Đồi chè anh sơn - nghệ an mỘt sỐ vẤn ĐỀ trong sẢn xuẤt ... nctd_04.pdf · tạp...

4
Tạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 5/2016 [43] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN VÀ TIÊU THỤ CHÈ Ở NGHỆ AN n Nguyễn Thị Trang Thanh Trường Đại học Vinh 1. Tình hình sản xuất chè Diện tích chè Nghệ An tăng nhanh từ 3.678ha năm 2000 lên 7.851ha năm 2010 và 7.056ha năm 2014. Chè được trồng tập trung ở 6 huyện miền núi phía Tây Nam: Thanh Chương (4.136ha), Anh Sơn (2.001ha), Kỳ Sơn (423ha), Con Cuông (334ha), Quỳ Hợp và Quế Phong (243ha). Diện tích thu hoạch chè công nghiệp năm 2014 là 5.610ha. Diện tích trồng chè của tỉnh từ năm 2010 đến nay có xu hướng giảm do một số vườn chè đến thời kỳ đốn chặt, một phần do gặp nắng hạn. Năng suất chè tăng từ 56,7 tạ/ha năm 2002 tăng lên 66,4 tạ/ha năm 2005; 92,7 tạ/ha năm 2010 và đạt 113,2 tạ/ha năm 2014; cao nhất ở huyện Con Cuông (125,1 tạ/ha), Thanh Chương (119 tạ/ha). Một số vùng chè nguyên liệu ở Hạnh Lâm, Ngọc Lâm, Bãi Phủ, Thanh Mai có năng suất cao 200-250 tạ/ha. Cùng với việc mở rộng diện tích, nâng cao năng suất, sản lượng chè cũng tăng hàng năm. Sản lượng chè tăng từ 11.984 tấn năm 2002 lên 55.028 tấn năm 2010 và đạt 63.480 tấn năm 2014. Tốc độ tăng sản lượng bình quân trong giai đoạn 2000-2014 là 16,5%/năm. Địa phương có sản lượng chè nhiều nhất là Thanh Chương, đạt 39.472 tấn, chiếm 62,2% sản lượng chè toàn tỉnh (năm 2014); tiếp đến huyện Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An Nghệ An, chè được xác định là một trong 12 cây công nghiệp chủ lực, có lợi thế trong nền kinh tế thị trường. Trong những năm qua, sản xuất chè của Nghệ An đã tăng cả về số lượng và chất lượng, hình thành được vùng chè công nghiệp tập trung gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, có sự liên kết của doanh nghiệp trong đầu tư sản xuất, thu mua, chế biến chè. Tuy nhiên, sản xuất chè ở Nghệ An còn nhiều hạn chế: diện tích chè trong các hộ dân còn manh mún, nhỏ lẻ; tốc độ mở rộng vùng nguyên liệu chậm, làm mất cân đối giữa công nghiệp chế biến và sản xuất nguyên liệu; hiện tượng tranh mua nguyên liệu vẫn thường xuyên xảy ra giữa các nhà máy và các cơ sở chế biến tư nhân; chất lượng nguyên liệu chưa đồng đều, chất lượng sản phẩm còn nhiều hạn chế… Vì vậy, tìm hiểu thực trạng, mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bền vững sản xuất chè ở Nghệ An là rất cần thiết.

Upload: others

Post on 15-Sep-2019

11 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG SẢN XUẤT ... NCTD_04.pdf · tạp chí kh-cn nghệ an sỐ 5/2016 [43] nghiÊn cỨu - trao ĐỔi mỘt sỐ vẤn

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 5/2016 [43]

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾNVÀ TIÊU THỤ CHÈ Ở NGHỆ AN

n Nguyễn Thị Trang ThanhTrường Đại học Vinh 1. Tình hình sản xuất chè

Diện tích chè Nghệ An tăng nhanh từ3.678ha năm 2000 lên 7.851ha năm 2010 và7.056ha năm 2014. Chè được trồng tập trung ở6 huyện miền núi phía Tây Nam: ThanhChương (4.136ha), Anh Sơn (2.001ha), Kỳ Sơn(423ha), Con Cuông (334ha), Quỳ Hợp và QuếPhong (243ha). Diện tích thu hoạch chè côngnghiệp năm 2014 là 5.610ha. Diện tích trồngchè của tỉnh từ năm 2010 đến nay có xu hướnggiảm do một số vườn chè đến thời kỳ đốn chặt,một phần do gặp nắng hạn.

Năng suất chè tăng từ 56,7 tạ/ha năm 2002tăng lên 66,4 tạ/ha năm 2005; 92,7 tạ/ha năm2010 và đạt 113,2 tạ/ha năm 2014; cao nhất ởhuyện Con Cuông (125,1 tạ/ha), Thanh Chương(119 tạ/ha). Một số vùng chè nguyên liệu ởHạnh Lâm, Ngọc Lâm, Bãi Phủ, Thanh Mai cónăng suất cao 200-250 tạ/ha.

Cùng với việc mở rộng diện tích, nâng caonăng suất, sản lượng chè cũng tăng hàng năm.Sản lượng chè tăng từ 11.984 tấn năm 2002 lên55.028 tấn năm 2010 và đạt 63.480 tấn năm2014. Tốc độ tăng sản lượng bình quân tronggiai đoạn 2000-2014 là 16,5%/năm. Địaphương có sản lượng chè nhiều nhất là ThanhChương, đạt 39.472 tấn, chiếm 62,2% sảnlượng chè toàn tỉnh (năm 2014); tiếp đến huyện

Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An

Ở Nghệ An, chè được xác định là mộttrong 12 cây công nghiệp chủ lực, cólợi thế trong nền kinh tế thị trường.

Trong những năm qua, sản xuất chè của Nghệ Anđã tăng cả về số lượng và chất lượng, hình thànhđược vùng chè công nghiệp tập trung gắn với chếbiến, tiêu thụ sản phẩm, có sự liên kết của doanhnghiệp trong đầu tư sản xuất, thu mua, chế biếnchè. Tuy nhiên, sản xuất chè ở Nghệ An còn nhiềuhạn chế: diện tích chè trong các hộ dân còn manhmún, nhỏ lẻ; tốc độ mở rộng vùng nguyên liệuchậm, làm mất cân đối giữa công nghiệp chế biếnvà sản xuất nguyên liệu; hiện tượng tranh muanguyên liệu vẫn thường xuyên xảy ra giữa các nhàmáy và các cơ sở chế biến tư nhân; chất lượngnguyên liệu chưa đồng đều, chất lượng sản phẩmcòn nhiều hạn chế… Vì vậy, tìm hiểu thực trạng,mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, từđó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bềnvững sản xuất chè ở Nghệ An là rất cần thiết.

Page 2: Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG SẢN XUẤT ... NCTD_04.pdf · tạp chí kh-cn nghệ an sỐ 5/2016 [43] nghiÊn cỨu - trao ĐỔi mỘt sỐ vẤn

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 5/2016 [44]

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Anh Sơn 12.126 tấn, chiếm19,1%; huyện Kỳ Sơn 3.506 tấn;huyện Con Cuông 3.339 tấn;huyện Quỳ Hợp 990 tấn.

Cơ cấu giống chè của tỉnh đãcó sự thay đổi cơ bản, các giốngchè có năng suất thấp, chất lượngkhông đảm bảo được thay thếbằng các giống chè có năng suấtcao, chất lượng tốt và trồng bằngphương pháp dâm cành. Cơ cấugiống chè trước năm 2010 củatỉnh bao gồm: giống LDP1,LDP2 chiếm 57,5%; giống PH1chiếm 31,45%, tập trung ở vùngThanh Chương; giống Shan tuyếtchiếm 5,21%; giống Trung duchiếm 5,83%. Hiện nay, trên địabàn tỉnh phát triển giống chèchính là LDP1, LDP2 chịu hạntốt, năng suất cao, phù hợp vớiđiều kiện đất đai, khí hậu củatỉnh. Năm 2014, giống chèLDP1,2 có diện tích trên6.216,99 ha, chiếm 88,1% tổngdiện tích trồng chè toàn tỉnh, tậptrung chủ yếu ở huyện ThanhChương, Anh Sơn; Giống chèShan chiếm 6% tổng diện tích,chỉ trồng ở huyện Kỳ Sơn; GiốngPH1 giảm diện tích nhanh, chỉcòn 239,7ha, chiếm 3,4% do khảnăng chịu hạn, nóng kém.

Từ năm 2006, sản xuất và thuhái chè bắt đầu được cơ giới hóatừ khâu làm đất đến thu hoạch.Số lượng máy hái chè tăngnhanh. Năm 2011, cả tỉnh cókhoảng 685 máy hái chè, trongđó huyện Anh Sơn có 150 máy,huyện Thanh Chương có 200máy, các xí nghiệp chè có 300máy, Tổng đội Thanh niên xungphong 1 (TNXP) có 20 máy,Tổng đội THXP 2 có 15 máy.Đến năm 2014, toàn tỉnh đã cótrên 1.100 máy hái chè, trong đóCông ty TNHH MTV Đầu tư vàphát triển chè Nghệ An có nhiềunhất với 950 máy. Công nghệ hái

chè bằng máy đến nay đã đượcáp dụng rộng rãi, giúp người dângiảm được công lao động, hiệuquả sản xuất tăng lên rõ rệt.

2. Thực trạng chế biến chèToàn tỉnh hiện nay có 86 cơ sở

chế biến với tổng công suất thiếtkế 527 tấn búp tươi/ngày, với nhucầu lượng nguyên liệu chế biến là120.000 tấn/năm (thời gian chếbiến 230 ngày/năm). Trong đó:Công ty TNHH MTV Đầu tư vàPhát triển chè Nghệ An có 4 dâychuyền chè CTC và 9 dây chuyềnchè xanh, công suất chế biến thiếtkế là 243 tấn/ngày, khả năng chếbiến 55.000-60.000 tấn búptươi/năm (thời gian chế biến 230ngày/năm), tương đương 10.000-12.000 tấn chè khô/năm. Sảnphẩm chè CTC chiếm 40%, chèxanh chiếm 60%. Công ty TNHHChè Trường Thịnh có 2 dâychuyền chế biến với công suấtchế biến thiết kế là 28 tấn búptươi/ngày. Trong đó, 1 dâychuyền chế biến chè xanh côngsuất 12 tấn/ngày và 1 dây chuyềnchế biến chè đen công suất 16tấn/ngày. Công ty Cổ phần RồngPhương Đông có 2 dây chuyềnchế biến với công suất chế biếnthiết kế là 24 tấn búp tươi/ngày.Trong đó, 1 dây chuyền chế biếnchè xanh công suất 12 tấn búptươi/ngày và 1 dây chuyền chếbiến chè đen công suất 12 tấnbúp tươi/ngày. Công ty TNHHNông nghiệp MTV 3/2 có 1 dâychuyền chế biến chè xanh vớicông suất thiết kế là 15 tấn búptươi/ngày. Ngoài ra còn có 75 cơsở chế biến nhỏ lẻ với tổng côngsuất chế biến chè xanh thiết kế là217 tấn/ngày (bình quân 01 cơ sởcó công suất chế biến 03 tấn búptươi/ngày). Hiện nay, Công tyTNHH MTV Đầu tư và Pháttriển chè Nghệ An đạt 58% côngsuất thiết kế, các cơ sở chế biến

chè còn lại chỉ đạt 40-45% côngsuất thiết kế.

Sản lượng và giá trị sản xuấtchè tăng lên không ngừng trongnhững năm qua. Năm 2010, sảnlượng chè búp khô toàn tỉnh đạt10.010 tấn, giá trị sản xuất đạt218.518 triệu đồng. Năm 2014,sản lượng chè búp khô đạt 11.542tấn, giá trị sản xuất đạt 261.768triệu đồng, trong đó chế biến chètại các công ty và tổng đội chiếm62% tổng sản lượng chè khô,64,7% giá trị sản xuất chè toàntỉnh, sản lượng còn lại thuộc cáccơ sở chế biến nhỏ lẻ.

3. Thực trạng tiêu thụ chèSản phẩm chè ở Nghệ An

được tiêu thụ trong nước và xuấtkhẩu sang các nước khác như:Pakistan, Nga, Ba Lan, TrungQuốc và Phần Lan. Sản lượngchè xuất khẩu hàng năm củaNghệ An trung bình từ 4-5 nghìntấn, phụ thuộc vào nhu cầu thịtrường, chiếm khoảng 35-55%tổng sản lượng chè của tỉnh. Năm2007, xuất khẩu 5.500 tấn, kimngạch xuất khẩu đạt trên 5,7 triệuUSD. Năm 2010, xuất khẩu5.379 tấn, chiếm 53,7% sảnlượng chè toàn tỉnh, kim ngạchxuất khẩu đạt 5,16 triệu USD.Năm 2014, xuất khẩu 4.221 tấn,chiếm 36,6%, giá trị xuất khẩuđạt 6,46 triệu USD.

Các công ty chế biến chè chủyếu để xuất khẩu, còn các cơ sởchế biến nhỏ lẻ chủ yếu tiêu thụtrong nước. Sản lượng chè xuấtkhẩu của tỉnh phần lớn là củaCông ty TNHH MTV Đầu tư vàPhát triển chè Nghệ An. Năm2010, sản lượng chè xuất khẩucủa Công ty là 4.800 tấn, chiếm89,2% tổng sản lượng chè xuấtkhẩu của Nghệ An. Năm 2014,sản lượng xuất khẩu là 3.680,chiếm 87,2%. Các công ty tưnhân khác, sản lượng chè xuất

Page 3: Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG SẢN XUẤT ... NCTD_04.pdf · tạp chí kh-cn nghệ an sỐ 5/2016 [43] nghiÊn cỨu - trao ĐỔi mỘt sỐ vẤn

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 5/2016 [45]

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

khẩu nhỏ, không ổn định. Trongnăm 2014, có 2 công ty tư nhânmới thành lập và tham gia vàoxuất khẩu chè nhưng sản lượngkhông nhiều, đó là Công ty chèThành Đạt và Công ty nôngphẩm AGRONA.

Thị trường xuất khẩu củaNghệ An chủ yếu là các nướcTrung Âu, Đông Âu và một sốquốc gia khác. Trong đó, Pakistan,Apganixtan, Ba Lan và Liênbang Nga là những bạn hàngtruyền thống với sản lượng xuấtkhẩu chè nhiều và tương đối ổnđịnh. Năm 2014, giá trị xuất khẩuchè sang nước Pakixtan đạt2.874,7 nghìn USD, chiếm44,5% giá trị xuất khẩu chè củatoàn tỉnh; Tiếp đến là nước Ap-ganixtan, chiếm 18,6% giá trị chèxuất khẩu. Cùng với chiến lượcmở rộng thị trường, chè củaNghệ An đã xuất khẩu sang mộtsố các nước khác như TrungQuốc, Anh, Israel, Iran và ĐàiLoan. Sản lượng chè xuất khẩusang những nước này chưa nhiều,tuy nhiên đây là dấu hiệu đángmừng trong việc phát triển thịtrường xuất khẩu chè trong giaiđoạn tới.

Tuy nhiên, giá trị chè xuấtkhẩu của Nghệ An không ổn định,phụ thuộc nhiều vào thị trường thếgiới. Các thị trường xuất khẩu chètruyền thống của Nghệ An đangthu hẹp dần. Giá trị chè xuất khẩusang Nga và Ba Lan giảm nhanhtừ năm 2012 đến nay. Từ năm2011, Phần Lan thì không nhậpkhẩu chè của Nghệ An.

Về thị trường trong nước, chècủa Nghệ An tiêu thụ nhiều,nhưng giá trị thấp do chủ yếu làsơ chế. Năm 2010, sản lượng chètiêu thụ trong nước là 4.631 tấn,chiếm 46,3% tổng sản lượng chè;năm 2014 là 7.321 tấn, chiếm63,4%. Sản phẩm gồm chè xanh

rời, chè xanh đóng gói, chè hoasen, chè túi lọc… được tiêu thụcho Hải Phòng, Hà Nội, thànhphố Hồ Chí Minh và nội tỉnh.Hiện nay, thương hiệu chè NghệAn tiêu thụ trong nước chỉ mớicó chè Kim Liên của Công tyTNHH MTV Đầu tư và Pháttriển Chè Nghệ An. Phần lớnlượng chè bán cho các thương láiở các tỉnh khác với giá thành rấtthấp (chỉ khoảng 40.000 đồng/kgchè khô), sau đó được chế biếnlại và đóng gói với nhãn máckhác. Còn thương hiệu chè NghệAn hầu như tiêu thụ rất ít, ngaycả thị trường nội tỉnh.

4. Đánh giá chung4.1. Những thành tựuSản xuất chè đã tạo việc làm,

tăng thu nhập cho người dân,khai thác có hiệu quả quỹ đất, tạoviệc làm ổn định cho khoảng trên20.000 lao động, góp phần pháttriển kinh tế - xã hội của tỉnhcũng như trên địa bàn các huyệnmiền Tây. Phát triển vùng chuyêncanh chè đã huy động được nhiềuthành phần kinh tế tham gia sảnxuất, kinh doanh nông nghiệp,đặc biệt là việc phát huy vai trò

của các doanh nghiệp nôngnghiệp trong nền kinh tế thịtrường. Việc ứng dụng tiến bộkhoa học kỹ thuật vào sản xuấtngày càng được đẩy mạnh, nhưtiêu chuẩn VietGap, thủy lợi tưới,cơ giới hóa, nhất là khâu thuhoạch chè, đổi mới công nghệchế biến..., qua đó nâng cao năngsuất, chất lượng chè, năng suấtlao động và giá trị sản xuất.

Trong sản xuất chè đã hìnhthành mối liên kết giữa sản xuấtvà chế biến, giữa hộ nông dân vàdoanh nghiệp, nhà nước tạochuỗi giá trị sản xuất chè ổn định.Sản lượng chè trong chuỗi nàychủ yếu xuất khẩu sang nướcngoài. Hàng năm, giá trị chè xuấtkhẩu đạt từ 6-7 triệu USD. Năm2010, giá trị xuất khẩu chè củaNghệ An chiếm 3,7% giá trị xuấtkhẩu hàng hóa của toàn tỉnh vànăm 2014 là 1,7%. Mặc dù giá trịxuất khẩu chưa nhiều, nhưng đâycũng là mặt hàng tiềm năng củatỉnh trong thời gian tới.

Chè được trồng tập trung ởnhững vùng đồi núi, góp phầnphủ xanh đất trống đồi núi trọc,chống xói mòn rửa trôi, bảo vệ

Dây chuyền chế biến chè thành phẩm của Công ty Đầu tư phát triển chè Nghệ An

Page 4: Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG SẢN XUẤT ... NCTD_04.pdf · tạp chí kh-cn nghệ an sỐ 5/2016 [43] nghiÊn cỨu - trao ĐỔi mỘt sỐ vẤn

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 5/2016 [46]

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

môi trường sinh thái. Mặt khác,phát triển vùng chuyên canh chè,thúc đẩy nông nghiệp miền núiphát triển, xóa đói, giảm nghèo,nâng cao thu nhập của người dân.

4.2. Tồn tại, hạn chế Tuy đã đạt được nhiều kết quả

quan trọng, nhưng sản xuất chè ởNghệ An đang bộc lộ nhiều tồntại, hạn chế:

Diện tích chè hiện nay đạtđược còn thấp so với mục tiêu vàquy hoạch phát triển đã được phêduyệt. Nguyên nhân do khí hậuthời tiết diễn biến bất thường, chiphí sản xuất tăng cao, trong khihiệu quả sản xuất chè còn thấpnên người trồng chè không mặnmà trong việc đầu tư mở rộngdiện tích. Một số diện tích quyhoạch trồng chè bị cạnh tranh bởicác cây trồng khác như mía, sắnvà trồng rừng nguyên liệu. Quỹđất của các doanh nghiệp khôngcòn nhiều để mở rộng diện tích,trong khi việc liên kết giữa cácdoanh nghiệp với người trồngchè để đầu tư mở rộng diện tíchgặp khó khăn do thiếu cơ chếràng buộc. Một số doanh nghiệpkhông thực hiện đầu tư vùngnguyên liệu như đã cam kết trongdự án đầu tư. Diện tích chè tronghộ dân manh mún, nhỏ lẻ nênkhó khăn trong việc ứng dụngkhoa học kỹ thuật vào sản xuất,đầu tư thâm canh.

Việc tổ chức sản xuất và quảnlý ngành chè còn nhiều bất cập.Trong đó, vấn đề nổi cộm nhất làmất cân đối giữa công nghiệp chếbiến và sản xuất nguyên liệu, phávỡ các mối quan hệ hợp tác, liênkết giữa sản xuất nguyên liệu,chế biến và tiêu thụ đã được hìnhthành lâu nay. Nguyên nhân dovùng nguyên liệu phát triểnchậm, trong khi các cơ sở chếbiến nhỏ lẻ trong vùng mọc lên ồạt không theo quy hoạch. Hiện

tại, toàn tỉnh có 75 cơ sở chế biếnnhỏ lẻ với công suất 217tấn/ngày. Thực tế hiện naynguyên liệu chỉ đáp ứng được 40-45% công suất chế biến. Sự mấtcân đối giữa công nghiệp chếbiến và sản xuất nguyên liệu đãdẫn đến tranh mua, tranh bánnguyên liệu giữa các cơ sở chếbiến làm mất ổn định thị trường.Các cơ sở chế biến nhỏ lẻ khôngcó vùng nguyên liệu, khi thịtrường thuận lợi thì tranh muanguyên liệu, đẩy giá thu mua lêncao, tạo sự hỗn loạn trên thịtrường; khi thị trường khó khănthì không tham gia thu mua dẫnđến hiện tượng nguyên liệu chèdư thừa cục bộ, gây khó khăn chongười sản xuất chè.

Việc thu hái chè không đúngquy trình không những ảnhhưởng đến chất lượng nguyênliệu mà còn ảnh hưởng lớn đếnsự phát triển bền vững của vườnchè, ảnh hưởng trực tiếp đến cácvụ thu hoạch sau.

Các cơ sở chế biến nhỏ lẻkhông đảm bảo các điều kiện vềvệ sinh an toàn thực phẩm, khôngđáp ứng được các tiêu chuẩn, quychuẩn theo quy định, nên sảnphẩm chế biến ra có chất lượngthấp. Do đó, sản phẩm chè NghệAn không chỉ khó xâm nhập vàocác thị trường tiềm năng có giátrị cao như: Tây Âu, Bắc Âu,Nhật Bản và Bắc Mỹ... mà còn cónguy cơ bị mất thị phần các thịtrường truyền thống như: Nga,các nước Đông Âu, Đài Loan...

Sự phối hợp giữa doanhnghiệp kinh doanh chè và một sốđơn vị, địa phương chưa thật chặtchẽ trong cả việc thực hiện kếhoạch trồng mới cũng như tổchức thu mua nguyên liệu. Hìnhthức liên kết giữa người sản xuất,nhà chế biến và tiêu thụ sảnphẩm chè vẫn bộc lộ những hạn

chế. Các chế tài ràng buộc sự liênkết lỏng lẻo, quy mô liên kết nhỏhẹp, một số doanh nghiệp chưathực sự quan tâm và chia sẻ lợiích với nông dân nên thiếu tínhbền vững... Một số hộ trồng chèvì lợi ích trước mắt sẵn sàng thuhái nguyên liệu không đạt tiêuchuẩn và bán cho cơ sở chế biếnkhông đầu tư vùng nguyên liệuđể lấy tiền và trốn nợ đầu tư củacác đơn vị đã đầu tư vùng nguyênliệu, làm cho chất lượng nguyênliệu, sản phẩm chè thấp. Dẫn đếncạnh tranh thiếu lành mạnh giữacác doanh nghiệp, làm mất ổnđịnh của ngành chè.

Trong những năm qua, NghệAn đã có nhiều chính sách hỗ trợphát triển cây chè và sản phẩmchè. Tuy nhiên, những chính sáchvẫn chủ yếu hỗ trợ ở khâu đầuvào, chưa chú trọng đến sảnphẩm đầu ra, nên chưa mang lạihiệu quả như mong muốn.

5. Một số giải pháp thúc đẩysản xuất chè bền vững

Để có thể sản xuất chè bềnvững, tạo ra sản phẩm xuất khẩucó giá trị trên thị trường thế giới,UBND tỉnh cần:

Tăng cường công tác chỉ đạo,kiểm tra việc thực hiện quy hoạchphát triển chè công nghiệp đã đượcphê duyệt. Rà soát quỹ đất, xâydựng dự án/kế hoạch chi tiết đầu tưphát triển vùng nguyên liệu chètrên địa bàn, đặc biệt là các vùngsản xuất chè an toàn. Rà soát, điềuchỉnh quy hoạch cơ sở chế biếnchè, đảm bảo cân đối giữa sản xuấtnguyên liệu với công nghiệp chếbiến. Tiến hành phân vùng nguyênliệu cụ thể cho từng cơ sở chế biến.Hạn chế việc hình thành nhiều cơsở chế biến chè nhỏ lẻ không cóvùng nguyên liệu và công nghệ chếbiến không đồng đều, chất lượngsản phẩm không cao.

(Xem tiếp trang 49)