diến đàn văn nghệ việt nam - số 5/2013 - vanhien.vn
DESCRIPTION
Cơ quan ngôn luận của Liên hiepj các hội văn học nghệ thuật Việt Nam.TRANSCRIPT
TRỮ TÌNH NGOẠI ĐỀ TRONG TRUYỆN KIỀU
VÀ NHỮNG ĐOẢN KHÚC BUỒN CỦA THƠ MỚI
Lý Hoài Thu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
N. D
Truyện Kiều là một tác phẩm có gốc tích từ Trung Hoa. Khi chuyển hoá Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân vào hình hài của một truyện thơ Nôm,
dù muốn dù không, về cơ bản Nguyễn Du vẫn tuân theo những diễn biến tự sự của
cốt truyện và đường đời nhân vật. Dễ nhận thấy ở đây không có sự phá vỡ mô
hình của một câu chuyện có đầu có cuối, có mở có kết, mà điểm nhìn, “vai giao
tiếp” của tác giả là kể chuyện theo ngôi thứ 3 không xưng danh: Trăm năm trong
cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau/ Trải qua một cuộc bể dâu/
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng/… Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh/… Có
nhà viên ngoại họ Vương v.v.… Song, nếu Nguyễn Du quá lệ thuộc, chỉ sa vào
mạch kể - tính chuyện của tác phẩm thì Truyện Kiều chẳng mấy khác biệt (sẽ có
cùng đẳng cấp) với những truyện thơ Nôm hữu danh và khuyết danh vốn quen
thuộc với tầm đón nhận và thị hiếu bình dân. Cái làm cho Truyện Kiều trở thành
kiệt tác và Nguyễn Du trở thành đại thi hào dân tộc chính là sự gia tăng yếu tố
cảm xúc, làm ngưng đọng, mờ hoá diễn tiến tự sự để trữ tình hoá nội dung cốt
truyện và cấu trúc văn bản. Nhờ đó, ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du đã biến một
câu chuyện vốn đã nhàm và có phần đơn điệu thành một tác phẩm bất hủ, một sinh
thể thơ ca sống động và sức cuốn hút mê hồn.
Về lý thuyết, thơ là tiếng nói chủ quan. Nhà thơ – chủ thể trữ tình – có quyền
“nhào nặn” thế giới khách thể: con người và tạo vật theo những hỷ, nộ, ái, ố… của
lòng mình. Người phương Tây gọi đặc trưng loại hình đó là hiện tượng nhà thơ
truyền trạng thái nội tâm của mình sang cảnh vật. Phương Đông tượng hình hơn:
Mây, gió, cỏ, hoa xinh tươi… hết thảy tự lòng người (Ngô Thì Nhậm). Nếu
Hêghen khẳng định: đối với thơ trữ tình, chủ thể là yếu tố duy nhất mang nội
dung, thì Nguyễn Du, bằng sự trải nghiệm máu thịt của đời mình đã khái quát về
“nguyên lý” sáng tác riêng đó của thể loại thành một câu thơ để đời:
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Trữ tình trong Truyện Kiều, cụ thể là trữ tình ngoại đề (thành phần ngoài cốt
truyện) dĩ nhiên phải chịu sự chi phối từ quan niệm thẩm mỹ đó của Nguyễn Du.
Dù trữ tình hướng ngoại hay hướng nội, đối tượng ký thác là mây, gió, trăng
hoa… hay lòng người, tất cả đều mang đậm dấu ấn chủ quan. Có thể đó là cái nhìn
của chính chủ thể trữ tình, người biết trước và biết hết (“biết tuốt”) những tiếp nối
của diễn trình tự sự, chủ động đặt nhân vật và khung cảnh dưới tầm nhìn của mình
(Lý thuyết tự sự gọi đó là cái nhìn áp đặt của người kể chuyện hàm ẩn luôn đứng
ngoài và đứng cao hơn nhân vật). Đoạn Kim Trọng rời Liêu Dương trở lại tìm
Kiều đã rất ngạc nhiên trước vẻ quạnh vắng, u buồn của cảnh vật vì Kim Trọng
không hề biết tai hoạ ập đến với gia đình Kiều, trong lúc đó, tác giả lại là người
nắm giữ trong tay mọi bí mật và những tình huống bất ngờ. Chính vì vậy, cảnh sắc
vườn Thuý dù được mô tả bằng những cảm nhận thực của Kim Trọng nhưng lại
được đặt dưới tầm quan sát của tác giả:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng, quạnh quẽ, vách mưa rã rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất, rêu phong giấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy
Đi về này những lối này, năm xưa.
hoặc cảnh Thúc Sinh giã biệt Thuý Kiều định về nhà “thưa chuyện” với Hoạn Thư
thì cả 2 nhân vật, cả sông và trăng, cả ngàn dâu, bờ liễu đều dần dần hiển thị bằng
cái nhìn của chính chủ thể trữ tình. Vừa diễn tả một cuộc tiễn đưa, vừa ngầm báo
hiệu một cuộc chia ly vĩnh viễn:
Sông Tần một dải trong xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan
Cầm tay dài ngắn thở than,
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời…
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vừng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Song nhiều hơn cả trong Truyện Kiều là hiện tượng Nguyễn Du khắc hoạ
bức tranh thiên nhiên qua cái nhìn và tâm trạng nhân vật. Vẫn là màu sắc chủ quan
nhưng tác giả - chủ thể trữ tình lùi lại phía sau để nhân vật trực tiếp đối diện với
cảnh sắc đất trời và phủ lên đó những tâm tư tình cảm của riêng mình. Nói một
cách khác, qua không gian ngoại cảnh, người đọc cảm hiểu được đời sống bên
trong, những diễn biến, các sắc độ, trạng thái cảm xúc và chân dung tâm hồn nhân
vật:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Hoặc:
Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Bởi Truyện Kiều là nỗi “đau đớn lòng” của Nguyễn Du, là tiếng kêu đứt ruột
mới (Đoạn Trường tân thanh) được cất lên giữa cõi trời thẳm đất dày nên những
đoạn trữ tình ngoại đề - chủ yếu là trữ tình thiên nhiên trong tác phẩm đa phần là
buồn. Hiếm hoi lắm mới có những câu thơ mà cả ngoại cảnh lẫn nội tâm đều nhẹ
nhõm, trong trẻo và vô ưu: Cỏ non xanh dợn chân trời / Cành lê trắng điểm một
vài bông hoa; Dưới cầu nước chảy trong veo/ Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt
tha; Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng… Cái
tên Đoạn trường tân thanh đã là một sự bộc lộ cảm hứng chủ đạo của nhà thơ và
không chỉ Nguyễn Du mà hầu hết những tác phẩm đặc sắc của thi ca cổ điển như
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn),…
đều là những áng thơ buồn. Mặc dù kết thúc có hậu nhưng sức hấp dẫn đặc biệt
của Truyện Kiều – một Best-sellers của người Việt, văn hoá Việt – lại nằm ở
giọng điệu rất mực tiêu tao, sầu thương da diết mà đoạn thơ miêu tả nỗi nhớ người
thân của Thuý Kiều được coi là một trong những mẫu mực kinh điển nhất thể hiện
khả năng đồng hoá và tái hiện thiên nhiên của bậc tài danh Nguyễn Du. Một
không gian sinh động của biển, thuyền, buồm, sóng, cỏ, hoa… nhưng tất cả đã
được nhìn ngắm qua đôi mắt ứa lệ và một tấm lòng buồn đau, cô quạnh. Sau
những tổn thương nhân phẩm nặng nề, lần đầu tiên những câu hỏi về thân phận
được cất lên nhưng đã bị cuốn chìm vào cõi vô định:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Đặt Nguyễn Du trong sự tham chiếu với phong trào Thơ mới, thông qua
những kết nối văn bản và một phần nào đó của liên văn bản, chúng ta thấy giữa
Nguyễn Du và các nhà thơ lãng mạn 1932 – 1945 có nhiều đồng điệu. Âm hưởng
chung của Thơ mới là buồn. Một nỗi buồn từ lòng người lan toả vào cảnh vật. Bắt
đầu từ Thế Lữ, người sáng lập Phong trào Thơ mới, ta bắt gặp ở đây sự hoà âm,
phối màu rất “kỹ thuật”:
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn…
Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần, vắt vẻo trên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc nữ uốn mình trong không.
Thiên thai thoảng gió mơ mồng,
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay…
(Tiếng sáo Thiên thai – Thế Lữ)
Tưởng như văng vẳng đâu đây tiếng đàn trầm bổng réo rắt lúc khoan, lúc
nhặt mà lần đầu tiên Kim Trọng được nghe từ bàn tay tiên và ngón đàn điêu luyện
của Thuý Kiều:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu.
Không riêng Thế Lữ hay các nhà thơ mới mà trước đó, những tên tuổi lớn
của thơ ca Việt Nam như Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà… đều chịu
nhiều ảnh hưởng của Nguyễn Du, từ tư tưởng nhân sinh đến tình yêu cuộc sống,
từ đặc điểm tư duy đến thái độ dấn thân nhập cuộc, từ những nét hào hoa, phong
lưu tài tử đến những mâu thuẫn, bế tắc và cô đơn trong tâm hồn…
Trong tiểu luận: Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã từng viết: “Tôi
không so sánh các nhà thơ mới với Nguyễn Du để xem ai hơn, ai kém. Đời xưa có
thể có những bậc kỳ tài đời nay không sánh kịp. Đừng lấy một người sánh với một
người. Hãy sánh thời đại cùng thời đại” (Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh). Tuy
nhiên, việc lấy một tác giả đỉnh cao của thơ ca dân tộc để so sánh với một thời đại
thi ca với nhiều tên tuổi sáng giá như Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy
Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Vũ Hoàng Chương…
đã bao hàm trong đó sự khẳng định tầm vóc có một không hai của Nguyễn Du.
Khoảng cách thời gian một thế kỷ với nhiều biến thiên thời cuộc không ngăn cách
Nguyễn Du với những “hậu duệ” xuất sắc của mình. Từ nguồn gốc sâu xa trong
cảm hứng sáng tạo, các nhà Thơ mới có nhiều đồng cảm, tri âm với Nguyễn Du
mà có lẽ trước hết và cũng rõ rệt nhất là sự đau đời, nỗi sầu nhân thế và thời thế.
Các nhà thơ mới là những người nặng tình với cuộc sống nhưng nhiều khi bất lực:
Đau đời, có cứu được đời đâu (Huy Cận). Mặc cảm “sinh bất phùng thời”, lạc
loài, thiếu quê hương ngay chính trên mảnh đất giang sơn Tổ quốc luôn ám ảnh cả
một thế hệ thi nhân:
Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ
(Phương xa – Vũ Hoàng Chương)
Cũng như Nguyễn Du, các nhà thơ mới luôn đau đáu một chữ “thân”: Đục
trong thân cũng là thân, Đã mang lấy nghiệp vào thân (Truyện Kiều – Nguyễn
Du), thân xác và thân phận… Đó còn là tình thương yêu những kiếp người bất
hạnh với đạo lý “thương người như thể thương thân” mà mô-típ “hồng nhan bạc
mệnh, những người “thanh quí tài sắc” đồng thân, đồng phận, đồng bệnh với Thuý
Kiều trở đi trở lại khá nhiều trong thơ Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Thái Can, Vũ
Hoàng Chương v.v.. Rõ ràng, những đoản khúc buồn trong Thơ mới trực tiếp hay
gián tiếp đều bắt nguồn từ bi kịch tinh thần của thi nhân, và quan trọng hơn là đều
có những tương đồng, gặp gỡ với Nguyễn Du, nhất là ở khía cạnh trữ tình thiên
nhiên.
Trong các nhà Thơ mới, gần gũi và mang dấu ấn Nguyễn Du đậm hơn cả có
lẽ là Huy Cận. Gần gũi ở những tình, ý, hình ảnh thơ nhuần nhị bản sắc Đông
phương và đặc biệt là gần gũi ở việc vận dụng thể thơ lục bát dân tộc vô cùng điêu
luyện. Sau Nguyễn Du, nói một cách khác, Huy Cận đã thừa kế ở lục bát Nguyễn
Du vẻ quý tộc, sang trọng của một thể thơ có nguồn gốc từ ca dao bình dị. Cùng là
những nhà thơ có biệt tài về lục bát của Thơ mới, song nếu Nguyễn Bính thiên về
những kể lể, gợi chuyện theo kiều dân gian: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi; Cái ngày
cô chưa có chồng; Hôm nay dưới bến xuôi đò… thì Huy Cận đúc đọng, hàm súc,
dồn nén và tiết chế hơn cả ở cảm xúc lẫn ngôn từ:
Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang…
Vi vu gió hút nẻo vàng;
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao.
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
(Đẹp xưa – Huy Cận)
Thơ Huy Cận mang phong vị Đường thi. Cấu trúc không gian trong thơ ông
hài hoà, đăng đối. Núi sông, cây cỏ cũng đượm vẻ bình thản, trầm mạc. Là một
người “đi lượm lặt những chút buồn rải rác để sáng tạo nên những vần thơ ảo
não”. Một chiếc linh hồn nhỏ:/ Mang mang thiên cổ sầu… Huy Cận đã làm một
cuộc viễn du giữa đất trời bao la và gửi vào đó những nỗi buồn sông núi. Đó là
cảnh rừng cây:
Bỗng dưng buồn bã không gian,
Mây bay lũng thấp dăng màn âm u.
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Sắc trời trôi nhạt dưới khe,
Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng.
Sầu thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
(Thu rừng – Huy Cận)
Là sông nước:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,…
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang – Huy Cận)
Là mưa:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…
Rơi rơi… dìu dịu rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ….
Gió về lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư…
(Buồn đêm mưa – Huy Cận)
Là nắng:
Nắng chia nửa bãi chiều rồi….
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi là rầu
(Ngậm ngùi – Huy Cận)
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
(Tràng giang – Huy Cận)
Có thể khẳng định, cái nhìn mỹ học của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã có
nhiều ảnh hưởng đến bút pháp tả cảnh, tả tình và góp phần quan trọng tạo nên một
hành tinh thiên nhiên gợi cảm, đẹp và buồn trong Thơ mới.
Khác với Huy Cận, Xuân Diệu ít viết lục bát, ưu thế của nhà thơ “mới nhất
trong các nhà thơ mới” là thơ tám chữ; tuy vậy, tư tưởng duy mỹ của Nguyễn Du
vẫn bàng bạc trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Dù không nhiều nhưng lục bát
của Xuân Diệu vẫn phảng phất nét tài hoa và “quí phái” của Nguyễn Du:
Hôm nay, trời nhẹ lên cao
Tôi buồn, không hiểu vì sao tôi buồn…
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn,
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương…
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn…
(Chiều – Xuân Diệu)
Hoặc:
Nhớ nhung về đứng ngã ba
Buồn thương chia não dồn xa dặm dài
Con chim năm trước bay rồi
Cành cây lặng lẽ rơi đôi bóng chiều
(Ngã ba – Xuân Diệu)
Từ một rặng liễu “đìu hiu đứng chịu tang” đến một bầu trời “u uất hận chia
ly”, từ một khu vườn xưa “nay đoạn tuyệt dấu hài” đến một “vầng trăng lạnh lẽo
suốt xương da”, từ một dòng sông “than thầm tiễn biệt” đến ngọn núi Hy Mã Lạp
Sơn “sầu một đỉnh chon von”… Tất cả đều là những bức tranh thơ ẩn chứa nỗi
buồn và sự cô đơn trong tâm khảm của cái tôi trữ tình. Một cái gì đó thật nhịp
nhàng, ăn ý từ trong ra ngoài, giữa nội tâm và ngoại cảnh. Có thể đó chỉ là nỗi
buồn nhẹ nhàng, man mác:
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa;
Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà.
Buồn ở sông xanh nghe đã lại,
Mơ hồ trong một tiếng chim qua.
(Thu – Xuân Diệu)
Nhưng ấn tượng và thấm thía hơn cả ở Xuân Diệu là sự diễn tả tài tình,
thông qua cảm giác nỗi đơn côi, buốt giá trong tâm hồn lan toả vào cảnh vật:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn ghê như nước lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận;
Trăng nhớ tầm dương, nhạc nhớ người..
(Nguyệt cầm – Xuân Diệu)
Hoặc:
Trăng từ viễn xứ
Đi khoan thai lên ngự đình trời tròn;
Gió theo trăng từ biển thổi qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn.
(Lời kỹ nữ - Xuân Diệu)
và còn nhiều, rất nhiều nữa những khúc tâm tình của thi nhân đã được thiên nhiên
hoá một cách tài tình như thế trong thơ mới. Mỗi khung cảnh tương ứng với một
chân dung tâm trạng và mang tính chất cả thể hoá:
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về…
Dầu ai không mong đợi
Dầu ai không lóng nghe
Tiếng buồn trong sương đục,
Tiếng hờn trong luỹ tre…
Trong khi nhìn mây nước
Lòng xuân cũng não nề…
(Hàn Mặc Tử)
Hoặc:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
Và:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng? v.v… và v.v..
(Thâm Tâm)
Từng nhà thơ, từng phong cách sẽ có sự cảm nhận và biểu thị riêng của mình
nhưng tất cả đều là những bức tranh thiên nhiên hữu tình, đều có chung “hằng số
tâm trạng”, đều là sự thừa kế xuất sắc “kinh nghiệm thẩm mỹ” của một bậc thi gia
vẹn tròn hai chữ tâm,tài.
Phong trào Thơ mới là một trào lưu nghệ thuật có vị trí đặc biệt quan trọng
trong diễn trình thơ hiện đại Việt Nam. Thông qua những đối chiếu giữa Nguyễn
Du với Thơ mới, chúng ta sẽ có cái nhìn chừng mực và khoa học hơn về những
giả thiết và kết luận khoa học, về truyền thống và hiện đại, kế thừa và cách tân của
“thực thể” thơ Việt. Chẳng hạn, nếu coi trực giác là một trong những dấu hiệu của
thơ tượng trưng, siêu thực, nghĩa là hiện đại (và cả hậu hiện đại) thì trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du đã từng viết:
Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình
Tương tự như vậy, nếu coi thơ vắt dòng (bắc cầu) là sự du nhập từ phương
Tây vào Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX thì theo cố GS Lê Đình Kỵ,
những câu thơ:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
đã được Nguyễn Du viết theo hình thức enjambement.
Chọn Thơ mới là chọn một “lát cắt” điển hình, một bước ngoặt trong tiến
trình hiện đại hoá thơ ca dân tộc. Nhưng một bậc đại tài như Nguyễn Du thì tầm
ảnh hưởng chắc chắn không chỉ dừng lại ở thế hệ thi nhân này mà đã, đang và sẽ
còn được lưu giữ, phát huy và thăng hoa qua các thời đại thơ ca 1945-1975, 1975
đến nay và cả mai sau./.
Hà Nội, ngày 15-10-2012
L. H. T
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Du: Truyện Kiều (Đào Duy Anh khảo chứng, hiệu đính, chú giải)
- Nxb Văn học 2010
2. Nhiều tác giả: Nguyễn Du - Về tác giả và tác phẩm (Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn
Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu) – Nxb Giáo dục 1998
3. Nhiều tác giả: Thơ mới – tác phẩm và dư luận (Tuấn Thành – Anh Vũ
tuyển chọn) – Nxb Văn học 2002
4. Hoài Thanh – Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam - Nxb Văn học 2000
5. Lê Đình Kỵ: Thơ mới – Những bước thăng trầm – Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh 1993
Sức sáng tạo không ngừng của Nguyễn Khoa Linh
ở kiểu thơ hai câu trong Nghiệm 6
GS. TSKH. Đỗ Văn Khang
Nghiệm 6 của Nguyễn Khoa Linh (Cát Điền) là hiển thị của sức sáng tạo
không ngừng ở kiểu thơ hai câu trên mê lộ trải nghiệm, suy nghiệm thực tại với
những vấn đề quen thuộc về nhân thế, thời cuộc, tình yêu, sống chết...Ở đó sự
diễn biến không mấy êm ả mà có không ít nỗi đau nuối tiếc, ân hận: Phận bạc
giận hoen mờ khoảng trắng/ Cận nhân tình lệ đắng đa đoan (Giận); Trọn niềm
son sắt để thờ/ Tiết trinh dầu dãi bến bờ quản bao (Tiết); hoặc bị gạt ra rìa
những cái vẫn thường được coi là cao quý xưa nay: Đâu đó tao nhân mặc
khách/ Bước hải hồ dặm cách lòng xa (Mặc); di họa bởi những sai lạc của
chính nhân thế: Động nhiễm bóng ngã trăng chênh/ Cô đơn nhân thế chênh
vênh phản hồi (Nhiễm), và sự trớ trêu: Trống kèn ngược gió trời mưa/ Đợi
trăm năm chết vẫn chưa gặp thời (Mưa); Tuồng chi vua nọ quan kia/ Xênh
xang áo mũ hơn thua trống kèn (Tuồng). Có sự quan sát các chứng nghiệm:
Lắng vô thanh thấu vô hình/ Tương thông quên khuấy thân mình có không
(Thấu); Đêm dài dâu bể nhớ quên/ Thinh không vẳng tiếng nhạc thiền phôi
thai (Nhạc)...
Đến Nghiệm 6, lời thơ của Nguyễn Khoa Linh bình dị hơn, nhưng
tình cảm lại đằm hơn, nhất là khi trình bày những ký ức sâu kín, vun trồng
những tình cảm cao thượng... ẩn chứa sự tỉnh thức minh triết: Ngẫm duyên
nợ trần ai mấy chốc/ Chạnh nhân tình thế thái mà đau (Đau); Tê tái sang
giêng còn tiết hàn/Giá lạnh xứ người nhớ củi than (Giêng); Vấn vương chi
những đêm thừa/Trông gần lẻ bóng trông xa lẻ hình (Lẻ); Mình tu vũ trụ tu
cùng/ Thiên tâm vạn cõi hòa chung bến bờ (Vạn).
Ở 5 tập thơ Nghiệm hai câu trước đã thấy Nguyễn Khoa Linh nêu rải rác một số quan niệm về thơ, trong đó có phạm vi, sự quán chiếu của thơ: Trong khoảng lắng đất trời yên ả/ Thơ như nắng gió lạ quen (Như); Trong thơ có khoảng trong mà đục/Máu ở nơi tim ứa mấy lần (Thơ); Thơ dung thông một khoảng trời/ Hư không gợi ngẫm một thời thế gian (Ngẫm)... Ở Nghiệm 6, anh lại nêu quan niệm mới có liên quan với điều trên. Với Nguyễn Khoa Linh, ở thơ cánh sóng bóng xuân quyện vào ý vào vần, hay nói cách khác, thơ chứa trong nó sinh khí tươi mới của mùa xuân: Cánh sóng bóng xuân / Ủ bến sông thơ quyện ý vần (Ủ). Ở bài Thi, tác giả lại đề cập tới chuyện bếp núc của lối thơ. Lối thơ được khởi đầu từ sự hồn nhiên, lắng lặng cảm nghiệm đến cái khoảng làm rạng sáng nguồn cội (nguyên sơ): Hồn nhiên thi hứng đôi câu/ Lắng lặng cảm nghiệm rạng màu nguyên sơ (Thi). Cũng ở Nghiệm 6, Nguyễn Khoa Linh ý thức hư vô sáng láng hiện vẫn là một thực tại chưa được nắm bắt. Hư vô ở đây là chỉ cơ sở vật chất đầu tiên của vũ trụ, đồng thời cũng là chỉ quy luật của giới tự nhiên, không có hình tướng để thấy nhưng có mặt ở khắp nơi; đạo Lão dùng để nói về bản thể cái gọi là Đạo. Trước hư vô, chữ nghĩa hiện chịu quá nhiều hạn chế: Hư vô sáng láng khôn lường/ Mặc nhiên chữ nghĩa mới dường gọi tên (Hư).
Quan niệm về thơ của Nguyễn Khoa Linh xuất phát từ chính cảm thức nghệ thuật và tư duy thơ của anh vốn hiện hữu ở các bài thơ hai câu nghiệm . Trong mối quan hệ giữa một bên là quan niệm về thơ và một bên là thực tế sáng tác thơ của Nguyễn Khoa Linh, thấy không ít sự tương đồng. Bởi vậy, cho nên ở thơ Nguyễn Khoa Linh, ngoài những gì có thể thu lượm được qua cảm nghiệm, suy nghiệm từ thực tại đời sống, lại thấy điều bất cập, bất khả khó vượt khi phản ánh hư vô. Cái khó khi phản ánh hư vô là: hư vô là đối tượng vô hình khó nắm bắt, chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác. Có thể xem bài Vô là một cảm nhận đầy sự ngỡ ngàng của Nguyễn Khoa Linh khi trăn
trở về cõi hư vô: Trước sau vẫn bến bờ quen/ Nguyên sơ lối ngỏ diệu huyền hư vô.
Trải qua 06 tập thơ Nghiệm, Nguyễn Khoa Linh (Cát Điền) đã bộc lộ tương đối rõ một phong cách thơ lắng lặng cảm nghiệm gắn với sự mộc mạc, chắt lọc, ý tứ khúc triết, giàu gợi cảm, liên tưởng... Đây là lối thơ thuộc dạng thức trình bày đời sống (khác với loại thơ thuộc dạng thức giãi bày), với sự dồn lắng câu chữ cực ngắn nhưng lại ẩn chứa sức gợi mở, biểu cảm tối đa của ý, của tình... Nó đã vận dụng linh hoạt nhiều thể thơ - phần lớn là các thể thơ dân tộc, kết hợp với cảm hứng, giọng điệu mới như được thoát thai, chắp cánh từ mạch nguồn ca dao, dân ca, tục ngữ và đã thành công ít nhiều khi khai thác chủ yếu là ở hướng khám phá, khơi gợi chiều sâu dòng nội cảm của cảm thức, ý thức, siêu thức... của con người toàn nguyên ở cõi nhân thế, miền tâm linh; đồng thời cũng mang được vào thơ phần nào cốt cách thuần Việt hồn hậu, chân thành, thi thoảng pha nụ cười hóm hỉnh. Đây là một phong cách thơ độc đáo, không trộn lẫn với ai khác, (kể cả với Hai kư khi so sánh về mặt loại hình), và có lẽ nó chính là một trong những tìm tòi đáng quý đóng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại. Tin chắc rằng anh sẽ còn tiếp tục gặt hái nhiều thành công mới.
NGUYỄN TRUNG HIẾU VÀ NHỮNG TRANG VĂN KHÁT KHAO SỰ THẬT Nguyễn Trung Hiếu, Tuyển truyện và Ký, Nxb. Văn học, H, 2011
Trần Hoài Anh
Đọc 86 truyện ký trong Nguyễn Trung Hiếu - Tuyển tập truyện & kí ta
không chỉ thấy sức nặng của số trang mà còn thấy được sức nặng của tấm lòng,
tình cảm và trách nhiệm của người cầm bút mà nếu không có niềm đam mê sáng
tạo và sự miệt mài lao động, một thứ lao động văn chương đích thực thì sẽ không
có những trang văn ngồn ngộn chất đời như thế!
Nguyễn Trung Hiếu đã đi rất nhiều, đi từ trong những năm chiến tranh cho
đến hòa bình, từ miền núi đến đồng bằng, từ miền Bắc đến miền Trung rồi vào
miền Nam. Chính sự xê dịch này đã cho anh vốn sống để viết nên những truyện kí
đầy ắp hiện thực cuộc sống của đất nước quê hương. Đó là hình ảnh một Vũng
Tàu trong Những người sống xa quê mà theo anh là “đẹp nhất nước... khách trong
và ngoài nước nghìn nghịt. Hay một vùng Đầm Voi màu mỡ của Đồng Nai được
anh miêu tả khá ấn tượng trong Trang trại nghệ sĩ. Và một Vĩnh Long trong Một
thoáng Vĩnh Long dù chỉ mới một thoáng thôi nhưng bằng sự nhạy cảm và tinh tế
của nhà văn anh đã nhận ra: “Không vùng đất nào đi “mở cõi” mà không cay đắng
và hào hùng” (tr. 205).
Không chỉ đến những vùng Đông và Tây Nam Bộ mà anh còn dịch chuyển
lên cả Tây Nguyên huyền thoại để viết nên Một góc Yaly, Kỉ nguyên Tây Nguyên,
Tháng Giêng ở K’Bang... Hoặc đến với vùng Cát Tiên xa xôi mà theo anh đó là
“tiếng gọi từ cõi hư vô có thực” để có một bút ký đầy tính dự báo Cát Tiên niềm
vui và nỗi lo có thực nói về tình trạng xâm hại môi trường thiên nhiên của con
người mà gần đây cuộc tranh luận về việc xây dựng thủy điện 6A, 6B ở Cát Tiên
là một minh chứng cho điều anh đã viết
Nhưng có thể nói cảm hứng chủ đạo khi viết về quê hương đất nước từ những
chuyến đi trong Tuyển tập truyện kí này là sự kết tinh tâm cảm của anh đối với
những vùng đất, con người của quê hương Quảng Ngãi dấu yêu, nơi anh sinh ra,
lớn lên và từ đó “xa nhà đi kháng chiến”. Vì vậy, rời Tây Nguyên, Anh lại dẫn dụ
người đọc về với những vùng quê giàu truyền thống cách mạng nhưng luôn bị cái
đói, cái nghèo rình rập, chực chờ. Và với tư cách công dân của một nhà văn –
chiến sĩ anh bày tỏ những trăn trở của mình trước số phận của nhân dân qua những
bút ký đầy chất nhân văn như Vùng cát cháy I, Vùng cát cháy II, Muối Sa Huỳnh,
Hồi ức cây mì, Mẹ nhé, Ở một góc khuất, Phôi thai thành phố Vạn Tường... Ở
những truyện kí này, với khát khao đi tìm sự thật, ngòi bút của Nguyễn Trung
Hiếu đã không ngại ngần đi vào những góc tối của hiện thực cuộc sống để thức
nhận cho mọi người về trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân, những người
đã tận hiến, đã quên mình cho sự nghiệp cách mạng. Đó còn là hình ảnh Ba Tơ
hào hùng trong Khắc khoải Ba Tơ mà lời bài hát của nhạc sĩ Dương Minh Viên
“Du Kích Ba Tơ, Chiến sĩ miền núi nêu tấm gương nghìn thu...” đã trở thành tiếng
gọi thiêng liêng theo anh suốt trong những năm kháng chiến khi được vinh dự làm
anh bộ đội cụ Hồ.
Rời Ba Tơ, ngòi bút Nguyễn Trung Hiếu lại đưa người đọc đến với Trà
Bồng mà anh đã gọi một cách văn chương là Đất hương vàng, nơi mà theo anh là
“đã che chở cho chúng tôi suốt cả cuộc trường chinh khốc liệt” ( tr.46) để ngợi ca
“Thần Quế”, một tiềm năng cần được đánh thức của vùng đất này. Dường như đất
và người miền núi có một ma lực huyền bí nào đó luôn ám ảnh anh nên bước chân
của anh không chỉ dừng lại ở Ba Tơ, Trà Bồng mà còn đi đến cả Minh Long, Sơn
Hà, Sơn Tây để viết nên những truyện ký đầy ấn tượng về cuộc sống của đồng bào
các dân tộc như: Nhớ về vùng đất ấy, Chiến thắng Minh Long, Những số không
khuất lấp, Nước ra, Huyện mới Sơn Tây...
Là nhà văn, Nguyễn Trung Hiếu hiểu hơn ai hết trách nhiệm của người cầm
bút. Và việc phản ánh hiện thực dù ở phía tối hoặc phía sáng cũng không nằm
ngoài kỳ vọng có một xã hội tốt đẹp hơn, nhân bản hơn. Cho nên trong truyện kí
Nguyễn Trung Hiếu, bên cạnh những tác phẩm phản ánh những góc khuất ở phía
bóng tối ta còn bắt gặp những niềm vui thành thực đến hồn nhiên trước những đổi
thay từng ngày của đất nước trong các truyện ký như: Phôi thai thành phố Vạn
Tường, Ngày hội Dung Quất, Mùa xuân đến trước, Tín hiệu Tuyền Tung, Nghĩa
An ngày ấy, bây giờ, Huyện mới Sơn Tây, Làng mới người H’re, Vùng cát cháy I,
Vùng cát cháy II...
Và niềm tin ấy càng rực sáng hơn khi Khu công nghiệp lọc hóa dầu Dung Quất
được khai sinh như một Mùa xuân đến trước để biến vùng cát cháy ở một xử sở
“tối ăn khoai đi ngủ / sáng ăn củ đi làm” trở thành một khu công nghiệp rộn ràng
sức sống.
Biết sống thật, yêu thật, ghét thật và dũng cảm đấu tranh cho cái thật cũng là một
sư lựa chọn của con người có nhân cách trước cuộc sống vẫn còn quá nhiều những
giả dối và lọc lừa. Đây cũng là một giá trị ta có thể tìm thấy ở những trang văn của
Nguyễn Trung Hiếu trong tuyển tập truyện ký này. Đó là những trang văn không
màu mè, không kiểu cách, không làm dáng mà chỉ có những tấm lòng, những cuộc
đời chân thật đến trần trụi mà số phận của họ đã được anh nói đến trong những
truyện ký đầy xúc động.
Ngoài những con người, những số phận đã đề cập ở trên, trong tuyển tập
truyện ký này ta cũng thấy Nguyễn Trung Hiếu dành tình cảm và sự trân quí rất
thật lòng đối với những con người đã góp phần làm nên giá trị văn hóa cho quê
hương Quảng Ngãi qua các bài viết: Nguyễn Cư Trinh, viên quan nhân ái, Người
mang nặng hồn quê xứ Quảng, Khoảng sáng bình yên, Vẫn nhớ về anh – Bích
Khê, Nhà thơ Bích Khê một nghi án không có cơ sở, Bích Khê rất đạo và rất đời.
Đặc biệt, ở các bài viết về thi sĩ Bích Khê, bằng những minh chứng đầy sức thuyết
phục qua việc tìm hiểu những nhân chứng đáng tin cậy, anh đã góp phần làm sáng
tỏ một sự thật về đời và thơ Bích Khê mà suốt bao nhiêu năm bị vùi lấp trong
những nghi kỵ đầy oan ức. Để rồi qua bao thăng trầm của thời cuộc, thơ Bích Khê
đã được khẳng định là tinh hoa của nền thi ca dân tộc.
Khép lại bài viết này chúng tôi cứ thấy ngại ngần vì còn khá nhiều truyện
ký trong Tuyển tập truyện kí của Nguyễn Trung Hiếu, chúng tôi chưa chạm đến
được mà truyện nào cũng sâu nặng ân tình, cũng đầy những băn khoăn, trăn trở,
thổn thức của một nhà văn luôn khát khao đi tìm sự thật cho những trang văn của
mình - Điều mà không phải người cầm bút nào cũng đủ nhân cách và dũng khí dấn
thân!?...
Từ Đề cương về văn hóa Việt Nam - 1943 của Đảng
đến Nghị quyết TƯ. V (khóa VIII)
1. Anh bạn thân của tôi, một nhà phê bình – lí luận văn học, nhiều năm công tác ở Viện Văn học có công sưu tầm lưu trữ các tài liệu liên quan tới các tác giả, tác phẩm lý luận phê bình văn học Việt Nam, một lần trò chuyện ông cho hay: Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam - 1943 của Đảng thực sự chỉ được công bố bằng văn bản chính thức lần đầu vào tháng 12/1945 trên tờ tạp chí Tiên Phong số 1 – cơ quan ngôn luận đầu tiên của Hội Văn hóa cứu quốc.
Còn vào năm 1943, theo trí nhớ của nhà văn, nhà viết kịch Học Phi, những nhân chứng sống ít ỏi còn sống đến ngày nay, cùng với nhà văn Tô Hoài thì tổ chức Đảng đi phổ biến văn kiện về Văn hóa nói trên cũng chỉ là tuyên truyền miệng, chưa ai được nhìn thấy văn bản ấy. Người nghe ghi tốc kí vào sổ tay, ghi trong trí nhớ rồi truyền miệng phổ biến cho nhau. Ấy vậy mà Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam vẫn ra đời vào những năm đen tối, đất nước chưa giành được độc lập, người dân sống một cổ hai tròng Pháp – Nhật, nạn đói đang hoành hành, chiến tranh thế giới lần thứ 2 đang nổ ra dữ dội… Cũng theo hồi kí của các nhà văn lão thành tham gia sáng lập Hội Văn hóa Cứu quốc, ban biên tập dự kiến ra số tạp chí Tiên Phong đầu tiên, bài vở đã chuẩn bị sẵn, trong đó sẽ in nguyên bản Đề cương về văn hóa Việt Nam - 1943 do đồng chí Trường Chinh khởi thảo. Song do nhiều hoàn cảnh khác nhau, số tạp chí ấy phải đợi sau cách mạng tháng Tám 1945 mới có điều kiện ra mắt bạn đọc.
Ngày nay đọc lại Đề cương về văn hóa Việt Nam - 1943 của Đảng nhiều người không khỏi ngỡ ngàng. Có lẽ đây là một trong những NQ về văn hóa quan trọng của Đảng ít chữ nhât. Lí luận cũng rất giản dị, chỉ là sự gợi mở nhưng rất sâu sắc. Nhưng đấy cũng là một trong những NQ có sức sống lâu bền và giá trị thực tiễn đến kỳ lạ.
Với bản Đề cương văn hóa Việt Nam – 1943, Đảng đã tập hợp được cả một đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ đông đảo. Trước đó, họ vốn xuất thân từ nhiều hoàn cảnh, môi trường hoạt động khác nhau, song hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, dưới ngọn cờ của mặt trận Việt Minh, tất cả đều tham gia, đi vào cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám giành độc lập cho đất nước. Khi dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến thần thành chống thực dân Pháp lần thứ nhất, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ ấy đã rời bỏ cuộc sống đô hội, giàu sang cùng với toàn dân tham gia kháng chiến.
70 năm đã qua, nhưng ngày nay dấu tích hoạt động của các tổ chức văn nghệ Việt Nam vẫn còn được ghi dấu ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, chiến khu D, Nam Bộ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có hàng trăm văn nghệ sĩ ở tất cả các chuyên ngành ra chiến trường. Nhiều người trong số họ đã ngã xuống chiến hào trong tư thế của người nghệ sĩ – chiến sĩ.
Đọc lại Đề cương về văn hóa Việt Nam ta mới mới hiểu rằng ngay từ khi cách mạng chưa thành công, trong chiến lược phát triển, Đảng đã nghĩ tới văn hóa là một trong ba mặt trận, cùng với chính trị, kinh tế, ở đó người cộng sản phải hoạt động. “Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới lãnh đạo được dư luận, tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả”. Chính vì vậy tổ chức Đảng đã sớm tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ để xây dựng họ trở thành một lực lượng quan trọng trong đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho tương lai. Trong Đề cương phương châm để thực hiện văn hóa Việt Nam được trình bàt cô đọng với 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong đó, yếu tố dân tộc là ngọn nguồn làm nên các giá trị truyền thống lịch sử Việt Nam. Và cũng là của văn hóa Việt Nam. Giá trị ấy được xây đắp từ cả nghìn năm Bắc thuộc và hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. từ Đinh, Lý, Trần, Lê…phát triển rực rỡ ở thời đại Hồ Chí Minh, thế kỷ thứ XX. Cũng từ ánh sáng của Đề cương về văn hóa Việt Nam - 1943 văn nghệ cách mạng Việt Nam hình thành và phát triển, trở thành một dòng chảy chính, thống nhất tạo nên các giá trị văn học nghệ thuật Việt Nam từ khi có Đảng.
2. Nghị quyết TƯ. V (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ra đời từ năm 1998. Đây là thời kỳ cả nước vừa đi qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, chiến tranh Biên giới bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Đây cũng là thời kỳ đất nước thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, thời kỳ đổi mới tư duy toàn diện. Về mặt cốt lõi, quan điểm của Đảng vẫn coi trọng mối quan hệ giữa chính trị - kinh tế và văn hóa. Văn hóa còn được xem là nền tảng tinh thần của xã hội. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vẫn là một thành tố quan trọng trong chiến lược phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật vẫn là một mặt trận trong công tác tư tưởng của Đảng. Những quan điểm của Đảng về văn hóa, văn học nghệ thuật được trình bày một cách sáng rõ. Quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ được tôn trọng. Một trong những nhấn mạnh trong Nghị quyết của Đảng là qua các cơ chế chính sách, nhà nước tạo mọi điều kiện cho văn hóa, VHNT phát triển, mong muốn có được nhiều tác phẩm tốt, có chất lượng cao về nội dung và nghệ thuật, hướng tới các giá trị chân – thiện - mỹ và nhân văn.
Nghị quyết TW V (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển về Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc còn tiếp thu có chọn lọc những quan điểm sâu sắc và bám sát thực tiễn sự nghiệp phát triển văn hóa của nước ta sau những năm chiến tranh kết thúc đã được thể hiện trong văn kiện của Đảng trước đó đặc biệt là quan điểm đổi mới tư duy đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 khẳng định.
Vừa qua tại Hội thảo khoa học “Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TƯ. V (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, do Liên hiệp VHNT Việt Nam tổ chức với sự tham gia của nhiều văn nghệ sĩ, đại diện các Bộ, Ngành, đã có nhiều ý kiến tham gia phát biểu sâu sắc. Nhiều người đồng tình với nhận xét của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp VHNT Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn cho rằng: Nghị quyết TƯ. V khóa VIII về văn hóa và Nghị quyết 23 của Bộ chính trị về văn nghệ là những nghị quyết hay, sâu sắc, toàn diện, thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trên lĩnh vực văn hóa và văn học nghệ thuật.
Nhưng nhiều tham luận cũng đặt ra câu hỏi. Nghị quyết của Đảng về văn hóa thì hay như vậy nhưng ai là người chỉ đạo thực hiện? Cơ chế chính sách về văn hóa, VHNT ra sao để đưa nghị quyết vào đời sống? Và quan trọng hơn là con người, nhân tố chính biến những khát vọng, lí tưởng ấy thành hiện thực? Những ý kiến phát biểu chân tình tâm huyết của GS. Hà Minh Đức, GS. Phong Lê, GS. Phương Lựu, GS. Tô Ngọc Thanh, NSND. Chu Thúy Quỳnh, Lê Tiến Thọ, nhạc sĩ Phó Đức Phương, nhà thơ Bằng Việt… Và ý kiến của đồng chí Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên TW Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo TW bằng tầm lòng , tình cảm chân thành của người trí thức, văn nghệ sĩ, đã nhìn thẳng vào sự thật để chỉ ra những cái được, cái chưa được trong đời sống VHNT hiện nay, nhiều người đã thấy sau 15 năm thực hiện Nghị quyết một diện mạo mới trong đời sống văn hóa, VHNT đã xuất hiện: phong phú, đa dạng, dân chủ trong sáng tạo… nhưng cùng với nó đời sống văn hóa, xã hội này sinh nhiều vấn đề phức tạp về tư tưởng đạo đức, lối sống. Có những hiện tượng phản văn hóa đến mức người giàu trí tưởng tượng của 20, 30 năm trước không dám nghĩ tới, không hình dung ra thì nó lại diễn ra như vậy. “Gia đình là hạt nhân của xã hội, chúng ta có hàng vạn gia đình được phong tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa mới”, nhưng những gì đang diễn ra trong mỗi gia đình hiện nay, những bất công của xã hội được chứng kiến hằng ngày đã tác động tới từng con người, làm suy thoái đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam… Một bộ máy công quyền từ Trung ương đến địa phương, nhất là cấp
xã, phường dùng theo chữ của GS Phong Lê “thiếu thân thiện với người dân”. Chính sách đối với trí thức chưa được cải thiện. Nợ công, tham nhũng, làm thất thoát tài sản của nhà nước lên tới cả triệu tỷ đồng. Nhiều người khẳng định rằng chỉ cần nhà nước quan tâm đầu tư một phần rất nhỏ cho văn hóa, cho VHNT, cho các hộ gia đình thuộc diện chính sách, đầu tư cho bệnh viện, cho trường học… thì chắc chắn tình hình văn hóa, xã hội không xuống cấp tới mức đảng lo ngại như hiện nay.
Cũng cần nói thêm rằng từ sau khi có Nghị quyết TW V (khóa VIII) đến nay, Đảng và Chính phủ đã quan tâm thường xuyên hỗ trợ cho VHNT. Những năm đầu tiên được hỗ trợ từ 10 – 15 tỷ đồng/ một năm cho 10 Hội VHNT chuyên ngành TW. Từ năm 2006 đến nay mức hỗ trợ cho văn nghệ sĩ và báo chí cao nhất hiện nay là 80 tỷ đồng/năm cho 4 vạn văn nghệ sĩ và hàng chục vạn nhà nâng cao chất lượng sáng tạo các tác phẩm, công trình VHNT và báo chí. Nhờ nguồn hỗ trợ này cùng với kinh phí thường xuyên hoạt động của các hội rất ít ỏi nhưng đã triển khai nhiều hoạt động VHNT, hoàn thành các dự án sáng tạo tác phẩm phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của đất nước là viết về các đề tài cách mạng và kháng chiến, lịch sử truyền thống của dân tộc, công cuộc đổi mới, về đề tài thiếu nhi… Song cái được lớn nhất không thể tính được bằng tiền là gìn giữ cho sự nghiệp VHNT cách mạng ổn định và phát triển đảm bảo định hướng sáng tác tạo được sự vững vàng về mặt tư tưởng cho đội ngũ văn nghệ sĩ. Và trên hết là giữ được sự cường thịnh và bền vững của đất nước.
Đã có lần trong một cuộc hội thảo do Hội đồng Lí luận – Phê bình VHNT TW tổ chức, nhạc sĩ Ca Lê Thuẩn, nhà văn Vũ Hạnh đã cảnh báo về một cuộc xâm lăng văn hóa đang diễn ra một cuộc xâm lăng không đổ máu nhưng nó len lỏi ở nhiều bình diện, ở nhiều cấp độ khác nhau. Từ lời ăn tiếng nói trên miệng các cô gái Việt xinh đẹp dẫn chương trình đến các biển hiệu quảng cáo trong các quán ăn, nhà hàng, doanh nghiệp. Cái khó lớn nhất hiện nay trong quá trình hội nhập và phát triển là nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà chúng ta đang cố gắng gìn giữ, thì song hành cùng với nó là sự triệt tiêu, băng hoại nhiều giá trị văn hóa, đạo đức đã từng làm nên sự độc đáo, vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam. Cuộc chiến trong việc giữ gìn và bảo vệ văn hóa dân tộc ngày nay không phân định ranh giới. Cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác, những giá trị nhân nghĩa, tử tế luôn đồng hành cùng với những mưu toan hèn hạ, vụ lợi. Cùng với những điều tốt hay lẫn cả cái không tốt từ văn hóa nước ngoài đang ảnh hưởng tới xã hội Việt Nam.
Nghị quyết TƯ. V (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về văn học nghệ thuật là một chiến lược phát triển văn hóa, VHNT lâu dài của Đảng và Nhà nước ta, sẽ cùng đồng hành với xã hội ta trong nhiều năm nữa. Nhiều người mong muốn giữ cho được định hướng ấy, thực thi cơ chế chính sách phù hợp với sự phát triển của đất nước trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nhưng điều cốt lõi như Nghị quyết đã xác định vấn đề then chốt là nhân tố CON NGƯỜI. Người chỉ đạo định hướng. Người quản lí điều hành. Người thực hiện trong đó có đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức. Chỉ có vậy văn hóa Việt Nam mới vượt qua được những khó khăn, thách thức như hiện nay để tiếp tục phát triển trong một tiền đồ rạng rỡ.
Nhà văn Đỗ Kim Cuông
(Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp VHNT Việt Nam)
Vũ Thiên Kiều
(Hội VHNT Kiên Giang)
Mùa đìa tháng Tư
Tháng Tư khô nẻ cho mùa đìa rộn rã
nhảy nhót rô trê khi nước cạn sòng
tẩn mẩn sục bùn cày bới ngập cánh tay
nghe mát lạnh
chuyến tàu ngầm thiên nhiên
chỉ quê mình mới có
Chúng mình nhăm nhăm
đợi tiếng hô : xả giàn ào xuống
chợ bắt hôi nhóm náo nhiều không ngờ
em trước anh sau sốt từng bụi cỏ
con cá lóc lăn sâu nín thở
bắt được rồi
len lén
anh bỏ giỏ của em
từng sặt bướm, lòng tong, chốt dọc dưa bé xíu
thoăn thoắt tay anh – hai chiếc giỏ nặng dần
đuổi bắt con lươn
chợt
đôi bàn tay chúng mình ấm lạ lạc trong nhau
để khắc ấy vạn ngày xa mãi nhớ
mùa đìa thời nay
đau đáy bùn bởi dòng dòng xiệc điện
mắt cá vỡ tung
nhòe máu...
con chúng mình từ thơ bé đã ngược dòng về phố
lối cũ chỉ còn
anh và em
mỗi tháng tư lại anh xao thở dốc
nhưng nhức
lỡ lời hẹn
mùa đìa
tháng tư!
Trần Huy Minh Phương
(Hội VHNT Sóc Trăng)
Dolta(*)
đó là mùa vọng tưởng của người xưa
nhạc ngũ âm dặt dìu sau câu kinh cứu rỗi
rủ nhau về phum vận xà rông trùm bước nhẹ
đàn ông, đàn bà, con trai, con gái...
cháy đỏ lòng nhấp nháy nén nhang thơm
đòng đưa nhịp múa lâm thol
dâng cơm cúng mẹ
dâng cơm lễ cha
lạy chư tăng rợp mình như sóng vỗ
lấp lóa ánh vàng choàng qua đời
trợ duyên/ nâng niu bao nghiệp phận
anh khôngthuộc câu kinh
em chưa tròn điệu múa
đưa mắt nhìn nhau lẻn sau chái bếp
lạy mẹ
xới cơm
hột gạo trắng ngần
mẹ cười đỏ nến hoàng hôn...
+Lễ Dolta cũng là lễ báo hiếu của người khmer Nam Bộ
Vệt gió mồ côi
có một đêm em quên về xóm gió
chưa kịp nghe mùi quê anh bún mắm, bầy dơi thiền mặc niệm
vòng xe lăn bánh nhịp đời cuộn chảy
có người nói sao quê mình buồn vậy
ngọn gió chồm khuya những trầm tư
con nước thở bên nhà - bầu trời trong nắm tay...
có người hỏi điệu vọng vổ ngọt lòng đi sao đặng
vậy mà người vẫn biền biệy bao mùa trăng
gió cứ luồn qua ô cửa những mùa xuân
bao chàng trai, cô gái neo giấc mơ đến những thành phố lạ
cái chữ theo sóng vỡ nhịp đò ngang
họ mải miết đi
trong trẻo buổi đầu bị đánh cắp - những ngày về
hoa trinh nữ không còn mắc cỡ
bờ rào kẽm gai từ đó mọc đầy quanh xóm chia lô nỗi nhớ
có một lần tôi thẩn thơ bên cầu xưa, bến cũ
bầy trẻ xa cứ ngỡ khách đến nhà
con phồ của tuổi thơ vẫn đây mà lòng mình cạn quá
đi nửa đời vẫn chưa hiểu con đường quê.
Tảo Mai
(Hội VHNT Kiên Giang)
Cà phê võng một mình
Đong đưa dõi ánh mây hồng
Tôi ru tôi giữa mênh mông biển đời
Một mình dỗ giấc chơi vơi
Ly cà phê đắng và tôi tự tình
Quẩn quanh mỏi kiếp phù sinh
Giữa hư không, chỉ một mình lẻ loi
Bấm tay tính sổ cuộc đời
Thiệt thua đầy ắp, nụ cười hiếm hoi
Xuân đời thế sự tốt tươi
Xuân tôi, ảo tượng mù khơi nhạt nhòa...
Giấu trong tim tiếng vỡ òa
Giấc mơ hạnh phúc chỉ là viển vông
Một đời nắm bắt hư không
Một đời đuổi bóng, bão giông một đời
Nguyễn Thị Diên
(Hội VHNT Sóc Trắng)
Đợi
Sầu riêng chín rụng vườn nhà
Hồn em rụng xuống phong ba bão bùng
Đắm mình vào cõi mông lung
Chìm trong hư ảo hình dung cõi người
Mịt mờ mây phủ lưng trời
Ngọn đèn hiu hắt chơi vơi nỗi niềm
Hạt mưa rơi chéo bên thềm
Mà nghe lạnh buốt lời đêm tự tình...
Bọt bèo trong kiếp phù sinh
Đành ôm giấc mộng riêng mình tương tư
Nhớ ai dạ nát tim nhừ
Buồn thương vất vưởng âm thư nhạt màu
Phong tình chồng chất chẳng trao
Để dòng thơ muộn nhuốm màu tơ vương
Đời em - cỏ dại ven đường
Lặng thâm in dấu phong sương tháng ngày
Hạt duyên người bỏ tìm may
Lượm về đem ủ đợi ngày... đơm bông
Mã Giang Ba
(Hội VHNT Trà Vinh)
Về cù lao Dung
Thai nghén mấy ngàn năm
Cửu Long mở chín cửa rồng
Lòng mẹ đẻ đau mang nặng
Những cù lao ngút ngút màu xanh
Cù Lao Dung, Cù Lao Dung !
Ai đặt tên em mà thân thương đến thế
Để người đi nơi chân trời góc bể
Nhớ nao lòng tóc Thủy Liễu bay bay
Chiều mênh mang khói sóng phủ đầy
Ta trở lại tìm dòng Ba Thắc
Gặp xanh xanh rừng bần rừng đước
Mắt cô đào trong vắt nước Đầm Tiên
Gió lặng, sóng yên dưới rạch Trường Tiền
Hoa trái xum xuê trên cồn Long Ẩn
Đâu dấu quân vương trên đười bôn tẩu
Chỉ hoàng hôn chảy mạ đồng thau
Bến lở xát bồi bao chuyện vbể dâu
Ai còn nhớ một thời bão táp
Những cuộc đời cần lao chất phác
Đã viết lên trang sử sách anh hùng
Đêm dưới thuyền rót chén rượu suông
Câu vọng cổ lan xa từng bước sóng
Mắt thiêm thiếp đón mừng cơn gió lộng
Nằng nặng phù sa chảy ngược vào lòng
Cù Lao Dung, Cù Lao Dung
Giữa đêm cổ tích hóa rồng bay lên
Có khiĐôi khi ngẫm, tự khen mình
Cái men kiêu bạc coi khinh bạc vàng
Giắt lưng vài chữ làm sang
Câu thơ con cóc nghênh ngang với đời
Có khi bỗng buột miệng cười
Ngơ ngơ ngẩn ngẩn nửa người nửa ma
Gối tay đợi mộng phù hoa
Trắng đêm mưa bão dột qua mái nghèo
Có khi đọc lại câu Kiều
Nghĩ mình không phải bọt bèo, mà đau
Thương ngườitrước, xót kẻ sau
Tiếng keo nào thấu trời cao đấy dày
Có khi lần đốt ngón tay
Tính xem đã mấy tháng ngày tiêu hoang
Bước chân sinh kế long đong
Hùng tâm tráng chí cũng xoàng xĩnh thôi !
Có đêm nhìn ánh sao rơi
Tiếng chim heo giật thốt người mà lo
Thắp lòng sưởi chút tàn tro
Lửa reo ráo cháy, gió đùa ngại chi !
Huỳnh Thị Nương
(Hội Liên hiệp VHNT An Giang)
Trước biển
Có dịp em sẽ lẽo đẽo theo chân anh
Ta cùng về thắm phố biển
Ở đó chắc gió chiều lồng lộng
Làn nước xanh trong, mạch sóng vỗ đêm ngày
Khi đó
Em sẽ chỉ tay về phía mênh mông
Có thể nơi con sóng bủa, nơi ngọn gió bắt đầu
Bóng thuyền đã thấm vị mặn biển khơi
Biển vẫn xanh và gió vẫn reo
Trang điểm đại dương bằng bạt ngàn sóng cả
Chở bóng thuyền mãi xuôi về trăm ngả
Biết ngày nào buông neo ?
Những lúc biển cô đơn
Gió trở nên dữ dội
Anh bảo đó là sự hùng vĩ biển xanh
Em e dè nhìn sóng mãi xô bờ
Trước biển, em thầm nhủ :
Em sẽ không trói anh bằng vòng tay yếu đuối
Cũng chẳng bằng nước mắt chia ly
Em sẽ chỉ tay về phía mênh mông
Nếu anh là thuyền, em xin làm con sóng... dõi theo bước anh đi
Ngọn sào mùa nước nổi
Mùa nước nổi về
Đồng bằng lại dầm mình trong nước
Ở đó, ngày tôi lên tám
Đã theo ba câu lưới mưu sinh
Tiếng cúm núm kêu thảng thốt giữa chiều yên ả
Sóng ăm ắp mạn xuồng nghe vui như khúc hát
Sự bình yên về mùa nước nổi
Êm ái như lời ru của gió
Ký ức về mùa nước nổi quê tôi
Là bàn tay chai gầy của ba
Rắn chắc tì lên ngọn sào
Nhọc nhằn bủa lưới trên quãng đồng nước xa mù...
Rồi khi chiều xuống, đêm về
Bóng ba, bóng tôi ngả nghiêng trên mặt nước
Tôi vô tư ngồi đếm các vì sao
Bất chợt mưa dông ì ùng kéo đến
Chiếc xuống con lắc lưa thành miếng mồi trước sóng
Tôi lại thấy ba thoăn thoắt tay sào
Sự bình yên về mùa nước nổi trong tôi
Từ đó trở thành nỗi nhớ...
Thêm một mùa nước nổi nữa đi qua
Ký ức ngày tôi lên tám
Cứ xanh như đám rong
Hình ảnh về ngọn sào mùa nước nổi
Trụ trong lòng tôi một niềm kiêu hãnh
Tôi nhớ tới ba
Người nhắc tôi nhớ về một thời khó nhọc...
Tương Tư
(Hội VHNT Sóc Trăng)
Thì thầm điệp khúc lâm thol
Tựa cánh hồng chao lượn lâm thol
lạt rạt lào rào lao xao xóm rẫy
sâu bụi rã tan
lá vàng lả tả
mía ken hàng vươn dáng đúng đưa duyên
Mía rộ xanh thì
chín mọng xuân em
căng nét đôi mươi nhịp nhàng thoăn thoắt
vành nón lao chao
lóe ngời sóng mắt
quen - lạ
sững sờ
lữ khách ngẩn ngơ
Gió ngược dòng ào ạt mộng phố xa
em với mía nặng ơn tình đất
lặng lẽ cần lao ươm mầm ướp mật
mưa nắng giao duyên men dậy nồng nàn
Dòng mật thơm lành hòa thế giới chấm com
vị phù sa hương tình em hiến trọn
ngất ngây say
nắng tươi hồng khắp chốn
góc nhỏ quê mùa
ai nhớ
ai quên
Năm tháng thì thầm điệp khúc lâm thol...
Phong tâm
(Hội VHNT Bến Tre)
Sóc Trăng
Buồn quá chiều nay mây trắng đọng
Gió đâu để lạc cánh chim trời
Hoa xuân tím ngắt bên triền phố
Rũ cánh tàn hương mai của tôi
Nắng uống khô màu xanh luống cỏ
Người đi trên bóng đổ nghiêng chiều
Dường như có bước chân ai chạm
Lá lạnh lùng rơi rơi hắt hiu
Nắng Sóc nồng nàn đón khách xa
Xanh xanh Hồ Nước Ngọt, đường hoa...
Tôi ơi ! Tôi chỉ buồn riêng bởi
Nhớ bóng người xa dưới bóng nhà
Sóc Trăng đẹp lắm đâu buồn thế
Ánh mắt Khơ-me ngắm mặn mòi
Dáng mảnh mai duyên cô gái Việt
Em người Hoa nữa ở trong tôi
Bất chợt tôi đi dưới ánh đèn
Sắc màu Thành phố Sóc Trăng đêm
Như say ngút ngát trời mơ lạ
Ngỡ có cành mai nở trước thềm
Quý Hữu
(Hội VHNT Vĩnh Long)
Anh đến, anh đi
Từ một người bình thường trong xã hội
Anh đến !
Dàn kèm đón rước
Vọng trời xanh !
Anh
Đi đâu, ở đâu
Luôn có người hộ tống
Từng món ăn, giấc ngủ lúc vui chơi
Muốn gặp anh khó hơn mở cửa thiên đình !
Những người chực bên anh
Càng ngày càng đông đúc
Lời ngon, tiếng ngọt,
Đưa anh lên tận chín tầng mây
Từ trên cao vòi vọi,
Anh nhìn xuống
Chẳng thấy gì !
Lời anh nói bỗng dưng nặng hàng tấn
Câu thơ anh
Đọc trang trọng nơi nơi !
Mỗi cơn thịnh nộ của anh bung ra tự giông bão
Rung rinh như địa chấn !
Rồi cũng đến lúc
Anh trở về với cuộc sống ngày xưa !
Khoác tấm áo dân thường mỏng mảnh
Nhưng con ho tuổi già xé gan ruột,
Anh cố nói to lại thành thều thào như sợi tơ mành,
Vợ con anh nghe mồn một,
Mà người ngoài chẳng nhận rõ âm thanh !
Có để thành không,
Không thiếu tích có
Anh đến,
Anh đi,
Một hồi kịch đời !
Võ Thanh Phong
(Hội VHNT Long An)
Qua Cù Lao Dung nhớ nhạc sĩ Quốc Hương
Ai về Cù Lao Dung
Nhớ ghé bến Rạch Già(1)
Rạch già một sáng tôi qua
Đi tìm câu hát, chuyên phà trôi xuôi
Bài ca bao nhiêu tuổi rồi ?
Còn vang vọng mãi đất trời quê hương
Lời ca thay bảng chỉ đường
Rạch Già trưa nắng chang chang tôi về
Bóng dừa xanh mưới làng quê
Rêu mờ dấu tích, văn bia lặng thầm
Chỉ còn câu hát mãi xanh
Mênh mang như sóng cuộn dòng Cửu Long
Nơ nào anh đã dừng chân
Bài xa viết vội phút hành quân xa
Máu Tây loang đỏ Rạch Già
Bóng ngườidu kích, khúc ca hào hùng
Cù Lao Dung, Cù Lao Dung
Bâng khuâng nỗi nhớ buông chùng nắng trưa
Rach Già vẫn Rạch Già xưa
Tiếng ca còn vọng, người xưa đâu rồi !
(1) Lời bát hát Du kích Long Phú của nhạc sĩ Quốc Hưng
Mảnh vườn thuêTruyện ngắn của Võ Thụy Như Phương
_Cô Như này, cho tôi gởi nhờ con Lis một tí, tội nó lắm cô ạ, cứ nhớ bên này là
nhà của nó nên cố chui qua cổng sắt đến nỗi trầy rách cả da đầu. Lát nữa tôi sang
mang nó về cô nhé.
Gã chủ nhà tự luồn tay vào mở chốt cửa rồi giả lả gởi nhờ con chó. Con Lis mừng
vì được về chỗ quen, thấy cửa vừa hé đã dùng mõm đẩy mạnh chạy vù vào sân,
khịt khịt mũi vào gốc mận rồi chạy lăng xăng đến bồn hoa. Đoạn quay lại ghé mũi
vào chỗ chiếc Cuxi màu tím của Như giơ chân lên tè một phát. Như cố cười thật
tươi với gã rồi bảo: “Dạ anh cứ để nó ở bên này ạ, tội quá, tróc hết cả da đầu.
Chắc ở bên này rộng rãi nó quen…” rồi đưa tay vuốt vuốt đầu con Lis. Gã cười,
day lưng mở cổng ra về không quên nói lời cảm ơn rõ to. Con Lis được nước chạy
loanh quanh một hồi rồi nằm lim dim trên thềm nhà sưởi nắng.
Từ ngày dọn nhà sang bên này, hôm nào cũng vậy, cứ đều đặn mỗi sáng gã luôn
mang con Lis sang gởi nhờ cả buổi rồi đến trưa mới dắt chó về. Y như rằng mỗi
ngày Như phải dọn đống phân của con Lis cho vào thùng rác. Ở đâu có kiểu cho
thuê nhà rồi mà mỗi ngày còn đưa chó sang đi vệ sinh trong sân người ta như vậy?
Như nghĩ cả Sài Gòn này chỉ có người cho thuê nhà như gã.
Thì cả Sài Gòn này chắc cũng còn sót lại một ngôi nhà kiểu biệt thự cũ, có sân
vườn như nhà này. Lúc tìm thuê thêm nhà để thuận tiện cho việc kinh doanh phát
sinh, Như cần một chỗ rộng rãi để chứa vật dụng và có nơi cho nhân viên nghỉ lại.
Ngôi nhà thật ưng ý, kiêu nha hơi cô. Năm lot thom giưa manh vươn vưa chuôi,
vưa dưa xanh um. Manh vươn bo hoang nên đám hoa kiểng trước bồn héo quắt,
loại nào sống được thì bò lan ra cả lối đi. Lá khô, co cao quá mắc cá chân. Cuôi
gia, chuôi sim quăt queo năm bươn ba trên đam co. Hoa chuôi trô buông tư khi
nao không biêt, đâu đươc bôn nai đeo đuôt rôi ngưng. Vươn hoang, chuôi hoang
nên chăng ai them lây băp chuôi, đê hoa cư trô hêt be nay đên be khac, quay chuôi
cư theo đo dai ngoăng, dươi chop con lai cai băp chuôi be teo năm khuât trong co.
Cổng rào sơn trắng, hai bên cưa la hai đam hoa giây đươc trông lâu năm, thân
quân vao nhau xu xi, rê luông qua đât, len loi vao tân hang ba, xơi tung mây
miêng gach tau lên khoi đât. Co miêng vơ đôi năng chong chơ, nhin thây ca cat
côn va rê cây trồi ngang qua bên dươi no. Lối vao nha đươc lot gach tau kiêu cach.
Miêng gach đươc đăt xeo như hinh thoi. Đoan giưa la đương đi cua rê cây nên
gach cung bi troc trên khoi đât môt đương xeo rôi keo dai ra vươn. Chủ nhà còn
trẻ, cùng lắm là hơn Như vài tuổi. Từ mảnh vườn và ngôi nhà rộng thênh thang đó
gã cắt ra chừng sáu mét ngang để cất một căn nhà phố hai tấm rưỡi, bên hông trổ
cửa sổ hướng ra vườn cho thoáng. Từ bên ngoài hẻm lớn vừa đủ một chiếc xe tải
đậu và khít một chiếc xe máy thì cánh cổng nhà vừa sát mí tường nhà trước mặt.
Mở cửa vào bên trong mới thấy như được bước một vào thế giới khác, đúng như
lời quảng chủ nhà quảng cáo trên trang rao vặt là “nhà vừa rẻ, vừa thích hợp nghỉ
dưỡng”
Thế là Như đổi ý, cô bảo đám nhân viên cứ nghỉ lại văn phòng còn cả gia đình dọn
về nhà thuê vừa trông kho, vừa được nghỉ dưỡng. Mấy hôm đầu, Như cùng chồng
tự tay dọn hết đám cỏ hoang trong vườn, buồng chuối đèo đuột được hạ xuống,
mấy quay chuối nặng gần chín bói được nâng đỡ bằng những nhánh mù u có chạc
ba vững trãi. Đồ đạc đã chuyển về hết. Mọi thứ đâu vào đó. Như chọn cho mình
góc kê bàn ngay cửa sổ, hướng nhìn ra bồn hoa đã được chăm sóc và hồi sinh. Sát
mí tường gạch, đám hoa nổ cao vươn cao, nép vào mí tường đã nở vài bông tim
tím, hồng phấn, hồng tỉ muội nở rực cả một góc vườn. Nhật thấy vợ yêu hoa nên
sáng nào cũng thức sớm giúp Như tưới nước rồi mới đưa con đến trường. Đó, cứ
để Như nướng thêm vài phút mà khép cổng rào rồi đi, để gã chủ nhà cứ dắt chó
sang, tự mở cửa rồi lại gởi gắm…
Đâu chừng nửa tháng, Như bảo Nhật hễ sáng có đưa con đi thì cứ khóa trái, chừng
về thì bấm chuông Như sẽ ra mở cửa. Kệ, Mích lòng cũng được, miễn sao đừng
bắt người khác mỗi tháng trả tiền thuê nhà còn phải dọn phân chó cho họ. Nhật chỉ
cười bảo vợ: “Kệ đi em à, dọn chút có sao đâu nè?” “Thì cứ tập cho con Lis nó
quen với nhà bên đó đi chứ, ở Sài Gòn chứ phải nhà quê rộng rãi đâu mà chăm sóc
vật nuôi? Rồi còn làm phiền người khác”.
Hôm mới đến, trong nhà còn lại vài thứ linh tinh từ những người thuê trước, Như
nhờ hàng xóm nhờ khuâng đi cho hết. Bộ bàn dài được dời sang sát của sổ nhìn ra
vườn. Duy nhất chiếc bình ủ trà bằng vỏ dừa khô được Như giữ lại. Chiếc giường
tre cũ được dời ra gian bếp, Nhật luôn làm theo ý Như khi
vợ thuyết phục việc gì đó có lý có tình. Như bảo: “Em muốn gian giữa và chái bếp
được bày biện như nhà cũ của ngoại cho đỡ ghiền”. Nhật biết vợ nhớ quê, ở Sài
Gòn mà sáng nào cũng dậy sớm hấp cơm ngụi, cá kho khô. Mà phải kho bằng cái
ơ sành mới chịu. Như nói đã ăn món nhà quê thì phải ăn cho đúng cách, tỉ dụ như
cá rô đồng thì nấu canh chua bông súng mới ngon. Bông súng thì chọn cọng hoa
ngon hơn cọng lá. Rau nêm thì phải lá quế chớ không được nêm ngò gai hay rau
ngò om sẽ mất vị.
Cứ như mỗi bận vô bếp thì Như trở thành cuốn cẩm nang dày cộm, bên trong đủ
thứ món, đủ mọi gia vị. Nhánh cây khô khắp vườn được Như dọn gọn, chất đầy
một chỗ để dành hôm nào đó mất điện thì nấu cơm bằng bếp củi, Như bảo “để em
nhóm bếp cho anh ngửi khói quê”. Khói thơm, đúng kiểu khói lam chiều thì phải
được đốt bằng củi vườn. Nhật bảo: “Thời buổi này, chứa củi trên bếp dễ bắt lửa,
em cẩn thận”. Như cười: “Hồi dưới quê cũng chất như vậy, không sao đâu mà”.
_Cô Như này, cô đừng để bao phân kề bên đồng hồ nước như thế, nó ngã vào
đồng hồ sẽ hư cô ạ.
Gã vừa kéo cổng chốt cửa rào, bước nhanh vào vừa nói với Như câu đấy vừa đưa
tay kéo bao đất sạch Như chưa kịp dùng ra xa. Kiểu cứ như gã chưa từng cho Như
thuê ngôi nhà này vậy. Như bỏ dở công việc bước ra xã giao vài lời cho phải phép:
“Đất sạch thôi anh ạ, chẳng phải phân bón gì đâu” “À, thì tôi sợ nó nặng ngã vào
hư đồng hồ nước ấy mà”. Rồi day sang chỉ tay vào đám hoa nổ tím hỏi: “Hoa gì
đấy cô Như nè?” Rồi cũng chẳng đợi Như lên tiếng, gã tiếp: “Nói cô nghe ngày
trước chúng tôi trồng nhiều lắm cô ạ, sau này bận quá bỏ chết khô cả, mà cô chăm
nhỉ? Thế thì tôi thích lắm đấy”. Đoạn, lại chỉ sang dãy cà chua Như cuốn liếp rồi
bứng ra đất hai hàng thẳng tắp, cây vừa cao tầm một gang tay rồi hỏi tiếp: “Cây gì
đấy cô?” “Dạ cà chua anh ạ, còn mấy cây này là ớt chỉ thiên, trái xanh mà cay lắm
ạ”. Gã cười “công nhận cô siêng thật, thế gia đình mình gốc nhà nông à?” “Dạ
không, tụi em người Sài Gòn cả, nhà vườn rộng rãi nên có nghiên cứu thêm một
số rau cải sạch để tự trồng.”
Nghe đến đấy, gã chỉ vào góc vườn còn trống vừa được cải tạo đất sạch rồi nhờ
vả: “Thế thì cô cho tôi ghim đỡ mấy nhánh lược vàng chỗ này nhé, loại lá này trị
được cả viêm họng và đau răng đấy. Ngặt nỗi bên nhà tôi đã hết chậu để trồng,
nhé, chiều tôi mang sang nhờ cô chắm sóc giúp.” Rồi lại ra về, con Lis được dịp
theo chủ sang chỗ quen cũ lại chạy lăng xăng, ngửi ngửi, khịt khịt rồi lại giở chân
tè ngay vào ngay bánh sau chiếc Cuxi của Như. Đã dặn chồng khóa trái cổng mà
Nhật quên miết. Đấy, lại phải dọn cái đống thải của con chó nhà gã.
***
Mới đó mà Như dọn về chỗ mới đã vài tháng. Gã chủ nhà không còn kéo khóa
cổng để tự tiện bước vào trong sân nữa. Có thể con Lis cũng quen với việc bị nhốt
trong khoảnh sân mười hai mét vuông vừa để bít mấy chậu kiểng vừa dùng làm
nơi cho chó ngủ. Đám lược vàng của gã đã lên xanh, giữa ngọn vừa trồi lên tược
mới. Đám hoa lài bên ngoài cửa sổ phòng làm việc của Như nở rộ trắng cây. Cứ
độ khoảng tám, chín giờ hương thơm ngan ngát. Nhật không hay nói nịnh vợ
nhưng thấy góc vườn có hoa thì ra chiều mãn ý. Mỗi sáng lại tranh thủ tưới nước
rồi mới đưa con đi học.
Nhớ hôm mới về, từ chỗ chật hẹp được dọn ra nhà vườn rộng rãi, hễ thấy chỗ nào
đất trống là Nhật lên kế hoạch trồng rau, trồng cải. Cả cái giếng trời giữa nhà Nhật
cũng bảo để tận dụng trồng rau sạch theo phương thức thủy canh. Mấy bồn hoa
Nhật cũng đòi trồng hành tiêu tỏi ớt. Như cười “Thôi, cứ từ từ, chỗ nào trồng rau
cũng được, những đám đất trước cửa phòng để em trồng hoa, mình phải chừa một
chổ để hưởng thụ cuộc đời nữa chứ”. Rồi cứ mỗi bận đón con về, Ngọc khệ nệ
nào là lài ta, lài tây, nguyệt quế, sứ cùi…Cả chậu bông súng tím bé bé cũng được
cô kê ngay lối vào vườn hoa nhỏ của mình.
Cửa sổ nhà bên vẫn luôn mở một cánh, hướng nhìn qua đám vườn nhỏ bên này.
Thi thoảng gã lại với tay sang chỉ để gọi Như nhờ ngắt vài lá lược vàng, hay
chuyền sang cho con bé nhà Như vài viên kẹo.
Con Lis thôi không còn cào móng vào cửa nhà bên gã nữa, đêm cũng thôi rên ư ử
nhớ vườn. Chỉ tội cái sẹo to tướng phía trên trán là còn nguyên, hậu quả của
những cuộc tự than đấu tranh với cổng sắt nhà phố để về nơi cũ.
Sáng, Nhật vẫn để vợ ngủ nướng thêm chút, vẫn đều đặn tấm táp vườn hoa của
Như và đưa con đi học. Cửa rào nhà bên này vẫn luôn chốt trái, Nhật vẫn hay
quên việc đó và tội nghiệp con Lis nhà gã chủ, có lẽ nó cũng đã quên dần với việc
được chạy loanh quanh vườn nhà và phải thu mình vào chiếc hộp diêm của thành
thị.
Thụy Võ
Võ Thụy Như Phương_Hội viên hội văn học Tp Cần Thơ
61/3 Hùng Vương, Phường Thới Bình, Quận Ninh Kiều, Tp Cần Thơ
177/33B Nguyễn Văn Đậu, F11, Q Bình Thạnh, Tp HCM
Email:
SĐT: 0905 309 762
Truyện ngắn
Võ ma Nguyễn Nhật
Nam
“Ông Ba Quế chết rồi! Hổng biết buồn bực chuyện gì đến nỗi
phải thắt cổ tự vận. Chết rồi. Ổng mới chết đêm qua” .
Thiên hạ xôn xao. Có người còn tỏ ra rõ chuyện: thằng Sáu
Liệt là người phát hiện đầu tiên. Đúng là một tên trộm hết thời. Lọ mọ
lẻn vào khu vườn nhà ông Ba Quế, nó chưa kịp “chôm chĩa” được
món gì quý giá đã té vãi trong quần khi mờ mờ nhìn thấy cái thi thể
tỏng teo, kép lẹp như con khô hố lủng lẳng treo trên nhánh cây hòe.
Mất hồn, mất vía, hai chân cuống cuồng không chạy được, thằng Liệt
chỉ có nước bò lết, oai oái la làng. Đêm khuya lồng lộng tiếng nó kêu
thét thất thanh, dù người mê ngủ đến đâu cũng phải giật mình thức
giấc.
Án mạng là chuyện lớn, chỉ trong buổi sáng, đầu trên xóm dưới
ai cũng biết tin. Nhà chức trách nhanh chóng vào cuộc với nghi vấn
ban đầu là một vụ án “cướp của, giết người”. Thế nhưng, qua khám
nghiệm tử thi, cả ba vị pháp y cùng kết luận: “Tắt nghẽn khí quản dẫn
đến tử vong. Nạn nhân chết vì ngạt thở”.
Xóm tôi là Xóm Đạo, hầu hết cư dân là những người theo đạo
Cao Đài. Nào giờ, khi trong xóm có người qua đời, bên thánh thất liền
gióng chuông báo tử và cắt cử người trong Ban Hành thiện đến phụ
giúp gia đình lo việc lễ tang. Lão Quế không có họ hàng thân thích
nên càng không thể là trường hợp ngoại lệ. Đặt trước quan tài là bức
chân dung được vị sư Độ Ách ký họa lúc lão lên chùa Mỹ Thiện tầm
sư. Gương mặt trong ảnh còn quá trẻ so với tuổi tám mươi của lão
khiến nhiều người ngạc nhiên, thắc mắc không hiểu vì sao và lúc nào
mà một lão già tối ngày luôn miệng láp dáp như người mắc chứng
“bệnh đàng dưới” lại có thể tỉnh táo để suy nghĩ, tính toán - dù kỳ
quặc nhưng cũng khá chu đáo, công việc hậu sự của mình. Lão muốn
vậy thì làm vậy. Có điều, cũng trong di nguyện là những dòng chữ
nghuệch ngoạt viết trên tấm giấy hồng đơn được nhà chức trách giảo
tự và xác nhận đúng là chữ viết của người quá cố, lão Quế tha thiết
muốn được “an giấc nghìn thu bên gốc cây hòe” – nơi mà mỗi chiều
lão vẫn thường ngồi cùng ly rượu nhỏ tỉ tê trút nỗi niềm riêng. Gì chớ
tâm nguyện nầy thì không thể. Bởi, “nhằm đẩy mạnh tiến trình phát
triển đô thị, tiến đến thực hiện thành công công tác xây dựng đô thị
loại III”, cây hòe và quá nửa phần đất sân nhà lão Quế nằm trong quy
hoạch lộ giới, nay mai người ta sẽ mở một con đường với bốn làn xe
để làm tuyến tránh vào khu vực nội ô Thị xã.
Sau hàng mấy chục năm hoang vắng, ngôi nhà cổ của lão Quế
bỗng đèn đuốc sáng choang và chiêng trống xập xình. Từ trước đến
giờ, ở làng nầy chưa có đám tang nào người đưa ma đông như thế.
“Nghĩa tử là nghĩa tận”, dường như cả xóm cùng đến thắp hương rồi
nán lại lan man chờ đến giờ tiễn biệt. Họ đến vì tình làng nghĩa xóm
và vì điều bí ẩn còn chưa giải mã được về những huyền thoại của một
hảo hớn trẻ tuổi tài ba, sáu mươi năm trước đã nhận lời thách đấu và
oanh liệt chiến thắng trong một trận thư hùng.
Đêm tháng Mười phủ trùm lên vườn dừa tấm màn sương dày
đặc. Ngoài sông, gió đầu Đông thổi hắt từng cơn se lạnh đánh thức
những cơn đau nhức cố hữu của người già. Tôi nhìn đồng hồ. Hai
mươi ba giờ. Vậy là, chỉ một tiếng đồng hồ nữa thôi, những người
“đạo tỳ” sẽ khiêng quan tài lão Quế đặt vào huyệt mộ để trả hết
xương thịt của một sinh linh về với đất.
*
* *
Người xưa thường hay nói “Ba chìm, bảy nổi, chín linh đinh”
là để ví von cho “thân phận” của hạt đậu khi người đời ngâm nấu chế
biến thành tương. Lão Quế cũng vậy, cũng giống như hạt đậu với biết
bao nỗi buồn linh đinh - chìm – nổi.
Nói về thân phận và cuộc đời của lão, có lẽ phải bắt đầu từ cây
hòe và những sai sót không đáng có của ông Bộ Đời – ủy viên hộ tịch
làng Mỹ Thiện.
Thật ra, dù đến giờ vẫn chưa ai có thể khẳng định một cách thật
chính xác về nguồn gốc và tuổi thọ của cây hòe, nhưng những dấu ấn
đầu đời trong ký ức tuổi thơ tôi vẫn luôn hiển hiện hình dáng của cây
cổ thụ đang mùa rực rỡ hoa vàng và những chuỗi trái trông giống như
tràng hạt. Với vị thế là một chứng nhân ghi nhận sự có mặt của lưu
dân thời mở đất, cây hòe sừng sững đứng chiếm một khoảng đất rộng
trước sân nhà ông Hương giáo Thảo. Dù vậy, dù cây mọc ở sân nhà
nhưng cũng không thể xem gốc cổ thụ là sở hữu của riêng ông mà
mặc nhiên cây hòe phải là của dân làng Mỹ Thiện. Có điều, chung
hay riêng gì thì cũng không quan trọng, ông Hương giáo vẫn yêu quý
cây hòe và ngày ngày để ý săm soi.
Bà Hương giáo sinh khó, không kịp nhìn thấy mặt cô con gái
đầu lòng. “Long phượng hợp bích. Tiếc là ông có con phượng mà
thiếu con rồng”. Sau mấy ngày tới lui òn ỉ nài mua cây hòe bằng mọi
giá mà gia chủ thì cứ lắc đầu nguầy nguậy, ông thầy địa lý đành thất
vọng giã từ và không quên lơ lớ gởi lại lời bóng gió, vu vơ. Bước ra
cửa, ông ta còn ngoái lại “Tìm rồng không khó, nhưng có rồng, e
rằng… mất phụng”. Hiểu rõ cái hàm ý của những câu nói ỡm ờ tưởng
chừng như vô tình của ông thầy địa lý, ông Hương giáo vẫn tin tưởng
“đức năng thắng số” nên quyết tâm phải “tận nhân lực” để “ tri
thiên mệnh”. Ngày thôi nôi cô Hai Kim Hoa, ông bồng về một bé trai
kháu khỉnh, nhận làm con nuôi và đặt cho cậu tên Hòe – cậu Ba Hòe.
Khổ nỗi, lúc khai sinh, ông Bộ Đời đã lẫm cẫm viết tên cậu ấm là
Nguyễn Xuân Què. “Mình không tật nguyền cũng không què quặt,
sao lại đặt tên Què?”. Tuổi bập bẹ ráp vần, cậu ấm không hài lòng
với cái tên xấu háy nên đã hí hoáy quẹt thêm âm “sắc” dính liền với
âm “huyền” để “Què” thành “Quê”. Đến tuổi thanh niên, sợ bạn bè
trêu chọc, một lần nữa cậu Ba Quê lại nắn nót viết thêm âm “sắc” để
tên “Quê” thành tên “Quế”.
Đại khái, “lược sử” về cái tên Ba Quế của lão bạn già của tôi là
như vậy. Hồi đó, dù không cùng giai cấp xuất thân, nhưng tôi - con
của một tá điền, và Hai Hoa, Ba Quế - con của ông chủ ruộng, đã sớm
gắn kết bằng một thứ tình cảm bạn bè khăng khít. Tuổi nhỏ hồn nhiên
của chúng tôi là những năm tháng êm đềm với những cuộc vui chơi:
cỡi trâu, bắt dế, thả diều … trên cánh đồng rộng mênh mông sau mùa
cấy gặt. Nhìn bầy con đang tuổi lớn, ông Hương giáo Thảo nửa
mừng, nửa lo. Ông mừng vì. con “phụng” Hoa hiền thục, thông minh.
Ông lo vì con “rồng” Quế quá đỗi nhu mì đến gần như ngờ nghệch.
“Ngọc bất trác bất thành khí/ Nhân bất học bất tri lý”. Ngọc
mà không mài giũa thì làm sao có thể trở thành quý hiếm. Người
không học thì làm sao biết lý lẽ sống ở trên đời. Ngưỡng mộ sư Độ
Ách là một vị cao tăng đắc đạo, ông Hương giáo Thảo mày mò chọn
ngày lành tháng tốt, dắt con lên chùa Mỹ Thiện làm lễ bái sư với kỳ
vọng cậu Ba Quế sẽ được lớn khôn và tự mình đứng vững bằng đôi
chân cứng cáp.
Mười năm. Thời gian như bóng con tuấn mã phi nhanh qua
khung cửa sổ, cậu Ba Quế đã thực sự giã từ thời tuổi nhỏ tắm truồng
và những trò chơi nghịch ngợm để trở thành một thanh niên nhu mì
tốt bụng.Khổ nỗi, “đệ tử tầm sư dị, sư tầm đệ tử nan”, dù được sư Độ
Ach chắt chiu dạy dỗ nhưng do đầu óc vốn bẫm sinh ngờ nghệch nên
sự chuyên cần của cậu Ba Quế cũng chỉ quanh quẩn với “thất thập
nhị huyền công” cơ bản và mấy câu chữ nhập môn học đạo làm
người. Yên tâm vì sự trưởng thành khôn lớn của con, ông Hương giáo
Thảo tỏ vẻ hài lòng và không hề giấu giếm cậu con trai về lai lịch
xuất thân. Cũng mừng, dù không cùng mẹ cùng cha, cùng chung
huyết thống, cô Hai Hoa và cậu Ba Quế vẫn chăm sóc, yêu thương
nhau bằng nghĩa tình chị em ruột thịt. Xinh đẹp. Hiền thục. Thông
minh. Cô Hai Hoa có một trí nhớ tuyệt vời, khi đã để ý một sự việc gì
thì rất khó mà quên. Vì vậy, những lần lên viếng thăm chùa, trộm
nhìn cậu Ba Quế trau dồi, luyện tập, cô Hai Hoa không khó để nhận
xét và nhắc nhở cậu em trai những câu văn, thế võ vụng về.
Mười năm. Hãnh diện của người thầy và mãn nguyện của
người cha là cơ duyên để sư Độ Ách và Hương giáo Thảo đến với
nhau. Để rồi, sau những buổi sáng đứng ngắm hồ sen, những buổi
chiều khoan thai bước trên con đường trải sõi quanh chùa và những
đêm trăng ngồi uống trà bàn việc đời, việc đạo hai người đã trở thành
tri kỹ thong dong vui sống cảnh thanh nhàn, thoát tục.
Mười năm. Dòng sông Mỹ Lung ngầu đục phù sa vẫn êm đềm
ngày hai con nước lớn ròng, cánh đồng Mỹ Thiện vẫn bầy cò trắng
chao nghiêng trên bạt ngàn biển lúa. Cuộc sống của người dân ở làng
quê thanh bình có lẽ sẽ mãi bình lặng như mặt nước hồ thu nếu như
trên cuộc đời nầy đừng có những loại người quá ích kỷ, tham lam bày
ra những cuộc tranh giành hơn - thua - được - mất.
Cây muốn lặng mà gió thì chẳng chịu ngừng. Ấy là những ngày
tháng Bảy, người bàng hoàng, đất cát cũng bàng hoàng, cây lá ủ ê tiếp
nhận những hạt mưa thu buồn não nuột.
Không bàng hoàng, không ủ ê sao được khi vỏn vẹn chỉ hai
ngày mà một gia đình đã tan tác vì một nỗi đau quá lớn: hai người
chết, một người điên. Ông Hương giáo Thảo ăn cơm mắc nghẹn -
chết. Ra sau hè rửa mặt, cô Hai Hoa trượt chân cắm đầu xuống
mương - chết. Còn cậu Ba Quế bất ngờ gặp gia biến, cùng một lúc đội
lên đầu hai chiếc khăn tang nên quẫn trí ngẩn ngơ điên dại. Câu
chuyện tang thương của một gia đình nhân đức, hiền lương thoạt nghe
mà tưởng như đùa khiến người ta không tin cũng phải tin, bởi sự thật
sờ sờ bày ra trước mắt
Ông Hương giáo chết, nếu đấng thiêng liêng xem ông là kẻ ác
nhân phải chịu sự trừng phạt thì dù có đốt đuốc tìm khắp cả làng Mỹ
Thiện cũng không lấy đâu ra được một người hiền. Cô Hai Hoa chết,
nếu không là sự trùng hợp xui rủi ngẫu nhiên, không lẽ ông Hương
giáo chết nhằm ngày trùng tang liên táng? Người nói vầy, người nói
khác. Đến khi nghe ông Hương lễ Hoài rưng rưng đọc bài điếu văn ca
ngợi công đức của người quá cố, ai cũng ngân ngấn tiếc thương và
chợt nhớ gã đàn ông lạ mặt – ông thầy địa lý, người mà hai mươi năm
trước đã có lần đến làng Mỹ Thiện để nài mua cây hòe nhưng ông
Hương giáo Thảo không chịu bán. Bẵng đi hai mươi năm, ông thầy
địa lý đã trở thành là một ông lão sáu mươi già sộn vẫn bền bĩ, kiên trì
tìm đến làng Mỹ Thiện cũng chỉ để nài mua cây hòe cho bằng được
nhưng ông Hương Giáo Thảo vẫn cương quyết lắc đầu không bán.
Cuộc mặc cả giữa người cần mua và người không muốn bán bắt đầu
từ những lời lẽ nhẹ nhàng thuyết phục bỗng trở thành một cuộc tranh
cãi to tiếng, giằng co. Chỉ mươi ngày sau cuộc mua bán không thành
đó, xóm làng bật ngật nghe tin ông Hương giáo Thảo đột ngột qua
đời.
Vì sao ông Hương giáo Thảo và cô Hai Hoa chết? Vì sao trên
đất làng Mỹ Thiện rộng mênh mông có hàng trăm cây cổ thụ, ông
thầy địa lý không mua mà phải nài mua cho bằng được cây hòe? Vì
cây hòe là loại cây quý hiếm có thể luyện thành những viên thuốc “cải
tử hoàn sinh”? Hay vì cây hòe còn có điều gì linh thiêng, bí ẩn?
Trong suy nghĩ chơn chất của người dân Mỹ Thiện ngổn ngang
trăm điều nghi hoặc và thấp thỏm nỗi lo sợ vu vơ về một thế lực vô
hình nào đó đang ẩn mình trong bóng đêm đen ma quái chực chờ gieo
rắc tai ương. “Cây hòe là nguyên nhân. Ông thầy địa lý chính là thủ
phạm”. Ai đó đã rỉ tai ông Hương quản Tiết như vậy nhưng ông ta
ngoe nguẩy gạt ngang “Không bắt tận tay, không day tận mặt thì
không thể gán cho bất kỳ ai cái tội tày đình”.
Xong phần việc an táng cô Hai Hoa và ông Hương giáo Thảo,
sư Độ Ách viện lý do mỗi ngày phải bốn lần tụng kinh siêu độ cho
người quá cố nên cần phải lưu lại một thời gian rồi mới trở về chùa.
Thật ra, tụng kinh siêu độ chỉ là cái cớ, mà cố tình lưu lại là để đợi
chờ, ông chờ để tháo bỏ một cái gút thắt của sợi dây oan nghiệt.
“Nước cờ tàn, tốt phải nhập cung”. Ông thầy địa lý đến - con tốt đã
qua sông. Sự liều lĩnh của lão là một nước cờ tàn không ngoài tiên
liệu của sư Độ Ách.
“Thần, tề, mục, vĩ, tảng, tỷ, giác, nhĩ, yêu, túc, phúc, trường,
mỗi chữ là một bộ phận trên cơ thể con rồng mà người xưa gọi là
“thập nhị hình long”. Chữ phúc có nghĩa là cái bụng. Cây hòe đứng
trên bụng con rồng”. Ảo vọng về sự thăng tiến vinh hoa trên con
đường hoạn lộ của dòng tộc là động cơ xui khiến lão không từ bất kỳ
thủ đoạn để thực hiện cho bằng được những mưu toan bất chính.
Cũng như lần trước, lần nầy lão đến Mỹ Thiện cũng chỉ để nài mua
cây hòe và không phải mua bằng vàng ròng bạc nén mà bằng cái giá
cược là sinh mạng của mình. Còn nếu như sư Độ Ách hay ông Hương
giáo Thảo hoặc giả như ai đó vì nhu nhược, tham lam mà cố tình
nhân nhượng, bắt tay thỏa hiệp để mất cây hòe thì dân làng Mỹ Thiện
sẽ vô cùng khổ sở vì dịch bệnh thiên tai, mùa màng thất bát. Được cái
nầy phải mất cái kia, muốn giải quyết vấn đề còn hay mất của cây
hòe, chắc chắn cuộc tranh chấp thắng thua là điều không tránh khỏi.
Thế nhưng, vì đức hiếu sinh của nhà Phật, lòng từ bi không cho phép
một đệ tử thuần thành dửng dưng làm người ngoại cuộc.
Lời lẽ và thái độ dù ngạo mạn, xấc xược của ông thầy địa lý
cũng không đủ sức làm thành gợn sóng khuấy động cái tâm thanh
tịnh của vị cao tăng, sư Độ Ách nghiêm sắc mặt:
- Rất nhiều thứ có thể hôm nay là của mình nhưng ngày hôm
sau đã thuộc về người khác. “Có tức là không. Không tức là có”.
Sang hèn là “cái quả” của “cái nhân” mà kiếp trước đã đã trót lở tay
gieo. Lẽ thường tình, hễ có vay thì có trả. Trả - vay – vay - trả là cái
vòng lẫn quẫn muôn đời của bể khổ trầm luân. “Không ai giàu ba họ,
không ai khó đến ba đời”. Muốn thoát khỏi cái vòng oan nghiệt đó,
con người chỉ có mỗi một con đường là đừng bao giờ tạo ra nghiệp
chướng”.
Sư Độ Ách càng nhún nhường khuyên giải, lão càng gầm gừ,
gác bỏ ngoài tai. Sợi dây thừng đã căng quá mức. Thôi thì, muốn
được chữa lành, vết thương cần phải rửa và rửa cho thật sạch, tất
nhiên thân thể cũng phải chịu một lần đau. Sư Độ Ách khẽ gật đầu:
- Ba ngày nữa, ngày Rằm tháng Bảy, cuối giờ Tuất / đầu giờ
Hợi, mọi việc sẽ được giải quyết ráo rẻ tại gốc cây hòe.
Ba ngày. Dân làng lo lắng bỏ cả việc ra đồng. Còn quý cụ trong
Ban hương chức làng Mỹ Thiện từ sáng sớm đã loay hoay hội họp
để khẩn trương bàn tính, đến chạng vạng tối, dù trăm phương ngàn kế
được đề ra nhưng vẫn không có đáp án nào có thể trả lời câu hỏi khó
“ai sẽ treo chuông vào cổ con mèo” nên đành phải tuyên bố kết thúc
rồi lục tục kéo nhau đến nhà ông Hương giáo Thảo cho kịp giờ chứng
kiến trận tỉ thí võ nghệ vô tiền khoáng hậu.
Rằm tháng Bảy – ngày xá tội vong nhân, cánh cửa “a tỳ” mở
rộng để những oan hồn uổng tử trở lại dương gian tìm đường đầu thai
hóa kiếp. Trăng sáng vằng vặc. Trên nền trời lác đác sao thưa, mấy
chòm mây trắng mỏng lang thang trôi vô định.
Đám đông hiếu kỳ kéo đến chật kín sân nhà ông Hương giáo
Thảo. Nhìn con trăng Rằm hững hờ treo trên đầu ngọn trúc, ai cũng
hồi hộp chờ giờ Dậu rồi giờ Tuất chầm chậm trôi qua. Mất hẳn vẻ linh
hoạt và đường bệ thường ngày, ông Hương cả Hoài đứng lên run run
giọng giao ước: nếu thắng, ông thầy địa lý có toàn quyền quyết định
số phận cây hòe, nếu bại, lão phải giao lại cho người chiến thắng tấm
thẻ bài có khắc hình con Cọp bay – cái “tín phù” mà đã ba đời dòng
họ lão truyền nhau làm “chưởng môn” võ đường Phi Hổ.
Cuộc tỷ thí bắt đầu. Hơn chục năm bỏ công dò la tìm hiểu,
trong mắt của ông thầy địa lý làng Mỹ Thiện chỉ có ba người. Ông
Hương giáo Thảo chết, đinh ninh đối thủ phải là sư Độ Ách, lão
thoáng chút bất ngờ khi người đủng đỉnh bước ra sân lại là cậu Ba
Quế – người đệ tử truyền nhân đã lĩnh hội từ sư phụ Độ Ách nhiều
ngón nghề của tinh hoa tuyệt học. Dù vậy, lão không sợ. Lão hoàn
toàn tin tưởng vào tác dụng của cây đinh cắm vào “Đốc huyệt” trên
đỉnh đầu cái hình nộm còn đang bí mật cất giấu ở quê nhà. Trước mặt
lão, đối thủ chỉ là một người thần trí bất thường nửa tỉnh, nửa điên.
Từ bất ngờ đến nghi ngờ tính toán của sư Độ Ách tất phải có điều gì
đó bí ẩn, cao thâm trong ván cờ quyết định, lão thận trọng vòng chân
trụ “tấn chữ Đinh”, dọ dẫm. “Tiên hạ thủ vi cường”. Kinh nghiệm
một đời thuật sĩ giang hồ luôn nhắc nhở lão phải khai cuộc bằng
những đòn tấn công áp đảo để nhanh chóng giành thế thượng phong.
Từ cổ họng, âm thanh phát qua kẽ răng the thé như tiếng rít của loài
rắn độc, đôi chân trụ “Xà tấn”, lão vung tay đưa trái đấm nhắm thẳng
vào chổ hiểm của đối phương bằng những chiêu thế độc “Nhứt tự
trường xà”, “Mãng xà xuất động”…
Liên tục trúng đòn trong tư thế hoàn toàn không có chút phòng
bị và khả năng đề kháng, cậu Ba Quế té ngã sóng soài khiến đám
đông la ó, bất bình, chỉ riêng sư Độ Ách là vẫn điềm nhiên, đôi mắt
khép hờ hờ, đều đều lần ngón tay trên xâu chuỗi hạt.
Như nắm chắc chiến thắng trong tay, ông thầy địa lý hô hố bật
tiếng cười ngạo mạn chờ ông Hương cả Hoài tuyên bố kết quả cuối
cùng. Trăng vụt như sáng hơn. Gió vụt như mạnh hơn. Đâu đó trong
không gian yên ắng, tiếng con chim cú rúc lên từng hồi như báo trước
điều xui rủi. Bàng hoàng. Phiêu hốt. Mơ hồ, từ trên ngọn cây hòe
bóng cô Hai Hoa hư ảo, mong manh như tấm vải lục đào là là bay
xuống đứng bên cạnh lão. “Thượng trình thọ thế lưỡng niên khai/
Tam tấn xà thương nhất lãng lai/ Bảo tử kinh xa hồi tọa mã…”. Cô
hát. Những câu thiệu của bài võ “Thượng trình” gợi lên trong tâm trí
lão Quế hình ảnh những đêm trăng tỏa sáng sân chùa Mỹ Thiện, cô
Hai Hoa dịu dàng nắm tay, gạt chân bắt lão phải tập đi tập lại đến
thuộc nằm lòng bài võ nhập môn. Như con “Lý ngư quảy thủy” cậu
Ba Quế uốn mình, gọn gàng đứng lên, hai chân khép kín, tay trái
hoành ngang qua ngực, bàn tay phải lật ngữa làm điểm tựa để cánh
tay phải chỉa thẳng lên trời, đôi chân xoạc ngang trụ tấn “trung
bình”vững vàng như trái núi. Dân làng ngạc nhiên. Quý cụ Hương
chức làng Mỹ Thiện sững sờ. Ông thầy địa lý giật mình, lạ lẫm. Trận
đấu tiếp tục bằng một thế trận mà thượng phong đã không còn thuộc
về ông thầy địa lý. Vừa bối rối đảo người né tránh khỏi hai nắm đấm
của ngón “Song phụng triều dương”, lão lại phải liên tục nhảy lùi để
tránh những cánh chỏ của chiêu “Phượng hoàng triển dực” cứng như
sắt nguội, Dưới trăng, với đôi tay linh hoạt, đôi chân tay thoăn thoắt
chuyển động và thân pháp mềm dẽo, uyển chuyển, nhịp nhàng, cậu
Ba Quế bỗng như con phượng hoàng chập chờn bay lượn đuổi bắt con
mãng xà vương khiến ông thầy địa lý lúng túng, hụt hơi chống đỡ.
Đám đông không ngớt reo hò, vỗ tay cổ vũ cậu Ba Quế khiến lão đỏ
mặt. Trong bài học sơ đẳng nhập môn, nóng giận khi giao đấu bao giờ
cũng là điều cấm kỵ. Ông thầy địa lý đã phạm điều cấm kỵ. Không
còn gì để mất, lão quyết định tung đòn quyết tử “Lão hổ thượng sơn”
– bài quyền trấn môn của võ đường Phi Hổ. Như một con cọp già rình
rập chờ bắt con mồi, lão vươn trảo, cong người tung ra những ngón bí
truyền “Mãnh hổ cầm dương”, “Hoành thân phục hổ”. Rõ ràng,
trong lúc đối thủ hết sức ung dung và không cần phí sức, ông thầy địa
lý do tức giận nên quá vụng về khi tung ra những ngón đòn hiểm độc
nhưng hết sức hớ hênh, rời rạc. Lão thua. Lão đã phải trả giá. Đúng
như tiên liệu của sư Độ Ách, chính cậu Ba Quế chớ không thể là ai
khác đã là người giành được chiến thắng để mở cái gút thắt của sợi
dây oan nghiệt. Liên tục xuất thủ bằng những chiêu tuyệt học, chân
trụ “tấn chữ Đinh”, cạnh bàn tay trái biến thành “Cương đao phạt
mộc” chặt mạnh vào cổ chân để chặn ngón “Thiết tý cước” hiểm độc
của ông thầy địa lý, tay phải như con “Độc long quá hải” tung trái
đấm nhanh như ánh chớp, cậu Ba Quế đẩy bàn chân trái vạch hình
vòng cung trên mặt đất rồi xoay người đưa cạnh bàn chân phải vào
yết hầu đối phương để kết thúc trận đấu bằng ngọn “Bàn long cước”
danh bất hư truyền.
*
* *
Tôi là người cuối cùng trong đoàn người đưa ma còn nán lại để
làm một việc theo di nguyện của người bạn già đã bắt đầu an giấc ngủ
ngàn thu dưới nấm mồ vừa mới đắp.
Chẳng là vầy. Sau ngày đánh bại ông thầy địa lý nhận cái thẻ
kim bài và giữ lại cây hòe cho làng Mỹ Thiện, cậu Ba Quế được dân
làng ca ngợi như một anh hùng. Có điều, tất bật trôi theo dòng nước
áo cơm, trong trí nhớ của những người dân đầu trần chân đất thì tất cả
những huyền thoại dù rực rỡ, huy hoàng đến mấy rồi cũng dần đi vào
quên lãng. Có chăng, đó cũng chỉ là những mẩu chuyện được nhắc
nhớ trong lúc trà dư, tửu hậu mà thôi.
Nhà tôi nghèo. Ba mẹ đông con, lại không có của cải, ruộng
vườn nên khi đã được dựng vợ gả chồng, con cái phải tự mình bươn
chải. Phần tôi, được cha mẹ vợ giúp cho một ít vốn liếng, vợ chồng
tôi đùm túm nhau ra chợ Thị xã làm nghề mua bán nhỏ lẻ để mưu
sinh. Công việc làm ăn và nếp sinh hoạt cư dân thị tứ đã làm mờ dần
hình ảnh cái xóm nhỏ hiền hòa, tôi không có được mấy dịp về Mỹ
Thiện thăm quê, thăm người bạn già đã cùng tôi có một thời niên
thiếu hồn nhiên bắt dế, thả diều, cỡi trâu trên cánh đồng vừa xong
mùa cấy gặt. Dòng đời vẫn vô tình trôi. Thời gian vẫn thầm lặng trôi.
Ba mươi mấy, bốn mươi năm bạn bè xa cách, tôi đã lên “chức ông”
với một bầy cháu nội – ngoại đề huề. Rồi, cách đây chừng hơn tháng,
khi vừa mở cửa, tôi hết sức bật ngật khi nhìn thấy lão Quế ngồi trên
băng đá dưới giàn hoa thiên lý trước nhà. Lão cười “Tìm nhà tưởng
khó, té ra đâu có khó. Lên Thị xã lần nầy là để đi khiếu kiện. Nhưng,
dọc đường suy đi nghĩ lại, mình được mà người khác mất thì khiếu
kiện làm gì? Thôi!Đi tìm nhà, thăm bạn vẫn hơn”. Không ngờ được
gặp lại người bạn cố tri, tôi mừng, vợ tôi cũng mừng. Tuy không phải
là người dân làng Mỹ Thiện nhưng lại thích nghe chuyện ở quê chồng
nên vợ tôi cũng được biết ít nhiều về lão Quế. Nghe bạn đến thăm,
nàng líu tíu hối cô con dâu cả lo chuẩn bị cơm trưa nhưng lão lắc đầu
và tỏ ý muốn được cùng tôi uống rượu. “Biết trăm năm thân làm dây
chùm gởi/ Bận bịu làm gì giấc mộng phù sinh”*. Lão uống rượu và
hát. Không phải dân ghiền nên chỉ nhấm nháp từng ngụm nhỏ rồi
ngậm ngùi nhắc nhớ chuyện xưa, lão kể: bước vào sân quyết đấu, đó
là hành động vô thức của một người điên. Còn múa máy chân tay
cũng là những cử động vô thức của người mắc bệnh tâm thần. Lúc đó,
trong trạng thái phiêu hốt, bềnh bồng như say sóng, lão mơ hồ cảm
nhận dường như có một cơn gió nhẹ thoảng qua khiến lão rùng mình
khi nhìn trên nhánh cây hòe mờ mờ bóng dáng cô Hai Hoa ngồi vắt
vẻo. Mang máng chỉ được chừng ấy thôi. Lão hoàn toàn không có
chút ấn tượng gì về trận đấu. Lão không là một anh hùng. Đánh bại
ông thầy địa lý để giữ cây hòe cho làng Mỹ Thiện, lão chỉ là con rô-
bốt được vận hành bằng “bộ nhớ” tuyệt vời của cô Hai Hoa – một hồn
ma vất vưởng.
Ít lâu sau ngày ông thầy địa lý thua cuộc bỏ đi, tâm thần lão
Quế dần dần ổn định. Chiêm nghiệm chuyện đời người là những cuộc
tranh giành hơn – thua - được - mất, lão chợt nhận ra mình đã có một
thời gian hạnh phúc là một người điên. Từ đó, từ nỗi sợ hãi trò đời
giả trá, điêu ngoa, lão đã tự biến thành con ốc sên yếu đuối thu mình
vào trong vỏ để sống với chính mình và những hình bóng của những
người thân yêu đã khuất.
“Cát bụi rồi sẽ về cát bụi. Hãy giúp tôi đặt lên phần mộ tấm thẻ
kim bài để tôi tự nhắc nhở tôi hãy tiếp tục làm một con người lương
thiện, nếu may mắn kiếp sau còn được làm người”.
Lão nói và đặt lên bàn một vật cứng đựng trong cái túi gấm to
cỡ bàn tay. Ngỡ ngàng với ý nghĩ kỳ quặc, tôi định nói với lão: dù là
vật quý được đánh đổi bằng sinh mạng của một con người nhưng
cũng là một thứ kim loại bình thường như những vật bằng kim loại
khác. Vậy thì, với sự tác động của thời gian và hủy diệt của mưa, của
nắng liệu tấm thẻ kim bài sẽ tồn tại được bao lâu? Nhưng thôi, tôi kịp
dừng lại, không nói mà gật đầu. Tôi hiểu, đó là tâm nguyện, cũng
không chừng đó là những lời trăng trối của lão bạn già. Tất nhiên, lão
không yêu cầu và tôi cũng chẳng hé môi, chắc chắn, câu chuyện năm
nào mãi mãi là một câu chuyện thầm kín riêng tư của lão, còn trong
suy nghĩ của người dân Mỹ Thiện, lão vẫn luôn rực rỡ với hình tượng
của một hảo hớn tài ba.
Điều tôi linh cảm không sai. Mấy hôm sau, lõm bõm nghe cái
loa phường rè rè phát chương trình thời sự trong tuần, tôi biết được
tin: ở Mỹ Thiện, một cụ già tám mươi mốt tuổi do thất tình bà cụ tuổi
tám mươi nên treo cổ tự vận. Nạn nhân không có họ hàng thân thích,
các đoàn thể địa phương sẽ tiến hành chôn cất khi có kết quả khám
nghiệm pháp y.
Lão Quế chết. Cũng như biết bao nhiêu người đã chết, trước
khi đặt lão vào cái qan tài bằng gỗ tạp, người ta đã không quên cắt đi
năm cái cúc áo để giúp lão đoạn tuyệt với những hệ lụy của “ngũ
thường”. Chết là hết. Hết danh vọng, tiền tài. Hết những mưu toan ,
chiếm đoạt. Sinh – Diệt là lẽ thường tình. Dù giàu hay nghèo, dù thiện
hay ác cũng đều phải chết. Có điều, mỗi đời người là một kịch bản, và
kết thúc của kịch bản có hậu hay không có hậu cũng đều là “cái quả”
tất nhiên từ “cái hạt” mình đã tự tay gieo. Lão Quế chết. Không oằn
oại, đau đớn như ông Hương cả Hoài. Không vật vã, kêu la như ông
Hương quản Tiết. Lão Quế thanh thản, ung dung tự kết thúc cuộc đời
mình bằng một sợi dây tưởng chừng không thể mỏng manh hơn được.
Lão Quế chết. Nói thật lòng, câu chuyện huyễn hoặc của sáu
mươi năm trước tôi cũng không rõ hư thực như thế nào, nhưng “đã
thương, phải thương cho trót, đã gọt, phải gọt cho láng”, nhận lời ủy
thác của lão Quế tôi có trách nhiệm phải làm tròn bổn phận của một
người bạn thủy chung với người bạn già tri kỷ vừa thong dong đi hết
một đời người.
N.N.N Bến Tre, Thanh minh năm Quý Tỵ 2013
---------*Ngọn nến chùa Bửu Sơn - Thơ Mã Giang Ba
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG HÙNG VƯƠNG
HỘI TỤ NIỀM TIN SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
ĐỖ NGỌC DŨNG
Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT Phú Thọ
Phú Thọ là vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời, nơi cội nguồn của dân tộc Việt Nam, có đền thờ các Vua Hùng vinh dự là Kinh đô đầu tiên của Nhà nước Văn Lang trong thời đại các Vua Hùng dựng nước. Nơi có kho tàng văn học dân gian vô cùng phong phú, nhất là các truyền thuyết về thời đại Hùng Vương, các trò diễn xướng dân gian từ xa xưa như: Trò Trám, đánh phết, cùng các hội làng truyền thống, đặc biệt là hát Xoan, hát Ghẹo... Phú Thọ còn có nhiều di tích khảo cổ có giá trị như: Di chỉ Sơn Vi, di chỉ Phùng Nguyên cách ngày nay mấy nghìn năm lịch sử, thuộc nền văn minh Đông Sơn. Trải mấy ngàn năm lịch sử, các giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa vật thể, phi vật thể ở Phú Thọ ngày càng dầy thêm, phong phú thêm làm rạng rỡ nền văn hóa Việt và thời đại Hồ Chí Minh.
Một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt Nam là tôn thờ, thành kính tổ tiên, từ thờ tổ tiên trong mỗi gia đình, thờ cúng tổ tiên của một dòng họ, thờ cúng ông tổ của một làng xã tại các đình làng, miếu làng... đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ hàng ngàn đời nay nó đã trở thành nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc, thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", rồi đến thờ cúng tổ tiên chung của cả dân tộc, đó là các Vua Hùng - người đã có công khai sơn phá thạch, ngăn thú dữ, chống giặc ngoại xâm lập nên nhà nước Văn Lang có chủ quyền của người Việt cổ. Như vậy trong ký ức tâm linh của người dân, hình ảnh Vua Hùng được khắc họa là ông vua mở nước, dựng làng, rồi trở thành ông tổ của người Việt, sinh ra bọc trăm trứng nở ra một trăm người con trai khôi ngô tuấn tú - hình thành nên nghĩa đồng bào. Hàng ngàn đời nay, người Việt đã lập đền thờ cúng ông tổ chung các Vua Hùng với hàng ngàn di tích ở khắp mọi miền đất nước. Hiện có tới 1.417 di tích thờ Vua Hùng và thờ các tướng lĩnh liên quan đến thời kỳ Hùng Vương, chủ yếu tập trung ở Phú Thọ, Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Tiêu biểu nhất là đền thờ các Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ - Nơi có mộ Tổ Hùng Vương. Tương truyền tại đây các đời Vua Hùng thường bàn việc quân cơ từ thế núi trên cao để nhìn thấu bốn về canh giữ bờ cõi giang sơn.
Quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước người Việt Nam luôn tôn kính và tâm niệm các Vua Hùng là ông Tổ, lấy đó làm điểm tựa tinh thần, làm đức tin thiêng liêng vào uy linh tổ tiên để chiến thắng thiên tai, thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ giang sơn bờ cõi. Từ thời Thục Phán dựng cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh khi Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi đã thề sẽ trọn đời bảo vệ giang sơn mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói, trông
nom lăng miếu tổ tiên. Đến thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán cũng đọc lời thề trên sông Hát:
"Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng"
Khu di tích Đền Hùng được xây dựng từ thời Vua Đinh Tiên Hoàng và hoàn thành dưới thời hậu Lê vào thế kỷ XV, chính là nơi tôn nghiêm nhất để thờ tự các Vua Hùng. Cũng chính từ đó đến nay nhà nước và nhân dân ta luôn luôn quan tâm đến việc tu sửa, tôn tạo Khu di tích Đền Hùng và tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm. Nhất là khi nhà Nguyễn lên trị vì đất nước vào năm Minh Mạng thứ 4 (1823) đã cho xây "Lịch Đại Đế Vương" ở Phú Xuân, thờ các danh tướng, đế vương. Trong đó có Kinh Dương Vương và Hùng Vương. Nhà Nguyễn cũng đứng ra tổ chức lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương với các nghi lễ trang trọng, năm Khải Định thứ 2 (1917) quan tuần phủ Lê Tuy Ngọc trình bộ lễ quyết định ngày Quốc lễ là ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch. Ngày 11 tháng 3 âm lịch để dân sở tại làm lễ, thời gian mở hội thường từ mùng 8 đến mùng 10 và cũng từ đó lễ hội Đền Hùng ngày càng được tổ chức quy mô ở khắp nơi.
Sách Đại Việt lược sử và Đại Việt sử ký Toàn thư đều khẳng định nguồn cội của dân tộc Việt Nam tổ tiên là các Vua Hùng. Thời Hậu Lê còn cho soạn "Ngọc phả Hùng Vương" có ghi từ đời nhà Minh, Lê, Lý, Trần rồi đến triều đại Hồng Đức ta bây giờ vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái tưởng nhớ công lao của đấng Thánh tổ xưa".
Đến năm 1920 sau khi tiến hành tu sửa lớn, tuần phủ Phú Thọ và các quan tri phủ, tri huyện đều làm lễ Vua Hùng và cho phép 5 làng xung quanh thờ tự Vua Hùng là Hùng Lô, Cao Mại, Sơn Vi, Hữu Bồ, Xuân Lũng tổ chức rước kiệu vào lễ hội Đền Hùng. Đồng thời tổ chức các trò chơi dân gian trong lễ hội. Lễ hội Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương xuất phát từ đạo lý, từ truyền thống của dân tộc Việt Nam giàu lòng yêu nước, kiên cường bất khuất chống kẻ thù. Nó cũng trở thành động lực tinh thần cho dân tộc. Năm 1943 Mặt trận Việt Minh đã treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc trên gác chuông trước cửa chùa Thiên Quang trên núi Hùng để tuyên truyền cách mạng, kêu gọi toàn dân đánh đổ Nhật - Pháp. Năm 1946 quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cụ Huỳnh Thúc Kháng được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền. Thay mặt Chính phủ về dự lễ hội. Khi lễ Tổ cụ đã dâng thanh gươm và một tấm bản đồ Việt Nam cẩn cáo với Vua Hùng, với dụng ý kiên quyết chống giặc ngoại xâm giữ trọn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc và cầu cho quốc thái, dân an, thiên hạ thái bình. Ngày 19/9/1954 sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã gặp gỡ cán bộ, chiến sỹ Đại đoàn quân Tiên Phong tại Đền Hùng với câu nói bất hủ:
"Các Vua Hùng đã có cộng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"
Ngày 2/4/2007 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua việc quyết định sửa đổi, bổ sung điều 73 Luật Lao động cho người lao động được nghỉ, hưởng nguyên lương ngày giỗ Tổ Hùng Vương (mồng 10-3 âm lịch hàng năm) để thực hiện tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, thờ cúng tổ tiên càng ngày nghi lễ tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương - lễ hội Đền Hùng càng được thực hiện quy mô và trang nghiêm, những năm tròn do Nhà nước tổ chức, những năm chẵn tổ chức ở cấp Bộ, hàng năm do tỉnh Phú Thọ đứng ra chủ trì có sự góp giỗ của từ 5 đến 10 tỉnh, thành phố khác. Cùng với các nghi lễ tín ngưỡng Hùng Vương ngày càng trang trọng, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư, tôn tạo Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng với nhiều dự án quan trọng lên tới hàng ngàn tỷ đồng như: mở rộng không gian lễ hội, trục hành lễ, quang cảnh quanh khu di tích, đường giao thông, quy hoạch khu bán hàng lưu niệm, bãi đỗ xe, công viên, hồ nước, nhà điều hành. Đặc biệt là các đền đài được trùng tu nâng cấp rất đẹp mắt và trang nghiêm. Bên cạnh đó, các công trình nghệ thuật như: Nhà triển lãm, nhà trưng bày hoa lan, bức tranh gốm "Ngày hội non sông" dài 36m, cao 4m là bức tranh gốm to nhất Việt Nam, vườn tượng trại điêu khắc quốc tế tổ chức năm 2009, với chủ đề "Ấn tượng Đất Tổ Hùng Vương" có sự tham gia của 32 nhà điêu khắc đến từ 11 quốc gia ở tất cả các châu lục tạo nên 32 tác phẩm điêu khắc đá hiện đại đặt xung quanh hồ Khuôn Muồi trong khu di tích lịch sử Đền Hùng đã góp phần quan trọng, làm đẹp cho không quan cảnh quan khu di tích, là nơi thưởng ngoạn, thư giãn cho khách thập phương về lễ tổ tiên và vãn cảnh Đền Hùng. Một điều không thể không nhắc đến đó là đền Mẫu Âu Cơ với cảnh quan thiên nhiên trên núi Vặn thật tôn nghiêm và thơ mộng. Cảnh quan xung quanh đền Lạc Long Quân được đầu tư với nhiều công trình phụ trợ như: trục đường xunh quanh quả đồi nơi khu đền tọa lạc được lát bằng đá hộp, hồ nước phía trước đền có cây cầu vòng cung bằng đá, các non bộ lớn nhỏ quanh hồ đều được làm bằng đá rất đẹp mắt. Mang dáng vẻ vừa cổ xưa, vừa hiện đại. Người dân mọi nơi đến thăm viếng Đền Hùng ngày càng thấy hài lòng về khu di tích lịch sử đặc biệt này của dân tộc. Tuy vậy, để Đền Hùng thật sự xứng tầm của nó Đền Hùng vẫn tiếp tục cần có sự quan tâm thường xuyên của Trung ương, sự chỉ đạo sát xao của Tỉnh ủy, UBND tỉnh. Bên cạnh đó, mỗi dự án trước khi triển khai rất cần phải có ý kiến đóng góp của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực sử học, văn hóa, nghệ thuật để đảm bảo hội đủ các yêu cầu về lịch sử và thẩm mỹ... để hạn chế được những sai lầm trong phê duyệt đề án. Chẳng hạn
như hiện tại tuyến đường rất đẹp từ ngã tư đền Giếng tới cổng Đền Hùng, mới được đầu tư hoàn thành 3 năm nay, chỉ tiếc bức tường đá ong kè bên lại dựng đứng mà không có độ vát phù hợp rất gây tức mắt và cảm giác trật trội cho người đi bộ. Không gian sân vườn khu ngã tư đền Giếng và bức phù điêu Bác Hồ nói chuyện với Đại đoàn quân Tiên Phong, nơi đây tập trung các ki ốt bán hàng lưu niệm và đặc sản Phú Thọ là nơi thường xuyên tập trung đông người, đây được coi là không gian cửa ngõ đầu tiên của du khách đến Đền Hùng nhưng nó rộng mà lại không có công năng sử dụng nên vô cùng trật trội, khó chịu bởi hàng cây và các bồn hoa được thiết kế cản tầm mắt... đây là những hạn chế của một vài dự án cần rút kinh nghiệm để không mắc phải. Năm 2012 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định công nhận Việt Trì là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Phú Thọ. Trước đó Thủ tướng cũng đã phê duyệt đề án xây dựng Việt Trì là thành phố lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam. Các công trình văn hóa thể thao như: Bảo tàng Hùng Vương, sân vận động, nhà luyện tập thể dục thể thao, bể bơi, nhà văn hóa. Hiện nay thành phố đang gấp rút triển khai dự án Quảng trường Hùng Vương, công viên Văn Lang với nguồn vốn đầu tư nhiều tỷ đồng. Cùng với dự án các khu đô thị mới mọc lên nhanh là những công trình kiến trúc đẹp góp phần làm đẹp cho thành phố lễ hội. Nơi từng là Kinh đô đầu tiên của Nhà nước Văn Lang thời đại các Vua Hùng. Tất cả cũng là để làm tốt nhất phục vụ tốt nhất đồng bào và du khách trong và ngoài nước về giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng, để xứng tầm với Khu di tích quốc gia đặc biệt, xứng là vùng đất Tổ - cội nguồn của dân tộc.
Nghi lễ tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương từ lâu đã được quy định cụ thể, chặt chẽ thể hiện sự tôn kính của các triều đại và nhân dân đối với tổ tiên. Ngày nay giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm là ngày lễ lớn, ngày Quốc lễ của cả nước được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước quan tâm thành kính. Chính phủ có quy định cụ thể về giỗ Tổ Hùng Vương. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có hướng dẫn cụ thể về nghi thức tưởng niệm các Vua Hùng trong ngày giỗ Tổ ở Phú Thọ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có đền thờ Vua Hùng, cả các địa phương không có đền thờ Vua Hùng tổ chức nghi lễ trong ngày giỗ Tổ 10/3 lễ phẩm gồm (bánh chưng, bánh dầy, hương hoa, nước, trầu cau...) quy định cả trang phục chủ lễ, đại biểu dự lễ, nhạc lễ sử dụng trong lễ dâng hương... được áp dụng trong toàn quốc. Như vậy, trong tâm thức người Việt Nam từ bao đời nay Vua Hùng là vị thủy tổ dựng nước, là tổ tiên của dân tộc, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương luôn là yếu tố nội dunh của văn hóa Việt Nam, góp phần hun đúc lòng tự hào, tinh thần từ một bọc mẹ sinh ra để sống với nhau có nghĩa, có tình, có thủy, có chung, trên, dưới, có xóm, làng, sau trước, có tổ có tông... sống có văn hóa từ một nguồn cội
"Con người có tổ có tông
Như cây có gốc, như sông có nguồn"
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc nhưng tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - thờ cúng ông Tổ chung của dân tộc có lẽ trên thế giới chỉ có dân tộc Việt Nam, đó là bản sắc văn hóa Việt và là di sản văn hóa tiêu biểu của nhân loại. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trở thành niềm tin thiêng liêng của dân tộc, có sức sống lâu bền và ngày càng lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngày nay 10/3 âm lịch hàng năm trở thành ngày lễ trọng của dân tộc, triệu triệu lượt người hành hương về Đền Hùng thành kính tri ân công đức các Vua Hùng.
Giỗ Tổ Hùng Vương năm Quý Tỵ 2013 này do tỉnh Phú Thọ chủ trì có sự tham gia góp giỗ của 8 tỉnh: Lạng Sơn, Hà Nam, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Đắc Lắc, Bình Định, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Với những lễ nghi trang nghiêm từ đền Thủy Tổ Lạc Long Quân, đền Mẫu Âu Cơ đến lễ dâng hương Đền Hùng, có sự tham gia của hàng trăm đoàn đại biểu, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh, thành phố, các vị khách quốc tế và hàng triệu người dân trong cả nước. Nhiều chương trình văn hóa, nghệ thuật phong phú phục vụ lễ hội. Đặc biệt từ ngày khai hội 4/3 âm lịch tỉnh Phú Thọ sẽ tổ chức lễ đón bằng UNESCO công nhận "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ" là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên VTV1 Đài truyền hình Việt Nam lúc 20h.
Như vậy, Quốc Tổ Hùng Vương chính là biểu tượng quy tụ nguồn gốc dân tộc, hun đúc tinht hần đoàn kết dân tộc, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự phóng chiếu từ tín ngưỡng tổ tiên, gia tộc đến tín ngưỡng quốc Tổ. Đây là sức mạnh đã giúp dân tộc vượt qua nhiều biến cố lịch sử để giữ vững độc lập dân tộc, là sự sáng tạo độc đáo trong ý thức hệ của người Việt trong gắn kết cộng đồng để tiến lên phía trước, hội nhập và phát triển, đã thực sự trở thành niềm tin thiêng liêng của dân tộc - niềm tin ấy sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử trong tâm thức của mỗi người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Xứng đáng là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đ.N.D
DI ẢNH NGƯỜI VỢ TRƯỚC Truyện ngắn
Nguyễn Kim Trạch
Hai người đến với nhau khi cả hai đều không còn trẻ nhưng tình yêu
không bao giờ là muộn, chị nói với anh thế và anh cũng tin thế.
Lương đã ở tuổi ngoài năm mươi, con trai anh đang là sinh viên đại học,
còn Lan cũng đã trải qua tuổi bốn mươi, tuy đã qua thời thiếu nữ nhưng xuân
sắc còn mặn mà, đằm thắm. Vợ Lương mất vì bệnh tim đã gần mười năm khi
thằng con trai anh đang còn học cấp một. Còn Lan sau một mối tình kéo dài từ
thời sinh viên không dẫn đến hôn nhân, chị chưa kịp nghĩ đến một mối tình nào
khác. Lương từng là nghiên cứu sinh ở Liên Xô cũ, trở về nước với bằng phó
tiến sĩ sinh học, là cán bộ nghiên cứu với nhiều công trình khoa học có ảnh
hưởng cả về lý thuyết và thực tiễn trong nông nghiệp. Tốt nghiệp đại học kinh tế,
Lan trở thành nhân viên một công ty nhà nước . Qua người bạn chung của cả
hai người, họ đến với nhau, ban đầu không bắt nguồn từ tình cảm nhưng càng
tiếp xúc, gặp gỡ rồi hẹn hò, họ hiểu nhau ngày càng sâu sắc hơn. Lan đã yêu
Lương bằng tình yêu muộn mằn nhưng khá sôi nổi, điều mà chính chị cũng ngạc
nhiên với mình. Với Lương, dường như tình cảm không bồng bột như Lan
nhưng với tuổi ấy, sự thể hiện tình yêu của anh chừng mực mà đậm đà, chín
chắn nhưng không khô lạnh.
Sau gần một năm đến với nhau, hai người bàn đến việc tổ chức lễ
cưới. Cả hai đều thống nhất quan điểm rằng, ở tuổi họ, điều quan trọng nhất là
họ đã có một bản đăng ký hôn nhân chính thức, còn cưới hỏi chỉ là thủ tục. Lan
muốn đơn giản vì hai người không dư dả về tiền bạc nên chỉ cần một bữa tiệc
nhỏ với gia đình hai bên và vài ba bạn bè của mỗi người. Tuy nhiên Lương lại
muốn tổ chức một đám cưới với đầy đủ nghi thức như mọi đám cưới khác,
nghĩa là có lễ ăn hỏi, có tiệc cưới mời rộng rãi họ hàng, đồng nghiệp, bạn bè hai
bên. Với Lương, người đã qua một đời vợ, có thể đơn giản hóa đến mức tối
thiểu nghi thức để sống với một người phụ nữ, nhưng với Lan, người chưa một
lần kết hôn, anh muốn chị được hưởng đầy đủ niềm vui của một cô dâu lần đầu
tiên lên xe hoa. Lan không những nghe lời anh mà còn cám ơn anh đã quan tâm
đến chị nhiều hơn đến mình. Mọi việc đã diễn ra suôn sẻ. Lễ ăn hỏi có xe xích lô
chở các bà lão cùng đồ dẫn cưới. Lễ cưới được tổ chức hai tuần sau đó tại một
nhà hàng có gần ba trăm khách của cả hai gia đình. Cô dâu không mặc váy cưới
nhưng rất nền nã trong chiếc áo dài màu hoàng yến. Những chùm bóng bay tạo
thành chuỗi tiếng nổ lốp bốp thay cho tràng pháo truyền thống. Pháo hoa phụt
lên cao rồi tỏa ra xung quanh cô dâu, chú rể hàng nghìn bông hoa giấy ngũ sắc.
Rồi thì sâm banh chảy tràn trên tháp năm tầng ly pha lê. Cô dâu chú rể trao
nhau nhẫn cưới. Bà mẹ chồng run run tặng cô dâu sợi dây chuyền vàng gắn mặt
đá đỏ…Mỗi khách mời là một lời chúc tụng tốt đẹp. Anh chị đi sát bên nhau đáp
lại với nụ cười luôn nở trên môi.
Sau tiệc cưới hai người cầm tay nhau bước vào chiếc xe Toyota kết
hoa đi về ngôi nhà hai tầng của bố mẹ Lương để cô dâu chú rể lễ gia tiên rồi anh
xin phép bố mẹ đưa chị về nơi hai người sẽ bắt đầu cuộc sống vợ chồng. Đó
chính là căn hộ hai mươi mét vuông của Lan trên tầng ba một ngôi nhà tập thể
năm tầng xây dựng từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Điều này đã được
hai người thống nhất với nhau ngay từ khi khởi động lễ cưới do chính Lương đề
xuất. Ngôi nhà của bố mẹ anh không rộng rãi lắm. Lương muốn cậu con trai tiếp
tục ở với ông bà nội để ông bà chăm sóc vì cả anh và Lan đều phải đi làm, hơn
nữa, công việc khiến giờ giấc đi về của hai người luôn thất thường. Ngập ngừng
mãi , Lương mới dám ngỏ ý với Lan xin đưa bức di ảnh và bát hương thờ người
vợ cũ đã mất từ nhà bố mẹ anh về căn hộ của Lan. Lương nói rằng tình yêu của
anh đối với chị là một hiện hữu duy nhất, việc hương khói chỉ để thể hiện tình
nghĩa sau mười năm chung sống với “người ấy” mà thôi . Lan không băn khoăn
gì, thậm chí còn khâm phục anh là người ăn ở có trước có sau . Di ảnh “người
ấy” cùng bát hương đặt trên cái kệ thờ bằng gỗ có giá đỡ gắn trên bức tường
phía trái cửa ra vào.
Buổi chiều muộn ấy, khi hai vợ chồng mới cưới bước ra từ chiếc xe
hoa đưa nhau lên căn hộ nơi tầng ba, trời đã xâm xẩm tối. Việc làm đầu tiên của
hai người là thắp hương trên cái kệ thờ ấy, cả hai đứng nghiêm trang cùng cầu
mong người đã khuất phù trợ cho cuộc sống gia đình mới của họ. Đứng sát bên
Lương Lan nghe không rõ lời anh nói với người vợ cũ nhưng chị tin rằng anh
đang cầu chúc cho hạnh phúc của mình, cũng như chị vậy.
Mệt mỏi sau một ngày theo đuổi những nghi thức rườm rà của đám
cưới, cả hai cùng đổ người xuống cái giường mới sắm cùng đệm, ga, gối in hoa
màu xanh cốm rất nhẹ nhàng. Đây là lần đầu tiên kể từ khi gặp nhau họ nằm
bên nhau, gần nhau đến thế. Từ thế nằm ấy, ánh mắt Lan chạm phải cái nhìn
xéo của người đàn bà trên kệ thờ. Lan chỉ biết “người ấy” tên là Hà qua Lương
và người nhà anh kể lại. Hà là cán bộ kỹ thuật một nông trường chè, sau khi lấy
Lương, anh xin chuyển chị về làm nhân viên thực nghiệm trong viện nơi anh làm
việc. Người đàn bà trong ảnh có khuôn mặt đầy đặn khá phù hợp với mái tóc phi
dê phổ biến một thời của nhiều cán bộ nữ trong cơ quan nhà nước. Khôn mặt
toát ra vẻ đôn hậu duy có đôi mắt nheo nheo như cười, nhìn kỹ Lan có cảm giác
gai gai, vẻ như người ấy nhìn thấu mọi ý nghĩ của mình vậy. Lan thấy gờn gợn
nỗi lo lắng mơ hồ… Từ nơi hai vợ chồng nằm luôn luôn phải đối diện với hình
ảnh “người ấy” cùng làn khói hương luẩn quẩn kia. Lan thử nhắm mắt lại, không
còn nhìn thấy cái kệ thờ nữa, nhưng hình ảnh “người ấy”thì vẫn hiển hiện ngay
trước mắt, có vẻ như gần hơn, to hơn là khác. Lan liếc nhìn sang Lương, anh
nằm ngửa, mặt hướng lên trần nhà, mắt nhắm nghiền, dĩ nhiên không phải ngủ,
phải chăng anh đang thanh thản, chẳng một chút xao lòng nào?
Lương quay mặt về phía Lan, mỉm cười hỏi khẽ nhưng cũng đủ để chị
bừng tỉnh sau giây phút chìm đắm trong nhưng suy tư :
- Anh tắt đèn nhé!
Lương nhổm dậy nhấn cái công tắc trên góc tường. Đèn tắt nhưng căn
phòng không tối hẳn nhờ ánh sáng từ các ngọn đèn phía ngoài. Đến bên Lan,
Lương nhẹ nhàng, chậm rãi giúp chị cởi bỏ quần áo rồi tự làm việc đó cho mình.
Họ lại nằm song song bên nhau trong giây lát như còn chưa tin vào trạng thái
này là có thật. Thế rồi Lan chủ động xoay chuyển tư thế, vừa dang cánh tay vừa
dịch người về phía anh. Khi cánh tay Lan mới chạm vào ngực anh, anh chưa kịp
xoay chuyển để hưởng ứng thì đột nhiên chị cong người, bật ra mép giường
như có ai đó đẩy mạnh. Lương ngạc nhiên: “Sao vậy em?”. Hai người cùng lúc
đón lấy tay nhau, bàn tay chạm vào bàn tay nhưng giữa họ vẫn là khoảng cách
như thể có một khối đá lạnh ngăn trở họ. Hầu như đồng thời cả hai người cùng
co cánh tay, người này kéo người kia về phía mình, song vẫn không thể vượt
qua được cái khối đá lạnh vô hình kia. Khoảnh khắc sau đó, Lương nghe Lan
kêu thất thanh: “Không!”. Cùng lúc Lan vùng đứng lên chạy khỏi giừơng. Lương
kinh ngạc ngồi dậy. Lan cuống quýt bật đèn sáng và mặc vội quần áo. Lương
nhận thấy mặt Lan xanh tái, ánh mắt thất thần. Lan dựa lưng vào cánh cửa thở
hổn hển, mãi sau mới lập bập nói: “Chị ấy nằm chen vào giữa anh và em…”.
“Em bảo ai?”. Lương hỏi và đi về phía Lan. Lan nhìn lên tấm ảnh trên kệ thờ:
“Chị Hà, chính chị ấy… Chị ấy còn đẩy em ra…”. Lương đã mặc lại quần áo và
định dìu Lan trở lại giường nhưng chị nhìn trân trân vào cái giường trống, hai cái
gối bây giờ đã dịch chuyển qua hai phía giường. “Em sợ quá anh ơi!”. Lương
đành đưa Lan ngồi xuống ghế và họ cứ ngồi như vậy cho đến hết đêm.
Đêm sau, cả hai người đều không nhắc đến sự cố đêm trước. Lương
bấm công tắc đèn trong khi Lan rón rén bước đến bên chiếc giường tưởng như
chỉ để dành riêng cho hai người . Song, chính lúc anh kéo chị đổ người xuống
cũng là lúc chị bật ngay dậy hét lên “Không!”. Lan lao đến cái công tắc đèn,
luống cuống hai ba lần đèn mới sáng. “Anh ơi , vẫn chị ấy!”. “ Có phải tại em
luôn nghĩ đến cô ấy không?”. “Không mà anh. Chính chị ấy đang ở đây…Chị ấy
không muốn em sống với anh…”
Đêm sau nữa, nhiều đêm sau nữa… đều như thế. Cho đến một hôm,
ngập ngừng mãi Lan mới dám nói: “Anh ạ, trước ngày cưới em luôn nghĩ chúng
mình có thể sống chung với chị ấy, nhưng bây giờ thì em hiểu ra rằng chính chị
ấy không muốn thế…”. Lan dè dặt: “Hay là anh đưa chị ấy trở lại nhà bố mẹ anh
như trước đây? Em biết là sẽ khó cho anh nhưng nếu vì sự an bình của anh và
em ở đây, chắc anh sẽ…”. Lương nói giọng buồn: “Thực ra anh đưa cô ấy về
đây cũng chỉ muốn thể hiện lòng tri ân của anh đối với cô ấy. Cô ấy đã sinh cho
anh một đứa con trai khôi ngô và thông minh. Cô ấy lại một minh nuôi con lớn
lên trong những năm kinh tế đất nước khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, anh đi học ở
nước ngoài, từ ngày về nước anh lại mải lo công việc, phó mặc cho cô ấy tất
cả…”. “Em hiểu điều ấy mà anh…”.
Lương đã đem việc chuyển bát hương và di ảnh của Hà nói với bố
mẹ nhưng ông bà gạt đi ngay, coi cái việc chuyển đi chuyển lại là điều kiêng kỵ.
Một bà đồng nghiệp nghe chuyện của Lan đã mách một cách làm
quyết liệt. Bà ấy dẫn Lan đến gặp một ông thầy, tạm gọi là thầy cúng cho gọn,
thực ra công việc của ông thầy này rất đa dạng. Thầy từng làm cán bộ tuyên
truyền ngành văn hóa. Từ trước khi nghỉ hưu, thầy bỗng xuất lộ khả năng đặc
biệt được bạn bè đồng nghiệp, trong đó có nhiều nhà báo, mời mọc, nhờ vả
những việc liên quan đến tâm linh như chọn ngày cho các công việc hệ trọng, đo
khẩu độ cửa vào , khuôn khổ bàn thờ, hướng kê đặt bàn ghế cho các vị mới
thăng chức…Những việc ấy thầy nói là làm giúp bạn bè thôi, từ ngày chính thức
nghỉ hưu thì được coi như một nghề. Công việc thầy làm cũng mở ra phạm vi
rộng hơn. Thầy về các địa phương xem đất cát, phong thủy cho những người
muốn mua đất, làm lễ cầu an cho các gia đình, thay bát hương vào dịp cuối
năm. Được bà đồng nghiệp giới thiệu, Lan mời thầy đến nhà trong khi Lương đi
làm, kể tỉ mỉ cuộc sống của hai vợ chồng sau ngày cưới. Thầy gật gù bảo Lan đi
mua hoa quả bày lên kệ thờ, chính ông thắp hương rồi đứng trước kệ thờ đọc
lời khấn có đến vài phút. Sau đó thầy lấy ra hai mảnh giấy màu vàng bằng hai
bàn tay, dùng bút dạ viết lên mỗi mặt giấy mấy dòng chữ tượng hình, Lan nhìn
thì không phải chữ Hán. Thầy bảo: “Tôi thắp hương là để gọi người ấy về, vừa
giảng giải vừa đe nẹt người ấy. Còn hai tờ giấy này là bùa yểm, viết bằng chữ
Phạn. Cô phải nói để anh ấy hiểu từ nay không thắp hương trên kệ thờ nữa,
người ấy sẽ không về nữa đâu…”.
Nói rồi, thầy dùng hồ dán hai tờ giấy lên phía trên bên ngoài cửa ra vào
và cửa sổ.
Hôm ấy đi làm về, thấy phía trên cửa có tờ giấy màu vàng với mấy
hàng chữ vuông vức, Lương chỉ nhìn qua, không để ý. Việc dán những mảnh
giấy kiểu này cũng như gắn lên phía trên cửa cái gương có vẽ hình bát quái anh
đã gặp ở nhiều nơi nên cũng coi là bình thường. Không thấy Lương hỏi, Lan dè
dặt chưa dám kể chuyện đã mời thầy cúng đến nhà. Đêm, khi đèn đã tắt hẳn, ở
bên Lương, Lan không còn cảm giác có “người ấy” nằm chen vào giữa nữa. Vậy
nhưng trong vòng tay chị, toàn thân anh cứng đơ như khúc gỗ rồi bỗng nhiên chị
có cảm giác chân tay anh run rẩy, miệng lắp bắp không thành tiếng. “Sao thế
anh?”, Lan hỏi và nhổm dậy, cố nhìn vào mặt Lương trong ánh sáng mờ ảo.
“Hình như có tiếng người gọi bên ngoài cửa em ạ.”. “Em có nghe thấy gì đâu?”.
“Anh nghe thấy mà! Cô ấy đang ở bên ngoài, cô ấy đòi vào nhà!”. Lan hiểu ngay
là anh muốn nói đến ai. “Chắc chỉ là ảo giác thôi, anh đừng lo”.
Lan bật đèn và cả đêm hai người vẫn nằm trên giường, bất động mà
không ngủ, cũng không trò chuyện.
Những đêm tiếp theo, hai vợ chồng lên giường trong tâm trạng phấp
phỏng mà không thể nói ra lời. Người này muốn người kia giữ được cảm giác
bình yên. Vậy thì có tắt đèn không? Phân vân hồi lâu, Lan luôn là người chủ
động vươn tay đến chiếc công tắc và bóng tối chùm lên cả căn phòng. Như thế
mới là đêm bình thường trong nhà một đôi vợ chồng mới cưới. Phụ nữ chẳng ai
thích cái thứ ánh sáng chói lóa soi mói lên khoảng không gian chật hẹp riêng tư
của họ.
Nhưng chỉ cần bóng tối chùm lên là họ lại sống trong tâm trạng phập
phồng. Hai người nằm bên nhau song khá lâu, không ai nói gì và cũng không
động đậy. Có vẻ như mỗi người đều đang nghĩ về một người khác, không có ở
căn phòng này nhưng lại luôn luôn hiện hữu trong ý nghĩ của mỗi người. Lan kín
đáo đưa mắt nhìn ra khuôn cửa sổ và cửa ra vào. Tất cả đều đã đóng kín. Còn
Lương thì nhắm nghiền mắt, tai nghiêng nghiêng như nghe ngóng, như chờ
đợi… Sau cùng, Lan phá vỡ sự im lặng đến khó chịu để dịch chuyển về phía
anh, dang tay định ôm lấy anh. Chính lúc ấy Lương nhổm dậy nói giọng xúc
động: “Cô ấy đang ở ngoài cửa. Anh nghe thấy cô ấy đập cửa, gào thét, đòi vào
nhà”. Lan ngồi đậy nhỏ nhẹ bảo:”Anh ra mở cửa đi!”. Lương lừ đừ đi ra, lúng
túng mãi mới rút được cái chốt cửa và kéo cánh cửa qua một bên. Lương đứng
giữa cửa nhìn ra, hành lang vắng lặng, không một bóng người. Lan vẫn ngồi
trên giường hỏi vọng ra: “Anh có nhìn thấy chị ấy không?”. “Cô ấy đứng đâu đó,
anh không nhìn thấy nhưng vẫn nghe cô ấy kêu là không thể bước qua cái cửa
này được. Cô ấy nói sao lại đóng cửa đối với cô ấy, hiện giờ cô ấy không biết ở
đâu. Cô ấy muốn vào nhà…”
Nghe Lương nói vậy, Lan đứng lên, bật công tắc đèn và quyết định lại
thức trắng đêm. Chị đã kể cho anh nghe việc mời thầy cúng đến nhà và hai
mảnh giấy vàng dán trên cửa là gì. “Em chỉ muốn em và anh có một cuộc sống
vợ chồng bình thường như mọi cặp vợ chồng khác, nghĩa là bình yên và chỉ có
anh với em mà thôi. Em cũng biết làm như thế này là bất nhẫn nhưng nếu anh
muốn em sẽ mời ông thầy đến hóa giải những bùa phép ông ấy đã để lại”. “Em
không có lỗi gì, lỗi là ở anh. Lẽ ra anh không nên đưa bát hương và di ảnh cô ấy
về đây mới phải. Đúng ra cứ để bát hương và di ảnh cô ấy ở nhà bố mẹ anh, nơi
cô ấy làm dâu hơn mười năm rồi trút hơi thở cuối cùng ở đấy. Con trai anh sẽ
chăm lo việc hương khói và cúng giỗ cho mẹ nó đúng như phong tục phải thế.
Đằng này anh đã làm trái với lẽ tự nhiên…”.
Yên lặng một lát bỗng nhiên Lương quả quyết: “Anh sẽ xin ý kiến hai cụ
để đưa cô ấy về lại bên kia”.
Khác với lần trước, lần này hai ông bà đồng ý ngay. Lan mời ông thầy
đến cúng trước khi đưa bát hương và di ảnh ra khỏi nhà. Ông thầy thận trọng
bóc bỏ hai lá bùa, lẩm bẩm khấn một hồi rồi đốt hai mảnh giấy ấy trên ngọn
nến . Đương nhiên sau đó thầy đi cùng hai vợ chồng chủ nhà về nhà bố mẹ
Lương . Tại đó, thầy thay mặt gia đình đặt lại di ảnh chị lên tủ thờ, nơi trước đây
đã từng đặt tấm ảnh ấy. Thầy thay tro mới cho bát hương, đặt bát hương trước
tấm ảnh, đốt ba nén hương đầu tiên và làm lễ định vị.
Đêm ấy, lần đầu tiên sau lễ cưới, hai vợ chồng bình yên bên nhau. Tuy
nhiên, nửa đêm, Lan thức giấc, nhận ra anh cũng thức, chị thủ thỉ: “Anh ạ, ngẫm
ngợi mãi rồi em cũng thấy ra rằng cái cốt yếu trong quan hệ giữa anh và em đâu
phải ở bát hương hay di ảnh chị ấy. Em cảm nhận tình yêu giữa anh và em,
đang thiếu một cái gì đó và cũng đang thừa một cái gì đó!”. Ngỡ ngàng trong
giây lát, anh nói: “Em nói đúng. Cái thiếu và cái thừa ấy một phần là do anh. Anh
chưa quên được cô ấy. Cô ấy bị bệnh tim. Cái buổi sáng cô ấy dậy sớm để lo
bữa sáng cho bố con anh, cô ấy đột quị ngay trước cửa và đã ra đi trong tay anh
trên đường đi cấp cứu. Anh nhớ mãi sắc da mặt tái tím của cô ấy với đôi môi
nhợt nhạt, không nói được một lời trăng trối cuối cùng nào… Sau này cứ mỗi lần
gia đình có chuyện vui, anh lại nhớ đến nét mặt với sắc da tái tím của cô ấy
trong tay anh…”. “Em có đòi hỏi anh phải quên chị ấy đâu. Có điều em muốn
được chia sẻ với anh. Em không muốn tình cảm của anh với chị ấy lại trở thành
cục đá lạnh nổi cộm dưới tấm đệm em và anh đang nằm bây giờ”. “Chính anh
cũng mong như thế mà”.
Ít lâu sau, trong một dịp ngẫu nhiên gặp lại Lan, ông thầy cúng hỏi thăm
cuộc sống của hai vợ chồng chị và thầy khuyên nên có cuộc trò chuyện với
người vợ trước của anh. Việc này thầy không làm được nhưng ông cho chị địa
chỉ một cô đồng rất nổi tiếng, cách Hà Nội hơn ba chục cây số. Nghe nói vợ
trước của anh thích mặc áo đỏ để sắc mặt đỡ tái, thầy bảo chị mang đến điện
thờ một chiếc áo lụa màu đỏ làm quà.
Người đàn bà dẫn đường cho chị Lan nói điện thờ này đã có hơn
năm mươi năm rồi, chủ điện đã mất, cô đồng bây giờ là em gái ông ấy. Những
năm trước thủ tục lễ lạt rườm rà, cô đồng mới đã giảm bớt mà vẫn rất linh ứng.
Nhờ có người quen dẫn đến, Lan không phải chờ lâu. Cô đồng khoảng năm
mươi tuổi hỏi chuyện Lan trước khi làm lễ. Cô gái phụ việc của điện thờ giúp chị
bày lễ lên một cái mâm đồng, chiếc áo lụa đỏ gấp gọn đặt ở một góc. Trong khi
cô đồng làm lễ, Lan ngồi bên cạnh, hai chân xếp về một phía. Cô đồng xướng
tên, ngày tháng năm sinh của Lan, tên tuổi Hà, người vợ đã mất của Lương.
Trong tiếng chuông đồng điểm nhịp, cô đồng đọc thành tiếng (nhưng Lan nghe
câu được câu mất) một bài khấn dài đến bốn, năm phút. Rồi cô quay qua Lan
bảo: “Người ấy về rồi đấy, cô nói chuyện đi”.
Trong khoảng mười phút, Lan nói chuyện với “người ấy”, đương
nhiên”người ấy” nói gì đều phải qua miệng cô đồng, không đến mức khó khăn
như Lan chờ đợi. Sau mấy câu giới thiệu và thăm hỏi lẫn nhau, Hà nói tình yêu
Hà dành cho Lương là vô bờ bến, cho nên sau khi ra đi, Hà luôn luôn nghi ngại
liệu có người phụ nữ nào có thể yêu anh như mình không. Hà cũng nói rằng đứa
con trai là kết tinh đẹp nhất có được từ tình yêu ấy, cho nên Hà không muốn hai
cha con xa nhau và điều Hà lo nhất là người vợ mới của anh không những
không có tình cảm với nó như Hà đã từng dành cho nó mà có thể còn làm tổn
thương nó. Những lời nói ấy khiến Lan giật mình. Đúng là từ khi yêu anh, lấy
anh, Lan chỉ biết tình cảm giữa hai người mà chưa nghĩ thật thấu đáo rằng anh
từng có một người đàn bà yêu thương anh. Lan thấy Hà chỉ lo cho anh và con
trai chứ không hề tỏ ý ngăn cản việc Lương lấy chị làm vợ kế. Lan nói với Hà
rằng chị sẽ làm tất cả những gì như Hà mong muốn để những năm tháng tới đây
anh và con sống với chị cũng như đang sống với Hà vậy. Đó là một tiếp nối liên
tục hạnh phúc chứ không phải là một bước rẽ đau lòng.
“Thế thì tôi yên tâm rồi!”. Người ấy nói câu cuối cùng rồi ra đi. Lan vẫn
ngồi bất động, nhìn cô đồng trân trân nhưng trước mắt chị lại là hình ảnh người
đàn bà có mái tóc phi dê, khuôn mặt đôn hậu nhưng tím tái. Cô đồng vỗ vai Lan:
“Người ta đi rồi, đứng lên nào!”.
Lan kể cho Lương nghe chị đã gặp “người ấy” và cuộc trò chuyện giữa
hai người qua cô đồng làm trung gian. Lan ngỏ ý muốn cùng anh chuyển về ở
với bố mẹ anh và cậu con trai anh. “Thêm một người nữa các cụ có cho là chật
chội không anh?”. “Không bao giờ. Cái ý tưởng sau ngày cưới , anh về sống với
em ở căn hộ của em là do anh, anh sợ em không quen với sinh hoạt đông
người, nhất là ở tuổi em mà phải đi làm dâu, không dễ…”. “Thực ra trong những
ngày vợ chồng mình sống với nhau ở đây, em cứ gờn gợn một điều gì đó, bây
giờ sau khi gặp chị ấy thì em hiểu ra thật rõ ràng: Nếu anh không về sống với
em ở đây, chúng mình sẽ sống chung với chị ấy ở nhà bố mẹ anh, ở đó em có
thể thay anh và con hương khói và cúng giỗ chị ấy, đó là việc thường tình của
một cô dâu mà. Bỏ lại ông bà già cùng đứa con , đi tìm một tổ ấm tách biệt như
thế này, em sợ khó có hạnh phúc trọn vẹn anh ạ”.
Chiều hôm sau, chỉ với một chuyến xe nhỏ, họ chuyển gần hết giường
tủ, bàn ghế, quần áo… về ngôi nhà của bố mẹ Lương. Hai ông bà vui ra mặt,
cậu con trai hớn hở gọi Lan là mẹ xưng con rất thoải mái. Phòng của hai người
chính là căn phòng trước đây của anh và Hà, đương nhiên không có bát hương
cũng như di ảnh người vợ đã mất. Bát hương và di ảnh đã được định vị tại bàn
thờ chung của gia đình. Lan nói với Lương, chị muốn sống với tất cả mọi người
trong gia đình, họ hàng của anh như Hà đã từng sống trong đầy đủ các vai trò
người vợ, người mẹ, người con dâu…/.
THI SĨ ĐỒNG QUÊ ĐỘC ĐÁO CŨNG LÀ MỘT NHÀ DỊCH THUẬT
ĐỘC ĐÁO ĐÍCH THỰC
Thúy Toàn
Tôi vẫn giữ được tập thơ Thôn ca của thi sĩ Thành Nam Sông Ngọc Đoàn Văn Cừ do Nhà xuất bản Văn học ấn hành từ năm 1960. Tính đến nay đã có tới 53 năm, hơn nửa thế kỷ. Sách mỏng, chỉ vẻn vẹn có hai tay sách: 64 trang khổ 13x18, nhưng vẫn còn khá nguyên vẹn.
Bấy giờ là năm học cuối cùng của chúng tôi, nhóm lưu học sinh 19 người Khoa Ngữ văn của Trường Đại học Sư phạm Moskva, chuẩn bị tốt nghiệp trở về nước nhận công tác. Xa quê hương, người thân đã mười năm liền, càng gần đến ngày trở về trong lòng mọi người càng rạo rực khấp khởi mong ngóng. Sau Tết Tân Sửu năm ấy, một bữa đến hiệu sách quốc tế mang tên Hữu nghị, bên cạnh tòa nhà Xô Viết Moskva trên phố Gorki (nay mang tên cũ là Tverskaya), trong số sách ở nhà mới đưa sang bán ở quầy sách Việt Nam tôi nhặt ra được khá nhiều sách văn học mới xuất bản, trong đó có tập thơ Thôn ca của Đoàn Văn Cừ. Thú thực, cho đến lúc ấy tôi chưa rành tên tuổi tác gia Đoàn Văn Cừ. Nhưng thấy cái bìa sách mộc mạc có cái tên Thôn ca đặt bên cạnh hình vẽ hai thân tre xanh khỏe khoắn, gợi ngay cho tôi nhớ đến làng quê mình, cái làng chợ Giầu Phù Lưu, ở đó cha mẹ, anh chị em tôi đang sống, chờ đợi tôi sau bấy nhiêu năm xa cách trở về.
Vừa giở mấy trang đầu sách ra, tôi gặp ngay bài thơ Chợ Tết của nhà thơ họ Đoàn. Làng Giàu tôi chính là thôn thị - làng chợ. Mà chợ nổi tiếng
Đông Ngàn vật họa liêm thủ ấpBắc Ninh thôn thị cứ trung tâm
(Đây là ấp hàng đầu về sản vật quý của huyện Đông NgànĐây là nơi trung tâm buôn bán của tỉnh Bắc Ninh)Chợ Giầu một tháng sáu phiên. Chợ họp ngay tại làng, có tới trên hai
chục cầu hàng bày la liệt hai bên đường, suốt từ ngoài cổng bắc của làng xuôi dọc theo trục đường lát đá xanh chạy xuống tận cổng nam, giáp ranh đường sau làng Báng (Đình Bảng). Đặc biệt đông vui sầm uất nhất là phiên chợ Tết, như nhà thơ Đàm Văn Cừ tả màu sắc tươi rói, những hình ảnh nhộn nhịp chen vui, người mua, người bán, người chơi chợ… Chợ Giàu làng tôi còn có cả gánh xiếc nữa, cả chú khách bán thuốc è…Nhớ quá đi mất! Và thế là từ đó tôi giữ mãi cuốn Thôn ca của nhà thơ họ Đoàn như một kỷ vật.
Về nước, sau một thời gian ngắn dậy học, tôi được chuyển về làm biên tập sách ở Nhà xuất bản Văn học. Tập trung vào mảng sách dịch, mấy chục năm sau, tham gia vào công tác quản lý, tôi mới có dịp tiếp cận với mảng văn học sáng tác trong nước. Và rồi đến giai đoạn mở cửa, Nhà xuất bản bắt tay vào mở rộng kế hoạch, ra hàng loạt các tủ sách đủ thể loại, đặc biệt có tủ sách “tuyển tác phẩm của các tác giả tiêu biểu”. Năm 1992, Tuyển tập tác phẩm Đoàn Văn Cừ ra đời. Và lần đầu tiên tôi có dịp được tiếp xúc với tác giả Thôn ca ngay tại quê ông, nơi ông “ở ẩn”, sau khi được nghỉ chế độ.
Sách ra, cùng với nhà thơ Nguyễn Bao, Phó giám đốc, chúng tôi đi xe của Nha xuất bản chở sách bản quyền về trao tận tay tác giả họ Đoàn. Ghé vào
Hội Văn nghệ của Hà Nam Ninh, được các anh ở đấy cử anh Kim Ngọc Điệu, anh Vũ Quốc Ái tháp tùng đi thăm chùa Cổ Lễ rồi mới tìm về Nam Lợi, Nam Ninh, quê của nhà thơ họ Đoàn. Về tới nơi trời đã chiều muộn, sẩm tối…
Thời ấy việc ra sách hoàn toàn theo kế hoạch bao cấp của nhà nước, và việc làm tuyển tập cho từng tác giả được xếp sắp theo ưu tiên thứ bậc. Nhà thơ Đoàn Văn Cừ nằm trong diện ưu tiên đầu tiên. Sau khi được chủ nhà tất bật đón tiếp vào nhà, được mời ra bên giếng xây cạnh khoảnh vườn trồng nhiều cây hòe đang độ nở hoa, để rửa ráy, chúng tôi được mời vào ngồi chiếu trải sẵn giữa sân gạch, quanh một cây đèn tọa đăng thắp sáng. Anh Thiện lái xe cơ quan đã đi lấy giúp gói sách lấy từ cốp xe đỗ tận ngoài đường chính vào. Nhà thơ Nguyễn Bao làm thủ tục trao sách cho tác giả. Nhà thơ họ Đoàn đã kịp đóng bộ áo cánh quần dài chỉnh tề hồ hởi đưa hai tay run run nhận chồng sách, đặt xuống bên mép chiếu, quỳ gối nhặt ra một cuốn, lom khom ghé đèn chăm chú giở xem. Mọi người ngồi im lặng hồi hộp theo dõi. Đến khi nhà thơ cười lớn lên tiếng: “Thế là Cừ có sách tuyển! Nhưng hãng cứ để xem sau, giờ chuyện trò cho thỏa đã!”. Mọi người hớn hở hưởng ứng.
Đến tận khuya hôm đó chúng tôi phải trả lời bao nhiêu câu hỏi của nhà thơ chủ nhà. Từ khi nghỉ hưu nhà thơ về ở hẳn tại nhà, ít khi đi đâu xa. Có con trai sống và làm việc ở Hà Nội, ông cũng chẳng mấy khi cất công ra thăm. Ông tự nhận mình giờ ở ẩn, là “cư sĩ”. Nói vậy nhưng thực ra ông vẫn theo dõi công việc của đoàn thể - Hội Văn nghệ tỉnh nhà cũng như Hội Nhà văn Trung ương ở Hà Nội, theo dõi sáng tác của bạn bè cũ và cả lớp viết trẻ. Ông hỏi thăm cuốn hồi ký Từ bến sông Thương của nữ thi sĩ Anh Thơ, hỏi chuyến đi tu nghiệp của mấy chục anh chị em viết trẻ, rồi sang cả chuyện thời sự chính biến ở nước Nga, nơi mà ông đã có dịp tới thăm, lên đài Moskva đọc thơ, khi Liên Xô còn đang sôi nổi bước vào giai đoạn “chủ nghĩa cộng sản phát triển”..
Mãi quá nửa đêm, sau khi sắp xếp cho chúng tôi chỗ ngủ đâu vào đấy, nhà thơ Đoàn Văn Cừ ngồi lại với cây đèn tọa đăng vặn nhỏ ở sân, lấy tuyển tập của mình ra xem..
Đi đường xa mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi ngay, sáng ra trở dậy lại lo thu xếp ra xe chia tay gia chủ để về Hà Nội sớm cho kịp một cái hẹn buổi chiều nên không nhận ra có gì khác thường.
Nhà thơ Đoàn Văn Cừ vẫn tươi cười đưa tiễn chúng tôi ra tận xe đậu ngoài đường chính của làng. Mãi khi lên xe, đi một quãng nhà thơ Nguyễn Bao mới cho chúng tôi hay, đêm qua nhà thơ Đoàn Văn Cừ hồ như thức trắng, đọc đi đọc lại tập tuyển tác phẩm của mình. Lúc đầu ông rất vui như mọi người đã thấy. Nhưng rồi càng đọc ông càng băn khoăn, bứt rứt… Và sáng ra mọi người không để ý thế thôi, chứ trông ông sắc thái không được vui.Thì ra tập sách in để lỗi khá nhiều…
Bẵng đi một thời gian xa cách, đến tháng Tư năm 1997 tôi lại bỗng nhận được thư của nhà thơ Đoàn Văn Cừ. Ông gửi thư cho tôi, gọi tôi là dịch giả - thi hữu, lại còn ghi thêm chức danh Chủ tịch Hội đồng văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam, chứ không nhắc gì đến trách nhiệm của tôi ở Nhà xuất bản Văn
học. Ông không nói chuyện về công việc xuất bản mà ông nói đến chuyện dịch, phần liên quan đến tôi. Phong bì thư ông gửi khá dày, nhưng thư viết chỉ vài dòng, còn là kèm theo một sấp hai ba tờ giấy chép thơ. Trong thư nhà thơ họ Đoàn viết:
“Hiện nay, giới văn học nghệ thuật Việt Nam và độc giả cả nước đang có niềm vui, niềm tự hào chung tiến tới kỷ niệm 40 năm (1957-1997) Hội Nhà văn Việt Nam, 40 năm sự nghiệp văn chương đại nghĩa.
Xin trân trọng kính gửi Hội đồng Văn học, trang thơ dịch kèm theo đây: ĐƯỜNG VÀO THƠ
10 vần thơ hai câu của 10 thi nhân, danh nhân Âu Á, cũng là 10 điều kinh nghiệm bất hủ, 10 điều tâm niệm của tất cả những ai cùng yêu thơ, cũng đã sớm “mang lấy nghiệp vào thân”.
Đây là tâm thành, cốt lõi của vấn đề mà người dịch muốn gửi gắm.Về kỹ thuật và quan niệm – nhất là quan niệm, Đoàn Văn Cừ vô cùng hy
vọng vào giúp đỡ của nhà văn Thúy Toàn và Hội đồng văn học dịch.Văn chương xưa nay sớm có tình riêng, gắn bó, quý mến, trân trọng
nhau giữa người viết và người đọc. Xin hết sức chân thành kính chúc thi hữu mùa Xuân đẹp, nhiều thành
công bút mực, nhiều tin Xuân, tin thơ.Kính bút (chữ ký) Đoàn Văn CừKèm theo hơn hai trang khổ A4 với tiêu đề: Tiến tới Kỷ niệm 40 năm
Hội Nhà văn Việt Nam (1957-1997) ĐƯỜNG VÀO THƠ, (Tặng những ai đã lấy nghiệp vào thân). Tiếp theo là 10 khổ thơ 2 câu dịch thành thơ lục bát danh ngôn của các văn hào thế giới – Macxim Gorki, Nguyễn Du, Alfrêt đờ Muytxê, Alfrết đờ Vinki, Boalô, Ovit, Coocnây, Đỗ Phủ, đi cùng có Phụ Chú – 10 bản tiếng Pháp, phiên âm Nôm của Hán văn cùng mười đoạn dịch nghĩa
Chẳng hạn1: Thái dương sinh những bông hồng, Mẹ hiền sinh những anh hùng thi nhân(Macxime Gorki: Sans le soleil, les fleurs ne s’espanouissent pas, sans la
mère, il n’y a ni poète ni hérosKhông có mặt trời, không có loài hoa nào nở đượcKhông có mẹ hiền, không có anh hùng và thi nhân)2: Đồng quê hoa cỏ mến người Câu ca, điệu hát học lời lúa dâu(Nguyễn Du: Thôn ca sơ học tang ma ngữTrong lời ca tiếng hát nơi thôn dã, học được âm điệuNgôn ngữ người đồng quê cây lúa, trồng dâu gai)
Hay 3: Yêu thơ sá kể nhọc nhằn Trăm lần sửa tứ, trăm lần chuốt câu(Boalô – Boileau:Cent fois sur le métier, refois ton ourage Viết một lần, sửa trăm lần)
Ít lâu sau, ngày 16/4/1997 nhà thơ Đoàn Văn Cừ lại gửi thư cho tôi, bổ sung thêm 3 khổ thơ do ông dịch ra lục bát danh ngôn của ba tác giả Giả Bảo, Lamactin, V.Huygo, cũng kèm theo phiên Nôm Hán văn và bản tiếng Pháp, cùng dịch nghĩa.
Trong thư gửi cho “thi hữu”, nhà thơ họ Đoàn còn bộc lộ rõ quan điểm dịch của mình: “Dịch thơ cũng như làm thơ, lấy thơ, lấy thần là chính, thi tại ngôn ngoại, sắc ngoài sắc,vị ngoài vị.
Dịch giả và tác giả là đôi bạn đồng hành, đồng tâm, đồng điệu, bổ sung, phát triển lẫn nhau…”
Trong thời gian qua trên văn đàn nước ta việc dịch văn thơ nở rộ. Riêng về dịch thơ ca, liên tiếp xuất hiện hàng chục tập tuyển thơ dịch do nhiều người thực hiện, cũng như của riêng người dịch này dịch giả nọ. Về hình thức thể hiện dịch cũng thật đa dạng phong phú. Ngoài loại hình dịch thuật truyền thống, những dịch nghệ thuật, trực dịch, phỏng dịch…Xuất hiện tác dịch (Thái Bá Tân), Ngẫu dịch (Trương Nam Phương), dịch Việt ra Việt (Đỗ Hoàng)v..v… Về thể thơ, gần đây xuất hiện khá nhiều bản dịch thơ Á, Âu chuyển sang thể thơ lục bát Việt Nam (Thơ Đường chuyển lục bát Cao Bá Vũ (NXB Văn học 2002), 101 bài thơ tình nước Nga (lục bát) của Ngọc Châu (NXB TG 2012)
Dịch thuật của nhà thơ Đoàn Văn Cừ có nét độc đáo riêng, có chủ đích rõ ràng, nhất quán. Ông muốn phổ biến những suy nghĩ, kinh nghiệm sáng tác nghệ thuật của các bậc doanh nhân cổ kim đông tây giúp cho “thi hữu”, những ai cũng sớm “mang lấy nghiệp vào thân”, mà ông chú thích thêm bằng câu thơ của Nguyễn Du: “Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa” (Kiều).
Nhà thơ của đồng quê Việt Nam vận dụng thể thơ lục bát thân quen sở trường của mình để truyển tải tứ thơ, triết lý cuộc đời, triết lý sáng tạo của các bậc tiền nhân kiệt xuất….Nói chung đọc các khổ thơ dịch được ông gửi cho tham khảo tôi đều thấy xuôn sẻ, dễ nhập, dễ đi vào lòng.
Tôi viết thư chia sẻ một vài cảm tưởng của tôi sau khi được tiếp xúc với những dịch phẩm của ông gửi cho, nhà thơ lão thành viết tiếp thư mới cho tôi (13/5/1997): “Tha hương ngộ cố tri” . Cừ đã nhận được thư anh, đề ngày 5/5/1997, đúng ngày Hội ta tổ chức long trọng Kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Hội (1957-1997)
Không nhận được giấy của Ban tổ chức, Cừ vẫn coi như có dựRất chân thành mừng vui, nghĩ như vậy.Xin chân thành cảm ơn nhà văn, Chủ tịch Hội đồng Văn học dịch
khuyến khích bạn tiếp tục “Hoa thơm cỏ lạ” cho tới khi thành công”. Chả là những khổ thơ ông gửi cho tôi dưới nhan đề ĐƯỜNG VÀO THƠ là trích ra từ công trình sưu tầm, dịch của ông có tên HOA THƠM, CỎ LẠ.
Nhà thơ họ Đoàn từ thảo lư Sông Ngọc của mình còn tiếp tục gửi ra Hà Nội cho tôi một số sáng tác mới của mình. Chẳng hạn bài suy nghĩ MỘT QUAN NIỆM THƠ (không phân biệt sáng tác hay dịch). Về sau cũng bài này
có sửa chữa ông chép lại gửi thêm với đầu đề Vì một hành tinh mới có đề từ Phải biết ước mơ Lênin . Ông còn chép gửi cho một bản dịch thơ của Alfret de Musset (1810-1854) – bài thơ Hỏi sao hôm, ghi theo trí nhớ, không rõ người dịch.
Mấy năm sau khi tôi cũng đã nghỉ hưu, tháng 9 năm 2002, tôi một lần nữa lại có dịp về thăm nhà thơ họ Đoàn, cư sĩ thảo lư Sông Ngọc, vào cuối mùa sen, vào dịp sắp kỷ niệm tuổi thượng thượng thọ 90 của ông. Lần này cùng với nhà thơ Nguyễn Bao chúng tôi đi nhờ xe của nhà thơ Hữu Toàn do con trai anh lái, có cả người con trai cả của Đoàn Văn Cừ, là họa sĩ Đoàn Văn Nguyên cùng về thăm cha mẹ.
Dọc đường hai nhà thơ Nguyễn Bao – Hữu Toàn, thuộc nhiều thơ của nhà thơ họ Đoàn thay nhau ngâm đọc thơ họ Đoàn cho mọi người thưởng thức. Hai anh trao đổi bình luận về những câu thơ hay. Tôi lại có dịp học lỏm để hiểu thêm nhà thơ họ Đoàn, cũng như thơ ca nói chung. Anh Hữu Toàn rất thích bài Về quê mẹ.. vừa ngâm nga:
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,Những dòng sông trắng lượn ven đê,Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếpNgười xới cà ngô rộn bốn bề
Anh vừa hướng chúng tôi nhìn ra hai bên đường ngắm cảnh sắc đồng quê xứ Thành Nam. Anh nhận xét: cụ Cừ giỏi tả cảnh thật! Mà thật giầu hình ảnh, màu sắc, âm thanh. Ở bài Chợ Tết cụ đã điểm tới trên hai chục màu sắc khác nhau hòa trộn trên bức tranh quê. Trong bài Về quê mẹ cụ cũng đưa ra, nào là: “.. tơ mây bay sắc trắng ngần”, rồi “Những dòng sông trắng lượn ven đê”, “cồn xanh, bãi tía..”, “Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu”, “mắt sáng, môi hồng, má đỏ âu”, “.. nắng nhạt vàng”, “Trời xanh, cò trắng..”, “… xác lá vàng”, “Tà áo nâu..”, “… cặp má hồng”.
Anh còn thắc mắc: “Thúng cắp bên hông…”, sao lại cắp thúng? Ở đây cái thúng đó dứt khoát không phải cái thúng to đựng thóc, đựng gạo, mà phải là cái thúng đựng trầu, đựng đồ khâu vá, kiểu con gái ngày nay đi đâu phải có cái sắc, cái ví đầm… Có phải thế không anh Bao?
Đến nơi, trời còn sớm lắm. Nhà thơ lão thành đang vận quần cộc, áo may ô ba lỗ ngồi trong “thảo lư” – căn buồng có hai chiếc ghế gỗ đã lên nước, giá sách và chi chít bằng khen trên tường… Năm ấy nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã 90 tuổi, tai nghễnh ngãng nặng. Anh con cả, họa sĩ Đoàn Văn Nguyên đi trước vào buồng hô to chỉ ra sân.
Thay bộ quần áo ngủ nghiêm chỉnh từ buồng bên cạnh nhà thơ trở lại buồng khách. Hai nhà thơ Nguyễn Bao và Hữu Toàn đón cụ, bắt đầu cuộc trò chuyện. Lần này nhà thơ – cư sĩ họ Đoàn nặng tai hẳn, khác hẳn mười mấy năm trước, không còn nghe được gì. Chuyện trò với nhà thơ phải viết ra giấy. Mắt thì vẫn tinh, đọc câu hỏi không phải đeo kính, nhà thơ cười thoải mái và trả lời đâu ra đấy. Không những thế nhà thơ còn kể hết chuyện này đến chuyện nọ, chuyện nhà, chuyện “bà lão” chăm lo cho chồng ra sao. “Bà lão” kém cụ
ông một tuổi, nhưng còn mạnh chân mạnh tay, tinh tường hơn cụ ông nhiều. Rồi chuyện làng, chuyện huyện, lễ hội gần, lễ hội xa. Đã định trước lần về này về thế nào cũng phải ghi được hình ảnh nhà thơ của đồng quê, về ở ẩn tại nhà, tôi chuẩn bị sẵn máy ảnh và cứ loay hoay bấm máy. Thành thử quên khuấy mất việc hỏi thăm về công trình sưu tầm và dịch của nhà thơ họ Đoàn, mà mấy năm trước người đã trao đổi thư từ với tôi: Đường vào thơ – Hoa thơm cỏ lạ đã hoàn thành chưa nhỉ? .. Đến lúc lên xe mới sực nhớ ra thì đã muộn. Đành tự an ủi mình – chắc còn có lần trở lại.
Nhưng bao nhiêu sự việc khác trong cuộc sống cứ thế cuốn chúng ta đi, một ngày kia nhà thơ Hữu Toàn, người cho chúng tôi đi xe nhờ bữa ấy, đột ngột ra đi. Và rồi nhà thơ họ Đoàn cũng chỉ sống được đến tuổi thọ 92 mà thôi. Ngày nhà thơ về với tổ tiên tôi không được biết. Ngoảnh đi ngoảnh lại là thêm một chục năm trôi qua. Sực nhớ ra thì tiên sinh thi sĩ Đoàn Văn Cừ nếu trời còn cho ở với mọi người thì mọi người được chúc thọ người tròn một thế kỷ.
Tôi tìm đến nhà anh con trai cả của cố thi sĩ Đoàn Văn Cừ - họa sĩ Đoàn Văn Nguyên, hỏi về lễ kỷ niệm: “Lễ bách chu niên” của phụ thân anh sẽ được tổ chức ra sao? Nhân dịp này chắc anh sẽ soạn lại di cảo của phụ thân để có thể ra thành sách kỷ niệm truyền lại cho hậu thế. Trong đó thế nào cũng phải có di cảo Hoa thơm cỏ lạ ? Tôi còn giữ đây 13 khổ thơ dịch chép tay của cố nhà thơ, xin góp, nếu cần. Đã qua bao nhiêu thời gian kể từ khi những bài thơ của cố thi sĩ đồng quê Đoàn Văn Cừ xuất hiện trên sách báo vào cuối những năm 30 thế kỷ trước, bạn đọc các thế hệ vẫn lưu truyền đến tận ngày nay. Những câu thơ dịch của thi sĩ nếu được tập họp lại ấn hành thành sách, tôi nghĩ bạn đọc cũng sẽ yêu quý và ghi nhớ, và qua đó khẳng định thêm một khía cạnh sáng tạo nghệ thuật ngôn từ độc đáo của thi sĩ họ Đoàn – mảng sáng tạo trong dịch thuật.
Mà thi sĩ Đoàn Văn Cừ quả là một dịch giả thơ ca thật sự độc đáo. Trong lý lịch trích ngang của thi sĩ cũng đã cho biết thi sĩ từng làm công việc của người dịch: “Năm 1948 tòng quân, tham gia kháng chiến chống Pháp, làm công tác văn nghệ, phiên dịch, công tác địch vận Liên khu III”. Khẳng định thêm sẽ là công trình sưu tầm và dịch thành thơ lục bát danh ngôn của các danh nhân trên thế giới, thêm vào đó là những suy nghĩ nghề nghiệp, trong đó có suy nghĩ về dịch thuật, mà thi sĩ để lại trong một số bài viết lý luận ít ỏi thôi, nhưng rất sâu sắc và chí lý.
TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰCTRONG MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
Nguyễn Thị Diệu Linh
Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực như một dòng chảy bền bỉ ăn sâu vào đời sống tâm linh người Việt. Những khi gặp điều kiện thuận lợi về hoàn cảnh lịch sử, nó lập tức hiện hình rõ nét trong văn hóa, văn học. Trong văn học, văn hóa dân gian Việt Nam nói riêng cũng như văn học, văn hóa nhân loại nói chung, biểu hiện đặc trưng nhất của tín ngưỡng phồn thực là
tục thờ sinh thực khí (bộ phận sinh dục) và việc thực hiện, thờ cúng những hành vi giao phối. Các biểu tượng phồn thực như âm vật, dương vật, tinh dịch,… và các biến thể của chúng đã trở thành cổ mẫu trong văn hóa nhân loại.
Tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh vừa là sự kế thừa truyền thống phồn thực trong văn học Việt Nam, lại vừa là sự biến chuyển mang hơi thở của thời đại. Tính kế thừa, đặc trưng để nhận diện yếu tố phồn thực chính là sự đề cao các hành vi tính giao; bên cạnh đó, sự uyển chuyển được thể hiện ở việc xây dựng biểu tượng phồn thực và ý nghĩa ẩn dụ mà nhà văn muốn gửi gắm thông qua việc khắc họa các hành vi tính dục trong tác phẩm. Ta có thể tìm hiểu yếu tố phồn thực trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn qua biểu tượng phồn thực và các hành vi tính dục.
1. Biểu tượng phồn thựcTrong tiểu thuyết này, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã chú trọng
khắc họa hình ảnh người phụ nữ Việt như là biểu tượng phồn thực của nền văn hóa Việt, dân tộc Việt. Chúng tôi nhận thấy, các nhân vật nữ trong Mẫu Thượng ngàn được nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khắc họa bằng chuẩn mực của vẻ đẹp phồn thực, dồi dào sinh lực ở cả hình dáng bên ngoài lẫn sự hấp dẫn trong khi thực hiện các hành vi tính dục.
Thơ nôm Hồ Xuân Hương đậm in một “hoài niệm phồn thực” [4]. Trong thơ bà, âm vật - hình ảnh biểu trưng cho phái nữ - là một trong những biểu tượng phồn thực ám ảnh. Biểu tượng âm vật xuất hiện dày đặc nhưng không hề “lõa lồ” mà được tác giả và bạn đọc ngầm hiểu thông qua các hình ảnh - biểu tượng phái sinh như hang động, đèo, khe, giếng, túi càn khôn, lạch đào nguyên, cửa son,… Khác với nữ sĩ họ Hồ, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khi xây đắp biểu tượng phồn thực - người phụ nữ - trong Mẫu Thượng ngàn chú trọng mô tả ngoại hình khỏe mạnh, mỡ màng, hứa hẹn sự phồn sinh phồn thực.
Đó là bà Ba Váy với sắc đẹp lồ lộ của da thịt mỡ màng, từ khi “13 tuổi, đôi vú đã thây lẩy”, “trắng một cách lạ lùng, trắng như cục bột”, “khuôn mặt tròn vành vạnh, vai cũng tròn, bàn tay thì bụ bẫm như tay trẻ con. Đôi mông đít mẩy, hứa hẹn sẽ rất to và tròn”. Đến khi đã có sáu mặt con, người đàn bà ấy vẫn bùng lên một vẻ đẹp hừng hực của sinh lực tràn trề: bà Ba “ngày càng phây phây ra, da thịt hồng hào nõn nà”, “ở bà ta, những chỗ nào da thịt hở ra cũng thấy ngồn ngộn ngọt ngào” [2].
Đó là cô Mùi “tuổi đã lớn mà vẫn còn xuân sắc. So với người Việt ta, cô Mùi là một người đàn bà cao lớn. Tuy cao nhưng dáng người cân đối. Đôi vú nở nang. Eo thon nhỏ. Đôi mông nẩy đều chắc nịch hứa hẹn sự đông đàn dài lũ” [2].
Bà Tổ Cô thuở con gái cũng nổi tiếng với vẻ đẹp “thắt đáy lưng ong, khuôn mặt trái xoan, mi thanh mục tú. Chẳng cần trang điểm cũng đẹp nõn nà”.
Ngay cả những người đàn bà có địa vị thấp hèn như bà Ba Pháo (làm mõ) hay cô Ngơ (người con gái vừa nghèo vừa ngẩn ngơ) cũng đằm thắm vẻ đẹp nõn nà, căng tràn sức sống. Trai làng Cổ Đình chẳng ai muốn lấy Ngơ vì cô ngờ nghệch, nhưng biết bao người vẫn âm thầm thèm muốn cô vì vẻ đẹp rất đàn bà : “Đám con trai trông thấy cô đứa nào cũng thèm. Thèm vì cô không xấu lại trắng trẻo bụ bẫm. Thèm vì cô đặc biệt có đôi vú ấm giỏ rõ to. Cái yếm đào rách, lại bé, không đủ rộng che đôi vú ấy. Đôi vú quá cỡ làm
chiếc yếm luôn luôn hếch ra, làm đôi vú thường ở tình trạng nửa kín nửa hở” [2].
Bà Ba Pháo tuy chẳng đẹp nhưng rất có duyên. Phận mõ thấp hèn cũng không làm mất đi nét duyên của người phụ nữ dồi dào sinh lực ấy: “cũng như mọi người đàn bà khác của Cổ Đình, mụ ba Pháo cũng thắt đáy lưng ong, cũng xắn váy quai cồng, cũng lam làm không nghỉ, cũng phốp pháp hừng hực sức sống của trời, của đất” [2].
Tuy không miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, nhưng bằng cách nhấn mạnh vào những đường nét nảy nở của người đàn bà, Nguyễn Xuân Khánh đã vẽ nên bức chân dung người phụ nữ Việt đầm đìa phồn thực, căng tràn sức sống. Những người phụ nữ ấy là bằng chứng cho phồn thực Việt, sức sống của văn hóa và dân tộc Việt. Vườn hoa phồn thực ấy hứa hẹn sẽ dẫn dắt người đọc vào một thế giới nồng nàn của các vũ điệu giao hoan, thể hiện khả năng duy trì nòi giống một cách mạnh mẽ và đầy nhân văn của con người trong Mẫu Thượng ngàn.
2. Hành vi tính giaoSẽ không ngoa nếu nói Mẫu Thượng ngàn là một khu vườn ân ái.
Dưới ngòi bút say sưa của nhà văn, các nhân vật đắm đuối yêu và được yêu, cho và nhận. Thậm chí với một số nhân vật (Vũ Xuân Tẻo, Thơm), khoái cảm tình dục và sự thỏa mãn đã trở thành lẽ sống. Nhưng nếu miêu tả tình dục chỉ đơn thuần là chuyện trai gái, Mẫu Thượng ngàn có lẽ đã không được đông đảo nhà phê bình và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt như vậy.
Tính dục là miền đất hấp dẫn, tuy quen mà lạ trong văn học. Quen, bởi đó là điều tự nhiên, nhân bản nhất của con người, và vì thế đã có biết bao nhà văn say sưa với nó. Nhưng khi đến với đề tài này, mỗi nhà văn lại có hướng đi và đích đến riêng (để níu kéo bước chân của độc giả, hay để bàn về các vấn đề của cuộc sống con người như: chính trị, các khía cạnh tâm – sinh lý,…), vì thế bạn đọc có thể sẽ không bao giờ hết ngạc nhiên về tính dục trong văn chương.
Tính dục là một hiện tượng văn hóa, hay nói như M. Foucault, “Tính dục là một tạo tác lịch sử” [3]. Tác giả Mẫu Thượng ngàn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cũng bày tỏ: “Trong tiểu thuyết này, sự phồn thực được đề cập đến để thể hiện cuộc đấu tranh văn hóa giữa người Việt và người Pháp, thậm chí ngay cả trên giường ngủ. Đề cập đến nhục cảm không có gì xấu, sự giao hòa đàn ông và đàn bà là đẹp nhất và người nhất, không thể lảng tránh. Nó thể hiện sức sống Việt, phồn thực Việt và làm nên sức mạnh Việt Nam cứu rỗi dân tộc và nhân bản”[5]. Chúng tôi cũng nhận thấy, tính dục được khắc họa trong Mẫu Thượng ngàn không phải là chuyện nam nữ đơn thuần, mà nó là một ẩn dụ về văn hóa.
Nguyễn Xuân Khánh đã rất tài tình khi tạo nên một bầu khí quyển tình dục ngồn ngộn, tràn trề, đầy kích thích trong suốt chiều dài của cuốn tiểu thuyết bề thế hơn 800 trang này.
Ở Mẫu Thượng ngàn, đâu đâu cũng thấy những đôi trai gái giao hoan: trong túp lều tranh xơ xác (anh Mường rồ và cô Ngơ), dinh cơ lộng lẫy của viên quan Tây (Philippe và Mùi), giữa thiên nhiên cây cỏ (Ba Váy và Phác/Trịnh Huyền) hay thậm chí trong một ngôi chùa, ngay trước mắt pho tượng thần Hộ Pháp (bà Ba Pháo và ông hộ Hiếu),… Trong khi khắc họa yếu tố tính dục, nhà văn cũng chú trọng thể hiện mối quan hệ giữa người nam và người nữ, chính xác hơn là mối quan hệ giữa những người phụ nữ với bạn tình của họ, bởi phụ nữ là nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết này.
Nguyễn Xuân Khánh đã tạo nên một thế giới đàn bà – những báu vật của khu vườn phồn thực trong Mẫu Thượng ngàn. Người phụ nữ dưới ngòi bút của Nguyễn Xuân Khánh hiện lên sống động, đầy mê hoặc, như là sự hữu hình hóa tính phồn thực của văn hóa Việt, tâm hồn Việt. Đó là bà Ngát, cô Mùi, chị Thơm, Hoa, Nhụ (Nụ) và sau này là Nhị - những cái tên gợi liên tưởng tới hương sắc của đóa hoa bản năng nơi người đàn bà Việt. Bằng hấp lực giới tính, người phụ nữ trong Mẫu Thượng ngàn vừa là đối tượng để khao khát, cũng là đối tượng để săn đuổi. Họ yếu đuối nhưng cũng đầy quyền năng. Dựa vào vai trò của tính dục trong các mối quan hệ giữa người phụ nữ và bạn tình của họ, chúng tôi nhận thấy có hai đặc tính nổi trội, đó là sự tái sinh và sức mạnh hủy diệt.
Sinh sôi nảy nở, tái sinh là đặc tính nổi bật của tín ngưỡng phồn thực. Trong Mẫu Thượng ngàn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khắc họa những mối quan hệ nam nữ mang tính chất phồn sinh và tái sinh. Điển hình là tình yêu của bà Ba Váy và Phác/Trịnh Huyền, bà Ba Pháo và ông hộ Hiếu, cô Ngơ và anh Mường rồ, bà Tổ Cô và ông trưởng Cam, Nhụ và Điều.
Váy và Phác bên nhau suốt thời thơ ấu, họ lớn lên tự nhiên như cây cỏ, và cũng tự nhiên như thế, họ trở thành đôi bạn tình. Trong lễ hội làng năm ấy, hai người đã “trải ổ” trong rừng sâu, và kết quả của lần hò hẹn đó là một mầm sống nhỏ bé bắt đầu hình thành. Vì theo Đề Nghĩa nổi dậy chống Pháp, Phác bị săn đuổi đến nỗi phải sống chui lủi tha hương cầu thực. Hai mươi năm sau, họ gặp lại nhau, khi ấy Váy đã trở thành bà Ba Váy - vợ lẽ của Lý Cỏn, và Phác hiền lành ngày nào đã trở thành Trịnh Huyền với một nửa khuôn mặt biến dạng. Nhưng họ vẫn nhận ra nhau và dành cho nhau cảm xúc vẹn nguyên như buổi đầu “trải ổ”:
“Trên cái ổ lá rừng thật êm ấy, hai người bạn tình gần hai chục năm trời xa cách đã gặp lại nhau. Họ trao cho nhau cả mấy chục năm nhớ thương, mấy chục năm buồn tủi, chờ đợi mà họ tưởng như tuyệt vọng.(…) Đó là tiếng ái ân của những cây thạch nhũ óng ánh lạ lùng, vang âm lạ lùng. Những cây thạch nhũ rủ từ trên cao xuống, thả những giọt ân tình lên một thứ trống cũng là thạch nhũ trắng toát, để cuối cùng phát ra những âm thanh thoang thoảng ngân nga, giống như những tiếng thì thầm quyến rũ, những tiếng thì thầm hay những tiếng đàn mơ hồ mà họ ước ao chúng đừng bao giờ dứt” [2].
Trái ngược với tình yêu của Ba Váy và Trịnh Huyền, bà Ba Pháo và ông hộ Hiếu đến với nhau trong một cảnh ngộ thật trớ trêu. Ông hộ Hiếu vốn là thầy phù thủy canh thần Hộ Pháp trong ngôi chùa đổ của làng Cổ Đình. Còn bà Ba Pháo là vợ góa của ông mõ Pháo, sau khi chồng chết, bà cũng kế tục chồng trở thành mõ làng. Khi chồng và con trai bị chết vì dịch tả, bà Ba Pháo đau khổ đến mức hóa điên, và ông hộ Hiếu chính là người chữa cho bà lành bệnh. Một người bị người làng sợ hãi, người còn lại bị tất thảy mọi người khinh rẻ, hai thân phận cô đơn ấy đã đến với nhau trong một đêm trăng ngời ngợi, ngay trong ngôi chùa đổ, dưới pho tượng thần Hộ Pháp:
“Đêm nay, trăng giàn giụa trong ngôi chùa đổ. Ánh trăng đêm nay làm cho đôi mắt xếch của pho Hộ Pháp hình như cũng dịu bớt đi. Ánh trăng làm mắt chị Ba Pháo long lanh. Ánh trăng làm thân hình của chị như biến thành ngọc, thành ngà. Đôi vú trắng hơn. Chị Ba Pháo cầm tay ông, dẫn dắt ông đi vào cõi mê hồn mà hình như ông chẳng bao giờ biết lối. Ông nâng niu bộ ngực ngọc ngà mà ông đã từng thấy khi chị điên rồ; nhưng khi ấy, đối
với ông, chúng vô hồn. Còn lúc này, ánh trăng và đôi mắt của chị đã đem lại cái hồn sống động cho chúng. Ôi! Sao mà mĩ miều! Ông phù thủy gày còm bò trên bụng người đàn bà vừa ơn nghĩa vừa đa tình. Hai cái sinh linh côi cút trên đời ngẫu nhiên lại phối kết với nhau. Nỗi cô đơn cùng kiệt đã biến họ thành những kẻ hiến dâng không tiếc. Cho hết và nhận hết. Trong những phút bồng bềnh lang thang trong nhau, người đàn ông khóc trên bụng người đàn bà. Những giọt nước mắt ướt đầm đôi vú” [2].
Sự kết hợp của hai con người cô đơn và đau khổ đến cùng cực ấy có ý nghĩa thật đặc biệt. Đó là sự chia sẻ, niềm hạnh phúc của những con người khao khát yêu thương và được yêu thương. Lần ân ái duy nhất ấy đã nảy nở trong người đàn bà một mầm sống. Bà Ba Pháo sinh ra Hoa – cô gái xinh đẹp, nết na nổi tiếng làng Cổ Đình. Người làng bàn tán xì xào thế nào bà Ba cũng không để tâm, bà vẫn nói Hoa là con của Thánh. Hoa, ở một phương diện nào đó cũng có thể được coi là con của Thánh, bởi cô chính nguồn sức mạnh cho hai tâm hồn héo úa ấy hồi sinh.
Tình yêu giữa bà Tổ Cô và ông trưởng Cam cũng là một minh chứng cho khả năng hồi sinh của yếu tố tính dục. Bà Tổ Cô đứng đầu họ Vũ Xuân, tên thời con gái là Vũ Thị Ngát. Bà đẹp nổi tiếng một thời, được gả cho ông cử Khiêm. Hai vợ chồng ăn ở hợp lòng nhau, nhưng do loạn lạc, ông cử Khiêm mất, để lại bà một mình côi cút. Để giữ mạng sống cho bà cử, ông trưởng Cam – người xưa kia từng được ông bà cử Khiêm giúp đỡ, đã xin được lấy bà. Tiếng là vợ chồng nhưng bà Ngát và ông trưởng Cam sống với nhau rất khách khí, ông luôn gọi bà là ân nhân. Dù nằm chung giường để tránh tai tiếng nhưng ông Cam luôn ý tứ để một cái gối chắn giữa hai người. Dần dà, bà Ngát cảm tấm lòng của ông trưởng Cam, muốn xóa đi khoảng cách giữa hai người. Còn ông trưởng Cam, tuy coi bà như người tri kỷ, vẫn không có ý định gần gũi bà. Sau này, khi hai người hiểu tình cảm của nhau, ông tâm sự bà mới biết nỗi đau của ông. Trước kia, Cam bị bắt vào tù vì theo Đạo. Một người quản ngục điên cuồng, sau khi thấy tra tấn anh bằng mọi cách mà Cam vẫn không chịu bỏ đạo, liền nghĩ ra một “chiêu” vô cùng nhẫn tâm: tấn công vào vùng kín của anh. Sau đợt đó, “con chim của anh co lại và rút vào trong bụng”. Biết được ẩn ức của ông, bà Ngát càng thương và yêu chồng hơn. Bằng tình yêu và niềm tin kỳ lạ, bà đã kiên quyết chữa bệnh cho chồng: “Hằng đêm bà Ngát vẫn kiên trì chữa bệnh cho ông. Chỉ có mình bà mới chữa như thế được thôi. Tức là bà ta bế đầu ông lên, cho ông bú như mẹ cho con bú. Rồi một tay bà xoa vào lưng ông, tay kia bà kéo cái chim ra. Đau đấy, nhưng có cái vú bú, có cái tay xoa lưng ông cũng đỡ đau phần nào. Tôi còn nghe nói có bận bà kéo mạnh quá ông đau điếng, cắn chày máu cả vú bà. Cứ như thế, mỗi ngày một ít, cuối cùng con chim chui hẳn ra. Và thế là ông Cam khỏi bệnh. Ông ta mừng đến phát khóc, ôm lấy vợ và nói: Bà đã sinh lại ra tôi lần thứ hai” [2].
Chuyện tình của cô Ngơ và anh Mường rồ lại mang mầu sắc phồn thực của những câu chuyện huyền thoại trong dân gian. Cô Ngơ tuy tâm trí hơi ngơ ngẩn nhưng có thân hình quyến rũ, là niềm khao khát của trai làng Cổ Đình. Ngơ phải lòng anh Mường rồ - chàng trai thâm trầm mạnh mẽ, luôn bên mình bảo vệ cụ đồ Tiết từ thời cụ tham gia nghĩa quân Đề Thám, và cũng là người bảo vệ cô trước sự nhòm ngó của đám trai làng. Hai con người lao động tràn trề năng lượng ấy đến với nhau hồn nhiên như cây cỏ. Ở họ, ta thấy bóng dáng của ông Đùng bà Đà; ở họ, ta cảm thấy dường như dòng phồn thực cổ xưa trong văn học dân gian đã mượn ngòi bút của
Nguyễn Xuân Khánh mà đổ tràn trên trang viết: “Rồi một đêm, người ta bắt gặp anh Mường đến lều cô Ngơ. Anh ngồi trên hòn đá mồ côi trước cửa lều. Cô gái ngồi trên đùi anh, không mặc yếm. Còn anh Mường thì đùa nghịch với đôi vú ấm giỏ. Anh ngửa lòng bàn tay hứng dưới cái vú rồi nâng nó lên. Cái vú vừa to vừa dài, giống quả mít không có gai. Quả mít trắng, núng nính, nhún nhảy trên tay. Mới đầu chỉ nâng một vú, rồi sau, hai bàn tay nâng niu hai vú. Mỗi lần đôi vú nảy lên, cô Ngơ lại khúc khích cười”, “đôi trai gái vào trong lều, ôm xoắn xuýt lấy nhau, hết ở trên giường lại lăn xuống đất. Họ yêu nhau hổn hển, có lúc oai oái. Đám trai làng nhìn qua kẽ vách thấy họ như đôi rắn phủ nhau”.
Nói tới tính dục trong Mẫu Thượng ngàn, sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc tới cặp vợ chồng trẻ con Nhụ và Điều. Cưới nhau khi Điều mười bốn và Nhụ mười lăm, hai đứa hứa với nhau sẽ “đợi”. Điều có thể ngăn được cậu thanh niên khỏe mạnh ấy chỉ có thể là lý lẽ của người vợ trẻ: “Bao giờ cái trên to bằng bánh dày thì cái dưới mới chín” [2], lúc ấy hai người mới thực sự thành vợ chồng. Tình cảm của đôi trẻ và những hành vi tính giao ngượng ngùng là sự thể hiện thật đáng yêu, tơ non mà quyến rũ của phồn thực Việt. Khi Điều bị dịch tả chết đi sống lại, Nhụ đã giúp Điền hồi tỉnh bằng hơi ấm của bầu ngực thiếu nữ: “Nhụ hết sức âu yếm để giữ cái vong linh lay lắt chỉ chực vụt bay đi mất”, “cô kéo cả tay anh vào ngực mình. Cô muốn dùng cả đôi vú xinh xinh ấm áp của cô, thứ báu vật mà anh rất thích, để giữ lại mang sống cho Điều. Khi bàn tay anh chạm vào chiếc vú căng mẩy ấm áp đó, thì Nhụ thấy đôi mắt anh như rực sáng lên” [2].
Cũng như Nhụ, bà Ba Váy đã cứu sống chồng mình là Lý Cỏn khi ông đang hấp hối bằng cách cho chồng uống dòng sữa của bà: “Tôi leo lên giường, tốc yếm lên để lộ ra hai bầu vú. Tôi ngồi xếp bằng, nâng đầu lão ghếch lên lòng mình, sau đó áp bầu vú vào mặt lão. Cái vú mềm mại và bóng mượt của tôi hình như có cách gọi riêng của nó. Trong cơn hôn mê tối tăm mù mịt, hình như đầu óc của chồng tôi chợt lóe lên, nhớ ra điều gì đó. Mà điều ấy rất quen thuộc với lão (…) Ngày xửa ngày xưa, lão vẫn quen với nó, vẫn chơi với nó, vẫn ôm ấp nó. Nó mềm lắm mà, nó hiền lắm mà, nó dễ chịu lắm mà… Còn bây giờ, khi lão đã bám môi vào đầu vú của tôi, thế là tôi an tâm. Tôi biết chắn chắn lão sẽ sống. Tôi biết khi lão đã bám vào đôi vú của tôi, thì tôi nhất quyết sẽ lôi lão ra được khỏi cõi chết” [2].
Như đã thấy ở trên, trong khi khắc họa những hành vi tính giao, Nguyễn Xuân Khánh rất chú trọng tới bầu ngực của người phụ nữ. Với ý nghĩa như một biểu tượng văn hóa, bộ ngực “là biểu tượng của tình mẫu tử, sự che chở, dịu dàng, nơi trông cậy. Gắn với khả năng sinh sản và với sữa, thức ăn đầu tiên, bộ ngực hòa hợp với những hình ảnh về sự thân thiết, tặng phẩm và nơi ẩn náu. Một cái cốc dựng ngược, từ đó cũng như từ trời chảy ra sự sống. Nhưng bộ ngực cũng là chỗ thu nhận, như tất cả các biểu tượng về người mẹ, và sự hứa hẹn tái sinh” [1]. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã kế thừa ý nghĩa của biểu tượng ngực trong “vô thức tập thể” của nhân loại, đồng thời, ông khiến cho biểu tượng này ít nhiều mang sắc màu riêng của Mẫu Thượng ngàn bằng cách nhấn mạnh khả năng tái sinh, dung chứa sức sống và sự sống của nó.
Sự nảy nở, sinh sôi, khả năng tái sinh là đặc trưng đặc biệt của tính phồn thực từ bao đời nay. Nhưng trong Mẫu Thượng ngàn, Nguyễn Xuân Khánh còn khắc họa các hành vi tính dục trong quá trình dẫn đến sự hủy diệt. Đó là cuộc tình giữa Mùi với Vũ Xuân Tẻo, Mùi với Philippe Messme.
Mười sáu tuổi, Mùi được gả cho Vũ Xuân Tẻo. Trong khi Mùi còn ngây ngô, trong trắng thì Tẻo đã sành sỏi như một “con đực thuần thục” với đủ các ngón nghề. Cách hành xử của Tẻo đã đánh thức bản năng giống cái trong Mùi. Không phải tình yêu mà là sự khao khát, khao khát chiếm đoạt đã chế ngự hành vi tính giao của hai con người này. Sau khi cưới được vài tháng, Tẻo đã suy nhược thấy rõ. Thấy tình trạng em như vậy, Lý Cỏn có lời can ngăn, còn Mùi thì khóa cửa buồng không để chồng vào. Tẻo không đếm xỉa đến lời của anh, bằng mọi giá gần vợ, thậm chí giở thói vũ phu với Mùi để ép Mùi chiều chuộng. Hai con người, một gày gò, một nảy nở cứ lao vào nhau như những con thiêu thân. Và chuyện gì đến phải đến, Vũ Xuân Tẻo đã chết vì suy nhược cơ thể. Ước muốn cuối cùng trước khi nhắm mắt của Tẻo là được gần vợ lần cuối, Mùi thương nên đành chiều chồng khiến dân làng Cổ Đình truyền tai nhau cô hiếp chết chồng. Tẻo vốn là một tay chơi thuần thục, nhưng do chủ quan, Tẻo đã đi quá giới hạn. Ban đầu, là kẻ chủ động, dẫn dắt, nhưng sau khi anh ta đánh thức bản năng sinh vật trong người con gái khỏe mạnh kia, Tẻo đã dần mất đi uy thế. Sự làm dụng đã khiến cho tình dục – phương tiện hưởng lạc, trở thành vũ khí giết người.
Sau này, Mùi trở thành đối tượng săn đuổi của Philippe Messmer – chủ đồn điền. Philippe sang Đông Dương, chật vật để tồn tại và xây dựng cơ nghiệp với chủ trương : “Chúng ta sang xứ này để làm ông chủ” [2]. Không chỉ là chủ về kinh tế, chính trị, Philippe còn tham vọng là chủ trên giường ngủ.
Lần đầu tiên nhìn thấy Mùi – với chiều cao quá khổ so với người An Nam và chiếc áo hở lườn cẩu thả một cách rất có duyên, Philippe đã khao khát có được cô. Sau này, khi biết Mùi là vợ của anh cu Tân trong đồn điền của anh ta, Philippe đã bằng mọi cách để chiếm đoạt Mùi: “Mùi càng vùng vẫy thì Philippe càng hả hê. Cô ta đầy đặn quá. Cô ta mát mẻ quá. Cô ta mạnh mẽ quá, cô ta dư thừa sinh lực, cô ta lắm chất đàn bà” [2]. Khi không lừa được Mùi lần thứ hai, Philippe quay quắt trong sự thèm muốn, anh ta phải có người đàn bà đó. Vì thế, Philippe bỏ qua mọi lời khuyên của những người thân tín, sắm sửa lễ lạt đến hỏi cưới Mùi. Khi về làm vợ Philippe, Mùi trở thành một người thụ động, chịu đựng, nô lệ trong chuyện vợ chồng. Philippe – kẻ muốn là ông chủ trên giường ngủ giờ trở thành kẻ cầu xin tình ái nơi Mùi, còn cô không mảy may xúc động. Ngày Philippe được Mùi đáp lại, với hắn là ngày hạnh phúc nhất nhưng cũng đáng sợ nhất. Hạnh phúc nhất bởi đêm ấy, hai người đã có một sự hòa hợp tuyệt diệu – điều mà từ lâu Philippe hằng ao ước. Philippe hân hoan trong niềm hạnh phúc vô bờ - hạnh phúc vì chinh phục được miền đất hứa, hạnh phúc vì kiếm tìm được lạc thú mà trước đây có nằm mơ anh ta cũng không thể tưởng tượng nổi. Lý trí của anh ta quả quyết mình là người chiến thắng: “Từ trong thẳm sâu hắn vang lên niềm hân hoan đắc thắc: “Ta đã chiến thắng. Đã chinh phục được miền đất hứa”, nhưng tâm hồn – trong lúc hoan lạc và yếu đuối nhất – lại thú nhận: “Nàng bắt mất hồn ta rồi. Ta tan biến đi trong nàng rồi. Nàng đã dắt ta tới miền lạc thú mà chưa bao giờ ta biết. Ta run rẩy, ta quỳ sụp trước nàng để van xin phép lạ” [2]. Và đó cũng là ngày đáng sợ nhất của Philippe vì bị hút vào sức hấp dẫn của Mùi, Philippe Messmer không thể làm chủ bản thân, và bốn tháng sau, anh ta đã chết vì suy nhược cơ thể.
Khác với bà ba Váy, Mùi – người đàn bà nồng nàn phồn thực - đã không sinh được đứa con nào sau ba đời chồng. Bởi những ngọt ngào mà cô mang đến cho bạn tình là thứ tình dục hủy diệt.
Mùi đại diện cho sức sống văn hóa Việt, Philippe đại diện cho văn hóa Pháp. Với mục đích xâm lược, thực dân Pháp muốn nuốt chửng Việt Nam cả về kinh tế và văn hóa. Nhưng trái với ý đồ của chúng, văn hóa Việt vẫn tồn tại theo cách riêng của nó, ngồn ngộn chảy trôi, cuốn phăng mọi trở ngại.
Trong Mẫu Thượng ngàn, màu sắc tính dục – yếu tố phồn thực rất đậm nét. Trải qua hàng ngàn năm, dòng chảy phồn thực của văn hóa Việt vẫn sôi nổi chảy trôi. Nó tưới đẫm cả cỏ cây hoa lá, hòa vào suối nguồn, dung dưỡng tạo vật; nó dồn ứ, tích tụ lại và nảy nở ra thành những “bông hoa” đầy nhục cảm – những người đàn bà Việt. Và những người đàn bà với vẻ đẹp nhục cảm trong Mẫu Thượng ngàn chính là biểu tượng của văn hóa Việt, sức sống văn hóa dân tộc Việt. Với Mẫu Thượng ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đã cho người đọc thấy một nền văn hóa Việt trong mọi hoàn cảnh vẫn luôn dẻo dai, mềm mại vươn mình, vượt qua khó khăn, khẳng định sức sống mạnh mẽ của văn hóa, dân tộc Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb. Đà Nẵng, Đã Nẵng.2. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu Thượng ngàn, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.3. Trần Văn Toàn, Về một diễn ngôn tính dục trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam (từ đầu thế kỷ XX đến 1945), http://hoangphongtuan.wordpress.com4. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.5. Chu Minh Vân, Nguyễn Xuân Khánh: “Đề cập đến nhục cảm không xấu”, http://vietbao.vn
Thông tin liên lạc:Ths. Nguyễn Thị Diệu LinhĐiện thoại: 0983.016.779Địa chỉ: Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
Trần Huy Minh Phương
Dòng trôiTruyện ngắn
Phải mất gần một tuần đi tìm, ông Đầy mới gặp được ông Thiếu. Hai
ông vốn là bạn thương hồ, biết mặt hồi cái thời ở truồng tắm mưa, tắm sông chọi
sình. Thuở ấy, cả hai ông đều nhớ, dân thương hồ mỗi năm nhóm họp hai lần. Đó
là dịp tết và rằm tháng bảy. Họ chọn ngã tư Vàm Neo, ghe lớn neo ở giữa, ghe nhỏ
đậu bao quanh. Mọi người quây quần lại, sau phần nghi lễ cúng bái là bữa tiệc tạm
gọi linh đình.
Khi ấy thằng cu Đầy cũng giống như thằng cu Thiếu vậy, ngày qua
ngày quen ở trên ghe chứ chẳng mấy khi được bước lên bờ. Thiệt thòi đủ thứ.
Không được đi học, không quen bạn bè và dĩ nhiên không có cảnh vui chơi như
những ai có tuổi thơ sống trên bờ. Mẹ cu Đầy mua sách học vần xuống ghe cho
con, cu Đầy học hơn nửa tháng đã đâm ra chán nản. Nhưng phải nói là trí nhớ cu
Đầy tốt. Những câu mẹ đọc trong sách hai, ba lần là cu Đầy đã thuộc. Đến rằm
tháng bảy cu Đầy đem cái sự học của mình khoe với cu Thiếu, lại còn dạy cho cu
Thiếu viết chữ nữa. Chữ o thì cu Thiếu viết được, đến chữ a thì cái nét móc được
cu Thiếu viết ngắn ngũn giống như chữ ơ nằm nghiêng. Cu Đầy lên giọng, chửi đồ
ngu. Cu Thiếu cười hề hề, nói cái chữ vừa viết giống như trái xoài chín bị lột một
miếng vỏ. Chán, cu Đầy hổng thèm làm ông thầy nữa. Cu Đầy sực nhớ và khoe
chuyến rồi có ra tới cửa biển và xuống đó tắm. Cu Thiếu hỏi lại, bộ không sợ cá
sấu sao? Cái mũi của cu Đầy hếch lên, sợ gì, ở đó cũng có nhiều người tắm mà!
Cu Thiếu ngây ngô nhờ cu Đầy có dịp ra cửa biển thì múc thùng nước về, nếu
nặng quá không múc bằng thùng thì múc bằng ca cũng được, để tắm một lần cho
biết nước biển có giống nước sông không. Lần này cu Thiếu lại bị cu Đầy chửi
cho là ngu như con cá mòi nằm sắp lớp. Nước biển thì cũng là nước, mặn chát chứ
có ngon lành gì. Cu Thiếu gãi gãi đầu rồi buông câu ờ há!
Nhanh quá, mới đó mà đầy mấy chục năm, gần một kiếp người…
Chiếc ghe của ông Đầy và ông Thiếu đậu sát nhau, gần một ngã ba
sông. Người trên bờ nhìn xuống có thể đoán biết ghe của ông Thiếu khá hơn ông
Đầy vì có chiếc máy ku-le 4. Nhưng cả hai cái mui bầu thì chẳng hơn gì nhau, đều
là lá chằm đóp được bọc ngoài một lớp cao su trắng, mỏng. Ông Đầy lui cui bật
bóng điện từ chiếc bình ắc quy rồi nhẩm trách trời tháng mười sao mau hết ngày,
đã vậy ở trên bờ cũng bị cúp điện. Ông Thiếu lên tiếng nhắc đêm nay có trăng
mùng năm rồi và không quên lặp lại thói quen khi nói hay làm sai một điều gì đó
thì buông câu thôi bỏ đi.
Ông Đầy đang dọn chén đũa vô mâm chợt quay lại – cha nội, ông kêu
tui bỏ mấy con cá mòi này à? Đâu có, tui biết tính của ông mà, không tin thì mở
hộp ra coi… Đúng là rau răm ở trên, cá mòi nằm dưới còn được bốn con.
Ông Thiếu đi chắt bình rượu thuốc. Cả hai ông đều định đêm nay sẽ
uống quắc cần câu mới thôi. Nhưng ngặt nỗi, cái bình rượu nhào thấy cái nhiều
hơn nước. Xác trái nhào đã tan ra thành bột, chắc rằng nó đã được ngâm nhiều
ngày. Thôi, bỏ đi – ông Thiếu lặp lại câu đó khi ông Đầy vừa lấy đũa gắp miếng
cá mòi đưa lên miệng. Bỏ là bỏ cái gì cha nội? Ông định bỏ tui đi à?. Nói tầm
phào không hà, tui kêu bỏ chai rượu xuống, để tui rót cho. Cái tâm của ông không
được tĩnh, cứ đưa lộn vòng hoài… thôi, bỏ đi. Nói chuyện khác coi…
Cái chuyện khác được ông Thiếu khơi lại ở đây vẫn là cái tên của ông.
Chuyện đó ông Đầy nghe đến thuộc lòng. Ông từng than oán rằng cái tên lúc nào
nó cũng vận vào cái bổn mạng. Ông mang tên Thiếu nên chẳng bao giờ thấy mình
được dư dả. Ông đã đi hơn hai phần ba đời người, không vợ, không con, tài sản
của ông có hiện giờ chỉ là chiếc ghe đi mua ve chai với nhiều mảnh chắp vá. Nó
có thể mục nát bất cứ lúc nào. Vậy nhưng, ông đã nghiệm ra ở đời này hình như
không có gì là nguyên vẹn cả. Con sông thì được người ta chắp vá rồi nạo vét để
sửa dòng thông sâu, con đường thì được người ta chắp vá để sửa lối. Người ta
cũng có thể chắp vá những tật xấu, những thói hư. Nhưng với nỗi đau thì không
phải lúc nào sự chắp vá cũng trở nên lành lặn.
Ông Đầy vừa uống xong thì lại thấy li rượu đầy được đặt ngay trước
mặt. Cha nội, bộ ông muốn tui đi ngủ sớm à? – ngủ nghê gì, cái nào của ông là
của ông, ông không cầu thì nó cũng tới. Ông Đầy bưng li rượu lên mà bật ho húng
hắng, vì ông thấy câu nói vừa rồi như có ám chỉ điều gì. Ông Thiếu đang ngồi xếp
bằng, vẫn thói quen lấy bàn tay vò vò cái đầu gối với nét mặt rất thanh thản. Có gì
lạ đâu, hồi trẻ hai người đã cùng yêu một cô gái. Cũng là dân thương hồ, cô gái có
cái tên rất dễ mến là Ngoan. Chẳng biết nghe lời ai, trong ngày rằm tháng bảy
chàng trai mang tên Thiếu mang tặng cho cô Ngoan một bó bông lục bình. Cô
Ngoan nhận món quà rồi nói rằng rất thích thứ này, nhưng với món cá mòi cô còn
khoái hơn nữa. Hay được chuyện đó, mẹ của Thiếu vọt miệng chửi thằng này lớn
mà còn dại. Biết người ta không có cảm tình thì để dành bông lục bình chấm mắm
kho ăn còn có nghĩa. Khi đó chàng trai tên Đầy cũng bị cha mẹ mắng là đồ dại gái.
Món cá mòi bán đâu có được bao nhiêu lời lớm mà Đầy cứ bán rẻ như cho không
cô Ngoan. Chuyện khó xử xảy ra khi cha mẹ cả ba bên nhất quyết không cho con
cái mình qua lại, bởi, cái nghề bán buôn trên sông nước này chẳng thấy được cái
tiền đồ. Thèm lên bờ có được căn nhà mà giấc mơ không thành hiện thực. Cuộc
đời cứ phải trôi tuột buồn khắc khoải như những khúc sông, trôi vô tận như những
giề lục bình tím trên sông. Vậy mà cô Ngoan phản ứng bằng cách nhảy xuống
sông cho chân vịt máy chém,. Nhưng cô đã được chàng trai tên Đầy nhanh nhẹn
giải nguy. Rồi sau đó cả hai thành vợ thành chồng mà không có sự đòi hỏi nào.
Chuyện đó được người quen xì xầm, chắc là cô Ngoan thấy chiếc ghe của gia đình
Đầy lớn hơn chiếc ghe của gia đình Thiếu nên mới đồng ý. Thiếu có biết điều đó
nhưng giả vờ làm như không hay. Thiếu lại buông ra một câu nói đã cũ – thôi, bỏ
đi. Bỏ cái quái gì? Ông Đầy chợt lớn giọng, vợ con chứ có phải rác trôi sông đâu
mà ông biểu bỏ.
Lần này đến ông Thiếu bật ho. Ông uống một lượt ba li như thay cho
một lời xin lỗi. Ông biết rất rõ cái cảnh khổ của ông Đầy hiện giờ, nhưng ông lại
không biết cách nào để trợ giúp. Cái cảnh đó, nói như ông Thiếu, nó đã xảy ra từ
những cái chuyện ‘lỡ’. Ông Đầy lỡ có vợ, lỡ có con. Vợ của ông cũng lỡ để đứa
con rơi xuống sông chết đuối khi ông lên bờ bữa vào quán nhậu. Khi đó ông cũng
lỡ nặng lời, lỡ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay để rồi vợ ông không dám xuống ghe.
Bà ấy trốn tạm trong nhà một người lạ. Trong cơn nóng giận, ông lỡ chèo ghe đi.
Đến khi ông quay lại thì vợ của ông không còn ở đó, mặc dù chỉ xa có
ba hôm. Người chủ nhà nói, khi ông đi, qua ngày hôm sau vợ ông liền đi tìm.
Cuộc tìm kiếm giữa hai người như trò chơi trẻ nít nhưng không ngày có đoạn sum
vầy. Họ tìm mãi trên những nhánh sông. Dù vậy, ngày qua ngày ông cứ nuôi hi
vọng sẽ tìm thấy vợ mình. Ông đi bán cá mòi. Ghe chèo đến đâu ông dò hỏi đến
đó. Ông nói vợ tên Ngoan, mọi người có nhìn thấy ở đâu không? Ai ai cũng lắc
đầu. Ông lại nói vợ ông mặc quần đen và cái áo màu xanh đọt chuối. Nghe vậy thì
đố ai biết. Ông lại nói rõ ra rằng, vợ ông có nốt ruồi to bằng đầu đũa nằm dưới
bụng. Người ta lại cười ồ. Họ nhao nhao réo lên đài mà nhắn tin đi bố già ơi!.
Cảm ơn mọi người đã nhắc nhở, việc đó ông đã mò mẫm làm rồi.
Nhưng cái địa chỉ của ông là chiếc ghe bán cá mòi thì ai biết ở đâu mà lần tìm.
Nếu có nhớ chăng thì vợ ông sẽ nhớ tới cái ngã tư Vàm Neo. Và ông đã quay lại
nơi đó nhiều lần, nhưng mười mấy năm rồi, cái cảnh nhóm họp dân thương hồ đã
không còn, cho nên ông cứ chèo ghe đi đi về về một mình chẳng khác nào nhánh
lục bình mồ côi không tìm được bến đậu.
Thôi, bỏ đi – ông Thiếu nhại giọng – cha nội, nhìn cái mặt ông khóc
không ra nước mắt tôi nhớ tới cảnh tượng cháy ghe. Đó là do tàu chạy sóng lớn
làm đổ cái bếp dầu. Cái mui lá chằm đóp lửa phừng phừng cháy. Cái máy ku-le 4
cũ mốc của tui bị phựt xăng cũng bốc cháy. Lúc đó ở giữa sông nước nếu tui hô
bớ người ta cháy ghe chắc là tui sẽ bị người ta cho là điên nặng. Cha nội, rồi lúc
đó ông làm sao? Còn làm sao nữa, tui nghiêng ghe cho nó chìm luôn. Lỡ bệnh rồi
đâu có sợ bị trúng gió. Ờ, kể ra tui cũng khốn nạn thiệt. Lúc có vợ, có con khi nào
tui tìm thăm ông đâu. Thôi bỏ đi! Ờ, bỏ đi…
Ông Đầy nói vậy mà không phải vậy. Thực tế ông đang nghĩ tới đứa
con xấu số của ông. Nó mất khi bập bẹ nói được ba ba, mẹ mẹ. Nó được vợ chồng
ông đem chôn lén nơi bến sông, đoạn vắng người qua lại, chỗ đó bây giờ đã được
người ta san lấp, rồi đắp đê, làm bờ kè xi măng hẳn hoi. Mỗi khi ngang qua ông
chỉ biết đứa con ông nằm dưới đó, ở đoạn đó, khúc đó. Cũng mới hồi hôm này,
ông lại chiêm bao thấy vợ và con. Nhưng ông không vui mừng, vì ông biết con
ông đã mất, điều đó chỉ khoét sâu thêm vết thương chưa lành miệng. Tóc ông vốn
đã bạc. Tóc của vợ ông còn bạc nhiều hơn. Nhìn dáng vẻ khắc khổ của bà ấy từ xa
nhìn ông mà không nói gì, ông càng thêm quặn sâu nỗi đau. Ôi! Chẳng lẽ bà đã
chết rồi ư? Rồi ông gẫm trong mơ màng giấc mộng. Cuộc đời mà, thử hỏi một
người phụ nữ bị chồng khốn nạn bỏ rơi, lúc không một đồng lận lưng, không nơi
nương tựa thì sống bằng cách nào đây. Điều họ chỉ có thể làm được là ai thuê gì
làm nấy bằng sức vóc và khả năng của bản thân. Nhưng cái bẫy người luôn há
mõm thật to, thật rộng sẵn sàng nuốt chửng con mồi khờ khạo lỡ sập bẫy. Khi
cùng đường thì người ta hoặc là trở nên con người dễ dàng sa vào tội lỗi để mưu
cầu cái lẽ sống cho bản thân hoặc họ có thể lóe lên những khát vọng và sống mãnh
liệt như một ánh sao băng thật ý nghĩa trong cuộc đời. Mà điều đó thì hiếm thay.
Ông lại tặc lưỡi. Cha nội, cái bình rượu nhào cạn nước rồi. Ờ, cái bóng đèn bình
cũng sắp cạn điện, nó đỏ như cái mặt của ông với tui vậy, ông Thiếu rè rè giọng
khi thấy ông Đầy cứ mặc nhiên suy tưởng.
Hai chiếc bóng cô đơn chảy nhòe nhoẹt khúc sông vắng và đêm ấy
trăng cũng buồn hiu. Gió trên sông phả vào người, đêm đã bắt đầu rớt lạnh. Trăng
lơ lửng treo trên nóc nhà của nhân loại. Ai cũng muốn với tay hái nhưng mãi vô
vọng. Có lẽ cái đẹp chỉ đứng từ xa mà nhìn.
Buồn quá hè, ông nghe tui hát nè. Rồi ông Thiếu tằng hắng lấy giọng
vô nhịp ‘biên cương lá rơi Thu Hà em ơi. Đường dài mịt mùng anh không tới
nơi…’ tới đó ngắc ngứ. Thôi đi cha nội, nghe ông ca mà muốn xỉn luôn cho rồi.
Vừa nói ông Đầy vừa lần mò sang ghe bên cạnh. Ông về chỗ ngủ nhưng lại nhầm
ghe của ông Thiếu là ghe ông. Thôi, kệ đi. Lỡ say ngủ đâu cũng được, ghe ông với
ghe tui có khác gì nhau, cũng lênh đênh một dòng trôi vô định. Đoạn, ông Thiếu
quờ quạng dọn mâm chén đũa rồi chui thẳng vô mui ghe của ông Đầy. Bóng điện
vẫn chưa tắt. Ngọ nguậy một lúc, ông Thiếu ló đầu ra ngoài mui, còn chuyện này
tui quên nói với ông. Hậy, chuyện gì nữa? Thì tui nhớ cái lần bị cháy ghe, lúc vớt
lên lại thì đâu còn mui để che chắn. Đến tối, tui lủi ghe vô hàng bần. Tui buộc dây
mùng lên nhánh bần mà ngủ. Nhưng đến sáng, tui thấy cái mùng nó phất phơ, vói
tay lên mà không tới. Vậy cha nội bị ma nhát chứ gì? Nói bậy đi, tui không nhát
ma thì thôi chứ con ma nào dám nhát tui chứ ông? Đó là vì lúc tui giăng mùng thì
nước lớn, đến sáng thì nước lại ròng. Ờ, tui hiểu rồi, đến giờ này thì ông cũng vẫn
còn ngu như con cá mòi vậy. Mèng ơi, ông mà còn chửi nữa là tui không đi kiếm
bả giúp ông đâu. Mà ông cũng tệ ghê, kiếm vợ ở gần không gặp thì đi kiếm ở xa.
Biết đâu bả lên tuốt thành phố ăn nên làm ra rồi hoặc là có chồng khác ở xứ nào
xa lơ xa lắc, ở đó mà… ông làm như không có ghe cá mòi của ông thì cái chợ nổi
nó vắng hoe vậy. Mà thôi, bỏ đi.
Giọng của ông Thiếu bỗng im bặt. Nhanh quá. Hình như ông Đầy đã
ngủ. Chung quanh ông Đầy lúc này là những con sóng nhỏ vỗ lách tách vào be
ghe, mà không, nó như đang vỗ vào cõi lòng ông vốn đã quen tròng trành với
những nhịp chèo xuôi ngược. Ông mơ màng ngủ. Ông lại mơ màng thấy giữa con
nước đứng, có hai chiếc ghe đậu sát nhau từ từ đi ngược chiều khi mặt trời vừa ló
dạng.
.2005 – 2011.
T.H.M.P
Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Thuận
VŨ THỊ HẠNH, NGUYỄN THỊ DIỆU LINH
Thái Nguyên
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Trong quá trình sáng tạo, mỗi nhà văn có những cách xử lý
ngôn từ riêng. Vì thế, ngôn từ trong tác phẩm văn học trở thành sản phẩm sáng tạo độc đáo của
mỗi nhà văn, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng nghệ thuật. Với quan niệm
“Tiếng Việt thừa hiện đại và tinh tế để sáng tạo”, Thuận hiện diện trước hết như một nhà ngôn
ngữ học. Mỗi tiểu thuyết là một hành trình thử nghiệm của nhiều lối viết mới mà tất cả đều khởi
nguồn từ cuộc phiêu lưu của ngôn từ. Bằng sự am hiểu tường tận về ngôn ngữ, Thuận đã biến
ngôn ngữ trở thành một phương tiện quan trọng nhằm thực hiện những tham vọng cách tân nghệ
thuật. Trong bài viết, người viết xuất phát từ quan niệm về sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn để
chỉ ra những đặc điểm cơ bản về ngôn từ trong tiểu thuyết của Thuận: sự tăng cường yếu tố tỉnh
lược ngữ dụng; hiện tượng lai tạp ngôn ngữ, tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật… Đặc biệt,
với Thuận, ngôn ngữ còn là phương tiện để kiến tạo nhịp điệu thông qua việc mở rộng và thu hẹp
biên độ đoạn văn và câu văn
1. Từ quan niệm về sáng tạo nghệ thuật đến ngôn từ trong tiểu thuyết của Thuận
Thuận quan niệm “văn chương là một trò chơi” và theo đó, tiểu thuyết là một trò chơi văn
bản. Nhà văn sáng tạo ra tiểu thuyết nhưng thông qua ngôn từ, người đọc sẽ thực hiện vai trò đồng
sáng tạo. Thuận khẳng định: “tác giả rất cần đến sự tham gia của độc giả”. Vì thế, “Nếu trong
hàng triệu người đọc thông tiếng Việt mà có được một ít độc giả cho mình thì cũng là điều may”
[3]. “Độc giả cho mình” theo cách nói của Thuận – thực chất bao hàm sự thách thức, kén chọn và
yêu cầu. “Độc giả ngày nay đã thay đổi nhiều. Tôi nghĩ họ “lớn lên” nhiều …Rất nhiều nhà văn
…nghĩ hộ độc giả từ A đến Z... Tôi thì không dọn một bữa cỗ ăn sẵn như thế.” [1]. Với quan niệm
văn chương như vậy, ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận thực chất là một sự thách thức đối với
độc giả.
Để thách thức độc giả, Thuận đã pha trộn, lai tạp nhiều ngôn ngữ khác nhau nhằm phá vỡ
tính thuần khiết của ngôn ngữ văn chương truyền thống, mở đường cho sự “ùa vào” của các yếu
tố văn hóa ngoại lai. Sự lai tạp được xây dựng trên cơ sở kết hợp tiếng Việt với những yếu tố ngôn
ngữ khác ở nhiều cấp độ: khi thì sử dụng từ gốc Anh/ Pháp, khi thì sử dụng theo cách phiên âm
sang tiếng Việt… Cách đặt tên, dùng từ, đặt câu trong tiểu thuyết của Thuận đều xuất hiện hiện
tượng này.
Sự lai tạp ngôn ngữ được thể hiện ngay từ nhan đề tác phẩm: Chinatown, Made in Vietnam,
Paris 11 tháng 8. Tên các chương đoạn, tên nhân vật cũng xuất hiện hiện tượng này: Chương 7.
Gaza [6, 75]; Chương 9. Mistral [6, 94]; Chương 12. Ice cream Tuổi Hoa Niên [6, 134].
Không dừng lại ở cấu trúc, hiện tượng lai tạp ngôn ngữ còn thể hiện ở cấp độ nhỏ hơn: câu
và các thành phần của câu. Khảo sát trong trong tiểu thuyết của Thuận ta thấy những câu được cấu
tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh và tiếng Pháp xuất hiện với tần suất lớn: “The West is too old” [5,
78
239]; “Its nothing, don’t be worried’ [5, 238]; “Socialism is up, bureaucracy is up…What’s
important is money. Fifty fifty, are you ok? Perestroika is very important” [5, 236]; “France is too
old; but you are ok? The West is old, old ideology, old technology, old mentality” [5, 232]; “Un
milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi”. [5, 13]; “Spécialités chinoiese et vietnamiennes” [5,
26].
Dưới cấp độ câu, hiện tượng lai tạp còn thể hiện qua những từ/ cụm từ giữ vị trí quan trọng
trong câu: “Stress lắm” [4, 12], “rượt Internet” [14, 246], “Nó bảo: Stop” [5, 245]; “…nuột nà
thon thả như my girl…Vova nháy mắt…very ok in bed. …những thay đổi very important” [5,
230] ; “Vừa bắt tay chúng tôi, vừa bảo: “Shopping is nice in Paris”. Phó giám đốc đáp lại: “Oh,
It’s very nice”…Công nhận my girl đẹp thật” [5, 229].
Ngoài ra, trong tiểu thuyết của Thuận còn xuất hiện rất nhiều những từ ghi âm cách đọc
tiếng nước ngoài như: xi –líp, đét – xe, đi – văng, dis-co, năm - bơ oăn, phéc-mơ-tuya, a-xit, ca –
ta- lô…
Bên cạnh sự lai tạp ngôn ngữ Thuận còn tăng cường sử dụng các thuật ngữ chuyên môn
nhưng không chú thích nhằm mục đích thách thức độc giả. Đó là những từ ngữ biểu đạt các khái
niệm chuyên môn và để hiểu được những thuật ngữ này, đòi hỏi người đọc phải có một trình độ
nhận thức nhất định. Khảo sát trong tiểu thuyết của Thuận, ta thấy xuất hiện những thuật ngữ
chuyên môn và khoa học của nhiều lĩnh vực khác nhau như: chứng khoán, biểu giá, lợi nhuận, tài
chính, marketing, xuất nhập khẩu (kinh tế - tài chính); sida, axit, truyền nhiễm, phụ khoa, nhiễm
trùng, bì phu, vi khuẩn, virut, vắc – xin, phoóc – môn, X quang, nan y, động mạch, nhồi máu,
triệu chứng, tử thi, pháp y, nội tiết (Y học)…Sử dụng những thuật ngữ chuyên môn giúp Thuận
rút ngắn độ dài văn bản nhưng vẫn đảm bảo hàm lượng thông tin cần thiết. Đó cũng là con đường
để nhà văn hướng đến mô hình tiểu thuyết ngắn.
Việc pha trộn những yếu tố ngoại ngữ khác nhau và sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên môn,
khoa học là chủ đích lựa chọn và thách thức độc giả của nhà văn. Tiểu thuyết đòi hỏi ở người tiếp
nhận phải có trình độ ngoại ngữ và sự am hiểu về nhiều lĩnh vực đa dạng của đời sống. Thay vì
“dọn một bữa cỗ ăn sẵn” [1], Thuận bắt người đọc phải tư duy, suy ngẫm thì mới có thể “thưởng
thức” được nó. Đây chính là lí do giải thích vì sao không ít độc giả nhận xét rằng tiểu thuyết của
Thuận thuộc tạng “khó đọc” và nó “rất gần với mức độ mà một người đọc khó tính đòi hỏi” [5].
Cùng với tiểu thuyết của Thuận, những sáng tác của Phạm Thị Hoài cũng nổi bật lên ở hiện
tượng lai tạp và pha trộn ngôn ngữ. Điểm tương đồng ở hai nhà văn nữ này là ở chỗ: thông qua
ngôn ngữ để gây ấn tượng về một thời đại không yên ổn với những luồng tư tưởng văn hoá khác
biệt. Đặc biệt, nó còn biểu hiện sự giao tranh quyết liệt để dành chỗ đứng của các yếu tố ngôn ngữ
trong thời đại bùng nổ thông tin. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa Thuận và Phạm Thị
79
Hoài là: qua lai tạp, pha trộn và giao tranh, Phạm Thị Hoài phơi bày sự hữu hạn của tiếng Việt
còn Thuận lại cho thấy thế mạnh của tiếng mẹ đẻ trong khát vọng biểu đạt tư duy trừu tượng. Đó
chính là tình yêu và niềm tự hào đối với ngôn ngữ Việt: “Ngôn ngữ Việt thừa tinh tế để sáng tạo”
[3].
2. Tỉnh lược ngữ dụng - một thủ pháp xây dựng hình tượng nhân vật
Bằng sự thông minh và sắc sảo, Thuận đã biến ngôn ngữ thay vì là một chất liệu sáng tạo
trở thành một thủ pháp góp phần quan trọng trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Điều này
được thể hiện rất rõ thông qua sự tỉnh lược ngữ dụng trong tiểu thuyết, cụ thể là thủ pháp giản
lược đối thoại, gia tăng độc thoại.
Đối thoại là hành động nói chuyện giữa hai hay nhiều người. Nó cần có người phát ngôn,
người nhận phát ngôn và sự luân chuyển thành phần lời giữa hai đối tượng. Khác với đối thoại,
“Lời độc thoại được chỉ ra bằng các từ “tự nhủ”, “thầm nghĩ” và không phải bao giờ cũng rành rọt
mà thường rối ren, lộn xộn, chắp nối. Đó là hình thức tái hiện tính tự phát của dòng ý thức và cảm
xúc” [2]. Thuận đã sử dụng tối đa các hình thức tỉnh lược/ giản lược đối thoại và bù lấp nó bằng
sự gia tăng độc thoại trong tiểu thuyết của mình.
Trong tiểu thuyết của Thuận, cụm từ “im lặng”, “lắc đầu”, “gật đầu”, xuất hiện với
tần số lớn, báo hiệu cho thủ pháp tỉnh lược/ giản lược ngữ dụng. Tần số lặp lại của những
cụm từ trên được thể hiện qua bảng dưới đây:
Tác phẩm Im
lặng
Lắc
đầu
Gật
đầu
Chinatown 25 25 9
Paris 11 tháng 8 116 64 93
T mất tích 37 21 29
Vân Vy 55 35 37
Trước tình huống đối thoại, nhân vật trong tiểu thuyết thường chọn giải pháp giản lược/
khước từ đối thoại. Thay vì đồng tình, họ chỉ “gật đầu”. Thay vì phản đối, họ chỉ “lắc đầu”. Đa số
họ đều “ngại giải thích” và chọn giải pháp im lặng. Trong từng tình huống cụ thể, im lặng có khi
biểu đạt cho sự đồng tình, có khi lại là sự phản đối. Nhưng điểm chung giữa chúng là sự lẩn tránh
giải thích. Im lặng cũng không phải là không có gì để nói. Im lặng còn là hiện thực hóa sự cô đơn,
trống trải, không thể đồng cảm, không thể thấu hiểu, không thể chia sẻ. Nó là minh chứng cho sự
cắt đứt và hủy hoại dần đường dây liên kết giữa người với người. Trong T mất tích, sự im lặng của
T khiến “Tôi” dễ chịu và đó là lí do giải thích vì sao “Tôi” và T có thể sống với nhau trong sáu
năm trời. “Tôi” biết gì về T – người vợ sáu năm cùng chung sống? Không gì cả! Tên của T “Tôi”
chưa bao giờ gọi. T cũng chưa bao giờ gọi tên của “Tôi”. Độc giả ngỡ ngàng trước sự “vụn rời”
80
của các mối quan hệ khi “trong thâm tâm, tôi nghĩ vì thế chúng tôi mới tồn tại cạnh nhau hơn sáu
năm” [5].
Thay vì đối thoại, Thuận để các nhân vật độc thoại triền miên. Điều này được thể
hiện thông qua tần số xuất hiện của các cụm từ: “tự nhủ”, “thầm nghĩ”, “tự hỏi/ tự trả lời”
trong bảng dưới đây:
Tác phẩm Tự
nhủ
Thầm
nghĩ
Tự hỏi/ tự
trả lời
Paris 11
tháng 8
2 7 3
T mất tích 9 5 2
Vân Vy 18 31 12
Với độc thoại nội tâm, Thuận đã diễn tả trạng thái cũng như tính quá trình của dòng ý thức
nhân vật. Thuận đã để các nhân vật tự lý giải, tự phân tích, tự giãi bày, tâm sự với chính mình.
Bằng việc thay thế đối thoại bằng những dòng độc thoại triền miên, Thuận khắc sâu vào trạng thái
cô đơn hoang vắng, sự day dứt, ám ảnh khốn cùng của nhân vật.
Thứ ba: Ngôn ngữ - một phương tiện kiến tạo nhịp điệu
Nhịp điệu là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ trữ tình, dùng để phân biệt với ngôn ngữ tự sự.
Tuy nhiên, đến với ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận, chúng ta lại thấy đó là thứ ngôn ngữ tự
sự giàu nhịp điệu.
Toàn bộ Chinatown được bao trùm bởi một nhịp điệu bất thường và dồn dập. “Nhịp điệu
đó dựa vào phép lặp: lặp lại một từ, một câu hay cả một đoạn văn, lặp lại một động tác, một lời
nói, một cái tên riêng hay cả một nhân vật. Nhịp điệu đó dựa vào những đặc tính của tiếng Việt:
đa nghĩa, giàu âm, cấu trúc tự do, thời gian lỏng lẻo. Các ngoại ngữ khác, như tiếng Pháp chẳng
hạn, không chấp nhận những câu cụt, những động từ không chia, và vì thế sẽ làm mất đi tính mập
mờ giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mộng, giữa tỉnh táo và mộng mị của Chinatown” [1].
Nhịp điệu còn được xây dựng dựa trên cách thức tổ chức ngôn từ độc đáo như: sự mở rộng
không giới hạn biên độ đoạn văn, sự thu hẹp biên độ câu văn tạo nên những câu ngắn, chồng xếp
lên nhau. Ta có thể thấy nhịp điệu của ngôn ngữ trong trích đoạn dưới đây:
“Sau đó, Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Tôi không biết…Thụy đứng cạnh ngôi nhà hai tầng,
bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Tôi không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì những ngày ấy...
Phố nào cũng nhà hai tầng. Nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Tôi không biết
Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Đến bây giờ tôi cũng không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Mười hai
năm rồi tôi muốn gặp Thụy để hỏi... Nhưng tôi muốn biết những ngày ấy Thụy ở đâu, gặp ai, làm
gì. Trong những ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Những ngày ấy. Những
81
ngày ấy thằng Vĩnh mới một tháng. Nó biết lẫy. Biết bò. Biết đi. Không thấy Thụy đâu. Nó đau
răng. Cai sữa. Lên sởi. Không thấy Thụy đâu. Nó bị kiến lửa đốt vào tai 39 độ một tuần liền.
Không thấy Thụy đâu. Nó nuốt phải hột chôm chôm cấp cứu bệnh viện nhi Thụy Điển. Không
thấy Thụy đâu. Nó bị thằng bạn cùng nhà trẻ cắn rách mũi, bị cô giáo phạt quay mặt vào tường,
tay sai Bắc Kinh dám bắt nạt thường dân Việt Nam. Không thấy Thụy đâu. Không thấy Thụy đâu”
[4, 29].
Qua trích đoạn, chúng ta nhận thấy sự “đậm đặc” của phép lặp: lặp câu, lặp từ, lặp cấu trúc.
“Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì” lặp lại 5 lần; “Không thấy Thụy đâu” lặp lại 6 lần; “những ngày ấy”
lặp lại 4 lần. “Nhà hai tầng, bảng hiệu chữ hoa và hai cái đèn lồng” lặp lại 3 lần. “Mười hai năm
rồi tôi muốn gặp Thụy để hỏi” lặp lại 2 lần.
Lặp cấu trúc được thể hiện thông qua những câu tương đương. Chinatown được cấu tạo bởi
những câu ngắn không xuống hàng. Những câu ngắn lặp lại nhau, như gối lên nhau liên tục tạo
thành một nhịp điệu xuyên suốt tác phẩm.
Lựa chọn được ngôn ngữ biểu đạt đúng ý trọng tâm đã khó, khiến cho chúng trở nên uyển
chuyển lại càng khó hơn. Nhưng trong tiểu thuyết của mình, Thuận đã làm được điều đó:
“Chinatown! Chinatown! Chinatown! Tôi muốn hỏi tại sao”. Câu văn không chỉ uyển chuyển mà
còn truyền tải được ý trọng tâm của toàn tác phẩm. Nói về cách sử dụng ngôn ngữ trong tiểu
thuyết của Thuận, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về Chinatown: “Có thể thích hay không
thích, nhưng những cuốn sách như thế này làm chuyển động thẩm mỹ của xã hội và tác động đến
những người sáng tác khác”.
4. Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật
Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật thể hiện ở sự hiện diện đồng thời nhiều tiếng nói
khác nhau: lời của người trần thuật, lời của nhân vật, lời gián tiếp tự do. Điều này làm nên sự khác
biệt giữa tiểu thuyết của Thuận với tiểu thuyết truyền thống (một giọng của tác giả - tiểu thuyết
đơn âm).
Trong tiểu thuyết của Thuận, tác giả dường như giấu mình, cố giữ thái độ khách quan trước
nhân vật, để cho chúng tự do bộc lộ tư tưởng, tình cảm riêng, Các tư tưởng, tình cảm khác nhau,
thậm chí đối lập đều có giá trị độc lập và cùng được tôn trọng như nhau. Chính điều này khiến cho
tiểu thuyết của Thuận có tính phức điệu. Nhờ đó, mỗi nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận đều có
một giọng điệu riêng, độc lập, tự nó. Mỗi nhân vật là một cái tôi riêng biệt. Đó có lẽ cũng chính là
“sự bình đẳng” mà Thuận đã lên tiếng khẳng định.
Ở Chinatown, tính đa âm, nhiều giọng trở thành mục đích của tác giả, tạo thành chủ âm của
văn bản tự sự: “Cô giáo chủ nhiệm gọi tôi ra gặp riêng. Cô giáo dạy toán gọi tôi ra gặp riêng.
Thày giáo dạy văn gọi tôi ra gặp riêng. Thày giáo tiếng Anh gọi tôi ra gặp riêng. Bí thư liên đoàn
82
trường gọi tôi ra gặp riêng. Em nên tập trung để dẫn đầu cả lớp kỳ thi cuối năm. Em nên tập trung
để đạt kết quả cao nhất kì thi hết cấp. Em nên tập trung để mang lại danh dự cho toàn trường kỳ
thi đại học. Người ta đem trách nhiệm trao cho tôi. Người ta mang thi cử ra làm tôi sợ.” [4, 7].
Trích đoạn trên cho ta thấy sự vang lên đồng thời giọng của “tôi” kể chuyện và các nhân
vật. Mỗi nhân vật đều có giọng điệu riêng. Giọng của các nhân vật (cô giáo, thày giáo, bí thư
đoàn, cha mẹ tôi) vang lên thành một bè cao – đa âm, đa giọng – thể hiện cho những bổn phận,
trách nhiệm, nghĩa vụ bao hàm trong đó cả sự dọa nạt, lấn át. Đan xen vào giữa cái bè cao đó là
giọng của “tôi” kể chuyện – đơn lẻ, yếu đuối, lúng túng, hoang mang. Hai giọng điệu này khi đặt
cạnh nhau, chúng luôn tìm cách ngốn nuốt lẫn nhau. Nó như ngầm báo trước một cuộc đấu tranh
âm thầm, không cân sức mà phần yếu thế thường nghiêng về cái bè thấp hơn.
Sự phối hợp, hòa trộn, nối ghép không báo trước của nhiều thành phần lời trần thuật ít
nhiều gây hẫng cho độc giả, làm đứt gãy mạch tự sự và tạo ra hiệu quả đặc biệt trong việc khám
phá thế giới sâu kín của nhân vật. Nó không chỉ thể hiện sự đứt đoạn, rối bời trong dòng ý thức
của nhân vật chính mà còn thể hiện trạng thái day dứt, hoang mang, bất an của nhân vật trong đời
sống hiện đại.
Tóm lại, bằng sự dụng công trong cách lựa chọn và sử dụng ngôn từ, Thuận hiện diện
không chỉ với tư cách là một nhà tiểu thuyết mà còn là một nhà ngôn ngữ học. Dưới ngòi bút của
Thuận, những thế mạnh của ngôn từ được khai thác triệt để. Nó không chỉ
là một chất liệu nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là những phương tiện nghệ thuật có giá trị biểu
đạt lớn: tham gia xây dựng hình tượng nghệ thuật, kiến tạo nhịp điệu, tạo tính đa âm, nhiều giọng
cho tiểu thuyết. Với những thành công đó, Thuận đã phần nào khẳng định được cá tính sáng tạo,
phong cách cũng như tài năng nghệ thuật của mình. Đó cũng chính là những đóng góp không nhỏ
của Thuận cho nền văn học đương đại nước nhà.
______________________
1. PHONG ĐIỆP, Thuận: Viết để phá vỡ sự cân bằng, http://phongdiep .net .
2. PHƯƠNG LỰU, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
3. LAN NGỌC, Thuận: Ngôn ngữ Việt thừa hiện đại và tinh tế để sáng tạo, http://evan.vnexpress.net.
4. THUẬN, Chinatown, NXB Đà Nẵng, 2004
5. THUẬN, T mất tích, NXB Hội Nhà văn và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, 2006
6. THUẬN, Vân Vy, NXB Hội Nhà Văn và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, 2008
83
Đóng góp của Nguyễn Đình Thiđối với Sân khấu Việt Nam hiện đại
Nhà nghiên cứu lý luận Nguyễn Văn Thành
Phó trưởng ban lý luận Hội NSSK VN
Là một tên tuổi lớn trong văn học nghệ thuật Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, tầm vóc
của người nghệ sĩ đa tài mang cốt cách tri thức văn hóa sâu rộng Nguyễn Đình Thi trải
rộng qua nhiều hình thức sáng tạo khác nhau từ nghiên cứu triết học đến âm nhạc, từ thơ đến
văn xuôi, lý luận phê bình và phiêu du sang cả lĩnh vực kịch, bộ môn được văn hào Nga Goocki
cho rằng đó là thể văn chương khó nhất.
Không rõ vì sao, Nguyễn Đĩnh Thi đến với kịch muộn hơn các hoạt động sáng tạo
khác. Mãi đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, gần tuổi tri thiên mệnh, sau nhiều ngày
tháng vật lộn căng thẳng với tập 1 tiểu thuyết “Vỡ bờ” tập 1, để thay đổi trạng thái tinh thần,
Nguyễn Đình Thi run rẩy bắt tay vào viết vở kịch đầu tiên trong hành trình sáng tác - “Con nai
đen”, khởi hứng từ lần đi xem vở Múa rối Vua Nai tại quê hương cách mạng tháng 10.
Chẳng ngờ, năm 1962, “Con nai đen” công diễn trên sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội qua bàn
tay đạo diễn của Nhà thơ lừng danh Thế Lữ, gây tiếng vang. Rồi sinh viên trường Mỹ thuật
Yết Kiêu hào hứng tái hiện kịch bản này, Họa sỹ Vũ Giáng Hương lúc đó đang là một nữ
sinh say mê nghệ thuật sắm một vai phụ ở vở diễn, nhưng ấn tượng về Kịch Nguyễn Đình
Thi vẫn đọng mãi trong ký ức bà...
Vở diễn “Con nai đen” với cung cách viết kịch mới lạ, độc đáo ở chất kỳ ảo huyền
thoại, quyện hòa với tính triết lý sâu lắng như một luồng gió mạnh khuấy động sinh hoạt
kịch trường nước ta lâu nay vẫn hiu hiu tĩnh lặng. Với lối viết có tính biểu tượng hai mặt
dễ gây hiểu lầm của một thời ít nhiều ấu trĩ trong nhận thức nghệ thuật, không khỏi làm
Nguyễn Đình Thi trăn trở, nhưng bản lĩnh của người nghệ sĩ, chiến sĩ ông vẫn tiếp tục viết
kịch.
Kể từ đó trở đi cho đến năm 1986 – trọn 1 phần tư thế kỷ, Nguyễn Đình Thi đau đáu,
mê mải với kịch, hình thái diễn tả đời sống và con người một cách mãnh liệt mà trực diện
lạ lùng đến kỳ diệu vì nó đi thẳng từ nhân vật kịch qua diễn xuất của nghệ sĩ biểu diễn đến
với công chúng trong cùng một không gian và thời gian cụ thể… Nguyễn Đình Thi đã lần
lượt cho ra đời loạt kịch bản dài như: Hoa và ngần (1975), Rừng trúc (1978), Nguyễn Trãi
ở Đông Quan (1979), Giấc mơ (1979), Tiếng sóng (1985) và mấy kịch ngắn: Người đàn bà
hóa đá (1980), Cái bóng trên tường (1981-1982), Trương Chi (1979), Hòn cuội (1983-
1986). 84
Tổng cộng là 10 kịch bản, bao gồm 6 kịch dài và 4 kịch ngắn. Tuy về số lượng
không thật dồi dào nhưng cũng không thể nói là ít ỏi. Mà, tất cả những kịch bản đó đều có
cái gì đó khác lạ, thậm chí khác thường thu hút người đọc, người xem bởi chất nhân văn
thấm thía với chiều sâu, sức gợi miên man toát lên vừa sáng rõ vừa lung linh, thúc dục công
chúng động não suy ngẫm mới có thể phát hiện ra từng tầng bậc chiều kích sâu xa tiềm ẩn của nó.
Dường như đấy mới chạm tới bản chất đích thực khó đạt tới, còn hiếm hoi, nhạt mờ trong sân khấu
kịch nói đương đại nước ta…
Trong phương diện này, phải chăng Nguyễn Đình Thi là người truyền cảm hứng,
kích hoạt tinh thần sáng tạo cho giới tác giả viết kịch trẻ của Sân khấu Việt Nam. Có thể
thấy dấu vết ảnh hưởng từ ý đồ đến cấu trúc của kịch Nguyễn Đình Thi; trong một số sáng
tác khác của nhiều cây bút viết kịch…
Ngay trên phương diện đạo diễn, sức lan tỏa cảm hứng sáng tạo trong tư duy dàn
dựng của NSND Nguyễn Đình Nghi, NSND Ngọc Phương, NSND Phạm Thị Thành,…đã
được chính họ thừa nhận với sự trân trọng và biết ơn.
Về phương diện biên kịch, có thể thấy những đóng góp của Nguyễn Đình Thi mang
tính chất mở đường cho một lối viết cách tân nhằm mở rộng sức bao quát, sức chứa, dung
lượng phạm vi đời sống hiện thực của một tác phẩm kịch. Việc đưa cái hư ảo, cái ước lệ
nhằm nối dài cho cái tả thực cũng như việc nâng cao chất văn chương, chiều sâu triết lý kết
hợp với xúc cảm trữ tình dào dạt trong ngôn ngữ đối thoại kịch là một kiểu mẫu đáng chú ý trong
kịch trường nước ta thời gian qua.
Thế giới nghệ thuật kịch Nguyễn Đình Thi thật đa dạng, đa chiều kích vừa tiếp cận
được chiều rộng của hiện thực, vừa đi sâu vào cõi miền bí ẩn, khó dò đoán của nội tâm con
người, vừa tìm cách chạm tới chiều cao suy tưởng của trí tuệ, của minh triết dân tộc, của
tinh thần thời đại. Kịch Nguyễn Đình Thi, trong những tác phẩm thành công như Nguyễn
Trãi ở Đông Quan, Giấc mơ, Con nai đen, Rừng trúc đã đạt tới độ chín nhuyễn trong sáng,
giản dị mà sâu lắng, dạt dào cảm xúc mà gợi liên tưởng sâu xa, từ cái tối thiểu tiếp chạm
tới đường biên của cái tối đa. Từ hiện tại ngoái nhìn lại quá khứ, từ hôm nay dự cảm tới
ngày mai…
Vượt lên tầm nhìn, cách nghĩ của nhiều cây bút viết kịch khác còn quá bó mình vào
lối tả thực, vào cái trước mắt, cái đang xảy ra; kịch Nguyễn Đình Thi ngay khi thể hiện đời
sống chiến tranh đang diễn ra, vừa mới đi qua như trong các vở Giấc mơ, Tiếng sóng vẫn
được đẩy xa vào không gian của cái huyền ảo để tạo ra cái nhìn tỉnh táo của gián cách.
Ngược lại khi chiếu dọi cái nhìn trở về với hiện thực lịch sử như trong các vở Rừng trúc,
Nguyễn Trãi ở Đông Quan, hoặc khai thác từ kho tàng truyện dân gian như: Con Nai đen,
85
Hòn cuội, Người đàn bà hóa đá, cái bóng trên tường…. lại làm rung lên nhịp đập của đời
sống hiện tại, để âm vang thiết tha những tư tưởng, những thái độ sống của con người hiện
nay…
Hãy lắng nghe từ lời Nguyễn Trãi qua cách hình dung của Nguyễn Đình Thi những
dự cảm sáng suốt về bài học cảnh giác trước bọn ngoại xâm:
“Không! Không! Không đời nào dân ta chịu cái lối của chúng nó. Miệng luôn luôn nói lễ
nghĩa, nhưng mà đối xử với người thì trắng trợn, chỉ cần kiếm lợi, chỉ cốt được việc!
Không! Không phải cứ to là phải, cứ ác là được, cứ lấy thịt đè người là có lý à? không
được!” (Kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”).
Hoặc lời nhắn gửi trong kịch Rừng trúc:
“Làm thế nào thì làm đừng có quên cái bóng lạ nó thập thò ở ngoài hàng dào rồi
đấy”.
Và đây nữa lời Hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng tâu bầy với Tể tướng Trần Thủ Độ:
“Vâng, việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người cũng không phải là nhỏ
hơn”.
Những lời đối thoại thẳm sâu được thốt lên từ gan ruột người nói lại thấm thía giá trị
cảnh báo sáng suốt mà giản dị nghiêm trang như chân lý ngàn đời.
Đóng góp của Nguyễn Đình Thi đối với sân khấu Việt Nam hiện đại là một đề tài
dồi dào ý nghĩa, cần được đi sâu thêm nữa, đây chỉ là những suy nghĩ bước đầu. Nhưng,
điều cần lưu ý là Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ lớn, bộc lộ tiềm năng sáng tạo của mình,
ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau nhưng giữa chúng vẫn thống nhất và quy tụ ở thái
độ sống của người nghệ sĩ giác ngộ lý tưởng yêu nước và cách mạng, nhận ra con đường
sáng tạo chân chính của người nghệ sĩ của cách mạng chiến đấu cho lý tưởng sống bằng
ngòi bút.
Kịch là một bộ phận quan trọng kết tinh đậm nét tài năng và phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Đình Thi. Và như một bộ phận nó gắn bó với toàn thể sự nghiệp sáng tạo của
Nguyễn Đình Thi dù vẫn có thể tồn tại một cách độc lập. Ở kịch Nguyễn Đình Thi, chúng
ta có thể tìm thấy sự gắn bó với những tư tưởng nghệ thuật đã trở thành những biểu tượng
ám ảnh xuyên thấm từ thơ, đến tiểu thuyết và ở quan niệm về nghệ thuật của ông. Không
phải ngẫu nhiên trong đối thoại kịch của Nguyễn Đình Thi, chúng ta lại bắt gặp hình ảnh dòng
sông, rồi tiếng sóng, rồi cát, rồi tiếng suối, và trừu tượng hơn là tiếng rì rầm của lịch sử vẫn
trở đi trở về trong từng sáng tác của ông. Chưa hết, trong kịch của Nguyễn Đình Thi còn
hiện lên bầu trời xa vẫy gọi, với những ngôi sao tỏa sáng, rồi những ánh lửa rực hồng trong
đêm… mà chúng ta từng thấy trong thơ, trong truyện, trong ca khúc của ông.
86
Như vậy là, đến với kịch Nguyễn Đình Thi, chúng ta lại bắt gặp những gì từng vang
lên ở các lĩnh vực sáng tạo khác của ông, từ ca khúc đến văn xuôi… Tất cả điều đó cho
thấy thế giới nghệ thuật Nguyễn Đình Thi là thống nhất là sự hoàn chỉnh và đầy đủ trong
chính nó, không thể chia tách. Chỉ có điều là một nghệ sĩ đa tài khi có sự thôi thúc của ý đồ
sáng tạo phù hợp với thơ thì ông làm thơ, khi không thể diễn tả hết xúc cảm của mình bằng
ngôn từ vần điệu thì ông buộc phải tìm đến với âm nhạc, với lời ca… Cũng như để thể hiện
số phận con người qua những bước ngoặt ông phải vận dụng truyện ngắn và tiểu thuyết thì
khi nhân vật rơi vào những tình huống quyết liệt thì Nguyễn Đình Thi không còn cách nào
hợp lý hơn là vận dụng hình thái kịch để diễn tả… Từ đó có thể ngẫm ra rằng tất cả sáng
tác của Nguyễn Đình Thi là thống nhất là toàn vẹn và nhất thể. Giống như nước chảy ra từ
một nguồn, giống như máu tuôn trào từ huyết quản. Khó có thể nói rằng giá như Nguyễn
Đình Thi chỉ nên chuyên tâm vào một loại hình sáng tạo cụ thể thì sự nghiệp của ông sẽ thăng hoa,
rực rỡ hơn. Đó là một ý tưởng siêu hình không thích hợp với một con người đa tài, đa cảm và phức
tạp như Nguyễn Đình Thi của chúng ta!
Và vì vậy, việc lẩy ra bộ phận kịch nhằm phân tích, nhận định như cách làm của bài
viết này chỉ có giới hạn, xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, tháng 4 năm 2013 N.V.T
Hồng Sơn
(Hội VHNT Vĩnh Long)
Sông nước lục bình
Truyện ngắn
Tôi lấy làm lạ, lạ lắm! Cứ mỗi lần gió bấc già ngọn thổi rong, lục bình hợp lại lấp kín ngã ba sông, thi nhau
trổ bông tim tím thì chiều nào cũng không lỏi, chú Tư Thà ra ngồi trên cái rễ to của cây Gừa Lở nằm cặp mé nước ở
ngã ba sông, mắt không rời xa sông nước với lục bình.
Trời đất! Chú nhìn cảnh vật rồi đếm sóng làm thơ? Không đâu, Tư Thà chữ nghĩa ít, văn hóa ngắn mà làm
thơ cái giống gì? Hay là chú bị bệnh, bệnh “đàng dưới!" Chết thật! Nghe người ta nói, những người chết đuối ở d-
ưới sông, vì chết oan nên linh hồn lẩn khuất không chịu tan đi, cứ tụ lại thành những đám chướng khí, vơ vẩn bay
trên mặt sông, gặp ai "thạp là trêu ghẹo, rồi hiện hình dưới đáy nước trong để tâm sự với người mình đã "kết", lâu
ngày rủ người đó "đi xuống sông" luôn! Chắc cử hành hôn lễ à (!) Nghĩ như vậy, một cảm giác ghê rợn đến dựng
tóc gáy lên qua người tôi. Tôi giấu kín chuyện này chờ có dịp gặp bác Hai Ngữ/ bạn thân của chú Tư Thà nói lại.
Bẵng đi một lúc. Vào một buổi sớm, sương giăng đầy đường màn sương không còn đặc quánh như hồi
hôm, nhưng cũng đủ làm cho người ta cảm thấy lạnh buốt. Bác Hai Ngữ sang nhà tôi "chia" một chục dừa khô về
làm giống trồng. Việc chia chác đã đâu vào đó, tôi đem chuyện chú Tư Thà "bỏ nhỏ” vào tai bác hai Ngữ. Phải mất
87
mấy tiếng đồng hồ trò chuyện với người nông dân chân chất thật thà, nặng gánh với giồng khoai khóm lúa này, cái
đầu đặc sệt gạo tiền cơm áo và dấu ấn của những điều huyền hoặc của tôi mới vỡ vạc ra đánh thức sự hiếu kỳ, buộc
tôi phải để tâm đến những điều mình vừa biết.
Tối lại, tôi khăn gói ra chòi vịt ngủ, để chờ nhặt trứng đem xuống chợ đếm sớm cho bạn hàng. Trời về
khuya, tôi thu mình trong một góc chòi nhỏ hẹp bên chiếc bàn con/ ngọn đèn dầu leo lét. Và đang gật gù ngủ cạnh
quyển lịch sử truyền thống của xã nhà mà bác Hai Ngữ vừa cho mượn. Bên ngoài, bản hòa tấu lộn xộn của tiếng ếch
nhái ộp oạp, tiếng côn trùng rả rít.. tiếng thân lúa đã lên đồng, ngậm màu nặng hát uốn-câu cọ vào nhau rin rít, xa xa
ở cuối xóm con trăng mười sáu đã ngất ngỡng trên ngọn tre. Bỗng dưng. tôi thấy trước mắt mình mây như những
quầng thể thiên đàng biến động khôn lường. Lúc dịu dàng quyến rũ/ khi kinh tởm sợ hãi. Và trong đám mây yên
tĩnh có người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi, phong cách lịch lãm, đôi vai rộng. Sóng mũi cao, cả khuôn mặt toát ra
vẻ đẹp hài hòa, một sự nhạy cảm, tươi vui khiến cho người ta dễ mến.
Ông này giống hệt dượng Năm Ngân, người đã làm cho chú Tư Thà thờ thẫn, chiều chiều ra ngắm sông
nước lục bình như lời bác Hai Ngữ nói.
- Cậu muốn biết về tôi để làm gì? Ông ta bước ra từ đám mây trắng yên bình hỏi vậy. Song, giọng nói sao
nghe phảng phất một nỗi buồn.
Tôi thật lòng trả lời:
- Biết để quan tâm, gìn giữ cội nguồn và niềm tự hào của dân tộc - Vậy đi theo tôi!
- Đi đâu? Nỗi lo sợ leo lét trong lòng tôi.
- Ngược dòng thời gian, trở về với quá khứ. Nè, lịch sử truyền thống là dòng nhựa xuyên suốt nuôi dưỡng
các thế hệ. Cậu nhớ cho đó! ông cười mãn nguyện rồi lẩn vào trang giấy đầy chữ đã ngả màu vàng. Tôi sực tỉnh, dụi
mắt đổi tư thế ngồi/ dán mắt vào từng trang trong quyển lịch sử và truyền thống. Ôi! hình ảnh của ông dượng Năm
Ngân - một con người dũng cảm kiên trung đã ngã xuống để tên tuổi mình cắm lên đất mẹ cù lao cho trên đời này
có cái lẽ công bằng đạo lý đã hiện rõ mồn một.
- Mỹ - Diệm không tôn trọng hiệp định Giơ- ne- vơ, tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử trong cả nước theo
quy định. Chúng triển khai mạnh mẽ chính sách "Tố cộng, diệt cộng", tăng cường thêm mạng lưới gián điệp, còn
cảnh sát thì đêm ngày lùng sục bắt bớ cán bộ, đảng viên và dọa dẫm chém đầu kể cả dân lành. Chi bộ Đảng ở cù lao
tan nát, đảng viên không ít đồng chí bị sát hại, nhiều người phải đi điều lắng ở nơi khác. Đau thương tang tóc lẻn
vào từng gia đình, giáng xuống đầu từng người một!
- Trước tình hình đó, huyện ủy Năm Ngân về củng cố lại chi bộ cù lao. Bước đầu Năm Ngân bí mật mở
cuộc họp tại vườn Tư Thà, một cơ sở trung thành với cách mạng, để tập hợp các đảng viên, lắng nghe ý kiến từng
người, rồi lên kế hoạch diệt ác hòng chặn đứng tội ác của kẻ thù . Cuộc họp chưa đi đến kết thúc thì bọn lính quận
ập tới vây bắt, vì có gián điệp báo trước. Năm Ngân sa vào tay giặc, bị tra tấn hết sức dã mán, nhưng ông chỉ thừa
nhận mình là Cộng sản chớ nhất quyết không chịu khai báo. Đáng trân trọng hơn thế nữa Năm Ngân còn tranh thủ
giáo dục bọn tề xã bọn trực tiếp tra tấn mình thấy được việc làm của người cộng sản là vì quyền lợi của nhân dân
trong đó có gia quyến của họ. Ôi! Việc làm của người cộng sản đã đánh thức lương tri, hướng người lạc lối quay về
với cái gốc của con người: điều thiện. Hai Ngữ cũng là người trong bọn ác đã nghe lọt lỗ tay liền xụi lơ nấm đấm,
hạ nhẹ dùi cui chùn chân thượng gối, rồi hai mắt cay xè mòng mọng nước. Đêm xuống, Hai Ngữ lén trao cho Năm
Ngân gói cơm, bao thuốc hút và một lời hứa: Quay súng chống lại bọn Mỹ- Diệm.
Vài ngày sau, tên quận trưởng cho giải Năm Ngân về tiếp tục tra tấn, lấy lời khai. Trên đường dẫn giải/
nhân dân ra đứng đặc hai bên đường, như đưa tiễn người thân của mình bước vào hang hùm miệng sói. Hôm đó, m-
ưa rả rích, giọt giọt trầm buồn, rớt vào hồn người dân cù lao niềm xót thương vô bến bờ. Đến ngã ba sông bến đò
sang chợ quận, Năm Ngân còn ngoái lại nhắn nhủ với bà con rằng: Đồng bào ở lại khỏe và an tâm, tôi chấp nhận hy
sinh chớ không hề khai ra ai cả!" nén xúc động ở trong lòng người người lớp
lớp đổ xô về phía Năm Ngân. Ngọn súng giặc bắt đầu phát huy sức mạnh. Chúng nổ súng định răn đe người dân hai
sương một nắng hay dọa nạt đạo lý lương thiện trên đời này? Mặc chúng! Nhân dân cù lao chan nước mắt lên nhau,
tràn tới như nước vỡ bờ. Đò tách bến cả rừng người lặng im, nghiêng mình khâm phục người cộng sản anh hùng,
88
người con xứ sở Càng Long đã chọn cù lao làm quê hương thứ hai của mình, để gieo mầm cách mạng, cho thương
nhớ đâm chồi.
Địch không khuất phục nổi người Cộng sản gan thép. Tên quận trưởng sai: tay chân lén lút chờ Năm Ngân
ra ngã ba sông, đâm chết rồi neo đá. Đêm ấy, trăng trải mênh mông ban phát hào phóng ánh sáng nuột nà lên dòng
sông. Gió bấc già thổi rong ngọn. Ngã ba sông lềnh bềnh từng mảng lục bình trôi, chở tiếng bìm bịp kêu nghe sầu
thảm thiết!
Dượng Năm Ngân đã đi thật rồi ư ? Đi thật rồi! dượng đi như hóa thân vào tạo vật. Đắm mình trong giấc
ngủ vĩnh hằng, để tiếng thơm ngàn năm người đời còn nhắc nhở.
Hay tin này, người dân cù lao không cầm được nước mắt công việc làm ăn chểnh mảng suốt mấy ngày. Ai
nấy đều thương tiếc người cộng sản đã đi qua cuộc đời họ nhanh như một vệt sao băng mà ấn tượng không sao mờ
phai được. Do vậy, từng nhà thắp nén nhang thơm cắm trên bàn thờ và chung một lọ hoa lục bình tim tím. Còn
riêng chú Tư Thà, hết ngồi bó gối khóc, tiếng khóc không trào ra được, cứ ùng ục trong cổ họng, rồi lại ra chòi rẫy
sống lặng lẽ như một nhà tu. Từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, hình bóng Năm Ngân lúc nào cũng gợi lên ở chú niềm
nhớ thương da diết, cùng nỗi xót xa tủi buồn, vì không che chớ được cho Năm Ngân, rồi từ đấy, cứ mỗi lần gió bấc
già ngọn thổi rong . Tư Thà ra ngã ba sông thả hồn theo những giề lục bình nở bông tim tím, để nhớ kỷ niệm xưa và
ngày kỵ cơm của bạn mình.
Gấp quyển sách lại, tôi cảm thấy mình lớn lên, bởi được nuôi dưỡng từ dòng nhựa lịch sử - truyền thống
của xã mình. Bên ngoài. trời đã sáng. Nắng lao xao trên cánh đồng vàng bông lúa chín. Hạnh phúc đã gõ cửa quê
mình, sông nước lục bình ơi!
Về tuyến đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong âm nhạc cách mạng Việt Nam
Cát Vận
Trong sự phát triển của nền âm nhạc Cách mạng Việt Nam, có một tuyến đề tài rất đặc biệt, nó là mạch nguồn cảm
hứng sáng tạo cho các thế hệ nhạc sĩ Việt Nam tạo ra những tác phẩm mà giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật của nó là những mốc
son chói Người trong tiến trình đi lên của âm nhạc Việt Nam hiện đại. Đó là tuyến đề tài viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng
kính yêu của chúng ta? Có thể nói, không một nhạc sĩ Việt Nam nào không có tác phẩm viết về Người và không có một bài hát
nào viết về quê hương, đất nước, về Tổ quốc, về Đảng Cộng sản Việt Nam lại không nhắc tới Người! Đề tài về Bác bao trùm
âm nhạc Cách mạng với sự đa dạng về quy mô, về thể loại, về ngôn ngữ và bút pháp thể hiện. Bài viết này, không thể nói hết
được những tác phẩm viết về Người là chỉ đề cập tới một số tác phẩm tiêu biểu của các thế hệ nhạc sĩ Việt Nam viết chính diện,
trực tiếp về đề tài này được ghi nhận qua các giai đoạn lịch sử. Bài viết cũng không đi sâu phân tích các vấn đề về học thuật,
mà chỉ đề cập tới nội dung, ý nghĩa của những tác phẩm viết về Người từ các loại hình ca hát đến các thể loại khác và đương
nhiên, nó không phải là bản thống kê các tác phẩm âm nhạc viết về đề tài này.
Trước hết, chúng ta cùng đi ngợc thời gian để đến với những tác phẩm đầu tiên viết về Người và cũng là những tác
phẩm đầu tiên của âm nhạc Cách mạng Việt Nam. Như chúng ta đã biệt, ba tiếng Hồ Chí Minh chỉ được vang lên từ đầu những
năm 40 của thế kỷ trước, khi Người về lãnh đạo Cách mạng Việt Nam và nó vang lên như một Khúc hoan ca trong thời kỳ
trước và sau Cách mạng Tháng Tám có sức lan tỏa mạnh mẽ, lay động lòng Người! Cho đến nay, chúng ta không thể quên
được những tác phẩm ấy. Đó là các ca khúc Hồ Chí Minh muôn năm của Minh Tâm; Biết ơn Cụ Hồ Chí Minh của Lưu Bánh
Thụ (Bài hát này vinh dự được Người xem và ký tên tặng tác giả vào bản in thời kỳ đó) và đặc biệt là các bài hát của Phong
Nhã Nhanh bước nhanh nhi đồng, Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng không chỉ được lứa tuổi nhỏ ưa thích mà
còn được cả nước đón nhận. Bài hát vang lên trang nghiêm, thành kính với lời ca như một lời hứa Em kính yêu, vâng lời nhớ ơn
Bác Hồ, yêu hòa bình, yêu nước Việt Nam. Thời gian sau đó, Phong Nhã còn là tác giả của các bài ca Bác chúng em đã về và
bàiCùng nhau ta đi lên được chọn là bài ca chính thức của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và trong những năm 60, 70
của thế kỷ trước ông lại có các bài Đội ta lớn lên cùng đất nước, Hành khúc đội và bài Bác sống đời đời. Tất cả những bài hát
của ông đều tập trung vào đề tài Bác Hồ với thiếu niên, nhi đồng và tình cảm của các cháu đối với Bác. Trong tuyển tập ca khúc
50 bài hát thiếu nhi hay nhất thế kỷ XX, ông xứng đáng là tác giả có nhiều bài hát được tuyển chọn chọn nhất.
Bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, hình ảnh Bác Hồ lại hiện lên trang nghiêm, thành kính trong các ca
khúc Ba đình nắng của Bùi Công Kỳ, lời thơ Vũ Hoàng Địch (l 947),Việt Nam mình có cụ Hồ Chí Minh (1948) của Vân Trang
cùng các ca khúc khác Cha về là chiến thắng của Vũ Thế Khanh, Mong Bác Hồ vào Nam của Hoàng Việt và Minh Trị, Nhớ ơn
Hồ Chí Minh của Tô Vũ, Đón ảnh Bác Hồ của Văn Ký... Đặc biệt trong giai đoạn này xuất hiện 3 bài hát ca ngợi Hồ Chủ tịch
89
của 3 tác giả lớn của âm nhạc Việt Nam là Lưu Hữu Phước,Văn Cao và Đỗ Nhuận. Đây là những bài hát được giải chính
thứccủa Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức năm 1951 - 1952. Sau này bài hát của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được chọn làm lãnh
Tụ Ca, với phần tham gia viết lời của nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi. Cho đến nay, cả 3 bài hát đều trở thành kinh điển đối
với âm nhạc Cách mạng Việt Nam và của các thế hệnhạc sĩ sau này về giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật. Nhiều tác phẩm âm
nhạc không lời, âm nhạc cho sân khấu và điện ảnh đều sử dụng chất liệu những bài ca này làm chủ đề chính khi thể hiện tình
cảm đối với lãnh tụ kính yêu. Nhạc sĩ Trọng Bằng đã lấy ngay câu mở đầu của bài Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Văn Cao làm chủ
đề chính cho giao hưởng thơ Người về đem tới niềm vui. Các bài của Lưu Hữu Phước, của Đỗ Nhuận cũng được một số nhạc sĩ
khác sử dụng chất liệu như vậy.
Trong thời kỳ này, chúng ta không thể không nhắc tới bài hát Thanh niên làm theo lời Bác của tác giả Hoàng Hòa -một
cán bộ Đoàn lúc đó Bài hát mang tính tập thể, vui tươi, giản dị có sức lan truyền mạnh với câu kết nhắc lại lời Bác "Không có
việc gì khó chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên” nghe bài hát này vào tháng 7/1954 tại Hội nghị
Thanh niên do TW Đoàn triệu tập ở Đại Từ Thái Nguyên, Bác Hồ căn dặn “Các cháu ra về nhớ hãy làm và vận động Thanh
niên làm như lời các cháu hát" (Trích Âm nhạc mới Việt Nam – tiến trình và thành tựu – Viện Âm nhạc xuất bản năm 2000 -
trang 205).
Có thể nói ở giai đoạn này đã hình thành rõ nét tuyến đề tài về Chủ tịch Hồ Chí Minh với những dấu ấn đầu tiên trong
thành tựu của âm nhạc Cách mạng để từ đó, tuyển đề tài này được tiếp tục được mở rộng, phong phú hơn, đa dạng hơn cho
những giai đoạn sau này.
Thật vậy, sau hòa bình lập lại ở miền Bắc vào cuối những năm 50, đầu những năm 60-70 của thế kỷ trước, ngoài các
bài hát bình thờng đã xuất hiện những tác phẩm xuất sắc, giàu sức truyền cảm, đó là Tiếng hát giữa rừng Pác Pó của nhạc sĩ
Nguyễn Tài Tuệ sáng tác năm 1 959, là một bài ca có bố cục chặt chẽ, sử dụng chất liệu âm nhạc dân gian vùng cao phía Bắc
làm nhân tố phát triển, tạo nên những âm hưởng thuần khiết, trong sáng để thể hiện tình cảm của đồng bào các dân tộc đối với
Bác. Bài hát được nhạc sĩ Đỗ Dũng chuyển soạn thành công sang hình thức Hợp xướng Nữ không nhạc đệm (A capella) càng
nâng cao thêm sức truyền cảm của tác phẩm. Bài hát Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người của nhạc sĩ Trần Kiết Tư ờng sáng tác
năm 1962 cũng là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Bài hát viết cho giọng nam trung, sử dụng chất liệu dân ca Nam Bộ
và Hò Đồng Tháp làm nhân tố phát triển. Bài hát đưa Người nghe vào không gian mênh mông của những cánh đồng Miền Nam
ngay sau câu hò đầu tiên để từ đó như kể câu chuyện về tình cảm của đồng bào Miền Nam đối với Bác và niềm tin yêu mãnh
liệt vào Người. Bài hát ngắn gọn, súc tích như chỉ có một đoạn được nối bằng những câu hò mênh mang sông nước để lại âm
vang mãi trong lòng người nghe. Với giai điệu đẹp, giàu hình tợng, bài hát đã đi vào đời sống thông qua nhiều hình thức biểu
diễn như độc tấu và hòa tấu các loại nhạc cụ từ nhạc dân tộc cho đến nhạc cụ phương tây. Cũng như vậy, một bài hát khác lại
lấy âm hưởng dân ca miền Trung làm chất liệu phát triển, đó là bài Lời ca dâng Bác sáng tác của nhạc sĩ Trọng Loan. Ông bắt
đầu viết tác phẩm này vào năm 1968 và hoàn thành năm 1969 với lời ca giản dị, giai điệu như một khúc dân ca ngọt ngào, lời
và nhạc hòa quyện nhau khắc họa hình tượng Bác yêu nước, yêu dân bao la như biển cả. Ngoài bài hát này, ông còn là tác giả
của nhiều ca khúc khác viết về Bác là các bài Nhớ Bác Hồ, Có Bác Hồ trong trái tim ta, Thăm lại làng Sen... cùng thời kỳ này,
chúng ta cũng phải kể đến các ca khúc khác của của các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát với Theo lời Bác gọi, của Hồng Đăng với
Quà tháng Năm dâng Người (với phần tham gia viết lời của nhạc sĩ Thế Bảo) và đặc biệt là tác phẩm của nhạc sĩ Vĩnh Cát với
Tổ khúc giao hưởng Hát hoa dâng Bác. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm khí nhạc đầu tiên viết cho dàn nhạc giao
hưởng vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Tác phẩm gồm 9 khúc, sử dụng chất liệu khai thác từ dân ca nhiều vùng miền
và sử dụng cả nhân tố của bài Lãnh tụ ca để thể hiện tình cảm thiêng liêng của nhân dân cả nước đối với Người. Trong năm kỷ
niệm 100 năm ngày sinh của Bác, Vĩnh Cát còn có kịch hát Xin lĩnh án tử hình (với sự cộng tác của nhạc sĩ Trọng Đài). Như
vậy, hình ảnh Bác trong âm thức và thể loại tác phẩm.
Năm 1969 Bác Hồ ra đi để lại "muôn vàn tình thương yêu cho đồng bào và chiến sĩ thì giới sáng tác âm nhạc bùng lên
nỗi xúc động mãnh liệt sáng tạo ra những bài ca bất hủ, những tác phẩm âm nhạc đỉnh cao để lại cho muôn đời con cháu và
trong lịch sử âm nhạc nước nhà. Đó là sự xuất hiện của những bài ca Trông cây lại nhớ đến Người của Đỗ Nhuận (cải biên từ
dân ca Nghệ Tĩnh Người là niềm tin tất thắng của Chu Minh Bác Hồ đời đời sống mãi của Trần Quý; Bác vẫn cùng chúng cháu
hành quân của Huy Thục , Miền Nam nhớ mãi ơn Người của Lưu Cầu, lời thơ Trần Nhật Lan; Bác Hồ sống mãi với Tây
Nguyên của Lê Lôi Tình Bác sáng ngời của Lưu Hữu Phước Tây Nguyên tưởng vọng Bác Hồ - hợp xướng không nhạc đệm của
Vân Đông và Xuân Giao bất ngờ có bài hát đành cho lứa tuổi nhỏ Em mơ gặp Bác Hồ.Rồi thời gian như lắng lại để các nhạc sĩ
sau đó lại cho ra đời những tác phẩm giàu hình ảnh, giàu chất trữ tình như Văn Dung có bài hát Những bông hoa trong vườn
Bác, Nguyễn Văn Thương có Dâng Người tiếng hát mùa xuân, Văn An có Đôi dép Bác Hồ ( lời thơ Nam Yên ) và Hoàng Hiệp
có bài ca xúc động Viếng lăng Bác (lời thơ Viễn Phương ). . . Đáng chú ý, nhiều tác giả đã có những bài hát hay được công
90
chúng đón nhận như nhạc sĩ Trần Hoàn với Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh ( lời thơ
Đỗ Quý Doãn), Chuyện cây xanh bốn mùa và Thăm bến nhà Rồng nhạc sĩ Phạm Tuyên với Việt Bắc nhớ Bác Hồ, Từ làng Sen,
Suối lê Nin, Ngày thống nhất Bác đi thăm và Như có Bác trong ngày vui đại thắng; nhạc sĩ Thuận Yến cũng vậy, những ca
khúc của ông như Bác Hồ một tình yêu bao la, Miền Trung nhớ Bác, Vầng trăng Ba Đình( lời thơ Phạm Ngọc Cảnh ) có sức lan
tỏa mạnh trong đời sống.
Trong sáng tạo nghệ thuật, các tác giả đều khai thác các chất liệu dân ca các vùng miền để phục vụ cho nội dung, đề
tài của bài hát, ngoài các bài hát trên, chúng ta còn thấy điều đó trong nhiều các tác phẩm khác của cácnhạc sĩ khác như Tây
Nguyên mừng đón thư Bác của Doãn Nho với âm hưởng rộn rã của núi rừng Tây nguyên Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác của
An Thuyên với âm hưởng dân ca Nghệ Tĩnh lắng đọng Làng Chăm ơn Bác của A Mư Nhân với chất liệu dân ca Chăm nồng
ấm ... Ngoài ra, nhiều nhạc sĩ còn cảm hứng sáng tạo ra nhiều ngôn ngữ âm nhạc mới góp phần làm cho tuyến đề tài này phong
phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta thấy điều đó được thể hiện trong nhiều hình loại tác phẩm như Tiếng hát từ thành phố mang
tên Người của nhạc sĩ Cao Việt Bách vơi phần cộng tác lời ca của nhà báo Đăng Trung Đêm Trường Sơn nhớ Bác của Trần
Chung (lời trích thơ Nguyễn trung Thu ) Chúng con canh giấc ngủ bên Người của Nguyễn Đăng Nước, Bác Hồ – Người cho
em tất cả của -Hoàng Long, Hoàng Lân viết cho lứa tuổi nhỏ. Một số tác giả lại viết theo phong cách nhạc trẻ như Nguyễn C-
ường với Hành hương về xứ Nghệ; Trần Tiến với Bạn muốn đến với Lê Nin – Hồ Chí Minh, Đoàn Bổng với Hát về Người ( lời
thơ Phạm Hổ )... Có tác giả lai viết theo lối tự sự, suy tưởng như tác phẩm Dấu chân phía trước của Nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn
(lời thơ Hồ Thi Ca ). Bài hát như lời đối thoại của giọng nam trung với dàn hợp xướng kể chuyện về những tháng năm Bác Hồ
lên tàu vượt đại dương ra đi cứu nước. Ca khúc hợp xướng như một khúc tráng ca xúc động về Người anh hùng vĩ đại.Viết về
Người, nhiều tác giả đã lấy thơ của Bác hoặc trích thơ Người đưa vào tác phẩm, đó là Huy Thục với khúc hoan ca Tiến lên
chiến sĩ đồng bào đã phổ bài thơ chúc Tết của Bác năm 1969 nhạc sĩ Hồ Bắc viết Tổ khúc Nhớ chiến sĩ phổ 3 bài thơ của Bác
Nhớ chiến sĩ, Đồi trăng và Lên núi và một số nhạc sĩ khác đã phổ một số bài thơ trích trong tập Nhật ký trong tù của Người.
Đáng chú ý, ở thời kỳ này đã xuất hiện các tác phẩm có giá trị về học thuật của các nhạc sĩ nh ư Nguyễn Đình Tấn với hai liên
khúc viết về Bác Hồ, đó là liên khúc Hoa trong vườn Bác và Người không sao sống khác đều viết trên lời thơ của Hải Như
cùng phần âm nhạc viết cho ba bộ phim về Bác Hồ: Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, Miền Nam trong trái tim tôi, Đường về
Tổ quốc và nhạc sĩ Đàm Linh với bản Ballade – giao hưởng Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh (Tác phẩm được giải A trong
Liên hoan âm nhạc Giao hưởng, thính phòng tổ chức tại thành phố mang tên Bác năm 1995 ) và phần âm nhạc cho phim
Nguyễn Ai Quốc đến với Lê Nin...
Trong mấy năm gần đây, hưởng ứng cuộc vận động sáng tác về chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh nhiều tác giả đã có những sáng tác mới như Viên gạch hồng trên ngõ Compoint và Cảm xúc trên Bến Nhà Rồng của
Tôn Thất Lập; Dưới cờ đoàn kết - liên khúc hợp xướng của Lê Anh Lên non của Vũ Duy Cương ( lời trích thơ Bác ),Để mãi là
mùa xuân của Cát Vận (lời trích thơ Bác ), Biết ơn của Vũ Hồng Sơn, Pác Pó hát mãi tên Người của An Thuyên/ Tuổi trẻ Bác
Hồ của Trần Long Ẩn Theo gương Bác của Lê Hàm; bên cây đa bác Trồng, có Bác bên ta của Nguyễn Hoài Nam/ Khúc hành
quân theo chân Bác của Vũ Trung v v... Những tác phẩm này đã được báo cáo và trình bày trong các lễ sơ kết về cuộc vận động
này các năm vừa qua với bức tranh toàn cảnh về tuyến đề tài viết về Bác như vậy, chúng ta có thể nói nếu âm nhạc cách mạng
là cuốn Biên niên sử bằng âm thanh thì những tác phẩm viết về Người là những dấu son chói ngời trong cuốn Biên niên sử ấy!
Chúng ta có quyền tự hào về những sáng tạo của các thế hệ nhạc sĩ Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử đã ghi lại bằng âm thanh
những chân thật lịch sử về Người. Đó là những viên ngọc quý của ngôi nhà Âm nhạc Việt Nam . Chúng ta hy vọng đề tài này
được tiếp tục với những tác phẩm đa dạng hơn nữa, quy mô lớn hơn nữa, đặc biệt là những tác phẩm lớn như giao hưởng, hợp
xướng, thanh xướng kịch và cả nhạc kịchnữa! Chúng ta cũng hy vọng lớp nhạc sĩ kế cận sẽ đi tiếp con đ ường của các thế hệ
cha, anh, tiếp tục sáng tạo những tác phẩm có giá trị nghệ thuật viết về Người đóng góp cho kho tàng âm nhạc nước nhà ngày
thêm phong phú.
Văn Miếu Bắc Ninh di sản quý báu vùng quê Kinh BắcNguyễn Công Hảo
Hội VHNT Bắc Ninh
Văn Miếu Bắc Ninh hiện toạ lạc trên núi Phúc Sơn, phường Đại Phúc, Thành phố Bắc Ninh. Căn cứ vào nguồn sử liệu
và di tích còn lại thì Văn Miếu Bắc Ninh nguyên nằm ở sơn phận Thị Cầu và được khởi dựng từ thời Lê - thời kỳ hưng thịnh
91
nhất của Nho giáo và khoa cử Hán học ở nước ta. Đây chính là thời kỳ phát triển rực rỡ nền giáo dục và khoa bảng của quê h -
ương Bắc Ninh - Kinh Bắc. Năm 1802 Văn Miếu Bắc Ninh được tu bổ lần thứ nhất, năm 1844 xây dựng lại, năm Kỷ Sửu
(1889) khắc 12 tấm bia đá " Kim bảng lưu phương". Đến năm Quý Ty (1893) ông Đỗ Trọng Vỹ quan đốc học tỉnh Bắc Ninh đã
bàn với các vị quan chức đầu tỉnh cho di dời Văn Miếu Bắc Ninh từ núi Thị cầu về xây dựng trên núi Phúc Đức huyện Võ
Giàng. Năm 1928, Văn Miếu Bắc Ninh tiếp tục được sửa chữa và dựng khắc bia đa dạng bình phong " Bắc Ninh tỉnh trùng tu
Văn Miếu bi ký" đặt trước sân nhà tiền đế (Anh 1). Theo lời văn bia bình phong "Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn Miếu bi ký" khắc
năm Bảo Đại thứ 3 (1928) cho biết: Công trình kiến trúc Văn Miếu được dựng lên "để tôn thờ các vị tiên triết, chấn hư ng và
khuyến khích thuần phong, văn học, duy trì điều tiết cho đời sau nhằm biểu dương những người xuất chúng phi thường, có học
vấn, thông kim bác cổ, đỗ đạt lưu danh, cổ vũ sự nghiệp giáo dục, chấn hưng đạo đức cho hàng vạn năm". Với mục đích đó,
Văn Miếu là công trình tín ngưỡng tôn thờ Chu Công, Khổng Tử, những ông tổ của nền Hán học và khoa cử Nho giáo, đồng
thời là nơi tôn thờ các vị khoa bảng của quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc. Những giá trị đó đã khẳng định Văn Miếu Bắc Ninh
là di tích biểu trưng cho truyền thống hiếu học và khoa bảng của quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc; một địa phương đứng đầu cả
nước về số người đỗ đại khoa thời phong kiến: 1/3 trạng nguyên, Tiến sĩ cả nước.
Công trình kiến trúc Văn Miếu Bắc Ninh xưa khá quy mô, bề thế, bao gồm các công trình: Nhà Tiền tế, Hậu đường,
Tả vu, Hữu vu, nhà Tạo soạn, nhà Bi đình, nhà Hội đồng trị sự, cổng Tam quan, tường bao... Trung tâm thờ tự của Văn Miếu
đặt tại nhà Hậu đường thờ Chu Công, Khổng Tử với các đồ thờ tự trang nghiêm. Tiền tế là nơi dâng hương, lễ vật, tổ chức các
cuộc tế lễ "xuân thu nhị kỳ" của các vị chức sắc và khoa mục trong tỉnh. Tham gia xây dựng Văn Miếu, ngoài sự đầu tư của
Nhà nước phong kiến còn có sự đóng góp của đông đảo các vị quan lại đương chức hoặc đã nghỉ hưu và nhân dân ở các làng xã
trong, ngoài tỉnh. Việc quản lí Văn Miếu có hẳn một Hội đồng trị sự đứng đầu là quan Tổng đốc Bắc Ninh, để chăm lo việc thờ
phụng, tế lễ.
Người có công lớn đối với việc di chuyển và xây dựng Văn Miếu trên núi Phúc Sơn là Quan đốc học Bắc Ninh Đỗ
Trọng Vỹ. Ông người làng Đại Mão, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là hậu duệ của trạng nguyên Nguyễn Quang Bật, quê
ở Bình Ngô, xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ Trọng Vỹ đã "lập bia, khắc ghi họ tên, quê hương, chức tước
các vị tiên hiền khoa cử Kinh Bắc" tại Văn Miếu vào năm Kỷ Sửu (1889). Nhờ vậy, mà ngày nay mọi người biết được tên họ,
quê quán của 677 vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ trong các khoa thi các triều Lý - Tôn - Lê - Nguyễn. Những
tấm bia " Kim bảng lưu phương" tại Văn Miếu - Bắc Ninh là một nguồn sử liệu phong phú nhất về lịch sử giáo dục, khoa cử
của quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc thời phong kiến.
Với những giá trị đó Văn Miếu Bắc Ninh không chỉ là một công trình tín ngưỡng văn hoá tâm linh mà còn là một di
tích lịch sử - văn hoá quý giá. Ngày 28 tháng 1 năm 1988, di tích Văn Miếu đã được Bộ văn hoá - Thông tin ra quyết định bảo
vệ và cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
Qua nhiều năm tồn tại, chịu sự tàn phá của thiên tai và địch họa, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ cứu nước, khu di tích Văn Miếu Bắc Ninh đã bị xuống cấp nghiêm trọng.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, nhất là từ khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập, lãnh đạo tỉnh
Bắc Ninh đặc biệt quan tâm tôn tạo phục hồi xây dựng Văn Miếu Bắc Ninh.
- Xây dựng trùng tu gồm: Nhà tiền đường, hậu đường, nhà cầu, tả vu, hữu vu. Phục hồi di tích gồm: Hai nhà hội đồng
và nhà tạo soạn, tam quan, tôn tạo di tích.
- Xây dựng các công trình phụ trợ khác ban gồm: tường rào bao quanh khu di tích, trăng hoa nội tự, sân vườn, bãi đỗ
xe, đường giao thông.
Cùng với đó, để khơi dậy, phát huy truyền thống hiếu học và khoa bảng của các bậc tiền nhân, kể từ khi tái lập tỉnh tới
nay tỉnh Bắc Ninh đã rất quan tâm chăm lo đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo và văn học, nghệ thuật. Tỉnh uỷ, Hội
đồng nhân, UBND tỉnh đã có nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách đầu tư phát triển giáo dục. Các chương trình, đề án phát
triển giáo dục đào tạo của Bắc Ninh luôn đứng ở tốp 10 tỉnh có phong trào giáo dục mạnh của cả nước.
Chất lượng giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực, tiến bộ cả về chất lượng đại trà và mũi nhọn. Năm 2002, Bắc Ninh
được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
Năm 2011 - 2012 đã có 100% giáo viên ở các ngành học, cấp học đoạt chuẩn. Toàn ngành có 3 Tiến sĩ, 450 Thạc sĩ và
trên 150 cán bộ giáo viên đang theo học cao học. Nhờ có những chính sách khuyến học, khuyến tài, thực sự coi giáo dục - đào
tạo là quốc sách hàng đầu nên Bắc Ninh đã tiếp nối được truyền thống hiếu học và khoa bảng của quê h ương. Đến nay, Bắc
Ninh có 31 Tiến sĩ, 1025 Thạc sĩ hiện đang sinh sống và công tác trên địa bàn tỉnh.
Lĩnh vực văn học nghệ thuật từng bước được quan tâm, đầu xuân các năm Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh tổ chức gặp
mặt đội ngũ văn nghệ sĩ để động viên khuyến khích đội ngũ sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật đáp ứng đời sống tinh
92
thần của nhân dân, góp phần đáng kể cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm qua. Hiện nay toàn tỉnh
có 246 hội viên là các văn nghệ sĩ đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực văn học, nghệ thuật tăng gấp 2,5 lần so với thời điểm tái
lập tỉnh; trong đó gần 100 văn nghệ sĩ là hội viên các chuyên ngành Trung ương là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn
hoá, không quản thời gian công sức để quảng bá nền văn hiến cách mạng Bắc Ninh đến mọi miền của đất nước .
Khu di tích Văn Miếu Bắc Ninh ngày nay đã và đang trở thành trung tâm của các hoạt động văn hoá có nội dung giáo
dục sâu sắc, phát huy truyền thống hiếu học và khoa bảng của quê hương. Nơi đây thường đón tiếp các đoàn học sinh giỏi quốc
gia, quốc tế của Bắc Ninh đến dâng hương, báo công sau mỗi kỳ thi. Tết Nguyên tiêu hàng năm, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND,
UBMTTQ tỉnh, các cơ sở, ban, ngành, đoàn thể của Bắc Ninh đều tổ chức lễ dâng hương tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã có
công khởi dựng nền giáo dục và truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học, khoa bảng của quê hương. Văn Miếu Bắc Ninh cũng
là một địa chỉ đỏ để tiếp đón du khách trong nước, nước ngoài đến tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, văn hoá Bắc Ninh, truyền
thống hiếu học và khoa bảng của quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc.
Vài kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Đình Thi
Nhà văn Bích Thuận
Tôi gặp nhà văn Nguyễn Đình Thi lần đầu tiên cuối năm 1947 khi tôi đang công tác ở Quân y viện chiến
khu Việt Bắc. Anh đưa người em vợ đến điều trị bệnh sốt rét ác tính. Chị phụ nữ cùng đi với anh cũng là bạn tôi nói
với tôi.
Đây là anh Nguyễn Đình Thi.
Tôi không ngờ anh là người nổi tiếng mà lại giản dị đến thế.
Năm 1949 tôi được chuyển về cơ quan phụ nữ Trung ương. Hồi đó các cơ quan Trung ương đóng ở gần
nhau, anh thường sang cơ quan phụ nữ nói chuyện văn thơ.
Chúng tôi rất vui được gặp anh, vinh dự được quen biết tác giả Diệt phát xít thúc giục người người ra trận:
Dưới bóng cờ đỏ ánh vàng sao Chúng tôi cũng rất thích bài hát Người Hà Nội của anh với những ca từ như bốc
lửa: Hà Nội cháy khói lửa ngợp trời / Hà Nội hồng ẩm ầm rung.
Anh còn khiến những dân kháng chiến chúng tôi quý trọng anh hơn nữa với bài thơ Đất nước với lời mở
đầu thật lãng mạn, lôi cuốn: Sáng mát trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới/ Tôi nhớ những
mùa thu đã xa/ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác heo may/ Người ra đi đầu không ngoảnh
lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi làm thơ, sáng tác nhạc cũng ít nhưng những tác phẩm của anh là những tác
phẩm để đời, bất tử như: Diệt phát xít; Người Hà Nội; Đất nước... Bài thơ Hắc Hẳi. Anh có những tiểu thuyết Xung
kích, Vỡ bờ. Văn anh cũng như tính cách anh: đậm đà hồn hậu.
Do anh thường đến cơ quan phụ nữ nói chuyện chúng tôi có dịp được hiểu thêm về anh. Anh quê ở Hải
Phòng nhưng anh đã dành tất cả trái tim cho Hà Nội quê tôi khiến chúng tôi càng yêu quý Hà Nội hơn.
Chúng tôi quý trọng anh, biết anh tham gia cách mạng từ rất sớm là một trong những người lãnh đạo Hội
văn hóa cứu quốc , 21 tuổi anh đã là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa anh
có chân trong Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên với chức vụ cao, nhưng tính tình anh lại rất giản dị khiêm nhường, hết lòng vì sự nghiệp cách
mạng và văn học nghệ thuật, dù trong kháng chiến gia đình anh rất gieo neo, một bà vợ bị bệnh lao, mấy đứa con
còn nhỏ dại. Nhưng anh luôn lạc quan, xông xáo đi thực tế. Anh thường động viên chúng tôi viết. Tôi đã mạnh dạn
đưa anh đọc thấy truyện ngắn tôi viết, anh luôn động viên tôi viết và căn dặn tôi: "Khi viêt mỗi câu, mỗi chữ phải có
hồn mình trong đó". Lời căn dặn này của anh tôi ghi nhớ mãi. Tôi nhớ anh là người đầu tiên giới thiệu để Hội kết
nạp tôi vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Khi tôi quá bận về công tác làm báo, rất ít viết truyện, anh lại nhắc
nhở: "Phải viết đi chứ". Tôi lại giành thời gian viết được một số tập truyện ngắn Mùa da hâu, Hương chè và lòng
say mê nghề nghiệp trong tôi cứ nâng dần lên. Viết văn là lẽ sống của tôi, là nhà văn đảng viên cho đến nay tôi vẫn
say sưa viết.
Tấm gương yêu nghề, yêu người của nhà văn Nguyễn Đình Thi luôn luôn cổ vũ tôi, giúp tôi vượt khó khăn
trong cuộc sống thường ngày và cả trong sự nghiệp văn học nghệ thuật yêu quý của chúng ta.
93
NGUYỄN THỊ MINH CHÂU
“NGƯỜI HÀ NỘI” ƠI…
Ông có những bài ca để đời ngày ngày vang trong tiếng nhạc hiệu của các đài
phát thanh truyền hình suốt mấy thập niên qua.
Ông có những vở kịch dồn nén tính kịch không chỉ trong nội dung mà còn ở
ngay số phận của chính vở diễn.
Ông có những tiểu thuyết mang nặng buồn vui của một đoạn đường lịch sử,
những bài thơ đẹp chất thơ và sâu tính triết lí mà không cần phải nương dựa vào âm
vần hoặc khuếch trương con chữ…
Phải, ông có thể xưng danh nhiều “nhà”, song card visit của ông chỉ vỏn vẹn
một từ: Nhà văn.
Bố và con
-Bố viết Người Hà Nội ở hình thức gì hả bố?
-Bố không biết! Thế con nghĩ nó là gì?
-Sao giờ bố không viết bài hát nữa?
-Viết nhạc phải học con ạ. Không học thì đừng viết nữa, mà bố bị lỡ mất cơ hội học
nhạc rồi… Hồi xưa có hai vợ chồng người Pháp muốn nhận bố làm con nuôi đưa về Pháp
học nhạc. Nếu cuộc đời xoay sang hướng ấy thì có lẽ bây giờ đã có một nhạc sĩ Nguyễn
Đình Thi nhỉ.
-Bố có chắc ông nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi ấy còn nói được tiếng Việt không?
-Ừ, cuộc đời cũng lạ, nếu thế đã chẳng có những lúc lang thang trên đường phố kể
chuyện đời cho con như thế này.
Mới đấy mà đã ba mươi năm kể từ những chuyến công du của ông ở nước ngoài, để
con bé sinh viên là tôi được nghe ông nói chuyện đời trên quãng đường bố con ngược xuôi
tiễn nhau: lúc đầu con đưa bố về khách sạn, rồi bố lại tiễn con ngược về kí túc xá mà
chuyện vẫn chẳng dứt, chỉ tạm dừng với lời hứa “rồi bố sẽ kể dần cho con nghe”.
Mới đấy mà đã tròn mười năm chúng tôi mất bố...
94
Nói về ông, trước hết tôi không thể bỏ qua một nỗi niềm canh cánh trong lòng: ông
là người cha đỡ đầu, người bố dượng mà tôi gần gũi và chịu ảnh hưởng nhiều hơn cả bố
ruột. Ông là sự bù đắp vô giá cho tình phụ tử mà số phận đã cướp mất trong tuổi thơ của
tôi. Vậy mà hơn một lần tôi đã nói với bố:
-Ở nhà bố là bố của con, nhưng ra đường con không phải là con của bố. Bố đừng
giận nếu có lúc con không dám nhận con là con bố. Bố đừng buồn vì nhiều lúc con cứ ước
bố là “người bình thường” để không ai biết bố là ai.
Ông thở dài: “Bố hiểu”.
Và bố không kịp “kể lại cho con tất cả” vào cassette như đã định để tôi đừng e ngại
viết về ông, nỗi e ngại bị coi là kẻ “bắt quàng” cho đến giờ tôi vẫn khó vượt qua, rồi lại tự
cảm thấy có lỗi với bố.
Bài viết này là cơ hội giảm bớt phần nào cảm giác có lỗi ấy chăng?
Một tác giả không xưng danh nhạc sĩ
Dù chỉ ghé chơi vào lúc nền nhạc mới còn quá non trẻ, chàng trai tuổi đôi mươi đã
kịp để lại dấu ấn đến chính mình cũng không ngờ.
Nhìn từ góc độ chuyên ngành: Diệt phát xít là một trong những thí dụ tiêu biểu thời
tiền khởi nghĩa cho thể loại hành khúc quần chúng, dễ phổ cập, hình thức nhỏ; còn Người
Hà Nội là khởi đầu cho thể loại trường ca mang tính nghệ thuật, hình thức lớn, đòi hỏi kĩ
thuật biểu diễn cao.
Nói về hiệu quả xã hội: sinh ra trong thời điểm lịch sử, cả hai bài hát không chỉ đầy
ắp tính thời sự và mà còn là những tác phẩm có sức sống bền lâu. Diệt phát xít vừa ra đời
đã được quảng đại quần chúng đón nhận như một vũ khí tinh thần trong khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945. Giai điệu hào hùng ấy không ít lần lại cất lên trong các tác phẩm giao
hưởng hợp xướng, như Lửa cách mạng của Trần Ngọc Xương, Hồi tưởng của Hoàng Vân,
Bất khuất của Đỗ Dũng.
Người Hà Nội lần đầu tiên vang lên trên đài phát thanh kháng chiến năm 1947 qua
giọng hát của chính tác giả, lần đầu tiên trình diễn trên sân khấu quốc tế năm 1951 trong
Liên hoan Thanh niên thế giới tại Berlin.
Cả hai luôn có mặt trong các lễ kỉ niệm trọng đại và chương trình nghệ thuật lớn
ngót bảy chục năm qua.
Cả hai đều minh chứng cho một điều: bản năng tài hoa cộng với cảm xúc chân thành
có thể tạo nên ca khúc bất hủ. Những lời ca tưởng như tự nhiên, nhưng là được chắt ra từ
đời thật. Nhờ những mẩu chuyện không đầu không đuôi của bố mà tôi tìm thấy ông trong
câu hát.
95
“Nào nhà tù, nào trại giam biết bao nhiêu nhục hình”. Tôi như thấy ông trong hình
ảnh cậu thiếu niên tuổi 17 tay nắm chấn song sắt luôn miệng hát ca. Có người chỉ nghe
giọng hát, nhìn bàn tay trên cửa sổ trại giam biết người tù còn quá trẻ đã thốt lên: “Tôi
thương cậu lắm!”.
“Hà Nội cháy khói lửa ngập trời”. Tôi nhìn bằng con mắt của ông -người thanh niên
làm nhiệm vụ cách mạng vào đêm trước sinh nhật thứ 22 của mình đã lặng người từ trên
cầu Long Biên hướng về phía trời Hà Nội rực đỏ. Ông bảo giá mà phần phối khí có được
tiếng nhạc cụ gõ “ùng ùng” như đại bác chen vào câu hát “Hà Nội hồng ầm ầm rung”.
Ông còn là tác giả lời thơ của không ít tác phẩm thanh nhạc, trong đó nổi tiếng nhất
là hai ca khúc trữ tình của hai “ông Hoàng” trong lĩnh vực phổ thơ: Nhớ của Hoàng Vân và
Lá đỏ của Hoàng Hiệp, còn công phu đồ sộ nhất là hợp xướng Đất nước của Đặng Hữu
Phúc.
Dù không bao giờ xưng danh nhạc sĩ, nhưng ông là tác giả luôn được các nhà sử
nhạc nhắc tên trong giai đoạn hình thành hành khúc cách mạng và ca khúc trữ tình. Thực ra
ông còn có mặt trong cả hài khúc: bài Con voi được chính tác giả hát lần đầu trong một
cuộc liên hoan văn nghệ thời chống Pháp để khích lệ pháo ta vào chiến dịch, sau này
NSND Trần Hiếu thường biểu diễn gộp chung với bài hát cùng tên của nhạc sĩ Nguyễn
Xuân Khoát.
Còn một hành khúc nữa mà chính tác giả cũng suýt quên bẵng, tôi muốn nói đến bài
hát không tên, tạm gọi là Du kích quân. Mẹ tôi thuộc bài này khi còn rất nhỏ, có lẽ vào
khoảng thập niên 40. Sau này mẹ thường vừa nấu ăn vừa hát những bài xửa xưa. Một lần
tình cờ nghe “chương trình ca nhạc” của mẹ, bố ngạc nhiên: “Sao em cũng thuộc bài đó?”.
Sau đây là bản nhạc tôi ghi lại theo trí nhớ của mẹ, biết đâu ai đó còn nhớ và bổ sung thêm
thông tin liên quan [thí dụ 1].
Xin để Người Hà Nội đúng như của Người Hà Nội
Ai cũng biết Hà Nội được nhắc tên trong hàng trăm ca khúc, nhưng ít ai để ý rằng
lần đầu tiên hai tiếng “Hà Nội” xuất hiện trong lịch sử ca khúc Việt Nam là ở Người Hà
Nội. Cũng từ đây chuỗi tên gọi cả xưa và nay “Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội” đã trở
thành motif lặp lại trong nhiều ca khúc của các tác giả thuộc thế hệ khác nhau.
Còn về hình thức âm nhạc - điều mà tôi từng hỏi bố cách đây ba mươi năm, tôi đã tự
trả lời như sau trong cuốn sách mà tôi mượn câu hát của bố làm tiêu đề Đây Thăng Long,
đây Đông Đô, đây Hà Nội… (Viện Âm nhạc, 2009):
Sự nối tiếp liên tục các câu, các đoạn khác nhau đã đưa bài hát vượt ra khỏi hình
thức đơn giản của một ca khúc phổ thông. Lúc tựa như câu chuyện ngẫu hứng được kể theo
kiểu ballade, lúc lại có chút gì đó gần với lối sắp đặt các mảng màu tương phản trong suite,
96
kết cấu tự do này thường được xếp vào thể loại trường ca - dạng bài hát dài hơi được ưa
chuộng đặc biệt ở giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Các đoạn nhạc ở đây khác nhau về nhịp điệu (4/4, 2/4 và 6/8), tốc độ (vừa phải và
nhanh), điệu tính (trưởng và thứ) và sắc thái tình cảm (sâu lắng - thiết tha và hào hùng -
ngợi ca…). Như một dòng sông nhiều khúc, giai điệu đi qua đoạn mở đầu ngâm ngợi lai
láng, rồi trôi theo nhịp sống rộn ràng, và từ đó hòa vào nhịp đi của hành khúc ngày Tuyên
ngôn độc lập. Sau những nhịp giãn chậm, dòng chảy lại dâng lên cao trào và cuốn vào khí
thế chiến đấu, rồi đi tới đoạn kết nhịp nhàng uyển chuyển trong vũ điệu ngày chiến thắng
trở về. Đoạn kết mang trạng thái tinh thần hân hoan như chủ đề Niềm vui trong Giao
hưởng số 9 của Beethoven, người mà bố tôi từng coi như người thầy đầu tiên dẫn dắt ông
vào lĩnh vực sáng tác văn học nghệ thuật.
Chính đoạn kết này bố tôi đã khẩn thiết nhắc đến vài lần trước lúc hôn mê.
Trong xu thế cách mạng của thời chống Mĩ, có lẽ các ca sĩ cảm thấy chưa thỏa đáng
với mấy nhịp cuối hiền hòa trong Người Hà Nội, nên họ đã đẩy giai điệu câu cuối lên âm
khu cao và kết bài ở nốt cao nhất (g2) [thí dụ 2a]. Từ đó về sau, câu kết khẳng định tinh
thần quyết thắng cứ đeo dính lấy bài hát này trong các chương trình biểu diễn, mặc dù tác
giả cho đến những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh vẫn nhắc đi nhắc lại mong muốn
của mình là trả lại cho Người Hà Nội câu kết đúng nguyên bản với cảm xúc dịu dàng, lâng
lâng về một ngày mai đẹp như mơ [thí dụ 2b].
Thay vì để ca sĩ khoe giọng hát, đây là nơi mà tác giả trao cho người phối khí cơ hội
“nói” được nhiều hơn điều mà ông muốn nói.
Mười năm trôi qua, không lẽ vẫn chưa đến lúc giới nhạc thực hiện ý nguyện của một
Người Hà Nội đã khuất?
(Nhân ngày giỗ lần thứ 10 của nhà văn Nguyễn Đình Thi 4-2013)
Nhân 10 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Đình Thi
ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN
QUA CÁC TÁC PHẨM ÂM NHẠC CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI
Ts. Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân
97
Nguyễn Đình Thi là nhà văn hóa lớn, người nghệ sĩ bậc thầy trong nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật. Ông chưa bao giờ tự nhận mình là nhạc sĩ. Nhưng chỉ với 2 hài hát để đời là Diệt phát xít và Người Hà Nội, nhân dân đã khắc tên ông vào bảng vàng biên niên sử bằng âm thanh của dân tộc. Diệt phát xít và Người Hà Nội đã đi vào lịch sử âm nhạc cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu (cùng với những tác phẩm của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước… ), và ghi đậm dấu ấn của thời kỳ tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài hát Diệt phát xít lần đầu được vang lên trong cuộc mít tinh lớn ủng hộ Việt Minh của Tổng hội Viên chức được tổ chức ở quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 17-8-1945. Trong hồi ký của nghệ sĩ nhân dân Đinh Ngọc Liên còn ghi lại: “… hồi ấy, chúng tôi sống trong bầu không khí rạo rực khó tả. Cách mạng như một chất men bao trùm làm ngây ngất lòng người. Tôi lao vào công việc, chẳng quản ngày đêm, ra sức hòa âm, phối khí các bài ca cách mạng. Cứ có bài hát là làm, chả cần biết là của ai đưa. Các bài Du kích ca, Chiến sĩ ca, Diệt phát xít…”, “… bài Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi với sức kêu gọi mãnh liệt của nó trở thành cái đinh trong Tuần lễ vàng. Cứ đồng bào quyên từ một lạng trở lên là Quân nhạc tặng một bài. Cũng có trường hợp, một vài chỉ vàng nhưng là cả tấm lòng dốc túi của cụ ông, cụ bà nào đấy chúng tôi cũng thổi tặng”. Còn nhạc sĩ Văn Cao sau khi hát bài Tiến quân ca cho Nguyễn Đình Thi nghe đã viết: Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó, Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về mặt trận Việt Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc quan và tin tưởng. Sau này, Thi làm xong bài Diệt phát xít trước tôi.
Ngày 19-8-1945, một cuộc mít tinh lớn họp tại Quảng trường Nhà hát Lớn, hàng chục ngàn giọng hát đồng thanh cất lên các bài: Tiến quân ca, Diệt phát xít, Du kích ca. Âm nhạc đã tiếp thêm dũng khí động viên lòng yêu nước, tự hào dân tộc trong ngày khởi nghĩa cướp chính quyền tại Thủ đô Hà Nội.
Xin nói thêm về 3 bài hát Tiến quân ca của Văn Cao; Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi; Du kích ca của Đỗ Nhuận. Đây là 3 bản hành khúc – một thể loại âm nhạc được truyền vào từ châu Âu đầu thế kỷ XX. Những thanh niên yêu nước thời ấy đã biết cách vận dụng tiết tấu hùng tráng, gẫy gọn, để soạn ra những bài ca cho đông đảo quần chúng cùng hát. Cả 3 bài trên đều được phổ biến theo con đường truyền khẩu và không ai biết tác giả những bài hát đó là ai. Khi đó cả 3 ông còn rất trẻ, Đỗ Nhuận 23 tuổi (sinh 1922); Văn Cao 22 tuổi (sinh 1923) và Nguyễn Đình Thi mới 21 tuổi (sinh 1924).
98
Giai điệu bài Diệt phát xít đã trở thành nhạc hiệu của Đài tiếng nói Việt Nam từ hơn 60 năm qua. Cũng như giai điệu chính mở đầu bản trường ca Người Hà Nội đã từ lâu trở thành nhạc hiệu của Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội và một thời đã là nhạc chuông đồng hồ trên nóc nhà bưu điện Bờ Hồ.
Nguyễn Đình Thi tuy không được học nhạc cơ bản, nhưng với môi trường văn hóa Pháp mà ông được tiếp xúc chắc chắn trong đó có những giai điệu âm nhạc của Pháp và châu Âu như: Phiên chợ Ba Tư, Dòng sông Đanuýp xanh, Kỵ binh nhẹ, Serenate Shubert… đã góp phần hình thành nên một thế giới âm thanh trong ông. Việc cảm thụ âm nhạc một cách tự nhiên của ông có dấu ấn từ nền âm nhạc kinh điên thế giới. Sự khúc triết trong cấu trúc âm nhạc có ảnh hưởng từ kiến thức triết học mà ông đã được tiếp cận từ rất sớm.
Người Hà Nội là một bản trường ca (Vocal medley). Đây là một thể loại hiếm gặp trong giai đoạn đầu của lịch sử âm nhạc Việt Nam. Bài hát được sáng tác đầu năm 1947 cùng khoảng thời gian với Sông Lô của Văn Cao, và sau đó là Du kích sông Thao của Đỗ Nhuận. Cả 3 tác phẩm trên đều ở thể loại trường ca cùng xuất hiện một thời điểm. Đây là một hiện tượng rất thú vị và hiếm gặp trong lịch sử âm nhạc. Về cấu trúc âm nhạc Người Hà Nội gồm có 8 đoạn được liên kết với nhau chặt chẽ, có mở đầu, phát triển, cao trào và kết thúc. Có sự xuyên suốt của mô típ chủ đề chính. Qua mỗi đoạn ta thấy sự thay đổi về tiết tấu (Rythme), tốc độ (Tempo), giọng điệu (Tonal)… một cách uyển chuyển hợp lý. Và điều quan trọng là toàn bộ các yếu tố âm nhạc kể trên đã gắn chặt với ca từ và tạo thành một khối thống nhất, hoàn chỉnh đạt tới cao trào của cảm xúc nghệ thuật. Có thể coi Người Hà Nội là một tác phẩm thanh nhạc được tư duy theo ngôn ngữ khí nhạc. Đặc trưng của khí nhạc là tính hình tượng được tập trung ở các chủ đề âm nhạc (Thème). Trong Người Hà Nội chủ đề của từng đoạn vô cùng rõ nét, sinh động và độc đáo. Ví dụ: chủ đề mở đầu: sol – rề sol – rề mi – rề sol. Chỉ với 3 nốt nhạc đã phác họa được một hình ảnh Hà Nội cổ xưa uy nghiêm và sâu lắng… Chính vì vậy, chủ đề này đã được nhiều nhạc sĩ sử dụng như một biểu tượng âm thanh gắn liền với Hà Nội. Đây là một vinh dự mà không phải nhạc sĩ nào cũng có được.
Khoảng năm 1991, tôi được gặp ông tại Paris. Trong suốt buổi nói chuyện, ông luôn nhắc đến Người Hà Nội với những trăn trở và mong muốn làm sao có thể chuyển tác phẩm này cho Dàn nhạc Giao hưởng. Tôi hiểu ông muốn hướng tới một loại hình âm nhạc có chiều sâu về ngôn ngữ và có sức lan tỏa rộng hơn, mang tính quốc tế. Cho đến nay, chỉ mới có các bản chuyển soạn cho Guitar, Piano… còn một tổng phổ giao hưởng như ông mong ước thì chưa có ai làm được.
Ngoài 2 bài hát nổi tiếng, những bài thơ của ông đã được các nhạc sĩ phổ nhạc thành những bài hát hoặc hợp xướng như: Nhớ (nhạc Hoàng Vân), Lá đỏ (nhạc Hoàng Hiệp) và bài thơ Đất nước đã được nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc phổ
99
thành bản Hợp xướng. Đặc biệt, vào năm 1980 từ kịch bản sân khấu Nguyễn Trải ở Đông Quan nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã viết thành vở nhạc kịch (Opera) Nguyễn Trãi. Đây là vở nhạc kịch thứ 3 của Đỗ Nhuận sau Cô Sao (1965) và Người tạc tượng (1975). Tiếc rằng, vở nhạc kịch Nguyễn Trãi chưa có điều kiện để dàn dựng, khi cả 2 ông đã về cõi vĩnh hằng.
Nguyễn Đình Thi không nhận mình là nhạc sĩ, vì ông hiểu sâu sắc ý nghĩa của người làm công việc sáng tạo này: Compositeur là nhà soạn nhạc, chủ yếu là sáng tác nhạc không lời hoặc Error: Reference source not found. Nhưng với khả năng cảm thụ âm nhạc đặc biệt từ nhỏ, trí tưởng tượng bay bổng lãng mạn của tuổi trẻ, ông đã hút được hồn nhạc để cùng với hồn thơ tạo thành đôi cánh vút bay lên bầu thời văn nghệ Việt Nam. Với những gì ông đã để lại cho nền âm nhạc nước nhà, chúng ta có quyền tự hào và trân trọng gọi tên ông: Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi.
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2013
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC QUA
HÌNH ẢNH THIÊN NHIÊN TRONG VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Đào Thủy Nguyên – ĐHSP Thái Nguyên
Thiên nhiên là “tổng thể nói chung những gì tồn tại xung quanh con người mà không phải do con
người tạo ra”(3) như: trời, đất, cỏ cây, sông nước, muông thú...hay theo cách nói trong thơ Hồ Chí Minh
là: “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông...”. Có thể khẳng định: Cảm hứng về thiên nhiên, đất nước miền
núi - một phương diện nội dung mang đậm bản sắc dân tộc - đã được thể hiện đậm nét trong văn xuôi của
các nhà văn dân tộc thiểu số.
Trong sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số, hình ảnh thiên nhiên hiện lên khá đa dạng, phong
phú, nhiều màu vẻ. Ở chỗ này, thiên nhiên là một đối tượng nghệ thuật khách quan mang đậm dấu ấn miền
núi - vừa hoang sơ, dữ dội, hùng vĩ vừa thơ mộng, lãng mạn trữ tình. Ở chỗ khác, thiên nhiên lại hiện lên
như một sinh thể có cuộc sống, có tâm hồn, luôn chở che, hòa hợp với con người trong một mối tình bầu
bạn keo sơn, gắn bó. Nhưng dù thế nào, thiên nhiên cũng là một phần không nhỏ làm nên bản sắc văn hóa
dân tộc trong sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số.
1. Thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi
Đọc tác phẩm của các nhà văn dân tộc thiểu số, ta có thể nhận ra dấu ấn vùng miền khá đậm nét ngay từ
hình ảnh thiên nhiên – một đối tượng khách quan tưởng như không liên quan gì đến cái gọi là bản sắc dân tộc.
Đặc trưng đậm nét nhất về thiên nhiên miền núi trong ấn tượng và suy nghĩ của mọi người là núi,
đồi rồi lại núi, đồi trùng điệp và xanh xa tít tắp. Nỗi nhớ núi đồi và thiên nhiên quê hương vì thế trở thành
một nỗi nhớ da diết của mỗi người con dân tộc khi phải cất bước xa quê. Thế nhưng, trong cảm nhận của
mỗi người cầm bút, thiên nhiên quê hương vẫn mang một vẻ đẹp riêng dù họ có cùng một bến bờ để
thương để nhớ. Sự khác nhau ấy phải chăng là do thiên hướng riêng trong bút pháp và phong cách sáng
tác của mỗi nhà văn.
Bước chân vào thế giới nghệ thuật của Cao Duy Sơn, người đọc có một ấn tượng đậm nét vô cùng
100
về không gian thiên nhiên vùng Đông Cao Bằng. Đó là hình ảnh núi như "những chàng khổng lồ khoác
vai nhau giăng tận chân trời"(4). Hình ảnh "đâu đâu cũng núi", "một bước ra cửa vượt đèo" và mù sương
"như mưa tơ giăng màu sương khói"(5) tạo cho non nước Cao Bằng một vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa huyền
diệu, mơ màng và quyến rũ. Qua ngòi bút của Cao Duy Sơn, cảnh núi non Cao Bằng hiện lên với màu sắc
trữ tình vừa hiện thực vừa lãng mạn. Viết về thiên nhiên, Cao Duy Sơn chú ý đặc tả vẻ riêng của các mùa
trong tuần hoàn vũ trụ.
Cùng là người con của quê hương Cao Bằng, nếu Cao Duy Sơn chú ý phát hiện đặc trưng của thiên
nhiên các mùa miền núi qua hình ảnh “đậm và nét” của mưa xuân, “hương vị ngai ngái đắng” của cỏ cây
mùa thu, cái buốt giá của chiều đông vùng núi đá...thì Vi Hồng lại chọn sắc nắng, hình ảnh nắng làm nền
cảnh cho bức tranh thiên nhiên bốn mùa ở vùng cao. Sự tinh tế trong cảm nhận bức tranh đời sống khiến
Vi Hồng không cần dài lời miêu tả, chỉ qua vài nét vẽ đơn sơ tập trung vào màu nắng, sắc nắng, hình ảnh
nắng, ông đã có thể giúp người đọc nhận ra bước chuyển của thời gian trong bức tranh sơn thủy hữu tình
của thiên nhiên miền núi. Trong cái lạnh lẽo và buốt giá của mùa đông miền núi bỗng có những thời khắc
đột khởi, đất trời trở nắng như một giấc mơ thần tiên. Nắng làm vạn vật rung mình bừng nở rạng rỡ và
tràn đầy sinh khí: “Cái nắng hiện ra rạng rỡ, mát rượi, vắt ngang qua đèo. Nắng mềm mại như một tấm
lụa vàng khổng lồ trải bập bềnh xuống tận đáy các thung lũng và ngược các sườn non”(8).
Nếu văn xuôi Vi Hồng cho người đọc ấn tượng sâu đậm về cái nắng nơi núi rừng Việt Bắc thì văn
xuôi Y Điêng lại ám ảnh chúng ta bởi hình ảnh gió núi Tây Nguyên. Ngay từ những dòng đầu tiên của tiểu
thuyết Chuyện trên bờ sông Hinh, Y Điêng đã khiến người đọc không thể nào quên cái “Gió Xi ăng”-
như một sinh thể bạo liệt và cuồng nộ: “Cả ngày nắng, về chiều đất nóng lên, rừng khô đi. Vòm trời trong
xanh và mở rộng. Gió thở càng lạnh và khô không khốc. Ai cũng có cảm giác rằng tháng ngày chưa đến
mà gió núi đã tới trước, người địa phương gọi là “Gió Xi ăng”. Gió thổi vun vút. Gió thổi như người cắm
đầu chạy, như con hổ giật mình cố chạy bán sống bán chết. Gió như từ các dãy núi chung quanh thả
những hơi thở dài, thở ập xuống những nơi trống trải của vùng đồi cỏ tranh thấp hơn mình...”(13).
Cùng với nắng gió và núi rừng, đặc trưng của thiên nhiên vùng cao là sông suối và thác vực. Với
người miền rừng, dòng sông cũng như núi đá và đá núi không còn là những vật thể vô tri mà mang trong
nó cả bản nguyên và hồn thiêng dân tộc. Bởi vậy, những trang văn viết về sông núi quê hương của các nhà
văn dân tộc thiểu số gửi gắm trong đó niềm tự hào thành kính thiêng liêng. Trong sáng tác của Cao Duy
Sơn, hình ảnh những con sông Quy, sông Dâng, sông Bắc Vọng vừa đẹp một vẻ đẹp nguyên sơ, thơ mộng
vừa gần gũi và gắn bó vô cùng. Dòng sông cũng là một điểm nhấn nghệ thuật làm nên vẻ đẹp riêng của
thiên nhiên trong văn xuôi Vi Hồng. Ai đã một lần đọc đoạn văn miêu tả vẻ đẹp dòng Chín Thoong hẳn
chẳng thể nào quên những hình ảnh, màu sắc, hương vị căng tràn sức sống của nó: “Dòng Chín Thoong
nước đang kéo màu chàm, con nước còn mạnh nhưng nước đã trong văn vắt, màu nước xanh biếc như tàu
lá dong độ con gái. Những đàn cá ngửa bụng ăn “ghét cá”, ăn bùn ở thác cuối vực Chín Thoong trắng
như ai vãi trăm nghìn bông hoa lấp chìm xuống đáy thác. Nhìn những đàn cá đủ các kích cỡ to nhỏ vừa
giống như một bãi hoa lại vừa giống như trăm nghìn vì sao lấp lánh, nhấp nháy giữa bầu trời xanh mênh
mang. Lúa tháng tám hai bên bờ con sông đã gặt, lúa mùa bắt đầu nhuốm màu trứng cá. Bầu trời Chín
Thoong thơm ngọt ngào hương lúa - hương của hạnh phúc ấm no..”(14).
Trong số các nhà văn dân tộc thiểu số, Vi Hồng được xem là người có sự am hiểu sâu sắc nhất về
thế giới động vật. Sông suối miền núi vừa đẹp vẻ đẹp hữu tình vừa là nguồn thủy lợi, lại là kho thực phẩm
dồi dào phục vụ đời sống con người. Vi Hồng đầy tự hào kể về các giống cá ngon, cá lạ của quê hương,
nhưng đặc biệt nhà văn có nhiều trang hấp dẫn miêu tả vẻ đẹp của những loài chim độc đáo nơi núi rừng
101
Việt Bắc. Hàng trăm loài chim mang những vẻ đẹp khác nhau đã đi vào trang văn Vi Hồng: chim anh tài,
sam péc rực rỡ; chim hoa nhỏ bé xinh đẹp như những đóa hoa; rồi chim lưỡi rìu; chim tang ló; chim cô
ơi...Biết bao loài chim lạ đều được miêu tả tỉ mỉ từ màu lông, tiếng hót đến dáng vẻ, tính cách, sở
thích...Có lẽ hiếm có nhà văn nào lại có thế mạnh hiểu biết và tài năng miêu tả vừa cụ thể, sinh động vừa
đa dạng phong phú về các loài chim như Vi Hồng.
Có thể nói, với những trang văn miêu tả tinh tế về thiên nhiên miền núi, các nhà văn dân tộc thiểu
số đã góp phần quan trọng lưu dấu trong lòng người đọc vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên các vùng núi non
sơn thủy hữu tình trên mọi miền đất nước.
2. Thiên nhiên gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của con người miền núi
Do điều kiện sinh sống, người miền núi gắn bó, gần gũi, giao hòa với tự nhiên. Tự nhiên là một
phần không thể thiếu trong đời sống của họ. Vì thế, đi xa thì họ nhớ, day dứt đến khôn nguôi và không
chịu nổi cảm giác “thiếu quê hương” trong tâm hồn mình. Chẳng thế mà, nhân vật Ksor H’La trong Pơ
Thi mênh mang mùa gió của Hlinh Niê dù sống trên đất Mỹ - nơi có nền văn hóa hàng đầu thế giới mà
đêm ngày vẫn quay quắt nhớ quê nhà – nơi mảnh hồn quê đã gắn với “mùi khói đốt rẫy hăng hăng đến cay
sè cả mắt mũi của lá cỏ kmrâo, âm thanh binh binh bòong bòong rạo rực của dàn chiêng arap, tiếng đàn
goong tửng tưng tỉ tê tỏ tình của lũ con trai những đêm trăng, nơi chiếc cầu bắc ngang dòng suối giữa
buôn, đến cả mùi phân voi ngai ngái nóng sực sau nhà, lẫn màu vàng của những đồi hoa dã quỳ - mnga
phí rừng rực giữa mùa mưa...”. Cảm giác trơ trọi, buồn tủi của cánh “chim ngụ cư” chốn thị thành trong
tâm hồn các nhân vật người vùng cao của Cao Duy Sơn, Vi Hồng, Y Phương... cũng khiến ta xúc động,
cảm thông và chia sẻ.
Thiên nhiên Cao Bằng trong sáng tác của Cao Duy Sơn không chỉ mang vẻ đẹp của một bức tranh
sơn thuỷ mà còn hiện lên như một sinh thể hữu tình, biết sẻ chia với con người những vui buồn trong cuộc
sống. Trong truyện ngắn Nơi đây không một bóng người, thiên nhiên là mái nhà chở che, nuôi dưỡng mẹ
con Ò Lình, xoa dịu nỗi bất hạnh, đồng thời truyền cho Ò Lình cái hồn nhiên trong tình cảm yêu thương
để cậu không ngần ngại xả thân vì chính cái đồng loại đang cố tình xa lánh mẹ con họ.
Quả thực, với những số phận thiếu may mắn thì luôn luôn thiên nhiên là nơi cuối cùng họ tìm về
sau những thất bại trên đường đời để tìm sự vỗ về, chở che, an ủi. Nhân vật Sang trong truỵên ngắn Lời
sli vắt ngang núi của Bùi Thị Như Lan trong nỗi buồn đau tuyệt vọng bởi hoàn cảnh trớ trêu - lấy nhầm
phải người yêu của cô em gái sinh đôi - đã cuống cuồng vùng chạy ra khỏi nhà, “vấp ngã rúi rụi, gục
xuống rồi lại vục dậy chạy tiếp” và cuối cùng bước chân vô thức đưa cô trở về với người mẹ thiên nhiên -
rừng chè cổ thụ. Rừng chè, nơi Sang sinh ra và lớn lên đã trở thành người mẹ hiền ôm ấp, vỗ về cô.
Trong sáng tác của Vi Hồng, thiên nhiên và con người có một mối dây liên hệ đặc biệt kì lạ. Mùi
hương của loài hoa biooc loỏng được con người cảm nhận theo cách riêng, gắn với tâm trạng và cảnh
huống cụ thể: “Người bình thường hàng ngày lên nương, lên rừng chỉ ngửi thấy cái mùi thơm của hoa
bióoc loỏng thoang thoảng, hơi ngòn ngọt như cái hương cái vị của những chùm nhãn chín kĩ. Những đôi
bạn kết thân tình với nhau như bạn “tồng”, bạn “khoả”, anh em kết nghĩa thân thiết mặn mà thì ngửi thấy
mùi hoa bióoc loỏng có cái hương khác - cái hương của nếp ngon thơm đồ cùng hoa bióoc phón - một mùi
vị vừa thơm vừa bùi như mùi lạc rang giã mịn. Nếu hai người yêu nhau tha thiết ngửi hương bióoc loỏng
thì sẽ thấy đó là cái hương, cái vị của những giọt sữa non mà chỉ riêng từng cặp mới cảm nhận hết ý
nghĩa của cái mùi vị đặc trưng của tình yêu say đắm đó”(21). Như vậy có thể thấy thiên nhiên gắn bó với
cuộc sống, với buồn vui trong tâm hồn con người miền núi biết nhường nào.
Trong sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số, có thể thấy, nhiều khi giữa con người với tự nhiên
102
đã có sự hòa nhập đến mức tận cùng, tuyệt đối. Ấy là khi con người thực sự hòa mình vào tự nhiên và tìm
thấy ở tự nhiên ý nghĩa tồn tại đích thực của mình. Ông Roạn trong tiểu thuyết Mũi tên ám khói (Ma
Trường Nguyên) yêu rừng bằng một tình yêu máu thịt, sẵn sàng sống chết cho sự sống của rừng. Người
phụ nữ trong truyện ngắn Lời sli vắt ngang núi (Bùi Thị Như Lan) khi bước trên những lối mòn lởm
chởm đá, chạm chân vào những ngọn cỏ cõng đầy sương mát lạnh và ướt át đã cảm nhận được tiếng rừng
“lúc réo rắt như tiếng sáo gọi bạn, lúc thì thầm như lời tâm sự, lúc ào ạt như gió rít, lúc lại nhẩn nha như
lời pá dạy bảo...”(22). Phải chăng khi con người tìm về với bản nguyên của mình - tự nhiên - là tìm được
đường đến với cội nguồn văn hóa dân tộc.
Có thể gặp trong tác phẩm của các nhà văn dân tộc thiểu số những hình ảnh biểu tượng thiên nhiên
như những điềm báo linh diệu cho biết bao vấn đề của đời sống con người. Trong Đàn trời của Cao Duy
Sơn, đó là hình ảnh sét đánh trúng cấy tếch trong sân Ủy ban Tỉnh đúng vào thời điểm mọi việc làm đen
tối, xấu xa của mấy vị cán bộ cấp cao trong ủy ban đang bị lôi dần ra ánh sáng... Trong truyện ngắn của
Nông Văn Lập những điềm báo từ tự nhiên luôn linh nghiệm vô cùng. Chuyến đi soi tắc kè của nhóm
Hùng, Đại trong truyện Chân núi hoa đỏ luôn gặp những điềm báo không mấy tốt đẹp từ tự nhiên: đầu
tiên là ba con nai băng qua đường, rồi cũng ba lần xuất hiện những đám mây kì quái cản đường, tiếp đó là
gặp hai con rắn hổ mang đang quấn lấy nhau và cuối cùng là một bầy quạ đen...Thế nhưng, họ vẫn liều
lĩnh bất chấp tất cả. Và kết quả của chuyến đi ấy là Hùng bị ngã từ trên núi xuống, thương tích đầy mình...
Bởi sống gần với tự nhiên, hơn ai hết, họ là những người chứng nghiệm sâu sắc nhất quy luật của tự nhiên
- một quy luật tồn tại độc lập với những luật lệ được đặt ra bởi xã hội loài người. Nhiều truyện ngắn của
Đoàn Lư (Cái giá phải trả, Cạm bẫy của thiên nhiên) là lời cảnh báo con người trước những hành động
tàn ác, gây sự với tự nhiên. Bản chất của tự nhiên trong mối quan hệ với con người không phải là đối địch
mà là hài hòa, gắn bó. Thế nhưng, nhu cầu sinh tồn và nhất là lòng tham vô bờ bến của loài người nhiều
khi đã đẩy hai thực thể tự nhiên vừa có nhiều nét tương đồng gần gũi vừa có nhiều nét khác biệt vào cuộc
hận thù khủng khiếp. Có thể gặp trong rất nhiều tác phẩm của các nhà văn dân tộc thiểu số mô tip về sự
báo oán của tự nhiên với con người. Trong truyện ngắn của La Quán Miên, Đoàn Lư, Bùi Minh Chức...
xuất hiện nhiều cuộc báo thù mà nạn nhân là những kẻ dám coi thường tự nhiên, dồn đẩy tự nhiên đến giới
hạn cuối cùng để thiên nhiên buộc phải nổi giận. Trong một số tác phẩm, các nhà văn dường như có ý
thức thần bí hóa tự nhiên, khiến cho sự trả thù của tự nhiên thêm phần bí hiểm. Phải chăng nhà văn muốn
đề cao yếu tố tâm linh như một sức mạnh của tự nhiên mà con người cần tôn trọng.
Thông điệp bảo vệ môi trường sinh thái đặt ra trong sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số như
một lời kêu gọi xót xa và khẩn thiết vì chính cuộc sống của con người.
(3)Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2000, tr.940
(4)Cao Duy Sơn, Chòm ba nhà, NXB Lao động, 2009, tr.98
(5)Cao Duy Sơn, Người lang tháng, NXB Hội Nhà văn, 1992, tr.193
(6),(7)Cao Duy Sơn, Những chuyện ở lũng Cô Sầu, NXB Quân đội nhân dân, 1997, tr.161,91
(8),(16)Vi Hồng, Lòng dạ đàn bà, NXB Thanh niên, 1992, tr.88, 67
(9),(12),(14),(15)Vi Hồng, Tháng năm biết nói, NXB Văn hóa Dân tộc, tr.202 – 203, 132,18,132.
(10)Vi Hồng, Đất bằng, NXB Tác phẩm mới, tr. 96 - 97
(11)Vi Hồng, Vào hang , NXB Thanh niên, 1990, tr.115.
(13)Y Điêng, Chuyện trên bờ sông Hinh, NXB Văn hóa nghệ thuật Đắc Lắc, 1994, tr. 2
CẢM HỨNG SỬ THI , LÃNG MẠN TRONGTRƯỜNG CA MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
103
Nguyễn Toàn Thắng
Văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ là tiếng nói của thời đại về những vấn đề lịch sử. Thi ca cách mạng chủ yếu sản sinh từ cảm hứng sử thi, lãng mạn, tập trung thể hiện những vấn đề cơ bản có ý nghĩa sống còn của đất nước, hướng tới tương lai tươi sáng tràn đầy niềm tin và khát vọng.
Cùng với thế hệ thơ chống Mỹ, “Nguyễn Khoa Điềm đã góp vào nền thơ Việt Nam một phong cách giàu suy tưởng, cảm xúc, kết hợp hài hoà yếu tố hiện thực và lãng mạn, vốn sống trực tiếp và vốn sống văn hoá”(1). Đây là phong cách độc đáo không phải nhà thơ nào cũng đạt được. Đó là nguyên do vì sao cho đến nay, đọc lại thơ thời kỳ chống Mỹ của Nguyễn Khoa Điềm, ta vẫn xúc động sâu sắc, nhất là những người cùng thế hệ với nhà thơ có thể tìm thấy những khao khát, nhiệt tình, những trăn trở và mê say, những kỷ niệm về một thời hào hùng trong lịch sử dân tộc. Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những bản giao hưởng hùng tráng và tràn đầy vẻ đẹp sử thi, trữ tình lãng mạn về chủ đề Đất Nước những năm chống Mỹ.
Xuất hiện vào thời điểm “nước sôi lửa bỏng” của cuộc kháng chiến chống Mỹ, bản trường ca đã thể hiện sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị miền Nam trước mưu mô chia rẽ thâm độc của các thế lực thù địch. Lớp lớp thanh niên miền Nam đã ý thức được sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh,“đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” để Bắc Nam sum họp một nhà, Tổ quốc thống nhất. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thuộc dạng đa phong cách: có lúc hùng tráng sôi nổi, có lúc trữ tình tha thiết, nhưng tất cả đều toát lên vẻ nồng nàn, đắm say, tha thiết với cuộc đời và con người. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đậm chất chính luận, hấp dẫn người đọc bằng vẻ đẹp trí tuệ - trữ tình, đầy hào khí của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến, lôi cuốn hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết giữa cảm xúc chân thành và suy tư sâu lắng.
Chương V có nhan đề Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng thể hiện cảm nhận sâu lắng của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò vĩ đại, sự hy sinh to lớn của nhân dân trong lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Cùng với thế hệ thơ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm về nhân dân thông qua trải nghiệm của những người trực tiếp chứng kiến và tham gia vào biến động lịch sử. Tư tưởng chủ đạo đó được thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình - chính luận. Lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị : không phải ai khác mà chính Nhân dân - những con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên” - là chủ nhân trường đất nước trong trường tồn lịch sử, đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên truyền thống văn hoá, lịch sử ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy đã được Nguyễn Khoa Điềm “diễn ngôn” bằng hàng loạt hình ảnh đan chùm, liên kết và rộng mở, đầy gợi cảm và bằng giọng thơ sôi nổi, chân thành, tha thiết vô ngần. Qua những dòng thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy tư, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ trong những năm chống Mỹ.
Dưới hình thức đối thoại giữa hai nhân vật trữ tình “Anh”- người con trai tham gia cách mạng và “Em” - một người con gái yêu thương nơi quê nhà, kết cấu chương V của bản trường ca mở ra những biên độ trữ tình phóng túng, tự do. Tuy nhiên, từ trong chiều sâu của thi tứ, cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi của bài thơ: Đất nước của Nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được
104
triển khai trên các bình diện : trong chiều dài của thời gian, trong chiều rộng của không, và trong những tầng sâu của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”: Đất nước của Nhân dân trở thành linh hồn của cả thi phẩm.
Với độ dài 110 câu thơ, trường ca Mặt đường khát vọng được chia làm hai phần: phần đầu là cảm nhận về Đất Nước trong cội nguồn văn hoá - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hàng ngày của mỗi con người Việt Nam; phần thứ hai , cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, nhận diện, phát hiện Đất Nước trên nhiều bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống, tinh thần dân tộc, văn hiến Việt Nam.
Trong chương V: Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục, tập quán của dân tộc, cùng với cách diễn đạt hiện đại, gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho bạn đọc. Đoạn trích Đất Nước có bố cục mạch lạc, rõ ràng. Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thơ này là những suy ngẫm về “Đất Nước trong ca dao thần thoại” ngay từ thuở khai thiên lập địa. “Tuổi” của Đất Nước là vô tận hằng cửu trong không gian, thời gian phiếm chỉ mang tính thần thoại cổ tích: Đất Nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể... Trong thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca, nhân dân đã tạc nên gương mặt, dáng hình, chân dung đất nước thật sinh động qua phong tục tập quán và đặc tính tư tưởng tình cảm của người Việt xưa: Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn/ Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcĐất nước kết tinh những vẻ đẹp của văn minh nông nghiệp, văn hoá lúa nước : Cái kèo, cái cột thành tên / Hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng...Lối tư duy thơ cụ thể, chi tiết mà vô cùng tổng hợp, khái quát sâu xa của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra nhưng hình ảnh sóng đôi tương ứng về Đất Nước thật độc đáo, tinh tế: Đất Nước - Cài kèo, cái cột thành tên/ Đất Nước - Hạt gạo ... một nắng, hai sương Trong ca dao dân ca xưa, hình ảnh đất nước hiện ra với vẻ đẹp tình yêu hạnh phúc của con người Việt Nam: Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm ; Đất Nước là nơi ta hò hẹn/ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... Đất nước còn hiện ra trong những huyền thoại về nguồn gốc dân tộc giống nòi : Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng... Người Việt bao đời nay có truyền thống phong tục thiêng liêng như cây nhớ về một cội, nước nhớ về một nguồn : Hằng năm ăn đâu làm đâu / Cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ... Hình ảnh Đất Nước được xây đắp trong trí tưởng tượng dân gian : Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/ Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi...
Tiếp theo, hình ảnh Đất Nước - Con Người là một phát hiện có ý nghĩa triết lý hết sức sâu sắc. Con Người là hiện thân tổng hợp nhất, khái quát nhất, sâu sắc nhất, tinh hoa nhất về Đất Nước. Từ một góc nhìn trí tuệ, Nguyễn Khoa Điềm cho rằng: chúng ta sống trong Đất Nước và Đất Nước sống trong mỗi con người Việt Nam chúng ta. Đất Nước chính là thế giới tinh thần của dân tộc bao gồm: tư tưởng tình cảm khát vọng, phong tục tập quán, quan niệm thẩm mỹ, lẽ sống, niềm tin, tính cách Việt, văn hoá Việt... sống mãi trong mỗi chúng ta. Đó là sự thật hiển nhiên không thể tách rời: Khi hai đứa cầm tay/ Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
105
Nhà thơ nhắn nhủ mình cũng là nhắc nhở mọi người hãy sống vì Đất Nước, hãy sống sao cho xứng đáng để cho Đất Nước trong thân thể và tâm hồn mỗi chúng ta tươi đẹp hơn, vĩnh hằng hơn tới muôn đời: Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ
Trong phần sau, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cảm hứng về Đất Nước của Nhân dân. Nhân dân là chủ nhân duy nhất của Đất Nước. Nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước muôn đời. Nhân dân sáng tạo ra vẻ đẹp danh lam thắng cảnh gắn với những huyền thoại, sự tích và lịch sử dân tộc: Tác giả ngợi ca công lao vĩ đại của các thế hệ Nhân dân trong quá trình sáng tạo ra truyền thống văn hoá, lịch sử, làm nên những danh lam thắng cảnh của Đất Nước. Tên gọi của danh lam thắng cảnh là sự kết tinh, hội tụ và toả sáng của những tấm gương anh hùng văn hoá, anh hùng chống giặc ngoại xâm, rạng ngời vẻ đẹp văn hoá phương Đông và văn hoá Việt Nam trong cuộc sống cư dân văn hoá lúa nước và văn minh nông nghiệp mấy ngàn năm lịch sử. Gọi tên danh lam thắng cảnh là cách mà dân gian thổi hồn văn hoá Việt vào các sự vật vô tri vô giác để từ đây cảnh đẹp mang dấu ấn quan niệm nhân sinh, quan niệm triết học của nhân dân ta.
Vẻ đẹp văn hoá Việt đã xuất hiện rực rỡ trong những tên núi, tên sông, tên làng, tên đất, những địa danh tuyệt vời trên Đất Nước ta : một Đất Nước “trọng văn”, “đồng văn”, “chuộng văn”, tiêu biểu ở Đông Nam Á nên mới có núi Bút, non Nghiên; một Đất Nước coi trọng văn hoá rồng nên mới có Hạ Long thành thắng cảnh và những con rồng năm im góp dòng sông xanh thẳm.
Thêm nữa, đó còn là một Đất Nước bốn ngàn năm đánh giặc nên mới có Thánh Gióng; Chín mươi chín con voi... dựng đất Tổ Hùng Vương, có hàng triệu những người dân anh dũng ngoan cường thầm lặng giản dị đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ; Đất Nước là vùng văn minh nông nghiệp, văn hóa lúa nước nên mới có con cóc, con gà góp vẻ đẹp tuyệt vời ở vịnh Hạ Long thắng cảnh... Từ những điều đó, nhà thơ đã có sự khái quát hết sức thông minh, sâu sắc về mối quan hệ Đất Nước và con người Việt Nam : Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năn đi đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời đã hoá núi sông taDi sản văn hoá vật thể là nơi cất giữ tâm hồn Việt – những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc vĩnh hằng sống mãi cùng thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông của Đất Nước. Nhân dân anh hùng đã sáng tạo ra truyền thống lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Nhân dân là ai và nhân dân đã sáng tạo ra lịch sử như thế nào? Nguyễn Khoa Điềm giải thích bằng tư duy liên tưởng thơ vừa cụ thể lại vừa tổng hợp, khái quát hết sức cô đọng :- Nhân dân là bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/ Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm.- Nhân dân là những người... con gái con trai bằng tuổi chúng ta / Cần cù làm lụng / Khi có giặc người con trai ra trận / Người con gái trở về nuôi cái cùng. Con.- Nhân dân đã có công lao to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước : Có ngoại xâm thì đánh ngoại xâm / Có nội thù thì vùng lên đánh bại / Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân. Nhân dân là chủ nhân sáng tạo và lưu truyền văn hoá dân tộc: sáng tạo ra tiếng nói: lưu truyền phong tục tập quán; nhân dân đóng góp công sức xây dựng đất nước cho muôn đời : Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái...; nhân dân truyền dạy cho các thế hệ cháu con về tính cách Việt Việt Nam: lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu con người, tinh thần nhân văn, nhân đạo của dân tộc, biết cần cù chịu thương chịu khó, biết
106
kiên nhẫn trước những thử thách lịch sử: Biết trồng tre để đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu...Kết thúc đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra hình ảnh Nhân dân là những người sáng tạo vĩ đại đã thổi hồn văn hoá Việt vào thiên nhiên tạo vật, sáng tạo ra vẻ đẹp của Đất Nước Việt Nam muôn đời: ... Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu/ Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước chính là ở chỗ tác giả đã sử dụng chất liệu dân gian hết sức phong phú sinh động và nhuần nhuyễn để làm thành thi liệu sinh động cho thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một hệ thống điểm nhìn nghệ thuật mới mẻ độc đáo về Đất Nước : góc nhìn văn hoá lịch sử trong chiều dài vô tận của thời gian và không gian mênh mông. “Tuổi” của Đất Nước là “tuổi” của tư duy thần thoại, cổ tích ca dao mang tính phiếm chỉ (theo cách nói ước lệ tượng trưng) trong độ dài nhiều ngàn năm lịch sử. Cảm hứng sử thi và trí tưởng tượng lãng mạn đã chắp cánh cho bản trường ca này bay cao hơn, bay xa hơn trên vòm trời nghệ thuật ca dao thần thoại huy hoàng, lộng lẫy sắc màu dân gian, mà vẫn tràn đầy sức liên tưởng về Đất Nước thời hiện đại văn minh.
Có lẽ vì thế mà ngày nay, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm vẫn tiềm ẩn sức cuốn hút mạnh mẽ ở vẻ đẹp rực rỡ, lấp lánh của hình tượng Đất Nước trong lối viết sử thi, lãng mạn; vừa truyền thống lại vừa hiện đại; vừa dân gian lại vừa bác học (dường như trong thơ Việt thế kỷ XX không có bản sao thứ hai viết về đề tài Đất Nước độc đáo như vậy). Từ đây, người đọc sẽ tiếp tục suy ngẫm sâu sắc về trọng trách của con người Việt Nam đối với Đất nước hôm nay.
1. Tôn Phương Lan, Nguyễn Khoa Điềm, in trong sách Nhà thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHoa học Xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 352. Trần Đăng Suyền, Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr. 268
PHƯỢNG VŨ - CÁNH CHIM ĐẦU ĐÀN VÙNG VĂN HỌC XỨ ĐOÀIĐặng Hiển
Khi mới 21 tuổi, là giáo viên cấp 2 trường làng, Nguyễn Phương Tú đã được biết đến với bút danh Phượng Vũ, tác giả truyện ngắn Người nữ trưởng ga, giải 3 cuộc thơ truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ. Sau đó Phượng Vũ đã sớm tạm biệt nghề dạy học chuyển lên Ty Văn hóa Hà Đông làm cán bộ biên tập, mở ra con đường viết văn chuyên nghiệp. Nhưng thực ra ông không được dành nhiều thời gian cho sáng tác vì chẳng bao lâu ông đã trở thành người lãnh đạo văn hóa và phong trào sáng tác ở Hà Đông, Hà Tây, Hà Sơn Bình và mấy năm cuối ở Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam cho đến khi mất ở tuổi 63.
Tác phẩm đầu tay thành công đã hé lộ văn tài ông là Người nữ trưởng ga. Tác phẩm kể chuyện sự trưởng thành và quyết tâm tự khẳng định của một cô gái miền Nam tập kết, có lí tưởng và ý thức phấn đấu vì miền Nam ruột thịt, vì thống nhất đất nước. Là một cô gái xinh đẹp, giỏi giang, nhiều người theo đuổi nhưng cô đã từ chối, tập trung vào học tập và mãi khi trở thành nữ trưởng ga mới kết hôn với người đồng đội đồng thời là người lãnh
107
đạo mình hồi kháng chiến chống Pháp ở miền Nam. Hình ảnh người con gái trẻ đẹp đội mũ phất cờ đỏ trên sân ga lúc đó là một hình ảnh rất mới về phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh con người mới đứng lên làm chủ cuộc đời, xây dựng cuộc sống mới là chủ đề cuốn hút tác giả trong nhiều tác phẩm sau đó. Núi Chàng rể là một truyện ngắn độc đáo được kể dưới hình thức đối thoại của hai nhân vật: anh công nhân lái máy ủi và cô kỹ sư. Anh công nhân tâm sự với cô kỹ sư về việc mình đã hơn một lần dừng lại trước điển cao của quả đồi mà anh có nhiệm vụ khai phá để trồng dâu. Và lần này anh quyết tâm chiếm lĩnh, đỉnh cao độ dốc 260 của mỏm núi có cái tên rất vẫy gọi: Núi Chàng rể...
12 truyện ngắn của Phượng Vũ đã được tập hợp trong tập Người mẹ và những đứa con (NXB Hội Nhà văn 1996). Cùng chủ đề với 2 truyện trên là Ngày xuân. Truyện kể về một cô giáo đến thăm nhà học sinh. Cô trò đi sang đò, qua cánh đồng ruộng bãi và cô giáo đã nhận ra một điều mới hơn thường ngày là cậu trò của cô thật thông minh với những câu chuyện nó bộc lộ tâm hồn và kiến thức cuộc sống phong phú của cậu. Người mẹ và những đứa con, truyện mà tập mang tên là truyện về người mẹ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Bà đã hiến dâng cho Tổ quốc những đứa con và coi những chiến sĩ, những cán bộ cách mạng như những đứa con của mình. Tác giả đã dựng tượng đài và người mẹ Việt Nam anh hùng nhưng không phải từ một con người phi thường với bút pháp anh hùng ca mà từ một người phụ nữ, người dân bình thường, với bút pháp hiện thực và chính vì thế mà người đọc càng cảm thấy gần gũi và xúc động.
Diễm là một truyện một cô gái, một cô giáo đã vượt lên những vấp ngã của cuộc đời để xây đắp hạnh phúc của mình. Diễm đã hơn một lần bị lâm nạn. Lần thứ nhất, cô đã trao thân cho Quyền, một gã bạn học Sở Khanh, lần thứ hai, cô lại lấy phải một anh chàng buôn thuốc phiện bị tù 10 năm. Sau khi hắn ra tù, vợ chồng tái hợp thì hắn lại mắc tội tham ô và lại vào tù. Lần này cô đã li hôn và sau đó mới gặp được một con người chân chính, người bạn đồng nghiệp 10 năm trước đã tạm biệt bục giảng đi chiến đấu, trở về...
Có một truyện đã hé lộ một khuynh hướng ở ở một số truyện của Phượng Vũ, sau này, đó là phê phán những cái xấu. Đó là Tầm gửi, một truyện viết về một anh cán sự bất tài, dựa vào thế thủ trưởng để lũng đoạn cơ quan, mưu lợi cho cá nhân.
Tác phẩm lớn nhất của Phượng Vũ là Đất Mường (Hoa hậu xứ Mường) 1040 trang ra đời 1986 với tên Đất Mường sau được in lại với tên Hoa hậu xứ Mường, đã được chuyển thể thành kịch (Doãn Hoàng Giang đạo diễn), truyện kể về những sự kiện và nhân vật ở Đất mường sau những ngày Cách mạng tháng 8/1945. Tác giả đã xây dựng được một số nhân vật sinh động có nội tâm và tính cách riêng về bọn quan lang với những luật lệ hà khắc đè nặng lên cuộc sống và tâm hồn người nông dân miền núi. Bản chất bóc lột, ăn bám, phản động và sa đọa của chúng báo hiệu sự sụp đổ tất yếu của chế độ nhà lang (Tác giả cũng thể hiện được phần nào sự phân hóa trong nội bộ chúng sau cách mạng tháng 8 nhưng chưa soi sáng rõ điều này).
Tác phẩm đã phản ánh được sự biến chuyển cách mạng trong các tầng lớp quần chúng cơ bản trong và sau cách mạng tháng 8. Những cán bộ Việt Minh, cán bộ Đảng thâm nhập vào quần chúng nhân dân, những người nông dân Mường đã trưởng thành, trở thành cốt cán của phong trào, có khả năng đương đầu với bọn quan lang âm mưu khôi phục lại "uy quyền" của chúng ở nơi đây. Đó là những Lễ (sau bị chúng ám hại, những Khện, sau là một trong những nhân vật chính của Vương quốc ảo ảnh (tác phẩm tiếp theo Hoa hậu xứ
108
Mường), hoặc Nậu (một cô gái đẹp đã từng bị quan lang bắt làm "nô lệ tình dục" (nói như từ của ngày nay).
Tác phẩm cũng có những trang khá đạt về phong cảnh thiên nhiên, phong tục tập quán của dân tộc Mường. Tuy nhiên tác giả chưa chú ý đúng mức thể hiện truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân các dân tộc trong quá khứ từ cuối thế kỷ 13 đến thời kỳ tiền khởi nghĩa (trước 8/1945)
Đánh giá những cống hiến của Phượng Vũ cho nền văn học, ngoài nội dung và nghệ thuật của tác phẩm của ông - tiêu chí cơ bản nhất - cần xem xét thêm tác dụng, ảnh hưởng của nó ở thời điểm nó ra đời.
Thứ nữa, cần phải xem xét cả công lao của Phượng Vũ đối với nền văn học của vùng Hà Đông, Hà Tây, Hà Sơn Bình (xưa gọi là Xứ Đoài) trong 4 thập kỷ 60, 70, 80 và 90 của thế kỷ 20. Phượng Vũ là người đã ghi được dấu ấn đậm nét đầu tiên trong nền văn học viết về cuộc sống mới, con người mới những năm 60, 70 và cũng là người đầu tiên sáng tạo tác phẩm có dung lượng lớn (trên 1300 trang) về vùng dân tộc Mường Hòa Bình. Phượng Vũ cũng là người lãnh đạo, thúc đẩy và nêu gương cho cả phong trào sáng tác của một vùng văn học. Phượng Vũ là con chim đầu đàn của vùng văn học ấy.
109
110