giẢi quyẾt nỢ xẤu cÓ tÍnh ... - tài nguyên...

17
143 GII QUYT NXU CÓ TÍNH HTHNG TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU NN KINH TVIT NAM TS. Đinh Tuấn Minh Chuyên gia kinh tế 1. Dn nhp Nxu ca hthng tín dng Vit Nam vn tiếp tc du hiệu tăng lên. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nxu (nhóm 3, 4, 5) chung ca hthng ngân hàng da trên báo cáo ca các tchc tín dng (TCTD) 6 tháng đầu năm 2012 đã tăng mnh lên mc 4,6% tmc 3,72% của năm 2011. Tuy nhiên, nếu dựa trên đánh giá ca NHNN thì nxu vào cuối quý II năm 2012 ước khong 8,6%. Nxu ca hthng các tchc tín dụng tăng cao như hiện nay mt phn do nguyên nhân chquan tphía các TCTD nhưng có nguyên nhân khách quan tchính sách tin ttrong những năm vừa qua, bao gm chính sách tin tni lỏng để kích thích tăng trưởng, chính sách chuy ển đổi quá nhanh các ngân hàng nông thôn thành ngân hàng thành th, và sy ếu kém ca công tác giám sát các quan hshu chng chéo gia các tchc tín dng vi nhau cũng như giữa khu vc tín dng và khu vc doanh nghiệp (Đinh Tuấn Minh, 2012). Nhng nguyên nhân trên khiến cho nxu ca hthng tín dng Vit Nam có những đặc thù riêng. Thnht, nxu quá hn ca các tchc tín dụng không đồng đều. Cth, nxu ti các qutài chính là r t ln. Tính trung bình, các NHTM nhà nước có tlnxu, nquá hạn cao hơn đáng kể so vi nhiu NHTM cphn. Mt scác NHTM cphn nhcó nxu nxu, nquá hn mc rt cao; đây là những tchc thuc din bt buc phải tái cơ cấu, sáp nhập vào ngân hàng khác theo đề án tái cơ cấu hthng tín dng ca NHNN cui 2011. Thhai, nxu ca Vit Nam gn khá cht chvi khu vc bất động sản. Dư ncho khu vc này vay chiếm dưới 16% nhưng các tài sản thế chp bằng BĐS cho các khon vay khác nhau chiếm ti 60-80% tng giá trtài sn thế chấp. Đặc điểm này khiến cho công tác xlý nxu sgp nhiu trngi. Nxu mc cao ca hthng tín dng khiến cho dòng chy tín dng ca nn kinh tế btc nghẽn. Trong 8 tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng tín dng ch1,4% trong khi tốc độ huy động lên ti gn 10%. Trong thời gian qua, tuy NHNN đã gii quy ết tt vấn đề thanh khon ca hthng, tiến hành vic sáp nhp mt scác NHTM yếu kém với nhau, nhưng các hoạt động gii quy ết nxu vẫn chưa có những tiến trin rõ rt.

Upload: others

Post on 27-Oct-2019

5 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

143

GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH HỆ THỐNG

TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

TS. Đinh Tuấn Minh

Chuyên gia kinh tế

1. Dẫn nhập

Nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam vẫn tiếp tục dấu hiệu tăng lên. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nợ xấu (nhóm 3, 4, 5) chung của hệ thống ngân hàng dựa trên báo cáo của các tổ chức tín dụng (TCTD) 6 tháng đầu năm 2012 đã tăng mạnh lên mức 4,6% từ mức 3,72% của năm 2011. Tuy nhiên, nếu dựa trên đánh giá của NHNN thì nợ xấu vào cuối quý II năm 2012 ước khoảng 8,6%.

Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng tăng cao như hiện nay một phần do nguyên nhân chủ quan từ phía các TCTD nhưng có nguyên nhân khách quan từ chính sách tiền tệ trong những năm vừa qua, bao gồm chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích tăng trưởng, chính sách chuyển đổi quá nhanh các ngân hàng nông thôn thành ngân hàng thành thị, và sự yếu kém của công tác giám sát các quan hệ sở hữu chồng chéo giữa các tổ chức tín dụng với nhau cũng như giữa khu vực tín dụng và khu vực doanh nghiệp (Đinh Tuấn Minh, 2012).

Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam có những đặc thù riêng. Thứ nhất, nợ xấu quá hạn của các tổ chức tín dụng không đồng đều. Cụ thể, nợ xấu tại các quỹ tài chính là rất lớn. Tính trung bình, các NHTM nhà nước có tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn cao hơn đáng kể so với nhiều NHTM cổ phần. Một số các NHTM cổ phần nhỏ có nợ xấu nợ xấu, nợ quá hạn ở mức rất cao; đây là những tổ chức thuộc diện bắt buộc phải tái cơ cấu, sáp nhập vào ngân hàng khác theo đề án tái cơ cấu hệ thống tín dụng của NHNN cuối 2011.

Thứ hai, nợ xấu của Việt Nam gắn khá chặt chẽ với khu vực bất động sản. Dư nợ cho khu vực này vay chiếm dưới 16% nhưng các tài sản thế chấp bằng BĐS cho các khoản vay khác nhau chiếm tới 60-80% tổng giá trị tài sản thế chấp. Đặc điểm này khiến cho công tác xử lý nợ xấu sẽ gặp nhiều trở ngại.

Nợ xấu ở mức cao của hệ thống tín dụng khiến cho dòng chảy tín dụng của nền kinh tế bị tắc nghẽn. Trong 8 tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ là 1,4% trong khi tốc độ huy động lên tới gần 10%. Trong thời gian qua, tuy NHNN đã giải quyết tốt vấn đề thanh khoản của hệ thống, tiến hành việc sáp nhập một số các NHTM yếu kém với nhau, nhưng các hoạt động giải quyết nợ xấu vẫn chưa có những tiến triển rõ rệt.

Page 2: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

144

Hiện tại các nhà làm chính sách ở Việt Nam đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan trong việc giải quyết nợ xấu của hệ thống. Một bên là để các NHTM tự giải quyết, và có thể dẫn đến phá sản, dẫn đến nguy cơ bất ổn hệ thống tài chính. Một bên là tiếp tục bảo trợ (bail-out) những ngân hàng này, khiến cho chi phí từ ngân sách tăng cao và kèm theo cả hệ lụy về rủi ro đạo đức (moral hazard).

Từ kinh nghiệm của các quốc gia trải qua khủng hoảng tài chính trên thế giới, nghiên cứu này cho rằng khi khi các ngân hàng đối mặt với nợ xấu tăng cao mang tính hệ thống thì việc xử lý nợ xấu trọn gói cho cả hệ thống ngân hàng là việc cần thiết và phải được tiến hành với quyết tâm cao của chính phủ. Việc hình thành một định chế tài chính độc lập tầm quốc gia, có sự phối hợp chặt chẽ từ phía NHNN và Bộ Tài chính, để tiến hành công việc huy động vốn cũng như tiến hành mua bán nợ xấu đóng vai trò then chốt. Tuy nhiên, việc tiến hành xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thông qua một định chế xử lý nợ xấu quốc gia cần tuân thủ một số nguyên tắc:

Cần có quyền lực quyết tập trung để quá trình tái cơ cấu được diễn ra nhanh chóng và toàn diện.

Cần có sự chia sẻ chi phí giữa ngân sách nhà nước, các ngân hàng thương mại, và xã hội.

Các cổ đông lớn (những người chủ sở hữu ngân hàng) và những khách hàng có nợ xấu sẽ phải gánh chịu chi phí lớn hơn cả. Điều kiện này cần được đưa ra để hạn chế rủi ro đạo đức.

Nghiên cứu được tổ chức như sau. Phần thứ 2 mô tả về tình hình và đặc thù nợ xấu của Việt Nam. Phần 3 xem xét lý thuyết và thực tiễn thế giới về giải quyết nợ xấu có tình hệ thống. Phần 4 sẽ phân tích các phương án giải quyết nợ xấu của Việt Nam để từ đó lựa chọn ra chiến lược phù hợp nhất. Cuối cùng sẽ là phần tổng kết các kết quả nghiên cứu.

2. Tình hình và đặc thù nợ xấu của Việt nam

Nợ xấu của toàn hệ thống tiếp tục tăng trong năm 2012 Cho tới nay, nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam cụ thể là bao nhiêu vẫn

chưa có con số chính xác. Theo NHNN, nợ xấu (nhóm 3,4,5) chung của hệ thống ngân hàng dựa trên báo cáo của các TCTD 6 tháng đầu năm 2012 đã tăng mạnh lên mức 4,6% từ mức 3,72% của năm 2011.34 Nếu dựa theo kết quả giám sát từ xa của NHNN 34 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN (bổ sung, sửa đổi bởi 18/2007/QĐ-NHNN) quy định việc phân nhóm các khoản tín dụng của các tổ chức tín dụng thành 5 nhóm như sau: - Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán. Nợ Nhóm 1 phải trích lập dự phòng 0%; - Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Nợ Nhóm 2 phải trích lập dự phòng 5%; - Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày. Nợ Nhóm 3 phải trích lập dự phòng 20%;

Page 3: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

145

thì nợ xấu ước khoảng 8,6% tính đến cuối quí I.2012. Tuy nhiên, trong phiên chất vấn tại kỳ họp Quốc hội hồi tháng 6.2012, Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại xác nhận nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam ước tính khoảng 10%.

Nợ quá hạn (nhóm 2) của hầu hết các ngân hàng tăng mạnh vào cuối 2011. Dư nợ quá hạn theo báo cáo của các TCTD tại thời điểm 31.12.2011 chiếm 11,09 % tổng dư nợ cho vay và tăng 3,32% so với năm 2010. Chắc chắn một phần nợ quá hạn tại thời điểm cuối năm 2011 sẽ chuyển thành nợ xấu trong năm 2012.

Điều đáng lo là nợ quá hạn của nhóm NHTM nhà nước ở mức tương đối cao 13,36% cuối 2011, tăng đáng kể từ mức 10,43% năm 2010. Tính đến hết 2011, nợ quá hạn của nhóm này chiếm 61% tổng nợ quá hạn toàn thị trường (trong khi nhóm này chỉ chiếm 50,64% thị phần tín dụng).

Bảng 1: Nợ quá hạn và nợ xấu toàn hệ thống, 2010-30.06.2012

2010 2011 31.05.2012

Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ

NHTM NN 2,16% 10,43% 2,95% 13,36% -- --

NHTM CP 1,66% 3,53% 2,30% 6,43% -- --

Toàn ngành 2,21% 7,69% 3,10% 10,47% 4,47% (8,6%)

--

(*) Số liệu về nợ xấu toàn hệ thống trong ngoặc là theo đánh giá của NHNN đến 31.03.2012 Nguồn: Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 và công bố của NHNN Các ngân hàng bắt đầu phải tăng trích lập dự phòng khiến lợi nhuận bị suy

giảm Mặc dù nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng tăng cao, nhưng tỷ lệ trích lập dự

phòng rủi ro nợ xấu lại có xu hướng giảm (Đinh Tuấn Minh, 2012).

- Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày. Nợ Nhóm 4 phải trích lập dự phòng 50%; và - Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Nợ Nhóm 5 phải trích lập dự phòng 100%. Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, tổ chức tín dụng “có đủ khả năng và điều kiện” vẫn có quyền áp dụng phương pháp “định tính”, tức chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn (hoặc thấp hơn) tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm (hoặc tốt hơn) (Điều 7, QĐ 493). Thường thì các TCTD áp dụng áp dụng phương pháp “định tính” này theo chiều hướng chuyển các khoản nợ ở nhóm cao sang nhóm thấp để giảm trích lập dự phòng.

Page 4: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

146

Tuy nhiên, bắt đầu từ quý II.2012, các ngân hàng đã bắt đầu phải tăng mạnh trích lập dự phòng, và chính vì điều này nên lợi nhuận của một số ngân hàng đã bị ảnh hưởng đáng kể. Chẳng hạn, Vietcombank đã phải trích lập 1.088 tỷ đồng khiến lợi nhuận quý II chỉ còn 1.124 tỷ động, giảm 10% so với quý II.2011. Tương tự, Vietinbank trích lập dự phòng 1.453 tỷ đồng nên lãi sau thuế quý II.2012 chỉ còn 5645 tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm trước. Eximbank và ACB cũng phải trích lập dự phòng lớn khiến cho lợi nhuận bị suy giảm đáng kể.

Nợ xấu khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn nhưng rất khó giải quyết bằng giải pháp thị trường

Theo Đề án tái cấu trúc khu vực DNNN của Bộ Tài chính năm 2012 thì dư nợ của 80/96 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đến cuối 2010 là 872.860 tỉ đồng, bằng 1,6 lần vốn chủ sở hữu. Tính đến tháng 9/2011 dư nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp nhà nước lớn đạt trên 415.000 tỷ đồng, tương đương gần 17% tổng dự nợ tín dụng tại các ngân hàng. Trong đó, nợ vay của 12 tập đoàn kinh tế nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về những “tên tuổi” như Tập đoàn Dầu khí (PVN - 72.300 tỷ), Điện lực (EVN - 62.800 tỷ đồng), Than & khoáng sản (Vinacomin - 19.600 tỷ đồng). Với những con số như trên thì nợ xấu của khối tập đoàn, tổng công ty trong hệ thống ngân hàng thương mại sẽ chiếm tới 30-35% tổng dư nợ tín dụng của khối này.

Một đặc điểm nữa về nợ xấu của khu vực DNNN cần lưu ý là khu vực này được vay ưu đãi từ Ngân hàng phát triển (VDB) và tỷ lệ nợ xấu ở VDB cũng rất lớn. Nguồn vốn của Ngân hàng phát triển đến từ phát hành giấy tờ có giá và nhận vốn ODA cho vay lại chiếm 72,4% trong năm 2009. Một phần lớn nguồn vốn này sau đó được VDB cho các DNNN vay ưu đãi để đầu tư.35 Theo ông Nguyễn Quang Dũng Tổng giám đốc Ngân hàng Phát triển (VDB) thì “Nợ của các tập đoàn, tổng công ty v.v… chiếm độ khoảng 75-80% tổng dư nợ của Ngân hàng Phát triển v.v… Tình hình như hiện nay, có rất nhiều đồng chí lãnh đạo tập đoàn, tổng công ty có văn bản gửi cho tôi đề nghị lùi nợ, giãn nợ” (Vneconomy, 13/9/2011).

Nợ quá hạn và khoanh nợ của VDB đối với cho vay trung và dài hạn tín dụng đầu tư có thời điểm lên tới 8,9% vào năm 2007 nhưng đã giảm xuống còn 3,75% vào năm 2009 (báo cáo tài chính các năm của VDB). Theo báo cáo Kiểm toán nhà nước về tình hình hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính thì tỷ lệ nợ xấu của VDB ở mức 12,05%. Với tình hình nợ xấu chung của toàn hệ thống năm 2011 cao hơn năm 2010 và năm 2012 lại cao hơn 2011 thì tỷ lệ nợ xấu của VDB hiện tại có thể cao hơn rất nhiều con số trên. Và rõ ràng đó đều là nợ xấu của khu vực DNNN. Bởi nợ xấu tại 35 Từ thông tin báo chí chúng ta được biết riêng trong năm 2011, Vinashin vay ưu đãi Ngân hàng phát triển gần 300 tỷ lãi suất bằng 0 để hỗ trợ trả lương và phụ cấp; EVN được vay VDB hơn 5000 tỷ đồng. Còn trong các năm trước đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng Bành vay 290 tỷ đồng v.v.

Page 5: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

147

VDB không được tính riêng, ngoài số nợ xấu tại hệ thống các tổ chức tín dụng, nên nếu tính gộp cả nợ tại VDB thì con số nợ xấu tại khu vực DNNN sẽ còn cao hơn con số 200 nghìn tỷ đồng.

Nguyên nhân chính khiến cho khu vực DNNN có nợ xấu nhiều là vì khu vực này được hưởng những ưu đãi đặc biệt về tín dụng trong việc vay tín chấp. Các DNNN có khả năng và cơ hội sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn các doanh nghiệp khu vực khác. Tuy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của DNNN có xu hướng giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn ở mức 2,52 lần vào năm 2009, cao hơn nhiều so với mức 1,78 lần của khu vực tư nhân và 1,39 lần của khu vực vốn FDI. Các DNNN trung ương thậm chí có tỷ lệ này cao hơn, lên tới 3,53 lần. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều của khu vực DNNN cũng được phản ánh trong Đề án tái cơ cấu khu vực DNNN của Bộ Tài chính (2012). “Có đến 30/85 tập đoàn, tổng công ty tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu trên 3 lần, đặc biệt có 07 tập đoàn, tổng công ty có tỷ lệ trên 10 lần (như TCT Xây dựng công nghiệp; TCT Xây dựng CTGT 1; TCT Xây dựng CTGT 5; TCT Xây dựng CTGT 8; TCT Xăng dầu quân đội; TCT Thành An; TCT Phát triển đường cao tốc)”.

Nợ xấu tại khu vực DNNN rất khó giải quyết. Khác với các DN tư nhân, vốn có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho các doanh nghiệp khác để có tiền trả nợ ngân hàng nhằm tránh phá sản, các DNNN rất khó có thể bán tài sản hoặc cổ phần nhà nước theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy thoái. Vì vậy, các khoản nợ mà các DNNN vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn v.v…

Các hình thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ khoanh nợ (chẳng hạn như việc khoanh nợ cho Vinashin tại các NHTM) thì cuối cùng Chính phủ vẫn phải bỏ một phần tiền ra để bù đắp; hình thức chuyển nợ (như của Vinashin cho Vinalines và PVN) có thể khiến các DNNN khác lâm vào khó khăn và cuối cùng gánh nặng lại đè lên vai Nhà nước; hình thức bổ sung vốn (như tăng vốn điều lệ cho Vinashin từ 9.000 tỷ lên 14.655 tỷ đồng) thì đó vẫn là tiền từ ngân sách nhà nước. Khoản vay 45 triệu USD từ ngân hàng ANZ cho dự án Xi măng Đồng Bành do Tổng công ty Cơ khí xây dựng (COMA) hay Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp (MIE) đầu tư cũng được Bộ Tài chính đứng ra bảo lãnh khi dự án này rơi vào tình trạng thua lỗ không trả được nợ.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức rất cao, ở mức 54,8% GDP cuối năm 2011, và nguy cơ thâm hụt ngân sách trong năm 2012 tăng trở lại do nguồn thu giảm trong khi nguồn thu tăng, thì khả năng hỗ trợ của ngân sách nhà nước để giảm nợ của khu vực DNNN sẽ vô cùng khó khăn. Điều này hàm ý rằng việc giải quyết nợ xấu của khu vực DNNN sẽ thực sự là một bài toán nan giải đối với Việt Nam trừ phi có những thay đổi quyết liệt về chính sách liên quan đến việc mua bán tài sản tại khu vực này.

Nợ xấu do đầu tư vào bất động sản và cơ sở hạ tầng

Page 6: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

148

Thị trường bất động sản Việt Nam tiếp tục chứng kiến một năm giao dịch ảm đạm với mức giá tại hầu hết các phân khúc thị trường đều giảm. Nhiều dự án căn hộ tiếp tục giảm giá từ 5%-30% so với cuối 2011.

Việc thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm có nguyên nhân từ cơ cấu phân bổ nguồn vốn không hợp lý của các ngân hàng trong các năm trước. Khi NHNN duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ, các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư mạnh phát triển các dự án trong lĩnh vực bất động sản, khu công nghiệp… Người dân cũng sẵn sàng vay tiền của ngân hàng để đầu tư bất động sản.

Việc phải dựa quá nhiều vào tín dụng ngân hàng để phát triển cơ sở hạ tầng trong quá khứ khiến cho thị trường BĐS bị ảnh hưởng mạnh khi tín dụng thắt chặt từ năm 2011. Do tăng trưởng kinh tế chậm lại và mặt bằng giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu điều chỉnh tăng, tiết kiệm của người dân bị ảnh hưởng. Vì việc tiêu thụ bất động sản hiện tại phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tiền tiệt kiệm nên khi nguồn tiết kiệm bị ảnh hưởng, sự phục hồi của khu vực này sẽ tiếp tục chậm chạp.

Vấn đề cần lưu ý là bất động sản cũng là nguồn thế chấp tài sản lớn nhất của các doanh nghiệp cũng như người dân trong việc vay vốn của ngân hàng. Theo những tính toán gần đây nhất của NHNN thì tỷ lệ thế chấp bằng BĐS chiếm khoảng 60% tổng tài sản đảm bảo của các ngân hàng.36 Khi thị trường BĐS suy giảm, những khoản nợ xấu, nợ quá hạn được thế chấp bởi bất động sản sẽ rất khó thanh lý. Việc thanh lý mạnh các tài sản thế chấp sẽ khiến cho giá BĐS bị suy giảm thêm và làm trầm trọng thêm tình hình nợ xấu của nền kinh tế.

Một phần nợ xấu do tăng vốn ảo của các tổ chức tín dụng có quan hệ chồng chéo với nhau

Trước nhu cầu huy động vốn tăng cao để đáp ứng đòi hỏi tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế, trong giai đoạn 2005-2007, NHNN đã chấp nhận cho phép 13 ngân hàng được chuyển đổi từ mô hình nông thôn lên thành thị. Các ngân hàng này trước khi chuyển đổi, vốn điều lệ chỉ có khoảng vài chục đến vài trăm tỷ đồng. Tuy nhiên, theo yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào năm 2011, các NHTM này đã buộc phải tăng vốn chủ sở hữu lên 10-20 lần chỉ trong vòng 5 năm (xem Đinh Tuấn Minh, 2012).

Vì huy động vốn trong giai đoạn 2008-2011 rất khó khăn nên để đảm bảo được yêu cầu của NHNN các ngân hàng nhỏ đã phải dùng nhiều chiêu thức để tăng vốn điều lệ. Chẳng hạn như ngân hàng X mua trái phiếu hoặc kỳ phiếu (hợp đồng mua bán có kỳ hạn) của một công ty A và sau đó công ty A, qua nhiều kênh khác nhau, dùng tiền bán trái phiếu đó góp vốn vào ngân hàng X. Khi đến thời điểm đáo hạn trái phiếu, 36 Trả lời của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình ngày 11.4.2012 tại cuộc họp báo về những điều chỉnh chính sách, trọng tâm là lãi suất và cơ chế tín dụng mới. Xem tin tại: http://vneconomy.vn/20120411122816120P0C6/thong-doc-da-mo-dan-tin-dung-bat-dong-san.htm

Page 7: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

149

công ty A không có khả năng trả tiền cho ngân hàng và khoản tiền mua trái phiếu đó trở thành nợ xấu. Như ta thấy, thực chất thì khoản nợ xấu này hoàn toàn ảo vì nó không được dùng vào cho một dự án kinh doanh cụ thể nào. Nó chỉ là khoản tiền lòng vòng để tăng vốn điều lệ cho chính ngân hàng đó.

Để có thể hợp pháp hoá được cách tăng vốn điều lệ kiểu này thì giữa ngân hàng và doanh nghiệp buộc phải có quan hệ sở hữu chéo. Các ngân hàng thường là “sân sau” của các tập đoàn, cả nhà nước lẫn tư nhân. Lượng vốn chủ sở hữu tăng lớn như vậy buộc phải dựa vào vốn đóng góp của chính các doanh nghiệp đứng đằng sau ngân hàng này. Một vấn đề khác nảy sinh khi tốc độ tăng vốn chủ sở hữu quá nhanh của nhóm ngân hàng này là chính các tập đoàn đằng sau các ngân hàng này cũng phải vay vốn từ các ngân hàng khác để đáp ứng yêu cầu. Hệ quả là vốn vay của các tập đoàn bị sử dụng sai mục đích.

Để vốn ảo trở thành vốn thật thì các ngân hàng thuộc nhóm này buộc phải phát triển với tốc độ cực nhanh, tức phải tăng trưởng tài sản bằng mọi giá để tương ứng với lượng vốn chủ sở hữu tăng thêm. Số liệu của 10 ngân hàng chuyển đổi từ nông thôn ra thành thị cho thấy tổng tài sản của nhóm này đã tăng tới 343,6%. Lưu ý rằng, tốc độ tăng trưởng tín dụng của nhóm này chỉ tăng 285,6%. Điều này cho thấy các ngân hàng này đã đầu tư khá nhiều vào “chứng khoán kinh doanh” hoặc “chứng khoán đầu tư”, vốn là các loại tài sản có tính rủi ro cao.

Do trình độ quản trị của các ngân hàng này không theo kịp với đà tăng tài sản nên dẫn đến việc chất lượng tín dụng của các ngân hàng này kém. Ngoài ra, do việc sở hữu chồng chéo giữa khu vực doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng nợ xấu, nợ quá hạn trở thành dắt dây trong toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam. Vì lẽ đó, việc khoanh lại nhóm các ngân hàng yếu kém để tái cấu trúc không dễ dàng chút nào.

Bảng 3: Một số chỉ số của 10 ngân hàng chuyển đổi từ nông thôn ra thành thị

2008 2011 Thay đổi

Tổng vốn chủ sở hữu (tỷ đồng) 9.787 32.754 234,7%

Tổng huy động từ khách hàng (tỷ đồng)

35.852 153.159 327,2%

Tổng tài sản (tỷ đồng) 67.491 299.410 343,6%

Tổng dư nợ (tỷ đồng) 31.549 121.652 285,6%

Tỷ lệ tổng dư nợ trên tổng huy động 88% 79,4%

Tỷ lệ tổng dư nợ trên tổng tài sản 46,7% 40,6%

10 ngân hàng chuyển đổi là: OceanBank, SHB, NaviBank, GPBank, KienlongBank, TrustBank, WesternBank, DaiABank, PGBank, MekongDevBank.

Page 8: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

150

Nguồn: Tổng hợp từ CafeF (http://cafef.vn/20120911071518412CA34/ngan-hang-nong-thon-voi-va-ra-do-thi-mot-nguon-con-cua-bung-phat-no-xau.chn)

3. Các phương án giải quyết nợ xấu trên thế giới: lý thuyết và thực tiễn

3.1 Cơ sở lý thuyết về giải quyết nợ xấu hệ thống Khi nợ xấu xảy ra có tính hệ thống thì có ba hình thức giải quyết thông dụng

sau: (i) giải pháp thị trường tự do: tự chịu trách nhiệm (self-reliance), (ii) chuyển nợ xấu từ các NHTM sang một công ty quản lý tài sản đặc biệt (AMC), và (ii) xoá nợ (Mitchell, 2001). Gần đây, giải pháp thu hẹp tỷ lệ sở hữu (bail-in) bắt buộc đối với các cổ đông hiện hữu cũng được đưa ra để giải quyết nợ xấu để tránh tình trạng rủi ro đạo đức một khi các ngân hàng trở thành quá lớn để sụp đổ (Zhou et al., 2012).

Giải pháp tự giải quyết (self-reliance): giải pháp này hàm ý các ngân hàng sẽ phải tự xử lý các khoản nợ xấu của mình để đạt được các chuẩn mực mà NHTW đưa ra. Các NHTM sẽ phải dùng các khoản dự phòng và huy động thêm vốn mới để bù đắp lại lượng vốn bị mất khi nợ xấu được ghi nhận là mất vốn. Các NHTM cũng phải tự thỏa thuận trong việc mua bán, xử lý nợ xấu để thu hồi vốn.

NHTW thường sẽ ấn định một khoảng thời gian nhất định để các NHTM tự xử lý. Khi không tự xử lý được, các NHTM có thể bị phá sản.

Giải pháp SAMC: việc hình thành công ty đặc biệt ở quy mô quốc gia để mua bán nợ xấu đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Thụy Điển, Hàn Quốc, Thái Lan, v.v… Mục đích của giải pháp này là tạo ra công cụ để giải quyết nhanh chóng nợ xấu tại các NHTM. SAMC sẽ tiến hành mua lại các khoản nợ xấu từ các NHTM với những mức chiết khấu khác nhau tùy vào đánh giá về chất lượng của các khoản nợ đó. Khi quá trình này được khởi động, nợ xấu tại các NHTM sẽ giảm đi nhanh chóng. Tất nhiên, các NHTM sẽ phải ghi nhận mất vốn một phần vì khi tài sản nợ xấu được chuyển sang cho SAMC, các NHTM chỉ thu được tiền về ở mức giá đã bị chiết khấu.

SAMC sau khi nhận các khoản nợ xấu của các NHTM sẽ tiến hành phân loại và thực hiện các hình thức bán nợ xấu cho các đối tác khác nhau trong nền kinh tế.

Kinh nghiệm cho thấy SAMC không nên dấn sâu vào các hoạt động tái cấu trúc doanh nghiệp mà chỉ nên dừng lại ở việc khâu mua nợ xấu và bán nợ xấu (Klingebiel, 2000).

Giải pháp xoá nợ: giải pháp xóa nợ cho doanh nghiệp thường được đề xuất thực hiện khi các khoản nợ là giữa các NHTM nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Vì cả hai đối tượng này đều thuộc sở hữu của Nhà nước nên việc xóa nợ sẽ không làm thay đổi giá trị tài sản của Nhà nước.

Vấn đề chính của giải pháp xóa nợ là nó ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước đối với thị trường và gây ra rủi ro về ngân sách mềm trong tương lai. Khi DNNN được xóa nợ thì đương nhiên NHTM nhà nước sẽ bị mất vốn. Và để hoạt động thì Nhà nước

Page 9: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

151

buộc phải bơm vốn (recapitalization) cho ngân hàng tương đương với lượng vốn đã bị mất đi do xóa nợ.

3.2 Kinh nghiệm thế giới Hiện tượng một hệ thống tín dụng lâm vào khủng khoảng do nợ xấu không phải

là một cái gì đó cá biệt. Nó xảy ra ở nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu, bao gồm cả các nước phát triển và đang phát triển, trong những giai đoạn khác nhau. Các nghiên cứu về những cuộc khủng hoảng tài chính này cũng như kinh nghiệm giải quyết hậu quả đã mang lại những bài học quý báu cho những quốc gia sau này trong việc ngăn ngừa cũng như giải quyết khủng hoảng kinh tế-tài chính do nợ xấu. Dưới đây là một số bài học của các quốc gia.

3.2.1 Kinh nghiệm chung

Tiến hành càng lâu, càng manh mún thì càng tốn nhiều chi phí

Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là một công việc tốn kém đối với nền kinh tế. Các nghiên cứu gần đây cho thấy mức độ tốn kém phụ thuộc nhiều vào tiến độ tái cơ cấu hệ thống. Quá trình tái cơ cấu hệ thống càng chậm chạp thì chi phí tái cơ cấu càng cao. Các quốc gia tiến hành tái cơ cấu nhanh và triệt để thì chi phí chỉ mất từ 0,4% - 15% GDP; các quốc gia tiến hành tái cơ cấu ở mức độ vừa phải thì chi phí mất từ 6%-33% GDP; còn với các quốc gia tiến hành chậm chạp, manh mún thì chi phí sẽ mất từ 15%-45% GDP (Dziobek và Pazarasioglu, 1998).

Bảng 4: Các kết quả và chi phí liên quan đến tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (Quá trình tái cơ cấu của quốc gia được tiến hành từ năm thể hiện bên cạnh; chi phí là các khoản chi ngân sách được tính cộng dồn theo phần trăm GDP, không bao gồm các khoản thu hồi chi phí của Chính phủ)

Tiến độ nhanh và triệt để

Chi phí

Tiến độ vừa phải

Chi phí Tiến độ chậm Chi phí

Cote d’voire (1991)

13,0 Chi lê (1983) 33,0 Kuwait (1992) 45,0

Peru(1991) 0,4 Phần Lan (1991)

9,9 Mauritania (1993)

15,0

Phillippines (1984)

4,0 Ghana (1989) 6,0 Tanzania (1992) 14,0

Tây Ban Nha (1980)

15,0 Hungary (1993) 12,2

Thụy Điển (1991) 4,3 Ba Lan (1993) 5,7

Nguồn: Bảng 1, Dziobek và Pazarasioglu (1998)

Page 10: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

152

Nên hình thành một cơ quan độc lập để thực hiện tái cơ cấu

Để tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cũng như xử lý nợ xấu hệ thống, kinh nghiệm trên thế giới cho thấy cần phải có một cơ quan có quyền lực để tiến hành nhanh chóng, có khả năng giám sát các chính sách liên quan đến tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, vì thời gian tiền hành quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu thường mất vài năm và gắn với những phí tổn đáng kể từ ngân sách.

Cơ quan này nên là một tổ chức độc lập khỏi NHTW. Điều này là quan trọng để đảm bảo rằng các chính sách của NHTW gắn với các chính sách vĩ mô hơn là xử lý các vấn đề vi mô. NHTW khi đó sẽ không phải can dự trực tiếp vào các hoạt động của các NHTM vì chi phí tài chính trong quá trình tái cơ cấu có thể gây ra các xung đột với chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, NHTW cần đảm bảo khả năng thanh toán và thanh khoản của hệ thống trong suốt quá trình tái cơ cấu. NHTW chỉ nên cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn thay vì dài hạn.

Chia sẻ thua lỗ

Một nguyên tắc quan trọng của việc xử lý nợ xấu có tính hệ thống là cần phải thuyết phục được người dân rằng việc chia sẻ chi phí giữa ngân sách nhà nước, các tổ chức tín dụng, và xã hội là cần thiết và công bằng.

Thứ nhất, khi xảy ra nợ xấu có tính hệ thống thì nguyên nhân không hoàn toàn là do sự yếu kém trong quản trị của các NHTM có nợ xấu cao. Các chính sách tiền tệ và hệ thống giám sát lỏng lẻo là những nguyên nhân gián tiếp gây ra hiện trạng đó. Vì lẽ đó, việc xử lý nợ xấu cần chi phí từ ngân sách nhà nước.

Thứ hai, việc xử lý nợ xấu hệ thống nhằm đảm bảo rằng sự đổ vỡ hệ thống sẽ không xảy ra. Khi đó tiền gửi của người dân sẽ không bị mất. Vì đây là lợi ích của toàn bộ người dân nên người dân cần chấp nhận để Nhà nước đại diện gánh chịu một số chi phí trong quá trình xử lý nợ xấu này.

Xử lý các vấn đề liên quan đến sở hữu nhà nước

Nếu nợ xấu xảy ra nhiều tại khu vực DNNN thì việc đòi hỏi xử lý tập trung nợ xấu gắn với quá trình tái cơ cấu khu vực này là cần thiết. Vì các DNNN và các ngân hàng thương mại nhà nước đều thuộc sở hữu của Nhà nước nên khi xử lý nợ xấu giữa hai khu vực này với ngân sách nhà nước ít nhiều mang tính chuyển giao tài sản nội bộ. Sự giàn xếp lẫn nhau giữa của ba khu vực này thường có thể tiến hành nhanh chóng và hiệu quả hơn khi tương tác với khu vực doanh nghiệp tư nhân.

Đảm bảo môi trường vĩ mô ổn định

Để có thể yên tâm tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cũng như xử lý nợ xấu thì điều kiện rất quan trọng của môi trường kinh tế vĩ mô là lạm phát thấp và ổn định. Kinh nghiệm thế giới cho thấy tăng trưởng kinh tế thấp vẫn có thể đảm bảo được

Page 11: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

153

việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thành công. Nhưng nếu lạm phát tái diễn thì khả năng thành công lại là rất ít.

3.2.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Bối cảnh khủng khoảng kinh tế tài chính của Hàn Quốc giai đoạn 1997-1998 có nhiều nét khá tương đồng với Việt Nam hiện nay. Nền kinh tế nước này bộc lộ những nhược điểm cơ cấu nội tại khi phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế khu vực. Nguyên nhân sâu xa là do việc sử dụng tín dụng quá nhiều bởi các Cheabol trong nền kinh tế. Bản thân các Cheabol Hàn Quốc cũng được định hình bởi các mối quan hệ chằng chịt về sở hữu chéo giữa các định chế tài chính với khu vực doanh nghiệp sản xuất.

Trước bối cảnh nợ xấu tăng mạnh từ cuối năm 1997, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện những giải pháp mạnh mẽ để giải quyết nợ xấu của hệ thống tín dụng nhằm giúp nền kinh tế lấy lại đà tăng trưởng.

Đầu tiên, ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đánh giá lại nợ xấu của toàn bộ hệ thống. Trước khủng hoảng, chỉ các khoản nợ quá hạn trên sáu tháng mới bị xếp vào nhóm nợ xấu. Tuy nhiên, để có thể đánh giá đúng tình hình và đề ra các giải pháp hiệu quả, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã chấp nhận chuẩn mực thế giới và đưa các khoản nợ quá hạn trên ba tháng vào nhóm nợ xấu. Kết quả là nợ xấu của toàn bộ hệ thống tài chính Hàn Quốc vào tháng 3.1998 lên tới 118 ngàn tỉ won, bằng 18% tổng dư nợ (tương đương khoảng 27% GDP của Hàn Quốc năm 1998), trong đó có 42% là nợ quá hạn từ 3 – 6 tháng, và 58% là nợ quá hạn trên sáu tháng.

Để giải quyết lượng nợ xấu khổng lồ trên, vào 8.1997, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành một đạo luật cải tiến lại chức năng và nhiệm vụ của KAMCO, vốn là một công ty quản lý tài sản nợ thuộc Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB), để cho phép công ty này mua – bán nợ xấu của toàn bộ hệ thống tín dụng.

Cơ chế hình thành KAMCO

Bảng 5: Danh mục mua bán nợ xấu của KAMCO (tính đến 4.2003)

(nghìn tỷ won)

Lượng NPLs mua

vào Lượngf NPLs thanh

lý Lượng NPLs còn lại

Giá trị sổ sách

Giá trị mua bán thực

Giá trị sổ sách

Giá trị mua bán thực

Giá trị sổ sách Thị giá

Các khoản nợ thường 30,7 9,4 25,5 11,1 5,1 0,5

Các khoản nợ 41,4 17,1 36,6 17,0 4,8 1,4

Page 12: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

154

đặc biệt

Các khoản nợ của Daewoo 35,4 12,7 3,6 2,8 31,9 10,4

Các khoản nợ được “tái cấu trúc” (“Workout” Loans) 2,6 0,6 0,2 0,2 2,4 0,5

Tổng 110,1 39,8 65,9 31,1 44,2 12,8

Nguồn: KAMCO, trong Dong He (2004).

KAMCO được sở hữu bởi ba đơn vị: Bộ Tài chính và Kinh tế (đóng góp 42,8% vốn), KDB (28,6%), và các định chế tài chính khác (28,6%). Công ty này được vận hành bởi một uỷ ban gồm các đại diện đến từ Bộ Tài chính và Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Ngân sách, Uỷ ban Giám sát tài chính, hiệp hội các ngân hàng, công ty bảo hiểm tiền gửi KDB và ba chuyên gia độc lập (một luật sư, một chuyên gia kiểm toán, và một chuyên gia kinh tế).

KAMCO có nhiệm vụ điều hành một quỹ quản lý nợ xấu (NPA) có thời hạn hoạt động năm năm để giải quyết nợ xấu của toàn bộ hệ thống. Quỹ NPA này huy động tổng cộng 21,6 ngàn tỉ won, trong đó có 20,5 ngàn tỉ won đến từ việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, 500 tỉ won vay từ KDB và số còn lại, 600 tỉ won đến từ các định chế tài chính khác. Trái phiếu phát hành bởi NPA được thực hiện rải rác từ tháng 11.1997 – 12.1999.

Sau ba tháng kể từ ngày được giao chức năng nhiệm vụ mới, KAMCO bắt đầu mua khoản nợ xấu đầu tiên trị giá 4,4 ngàn tỉ won vào tháng 11.1997.

Tới tháng 4.2003, KAMCO đã mua tổng cộng 110,1 ngàn tỉ won nợ xấu theo giá sổ sách của toàn bộ hệ thống tín dụng với tổng số tiền 39,8 ngàn tỉ won và đồng thời bán được 65,9 ngàn tỉ won theo giá sổ sách với tổng số tiền thu về là 31,1 ngàn tỉ won. Số nợ xấu còn lại theo giá sổ sách là 44,2 ngàn tỉ won, với giá thị trường vào khoảng 12,8 ngàn tỉ won.

Quy trình mua bán nợ xấu

KAMCO mua các khoản nợ xấu của các tổ chức tài chính dựa trên các tiêu chí nhất định, bằng nhiều phương pháp khác nhau. Khi một tổ chức tài chính đề nghị bán nợ xấu cho KAMCO, KAMCO sẽ phân tích, định giá, và đàm phán với bên bán về giá bán cuối cùng.

Vào thời gian đầu, việc định giá nợ xấu của KAMCO được dựa trên khả năng mất vốn của các khoản nợ, theo các quy định về an toàn vốn. Vào giai đoạn sau,

Page 13: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

155

KAMCO tiến hành định giá nợ xấu dựa trên đặc điểm của từng khoản nợ. Tính trung bình, KAMCO trả 36% giá trị sổ sách các khoản nợ xấu công ty này mua (tức được chiết khấu 64%). Các khoản nợ xấu có thế chấp có giá trung bình bằng 67% giá trị sổ sách, còn các khoản nợ xấu không có thế chấp có giá trị trung bình khoảng 11% giá trị sổ sách.

Xét tổng thể thì KAMCO đã định giá cao hơn mức giá trung bình trong giai đoạn đầu. Sau đó, việc định giá sát với thị trường hơn, kích thích các công ty mua bán nợ xấu tư nhân tham gia mạnh hơn vào quá trình này.

Việc thanh lý các khoản nợ xấu được tiến hành dưới nhiều hình thức, từ đấu thầu quốc tế cho đến bán buôn, bán lẻ, và tiến hành tái cấu trúc doanh nghiệp. Việc thanh lý chủ yếu được thực hiện vào cuối năm 2008 khi tình hình kinh tế của Hàn Quốc có những cải thiện đáng kể.

Vai trò của KAMCO

Tính đến tháng 4.2003, quỹ NPA do KAMCO điều hành đã thu được khoản lãi lên tới 7,3 ngàn tỉ won. Tuy nhiên, nếu tính cả chi phí vận hành, ước khoảng 9 ngàn tỉ won thì hoạt động của quỹ này thực ra là lỗ. Đó là chưa tính khoản nợ xấu chưa thanh lý hết vào thời điểm quỹ NPA được đóng, mà KAMCO có trách nhiệm tiếp tục xử lý.

Tuy nhiên, xét về tổng thể hoạt động của KAMCO, thông qua quỹ NPA, nó được đánh giá là thành công. Những hành động quyết đoán của KAMCO trong giai đoạn đầu đã giúp cho các công ty mua bán nợ xấu tư nhân của Hàn Quốc mạnh dạn hơn tham gia vào thị trường. Nếu như năm 1997, toàn bộ giá trị các thương vụ mua bán nợ xấu tại Hàn Quốc đều do KAMCO tiến hành thì con số này giảm xuống còn 58,15% vào năm 1998; và 2,81% vào năm 2000. Chính nhờ có sự tham gia của các công ty mua bán nợ xấu tư nhân mà nợ xấu của Hàn Quốc đã giảm mạnh từ 17% tổng dư nợ vào tháng 3.1998 xuống còn 2,3% vào cuối năm 2002.

Page 14: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

156

Hình 1: Diễn biến nợ xấu của hệ thống tài chính Hàn Quốc, Q4.1997 – Q4.2004 (nghìn tỷ won)

Nguồn: Lim (2002), FSS Weekly Newsletters, và KAMCO, trong Dong He (2004).

4. Việt Nam nên làm gì để giải quyết nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng?

4.1 Xây dựng nguyên tắc xử lý nợ xấu có tính hệ thống

Chúng tôi cho rằng việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng của Việt Nam cần gắn liền với các quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, bao gồm tái cơ cấu khu vực DNNN, tái cơ cấu đầu tư công, và tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng. Cần làm điều này là vì các đặc thù của nợ xấu của Việt Nam như đã trình bày ở trên, đặc biệt là trên các khía cạnh nợ xấu của Việt Nam gắn với mô hình đầu tư theo chiều rộng và khu vực DNNN. Mục đích là để sao cho sau khi giải quyết xong nợ xấu trong giai đoạn hiện nay thì hiện tượng này sẽ không bị tái diễn trở lại.

Để có thể tiến hành xử lý nợ xấu hệ thống thành công thì Chính phủ và NHNN nên nhanh chóng đưa ra các nguyên tắc và văn bản pháp lý để thực hiện tương tự như đã làm vào cuối năm 2011 khi Thống đốc đưa ra thông điệp đảm bảo người gửi tiền không bị thiệt hại khi một ngân hàng nào đó bị giải thể hoặc sáp nhập vào ngân hàng khác trong quá trình tái cấu trúc. Đó là các thông điệp về:

+ Xử lý nợ xấu gắn với các chương trình tái cơ cấu nền kinh tế;

+ Xử lý nợ xấu theo phương án giảm thiểu tổn thất cho người đóng thuế;

+ Xử lý nợ xấu đảm bảo công bằng theo nghĩa những cổ đông lớn và các doanh nghiệp có nợ xấu sẽ phải gánh chịu phần tổn thất nhiều nhất;

+ Xử lý nợ xấu cần sự tham gia của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng nước ngoài nhưng cần đảm bảo rằng hệ thống tín dụng của quốc gia sau này sẽ nằm trong

Page 15: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

157

tầm kiểm soát của NHNN ngay cả khi các định chế tài chính nước ngoài ngày càng đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế.

4.2 Hình thành quỹ mua bán nợ xấu quốc gia

Như đã trình bày ở trên, về mặt lý thuyết một quốc gia có thể áp dụng các giải pháp xoá nợ, để các NHTM tự giải quyết, hay hình thành công ty mua bán nợ xấu đặc biệt tầm quốc gia để giải quyết nợ xấu tại các tổ chức tín dụng.

Về giải pháp xóa nợ, Việt Nam không nên dùng trong giai đoạn hiện nay vì tuy là các DNNN hoặc NHTM nhà nước nhưng các tổ chức kinh tế này đều đã vận hành theo luật doanh nghiệp, hoặc như là các công ty cổ phần hoặc như là các công ty TNHH. Việc tiến hành xóa nợ tại các DNNN sẽ dẫn đến những doanh nghiệp tư nhân có cổ phần trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua các công ty cổ phần của các DNNN) sẽ được hưởng lợi.

Về giải pháp tự giải quyết, do số lượng các NHTM cổ phần của Việt Nam khá nhiều và có quy mô nhỏ, nên NHNN cần khuyến khích các tổ chức tín dụng tự thu xếp nợ với các doanh nghiệp, đặc biệt là sử dụng các khoản dự phòng để giải quyết nợ xấu.

Với các khoản nợ xấu liên quan đến việc tăng vốn điều lệ, NHNN nên có chủ trương ép thu hẹp (bail-in), tức cho phép các tổ chức này giảm vốn điều lệ song song với việc cắt bỏ các khoản nợ xấu tại các doanh nghiệp thành viên (tham khảo Zhou, 2012).

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng hiện tượng nợ xấu của Việt Nam hiện nay mang tính cơ cấu và hệ thống. Đặc thù của nợ xấu Việt Nam là nợ xấu của khu vực DNNN lớn, tài sản thế chấp phần nhiều là BĐS, và sở hữu chồng chéo. Để giải quyết hiện tượng nợ xấu hệ thống này thì Việt Nam nên nhanh chóng hình thành một Công ty mua bán nợ xấu ở tầm quốc gia có chức năng mua bán nợ xấu tại các tổ chức tín dụng. Sự cần thiết phải có công ty này là để:

Có các quyết định nhanh chóng và quyết đoán: do việc tái cơ cấu hệ thống tín dụng đòi hỏi và tiến hành nhanh chóng và quyết đoán, trong khi việc xử lý nợ xấu lại là một trong những khâu quan trọng và tốn kém nhất, nên nếu không có một định chế tập trung chịu trách nhiệm về việc này, quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ mất thời gian và sẽ càng tồn kém cho nền kinh tế về sau này.

Giải quyết nợ xấu khu vực DNNN: nút nghẽn chính của nền kinh tế hiện tại là khu vực DNNN. Đây là khu vực rất khó cho phá sản tương tự như khu vực doanh nghiệp tư nhân. Vì lẽ đó, các NHTM có nợ xấu tại khu vực này sẽ không thể tự giải quyết. Một khi nợ xấu của khu vực DNNN còn đó thì các ngân hàng cũng không thể có vốn để giải ngân cho khu vực tư nhân. Và nếu khu vực tư nhân không được cấp thêm vốn thì sức sản xuất của khu vực này sẽ giảm và kéo theo nợ xấu của khu vực doanh nghiệp tư nhân sẽ tiếp tục tăng.

Page 16: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

158

Nếu có một công ty mua bán nợ quốc gia, các khoản nợ tại khu vực DNNN có thể chuyển hoàn toàn sang cho công ty mua bán nợ này. Khi đó, bằng các giải pháp tập trung, công ty mua bán nợ quốc gia có thể dễ dàng trao đổi với bên chịu trách nhiệm tái cấu trúc các DNNN để xử lý các khoản nợ này theo hướng bán các gói nợ cho các tổ chức tín dụng hoặc chuyển đổi các gói nợ thành cổ phần.

Đàm phán với các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp nước ngoài: việc giải quyết nợ xấu mang tính hệ thống không thể trông chờ vào các tổ chức kinh tế trong nước. Nếu như chỉ tiến hành việc chuyển nợ xấu từ tổ chức này sang tổ chức kia thì thực chất nợ xấu của toàn bộ nền kinh tế vẫn còn đó.

Nhưng nếu như để cho các NHTM tự xoay xở trong việc bán nợ xấu cho các đối tác nước ngoài thì sẽ rất mất thời gian và tốn kém. Không phải công ty mua bán nợ của NHTM nào cũng có kinh nghiệm mua bán nợ với các đối tác nước ngoài. Chi phí đi lại, đàm phán v.v… có thể rất tốn kém sẽ gây nản lòng cho các AMC trong nước. Hơn nữa, các thương vụ có thể không đủ lớn để khiến cho các tổ chức nước ngoài quan tâm.

Với công ty mua bán nợ quốc gia, các khoản nợ xấu có thể được gộp lại thành gói để bán sỉ hoặc bán lẻ cho các tổ chức nước ngoài. Việc đàm phán “cả gói” sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn nhiều so với đàm phán mua bán từng khoản nợ một.

Kinh nghiệm của KAMCO Hàn Quốc cho thấy trong giai đoạn đầu của quá trình xử lý nợ xấu, việc bán “sỉ” các khoản nợ xấu sẽ đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Sau khi nền kinh tế đã hồi phục, mức độ quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài lớn hơn, thì công ty mua bán nợ xấu quốc gia có thể dễ dàng “bán lẻ” các khoản nợ với mức thu hồi lớn so với ban đầu.

Tránh làm thị trường BĐS bị đóng băng quá dài: để giải quyết nợ xấu, một trong những giải pháp mà các NHTM thường làm là phát mãi tài sản thế chấp. Tuy nhiên, với giá trị tài sản thế chấp chiếm tới 60% là BĐS thì với một thị trường BĐS yếu kém như hiện nay, nếu thực hiện hành động này sẽ khiến cho thị trường BĐS đã suy giảm lại càng suy giảm thêm. Và khi đó, hàng tồn kho của ngành xây dựng (bao gồm các các công ty xây dựng và công ty sản xuất vật liệu xây dựng) sẽ ngày càng một lớn, khiến cho nợ xấu ngày càng cao.

Việc hình thành công ty mua bán nợ xấu quốc gia sẽ giúp cho phần lớn các khoản nợ xấu được bán cho các đối tác nước ngoài. Khi đó, Việt Nam về cơ bản sẽ tránh được ảnh hưởng của việc xử lý nợ xấu đối với thị trường BĐS. Cùng với đà hồi phục của nền kinh tế, thị trường BĐS ấm lên sẽ giúp cho lượng nợ xấu của nền kinh tế giảm bớt. Quá trình xử lý nợ xấu sẽ hoàn tất nhanh chóng hơn.

5. Tổng kết

Nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam vẫn tiếp tục dấu hiệu tăng lên, ở mức khoảng 10% tổng dư nợ của toàn hệ thống tín dụng tính đến tháng 6.2012. Nợ xấu của hệ thống tín dụng của Việt Nam có đặc điểm là khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn, gắn với khu vực BĐS, và mang tính cơ cấu. Để giải quyết tình trạng nợ xấu này, từ kinh

Page 17: GIẢI QUYẾT NỢ XẤU CÓ TÍNH ... - Tài Nguyên Sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9326/1/11_giai quyet no xau co tinh he... · Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu

159

nghiệm của các quốc gia trên thế giới, chúng tôi cho rằng Việt Nam trước hết nên xây dựng những nguyên tắc và luật lệ rõ ràng để tìm được sự đồng thuận của xã hội trong việc hình thành một định chế tập trung, tầm quốc gia để xử lý nợ xấu. Việc hình thành một định chế như vậy sẽ góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là khu vực DNNN, thu hút được đầu tư của nước ngoài, và tránh cho thị trường BĐS tiếp tục bị đóng băng.

Tài liệu tham khảo

Đinh Tuấn Minh (2012). “Bất ổn thị trường tài chính”, trong Tô Trung Thành và Nguyễn Trí Dũng, 2012, Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012: Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu, NXB Tri thức.

Dong He (2004). “The Role of KAMCO in Resolving Nonperforming Loans in the Republic of Korea”, IMF Working Paper WP04/172. Washington, D. C.

Dziobeck, C. và C. Pazarbasioglu (1997). “Lessons from Systemic Bank Restructuring : A Survey of 24 Countries”, IMF Working Paper, 161. Washington, D. C.

Goyal, S. (2012). Financial Sector Restructuring Lessons from International Experience, World Bank.

Klingebiel, D. (2000). “The Use of Asset Management Companies in the Resolution of Banking Crises Cross-Country Experiences”, World Bank Policy, Research working paper : no. WPS 2284.

Zhou, J., V. Rutledge, W. Bossu, M. Dobler, N. Jassaud, và M. Moore (2012). “From Bail-out to Bail-in: Mandatory Debt Restructuring of Systemic Financial Institutions”, IMF staff discussion note SDN/12/03.