðiều

Tâm Niệm hô hào thanh niên hoàn toàn đi theo phe mới để làm

cách mạng xã hội. Quí vị chưa đọc Mười điều tâm niệm thì nên

đọc đi và quán chiếu bằng con mắt trạch pháp của mình, coi có

điều nào mình có thể chấp nhận được và có những điều nào đi

quá đà.

Theo giáo lý của Bụt, mà cơ bản là bốn sự thật, chúng ta phải

nhìn vào những khó khăn, những đau khổ của tình trạng hiện tại

và chúng ta phải hiểu được những khó khăn, những đau khổ đó.

Nhìn vào Khổ đế thấy được Tập đế. Hiểu được Tập đế rồi chúng ta

sẽ khai mở con đường ðạo đế, tức là sự thật thứ tư để đi tới kết

quả là Diệt đế.

Tất cả những gì ta làm, những gì ta nói, những gì ta viết đều có

hiệu lực mở rộng con đường cho những thế hệ tương lai. Nhóm Tự

Lực Văn ðoàn có ít hơn mười năm và chúng ta có thể may mắn

hơn họ. Những gì chúng ta làm như những khóa tu mở cho người

Việt, mở cho người Mỹ, mở cho người Âu châu, mở cho người

Nhật, mở cho những nhà tâm lý trị liệu, cho giới văn nghệ sĩ, cho

giới thương gia, cho giới bảo vệ môi sinh, cho những thầy giáo, cô

giáo v.v… Tất cả những cái đó là những phương tiện, những cơ

hội để chỉ đường cho thế hệ thanh niên bây giờ, con đường của

chuyển hóa, con đường của trị liệu.

Tất cả những gì ta tụng đọc, ta ca hát, tất cả những tác phẩm của

ta như Nghi Thức Tụng Niệm ðại Toàn, Thiền Môn Nhật Tụng

2000 hoặc Nói Với Người Xuất Gia Trẻ, tất cả những điều ta viết,

ta nói sẽ có ảnh hưởng lớn trên thế hệ thanh niên bây giờ. Thật

sự là chúng ta đang làm một cuộc cách mạng, chúng ta phải ý

thức điều đó. Chúng ta không làm như là những cá nhân lẻ tẻ,

chúng ta đang làm với tư cách một tăng thân. Ngày xưa nhóm Tự

Lực Văn ðoàn chỉ có sáu bảy người, bây giờ chúng ta rất đông,

tăng thân của chúng ta có mặt trong tất cả các nước.

Thời giờ của chúng ta, chúng ta phải biết trân quí; mỗi giờ, mỗi

phút của chúng ta có thể có hiệu lực rất lớn, chúng ta phải nắm

tay nhau, chúng ta phải thấy được lý tưởng vĩ đại, cao đẹp của

chúng ta, chúng ta phải làm cho được, thực hiện cho được chí

nguyện lớn của chúng ta trong thế kỷ thứ hai mươi mốt này.

Chỉ còn khoảng một giờ đồng hồ nữa là chúng ta bước sang năm

mới. ðây là năm đầu của thiên niên mới, năm đầu của thế kỷ

mới. ðọc bài thơ này để chúng ta có cơ hội thấy rằng chúng ta

đang được cùng sống với nhau như một tăng thân, chúng ta có

một lý tưởng, chúng ta có một đường hướng và nhất là chúng ta

có phương tiện để hoàn thành cuộc cách mạng đó. Thế giới của

ngày hôm nay cần cuộc cách mạng đó tại vì biết bao nhiêu người

chìm đắm trong đau khổ, trong hận thù, trong đam mê. Và con

đường của chúng ta quả thật là con đường sáng, con đường rất

sáng và nếu chúng ta biết nắm tay nhau, thương yêu nhau, chế

tác tình thương mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút thì nhất định chúng

ta sẽ thành tựu được công trình này. Chúng ta sẽ thành công như

một tăng thân, chúng ta sẽ thành công như một dòng sông mà

không phải là những giọt nước.

Lát nữa khi làm lễ Giao thừa, chúng ta sẽ tụng chung với nhau

bài tụng Hạnh Phúc để biết rằng chúng ta đang có nhau và chúng

ta đang cùng đi trên cùng một con đường và nếu chúng ta ý thức

được điều đó thì hạnh phúc chúng ta sẽ tăng tiến rất mau chóng

và năng lượng đó sẽ giúp chúng ta thành đạt được cái lý tưởng

mà chúng ta đã nguyện đi theo. Giây phút chúng ta cúi đầu

xuống để Thầy cạo tóc trên đầu cho chúng ta với bài kệ:

Hủy hình phi pháp phục

Cát ái, từ sở thân

Xuất gia hành Phật đạo

Nguyện độ nhất thiết nhân

ðó là giây phút mà ta nói lên lời cam kết, lời thề của tất cả những

người xuất gia.

Nhất Hạnh

23.01.2001 Làng Mai – Pháp quốc

-------------------------------------------

Chú thích:

Giây phút chạnh lòng

Tặng tác giả "ðoạn Tuyệt"

"Anh đi đường anh, tôi đường tôi,

Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

ðã quyết không mong xum họp mãi.

Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

"Non nước đang chờ gót lãng du,

ðâu đây vẳng tiếng hát chinh-phu,

Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc

ðưa tiễn anh ra chốn hải hồ.

"Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,

ðem chí bình sinh dãi nắng mưa,

Thân đã hiến cho đời gió bụi

ðâu còn lưu luyến chút duyên tơ?

"Rồi có khi nào ngắm bóng mây

Chiều thu đưa lạnh gió heo may

Dừng chân trên bến sông xa vắng,

Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây;

"Xin anh cứ tưởng bạn anh tuy

Giam hãm thân trong cảnh nặng-nề,

Vẫn để hồn theo người lận đận;

Vẫn hằng trông đếm bước anh đi."

Lấy câu khẳng-khái tiễn đưa nhau,

Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.

Nhưng chính lòng em còn thổn-thức,

Buồn kia em giấu được ta đâu?

Em đứng nương mình dưới gốc mai,

Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,

Cười nâng tà áo đưa lên gió,

Em bảo: hoa kia khóc hộ người.

Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,

Nhìn nhau bình-thản lúc ra đi.

Nhưng trong khoảnh khắc thờ-ơ ấy,

Thấy cả muôn đời hận biệt-ly.

Năm năm theo tiếng gọi lên đường,

Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.

Mấy lúc thẫn-thờ trông trở lại,

ðể hồn mơ tới bạn quê hương.

Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng

Gác tình duyên cũ chẳng đường trông.

Song le hương khói yêu đương vẫn

Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.

Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan.

Trong lúc gần xa pháo nổ ran.

Rũ áo phong sương trên gác trọ.

Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.

Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,

Trên đường rộn-rã tiếng đua cười,

ðộng lòng nhớ bạn xuân năm ấy.

Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

Lòng ta tha-thiết đượm tình yêu,

Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,

Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,

Phút giây chừng mỏi gót phiêu-lưu...

Cát bụi tung trời - ðường vất vả

Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân,

Tưởng người trong chốn xa xăm ấy

Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?

Thế Lữ (1936)

*Gồm 7 người là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng ðạo, Thạch Lam,

Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu.

XUÂN TRONG CỬA THIỀN

Thích Thanh Từ

Bốn mùa thay đổi muôn vật chuyển xoay, theo quan niệm người đời thì mỗi lần ðông tàn Xuân đến trong lòng rộn rã lo mừng Xuân đón Xuân. Rồi bao nhiêu tục lệ từ xưa truyền lại, nào là đưa ông táo, thiệp chúc Xuân, dựng nêu, rước ông bà, chúc Tết, lì xì v.v... Bước vào cửa Thiền, xem thử các tăng sĩ có quan niệm gì về ngày Xuân? ðây chúng ta hãy nghe Sơ tổ phái Trúc Lâm Yên Tử, ðiều Ngự Giác Hoàng, nói về Xuân:

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung Như kim khám phá ðông hoàng diện Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng

Dịch:

Thuở bé chưa từng rõ sắc không Xuân về hoa nở rộn trong lòng Chúa Xuân nay bị ta khám phá Chiếu trải giường Thiền ngắm cánh hồng.

Lúc còn thiếu niên ở trong ngôi vị sang cả của một ông Hoàng, chưa thấm nhuần mùi đạo lý, mỗi lần Xuân về trăm hoa đua nở trong vườn ngự, làm sao Ngài không lòa mắt trước những màu sắc lung linh, không bâng khuâng qua những làn hương ngào ngạt. Sắc hương hương sắc quyện cả tâm hồn của ông Hoàng trẻ tuổi. Thế rồi bao nhiêu tâm sự đều gởi gắm vào trăm hoa.

Nhưng khi tìm thấy được đạo, cổi bỏ mọi danh vọng tài sắc ở thế gian, cạo tóc mặc áo nhuộm, Ngài bước chân vào cửa Thiền. Gia công tu tập Ngài đã khám phá được chân lý của vũ trụ, thấy được mặt thật xưa nay của chính mình. Bây giờ Ngài không còn bị sắc hương lôi cuốn, tâm hồn lóng trong tự tại, ngồi lặng lẽ trên giường Thiền nhìn chúng nở tàn một cách an nhiên. Từ đây hoa nở hoa tàn không còn là một hình ảnh khiến tâm hồn người tăng sĩ phải vui buồn theo nó. Dòng thời gian cuồn cuộn trôi, hiện tượng trong không gian luôn luôn chuyển mình sanh diệt, song dưới con mắt một Thiền sư đạt đạo vẫn thấy có một cái gì hiện hữu thoát ngoài luật sanh diệt của thời gian không?

Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của Thiền sư Giác Hải, một Thiền sư ở đời Lý, cũng nói về Xuân:

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ Hoa điệp bản lai giai thị huyễn Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

Dịch:

Xuân về hoa bướm gặp nhau đây Hoa bướm phải cần hợp lúc này Hoa bướm xưa nay đều là huyễn Giữ tâm bền chặt bướm hoa thây

Con người và muôn vật đều bị cuốn phăng theo dòng thời gian bất tận. Sự chết sống sanh diệt của người và vật đều ứng hợp theo thời tiết. Hoa nở, bướm lượn tìm hương đều lệ thuộc hẳn vào mùa Xuân. Nếu chúng ta cứ bám víu vào bản thân vào ngoại cảnh thì ôi thôi! Dòng luân hồi sanh tử lôi cuốn chúng ta không biết đến đâu cho cùng.

Chúng ta phải gan dạ nhìn thẳng vào lẽ thật của bản thân của ngoại cảnh, mới thấy chúng là tướng trạng tạm bợ vô thường, là giả hình bởi nhân duyên chung hợp. Quả thật là huyễn hóa không có một tí gì chắc thật. Chỉ chân tâm của chính mình, mới là cái chân thật bất sanh bất diệt, mà lâu nay chúng ta đã lững quên. Giờ đây, chúng ta phải quả quyết sống thật với nó, không một phút giây nào lơi lỏng. Ấy là chúng ta đặt chân trên đường giải thoát, cổi bỏ sợi dây sanh tử luân hồi. ðây là lời nhắn nhủ của Thiền sư Giác Hải bảo chúng ta phải “hướng tâm trì”.

Lại một hình ảnh xinh đẹp lạ thường của một mùa Xuân bất tận, do Thiền sư Chân Không đáp lời hỏi của một thiền khách:

Xuân đến Xuân đi ngỡ Xuân hết Hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân.

Nhìn thời gian sanh diệt, con người mãi lo âu và tiếc nuối. Thấy Xuân đến lại nghĩ đến Xuân đi, rồi e sợ sẽ bơ vơ không còn tìm thấy mùa Xuân đâu nữa. Tâm trạng khát khao lo sợ ấy dồn dập nung nấu con người. Khiến họ khô héo chết mòn và hơ hải phập phồng cho một ngày mai. Ngày mai họ không còn biết nó ra sao mời mịt tối tăm. Nhưng với Thiền sư, hôm nay và ngày mai đều là vô nghĩa, chúng chỉ là những chiếc áo cũ mới thay đổi trên một thân người. Nhưng đứa bé khi mặc một chiếc áo cũ thì xịu mặt xuống, được quàng chiếc áo mới thì hí hửng lên. ðấy là chúng quên mình mà chỉ nhớ chiếc áo. Nếu khi chúng chỉ một bề vui buồn theo chiếc áo. Với người lớn ắt không như thế, vì tự biết đời mình đã đổi thay biết bao nhiêu lần chiếc áo. Khi thấy được lẽ thật, người ta sẽ không còn bận rộn trong hình tướng giả dối ấy nữa. Vì thế Thiền sư Chân Không đã kết luận cho chúng ta thấy

bằng câu: “Hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân.” Ấy là cái đạo miên viễn vậy.

Bước sang những Thiền sư Trung Hoa, xem quan niệm các Ngài có gì khác lạ. ðây chúng ta hãy nghe Thiền sư Cao Phong Diệu ngâm nga bốn câu thơ, trước đại chúng trong ngày Tết Nguyên ðán:

Bách niên nan ngộ tuế triều Xuân Xá nữ sơ trang việt dạng tân Duy hữu ðông thôn vương đại tả Y tiền mãn diện thị ai trần

Dịch:

Trăm năm khó gặp một ngày Xuân Trang điểm cô em vui vẻ mừng Chỉ một làng ðông riêng chị ả Như xưa trên mặt phủ bụi hồng

Mùa Xuân là mùa khí hậu ôn hòa ấm áp. Mỗi lần Xuân về trên ngàn cây muôn cỏ đều khoác vào mình một chiếc áo mới. Sự điểm trang của cảnh vật nhịp nhàng với sự điểm trang của con người. Những đứa bé gái nào là áo tím quần hồng, lược cài trâm giắt, lũ lượt kéo đi thăm viếng chúc tụng nhau. Thật là một cảnh nhộn nhịp xinh tươi của một ngày Xuân.

Nhưng trong khi con người và vạn vật đang phô diễn sắc hương, đang tưng bừng chúc tụng, thì bên làng ðông một chị nàng đứng tuổi, vẫn trang nghiêm như tượng nữ thần, vẫn im lìm như hình thạch nữ để mặc cho sương pha bụi phủ, không hề vướng chút đổi thay. Gương mặt của cô ta vẫn bình thản an nhiên như tự thuở nào.

ðây là một xảo thuật của Thiền sư khéo trình bày cho chúng ta thấy, bên hình ảnh biến ảo đổi thay, lại có một cái thâm trầm bất sanh bất diệt.

ðến Thiền sư Tiếu Ẩn Hân, chúng ta sẽ thấy một hình ảnh sáng rỡ ẩn trong hiện tượng mịt mù, diệu lý bất sanh bất diệt nằm gọn trong cảnh vật sôi động sanh diệt. Hãy nghe Ngài ngâm bài kệ này trong dịp Xuân về:

Kim cang chánh thể lộ đường đường Vạn tượng sum la bát-nhã quang Dẫn khứ lai cơ siêu đương niệm Vô âm dương điạ lý toàn chương Mộc kê báo hiểu đề thâm hạng Thạch nữ nghinh Xuân xuất động phòng Cộng hỷ long hồ đa đoan khí Thiền phong thời tống ngự lê hương

Dịch:

Kim cang chánh thể hiện rỡ ràng Cảnh vật muôn vàn bát-nhã quang Bặt lối lại qua đương niệm thoát Âm dương đất trống lý toàn bày Gáy sáng gà cây trong nẻo vắng Mừng Xuân gái đá ra động phòng ðáy hồ rồng vẫy vui vô hạn ðưa tiễn gió Xuân một lò trầm

Trong muôn ngàn cảnh vật đã chứa sẵn thể Kim Cang Bát-nhã rực rỡ, chỉ cần dứt sạch mối manh lại qua sanh diệt thì chánh niệm hiện tiền vượt ngoài mọi đối đãi. Chính chỗ âm dương chưa phân kia, là chân lý hiện bày.

ðẹp đẽ thay trên cảnh tượng ồn náo biến động đã ngầm chứa một cái bất động, như gà gỗ gáy sáng, gái đá mừng Xuân. Rồng nhả hơi trên mặt hồ trong lặng để cùng tiếp đón một mùa Xuân. Lò trầm phun khói quyện theo mây gió làm cuộc tiễn đưa người khách Xuân vừa đến cửa.

Thật là ảo ảnh lồng trong chân thường, chân thường hiện bày trong ảo ảnh. Khiến chúng ta không còn lầm lẫn tìm kiếm chân lý ngoài sự vật vô thường, không lầm bỏ vọng tưởng mà lấy

chân như. ðó là quan niệm chân chánh của Thiền sư nhìn vào cuộc đời vậy.

Bài thơ XUÂN VÃN của ðiều Ngự Giác Hoàng - Trần Nhân Tông

Thích Thông Huệ

Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ, biết rõ đường lối tu hành theo tông chỉ “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (Xoay lại soi sáng chính mình là phận sự gốc, không cầu bên ngoài mà được). Khi lên ngôi, dù bộn bề trăm việc đối nội và đối ngoại, Ngài vẫn có chỗ sống riêng của mình, tuy ở trong trần mà vẫn vui với ðạo. Năm 41 tuổi, Ngài nhường ngôi cho con, sau đó xuất gia về núi Yên Tử, lấy hiệu Hương Vân ðại đầu đà, được tôn xưng là ðiều Ngự Giác Hoàng. Ngài sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mang đậm bản sắc dân tộc, trở thành vị Sơ Tổ của dòng Thiền đặc thù Việt Nam . Bài thơ “Xuân vãn” là một trong những bài mượn cảnh mùa xuân, diễn đạt một cách sâu sắc trình độ tâm linh vút cao của Ngài:

XUÂN VÃN Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, Nhất xuân tâm sự bách hoa trung. Như kim khám phá ðông hoàng diện, Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.

Hòa thượng Trúc Lâm dịch: CUỐI XUÂN

Thuở bé chưa từng rõ sắc không,

Xuân về hoa nở rộn trong lòng. Chúa Xuân nay bị ta khám phá, Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.

Bài thơ tứ tuyệt ngắn ngủi nhưng bao hàm cả hai giai đoạn đời Ngài: lúc còn bé chưa biết đường tu và khi đã là vị Thiền Sư đạt đạo.

“Thuở bé chưa từng rõ sắc không / Xuân về hoa nở rộn trong lòng”: Thuở bé là lúc còn non tuổi đời, cũng là khi còn ấu thơ về đạo lý. Nhân một ngày xuân đi dạo trong vườn thượng uyển, Thái Tử thấy trăm hoa đua nở tỏa hương ngào ngạt. Chưa thấu hiểu lý Bát Nhã, chưa rõ thể tánh không của các pháp, Thái Tử ngỡ thân tâm cảnh đều thật có. Ý thức chấp ngã chấp pháp mạnh mẽ, nhất là trong điều kiện thuận lợi về vật chất, Ngài làm sao tránh khỏi rộn ràng xao xuyến khi thấy cảnh xuân về? Và đây hầu như là tâm trạng chung của con người, nhất là những ai có tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ ðinh Hùng nhìn xuân sang mà nhớ hương người xưa:

Xuân nào như xuân mới? Hương nào như hương xưa? Lòng chàng không có tuổi Duyên chàng se tình cờ.

hay J. Leiba nói thay cô gái tuổi trăng tròn: Em nhớ năm em lên mười lăm, Cũng ngày đông cuối sắp sang xuân. Mừng xuân, em thấy tim hồi hộp, Nhìn cái xuân sang khác mọi lần.

Tập khí của chúng ta là dính mắc với trần cảnh, loạn động theo các duyên bên ngoài. Từ đó tạo nghiệp, quẩn quanh trong sáu nẻo luân hồi. ðức Phật dạy, chính sáu căn là đầu mối của phiền não sinnh tử, do tiếp xúc với sáu trần mà khởi tâm phân biệt. Nhưng sáu căn cũng là nguồn gốc của Niết bàn, khi thấy nghe hay biết tất cả các pháp mà vẫn an nhiên tự tại. Thời điểm chợt nhận ra tánh giác thường hằng của chính mình là khoảnh khắc diệu thường, ngàn năm không dễ có. Những bậc đạt đạo dùng rất nhiều mỹ từ tạm đặt tên cho tánh giác sẵn đủ ấy, vì thật sự nó không có tên, cũng không thể dùng ngôn từ diễn tả. Ở đây, Sơ Tổ ðiều Ngự gọi là Chúa Xuân. “Chúa Xuân nay bị ta khám phá”. Thật ra, Chúa Xuân không lẫn tránh, không giấu mặt, cũng

không phải ở đâu xa. Chỉ vì vọng thức che lấp nên không nhận ra tánh giác lúc nào cũng sáng ngời.

Mai Hoa Ni đời Tống viết bài thơ Ngộ đạo như sau: Tìm Xuân, chẳng thấy bóng xuân sang, Giày rơm giẫm nát đỉnh mây ngàn. Trở về chợt ngửi hương mai ngát, Xuân ở đầu cành đã chứa chan.

(ðỗ Tùng Bách dịch) Một đời lặn lội, mòn mỏi những bước chân giẫm nát cỏ cây

trên đỉnh núi mây phủ, thế mà vẫn chưa tìm thấy mùa xuân. Chính vì ý tưởng “tìm xuân” nên xuân không thể hiện. Chúa Xuân không ở bên ngoài, không phải là đối tượng của sự tìm cầu, mà chính là mình - con người bất sanh bất diệt xưa nay. Sực tỉnh xoay trở về chính mình, ta mới nhận ra, quả thật xuân đang trùm khắp vạn hữu, mai đang tỏa ngát mùi hương.!

Sơ Tổ của chúng ta không những đã trở về, đã khám phá Chúa Xuân, Ngài còn trọn vẹn sống cùng mùa Xuân miên viễn:

“Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng”. Thiền bản là chiếc chõng hay giường nhỏ, bồ đoàn là chiếc

gối tròn để ngồi. ðây là hai dụng cụ sử dụng khi tọa thiền. Giường hay chõng thiền còn ám chỉ chân tánh hay bản tâm của mỗi người. Ngồi trên giường Thiền nghĩa là hằng sống cùng bản tâm sẵn đủ. Bản tâm thường tịch nhưng thường tri, luôn lặng lẽ mà luôn chiếu sáng. ðịnh của bản tâm không trụ không xả, không nhập không xuất nên là thường định, đại định. Tinh thần Bồ tát ðại thừa không bỏ huyễn cầu chơn, không bỏ mê về ngộ, không bỏ trần gian thủ chứng Niết bàn. Trong các cảnh vô thường sinh diệt, các bậc đạt đạo nhận ra và sống bằng thể tánh chân thường bất sinh, nên có cái nhìn thẩm thấu vào bản chất của các pháp. Do vậy, các Ngài tự tại anh nhiên trước sự biến đổi của vũ trụ vạn hữu, nên nói “ngồi trên giường Thiền ngắm từng cánh hoa rụng trong một chiều xuân vãn”.

Cùng một cảnh xuân nhưng lúc mê thì tâm loạn động, dính mắc theo cảnh, khi ngộ thì an nhiên nhìn mọi sự đổi dời. Xuân đời đến rồi đi, hoa theo xuân nở rồi tàn, nhưng Chúa Xuân mãi hiện hữu, siêu vượt thời - không. Mùa Xuân miên viễn ấy không ở đâu xa, không từ bên ngoài đến, mà ở ngay đương xứ - tại đây và bây giờ. Cầu chúc tất cả chúng ta, nhân mùa xuân đến, nhận ra Chúa

- Xuân - tự - tâm của chính mình, đồng thời chan rải hương xuân đến khắp mọi người.

Mùa Xuân Kỷ Sửu - 2009

Thiền thất Viên Giác

"Cáo Tật Thị Chúng"

Và Ẩn Ngữ Của Nền Văn Hóa Phương ðông

(Từ thực tại biểu kiến đến thực tại tiềm ẩn)

Nguyễn Chí Trung

Trong mối tương quan giữa văn học và văn hóa, văn học thường được xem là một bộ phận có giá trị đặc thù trong tổng thể chung của văn hóa một dân tộc. Văn học không bao giờ có thể tách rời ra khỏi cái môi trường văn hóa mà trong đó nó được nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển. Tất nhiên không phải bất cứ một tác phẩm văn học cụ thể nào cũng đều có khả năng phản ánh những nét đặc trưng cơ bản nhất của một nền văn hóa, nhưng cũng không phải không có những tác phẩm văn học, dù rất hạn chế trong hình thức biểu hiện, lại có khả năng chuyên chở được cả một nội dung văn hóa hết sức rộng lớn, có thể đại diện cho cả một khuynh hướng tư tưởng. Một giọt sương long lanh trên cành hoa chỉ là một giọt sương bé nhỏ nhưng lại có khả năng phản chiếu cả một bầu trời rộng lớn lấp lánh muôn vàn các vì sao ...

Trong kho tàng văn học Lý-Trần hết sức quí báu của dân tộc, bài kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư chính là giọt sương ấy, một giọt sương long lanh đầy chất thơ, chất thiền mà mãi cho đến tận ngày nay vẫn còn ánh lên những nét đẹp của tư tưởng và ngôn từ ... (1)

Từ thực tại biểu kiến ...

Bài kệ bắt đầu bằng một hình ảnh thông thường của mùa Xuân mà bất cứ ai cũng đều có thể cảm nhận bằng đôi mắt trần của mình:

Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai

"Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa nở " đó chính là một thực tại tự nhiên của trời đất, một thứ "chân lý hiển nhiên" của vũ trụ vạn vật. Tất cả đều vận hành theo cùng một qui luật muôn thuở như thế: hết đêm đến ngày, hết mùa ðông đến mùa Xuân, trăng khuyết lại tròn ... là một sãn phẩm của tự nhiên, cho dù có được tôn xưng là "chúa tể của muôn loài", con người cũng phải chịu sự chi phối của qui luật này. Và bằng chứng sinh động nhất cho điều này chính là xác thân của tác giả đang sắp chuyển hóa qua bên kia thế giới sau một thời gian dài sinh sinh biến biến.

Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai (Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi)

Mọi sự đều là vô thường, tất cả đều là biến dịch (2), như Khổng Tử, khi đứng trên bờ sông, đã từng thốt lên cách đây hơn hai nghìn năm: "Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ" (Cứ chảy mãi như thế này ư, ngày đêm không ngừng -- Luận ngữ). Chỉ với bốn câu thơ ngắn ngủi và tám động từ được dùng ở thế đối lập (khứ/đáo, lạc/kha) và liên tục (trục/quá, tòng/lai), cả một bức tranh thời gian rộng lớn đã được vẽ lại chỉ trong một vài nét chấm phá đầy sinh động, gợi hình. ðây cũng là một đặc trưng quan trọng của nền mỹ học phương ðông thường chú trọng đến tính biểu trưng và hàm súc của sự vật. Sự vận động của bốn câu thơ đầu cũng chính là sự vận động của thời gian và không gian, và đó chính là thực tại biểu kiến, đối tượng nhận thức của tư duy nhị nguyên (dualiste). Với tư duy nhị nguyên này, thực tại thường được nhận thức thông qua các cặp phạm trù đối lập: trắng là trắng, đen là đen ...

... ðến thực tại tiềm ẩn:

Nếu bài thơ "Cáo tật thị chúng" chỉ nói lên một sự thật biểu kiến có tính chất hiển nhiên như vậy thì có lẽ giá trị của nó cũng không lớn lắm. ðỉnh cao giá trị của bài thơ nằm ở hai câu thất ngôn cuối:

Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận ðình tiền tạc dạ nhất chi mai (Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết ðêm qua sân trước một cành mai) ðình tiền tạc dạ nhất chi mai (Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết ðêm qua sân trước một cành mai)

Sự xuất hiện bốn câu đầu được diễn tả bằng ngôn ngữ khách quan chính là để chuẩn bị cho hai câu cuối cùng mở ra một chân

trời tư tưởng rộng lớn, bát ngát! Ở đây, hai từ "mạc vị" (chớ bảo) đóng vai trò của chiếc bản lề tạo ra một sự chuyển hóa tuy có vẻ đột ngột nhưng lại phù hợp với tâm thức của người đã "nhập đạo". Vâng, một khi thấy mùa Xuân đã tàn thì người đời rất dễ ngậm ngùi than rằng hoa sẽ rụng hết, và một khi sinh lực của con người đã cạn thì chắc chắn cái chết sẽ xảy ra và chấm dứt tất cả. Nhưng Sư đã đột ngột chỉ cho chúng ta thấy một cành mai đang rung rinh nở trong sương sớm ... và nếu chúng ta hiểu được Sư thì chúng ta sẽ không còn nhìn thực tại với đôi mắt nhị nguyên như trước nữa. Sư không nói nhiều lời. Sư chỉ cho chúng ta thấy một cành mai đang nở ngoài sân, và nếu chúng ta hiểu được, chúng ta sẽ mỉm cười như ngày xưa Ma Ha Ca Diếp đã mỉm cười khi Phật không nói mà chỉ đưa một cành hoa lên trước một cử tọa bao gồm 1250 vị Tỳ kheo. (3)

Với hai câu cuối này, dường như chúng ta đang trải qua kinh nghiệm bất nhị của Phật giáo và nhìn thấy thực tại như là một sự toàn vẹn không gián đoạn trong dòng biến dịch sinh sinh hóa hóa không ngừng. Vì tâm của Sư đã nhập đạo rồi nên những gì được Sư thấy bằng trực giác nguyên sơ và toàn vẹn của mình chính là dòng biến dịch ấy, cái toàn thể liên tục không gián đoạn ấy. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thế giới mà Sư đã trực giác được trong giây phút lâm chung chính là thế giới "phi phạm trù" là một thực tại tiềm ẩn chi phối và làm nền tảng cho tất cả sự vận động của các thực tại hữu hình khác. Và những gì mà trong vô minh chúng ta gọi là "sống" và cũng trong vô minh chúng ta gọi là "chết" chỉ là những khoảnh khắc, những phương tiện khác nhau của cùng một thực tại toàn vẹn ấy. Ở đây, không thể vạch ra một đường ranh giới thật rạch ròi, dứt khoát giữa cái sống và cái chết. Cái chết, xét theo con mắt của nhà ðạo, không phải là một sự chấm dứt vĩnh viễn cuộc sống như nhiều người lầm tưởng, mà cái chết chính là một phần của cuộc sống, một Cuộc-Sống-Miên-Viễn trường tồn và bất diệt. Với một quan niệm như thế về Sống Chết, sự ra đi của nhà-thơ-thiền-sư thật nhẹ nhàng biết bao, thanh thản biết bao! Nhẹ nhàng và thanh thản như một cành mai vô tư nở trước sân. Cái "năng lực hỷ lạc" này chỉ có thể tìm thấy ở những người thấu hiểu được thực chất, tự tánh và bản chất tâm linh của cái chết. Tiếc thay, một tri kiến đơn giản mà thiêng liêng

như thế ngày nay không còn được hiểu một cách đúng đắn hoặc chỉ được hiểu theo một ý nghĩa khác, tuy không phải là sai nhưng chỉ mới dừng lại ở bề mặt của thực tại, hiện tượng chứ không đạt tới nền tảng sâu thẳm nhất của nó.

Có một điều mà ít ai để ý nhưng lại quan trọng đối với tư tưởng của bài thơ. ðó là sự "giấu mặt" của động từ trong câu thơ cuối cùng. "ðình tiền tạc dạ nhất chi mai" (So sánh với sự xuất hiện hàng loạt các động từ trong các câu thơ trên), hay nói cách khác, trong câu cuối này tác giả không sử dụng động từ hoặc chúng ta có thể hiểu ngầm động từ ở đây là một thứ động từ "ẩn" chi phối ngầm tiến trình vận động của sự vật. Phải chăng giải mã được "ẩn ngữ" này thì chúng ta mới có khả năng tiếp cận được những gì là tinh hoa nhất trong truyền thống văn hóa tư tưởng của phương ðông? Tất nhiên hoàn toàn dễ dàng (và cũng hợp lý) giải thích sự vắng mặt của động từ ở đây bằng chính cấu trúc của câu thơ thất ngôn không cho phép dùng thêm một từ nào khác ngoài bảy chữ đã được qui định. Nhưng, với một phương pháp tiếp cận có tính chất biểu trưng và xuất phát từ chính nội dung tư tưởng của bài thơ, có thể xem cái "nốt lặng" của bài thơ này cũng là một biểu đạt tế nhị nội dung thâm trầm và siêu thoát của bài thơ. Cách biểu đạt đó cũng mang đậm màu sắc của mỹ học phương ðông, một nền mỹ học chủ trương "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý" và ý không chỉ nằm trong lời mà còn nằm ở ngoài lời, ở bên kia các phương tiện và hình thức biểu đạt.

Chỉ với một câu thơ ngắn ngủi gồm 7 chữ, cả không gian (đình tiền), thời gian (lạc dạ) va sự vật (nhất chi mai) dường như cùng thống nhất lại thành một trong tâm thức liễu đạo của nhà thơ, một sự thống nhất chỉ có thể tìm thấy trong thế giới của thực tại tiềm ẩn. Ở đây, tư duy luận phân tích phải nhường chỗ cho tư duy trực giác tổng hợp, và với hình thái tư duy đầy những cảm xúc nguyên sơ này, một thực tại vốn đã từng bị chia cắt, phân ly thành nhiều mảnh vụn sẽ được khôi phục lại trong tính toàn vẹn và chân như của nó. Cái đẹp của bài thơ là cái đẹp của sự thống nhất ba phạm trù Chân, Thiện và Mỹ trong cùng một Thực Tại Tối Cao.

Rung rinh một cành mai (thay lời kết)

"Cáo Tật Thị Chúng" của Mã Giác Thiền sư thực là một tuyên ngôn triết học mang đầy tính chất đặc trưng của nền văn hóa của phương ðông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, đặc biệt là văn hóa thời Lý-Trần. Nhưng đây không phải là một thứ tuyên ngôn triết học được xây dựng bằng những hệ thống khái niệm trừu tượng, con đẻ của tinh thần phân tích lý trí như thường thấy trong các hệ thống triết học của phương Tây. Trái lại, đây là một văn bản triết học được sáng tạo bằng trực giác thẩm mỹ qua những hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật đầy chất thơ, chất thiền. Cái đẹp của bài kệ cũng là cái đẹp của sự thống nhất ba phạm trù Chân, Thiện, Mỹ trong cùng một Thực Tại Tối Cao, cũng như của sự cảm thông, hòa hợp giữa khách thể với chủ thể ...

ðẹp thay, một cành mai của sự giải thoát và thực chứng. Và mãi cho đến tận ngày nay, khi sự tôn sùng lý trí khoa học được đẩy lên đến tột đỉnh, cành mai Mãn Giác ấy vẫn rung rinh bừng nở trước sân như một biểu tượng bất diệt của cái đẹp Uyên Nguyên toát ra từ sự thực chứng sâu sắc về bản chất của thế giới thực tại. Và đó cũng là một trong những cành mai đẹp nhất của khu vườn văn học phương ðông.

Mai ở trong tâm hồn tôi hay ở ngoài trời?

Tất cả chỉ là Một.

Chú thích:

1. Về mặt phương pháp, không thể lấy những khái niệm, phạm trù của nhận thức luận phương Tây làm tiêu chuẩn duy nhất để tiếp cận, nhận thức và đánh giá văn học phương ðông, đặc biệt đối với bộ phận văn học tâm linh chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền văn học cổ của Ấn ðộ, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Sự đặc thù trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng của văn học phương ðông đòi hỏi phải có cách nghiên cứu

và nhận thức riêng, phù hợp với những đặc trưng đó.

2. Kinh dịch: "Sinh sinh chi vị dịch", "Lý sương kiến băng chi" ...

3. Không nên hiểu một cách đơn giản cái "thấy" ở đây như một hoạt động của thị giác. ðiều quan trọng là phải thấy bằng chính cái Tâm của mình, đó chính là cái thấy "trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật".

4. ðể hiểu thế nào là "thực tại tiềm ẩn", có thể tham khảo thêm ý kiến của David Bohm, một trong những nhà vật lý có uy tín nhất hiện nay. Theo David Bohm, vũ trụ được biểu hiện qua ba phương diện liên kết với nhau: vật chất, năng lượng và ý nghĩa; và mỗi một phương diện này đều hàm chứa hai phương diện kia. Cái trật tự năng động, nhiều chiều mà Bohm thấy đang vận hành trong vũ trụ cốt yếu gồm ba khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là thế giới vật thể thời - không với không gian ba chiều mà ông gọi là trật tự mở (hay trật tự rõ rệt). Khía cạnh thứ hai là trật tự hàm ẩn hay kín, là "một nền tảng ngoài thời gian" có khả năng bao quát tất cả kinh nghiệm của chúng ta. Tương quan giữa hai loại trật tự này là một tiến trình liên tục trong đó cái gì mở ra trong trật tự rõ rệt lại được khép vào trong trật tự hàm ẩn. Và cái nguồn gốc tổ chức nên tiến trình này thành ra những cơ cấu thiên hình vạn trạng chính là trật tự siêu ẩn, một chiều không gian tinh vi hơn và có tiềm năng vô hạn ... (Xem: "Tạng Thư Sống Chết" của Sogyal Rinpoche, Ni sư Trí Hải dịch, 1995). Mặc dù lý thuyết của David Bohm vẫn còn đang được tranh luận nhưng nó đã tạo được nhiều sự ủng hộ của các nhà nghiên cứu thuộc các lãnh vực

khác nhau: vật lý, toán học, tâm lý học, sinh vật học và cả trong lãnh vực triết học nghệ thuật.

Bướm bay vườn cải hoa vàng

Thích Nhất Hạnh

Mười năm vườn xưa xanh tốt Hai mươi năm nắng rọi lều tranh Mẹ tôi gọi tôi về Bên bến nước rửa chân Hơ tay trên ánh lửa hồng ðợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống Tôi không bao giờ khôn lớn Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã Trong khu vườn cải hoa vàng Mẹ và em còn đó Gió chiều như hơi thở Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi ?

Gió mang tiếng ca; ngày ra đi em dặn: "nếu ngày về thấy khung trời đổ nát, thì tìm tôi trong tận đáy hồn anh". Tôi đã về, (có tiếng hát ca) bàn tay trên liếp cửa, Hỏi rằng: "có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì ?" Gió thì thầm: em nên hát ca Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu Hãy là đóa hoa, hãy là nụ cười, Hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch ? Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau Tôi tìm em (như đêm giông tố loạn cuồng rừng sâu đen tối những cành cây sờ soạng đợi ánh chớp lòe ngắn ngủi

thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau) Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng dậu, Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu. Tôi đứng đây, chúng ta không cần khởi hành Quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ, Xin đừng ai xâm phạm - Tôi vẫn còn hát ca. ðầu còn gối trên thánh kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang

được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng công trình xây dựng ngàn đời Nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất Bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới Nắm lấy tay tôi, em sẽ thấy chúng ta đã cùng có mặt tự ngàn xưa trong hiện hữu nhiệm mầu. Tóc mẹ tôi còn xanh, và dài chấm gót Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước dậu Nắng sớm mùa thu Tôi ở đây, chính thực vườn xưa Những cây ổi trái chín thơm Những lá bàng khô thắm ðẹp Rụng Còn chạy chơi la cà trên sân gạch Tiếng hát vẳng bên sông Những gánh rơm thơm vàng óng ả Trăng lên, quây quần trước ngõ Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua.

Tôi không ngủ mơ đâu, Ngày hôm nay đẹp lắm, thực mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa, ðến đây, Khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm, Trong ai nói cho em nghe rằng Thượng ðế đã bằng lòng cho con

người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng Người ? Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp, khổ đau vì không tự biết là lá là hoa. Em hát ca đi, bông cúc cười theo em bên hàng dậu, ðừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát Những ngôi sao trới không bao giờ xây ngục thất cho chính mình. ðể cho chúng tôi hát ca, để cho chúng tôi là những đóa hoa. Chúng tôi đang ở trong cuộc đời Mắt chúng tôi chứng minh cho điều ấy Bàn tay cũng là hoa, đừng biến bàn tay em tôi thành giây chằng. Thanh khớp răng cua Thành móc sắt Hiện hữu không kêu gọi tình thương Hiện hữu không cần ai phải thương ai Nhưng em phải là em, là đóa hoa, là bình minh hát ca, không đắn đo suy tính Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng sáng Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ.

MÙA XUÂN DI-LẶC Thích Thanh Từ

Năm nay chúng ta tìm hiểu ý nghĩa mùa Xuân Di-lặc để quí vị biết tại sao ngày mùng một Tết là ngày vía đức Di-lặc. Khi lạy Ngài chúng ta đã xướng lên câu: “Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật” tức là Bồ-tát Di-lặc sẽ thành Phật ở trong hội Long Hoa. Ngài là bậc giáo chủ ở hội đó và sau này mới thành Phật chớ không phải thành Phật ngay bây giờ. ðó là ý nghĩa thâm trầm nhất trong nhà đạo. Chúng ta ai ai cũng xem ngày mùng một Tết là ngày mở màn năm mới. Bao nhiêu chuyện vui buồn của năm tới gần như là nẩy mầm từ trong ngày mùng một Tết. Cho nên ai nấy đều rất dè dặt, rất kính cẩn trong ngày mùng một này. Mỗi hành động, mỗi ngôn ngữ, chúng ta đều e dè vì sợ hành động hôm nay ảnh hưởng đến sự vui buồn của năm tới. ðó là quan niệm của nhân gian.

Trong nhà đạo ngày mùng một Tết nói theo thời gian cũng là ngày mở màn cho năm tới. Năm tới đầy hứa hẹn với chúng ta là một năm giác ngộ. Vì vậy đức Phật Di-lặc là một vị Phật được hứa hẹn thành Phật ở mai sau. Ngài thành Phật đó là Ngài hoàn toàn giác ngộ. Hôm nay đầu năm lễ Ngài để chúng ta nhớ rằng năm nay là một năm hứa hẹn chúng ta sẽ được giác ngộ. Nếu chưa được thì năm tới sẽ được chớù không thể nào tu suông được. Vì vậy ngày mùng một Tết đối với nhân gian là ngày Tết Nguyên ðán, đối với nhà đạo là ngày vía đức Bồ-tát Di-lặc, một vị Phật sẽ thành mai sau. Như vậy mỗi khi nhớ đến Phật sẽ thành, nhớ ngày mùng một Tết, chúng ta nghĩ cũng sẽ giác ngộ, chớ không thể lôi thôi được. Nhưng mà cái giác ngộ tôi nói đây

không phải giác ngộ hoàn toàn như bậc Chánh đẳng chánh giác là Phật, mà là một thứ giác ngộ từng phút từng giây của chúng ta. Như vậy cũng không hổ thẹn gì đối với ngày vía này. ðó là tôi nói sơ thâm ý của ngày vía đức Phật Di-lặc.

Bây giờ đi thẳng vào mùa Xuân Di-lặc, nói đến mùa Xuân Di-lặc; nói đến mùa Xuân thì quí vị đều biết. Chúng ta chịu lạnh ở mùa ðông quá nhiều, đó cũng là lời nói vay mượn theo nước Trung Hoa v.v... Chúng ta chịu ảnh hưởng Trung Hoa ngoại quốc nhiều, cho nên ai cũng tưởng mùa ðông cây cối trơ trọi, sương tuyết đầy đường, lạnh buốt không chịu nổi. Nhưng thật sự ở miền Nam chưa có. Chúng ta hiểu theo những nước Trung Hoa, Nhật Bản, những nước Âu Châu tức cho mùa đông là một mùa lạnh lẽo, cây cối đều rụng lá trơ cành, không có cái gì sanh trưởng được. Nơi người thì do sức lạnh phải teo da xám thịt. Cái lạnh làm người ta không còn sức sanh trưởng nẩy nở, phải chờ đến mùa Xuân cây cối mới đâm chồi nở hoa kết quả. Mùa Xuân tới thì cơ thể con người, lòng người mới được ấm áp vui sướng. Cho nên mùa Xuân là mùa ta hằng mơ ước. Mùa Xuân có cái gì hòa ấm tươi vui khiến cho mọi người hăng hái trong cuộc sống, vạn vật đâm chồi nẩy lộc xanh tươi trong những ngày đó. Vì vậy, khi nói tới mùa Xuân là nói cả một cái gì đầm ấm trong con người.

Hiện nay mùa Xuân Di-lặc là mùa Xuân gì? Và chúng ta cùng chúc nhau những gì? Ở trên cuộc đời này có bao nhiêu người cứ theo cái mê lầm ảo tưởng của mình, chạy theo ngoại cảnh, bám vào ngoại cảnh cho là mình. Cho nên phải khổ đau theo dòng sanh diệt của ngoại cảnh. Như bao nhiêu người thấy cái gì cũng nói cái đó là của mình, lệ thuộc mình từ cái bản thân cho đến cái sự vật bên ngoài. Không có cái nào là không bám chặt vào mình. Bởi cái chấp ngã nặng nề đó cho nên con người phải khổ đau, khổ đau dài dặc từ kiếp này đến kiếp khác. ðó là cái chấp ngã sở, tức là vật sở hữu của mình. Tôi thấy cái hoa này là cái hoa của tôi. Nó tươi tôi vui, nó héo tôi buồn. Nếu cái này là hoa của thiên nhiên nó tươi nó héo là nó tươi nó héo không dính dáng gì đến tôi. Tại sao vậy? - Bởi vì mình đặt chủ quan mình vào sự vật, bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Mình muốn lòng người đối với mình và sự vật thuộc về mình trường tồn vĩnh cửu. Cho nên

khi có trạng thái biến đổi, xê dịch thì mình cảm thấy bất an, không vui rồi. Do đây mà người ta đau khổ vì bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Khi nào chúng ta biết bản tánh sự vật là như vậy không đổi thay, không lệ thuộc vào ai cả, thì lúc đó chúng ta mới nhìn sự vật với tính cách khách quan. Như thế chúng ta mới an vui tự tại. Cho nên cùng một cảnh ngộ, cùng một sự việc trên cõi đời này, có người thì cả ngày buồn lo rầu rĩ, sợ sệt, còn có người thì an ổn vui tươi. ðó là tại sao? - Chẳng qua đó là người biết sống, người không biết sống. Có người họ giành giựt nhau từng miếng ăn để sống. Như vậy họ có biết sống không? Họ ham sống lắm. Nhưng sự thật họ sống trong cái chết, tức là họ vì miếng ăn, vì tất cả những cái không đáng giá gì mà họ lại đua nhau giành giựt để rồi chết vì miếng ăn. Còn chúng ta nếu thức tỉnh được thì khác hơn họ nhiều. Do đó mà quí vị thấy, nhìn lên hình tượng đức Di-lặc trong các chùa xưa thờ, có đức Di-lặc nào buồn hay không? Chúng ta thấy đức Bồ-tát Di-lặc nào cũng nở nụ cười. Không bao giờ thấy đức Di-lặc nào buồn hết. Nói đến đức Bồ-tát Di-lặc là nói đến vui tươi. Tại sao Ngài cười hoài, Ngài giàu chăng? Ngài không giàu, Ngài có giàu gì đâu? Ngài có ưu điểm gì mà Ngài vui tươi mãi? ðó là cái điểm mà chúng ta phải chú ý.

Như khi nãy tôi nói, bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình thì tự nhiên mình là người đau khổ. Mà quí vị có bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình hay không? Tỷ dụ bây giờ đứng trước một trăm người, quí vị có muốn một trăm người đó đừng để ý gì đến quí vị hay không? Hay là muốn ai cũng chú tâm vào mình, nhìn vào mình để rồi khen mình, để rồi mến mình v.v... Nghĩa là muốn mọi người chú tâm vào mình, muốn tất cả sự vật đều thuộc về mình. Quí vị thấy cái hoa đẹp quí vị có muốn nắm cái hoa ấy trong tay hay không? Hay là thấy cái hoa đẹp nên để nó nằm yên trên cành trong rừng để nó giữ trọn vẹn hương sắc của nó. Cái gì chúng ta cho là đẹp ở bên ngoài đó, vừa trông thấy nó đẹp là bắt nó lệ thuộc vào mình. Cho nên nói theo Tổ Bồ-đề-đạt-ma, chúng ta cắt hoa chưng như vầy cũng có tội. Bởi vì sao? Vì chúng ta ăn cắp sanh mạng của nó làm đẹp cho chúng ta. ðó là lối nhìn đáo để của những vị tu hành, biết rõ ràng sự vật một cách khách quan. Ngược lại chúng ta thấy cái gì đẹp là muốn đem về phòng chưng hoặc để đâu đó, nghĩa là phải lệ thuộc về mình. Còn cái đẹp bên ngoài thì chúng

ta không muốn. ðó là cái bệnh mà tất cả chúng sanh hiện giờ đang mắc phải. Nói cái bệnh đó tôi chưa cần phải giải thích mà xin dẫn lời một Thiền sư Trung Hoa. Thiền sư Bổn Tịnh đã nói lên cho chúng ta thấy bệnh đó qua bốn câu kệ:

Nhất niên Xuân tận nhất niên Xuân Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân Thiên hiểu bất nhân chung cổ động Nguyệt minh phi vị dạ hành nhân Tạm dịch: Một năm Xuân trọn một năm Xuân Cỏ dại non hoa mấy độ tươi Trời sáng chẳng do chuông trống động Trăng trong đâu bởi khách đi đêm

Như vậy nghĩa là sao? Bởi vì quí vị nhớ ở chùa xưa lâu nay tới bốn năm giờ thức dậy công phu đánh chuông đánh trống. Những nhà hàng xóm những đứa bé trong làng bị ba má nó kêu dậy. Thí dụ như: Ở chùa công phu đánh chuông trống, trời sáng rồi, a! Dậy đi thả bò ăn. Thế nên nó quen có quan niệm là chùa đánh trống là trời sáng. Nhưng nhân chùa đánh trống mà trời sáng, hay là chùa đánh trống là chùa đánh trống, còn trời sáng là trời sáng? Không phải chùa đánh trống mà trời sáng, nhưng người ta quen khi nghe chùa đánh trống dộng chuông công phu là nói trời sáng. Như vậy tại sao có thói quen đó? Bởi vì mình cứ tưởng tượng có cái gì thúc giục, duyên mới xuất hiện, thành ra trời sáng thuộc về đánh trống đánh chuông của nhà chùa. Rồi trăng sáng có những người khách đi ban đêm, nhân có trăng sáng người mới đi chơi đêm. Như vậy trăng sáng cho họ đi chơi đêm hay là khách đi chơi đêm vì trăng sáng? ðó là chỗ mà chúng ta phải thấy rõ. Người đi đêm thì họ tự đi, trăng sáng là trăng tự lên mà sáng không phải vì khách đi đêm mà trăng sáng. Nhưng trăng sáng người khách mới lợi dụng trăng sáng mà đi chơi đêm. Như vậy rõ ràng là chúng ta nhìn sự vật bằng con mắt chủ quan cho tất cả đều vì mình. Thí dụ như quí vị thấy ở sông có cá ngoài biển có tôm, quí vị sẽ nói sao khi con cái hỏi: Vì sao có cá có tôm? Là cha mẹ quí vị cắt nghĩa với con ra làm sao? - Trời sanh ra để mình ăn đó. Rồi thấy ngoài đồng, tại sao có lúa có đậu có bắp? Cũng bảo

trời sanh để mình ăn. Tất cả cái gì cũng để cho mình hết. Rồi hỏi tại sao có mưa? - Có mưa để mình làm ruộng. Tại sao có nắng? - Có nắng để mình phơi lúa. Tất cả cái gì cũng để cho mình. Vì vậy mà trong vũ trụ này mình là trung tâm. Bởi vì mình là trung tâm vũ trụ cho nên ai không làm theo ý mình thì mình nổi tức lên. Tỷ dụ như mình phơi lúa mà mưa xuống thì có nổi giận hay không? - Tại sao người ta đang phơi lúa mà trời lại mưa? Như vậy mình bắt thiên nhiên lệ thuộc về mình, mà lệ thuộc bằng cách ngu tối mê mờ của mình, chớ không phải lệ thuộc bằng cách không ngoan. Bởi bắt lệ thuộc về mình nên mới khổ đau vì không được như ý.

Quí vị thấy tất cả chung quanh chúng ta từ con người đến muôn vật, có cái nào chiều theo ý chúng ta hay không? Mà giả sử có ông Trời, ông cũng không chiều nổi nữa. Muốn cái này đòi cái kia, được cái kia đòi cái khác. Nếu muốn một người được thỏa mãn hoàn toàn thì cả vũ trụ nhân loại này đều phải là nô lệ cho người đó hết. Do đó con người lúc nào cũng đau khổ vì thấy ngoại cảnh bất như ý. Tại sao bất như ý? Vì mình bắt ngoại cảnh lệ thuộc về mình. Nếu mình có cái nhìn khách quan, thì sẽ thấy ngoại cảnh là ngoại cảnh, không cái gì thuộc về mình hết, không cái gì vì mình hết. Trăng trong là trăng trong, không phải vì mình đi đêm mà trăng trong. Trời sáng là trời sáng chớ không phải vì chùa đánh chuông đánh trống là trời sáng. Như hoa cỏ nó tươi nó nở là tới thời tiết nó tươi nó nở, chớ không phải vì cái gì mà nó tươi nó nở.

Nói tóm lại qua bốn câu thơ đó, Thiền sư Bổn Tịnh đã cho ta thấy rằng chúng ta bệnh chủ quan quá nặng nên bắt ngoại cảnh lệ thuộc vào chúng ta. Nhưng ngoại cảnh có chịu lệ thuộc vào chúng ta hay không? Hẳn là không? Khi thời tiết nhân duyên tới thì hoa trổ bông kết trái chớ không phải mình muốn là được. Nhiều người không biết như vậy, trồng cây mới đặt xuống năm bảy hôm là muốn cho nó lớn mau, rồi muốn nó có bông có trái liền. Năm bảy ngày không thấy nó lớn, lại muốn nhong nhóng lên cho nó mau lớn. ðó là cái bệnh tham lam của con người. Bởi cái gốc tham lam mê muội đó mà người ta mãi mãi đau khổ. Ở đây Thiền sư muốn cho ta hết đau khổ, Ngài chỉ cho chúng ta thấy phải dứt đi hết bệnh tham lam. Mà bệnh tham lam là bệnh chấp

ngã sở, tức bắt ngoại cảnh lệ thuộc vào mình. Quí vị nghĩ con cá con tôm phải sanh ra cho chúng ta ăn hay không? Nó là nó, sự sanh sản của nó là nó, chớ không phải vì chúng ta mà nó sanh. Tất cả cái khác cũng như vậy. Như vậy sự vật ở cõi đời này, không có cái gì vì chúng ta hết, nhưng chúng ta tạo phương tiện tìm kiếm tàn sát để nuôi dưỡng chúng ta. ðó là sự lợi dụng của chúng ta, chớ không phải nó sanh ra để cho chúng ta ăn. Ngoài tôm cá tất cả cái khác cũng vậy. Cho nên trong nhà Phật dùng danh từ rất chuyên môn gọi là “Pháp nhỉ như thị” tức là các pháp nó như vậy. Các pháp không thuộc vào ai hết, nó không bị cái gì chi phối, không lệ thuộc vào cái gì, nó là nó, nếu bắt nó lệ thuộc là mình ngu si. Tại sao vậy? Chúng ta cứ suy gẫm lần lần như tôi nói nãy giờ. Chúng ta biết một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, ðông, hoặc ấm áp hay lạnh lẽo, hoặc gió mưa hay khô cạn. Bốn mùa đó không phải vì chúng ta mà có, nhưng do sự xoay vần của trái đất. Nhân biết có bốn mùa rồi chúng ta mới lợi dụng. Mùa mưa thì chúng ta ven bờ làm ruộng, mùa nắng hạn thì chúng ta phơi lúa, làm những việc khô khan. Mùa lạnh thì chúng ta sắm những cái mền, những cái áo ngủ ấm để mà che lạnh. Mùa nào chúng ta làm hợp theo mùa nấy. Nói tóm lại chúng ta biết có bốn mùa, đó là thiên nhiên sẵn như vậy, chớ không phải vì chúng ta. Nhân chúng ta biết đó mà lợi dụng làm việc sao cho phù hợp với bốn mùa. ðó là chúng ta khôn ngoan muốn sống. Nếu không chúng ta cứ bắt nó lệ thuộc vào chúng ta; vả như đang mùa nắng mà chúng ta muốn mưa thì sao? Có mưa được không? Muốn mưa mà không mưa ngồi đó mà trách trời trách đất: Hôm nay tôi cần mưa mà không mưa cho tôi. ðó là cái đau khổ do si mê của mình.

Ngoài ra tất cả cái khác cũng vậy. Tỷ dụ như thế gian, người nuôi con chó thì nghĩ rằng, nuôi nó để giữ nhà cho mình. Khi nào có ăn trộm, nó ngủ quên nó không sủa thì đánh đập nó. Nhưng nó có hứa nó giữ nhà cho mình đâu, mà thói quen của nó thấy người lạ là sủa. Nó sủa vậy thôi chớ nó không nghĩ sủa như vậy là giữ nhà, giữ ăn trộm cho người chủ. Thế mà có ăn trộm nó ngủ quên sủa thì mình đập nó. Khi nuôi gà, người ta có ý nghĩa để nó gáy cho mình thức đúng giờ, hoặc để mình ăn thịt. Tại mình quan niệm như vậy chớ nó đâu có nghĩ là tôi gáy cho ông bà nấu cơm đúng giờ đâu. Ngứa cổ nó cứ gáy vậy thôi. Bữa nào nó

quên mình bực bội trách tại sao không gáy làm cho người ta ngủ quên. Như vậy mình có phải bắt buộc nó làm theo ý mình không? ðó là tánh cách ngu si chủ quan. Mình muốn bắt tất cả cái gì cũng làm lợi cho mình hết. Sự vật bên ngoài nó có nghĩ làm lợi cho ai đâu. Nó là nó. Có cơ duyên gì đó mới làm như vậy chớ không phải nó làm cho mình. Nó đâu có nghĩ nó làm cho mình rồi khi thiếu sót một chút không làm đúng như các trường hợp cũ, thì mình tức giận lên và mình có thể làm hại nó nữa.

Như vậy chúng ta thấy tất cả sự vật nó là nó, nó không phải lệ thuộc vào chúng ta. Chúng ta vì tham lam bắt nó lệ thuộc vào chúng ta, cho nên nếu có một cái không lệ thuộc về chúng ta là chúng ta đâm ra tức giận. Tỷ dụ đi vào vườn hoa của người, khi thấy một hoa đẹp muốn thuộc về mình. Nếu xin mà ông chủ không cho liền nổi giận. Vì thấy nó đẹp, muốn nó về mình, không được như ý là tức giận lên. Rồi tất cả cái khác đều cũng như vậy. Nếu thấy hoa đẹp để ngắm thì có tức giận đâu. Thấy cái gì cũng muốn thuộc về mình, khi có một cái không lệ thuộc về mình mới đâm ra buồn khổ. Cái khổ đó từ đâu đem đến cho mình? Quả tang là chúng ta tham lam bắt sự vật thuộc về mình, nên chúng ta đau khổ. Nếu bây giờ chúng ta biết sự vật là sự vật không thuộc về ai hết, ta nhìn nó với tánh cách khách quan thì có lúc nào buồn đâu. Thấy người ta có cái nhà tốt thì vui được thấy cái nhà tốt, đừng muốn cái nhà tốt thành của mình, tự nhiên mình vui rồi. Sở dĩ mình thấy người ta có nhà tốt mà mình có nhà xấu mình buồn, vì mình muốn được cái nhà tốt như người, nên mới có niềm bất an trong lòng. Chớ mình thấy người ta có cái nhà tốt, mình mừng được thấy cái nhà đẹp quá. Thấy người có cái áo tốt, mình mừng được thấy cái áo đẹp. ðược như vậy cả ngày mình vui hoài. Người có cái này đẹp, người có cái kia, rồi ngoài vũ trụ có bao nhiêu cái đẹp. Thấy được cái đẹp thì vui, chớ mình không bắt cái gì về mình hết. Nếu mình muốn cái gì tốt đẹp, muốn về mình thì cả ngày mình cứ buồn hoài. ði ra thấy người ta có chiếc xe hơi đẹp, thấy mình không có mình buồn. Thấy người ta có cái nhà đẹp mình không có mình cũng buồn. Như vậy buồn cả ngày. ðó là tự mình vì mình muốn cái gì đẹp về mình, cho nên càng muốn là càng khổ.

Nếu chúng ta biết tất cả cái đẹp không lệ thuộc về chúng ta thì chúng ta hết khổ. Hết khổ một cách an nhàn tự tại. Chúng ta cũng không đố kỵ, không ghét không khó khăn với ai hết. Ai có gì đẹp thì mình tán thán tùy hỉ liền. Khi thấy cái đẹp mình có ý nghĩ: À ông ấy có cái đẹp thích quá, mà mình không xin, không muốn lệ thuộc về mình thì tức nhiên mình có đố kỵ với người đó đâu. Ở thế gian, quí vị thấy một người anh ruột mà giàu, người em nghèo thì người em có thương người anh ruột hay không? - Cũng có hơi đố kỵ rồi. Người khác cũng vậy, tại vì muốn tất cả gồm về mình. Lúc nào họ cũng thấy mình là trung tâm vũ trụ, bắt buộc tất cả phải về mình hết. Ra ngoài đường người ta không nhìn mình, mình cũng hơi giận rồi. Cái gì cũng phải chú vào mình hết. Người ta ít chú ý về mình thì mình không bằng lòng. ðó là quan niệm chủ quan quá đáng. Chủ quan đó gọi là chấp ngã nặng, bắt ngoại cảnh phải lệ thuộc về mình, gọi là chấp ngã sở. Vì vậy chúng ta phải biết rõ ràng tất cả pháp ở giữa đời này, không có cái gì thuộc về cái gì hết. Nó là nó, nó không thuộc về mình. Sở dĩ mình khôn khéo mình lợi dụng nó để ứng dụng, để chu cấp cho cuộc sống của mình, chớ nó không lệ thuộc về mình. Nó rõ ràng như vậy đó.

Nếu biết tất cả pháp không lệ thuộc về mình thì pháp nào ở bản vị pháp nấy. Cái hoa này nó ở bản vị của nó, tất cả cái khác nó ở bản vị của nó, không lệ thuộc cái nào hết, nó là nó. Tuy nhiên nó sanh nó diệt. Nó sanh nó diệt theo thời tiết nhân duyên của nó chớ không lệ thuộc vào cái nào. Nhưng mà chúng ta có bằng lòng với sự vật bên ngoài - nó là nó - không lệ thuộc về mình hay không? - Không ai bằng lòng hết. Chính cái đó là cái đau khổ, muôn ngàn đời đau khổ cũng vì cái đó. Cho nên nói hoa nở cả vườn mà chỉ có vườn của ta thì hoa không nở. Bởi vì của ta nên nó héo hoài. Còn nếu không thấy còn của ta thì nó nở đầy vườn. Bây giờ quí vị đi ra ngoài thấy cái đẹp nào đều không bắt về mình thì thấy cả thế gian đều là đẹp. Còn nếu bắt nó về mình thì cả thế gian đều là xấu hết. Mình thấy người ta có cái nhà đẹp mà không thuộc về mình, mình không bằng lòng, cho nên tìm cách này cách kia phê bình cho nó xấu bớt đi. ðó là cái bệnh của chúng sanh như vậy.

Giờ đây chúng ta khách quan nhìn tất cả sự vật, các pháp thế gian này nó không thuộc về ai hết, nó là nó. Không phải vì có ta mà nó thuộc về ta. Hiểu được như vậy, thấy được như vậy là tự chúng ta hết khổ rồi. Chúng ta sẽ cười hoài như ngài Di-lặc. ði thấy ai cũng có cái hay cái đẹp, cười hoài không có buồn. Còn nếu bắt nó thuộc về mình thì buồn hoài cả ngày, không bao giờ mình vui được, đó là cái thuật sống. Sống an lành hạnh phúc như ngài Di-lặc. Vì vậy mà trong kinh Pháp Hoa có câu:

Thị pháp trụ pháp dị Thế gian tướng thường trụ

Tức là các pháp ấy nó ở bản vị của nó, như vậy là tướng thế gian thường còn mãi mãi. Còn bắt nó lệ thuộc thì nó sẽ tiêu tan. Tỷ dụ thân chúng ta bây giờ có thật là của chúng ta hay chưa? Bởi thấy của chúng ta nên khổ vì nó.

Nãy giờ nói là tôi nói sự vật bên ngoài. Bây giờ nói thẳng cái tứ đại nặng ba mươi bốn mươi năm mươi ký hoặc sáu mươi ký đó là của chúng ta hay không? Thật tình là ai cũng nói của mình hết. Quí vị nghĩ cho thật kỹ mà coi. Khi chúng ta có một ly nước, lúc còn ở ngoài này là nước của ai? Nước là nước không của ai hết. Nhưng khi vô khỏi cổ rồi thì nói của mình. Tới chừng hai ba tiếng đồng hồ sau, nó ra rồi thì là nước của ai? Như vậy cái gì là cái của mình. Như hơi thở, khi không khí ở ngoài này là không khí, hít vô lỗ mũi là hơi thở của mình. Lát nữa thở ra rồi nó đi đâu? Là của ai? Như vậy cái “của” này chỉ là cái tạm. Như cái nhà người này vô người kia ra. Người bước vô nhà người đó có thuộc cái nhà này không? Tại sao chúng ta chấp tứ đại là nhà của mình? Bây giờ, quí vị thấy tứ đại hằng ngày: thở là không khí, chất lỏng là nước, chất cứng là đất, thân có hơi ấm là lửa. Như vậy đất nước gió lửa hòa hợp lại làm thân tứ đại này. Nếu tứ đại ở ngoài không phải là của mình, vậy tứ đại ở trong này là của mình hay sao? Biết tứ đại ở ngoài không phải là của mình, thì ở trong đây đâu phải là của mình. Nếu thật là của mình thì, mình hoàn toàn làm chủ. Mình muốn nó còn là nó còn, muốn bỏ nó là nó mất. Nhưng có người muốn giữ nó mà giữ không được thì sao? Như vậy để chứng tỏ rằng nó không thuộc của mình. Cho nên đủ

duyên thì nó còn, duyên thiếu thì nó rã. Mà khi nó rã nó có thật mất hay không?

Chúng ta mượn không khí làm hơi thở chúng ta. ðến khi hết duyên, chúng ta thở ra thì nó thành không khí lại. Nó trở lại bản vị không khí của nó. Nước chúng ta còn dùng nó, đến khi hết dùng trả ra lại trở thành nước. Cái thân đất này tới chừng trả ra nó trở thành đất lại. ðâu trả về bản vị nấy không mất tí nào. Nhưng mà duyên hợp thì đổi hình đổi tướng vậy thôi. Duyên hết rồi thì đâu trả về đó, không có cái gì gọi là mất. Cho nên nói “Tướng thế gian thường trụ”. Trong khi hợp đó chúng ta lầm mê bám vào cái đó nói là của mình. Tứ đại này cũng cho là mình. Cho nên cả cuộc đời chúng ta đau khổ. Quí vị nghĩ có lúc nào chúng ta vui được không? Bởi vì nhớ tới thân này, ai mà không bệnh, không tê thấp thì đau gan, không đau gan thì đau bao tử, hoặc phổi tim v.v... có đủ thứ đau nên sợ thân hoại. Vì nghĩ nó là mình, nên lo sợ nó rã nó mất. ðối với thân thì lo sợ, đối với ngoại cảnh thì bắt nó thuộc về mình, cho nên không được như ý.

Người nào cho tứ đại là mình, đó là người đau khổ suốt kiếp. Không có ngày nào an lành hết, vì ngay trong tứ đại chúng ta thấy, nó không thuộc về ai hết. Tứ đại là tứ đại - giả hợp chúng ta mượn nó làm bè qua sông. Nó còn ngày nào thì chúng ta đeo nó, nó rã thì thôi. Như vậy đối với thân thì không sợ còn mất, đối với cảnh không còn tham lam bắt nó về mình. Người sống như vậy có an vui hay không? Như vậy không cười còn đợi cái gì? Không lo sợ gì hết. Không lo sợ cái này cái kia, mình không lo sợ thân này bệnh hoạn hoại đi là mình thấy an lành tự tại suốt ngày. ðược như vậy là ta hưởng mùa Xuân Di-lặc sơ sơ rồi. Năm nào, ngày nào, tháng nào, chúng ta cũng thấy là ngày Xuân hết. Ngày nào cũng là ngày an lành đẹp đẽ. Nếu không như vậy thì chúng ta sẽ đau khổ dài dài. Ngày nào cũng đen tối. Cái này bất như ý, cái kia bất như ý. Nhớ đến thân là thân nhiều bệnh. Nhớ đến cảnh là cảnh của người. Cho nên rồi đau khổ, đau khổ hoài không hết. ðó là tôi chỉ cho quí vị thấy chúng ta muốn hưởng mùa Xuân Di-lặc là phải hưởng như thế đó. ðó là Xuân Di-lặc về hình thức.

Còn Xuân tâm niệm? Làm sao tâm niệm chúng ta an lành suốt cả năm suốt cả tháng. ðó mới là cái Xuân cao quí nhất. Một Thiền sư Trung Hoa có làm bốn câu kệ nói lên mùa Xuân:

Lưu thủy hạ sơn phi lưu ý Phiên vân qui động bản vô tâm Nhân sanh nhược đắc như vân thủy Thiết thọ khai hoa biến giới xuân

Tạm dịch:

Nước tuôn xuống núi nào có ý Mây bay về động vốn không tâm Người đời nếu được như mây nước Cây sắt trổ hoa khắp chốn xuân

Sở dĩ chúng ta không được mùa xuân vĩnh cửu là vì chúng ta chỉ thấy Xuân qua tâm niệm sanh diệt. Thấy cây cỏ tươi tốt trổ hoa đâm chồi, chúng ta vui mừng cho đó là Xuân. Như vậy chúng ta vui mừng theo cảnh theo thời gian. Cái mừng đó là cái vui của tâm sanh diệt. Mà đã vui mừng chạy theo cảnh, theo thời gian, nếu cảnh tàn, thời gian qua thì cái vui còn hay hết? Cái xuân như thế là cái xuân hữu hạn. Cái Xuân của thời gian thì biến đổi, cái Xuân của ngoại cảnh thì suy vi. Bây giờ nếu chúng ta hoạt động như bao nhiêu người, nhưng hoạt động như mây bay như nước chảy. Trong khi hoạt động đó ta không bị vọng tưởng làm chủ mà hằng sống với tâm thanh tịnh của chúng ta. Tâm thanh tịnh đó nó lặng lẽ trong trẻo chẳng khác nào như cây sắt. Nhưng trong cái lặng lẽ trong trẻo đó không phải nó không có gì. Chính trong cái lặng lẽ, trong trẻo đó nó phát ra trí tuệ sáng suốt. ðây dụ như cây sắt trổ bông. Trong cái lặng lẽ trong trẻo đó chúng ta tưởng chừng như không có cái gì hết, nhưng không ngờ ngay trong đó lại phát ra cái trí tuệ diệu dụng bất tư nghì. Cho nên đây ví dụ cho cây sắt trổ bông. Người ta tưởng không bao giờ cây sắt trổ bông, nhưng khi cây sắt trổ bông rồi sẽ thấy khắp bầu trời đều là Xuân không cùng tận.

Bây giờ quí vị nhớ lại khi tâm không dấy niệm, lúc đó quí vị thấy có mình hay không? Tất cả người thế gian ai cũng vậy, có nghĩ thì nói tôi nghĩ thế này tôi nghĩ thế kia, không nghĩ thì lúc đó làm sao? Không biết gì hết. Họ tưởng chừng như mất họ rồi không còn gì hết. Nhưng mà không ngờ sau khi dừng lại hết những cái nghĩ đó, chừng đó nó mới sáng, tức là mới phát cái trí tuệ sáng suốt; trong kinh Bát-nhã gọi là “Thanh Tịnh Trí”. Trí tuệ sáng suốt đó nhìn sự vật, nhìn vũ trụ bằng tâm thanh tịnh, nên vũ trụ theo đó mà thanh tịnh. Chừng đó khắp cả bầu trời đều là Xuân. Bởi vì nó không còn cái tâm sanh diệt nữa. Tất cả đều là an lành đều là vĩnh cửu. Lúc đó mới gọi là “biến giới Xuân”. Xuân khắp bầu trời ở đâu cũng là Xuân hết. Như vậy trong muôn người muôn cảnh, chúng ta thấy đều là Xuân. Thời gian nào chúng ta cũng thấy đều là Xuân. Mà cái Xuân được chăng là sau khi tâm chúng ta giống như mây bay giống như nước chảy. Mây bay nước chảy mà không có tâm, thì chúng ta hoạt động tất cả mà không có vọng tưởng. Lúc đó chúng ta thấy khắp bầu trời là một mùa Xuân. Nếu chúng ta mang vọng tưởng là Xuân có hạn có chừng. Như vậy chúng ta ai muốn hưởng mùa Xuân Di-lặc, mùa Xuân đó phải như vậy. Một mùa Xuân không còn lệ thuộc vọng tưởng sanh diệt thì đó mới là mùa Xuân chân thật. Tôi đã đứng hai mặt để diễn đạt mùa Xuân Di-lặc:

1- Dứt mê lầm chấp ngã bắt ngoại cảnh và tứ đại này lệ thuộc vào mình. Lúc đó chúng ta hưởng được mùa Xuân an lành tự tại.

2- Chúng ta bặt hết vọng tưởng điên cuồng, với tâm thanh tịnh sáng suốt nhìn bầu trời sáng suốt để hưởng mùa Xuân vĩnh cửu bất sanh bất diệt.

Một Thiền sư Việt Nam đã nói đến mùa Xuân đó dù không đề cập đến chữ Xuân. Khi vua Nhân Tông hỏi Ngài ở núi làm gì, ở được bao lâu? Thiền sư Thiền Lão trả lời:

ðản tri kim nhật nguyệt Thùy thức cựu xuân thu

Tạm dịch:

Chỉ biết ngày tháng này Ai rành xuân năm trước

Hỏi hằng ngày Hòa thượng làm gì? Ngài nói:

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân

Tạm dịch:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác Trăng trong mây bạc hiện toàn chân

Như vậy ngày nào chỗ nào chẳng phải là Xuân? Nếu tâm chúng ta không còn lệ thuộc vào thời gian quá khứ hiện tại vị lai, lúc đó chúng ta an nhiên tự tại thanh tịnh. ðó là cái tâm bất sanh bất diệt của chúng ta. Mà sống với cái tâm bất sanh bất diệt đó để nhìn sự vật, cái nào chẳng đẹp, cái nào chẳng thanh tịnh, vì đâu cũng là chân tâm biến hiện, đâu đâu cũng là cảnh đẹp của mùa xuân, không riêng nơi nào lúc nào. Như vậy quí vị thấy rõ cuộc sống của chúng ta muốn được an lành đời đời kiếp kiếp, an vui tự tại hưởng một mùa Xuân Di-lặc thì không gì hơn:

1- Trước hết chúng ta phá cái chấp u mê bản ngã, bắt ngoại cảnh phải lệ thuộc về mình.

2- Kế đó chúng ta phải lặng hết vọng tưởng.

Như vậy chúng ta thấy trên cõi đời này đều là một cõi đời an lành tự tại. Ngay trong thế gian này là một thế giới của chư Phật chớ không phải của phàm phu nữa. ðó là cái XUÂN DI-LẶC vĩnh cửu trường tồn nơi chúng ta.

Thông điệp của Thơ

Thích Nữ Trí Hải

Hơn ai hết, thi nhân là người cảm thức sâu xa những thống

khổ nhức nhối của cuộc tồn sinh, và truyền đạt cho ta chân lý đầu

tiên của Phật qua muôn vàn sắc thái, bằng những vần điệu bất hủ

như chính sự vô thường, khổ, như chính cuộc đời.

Ta là ai, từ đâu đến, sinh ra để làm gì ... nỗi khắc khoải ấy không

ngừng trở lại trong tâm hồn thi nhân:

Tiền bất kiến cổ nhân

Hậu bất tri lai giả

Niệm thiên địa chi du du

ðọc đương nhiên nhi lệ hạ

(Trần Tử Ngang)

Ai người trước đã qua

Ai người sau chưa đến

Nghĩ trời đất vô cùng

Một mình tuôn giọt lệ

(Nhất Hạnh dịch)

Nỗi khắc khoải ấy biến thành một niềm nhớ mông lung, một tình

hoài hương, cái quê hương mà ta không biết. ðó là tâm trạng ta

bắt gặp từ thuở bé, sau mỗi trưa ngủ dậy, bỗng dưng òa khóc

không duyên cớ. Ta có cảm giác như đã đánh mất đi một cái gì

mà ta đã quên bẵng mặt màỵ ðó dường như là một tiền kiếp xa

xăm ta vừa quên vừa nhớ. Lớn lên, đó là nỗi sầu vơ vẩn, không

đối tượng mà thi nhân gọi là "nỗi sầu thế kỷ" (mal du siècle)

khiến người phàm tục xem họ là kẻ than mây khóc gió, không ốm

mà rên. Song kỳ thực, đó là dấu hiệu thức tỉnh của những con

người hiếm hoi chưa bị ô nhiễm bởi cuộc túy sinh mộng tử (sống

say chết mộng.) Tâm trạng khắc khoải này trở thành một nỗi đau

mãnh liệt, một khoảng trống rợn người:

Nửa đời bỏ lạc thâu canh

Nụa linh hồn bỏ nước xanh lên bờ

Khổ đau về chẳng hẹn giờ

Hoang liên phố rộng bước hờ hững đi

(Bùi Giáng-Mưa nguồn)

Khoảng trống này là một thử thách gay go với người độc cư lâu

năm chầy tháng. Khi tất cả đều được bỏ sau lưng, người độc cư

đối diện với hư vô vậy bủa, và dần dần thấy rằng chỉ co cái Không

đó là thực, gần như sờ mó được, nhưng lại không thể nào chịu

đựng:

Sau lưng, trước mặt, hư không một trời

(Tuệ đăng)

Cảm giác đau khổ vì khoảng trống đó là một loại ma ngũ ấm,

nghĩa là một thứ phiền não phát sinh từ cái thân ngũ uẩn. Nó

không do cảnh ngoài, không có đối tượng rõ rệt, nhưng nó bao

trùm khắp cả, hiện diện khắp nơi, làm cho hành giả có thể phát

điên lên được. Có thể diễn tả nổi sầu ấy như nỗi "sầu tình" của

Nguyễn Công Trứ:

Sầu ai lấp cả vòm trời

.............

Giống ở đâu vô ảnh vô hình

Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng

Hay như nỗi hoang liêu trong Mưa nguồn:

Sầu thiên cổ chợt về trên nước dạo

Có lúc nỗi sầu ấy trơ nên thác loạn:

Trung tâm trái đất ruột rà rối tung

ðó là một nỗi sầu to rộng như của đất trời:

ðất với trời chung một nghĩa bơ vơ

Vũ Hoàng Chương cũng diễn tả cái "thành sầu chất ngất" ấy trong

Thơ Say:

Nhưng em ơi

ðất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành sầu không sụp đổ

Nỗi sầu không tên tuổi, nỗi hoài hương tiền ấy mãi theo chân con

người suốt cuộc tồn sinh mỗi lúc tàn canh tỉnh rượu:

Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước

Cỏ mùa xuân bị giẫm nát không hay

Chợt có lúc hai chân dừng một lượt

Người đi đâu ? Xưa chính đã chỗ này

(Mưa Nguồn)

"Cỏ mùa xuân" ấy phải chăng là Phật tính nguyên sơ, bản lai diện

mục, viên bảo châu vô giá mà tên cùng tử là ta đã lỡ đánh mất tự

bao giờ? Phải chăng đó là một nửa linh hồn của ta đã bị bỏ lại

trong nước xanh, khi ta bước lên bờ kiếp sống lãng du đau khổ,

để rồi thỉnh thoảng "giật mình mình lại thương mình xót xa", để

chợt có lúc đang đi bỗng dừng bước tự hỏi: ta đi đâu bây giờ. Và

một cảm giác cô đơn vô hạn bỗng trào dâng:

Cô độc là gì? còn nên nói

Vui là vui gượng với tri âm

. . .

Mắt xin khép vì nghe buồn bước tới

Từ bốn bên gió đẩy lại hoang liêu

(Mưa nguồn)

Giữa vũ trụ bao la, mỗi con người là một dấu chân lạc đà bé bỏng

trên sa mạc đã quên mất đường về chốn cũ:

Người đã định một lần thôi để hỏng

ðường vu vơ về chốn cũ trăm năm

Miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng

Bóng hình em tơi tả dưới trăng rằm

(Mưa nguồn)

Dù người ta có tìm cách lãng khuây trong men rượu, cuộc tình,

"Nó" vẫn thỉnh thoảng xuất hiện:

Hai người, nhưng chẳng bớt cô đơn

(Xuân Diệu)

Dập dìu bên liễu chùng buông

Tình chưa thoảng chợt tiếng buồn lại dâng

(Mưa nguồn)

Làm sao khuây khỏa được, khi ta đã đánh mất đi một nửa linh

hồn trong nước xanh để bước lên bờ đau khổ. Trong khổ làm gì

tìm thấy được hân hoan, Niết bàn thực sự. "Phật đã dạy, đời khổ

thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên" (Kinh Di Giáo). Quả

vậy cái vui của ta cũng chỉ là trá hình của đau khổ, là mặt trái

của đau khổ:

Tìm trong đau đớn có hân hoan?

Lạnh giá hay không giấc mộng vàng?

(Mưa nguồn)

Dù mộng có vàng son cách mấy thì cũng chỉ là mộng vô cùng

băng giá, và không thể tìm trong đau đớn mà có được nỗi hân

hoan. Cho nên thi nhân vẫn ôm mối hận không bao giờ thỏa

mãn:

Trời đất lạnh và lòng anh không thỏa

Gởi hồn đi phương hướng hút heo ngàn

Hồn ngơ ngác loay hoay về hỏi dạ

Có bao giờ dạ thỏa giữa không gian?

(Mưa nguồn)

Giữa cảnh xuân về rộn ràng oanh với yến, thi nhân cũng không

thể quên nỗi sầu vạn đại, nỗi mất mát khôn khuây vì "nửa linh

hồn" đã "bỏ nước xanh lên bờ"

Lệ đã chảy ròng ròng rớt xuống

Với xuân về oanh yến rộn bên tai

Em quốc sắc em thiên hương đã uổng

Làm sao khuây khỏa hận của thiên tài

(Mưa nguồn)

Làm sao không đau khổ khi thấy rõ rằng tất cả chỉ là sương với

bóng, ảo và mộng:

Sương với bóng bay về trên cỏ nội

Bủa mịt mờ ảo mộng lạnh bốn bên

(Mưa nguồn)

ðó là một nỗi ray rứt khó chịu, khi mọi vẻ đẹp của cuộc đời đều

mong manh hư ảo, càng đẹp càng như là không thật có, và càng

mau tuột khỏi tầm tay hạnh phúc bao giờ cũng mơ màng như sắc

như không, như vang như bóng, luôn luôn mang theo nó-như trái

cây mang hột giống-bóng tối của đau khổ và huyễn mộng:

Chiều bên lá lung lay vàng cửa khép

Bóng trời sa trùm phủ tiếng em cười

(Mưa nguồn)

Làm sao không đau đó khi ta phải sống mà không biết tí gì về

chính mình, về ngọn nguồn của sống chết, của khổ đau và hạnh

phúc, của tất cả mọi sự:

Trời, thuở đó ngần nào em khổ sở

Khóc khi nhìn gió thổi nước sương buông

Tìm xa vắng bên kia bờ đổ vỡ

Dòng sông đâu em có biết ngọn nguồn?

(Mưa nguồn)

Ấy vậy mà cuộc đời đâu có để cho ta dừng lại tìm hiểu hỏi han

cho ra lẽ. Nó cứ tiếp tục chảy tuôn, thời gian cuồn cuộn như thác

đổ trên đầu ta, để vào một buổi sáng đẹp trời, nhìn vào gương ta

bỗng thấy tóc ta đã trắng bạc:

Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai

Bôn lưu đáo hải bất phục hồi

Hựu bất kiến cao đường minh cảnh bi bạch phát

Triêu như thanh ty, mộ thành tuyết?

(Lý Bạch)

Không tránh khỏi cái lúc ta phải đứng dừng lại ngạc nhiên tự hỏi:

Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy

ðời chúng ta là mấy trăng tròn

(Mưa nguồn)

Và đau khổ chợt thấy:

thiều quang tan biến vội sao mà

(Mưa nguồn)

Trong dòng sống vô thường ấy, từ vật chất đến linh hồn, thân và

tâm, cảnh và người, không lúc nào dừng trụ. ðây chính là hành

khổ trong giáo lý Phật. Mọi sự tuôn chảy như thác lũ, từ cuộc dâu

bể của cảnh vật:

Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai

ðêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

(Tú Xương)

đến cuộc dâu bể của nội tâm, "không bao giờ ta gặp lại tâm hồn

ta chiều nay" (Nous n’aurons jamais plus notre âme de ce soir):

Em ngó buổi chiều buồn có phải

Buồn cũng như buồn những buổi chiều xưa

(Mưa nguồn)

Tuổi trẻ đi qua không bao giờ trở lại:

Những nhịp bước bên đường còn dội mãi

Vang về đâu không vọng lại hồi âm

. . .

Tóc xanh kỳ hẹn sai ngày

Khóc ngang ngửa mộng canh dài mấy phen

(Mưa Nguồn)

Kỳ hẹn dù có đúng ngày đi nữa cũng thành sai, bởi vì tới đó tóc

xanh đã trở màu, và mộng hóa ra ngang ngửa làm cho thi nhân

phải khóc:

Màu phương cảo pha mờ trên nét ngọc

Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai

(Mưa Nguồn)

Nẻo mộng cứ sai hoài, là vì "ngày theo tháng tiếng thương không

tiếng gọi", vì thời gian không chờ tuổi trẻ, vì "hồn nguyên tiêu ai

kiếm lại cho mình" và:

Xuân xanh xô cổng chạy dài

Bỏ sương tuyết phủ phương đài phía sau

. . .

vạn vật chờ nguồn nước lũ

Tự ngàn năm tuôn dạo tự khe rừng

(Mưa Nguồn)

Cuộc đời đã là mộng huyễn, "đất trích chiêm bao" thi cuộc tình

cũng chỉ là huyễn mộng, "yêu nhau là hẹn sai giờ ngó nhau". Quả

vậy không thể có tình yêu (theo nghĩa hẹp) khi con người quá

tỉnh giác bén nhạy trước cái mong manh hư ảo của cuộc đời, vì

vừa nhìn nhau một cái thì "mộng đã bước vào trong mơ": giây

phút hiện tại đã là mộng (vì không dừng trú), mà mộng đó đang

trôi qua, tiếp tục trôi mãi, rốt lại cuộc đời chỉ là mộng tiếp theo

mơ... Sở dĩ con người mê sắc là vì không thấy đúng như thật,

trông gà hóa cuốc, thấy bụi thành ra mây, và vì hẹn sai giờ ngó,

nêu ngó đúng thời nghĩa là vào cái lúc hoa tàn nhụy rữa, thì khó

mà mê cho nổi:

Nhìn nhau mộng đã bước vào trong mơ

Bụi bay là áng mây mờ

Yêu nhau là hẹn sai giờ ngó nhau

(Mưa Nguồn)

Bên cạnh nỗi khổ vì tính chất mộng ảo vô thường, còn có nỗi hoại

khổ của tử biệt sinh ly, của sự "nửa chừng xuân thoắt gãy cành

thiên hương" vốn là đỂ tài cho bao thiên trường hận ca bất hủ của

loài người kim cổ:

Thiên trường địa cửu hữu thời tận

Thử hận mang mang vô tuyệt kỳ

(Trường hận ca)

ðó là cái hận khi:

Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt

Hết mấy phen buồn trở lại bên đời

(Mưa Nguồn)

ðó là nỗi khổ của cảnh:

ðầu mùa trăng rạng tỏ

Hoa bướm vội tan lìa

(Mưa Nguồn)

Và của cảnh:

Em chết bên bờ lúa

ðể lại trên đường mòn

Một dấu chân bước của

Một bàn chân bé con

(Mưa Nguồn)

Trước nỗi đời thê thảm vì tất cả đều tuột khỏi tay ta: tuổi trẻ,

hạnh phúc, sắc màu, bóng dáng... thi nhân phản ứng bằng một

cuộc sống vội vàng bởi vì biết rõ:

Một phút nữa thôi

Và màu sẽ mất

Suối sẽ xa đời

Như mây xa đất

(Màu thanh thiên mở)

Vì biết rõ "Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại, tôi sẽ đi và chưa biết đi

đâu" nên thi nhân yêu đời say đắm:

Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyện vẹn

Hết tâm hồn và hết cả da xương

(Phụng Hiến)

Nhưng càng yêu đời thì càng thấm thía nỗi khổ của sự chết chóc:

Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết

Sẽ rồi ra vĩnh biệt với người thôi

Ta chết lặng bó tay đầu lắc

ðài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi

(Phụng Hiến)

Cái chết rút về số không tất cả mọi nỗ lực của con người, nó là vố

đấm chí tử cuối cùng của khổ để, làm cho câu hỏi về bí ẩn của

cuộc đời chẳng bao giờ được trả lời thỏa đáng:

Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại

Chẳng bao giờ thỏa đáng giữa đời câm

Em ngó mãi những chiều về trở lại

Mang những gì về trong cõi trăm năm.

(Chiều)

Mang được những gì về, nếu không là cái Không lớn rộng?

Cảm thụ sâu xa tính chất vô thường, khổ, không của cuộc đời, thi

nhân tìm lối thoát ra khỏi tuyệt vọng. Lối thoát đó trước nhất và

cuối cùng đối với ông là nghệ thuật, là thơ. Khi thi sĩ thở than về

nỗi mất mát của tuổi trẻ, hạnh phúc, của chính sự sống, Cuộc ðời

bèn an ủi ông rằng không nên tuyệt vọng:

Em bảo rằng: đừng tuyệt vọng nghe không

Còn trang thơ thắm lại với trời hồng

(Phụng Hiến)

Nghệ thuật và thi ca sẽ có thể diễn đạt tất cả nỗi đau khổ phù du

mộng ảo của kiếp nhân sinh. Với thi ca cái vô thường sẽ được làm

cho trường cửu, cái chết và nỗi khổ sẽ trở thành bất tử. Khổ

không còn là khổ khi nó trở thành đối tượng khách quan của nghệ

thuật. Muôn đời người ca kỹ bến Tầm Dương vẫn còn đang gảy

khúc Tỳ bà, chiếc áo xanh của quan Tư mã đất Giang Châu cho

đến ngày nay vẫn chưa ráo lệ. Ngày xưa người chinh phụ bẻ cành

liễu tiễn chồng, thì ngày nay sự biệt ly ấy vẫn còn tiếp diễn, dù

cảnh và người có khác. Cái cảnh đời phù du, hạnh phúc chóng tàn

cũng vậy, không bao giờ thay đổi.

Tranh Chợ Tết

Tết xưa trong tranh ðông Hồ, Hàng Trống

Trang Thanh Hiền

Thú chơi tranh Tết từ xa xưa đã trở thành một phong tục đẹp của người dân Việt. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền cũng là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh sâu sắc.

Cái rộn ràng của những bức múa rồng, tưng bừng của những bức múa Lân, trên nền điệp, giấy điều, như vang vọng một câu ca dao nhà nào còn đèn còn lửa/ mở cửa tôi vào/ bước lên gò cao có con rồng ấp/ bước xuống gò thấp/ có con rồng chầu/ bước ra đàng sau có nhà ngói lợp” của một trò chơi dân gian trong dịp Tết. Tranh dân gian có thể chơi, treo quanh năm, nhưng có lẽ nó vẫn được thịnh hành nhất trong dịp Tết, khi người ta có một khoảng thời gian dài rộng nhất để thư giãn, để chiêm nghiệm cũng như để thưởng ngoạn. ðề tài về Tết trên các tác phẩm tranh ðông hồ, Hàng trống là phong phú nhất.

Múa rồng.

Không phải là sự minh họa về ngày Tết, mà các tranh dân gian này là sự gửi gắm, là lời chúc phúc những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới một năm phát tài phát lộc. Bằng những hình ảnh biểu tượng rất dân giã gần gũi nhưng lại chứa đựng những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Như Tiến Tài, Tiến Lộc, luôn được người dán ở cổng để mời gọi thần tài đến nhà. Bộ tranh Phúc -Thọ với câu chúc “Phúc Như ðông Hải” và “Thọ Tỷ Nam Sơn”, là những chữ được viết lấy hình sau đó trong các chữ lại được minh hoạ cho nội dung câu chúc. ðây cũng là cách thức chơi thư họa đồng nguyên của người Việt. Nhiều bức chữ Phúc được khắc vẽ một cách rất cầu kỳ có tới 24 hình ảnh về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, hay trong chữ Thọ có vẽ tới 28 chòm sao. Những bộ tứ bình như Xuân Hạ Thu ðông, hay bốn cô tố nữ, chơi đàn sênh, sáo, nhị lại là một nét tao nhã khác của những bức tranh Tết. Chúng kết hợp với thú chơi cây cảnh, chơi hoa, khiến không gian ngày tết có nét đặc biệt sang trọng khác thường ngày.

Lý ngư vọng nguyệt.

Tuy nhiên, chơi tranh Tết không chỉ là mang niềm vui cho cả năm, mà người Việt chơi tranh còn gửi vào đó những triết lý tế nhị. Tranh Lý ngư vọng nguyệt là một ví dụ điển hình về cái triết lý âm dương. Nó được thể hiện ngay trong cái uốn mình của con cá tạo thành hình lưỡng cực chữ S. Con cá trông trăng ở đây không phải là trông khuôn trăng hiện trên trời, mà là ánh trăng in dưới nước. Sự đối nhau của hai cái vòng tròn đầy ẩn ý này đã kiến tạo nên hai cái nhân của đồ hình lưỡng cực, tức trong âm có dương, trong dương có âm. Cái màu xanh mát mắt, cái hình con cá bơi uyển chuyển có lẽ chỉ là cái cớ để chuyển tải cảm xúc về thiên nhiên, mà cái ý nghĩa về sự hòa hợp âm dương mới là cái ẩn tàng mà người xưa muốn gửi gắm. Nó cũng mang lời chúc cho một mùa xuân mới hòa hợp thịnh vượng.

Phú quý.

Nếu văn hóa Trung Hoa đề cao chữ hơn tranh, thì tranh Tết Việt Nam cái giản dị hồn hậu chính là biểu tượng của hình ảnh. Hình ảnh mới làm nên cái thần hồn của những câu chúc năm mới. Những đứa trẻ bụ bẫm trong bộ đôi tranh Vinh hoa, Phú quý hay lợn đàn, gà đàn. Các dòng chữ Hán xuất hiện trên tranh nhiều khi chỉ mang tính điểm xuyết cho bố cục hay tiêu đề bức tranh. Tuy nhiên cái tiêu đề đó cũng được người Việt diễn “Nôm” cho dễ hiểu dễ nhớ, như Vinh hoa, Phú quí được gọi là em bé ôm con gà, ôm vịt, vừa gần gũi mà cũng rất dễ hình dung. Mặc dầu các tác phẩm này mượn tứ từ các tác phẩm tranh dân gian Trung Quốc, nhưng trên đó người ta vẫn nhận ra cái tâm hồn của người Việt, rất trong trẻo, thuần khiết. Con gà là biểu tượng cho lòng dũng cảm

và năm đức tính quí của con người, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, Con Vịt biểu tượng cho sự sung túc ấm no.

Vinh hoa.

Ngoài bộ tranh Vinh Hoa, Phú quý, còn là bộ đôi tranh Nhân nghĩalà em bé ôm con cóc, và Lễ trí là bé gái ôm con rùa. ðây là những tác phẩm hoàn toàn do người Việt nam sáng tạo nên. Con cóc trong dân gian là con vật nhỏ bé nhưng dũng cảm, nhân nghĩa và tinh khôn, biểu lộ trong cổ tích “con cóc là cậu ông Giời”. Nên bé trai ôm cóc chính là ôm cái chí khí của cóc, cái nhân nghĩa của cóc, cái gan dạ của cóc. ðồng thời người ta cũng muốn gửi gắm niềm mong ước đứa trẻ lớn lên có được các đức tính tốt đẹp đó. Còn con rùa là biểu tượng sống lâu, cao quí bền vững, nó cũng là

con vật nằm trong tứ linh Long - Ly –Quy – Phượng. Hình tượng bé ôm rùa là hình tượng mong gìn giữ một giá trị tường tồn: Lễ -Trí.

Cái tết trên tranh tết, không những được thể hiện trên các đề tài của các tờ tranh mà còn thể hiện chính trong các màu sắc của tranh. Như sắc đỏ của son hay chu sa, trên các tranh gà lợn, được coi như điềm may mắn của người Việt. Cái sắc đỏ, sắc tía, trên cái nền điệp óng ánh dường như xua đi cái giá lạnh của mùa đông. Từ cái sắc đỏ trên những tờ tranh đến sắc hồng trên những bông hoa đào, sắc đỏ trên những đôi câu đối, khiến cho cảm giác Tết trở nên rộn ràng.

Nhân nghĩa.

Ngoài ra cái đậm đà của những nét đen, rực của vàng hoa hòe, thẫm của màu lục từ lá chàm, trắng lấy từ vỏ điệp… tuy đơn sắc nhưng khi được in chồng nhiều lớp lên nhau lại tạo nên những hiệu ứng khác, không chói lói mà đầm ấm vui tươi, như cái không khí của Tết vậy. Màu sắc này ngoài giá trị tạo ra những sắc thái hòa hợp tươi mới, mà nó còn là năm sắc của ngũ hành, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. ðầu xuân cũng là thời điểm khởi phát của những nhân tố này, nên sự hòa hợp của chúng trên những tờ tranh dán trên vách cũng khiến gia chủ nhận thêm vào nhà cái không khí bừng khởi của đất trời sang xuân.

Làng Hồ mặc dầu không bán được tranh nhộn nhịp như xưa kia vào những dịp xuân sang tết đến, mà họ túc tắc bán tranh quanh năm cho những du khách về thăm làng. Nghệ nhân Hàng trống chỉ còn duy nhất một hậu duệ biết làm tranh là ông Lê ðình Nghiêm. Và mặc dầu trong những năm gần đây thú chơi tranh Tết của người Việt không còn thuần nhất như cái Tết cổ truyền xa xưa. Các tranh in sẵn của Trung Quốc thay thế cho Vinh Hoa,Phú quý bằng những tranh em bé ôm thỏi vàng, Lý Ngư Vọng Nguyệt là tranh cá, tranh rồng chế tác bằng vi tính rất hào nhoáng. Tuy nhiên đối với những người sành chơi, thì các tranh dân gian Việt Nam vẫn là những tác phẩm vừa giản dị, mà lại mang những nét đẹp tinh tế. Việc đóng khung tre cho những bức tranh dân gian ðông Hồ là một cách thức mới để họ có thể tìm được sự hoà hợp giữa cái truyền thống và khung cảnh của một phòng khách hiện đại. Nó cho thấy cái chân giá trị, cái tinh cái quí sẽ vẫn luôn được bảo tồn như thể truyền thống luôn chảy trong huyết quản của mỗi con người Việt Nam.