ĐỀ tÀi nễng nghiỆp trong tranh khẮc gỖ viỆt...

110
1 BGIÁO DC VÀ ĐÀO TO BVĂN HÓA, THTHAO VÀ DU LCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM ĐỖ THỊ THU THỦY ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985 LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT HÀ NỘI – 2017

Upload: truongkhue

Post on 13-Apr-2018

226 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

Page 1: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU

LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

ĐỖ THỊ THU THỦY

ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP

TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1955-1985

LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT

HÀ NỘI – 2017

Page 2: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

ĐỖ THỊ THU THỦY

ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP

TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1955-1985

LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT

Chuyờn ngành: Mỹ thuật Tạo hỡnh (Hội họa)

Mó số: 60 21 01 02

Khúa: 18 (2015-2017)

Giảng viên hướng dẫn khoa học:

PGS.TS Bựi Thị Thanh Mai

Page 3: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

3

HÀ NỘI – 2017

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BTMT : Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

H : Hỡnh

NXB : Nhà xuất bản

Tr : Trang

XHCN : Xó hội chủ nghĩa

Page 4: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

4

MỤC LỤC

Trang phụ bìa…………………………………………………………….

Bảng chữ cái viết tắt……………………………………………………..

Mục lục………………………………………………………………….. 01

MỞ ĐẦU………………………………………………………………... 03

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU............... 12

1.1. Khái niệm “đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ”……………..... 12

1.2. Khái quát chung về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985... 20

Tiểu kết………………………………………………………………….. 26

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP

TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985…………. 28

2.1. Nội dung chủ đề thể hiện đề tài…………………………………….. 28

2.1.1. Chủ đề về cấy cày…………………………………………….. 28

2.1.2. Chủ đề về trồng trọt…………………………………………... 31

2.1.3. Chủ đề về chăn nuôi………………………………………….. 33

2.1.4. Chủ đề về thu hoạch………………………………………….. 35

2.2. Hình thức thể hiện đề tài………………………………………….... 37

2.2.1. Bố cục trong tác phẩm……………………………………….. 38

2.2.2. Đường nét trong tác phẩm…………………………………… 42

2.2.3. Hình thể trong tác phẩm……………………………………… 45

2.2.4. Màu sắc trong tác phẩm………………………………………. 48

Tiểu kết………………………………………………………………….. 53

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI..... 54

3.1.Thành công và hạn chế đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam

giai đoạn 1955-1985…………………………………………………….. 54

3.2. Bài học về sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc…………… 62

Page 5: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

5

Tiểu kết………………………………………………………………….. 67

KẾT LUẬN……………………………………………………………………. 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….. 74

MỤC LỤC PHẦN PHỤ LỤC…………………………………………............ 78

PHẦN PHỤ LỤC………………………………………………………............ 79

Page 6: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bất kỳ nước nào cũng có bề dày kinh nghiệm và sở trường riêng để gây

dựng nền hội họa của mình. Trong thế kỷ thứ 20, các họa sĩ Việt Nam cũng kế

thừa cả một truyền thống dân tộc của mình mà trong đó tranh khắc gỗ dân

gian là một trong những nguồn cảm xúc quan trọng bậc nhất. Năm 1925, kể từ

khi có trường Mỹ thuật Đông Dương, đã đánh dấu sự xuất hiện của tranh khắc

gỗ hiện đại. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, do nhu cầu phổ biến

rộng rãi và kịp thời những nét sinh hoạt của xã hội nên tranh khắc gỗ được

phát triển nhanh chóng, nội dung phản ánh con người mới, xã hội mới. Hình

ảnh Bác Hồ tưới cây, anh tự vệ, cô bộ đội, các dân tộc đoàn kết hăng hái tham

gia lao động sản xuất… đều được phản ánh một cách rất tươi tắn, rõ nét, mà

trong số đó phải kể đến đề tài nông nghiệp.

Giai đoạn 1955-1985 là giai đoạn xuất hiện nhiều tranh khắc gỗ nhất với

mảng đề tài nông nghiệp bởi sau năm 1954 đất nước hòa bình thống nhất,

nhân dân ta hăng hái lao động sản xuất khôi phục phát triển kinh tế, các họa sĩ

Việt Nam đã làm rực rỡ thêm cho nền tranh khắc gỗ nước nhà bằng những tác

phẩm có giá trị nghệ thuật cao, với nhiều sắc thái, khía cạnh của cuộc sống.

Bằng lòng ham học hỏi và tài năng của mình, các họa sĩ Việt Nam đã được

tiếp thu các kỹ thuật diễn tả không gian, nét tinh tế của nghệ thuật đồ họa thế

giới góp phần sự đa dạng, phong phú của đồ họa nước nhà. Sự tinh tế, đan

xen chất mộc mạc; sự giản lược kết hợp diễn tả khối, không gian trong tranh

sinh hoạt đề tài nông nghiệp đã đưa người xem như được bước vào một khung

cảnh mới vừa quen vừa lạ mang đầy chất dân tộc mà vẫn hiện đại, đem lại

nhiều cảm xúc cho người sáng tác cũng như thưởng thức.

Với nhiều nét độc đáo, đề tài nông nghiệp cũng là điểm đáng quan tâm

Page 7: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

7

của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, lý luận mỹ thuật; tuy nhiên, nhìn chung tính

đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có những đề tài hay công trình nghiên cứu

mang tính chuyên sâu nào về nông nghiệp, đặc biệt là thể hiện ở tranh khắc

gỗ. Bên cạnh đó, nhân dịp có thể hệ thống lại, phân tích và làm rõ sự biểu

hiện đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985.

Xuất phát từ lý do trên, để góp phần vào công việc nghiên cứu nghệ thuật

tranh khắc gỗ ở Việt Nam, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề “Đề tài nông

nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955- 1985”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Đề tài nông nghiệp là đề tài không còn xa lạ đối với Mỹ thuật tạo hình,

bởi nó có tính chất lịch sử và cơ sở tồn tại lâu đời. Cũng như vậy, tranh khắc

gỗ Việt Nam trải qua bao biến thiên đến nay dòng tranh vẫn tồn tại và tạo nên

những dấu ấn văn hóa thẩm mỹ, cũng như định hình phong cách nghệ thuật

không phai mờ. Đề tài nông nghiệp và tranh khắc gỗ Việt Nam có vai trò to

lớn trong nghệ thuật nước nhà và được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.

Vì vậy cho đến nay có một số công trình đã đề cập đến về sự ra đời, phát triển

của dòng tranh cũng như bề dày lịch sử ở những chủ đề, giai đoạn khác nhau;

bài viết nhỏ mang tính chất nhận định cá nhân về đề tài trên những trang sách,

tạp chí Mỹ thuật, trang báo điện tử, trong khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc

sĩ. Dưới đây là một số tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu luận văn khi

có điều kiện được tiếp cận và được chia thành hai nhóm như sau:

*Nhóm tài liệu viết về đề tài nông nghiệp trong Mỹ thuật:

Cuốn Nguyễn Văn Chung, Những bài viết về Mỹ thuật [6] của Nguyễn

Văn Chung, NXB Mỹ thuật, Hà Nội 2010 là tập hợp những bài viết dưới suy

nghĩ cá nhân của riêng tác giả về các vấn đề xung quanh tới Mỹ thuật, trong

đó có bài viết “Mỹ thuật phục vụ nông nghiệp và đời sống nông thôn hiện

nay”. Về cơ bản bài viết đã đưa ra vai trò của Mỹ thuật trong việc tuyên

truyền, cổ động đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề nông

Page 8: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

8

nghiệp, đời sống nông thôn.

Cuốn Mỹ thuật đồng bằng sông Hồng của Hội Mỹ thuật Việt Nam do

Trần Khánh Chương chủ biên, NXB Mỹ thuật, 2015 là tập hợp những bài

tham luận tại Hội thảo Mỹ thuật Đồng bằng sông Hồng lần thứ nhất năm 2014

trong đó có hai bài viết của hai họa sĩ Việt Anh [14; Tr 215-220] và Nguyễn

Thái Cơ [14; Tr 253-259] nói đến cái được và mất về đề tài nông nghiệp dưới

góc nhìn, đánh giá cá nhân qua các cuộc triển lãm khu vực Đồng bằng sông

Hồng những năm gần đây, qua đó đưa ra một số ý kiến khắc phục những hạn

chế còn tồn tại. Bài viết rất có ích cho việc nghiên cứu luận văn khi cung cấp

cái nhìn khách quan của các nghệ sĩ.

Luận văn Hình tượng người nông dân trong hội họa Việt Nam thế kỷ XX-

(2012) [23] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Chí Nguyện đã

nghiên cứu và cho cái nhìn khái quát nhất về hình tượng người nông dân

trong hội họa Việt Nam thế kỷ XX trên các chất liệu lụa, sơn dầu, sơn mài…

trong đó đã chỉ ra hình tượng người nông dân trong hội họa giai đoạn 1954-

1975 khi xây dựng XHCN ở miền Bắc với lao động tập thể trong phong trào

hợp tác xã, làm chủ công việc, làm chủ ruộng đồng… Luận văn cung cấp cái

nhìn toàn cảnh về sự thay đổi cũng như phát triển hình tượng người nông dân

suốt chặng đường dài xuyên suốt thế kỷ XX.

* Nhóm tài liệu viết về tranh khắc gỗ Việt Nam:

Cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình [34] của Viện Nghệ thuật-

Bộ Văn hóa, NXB Văn hóa, Hà Nội 1973 có tập hợp những bài phát biểu của

các họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, cán bộ lý luận, nhà phê bình Mỹ

thuật… về đặc điểm, đặc trưng, tính hiện thực của nghệ thuật tạo hình dân

tộc, vấn đề kế thừa, phát huy vốn nghệ thuật của ông cha, vấn đề học tập tinh

hoa nghệ thuật nước ngoài… đặc biệt có bài phát biểu của Phạm Văn Đôn với

“Tranh khắc gỗ Việt Nam” về tính chất tranh khắc gỗ, tranh khắc gỗ Việt

Nam qua các thời kỳ lịch sử và “Một số đặc điểm dân tộc trong tranh dân

Page 9: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

9

gian” của PGS Nguyễn Trân có đề cập đến đặc điểm dân tộc trong nội dung

đề tài, nội dung thẩm mỹ; trong công việc thể hiện tranh khắc gỗ dân gian

Việt Nam.

Cuốn Tranh dân gian Việt Nam [38] Nguyễn Bá Vân và Chu Quang

Chứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1984 viết về nghệ thuật tranh khắc gỗ dân gian

Việt Nam với nguồn gốc, sự phát triển, kỹ thuật, nội dung cũng như giá trị

nghệ thuật của tranh. Ngoài ra còn xen vào những bài viết nói lên suy nghĩ,

nhận định dưới góc nhìn cá nhân tác giả.

Cuốn Nghệ thuật Đồ họa [32] của PGS. Nguyễn Trân, NXB Mỹ thuật,

Hà Nội, 1995 là tài liệu có tính chất lý luận về nghệ thuật đồ họa, trong đó tác

giả phân tích các thể loại đồ họa trên một số quan niệm, kỹ thuật in khắc, mục

đích sử dụng, nguồn gốc ra đời, tổng quan về sự phát triển cũng như đặc điểm

của tranh đồ họa Việt Nam cùng thế giới, trong đó có nhắc đến tranh khắc gỗ.

Tranh khắc gỗ Việt Nam được nhắc đến qua sự xuất hiện, đặc điểm thẩm mỹ,

bên cạnh đó đề cập việc tiếp thu truyền thống, sáng tạo cái mới trong đồ họa.

Cuốn Đồ họa nghệ thuật tranh in [31] của Hoàng Minh Phúc đã viết rất

kỹ về lịch sử giai đoạn của tranh khắc gỗ Việt Nam, cụ thể liệt kê tiến trình

cũng như thành tựu của dòng tranh này. Cuốn sách đưa ra những nhận định cá

nhân mang lại cho người xem sự hiểu biết đầy thuyết phục dựa trên những cơ

sở đáng tin cậy. Đây là một tài liệu quý, cung cấp rất nhiều kiến thức trong

quá trình nghiên cứu đề tài.

Khóa luận Đề tài sinh hoạt trong tranh khắc gỗ màu Việt Nam [19]

trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Thị Hiền Lương đã chỉ ra vai

trò của khắc gỗ là một phần quan trọng trong nền văn hóa của dân tộc, qua đó

nghiên cứu về cách nhìn, cách diễn đạt đề tài sinh hoạt của nghệ nhân dân

gian xưa và các họa sĩ Việt Nam hiện đại trong nghệ thuật khắc gỗ màu nước

nhà.

Khóa luận Hiệu quả của nét trong tranh khắc gỗ đen trắng Việt Nam

Page 10: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

10

hiện đại [33] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Xa Thị Minh Thúy đã

chỉ ra cách diễn đạt nét của các họa sĩ Việt Nam hiện đại trong nghệ thuật

khắc gỗ đen trắng. Qua đó thấy được hiệu quả biểu đạt của đường nét.

Khóa luận Tính hiện thực trong tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam [8]

trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Vũ Ngọc Đăng đã chỉ ra những thành

công trong tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam khi kết hợp hài hòa tính dân tộc

và hiện đại, phương Đông và phương Tây qua luật phối cảnh xa gần, về mặt

kỹ thuật, và ý thức hướng về dân tộc, tìm tòi cái mới từ những gì mới mẻ tiếp

thu.

Khóa luận Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam- (2007) [20] trường Đại học

Mỹ thuật Việt Nam của Hoàng Kiều Linh đã chỉ ra những thành công của

tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam khi kết hợp hài hòa tính dân tộc và hiện đại

về nội dung cũng như kỹ thuật thể hiện từ khi tranh khắc gỗ hiện đại ra đời

sau năm 1925 có trường Mỹ thuật Đông Dương.

Khóa luận Chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại - (2008), [7]

trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Đỗ Văn Duẩn đã chỉ ra đặc trưng của

chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại (khả năng tả chất, diễn chất,

tạo chất), chất cảm trong việc khai thác đề tài và phong cách thể hiện của một

số họa sĩ.

Luận văn Tranh khắc gỗ màu hiện đại Việt Nam giai đoạn 1954-1975-

(2016) [10], trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Dương Thị Hòa đã chỉ ra

những đặc điểm trong tác phẩm tranh khắc gỗ màu giai đoạn 1954-1975. Đây

là giai đoạn các họa sĩ Việt Nam đã trải qua quá trình học tập trong trường

Mỹ thuật Đông Dương nên đã hoàn thiện về mặt kỹ năng sáng tác, bắt kịp sự

thay đổi của xã hội, từ đó tạo ra sự chuyển biến về ngôn ngữ tạo hình cũng

như chủ đề sáng tác.

Bài viết Tranh khắc gỗ Việt Nam với những phát triển mới từ năm 1986

đến nay- Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số 3 (47), T9/2013, [12], trường Đại

Page 11: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

11

học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật của Trương Nguyễn Nguyên Kha đã

đề cập vấn đề tranh khắc gỗ nước ta đã có những bước chuyển mình quan

trọng, tạo ra sức sống mới về nội dung chủ đề, kỹ thuật chế bản và in ấn,

những nét mới về ngôn ngữ và hình thức nghệ thuật.

Bài viết “Trần Nguyên Đán, nét khắc ký ức và hiện tại”- tạp chí Nghiên

cứu Mỹ thuật số 1, T4/2014, [21] Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Viện

Mỹ thuật của Nguyễn Loan đề cập đến những thành tựu mà họa sĩ đã đạt được

về nội dung cũng như kỹ thuật khắc gỗ khi tiếp nhận những kỹ năng truyền

thống để tạo ra phong cách riêng gây ấn tượng khó quên.

Bài viết “Tranh khắc gỗ mới- phương tiện mở rộng thực hành nghệ thuật

đương đại”- Tạp chí Mỹ thuật số 227, 2011 [29], Hội Mỹ thuật Việt Nam của

họa sĩ Nguyễn Nghĩa Phương đã đề cập đến vấn đề sự phát triển của tranh

khắc gỗ theo xu hướng mới về bút pháp, sự thay đổi sâu sắc về thẩm mỹ, sự

mở rộng về phương tiện, chất liệu, kỹ thuật chế bản và in ấn…

Ngoài ra còn rất nhiều những bài viết hay về đề tài nông nghiệp trong

Mỹ thuật cũng như tranh khắc gỗ Việt Nam ở các tạp chí Mỹ thuật, hay các

trang Blog Mỹ thuật và các sách giới thiệu tranh của các tác giả đồ họa. Tuy

nhiên tất cả đều không đề cập một cách cụ thể về đề tài nông nghiệp trong

tranh khắc gỗ Việt Nam. Tình hình đó đòi hỏi cần có một công trình nghiên

cứu riêng tập trung vào vấn đề những biểu hiện của đề tài nông nghiệp trong

tranh khắc gỗ Việt Nam ở cả nội dung và hình thức mà giai đoạn 1955-1985

là tiêu biểu. Luận văn là một sự cố gắng, một biểu hiện cụ thể nhằm đáp ứng

yêu cầu chung đó.

3. Mục đích của luận văn

- Hiệu quả tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 về đề tài nông

nghiệp.

- Tìm hiểu phong cách các họa sĩ Việt Nam qua kỹ thuật thể hiện đề tài

nông nghiệp trong tranh khắc gỗ.

Page 12: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

12

- Nghiên cứu đánh giá, xác định những điểm nổi bật trong các tác phẩm

khắc gỗ của họa sĩ Việt Nam phản ánh hoạt động nông nghiệp nước nhà.

- Những bài học rút ra trong sáng tác qua việc tìm hiểu ngôn ngữ tạo

hình tranh khắc gỗ. Qua đó đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam

giai đoạn 1955-1985 góp một phần nhỏ trong nghệ thuật đồ họa tranh in, nền

mỹ thuật Việt Nam làm cơ sở dữ liệu khoa học để phục vụ sáng tác, nghiên

cứu khoa học và đào tạo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn

1955-1985.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu đề tài là các tác phẩm khắc gỗ Việt Nam giai đoạn

1955-1985 vẽ về đề tài nông nghiệp.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập thông tin:

Xác định đây là phương pháp quan trọng cho bước đầu nghiên cứu: đi

tìm, thu thập những nguồn tài liệu có liên quan để phục vụ cho đề tài. Trong

quá trình thu thập tài liệu có sự kết hợp giữa phương pháp khảo sát (tiến hành

khảo sát các tác phẩm tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam), và phương pháp

phỏng vấn (gặp gỡ nói chuyện với các họa sĩ liên quan để lấy thông tin) vấn

đề đề tài nông nghiệp cũng như tranh khắc gỗ. Phương pháp thu thập thông

tin có tốt thì vấn đề mà luận văn đặt ra nghiên cứu càng được sáng tỏ.

- Phương pháp thống kê tài liệu:

Sau khi thu thập nhiều nguồn thông tin, thống kê lại, lập hệ thống tư liệu

những nguồn tài liệu hiện có (tranh ảnh, bài viết, ghi âm phỏng vấn…) để

chọn lọc ra những tư liệu chuẩn xác nhất, giàu sức thuyết phục phục vụ, giúp

ích cho công việc nghiên cứu đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ.

Page 13: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

13

- Phương pháp phân tích:

Đây là phương pháp quan trọng nhất trong việc phân tích tác phẩm tranh

khắc gỗ Việt Nam đề tài nông nghiệp về nội dung cũng như hình thức; trên cơ

sở đó tìm ra yếu tố đặc sắc, nét đặc trưng và giá trị nghệ thuật của tranh thể

hiện qua ngôn ngữ biểu đạt, phút pháp thể hiện, kỹ thuật,...

- Phương pháp diễn dịch:

Luận văn sử dụng phương pháp diễn dịch để trình bày và làm rõ các vấn

đề đặt ra như khái niệm về đề tài nông nghiệp, tranh khắc gỗ; đến nội dung và

hình thức thể hiện đề tài.

- Phương pháp tổng hợp, đánh giá:

Tổng hợp dữ liệu văn bản và các vấn đề liên quan đến luận văn, tổng hợp

các kiến thức chung về đề tài nông nghiệp và tranh khắc gỗ Việt Nam ở trước,

trong và sau giai đoạn 1955-1985, đồng thời so sánh đối chiếu những thông

tin thu nhận được với nhau nhằm đảm bảo tính khách quan và chính xác cho

luận văn.

- Phương pháp lịch sử:

Phương pháp giúp tìm hiểu xã hội nói chung và hội họa Việt Nam trong

đó nói riêng, từ đó hiểu được sự ảnh hưởng, tác động của bối cảnh lịch sử tới

quan niệm sáng tác của các họa sĩ sáng tác trước, trong và sau giai đoạn 1955-

1985.

6. Đóng góp của luận văn

Về lý luận: Luận văn góp phần nghiên cứu về ngôn ngữ tạo hình trong

tranh khắc gỗ Việt Nam sáng tác về đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985.

Tìm hiểu và cung cấp đầy đủ về nội dung, hình thức biểu đạt cũng như kiến

thức và kinh nghiệm để tiếp cận với nghệ thuật tranh khắc gỗ Việt Nam ở đề

tài nông nghiệp, góp phần giữ gìn và phát triển dòng tranh đang bị mai một

này.

Page 14: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

14

Về thực tiễn: Sau khi hoàn thành luận văn, giúp bổ sung một phần nhỏ

vào kho tàng nghiên cứu lý luận. Làm tài liệu tham khảo cho các học viên,

sinh viên quan tâm đến tranh khắc gỗ Việt Nam ở mảng đề tài nông nghiệp.

Giúp người đọc nhìn nhận được vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của tranh khắc gỗ

Việt Nam. Từ đó biết quý trọng chất liệu tranh này cũng như bảo tồn và phát

huy dòng tranh đó.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn bao gồm phần mở đầu (09 trang), nội dung (58 trang), kết luận

(02 trang). Phần nội dung của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan chung về đề tài nghiên cứu. (16 trang)

Chương 2: Nội dung và hình thức thể hiện đề tài nông nghiệp trong tranh

khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985. (26 trang)

Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài. (16 trang)

Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (03 trang), phụ lục minh họa

(31 trang)

Page 15: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

15

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Khái niệm “Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ”

Khái niệm Đề tài nông nghiệp

Khái niệm Nông nghiệp

Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc

gia, đặc biệt là trong những thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển

và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Việt Nam là một nước

chuyên về nông nghiệp với 95% dân số sống về đồng ruộng, bởi vậy việc tìm

hiểu thế nào là nông nghiệp cũng như giá trị của ngành nghề cần được nắm rõ

hơn bao giờ hết. Theo thời gian, nông nghiệp ngày càng phát triển đa dạng

với nhiều hình thức thể hiện phong phú. Từ xưa đến nay có khá nhiều khái

niệm ở mức độ phạm vi rộng, hẹp khác nhau tùy thuộc vào sự hiểu biết của

mỗi cá nhân và dưới đây là vài ví dụ ở một số cuốn từ điển có định nghĩa về

“Nông nghiệp”:

Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa “Nông nghiệp”

là ngành kinh tế quốc dân chuyên trồng trọt và cày cấy thực phẩm cho nhân

dân và nguyên liệu cho công nghiệp.” [31, tr 605].

Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên của Bộ Giáo

dục và đào tạo có định nghĩa “Nông nghiệp” như sau: “Ngành sản xuất chủ

yếu của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi: phát

triển nông nghiệp, mặt trận nông nghiệp.” [39, tr 1283]. Bên cạnh đó, từ điển

còn phân chia rõ ràng cụ thể hơn với các khái niệm xung quanh như “nông

nghiệp cổ truyền”, “nông nghiệp công nghiệp hóa”, “nông nghiệp nguyên

thủy”, “nông nghiệp sinh học”, “nông nghiệp sinh thái học”, “nông nghiệp 8”.

Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã định nghĩa: “Nông

Page 16: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

16

nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, cung cấp sản phẩm trồng

trọt và chăn nuôi”. [26, tr 768].

Từ những khái niệm trên, có thể thấy tuy nhận định về “Nông nghiệp” là

dài, ngắn khác nhau (đáng chú ý có cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” của

Nguyễn Như Ý có phân tích sâu, làm sáng rõ những khái niệm nhỏ hơn thuộc

về nông nghiệp) nhưng tổng quan vẫn có những ý kiến trùng khớp và gộp lại,

ta được mẫu số chung: Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn chủ yếu của xã

hội có nhiệm vụ sử dụng đất đai để trồng trọt, cấy cày và chăn nuôi, khai thác

cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chính để tạo ra

lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp.

Khái niệm Đề tài

Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa đề tài

là: “Đối tượng để nghiên cứu hoặc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm khoa học

hoặc văn học, nghệ thuật.” [26, tr 330].

Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa đề tài là:

“Phạm vi vấn đề mà nghệ sĩ hoặc nhà khoa học nhằm nghiên cứu, giải quyết

hay thể hiện: Đời sống công, nông binh là một đề tài phong phú cho nhà tiểu

thuyết; Đề tài nghiên cứu vật lý hạt nhân.” [31, tr 289].

Theo Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông, đề tài được giải thích là:

“Những lý do, những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một người hay

một nhóm người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu, thể hiện, diễn

đạt bằng một hình thức riêng với những hình tượng cô đọng, điển hình. Ví dụ:

đề tài về lực lượng vũ trang, đề tài chiến tranh, đề tài về thiếu nhi, đề tài về

xây dựng… Nghệ thuật tạo hình thế giới qua các thời kỳ đều thể hiện những

đề tài nổi bật, phổ biến. Ví dụ thời kỳ lãng mạn, đề tài là thiên nhiên, con

người và tình yêu; thời kỳ hiện thực, đề tài là thiên nhiên, quê hương, đất

nước, con người trong lao động, trong chiến đấu, trong sinh hoạt bình thường

với những tình cảm đa dạng phong phú… Kể từ khi hình thành chủ nghĩa Ấn

Page 17: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

17

tượng, với sự ra đời của trường phái mới, nhất là những trường phái mang

tính hình thức, trừu tượng thì đề tài không quan trọng và không có tính chất

quyết định nữa mà tên tranh chỉ gợi một sự chú ý, liên tưởng xa xôi, thậm chí

có khi tùy tiện. Có những bức tranh tùy hứng, vẽ theo sự thích thú ngẫu nhiên

của tác giả, không định thể hiện một ý đồ, một chủ đề nào cả, được đặt tên là

“vô đề”, tức là tranh không có đề tài. Nói chung, đề tài dành cho nghệ sĩ rất

rộng rãi, phong phú. Những người đã nung nấu nhiều về một đề tài thường có

nhiều cảm xúc, nhiều tư liệu nghiên cứu, tìm tòi, hư cấu sâu vào đề tài đó.

Nhờ đó họ sẽ tạo ra những tác phẩm có chất lượng. Đề tài rộng hơn chủ đề.

Chủ đề được diễn đạt bằng hình tượng cụ thể hơn. Ví dụ: đề tài là phụ nữ, còn

chủ đề có thể là phụ nữ đi cấy, phụ nữ làm văn nghệ, phụ nữ tập quân sự,…”

[25, tr 62-63].

Cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 do Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên

soạn từ điển có khái niệm rất đầy đủ: “Đề tài (văn, nghệ thuật, khoa học), đối

tượng để miêu tả, biểu hiện, nghiên cứu, chuyện trò. Trong văn học, nghệ

thuật, đề tài là những hiện tượng xã hội được nhà văn, người nghệ sĩ khai thác

một cách nhất quán theo ý định tư tưởng - nghệ thuật của mình. Đề tài được

nhận thức và khai thác theo những quan điểm khác nhau, tùy thuộc vào thế

giới quan, lập trường tư tưởng, thái độ của văn nghệ sĩ. Bản thân đề tài không

trực tiếp mang tính tư tưởng, nhưng đề tài là điểm xuất phát để văn nghệ sĩ

bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình qua chủ đề, cốt truyện và nhân vật. Ví

dụ: đề tài nông nghiệp, đề tài chiến tranh, đề tài tình yêu,… hoặc cụ thể hơn

đề tài về đổi mới trong giáo dục lối sống, phê phán tệ nạn xã hội. Trong khoa

học, việc chọn đề tài có một tầm quan trọng đặc biệt. Đề tài phải đáp ứng yêu

cầu của khoa học, của thời đại, phục vụ sản xuất, và đời sống con người, phải

thiết thực và ý nghĩa đối với thực tiễn cuộc sống.” [30, tr 771].

Như vậy, có thể nói có nhiều sự giải thích về đề tài ở những cấp độ nông,

sâu khác nhau, tuy vậy thì các định nghĩa đa dạng trên ít nhiều đã góp phần

Page 18: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

18

làm sáng rõ khái niệm đề tài trên mọi góc nhìn. Có thể thấy khi so các định

nghĩa với nhau, cách giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 mang tính

khái quát, khá đầy đủ; còn Từ điển Mỹ thuật phổ thông đã dùng từ ngữ

chuyên ngành Mỹ thuật để giải thích sâu và sát hơn về “Đề tài”; cụ thể đã chỉ

ra sự thay đổi quan niệm về đề tài theo từng giai đoạn qua cách thức thể hiện,

diễn đạt bằng mỗi hình thức riêng. (Nhất là với những trường phái mang tính

hình thức, trừu tượng thì đề tài không còn quan trọng). Ngoài ra để rõ hơn, tác

giả còn đề cập mức độ rộng lớn hơn của đề tài so với chủ đề.

Đề tài là những lý do, những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi

một người hay một nhóm người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu,

thể hiện, diễn đạt bằng một hình thức riêng với những hình tượng cô đọng,

điển hình theo ý định tư tưởng - nghệ thuật. Đề tài trong nghệ thuật nói chung

hay Mỹ thuật nói riêng tức là nói đến đối tượng, đến nội dung mà người nghệ

sĩ muốn nhắc đến. Đề tài dành cho nghệ sĩ rất rộng rãi, phong phú. Đề tài dựa

trên thực tế, là cái mà họa sĩ nhìn thấy để qua đó gửi gắm, phản ánh tâm tư

tình cảm và cái nhìn cá nhân bản thân vào trong tác phẩm trước sự vật hiện

tượng. Tác phẩm đẹp phải chuyển tải được nội dung, tư tưởng chủ đề một

cách thật tốt đề tài và phải có ngôn ngữ nghệ thuật hoàn mỹ, mang dấu ấn

riêng trong tác phẩm.

Từ hai khái niệm “Đề tài” và “Nông nghiệp” được làm rõ ở trên, có khái

niệm về Đề tài nông nghiệp như sau: Đề tài nông nghiệp là lý do, là vấn đề

được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một nghệ sĩ hay một nhóm nghệ sĩ để tập

trung nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một hình thức riêng với những hình

tượng nghệ thuật cô đọng, điển hình theo ý định tư tưởng- nghệ thuật, phản

ánh về ngành sản xuất chủ yếu của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm

chuyên trồng trọt, chăn nuôi và cày cấy thực phẩm cho nhân dân.

Khái niệm tranh khắc gỗ

Tranh khắc gỗ là phương pháp in lâu đời nhất trong nghệ thuật tranh in

Page 19: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

19

đồ họa, sử dụng chế bản in gỗ và thuộc phương pháp in nổi. “Tranh in ra từ

các ván gỗ đã được khắc theo kỹ thuật in nổi.” [22, tr 63]. Tranh khắc gỗ cho

phép in ấn văn bản, hình ảnh hoặc những mẫu có sẵn, được sử dụng rộng rãi ở

trên toàn khu vực Đông Á. Loại tranh này có nguồn gốc ở Trung Quốc thời cổ

đại và cho đến nay, bản tranh khắc gỗ sớm nhất được tìm thấy ở đây có niên

đại năm 868, mặc dù thực tế nghề khắc gỗ in sách đã hình thành ở nước này

từ thế kỷ thứ 6. Trong thời nhà Đường (618 - 907) tranh vẽ và chữ kèm theo

(trên cùng một bản in) đã được in ra bằng các bản in gỗ, sách in bằng bản

khắc gỗ, trong khi loại này ở châu Âu mãi đến thế kỷ 12 mới xuất hiện. Tại

châu Âu, việc sử dụng con dấu bằng gỗ đã được chứng minh ở Ý khi vải được

in bằng cách này. Tại Nhật Bản, khắc gỗ phát triển như một hình thức nghệ

thuật bắt đầu từ khi kỹ thuật này được lan truyền từ Trung Quốc ở cuối thế kỷ

thứ 8. Khắc gỗ tại Nhật Bản cực thịnh trong khoảng thời gian từ thế kỷ 17 đến

thế kỷ 19 đã chinh phục cả thế giới và đi vào lịch sử mỹ thuật nhân loại như

một gợi mở vô giá cho những ý tưởng nghệ thuật thời hiện đại. Vào thế kỷ 11,

người Việt đã in kinh Phật từ bản khắc gỗ. Năm 1936, những đồng tiền giấy

đầu tiên được sản xuất bằng kỹ thuật khắc in gỗ và lưu thông dưới triều đại

nhà Trần. Các dòng tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam được phát triển

trên kỹ thuật khắc in gỗ từ thế kỷ 16, 17.

Ở Việt Nam ván in được làm từ nhiều loại gỗ như gỗ thị, gỗ mít hay gỗ

vàng tâm do gỗ mềm dễ khắc và có độ dẻo cao, phổ biến hiện nay còn sử

dụng ván ép gỗ công nghiệp. Gần như tất cả các loại gỗ thông dụng đều có thể

chế tạo chế bản khắc gỗ (một trong số ít loại gỗ không thích hợp là gỗ thông

vì gỗ này nhiều mấu và nhựa). Một số công nghệ hiện đại như máy phay, máy

cưa, khắc laser,… ngày nay cũng được áp dụng để chế bản khắc gỗ. Bề mặt

gỗ phải được mài phẳng và làm nhẵn hoàn toàn. Để tạo một bản in gỗ người

ta dùng dao khắc những phần không in ra khỏi bề mặt gỗ đã được bào nhẵn.

Hay nói cách khác các thành phần không in trên tranh (mảng trắng) được

Page 20: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

20

khắc bỏ khỏi bề mặt của khối gỗ, phần được in (mảng đen) là phần ở lại.

Một bộ dao khắc cung cấp các đầu dao khắc khác nhau, gồm:

- Dao mỏng dùng để khắc các đường viền.

- Dao trổ dùng để tạo rãnh chữ V.

- Dao khắc dùng để khắc các đường thẳng và đường song song.

- Cây đục bán nguyệt để cắt bỏ đi những phần lớn không phải in.

Trong cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, có đoạn viết của

họa sĩ Phạm Văn Đôn nhận định về kỹ thuật khắc và in tranh khắc gỗ của các

họa sĩ sáng tác hiện nay như sau:

“Khác với cha ông xưa, khắc bằng đục trên gỗ mít hay gỗ thị vì cần nét

sâu và bền để in nhiều, giữ bản gỗ được lâu. Các họa sĩ ngày nay thường

dùng gỗ “Thừng mực” gỗ này mượt thớ vừa mềm vừa dẻo dễ khắc vì

cách khắc ngày nay vừa dùng dao, dùng đục, đồng thời phối hợp nhiều

cách dùng đục dũi lòng máng hay chữ V tạo điều kiện cho người khắc

biểu hiện trung thành được nét vẽ và diễn tả chất một cách phong phú.

Dao và đục đánh bằng thép tốt, lưỡi dao hình vát mũi nhọn. Khi khắc tay

phải cầm dao cắm vào cạnh nét vẽ hay mảng hình, hơi chênh chiều sâu

ra ngoài vì khắc thẳng thành hay gãy nét. Tay trái lấy ngón cái đẩy vào

sống dao, tay phải điều khiển độ sâu và đường lượn của mũi dao theo

hình vẽ. Khắc thành rãnh hai bên nét hoặc mảng hình sau đó lấy đục

lòng máng và đục thẳng đục nhiều hết nền gỗ để khi in khỏi bị dính màu

bản trên tranh.” [34, tr 86 - 87].

Tùy theo kỹ thuật sử dụng dao khắc sáng tạo của nghệ sĩ, những nét khắc

hay bề mặt khắc đẹp chính là đặc trưng của tranh khắc gỗ. Sau khi đã khắc

xong chế bản in, mực in được phủ đều lên con lăn. Tranh in (giấy có khả năng

hút nước) được in bằng cách ép lên bản gỗ. Lực ép cần phải phân bổ đều trên

mặt giấy bằng cách xoa đều bằng tay hay đi qua máy ép và:

“Khi in phải đặt giấy đúng cỡ đã thống nhất giữa các bản màu và bản nét

Page 21: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

21

đen để khỏi lệch. Thông thường in bằng bột màu, thuốc nước, mực in.

Tùy mỗi hòa sắc và phong cách của tác giả có thể in mỏng, in dày nhiều

lần, có vờn hoặc có biến chuyển đậm nhạt. Những chỗ cần rắn rỏi, sắc

cạnh thường in giấy khô, khi cần màu sắc mềm mại giấy cần phun ẩm

trước khi in. In cách này thường để ngửa bản gỗ, áp giấy lên trên và soa

bằng sơ mướp hoặc bằng tay để có thể điều khiển chỗ cho ăn màu nhiều

hay ít tùy theo phác thảo.” [34, tr 87].

Ngày nay, loại gỗ nhân tạo như ván ép, các tông, mica, thạch cao… được

họa sĩ sử dụng để có tranh kích thước lớn và in trên nhiều chất liệu vải, toan,

lụa… với việc phối hợp nhiều kỹ thuật in cả thủ công và máy.

Tranh khắc gỗ gồm hai loại: tranh khắc gỗ đen trắng và tranh khắc gỗ

màu. Tranh khắc gỗ đen trắng còn được gọi là tranh khắc gỗ đơn sắc. Trên

một ván gỗ sau khi người nghệ sĩ thể hiện hoàn chỉnh chủ đề cần biểu hiện

bằng cách khắc những phần hình tượng cần khắc họa, sau đó dùng mực đen

hoặc màu đơn sắc in tranh lên trên giấy. (Có thể là giấy trắng, giấy dó, giấy

điệp hoặc giấy màu). Kỹ thuật khắc vẫn là tấm gỗ được bào nhẵn sau đó vẽ

ngược (can, dập lại bản vẽ mẫu) tranh mẫu rồi dùng dao, đục khắc lõm xuống

tạo nét và mảng. Có họa sĩ tạo các rãnh lõm nông sâu, dày thưa… rồi chỉ in

sắc đậm với một màu đen hay nâu. Tranh khắc gỗ màu vẫn dựa trên những

bước khắc cơ bản của tranh khắc gỗ nói chung, là phương pháp sử dụng một

ván in nét và một hoặc nhiều ván in màu. Ván in màu sẽ được in trước sau đó

in nét đen để định hình, giống cách in của tranh Đông Hồ. Hoặc cũng sử dụng

một ván in nét nhưng không sử dụng ván để in màu mà tô màu, bằng cách làm

này giống như tranh Hàng Trống. Có họa sĩ thì khắc nhiều bản theo thứ tự

màu nhạt in trước màu đậm thường là màu đen in sau. “Nếu tranh nhiều màu

thì phải khắc nhiều bản. Nếu in bằng tay thì có thể một bản khắc một số màu

miễn là hình của các màu đó không dính liền nhau.” [34, tr 87].

Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam như cây cầu bắc từ quá khứ đến hiện

Page 22: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

22

tại, đồng thời đang được nối nhịp để vươn tới tương lai. Tranh khắc gỗ chính

là loại hình nghệ thuật, cũng là phương tiện có đầy đủ khả năng thể hiện cảm

thức và mỹ cảm đương đại. Chính vì vậy, ở dòng tranh này, các họa sĩ đã

chọn cho mình đề tài nông nghiệp để thể hiện mang đầy dấu ấn lịch sử nền

văn minh nước nhà. Nông nghiệp nói riêng, nông thôn nói chung luôn là đề

tài gợi cảm hứng sáng tác bất tận cho giới văn nghệ sĩ.

Khái niệm Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ trong luận văn này

được hiểu: đề tài nông nghiệp là đề tài được các họa sĩ lựa chọn để thể hiện

những tác phẩm của mình bằng cách khắc trên gỗ, hay nói cách khác tranh

khắc gỗ là dòng tranh được các họa sĩ Việt Nam lựa chọn để thể hiện đề tài

nông nghiệp. Những tác phẩm khắc gỗ được các họa sĩ Việt Nam sáng tác về

đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985.

Quay ngược lịch sử khởi điểm đánh dấu sự xuất hiện của nền nông

nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Việt Nam là một nước chuyên về

nông nghiệp, 95% dân số Việt Nam sống về đồng ruộng” và ngay sau khi

nước nhà giành được độc lập, tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày

14/11/1945, Người đã ký Sắc lệnh thành lập Bộ Canh nông có nhiệm vụ chăm

lo chỉ đạo phát triển nền Nông nghiệp nước nhà. Trong các cuộc kháng chiến

trường kỳ của dân tộc chống giặc xâm lược (1945-1975), nông nghiệp, nông

dân, đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh của "hậu phương lớn đối với tiền tuyến

lớn". Lời dạy của Bác: "Ruộng rẫy là chiến trường, quốc cày là vũ khí, nhà

nông là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương" cùng với những phong

trào tiêu biểu như "hũ gạo nuôi quân"; "thóc không thiếu một cân, quân không

thiếu một người"... đã góp phần vô cùng quan trọng vào thắng lợi của cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại hoà bình, thống

nhất đất nước.

Trong những năm tháng khó khăn của thời kỳ khôi phục đất nước sau

chiến tranh (1975- 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân đã phấn đấu

Page 23: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

23

vượt qua khó khăn đi tiên phong trong công cuộc Đổi mới của đất nước.

Những năm tháng đó, nông nghiệp đã vượt lên những trì trệ kéo dài trong sản

xuất, tìm hướng đi mới và đã đạt được bước tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt là

về sản xuất lương thực, góp phần quan trọng ổn định đời sống, kinh tế của cả

nước. Nhiều sản phẩm tăng hơn 2-3 lần so với thời kỳ trước đó, tạo tiền đề

cho nông nghiệp nước ta chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ Đổi mới.

1.2.Khái quát chung về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985

Theo cuốn Đồ họa in khắc gỗ hiện đại Việt Nam của Hoàng Minh Phúc

có nhận xét về tranh khắc gỗ thời kháng chiến chống Mỹ và xây dựng XHCN

1954- 1975 như sau:

“Từ năm 1955-1975, như tất cả các tài liệu nghiên cứu xã hội và văn hóa

đã khái quát được coi đây là giai đoạn xây dựng XHCN ở miền Bắc, và

kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuộc chiến tranh chống Mỹ không chỉ

dừng lại ở miền Nam mà còn lan ra miền Bắc năm 1965, được gọi là

Chiến tranh phá hoại. Thời gian này được coi là giai đoạn khó khăn nhất

của Việt Nam khi chiến tranh ở cả hai miền kéo dài đến 20 năm; kinh tế,

các hoạt động xã hội không mấy có cơ hội phát triển và sự phân cách hai

miền cũng tạo ra đặc điểm văn hóa nghệ thuật khác nhau.” [28, tr 162].

Theo tìm hiểu tài liệu về tranh in khắc gỗ, tranh khắc gỗ miền Nam giai

đoạn này hầu như không xác định được (có thể lý do miền Nam đang giai

đoạn kháng chiến nên ký họa hay khái niệm trực họa - vẽ trực tiếp tại trực địa

tỏ ra chiếm ưu thế hơn cả), cho nên việc nghiên cứu tranh in khắc gỗ giai

đoạn này chủ yếu dựa trên các tư liệu của họa sĩ miền Bắc. Bên cạnh đó,

trường Mỹ thuật Đông Dương khi ấy thành lập với tư cách là một trung tâm

đào tạo cán bộ Mỹ thuật duy nhất của miền Bắc bởi vậy nơi đây hội tụ những

họa sĩ anh tài, tên tuổi có tiếng nhất quốc gia thời bấy giờ.

Trong bối cảnh tình hình chiến tranh và định hướng chính trị chung của

cả nước, các nghệ sĩ có nhiệm vụ rõ ràng là phản ánh cuộc sống lao động và

Page 24: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

24

chiến đấu của nhân dân, để thúc đẩy niềm tin vào tương lai, các cuộc triển

lãm Mỹ thuật toàn quốc ra đời tổ chức đều đặn năm năm một lần. Tranh khắc

gỗ vẫn được các họa sĩ lựa chọn thể hiện bởi nó phù hợp với hoàn cảnh chiến

tranh, gọn nhẹ và dễ kiếm vật liệu. Hơn nữa, có thể tiến hành làm mọi lúc mọi

nơi, sáng tác lúc nào cũng được, dù trong những giờ nghỉ giải lao của một

cuộc hành quân hay di chuyển đến địa điểm mới đều có thể bắt tay vào làm.

Dần dần, nó đi sâu vào đời sống sinh hoạt, những lề lối thường ngày quen

thuộc để trở thành công việc sáng tác hết sức nghiêm túc. “Trong những năm

kháng chiến chống Mỹ, các chất liệu về sơn mài, sơn dầu, lụa có phần khan

hiếm, hình thức khắc gỗ càng được các họa sĩ sử dụng rộng rãi, vì chỉ cần

miếng gỗ và ít giấy dó, mà phương tiện làm việc, giữ gìn, phổ biến được dễ

dàng hơn, rộng rãi hơn.” [34, tr 85].

Những tác phẩm không còn dừng lại ở mục đích cổ động kịp thời tình

hình lúc bấy giờ, mà còn vượt lên trên để trở thành những sáng tác nghệ thuật.

Phần đông họa sĩ tham gia làm tranh in khắc gỗ theo kiểu ngẫu hứng nên số

lượng và chất lượng tranh in khắc gỗ giai đoạn này rất đáng để nghiên cứu và

có những thành tựu nhất định trong nền Mỹ thuật nói chung. Phần nữa do quá

trình xét duyệt kỹ lưỡng, không dễ dàng gì được treo; bên cạnh đó xét về ưu

điểm để nhân bản thì khắc gỗ có phần chiếm ưu thế hơn so với chất liệu khác,

nên chất lượng tranh rất tốt. “Có người áp dụng vốn cổ theo phương pháp

“bình cũ, rượu mới”- bê nguyên si hình thức cũ, chỉ thay nội dung mới.” [01,

tr 15] (Tết Nguyên đán năm 1945, đã có một phòng tranh vẽ các mẫu theo

như tranh khắc gỗ dân gian, lúc đó gọi là “bình cũ rượu mới”, hình thức rất

giống tranh tết cũ, nhưng nội dung lại phản ánh con người mới, xã hội mới).

“Người thì chỉ chú trọng đến mảng và màu sắc- buông lơi những nét đen viền

hình thể, lu mờ đường dây liên kết giữa các hình- mà người ta quen gọi “đơn

tuyến bình đồ” và chính thể đơn tuyến này có khả năng đem đến cho hình

nhịp độ và tiết tấu vô cùng phong phú… mà các họa sĩ hiện đại phương Tây

Page 25: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

25

mới đây mới nhận thức được.” [01, tr 15]. (Đơn tuyến bình đồ- nét đơn trên

mảng màu phẳng, lối vẽ thịnh hành trong Mỹ thuật phương Đông và nghệ

thuật trang trí mặt phẳng, loại bỏ hẳn bóng khối để tập trung vào đường nét.

Mỗi mảng màu phẳng đậm hay nhạt cũng đều có đường viền giới hạn tách

bạch).

Mười năm đầu thời kỳ hòa bình 1955-1965, cuộc chiến tạm ngưng và

miền Bắc bắt đầu phục hồi sau chiến tranh với công cuộc cải tạo công thương

nghiệp, xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, cải cách ruộng đất. Tranh khắc

gỗ ngày càng được phát triển và nâng cao. Tìm đến miền núi và những người

dân tộc, phải kể đến Mẹ con (1962) [ H 1.5; tr 81] của Đinh Trọng Khang với

bối cảnh là góc hiên nhà sàn người Thái ở Tây Bắc diễn tả sinh hoạt thường

ngày khi người mẹ trẻ mình trần, địu con trên lưng và đổ ống nước vào thùng.

Trước đó có thể nhắc đến: Hai cô gái người Tày năm 1961 của Tô Ngọc

Thành. Trở về miền xuôi, mở đầu cho tranh in khắc gỗ những năm đầu hòa

bình là bức tranh Ngày chủ nhật (1960) [H 1.3; tr 80] của Nguyễn Tiến Chung

là một tác phẩm tiêu biểu. Nó như bức họa trong sáng tiêu biểu phản ánh đời

sống hạnh phúc của gia đình sau cuộc chiến kéo dài, và đó cũng là tinh thần

chung lúc bấy giờ tràn ngập niềm tin vào tương lai, sự an lành tiến tới cuộc

sống mới. Ở nông thôn, hợp tác xã nông nghiệp đi vào sự ổn định với làm ăn

tập thể; ở thành phố cải tạo công thương nghiệp tư doanh căn bản hoàn thành.

Lớp học bổ túc văn hóa buổi trưa [H 1.4; tr 80] của Nguyễn Thế Vinh năm

1960 cũng mang một tinh thần tươi mới, là phong trào bình dân học vụ là các

bác, các bà, các mẹ, các anh có mặt đầy đủ trong lớp học dành cho những

người nông dân mù chữ hay ít học được tổ chức trong một ngôi đình làng.

Quang Phòng với tác phẩm Ruộng đồng [H 2.3; tr 88] năm 1962 là một bức

tranh in khắc gỗ công phu, cảnh người nông dân chăn dắt trâu bên cánh đồng

xanh ngắt, cả ruộng đồng và trâu, người được miêu tả khá kỹ về sắc độ như

tranh thuốc nước…

Page 26: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

26

Trên con đường cải tạo công thương nghiệp, nhiều họa sĩ cùng các văn

nghệ sĩ nói chung tham gia vào phong trào ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng

làm với công và nông dân, ngoài việc vẽ thì họ cũng lao động thực thụ. Vài

công trường lớn như đập Bắc Hưng Hải, khu gang thép Thái Nguyên, tuyến

đường sắt Hà Nội - Lào Cai thu hút hàng vạn người lao động. Đề tài tranh in

khắc gỗ thời gian này là hồi ức kháng chiến chống Pháp, cuộc sống lao động

tập thể, và những sáng tác mang nhiều tính ngẫu hứng với bối cảnh xã hội:

Công nhân hầm lò (1956) của Hoàng Công Luận; Cảng Hòn Gai (1956) [H

1.1; tr 79] của Văn Đa; Việt Trì xây dựng (1957) của Lê Nguyên Lợi; Đánh bi

(1957) của Nguyễn Phần; Công nhân xe lửa Gia Lâm (1958) [H 1.2; tr 79]

của Lê Phả; Chợ Nhông (1958) của Nguyễn Tiến Chung; Rủ nhau đi nương

(1959) của Đường Ngọc Cảnh [H 2.2; tr 87]; Nữ du kích (1960) của Lê

Nguyên Lợi; Dân quân (1960) của Nguyễn Thụ, Hội ý (1965) của Trần Đình

Thọ, “Công trường xây dựng” (1965) của Thế Hải... “Những tác phẩm in

khắc gỗ thời kỳ này, chúng tôi tìm được không nhiều và phần lớn đều là đề tài

về những công trường lao động như vậy, hoặc vài bức về hồi ức kháng

chiến.” [32, tr 167]. Tranh thời kỳ này không nhiều bởi giai đoạn phục hồi sau

chiến tranh, các họa sĩ khó có điều kiện làm nghệ thuật ngay, hơn nữa đó

cũng là thời kỳ mà vấn đề về Nhân văn giai phẩm nổi lên nhiều phức tạp.

(Phong trào Nhân văn giai phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính

trị, đòi thi hành tự do của một số văn nghệ sĩ và trí thức sống ở miền Bắc,

dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng đầu năm 1955 và

bị chính thức kết thúc vào tháng 6 năm 1958. Nhà nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa xem đây là phong trào chống chính quyền của một nhóm trí thức do

bị tình báo nước ngoài được cài ở miền Bắc lôi kéo, nhằm phủ nhận sự lãnh

đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo

Chính trị và Nhà nước duy nhất của Đảng Lao động Việt Nam). Trong năm

năm ấy, mọi gia đình đang lấy lại ổn định cuộc sống, việc làm, chỗ ở, tìm

Page 27: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

27

người thân bị thất lạc,… cũng là lý do dễ hiểu cho việc không có nhiều sáng

tác mới, tuy vậy xét trên bình diện đồ họa nói chung thì nghệ thuật thời chiến

tranh đã bắt nhịp được hơi thở với cuộc sống.

Từ năm 1965-1975, cuộc chiến chống Mỹ cứu nước lan rộng ra cả nước.

Miền Nam là chiến trường ác liệt với nhiều chiến dịch quân sự, miền Bắc là

chiến tranh phá hoại của Mỹ với cường độ bom đạn tùy từng thời điểm hòa

hoãn hay căng thẳng. Giai đoạn chiến tranh lan ra cả hai miền, tranh in khắc

gỗ lại càng trở nên phổ biến, mỗi họa sĩ dường như đều đóng góp một vài

bức, cho nên số lượng tranh rất nhiều. Nói đến miền Bắc các hoạt động văn

hóa văn nghệ tạm ngưng, mà tùy thuộc vào sáng tác của từng cá nhân và cũng

phần vì thế mà nghệ sĩ có khoảng lặng để đẩy sâu sáng tác, nên đây cũng là

thời kỳ mà nhiều tác giả tên tuổi trưởng thành. Đề tài lao động tập thể chiếm

lượng lớn trong các sáng tác, ví như năm 1969, cùng với bức tranh Ông cháu

[H 1.7; tr 82] của Huy Oánh còn có Cá về (1969) [H 1.8; tr 82] của Lê Thiệp;

họa sĩ Trịnh Kim Vinh với Gang ra lò (1969), Ngư dân Quảng Bình (1969)

của Đỗ Hữu Huề, Trục lúa (1970) của Phạm Văn Đôn [H 2.12; tr 92]; Cơm

vàng nước bạc năm 1970 của Phùng Phẩm [H 2.13; tr 93], Phong cảnh Sài

Sơn, Phong cảnh Đà Bắc (1970) của Nguyễn Tiến Chung; Qua phà đêm của

Cao Trọng Thiềm sáng tác năm 1972; Trên vùng kinh tế mới (1972) của

Hoàng Hoan [H 2.17; tr 95]; Bác Hồ với nông dân (1972) của Phạm Văn

Đôn; Phơi thóc (1974) [H 2.19; tr 96] của Mạnh Hào;…

Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn tiếp tục phát triển. Với mảng đề tài

này, các họa sĩ sáng tác với nhiều tình cảm khác nhau: Ông và cháu- Huy

Oánh (1966) [H 1.7; tr 82], Các lão dân quân (1970) [H 1.9; tr 83] của Trịnh

Quốc Thụ, Hành quân mưa (1970) của Cửu Long Giang, Ba thế hệ (1970)

của Hoàng Trầm, năm 1972 có Các nữ dân quân [H 1.10; tr 83] của Hà Mỹ

Lý, hay Phong cảnh Hải Phòng (1970) của Bùi Xuân Phái… Đề tài này

chiếm một vị trí khá đồ sộ trong hội họa giai đoạn này, nó là nguồn cảm hứng

Page 28: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

28

sáng tạo không thể phai mờ ở các nghệ sĩ để họ tái tạo lại với tình cảm kính

yêu, chân thành, bình dị những khoảnh khắc lịch sử, khắc họa chân thực, đầy

xúc động về người lính, về sự mất mát hy sinh lớn lao của các bà mẹ Việt

Nam và đặc biệt hình tượng Bác Hồ.

Năm 1975-1985, sau khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, đất nước đã hoàn toàn thống nhất, cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa

xã hội đã mở ra một trang sử mới. Chiến tranh ở cả hai miền Nam-Bắc đã kết

thúc, niềm vui đất nước hòa bình. Sau chiến tranh, đất nước còn bộn bề khó

khăn nhưng toàn thể nhân dân Việt Nam với niềm vui chiến thắng chấp nhận

mọi gian khổ để xây dựng lại đất nước. Mọi thứ đang cần hồi sinh và nghệ

thuật cũng đang cần có thời gian để ổn định, người họa sĩ không nằm ngoài

vấn đề của hậu chiến, họ đã đóng góp công sức sáng tạo, đạt được những

thành tựu đáng kể khi ca ngợi, phản ánh sinh động hiện thực nhiều mặt trong

lao động sản xuất, sinh hoạt. Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1976 đã thực

sự là nơi hội tụ tài năng trên khắp mọi miền đất nước và đến năm 1980 thì

dường như những vấn đề khúc mắc cấm kỵ trong đời sống Mỹ thuật được giải

tỏa. Hồi ức về chiến tranh luôn luôn là đề tài nổi cộm lên sau mỗi cuộc chiến.

Chiến tranh đã đi qua, nhưng những ký ức, những kỷ niệm và hậu quả còn để

lại hằn sâu, khó phai mờ theo năm tháng. Ngay năm 1976, Đặng Thạc có bức

Lên đường về [H 1.12; tr 84] vẽ hình ảnh đưa tiễn trong chiến tranh trước kia;

Anh bộ đội (1961) của Lê Trọng Lân vẽ cảnh đoàn tụ anh bộ đội đi kháng

chiến trở về đứng giữa các cháu thiếu nhi; Hà Nội năm Bốn sáu [H 1.15; tr

86] của Nguyễn Nghĩa Duyện năm 1984 còn lùi về quá khứ xa hơn với Thủ

đô, hồi ức xa hơn nữa ở thời kỳ này có thể kể đến Phạm Văn Đôn sáng tác

năm 1978 với bức Quang Trung đại phá quân Thanh [H 1.13; tr 85]… Ngoài

ra, bên cạnh đó nội dung, đề tài về cuộc sống tự do, thanh bình; lao động sản

xuất, xây dựng đất nước được chuyển tải trong tranh, các tác phẩm chủ yếu ca

ngợi, hân hoan niềm vui chiến thắng: Nghệ nhân Hàng Trống [H 1.11; tr 84]

Page 29: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

29

năm 1976 của Trần Nguyên Đán, Chợ Kỳ Lừa (1976) của Lã Thanh Hữu,

Cảng cá Hải Phòng (1976) của Đường Ngọc Cảnh, Đỗ Đức với Miền Tây

Bắc năm 1982,…

Hội họa Việt Nam còn quá trẻ so với nhiều nền hội họa đã trải qua hàng

nghìn tuổi ở châu Á, châu Âu song chính tranh khắc gỗ đã cho chúng ta một

cái vốn giàu có. Đó là cốt lõi của hồn dân tộc chung đúc nên bởi biết bao con

người nghệ sĩ tài ba, và hiển nhiên nguồn cảm hứng đó vẫn nguyên vẹn in sâu

trong tâm khảm nhân dân qua bao thế hệ. Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam

trong tương lai có thể tiến xa hay không lệ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan

và khách quan của những người làm công tác bên ngành Nghệ thuật nói

chung, họa sĩ nói riêng, trong đó trước hết là sự tiếp thu và phát triển một

cách sáng tạo hội họa khắc gỗ dân gian.

Tiểu kết

Chương 1 của luận văn xác định khái niệm “Đề tài nông nghiệp trong

tranh khắc gỗ”, nêu khái quát về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-

1985, đồng thời chỉ ra vai trò của dòng tranh này đối với nền Mỹ thuật nước

nhà. Với sự ra đời của trường Mỹ thuật Đông Dương, tranh khắc gỗ hiện đại

Việt Nam đánh dấu sự xuất hiện và trải qua thời gian các họa sĩ đã kết hợp hài

hòa giữa tranh dân gian của hội họa nước nhà với những tinh hoa của hội họa

Châu Âu nhằm đưa dòng tranh này mang dấu ấn riêng, vừa hiện đại, vừa có

sắc thái dân tộc.

Từ năm 1955-1985, tranh khắc gỗ đã khẳng định được sức sống bền bỉ

trải qua chiều dài của lịch sử đầy biến động: thời kỳ chiến tranh, đấu tranh

cách mạng, tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu của dân tộc, rồi đến thời

kỳ hòa bình, niềm vui chiến thắng, cuộc sống sinh hoạt thường ngày, phong

cảnh quê hương đất nước,… Để có được những bức tranh mang đậm dấu ấn

thời kỳ đầy hào hùng nhưng cũng lắm biến động đó, họa sĩ đã tìm tòi không

mệt mỏi những hình thức thể hiện mới, phương thức mới đã góp phần làm

Page 30: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

30

cho tranh khắc gỗ có những bước chuyển biến về mặt nội dung, hình thức,

cũng như phong cách thể hiện, kỹ thuật in khắc cùng những vấn đề liên quan

đến cách nhìn, cách nghĩ cá nhân với những yêu cầu của đất nước, thời cuộc.

Mỹ thuật sáng tác trong tranh khắc gỗ đang có những bước tiến mạnh mẽ cả

về chất lượng nghệ thuật, khả năng ứng dụng tác phẩm, mang lại cái nhìn mới

mẻ và có những đóng góp đáng trân trọng cho nền hội họa Việt Nam.

Page 31: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

31

CHƯƠNG 2

NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP

TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985

2.1. Nội dung chủ đề thể hiện đề tài

Nội dung nghệ thuật chính là hiện thực đã được người nghệ sĩ nghiền

ngẫm về mặt tư tưởng trong quá trình sáng tác và phản ánh vào tác phẩm nghệ

thuật có sự chọn lọc, dưới tác động của những lý tưởng xã hội thẩm mỹ trong

một thế giới quan nhất định. Nội dung của tác phẩm nghệ thuật không chỉ bao

gồm những hiện tượng, những phiến đoạn của cuộc sống muôn màu mà còn

bao gồm cả thế giới nội tâm, cái nhìn chủ quan đã được khách quan hóa của

nghệ sĩ hay nói cách khác có hai yếu tố đan xen nhau hòa quyện không tách

rời: yếu tố khách quan từ cuộc sống và yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ.

Những năm 1955-1985 là giai đoạn đầy biến cố của dân tộc, là thời kỳ gian

khó khi hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ; tiếp đến xây dựng XHCN khi

đất nước thống nhất hòa bình, trong đó nền kinh tế nông nghiệp được chú

trọng. Các họa sĩ lao mình trong thực tế, bằng nét bút của mình phục vụ trực

tiếp dân tộc những tác phẩm, được đồng hành cùng đời sống bà con nông dân

trong thời điểm mới, nhiều tác phẩm khắc gỗ nói riêng đã kịp thời phản ánh

một cách chân thực, sôi động sự phát triển của nông nghiệp thời kỳ này,

những ảnh hưởng đổi thay đến từng ngõ xóm trên nhiều chủ đề, phương diện

khác nhau phải kể đến như:

2.1.1. Chủ đề về cấy cày

Từ năm 1955-1960, tức là sáu năm kháng chiến chống Pháp, được coi là

giai đoạn phục hồi sau chiến tranh và cải cách ruộng đất. Đất nước bị chia cắt

làm hai miền, cuộc chiến tạm ngưng trong vài năm và miền Bắc bắt đầu cải

tạo, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Người nông dân “vững tay súng, chắc

Page 32: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

32

tay cày”, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm hiện lên trong tranh mang vẻ

đẹp rắn rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn

giản, trong sáng. Hình tượng người lao động ruộng đồng được đề cập một

cách sâu sắc và hầu hết các tác phẩm biểu hiện rõ sự say mê trong niềm vui

lao động, xây dựng đất nước, phải kể đến như: Đi cấy - 1967 (Trần Nguyên

Đán) [H 2.7; tr 90] là tác phẩm khắc gỗ thuộc những giai đoạn đầu sự nghiệp

của họa sĩ khi đang tốt nghiệp trường Mỹ thuật. Trong tranh, một nhóm gồm

năm người đang lom khom cúi xuống cấy lúa, phía bên kia cách đó không xa

là hình ảnh người đàn ông cùng con trâu của mình đang làm nhiệm vụ cày xới

đất để chuẩn bị cho mùa vụ mới gieo sạ hoặc trồng cây và tiếp đó bên phải là

hai nhân vật đang gánh những gánh mạ non để tiếp viện; ngoài ra còn có Đôi

bạn - 1968 (Trịnh Thiệp) [H 2.8; tr 90] với cái đẹp lao động êm ả trong một

ngày đất trời bình yên, tình cảm con người và con vật thật thân thiết, âu yếm.

Người phụ nữ ngồi trong xe, dáng nghiêng người cúi xuống trò chuyện thật

gần gụi với em bé cùng chú bê con của mình đang ngẩng cổ lên. Ra đồng -

1968 (Huy Oánh) [H 2.9; tr 91] với dáng cô nông dân khỏe khoắn quần sắn

lên cao trong tư thế ngoảnh cổ nhìn với ánh mắt trìu mến đang dắt đàn trâu -

người bạn quen thuộc của mình ra đồng mỗi buổi. Cấy hết diện tích - 1969

(Trịnh Phòng) [H 2.11; tr 92] là những cô gái thật nữ tính với dáng người nhỏ

nhắn người đứng cầm bó mạ non, người cúi xuống làm nhiệm vụ cấy lúa với

gương mặt hồ hởi làm nhiệm vụ như ra sức đạt chỉ tiêu cấy hết ruộng đồng;

Nước bạc, cơm vàng - 1970 (Phùng Phẩm) [H 2.13; tr 93] thật kiên cường với

hình ảnh người nông dân đang “chỉ huy” những chú trâu khỏe khoắn của

mình cày bừa trên thửa ruộng rộng lớn. Tà áo bay phấp phới trong gió, quần

sắn đến đầu gối hiện lên thật đẹp như thể người anh hùng trên cánh đồng đang

chinh phục, bất chấp sự khắc nghiệt của thiên nhiên; Một buổi cấy - 1978 (Hà

Mỹ Lý) [H 2.25; tr 100]… cũng là những buổi lao động quen thuộc bình dị.

Thật đẹp với hình ảnh các bà, các mẹ, các chị người cúi, người đứng xếp

Page 33: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

33

thẳng hàng vô vàn tư thế quay trái, phải khác nhau đang cắm những mạ non

xuống đất như gieo một mầm non mới, một hy vọng mới thật vui mắt. Hình

ảnh các cô gái, những dáng người rất sinh động như múa trong Buổi sớm -

1977 [H 2.24; tr 99] của Nguyễn Nghĩa Duyện với tay cầm cuốc, tay vẫy chào

một cách rất vui vẻ, thắm thiết đậm đà như thể hứa hẹn ngày làm việc mới

hiệu quả. Có thể dễ dàng cảm nhận được niềm vui, niềm phấn khởi và lạc

quan tin tưởng ở những thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên khuôn mặt

mọi người không thấy lo lắng, chịu đựng, hy sinh mà họ đang vươn lên làm

chủ cuộc đời, làm chủ vận mệnh chính mình. Những cô thợ cấy Định Công -

1978, [H 2.26; tr 100] của Văn Bình với năm cô gái là năm dáng người trong

giờ nghỉ giải lao rất khác nhau, người đứng, người ngồi, người chỉnh lại trang

phục, người chải tóc trông thật có duyên, đó là hình ảnh cô nông dân chất

phác, đôn hậu trong ngày vụ… Nhìn vào bảng biểu thống kê tác phẩm khắc

gỗ theo chủ đề, có thể thấy chủ đề cấy cày được chú ý và phản ánh nhiều nhất

ở thời gian này. (Ghi chú). Mỗi tác phẩm thời kỳ này giống như một thanh âm

trong trẻo, bình yên đến kỳ diệu, thanh khiết giữa xã hội đầy chao đảo, biến

động.

Nếu như thời kỳ trước năm 1945 các tác phẩm thường phản ánh đời sống

thị dân lãng mạn, u hoài thì sau đó nhất là giai đoạn 1955-1975 là bước

chuyển đổi quan trọng cách nhìn về nghệ thuật cũng như thế giới quan của

người nghệ sĩ. Bắt đầu từ thời gian này, hình thành nên một đội ngũ tạo hình

đông đảo đi vào mọi mặt của cuộc sống sôi động. Có thể thấy không khí hào

hùng, sôi động niềm vui chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến nhiều họa sĩ,

họ thấy mình phải có trách nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao

khát ca ngợi hình ảnh người nông dân gần gũi, chịu thương, chịu khó, hay

lam hay làm, hàng ngày hiện diện trên cánh đồng. Họ hòa nhập với người

nông dân, ban ngày đi làm cùng nông dân, gắn bó ăn ở làm việc cùng nông

dân, họ thực sự trải nghiệm và cảm nhận được sâu sắc nhất công việc nặng

Page 34: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

34

nhọc ấy. Khi xem tranh mới thấy tất cả đều bắt nguồn từ cuộc sống đích thực

của người lao động. Tinh thần thời đại dường như đã ngấm vào máu thịt, hơi

thở cuộc sống của những vị họa sĩ tài hoa này. Đó là những tác phẩm quý về

đề tài nông nghiệp mà hiện nay vẫn là những bài học vô giá cho lớp họa sĩ trẻ

noi theo mà nói không quá lời dường như các họa sĩ thế hệ sau vẽ về đề tài

nông nghiệp chưa có ai qua được.

2.1.2. Chủ đề về trồng trọt

Trồng trọt là lĩnh vực sản xuất quan trọng của nông nghiệp, cung cấp

lương thực, thực phẩm cho con người; thức ăn cho chăn nuôi; ngoài ra rộng

hơn có thể là nguyên liệu cho công nghiệp; nông sản để xuất khẩu... Quan

trọng không kém cấy cày, đã nhắc đến nông nghiệp là nhắc đến trồng trọt.

Sau khi hòa bình, tinh thần phấn khởi hẳn, nhân dân hăng hái tăng gia sản

xuất, chăm sóc, vun xới cây trồng. Có thể bắt gặp hình ảnh này ở bất cứ đâu,

nơi vùng cao miền núi hay đồng bằng. Rủ nhau đi nương - 1959 (Đường

Ngọc Cảnh) [ H 2.2; tr 87] là khắc gỗ đen trắng với hình ảnh đoàn người cùng

chú ngựa, trong trang phục dân tộc tay cầm cuốc đặt trên vai, lưng đeo đụi nối

đuôi nhau đi lên nương đang vượt qua suối gồ ghề đất đá, xung quanh là nhà

cửa và cây cối mang đặc trưng của địa hình rừng núi. Trong tranh ta như cảm

nhận sự khắc nghiệt của thời tiết, sự cản trở của địa hình, vậy mà đoàn người

với gương mặt nói cười vẫn hồ hởi chuyện trò vui vẻ trên đường trong sự

đoàn kết, như thể thâm tâm họ có sự đồng lòng với nhau hứa hẹn một vụ mùa

bội thu trong sự cố gắng không biết mệt mỏi.

Nằm trong bộ sưu tập của người Thái Lan có tên Tira, có thể nhiều

người không được biết nhưng bức tranh khắc gỗ màu không thể không nhắc

đến có tên Khai hoang - 1973 [H 2.18; tr 95] của họa sĩ Tôn Đức Lượng. Thật

phóng khoáng và thoáng đãng khi khắc họa một điểm nhìn từ đằng sau khóm

cọ và phóng tầm mắt ra xa ta bắt gặp một cảnh trên nương rẫy bao la rộng

lớn, đoàn người đông vui đang khai hoang, báo hiệu công cuộc mở mang,

Page 35: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

35

khai phá miền đất mới. Không gian bao la rộng lớn với khóm cọ chiếm 1/2

tranh cho ta thấy sức của con người khi chinh phục và cải tạo thiên nhiên thật

phi thường như thế nào. Sứ mệnh lịch sử cao cả của nghệ thuật nói chung,

một tác phẩm mỹ thuật nói riêng phải đề cập đúng, trúng và giải quyết những

vấn đề hiện thực của thời đại. Những năm 1955-1985 là giai đoạn đầy biến cố

của dân tộc, là thời kỳ gian khó khi hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ;

tiếp đến xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đất nước thống nhất hòa bình, trong

đó nền kinh tế nông nghiệp mà cụ thể là trồng trọt được chú trọng. Hòa trong

không khí khẩn trương, hăng hái lao động của quân dân miền Bắc những ngày

đầu giải phóng, Mỹ thuật nói chung, tranh khắc gỗ nói riêng có thêm mục

đích, yêu cầu cụ thể là tuyên truyền chính sách mới của Đảng và nhà nước.

Do tình hình chiến tranh và định hướng chính trị chung của cả nước, nên

nhiệm vụ nghệ thuật đối với các nghệ sĩ vẫn được xác định rõ ràng là phản

ánh cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân với phương pháp sáng tác

hiện thực XHCN. Thời kỳ này Mỹ thuật có thêm yêu cầu cụ thể, nhiệm vụ là

phục vụ cách mạng, tuyên truyền cổ động cho chính sách mới của Đảng và

nhà nước. Đây cũng là yêu cầu, là chỉ đạo khi phát triển văn hóa vùng miền

núi do người miền xuôi thực hiện với sự tổ chức của nhà nước những năm

1961-1970. Nhìn vào bức tranh này có cảm giác tranh khắc gỗ rất gần với ký

họa, như thể tả thực ở hình vẽ, dường như chuyển thẳng từ ký họa sang in

khắc gỗ và cái cảm giác thô mộc, đơn giản của tranh in khắc gỗ cũng có hơi

thở trực tiếp như ký họa.

Trở về vùng đồng bằng, ta thấy một em bé miền xuôi với dáng người

nhỏ nhắn, gương mặt xin xắn trong Bé yêu lao động - 1965 [H 2.5; tr 89] của

Vi Kiến Minh. Là bức tranh độc nhất chỉ có một nhân vật là một em bé chạc

tuổi đến trường đội nón, nghiêng người, một tay đỡ, một tay cầm bình hoa

tưới cây. Bố cục dọc chặt chẽ khi xây dựng hình ảnh em học sinh chăm chỉ,

chịu khó điển hình thật sinh động, khỏe khoắn trong buổi lao động hăng say,

Page 36: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

36

hòa chung vào không khí lao động đất nước, của dân tộc. Sau này, sau ngày

đất nước thống nhất 1975, khi phong trào kế hoạch nhỏ của thiếu nhi cả nước

đang sôi nổi, tác phẩm khắc gỗ trên lại càng giúp ta liên tưởng ngay đến bài

hát “Đội em làm kế hoạch nhỏ” sáng tác năm 1977 của Nhạc sĩ Phong Nhã

vang lên trên khắp mọi miền của Tổ quốc: “Vui tung tăng hớn hỏ, em làm kế

hoạch nhỏ/ Lượm giấy trồng cây, chi Đội ta có ngay/ Như con ong chăm chỉ,

như chim non vui vẻ/ Em làm kế hoạch nhỏ, bắt tay vào việc em càng vui

say...”.

Nội dung chủ đề nghệ thuật trong tác phẩm phải toát ra từ hiện thực, từ

cuộc sống trước mắt, và họa sĩ có nhiệm vụ chọn lọc, tái hiện nó sao cho có

sức thuyết phục. Mỗi tác phẩm thời kỳ này giống như một thanh âm trong

trẻo, bình yên đến kỳ diệu, thanh khiết giữa xã hội đầy chao đảo, biến động.

Có gì đó thật đáng quý và trân trọng biết bao những giây phút khiến mọi thứ

trở nên thân thương, ấm áp.

2.1.3. Chủ đề về chăn nuôi

Chăn nuôi là một ngành quan trọng của nông nghiệp, sản phẩm từ chăn

nuôi nhằm cung cấp lợi nhuận và phục vụ cho đời sống sinh hoạt của con

người. Ở thời kỳ này chăn nuôi trong nông nghiệp chủ yếu là trâu và lợn.

Trâu để tạo sức kéo, phục vụ nhà nông việc cày cấy, còn lợn để cung cấp thực

phẩm trong sinh hoạt hàng ngày. Trong nông nghiệp, con trâu luôn là vật nuôi

tình cảm, là người bạn thân thiết, không thể thiếu của người nông dân, cho dù

ở giai đoạn nào đi nữa thì máy móc cũng không thể thay thế. Bức tranh đen

trắng Bé chăn trâu - 1957 [H 2.1; tr 87] của Anh Thường khắc họa nên hình

ảnh em bé chạc tuổi nhi đồng đang đứng chăn trâu thổi sáo trong một cánh

đồng không gian bao la, rộng lớn. Chưa cầm súng đánh được giặc được

nhưng ở tuổi ăn, tuổi chơi như em làm những công việc nhỏ giúp gia đình là

một điều đáng khen. Mọi hình hài nhân vật cũng như cảnh vật được khắc

bằng nét to, dày cho ta thấy mọi thứ thật khỏe khoắn. Cảnh thanh bình này

Page 37: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

37

thật êm ấm, sự dễ thương của nó làm ấm lòng khi con người nơi đây đang dần

tìm lại được sự yên ả trên chính mảnh đất mà cơn bão “chiến tranh” vừa quét

qua. Chăn nuôi [H 2.6; tr 89] của Ngô Duyên là một trong số những bức tranh

màu hiếm hoi có được ở giai đoạn này. Không gian hiện thực tái hiện lại cảnh

chăn nuôi trong nhà của nhà nông với công việc bận rộn, góp phần xây dựng

và phục hồi đất nước sau chiến tranh. Ba người phụ nữ trong tranh như đại

diện cho phụ nữ Việt Nam thời điểm đó “Đảm việc nước, giỏi việc nhà, trung

hậu đảm đang”. Hai người phụ nữ bên phải góc tranh một người đang băm

bèo, một người đang nấu cám cho lợn và phía bên trái phòng bên cạnh là

người phụ nữ đang đổ những máng thức ăn cho lợn… Tất cả cho ta thấy sự

lạc quan, niềm hạnh phúc nơi đây báo hiệu sự đủ đầy dần hồi sinh. Một điểm

mà ta chú ý khi nhìn bên phải góc tranh là mũ tai bèo và súng- đồ vật quen

thuộc của chiến tranh treo trên tường đánh dấu cho người xem biết tại thời

điểm đó xã hội đang ở giai đoạn nào, tuy việc nhà bận rộn nhưng các chị vẫn

không quên nhiệm vụ chiến đấu vì việc chung của Tổ quốc. Ruộng đồng -

1962, [H 2.3; tr 88] của Quang Phòng là bức in khắc gỗ màu công phu vẽ

hình ảnh những người nông dân chăn dắt trâu bên cánh đồng xanh ngắt với

gam màu thật ấn tượng khi cả đồng ruộng, trâu và người được diễn tả khá kỹ

về sắc độ như tranh vẽ thuốc nước.

Trần Nguyên Đán là một trong số những tên tuổi không thể nào quên khi

nhắc đến dòng tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại. Ông luôn góp mặt những tác

phẩm khắc gỗ đen trắng khỏe khoắn cũng như khắc gỗ màu thật đẹp mắt, lung

linh. Người tốt việc tốt [H 2.10; tr 91] được sáng tác năm 1968 với hình ảnh

em bé đang tuổi đến trường tay cầm sách, sau lưng móc trên đòn gánh chiếc

cặp, mũ đang làm nhiệm vụ cho trâu, ghé con ăn và uống nước. Hình ảnh chắt

lọc đến tối giản mang tính hiện đại, ước lệ trên nền cam cùng màu sắc ấn

tượng mang tính trang trí đã mang cho người xem cảm giác nồng ấm, thanh

tâm. Cũng chủ đề về chăn trâu và trẻ em, vài năm sau đó người họa sĩ tài hoa

Page 38: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

38

này lại cho ra đời những bức tranh khắc gỗ đen trắng tuyệt đẹp trong đó phải

kể đến như : Con trâu là đầu cơ nghiệp - 1970 [H 2.14; tr 93] và Chăm học

chăm làm - 1971. [H 2.15; tr 94]. Vẫn sự vững vàng về tạo hình, trong cái nền

buông tối giản nhất có thể, Trần Nguyên Đán đã khắc lên hình ảnh những em

bé đang vui đùa thật gần gũi, e ấp bên con trâu- người bạn thân thuộc của

mình. Đầu đội nón nghiêng nghiêng, tay cầm sách chăm chú đứng chụm làm

hai, ba cùng nhau; bên cạnh đó có em nhỏ với sự thân thiện của mình đứng

tựa vào trâu cặm cụi đọc bài. Hình ảnh con trâu cũng thật đơn giản mà đáng

yêu, và họa sĩ phải nắm vững hình ảnh con trâu ngoài đời thực lắm mới có thể

làm được những con trâu đơn giản mà chuẩn xác thế. Có cảm giác xem tranh

của Trần Nguyên Đán thật mang đậm tính dân tộc, tính thời đại và truyền

thống. Phong cảnh miền núi [H 2.20; tr 97] của họa sĩ Cửu Cooc Khìn lại đưa

đến cho người xem cảm xúc về sự hùng vĩ, hoành tráng của thiên nhiên. Con

người hiện lên nhỏ bé nhưng sao ta lại thấy sức mạnh và vẻ đẹp của con

người chinh phục thiên nhiên. Bởi cái vẻ đẹp trầm hùng, tĩnh mịch, yên bình

của phong cảnh kết hợp với sự hăng say lao động của con người đã tạo nên

nhịp điệu và chiều sâu tác phẩm.

Có thể nói giai đoạn 1955-1985 là giai đoạn khó khăn của nền nông

nghiệp Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế nói chung khi đất nước vừa

bước ra khỏi chiến tranh khốc liệt, chính vì vậy hình ảnh con trâu là hình ảnh

gần gũi, quá đỗi quen thuộc không thể không nhắc đến. Dường như nó là

“nhân chứng” chứng kiến biết bao buồn vui, thăng trầm biến cố của lịch sử

dân tộc, của nền nông nghiệp từ thưở khó khăn, vất vả chưa có sự can thiệp

nhiều của máy móc.

2.1.4. Chủ đề về thu hoạch

Thu hoạch hay gặt hái là quá trình gom góp, thu thập, tập trung lại hoa

lợi của các loại cây trồng sau khi đã đơm hoa kết trái cho những sản phẩm

phù hợp với mục đích của người gieo trồng. Lúa là giống cây trồng phổ biến

Page 39: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

39

nhất của Việt Nam thời bấy giờ bởi đất nước có tới 95% làm nông nghiệp, và

trong thời kỳ khó khăn thì số lượng người gắn bó với công việc nhà nông

càng nhiều. Tác phẩm Trục lúa [H 2.12; tr 92] của Phạm Văn Đôn là một tác

phẩm khắc gỗ đen trắng tuyệt đẹp không thể không nhắc đến ở thời kỳ này.

Sáng tác năm 1970, trong tranh vẽ quang cảnh nhóm người dân lao động đang

hăng say làm nhiệm vụ trục lúa trước cửa sân đình. Nhìn những đường nét rõ

ràng, mềm mại và dày đặc, biểu thị đường đi vòng quanh của con trâu đang

vất vả làm nhiệm vụ kéo trục báo hiệu cho thấy buổi lao động khẩn trương,

dường như mọi thứ đang cuốn theo guồng quay làm việc không ngừng nghỉ.

Mỗi người một dáng, người quay ra, người quay vào, nhộp nhịp và hẳn phải

thấy thán phục vì sự quan sát tinh tế, đa dạng các dáng vẻ rất động của con

vật và người nông dân mà tác giả diễn tả. Tất cả những yếu tố đó đã thuyết

phục được người thưởng ngoạn và chứng tỏ các họa sĩ đã hết lòng vì nghệ

thuật. Cùng với đề tài này, Vũ Duy Nghĩa góp mặt tác phẩm Trục lúa [H 2.16;

tr 94] sáng tác năm 1972 với ba con trâu, ba quả lăn, hai người một nam, một

nữ đang điều khiển vòng quay chiếc trục, ông đã tái hiện cảnh lao động ở

nông thôn ngày mùa rộn ràng. Nhịp điệu xoay tròn của người, trục và trâu cho

ta thấy nhịp điệu khẩn trương dường như không thể ngừng nghỉ của các nhân

vật đánh dấu một vụ mùa thu hoạch bội thu.

Đến với tác phẩm Phơi thóc [H 2.19; tr 96] tiếp theo của Mạnh Hào,

tuyệt vời khi khắc họa năm cô gái, năm dáng người khác nhau uyển chuyển,

duyên dáng đội nón, người tay thoăn thoắt cào bồ những lạt thóc mới, người

làm nhiệm vụ đổ những bồ thóc xuống sân phơi trên sân gạch. Một sự vui vẻ,

hào hứng trên khuôn mặt sau một vụ mùa bội thu. Bên cạnh đó còn có tác

phẩm Trên vùng kinh tế mới- 1972 [H 2.17; tr 95] của Hoàng Hoan với con

người hiện lên nhỏ bé, nhưng vẫn đủ cho ta thấy sức mạnh và vẻ đẹp của

người lao động ruộng đồng. Bởi cái đẹp trầm hùng, tĩnh mịch, yên bình của

phong cảnh kết hợp với sự hăng say lao động của con người đã tạo nên nhịp

Page 40: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

40

điệu và chiều sâu tác phẩm. Hình tượng ấy hiện lên trong tranh hiện đại mang

vẻ rắn rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn

giản, trong sáng.

Ngoài thu hoạch lúa, nhà nông còn gắn bó mình với các loại cây ăn quả.

Hái cà phê- 1964 [H 2.4; tr 88] (Lương Xuân Nhị) đã vẽ nên hai cô gái đang

làm nhiệm vụ hái cà phê nổi lên với hình dáng thanh mảnh bằng những mảng

màu bẹt và vài nếp cong gợi nếp gấp của áo quần đang đứng quay lưng về

phía mặt tranh, vừa làm việc vừa trò chuyện. Cây cà phê được tạo bằng nét

mềm mại của những cành cây nghiêng, cong xuống phía hai thiếu nữ. Bức

tranh với vẻ đẹp nhẹ nhàng gần gũi với tranh Hàng Trống của bức “Tố nữ”.

Với cách nhìn ước lệ của dân gian, họa sĩ đã gợi cho người xem một cảnh lao

động bình yên nơi thôn dã. Hái quả (1976) [H 2.23; tr 99] của Phạm Đoàn

Thanh xuất hiện hai cô gái dân tộc là nhân vật chính ở giữa tranh đeo gùi

đang làm nhiệm vụ thu hoạch cây trái trong dáng người rất uyển chuyển trong

gió, tà váy bay bay,…

Có thể nhận định rằng ngày ấy không khí hào hùng, sôi động, niềm vui

chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến các họa sĩ, họ thấy mình phải có trách

nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao khát ca ngợi hình ảnh người

nông dân gần gũi, chịu thương chịu khó, hay lam hay làm. Được những điều

đó là nhờ vào những rung động hết sức tự nhiên của người họa sĩ và mọi thứ

đã được lan tỏa chạm đến trái tim người xem một cách sâu sắc nhất. Điều đó

đã lý giải được vì sao các họa sĩ thời kỳ đó lại có nhiều tác phẩm xuất sắc đến

vậy.

2.2. Hình thức thể hiện đề tài

Hình thức là cơ cấu tổ chức bên trong được xác định bởi một hệ thống

những phương tiện tạo hình, biểu hiện của một loại hình nghệ thuật, thể hiện

một nội dung nhất định. Ngôn ngữ tạo hình chỉ trở thành hình thức nghệ thuật

khi ngôn ngữ được tổ chức lại thành một hệ thống, một kết cấu nhiều mặt của

Page 41: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

41

hình tượng nghệ thuật, một kết cấu vật chất biểu hiện một nội dung nhất định.

Ngôn ngữ mỹ thuật tạo hình bao gồm các yếu tố: hình khối, đường nét, màu

sắc, sự sắp xếp bố cục, nhịp điệu… Mỗi loại hình có cách biểu hiện khác nhau

tùy thuộc vào đặc trưng ngôn ngữ của từng loại. Ngày nay, cách nhìn trong

ngôn ngữ cũng không bị rập khuôn, cách miêu tả hiện thực đã sang giai đoạn

phát triển nhiều phong cách thể hiện khác nhau.

2.2.1. Bố cục trong tác phẩm

Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông” có khái niệm về bố

cục như sau: “Là sự sắp xếp kích thước và tương quan của những đường nét,

hình dáng, màu sắc các vật thể trong một tác phẩm. Nói cách khác, bố cục

chính là sự sắp xếp tất cả các yếu tố ngôn ngữ tạo hình để xây dựng nên một

tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác của nghệ sĩ.” [19, tr 31]. Vẻ đẹp trong bố

cục của một tác phẩm nghệ thuật thường được xây dựng bởi sự sắp xếp các

mảng, hình một cách hài hòa tạo nên sự cân bằng và nhịp điệu, nhằm gây ấn

tượng thị giác cho người thưởng thức. Tùy theo nội dung, chủ đề, các yếu tố

ngôn ngữ đồ họa được người họa sĩ bố trí, sắp đặt sao cho phù hợp để tạo bố

cục cho tác phẩm. Trong tranh vẽ có bố cục về hình thể, bố cục màu sắc, bố

cục không gian,… tất cả phải đạt sự hài hòa, nhịp nhàng, đôi khi có sự lặp lại

nhưng tất thảy đều phải dựa trên các loại bố cục chính như sau: bố cục hình

tam giác- hình chóp; bố cục hình tròn- elip; bố cục hình chữ nhật- hình

vuông; bố cục theo nhịp điệu, phối cảnh, đông người,…

Tác phẩm khắc gỗ đen trắng Đôi bạn (1968) của Trịnh Thiệp [H 2.8; tr

90] với lối bố cục cơ bản đã tái hiện lại một khung cảnh có thực với sự gần to,

xa nhỏ của cảnh vật tuân thủ theo luật xa gần. Nhân vật chính, hình ảnh người

phụ nữ ngồi trong chiếc máy cày của mình cúi xuống phía dưới thật thân thiện

khi nói chuyện với em bé và chú bê con đang ngẩng cổ lên ngước nhìn chiếm

2/3 diện tích. Không gian còn lại là khoảng trời rộng bao la tít tắp, phía xa cột

điện mang điện đi khắp nơi tới mọi miền tổ quốc; xa hơn nữa những khóm

Page 42: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

42

đặc nhấp nhô báo hiệu có sự sống chiếm 1/3 bức tranh. Xét về tính chất chính

phụ thì đây là tỷ lệ chuẩn mực về bố cục. Ngoài ra tác giả còn khéo léo khi

đưa hai hướng chuyển động: dọc hướng lên trên của cây cột điện, và xiên

ngang của đường rãnh dẫn nước vào đồng ải nhằm cân bằng lại bố cục, tạo

nhiều chiều hướng giúp mở rộng tầm mắt cho người xem. Người nông dân

thời bấy giờ đã làm chủ được ruộng đồng trong sự bình yên đến quý giá.

Cùng với sự thành công chủ đề cấy cày, tác phẩm với nhan đề Cấy hết diện

tích (1969) của Trịnh Phòng [H 2.11; tr 92] cũng nổi bật không kém, là một

trong số tác phẩm không thể không kể đến về đề tài nông nghiệp. Hình ảnh

chân thực khi miêu tả lại ba cô gái với bố cục dàn hàng ngang quần xắn đến

đầu gối, đang cúi xuống làm công việc cấy lúa mở màn cho vụ mùa mới.

Người đứng hai tay cầm hai bó lúa, chân đang bước lên; người cúi đang cấy

những cây lúa trên thửa ruộng bạt ngàn. Xa xa là cây cầu, những khóm cây

hiên ngang còn lại giữa đời như thể nó là chứng nhân của lịch sử chứng kiến

sự thay đổi phát triển từng ngày nơi đây. Không gian xung quanh dành cho

cảnh vật cũng như không gian dành cho nhân vật chính cân bằng nhau một

cách hợp lý. Có thể nói sau năm 1925 với sự đánh dấu xuất hiện của trường

Mỹ thuật Đông Dương, tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam ra đời. Một số họa sĩ

được đào tạo chuyên nghiệp đã nhanh chóng tiếp thu những kiến thức tạo

hình phương Tây, mà cụ thể là luật thấu thị xa gần đã giúp tranh có hình thức

giống cái nhìn thực hơn. Với cây bút tài hoa của mình, họ đã chắt lọc, tái tạo

lại hình ảnh của thực tế không gian ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao

hoặc sâu) lên mặt phẳng hai chiều (chiều dài, chiều rộng) bằng những hình

ảnh cô đọng, điển hình nhất, giúp người xem vẫn có thể tưởng tượng ra không

gian thực ngoài đời. Để làm được điều này, người họa sĩ phải vững vàng về

kiến thức thực tế cũng như những nguyên tắc trong sáng tác hội họa để tái tạo

lại không gian, phong cảnh, hay con người thực vào tranh.

Đến với một dạng khác của bố cục, ta có thêm lối bố cục nhịp điệu. Để

Page 43: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

43

chiêm ngưỡng tận mắt, hiện nay BTMTVN còn lưu giữ tác phẩm khắc gỗ

màu Một buổi cấy của Hà Mỹ Lý sáng tác năm 1978. [H 2.25; tr 100]. Có thể

thấy sự chuyển động của đường nét, hình khối, màu sắc đã tạo nên nhịp điệu

trong tranh. Không khí toàn dân hăng say bắt tay ngay vào lao động sản xuất

đã len lỏi đến khắp nơi mọi vùng mà nơi miền xa xôi núi non cách trở cũng

không làm khó với những người nông dân nơi đây. Trong tranh là cảnh những

người phụ nữ dàn hàng ngang gần như chính giữa tranh với người cúi, người

đứng, người nghiêng trái phải với vô vàn tư thế khác nhau đang cấy lúa tạo

nên một nhịp điệu vô cùng vui mắt cho tác phẩm. Trong không gian nhấp nhô

trùng điệp của núi rừng, con người hiện lên thật nhỏ bé nhưng ta tin rằng

những con người hợp sức lại với nhau sẽ chẳng có điều gì là không thể cải tạo

thiên nhiên. Ngoài ra có thể kể đến những tác phẩm khác tương tự có nhịp

điệu rất rõ ràng cùng phản ánh hiện thực thời kỳ đó như Cấy- Trần Nguyên

Đán [ H 2.7; tr 90]; Phơi thóc- Mạnh Hào [ H 2.19; tr 96]; Chống hạn- Phùng

Phẩm [ H 2.21; tr 98];…

Tác phẩm Hái cà phê [H 2.4; tr 88] của danh họa Lương Xuân Nhị sáng

tác năm 1964 với bố cục dọc là hai nhân vật chính đang hái cà phê được thể

hiện bằng những mảng màu bẹt kết hợp vài nét cong gợi nếp gấp của áo quần

đang đứng quay lưng về phía mặt tranh. Khuôn mặt và mái tóc cũng được tạo

hình bằng những mảng màu đen, hồng nhạt không vờn khối vẫn mang lại cho

ta một cảm nhận êm ái, dịu dàng. Màu xanh mát mẻ của lá cà phê chiếm 2/3

diên tích tác phẩm gợi một cảm giác thanh bình, nhẹ nhàng. Không gian còn

lại được bao trùm bởi một màu nâu nhẹ rất ăn nhập với màu xanh của lá. Với

cách phối cảnh ước lệ của tranh dân gian mang hơi hướm từ dòng tranh Đông

Hồ, lối bố cục đơn giản, không câu nệ, gò bó, tác giả đã cho người xem thấy

được một cảnh yên bình nơi thôn dã trong không gian tượng trưng và khái

quát, chắt lọc về đường nét, màu sắc. Vẫn đề cao ý đồ trong tư duy tạo hình

khi xây dựng hình tượng nhân vật; diện hình, mảng bẹt, bỏ qua vờn khối, tác

Page 44: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

44

phẩm của Phạm Đoàn Thanh Hái quả [H 2.23; tr 99] lại thêm một minh

chứng cho sự thành công phù hợp với lối bố cục dọc. Tranh đen trắng với

mảng đậm bẹt hiện lên chiếm 2/3 diện tích tranh đủ độ đậm nhạt khác nhau

cho ta thấy rõ hai cô gái đang đưa tay hái những trái quả trên cây. Nền-

khoảng không còn lại là giấy trắng, là không gian không được diễn tả càng

độc tôn lên hai nhân vật với hình dáng và hành động cụ thể. Bố cục tranh đã

gần như thoát ly hẳn với những kiến thức bố cục thường thấy. Không phải bố

cục tròn, tam giác hay dàn ngang mà ở đây bố cục dọc rất chặt chẽ, hai nhân

vật duy nhất đều nằm trong nhóm bố cục chính, không hề có thêm chi tiết gì

phân biệt chính-phụ ở đây.

Có thể nói bức tranh Trục lúa của Vũ Duy Nghĩa [H 2.16; tr 94] là tác

phẩm thành công của người họa sĩ bởi bố cục tròn đơn giản được ông đưa vào

tranh một cách khá lạ mắt. Tranh khắc trạng thái chuyển động nhanh gấp,

khẩn trương với những nét khắc ngắn và nhiều tạo quỹ đạo đường đi xoay

tròn của những trục đá, hai người nông dân với ba con trâu đang cho ra hạt

thóc vàng ươm. Nếu tranh vẫn từng ấy nhân vật xếp thành hàng ngang thì có

lẽ không ra tính chất cũng như không khí buổi làm việc. Nhân vật chính xếp

với nhau liên kết chặt chẽ tạo thành bố cục tròn giúp người xem cảm nhận

được vòng quay hối hả, sự ăn nhập giữa người với vật cũng như tinh thần lao

động một cách rõ ràng. Cũng cùng tên Trục lúa [H 2.12; tr 92], Phạm Văn

Đôn cũng khai thác một nhóm nhân vật chính trong sự chuyển động của hình

elip tương tự. Dường như hình tròn hay hình elip đều tạo sự cân bằng cho tác

phẩm, báo hiệu sự đoàn kết ăn nhập giữa các nhân vật cũng như sự hối hả

khẩn trương đến vui mắt. Cách đặt vấn đề này tạo không khí sôi động, ấn

tượng trực tiếp với cái nhìn của thị giác.

Hầu như thời kỳ này, với đề tài nông nghiệp mang tính thời sự, số lượng

các tranh thường có bố cục khỏe, đường nét mạnh, dứt khoát, nhịp điệu sôi

động… Các tác phẩm ở giai đoạn đầu thời kỳ 1955-1985 này đã phản ánh

Page 45: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

45

đúng hiện thực xã hội, đem những gì nhìn thấy ngoài đời đưa lên một tầm

nhìn mới vào tranh, đó là nghệ thuật. Có được điều đó chính là nhờ vào cơ

cấu, sắp xếp hợp lý mọi yếu tố thuộc thị giác phù hợp với những nguyên tắc

đưa đến sự phát triển, thống nhất trong tác phẩm nghệ thuật. Ngoài ra có thể

kể thêm Bé chăn trâu- Anh Thường [H 2.1; tr 87]; Bé yêu lao động- Vi Kiến

Minh [H 2.5; tr 89]; Người tốt việc tốt [H 2.10; tr 91], Con trâu là đầu cơ

nghiệp [H 2.14; tr 93], Chăm học chăm làm [H 2.15; tr 94]- Trần Nguyên

Đán;...

2.2.2. Đường nét trong tác phẩm

Nét là một tập hợp các điểm thành các đường (đường nét) hay là quỹ đạo

của một điểm di động trong không gian. Trong đồ họa, nét là một quy ước để

phân định ranh giới giữa các hình thể của sự vật và giữa hình thể sự vật với

không gian xung quanh trên mặt phẳng. Các đường nét gợi lên sự duy trì của

chuyển động: đường xiên, đường cong, đường gấp khúc, nét thô, vung vẩy,

nét chân thực, nét bay bướm, nét đóng, nét mở, nét trơn, nét gai. Nét không

những diễn tả được khối nặng - nhẹ, không gian xa - gần, tạo chất đặc - rỗng

mà cao hơn còn biểu đạt những trạng thái, tình cảm của con người, thái độ

của con người đối với sự vật đó. Qua đường nét có thể thấy được tình cảm,

phong cách tâm hồn, hay quan niệm nghệ thuật của từng vùng, từng dân tộc,

từng cá nhân tác giả. Những cảm giác về nét trong mỹ thuật: Hướng chéo chỉ

sự giao động, chéo cho cảm giác vui khỏe. Phối hợp nét cong và thẳng gây

nên cảm giác niềm vui được nhân lên cho sự thỏa mãn thị giác mắt nhìn. Nét

dài, nét ngắn kết hợp với nhau với tỉ lệ phù hợp nhất định tạo nên sự bền vững

chặt chẽ và thỏa mãn tâm lý thị giác tốt nhất. Nét to, nét nhỏ phối hợp với tỉ lệ

tương ứng vừa phải cho cảm giác linh hoạt.

Đến với họa sĩ Phạm Văn Đôn không thể không nhắc đến tác phẩm tuyệt

đẹp Trục lúa sáng tác năm 1970 [H 2.12; tr 92]. Tác giả vẽ một khung cảnh

trục lúa có thực, trước ngôi đình- là nơi sinh hoạt của người dân nông thôn

Page 46: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

46

đồng bằng Bắc Bộ, những con người đang cùng nhau thực hiện công việc trục

lúa thật đông. Ấn tượng đầu tiên của người xem khi tiếp xúc chắc hẳn là nét,

nét khắc thật tinh tế cho ta cảm nhận rõ rệt không khí tươi vui của hoạt động

những con người trong tranh. Nét khắc vòng cung ngắn dài khác nhau, uốn

lượn mềm mại bao quanh dưới chân các nhân vật tạo sự chuyển động xoay

tròn của đường đi trên nhịp độ thật khẩn trương, sôi động. Phạm Văn Đôn

chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống. Ở bức

tranh này, nghiêng về Đông Hồ với hiệu quả mộc mạc, giản dị với những nét

đen “đơn tuyến bình đồ” bao quanh chặt chẽ hình tượng. Để tạo không gian

nơi thôn quê, tác giả khắc những nét khắc khỏe khoắn với sự vững chãi cho

kiến trúc ngôi đình với những cột kèo, tường hào bao quanh, mái ngói cong

đều tăm tắp... Đường nét tạo nên sự uyển chuyển, nhịp nhàng, khỏe khoắn của

tranh.

Phùng Phẩm là họa sĩ luôn được người ta nhắc đến thành công ở dòng

tranh khắc gỗ mà một trong yếu tố đó là nét. Ông đã tạo cho mình một lối đi

riêng thật gần gụi với tranh khắc gỗ Nhật Bản. Chống hạn [H 2.21; tr 98]

tranh khắc gỗ cùng bố cục với Chống hạn cùng tên trong sơn mài là một minh

chứng tiêu biểu cho nét trong tranh khắc gỗ. Toàn bộ tranh chỉ toàn là nét. Nét

trắng nổi bật trên nền màu đen. Ở đây, tác giả đã thật chỉn chu và tỉ mỉ khi

khắc họa thật rõ nét một nhóm người nông dân xưa đội nón, quần sắn gấu

đang làm nhiệm vụ khiêng những đòn nước nặng gánh về đồng để chống hạn.

Từng ấy người là từng ấy dáng vẻ, từng hành động khác nhau với những nếp

gấp áo quần đã được nghiên cứu kỹ chỗ ôm sát cơ thể, chỗ tung bay trong gió,

gợi cảm giác vừa mềm mại nhưng cũng đầy vẻ khỏe khoắn. Xem tranh của

Phùng Phẩm luôn có luồng cảm hứng mới, và dễ dàng phân biệt được tranh

của ông với những phong cách họa sĩ khác. Nước bạc, cơm vàng [H 2.13; tr

93] của ông cũng mang lại cho người xem một buổi lao động cấy cày miệt

mài, sung sức của người nông dân và con trâu trên cánh đồng đầy gió và

Page 47: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

47

nắng. Nét thẳng, kết hợp đôi chỗ xiên tạo đường hướng rõ ràng của đường

cày, nơi con trâu và mũi cày vừa đi qua. Bóng đổ dưới các chân nhân vật đôi

chỗ xuất hiện nét ngắn diễn tả ánh sáng trên cánh đồng. Hình ảnh người nông

dân bước lên thật khỏe, kiên cường, vạt áo mềm mại tốc bay là sự hiên ngang

của con người khi làm chủ ruộng đồng, và chinh phục thiên nhiên.

Có thể thấy rằng việc tả chất hoàn toàn dựa trên sự tương phản của nét.

Điều này một lần nữa lại minh chứng trong các tác phẩm: Rủ nhau đi nương

[H 2.2; tr 87] của Đường Ngọc Cảnh với không gian gồ ghề, đường đi gập

ghềnh miền núi được họa sĩ diễn tả bằng những nét ngắn - dài, thưa- đặc,

cùng các hướng của nét xiên chéo, ngang, dọc, uốn lượn… khác nhau; khi thì

mềm mại, khi thì cứng thẳng của bầu trời, núi đá, mái ngói, liếp nhà, nước,

cây cối…; hay đầy nữ tính với công việc thật đỗi nhẹ nhàng của hai cô gái

trong Hái cà phê [H 2.4; tr 88] của Lương Xuân Nhị chủ yếu là những nét dài

và mềm; những nét chắc nịch và chặt chẽ, thống nhất không thể thêm cũng

không thể bớt trong Con trâu là đầu cơ nghiệp [H 2.14; tr 93] và Chăm học

chăm làm [H 2.15; tr 94] của họa sĩ Trần Nguyên Đán,…

Đối với nghệ thuật hội họa các yếu tố tạo hình như màu sắc, đường nét,

ánh sáng, không gian, bút pháp thường gắn với nhau thành một khối thống

nhất, có như vậy mới tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh, hài hòa về hình thức.

Nhưng trong nghệ thuật đồ họa, có những tác phẩm thành công mà người họa

sĩ chỉ cần sử dụng riêng lẻ từng yếu tố nét, chấm, mảng, hoặc kết hợp cả ba

yếu tố trên. Điều này phụ thuộc vào tài năng và sự nhạy cảm đối với từng nét

khắc của họa sĩ qua đó thấy tâm tư, tình cảm hoặc thậm chí là thông điệp ý đồ

tác giả muốn gửi gắm. Trong nghệ thuật khắc gỗ, đường nét và những tính

chất biểu cảm của đường nét là phương tiện biểu đạt chính yếu. Đây cũng là

những yếu tố quan trọng để thể hiện sự riêng biệt trong phong cách cá nhân

của từng họa sĩ, cũng như loại hình nghệ thuật đồ họa này so với các loại hình

nghệ thuật khác.

Page 48: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

48

2.2.3. Hình thể trong tác phẩm

Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông” của Đặng Bích

Ngân chủ biên có khái niệm về hình thể, hình dáng như sau:

“Trong Mỹ thuật, thuật ngữ “hình dáng”, “hình thể” được dùng để chỉ

một vật, đường nét hay mảng màu tương đương với dáng vẻ cấu trúc của

vật đó trên tranh hoặc tượng. Thuật ngữ “hình dáng” còn được dùng chỉ

hình thức của vật thể, đường nét hay mảng màu, khối hình trong không

gian hoặc trong tranh, tượng… Đối với Mỹ thuật, hình dáng đóng vai trò

rất quan trọng. Mỗi hình chiếm một vị trí, một thế trong không gian và

có tiếng nói tạo hình nhất định. Vị trí của các hình trong tác phẩm tạo

nên sự vững chãi, chặt chẽ cho bố cục, mô tả được sự vận động của nhân

vật theo chủ đề và ý định của tác giả. Dù vẽ theo mẫu hay theo đề tài, tác

giả cũng phải lưu ý đến hình dáng của vật hoặc người và sự sắp xếp các

hình dáng đó trong một bố cục chung trên mặt phẳng tranh, trong một

không gian tạo hình. Từ “hình dáng” nhiều lúc đồng nghĩa với “hình

thể”. [19, tr 83]

Trong khái niệm trên, từ việc hiểu nội dung thế nào là “hình dáng”, ta có

thể hiểu được sang nghĩa của “hình thể” bởi đôi khi chúng đồng nghĩa nhau.

Có thể nói trong một bức tranh, hình thể được dùng để chỉ hình dáng, dáng

điệu, cấu trúc của con người hay vật thể. Hình thể còn là sự biểu đạt hình thức

bên ngoài và bản chất bên trong của sự vật, đối tượng người họa sĩ muốn

miêu tả. Dáng vẻ bên ngoài hay nội tâm bên trong của đối tượng nhân vật sẽ

được mỗi họa sĩ cảm nhận và thể hiện theo mức độ nhận thức khác nhau.

Nhìn chung đề tài nông nghiệp là đề tài khá đa dạng để tác giả có thể thỏa sức

khai thác ở những khía cạnh, phương diện như cử chỉ, tư thế, dáng điệu,

gương mặt, động tác, trang phục của người dân lao động ngày ngày hiện diện

trên cánh đồng; cũng như những chi tiết, hình ảnh phụ trợ kèm theo (công cụ

Page 49: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

49

lao động, phụ cảnh phía sau…) góp phần làm tôn vinh nội dung tác phẩm. Có

thể nói tác phẩm Ruộng đồng (1962) [H 2.3; tr 88] của Quang Phòng là một

tác phẩm đẹp mà phải kể đến về hình thể. Tác giả đã diễn tả rất đắt về cử chỉ

cũng như dáng điệu của nhân vật người phụ nữ cùng con trâu. Người phụ nữ

trong trang phục đi làm đồng quần sắn tới đầu gối, khăn vấn đội trên đầu, mặc

chiếc áo màu nâu đậm đang cầm dây nghiêng người về phía con trâu, mặt

nghiêm lại như thể ra hiệu cho con vật của mình quay đầu về. Đây là đặc

trưng cho hình ảnh người phụ nữ nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ đảm

đang đầy nữ tính. Con trâu được tác giả khắc họa rất đúng và kỹ từ dáng điệu,

màu sắc diễn tả khối người cũng như đặc điểm đường nét từng sợi lông trên

thân. Dáng nhân vật tác giả chọn không độc nhưng lạ. Liên kết bởi con trâu

và người nông dân là sợi dây rất căng tạo đường vòng biểu hiện cho thấy sự

“ương bướng” của con vật, đồng thời còn thể hiện tình cảm gần gũi giữa

người nông dân cùng “người bạn” hàng ngày của mình. Ta có thể bắt gặp

hình ảnh này ở ngoài đời thực nhiều nhưng không phải ai cũng khắc họa dáng

điệu này vào tranh như Quang Phòng.

Bức tranh Trục lúa [H 2.12; tr 92] của Phạm Văn Đôn lại thêm một ví dụ

tiêu biểu cho hình thể trong tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói trong tác phẩm

nổi rõ hai vấn đề ngoài những nhóm người đang làm nhiệm vụ trục lúa được

xếp theo lối bố cục hình elip ra, còn thấy sự xuất hiện của những yếu tố phụ

trợ bên cạnh tạo quang cảnh không gian ngày mùa thu hoạch rộn ràng như

nhà cửa, cây cối. Nói đến nhóm nhân vật chính, các dáng người rất đa dạng và

sinh động thể hiện rõ qua động tác, cử chỉ lẫn trang phục mà cụ thể phía xa

người đang đội nón cúi xuống cào lúa, phía gần người đang ngồi trên tấm gỗ

để chỉ huy chú trâu của mình làm nhiệm vụ chạy vòng quanh sao cho những

hạt thóc vàng ươm được tuốt ra. Tuy các nhân vật với khuôn mặt là không rõ

nhưng chỉ qua từng ấy dáng vẻ ta đã thấy được sự khẩn trương nhộn nhịp mà

dường như không điều gì có thể làm họ dừng lại trong một không gian làng

Page 50: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

50

quê yên ả đến thanh bình. Điều này có được là do những yếu tố phụ trợ góp

phần làm nổi bật thêm ý đồ nội dung tác giả đánh dấu phản ánh thời kỳ lịch

sử đất nước sau khi thống nhất toàn dân hăng hái tham gia sản xuất trong sự

hồ hởi, vui tươi.

Không quá cầu kỳ về bố cục hay hình thể các nhân vật, hai bức tranh

Phơi thóc [H 2.19; tr 96] của Mạnh Hào và Những cô thợ cấy Định Công [H

2.26; tr 100] của Văn Bình thật đơn giản với những dáng người gần gũi

thường gặp trong công việc nhà nông cho ta thấy như bắp gặp cảnh này ở đâu

đó trên bất cứ làng quê nào. Những gương mặt cô gái dịu dàng, đầy nữ tính

đang đổ những bồ thóc ra phơi, vừa làm vừa trò chuyện với đủ các dáng

người quay mặt, thân nghiêng trái phải, động tác lao động thật đúng mà đẹp.

Tưởng như tác giả phải am hiểu, phải sống lâu năm lắm ở làng quê Băc Bộ

lắm mới có thể thuộc chuẩn xác đến từng nhân vật, động tác cũng như nếp

gấp áo quần trong trang phục đến vậy. Bộ áo quần rộng, không quá ôm sát cơ

thể phù hợp trong lao động nông nghiệp. Những chiếc nón không thể thiếu

trong sự khai thác, nghiên cứu tìm tòi trang phục của phụ nữ vùng xứ Bắc

xưa. Bên cạnh đó còn có thể xem thêm sự biểu cảm gương mặt, động tác tiêu

biểu đồng điệu trong Những cô thợ cấy Định Công của Văn Bình với dáng

đứng khoanh tay, ngồi chải tóc trong giờ nghỉ giải lao của những cô thợ cấy

mang vẻ thật gần gụi, đáng yêu.

Buổi sớm [H 2.24; tr 99] của Nguyễn Duyện cho ta bắt gặp sự phấn khởi,

hồ hởi vui vẻ trên từng khuôn mặt, mà biểu thị rõ nhất ở động tác nhân vật

của tác giả. Tuy không gian trời mây cũng như công cụ sản xuất là chiếc máy

cày, những ống cống của chiếc cầu đá, bờ đất… có phần rộng lớn nhưng tất

cả đều là yếu tố bổ trợ cho nội dung ý đồ tác giả. Con người hiện lên khi ra

đồng buổi sớm trong một không gian bao la, rộng lớn cho thấy người và cảnh

hòa hợp với nhau liên kết không tách rời. Tác giả chỉ diễn tả những chiếc

bóng của nhân vật nhưng tập trung khai thác cử chỉ, dáng điệu cho ta thấy sự

Page 51: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

51

khỏe khoắn, vui tươi. Người đi trong gió, trong sương sớm của buổi ánh bình

minh, đầu đội nón, tay cầm cuốc xẻng vẫy chào như hứa hẹn một ngày làm

việc đầy hiệu quả. Ngoài ra, ta có thể tham khảo thêm với bức: Rủ nhau đi

nương- Đường Ngọc Cảnh [H 2.2; tr 87]; Bé yêu lao động- Vi Kiến Minh [H

2.5; tr 89]; Ra đồng- Huy Oánh [H 2.9; tr 91]; Cấy hết diện tích- Trịnh Phòng

[H 2.11; tr 92]; Nước bạc, cơm vàng- Phùng Phẩm [H 2.13; tr 93]; Chống

hạn- Phùng Phẩm [H 2.21; tr 98]… cũng cùng nổi bật lên đồng điệu ý đồ trên.

Bất kỳ đề tài nào trong Mỹ thuật đều cần làm rõ hành động, cử chỉ, đặc

điểm mang tính cách các nhân vật thì đến với đề tài nông nghiệp, việc thể

hiện hình thể nhân vật rõ nét lại cần thiết hơn bao giờ hết. Đề tài nông nghiệp

cần làm rõ những nét sinh hoạt của nhà nông ở mọi khía cạnh mà ở đây luận

văn đã tập trung vào giai đoạn có tính chất lịch sử của đất nước sau năm 1954.

Ngoài nhiệm vụ phản ánh đúng, đủ ra nó còn chứa đựng cả tâm tư, tình cảm

nhà nông qua mỗi hành động mà tác giả thể hiện. Điều đó thể hiện rất nhiều

bởi tổng hòa các yếu tố. Trong một bức tranh, ngoài những nhóm nhân vật

chính ra, ta còn phải chú ý thêm đến những yếu tố phụ trợ mà không phải

ngẫu nhiên người họa sĩ lại đưa những yếu tố đó vào tranh. Nó có thể là

không gian sông nước, mây trời; quang cảnh gồm nhà cửa, cây cối nhưng lại

rất đắc lực làm nền cho một nhóm nhân vật, một hành động nào đó. Đôi khi

yếu tố phụ trợ rất quan trọng và có thể chiếm một diện tích không hề nhỏ

trong tác phẩm. Trong một tác phẩm, hình thể là rất quan trọng bởi tạo nên sự

vững chãi, chặt chẽ cho bố cục. Dù vẽ theo mẫu hay theo đề tài, tác giả cũng

phải lưu ý đến hình dáng của vật hoặc người và sự sắp xếp các hình dáng đó

trong một bố cục chung trên mặt phẳng tranh, trong một không gian tạo hình.

2.2.4. Màu sắc trong tác phẩm

Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông” có định nghĩa về

màu sắc như sau:

“Màu sắc dùng để vẽ do hóa chất, khoáng vật và động thực vật pha trộn

Page 52: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

52

lẫn mà ra. Ở nước ta, từ “màu” và “sắc” thường được sử dụng đồng

nghĩa với nhau (chỉ màu sắc nào đó). Giới mỹ thuật dùng thuật ngữ màu

sắc đúng chỗ và hợp lý hơn. Trên thế giới, người ta phân biệt màu là

những màu nguyên chất, chưa có sự biến đổi do ánh sáng hay cách pha

trộn làm khác đi, ví dụ như màu gốc: đỏ. Cô-ban, vàng; còn sắc là những

màu đã biến đổi theo ánh sáng hoặc đã pha trộn thành những sắc thái

khác nhau, ví dụ: sắc hồng đỏ do đỏ pha với trắng hoặc cho ánh sáng

mạnh chiếu vào màu đỏ; sắc da trời do cô-ban pha trắng… Màu sắc phối

hợp với nhau trên tranh tạo thành hòa sắc. Khoa học phân tích màu sắc

và ánh sáng do Niu-ton khám phá ra và được phát triển vào thế kỷ XVIII

đã giúp cho nghệ thuật dùng màu miêu tả tự nhiên rất phong phú. Ngày

nay khoa học phân tích màu sắc vẫn đang được nghiên cứu. Nhiều nhà

khoa học đã thấy được bản chất của một số màu. Tuy thế, khái niệm màu

sắc chưa được xác định rõ về nội dung và ranh giới của nó. Vì vậy, thuật

ngữ “màu sắc” chỉ được mang ý nghĩa tương đối mà thôi.” [19, tr 104].

Một lượng màu nào đó chiếm diện tích nhất định trên mặt tranh, tạo

thành một mảng riêng, phân biệt rõ rệt với các mảng màu xung quanh nó…

thì đó được gọi là mảng màu. Sự phân biệt này có thể do độ đậm nhạt, nóng

lạnh của màu sắc hoặc về nội dung hình thể trong tranh. Trong tranh đen trắng

đó là những màu mang các sắc độ khác nhau của đen và trắng… Quay lại với

Trần Nguyên Đán cùng hai tác phẩm: Con trâu là đầu cơ nghiệp (1970) [H

2.14; tr 93] và Chăm học chăm làm (1971) [H 2.15; tr 94]. Khi chiêm ngưỡng

tác phẩm, nhìn vào người xem có ấn tượng ngay đến hình. Đây là hai bức

tranh đen trắng nên duy chỉ có hai màu đen và trắng được họa sĩ khéo léo đan

cài nhau mang sự hợp lý và dễ chịu cho thị giác. Con trâu- bạn của nhà nông

và là người bạn thân thiết gần gụi với các em nhỏ mỗi khi ngoài giờ đến

trường được tác giả lựa cho để đặt màu đen đậm, bởi màu đen thể hiện sự

vững chãi, chắc nịch. Trong bảng màu vô sắc, để đi từ đen đến trắng, ta phải

Page 53: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

53

qua màu trung gian là xám (ghi xám), từ đó có khả năng diễn tả hình khối

đậm nhạt và cảm giác về màu sắc của vật thể trong không gian. Để minh

chứng cho điều này ta cùng đến với bức Phơi thóc [H 2.19; tr 96] và Những

cô thợ cấy Định Công [H 2.24; tr 99] khi cả hai họa sĩ Mạnh Hào và Văn

Bình đã tận dụng tính chất biểu cảm này để diễn tả khối, độ sáng tối cho năm

cô gái, năm nhân vật với dáng người khác nhau thật nữ tính. Màu đen lúc

đậm, lúc nhạt có chuyển sắc độ được tác giả chọn để diễn tả khối cũng như sự

mềm mại của áo quần, không gian sáng - tối được nằm gọn trong sự bao

quanh của nét, cho ta cảm giác về màu sắc ngoài đời thực. Phạm Đoàn Thanh

với bức Hái quả [ H 2.23; tr 99] cũng tạo ấn tượng cho người xem với màu

đen đậm bao trùm toàn bộ tác phẩm khi tả hai cô gái dân tộc là nhân vật chính

cùng cây trồng với mục đích nổi bật trên mảng màu trắng nền. Tuy màu đen

chiếm khá nhiều trong tác phẩm nhưng hình thể nhân vật vẫn giúp ta nhận rõ

là bởi sự tài tình khéo léo sắp xếp các mảng đậm nhạt một cách hợp lý. Màu

đen ắt cạnh bên phải là màu trắng hoặc ghi để tôn nhau lên; hay nói cách khác

hình tối thì nền sáng hoặc ngược lại (mối quan hệ hình-nền).

Nhắc đến tranh khắc gỗ màu không thể không nhắc đến màu sắc. Khắc

gỗ màu có một bảng màu tươi tắn và dung dị, đó là nhờ quá trình in tranh,

màu thấm vào bảng gỗ rồi được in lên giấy tạo cho màu sắc của tranh hòa

quyện vào nhau hài hòa, đằm thắm. Trần Nguyên Đán là một tác giả không

thể không nhắc đến bởi ông có công rất lớn khi đã mang lại hơi hướm mới lạ

cho dòng tranh khắc gỗ Việt Nam với những màu sắc độc đáo. Tác phẩm

mang tên Người tốt việc tốt nằm trong đề tài nông nghiệp, chủ đề chăn nuôi

sáng tác năm 1968 [H 2.10; tr 91] tật tươi sáng, ấn tượng. Nổi bật đầu tiên cho

thị giác là một màu vàng ấm rực của nền bao trùm lên khoảng không gian.

Tiếp đó các nhân vật chính lần lượt hiện lên là một bé gái còn đang tuổi đến

trường bé nhỏ vẻ tháo vát đang cho trâu ăn, tay cầm cành cây móc chiếc cặp

sách màu xanh và chiếc nón màu vàng. Chú trâu to khỏe được tác giả chủ

Page 54: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

54

động dùng màu đen đậm để miêu tả sự chắc nịch đang cắm cúi uống nước,

cạnh bên là chú nghé con màu trắng như đang nhởn nhơ, đùa giỡn quanh trâu

mẹ trên khóm cỏ xanh mát tươi non. Ở tác phẩm dễ dàng nhận thấy màu

nguyên chất, các cặp màu bổ túc được tác giả lựa chọn khi diễn tả về con trẻ,

cũng như sự ngây thơ, trong trắng của chúng: vàng thì vàng hẳn, lam thì lam

hẳn,… cũng như đỏ bổ túc cho xanh và ngược lại, lam bổ túc cho cam và

ngược lại, tím bổ túc cho vàng và ngược lại,… Chúng được đặt cạnh nhau với

mục đích hỗ trợ và tôn nhau lên mà không hề gây nhức mắt. Cứ thế, tuy bản

chất các màu đó là tương phản nhưng khi nằm trong một khối tổng thể thống

nhất thì lại hoàn toàn hợp lý mà gân ấn tượng cho người xem như thể cho ta

được ngắm nhìn một buổi bình minh, một luồng sinh khí mới sau khi đất

nước đang trong công cuộc xây dựng phát triển ở nông thôn. Xem thêm ba

người phụ nữ trong tác phẩm Chăn nuôi [H 2.6; tr 89] của Ngô Duyên biểu

hiện cho người phụ nữ nông thôn trung hậu, đảm đang, giỏi việc nước, đảm

việc nhà đang làm những công việc băm bèo, nấu cám, cho lợn ăn... Cũng

gam màu nóng nồng ấm làm chủ đạo, màu vàng đỏ chuyển sắc độ của áo,

vàng pha xanh rêu phong của tường rêu mốc, vài chú lợn con to khỏe với màu

đen đậm cùng với sự nhẹ nhàng tươi mát của xanh bầu trời như thấy cảnh

nông thôn thanh bình, mang những nét êm ả, nhẹ nhàng và đầy dung dị.

Hai tác phẩm Ruộng đồng (1962) [H 2.3; tr 88] của Quang Phòng, và

Hái cà phê (1964) [H 2.4; tr 88] của Lương Xuân Nhị là hai tác phẩm được

xếp cùng nhóm đồng nhất gam màu lạnh. Nếu màu nóng tạo cảm giác ấm áp,

sôi nổi; thì màu lạnh là màu gần tạo cảm giác trầm lắng, yên tĩnh. Trong loạt

tranh về nông thôn thời đó, tác phẩm Ruộng đồng là bức in khắc gỗ màu công

phu, có sắc độ. Ông vẽ người nông dân chăn trâu trên cánh đồng bao la xanh

ngắt, cả ruộng đồng, trâu và người được diễn tả khá kỹ về sắc độ như tranh vẽ

thuốc nước trong veo đến lạ thường. Màu sắc có vẻ đậm, nhạt, nông sâu đã

tạo ra ảo giác lung linh của ánh sáng. Trong tranh khắc gỗ để làm được như

Page 55: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

55

vậy đòi hỏi tỉ mỉ và nhiều thời gian, in nhiều lớp màu chuyển nhạt sang đậm

khác nhau. Để khắc họa hai cô gái là nhân vật chính trong tác phẩm Hái cà

phê [H 2.4, tr 88] họa sĩ Lương Xuân Nhị đã dùng những mảng màu bẹt kết

hợp những đường cong mượt của nếp gấp áo quần đang đứng hái những quả

cà phê đỏ tươi quay lưng về phía mặt tranh. Hai mái tóc dài được thắt buộc

lỏng thật thướt tha, mềm mại gợi bằng mảng màu đen càng tôn thêm khuôn

mặt màu hồng nhạt thật nữ tính. Màu xanh mát mẻ của lá cà phê thật nhiều,

gợi không gian thoáng đãng, thanh bình càng làm nổi bật sắc độ trên nền màu

nền nâu nhẹ.

Màu sắc trong tranh khắc thường ít, nó đòi hỏi người nghệ sỹ phải chọn

lọc một cách sắc sảo và thường được thể hiện ở những mảng màu trầm sâu

lắng, tĩnh tại mà có sắc có nhị. Được lưu giữ tại BTMTVN, Hà Mỹ Lý có bức

Một buổi cấy [H 2.25; tr 100] cũng minh chứng thêm cho nhận xét trên. Sắc

trong tranh thường được thể hiện ở ba cấp độ chính là sáng, tối, trung gian

(tông ghi). Màu sắc đơn giản, không có màu choé, màu rực. Màu đậm trong

tranh là màu đen, hoặc xanh đen, nâu… diễn tả núi, bờ ruộng, người… quán

xuyến toàn bộ bố cục, hình khối trong tranh. Các tông ghi được bổ trợ làm

tăng sự hấp dẫn của sắc độ sáng trên vật thể dưới tác động của ánh sáng phía

xa xa. Kết hợp với những nét khắc khác nhau người họa sỹ đã đem lại cho

một buổi cấy trong tranh khắc hiện đại sự khỏe khoắn, nhưng cũng tràn đầy

tình cảm của mình. Tác phẩm có giá trị ở giai đoạn này được BTMT lưu giữ

đã chứng minh tình yêu thiên nhiên đất nước, con người, đồng thời phản ánh

tinh thần của thời đại với sự đồng cảm và trách nhiệm của người nghệ sỹ.

Trong hai yếu tố hình và sắc làm nên diện mạo một bức tranh thì sắc có

vai trò đem lại cảm hứng cho cả người sáng tác cũng như người thưởng thức.

Dù ở bất kỳ tác phẩm nào thì sắc trong tranh vẫn được thể hiện ở ba cấp độ

chính là sáng, tối, trung gian (tông ghi). Màu đậm trong tranh thường là màu

đen, hoặc xanh đen, nâu… quán xuyến toàn bộ bố cục, hình khối trong tranh.

Page 56: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

56

Các tông ghi được bổ trợ làm tăng sự hấp dẫn của sắc độ sáng trên vật thể

dưới tác động của ánh sáng. Có thể nói, màu sắc trên tranh cũng giống như

màu sắc trong đời sống và thiên nhiên vì độ chuyển màu của nó vô cùng

phong phú. Màu sắc tạo cảm giác trong sự chuyển động của hình ảnh, có thể

lùi ra sau hoặc tiến về phía trước trong không gian tạo nên chiều sâu trên mặt

phẳng hai chiều của tác phẩm, giúp người xem cảm nhận phần nào được chất

và độ xa gần hay tình hình của sự vật, hiện tượng mà tác giả muốn trình bày.

Tiểu kết

Chương 2 luận văn nghiên cứu về nội dung, hình thức đề tài nông nghiệp

trong khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 nhằm làm rõ giá trị nghệ thuật

của các tác phẩm cũng như lịch sử xã hội lúc bấy giờ mà nó phản ánh. Ngôn

ngữ tạo hình như đường nét, hình khối, màu sắc… đều phóng khoáng, điển

hình, các tác phẩm mang đậm nét dân gian, đã truyền tải được tính nhân văn

sâu sắc. Kỹ thuật tạo hình ngày một hoàn thiện, tranh khắc gỗ đã có hình thức

mới bắt kịp sự yêu cầu thời cuộc. Có một số ít vẫn theo đuổi phong cách tạo

hình dân gian, nhưng vẫn tạo những hơi hướm riêng cho những họa sĩ. Trong

giai đoạn mở cửa, do được tự do phóng khoáng tiếp cận nhiều nền văn hóa

mới, tranh khắc gỗ đã có bước chuyển mình quan trọng, tạo ra sức sống tươi

mới, tham gia vào sự phát triển chung của nghệ thuật đương đại. Nghiên cứu

đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ ở các giai đoạn khác nhau, có thể thấy

được sự đa dạng trong phong cách, lối thể hiện, thấy được hoàn cảnh nông

thôn Việt Nam và đời sống thành phần nông dân qua các giai đoạn lịch sử đất

nước. Tất cả đều biểu thị niềm hạnh phúc, niềm vui của người nông dân làm

chủ công việc, làm chủ ruộng đồng với niềm vui hạnh phúc khôn tả, vững tin

tương lai. Có thể nói rằng tranh khắc gỗ của Việt Nam ở thời kỳ này đã được

các họa sĩ thể hiện nghiêm túc không kém gì các tác phẩm sơn dầu hay sơn

mài.

Page 57: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

57

CHƯƠNG 3

NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

3.1. Thành công và hạn chế đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ

Việt Nam giai đoạn 1955- 1985

Thành công của tranh khắc gỗ Việt Nam đề tài nông nghiệp giai đoạn

1955-1985

Nông nghiệp nói riêng hay nông thôn nói chung luôn là mảng đề tài gợi

cảm hứng sáng tác cho đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ. Có thể nói những bức

tranh khắc gỗ Việt Nam về đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985 nội dung

đã phản ánh sinh động hiện thực về sự phát triển của nền nông nghiệp nước

nhà giai đoạn thống nhất đất nước, xây dựng và phát triển. Các tác phẩm khá

thành công về đề tài nông nghiệp luôn được nhắc đến là những tác phẩm quý

về đề tài nông nghiệp mà hiện nay vẫn là những bài học vô giá cho lớp họa sĩ

sau noi theo: Ruộng đồng- Quang Phòng; Đôi bạn- Trịnh Thiệp; Ra đồng-

Huy Oánh; Cấy hết diện tích- Trịnh Phòng; Trục lúa- Phạm Văn Đôn; Con

trâu là đầu cơ nghiệp, Chăm học chăm làm- Trần Nguyên Đán; Phơi thóc-

Mạnh Hào; Chống hạn- Phùng Phẩm; Buổi sớm- Nguyễn Duyện; Những cô

thợ cấy Định Công- Văn Bình; Một buổi cấy- Hà Mỹ Lý…

Sứ mệnh cao cả của nghệ thuật nói chung, một tác phẩm Mỹ thuật nói

riêng phải đề cập đúng, trúng và giải quyết những vấn đề hiện thực cuộc sống

của dân tộc, thời đại. Qua những sáng tác khắc gỗ về đề tài nông nghiệp cho

thấy những định hướng đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã phát động sáng tác

trong văn nghệ sĩ trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động sáng tác văn nghệ

lúc bấy giờ. Nghệ thuật cũng như hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà

phải đứng cùng kinh tế, chính trị. Đó là việc chú trọng tập trung phát triển,

khai thác nguồn tài nguyên có sẵn của đất nước như đất đai, nguồn nước,…

Page 58: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

58

Văn hóa, văn nghệ phải nói lên được cái hay, cái đẹp của con người mới, xã

hội chủ nghĩa, ca ngợi những tấm gương điển hình trong chiến đấu và lao

động xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người cơ niềm tin vào tương lai tươi sáng

của dân tộc.

Đề tài nông nghiệp với những nội dung chủ đề xoay quanh nó (cấy cày,

trồng trọt, chăn nuôi, thu hoạch, xây dựng cơ sở nông nghiệp,…) đã được

quan tâm và mở rộng trước những biến động mạnh mẽ của thực tiễn xã hội và

quan niệm nghệ thuật phản ánh chân thực cuộc sống. Năm 1954, Mỹ mở rộng

chiến tranh phá hoại miền Bắc nên giai đoạn này đòi hỏi các nghệ sĩ phải

thích ứng với mọi hoàn cảnh, vừa tham gia cuộc chiến, vừa sáng tác tranh

phục vụ tuyên truyền đường lối của Đảng: động viên mọi người vượt lên khó

khăn của cuộc chiến, tranh thủ tăng gia sản xuất ở các địa phương vì có sự

ủng hộ đồng tình của các nước trên thế giới. Họ hòa nhập cùng người nông

dân, không ít các anh em họa sĩ ban ngày đi làm cùng nông dân, gắn bó ăn ở

làm việc cùng nông dân, họ thực sự trải nghiệm và cảm nhận sâu sắc công

việc nặng nhọc ấy. Góc độ khai thác đề tài này khá phong phú dưới nhiều

hoạt động sinh hoạt dù ở cận cảnh hay toàn cảnh. Không khí hào hùng, sôi

động, niềm vui chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến các họa sĩ, họ thấy

mình phải có trách nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao khát ca

ngợi hình ảnh người nông dân gần gũi, chịu thương chịu khó, hay lam hay

làm hằng ngày hiện diện trên cánh đồng. Khi xem tranh ta mới thấy tất cả đều

bắt nguồn từ cuộc sống đích thực của người nông dân. Người nông dân “chắc

tay súng, vững tay cày”, lao động cầu cù, chiến đấu dũng cảm. Hình tượng

người lao động ruộng đồng được đề cập một cách sâu sắc và hầu hết những

tác phẩm đều biểu hiện niềm say mê trong niềm vui lao động, xây dựng đất

nước. Hình tượng ấy hiện lên trong tranh tượng hiện đại một vẻ đẹp rắn rỏi, tự

chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn giản, trong sáng.

Thành công về đề tài nông nghiệp ngoài phản ánh trên khía cạnh về nội

Page 59: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

59

dung chủ đề, còn thấy trên phương diện hình thức nghệ thuật. Sau năm 1955,

các họa sĩ có điều kiện để tập trung vào sáng tác, quay về với những quan tâm

riêng của nghệ thuật, cá nhân, xã hội, thực hiện những tác phẩm tâm huyết

của mình dựa trên những tư liệu và kinh nghiệm bản thân tích lũy ở giai đoạn

trước. Tranh khắc gỗ giai đoạn này có thể chia làm hai xu hướng: xu hướng

dựa trên cơ sở truyền thống để cách tân (kế thừa tranh khắc gỗ truyền thống ở

kỹ thuật, nét và màu, nhưng bớt đi sự ước lệ, thay vào đó tiến gần hơn với tả

thực ở tỷ lệ, hình thể, cấu trúc, nguyên tắc phối cảnh xa gần trong tranh) và

cách tân đổi mới hoàn toàn. Dù có cách tân ở mức độ nào thì việc kế thừa

nghệ thuật truyền thống là vô cùng quan trọng, bởi không có một nền nghệ

thuật nào phát triển khi không có những thành tựu làm điểm tựa trong quá

khứ. Trong giai đoạn 1955-1985, tranh khắc gỗ chiếm một vị trí đặc biệt trong

Mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Nhiều họa sĩ trưởng thành trong kháng chiến,

được học tập nghệ thuật và ảnh hưởng trực tiếp lối tư duy tạo hình phương

Tây. Ngôn ngữ tạo hình phong phú, đa dạng: bố cục thường táo bạo, diễn tả

sáng tối đậm nhạt tương phản mạnh, đường nét cô đọng, tượng trưng, có phối

cảnh xa gần mang nhiều ấn tượng cho công chúng thưởng thức. Với những

đặc tính tranh khắc gỗ và những thay đổi về chất liệu, kỹ thuật, ở tranh đen

trắng, các họa sĩ đã tận dụng và khai thác hết những tính chất của nét, chấm,

mảng, trong tranh thật đa dạng. Khi không có màu, sự biến ảo của nét, chấm

với mật độ dày mỏng khác nhau sẽ tạo ra độ đậm nhạt, sáng tối, góp phần cho

sự liên tưởng màu sắc của vật thể. Đường nét bao ngoài xây dựng, giới hạn

hình ảnh, cũng có thể phân giải, chia cắt, biểu hiện bề mặt khối, chất, biểu

hiện sự sáng tối, thô mảnh, hay chất da thịt, vải vóc, kim loại,… Tranh khắc

gỗ về đề tài nông nghiệp chủ yếu là đen trắng nhưng cũng đã thấy xuất hiện ở

đâu đó những tác phẩm có màu. Sự phối màu rực rỡ, trong sáng hay những

mảng đen khỏe khoắn, chắc nịch mang đầy tính tượng trưng, ước lệ theo phối

cảnh hiện thực đã làm nên những giá trị, sự hấp dẫn của một loạt các tác

Page 60: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

60

phẩm thú vị. Bảng màu đẹp dung dị, gần gũi thị yếu thẩm mỹ người Việt, đã

tạo nên dấu ấn cá nhân bởi chính tình cảm chân thành của họa sĩ kết hợp niềm

say mê nghề nghiệp, những giây phút thăng hoa kỳ diệu của sáng tạo đã tạo

nên thành công ở thời kỳ này. Các tác phẩm mang đầy đủ yếu tố của nghệ

thuật hiện đại, từ nội dung đến cách truyền đạt, và điều quan trọng là những

tác phẩm đó phản ánh đầy đủ nhất tư duy tạo hình cũng như thẩm mỹ dân tộc

người Việt.

Có thể thấy việc kế thừa nghệ thuật truyền thống được các họa sĩ nhận

thức đúng đắn và coi đây là một việc vô cùng quan trọng. Mỗi họa sĩ đều có

con đường riêng tạo nên phong cách của mình nhưng phần lớn họa sĩ đồ họa

đều hứng thú với việc khai thác những đặc trưng tiêu biểu của tranh dân gian

Việt Nam từ chủ đề đến cách tạo hình ước lệ. Dù nắm bắt được những quy

luật của tạo hình hiện đại và phản ánh những vấn đề xã hội đương thời nhưng

họa sĩ luôn biết kết hợp tạo hình dân gian với tạo hình hiện đại. Để kế thừa

hiệu quả những tinh hoa nghệ thuật dân tộc, người nghệ sĩ cần phải có sự lao

động nghiêm túc, lòng say mê, sự kiên trì, tính sáng tạo trong mỗi cá nhân để

kết hợp hài hòa giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại.

Hạn chế của tranh khắc gỗ Việt Nam đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-

1985

Không phải vấn đề nào cũng đều tốt đẹp hoàn hảo, trải qua thời gian mọi

vấn đề đều có mặt được và mất, bởi không tránh khỏi sự tác động của ngoại

cảnh làm cho biến đổi. Vì thế mọi sự việc, sự vật luôn có bề dày lịch sử đầy

đặn cũng như sự thăng-trầm của nó. Đề tài nông nghiệp không nằm ngoại lệ,

nhất là giai đoạn đất nước sau khi giành được độc lập, tuy 95% dân ta làm

nông nhưng vẫn còn chìm trong nghèo đói, nền nông nghiệp còn non trẻ mới

đi ra từ cuộc chiến tả tơi nên ngoài những thành công nhất định kể trên còn

thấy le lói xuất hiện một số những hạn chế còn gặp phải trên cả hai phương

diện nội dung chủ đề và hình thức thể hiện:

Page 61: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

61

- Bám sát vào mốc thời gian lịch sử, do thực tế ở miền Bắc, trước những

yêu cầu của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận

thống nhất; Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương đã ra quyết định: “Đẩy

mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất” với chủ trương lấy

người giàu chích cho người nghèo, mô hình tự làm tự hưởng có hiệu lực, khẩu

hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Có thể nói việc “Cải cách

ruộng đất” năm 1954-1957 khi ấy gây được tiếng vang mạnh mẽ trong nông

nghiệp và vì thế là đề tài có tính thời sự cho nhiều họa sĩ thời bấy giờ. (trong

Điêu khắc có bức Cắm thẻ nhận ruộng- thạch cao (1956) của Trần Văn

Lắm)... Vậy mà ở thể loại tranh đồ họa- khắc gỗ không thấy đề cập đến sự

kiện lịch sử quan trọng này, hay nói cách khác chưa bám sát vào tình hình, sự

kiện lịch sử một cách triệt để; chưa thể hiện sự tham gia sáng tác đông đảo

của các họa sĩ. Ở đây chỉ đề cập đến vấn đề “Hợp tác xã nông nghiệp” theo

mô hình làm ăn tập thể.

- Những năm 1957, Việt Nam được sự ủng hộ của nước bạn như Nga,

Trung Quốc… sang hỗ trợ về máy móc, trang thiết bị; ngoài khôi phục, xây

dựng nhà máy xí nghiệp cho công nghiệp ra thì thiết bị phục vụ nông nghiệp

cũng nằm trong số đó. Khi ấy ở mỗi huyện đều thành lập một đội máy kéo

tầm 15-30 máy, có nhiệm vụ đi cày bừa khắp nơi, từ xã nọ sang xã kia, huyện

nọ sang huyện kia để đảm bảo nơi đâu cũng được cấy cày bình đẳng. Tuy vậy,

khi nhìn lại tranh khắc gỗ ở đây chỉ đề cập đến dụng cụ thuần nông với lao

động chân tay như cuốc, xẻng, ít sự xuất hiện của máy móc, như xe kéo, máy

cày, trạm bơm,…mà có chăng cũng chỉ manh nha xuất hiện chi tiết này ở một

số tác phẩm như Buổi sớm- Nguyễn Duyện; Trên vùng kinh tế mới- Hoàng

Hoan,… Sáng tác chủ yếu miêu tả những thao tác lao động chân tay thuần

nông, người nông dân ít được bao bọc bởi những công cụ máy móc, nên thấy

ít được tính hiện đại, nhịp điệu hay tốc độ, sự năng động mà hơi hướm của

công nghiệp mang lại.

Page 62: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

62

Ngoài ra, cùng với phát triển về máy móc, cũng thời kỳ này Đảng và nhà

nước ngoài tăng thêm đàn trâu bò gia súc, sắm thêm nông cụ, đã cho xây

dựng công trình thủy nông mới, mở rộng diện tích tưới và tiêu nước, mương

máng cho hợp lý, khoa học hơn nhưng vấn đề này cũng ít được nhắc đến, chỉ

là chi tiết nhỏ trong: Đôi bạn- Trịnh Thiệp; Buổi sớm- Nguyễn Duyện; Những

cô thợ cấy ở Định Công- Văn Bình;…Điều này cho thấy những gì các họa sĩ

phản ánh góc nhìn còn hạn chế, bởi chưa phản ánh hết những gì thực tế lúc

bấy giờ trong khi thời kỳ này đất nước đã bắt đầu chuyển sang công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Đề tài nông nghiệp được mở rộng, rất phong phú đa dạng thêm nhiều

chủ đề và mỗi chủ đề cũng có nhiều vấn đề nhỏ hơn để khai thác. Ví như chủ

đề Cấy cày gồm có những công đoạn: Cày bừa - gieo mạ - cấy- chăm bón,

nhổ cỏ - phân bón - gặt - thu hoạch thì ở đây các họa sĩ khắc gỗ chỉ tập trung

nhiều nhất vào công đoạn cấy và cày bừa, hay thu hoạch mà bỏ qua những

công đoạn khác có thể khai thác làm tranh. Như vậy nội dung tranh bị bó hẹp,

chỉ miêu tả lặp đi lặp lại tập trung ở những hành động qua đỗi quen thuộc,

phổ thông thường thấy.

- Có thể do hạn chế khó khăn của thời kỳ lúc bấy giờ, các họa sĩ chưa có

điều kiện làm những bức tranh khắc gỗ khổ lớn hoặc hoành tráng nên đa phần

chỉ dao động tầm 20-40 cm. Giai đoạn này có lúc vẫn còn chiến tranh nên

nguồn nguyên liệu sản xuất ra miếng khắc gỗ còn hạn chế, mang vác di

chuyển tranh khổ lớn là khó khăn, và phần vì phải đầu tư thời gian nhiều cho

dòng tranh này mới có thể có hiệu quả tốt nhất.

- Ngoài ra, do ảnh hưởng của cùng môi trường hoạt động nghệ thuật, sự

tiếp thu học hỏi là xung quanh lẫn nhau nên nhìn thoáng qua có thể thấy một

số bức tranh mang phong cách na ná gần giống nhau, mà nếu không xem tên

tác giả thì khó có thể nhận biết được do những người khác nhau làm.

- Tồn tại ở một số tác giả khi sáng tác để tài này chủ yếu tả phong cảnh

Page 63: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

63

với khoảng không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn có mây, trời, đất, nước,…

còn con người chỉ xuất hiện như mang ý nghĩa điểm xuyết cho cảnh thêm sinh

động. Cách xử lý bố cục ảnh hưởng nhiều của lối bố cục miêu tả phong cảnh

nông thôn, đồng ruộng Việt Nam. Vì vậy chưa phản ánh được hết và sâu hơi

thở bên trong, sự sôi động nhộn nhịp của người nông dân khôi phục nền nông

nghiệp sau khi đất nước hòa bình, có điều gì đó vẫn mang cảm giác bình lặng.

Một số họa sĩ đã cố gắng diễn tả những khung cảnh của hoạt động nông

nghiệp tại nhiều địa phương, địa hình của đất nước, nhưng do ảnh hưởng của

lối “trực họa”, ghi chép hiện trường nên chưa khai thác được chiều sâu của

nhịp điệu tạo hình.

Từ những thành công và hạn chế đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ

Việt Nam giai đoạn 1955-1985, luận văn xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến

đóng ý về việc sáng tác trong giai đoạn này:

- Trong bối cảnh đất nước thay đổi như hiện nay, đời sống nông nghiệp

không còn là nền kinh tế chính yếu. Tuy nhiên nó vẫn đóng vai trò quan trọng

trong đời sống xã hội, nhất là vùng nông thôn Việt Nam còn nhiều khó khăn.

Vì thế các họa sĩ cần thâm nhập, đi sâu vào nền nông nghiệp để hiểu rõ về

tâm tư, tình cảm, bản chất người nông dân sẽ thấy bản thân được đổi mới

trong tư tưởng, tình cảm, tâm lý và phương pháp sáng tác. Điều này cần có

một quá trình, và sự kiên trì, bền bỉ, tình yêu thực sự với người nông dân chân

lấm tay bùn cũng như những công việc vất vả. nhọc nhằn của họ.

- Khắc phục việc miêu tả phong cảnh (sông, nước, mây trời, không

gian,…) nên hạn chế mà thay vào đó lựa chọn hoạt động tiêu biểu của người

nông dân để họ cũng như hoạt động sinh hoạt nghề nông là hình ảnh chính

trong tác phẩm. Chú trọng khai thác máy móc có trong nông nghiệp cũng như

cập nhập tình hình nông nghiệp đương thời. Ngoài ra, nên khai thác nhiều

khía cạnh, nhiều mặt cùng như những diễn biến tâm lý, sự biểu cảm tâm trạng

của họ trong các mối quan hệ, trong nhiều địa điểm khác nhau để nắm bắt

Page 64: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

64

được cái động, thần sắc tinh vi, tuyệt đẹp của nhịp điệu nông nghiệp.

- Không chỉ dừng lại ở những bối cảnh trên cánh đồng, trên lưng trâu,

trong vườn thu hoạch hoa quả,… của người nông dân, họa sĩ cần chú trọng

đến khai thác khía cạnh diễn biến tâm trạng của con người trong mối quan hệ

xã hội, quan hệ gia đình và các quan hệ khác trong sinh hoạt đời thường.

Người nông dân cần được khám phá về nhiều mặt. Tiếp đến, ở đây chưa thấy

tác phẩm nào xuất hiện về hình tượng người nông dân mà cụ thể đi sâu vào

khai thác mảng chân dung, đặc điểm trên khuôn mặt, cơ thể với sự vất vả,

nhọc nhằn lam lũ đêm ngày mà công việc mang lại. Điều đó phải được thể

hiện qua những tình tiết cụ thể làm rõ nét hình tượng người nông dân Việt

Nam, mang đặc điểm dân tộc và đặc trưng của giai cấp.

- Hầu hết những tác phẩm phân tích ở luận văn chỉ phản ánh người ảnh

nông dân với hoạt động cấy cày, trồng trọt, chăn nuôi, thu hoạch; chưa thấy

có sự xuất hiện bóng dáng của tầng lớp tri thức trong nông nghiệp như kỹ sư,

nhà nghiên cứu sinh học, những Giáo sư, Phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ kỹ

thuật,… vẫn âm thầm ngày đêm góp công sức của mình bằng những công

trình nghiên cứu khoa học, hay những buổi đi khảo sát thực địa cùng nông

dân trên mọi địa hình. Như vậy cần chú ý khai thác thêm hình tượng những

người lao động tri thức phục vụ trong nông nghiệp bởi bất kỳ đề tài nào cũng

có nhiều khía cạnh đa dạng cần được nhắc đến.

- Ngày nay, do áp lực và cường độ công việc quá lớn, mà nhu cầu thẩm

mỹ của người xem hướng đến sự sảng khoái, thư thái, nhẹ nhàng nhưng vẫn

có sự chuyển động. Người họa sĩ cần tránh sử dụng bố cục, lối tạo hình tạo

cảm giác bình lặng. Cần sử dụng những lối bố cục mang tính vận động, có

đường hướng tạo nhịp điệu. Vận dụng hết khả năng sáng tạo về ngôn ngữ tạo

hình, màu sắc đẹp, sử dụng một cách linh hoạt, không ngừng đổi mới để

người nông dân hiện lên với dáng vẻ hiện đại, tạo bước nhảy vọt, làm chủ

cuộc đời.

Page 65: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

65

3.2. Bài học về sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc

Nông nghiệp - nông dân luôn là mảng đề tài vô tận, gợi cảm hứng sáng

tác cho đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ. Quay ngược thời gian, đến gần hơn với

truyền thống dân tộc, thời phong kiến, hình ảnh về con người bình dị chỉ xuất

hiện như trong tranh dân gian, (ở tranh Đông Hồ ví như: Đàn gà, Đàn lợn âm

dương, Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đi cấy đổi công…); chạm khắc gỗ,

trong đình làng, hay một số bức tranh tuyên truyền mang dáng dấp tranh dân

gian. Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp cổ

truyền, cuộc sống người lao động nông dân bình dị, chất phác, phong tục, tập

quán, sinh hoạt của người Việt. Trải qua thời gian, tiếp đến trước cách mạng

tháng Tám, kể từ khi trường Mỹ thuật Đông Dương thành lập, các họa sĩ đã

tìm thấy nguồn sáng tạo của mình trong hiện thực cuộc sống đặc biệt ở nông

thôn, trong gia đình,… và một nền nghệ thuật hiện thực xuất phát. Đề tài sinh

hoạt nông nghiệp hay những hình ảnh thân thuộc về người nông dân xuất hiện

đầu có thể nhắc đến là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (Ra đồng, Lên đồng-

lụa,…), Nguyễn Tiến Chung (Được mùa, Mùa gặt- lụa… ) Hoàng Tích Chù

(Tổ đổi công miền núi- sơn mài…), Nguyễn Đức Nùng (Bình minh trên nông

trang- sơn mài…), Trần Đình Thọ (Ra đồng- sơn mài…); Trần Văn Cẩn (Tát

nước đồng chiêm- sơn mài; Tát nước trên đồng- màu nước; Xuống đồng-

lụa;…),Ngô Minh Cầu (Về nông thôn sản xuất- lụa;..) Lưu Công Nhân (Một

buổi cày- sơn dầu;…)

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, hình ảnh người nông

dân là chủ đề nóng được nhiều họa sĩ lựa chọn khai thác; vì thế nhe nhóm ở

đâu đó ngoài phản ánh sự kiện đấu tranh kiên cường của quân dân ta, còn bắt

gặp những hình ảnh “con trâu đi trước, cái cày theo sau” với mục đích xây

dựng đất nước, cung cấp lương thực, thực phẩm để phục vụ chiến đấu trong

mưa bom bão đạn. Xã hội được phản ánh một cách chân thực và sôi động,

Page 66: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

66

hình ảnh con người trong lao động sản xuất xuất hiện dưới nhiều vẻ khác

nhau, phong phú trong tác phẩm Mỹ thuật nói chung, với tranh khắc gỗ nói

riêng. Ở luận văn, đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ nhắc về một thời kỳ

quan trọng của nông nghiệp giai đoạn 1955-1985, những tác phẩm của họ

được coi là những viên gạch đầu tiên tạo dựng nền móng vững chắc cho mỹ

thuật dân tộc chúng ta phát triển sau này. Có được điều đó là nhờ dấu mốc sự

kiện đáng ghi nhớ khi từ năm 1925 trường Mỹ thuật Đông Dương thành lập,

trong chương trình học luôn có những bài học về vốn cổ cũng như những bài

giảng về phương pháp in khắc tranh của các nghệ nhân dân gian nhằm giúp

sinh viên hiểu nghệ thuật khắc gỗ truyền thống bởi Hiệu trưởng Victor

Tardieu luôn quán triệt phương châm: học Mỹ thuật theo phương pháp khoa

học, hiện đại đồng thời học hỏi để phát huy truyền thống. Kể từ đó, tranh khắc

gỗ Việt Nam dù đổi mới, cách tân đến đâu thì cũng vẫn là tạo hình Việt, hòa

sắc Việt. Mỗi người họa sĩ có con đường riêng tạo nên phong cách của mình,

nhưng phần lớn họa sĩ đồ họa đều hứng thú với việc khai thác đặc trưng tiêu

biểu của tranh dân gian Việt Nam từ chủ đề đến cách tạo hình ước lệ. Việc kế

thừa nghệ thuật truyền thống là một việc vô cùng quan trọng, bởi không một

nền nghệ thuật nào phát triển được khi không đi lên từ nền tảng nghệ thuật

trong quá khứ. Nói chung tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam là bước chuyển

tiếp của nghệ thuật tranh khắc gỗ truyền thống với đầy đủ biểu hiện để đại

diện cho nền nghệ thuật tạo hình nói chung và khắc gỗ nói riêng.

Khi miền Bắc được hòa bình, miền Nam ruột thịt vẫn phải đấu tranh ác

liệt với kẻ thù, tiếp tục sự nghiệp giải phóng đất nước. Người nông dân lại

một lần nữa hiện lên lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, “chắc tay súng,

vững tay cày”. Hình tượng người lao động ruộng đồng được đề cập một cách

sâu sắc, hầu hết tác phẩm biểu hiện sự say mê trong niềm vui lao động, xây

dựng đất nước. Hình tượng ấy hiện lên trong tranh hiện đại mang vẻ đẹp rắn

rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn giản,

Page 67: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

67

trong sáng. Họa sĩ Trần Văn Cẩn bên cạnh những tác phẩm về chiến tranh

cách mạng thì hình ảnh người nông dân lao động được ông ưu ái, trân trọng.

Ta có thể nhắc đến: Xuống đồng, Tát nước đồng chiêm,… là buổi lao động

quen thuộc của nông dân Việt Nam những năm miền Bắc hòa bình, người

nông dân làm chủ ruộng đồng. Những dáng người sinh động, nhảy múa trên

cánh đồng, những khuôn mặt vui vẻ kết hợp màu sắc thắm thiết đậm đà thê

hiện cảnh say sưa nhộn nhịp. Họa sĩ Dương Bích Liên trong Mùa gặt đã vẽ

nên những cô nông dân dáng hình khỏe khoắn, chất phác, đôn hậu trong ngày

vụ, những khuôn mặt xinh đẹp trên sắc vàng rực rỡ của cánh đồng lúa chín.

Hay Tổ đổi công miền núi của Hoàng Tích Chù đưa đến cho người xem cảm

xúc về sự hùng vĩ, hoành tráng của thiên nhiên. Con người hiện lên bé nhỏ

nhưng vẫn đủ cho ta sức mạnh và vẻ đẹp của con người lao động ruộng

đồng….

Hòa bình lập lại thống nhất đất nước, giang sơn quy về một mối, Đảng

và nhà nước ta có những chủ trương sát thực, cụ thể cho văn nghệ sĩ tiếp tục

sáng tác, trong đó có đề tài nông nghiệp phát huy sự nghiệp đấu tranh dựng

nước và giữ nước của nhân dân ta từ thời xa xưa cho đến nay, và phản ánh sự

đổi mới từng ngày của bộ mặt nông nghiệp trong quá trình hội nhập. Năm

1986, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đổi mới toàn diện về kinh tế, văn hóa

xã hội của đất nước. Nghị quyết trung ương 5 về văn hóa văn nghệ của Bộ

chính trị như một luồng gió mới trong lành, Đảng và nhà nước tôn trọng cá

tính sáng tạo trong văn học nghệ thuật. Tôn trọng cá tính sáng tạo đồng thời

góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện đại.

Hàng năm do Bộ văn hóa thể thao và du lịch, Cục Mỹ thuật nhiếp ảnh và triển

lãm; Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội văn học nghệ thuật các tỉnh,… thường

xuyên tổ chức các trại sáng tác là điều kiện tốt cho anh em nghệ sĩ giao lưu

học hỏi. Ngoài ra, bản thân mỗi nghệ sĩ đã tự đi tìm hiểu, lắng nghe, ghi nhận,

lấy cảm hứng sáng tạo. “Trong thời gian này, các tác giả đồ họa cũng dần

Page 68: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

68

hình thành và hoạt động gần như chuyên nghiệp, trong đó có những người

chuyên về đồ họa in khắc gỗ. Tranh đồ họa nói chung và tranh in khắc gỗ nói

riêng thấy xuất hiện nhiều hơn, cũng như có nhiều hình thức hơn so với trước

kia chỉ là phong cách dân gian và tả thực.” [28, tr 190]. “Tiên đoán” được

tương lai của tranh khắc gỗ truyền thống, thiết nghĩ nếu dòng tranh này muốn

hiện diện rõ nét trong đời sống văn hóa đương đại thì phải cần đến tổng lực

của những sự cố gắng không ngừng nghỉ, nhất là trong thời đại mà các giá trị

lai căng đang đe dọa văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc. Các cuộc

triển lãm cá nhân và nhóm xuất hiện ngày càng nhiều. Qua đó, người xem có

cơ hội tiếp cận với tranh khắc gỗ mới ở các khía cạnh kỹ thuật, chất liệu, hình

thức trình bày cũng như quan niệm nghệ thuật. Người yêu nghệ thuật hiểu

rằng, dòng tranh khắc gỗ truyền thống hay tranh khắc gỗ hiện đại dù khác

nhau về cách thể hiện nhưng giá trị thẩm mỹ gần như không thay đổi. Sự đổi

mới căn bản đó là do đổi mới nhận thức và đổi mới quan niệm nghệ thuật.

Cách nhìn trong ngôn ngữ cũng không bị rập khuôn, cách miêu tả hiện thực

đã sang giai đoạn phát triển nhiều phong cách khác nhau.

Có thể nói đề tài nông nghiệp trong Mỹ thuật đã đạt được những thành

công nhất định trong kho tàng mỹ thuật nước nhà nói chung, song những

thành tựu đạt được và vấn đề phát triển đề tài luôn gắn liền với cuộc sống

nhân dân này lại là vấn đề cần quan tâm. Nhìn rộng hơn về tương lai, những

năm gần đây và có thể xa hơn nữa, phải nói sau những năm 1990 là thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các họa sĩ của chúng ta dần chuyển

sang đề tài mới là công nghiệp với những bức tranh được vẽ hoành tráng cỗ

máy đồ sộ, giàn giáo, giàn khoan, ốc vít, bu lông, ống khói cao ngút trời,…

Hình ảnh các cô, bác nông dân lao động sản xuất trên cánh đồng, nông trại…

đang vắng dần trong các tác phẩm được mang đến dự triển lãm. Hình ảnh

người công nhân trong tranh với áo mũ, ủng giầy đã thay thế hình dáng người

nông dân trên mặt trận nông nghiệp. Những năm đầu thế kỷ 21, do chính sách

Page 69: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

69

mở cửa của Nhà nước, đất nước ta vào kỳ đổi mới, nhiều tập đoàn công

nghiệp tư bản xuất hiện đồng nghĩa với việc đất của người nông dân bị thu

hẹp, nhường chỗ cho khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy, sân gôn,

resort,… Ở nông thôn, ao hồ bị san lấp, cây cối bị chặt phá để nhường chỗ

cho những mái nhà, tường, ngõ, bê tông cứng nhắc. Tất cả chỉ còn lại trong ký

ức một thời phần nào làm mất đi nhiều cảm xúc sáng tác về nông thôn của

họa sĩ. Lớp họa sĩ trẻ ngày nay do xu hướng hội nhập thế giới phẳng mà ít

quan tâm đến đề tài nông thôn, mà nếu cần tái hiện họ chỉ cần ngồi trước máy

tính là có hàng trăm sự lựa chọn làm cho việc thực tế bị hời hợt, chốc lát; lại

thêm chịu ảnh hưởng của nhiều xu hướng nghệ thuật mới đặc biệt là Trung

Quốc nên tác phẩm đa số họa sĩ vẽ ra để kiếm sống trên quan điểm vẽ ra để

bán. Với động cơ như vậy việc sáng tác bị chi phối nhiều theo đơn đặt hàng,

sẽ làm mất dần bản sắc dân tộc, sự tự do tự tại trong sáng tạo. Chính vì những

lý do trên vẽ về đề tài nông nghiệp không phải dễ dàng gì đặc biệt làm rõ

được đặc sắc, cái riêng của nông nghiệp Việt Nam là một bài toán khó với

anh em họa sĩ trẻ hiện nay. Tuy vậy vẫn có một số còn sót lại theo đuổi đề tài

này ở nhiều chất liệu khác nhau được công chúng biết đến. Về đồ họa, với

dòng tranh khắc gỗ có thể bắt gặp ở đâu đó những hình ảnh thân thuộc về

người nông dân trong: Cho bò ăn (Phạm Nguyệt Nga) [H 3.1; tr 101]; Người

H’Mông làm lúa nước (Nguyễn Trọng Hợp) [H 3.2; tr 101]; Đôi bạn nhà

nông (Trần Văn Quân) [H 3.4; tr 102]; Trục lúa đêm trăng (Hồ Thiết Trinh)

[H 3.5; tr 103]; Được mùa (Phạm Hùng Cường) [H 3.3; tr 102]; Mặt trời trên

nương (Lê Thị Hiển) [H 3.8; tr 104]; Hè sang (Vũ Bạch Liên) [H 3.11; tr

106]; Cấy (Nguyễn Thị Hồng Duyên) [H 3.12; tr 106]... Được đồng hành

cùng đời sống bà con nông dân trong thời điểm mới, nhiều tác phẩm đã kịp

thời phản ánh sự phát triển của nông thôn thời kỳ hội nhập, những ảnh hưởng

đổi thay đến từng ngõ xóm. Tranh của họ đã cách tân nhiều hơn về kỹ thuật

và tạo hình cũng nhưng vẫn giữ được hồn Việt. Đặc biệt kỹ thuật khắc phá

Page 70: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

70

bản mới du nhập đã được các họa sĩ thực hiện thành công một cách nhuần

nhuyễn. “Quy trình sáng tạo tranh khắc gỗ là kết quả của một quá trình lao

động công phu phức tạp; công việc khắc và in rất tỉ mỉ, khó khăn nhưng cũng

rất hứng thú với người sáng tác vì thớ gỗ chất màu tạo nên những hiệu quả bất

ngờ”- nữ họa sĩ Tố Uyên, giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật TP HCM nhận

xét.

Nền hội họa Việt Nam được khởi đầu tốt đẹp từ trường Mỹ thuật Đông

Dương, phát triển rực rỡ suốt năm tháng thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt

Nam thế kỷ 20 và đến giai đoạn này đang ở trên một tầm cao mới. Tư duy tạo

hình, ý định nghệ thuật, cảm xúc thẩm mỹ của các nghệ sĩ bay xa hơn, mang

đậm cá tính sáng tạo riêng. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, nhiều

gương mặt mới xuất hiện, nhiều cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống khác

nhau được công bố. Tuy đã có một đội ngũ nghệ sĩ tạo hình hùng hậu và

chính họ đã để lại cho xã hội một kho tàng di sản về mỹ thuật có giá trị cao có

thể kể trên nhưng vẫn còn thiếu nhiều tác phẩm đề tài chưa khai thác một

cách tích cực. Trong bối cảnh đất nước thay đổi như hiện nay, đời sống nông

nghiệp không còn là nền kinh tế chính yếu. Tuy nhiên nó vẫn đóng vai trò

trong đời sống xã hội, nhất là vùng nông thôn Việt Nam. Để khuyến khích và

phát huy anh em họa sĩ hăng hái tham gia nghiên cứu, thể hiện đề tài nông

nghiệp, thiết nghĩ Hội mỹ thuật Việt Nam cùng các sở, ban, ngành nên

khuyến khích mở trại, các cuộc thi về đề tài này với hy vọng đưa hình ảnh

người nông dân vào những tác phẩm thành công, chất lượng, kịp ca ngợi làm

phong phú cho mảng đề tài này, góp phần xây dựng và phát triển nền Mỹ

thuật Việt Nam hiện đại giàu bản sắc dân tộc.

Tiểu kết

Chương 3 của luận văn là sự tổng kết, đánh giá thành công, hạn chế đề

tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ giai đoạn 1955-1985 cũng như đóng góp

của đề tài trong tranh khắc gỗ đối với nghệ thuật đồ họa tranh in ở Việt Nam;

Page 71: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

71

bài học phát huy truyền thống dân tộc rút ra sau mỗi hạn chế. Bằng sự phân

tích dưới góc nhìn cá nhân, luận văn đưa ra cái hay, ý nghĩa mà đề tài mang

lại phản ánh thông qua nội dung, hiệu quả chất liệu, ngôn ngữ tạo hình,

phương pháp nghệ thuật và giá trị nghệ thuật của tác phẩm hướng đến. Bên

cạnh đó cũng mạnh dạn chỉ ra nhận định những hạn chế, đồng thời đưa ra

những ý kiến góp ý góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa của dòng tranh cũng như

với việc sáng tác đề tài nông nghiệp. Thể hiện thành công đề tài nông nghiệp

trên các chất liệu nói chung, tranh khắc gỗ nói riêng không những đóng góp

những giá trị nghệ thuật vào thành tựu chung của mỹ thuật, mà còn là biểu

hiện cho trình độ văn hóa, văn minh của con người Việt Nam, là vũ khí đấu

tranh cho tiến bộ xã hội, và đánh dấu sự phát triển mỹ thuật của đất nước.

Page 72: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

72

KẾT LUẬN

Đề tài nông nghiệp trong các tác phẩm mỹ thuật nói chung đã đạt được

thành công nhất định trong kho tàng mỹ thuật nước ta. Đề tài nông nghiệp

không phải là đề tài được tranh khắc gỗ thể hiện nhiều nhất, song lại là đề tài

mô tả đúng và trọn vẹn những sinh hoạt về nhà nông, những thú vui, tình cảm

của con người đối với con vật, con người đối với con người, tình cảm về quê

hương đất nước Việt Nam một cách rõ nét. Qua những tác phẩm khắc gỗ đã

khẳng định được vị trí của nó với đông đảo người yêu nghệ thuật, đó là những

tác phẩm quý về đề tài nông nghiệp mà hiện nay vẫn là những bài học vô giá

cho lớp họa sĩ trẻ noi theo. Sự sáng tạo tìm tòi và nghiên cứu thúc đẩy thành

công của các họa sĩ Việt Nam đã cho thấy khắc gỗ có thể diễn tả được với

những khả năng thể hiện khác nhau qua nhiều tác phẩm và đổi mới trong

nhiều gam màu, tăng sự hấp dẫn và phong phú. Mỗi họa sĩ có một phong cách

khác nhau có thể thiên về tìm hình hay thiên về phối hợp màu, hay sự đơn

giản hình thể nhưng con đường tư duy, cách thức tìm tòi đã thể hiện tranh

khắc gỗ Việt Nam có đột phá và tiếp nối với truyền thống. Đề tài nông nghiệp

vừa phát huy giá trị chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh

dựng nước và giữ nước của nhân dân ta từ xưa đến nay, vừa phản ánh sự đổi

mới từng ngày của bộ mặt nông thôn trong quá trình thay đổi.

Vấn đề mỹ thuật phục vụ nông nghiệp hiện nay là hết sức cần thiết. Nếu

chỉ riêng những hoạt động chuyên nghiệp thì khó có thể đáp ứng đầy đủ, mà

phải cùng với lực lượng không chuyên nghiệp, nhất là ở tại địa phương, và

với các phong trào mỹ thuật nói chung. Ngoài việc thỏa mãn một nhu cầu về

mỹ thuật, nó phải tác động thực sự vào tư tưởng tình cảm, lối sống và thị hiếu

của nông dân ta ngày nay. Nó đóng góp tích cực vào việc xây dựng con người

mới, nông thôn mới hiện nay. Hy vọng rằng anh em họa sĩ yêu thích hình ảnh

Page 73: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

73

người nông dân sẽ gắn bó nhiều hơn nữa với đề tài nông nghiệp để có được

tác phẩm thành công, chất lượng, kịp ca ngợi làm phong phú cho mảng đề tài

này, góp phần xây dựng và phát triển nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại giàu

bản sắc dân tộc.

Trải qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian và những thăng trầm

của lịch sử, tranh khắc gỗ Việt Nam không chỉ đóng góp một vai trò quan

trọng trong sự nghiệp chính trị của quốc gia, trong đời sống kinh tế, ca ngợi

quê hương đất nước mà còn đóng góp những giá trị nghệ thuật và văn hóa làm

nên diện mạo, nét đặc sắc Việt Nam. Với những sáng tác khắc gỗ phản ánh về

hoạt động sản xuất nông nghiệp đã tạo nên hình tượng người nông dân Việt

Nam có vẻ đẹp thể chất, họ cần cù, thông minh, năng động trong ngành lao

động. Những hình tượng ấy đã đóng góp cho nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại

những hình tượng nghệ thuật mang hào khí cách mạng, những hình tượng

mang tính tượng trưng cao, đại diện cho lực lượng sản xuất xã hội. Có thể nói

các họa sĩ sáng tác với ý thức tìm tòi thực sự, góp phần bổ sung thêm những

trang khắc gỗ có giá trị vào nghệ thuật đồ họa nước nhà, góp phần không nhỏ

vào sự cách tân dòng tranh, đem lại cho nó tính hiện thực và hiện đại trên cơ

sở truyền thống dân tộc.

Page 74: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

74

GHI CHÚ

Bảng thống kê tác phẩm khắc gỗ theo chủ đề

về đề tài nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1955-1985

STT Chủ đề Tên tác phẩm,

tác giả

Chất liệu Kích thước Năm

sáng

tác

1 Cấy cày “Đi cấy”- Trần

Nguyên Đán

Khắc gỗ đen

trắng

15 x 25 cm. 1967

“Đôi bạn”-

Trịnh Thiệp

Khắc gỗ đen

trắng

35 x 24 cm. 1968

“Ra đồng”-

Huy Oánh

Khắc gỗ đen

trắng

30 x 40 cm. 1968

“Cấy hết diện

tích”-

Trịnh Phòng

Khắc gỗ đen

trắng

20 x 30 cm. 1969

“Nước bạc, cơm

vàng”-

Phùng Phẩm

Khắc gỗ đen

trắng

46 x 36 cm. 1970

“Chống hạn”-

Phùng Phẩm

Khắc gỗ đen

trắng

57 x 44 cm. 1975

“Xóm Tân Bồi”-

Phùng Phẩm

Khắc gỗ đen

trắng

1976

“Buổi sớm”-

Nguyễn Duyện

Khắc gỗ đen

trắng

51 x 41 cm. 1977

Page 75: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

75

“Một buổi cấy”-

Hà Mỹ Lý

Khắc gỗ màu 28,5 x 40,2

cm.

1978

“Những cô thợ

cấy Định Công”-

Văn Bình

Khắc gỗ đen

trắng

31 x 23 cm. 1978

2 Trồng

trọt

“Rủ nhau đi

nương”- Đường

Ngọc Cảnh

Khắc gỗ đen

trắng

25 x 39 cm. 1959

“Bé yêu lao

động”-

Vi Kiến Minh

Khắc gỗ đen

trắng

14 x 23 cm. 1965

“Khai hoang”-

Tôn Đức Lượng

Khắc gỗ màu 1973

3 Chăn

nuôi

“Bé chăn trâu”-

Anh Thường

Khắc gỗ đen

trắng

24 x 16 cm.

1957

“Ruộng đồng”-

Quang Phòng

Khắc gỗ màu 35 x 50 cm. 1962

“Chăn nuôi”-

Ngô Duyên

Khắc gỗ màu 23 x 36 cm. 1965

“Người tốt việc

tốt”- Trần

Nguyên Đán

Khắc gỗ màu 20 x 30 cm. 1968

“Con trâu là đầu

cơ nghiệp”-

Trần Nguyên

Đán

Khắc gỗ đen

trắng

50 x 75 cm. 1970

Page 76: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

76

“Chăm học chăm

làm”- Trần

Nguyên Đán

Khắc gỗ đen

trắng

46,8 x 36,5

cm.

1971

“Phong cảnh

miền núi”-

Cửu Cooc Khìn

Khắc gỗ đen

trắng

19 x 40 cm. 1974

4 Thu

hoạch

“Hái cà phê”-

Lương Xuân Nhị

Khắc gỗ màu 21 x 38 cm. 1964

“Trục lúa”-

Phạm Văn Đôn

Khắc gỗ đen

trắng.

46 x 29 cm. 1970

“Trục lúa”-

Vũ Duy Nghĩa

Khắc gỗ đen

trắng

1972

“Trên vùng kinh

tế mới”-

Hoàng Hoan

Khắc gỗ đen

trắng

36 x 26 cm. 1972

“Phơi thóc”-

Mạnh Hào

Khắc gỗ đen

trắng

29 x 47 cm 1974

“Hái quả”-

Phạm Đoàn

Thanh

Khắc gỗ đen

trắng

21 x 26 cm. 1976

Page 77: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên), Viện Mỹ thuật, (2005), Mỹ thuật Việt

Nam hiện đại, NXB Mỹ thuật.

2. Bộ Văn hóa thông tin- Vụ Mỹ thuật, Hội Mỹ thuật Việt Nam (2001), Triển

lãm Mỹ thuật toàn quốc 1996- 2000, NXB Mỹ thuật.

3. Bộ Văn hóa thông tin, Hội Mỹ thuật Việt Nam (2005), Triển lãm Mỹ thuật

toàn quốc 2001-2005, NXB Mỹ thuật.

4. Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam (2010), Triển lãm

Mỹ thuật toàn quốc 2006- 2010, NXB Mỹ thuật.

5. Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam- Hà Nội (2012),

Cuộc thi và triển lãm tranh Đồ họa ASEAN 2012, NXB Mỹ thuật.

6. Nguyễn Văn Chung (2010), Những bài viết về Mỹ thuật, NXB Mỹ thuật.

7. Đỗ Văn Duẩn, (2008), Chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại,

khóa luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

8. Vũ Ngọc Đăng (2008), Tính hiện thực trong tranh khắc gỗ Việt Nam, khóa

luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

9. Nguyễn Đức Hiền (1999), Những đột phá và tiếp nối của tranh khắc gỗ

Việt Nam đương đại, Tiểu luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

10. Dương Thị Hòa (2016), Tranh khắc gỗ màu hiện đại Việt Nam giai đoạn

1954-1975, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

11. Hội Mỹ thuật Việt Nam, Tạp chí Mỹ thuật, số 100, số 199, số 249, số 251,

số 255,256.

12. Hội Mỹ thuật Việt Nam (1997), Tranh khắc gỗ Việt Nam, NXB Mỹ thuật-

Hà Nội.

Page 78: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

78

13. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2010), Tác phẩm được giải thưởng Hội Mỹ thuật

Việt Nam và triển lãm Mỹ thuật khu vực năm 2006, NXB Mỹ thuật.

14. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2014), Mỹ thuật Đồng bằng sông Hồng, NXB

Mỹ thuật.

15. Hội Mỹ thuật Việt Nam (1975), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam, NXB Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

16. Hội Mỹ thuật Việt Nam (1978), Tranh khắc gỗ Việt Nam. NXB Văn hóa,

Hà Nội.

17. Hội Văn học Nghệ thuật Hải Dương, (2008), Mỹ thuật Hải Dương 1954-

2008.

18. Trương Nguyễn Nguyên Kha (2013), “Tranh khắc gỗ Việt Nam với

những phát triển mới từ năm 1986 đến nay”- Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số

3 (47,T9/2013), Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật.

19. Nguyễn Thị Hiền Lương (2013), Đề tài sinh hoạt trong tranh khắc gỗ

màu Việt Nam, Tiểu luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

20. Kiều Hoàng Linh (2007), Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam, tiểu luận tốt

nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

21. Nguyễn Loan (2014), “Trần Nguyên Đán, nét khắc ký ức và hiện tại”-

Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số 1, T4/2014, [28] Trường Đại học Mỹ thuật

Việt Nam, Viện Mỹ thuật (Tr 46-49).

22. Trần Tiểu Lâm, Phạm Thị Chỉnh (2007), Giáo trình Mỹ thuật học, NXB

Đại học sư phạm.

23. Nguyễn Chí Nguyện (2012), Hình tượng người nông dân trong hội họa

Việt Nam thế kỷ XX, luận văn thạc sỹ Mỹ thuật, Trường Đại học Mỹ thuật

Việt Nam.

24. Hà Thị Quỳnh Nga (2015), Đặc điểm tạo hình trong tranh khắc gỗ của

Phạm Nguyệt Nga và Lê Mai Khanh, luận văn thạc sỹ Mỹ thuật, Trường Đại

học Mỹ thuật.

Page 79: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

79

25. Đặng Bích Ngân (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, NXB

Giáo dục.

26. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam,

Viện ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội- Hà Nội.

27. Quang Phòng - Quang Việt (2015), Trường Mỹ thuật Đông Dương- Lịch

sử và Nghệ thuật, NXB Mỹ thuật.

28. Hoàng Minh Phúc (2015), Đồ họa nghệ thuật tranh in, NXB Thế giới, Hà

Nội.

29. Nguyễn Nghĩa Phương (2011), Tranh khắc gỗ mới- phương tiện mở rộng

thực hành nghệ thuật đương đại - Tạp chí Mỹ thuật số 227 (Tr 42), 2011 [28],

Hội Mỹ thuật Việt Nam.

30. Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hội đồng quốc gia chỉ

đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, (1995), Từ điển Bách khoa Việt

Nam 1.

31. Văn Tân (1994), Từ điển Tiếng Việt- NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Nguyễn Trân, (1995), Nghệ thuật Đồ họa, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.

33. Xa Thị Minh Thúy (2013), Hiệu quả của nét trong tranh khắc gỗ đen

trắng Việt Nam, tiểu luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

34. Viện nghệ thuật- Bộ Văn hóa, (1973), Về tính dân tộc của Nghệ thuật tạo

hình, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

35. Viện Mỹ thuật, (1979), Sáng tác Mỹ thuật, sách tư liệu, NXB Văn hóa

thông tin.

36. Viện Mỹ thuật, (1998), Tác giả, tác phẩm Mỹ thuật Việt Nam. NXB Văn

hóa thông tin.

37. Viện Mỹ thuật, (2003), Tranh khắc gỗ Phùng Phẩm. NXB Văn hóa thông

tin.

38. Nguyễn Bá Vân- Chu Quang Trứ (1984), Tranh dân gian Việt Nam, NBX

Văn hóa.

Page 80: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

80

39. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt-Bộ Giáo dục và

Đào tạo- Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin.

Page 81: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

81

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

ĐỖ THỊ THU THỦY

ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP

TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1955-1985

PHỤ LỤC ẢNH

Chuyên ngành: Mỹ thuật Tạo hình (Hội họa).

Mã số: 60 21 01 02

Khóa: 18 (2015-2017)

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS Bùi Thị Thanh Mai

HÀ NỘI- 2017

Page 82: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

82

MỤC LỤC

PHẦN PHỤ LỤC

Trang

Phụ lục 1: Tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985…………… 79

Phụ lục 2: Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai

đoạn 1955-1985……………………………………………………..

87

Phụ lục 3: Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai

đoạn 1986-2015…………………………………………………….

101

Page 83: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

83

PHỤ LỤC 1

TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985

H 1.1. Văn Đa, Cảng Hòn Gai, (1956),

Khắc gỗ đen trắng, 35 x 24 cm. Nguồn: [16]

H 1.2. Lê Phả, Công nhân xe lửa Gia Lâm, (1958),

Khắc gỗ đen trắng, 40 x 31 cm. Nguồn: [16]

Page 84: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

84

H 1.3. Nguyễn Tiến Chung, Ngày chủ nhật, (1960),

Khắc gỗ màu, 47 x 33 cm. Nguồn: [16]

H 1.4. Thế Vinh, Lớp học bổ túc văn hóa buổi trưa, (1960),

Khắc gỗ màu, 23 x 33 cm. Nguồn: [12]

Page 85: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

85

H 1.5. Đinh Trọng Khang, Mẹ con, (1962),

Khắc gỗ màu, 33 x 61 cm. Nguồn: [12]

H 1.6. Giáng Hương, Cầu Hàm Rồng, (1967),

Khắc gỗ màu, 25 x 34 cm. Nguồn: [12]

Page 86: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

86

H 1.7 . Huy Oánh, Ông và cháu, (1968),

Khắc gỗ đen trắng, 30 x 40 cm. Nguồn: [12]

H 1.8. Lê Thiệp, Cá về, (1969),

Khắc gỗ màu, 58 x 37 cm. Nguồn: [12]

Page 87: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

87

H 1.9. Trịnh Quốc Thụ, Các lão dân quân, (1970),

Khắc gỗ màu, 42 x 86 cm. Nguồn: [12]

H 1.10. Hà Mỹ Lý, Các nữ dân quân, (1972),

Khắc gỗ màu, 31 x 48 cm. Nguồn: [12]

Page 88: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

88

H 1.11. Trần Nguyên Đán, Nghệ nhân Hàng Trống, (1975),

Khắc gỗ màu, 58 x 50 cm. Nguồn: [12], [BTMTVN]

H 1.12. Đặng Thạc, Lên đường, (1976),

Khắc gỗ màu, 50 x 39 cm. Nguồn: [12]

Page 89: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

89

H 1.13. Phạm Văn Đôn, Quang Trung- Đại thắng mùa xuân 1789, (1978),

Khắc gỗ màu, 52 x 40 cm. Nguồn: [12], [BTMTVN]

Page 90: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

90

H 1.14. Hoàng Đạo Khánh, Lớp học miền núi Tây Bắc, (1980),

Khắc gỗ đen trắng, 32 x 45 cm. Nguồn: [12]

H 1.15. Nguyễn Nghĩa Duyện, Hà Nội năm bốn sáu, (1984),

Khắc gỗ màu, 45 x 55 cm. Nguồn: [12], [BTMTVN]

Page 91: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

91

PHỤ LỤC 2

ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1955-1985

H 2.1. Anh Thường, Bé chăn trâu, (1957),

Khắc gỗ đen trắng, 24 x 16 cm. Nguồn: [16]

H 2.2. Đường Ngọc Cảnh, Rủ nhau đi nương, (1959),

Khắc gỗ đen trắng, 25 x 39 cm. Nguồn: [15]

Page 92: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

92

H 2.3. Quang Phòng, Ruộng đồng, (1962),

Khắc gỗ màu, 35 x 50 cm. Nguồn: [12]

H 2.4. Lương Xuân Nhị, Hái cà phê, (1964),

Khắc gỗ màu, 21 x 38 cm. Nguồn: [16]

Page 93: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

93

H 2.5. Vi Kiến Minh, Bé yêu lao động, (1965),

Khắc gỗ đen trắng, 14 x 23 cm, Nguồn: [16]

H 2.6. Ngô Duyên, Chăn nuôi, (1965),

Khắc gỗ màu, 23 x 36 cm. Nguồn: [15]

Page 94: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

94

. H 2.7. Trần Nguyên Đán, Đi Cấy, (1967),

Khắc gỗ đen trắng, 15 x 25cm. Nguồn: Họa sĩ cung cấp

H 2.8. Trịnh Thiệp, Đôi bạn, (1968),

Khắc gỗ đen trắng, 35 x 24 cm. Nguồn: [16]

Page 95: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

95

H 2.9. Huy Oánh, Ra đồng, (1968),

Khắc gỗ đen trắng, 30 x 40 cm. Nguồn: [16]

H 2.10. Trần Nguyên Đán, Người tốt việc tốt, (1968),

Khắc gỗ màu, 20 x 30 cm. Nguồn: Họa sĩ cung cấp

Page 96: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

96

H 2.11. Trịnh Phòng, Cấy hết diện tích, (1969),

Khắc gỗ đen trắng, 20 x 30 cm. Nguồn: [16]

H 2.12. Phạm Văn Đôn, Trục lúa, (1970),

Khắc gỗ đen trắng, 46 x 29 cm. Nguồn: [16]

Page 97: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

97

H 2.13. Phùng Phẩm, Nước bạc, cơm vàng, (1970),

Khắc gỗ đen trắng, 46 x 36 cm. Nguồn: [01]

H 2.14. Trần Nguyên Đán, Con trâu là đầu cơ nghiệp, (1970),

Khắc gỗ đen trắng, 50 x 75 cm. Nguồn: [36]

Page 98: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

98

H 2.15. Trần Nguyên Đán, Chăm học chăm làm, (1971),

Khắc gỗ đen trắng, 46,8 x 36,5 cm. Nguồn: [BTMTVN]

H 2.16. Vũ Duy Nghĩa, Trục lúa, (1972),

Khắc gỗ đen trắng. Nguồn: [38]

Page 99: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

99

H 2.17. Hoàng Hoan, Trên vùng kinh tế mới, (1972),

Khắc gỗ đen trắng, 36 x 26 cm. Nguồn: [16]

H 2.18. Tôn Đức Lượng, Khai hoang, (1973), Khắc gỗ màu,

Bộ sưu tập của Tira- Thái Lan. Nguồn: [27]

Page 100: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

100

H 2.19. Mạnh Hào, Phơi thóc, (1974),

Khắc gỗ đen trắng, 29 x 47 cm. Nguồn: [16]

Page 101: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

101

H 2.20. Cửu Coóc Khìn, Phong cảnh miền núi, (1974),

Khắc gỗ đen trắng, 19 x 40 cm. Nguồn: [16]

Page 102: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

102

H 2.21. Phùng Phẩm, Chống hạn, (1975),

Khắc gỗ đen trắng, 57 x 44 cm. Nguồn: [37]

H 2.22. Phùng Phẩm, Xóm Tân Bồi, (1976),

Khắc gỗ đen trắng. Nguồn: [35]

Page 103: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

103

H 2.23. Phạm Đoàn Thanh, Hái quả, (1976),

Khắc gỗ đen trắng, 21 x 26 cm. Nguồn: [16]

H 2.24. Nguyễn Duyện, Buổi sớm, (1977),

Khắc gỗ đen trắng, 51 x 41 cm. Nguồn: [16]

Page 104: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

104

H 2.25. Hà Mỹ Lý, Một buổi cấy, (1978),

Khắc gỗ màu, 28,5 x 40,2 cm. Nguồn: [BTMTVN]

H 2.26. Văn Bình, Nhũng cô thợ cấy Định Công, (1978),

Khắc gỗ đen trắng, 31 x 23 cm. Nguồn: [16]

Page 105: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

105

PHỤ LỤC 4

ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1986-2015

H 3.1. Phạm Nguyệt Nga, Cho bò ăn, (1988),

Khắc gỗ màu, 30 x 40 cm. Nguồn: [23]

H 3.2. Nguyễn Trọng Hợp, Người H’mông làm lúa nước,

Khắc gỗ màu, 32 x 47 cm. Nguồn: [02]

Page 106: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

106

H 3.3. Ngô Thanh Phong, Được mùa hành tím, (2001),

Khắc gỗ màu, 80 x 110 cm. Nguồn: [03]

H 3.4. Trần Văn Quân, Đôi bạn nhà nông, (2004),

Khắc gỗ đen trắng, 50 x 50 cm.. Nguồn: [17]

Page 107: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

107

H 3.5. Lương Văn Thuận, Ra đồng, (2005),

Khắc gỗ đen trắng, 35 x 35 cm. Nguồn: [11]

H 3.6. Hồ Thiết Trinh, Trục lúa đêm trăng, (2006),

Khắc gỗ đen trắng, 80 x 80 cm. Nguồn: [12]

Page 108: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

108

H 3.7. Phạm Hùng Cường, Được mùa,

Khắc gỗ đen trắng, 54 x 74cm. Nguồn: [04]

H 3.8. Lê Thị Hiển, Mặt trời trên nương, (2010),

Khắc gỗ đen trắng, 60 x 80 cm. Nguồn: [04]

Page 109: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

109

H 3.9. Đỗ Đức, Ngày mùa, (2012),

Khắc gỗ màu, 50 x 70 cm. Nguồn: [05]

H 3.10. Nguyễn Thị May, Mùa vàng, (2012),

Khắc gỗ phá bản 60 x 80 cm. Nguồn: [05]

Page 110: ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT …mythuatvietnam.edu.vn/LuanVanThacSi/DOTHITHUTHUY.pdf · 2 bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo bỘ vĂn ha, thỂ thao vÀ

110

H 3.11. Vũ Bạch Liên, Hè sang, (2013),

Khắc gỗ đen trắng, 70 x 127 cm. Nguồn: [11]

H 3.12. Nguyễn Thị Hồng Quyên, Cấy, Khắc gỗ phá bản, 2015

Nguồn: Tác giả luận văn chụp tại triển lãm Đồ họa ASEAN 2016