1
LUẬN GIẢNG VỀ NGONDRO CỦA
NGÀI DUDJOM RINPOCHE
DO LAMA THARCHIN RINPOCHE BIÊN DỊCH
2
3
DẪN NHẬP
Namo Guru Bhaye!
Con tỏ lòng tôn kính đến Guru và khẩn cầu đƣợc phép viết một luận
giảng tóm tắt về Ngondro uyên thâm của Ngài - Dudjom Tersar.
Bản văn do Ngài Garwang Dudjom Lingpa. H.H. Jidral Yeshe Dorje
(Dudjom Rinpoche) đã đƣợc làm dễ hiểu thành văn bản hiện nay. Bản
văn này là sự thực hành chuẩn bị cho dòng truyền Dudjom Tersar.
Theo con đƣờng của Kim Cƣơng Thừa, có 3 loại dòng truyền: Dòng
truyền dài gọi là Kama; Dòng truyền ngắn gọi là Terma; và Dòng truyền
Uyên Thâm của Kiến Thanh Tịnh gọi là Daknang. Mỗi dòng đều có thực
hành Ngondro riêng. Đặc biệt, Ngondro của Dudjom Tersar thuộc về
dòng Terma ngắn và dòng truyền Uyên Thâm của Kiến Thanh Tịnh.
Trong truyền thống Terma, có hàng ngàn vị Khai Mật Tạng hay Terton,
là những ngƣời đã phát hiện những kho báu, kho tàng Giáo Pháp đƣợc
chôn dấu. Những kho báu Giáo Pháp hay Terma này có thể có nhiều
dạng, bao gồm những chất liệu, pháp khí cho nghi lễ và hỗ trợ cho quán
tƣởng nhƣ Dao Phurba, những thánh tích, kinh văn…, giữa những vị
Khai Mật Tạng, Ngài Dudjom Lingpa (1835 – 1904) là một trong những
vị nổi tiếng nhất của thế kỷ vừa qua.
Ngài là hóa thân của Đức Kheuchung Lotsawa, một trong 25 đệ tử chính
của Đức Liên Hoa Sanh. Ngài là hóa thân Ngữ của Dakini trí huệ Yeshe
Tsogyal, và là hóa thân Tâm của Đức Liên Hoa Sanh. Sự tái sanh của
Ngài đã đƣợc tiên tri qua nhiều thế kỷ bởi các bậc siêu phàm, bao gồm
chính Đức Liên Hoa Sanh. Những tiên tri này rất chính xác, bao gồm
những chi tiết nhƣ Ngài sẽ sinh ở xứ nào, tên cha và mẹ Ngài, hƣớng
cửa của căn nhà, hình dạng Ngài, những dấu hiệu Ngài có khi sinh ra…
Các Ngài cũng tiết lộ rằng Dudjom Lingpa sẽ là một hóa thân đặc biệt
hùng mạnh cho thời buổi suy đồi này và Ngài sẽ hiển lộ những giáo lý
uyên thâm có thể đạt giác ngộ chỉ trong một đời.
4
Tất cả những tiên tri này xác quyết sự tái sinh của Ngài, và khi sinh ra
đƣợc kèm theo nhiều dấu hiệu cát tƣờng. Hiển bày vô số năng lực kỳ
diệu, Ngài tiếp tục hiển lộ nhiều Terma vĩ đại bao gồm một số kinh văn
và hai mƣơi hai bộ giáo lý. Những giáo lý này mạnh mẽ đến nỗi mƣời ba
vị đệ tử của Ngài đắc thân cầu vồng, có nghĩa là khi viên tịch các Ngài
hòa tan thân thể vào hƣ không, không để lại thân xác…; hàng ngàn vị
đạt đẳng cấp Trì Minh (Ridzin).
Ngài Dudjom Lingpa đã xây dựng những dòng truyền mới và những thế
hệ mới của những vị Đại Thành Tựu Giả và những vị giác ngộ, cũng nhƣ
hoàn thành nhiều kỳ công phi thƣờng khác. Trƣớc lúc viên tịch, Ngài
Dudjom Lingpa đã tiên tri vị trí Ngài sẽ tái sanh, một tỉnh ở phía Đông
Tây Tạng gọi là Peema Kod. Sự tiên tri này là vị Guru Gốc của tôi, His
Holiness Dudjom Rinpoche, Jidral Yeshe Dorje (1904-1987).
Về cuộc đời của His Holiness đã đƣợc tiên đoán nhiều thế kỷ trƣớc
trƣớc. Dòng truyền của Ngài từ Pháp Vƣơng Trisong Detsen. Khi Ngài
sinh ra cũng có những dấu hiệu cát tƣờng kèm theo. Dù Ngài không
đƣợc giáo dục chính thức, do nhớ lại những kiếp trƣớc, Ngài trở thành
một học giả nổi tiếng nhất và vĩ đại nhất ở Tây Tạng. Không chỉ là một
học giả vĩ đại, Ngài còn là một bậc giác ngộ viên mãn. Hoàn toàn bất
khả phân với Đức Guru Rinpoche, Dudjom Rinpoche là ngƣời đại diện
cho thế hệ của Ngài. Suốt đời Ngài đã đứng đầu phái Nyingma của Phật
giáo Kim Cƣơng Thừa.
His Holiness Dudjom Rinpoche hiện thân cho đại lực với bất kỳ ngƣời
nào tiếp xúc với Ngài, qua sự thấy, nghe, tiếp xúc hay trở thành đệ tử
của Ngài – để đạt đƣợc giác ngộ. Những hoạt động của Ngài Dudjom
Lingpa phát triển trong khi Ngài du hành và hoằng pháp khắp thế giới.
Nhờ hiển lộ vô số giáo lý của kho tàng tâm, soạn thảo và phục hồi nhiều
terma cũ, tạo ra nhiều bộ kinh văn, Ngài phục hồi và phát triển dòng
Nyingma khi dòng này đã suy yếu một cách nguy hiểm. Bản văn của
Ngài chứa đựng những nghi quỹ và giáo lý thâm sâu, mở rộng con
đƣờng viên mãn của Kim Cƣơng Thừa từ đầu đến cuối.
5
Dòng truyền Dudjom Tersar bao gồm cả hai giáo lý cùng chủ đề của
Ngài Dudjom Lingpa và His Holiness Dudjom Rinpoche. Ngondro
Dudjom Tersar là thực hành nền tảng cho cả hai dòng Dudjom Tesar và
toàn bộ con đƣờng Phật giáo Kim Cƣơng Thừa.
Xây dựng một nền tảng mạnh mẽ là cách duy nhất để tạo ra một kết quả
cuối cùng. Khi xây nhà, nền móng không chỉ là sự bắt đầu mà còn là
phần quan trọng nhất của việc hoàn tất ngôi nhà. Khi lần đầu đƣợc giới
thiệu vào Giáo Pháp, bạn có thể cảm thấy nhiệt tình và cảm hứng. Tuy
nhiên, cảm giác này chỉ là tạm thời vì bản chất cảm xúc và cảm giác của
chúng ta thƣờng xuyên thay đổi và không ổn định. Không có một nền
tảng vững chắc, khi xảy ra thay đổi bất thƣờng, Giáo Pháp có thể tạm
thời là không thích hợp hoặc không quan trọng. Có thể bạn muốn từ bỏ,
trong khi thực tế Giáo Pháp là điều duy nhất có thể giúp đỡ tối hậu.
Không xây dựng một nền tảng vững chắc cũng giống nhƣ xây một ngôi
nhà trên mặt hồ đóng băng, mà chắc rằng băng sẽ tan chảy vào mùa
xuân tới. Đó là điều tại sao Ngondro lại quan trọng đặc biệt nhƣ vậy.
Để hiểu đƣợc Ngondro trong một bối cảnh rộng hơn, hiểu đƣợc tại sao
nó là một thực hành chuẩn bị và đặt nền móng cho cái gì là một điều có
ích. Ngondro đƣợc gọi là thực hành chuẩn bị vì nó đặt nền tảng cho hai
giai đoạn thực hành chính của Kim Cƣơng Thừa: Giai đoạn PHÁT
SINH (Kyerim) và giai đoạn HOÀN THIỆN (Dzokrim).
Giai đoạn phát sinh nằm trong phạm vi của MAHA YOGA. Mục tiêu
của Maha Yoga là nhận ra sự bất khả phân của sắc tƣớng và tánh Không.
Nó sử dụng sự quán tƣởng Bổn Tôn, tụng niệm mantra, và sự thừa nhận
của quan điểm triết học đúng đắn là phƣơng pháp cho sự nhận biết rằng
tất cả hình tƣớng đều là thân Bổn Tôn, mọi âm thanh đều là mantra, và
tất cả tƣ tƣởng đều là tâm giác ngộ của giác tánh nội tại.
Giai đoạn hoàn thiện có hai cấp thực hành: ANU YOGA và ATI
YOGA.
6
Anu Yoga là phƣơng pháp nhận ra sự bất khả phân của Cực Lạc và tánh
Không. Nó là yoga của hệ thần kinh, kinh mạch và tinh chất, cốt tủy của
sự sống (Nadi, Prana và Bindu trong tiếng Phạn hay Tsa, Lung và Thigle
trong tiếng Tây Tạng).
Ati yoga là Dzogchen hay Đại Viên Mãn là phƣơng pháp để nhận ra sự
bất khả phân của Giác tánh và tánh Không qua thực hành Trekcho và
Thogal.
Ngondro phục vụ nhƣ sự thực hành chuẩn bị cho cả hai giai đoạn phát
sinh và hoàn thiện của thực hành Kim Cƣơng Thừa.
Sự khác biệt duy nhất giữa chúng sanh và Chƣ Phật là chúng sanh có
chƣớng ngại, còn Chƣ Phật thì không. Chúng ta là những chúng sanh vì
có những “nhiễm ô” tạm thời hay tâm trí tuệ bị che chƣớng. Tất cả
chúng sanh vốn là Phật, tạm thời bị nhiễm ô vì những cảm xúc thô nặng
ngăn che và những ngăn che vi tế của tập khí. Khi những điều này đƣợc
tẩy sạch, vị Phật bên trong sẽ tự nhiên hiển lộ.
Theo con đƣờng của Kim Cƣơng Thừa chỉ có hai phƣơng pháp để tẩy
sạch hai che chƣớng này: Thứ nhất là sự tích lũy công đức và trí tuệ, thứ
hai là sự trao truyền trực tiếp từ tâm vị Guru sang tâm của đệ tử.
Ngondro sử dụng cả hai phƣơng pháp và bao gồm những thực hành cốt
lõi của BA THỪA: TIỂU THỪA, ĐẠI THỪA và KIM CƢƠNG THỪA.
Tinh túy của thực hành Tiểu Thừa là Quy Y. Sự phát triển Bồ Đề Tâm là
tinh hoa của thực hành Đại Thừa. Sự tích lũy, tịnh hóa và trao truyền
tâm của Guru Yoga là cốt tủy của Kim Cƣơng Thừa. Ngondro là thực
hành chuẩn bị dung chứa mọi con đƣờng, bao gồm giai đoạn phát sinh
và hoàn thiện của thực hành Kim Cƣơng Thừa.
Vì bao gồm mọi con đƣờng đến nhận thức giác ngộ, do vậy, mỗi nỗ lực
phải là sự hoàn tất Ngondro để hoàn toàn chuyên tâm và nhận ra những
lợi ích sâu sa của nó.
Cuộc đời của tôi nhờ nghiệp tốt và vận may to lớn đã đƣợc gần gũi His
Holiness Dudjom Rinpoche. Tôi gặp Ngài khi chỉ mới tám tuổi, và đã ở
7
với Ngài cho đến lúc Ngài viên tịch vào năm 1987. Tôi đã nhận đƣợc
nhiều quán đảnh, giáo lý và đã nhiều lần nhập thất với Ngài nhƣ Bổn Sƣ
Gốc. Những vị thầy vĩ đại nhƣ Ngài Dudjom Rinpoche đã viết nhiều
giảng dạy thâm sâu về Ngondro, vì vậy, việc tôi viết thêm là không cần
thiết. Tuy nhiên, vì Ngondro chƣa đƣợc dịch sang tiếng Anh và những
ngƣời bạn Pháp của tôi đã thỉnh cầu nên tôi mới viết luận giảng này.
Trong lúc viết vài dòng này, mục tiêu của tôi là làm lợi ích cho những
ngƣời có thể là mới với Phật Pháp hay những ngƣời muốn phát triển một
thực hành đang tiếp diễn. Tôi không trình bày luận giảng này theo phong
cách cổ điển hay tô điểm bằng những ngôn từ bác học, và tƣởng tƣợng.
Thay vào đó, mục đích là giúp đỡ những ngƣời bạn Pháp của tôi theo
một cách đơn giản và dễ hiểu. Vì lý do này tôi đang phát sinh một động
cơ thanh tịnh và mong ƣớc những lời này có đƣợc một số lợi ích.
CHƢƠNG I
KHỞI ĐẦU
Để thực hành Ngondro, bắt buộc bạn phải nhận đƣợc trao truyền và
giảng dạy từ một Lama đủ phẩm tính, sự trao truyền có thể làm chín
muồi Phật tánh bên trong của bạn, trong khi giáo lý hỗ trợ hiểu biết của
bạn về thực hành để cuối cùng dẫn đến giải thoát.
Bạn sẽ cần một số món để bắt đầu: một chuỗi hạt để đếm mantra, một
đệm để ngồi, một bàn đảnh lễ, một khay mandala với vải, và một số ngũ
cốc hay đá quý.
Một bàn thờ đơn giản, đặt ở nơi cao ráo và sạch sẽ, nên có những hỗ trợ
của thân, khẩu, ý của chƣ Phật. Nhƣ một hỗ trợ của thân Phật, bạn có thể
dùng tƣợng, tranh hay hình ảnh của Đức Guru Rinpoche. Bạn cũng có
thể sử dụng những hình ảnh của Bổn Tôn trí tuệ khác, Guru của bạn hay
cây quy y. Một hỗ trợ khẩu của Đức Phật là dạng kinh điển thiêng liêng.
Một hỗ trợ của tâm Phật có thể đặt trên bàn thờ là hình dạng của một bảo
8
tháp chứa xá lợi hay những di tích của Phật và những bậc giác ngộ khác,
hoặc một pháp khí nghi lễ nhƣ một dao Phurba (dao có ba cạnh).
Một bàn thờ với loại hỗ trợ thiêng liêng này là một phạm vi để tăng
trƣởng và tích tụ công đức, trí tuệ. Dâng cúng đèn nến hay ánh sáng,
bông hoa, và trầm hƣơng. Với một tâm thanh tịnh, cúng dƣờng một cách
tôn kính đến những biểu tƣợng đại diện cho thân, khẩu, ý chƣ Phật với
sự hiểu biết rằng Đức Phật không yêu cầu bất kỳ cúng dƣờng nào nhƣ
vậy. Thay vào đó, hãy nhận biết sự cúng dƣờng là một hỗ trợ cho sự tích
lũy công đức và trí tuệ của bạn.
TƢ THẾ BẢY ĐIỂM
Bắt đầu bằng việc tạo ra một không khí có lợi cho thiền định trƣớc bàn
thờ của bạn hay ở một nơi yên tĩnh, không bị xao lãng, ngồi trên một
đệm thoải mái. Đặt thân bạn theo tƣ thế bảy điểm, làm sạch ngữ bằng
chín hơi thở, và đặt tâm trong trạng thái buông lỏng tự nhiên.
Tƣ thế bảy điểm (hình 1) là ngồi theo tƣ thế kiết già với bàn chân trái đặt
trên đùi phải và bàn chân phải trên đùi trái. Đây gọi là “tƣ thế kim
cƣơng”. Bàn tay đặt trên lòng với tay phải trên tay trái, hai đầu ngón cái
chạm nhẹ vào nhau. Sống lƣng thẳng, hơi nâng vai lên, cằm hơi gập và
lƣỡi chạm nhẹ lên vòm họng, hai mắt mở và tập trung nhìn hƣớng về
mũi. Nếu tƣ thế này không thoải mái, điều tối thiểu là lƣng bạn phải
thẳng. Sau đó thực hành tẩy tịnh với chín hơi thở.
9
H1. Tƣ Thế Bảy Điểm
TẨY TỊNH VỚI CHÍN HƠI THỞ
Thực hành này tẩy tịnh năng lƣợng trong hệ thần kinh và kinh mạch. Cả
hai thần kinh trí tuệ và vô minh đều hiện diện trong kinh mạch nắm giữ
năng lƣợng trí tuệ và cảm xúc. Kim Cƣơng Thừa cố gắng tịnh hóa năng
lƣợng cảm xúc và chuyển hóa nó thành năng lƣợng trí tuệ. Sự thực hành
chín hơi thở tịnh hóa những cảm xúc cũng nhƣ bệnh tật và những ảnh
hƣởng của ma quỷ. Tôi khuyên bạn nên làm thực hành này mỗi buổi
sáng khi thức giấc.
Bắt đầu bằng việc ngồi trong tƣ thế bảy điểm và kết ấn “Kim Cƣơng
Quyền” (hình 2) cả hai tay. Lấy ngón cái áp vào gốc ngón đeo nhẫn, Ấn
này niêm giữ năng lƣợng cuộc sống không thoát ra khỏi thân bạn và
những ảnh hƣởng tiêu cực có thể đi vào. Vƣơn hai vai và đặt nắm tay ở
nếp gấp nơi tiếp giáp giữa đùi và bụng. Thẳng hai cùi chỏ. Tƣ thế này
làm xƣơng sống và kinh mạch đƣợc thẳng.
10
H2. Kim Cƣơng Quyền
Quán tƣởng kinh mạch trung ƣơng, bắt đầu dƣới luân xa rốn khoảng bốn
ngón tay đi lên tới đỉnh đầu bạn, sau đó vòng xuống ra đầu mũi. Kinh
mạch trung ƣơng hay Uma có màu xanh dƣơng và bốn đặc tính
- Thẳng
- Bằng ánh sáng
- Kích thước bằng một mũi tên trung bình và rỗng ruột
- Độ dày của thành mạch bằng bề dày của cánh hoa sen.
Ở hai bên kinh mạch trung ƣơng là hai kinh mạch khác. Tất cả các kinh
mạch này (Hình 3 & 4) đều thông nhau khoảng bốn ngón tay dƣới rốn.
Kinh mạch bên phải là Roma ở nam, và bên trái là nữ có màu trắng. Nó
đi lần gần kinh mạch trung ƣơng và đi qua sau lỗ tai, thoát ra lỗ mũi.
Kinh Kyangma có màu đỏ ở bên trái của nam và bên phải của nữ. Nó
cũng ra ngoài lỗ mũi kia. Mỗi kinh mạch này bằng khoảng phân nửa
kinh mạch trung ƣơng.
Với hai quyền ở nếp gấp giữa đùi và bụng với hai cùi chỏ thẳng, hãy
quán tƣởng không khí là khí trí tuệ. Sử dụng tay cùng bên kyangma hút
khí trí tuệ vào mũi nơi mở ra của kinh mạch. Thủ ấn rút khí trí tuệ từ
pháp giới vào, và khi hít vào bạn tiếp nhận sự ban phƣớc của chƣ Phật
11
mƣời phƣơng, ba thời, ba gốc (Đạo Sƣ, Bổn Tôn, Dakini), những bậc trì
giữ giác tánh nội tại (Trì Minh Vƣơng – Vidyadhara) và những vị nắm
giữ dòng phái.
Khi không khí đƣợc hít vào, niêm giữ lỗ mũi ở bên kinh kyangma.
Không khí di chuyển xuống theo kinh kyangma sau đó ép qua kinh
roma, rồi đi lên kinh mạch này ra ngoài lỗ mũi đối diện khi bạn thở
mạnh ra. Lặp lại nhƣ vậy ở phía bên kia (nam và nữ khác nhau vì kinh
mạch ngƣợc nhau)
Lần thứ ba, dùng cả hai kim cƣơng quyền rút không khí bằng hai lỗ mũi,
đƣa xuống cả hai kinh roma và kyangma, ép khí trí tuệ đi vào kinh mạch
trung ƣơng và đi ra ngoài đầu mũi. Nhƣ vậy là hoàn tất ba hơi thở. Lặp
lại hai lần nhƣ vậy.
Bên trong roma, kinh mạch màu trắng, là năng lƣợng phái nam đƣợc
quán tƣởng nhƣ màu xáo tro và trong hình dạng một con rắn. Roma là
tinh túy của sân. Nó đƣợc biểu tƣợng cho Podon Gyalpo – Quỷ Vƣơng
của phái nam. Khi bạn thở ra qua kinh mạch này, bạn loại bỏ bệnh tật do
phong, mật và đờm thấp v.v… và hòa tan tất cả tiêu cực vào hƣ không.
Tƣơng tự, bên trong kyangma, kinh mạch màu đỏ, là năng lƣợng nữ,
màu đỏ đậm, trong hình dạng một con gà trống. Nó là tinh túy của tham
đƣợc biểu tƣợng hóa bằng nữ quỷ Senmo. Khi bạn thở ra qua kinh mạch
này, bạn loại trừ bệnh tật nhƣ viêm gan, vàng da, nhiễm trùng đƣờng
tiểu, bệnh thận v.v…, hòa tan chúng vào hƣ không.
Bên trong uma, kinh mạch trung ƣơng có màu xanh dƣơng, là Ma-ning,
chủ nhân của năng lƣợng bất nhị phi nam nữ, có màu khói và hình dạng
giống nhƣ một con heo, đƣợc biểu tƣợng hóa bằng một con rồng gọi là
Ludon. Tinh túy của năng lƣợng này là si. Trong kinh mạch này, mọi
bệnh tật từ vô thủy đƣợc gom lại, cũng nhƣ tích lũy những nhiễm ô,
năng lƣợng bất tịnh, và nhất là những nhiễm độc của thần kinh và năng
lƣợng. Khi bạn thở ra kinh mạch này, tất cả những tích tụ đó cũng nhƣ
mọi chƣớng ngại của bất kỳ loại nào đƣợc rửa bỏ, tẩy tịnh và hòa tan
vào hƣ không.
12
Cảm nhận rằng với mỗi hơi thở, bạn đang tẩy rửa những kinh mạch, súc
rửa chúng cho đến lúc cuối chúng hoàn toàn sạch sẽ. Đây là một thực
hành chữa lành và giúp cho sự thiền định của hành giả. Khi ba độc
(tham, sân, si) đƣợc tịnh hóa, ba ảnh hƣởng ma quỷ (Podon Gyalpo,
Modon Senmo và Ludon Sadak) đƣợc loại trừ và ba bệnh tật (phong,
mật, đờm thấp – gốc rễ của 404 loại bệnh) đƣợc trừ khử. Vào lúc hoàn
tất chín hơi thở, hãy ngồi cảm nhận sự an trụ trong trạng thái thanh tịnh.
Hãy thả lỏng hai tay và trở lại tƣ thế bảy điểm. Hãy để cho tâm thức an
trụ trong trạng thái không bị quấy rối bởi bất kỳ tƣ tƣởng nào liên quan
đến ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Tƣ thế thiền định này khiến cho
thân, khẩu, ý đƣợc buông lỏng vào một trạng thái hoàn toàn tự nhiên.
13
H3,4. CÁC KINH MẠCH
14
CHƢƠNG 2
NGOẠI NGONDRO: BỐN NIỆM CHUYỂN TÂM
Bản Ngondro có hai phần: Ngoại Ngondro và Nội Ngondro. Ngoại
Ngondro gồm BỐN NIỆM CHUYỂN TÂM. Nó bắt đầu bằng dòng:
Namo, lumé ten gyi gönpo lama khyen
Homage! O lama, my unfailing and constant protector!
Con xin đảnh lễ bậc Đạo Sư vĩnh cửu, bất biến,
Đấng bảo hộ chân thật! Xin Ngài lưu ý đến con!
Niệm dòng này vào lúc bắt đầu bất kỳ thời thiền định nào, nhƣ một
chuẩn bị để tiếp nhận sự ban phƣớc. Hãy quán tƣởng Guru Rinpoche
xuất hiện trong bầu trời phía trƣớc bạn. Phát sinh niềm tin và sự sùng
kính mạnh mẽ, nhận ra tinh túy của Ngài hoàn toàn tƣơng tự nhƣ Guru
Gốc của bạn. Năng lực sùng mộ của bạn cầu thỉnh dòng tâm thức của
Guru Rinpoche đi xuống đỉnh đầu và tan hòa vào trong bạn, ngài ban
quán đảnh cho bạn với sự ban phƣớc của trí tuệ nguyên sơ và sự giác
ngộ của giải thoát. Thân bạn tự nhiên chuyển thành Thân Kim Cƣơng
của ánh sáng cầu vồng. Ngữ của bạn trở thành Ngữ Kim Cƣơng và Ý
bình thƣờng của bạn trở thành Ý Kim Cƣơng thanh tịnh.
Trong cách này, ba cửa bình thƣờng của bạn hay cửa ngõ của kinh
nghiệm đƣợc ba Kim Cƣơng của Guru Rinpoche ban phƣớc: Thân Kim
Cƣơng Bất Hoại của Ngài tƣơng tự nhƣ Thân Phật, vƣợt lên trạng thái
sinh tử; Ngữ Kim Cƣơng của Ngài – Ngữ Trí Tuệ Giác Ngộ hoàn toàn
thanh tịnh; và Ý Kim Cƣơng Giác Tánh Trí Tuệ tỏa khắp của Ngài.
Giai đoạn đầu tiên này chuẩn bị một thời thiền định cho bạn vì chuyển
hóa bạn thành một bình chứa thanh tịnh để tiếp nhận sự ban phƣớc của
thực hành.
Đức Guru Rinpoche xuất hiện lần nữa trong bầu trời phía trƣớc nhƣ
nhân chứng trong lúc bạn tụng niệm và quán sát sâu sa bốn dòng kế tiếp
của văn bản. Khảo sát và quán chiếu triệt để trên 4 TƢ DUY này, không
còn nghi ngờ bất cứ điều gì nữa, có thể chuyển tâm bạn hƣớng về Giáo
15
Pháp. Hãy cầu nguyện rằng thực hành của bạn sẽ là phẩm tính cao nhất
và Guru Rinpoche sẽ ban năng lực để thực hành Pháp của bạn đƣợc
thâm sâu. Sau đó bạn khảo sát và quán chiếu từng tƣ tƣởng một.
Vào lúc cuối thời công phu, hòa lẫn tâm bạn và tâm của Guru Rinpoche
bằng việc nhận ra không có sự cách biệt và an trú trong trạng thái đó.
Bây giờ suy niệm tƣ tƣởng thứ nhất, sự quán chiếu thân ngƣời là quý
báu. Trong bản văn, dòng này viết:
Daljor di ni shintu nyepar ka
This free and endowed human birth is very difficult to obtain.
Các sự tự do và những điều thừa hưởng của kiếp người
quý báu đời này khó tìm gặp lại,
Quan tâm đến sự quý báu của việc sinh ra làm ngƣời, nhận biết thật sự
khó đƣợc một thân ngƣời. Nhận ra thật may mắn biết bao khi bạn đƣợc
sinh ra ở một nƣớc văn minh mà giáo lý của Đức Phật đƣợc giảng dạy.
Hiểu đƣợc sự may mắn tốt đẹp là bạn sinh ra nhƣ một ngƣời, hơn hẳn ba
cõi thấp, ở đó sự đau khổ là không thể tƣởng tƣợng và không thể chịu
đựng nổi. Sinh ra với đầy đủ bộ phận, giác quan và tâm thức linh hoạt
không khiếm khuyết. Trong một thời gian lâu dài khi Đức Phật giảng
dạy, Giáo Pháp còn hiện hữu và đƣợc bảo tồn, phát triển, và bạn lại đã
có cơ hội tạo kết nối với giáo lý. Tuyệt diệu làm sao khi bạn có cơ hội
phi thƣờng để làm một số việc bằng thân thể quý báu này. Sự tái sinh
làm thân ngƣời là kết quả của thiện nghiệp trong quá khứ đã chín mùi
của bạn, tuy nhiên chẳng ai biết đƣợc cơ hội gặp đƣợc và thực hành
Giáo Pháp này có xảy ra lần nữa hay không?
Có nói rằng gặp đƣợc Giáo Pháp trong đời này còn hiếm hơn cơ hội của
một con rùa mù 100 năm mới nổi lên mặt biển một lần, và chui đầu ngẫu
nhiên vào một cái ách bằng gỗ trôi bồng bềnh vô định trên mặt nƣớc.
Một khi sinh ra, thân ngƣời cũng bình thƣờng nhƣ một tảng đá. Trong so
sánh, ngƣời nào thực hành Giáo Pháp cũng giống nhƣ một viên kim
cƣơng tinh chất.
16
Hiểu đƣợc điều này, bạn hãy cầu nguyện sự ban phƣớc của Guru
Rinpoche để đánh giá đúng sự quý báu đƣợc sinh làm ngƣời. Suy nghĩ
về sự may mắn lạ thƣờng của bạn, cầu nguyện để có năng lực rút tỉa một
số tinh hoa từ cuộc sống của bạn, nguyện làm những điều tạo lợi ích
cuối cùng bằng việc xây dựng Giáo Pháp trong đời này.
Trƣớc tiên, hãy suy niệm sâu sa. Sau đó hòa lẫn tâm bạn với tâm Ngài
và an trú trong trạng thái thiền định.
Bây giờ suy niệm về tƣ tƣởng thứ hai, sự quán chiếu về vô thƣờng.
Trong bản văn viết:
Kyé tsé mitak chiwé chöchen yin
All sentient existence is conditioned by impermanence and death
Tất cả chúng sinh hiện hữu đều bị điều kiện hóa
bởi vô thường, sinh tử,
Suy niệm về vô thƣờng và cái chết làm gia tăng động cơ thực hành Giáo
Pháp. Hiểu đƣợc vô thƣờng thật sự có nghĩa là nhận ra bản chất thay đổi
vốn có của mọi hiện tƣợng và cơ hội phi thƣờng để luyện tâm bạn hƣớng
về giải thoát.
Nhờ quán chiếu, bạn bắt đầu thấy rằng mình không lãng phí thời giờ quý
báu. Ngay khi bạn sinh ra, chắc chắn rằng bạn sẽ đi dần đến cái chết. Cái
chết hiển nhiên này sẽ lấy đi bất kỳ cơ hội thực hành xa hơn nào của
bạn. Bắt đầu nhận ra rõ ràng rằng, thay vì trì hoãn việc thực hành cho
đến một lúc tƣơng lai nào đó, ngay bây giờ bạn phải bắt đầu rút tỉa một
số ý nghĩa tinh hoa từ cuộc sống sinh ra làm ngƣời của bạn. Điểm trọng
yếu của việc hiểu đƣợc vô thƣờng là không cảm thấy buồn về nó, mà sử
dụng nó nhƣ một khích lệ để vƣợt qua sự lƣời biếng.
Tính chất của SAMSARA (Vòng Luân Hồi) giống nhƣ một điệu vũ,
chuyển động và thay đổi liên tục. Ở bình diện bên trong, tâm chúng ta
trong trạng thái thay đổi liên tục. Đôi khi chúng ta hạnh phúc nhƣng
không bao giờ kéo dài, sau đó, khi ta buồn, nó cũng không lâu. Rồi
chúng ta giận dữ và nó cũng thay đổi…
17
Ở bình diện bên ngoài, Samsara là một phản chiếu về tâm ảo tƣởng bên
trong của chúng ta không bao giờ trở lại giống nhau. Một cách rõ ràng,
bình diện bên ngoài cũng nằm trong một tiến trình liên tục thay đổi. Liên
hệ với thời gian, vô thƣờng phản ánh bốn mùa trong một năm. Mùa hè
đổi thành mùa thu, mùa thu chuyển sang mùa đông, mùa đông chuyển
sang mùa xuân rồi mùa xuân lại sang mùa hè. Vũ trụ bên ngoài cũng
thay đổi bốn lần trong mỗi niên kỷ (aeon). Trƣớc tiên, chỉ có hƣ không,
và vũ trụ sinh ra từ hƣ không này. Sau đó nó hiện hữu (tồn tại), và cuối
cùng lại tan biến vào hƣ không. Toàn bộ quá trình này gọi là một aeon
(Đại kiếp).
Do vậy, nhận ra rằng thời gian không ngừng nghỉ dù chỉ trong một chốc
lát, rằng cái chết của chúng ta là chắc chắn, và mỗi chúng sinh sinh ra
chắc chắn đều phải chết. Hầu hết mọi ngƣời đang sống bây giờ sẽ chết
trong vòng 100 năm, không một ai sống đƣợc lâu hơn. Không có ý niệm
khi cái chết xảy đến, chúng ta hoàn toàn dính mắc và mất mát trong
những hy vọng và sợ hãi về tƣơng lai của mình, mà không nhận ra rằng
dù chúng ta có tích lũy bất kỳ thứ gì có nhiều bao nhiêu trong đời này,
cuối cùng nó sẽ bị tiêu hao. Bất cứ những gì chúng ta gây dựng, chẳng
sớm thì muộn sẽ sụp đổ. Không có gì là kéo dài mãi mãi cả, ngay cả trái
đất này hoặc vũ trụ. Bản chất thực của sự tụ hội là chia lìa. Bản chất
thực của sự sống là cái chết. Mọi sự chúng ta nhận thấy là bền vững, thật
có và lâu dài, thực sự là vô thƣờng và huyễn ảo. Cái chết không thể đoán
trƣớc và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Khi đi ngủ vào ban đêm, bạn
không thật sự biết đƣợc mình sẽ thức dậy trong đời này hay trong đời
sau.
Một nhận thức thấu suốt thật sự và thực tế hóa hiểu biết về lẽ vô thƣờng
sẽ giúp loại trừ mọi lƣời biếng và ngần ngại trong thực hành. Vậy, hãy
cầu nguyện Guru Rinpoche từ đáy lòng của bạn. Cầu nguyện đƣợc ban
phƣớc để nhận ra bản chất của vô thƣờng. Suy niệm điều này vào lúc
cuối thời công phu, nghỉ ngơi và thiền định trên hƣ không rộng mở.
18
Bây giờ suy niệm tƣ tƣởng thứ ba, sự quán chiếu về kết quả của việc tích
lũy nghiệp thiện và bất thiện. Trong bản văn viết:
Gedik lé kyi gyundré luwamé
Beneficial and harmful actions bring their inevitable results.
Nhân quả của Thiện và Ác nghiệp thì cực kỳ chính xác,
Nghiệp phát sinh do thói quen tinh thần (tập khí). Khi những thói quen
nhƣ vậy đƣợc lặp lại nhiều lần trong luân hồi, mối liên hệ giữa nghiệp –
nhân, quả - đƣợc tạo ra. Sự tái diễn của thói quen tinh thần là nguyên
nhân; kết quả là kinh nghiệm hạnh phúc hay đau khổ của chúng ta.
Nghiệp là kết quả của bất kỳ những gì bạn nghĩ, nói hay làm tích cực
(đạo đức), hoặc tiêu cực (phi đạo đức). Nhờ quán chiếu về luật nhân quả,
chúng ta hiểu đƣợc nghiệp của mình, thiện hay bất thiện là điều duy nhất
chúng ta thật sự mang theo khi chết. Vì lý do này, thật rất quan trọng để
chú ý kỹ lƣỡng đến bất cứ những gì bạn nghĩ, nói và làm. Nó là điều cốt
yếu để trau dồi hành động tích cực và cố gắng từ bỏ hành động tiêu cực,
bằng sự hiểu biết ngay cả hành vi tiêu cực nhỏ nhất cũng có khả năng
làm cho toàn bộ khu rừng (tích cực, thiện nghiệp) bị rụi cháy. Tƣơng tự,
không nên xem những hành động tích cực dù là nhỏ nhất là không quan
trọng. Mỗi một hành động lợi ích giống nhƣ thêm một giọt nƣớc vào
một bình lớn, nó có vẻ vô nghĩa, nhƣng cuối cùng cái bình sẽ đầy.
Có mƣời hành động đạo đức là nguyên nhân của hạnh phúc và mƣời
hành động phi đạo đức là nguyên nhân gây đau khổ.
Mƣời hành động phi đạo đức phải tránh đƣợc chia làm ba phạm trù:
Ba hành động phi đạo đức thuộc về Thân là:
1. Sát Sinh, (giết hại sinh linh hoặc ăn thịt động vật khi chúng còn
sống, ví dụ, con cá đang bơi, mình vào chỉ vào nó rồi bảo làm thịt
cho nhu cầu ẩm thực của mình, hay bảo người nhà đi mua gà, vịt
sống về làm cho mình ăn…)
2. Trộm Cắp, (hay lấy bằng vũ lực hoặc lừa đảo)
3. Tà Dâm (quan hệ bất chính, ngoài hôn nhân không được sự đồng ý
khiến gây ra đau khổ, tan vỡ, lừa dối…)
19
Bốn hành động phi đạo đức thuộc về Ngữ (Lời) là:
1. Nói Dối,
2. Nói Lời Vu Khống hay Gây Chia Rẽ,
3. Nói Lời Thô Tục,
4. Nói Lời Vô Nghĩa
Ba hành động phi đạo đức thuộc về Ý là:
1. Thèm muốn sở hữu những thứ của người khác,
2. Ác ý hoặc mong muốn làm tổn hại người khác,
3. Chấp chặt tà kiến của chủ nghĩa hư vô hoặc chủ nghĩa vĩnh cửu.
Hoặc chấp vào cả hai tà kiến này. Quan điểm hư vô là sự tin rằng
chẳng có Giáo Pháp và không có nghiệp quả (chết là hết, không
có nhân quả báo ứng gì…) khiến ra tạo ra nghiệp tiêu cực nhất.
Quan điểm vĩnh cửu tin rằng mọi thứ đều thường hằng, không phải
là vô thường (tin có các đấng thần linh, thượng đế, linh hồn, một
cái ngã là thường hằng, vĩnh cửu). Chấp chặt vào các tà kiến này
có thể tạo ra nghiệp quả nặng nhất.
Thay vì vi phạm mƣời hành vi tiêu cực, một hành giả hãy thực hành
mƣời hành động đạo đức sau:
1. Từ bỏ sát sinh, thay vào đó hãy bảo vệ mạng sống của chúng sinh,
2. Thực hành bố thí, ban tặng thay vì trộm cắp,
3. Thực hành đạo hạnh, giữ giới thanh tịnh thay vì tà dâm,
4. Nói thật thay vì nói dối,
5. Giảng hòa những mâu thuẫn thay vì nói chia rẽ,
6. Nói lời dịu dàng thay vì thô tục,
7. Tụng niệm cầu nguyện, giữ chánh niệm, tỉnh giác, thiền định thay
vì nói chuyện phiếm,
8. Thiền quán hoan hỷ về những sở hữu và phẩm tính tốt của người
khác, thực hành sự rộng lượng,
9. Thực hành lòng bi mẫn, nhân ái thay vì ác ý,
10. Tin sâu vào Giáo Pháp và nhân quả, hơn là chấp giữ tà kiến.
20
Kế tiếp, hãy cầu nguyện Guru Rinpoche ban phƣớc và sức mạnh cho bạn
để bạn luôn luôn chú tâm tới hành động và nghiệp của bạn. Cầu nguyện
nghệp tiêu cực của bạn giảm đi và nghiệp tích cực đƣợc tăng lên. Thọ
giới nguyện mạnh mẽ để không bao giờ tích tập nghiệp bất thiện, và thề
từ giở trở đi chỉ tạo ra thiện nghiệp. Cầu nguyện Guru Rinpoche ban cho
bạn sức mạnh để hoàn thành điều này. Kế tiếp, vào lúc cuối thời niệm,
hãy ngồi và thiền định.
Suy niệm tƣ tƣởng thứ tƣ, sự quán chiếu về sự đau khổ của luân hồi.
Trong bản văn viết:
Kham sum khorwa dukngal gyatsö ngang
The three realms of saṃsāra are an ocean of suffering.
Ba cõi giới luân hồi thực chất là biển khổ đau,
Cho đến lúc sự tích lũy viên mãn và giác ngộ đã đạt đƣợc, nghiệp thiện
và bất thiện phát triển không ngừng. Kết quả của nghiệp bất thiện tích
lũy là chu trình đau khổ mà tất cả chúng ta đã kinh nghiệm đƣợc gọi là
luân hồi. Tích lũy thiện nghiệp và thực hành Giáo Pháp là niềm hy vọng
duy nhất của chúng ta để thoát khỏi đau khổ liên tục và không cần thiết.
Có sáu cõi trong luân hồi, ba cõi thấp (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) và ba
cõi cao (ngƣời, atula, trời). Khi nghiệp chín mùi, chúng ta tiếp tục sinh
vào các cõi này. Tùy theo nghiệp nặng hay nhẹ, chúng ta kinh nghiệm
hạnh phúc lẫn khổ đau trong các cõi. Khi nghiệp thiện chín mùi nặng
hơn, chúng ta đạt đƣợc tái sanh tốt vào ba cõi trên. Khi nghiệp bất thiện
nặng hơn, chúng ta tái sanh để chịu đau khổ khủng khiếp trong ba cõi
dƣới. Tích lũy công đức và hành động đạo đức có thể tạo ra hạnh phúc
trong những cõi cao, và phát triển hành động phi đạo đức có thể gây ra
đau khổ trong những cõi thấp. Ví dụ, tích tập tính keo kiệt nặng nề có
thể khiến tái sanh vào cõi ngạ quỷ. Một tích tập nhẹ hơn, ngay cả nếu
bạn đƣợc sinh làm ngƣời, vẫn có thể là nguyên nhân khiến bạn nghèo
khó.
21
Hoàn toàn phó mặc cho gió nghiệp, chúng ta không kiểm soát đƣợc nơi
chúng ta bị thổi đến. Khi một tái sanh tốt kết thúc và nghiệp bất thiện
của chúng ta chín mùi, chúng ta bị tái sanh vào một cõi bị khổ đau hành
hạ. Trong vô số kiếp, chúng ta đã đi lòng vòng tùy thuộc ảo giác, si mê
và thiếu tính chất từ tâm trí tuệ của mình. Trái lại, chúng ta phát triển
sân hận và thù địch, gây ra tái sanh vào cõi địa ngục. Chúng ta bám giữ
tính keo kiệt và tạo ra sự tham lam, là nguyên nhân tái sanh vào cõi ngạ
quỷ. Chúng ta mù quáng vì vô minh (si), là nguyên nhân gây tái sanh
vào cõi súc sanh. Chúng ta héo hon vì dục vọng, là nguyên nhân tái sanh
vào cõi ngƣời. Thói quen ganh tỵ và tranh đấu gây tái sanh vào cõi
Atula. Và thói quen kiêu căng, ngạo mạn dẫn đến việc gây ra tái sanh
vào cõi Trời.
Vào lúc này, chúng ta có may mắn to lớn đƣợc sinh vào cõi ngƣời, cõi ở
giữa trong sáu cõi. Đau khổ của con ngƣời chúng ta không lớn và không
thể trốn thoát nhƣ đau khổ mãnh liệt của các cõi địa ngục, ngạ quỷ, hay
súc sinh. Tuy vậy, trong cõi ngƣời, vẫn có bốn loại đau khổ rõ ràng là:
sinh, lão, bệnh và tử. Trong ba cõi cao của Ngƣời, Atula và Thiên có
một số hạnh phúc tạm thời, nhƣng vẫn có nhiều mức độ đau khổ khác
nhau. Bây giờ thiện nghiệp của bạn vẫn có thể xuất hiện, nhƣng cuối
cùng nó sẽ tiêu hao và nghiệp đau khổ sẽ xuất hiện trở lại.
Trong luân hồi chắc chắn không có hạnh phúc lâu dài và trƣờng cửu, mà
điều này đúng là điều tất cả con ngƣời khao khát. Mọi ngƣời đều muốn
hạnh phúc trƣờng tồn, vĩnh cửu và thoát khỏi đau khổ. Không hiểu và
nắm vững đƣợc đau khổ mãnh liệt nhƣ thế nào trong luân hồi thì không
thể đánh giá đƣợc tính chất thực của Giáo Pháp.
Chỉ do thực hành Giáo Pháp mới có thể kéo dài niềm an bình và hạnh
phúc nhờ rèn luyện tâm ảo tƣởng của chúng ta nhận ra sự thanh tịnh,
không nhiễm ô của tâm trí tuệ, vƣợt lên mọi nhận thức và thói quen nhị
nguyên. Nhận biết rằng, ngoài Giáo Pháp ra, không có tinh túy lâu dài
nào có thể kiếm đƣợc trong sáu cõi luân hồi hoặc cõi ngƣời này. Ngoài
Giáo Pháp ra, không có ý nghĩa cốt tủy nào cho cuộc sống của bạn.
Hạnh phúc duy nhất thực sự tìm thấy là đạt đƣợc Phật Quả. Suy niệm về
22
điều này và hòa lẫn tâm bạn và tâm Guru Rinpoche, hãy thiền định trên
hƣ không rộng mở, niệm:
Dren né dak lo chö la gyurwar shok
Recognizing this, may my mind turn towards the Dharma.
Cầu xin suy niệm này chuyển tâm con hướng về đường Giác!
Nhờ quán chiếu từng câu trong Bốn Niệm Chuyển Tâm, chúng ta tham
gia vào một loại thiền phân tích. Vì sự thấu suốt và kinh nghiệm gia tăng
nhờ sử dụng các thực hành suy niệm này, những nhận thức của chúng ta
đƣợc sâu sắc và sâu sa hơn. Biết đƣợc bản chất của mọi sự là trí tuệ.
Ngƣợc lại là vô minh. Phấn đấu hiểu đƣợc thực nghĩa của Bốn Niệm này
nhờ an trú trong trạng thái trí tuệ. Chỉ qua sự quán chiếu nhiệt thành
chân thật về những chân lý cốt tủy này, tâm bạn mới có thể kiên quyết
hƣớng về Giáo Pháp.
Thiền định suy niệm có thể bắt đầu thoát khỏi bám chấp vật chất thế
gian, cuối cùng dẫn đến sự nhàm chán và sợ hãi vòng luân hồi. Đây là
kết quả tự nhiên của thực hành, vì thực hành Giáo Pháp thanh tịnh
không bám chấp vào hiện tƣợng của luân hồi. Sự tin chắc của bạn về
thực hành để đạt giải thoát sẽ gia tăng khi bạn quay lƣng lại với những
quan niệm thông thƣờng của thế gian, thế giới của những hiện tƣợng. Cố
gắng thệ nguyện thực hành Giáo Pháp thanh tịnh và cầu nguyện Guru
Rinpoche ban cho sức mạnh tin tƣởng để hoàn tất con đƣờng, chúng ta
tiếp nhận đƣợc Cam Lồ ban phƣớc của Ngài. Nhờ đó, trong cuộc sống
bình thƣờng nhƣ một chúng sanh, chúng ta có khả năng giác ngộ to lớn.
Nhờ ban phƣớc của Guru Rinpoche, chúng ta nhận ra tâm ta bất khả
phân với tâm trí tuệ không nhiễm ô. Với quan điểm này, hãy an trú trong
thiền định vô tƣớng không phân tích, không tạo tác càng lâu càng tốt…
Đến đây kết thúc phần NGOẠI NGONDRO.
23
CHƢƠNG 3
THỌ QUY Y
Phần chính của Ngondro, NỘI NGON DRO, có 7 phần:
1. Thọ Quy Y,
2. Bồ Đề Tâm: Phát triển Tâm Tỉnh Giác,
3. Cúng Dường Mandala để tích lũy Công Đức và Trí Tuệ,
4. Thiền Định và Trì Tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa để Tịnh Hóa
Chướng Ngại,
5. Thỉnh Cầu Ân Phước và Nhanh Chóng Hợp Nhất với Tâm Guru,
6. Chuyển Di Tâm Thức
7. Bố Thí Thân Thể Hành Giả (CHOD) và Hồi Hướng Công Đức.
Tại sao chúng ta quy y?
Chúng ta quy y để thoát khỏi chu kỳ đau khổ vô tận trong luân hồi. Hoàn
toàn bất lực trong việc bảo vệ chính mình thoát khỏi những đau khổ, bế
tắc không lối thoát, chúng ta cần một vị bảo hộ. Chúng ta trong mối
nguy hiểm to lớn và tuyệt đối không thể giúp đỡ chính mình. Sự nguy
hiểm là mối vô minh của chúng ta mà hậu quả hiển nhiên là đau khổ.
Chúng ta thọ quy y trong nhận thức rằng tâm trí tuệ là sự quy y duy nhất
thật sự hiện hữu.
Chúng ta thọ quy y với ai?
Chúng ta thọ quy y đến Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng đoàn. Chúng ta
quy y với quan điểm và động cơ đúng đắn. Một vị Phật là ngƣời tâm
hoàn toàn thanh tịnh. Một tâm thanh tịnh thì không có lỗi lầm, nó không
nhiễm ô, nó là trí tuệ toàn giác viên mãn, chỉ phô bày những phẩm tính
thanh tịnh. Giáo Pháp là phƣơng pháp hay cách thức, con đƣờng để tịnh
hóa tâm. Tăng Đoàn là những ngƣời bạn đồng hành tâm linh trên con
đƣờng, là những ngƣời đang cố gắng tịnh hóa tâm thức của họ, và là
ngƣời giúp đỡ, hỗ trợ tâm linh bạn phát triển. Phật tánh là đích đến của
chúng ta, Giáo Pháp là phƣơng pháp làm thế nào để chúng ta đến đƣợc
24
đó, và Tăng Đoàn là những ngƣời bạn đồng hành với chúng ta. Đây là
quan điểm và động cơ đúng đắn mà chúng ta thọ quy y.
Nhiều thực hành và giáo lý Ngondro khác nhau hiện hữu trong những
dòng truyền Phật giáo khác nhau, có hai cách dạy thực hành quán tƣởng
về cây quy y: Kiểu Phát Triển và Kiểu Cốt Lõi Hóa.
Kiểu Phát Triển thì rất chi tiết. Một cách tóm tắt kiểu này là, hãy quán
tƣởng Hồ Dhanakosa ở phía trƣớc bạn, ở giữa hồ là một cây nhƣ ý có
năm cành. Guru Rinpoche ngồi ở trung tâm, trên đầu Ngài là những
Guru của dòng truyền, trên cành bên phải Ngài là tất cả chƣ Phật, phía
sau là Giáo Lý và Kinh Điển, ở bên trái là Tăng Đoàn gồm các Thanh
Văn đại diện là các Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên cầm tích trƣợng,
bình bát và Bổn Tôn (của cá nhân hành giả chọn). Trong hƣ không, bao
quanh năm cành này là chƣ Daka và Dakini (những bậc giác ngộ di
chuyển khắp pháp tánh – không gian của chân lý tuyệt đối) và những
Dharmapala - Hộ Pháp (những bậc thệ nguyện bảo vệ giáo lý của Đức
Phật). Nhiều giáo lý NGONDRO sâu rộng bao gồm sự giải nghĩa nhiều
chi tiết hơn.
Tuy nhiên, ngƣợc với kiểu phát triển, thực hành quy y trong bản văn này
sử dụng kiểu quán tƣởng cốt lõi hóa. Ở đây Guru Rinpoche là viên ngọc
nhƣ ý dung chứa mọi sự. Bắt đầu quán tƣởng Guru Gốc của bạn xuất
hiện trong hình tƣớng Guru Rinpoche trong bầu trời phía trƣớc bạn.
Ngài đƣợc bao quanh bởi tất cả chƣ Phật và Bồ Tát trong mƣời phƣơng
và ba thời.
Ngài là tinh hoa của Tam Bảo, Ba Gốc và Ba Thân. Thân của Guru
Rinpoche là Tăng Đoàn, Ngữ của Ngài là Giáo Pháp, Ý của Ngài là
Phật. Đó là Tam Bảo.
Thân Ngài là Guru, Ngữ Ngài là Bổn Tôn và Ý Ngài là Dakini. Đây
là Ba Gốc.
Thân Ngài là Hóa Thân, Ngữ Ngài là Báo Thân, và Ý Ngài là Pháp
Thân. Đây là Ba Thân.
25
Quán tƣởng thân Guru Rinpoche màu trắng hơi hồng, biểu tƣợng cho trí
tuệ và phƣơng tiện thiện xảo. Ngài ngồi trong tƣ thế “vui chơi của hoàng
gia”, chân phải hơi duỗi. Tay phải Ngài cầm một chày kim cƣơng đại
diện cho trí huệ kim cƣơng bất hoại. Trong thế ấn phẫn nộ, đƣợc gọi là
“hàng phục bằng sự huy hoàng”. Tay trái Ngài cầm một chén sọ ngƣời,
trong đó là một bình trƣờng thọ tràn đầy Cam lồ trí tuệ bất tử, biểu
tƣợng cho sự ban thành tựu thông thƣờng và tối thƣợng. Nút của bình
trƣờng thọ là một viên ngọc nhƣ ý. Ngài mặc bốn lớp áo: lớp áo choàng
màu trắng tinh khiết biểu tƣợng cho y của hành giả mật thừa kim cƣơng
bí mật và sự không dấu vết nhiễm ô; choàng lên lớp này là một áo
choàng có hai tay dài màu xanh dƣơng, biểu tƣợng cho tâm Giác tánh
nguyên thủy liên hệ đến Đức Phật Phổ Hiền Nguyên Thủy Saman-
tabhadra; bên ngoài là một lớp y áo tu sĩ màu đỏ với trang trí màu vàng,
biểu trƣng ngài không chỉ tinh thông, nắm vững giáo lý Mật thừa mà
ngài còn nắm vững giáo lý các thừa kinh giáo khác. Trang phục bên
ngoài cùng là một áp choàng hoàng gia của nhà vua, biểu trƣng là ngài
là một Pháp Vƣơng – vị vua Pháp có nguồn gốc xuất thân hoàng tộc.
Ngài đội một nón bằng da hƣơu hình hoa sen (mũ mềm của dòng Liên
Hoa – da hƣơu tƣợng trƣng cho lòng từ mẫn, quan tâm tha thiết tới
chúng sinh bởi hƣơu là loại vậy đƣợc biết là có sự chăm lo, thƣơng yêu
dành cho con cái tốt nhất, hoa sen tƣợng trƣng cho dòng Liên Hoa của
Đức Phật Amitabha là dòng phái Ngài thuộc về), trên chóp là một nửa
chày kim cƣơng và một lông chim kên kên. Trong khuỷu tay trái Ngài là
một chĩa ba Khatvanga, biểu tƣợng sự bất khả phân với phối ngẫu trí tuệ
và sự hàng phục ba độc. Quán tƣởng sắc tƣớng trí tuệ thanh tịnh ba
chiều của Ngài đƣợc tạo bởi ánh sáng cầu vồng. Sắc tƣớng trí tuệ là một
dạng hóa thân lƣu xuất tuy có hình dạng nhƣng lại không thật có nhƣ
cầu vồng trên bầu trời.
Tất cả cõi Phật, hiện tƣợng phi thƣờng của trí tuệ đều viên mãn trong
thân Ngài, và thân Ngài tỏa khắp cõi Phật không chƣớng ngại.
26
Sau đó quán tƣởng cha bạn ở bên phải, mẹ bạn ở bên trái, kẻ thù bạn ở
phía trƣớc, đƣợc bao quanh bởi tất cả sinh linh toàn trái đất, cảm nhận
rằng bạn dẫn dắt tất cả chúng sinh thọ quy y nơi Tam Bảo cho đến khi
tất cả đạt đƣợc Phật Quả.
Hãy bày tỏ lòng tôn kính sâu sa qua việc cúng dƣờng thân, khẩu, ý đến
Guru Rinpoche một cách hoàn toàn tin tƣởng! Đảnh lễ, lễ lạy bằng thân
bạn và niệm bài nguyện quy y bằng ngữ, phát triển niềm tin bất biến và
lòng sùng mộ bằng ý, bạn niệm:
Di zung changchub nyingpo matob bar
From now until I obtain the essence of enlightenment,
Từ lúc này cho đến khi đạt đƣợc cốt tủy của Giác ngộ,
Lama könchok sum la kyab su chi
I take refuge in the Lama, the Buddha, Dharma and Saṅgha.
Con thọ quy y nơi Lama, Bậc hiện thân của Tam Bảo
Thực hiện lễ lạy khi bạn niệm hai dòng quy y này. Để lễ lạy, bạn đứng
hai chân cùng nhau, hai tay chắp lại trong thủ ấn “nụ hoa sen” của niềm
tin và sự sùng mộ. Với ấn này, chạm lên đỉnh đầu, cổ họng và giữa ngực
khi lễ lạy. Dùng ấn nụ hoa sen chạm lên ba nơi này để tịnh hóa những
nhiễm ô của ba cửa (thân, khẩu, ý), và tiếp nhận Ân Phƣớc, Gia Trì của
ba Vajra kim cƣơng: Thân Kim Cƣơng, Ngữ Kim Cƣơng, Tâm Kim
Cƣơng Giác Ngộ của Guru Rinpoche. Sau đó chạm năm điểm của thân
bạn xuống đất. Năm điểm này là trán, hai bàn tay và hai đầu gối. Chạm
năm điểm này xuống đất có thể đóng cánh cửa tái sinh vào luân hồi. Cúi
xuống, chạm hai bàn tay và đầu gối xuống đất, trƣợt thân nằm sấp
xuống, hai bàn tay để lên đầu trong lúc trán chạm đất.
Lễ lạy nhƣ vậy giúp tịnh hóa những nhiễm ô của thân, giúp cơ bắp khỏe
mạnh, tẩy tịnh những cơ quan, gia tăng tuổi thọ, công đức và hàng phục
kiêu mạn. Để hoàn tất phần này của Ngondro, bạn phải lễ lạy 100.000
lần. Nói chung, phải thêm vào 10% để sửa chữa những sơ suất, lỗi lầm
khi lễ lạy, nhƣ vậy tổng cộng là 110.000 lần.
27
Thọ quy y là lối vào Phật Đạo và là nền tảng của tất cả các thệ nguyện
(samaya) khác. Mặc dù có nhiều thệ nguyện trong hệ thống Phật Giáo,
nhƣng quy y là nền tảng tuyệt đối và trƣớc nhất. Khi bạn thọ nguyện
này, bạn thật sự bắt đầu trên con đƣờng Phật Pháp.
Thệ nguyện có nhiều chi tiết, nhƣng điểm chính yếu là tránh làm tổn hại
mạng sống của tất cả chúng sanh. Đạo Phật nhận ra rằng nguyên nhân
của mọi đau khổ là làm tổn hại ngƣời khác. Nhờ từ bỏ tâm gây tổn hại
và những hành vi bất thiện, nguyên nhân gây đau khổ sẽ bị loại trừ và
đƣợc an định.
Thọ nguyện quy y là lợi ích vô tận. Đức Phật nói rằng bất kỳ ai nghe
đƣợc danh hiệu của Tam Bảo thì sẽ có rất nhiều lợi ích mà bầu trời dù là
rất to lớn cũng sẽ trở nên quá nhỏ không chứa đƣợc hết các công đức,
ích lợi ấy. Khi có ngƣời nào đó với một tâm chân thành, trong sáng thọ
quy y nơi Tam Bảo, công đức ngƣời đó đạt đƣợc là bất khả tƣ nghị
(không thể nghĩ bàn) vì quá bao la, rộng lớn.
Tinh hoa của thực hành quy y là niềm tin và sự sùng kính bất biến,
không gì có thể lay chuyển. Không có đƣợc loại niềm tin này, tâm bạn
không thể rộng mở. Khi tâm bạn rộng mở, nó trở nên mềm mại, nhu
nhuyễn và sẵn sàng đón nhận lòng từ bi của chƣ Phật nhƣ một cái móc
gắn chặt niềm tin và lòng sùng kính của bạn. Không có niềm tin thì
không có nối kết thực sự với Giáo Pháp – ở đây không phải là lòng tin
mù quáng mà là lòng tin thông tuệ, thoát khỏi mọi nghi ngờ và mê lầm.
Vì Giáo Pháp là thanh tịnh và là con đƣờng không lỗi, Đức Phật thì
giống nhƣ mặt trời chiếu rọi ánh sáng rực rỡ trên lớp tuyết trắng dầy bao
phủ một trái núi. Với lòng sùng kính, những tia sáng niềm tin của bạn có
thể làm tan chảy dòng tuyết Cam lồ ân phƣớc của Đức Phật. Vậy, với
niềm tin và sự sùng kính thanh tịnh, hãy niệm hai dòng quy y này. Trong
khi niệm một lần, bạn cũng đảnh lễ, lễ lạy một lần, rồi tiếp đến hai dòng
phát triển Bồ Đề Tâm ở chƣơng tiếp theo.
28
29
CHƢƠNG 4
BỒ ĐỀ TÂM: PHÁT TRIỂN TÂM TỈNH GIÁC
Trong khi thọ quy y là tinh hoa của con đƣờng Tiểu Thừa (Hinayana),
thì thực hành Bồ Đề Tâm là tinh hoa của con đƣờng Đại Thừa. Nó có
nghĩa là “quan điểm giác ngộ vĩ đại” và có hai phƣơng diện. Trƣớc tiên
Bồ Đề Tâm Tƣơng Đối, là tâm của lòng đại bi. Thứ hai, Bồ Đề Tâm
Tuyệt Đối, là hƣ không rộng mở và đại rộng mở. Khi bạn đạt đƣợc giác
ngộ thực sự, cả hai điều này là bất khả phân bởi tinh hoa của tánh Không
là lòng Bi.
Bồ Đề Tâm Tƣơng Đối có hai khía cạnh, đó là Bồ Đề Tâm Nguyện và
Bồ Đề Tâm Hành.
Bồ Đề Tâm Nguyện là mong ƣớc tất cả chúng sanh đạt đƣợc Phật tánh,
để họ giải thoát khỏi đau khổ và không xa rời hạnh phúc. Bồ Đề Tâm
Nguyện bao gồm Tứ Vô Lƣợng Tâm: Từ, Bi, Hỷ và Xả.
Thiền định về XẢ, có nghĩa là nhận ra bản chất của tất cả chúng sanh
đều bình đẳng. Quan điểm này phải đƣợc phát sinh để phát triển Bồ Đề
Tâm. Để ngăn chặn một xu hƣớng và thiên kiến, hãy luôn bắt đầu thực
hành của bạn bằng việc thiền định về bình đẳng (xả). Thiên kiến tập
trung gây ra bởi quan niệm tạo tác có giới hạn của tâm nhƣ: bạn – thù,
thích – không thích… Sự duy trì hiện tƣợng thiên kiến tập trung nhị
nguyên này đồng nghĩa với luân hồi. Nếu giới hạn khả năng chúng ta để
tiếp nhận tất cả chúng sanh là bình đẳng, thì làm sao chúng ta có thể phát
triển quan điểm bao la và vô hạn của lòng Từ, Bi và Hoan Hỷ với tất cả
chúng sanh?
Gốc rễ của vấn đề là tâm nhị nguyên, cái tâm luôn chọn một bên, cái tâm
luôn phân biệt thù hay bạn, từ chối hay chấp nhận… Trong chân lý,
không có lý do để tạo ra những khái niệm giới hạn này. Chúng ta nhận
thức rằng tất cả chúng sanh hoàn toàn có mối quan hệ với mình. Họ đã
từng là cha - mẹ, bạn bè, họ hàng và kẻ thù của chúng ta vào một lúc nào
đó, và giờ đây họ có thể là kẻ địch. Nhƣng, chúng ta hoàn toàn chắc rằng
30
mọi sự đều vô thƣờng, vậy rất có thể trong tƣơng lai kẻ thù sẽ trở thành
bạn của chúng ta.
Trong một phạm trù rộng hơn, khi kẻ thù đƣợc xem là đem lại tổn hại thì
họ vẫn có thể là sự giúp đỡ chúng ta. Nhờ lòng tốt, họ có thể chỉ ra
những lỗi lầm của chúng ta. Do khảo sát thành thật những gì họ nói,
chúng ta có thể thấy đƣợc một số sự thật. Nếu ai đó nói sự thật, tại sao
chúng ta lại phải giận dữ hay phản đối họ?
Nhờ nhận ra và chấp nhận lỗi lầm của mình, chúng ta có đƣợc những
phẩm tính của trí tuệ. Đây cũng là những gì mà vị Thầy làm cho chúng
ta. Công việc của vị Thầy là chỉ ra những lỗi lầm của chúng ta và hƣớng
dẫn cách để gỡ bỏ chúng. Đây là con đƣờng để đạt đƣợc trí tuệ.
Vậy, hãy bắt đầu thiền định của bạn bằng cách xây dựng sự điềm đạm
của bình đẳng, điều có thể làm phát sinh khả năng yêu thƣơng không
giới hạn và vô điều kiện. Hãy nhận biết rằng có biết bao nhiêu chúng
sanh đã giúp đỡ và yêu thƣơng bạn trong quá khứ từ vô lƣợng kiếp! Khi
nghĩ về điều này, sự mong muốn đáp trả lại lòng từ ái của họ sẽ tự nhiên
bộc lộ trong bạn.
Quan điểm TỪ là kết quả của việc nhận ra rằng tất cả chúng sanh đã
từng là cha, mẹ trong vô số kiếp tái sinh của chúng ta. Họ đã cho chúng
ta sự sống, một thân thể và săn sóc, chăm lo cho chúng ta, họ đã hy sinh
rất nhiều điều cho chúng ta. Hãy nghĩ về lòng từ ái đó, hãy cảm nhận
lòng bi mẫn của họ và dần dần gợi lên một cảm nhận biết ơn vô bờ và
yêu thƣơng chân thật với họ. Hãy thiền định về những ngƣời đã từng tốt
nhất với bạn trong đời này. Họ hoàn toàn giống nhƣ những chúng sanh
đã sống với bạn trong những kiếp quá khứ. Hãy tạo ra lòng Từ bình
đẳng cho tất cả những ngƣời đó khi bạn nhận ra quà tặng của họ. Nếu có
ai tốt nhƣ vậy, bạn phải đáp trả lại lòng tốt của họ. Bạn có thể đáp trả họ
nhờ thực sự phát sinh một quan điểm từ ái vô lƣợng.
Bây giờ hãy phát triển lòng BI vô lƣợng cho tất cả chúng sanh. Họ
không có ý niệm về những gì gây ra đau khổ cho họ, và cùng lúc họ chỉ
thực sự muốn hạnh phúc. Chúng sanh không có ý niệm về sự khác biệt
31
giữa hành động thiện và bất thiện, do vậy vô tình họ tiếp tục tạo ra nhiều
nghiệp bất thiện hơn. Do vô minh và vì mong muốn hạnh phúc, mọi sự
họ làm ra càng tạo thêm nhiều đau khổ. Mong ƣớc rằng tất cả chúng
sanh đƣợc thoát khỏi đau khổ sẽ phát khởi tự nhiên và cùng lúc từ việc
suy niệm về nỗi đau khổ của ngƣời khác và những nguyên nhân gây ra
nó. Hãy nhận biết rằng nỗi đau khổ của họ thật to lớn xiết bao, và hãy có
lòng khoan dung trên những chúng sanh nghèo khổ này vì họ không có ý
niệm làm thế nào để thoát khỏi chu kỳ luẩn quẩn vô tận này. Hãy phát
sinh một cảm nhận của lòng Bi vô lƣợng với họ. Hãy nhận ra rằng thật
may mắn biết bao khi bạn đã gặp đƣợc một con đƣờng với khả năng dẫn
dắt bạn ra khỏi vòng luân hồi ghê sợ này.
Hãy phát triển một cảm nhận Hoan Hỷ vô lƣợng khi bạn quán chiếu về
những phẩm tính tốt của những chúng sanh khác. Hãy hiểu và nhận biết
hạnh phúc của họ, hãy cảm thấy hoan hỷ với họ. Hãy tạo một mong ƣớc
rằng họ sẽ đạt đƣợc Phật Quả. Hãy cố gắng nhận ra những phẩm tính
tích cực, đáng quý của ngƣời khác, hãy phát triển mong ƣớc rằng những
phẩm tính tích cực của họ ngày càng đƣợc gia tăng nhiều hơn và những
ngƣời khác sẽ tranh đua với họ để thế giới này, cuộc sống này có thêm
những phẩm chất tích cực, thiện lành. Hãy thiền định về một ngƣời có
tính cách tuyệt vời rồi sau đó trải rộng cái thấy này với ƣớc muốn tất cả
chúng sanh đều có những phẩm tính tuyệt vời nhƣ vậy. Cầu nguyện
những phẩm tính này tăng trƣởng và phát triển trong tất cả chúng sanh.
Với động cơ tƣơng tự, hãy mong ƣớc rằng tất cả chúng sanh không bao
giờ tách rời với hạnh phúc tối thƣợng của Phật Quả và những nguyên
nhân của hạnh phúc đó.
Kế tiếp, hãy cầu nguyện cho chúng sanh vĩnh viễn tách rời khỏi đau khổ
và những nguyên nhân gây đau khổ, rồi họ kinh nghiệm đƣợc hạnh phúc
tối thƣợng viên mãn, vƣợt khỏi bất kỳ loại đau khổ nào. Sau đó quán
chiếu về những cảm xúc tích cực phát sinh khi chúng ta biết rằng những
chúng sanh đó không còn đau khổ và thiền định về sự Hoan Hỷ này.
Đó là Bốn Tâm Vô Lƣợng.
32
Bồ Đề Tâm Hành là hoạt động hoàn thành thực sự của Bồ Đề Tâm. Bồ
Đề Tâm Nguyện thì giống nhƣ mong ƣớc một ai đó có đƣợc 1.000 USD,
còn Bồ Đề Tâm hành thì giống nhƣ việc đi kiếm đƣợc 1.000 USD rồi
mang nó đi cho ngƣời nào đó.
Ví dụ về 1.000 USD chỉ là dẫn chứng, cho tiền bạc thì cũng tốt nhƣng
chƣa phải là cách giúp đỡ rốt ráo và thực sự. Cách duy nhất bạn có thể
thực sự giúp đỡ chúng sanh là đạt đƣợc Phật Tánh. Chỉ nhƣ vậy bạn mới
có năng lực tạo ra một số lợi ích lâu dài và thực sự cho ngƣời khác.
Hành Động cụ thể của Bồ Đề Tâm Hành là thực hành Lục Độ Ba La
Mật (Sáu Phƣơng Tiện Rốt Ráo):
1. Bố Thí, hay cho đi, ban tặng của cải vật chất (tài thí) – điều này
cũng có nghĩa là bố thí Pháp (Pháp thí), ban cho sự bảo vệ giúp
người khác tránh khỏi sự sợ hãi, lo lắng (Vô úy thí) và cứu giúp
mạng sống (Tình thương thí)
2. Trì Giới, hay tích lũy những hành động đạo đức, tránh làm những
hành đông bất thiện và giữ động cơ luôn vì lợi ích người khác.
3. Nhẫn Nhục trong thực hành, kiên nhẫn với người khác và nhẫn
nại khi nghe và thực hành Giáo Pháp .
4. Tinh Tấn, hay lòng can đảm và tự tin rằng bạn có thể thực hiện
khả năng thành Phật và tinh tấn thực hành không mệt mỏi, không
ngơi nghỉ vì tương lai là vô thường và không thể lường trước được.
5. Thiền Định, tất cả chúng sanh kinh nghiệm cảm xúc của ba đọc là
tham, sân và si. Trên con đường, khi bạn thiền định thì ba độc này
được chuyển hóa thành ba kinh nghiệm, đó là: trong sáng, cực lạc
và hư không hay vô niệm. Ở bình diện kết quả, ba kinh nghiệm này
chuyển hóa thành ba thân. Trên con đường thì đó là ba kinh
nghiệm của Samadhi (Đại Định) hay kinh nghiệm. Điều này giống
như sự thiền định của một đứa trẻ. Trong giai đoạn thứ hai, sự
bám chấp vào kinh nghiệm biến mất, nhưng vẫn còn một ít bám
chấp vi tế vào tánh Không. Trong giai đoạn thứ ba của thiền định,
ngay cả sự bám chấp vi tế vào tánh Không cũng được cắt bỏ và
thiền giả an trụ trong Giác Tánh vô niệm thâm sâu của bản tánh
33
tuyệt đối. Lúc này, kinh nghiệm có thể đến và đi giống như mây
trong bầu trời, nhưng sự nhận biết thì bất biến như tự thân bầu
trời. Ba thân này được nhận biết là bất khả phân vì chúng chưa
từng tách biệt từ vô thủy. Đó là loại năng lực kết quả của Thiền
Định Ba La Mật.
6. Trí Huệ, có thể chia thành ba phạm trù: giáo dục, suy niệm và
thiền định.
Trước tiên, giáo dục ám chỉ trí tuệ cần phải được tích lũy kiến
thức tùy theo luân hồi và niết bàn. Giáo dục theo quan điểm luân hồi
bao gồm học hỏi tri kiến như ngôn ngữ, y khoa, cơ khí, máy tính v.v…
Tri kiến theo niết bàn bao gồm mọi sự giảng dạy Giáo Pháp: Luận
giảng, Sutra (Kinh), và Tantra (Mật Điển). Hành giả phải tự giáo dục
nhờ lắng nghe và thông hiểu không sai lạc. Học hỏi Giáo Pháp càng
nhiều càng tốt nhờ lắng nghe giáo lý, đọc kinh sách và học hỏi những
người thành thạo đi trước. Đây là trí tuệ của sự giáo dục.
Thứ hai, trí tuệ đạt được nhờ suy niệm, cho phép một niềm tin
sinh ra từ trí tuệ xuất hiện. Tin tưởng vào điều gì đó là thật chỉ do
nghe nói mà không tự mình xem xét có thể gây ra một niềm tin mù
quáng hay khờ dại. Loại niềm tin này thiếu đi trí tuệ. Vậy, hãy quán
chiếu sâu sa về giáo lý thanh tịnh của Đức Phật cho đến lúc nhận
thức của bạn chín mùi và mọi nghi ngờ được loại bỏ. Khi bạn đã xây
dựng được một sự hiểu biết vượt lên bất kỳ mê mờ nào như tính
không thể sai lầm của giáo lý, có thể là qua quá trình đúc kết, va vấp
và trải nghiệm của chính bạn, thì đây là trí tuệ của sự suy niệm. Cho
tới lúc đó, bạn vẫn phải tiếp tục suy niệm về giáo lý.
Thứ ba, trí tuệ của thiền định, hay được gọi là trí huệ, là trí tuệ
đạt được nhờ áp dụng ngữ và nghĩa của giáo lý. Làm điều này mà
không tri thức hóa và không lỗi. Qua thiền định, bạn đạt được giác
ngộ, đó là biểu hiện của thật sự bản tánh trí tuệ của tâm bạn.
Để tóm tắt, trí tuệ của ba la mật thứ sáu, có nghĩa là bạn tự
giáo dục về Giáo Pháp, không được hiểu lầm, thậm chí chỉ một chữ,
hãy suy niệm giáo lý sâu sa để sự hiểu biết không bị lỗi lầm, sau đó
34
thiền định và áp dụng những hiểu biết của bạn. Kết quả này đạt được
trong giác ngộ thanh tịnh mà không có bất kỳ lầm lỗi nào.
Bồ Đề Tâm Tuyệt Đối là sự Giác Ngộ Tối Hậu của Đại Hƣ Không,
Tâm Yếu của Lòng Bi. Tánh Không này không giống nhƣ một tử thi.
Nó có phẩm tánh của sự chói sáng vô chƣớng ngại của lòng Bi. Tánh
Không và Lòng Bi thì hoàn toàn bất khả phân. Đó là điểm trọng yếu
của động cơ Bồ Đề Tâm và là điểm trọng yếu của mọi thực hành
Pháp. Trong lúc niệm những dòng dƣới đây trƣớc Guru Rinpoche,
bạn hãy thọ một giới nguyện mạnh mẽ từ đáy lòng để thật sự giải
thoát tất cả chúng sanh vào trạng thái của Phật Tánh.
Theo truyền thống, túc số niệm phát Bồ Đề Tâm là 100.000 lần. Tuy
nhiên điểm chính yếu không phải là tính đếm, mà là lòng Bi chân
thành khởi lên một cách tự nhiên và đƣợc phát triển. Trong trƣờng
hợp này, hãy niệm hai dòng sau đây kết hợp với đảnh lễ:
Da né zung té khorwa matong bar
Từ bây giờ cho đến khi luân hồi trống rỗng,
Magyur semchen kün gyi pendé drub
Con nguyện hoàn tất những hạnh phúc và lợi ích cho tất cả chúng
sinh (những ngƣời đã từng là cha mẹ của chính con)
Vào lúc cuối thời công phu, chúng ta quán tƣởng ánh sáng trắng trong
suốt có tính chất của Cam lồ bắt nguồn từ Guru Rinpoche phóng ra tràn
ngập chúng ta cùng chúng sanh. Khi tiếp xúc với ánh sáng này, chúng ta
và tất cả chúng sanh đều đƣợc ban phƣớc, mọi nhiễm ô của thân, khẩu, ý
liền đƣợc tịnh hóa. Ngay lập tức, chúng ta và tất cả chúng sanh, giống
nhƣ một đàn chim bay lên và tan hòa vào Guru Rinpoche, sau đó Ngài
tan hòa vào sự đại rộng mở của Pháp Thân, Hƣ Không Tuyệt Đối của
Chân Lý. Rồi chúng ta an trụ trong trạng thái đó – Bồ Đề Tâm Tuyệt
Đối của Đại Hƣ Không.
35
CHƢƠNG 5
CÚNG DƢỜNG MANDALA
Cúng dƣờng mandala để tích lũy công đức và trí tuệ, và là một giải độc
cho tính keo kiệt, bủn xỉn. Tất cả chúng sanh, bao gồm con ngƣời, có hai
“nhiễm ô” ngăn che Phật tánh. Những che chƣớng này là trạng thái cảm
xúc thô và tập khí vi tế của cảm xúc. Công đức và trí tuệ là hai phƣơng
pháp của sự tích lũy làm tịnh hóa hai che chƣớng này. Trên con đƣờng,
sự tích lũy công đức và trí tuệ là kết quả của việc đạt đƣợc Hai Thân
(Pháp Thân và Sắc Thân - Sắc Thân bao gồm Báo Thân và Hóa Thân).
Sự tích lũy công đức và trí tuệ cũng là kết quả đạt đƣợc hai mục tiêu:
Đạt giác ngộ cho chính hành giả và đạt đƣợc giác ngộ vì lợi ích ngƣời
khác. Không thể hoàn tất trạng thái giác ngộ của Phật tánh nếu không
tích lũy hai điều này.
Khi cúng dƣờng mandala, hãy quán tƣởng dâng cúng mọi thứ mà bạn có
thể hình dung và không thể hình dung đến Tam Bảo. Điều này bao gồm
tất cả tài sản và những phẩm tính đã tích lũy trong quá khứ, hiện tại và
tƣơng lai. Quán tƣởng sự cúng dƣờng lớn nhƣ núi Tu Di, bao quanh là
bốn châu lục. Giữa mỗi châu lục là hai châu lục phụ, tổng cộng là mƣời
hai. Những châu lục, châu lục phụ và núi Tu Di đƣợc bao quanh bởi bảy
ngọn núi vàng. Lần lƣợt, những thứ này đƣợc bao quanh bằng bảy đại
dƣơng. Toàn bộ quán tƣởng đƣợc bao quanh bằng một đƣờng biên. Tất
cả điều này đƣợc gọi là một vũ trụ.
Bây giờ nhân việc quán tƣởng một vũ trụ này lên một ngàn lần tạo thành
một ngàn vũ trụ bậc một, nhân một ngàn vũ trụ bậc một này lên một
ngàn lần tạo thành một ngàn vũ trụ bậc hai, nhân một lần nữa với một
ngàn lần thành một ngàn hệ thống thế giới bậc ba (1000 x 1000 x 1000).
Ba ngàn thế giới này tràn ngập mọi thứ mà tâm có thể tƣởng tƣợng đƣợc
và không thể tƣởng tƣợng đƣợc, bao gồm: núi châu báu, cây nhƣ ý, bò
ƣớc, ruộng phƣớc tự sinh, bình báu, mƣời sáu thiên nữ cúng dƣờng dâng
cúng các phẩm chất đáng ao ƣớc nhƣ sắc, thanh, hƣơng, vị, xúc, pháp,
hoa, hƣơng thơm, đèn, nƣớc hoa, thực phẩm v.v…; tám biểu tƣợng cát
tƣờng: lọng báu, cá vàng, tịnh bình, hoa sen, ốc xà cừ trắng, nút thắng
36
vinh quang thịnh vƣợng vĩnh cửu, cờ chiến thắng, bánh xe pháp luân.
Cũng bao gồm cả bảy báu tƣợng trƣng cho vƣơng quyền nhƣ: bánh xe
báu, ngọc nhƣ ý, hoàng hậu báu, tể tƣớng báu, voi báu, ngựa báu, đại
tƣớng báu.
Tóm lại là mọi tài sản quý giá nhất của Trời, Rồng và Ngƣời cùng mọi
phẩm tính phong phú có thể nhận thức đều đƣợc dâng cúng. Vũ trụ bên
ngoài tràn đầy những phẩm tính này. Hãy cúng dƣờng với niềm tin thanh
tịnh và không bám chấp. Trong cách này, NGOẠI CÚNG DƢỜNG
MANDALA đƣợc dâng cúng đến Tam Bảo.
NỘI CÚNG DƢỜNG MANDALA là sự cúng dƣờng thân thể, tài sản và
mọi công đức tích lũy trong ba thời của bạn: quá khứ, hiện tại và tƣơng
lai. Phần thân của bạn tƣợng trƣng Núi Tu Di; hai tay và chân tƣợng
trƣng cho bốn châu lục; hai mắt bạn là mặt trời và mặt trăng.
Trong việc cúng dƣờng thân thể, hãy nghĩ tất cả những thân mà bạn đã
có trong vô số kiếp, thân hiện nay và tất cả thân khác trong tƣơng lai.
Suy nghĩ tƣơng tự về mọi tài sản của bạn trong những kiếp trƣớc, trong
đời này và tất cả tài sản bạn sẽ có trong tƣơng lai. Hãy xem xét bạn đã
tích lũy bao nhiêu công đức trong quá khứ, đang tích lũy hiện nay và sẽ
tích lũy trong tƣơng lai. Kế tiếp, không chỉ xem xét của bạn mà còn xem
những tích lũy của ngƣời khác, nhƣ chƣ Phật, chƣ Bồ Tát. Tất cả đƣợc
gom lại và dâng cúng khắp ba thời là nội cúng dƣờng mandala. Khi
không có sự suy tính trong một cúng dƣờng không bám chấp, dâng cúng
những điều này không có bất kỳ mong đợi nào bạn sẽ đƣợc đáp trả lại
mọi thứ.
Trong CÚNG DƢỜNG MANDALA BÍ MẬT, Ba Thân của cõi Phật
đƣợc dâng cúng đến Tam Bảo. Ba Thân – Pháp Thân, Báo Thân và Hóa
Thân – là sự hiển bày của trí tuệ và thân Phật đƣợc biểu hiện nhƣ cõi
Phật. Những cõi Phật này đƣợc cúng dƣờng đến Tam Bảo (Phật, Pháp và
Tăng Đoàn).
Trạng thái hoàn toàn thanh tịnh, tuyệt đối thanh tịnh từ vô thủy là PHÁP
THÂN. Có khả năng vô chƣớng ngại để biểu hiện tính sáng rõ ràng, sự
37
hiển bày của Báo Thân, bất khả phân với Pháp Thân. Viên mãn một cách
tự nhiên, khía cạnh này với những phẩm tính hỷ lạc phong phú biểu hiện
nhƣ cõi Phật của năm điều chắc thật: Thời gian, Nơi chốn, Vị Thầy,
Giáo Lý và Quyến thuộc. Sự đại hiển bày của hiện tƣợng thanh tịnh này
xuất hiện vô chƣớng ngại, biểu hiện tỏa khắp nhƣ hình tƣớng. Năng
lƣợng tỏa khắp phi chƣớng ngại này biểu hiện mọi thân tƣớng tích cực là
Hóa Thân. Hãy nhận biết rằng Ba Thân này hoàn toàn bất khả phân.
Tất cả cúng dƣờng liên quan đến bên ngoài, bên trong và bí mật đều viên
mãn trong Ba Thân – trạng thái của chân lý tuyệt đối. Ở đây, ngƣời cúng
dƣờng, đối tƣợng cúng dƣờng và bản thân sự cúng dƣờng đƣợc xem là
bất khả phân với Ba Thân. Trong trạng thái vô niệm, hãy dâng cúng với
hiểu biết và nhận thức bất nhị này. Cúng dƣờng mandala bí mật này là
sự dâng cúng vô song và tối thƣợng. Cúng dƣờng mandala bên ngoài và
bên trong để tích lũy công đức; cúng dƣờng mandala bí mật để tích lũy
trí tuệ.
Để làm một mandala, bạn sẽ cần hai mandala. Cái đầu tiên gọi là
“mandala để hỗ trợ thành tựu”, đƣợc đặt trên bàn thờ và quán tƣởng nhƣ
một cây quy y. Mandala hỗ trợ này đƣợc làm bằng ba vòng đặt trên một
đĩa mandala với những nhúm dâng cúng, tổng cộng là 37 nhúm. Nếu bạn
không có những vòng này thì có thể đặt một nhúm gạo trên đĩa mandala
ở bàn thờ. Thứ hai là cúng dƣờng mandala đƣợc giữ trong lòng của bạn
(hình 5). Ngoài ra, bạn sẽ cần gạo, hạt giống, ngũ cốc hay đá quý. Đá
quý là tốt nhất. Nếu bạn sử dụng gạo hay ngũ cốc, hãy nhuộm gạo bằng
màu vàng nghệ. Quán tƣởng mỗi hạt gạo là một hệ thống ba ngàn thế
giới nhƣ đã mô tả ở trên. Trải một tấm vải trong lòng bạn khi ngồi để giữ
đĩa gạo. Tay trái giữ một nhúm gạo và đĩa. Tay phải kết ấn Kim Cƣơng
Quyền, giữ một ít gạo bằng ngón cái và ngón giữa, niệm mantra 100 âm
trong lúc dùng cổ tay phải chà xát lên đĩa mandala theo chiều kim đồng
hồ cho đến khi hoàn tất tụng niệm. Sau đó đặt gạo từ giữa những ngón
tay phải bạn vào lại nhúm gạo trong lòng. Dùng tay này lấy một vốc tay
gạo và làm thành bảy nhúm trên mặt đĩa. Nhúm đầu tiên ở giữa đĩa, đại
diện cho Núi Tu Di. Sau đó làm bốn nhúm: Trên, Phải, Dƣới và Trái -
đại diện cho bốn châu lục. Nhúm thứ sáu đặt cùng chỗ với nhúm thứ hai,
38
nhúm thứ bảy đặt cùng chỗ với nhúm thứ tƣ. Hai nhúm cuối này tiêu
biểu cho mặt trời và mặt trăng. Sau khi hoàn tất những nhúm này, dùng
mặt dƣới cổ tay phải chùi theo chiều kim đồng hồ. (Đồ cúng dƣờng sẽ
rơi và vãi). Hãy nghĩ đĩa mandala này là biểu tƣợng thanh tịnh của tâm
bạn. Khi chà cổ tay trên đĩa, hành động chà xát làm hệ thần kinh Bồ Đề
Tâm đi qua cổ tay làm tịnh hóa những chƣớng ngại trong tâm bạn.
Khi bạn cúng dƣờng mandala, hãy niệm hai dòng sau:
Tserab kün gyi lü dang longchö pal
In all my lives, my body, my possessions and all my merits,
Con cúng dƣờng thân thể, của cải, những hƣởng thụ và vinh quang
từ mọi kiếp sống của con,
Tsok nyi dzok chir könchok sum la bul
I offer to the Refuge (Buddha, Dharma and Saṅgha)
in order to accumulate merit and wisdom.
Lên Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) để hoàn thành
sự tích lũy công đức và trí tuệ
Idam Ratna Mandala Kam Nirya Tayami
Niệm những dòng này một lần là một cúng dƣờng. Niệm tích lũy
100.000 lần nhƣ vậy là hoàn thành phần này của Ngondro. (Trong thực
hành hàng ngày, khi bạn không thể niệm để tích lũy thì ấn “mandala” có
thể sử dụng (hình 6).
Vào lúc cuối mỗi thời công phu, hãy quán tƣởng Guru Rinpoche tan hòa
vào bạn và tất cả chúng sanh. Hãy cảm nhận rằng bạn đã tích lũy công
đức và trí tuệ bao la. Đây là phƣơng tiện thiện xảo hay phƣơng pháp
dùng để tích lũy công đức và trí tuệ.
39
Hình 5: Trên Mặt Đĩa Mandala
Hình 6: Ấn Cúng Dƣờng Mandala
1 5
2
6
3
4
7
40
41
CHƢƠNG 6
KIM CƢƠNG TÁT ĐỎA
Thực hành Kim Cƣơng Tát Đỏa để tịnh hóa tất cả nghiệp bất thiện đã
tích lũy trong quá khứ. Nó là một sự sám hối sử dụng Bốn Năng Lực để
hoàn thành việc tịnh hóa:
1. Bổn Tôn là sự hỗ trợ,
2. Cảm Giác Hối Hận,
3. Phương Pháp là Cam Lồ ban xuống,
4. Thệ Nguyện không bao giờ tái phạm những hành động bất thiện.
Chiwor lama dorsem yermé pé
Above my head is the Lama, inseparable from Vajrasattva.
Trên đỉnh đầu con là Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa,
bất khả phân với vị Lama gốc của con,
Ku lé dütsi gyün bab drib jang gyur
From his body flows a stream of nectar that purifies all our negative
karma, destructive emotions, illnesses, destructive influences
(negativity), and blockages due to digpa (negative actions) and dripa
(obscurations).
Từ thân Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa, một dòng Cam Lồ chảy xuống
tịnh hóa mọi chƣớng ngại của con
Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa ngồi trên một hoa sen ngàn cánh. Trên hoa sen
là một đĩa mặt trăng. Một chữ HUM màu trắng xuất hiện trên đĩa. Chữ
HUM trở thành Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa hợp nhất với phối ngẫu
Nyema Karmo (Vajratopa).
Quán tƣởng Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa trên đỉnh đầu bạn, cách đỉnh đầu
khoảng bốn ngón tay. Ngài chứng minh cho sự sám hối của bạn và là
phƣơng diện tinh hoa của năm gia đình Phật. Tinh hoa của Ngài chính là
vị Guru gốc của bạn trong hình tƣớng Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa. Cọng
42
hoa sen giống nhƣ một cái phễu tiếp xúc với nơi mở ra của kinh mạch
trung ƣơng tại đỉnh đầu bạn.
Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa thân trắng, có hai tay, tay phải Ngài cầm một
chày kim cƣơng vàng để nơi ngực, và tay trái cầm một chuông bạc để
ngay hông. Hãy quán tƣởng thân Ngài trong suốt và thanh tịnh nhƣ sự
phản chiếu của trí tuệ. Dù bạn có thể thấy thân Ngài, nhƣng những phẩm
tính của thân không thô nặng và đặc nhƣ thân vật lý, mà Ngài xuất hiện
siêu phàm, trống không nhƣ cầu vồng. Quán tƣởng hào quang trong suốt
của Ngài là sức mạnh đầu tiên, sức mạnh của sự hỗ trợ.
Phát sinh lòng mộ mạnh mẽ, hãy hồi tƣởng lại những hành động bất
thiện đã vi phạm vì vô minh trong vô số kiếp của bạn. Đó có thể là hành
động do bạn làm, hay bạn bảo ngƣời khác làm hay ngƣời khác làm bạn
vui sƣớng vui theo, hả hê theo trƣớc nỗi đau đớn, thiệt hại của ngƣời
khác. Hãy cảm thấy hối hận về những hành động này và cầu nguyện
Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa tịnh hóa cho bạn. Đây là sức mạnh thứ hai,
sức mạnh của hối hận.
Trong ngực Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa là một chày kim cƣơng năm chấu.
Ở trung tâm là một đĩa mặt trăng, trên đó là chủng tử tự HUM, đƣợc bao
quanh bởi mantra 100 âm xoay theo chiều kim đồng hồ nhƣ sau:
OM VAJRA (BENZRA) SATTVA SAMAYA MANU PALAYA
VAJRA SATTVA TENOPA TITHRA DRIDHO MEBHAWA
SUTO KHAYO MEBHAWA SUPO KHAYO MEBHAWA ANU
RAKTO MEBHAWA SARVA SIDDHIM ME PRA YATTSA
SARVA KARMA SU TSA ME TSITAM SHRI YAM KURU HUM
HA HA HA HA HO
BHAGAVAN SARVA TATHAGATA VAJRA MA ME MUNTSA
VAJRI BHAVA MAHA SAMAYA SATTVA AH
Trong lúc bạn niệm mantra, Cam lồ trắng bắt đầu tuôn chảy từ chữ
HUM và mantra bao quanh, tràn đầy thân Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa và
phối ngẫu. Cam lồ xuất phát từ nơi bí mật của các Ngài qua điểm hợp
nhất đi vào cọng hoa sen, và rót xuống kinh mạch trung ƣơng làm tràn
43
đầy toàn thân bạn. Nó tràn xuống giống nhƣ một cơn gió mạnh hay một
trận mƣa rào, hay một dòng thác nƣớc đổ xuống xua tan ba độc (tham,
sân, si), ba bệnh tật (phong, mật, đàm thấp) và ba ảnh hƣơng ma quỷ
mãnh liệt (Poden Gyalpo – biểu hiện của sân, Modon Dremo – biểu hiện
của tham và Ludon Sadak – biểu hiện của si). Ba độc này đƣợc loại ra
trong hình dạng khói, mực, than hay chất bẩn. Ba bệnh đƣợc loại ra
trong dạng máu và mủ. Ba ảnh hƣởng ma quỷ đƣợc loại ra ngoài trong
dạng côn trùng độc, bọ cạp, rắn, nhện và ếch nhái. Số lƣợng khổng lồ
những thứ này trong thân bạn đều đƣợc tẩy sạch. Khi những bất tịnh này
đƣợc loại ra ngoài, phía dƣới trái đất mở ra và Tử Thần xuất hiện trong
dạng một con bò đỏ. Ngài đƣợc bao quanh bởi những chủ nợ của bạn
trong quá khứ, Ngài bồi thƣờng và làm họ hoàn toàn thỏa mãn.
Kế tiếp, quán tƣởng Cam lồ đang súc rửa bạn cho đến khi bạn hoàn toàn
sạch sẽ, tịnh hóa tất cả những samaya bị đứt, tổn hại, những chƣớng ngại
và nhiễm ô. Hãy cảm thấy rằng bạn hoàn toàn thanh tịnh khi niệm
mantra 100 âm. Đây là sức mạnh thứ ba, dòng Cam lồ rót xuống. Hãy
niệm mantra 100 âm càng nhiều càng tốt, cuối cùng tích lũy đủ 100.000
lần.
Hãy cảm thấy hoàn toàn tự tin không chút nghi ngờ rằng bạn đã hoàn
toàn tịnh hóa. Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa xác nhận và chấp thuận nồng
nhiệt rằng điều này thật sự đúng. Vào lúc này, hãy phát nguyện mạnh
mẽ không bao giờ tích lũy nghiệp bất thiện nữa. Hãy cảm thấy rằng thà
bạn chết còn hơn là tạo nghiệp bất thiện. Đây là sức mạnh thứ tƣ, lời
nguyện và quyết định cuối cùng tuyệt đối dứt bỏ bất kỳ hành động vi
phạm tội lỗi nào trong tƣơng lai.
Bốn sức mạnh này là TỊNH HÓA, TẨY TỊNH BÊN NGOÀI.
Sau khi niệm mantra 100 âm, Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa tan thành ánh
sáng hòa nhập vào bạn, và bạn trở thành Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa. Nó
là điều quan trọng để phát sinh tự tín và “niềm tự hào kim cƣơng” – một
44
cảm nhận từ thời vô thủy, trên bình diện tuyệt đối bạn không khác với
Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa. Lúc này niệm mantra 6 âm:
OM VAJRA (BENZRA) SATTVA HUM
Trong trạng thái này, tất cả hình tƣớng đều là thân của Đức Kim Cƣơng
Tát Đỏa, mọi âm thanh đều là mantra và mọi tƣ duy đều bất khả phân
với tâm trí tuệ của Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa.
Đây là TỊNH HÓA, TẨY TỊNH BÊN TRONG.
Niệm:
O shyu daknang dang dré ro chik gyur
Lama Vajrasattva dissolves into light and becomes one with me.
Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa tan thành ánh sáng, hòa nhập vào con,
bất khả phân, trở thành một vị
Sau đó, Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa tan biến giống nhƣ cầu vồng biến mất
trong bầu trời. Hãy an trụ trong sự hòa nhập bất khả phân giữa tâm bạn
và tâm Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa. Thiền định trong trạng thái vô tƣớng –
trạng thái tuyệt đối của tâm Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa.
Đây là TỊNH HÓA, TẨY TỊNH BÍ MẬT.
Mỗi ngày niệm tối thiểu 21 lần mantra 100 âm và 108 lần mantra sáu
âm. Để hoàn tất phần này của Ngondro, bạn phải hoàn tất tụng niệm
mantra 100 âm 100.000 lần. Mantra sáu âm thì không tính.
Năng lực của thực hành tịnh hóa này thâm sâu và lợi ích phi thƣờng.
Nhờ trí tuệ và phƣơng tiện thiện xảo của con đƣờng Kim Cƣơng Thừa,
thậm chí một ngàn kiếp (aeon) tích lũy nghiệp bất thiện của bạn có thể
đƣợc tịnh hóa nhờ thực hành Đức Kim Cƣơng Tát Đỏa.
45
CHƢƠNG 7
GURU YOGA
GURU YOGA là phƣơng pháp để nhận sự ban phƣớc trực tiếp của tâm
Guru. Nhƣ đã giải thích trƣớc đó, có hai phƣơng pháp để đạt giác ngộ.
Cái đầu tiên là tích lũy công đức và trí tuệ cùng với thực hành tịnh hóa.
Cái thứ hai là trao truyền trí tuệ trực tiếp từ tâm vị Guru đến tâm bạn.
Trao truyền thực sự có nghĩa là tiếp nhận mùi vị của Giác ngộ. Do loại
suy, khi bạn nghĩ về một ngƣời, bạn có cảm nhận trực tiếp về những
phẩm tính của ngƣời đó, có thể là thiện hay bất thiện, trong khái niệm
giới hạn của “cá nhân”. Guru Yoga là phƣơng pháp để cảm nhận và nếm
mùi vị giác ngộ của trí tuệ tối thƣờng từ vị Guru. Sự nhận biết này vƣợt
lên cá nhân và luôn luôn tích cực – sự kinh nghiệm của tâm giác ngộ
hoàn toàn không lỗi. Khi bạn kinh nghiệm sự thanh tịnh của tâm trí tuệ
Guru, nó có thể xuất hiện từ bên ngoài bạn. Thực ra, bạn đang nếm mùi
vị thật tánh của tâm mình. Sau đó phát triển và làm sâu sa kinh nghiệm
này cho đến khi bạn hoàn toàn đạt giải thoát.
Do suy nghĩ của Phật tâm thanh tịnh, cuối cùng bạn sẽ phát triển thói
quen của trí tuệ nhận biết của chính mình. Nhờ rèn luyện theo cách này,
bạn sẽ đạt đƣợc Phật Quả.
Theo quan điểm của Kim Cƣơng Thừa, Guru Yoga là thực hành cốt tủy
để đạt giải thoát. Tất cả chƣ Phật đạt giải thoát nhờ đi theo những hƣớng
dẫn quý báu của Đạo Sƣ các Ngài. Vậy, vị Guru thậm chí còn đƣợc xem
làn quan trọng hơn cả Chƣ Phật vì không có Guru thì không có cách nào
đạt Phật Quả. Khi những hƣớng dẫn của vị Guru đã thâm nhập trái tim
đệ tử, điều này cũng giống nhƣ tìm thấy viên ngọc nhƣ ý trong tay bạn.
Một số ngƣời nhận đƣợc trao truyền từ tâm vị Guru sẽ không còn lựa
chọn nào khác ngoài việc đạt đƣợc Giác ngộ, giống nhƣ có ai đó bị té từ
đỉnh núi xuống thì họ hoàn toàn không kiểm soát đƣợc, không có lựa
chọn nào khác ngoài việc rơi thẳng xuống chân núi.
46
Tám mƣơi tƣ vị Đại Thành Tựu Giả ở Ấn Độ và hai mƣơi lăm đệ tử
chính của Guru Rinpoche ở Tây Tạng, những vị Khai Mật Tạng, những
vị Trì Minh Vƣơng và những bậc thành tựu Giác ngộ siêu phàm, tất cả
dều đạt Giác ngộ nhờ sự trao truyền tâm của Guru các Ngài. Dòng tryền
không gián đoạn này từ Đức Phật Nguyên Thủy – Samantabhadra (Phổ
Hiền), đến Lama Gốc của chúng ta. Ngài là tinh hoa của tất cả chƣ Phật
trong mƣời phƣơng và ba thời. Mọi thành tựu và ban phƣớc đều chứa
đựng và đi qua dòng truyền này. Vì con đƣờng của Guru Yoga thật uyên
thâm và sâu sắc nên không cần nghi ngờ khi thực hành nó, bạn sẽ đạt
giác ngộ.
Không có cách nào nhận ra thật tánh của tâm qua phân tích hay trí thông
minh suy luận. Điều này cũng giống nhƣ khuấy nƣớc để lấy bơ. Sự nhận
biết của chân lý tuyệt đối không phải là trí thông minh, cũng không liên
hệ với tâm nhị nguyên. Nhờ thực hành Guru Yoga một cách thanh tịnh,
không nghi ngờ, chắc chắn nhận biết của tâm trí tuệ bạn sẽ tỏa sáng.
Trƣớc tiên, hãy thấy vị Guru là một vị Phật. Sau đó cảm nhận năng
lƣợng của tâm trí tuệ. Thứ hai, thấy vị Guru là Đức Phật, cảm nhận bắt
đầu phát triển. Sau đó, nhờ năng lực ban phƣớc của Guru, bạn cũng
thành Phật.
Hãy có niềm tin, sự sùng kính và sự tự tin thanh tịnh vào điều này là một
thực hành. Điều này có nghĩa là hãy thành thật cảm thấy những phẩm
tính từ bi và trí tuệ phi thƣờng của vị Guru. Những hƣớng dẫn trực tiếp
từ vị Guru có thể hiển bày Phật tánh của chính bạn đã bị ngăn che trong
luân hồi từ vô thỉ kiếp. Hãy mở rộng tâm bạn và tin tƣởng vào điều này.
Hãy nghĩ về những phẩm tánh của vị Guru! Thật may mắn và kỳ diệu
biết bao khi bạn gặp đƣợc vị Thầy nhƣ vậy, bạn có thể cảm thấy lông tóc
trên thân bạn dựng đứng hoặc bạn có thể òa khóc không kiềm chế nổi.
Kinh nghiệm sẽ phát sinh và đột nhiên tâm bạn chuyển thành Giác tánh
thanh tịnh. Mọi hiện tƣợng thông thƣờng sẽ ngƣng lại. Kinh nghiệm
thiền định sẽ xuất hiện tự nhiên và không cần cố gắng. Do vậy, khi thực
47
hành, không nên niệm mà không chú tâm hoặc không cảm nhận, mà phải
phát triển lòng sùng kính – thứ là tâm yếu của Guru Yoga, sau đó niệm:
Rangnyi dorje naljor dün kha ru
I am transformed into Vajrayoginī; in the sky before me
Con là Vajra-Yogini và trong bầu trời phía trƣớc con,
Tsawé lama pemé kur shyeng gyur
My tsawé lama appears in the form of Guru Padmasambhava.
Vị Lama gốc của con xuất hiện trong
thân tƣớng Đức Liên Hoa Sanh.
Trong lúc thực hành Guru Yoga, hãy quán tƣởng chính bạn là Dakini trí
tuệ Vajra-Yogini. Bà màu đỏ, có ba mắt, đứng trong tƣ thế nhảy múa vũ
điệu hàng phục với chân trái co lại. Bà cầm một chén sọ ngƣời đầy máu
trong tay trái – biểu tƣợng ban sự thành tựu, tay phải bà cầm một lƣỡi
dao cong drikuk – biểu tƣợng của việc cắt đứt sự chấp ngã và một chĩa
ba khatvanga ở khỷu tay trái – biểu tƣợng cho sự hợp nhất với phối ngẫu
của bà. Bà xuất hiện hơi phẫn bộ, bất khả phân với tánh Không, Vajra-
Yogini biểu tƣợng cho trí tuệ và Guru Rinpoche biểu tƣợng cho phƣơng
tiện thiện xảo.
Chúng ta quán tƣởng chính mình là Vajra-Yogini bởi ba lí do.
Thứ nhất, thân xác thô nặng và đặc là một kinh mạch bất tịnh để tiếp
nhận quán đảnh và ban phƣớc. Nhờ quán tƣởng, chúng ta tạo ra một
bình chứa thanh tịnh thoát khỏi chƣớng ngại, một bình chứa thanh tịnh
nhƣ thế cần thiết để tiếp nhận trao truyền tâm của Guru.
Thứ hai, chúng ta quán tƣởng chính mình là Vajra-Yogini để đạt đƣợc
sự nhận biết của tánh Không rộng mở và Đại lạc thì bất khả phân với trí
tuệ giác ngộ.
48
Thứ ba là sự lôi cuốn hấp dẫn và sự liên kết tƣơng thuộc lẫn nhau giữa
các năng lƣợng âm và dƣơng tƣợng trƣng qua hình ảnh nam và nữ. Năng
lƣợng trí tuệ nữ lôi cuốn sự hiển bày phƣơng tiện thiện xảo qua sự quán
đảnh và ban phƣớc của Guru. Khái niệm nhị nguyên phi thƣờng này nhƣ
nam và nữ vì thực tế không có sự phân biệt giữa phƣơng tiện thiện xảo
đại diện cho phái nam và trí tuệ đại diện cho phái nữa. Hơn nữa, Vajra-
Yogini còn đƣợc biết nhƣ là một hóa thân của Đức Bà Yeshe Tsogyal –
đại đệ tử thân cận nhất và cũng là phối ngẫu chính của Guru Rinpoche.
Bà là ngƣời gần gũi và tiếp nhận vô số giáo lý khẩu truyền của Guru
Rinpoche, nên khi quán tƣởng bạn là Vajra-Yogini, bạn sẽ nhận đƣợc sự
ban phƣớc trực tiếp và vô cùng gần gũi trong mối liên kết này.
Hãy quán tƣởng Guru Rinpoche trong bầu trời phía trƣớc bạn và niệm
bốn dòng cầu nguyện sau với lòng sùng mộ to lớn:
Dü sum sangye malü düpé ku
The embodiment of all the buddhas, past, present and future,
Hiện thân của tất cả chƣ Phật ba thời, không ngoại lệ,
Tsawé lama chok la solwa deb
Incomparable tsawé lama I pray to you.
Lama Gốc siêu phàm, con cầu nguyện Ngài!
Di chi bardo sum du tukjé zung
In this life and in the next, and in the bardo states, guide me with
compassion.
Bây giờ, trong những kiếp tƣơng lai, và trong trung ấm, xin hãy thu
hút, chỉ dẫn cho con với lòng Bi của Ngài
Dü sum gyünché mepar jingyi lob
Grant me your blessings continuously at all times.
Xin ban ân phƣớc bất tận cho con khắp ba thời!
49
Niềm tin lôi cuốn ân phƣớc trí tuệ thanh tịnh và lòng bi của Guru
Rinpoche đến bạn. Nó là sự mềm mại và rộng mở của trái tim. Không có
niềm tin, tâm bạn đóng kín và khô cứng nhƣ đá. Nếu tâm bạn rộng mở
và sùng kính, bạn có thể nhận đƣợc ân phƣớc của Guru nhƣ mƣa rào rơi
trên đất xốp. Cơn mƣa không bao giờ chọn chỗ rơi xuống, tuy nhiên bất
kỳ nơi nào nó tiếp xúc đều đƣợc mặt đất đón nhận, nó là sự thấm nhập.
Tuy vậy, chẳng có một giọt nào thấm vào tảng đá. Mọi sự vật phát triển
từ đất, nhƣng không có thứ gì phát triển từ đá tảng. Điều này thực sự
tƣơng tự với tâm chúng ta. Những phẩm tính phát triển từ một tâm mềm
mại nhƣ đất, và sẽ không bao giờ phát triển từ một tâm khô cứng và
không thể thấm nhập nhƣ đá. Với lòng sùng kính, ân phƣớc của Guru
Rinpoche sẽ hòa nhập trực tiếp vào tâm bạn, giống nhƣ mƣa rơi xuống
đất. Tất cả phẩm tính của trí tuệ sẽ phát triển từ sự hòa nhập này của tâm
Guru với tâm bạn.
Guru không gì khác hơn là khía cạnh trí tuệ thanh tịnh của bạn đƣợc
đánh thức nhờ lòng sùng mộ. Khi tâm trí tuệ của bạn đƣợc đánh thức,
mọi hiện tƣợng đƣợc nhận biết đều là sự hiển bày của giác tánh chính
bạn. Gợi lại sự hiện diện của Guru Rinpoche có thể mở ta tâm bạn, làm
hiển lộ thật tánh của bạn và của Guru Rinpoche nhƣ nhau. Khác biệt duy
nhất là Ngài đã hoàn toàn hiển lộ phẩm tính giác ngộ, trong khi chúng ta
chƣa biểu lộ đƣợc.
Vào lúc này, niệm mantra Guru tối thiểu 108 lần cho mỗi thời công phu:
OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
Om, Ah và Hum là ba chủng tử tự tinh hoa của tất cả chƣ Phật. Om là
tinh hoa của thân Phật, Ah là tinh hoa của ngữ Phật, Hum là tinh hoa
của ý Phật. Vajra có nghĩa là Pháp Thân bất hoại. Guru là những phẩm
tính thành tựu tự nhiên của trí tuệ, thanh tịnh, cực lạc và hƣ không, đó là
Báo Thân phúc lạc. Padma nghĩa là hoa sen và là danh hiệu của Đức
Liên Hoa Sanh, biểu lộ của Hóa Thân. Siddhi là thành tựu tâm linh
thông thƣờng và siêu việt. Hum là khẩn cầu ban thành tựu hay nhận biết
sự bất khả phân của Ba Thân.
Trong khi niệm Vajra Guru mantra, hãy giữ kiến (cái nhìn, cái thấy)
thanh tịnh. Điều này có nghĩa là hãy thấy mọi hiện tƣợng đều là cõi Tịnh
Độ, tất cả chúng sinh đều là chƣ Daka, Dakini của gia đình Liên Hoa,
50
nghe mọi âm thanh là mantra và nhận biết mọi tƣ duy là tâm của Guru
Rinpoche. Trong khi tụng niệm Vajra Guru mantra, nhiều lƣu xuất phi
thƣờng dƣới nhiều hình tƣớng và kích cỡ (biểu tƣợng thân Ngài), những
chủng tử tự khác nhau (biểu tƣợng ngữ của Ngài) và thực hiện nghi lễ
(biểu tƣợng ý của Ngài) lƣu xuất từ tâm Guru và hòa nhập vào thân bạn.
Theo cách này, bạn đang tiếp nhận ân phƣớc của thân, khẩu, ý từ Guru.
Khi hoàn tất việc tụng niệm mantra, tụng hai dòng sau lúc niệm Vajra
Guru mantra khi bạn nhận đƣợc BỐN QUÁN ĐẢNH:
Ku sung tuk kyi wang jin yongdzok tob
I am fully empowered with the blessings of body, speech and mind of
Guru Rinpoche.
Con hoàn toàn nhận đƣợc sự quán đảnh với những ban phƣớc của
thân, khẩu, ý giác ngộ của Đạo Sƣ Liên Hoa Sanh
Benza Guru Kaya Waka Tsitta Siddhi Hung
Vajra Guru Kāya Vaka Citta Siddhi Hūṃ
Khi bạn tiếp nhận bốn quán đảnh, hiểu đƣợc ý nghĩa của mantra này:
Vajra Guru nghĩa là vị Đạo Sƣ Kim Cƣơng, Kaya là thân, Waka là
ngữ, Tsitta là ý, Siddhi là thành tựu và Hum là tiếp nhận tất cả những
điều này.
Từ chữ OM trên trán Guru Rinpoche, ánh sáng trắng đánh vào chữ OM
tƣơng ứng nơi trán bạn, ban quán đảnh cái bình. Quán đảnh cái bình tịnh
hóa mọi nhiễm ô của thân, cho bạn một thân kim cƣơng và quán đảnh
cho phép bạn thực hành giai đoạn phát sinh, quán tƣởng trên con đƣờng.
Thực hành giai đoạn phát sinh là sự quán tƣởng Bổn Tôn và tụng niệm
mantra. Quán đảnh này chuẩn bị cho bạn đạt đƣợc Phật Quả của Hóa
Thân trong tƣơng lai.
Ánh sáng đỏ chiếu ra từ chủng tử tự AH màu đỏ đến chữ AH tƣơng ứng
nơi bạn, ban quán đảnh bí mật, tịnh hóa mọi nhiễm ô của ngữ. Bạn nhận
đƣợc ân phƣớc của Kim Cƣơng ngữ và nhận đƣợc quán đảnh để thực
hành TSA LUNG – một yoga thân thể về khí và kinh mạch. Quán đảnh
này chuẩn bị cho bạn đạt đƣợc Phật Quả của Báo Thân trong tƣơng lai.
Ánh sáng xanh dƣơng chiếu ra từ chủng tử tự HUM màu xanh dƣơng
nơi ngực Ngài và đi vào chữ HUM tƣơng ứng nơi ngực bạn. Bạn nhận
đƣợc quán đảnh thứ ba, quán đảnh trí tuệ tịnh hóa mọi nhiễm ô của tâm.
51
Bạn nhận đƣợc tâm trí tuệ thanh tịnh và đƣợc quán đảnh để thực hành
TABLAM – con đƣờng của phƣơng tiện thiện xảo rèn luyện tâm và tinh
hoa của sự sống. Do nhận đƣợc quán đảnh này, bạn đang chuẩn bị cho
việc đạt đƣợc Phật tánh Pháp Thân trong tƣơng lai.
Từ ngực Guru Rinpoche, tinh hoa tâm trí tuệ thanh tịnh vô niệm của
Ngài trong dạng một khối cầu năm màu phóng vào ngực bạn, ban quán
đảnh thứ tƣ. Đây là quán đảnh lời giới thiệu ý nghĩa biểu tƣợng, vƣợt lên
bất kỳ khả năng ngôn ngữ nào. Những nhiễm ô vi tế đến giác ngộ đƣợc
tịnh hóa, và bạn đƣợc ban cho quán đảnh để thực hành Đại Viên Mãn
hay thực hành Dzogchen bí mật của Trekcho và Thogal trên con đƣờng.
Nhờ quán đảnh này, bạn nhận đƣợc tất cả phẩm tính và hoạt động hoàn
hảo của chƣ Phật. Điều này chuẩn bị cho bạn đạt đƣợc Phật Tánh
Svabhavikakaya trong tƣơng lai (Ba Thân bất khả phân).
Niệm 2 dòng cuối của Guru Yoga:
Lama ö shyu rang tim yermé ngang
The Lama dissolves into light and becomes inseparable one with me.
Lama tan thành ánh sáng và hòa nhập bất khả phân với con
Riktong dön gyi lamé rang shyal ta
Recognize one's own rigpa as the absolute Lama.
Hãy nhận ra bản tánh Rigpa – Giác Tánh Trống Không thấu suốt,
bản lai diện mục của vị Lama tuyệt đối
Phát triển một cảm giác sùng kính chân thành đến Guru, Ngài mỉm cƣời
và nhìn bạn một cách trìu mến, tràn đầy tình thƣơng yêu và bi mẫn cao
quý. Rồi Ngài rút xuống đỉnh đầu bạn, tan biến từ đầu đến chân cùng lúc
vào ngực bạn. Ngài tan biến vào thanh tịnh quang tinh hoa của Đại Lạc
trong dạng một quả cầu năm màu cỡ bằng móng tay cái. Tâm Ngài – trí
tuệ thanh tịnh tinh hoa của Cực Lạc đi vào và xuống kinh mạch trung
ƣơng, rồi tan hòa vào tâm bạn. Lần lƣợt, bạn tan thành ánh sáng nơi
ngực, hòa lẫn tâm bạn và tâm Guru không tách biệt giống nhƣ rót nƣớc
vào nƣớc, không có sự khác biệt giữa bạn và Guru Rinpoche. An trụ
trong trạng thái và sự thiền định này, hãy trải nghiệm và nếm trải mùi vị
năng lƣợng trí tuệ vô nhiễm của tâm Guru. Do kinh nghiệm đƣợc mùi vị
của tâm trí tuệ Guru, chúng ta bắt đầu biết Guru không khác với thật
52
tánh của chúng ta. Khi chúng ta trở thành một bậc giác ngộ, điều này
đƣợc biết là sự toàn thiện – vị Guru bí mật tuyệt đối.
Có ba Guru trong thực tế: Guru bên ngoài, Guru bên trong và Guru bí
mật.
Guru bên ngoài tƣơng tự nhƣ hình tƣớng Guru Rinpoche. Guru bên
trong là giáo lý Ngài đã ban, xuất hiện từ sự giác ngộ của Ngài. Những
hƣớng dẫn này có thể dẫn dắt chúng ta phát hiện và bộc lộ tiềm năng
Phật của mình. Khi thực hành này đƣợc thiết lập, và kết quả bắt đầu
đƣợc thực tế hóa, thì sự giác ngộ bí mật lóe lên của Guru không khác với
sự thấu suốt hoàn toàn, với tâm trí tuệ tỉnh giác của chúng ta. Phật tánh
của chúng ta hoàn toàn nở rộ.
Vào lúc cuối thời thiền định vô tƣớng, Guru Rinpoche tái xuất hiện trên
đỉnh đầu bạn. hãy niệm bốn dòng nguyện này:
PAL DEN TSA WAI LAMA RINPOCHE
Đức Lama gốc quý báu – Đấng Vinh Quang!
DAK GI CHYI WOR PEMAI DEN ZHUK LA
Ngự trên tòa sen ở đỉnh đầu con
KA ĐRIN CHHEN POI GO NAY JEY ZUNG TE
Nhờ lòng đại từ của ngài xin hãy giữ vững con
KU SUNG THUK KYI NGO DRUB TSAL DU SOL
Xin ban cho con những thành tựu của thân, khẩu, ý giác ngộ…
Để hoàn tất thực hành Guru Yoga, bạn phải tụng niệm tích lũy tối thiểu
một triệu hai trăm ngàn lần mantra Vajra Guru.
Guru Rinpoche nói rằng có ba mức độ hoàn tất khác nhau của mantra
Vajra Guru trong Guru Yoga. Thứ nhất là hoàn tất một triệu hai trăm
ngàn lần tụng niệm mantra thì hành giả có năng lực hủy diệt chủng tử tái
sinh trong luân hồi. Thứ hai là tụng niệm ba triệu sáu trăm ngàn lần
mantra, hành giả đạt đƣợc cấp độ của bậc Trì Minh Vƣơng. Cấp độ cuối
cùng, Guru Rinpoche nói rằng nhờ niệm một trăm lần một trăm ngàn
mantra, bạn sẽ đạt tới mức độ giác ngộ nhƣ Ngài.
53
CHƢƠNG 8
PHOWA, CHOD VÀ HỒI HƢỚNG CÔNG ĐỨC
Trong Ngondro, PHOWA là bài nguyện khao khát đƣợc giải thoát vào
cõi Tịnh Độ của Phật Amitabha (Vô Lƣợng Quang – A Di Đà) vào lúc
chết. Mỗi thời công phu niệm hai dòng này 3 lần:
Gönpo öpakmé la solwa deb
Con khẩn cầu Đức Phật Amitabha –
Đấng Thế Tôn Bảo Hộ của Vô Lƣợng Quang
Zablam powa jongpar jingyi lob
Xin ban các ân phƣớc để con có thể thành tựu
con đƣờng thâm sâu của pháp Chuyển di tâm thức
Hai cấp độ thực hành, giai đoạn phát sinh và giai đoạn hoàn thiện là một
chuẩn bị thực tế cho lúc chết. Nếu bạn là một hành giả thành tựu, khi
chết bạn sẽ nhận ra trạng thái thanh tịnh quang của Bardo thứ nhất. Kết
quả này đạt đƣợc trong Phật tánh Pháp thân. Nếu bạn bỏ lỡ cơ hội này
thì sau đó tùy theo sự tan hòa những thành phần trong cơ thể bạn, những
Bổn Tôn bắt đầu xuất hiện trong Bardo. Nếu bạn đã thành tựu thực hành
trong giai đoạn phát sinh, bạn sẽ nhận ra khi họ xuất hiện rất rõ ràng
trong tâm thức bạn. Sau đó bạn sẽ đạt đƣợc Phật tánh Báo thân. Với một
hành giả chƣa hoàn tất hai cấp độ thực hành này, Phowa là cơ hội thứ ba
để giải thoát trong Bardo. Sự thực hành Phowa vào lúc chết là nguyên
nhân để hành giả đƣợc tái sanh vào cõi Tịnh Độ vì ở đó có cơ hội hoàn
tất con đƣờng Giáo Pháp. Nếu ngƣời nào đó chƣa hoàn tất hai cấp độ
thực hành này, thì Phowa có thể đem họ tới giải thoát.
Có bốn dạng Phowa. Thứ nhất là thực hành giai đoạn hoàn thiện. Trong
Phowa này, không cần phải đợi đến lúc chết để đƣợc giải thoát vì bạn đã
hoàn toàn giác ngộ.
Phowa thứ hai là sự nhận biết bất khả phân của giai đoạn phát sinh và
hoàn thiện. Với nhận biết này, bạn có thể giải thoát trong Bardo.
54
Phowa thứ ba là chuyển di tâm thức đến một cõi Tịnh Độ vào lúc chết.
Với Phowa của sự chuyển di, ba điểm tham khảo đƣợc sử dụng. Một là
cõi Tịnh Độ của Phật Amitabha gọi là Dewachen, Hai là tâm thức bạn là
ngƣời du hành và thứ ba kinh mạch trung ƣơng là con đƣờng. Một cách
thông thƣờng, khi chết, thần thức bạn sẽ đi ra ngoài qua bất kỳ cửa nào
trong chín cửa (đỉnh đầu – huyệt lỗ mở Phạm Thiên, giữa trán – con mắt
thứ ba, 2 mắt, 2 mũi, miệng, 2 tai, rốn, hậu môn) dẫn đến nhiều loại tái
sanh vào cõi thấp hay cao. Đi ra qua kinh mạch trung ƣơng, phóng thẳng
qua đỉnh đầu là đi vào một cõi Tịnh Độ.
Phowa niêm phong những cửa khác dẫn đến tái sinh trong luân hồi. Để
hoàn tất thực hành Phowa, bạn phải hoàn thành nhập thất bảy ngày để
tiếp nhận những dấu hiệu. Phowa đƣợc xem là con đƣờng nhanh chóng
vì ngay cả không có kinh nghiệm thiền định, bạn vẫn có thể giải thoát.
Trong phần Phowa của thực hành Ngondro, hãy quán tƣởng Phật
Amitabha trên đỉnh đầu bạn. Phật Amitabha có màu đỏ, Ngài là Phật
Pháp Thân của gia đình Liên Hoa. Hãy cầu nguyện rằng khi cuộc sống
này kết thúc bạn sẽ tái sanh nhanh chóng vào Dewachen – cõi Tịnh Độ
của Phật Amitabha.
Phowa thứ tƣ là “sự câu móc của lòng Bi” để giải thoát ngƣời khác. Khi
thành tựu Phowa cho chính mình, bạn có thể giúp giải thoát ngƣời khác
vào lúc họ chết.
Nguyện của Phật Amitabha là khi Ngài đạt Giác Ngộ, bất kỳ ai nối kết
với Ngài sẽ đƣợc tái sanh vào cõi Dewachen nhờ bốn nguyên nhân. Một
là nhớ tƣởng đến Ngài hàng ngày; hai là niệm mantra Om Ami Dewa
Hrih của Ngài; thứ ba là quán tƣởng mọi hiện tƣợng đều là cõi Tịnh Độ;
và thứ tƣ là hồi hƣớng công đức của hành giả để tái sanh vào Dewachen.
Một cõi Tịnh Độ thì không có bất kỳ phƣơng hƣớng hoặc vị trí nào. Khi
tâm bạn thanh tịnh và vô minh bám chấp không còn kiểm soát, sự nhị
nguyên không còn hiện hữu. Trạng thái đó tự thân nó là Tịnh Độ. Sự
55
xuất hiện nhận thức thanh tịnh của hành giả là cõi Vajra Kim Cƣơng của
Cực Lạc. Đó là thực nghĩa của cõi Vajra Kim Cƣơng hay cõi Tịnh Độ.
Ngài Milarepa nói, “Dewachen ở ngay bên cạnh bạn, nếu biết di chuyển
khéo léo trong kinh mạch trung ƣơng”.
Hãy cầu nguyện Đức Phật Amitabha ban phƣớc cho bạn để giúp bạn
thành tựu con đƣờng chuyển di tâm thức Phowa.
Hai dòng đầu của bài nguyện hồi hƣớng là thực hành CHOD. Niệm:
Dani lü dang longchö getsar ché
Now, my body, possessions and the source of my gathered together
Giờ đây, thân thể, của cải và những nguồn công đức con đã tích lũy
Magyur dro la pangpa mepar tang
I surrender them to all motherly beings with no remorse;
Con xin bố thí không bám chấp đến tất cả chúng sinh mẹ
Chod nghĩa là “cắt đứt” sự bám níu vào việc chấp cứng vào bản ngã và
thực tại. Có 3 cấp độ Chod: Bên ngoài, Bên trong và Bí mật.
Chod bên ngoài là thực hành trong nghĩa địa, hoặc những nơi kinh sợ.
Thực hành ở một nơi rùng rợn có thể làm sợ hãi phát sinh. Dùng sự sợ
hãi này nhƣ thực hành Chod – Cắt Đứt nhờ khảo sát ai đang kinh
nghiệm nỗi sợ. Có ai mà phải sợ? Ai sợ ai? Cắt đứt ý niệm nhị nguyên ai
đang sợ và ai đang đƣợc sợ. Cảm nhận và nhận biết sợ hãi là sự chấp
ngã. Trên bình diện tuyệt đối, không có tính nhị nguyên và không có gì
để sợ. Theo cách này, tâm thức đƣợc giải thoát vào tâm trí tuệ vô úy.
Trong thực hành Chod bên trong, chúng ta bố thí thân thể mình. Vì chấp
giữ thân nhƣ sở hữu quý giá nhất nên nó chính là vƣớng mắc tối hậu của
chúng ta. Chúng ta quán tƣởng cúng dƣờng thân thể, chuyển thành một
bữa tiệc Cam lồ trí tuệ đến tất cả chúng sanh bao gồm chƣ Phật, Bồ Tát,
tất cả những ai chúng ta có nợ nghiệp trong quá khứ và tất cả những đối
tƣợng tạo ra mọi loại chƣớng ngại. Điều này đƣợc xem là hành động bố
56
thí vĩ đại nhất. Điểm chính của Chod bên trong là cắt đứt tâm yêu mến
bản ngã, chuyển nó vào trạng thái của trí tuệ vô ngã.
Cấp độ Chod bí mật là cắt đứt bản ngã nhị nguyên hay sự chấp ngã và
giải thoát nó vào trạng thái của chân lý tuyệt đối – bản thể của Pháp giới.
Chod là thực hành để tích lũy công đức và trí tuệ. Sự rộng lƣợng bố thí
thân thể tạo ra công đức bao la. Khi vƣớng mắc và chấp ngã đƣợc cắt
đứt, chúng ta sẽ đạt đƣợc trí tuệ vô ngã.
Trong thực hành Chod, chúng ta cắt lìa chấp ngã bằng trí tuệ vô ngã. Khi
bám chấp vào cái “tôi” đƣợc cắt bỏ, nên tâm nhỏ bé của chúng ta tự
nhiên giải thoát vào tánh toàn giác bao la nhƣ bầu trời của chƣ Phật –
tâm trí tuệ hoàn toàn tỏa khắp.
Sự HỒI HƢỚNG CÔNG ĐỨC là dâng hiến cuối cùng và mong ƣớc mọi
hoạt động đạo đức, đức hạnh mà bạn đã tích lũy đều vì lợi ích cho tất cả
chúng sinh. Niệm dòng sau:
Dro dön lab chen gekmé drubpar shok
May I provide great benefit for all beings without hindrance.
Cầu xin con thành tựu con sóng lợi ích to lớn,
vô chướng ngại cho tất cả chúng sinh.
Nhờ HỒI HƢỚNG CÔNG ĐỨC, bạn đang tích lũy theo cách lâu dài.
Không hồi hƣớng thì bất cứ tích lũy nào đều có thể bị tiêu tán, phá hủy
một cách dễ dàng. Ví dụ, nếu bạn nổi giận, điều này có thể hủy diệt mọi
tích lũy tích cực của một kiếp (aeon). Hồi hƣớng công đức giống nhƣ
gieo hạt trên đất hay gửi tất cả những tích lũy công đức của bạn vào
ngân hàng. Nó sẽ phát triển cho đến khi bạn giác ngộ. Việc hồi hƣớng
công đức bất kỳ hoạt động về Pháp nào mà bạn thực hiện thật quan
trọng.
57
Trong bất cứ thực hành nào bạn làm, có 3 điều phải nhớ.
Thứ nhất, xây dựng một động cơ vì lợi ích tất cả chúng sinh.
Thứ hai, áp dụng sự chú tâm của bạn vào thực hành hoặc hoạt động.
Thứ ba là hồi hƣớng công đức.
Không có động cơ Bồ Đề Tâm, thực hành của bạn sẽ không bao giờ
vƣợt khỏi luân hồi. Không bao giờ nối kết với Niết Bàn hay Giác Ngộ.
Không chú tâm, thời thiền định của bạn sẽ bị chƣớng ngại. Không hồi
hƣớng, những cảm xúc hoang dã của bạn có thể phá hủy nhanh chóng
những tích lũy công đức. Nếu luôn luôn cẩn thận kiểm soát ba điểm này,
thì bất kỳ thực hành nào bạn làm sẽ đƣợc ban phƣớc.
LỜI KẾT
Một cách cá nhân, vì yêu mến tất cả Kim Cƣơng Hữu (bạn đồng môn
trong Kim Cƣơng thừa) của tôi rất nhiều, tôi muốn khuyến khích các bạn
thực hành Ngondro. Chắc chắn rằng thực hành Ngondro sẽ cho bạn nhận
biết của Phật tánh.
Điều này đã đƣợc chứng minh bởi tất cả chƣ Phật trong quá khứ, hiện tại
và tƣơng lai – các bậc đã sử dụng con đƣờng duy nhất vĩ đại, không chút
lầm lỗi này để đạt Giác ngộ. Và các Ngài cũng đã giảng dạy nó cho
những ngƣời đi theo các Ngài. Thế nên, các bạn hãy tin tƣởng và thực
hành! Theo cách này, nhận biết sẽ xuất hiện tự nhiên trong tâm bạn. Đây
là yêu cầu của cá nhân tôi với những kim cƣơng hữu.
Thực ra, tôi không cần phải viết những dòng này vì nhiều giáo lý
Ngondro tuyệt diệu đã đƣợc nhiều bậc thầy siêu phàm viết vẫn còn hiện
hữu. Đem so sánh với những giáo lý Ngondro của các vị Thầy khác,
giống nhƣ mặt trời, còn giáo lý của tôi chỉ nhƣ ánh lửa đom đóm. Nhƣ vì
huynh đệ kim cƣơng hữu của tôi yêu cầu tôi giải nghĩa thực hành này
58
theo cách đơn giản, nên tôi viết với động cơ thanh tịnh. Có thể có nhiều
lỗi lầm vì tôi không đủ trí tuệ và không thông thạo Anh ngữ. Bất kỳ lỗi
lầm nào nào nếu có trong chữ và nghĩa, tôi xin sám hối với Guru của tôi.
Nếu có một chút ít lợi ích nào, tôi xin hồi hƣớng tất cả công đức đó cho
tất cả chúng sinh.
Tôi cầu nguyện giáo lý đơn giản này có thể lợi ích cho nhiều hành giả và
tích lũy công đức, trí tuệ không thể nghĩ bàn. Tôi lập nguyện rằng,
chúng ta đều đƣợc tái sinh vào cõi Tịnh Độ Liên Hoa Quang của Guru
Rinpoche và tất cả đều đạt giác ngộ trong cùng mandala. Đây là thỉnh
cầu của tăng đoàn từ Viện Kim Cƣơng Thừa mà mối ràng buộc bất khả
phân qua mục tiêu, động cơ và samaya thanh tịnh của họ với nhau. Điều
này do lão ăn mày già, yogi khùng Tsedrup Tharchin nói và viết ra bởi
bạn bè tâm giao của Ngài, Choying Wangmo. Cầu mong mọi sự đều cát
tƣờng! Sarva Mangalam.
59
CHÚ GIẢI THUẬT NGỮ
- BỒ ĐỀ TÂM TUYỆT ĐỐI: [don dam chang chu kyi sem (don dam
byang chub kyi sems)]: Đại rộng mở và hƣ không.
- CHÂN LÝ TUYỆT ĐỐI: [don dam denpa (don dam bden pa)]: Tinh
hoa của mọi hiện tƣợng và hiện hữu. Sự rộng mở vĩ đại từ vô thủy.
- SỰ TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC [sonam kyi tsok (bsod nams kyi
tshogs)]: Quan điểm và hành động đạo đức.
- SỰ TÍCH LŨY TRÍ TUỆ: [yeshe kyi tsok (yeshe kyi tshog)]: Hành
động đạo đức đi theo trí tuệ phân biệt của thiền quán thành tánh
Không.
- PHẬT AMITABHA (A DI ĐÀ) [Opagme (od dpag med)]: Đức Phật
Vô Lƣợng Quang – Phật Pháp Thân của Liên Hoa Bộ.
- ANU-YOGA [jey su naljor (rjes su rnal „byor)]: Cấp thứ hai của 3
yoga nội, rèn luyện thần kinh, năng lƣợng và sinh lực cốt tủy. Đây là
một thực hành “với những đặc tính”, nhấn mạnh về trí tuệ hơn là
phƣơng tiện thiện xảo và là thực hành giai đoạn hoàn thiện hơn là giai
đoạn phát sinh.
- BỒ ĐỀ TÂM NGUYỆN [mon pa‟I chang chub kyi sem (smon pa‟I
byang chub kyi sems)]: Mong ƣớc mọi chúng sinh đạt đƣợc Phật
tánh, thoát khỏi đau khổ và không tách biệt với hạnh phúc. Nó bao
gồm Tứ Vô Lƣợng Tâm.
- ATI-YOGA [shintu naljyor (shin tu rnal „byor)]: Cái thứ 3 của yoga
nội. Sự thực hành Đại Viên Mãn của Trekcho và Thogal – giới thiệu
trạng thái tỉnh giác thanh tịnh tuyệt đối của bản tâm. Nó là một thực
hành “không đặc tính”
- BARDO: Theo nghĩa đen là trạng thái trung gian; ở đây Bardo là
trạng thái trung gian giữa đời này và đời sau.
- BỒ ĐỀ TÂM [changchub kyi sem (byang chub kyi sems)]: Tâm giác
ngộ. Có hai phƣơng diện: tƣơng đối và tuyệt đối. Bồ Đề Tâm Tƣơng
Đối có nghĩa là lòng đại bi. Bồ Đề Tâm Tuyệt Đối là tâm đại rộng
mở, hƣ không.
60
- BỒ TÁT [changchub sempa (byang chub sems dpa‟i)]: Bậc đã tịnh
hóa mọi nhiễm ô của tính ích kỷ và viên mãn mọi phẩm tính tích cực
với lòng can đảm phi thƣờng nhằm giải thoát tất cả chúng sinh.
- PHẬT [sanggyay (sangs rgyas)]: Bậc đã hoàn toàn an định và tịnh
hóa mọi tâm cảm xúc vào trạng thái tâm vô nhiễm và trí tuệ tỉnh giác.
- CÕI PHẬT [shing kham (zhing khams): Cõi Tịnh Thổ của một vị
Phật.
- SUY NIỆM [samten (bsam gtan)]: Quán chiếu về giáo lý mà hành giả
đã nhận đƣợc để xua tan vô minh, lầm lạc. Có nhiều đối tƣợng để suy
niệm nhƣ: sự quý báu đƣợc sinh làm ngƣời, nghiệp quả, luân hồi, vô
thƣờng v.v…
- GIAI ĐOẠN PHÁT SINH [kyerim (bskyed rim)]: Thuộc về phạm trù
của Maha-Yoga và sử dụng việc quán tƣởng Bổn Tôn, tụng niệm
mantra và quan điểm triết học đúng đắn của biểu hiện tánh Không bất
khả phân là phƣơng pháp để nhận ra tri kiến thanh tịnh, tức là mọi
hình tƣớng đều là Bổn Tôn, mọi âm thanh đều là thần chú và mọi tƣ
duy là tâm giác ngộ của giác tánh nội tại.
- DAKA [pawo (dpa‟bo)] & DAKINI [khandroma (mkha‟ „groma)]:
Chiến binh và “không hành mẫu - bậc đi trong pháp giới”, là các bậc
giác ngộ di chuyển trong hƣ không của chân lý tuyệt đối, bản thể của
Pháp tánh, Daka là nam và Dakini là nữ.
- Daknang (dag snang): Dòng truyền thâm sâu của kiến thanh tịnh.
Những terma bắt nguồn từ tri kiến thanh tịnh của các vị terton (khai
mật tạng).
- DEWACHEN: (bde ba can): Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Phật
Amitabha.
- PHÁP [chod (chos)]: con đƣờng sử dụng giáo lý thanh tịnh, vô nhiễm
và phƣơng pháp để đạt đƣợc giác ngộ.
- PHÁP GIỚI [cho-ying (chos kyi dbying)]: Sự rộng mở thanh tịnh tỏa
khắp – nguồn gốc của mọi hiện tƣợng.
- PHÁP THÂN [cho ku (chos sku)]: Thân đầu tiên của ba thân, Pháp
Thân là sự vô tƣớng, thoát khỏi mọi tạo tác và thanh tịnh từ vô thủy.
Nó là trạng thái vĩ đại của sự rộng mở, tỏa khắp, hƣ không, khả năng
phi chƣớng ngại và là nguồn gốc của mọi hiện tƣợng.
61
- PHÁP TÁNH [cho-nyid (chos nyid)]: Thật tánh của mọi hiện tƣợng.
- HỘ PHÁP [cho-kyong (chos skyong)]: có 2 dạng Hộ pháp. Một là
hóa thân đã giác ngộ của các bậc trí tuệ. Hai là những chúng sinh thế
gian và những ma-ning phát lời thệ nguyện bảo vệ giáo lý Đức Phật,
bảo vệ những vị nắm giữ Giáo Pháp và bảo vệ những hành giả trên
con đƣờng. Những chúng sanh thế gian và ma-ning trên con đƣờng là
một phần của Tăng đoàn. Hành động bảo vệ của họ là thực hành để
đạt giác ngộ.
- DRIKUK (gri gug): Pháp khí của Bổn Tôn, lƣỡi dao cong – biểu
tƣợng cho việc cắt đứt ngã chấp.
- DZOGCHEN (rdogs chen): Đại Viên Mãn. Phƣơng pháp nhận ra luân
hồi, niết bàn, con đƣờng và mọi hiện tƣợng đều viên mãn vào một
giọt Bồ Đề Tâm (bindu hay thickle) – thật tánh của tâm. Giáo lý
Dzogchen hiển lộ mọi hiện tƣợng là sự hiển bày của tâm và viên mãn
trong tâm.
- TÁM TỰ DO [dalwa gyay (dal ba brgyad)]: Những điều kiện cho
phép hành giả thực hành Giáo pháp, bao gồm: 1, không sinh vào địa
ngục; 2, không sinh vào cõi ngạ quỷ; 3, không sinh vào cõi súc sinh;
4, không sinh vào nơi biên địa; 5, sinh thành thần trƣờng thọ; 6, đi
theo những ngƣời tà kiến, chủ nghĩa hƣ vô và vĩnh cửu; 7, sinh vào
thời không có Phật; 8, sinh ra với sự không đầy đủ các giác quan nhƣ
mắt, tai, chân tay…
- TÁM MƢƠI TƢ MAHA-SIDDHA [drubtob gyay-chu-tsa-shi (grub
thob brgyad bcu rtsa bzhi)]: Những bậc thành tựu thông thƣờng và
phi thƣờng. Ở Ấn Độ tạm thời có 84 vị.
- KAMA (bka‟ma): Dòng truyền dài, dòng khẩu truyền không gián
đoạn của Nyingma trao truyền từ thầy sang đệ tử, bắt nguồn trực tiếp
từ Giáo Pháp, tức là từ Chƣ Phật, Guru Rinpoche và những vị khác.
- KARMA [lay (las)]: Nghiệp – sự lặp lại thói quen tinh thần (tập khí)
của hành động và tƣ duy nhị nguyên của thiện và bất thiện. Tƣơng tự
nhƣ nhân và quả. Kết quả của nghiệp tạo ra bởi tâm, là đau khổ và
hạnh phúc trong luân hồi.
- KAYA [ku (sku)]: Thân – sự biểu hiện hoặc nguồn trí tuệ và những
phẩm tính.
62
- KHATVANGA (kha trang ka): Một pháp khí của Bổn Tôn – một chĩa
ba tƣợng trƣng cho phối ngẫu bí mật.
- HỒ DHANAKOSHA (dha na ko sha): Hồ mà Đức Guru Rinpoche
sinh ra, tại Oddiyana trong thung lũng Swat hiện nay ở Afghanistan.
- LAMA (bla ma): “Bậc vô song” giảng dạy lòng bi và trí tuệ. Hỗ trợ
cuộc sống của tất cả chƣ Phật. Một vị Thầy tâm linh hƣớng dẫn chúng
ta đến trạng thái giác ngộ.
- GIA ĐÌNH LIÊN HOA [Pema rik (padma rigs)]: Một trong năm gia
đình Phật, sự biểu hiện của tất cả Ngữ chƣ Phật.
- LUDON SADAK (klu gdon sa bdak): Một quỷ rồng, chủ tể của địa
phƣơng.
- MAHA-YANA [tek chen (theg chen)]: Đại Thừa, một trong ba thừa.
Là thừa vĩ đại của Bồ Tát, mục tiêu là đạt giác ngộ cho chính mình và
tất cả chúng sanh.
- MANTRA [ngak (sngags)]: Tinh hoa cuộc sống của những bậc giác
ngộ trong dạng âm thanh của chủng tự. Những âm thanh này có thể
chuyển ngữ bình thƣờng thành ngữ trí tuệ.
- MODON SENMO (mo gdon sren mo): Nữ quỷ - biểu hiện cho tham
dục.
- NÚI TU DI [ri rab; ri‟I gyalpo ri rab (ri rab; ri‟I gyal po ri rab)]: Ngọn
núi trung tâm siêu hình của vũ trụ học Ấn Độ, Tây Tạng. Đƣợc nói là
Vua của các ngọn núi. Nó phát triển từ trái đất lên đến cõi Trời và có
bốn tầng. Nó cũng có bốn mặt: mặt hƣớng Đông bằng pha lê, hƣớng
Nam bằng lam ngọc, hƣớng Tây bằng hồng ngọc và hƣớng Bắc bằng
vàng. Những màu này phản chiếu trong bầu trời tƣơng ứng với mỗi
châu lục và những cƣ dân của nó tiếp nhận điều này nhƣ màu của bầu
trời. Ví dụ, chúng ta cƣ trú ở Nam Diêm Phù Đề (Dzambuling) và
tiếp nhận bầu trời màu xanh lam ngọc.
- NAGA [lu (klu)]: Rồng – một trong 3 cõi. Vị trí ở dƣới Trái Đất, một
Naga có hình dạng một con rắn – biểu tƣợng cho si.
- NIRMANA-KAYA [trulpa‟I ku (sprul pa‟I sku)]: Hóa Thân, thân thứ
ba của ba thân. Tƣớng biểu hiện của lòng bi, sự hóa hiện của Pháp
Thân. Những hành giả nổi tiếng của đạo Phật đạt giác ngộ trong cách
này.
63
- BỒ ĐỀ TÂM THỰC HÀNH [jukpa‟I changchub kyi sem („jug pa‟I
byang chub kyi sems)]: Tiến trình để thành tựu Bồ Đề Tâm, đó là
thực hành sáu ba la mật.
- GIÁC NGỘ [nam khyen (rnam mkhyen)]: Sự Toàn Giác của Phật
tánh, thật tánh tuyệt đối của Tâm.
- NĂM HIỂU LẦM: Khi lắng nghe Pháp có năm khả năng hiểu lầm: 1,
hiểu chữ nhƣng không hiểu nghĩa; 2, hiểu nghĩa nhƣng không hiểu
lời; 3, hiểu lời nhƣng diễn dịch sai; 4, hiểu lời nhƣng lẫn lộn thứ tự; 5,
hiểu sai nghĩa chữ.
- NĂM CHẮC CHẮN (ngeyba nga den (nges pa lnga idan): 5 điều
chắc thật của một cõi Phật Tịnh Độ: 1, nơi chốn; 2, thời gian; 3 vị
Thầy; 4, giáo lý; 5, quyến thuộc.
- NĂM ĐỘC [duk nga (dug lnga)]: Tham, Sân, Si, Kiêu Mạn và Ghen
Tị, Đố kỵ.
- NGŨ TRÍ [yeshe nga (ye shes lnga)]: Pháp Giới Thể Tánh Trí – trí
tuệ pháp giới, Đại Viên Cảnh Trí – trí tuệ nhƣ gƣơng, Bình Đẳnh
Tánh Trí – trí tuệ bình đẳng, Diệu Quan Sát Trí – trí tuệ phân biệt và
Thành Sở Tác trí – trí tuệ viên mãn.
- BỐN CHẤP NHẬN [dushey shi („du shes bzhi)]: 1, chấp nhận bạn là
bệnh nhân; 2, chấp nhận Giáo Pháp là thuốc; 3, chấp nhận vị Thầy
tâm linh là bác sỹ; 4, chấp nhận việc thực hành Pháp là sự điều trị
bệnh tật.
- BỐN CHÂU LỤC [ling shi (gling bzhi)]: Bốn thế giới loài ngƣời bao
quanh Núi Tu Di. Châu lục phía Đông hình tròn – Lupakling là nhà
của loài ngƣời có thân rất lớn. Châu lục phía Nam là nơi chúng ta
sống tên là Dzambuling, ở đây nghiệp quả chín rất nhanh. Châu lục
phía Tây là Balangchyod, đặc tính của nó là sự giàu có. Châu lục phía
Bắc là Draminyen, đặc tính của nó là âm thanh khó chịu. Mỗi châu
lục có hai châu lục phụ ở hai bên.
- TỨ VÔ LƢỢNG TÂM [tsay me shi (tshad med bhzi)]: Từ, Bi, Hỷ,
Xả.
- GURU RINPOCHE (gu ru rin po che): Hiện thân của tất cả chƣ Phật
đƣợc biết đến là “Đức Liên Hoa Sanh” hoặc Đức Padmasambhava,
64
Ngài còn đƣợc gọi là Đức Phật thứ hai. Guru Rinpoche là ngƣời có
trách nhiệm xây dựng Phật giáo ở Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám.
- GURU YOGA [lama‟I najyor (bla ma‟i rnal „byor)]: Phƣơng pháp đạt
đƣợc tâm trí tuệ chân thật của Guru – trạng thái chân lý tuyệt đối.
- HINA-YANA [tek men (theg dman)]: Một trong ba thừa, Tiểu Thừa,
mục đích là giải thoát chính cá nhân mình.
- VÔ THƢỜNG [mi takba (mi rtags pa)]: Điều kiện nền tảng của thay
đổi. Nói chung, hiện tƣợng hiện hữu và thời gian đƣợc tiếp nhận một
cách truyền thống là thƣờng hằng, trong thực tế chúng lại ngƣợc lại.
- NIẾT BÀN [nya ngen lay dayba (mya ngan las „das pa)]: Đại An Lạc
vƣợt khỏi đau khổ.
- GIAI ĐOẠN HOÀN THIỆN [dzogrim (rdzog rim)]: Giai đoạn hoàn
thiện nằm trong phạm trù Anuyoga và Atiyoga. Anuyoga là sự hoàn
thiện “với những đặc tính”, rèn luyện thần kinh, năng lƣợng và sinh
lực cốt tủy; quan điểm tánh Không và Hỷ Lạc là bất khả phân;
Atiyoga là sự hoàn thiện “không đặc tính”, rèn luyện tâm trí tuệ tỉnh
giác tự sinh, quan điểm là tánh Giác và tánh Không bất khả phân.
- PHURBA (phurba – Phạn là kilaya): Một dao găm có 3 cạnh, pháp
khí của Bổn Tôn trí tuệ xuyên thấu 3 độc.
- PODON GYALPO (po gdon rgyal po): Quỷ vƣơng phái nam, biểu
hiện cho sân.
- TỊNH THỔ [dakpa‟I shing kham (dag pa‟I zhing khams)]: Hiện
tƣợng thanh tịnh vô nhiễm dù bất kỳ chia cách nhị nguyên nào của
chủ thể và đối tƣợng.
- THÂN CẦU VỒNG [ja-lu („ja lus)]: Sự tan biến của thân vật chất sau
khi chết; dấu hiệu của một hành giả Đại Viên Mãn hoàn thành thành
tựu thực hành Thogal đã đạt Phật Quả ở cấp độ Pháp Thân.
- BỒ ĐỀ TÂM TƢƠNG ĐỐI [kun dzob changchub kyi sem (ku rdzob
byang chub kyi sems)]: Tâm đại bi.
- CHÂN LÝ TƢƠNG ĐỐI [kun dzob denpa (ku rdzob byang chub kyi
sems)]: Sự biểu hiện của mọi hiện tƣợng và hiện hữu.
- RIGDZIN [rig‟dzin]: Bậc Trì Giữ Giác Tánh, bậc nắm giữ trạng thái
của giác tánh nội tại liên tục không xao lãng.
65
- RINPOCHE (rin po che): nghĩa đen là “Bậc Tôn Quý, Quý Báu”.
Thuật ngữ này dùng để chỉ một Lama hay sự dẫn dắt trên con đƣờng
tâm linh. Một cách truyền thống, Lama không dùng chỉ cho tên
ngƣời. Trái lại, Rinpoche đƣợc dùng nhƣ một cách nói rất tôn kính và
lịch thiệp.
- GURU GỐC [tsa wa‟I lama (rtsa wa‟I bla ma)]: Vị thầy mà mình đi
theo từ đầu cho đến cuối con đƣờng (để phân biệt với một lama dòng
truyền), là ngƣời ban trao truyền, quán đảnh và giảng dạy những điểm
cốt tủy nhất, hƣớng dẫn chúng ta vào thật tánh của tâm.
- RUPA-KAYA [zuk ku (gzugs sku)]: Sắc thân – hình tƣớng của thân,
phân biệt với thân vô tƣớng – Pháp thân. Sắc thân bao gồm Báo thân
và Hóa thân.
- SADHANA [drup tab (sgrub thabs)]: Một phƣơng pháp dùng để
thành tựu thực hành Bổn Tôn, thƣờng trong dạng một văn bản.
- SAMAYA [damtsik (dam tsigh)]: Nguyện hay cam kết đạt đƣợc mục
tiêu giác ngộ. Ví dụ, tinh hoa của nguyện Tiểu thừa là không làm tổn
hại bất cứ chúng sinh nào, tinh hoa của những nguyện Đại thừa là làm
lợi ích cho tất cả chúng sinh, tinh hoa của nguyện Kim Cƣơng thừa là
luôn luôn giữ tri kiến thanh tịnh, sự bất khả phân giữa phƣơng tiện
thiện xảo và trí tuệ.
- SAMADHI (ting nge „dzin): Thiền định chú tâm.
- SAMANTABHADRA [Kuntuzangpo (kun tu bzang po)]: Phật Phổ
Hiền – Đức Phật Nguyên Thủy chƣa từng lừa dối từ vô thủy.
- SAMBOGHAKAYA [long chyo dzopa‟I ku (longs spyod rdzogs pa‟i
sku)]: Báo Thân, thân thứ hai của ba thân. Sự biểu hiện vô ngại từ
Pháp thân, đó là năng lực rộng mở xuất hiện tự nhiên của năm chắc
chắn (năm điều chắc thật). Có phẩm tính phi thƣờng viên mãn tự
nhiên.
- SAMSARA [khorwa („khorba)]: Sự biểu hiện của mọi nghiệp thiện
và bất thiện. Nghĩa đen là luân hồi. Samsara xuất hiện từ khái niệm
nhị nguyên về hiện tƣợng.
- SANGHA [gen dun (dge „dun)]: Tăng Đoàn, một trong Tam Bảo, là
tất cả những ngƣời đang đi trên con đƣờng Giáo Pháp hƣớng về mục
đích giác ngộ.
66
- SIDDHI [ngo drub (dngos grub)]: Thành tựu, đạt đƣợc năng lực kỳ
diệu thông thƣờng và thành tựu phi thƣờng của giác ngộ viên mãn.
- SÁU CÕI [drowa rik druk („gro ba rigs drug)]: Ba cõi thấp và ba cõi
cao trong luân hồi. Những cõi thấp là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
Những cõi cao là Ngƣời, Atula và Trời.
- SÁU NHIỄM Ô CỦA MỘT BÌNH CHỨA [trima druk ni (dri ma
drug ni)]: Kiêu mạn, thiếu niềm tin, không quan tâm, xao lãng bên
ngoài, thu rút vào trong (tự cô lập) và lắng nghe với sự hối tiếc.
- SVABHAVIKA-KAYA [ngowo nyi kyi ku (ngo bo nyid kyi sku)]:
Thân thứ tƣ, “tinh hoa của chân nhƣ”, sự bất khả phân của ba thân.
- TABLAM (thabs lam): Con đƣờng của phƣơng tiện thiện xảo.
- MƢỜI THIÊN PHÚ [jyorwa chu („bjor ba bcu)]: Không có mƣời đặc
tính này thì hành giả không thể thực hành Giáo Pháp. Năm thiên phú
thấy trong chính hành giả là: 1, đƣợc thân ngƣời; 2, sinh ra nơi có
Phật pháp; 3, có đầy đủ các căn và tinh thần hoàn hảo; 4, không sinh
sống bằng nghề hƣ hỏng; 5, có niềm tin vào Pháp. Và năm thiên phú
thấy ở những thứ khác là: 1, sinh vào thời có Phật; 2, còn sống khi
Phật giảng dạy; 3, còn sống khi Giáo pháp hiện hữu ; 4, sống vào lúc
có những ngƣời đi theo Giáo pháp; 5, sống vào lúc vị Thầy có lòng từ
giảng dạy.
- TERMA (gter ma): Dòng truyền ngắn. Giáo Pháp và những chất liệu
(kho tàng) đƣợc Guru Rinpoche và 25 đệ tử chôn dấu khi Guru
Rinpoche ở Tây Tạng. Các kho tàng này đƣợc cất dấu để phát hiện
sau này vì lợi ích của những thế hệ tƣơng lai.
- THOGAL (thos gral) “Nhảy lên”, một trong hai cấp thực hành
Dzochen. Trong đó hành giả “nhảy thẳng” vào trạng thái giác ngộ
hơn là theo con đƣờng tiệm tiến. Nói chung, Kim Cƣơng Thừa là
“con đƣờng nhanh chóng”, có thể giác ngộ ngay trong một đời hơn là
ba aeon (đại kiếp) trên con đƣờng Giáo thừa. Tuy nhiên, Thogal lại
rất nhanh, có nói rằng hành giả có thể thành tựu giác ngộ chỉ trong
một tuần lễ.
- BA BỆNH TẬT [nay sum (nad gsum)]: Phong, mật và đờm – nguyên
nhân gốc của 404 loại bệnh tật.
67
- BA CỬA [go sum (sgo gsum)]: Thân, khẩu, ý bình thƣờng của chúng
sinh.
- BA XUẤT SẮC [dampa sum (dam pa gsum)]: Bất kỳ thực hành tâm
linh nào đều phải có ba phần: Khởi đầu xuất sắc là phát Bồ Đề Tâm,
Phần chính xuất sắc là phi khái niệm hóa, Kết quả xuất sắc là hồi
hƣớng công đức. Nếu quên một trong ba phần này, thực hành của
hành giả chỉ thuộc về cõi luân hồi.
- BA LỖI LẦM CỦA MỘT BÌNH CHỨA [no kyi kyon sum (snod kyi
rkyon gsum)]: 1, giống nhƣ cái bình bị lật úp; 2, giống nhƣ cái bình bị
thủng, quên những gì đã đƣợc nghe; 3, giống nhƣ bình có chứa chất
độc, vì có tà kiến
- TAM BẢO [konchok sum (dkon mchog gsum)]: Phật – mục đích
cuối cùng của trạng thái giác ngộ, Pháp – giáo lý và phƣơng pháp để
đạt giác ngộ và Tăng đoàn - những ngƣời thực hành Giáo Pháp.
- BA THÂN [kusum (sku gsum)]: Hóa Thân, Báo Thân và Pháp Thân.
- BA ĐỘC [ duk sum (dug gsum)]: Tham, Sân và Si.
- BA CÕI [kham sum (khams gsum)]: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc
giới.
- BA GỐC [tsawa sum (rtsa ba gsum): Lama - gốc rễ của sự tiếp nhận
quán đảnh, Yidam – gốc rễ của mọi nhận biết của thành tựu thông
thƣờng và tối thƣợng và Dakini – gốc rễ của mọi hoạt động.
- BA THỪA [tèkba sum (theg pa gsum)]: Tiểu thừa, Đại thừa và Kim
Cƣơng thừa.
- TREKCHO (khregs chod): “Cắt Sạch, một trong hai cấp thực hành
Dzogchen, một phƣơng pháp cắt lìa sự chấp chặt của tâm.
- TSALUNG (rtsa rlung): một yoga cơ thể, rèn luyện thần kinh, kinh
mạch và sinh lực cốt tủy. Tƣơng tự nhƣ Anuyoga.
- TSA, LUNG và TIGLE (rtsa, rlung, thig le) - Phạn: Nadi, Prana và
Bindu. Kinh mạch, Khí và Tinh Chất – những thành phần của một
thân vajra.
- TSOK [tsok kyi khorlo (tshog kyi „khorlo)] – Phạn: Ganachakra:
“Một tích tập hay tụ hội”. Một tích tập thực phẩm để cúng dƣờng
những yogi và yogini, là một phƣơng pháp thâm sâu để tích lũy công
đức và trí tuệ. Là một sadhana (nghi quỹ) rất cao và hùng mạnh.
68
- TULKU (sprul sku): Tƣớng Hóa thân. Những bậc giác ngộ có thể có
nhiều thân tƣớng. Các Ngài có thể lấy thân thể còn tại thế hay những
biểu tƣợng của thân, ngữ, ý của Chƣ Phật nhƣ những pháp khí, các
phục sức, mỹ nghệ của nghi lễ.
- 25 ĐỆ TỬ [jebang nyer nga (rje „bang nyer lnga)]: Những đệ tử tâm
đắc của Đức Liên Hoa Sanh ở Tây Tạng.
- HAI THÂN [ku nyiyi (sku gnyis)]: Pháp Thân – thân vô tƣớng và Sắc
Thân – thân có hình tƣớng.
- HAI MỤC ĐÍCH [don nyiyi (don gnyis)]: Đạt đƣợc trạng thái giác
ngộ của Pháp thân cho chính mình và đạt đƣợc trạng thái sắc thân để
lợi ích cho ngƣời khác.
- VAJRA [dorje (rdo rje): Bất hoại, bản chất nhƣ kim cƣơng của Pháp
Thân.
- VAJRASATTVA [dorje sempa (rdo rje sems pa‟)]: “Vajra” có nghĩa
là trí tuệ bất hoại, “Sattva” là ngƣời có tâm chiến binh vô úy.
Vajrasattva là Bổn Tôn trí tuệ, Chúa tể của mọi gia đình Phật.
- VAJRA-YANA [dorje tekba (rdo rje‟r theg pa)]: Kim Cƣơng thừa,
một trong ba thừa, thừa bất hoại và vô song. Mục tiêu nhƣ Đại thừa,
giác ngộ cho chính mình và tất cả chúng sinh. Đƣợc phân biệt với
Tiểu thừa và Đại thừa nhờ phƣơng pháp của trí tuệ và phƣơng tiện
thiện xảo. Con đƣờng này dành cho những ngƣời có khả năng cao
nhất.
- VAJRA-YOGINI [Dorje Naljyor (rdo rje rnal „byor ma)]: Một Bổn
Tôn trí tuệ trong hình tƣớng Đức Phật nữ.
- YIDAM (yi dam): Bổn Tôn chọn cho cá nhân bạn, gốc rễ tiếp nhận
mọi thành tựu.