+ thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ việt nam...

72
Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội THỰC HIỆN QUYỀN BÌNH ĐẲNG VỚI PHỤ NỮ VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 6Created by Thanh An - 1 -Thanh An Page 1 7/6/2022 Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 1

Upload: others

Post on 30-Dec-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

THỰC HIỆN QUYỀN BÌNH ĐẲNG VỚI PHỤ NỮ VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

6Created by Thanh An - 1 -Thanh An Page 15/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 1

Page 2: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Được Đảng và Nhà nước quan tâm, công tác vận động phụ nữ, phong trào phụ nữ ngày càng phát triển; sự đóng góp của phụ nữ cho sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước ngày càng lớn,...

1. Vai trò của phụ nữ, quyền bình đẳng của phụ nữ được khẳng định

Bôn ba trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã không chỉ đồng cảm mà còn đanh thép tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với phụ nữ xứ thuộc địa: “Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược, ngoài phố, trong nhà, giữa chợ, hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn quan lại cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga”. Không chỉ có ách áp bức thực dân, mà lễ giáo phong kiến cũng coi người phụ nữ là những phận người hèn mọn, hạ thấp tột bậc và không được hưởng chút quyền gì.

Tuy nhiên, rất biện chứng, Hồ Chí Minh có niềm tin vào phụ nữ, coi họ là một nửa xã hội, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng độc lập và giải phóng chính bản thân mình. Trên tinh thần đó, không chỉ khẳng định: “Nam nữ bình quyền”, “Đàn bà cũng được tự do, bất phân nam nữ đều cho bình quyền”, “Về chính trị: Nam nữ bình quyền” đã trở thành một nội dung quan trọng của Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930) và Mười chính sách

của Việt Minh, Chương trình Việt Minh (1941), trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tư tưởng của Người về giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ, cổ vũ người phụ nữ tham gia và góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục được khẳng định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả những người công dân Việt Nam 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ đều có quyền bầu cử và ứng cử”  và  “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9, Hiến pháp năm 1946); “Phụ nữ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình” (Điều 24, Hiến pháp năm 1959), Điều 3; 12; 13; 18 nói về quyền bình đẳng vợ chồng, và cha mẹ không được đối xử tàn tệ với con dâu (Luật Hôn nhân và gia đình),…

6Created by Thanh An - 2 -Thanh An Page 25/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/20122

Page 3: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

2. Hồ Chí Minh với việc giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ

Trong tiến trình cách mạng, được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ Việt Nam không chỉ góp sức mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn tự giải phóng bản thân mình. Trong hai cuộc trường chinh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, phụ nữ đã không chỉ được giải phóng, đóng góp sức mình cho sự nghiệp cách mạng như Người từng nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”, mà còn từng bước chiến thắng những tập tục, những quan niệm cổ hủ và tự chiến thắng chính bản thân mình, để thực sự hướng tới quyền bình đẳng thực sự, vì đó luôn là “một cuộc cách mạng to và khó”.

Tuy nhiên cũng theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù quyền bình đẳng của phụ nữ đã được ghi rõ trong các văn bản pháp lý quan trọng, song giải phóng người phụ nữ triệt để, thực hiện sự bình quyền, thì không có nghĩa là chỉ thực hiện một sự phân công mới, bình đẳng giữa vợ và chồng trong những công việc gia đình. Điều căn bản là phải có sự phân công, sắp xếp lại lao động của toàn xã hội, đưa phụ nữ tham gia vào nhiều ngành nghề như nam giới. Cần tổ chức lại đời sống công nông, cũng như sinh hoạt gia đình để phụ nữ giảm nhẹ công việc bếp núc, chăm lo con cái, có điều kiện học tập nâng

cao trình độ mọi mặt và tham gia công tác xã hội. Từ đó, chị em mới có đủ khả năng làm nhiều công việc chuyên môn và đảm nhiệm được những chức vụ công tác ngang hàng với nam giới.

Giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ cũng là cuộc đấu tranh tư tưởng lâu dài, khó khăn để xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ đã tồn tại dai dẳng trong quan niệm của nhân dân ta: “Vì trọng trai, khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại, vì nó ăn sâu trong đầu óc mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội”. Cuộc cách mạng này to và khó, “vì không thể dùng vũ lực mà tranh đấu... vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải cách mạng từng người, từng gia đình đến toàn dân. Dù to và khó phải nhất định thành công”. Trên tinh thần đó, muốn biến quyền bình đẳng giữa nam nữ từ một luật lệ trở thành hiện thực trong cuộc sống, biến ý thức tôn trọng phụ nữ thành nếp sống đạo đức của mọi người, thì cần phải có sự nỗ lực hết sức to lớn của toàn dân nói chung và của tất cả phụ nữ nói riêng.

Điều kiện để thực hiện cuộc cách mạng này, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Muốn thực hiện tốt quyền bình đẳng của phụ nữ phải có sự tiến bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật của nước ta. Vì vậy, trong thời kỳ miền Bắc xây dựng CNXH và cùng miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đấu tranh

6Created by Thanh An - 3 -Thanh An Page 35/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 3

Page 4: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Người đã không chỉ quan tâm đến phụ nữ, mà Người còn luôn nhắc nhở các cấp ủy Đảng, chính quyền, các Bộ, các ngành, các cơ quan, đoàn thể, đơn vị chú ý đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện đưa phụ nữ tham gia vào công tác quản lý, lãnh đạo, để thực hiện quyền bình đẳng thực sự.

Theo lời Người: “Thời kỳ thuộc Pháp, phụ nữ ta làm gì được tham gia chính quyền. Nhưng đến nay, số phụ nữ hiện công tác ở các cơ quan Trung ương đã có trên 5.000 người, ở huyện, xã có hơn 16.000 người và các tỉnh có hơn 330 người, đặc biệt trong Quốc hội khóa II này có 53 đại biểu phụ nữ” (1/8/1960), nên để phụ nữ Việt Nam được giải phóng, được hưởng quyền bình đẳng thật sự thì không chỉ làm cách mạng giải phóng họ, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của họ, mà còn phải bồi dưỡng, giúp đỡ họ, đưa họ tham gia vào công tác quản lý, lãnh đạo Đảng và chính quyền.

Với ý nghĩa đó, thực chất quá trình thực hiện quyền bình đẳng không chỉ dừng lại ở việc vận động phụ nữ, ở công tác cán bộ nữ, mà còn là phải tạo môi trường pháp lý và điều kiện hiện thực thuận lợi cho cả hai giới cùng tham gia vào các hoạt động xã hội. Song thực hiện bình đẳng giới, cũng không có nghĩa là “cào bằng” trong mọi việc, mà phải là, ngoài những cơ chế chính sách chung đối với người lao động, các cơ quan chức năng cần chú ý “quán triệt

quan điểm giới” khi xây dựng chính sách, pháp luật đối với người lao động, nhằm bảo vệ sức khỏe của phụ nữ, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em khỏi những lao động độc hại và phi đạo đức, đồng thời đảm bảo phân phối công bằng cho cả hai giới, khi cùng làm một công việc và cống hiến như nhau.

Luôn quan tâm đến phụ nữ, trăn trở về vấn đề giải phóng phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ, trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại trong bản Di chúc lịch sử: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Đó không chỉ là tấm lòng, đó còn là trăn trở của Người về vấn đề thực hiện quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ với nam giới.

3. Đảng và Nhà nước ta thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng thật sự đối với phụ nữ

Thực hiện tư tưởng của Người và những lời căn dặn trong bản Di chúc, trong những năm (1969 - 1985), Đảng đã luôn quan tâm và đề ra nhiệm vụ về công tác vận động phụ nữ. Đó là “phải đấu tranh xóa bỏ những quan điểm phong kiến và tư sản trong việc đánh giá lực lượng và khả năng của phụ nữ, trong việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động

6Created by Thanh An - 4 -Thanh An Page 45/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/20124

Page 5: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

nữ, cán bộ nữ, trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể về đời sống của phụ nữ và trẻ em” và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phải ra sức giáo dục, động viên phụ nữ phát huy quyền làm chủ tập thể, cống hiến nhiều hơn nữa cho Tổ quốc; tiếp tục đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ và xây dựng người phụ nữ mới XHCN…

Tuy nhiên, những chủ trương đúng đắn của Đảng nói trên đã không được thực hiện một cách đầy đủ. Nhiều cấp ủy Đảng và lãnh đạo các ngành còn buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện, đối xử thiếu công bằng với phụ nữ trong việc sử dụng đào tạo, đề bạt, kỷ luật. Mặt khác, một số phụ nữ thiếu ý thức vươn lên, bị cản trở bởi những định kiến xã hội và gánh nặng gia đình. Chưa thể vượt lên những cản trở, chưa thể tự mình khẳng định, việc tham gia công tác quản lý của phụ nữ bị hạn chế tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội (khóa 1971 - 1976) là 32%, giảm xuống còn 27% (khoá 1976 - 1981) và 22% (khóa 1981 - 1987).

Trước thực tế trên, Ban Bí thư ra Chỉ thị 44/CT-TW ngày 7/6/1984 về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ. Nhằm cụ thể hóa Chỉ thị của Ban Bí thư, ngày 24/12/1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra Nghị quyết số 176a - HĐBT về việc phát huy vai trò và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nghị quyết khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp

xây dựng đất nước và đề ra các chủ trương, biện pháp khá toàn diện về chủ trương, chính sách, biện pháp của Nhà nước đối với phụ nữ. Kết quả là, sau bốn năm (1984 - 1988), thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư và Nghị quyết của HĐBT, trong số 25/40 tỉnh, 24/90 bộ, ngành Trung ương (những đơn vị có báo cáo) đã có hàng ngàn cán bộ nữ được bố trí, sắp xếp vào cương vị lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở…

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng xác định: “Cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thấu suốt trong cả hệ thống chuyên chính vô sản, được cụ thể hóa thành chính sách, luật pháp. Các cơ quan Nhà nước với sự phối hợp của các đoàn thể cần có biện pháp thiết thực tạo thêm việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, thực hiện đúng Luật Hôn nhân gia đình. Tạo điều kiện cho phụ nữ kết hợp được nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc”.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, nhằm tạo điều kiện cho các cấp Hội phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước, Quyết định 163/HĐBT (19/10/1988) đã quy định trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước, thể chế hóa vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đại diện quyền làm chủ của phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ hợp tác và phối hợp

6Created by Thanh An - 5 -Thanh An Page 55/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 5

Page 6: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

giữa các cấp chính quyền và các cấp Hội phụ nữ.

Tiếp tục thực hiện sự giải phóng phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng thực sự, trong những năm 90 của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cải cách nền hành chính Nhà nước, công tác phụ nữ càng được Đảng, Nhà nước quan tâm chu đáo (quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, được bổ sung: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ… Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội” (chương V, Hiến pháp 1992).

Tiếp đó, Nghị quyết số 04/NQ-TW (12/7/1993), Chỉ thị số 28 CT-TW (19/9/1993), Chỉ thị 37/CT (16/5/1994), Chỉ thị 54/CT-TW (22/5/2000), Chỉ thị 07/CT-TW (Ngày 25/1/2002),... về công tác phụ nữ và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) chỉ rõ: “Nâng cao trình độ mọi mặt về đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp”. Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng X, ngày 27/4/2007 Bộ

Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2003/NĐ-CP (7/3/2003) và Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua tháng 11/2006 đã tạo điều kiện cho Hội phụ nữ cùng cấp tham gia các hoạt động quản lý Nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ.

Cùng với sự phát triển của sự nghiệp cách mạng và những thành tựu về mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, quyền bình đẳng đối với phụ nữ đã đạt được nhiều tiến bộ rõ nét, thể hiện ở các mặt sau đây:

- Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã có sự chuyển biến nhất định trong nhận thức, trong tư tưởng và thực hiện quyền bình đẳng đối với phụ nữ. Người phụ nữ đã được đánh giá cao, và vai trò của cán bộ nữ nói riêng cũng đã được ghi nhận. Trong những điều kiện cụ thể, công tác cán bộ nữ đã là một trong những nhiệm vụ quan trọng của địa phương, của ngành, có sự chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện.

- Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quốc gia, tạo điều kiện để phụ nữ được chăm lo về sức khỏe và quyền lợi, được giải quyết việc làm, từng bước giảm tỷ lệ đói nghèo cho phụ nữ. Ngoài việc thụ hưởng các chương trình chung của Quốc gia, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đẩy mạnh chương trình tạo việc làm,

6Created by Thanh An - 6 -Thanh An Page 65/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/20126

Page 7: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

xóa đói giảm nghèo cho phụ nữ cả nước. Đã có trên 1.900 tỷ đồng dành cho phụ nữ và trên 2 triệu lượt phụ nữ (trong đó trên 60% là phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc, tôn giáo, đơn thân, tàn tật, phụ nữ trong diện chính sách, phụ nữ chủ doanh nghiệp mới thành lập) được vay để sản xuất, kinh doanh, phát triển trang trại, mở mang nghề nghiệp, phát triển nghề truyền thống…

- Các cấp, các ngành đã quan tâm giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, nâng cao trình độ về mọi mặt cho phụ nữ. Hội LHPN các cấp đã chủ động phối hợp với các ngành chức năng xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, tổ chức các hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực cho phụ nữ từ Trung ương đến cơ sở, tạo điều kiện cho phụ nữ nhận thức sâu sắc hơn quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với gia đình, xã hội và đối với chính bản thân mình.

- Do sự chuyển biến trong nhận thức và đánh giá đúng vai trò, khả năng của phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới, công tác cán bộ nữ cũng đã được các cấp ủy Đảng, các ngành, các cấp, thực hiện theo một lộ trình

phù hợp. Vì vậy, đội ngũ cán bộ nữ phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, tỷ lệ nữ tham gia, trúng trong các cấp ủy Đảng, Quốc hội, HĐND, các ngành, các cấp ngày càng tăng.

Có thể nói rằng, được Đảng và Nhà nước quan tâm, cho nên sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ đã được thực hiện, dù trong thực tế vẫn còn tồn tại những bất cập. Với những chủ trương, chính sách phù hợp, công tác vận động phụ nữ, phong trào phụ nữ ngày càng phát triển; sự đóng góp của phụ nữ cho sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước ngày càng lớn; quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa,... giữa nam và nữ ngày càng thể hiện rõ nét trong mọi mặt của đời sống xã hội. Đó là sự tham gia của phụ nữ trong công tác quản lý, lãnh đạo ở tất cả các cấp ủy Đảng, các cơ quan Nhà nước, các ngành, các doanh nghiệp, các hợp tác xã…, và đó cũng chính là sự khẳng định, sự cố gắng vươn lên của bản thân mỗi người phụ nữ Việt Nam trong vị thế quốc gia và trên trường quốc tế.

Ths. Văn Thị Thanh Hương (www.gdtd.vn – Ngày 06/3/2011)

BÌNH ĐẲNG GIỚI - ĐIỂM SÁNG VỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM6Created by Thanh An - 7 -Thanh An Page 7

5/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 7

Page 8: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI diễn ra ở Hà Nội (tháng 3/2012) đã nêu: Việt Nam là một trong những quốc gia đạt thành tựu cao về thực hiện bình đẳng giới, được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Kết quả đó là thực tiễn sinh động minh chứng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với phụ nữ, cao hơn là trong việc bảo đảm nhân quyền. 

Vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam có sự chi phối từ những nguyên nhân của lịch sử và ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng có những biểu hiện khác nhau. Đáng chú ý là, trong nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc; nhất là khi đạo Khổng được truyền bá vào Việt Nam, thì vai trò của người phụ nữ trong xã hội trở nên hết sức thấp kém. Theo đó, sự bất bình đẳng giới cũng diễn ra phổ biến; các quyền cơ bản của phụ nữ không được bảo đảm, thậm chí bị tước đoạt một cách vô lý.

Nhận rõ tầm quan trọng và thể hiện trọng trách trước nhân dân và cộng đồng quốc tế, ngay trong Cương lĩnh 1930 của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Nam, nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Điều đó cũng được ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được khẳng định rõ ở Điều 63, Hiến pháp sửa đổi (năm 1992) của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cho tới nay, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế, trong đó có: Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW, năm 1981), Công ước Quyền trẻ em (CRC, năm 1990) và tích cực thực hiện Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh (năm 1995) vì bình đẳng, hòa bình và phát triển. Bên cạnh đó, nhiều luật pháp, chính sách đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung, tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện bình đẳng giới và bảo vệ quyền phụ nữ. Nổi bật là: Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống (cả về vật chất và tinh thần) của phụ nữ, cũng như tạo điều kiện cần thiết để phụ nữ được hưởng quyền cơ bản của mình, tham gia và hưởng thụ một cách bình đẳng, đầy đủ trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bộ luật Lao động (năm 2002) đã sửa đổi, bổ sung những nội dung liên quan đến chính sách đối với lao động nữ, bao gồm: Bảo hiểm xã hội, tiền lương, bảo hộ lao động, đào tạo nghề. Ngoài ra, Việt Nam đã ký các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với 12 nước, trong đó có Lào, Trung Quốc và Cam-pu-chia; đã tham gia các thỏa thuận và tuyên bố quốc tế về phòng, chống mua bán người, đồng thời là thành viên tích cực của các diễn đàn đa phương, như: Tiến trình Tư vấn khu vực châu Á - Thái Bình Dương; Tiến trình Ba-li về phòng, chống mua bán người và tội phạm xuyên quốc gia; Tuyên bố chung ASEAN về phòng, chống mua bán người;… Cùng với những chủ trương, chính sách về các lĩnh vực cơ bản nhất, Nhà nước ta cũng quan tâm tới các lĩnh vực đặc thù, như: Ban hành Pháp lệnh về phòng, chống mại dâm (năm 2003);

6Created by Thanh An - 8 -Thanh An Page 85/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/20128

Page 9: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Chương trình hành động, phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em; đồng thời, xử lý nghiêm tội phạm và có những biện pháp hỗ trợ các nạn nhân. Nhà nước ta cũng đã ban hành Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007); đặc biệt là, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (2007); Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (2011 - 2020),… Quốc hội thường xuyên thực hiện tốt công tác giám sát về bình đẳng giới. Hằng năm, Chính phủ đều có báo cáo kết quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới,… Những nỗ lực trong việc hoạch định chủ trương, chính sách mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tạo bước chuyển mạnh mẽ trong thực hiện bình đẳng giới, bảo đảm tốt các quyền bình đẳng giữa nam và nữ; quyền được làm việc, được hưởng lương như nhau; quyền sở hữu, thừa kế và quyền lựa chọn bạn đời khi kết hôn hoặc ly hôn,… đều được pháp luật bảo vệ.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn tỏ rõ vai trò nòng cốt, tiên phong trong các hoạt động bình đẳng giới. Hội đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, thực hiện tốt vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; đồng thời, bám sát tình hình thực tiễn và yêu cầu công tác phụ nữ trong từng thời kỳ để không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Với phương châm “ở đâu có phụ nữ, ở đó có tổ chức Hội”, các cấp hội đã chú trọng gắn kết chặt chẽ công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, năng lực hoạt động cho phụ nữ với việc đẩy mạnh các chương trình hành động vì sự phát triển, tiến bộ của phụ nữ; tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, khu vực. Qua đó, xây dựng mối quan hệ tình cảm gắn bó mật thiết giữa phụ nữ Việt Nam với phụ nữ các nước trên thế giới, vì mục tiêu hòa bình, hữu nghị, bình đẳng và phát triển. Hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, góp phần xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc cũng được các cấp hội hết sức quan tâm; trong đó, chương trình xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn vươn lên ổn định cuộc sống,... đã thu hút được sự quan tâm, ủng hộ của các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước; động viên được tinh thần hợp tác, tương thân, tương ái của đông đảo chị em phụ nữ trong cả nước. Đến nay, Hội đã tín chấp và nhận ủy thác được hơn 48 nghìn tỷ đồng, giúp trên 17 triệu lượt phụ nữ vay vốn để sản xuất, kinh doanh; tạo việc làm, ổn định cuộc sống, xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc... góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ Việt Nam trên trường quốc tế.

Cùng với những nỗ lực trên, Hội luôn chú trọng thực hiện tốt chức năng tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước trong xây dựng, ban hành pháp luật và

6Created by Thanh An - 9 -Thanh An Page 95/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 9

Page 10: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

các chủ trương, chính sách về những vấn đề có ý nghĩa chiến lược thực hiện bình đẳng giới, như: Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình,... Hội cũng đã tích cực nghiên cứu, xây dựng và tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật Bình đẳng giới cho các đối tượng; chia sẻ kinh nghiệm xây dựng Luật Bình đẳng giới trong và ngoài nước;… Sự tham gia tích cực của Hội đã góp phần tạo cơ sở pháp lý quan trọng để phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong đấu tranh, ngăn chặn các hành vi phân biệt đối xử về giới, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong việc bảo đảm nam, nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng ở Việt Nam.

Trong lĩnh vực kinh tế, mục tiêu bình đẳng giới đã đạt những kết quả thiết thực và bền vững. Hiện nay, phụ nữ chiếm 50% lực lượng lao động; tỷ lệ nam giới và nữ giới tham gia hoạt động kinh tế ở mức gần bằng nhau (nữ: 83%, nam: 85%). Lực lượng phụ nữ có vai trò tương đương với nam giới trong việc tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất. Hầu hết các ngành nghề đều có sự tham gia của phụ nữ; nhiều ngành, phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới. Vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội đã không ngừng được nâng cao. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế và là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh nhất về xóa bỏ khoảng cách giới ở khu vực Đông Á (mục tiêu thứ 3 trong 8 Mục tiêu Thiên niên kỷ).

Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ phụ nữ biết đọc, biết viết tăng từ 82,3% (năm 1993) lên 90,5% (năm 2011). Tỷ lệ biết chữ của nam từ 10 tuổi trở lên chỉ cao hơn nữ 6%. Khoảng cách nhập học của học sinh nam, nữ ở các cấp học, bậc học trong những năm gần đây đã được thu hẹp gần như tương đương. Hiện tượng bỏ học sớm của trẻ em gái được cải thiện đáng kể. Tính trung bình trong các năm học, tỷ lệ tốt nghiệp của học sinh nữ cao hơn nam. 100% trẻ em gái từ 11 tuổi đến 14 tuổi tốt nghiệp chương trình tiểu học và được vào lớp 6. Kết quả đó đã tăng tỷ lệ đi học chung của nữ ở cấp trung học cơ sở lên trên 90%, trung học phổ thông lên trên 50%.

Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe, Việt Nam đã tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách khám, chữa bệnh cho các đối tượng; huy động mạnh mẽ các nguồn lực trong xã hội, góp phần đưa tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận với các dịch vụ y tế lên hơn 90%; đưa tuổi thọ bình quân của người Việt Nam đạt 72,8 tuổi, trong đó phụ nữ đạt 75,6 tuổi và nam giới đạt 70,2 tuổi (nữ tăng 5,5 tuổi, nam tăng 3,7 tuổi so với năm 1999). Tỷ lệ phụ nữ khám thai và được chăm sóc y tế khi mang thai hằng năm đều tăng. Riêng năm 2007, tỷ lệ phụ nữ được khám thai từ 03 lần trở lên, tăng 2% so với năm 2005.

Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ tham gia công tác trong hệ thống Đảng, cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp và các cơ quan dân cử ngày càng

6Created by Thanh An - 10 -Thanh An Page 105/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201210

Page 11: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

tăng, nhất là ở những vị trí cấp cao, như: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, bộ trưởng, thứ trưởng và trong các ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân các cấp,… Trong Quốc hội, tỷ lệ nữ đại biểu nhiệm kỳ 2007 - 2011 là 25,76%, xếp thứ 31 trên thế giới. Riêng nhiệm kỳ 2011 - 2016 là 24,4%; tuy có giảm so với nhiệm kỳ trước, nhưng Việt Nam vẫn là một trong những nước của khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao. 

Trong gia đình, tiếng nói của phụ nữ khi quyết định các vấn đề lớn, quan niệm về con trai, con gái đã có nhiều thay đổi tích cực. Mức độ sở hữu và kiểm soát các tài sản quan trọng của phụ nữ Việt Nam hiện nay đã được pháp luật bảo vệ…

Những kết quả đạt được trong các lĩnh vực trên đây đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời là minh chứng thuyết phục nhất khi cho rằng: Việt Nam là một quốc gia tiên phong trong đấu tranh vì bình đẳng giới và bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách để phủ nhận những thành tựu đó, nhằm phục vụ cho mưu đồ chống phá CNXH của chúng. Song, những thủ đoạn đó cũng không thể đánh lừa được ai, bởi thực tiễn công cuộc đổi mới nói chung, cũng như những thành tựu đã đạt được trên lĩnh vực bình đẳng giới của Việt Nam nói riêng, là một thực tế mà nhân dân ta và nhiều tổ chức trên thế giới thừa nhận, không một thế lực nào có thể phủ nhận được.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng sự nghiệp phấn đấu vì mục tiêu bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ ở Việt Nam hiện vẫn còn nhiều thách thức. Bởi, xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nông nghiệp, trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, chịu ảnh hưởng của định kiến giới nặng nề, nên tư tưởng trọng nam, khinh nữ vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong các đối tượng. Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ còn bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán lạc hậu; tỷ lệ phụ nữ nghèo, mù chữ còn cao; bạo lực gia đình, tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, lấy chồng người nước ngoài còn diễn biến phức tạp.

Để khắc phục có hiệu quả tình trạng trên và triển khai thực hiện tốt vấn đề bình đẳng giới, nhằm phát huy quyền con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục thực hiện những chủ trương, chính sách, với sự tham gia của cả cộng đồng; trong đó, tập trung đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới. Trong thời gian tới, cần coi trọng mở rộng đối tượng tuyên truyền, từ nam giới đến nữ giới; tăng cường mở các lớp tập huấn về kỹ năng lồng ghép giới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và đại diện người sử dụng lao động; đưa vấn đề giới vào kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ; nâng cao chất lượng xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật theo hướng nâng tỷ lệ

6Created by Thanh An - 11 -Thanh An Page 115/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 11

Page 12: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

nữ tham gia trong các tổ chức, bộ máy của cơ quan, đơn vị nói chung, nâng tỷ lệ nam trong các hoạt động về giới nói riêng. Các bộ, ban, ngành liên quan, cần có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới và các chính sách liên quan đến lao động nữ; đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế để tăng cường việc học tập, trao đổi kinh nghiệm với bạn bè quốc tế về các hoạt động bình đẳng giới... Thực hiện có hiệu quả những nội dung này, sẽ làm cho vấn đề bình đẳng giới và bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam ngày càng tốt hơn.

Ths. Phạm Hạnh Sâm (tapchiqptd.vn – Ngày 07/3/2012)

THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TẠI VIỆT NAM: NHỮNG BƯỚC TIẾN NGOẠN MỤC

“Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP công bố mới đây cho thấy, Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ, mức trung bình trên thế giới về chỉ số phát triển con người (HDI-Human Development Index) nhưng lại xếp thứ 48 trên thế giới về chỉ số bất bình đẳng giới (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao). Theo đó, chúng ta đã có những bước tiến vượt bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới.

HDI và GIIChỉ số HDI được tính toán dựa vào các chỉ báo về triển vọng sống khi sinh

(LEB-Life Expectancy at Birth) hay còn được gọi nôm là tuổi thọ bình quân, chỉ báo về trình độ học vấn và thu nhập bình quân đầu người. Chỉ số bất bình đẳng giới (GII-Gender Inequality Index) để đo lường sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Giá trị đo lường được tính trong khoảng từ 0 - 1. GII càng tiệm cận điểm 0 thì mức độ bất bình đẳng càng thấp, tức càng bình đẳng và càng tiệm cận điểm 1 thì mức độ bất bình đẳng càng cao. GII của quốc gia nào gần 0 nhất sẽ xếp thứ nhất, tức mức độ mất bình đẳng thấp nhất hay mức độ bình đẳng cao nhất.

GII được tính toán dựa trên các chỉ báo: Tỷ suất chết mẹ, tỷ suất sinh của vị thành niên, tỷ lệ phần trăm phụ nữ trong cơ quan lập pháp, trình độ học vấn tính từ cấp 2 trở lên chia theo giới, tỷ lệ tham gia lao động chia theo giới, các chỉ báo về sức khỏe sinh sản gồm tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai, tỷ lệ ít nhất khám thai một lần trong thời kỳ mang thai, tỷ lệ trường hợp sinh có nhân viên y tế chăm sóc và chỉ số về tổng tỷ suất sinh.

Những biến chuyển ngoạn mục của Việt Nam

6Created by Thanh An - 12 -Thanh An Page 125/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201212

Page 13: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

“Báo cáo Phát triển con người, 2011” của UNDP cũng cho thấy, xu hướng GII của Việt Nam là liên tục giảm từ 1995 - 2011. Điều đó cho thấy mức độ bình đẳng giới của Việt Nam tăng lên rõ rệt trong thời gian qua.

Xu hướng GII Việt Nam 1995 - 2011.Nguồn: UNDP, Báo cáo Phát triển con người 2011.

So với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp thứ 7/11 nếu xét về chỉ số HDI, nhưng nếu xét về chỉ số GII, Việt Nam lại đứng thứ 3, sau Singapore và Malaysia. Như vậy, có thể nói, mặc dù chỉ số phát triển con người của Việt Nam còn hạn chế so với các nước trong khu vực nhưng mức độ bình đẳng giới của Việt Nam luôn thuộc những nước hàng đầu khu vực.

Bảng so sánh thứ hạng HDI và GII của Việt Nam và các nước ASEAN, 2011.

Nguồn: UNDP, Báo cáo phát triển con người, 2011.

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng và phát huy bình đẳng giới

Ngay từ ngày đầu mới lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho

6Created by Thanh An - 13 -Thanh An Page 135/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 13

Page 14: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hiến pháp 1946, đã ghi nhận “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1). “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành suối nguồn nghĩa tình sâu nặng, trân quý các thế hệ phụ nữ Việt Nam. Tại lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Người đã ôn lại truyền thống yêu nước đầy tự hào của người phụ nữ Việt Nam với hình ảnh Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân thủa trước “cho đến nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”. Tại Đại hội liên hoan phụ nữ “Năm Tốt” vào ngày 30/4/1964, Người đã khẳng định “Ngay từ lúc đầu, Đảng và Nhà nước ta đã thi hành chính sách đối với phụ nữ cũng được bình quyền, bình đẳng với đàn ông”. Trong cuộc Tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày 6/1/1946, Người vui sướng nói "Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất”. Trong bản di chúc viết tháng 5 năm 1968, Người đã căn dặn: "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.

Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực hiện những lời di huấn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực hiện bình đẳng giới, nhiều văn bản chính sách đã được ban hành như: Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày 10/01/1967 “Về một số vấn đề về tổ chức công tác phụ vận”, trong đó nhấn mạnh một số nhiệm vụ như “phân bố, sử dụng hợp lý sức lao động phụ nữ trong nông nghiệp, hướng dẫn thực hiện quyết định của Chính phủ về sử dụng lao động phụ nữ trong công nghiệp”; “Tăng cường việc tổ chức đời sống, bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em”. Nghị quyết số 153-NQ/TW ngày 10/01/1967 về “Công tác cán bộ nữ”; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 07/6/1984 “Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ"; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới"; Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 29/9/1993 về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về "Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước"… Một trong những văn bản quan trọng không thể không nhắc đến, đó là Hiến pháp 1992 đã quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; Nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân

6Created by Thanh An - 14 -Thanh An Page 145/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201214

Page 15: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

phẩm phụ nữ” (Điều 63). Trong thời gian qua, hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số... và không thể không nhắc đến là Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới.

Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị“Báo cáo phát triển con người năm 2011” cho biết tỷ lệ phụ nữ trong cơ

quan lập pháp của Việt Nam là 25,8%. Theo Tổ chức Liên minh Nghị viện thế giới (Inter-Parliamentary Union) thì Việt Nam đứng thứ 40 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp (số liệu tính đến ngày 30/11/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp các nước). So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp thứ 3, sau Timor Leste và Lào.

Trang tin Nhóm Nữ nghị sỹ Việt Nam (thuộc Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội) và website Quốc hội cho biết, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta liên tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao. Tỷ lệ này đã tăng từ 3% (Quốc hội khóa I từ 1946 - 1960) đến trên 24% Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016).  

Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội từ Khóa I - XIII.Nguồn: Quốc hội Việt Nam, www.na.gov.vn.

Không chỉ chiếm tỷ lệ cao trong cơ quan lập pháp, phụ nữ Việt Nam còn tham gia, nắm giữ những vị trí quan trọng và đóng góp tích cực trong các cơ quan hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp… Phụ nữ Việt Nam cũng có một tổ chức chính trị riêng của mình đó là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được ra đời (ngày 20/10/1930) từ trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Tổ chức này với hàng chục triệu hội viên hoạt động rộng khắp trên cả nước từ Trung ương đến địa phương và tận các thôn, buôn, sóc, bản, làng.

Bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội

6Created by Thanh An - 15 -Thanh An Page 155/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 15

Page 16: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực hiện những lời di huấn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực hiện bình đẳng giới, nhiều văn bản chính sách đã được ban hành…

Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ học vấn của phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình giáo dục cấp 2 trở lên là 24,7% so với 28% là của nam giới. Như vậy, mức độ chênh lệch giữa nam và nữ về giáo dục ở nước ta không nhiều. Theo Kết quả chủ yếu của Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục Thống kê (TCTK) thì tỷ lệ biết chữ của nam giới là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ 15 tuổi trở lên). Trang Wikipedia dẫn nguồn từ website Quốc hội thì tại Việt Nam, cứ 100 cử nhân có 36 nữ, 100 thạc sĩ có 34 nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Để tôn vinh các nhà khoa học nữ, 25 năm qua, giải thưởng Kovalevskaia đã trở thành một giải uy tín lớn trong giới khoa học Việt Nam được trao cho hàng chục cá nhân, tập thể. Từ năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam” nhằm khuyến khích và tôn vinh phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực.

Khi phụ nữ có học vấn, học vấn cao sẽ mở ra các cơ hội cho họ về việc làm, thu nhập, cơ hội tiếp cận về y tế, kế hoạch hóa gia đình hay tham gia lĩnh vực chính trị. Chính vì thế, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Mở cánh cửa giáo dục là mở ra các cơ hội mới.

Theo UNDP, tỷ lệ nữ tham gia lao động của Việt Nam là 68% và nam giới là 76%. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ tham gia lao động là 46,6% trong tổng số lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia lao động gần bằng nam giới. Đáng chú ý là báo cáo “Bình đẳng giới và Phát triển” (Gender equality and Development) của World bank được công bố mới đây thì tỷ lệ phụ nữ (30%) tham gia lao động trong lĩnh vực dịch vụ lại cao hơn nam giới (26%). Có trên 20% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ, chủ yếu thuộc về khu vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản. Nhiều tấm gương phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm giàu cho bản thân mà còn đóng góp được nhiều cho xã hội. Theo UNDP thì tại Việt Nam nếu nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm được 0,69$ (số liệu năm 2007). Điều này khác xa so với nhiều nước trên thế giới. Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu nhập và mang đến sự tự chủ về kinh tế, sự chia sẻ các quyết định trong gia đình và các cơ hội bình đẳng hơn đối với phụ nữ.

Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của TCTK cho thấy tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai của phụ nữ 15 - 49 tuổi năm 2011 là 78,2%, trong đó các biện pháp tránh thai hiện đại là 68,6%; tổng tỷ suất sinh là 1,99 con. Tỷ lệ các bà mẹ khám thai từ 3 lần trở lên trong thời kỳ mang thai là 76%. Nếu theo tiêu chí của UNDP (ít nhất 1 lần khám thai) thì tỷ lệ này của Việt Nam là 93,8%. Thành công của chương trình DS-KHHGĐ trong thời gian qua đã mang đến nhiều cơ hội lớn cho phụ nữ trong việc tiếp cận và thụ hưởng các quyền, dịch vụ về y tế -

6Created by Thanh An - 16 -Thanh An Page 165/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201216

Page 17: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

dân số - KHHGĐ. Cũng theo TCTK, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi năm 2011 của Việt Nam là 15%o.

Theo WHO và UNDP thì tỷ suất chết bà mẹ của Việt Nam là 56 (trên 100,000 trẻ sinh ra sống). Số trường hợp sinh có sự giúp đỡ của cán bộ y tế là 88%. Mức chết giảm cùng với việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y tế và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước tốt hơn đã làm tuổi thọ của người dân ngày một tăng, trong đó, tuổi thọ của phụ nữ luôn cao hơn nam giới. Theo 2011 World population data sheet thì tuổi thọ của phụ nữ Việt Nam hiện nay là 76 và nam giới là 70 tuổi.

Với truyền thống đạo lý dân tộc Việt, với những phẩm chất ưu việt của phụ nữ Việt Nam, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cộng đồng và thiết thân hơn cả là sự vươn lên mạnh mẽ của mỗi cá nhân, phụ nữ Việt Nam đã, đang và ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên mọi mặt của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ về bình đẳng giới và nâng cao vị thế người phụ nữ.

Ths. Lương Quang Đảng (giadinh.net.vn - Ngày 01/02/2012)

BÌNH ĐẲNG GIỚI – THÀNH CÔNG VÀ THÁCH THỨC

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Non sông gấm vóc Việt Nam ta do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà tốt đẹp, rực rỡ, trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, từ tổ tiên đến con cháu ngày nay, phụ nữ Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng, có những cống hiến to lớn, góp phần xây dựng nên truyền thống vẻ vang của dân tộc, đồng thời tạo nên truyền thống, phẩm giá cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam được đúc kết bằng tám chữ vàng anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 10/1930 đã xác định: Nam nữ bình quyền là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bình đẳng giới là quyền hiến định được thể hiện rõ ràng, thống nhất qua các bản Hiến pháp và qua việc thực hiện các cam kết quốc tế như Công ước CEDAW, Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.

Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Các đạo luật và pháp lệnh được Quốc hội (QH) và Ủy ban thường vụ QH ban hành đã thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, bảo đảm các quyền con người của phụ nữ theo hướng quyền phụ nữ

6Created by Thanh An - 17 -Thanh An Page 175/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 17

Page 18: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

được đặt trong mối quan hệ với các quyền công dân, quyền con người nhưng có chú ý tới các quyền mang tính đặc thù bởi chức năng sinh sản của phụ nữ, phụ nữ là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Những quy định của pháp luật nói chung, đặc biệt là những quy định riêng đối với phụ nữ có tính khả thi cao, phát huy tác dụng trong thực tế cuộc sống và cải thiện điều kiện về mọi mặt cho phụ nữ vươn lên. Các văn bản pháp luật do QH ban hành vừa tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phấn đấu vươn lên, vừa đặt ra yêu cầu đối với phụ nữ phải không ngừng năng động sáng tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng để tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động và có đóng góp ngày càng tăng cho sự phát triển chung của đất nước và mỗi gia đình.

Qua 30 năm thực hiện Công ước CEDAW và 12 năm thực hiện các Mục Tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) cho thấy, Việt Nam hiện là quốc gia thuộc nhóm nước đang phát triển đạt kết quả cao về chỉ số phát triển giới so với nhiều nước có cùng trình độ phát triển trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Các báo cáo quốc gia của Việt Nam về tình hình thực hiện CEDAW tại Việt Nam từ lần thứ nhất (năm 1984), lần thứ hai, ba, bốn (năm 2001) đến lần thứ năm và sáu (năm 2007) cho thấy, QH nước ta không chỉ sửa đổi, bổ sung đưa vấn đề giới vào nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh nhằm bảo đảm quyền bình đẳng và tạo cơ hội cho phụ nữ trên mọi lĩnh vực giáo dục, lao động - việc làm, kinh tế, dân sự, chăm sóc sức khỏe, hôn nhân - gia đình, tham chính... mà còn xây dựng những đạo luật mới trực tiếp điều chỉnh về vấn đề này. Luật Bình đẳng giới được QH Khóa XI thông qua năm 2006 đã thể hiện một thông điệp rõ ràng, minh bạch về việc nội luật hóa các nguyên tắc, quy định của Công ước CEDAW vào hệ thống pháp luật Việt Nam như đã cam kết với cộng đồng quốc tế. Mục tiêu của Luật Bình đẳng giới là tạo bước chuyển biến cơ bản đối với việc xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử về giới, góp phần tạo cơ hội bình đẳng cho cả nam giới và phụ nữ trong mọi phương diện để tiến tới bình đẳng giới thực chất. Để thúc đẩy việc thực hiện bình đẳng giới một cách có hiệu quả, Việt Nam đã có một cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, một Ủy ban của QH phụ trách lĩnh vực bình đẳng giới là Ủy ban Về các vấn đề xã hội, một tổ chức của phụ nữ Việt Nam là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đại diện cho quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Hai nhiệm kỳ QH liên tiếp (Khóa XII và Khóa XIII), QH đã thành lập Nhóm Nữ ĐBQH để thúc đẩy bình đẳng giới trong các hoạt động QH bên cạnh trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới của các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao.

Mặc dù tỷ lệ tham gia QH của phụ nữ còn khá khiêm tốn, có sự tăng giảm trong 13 nhiệm kỳ, nhưng từ chỗ chỉ có 10 nữ đại biểu trong QH Khóa I thì đến QH Khóa XIII đã có 122 nữ đại biểu, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội (ĐBQH) trong 4 khóa gần đây luôn đạt trên 24%, bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Nữ ĐBQH

6Created by Thanh An - 18 -Thanh An Page 185/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201218

Page 19: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

đã thể hiện rất rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong từng nhiệm kỳ. Số lượng, chất lượng các nữ ĐBQH ngày càng được nâng lên. Tỷ lệ ĐBQH nữ có trình độ đại học, trên đại học ngày càng tăng. Kỹ năng lập pháp, kỹ năng giám sát, tiếp xúc cử tri được nâng cao. Nhiều nữ ĐBQH là lãnh đạo Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH, là ĐBQH chuyên trách. Nhiều nữ ĐBQH là chính trị gia, các nhà khoa học, là người giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy Nhà nước, là nhà quản lý, những doanh nhân giỏi, những người tiêu biểu ở các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với sứ mệnh và trọng trách cử tri giao phó, những nữ ĐBQH đang đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực hiện tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ sẽ được hoàn thành vào năm 2015. Nhiều khuyến nghị của các tổ chức quốc tế và chuyên gia cũng cho thấy vấn đề giới cần được thực hiện xuyên suốt trong tất cả 8 Mục tiêu Thiên niên kỷ và trong việc thiết kế các chương trình, chính sách, pháp luật. Phát triển kinh tế là không đủ để xóa bỏ mọi tình trạng bất bình đẳng giới mà phải có những chính sách bổ sung chú trọng vào giải quyết những vấn đề bất bình đẳng giới tồn tại dai dẳng. Việc thực hiện các chính sách, pháp luật có tính đến yếu tố giới sẽ giúp nâng cao chất lượng và đẩy nhanh lộ trình đạt được các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình, tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị (Khóa X) đã đề ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.

Ngày 24/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với 7 mục tiêu và 22 chỉ tiêu cụ thể về bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược hướng đến là đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Chiến lược quy định một số chỉ tiêu như: Tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy

6Created by Thanh An - 19 -Thanh An Page 195/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 19

Page 20: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 đạt từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 đạt từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 đạt trên 35%; đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ; tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 25% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020; đến năm 2015 có 80% và đến năm 2020 có 100% dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới...

Tuy nhiên, giữa mong muốn, mục tiêu đề ra với thực tế thực hiện bình đẳng giới còn nhiều khoảng cách, con đường tiến tới bình đẳng giới thực chất vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định còn thấp. Kết quả bầu cử ĐBQH Khóa XIII, tỷ lệ nữ đại biểu chỉ đạt 24,4%, giảm 1,36% so với nhiệm kỳ QH Khóa XII (25,76%), đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á (sau Đông Timor: 29,2% và Lào: 25%), thứ 5 ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương (sau Nêpal: 33,2%; Đông Timor: 29,2%; Afghanistan: 27,7%; Lào: 25%), thứ 43 trong tổng số 143 quốc gia (theo thống kê của IPU ngày 31/12/2011).

Các kết quả nghiên cứu và kết quả thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới của QH, Chính phủ cũng cho thấy, trong xã hội vẫn tồn tại vấn đề định kiến giới thể hiện trong nhận thức, hành động, trong các lĩnh vực do sự phân biệt mang tính chất truyền thống về vai trò của phụ nữ và nam giới.

Trong thực tế, nhận thức về bình đẳng giới có chuyển biến nhưng còn chậm, chưa sâu sắc và toàn diện, phần lớn mới chỉ tập trung vào một số đối tượng. Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục về giới, bình đẳng giới chưa thật phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng địa bàn. Việc nâng cao năng lực tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, vận động, giáo dục về giới, pháp luật về bình đẳng giới còn hạn chế. Công tác thống kê, phân tách dữ liệu giới chưa được thực hiện tốt và kịp thời cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu. Số liệu thống kê không được phân tách theo giới một cách đầy đủ trong nhiều lĩnh vực nên chưa thể phân tích giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quy trình xây dựng, ban hành pháp luật, trong việc lập kế hoạch và hoạch định chính sách phát triển cũng như đánh giá đầy đủ hiệu quả của việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới.

Lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện nhưng chất lượng còn hạn chế. Việc thực hiện còn lúng túng và mang tính hình thức do kiến thức về giới, lồng ghép giới của các thành viên tổ biên tập, ban soạn thảo còn hạn chế. Mặt khác, việc xác định vấn đề giới trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh là vấn đề mới, khó và trừu tượng. Trong quá trình soạn thảo, xây dựng các

6Created by Thanh An - 20 -Thanh An Page 205/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201220

Page 21: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

văn bản pháp luật, vẫn còn nhận thức bình đẳng giới là những vấn đề liên quan đến chính sách đối với phụ nữ, nên nếu dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có đề cập đến chính sách đối với phụ nữ thì được hiểu là đã thực hiện lồng ghép bình đẳng giới mà chưa quan tâm đầy đủ đến việc thực hiện quy trình, thủ tục, nội dung lồng ghép giới và sự phối hợp trong việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định.

Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo và tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn triển khai thực hiện còn hạn chế.

Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới của các địa phương chủ yếu trông chờ vào ngân sách Trung ương. Hàng năm, UBND các tỉnh, thành phố đều bố trí nguồn kinh phí sự nghiệp thực hiện công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ nhưng chỉ ở mức độ khiêm tốn.

Để giải quyết được những khó khăn, thách thức trên đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ. Trước hết, đó là sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu giúp cho việc thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy Đảng, người đứng đầu cơ quan chính quyền có nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới, thì nơi đó triển khai và thực hiện tốt các mục tiêu bình đẳng giới. Vì vậy, cần tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo chính quyền về bình đẳng giới.

Hai là, việc triển khai từng mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 thông qua Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015 cần gắn với việc thực hiện các giải pháp tương ứng của mỗi mục tiêu trong Chiến lược. Các chỉ tiêu, mục tiêu, giải pháp của Chiến lược phải được lồng ghép vào các hoạt động chuyên môn của bộ, ngành và kế hoạch phát triển KT - XH của địa phương.

Ba là, có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trong việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

Bốn là, các bộ, ngành được giao chủ trì và phối hợp thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới phải nỗ lực, tích cực hơn để hoàn thành các nhiệm vụ được giao theo Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.

Năm là, tăng cường vai trò và trách nhiệm chủ trì giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về bình đẳng giới của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, làm cơ sở cho việc phối hợp trách nhiệm với các bộ, ngành liên quan tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.

6Created by Thanh An - 21 -Thanh An Page 215/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 21

Page 22: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Sáu là, cần xác định rõ nguyên tắc lồng ghép bình đẳng giới là xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng và thực thi không chỉ là văn bản quy phạm pháp luật mà bao gồm cả hoạt động của cơ quan, tổ chức; xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của từng chủ thể trong thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới và mối quan hệ giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình. Nguyễn Hồng Ngọc (www.daibieunhandan.vn – Ngày 09/3/2012)

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ PHÁT TRIỂN MỚI

“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”... ''Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng"... "Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại". Đó là những lời đánh giá ngắn gọn, đầy đủ nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sự đóng góp của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi trọng công tác vận động phụ nữ, xác định phụ nữ có vai trò to lớn trong việc tập hợp, xây dựng lực lượng của cách mạng. Đây là tầm nhìn chiến lược của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, tạo điều kiện cho mọi người, trong đó có phụ nữ có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Nói đến phụ nữ là nói đến phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người, nếu không giải phóng phụ nữ thì việc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa… Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc chẳng có nghĩa lý gì. Đây không chỉ là hoài bão, lý tưởng của Đảng và Bác Hồ mà nó là con đường hết sức đúng đắn để đưa dân tộc ta đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong đó, giải phóng phụ nữ là một mục tiêu cụ thể cần thực hiện “chúng ta làm cách mạng để giành lấy tự do, độc lập, dân chủ, bình đẳng trai gái đều ngang quyền nhau”. 

Việt Nam là quốc gia ở châu Á, chịu ảnh hưởng và tác động nhiều của tư tưởng Nho giáo, ý thức hệ phong kiến, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã để lại

6Created by Thanh An - 22 -Thanh An Page 225/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201222

Page 23: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

dấu ấn đậm nét và hậu quả nặng nề trong ý thức và đời sống xã hội. Đây là một trong những rào cản lớn trong tiến trình giải phóng và phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Chúng ta làm cách mạng là để giành lấy tự do, độc lập, dân chủ, bình đẳng trai gái đều ngang quyền nhau. Đàn ông phải kính trọng phụ nữ. Đây là nội dung mang tính nhân văn, tính cách mạng trong đường lối cách mạng của Đảng ta. Thấm nhuần quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta thực hiện nhất quán đường lối, quan điểm về giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền, đặt sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. 

Trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ không chỉ dừng lại ở quan điểm, tư tưởng mà quan trọng hơn là Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách với những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bộ luật Lao động của nước ta khẳng định: Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới; tạo mọi điều kiện để lao động nữ phát huy khả năng của mình, bảo hộ các chế độ làm việc, sử dụng lao động nữ và chế độ liên quan đến thai sản trong quá trình lao động… Đây là văn bản pháp lý bảo đảm quyền của lao động nữ, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, tạo điều kiện để phụ nữ phát huy vai trò của mình trong đời sống xã hội. Địa vị chính trị, kinh tế, xã hội của phụ nữ được bảo đảm, có ý nghĩa quyết định cho quyền bình đẳng và giải phóng phụ nữ trong thực tế. Với những quan điểm và chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước cùng với sự phấn đấu vươn lên của phụ nữ cả nước nói chung, vị trí, vai trò của phụ nữ đã ngày càng được khẳng định trong thực tế xã hội. 

Trong nhiều năm qua, Việt Nam luôn có nữ Phó Chủ tịch nước, nữ bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, chủ tịch hội, phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đô thị loại 1... Trong số 500 đại biểu Quốc hội khóa XIII hiện nay có 122 đại biểu là nữ, tỷ lệ nữ trong Quốc hội nước ta cao hơn so với nhiều nghị viện khác trên thế giới. Ngày 3/3 vừa qua, tại Lễ trao giải thưởng Kovalevskaia được tổ chức tại Hà Nội, Đảng và Nhà nước đã trao tặng giải thưởng vinh dự trên cho hai nhà khoa học nữ. Một là, PGS.TS Vũ Thị Thu Hà, Phó viện trưởng Viện Hóa học công nghiệp Việt Nam, người đã có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và phát triển ngành Công nghệ xúc tác, lọc, hóa dầu. Chị là cán bộ khoa học đầu tiên và hiện nay là người duy nhất của Viện Hóa học công nghiệp Việt Nam đã đi sâu vào nghiên cứu các công nghệ xúc tác trong sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường. Hai là, PGS.TS Lê Thị Thanh Nhàn, Phó Hiệu

6Created by Thanh An - 23 -Thanh An Page 235/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 23

Page 24: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

trưởng Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, chị đã có 16 công trình được công bố trên những tạp chí toán quốc tế uy tín được ISI xếp hạng, trong đó có 13 công trình trên Tạp chí SCI và 3 công trình trên Tạp chí SCIE. Đặc biệt, chị có 5 công trình trên Journal of Algebra - Tạp chí quốc tế uy tín trong chuyên ngành Đại số, trong đó có những công trình được nhiều nhà toán học trên thế giới quan tâm trích dẫn. Với những thành tích xuất sắc đó, chị trở thành phó giáo sư trẻ nhất được phong chức danh năm 2005. 

Thêm vào đó, trong các lĩnh vực của đời sống xã hội chị em phụ nữ đã tích cực tham gia và có đóng góp quan trọng vào các phong trào: “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xóa đói, giảm nghèo”, phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước; Phong trào nuôi con khỏe, dạy con ngoan, vì an ninh Tổ quốc… Trong các phong trào thi đua yêu nước, xuất hiện nhiều tài năng, điển hình tiên tiến trong thời kỳ phát triển mới: Có 19 nữ anh hùng và 225 nữ chiến sỹ thi đua toàn quốc trong thời đổi mới. Các chị là những tấm gương tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới. Thực tế cho thấy, việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước về công tác vận động, giải phóng phụ nữ đã tạo điều kiện để phụ nữ phát huy khả năng vươn lên có những đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội, góp phần vào thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng còn những hạn chế như việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, tình trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam khá phổ biến. Có 7,4% số người được hỏi cho biết từng chứng kiến bạo lực thể chất tại cộng đồng, 25% số gia đình từng xảy ra tình trạng bạo lực tình dục…, trong nhiều gia đình vẫn còn tư tưởng coi nặng con trai, nhẹ con gái. Những năm gần đây xuất hiện tình trạng trẻ sơ sinh nam nhiều hơn nữ làm mất cân bằng giới tính đến mức báo động. Ở nhiều địa phương cũng như một số ngành chưa tạo điều kiện để phụ nữ vươn lên đóng góp cho sự phát triển. Đây là những tồn tại cần được khắc phục. 

Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có những thuận lợi, cơ hội lớn nhưng thách thức, khó khăn cũng hết sức gay gắt. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi chúng ta cần phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy và phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng do Đảng đề ra. Tiếp tục thực hiện mục tiêu giải phóng phụ nữ, vận động phụ nữ tham gia thực hiện đường lối đổi mới, nghị quyết Đại hội XI của Đảng ta khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ

6Created by Thanh An - 24 -Thanh An Page 245/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201224

Page 25: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện vai trò của mình là công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, bà mẹ, trẻ em; bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ… 

Để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của đất nước, trong công cuộc giải phóng phụ nữ hiện nay cần tập trung giải quyết tốt những nội dung sau: 

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về công tác phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới. Các cấp, các ngành cần khẩn trương thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ và công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; lồng ghép vấn đề giới trong quá trình xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch chung. Coi trọng các chính sách xã hội, các chính sách về giới để giảm nhẹ lao động nặng nhọc cho phụ nữ. Tạo điều kiện nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ… để chị em phát huy vai trò của mình, tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp. 

Thứ hai, bản thân phụ nữ cần tự mình nỗ lực phấn đấu, vươn lên nhằm đáp ứng các yêu cầu của xã hội và nhiệm vụ của cách mạng. Bên cạnh những thách thức của thời đại, phụ nữ Việt Nam còn cần vượt qua thách thức “trọng nam khinh nữ” từ ngàn xưa để lại, khắc phục tư tưởng tự ti, an phận, cam chịu và thụ động. Đây là hạn chế lớn đòi hỏi phụ nữ phải vượt qua. Mặt khác, phụ nữ cũng cần khắc phục tư tưởng ỷ lại và trông chờ vào Đảng và Nhà nước và xã hội đem lại quyền lợi cho chính mình. Phụ nữ cần tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, thông qua các tổ chức Hội phụ nữ các cấp, khắc phục khó khăn, phát huy nội lực để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, chị em cũng cần nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, mạnh dạn đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình. 

Thứ ba, phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và tổ chức Hội Phụ nữ các cấp nhất là ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ của mình, đấu tranh bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình. Hội Phụ nữ các cấp phải trở thành trường học rộng lớn trong sự nghiệp bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện, tổ chức phụ nữ để giúp họ thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng về giới là nguyện vọng thiết tha của phụ nữ nhưng mỗi người phụ nữ không thể đứng ra tự giải quyết cho mình mà cần có một tổ chức đại diện. Vì vậy, Hội Phụ nữ các cấp cần chủ động phối hợp với các

6Created by Thanh An - 25 -Thanh An Page 255/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 25

Page 26: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

ngành tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành những chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho công tác phụ vận được thực hiện tốt. 

Vượt lên mọi khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, phụ nữ Việt Nam đã, đang và sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ phát triển mới.  Ngọc Anh (www.tapchicongsan.org.vn – Ngày 7/3/2012)

THÚC ĐẨY THỰC HIỆN QUYỀN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TẠI VIỆT NAM

Bạo lực gia đình là một vấn đề nhức nhối của xã hội, đi ngược lại với quyền con người, với truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc và diễn ra trên khắp mọi nơi trên thế giới. Phụ nữ là nạn nhân đầu tiên và trước nhất của vấn nạn trên. Bạo lực gia đình cũng trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến trẻ em, gây ra những hậu quả về thể chất, tinh thần của phụ nữ và trẻ em, ảnh hưởng tới năng suất lao động của các thành viên trong gia đình và sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Nhằm thúc đẩy việc thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em tại Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc, Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn đã tổ chức “Hội thảo Tham vấn của Ủy ban thúc đẩy thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN – (ACWC)” tại Hải Phòng trong các ngày 20 - 21/12/2011. Thứ trưởng thường trực Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Thanh Hòa đã tham dự Hội thảo.

Tại Hội thảo, các đại biểu đến từ Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR), Tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc (UNW), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Ủy ban thúc đẩy thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em Asean (ACWC), Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Bảo vệ quyền trẻ em... đã cập nhật các thông tin về sự tiến bộ về bình đẳng giới, quyền phụ nữ, trẻ em và những thách thức ở cấp khu vực và toàn cầu; Các cơ chế nhân quyền quốc tế và trong ASEAN liên quan tới phụ nữ và trẻ em; Sự tiến bộ và những thách thức về bình đẳng giới và quyền trẻ em tại Việt Nam; Vai trò của gia đình trong việc thực hiện các quyền của phụ nữ và trẻ em; Kinh nghiệm trong việc thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em; Thông tin về kết quả một số cuộc điều tra về lao động trẻ em; Các mạng lưới và hoạt động vì quyền phụ nữ và trẻ em Asean.

6Created by Thanh An - 26 -Thanh An Page 265/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Vấn nạn xâm hại phụ nữ và trẻ em

26

Page 27: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Phụ nữ chiếm 50% và trẻ em chiếm 30% dân số ASEAN. Phụ nữ và trẻ em có những mối quan tâm và dễ bị tổn thương riêng. An ninh và phẩm giá của phụ nữ và trẻ em cần được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm một phần bằng việc tạo ra một môi trường hỗ trợ cho việc đạt được các quyền cơ bản, trong đó có quyền con người. Phụ nữ và trẻ em được công nhận là nhóm dễ bị tổn thương và cần có sự bảo vệ đặc biệt. ASEAN đã bắt đầu tập trung vào các mối quan tâm về phụ nữ và trẻ em từ những năm 80 của thế kỷ trước. Các vấn đề về quyền con người trong suốt 20 năm qua ngày càng trở nên quan trọng trong ASEAN. Thuật ngữ “Quyền con người” đã bước vào chương trình nghị sự của các cuộc họp Bộ trưởng ASEAN từ năm 1993. ASEAN đã có những hành động cụ thể về quyền con người như Kế hoạch hành động Hà Nội (1997 - 2004) đề cập tới sự trao đổi thông tin và việc tuân thủ các nghĩa vụ quyền con người quốc tế. Chương trình hành động Viêng Chăn (2004 - 2010) lại nhấn mạnh sự giao lưu giữa những cơ chế quyền con người của các nước ASEAN, giáo dục quyền con người. ASEAN đã đưa ra các tuyên bố về sự tiến bộ của phụ nữ Asean (1988); Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ ở khu vực Asean (2004); Tuyên bố chống lại việc buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Asean (2004); Khuôn khổ hợp tác Asean – Unifem (2006); Tuyên bố Asean về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (2007).

Tháng 4/2009, Ủy ban Asean về phụ nữ (ACW) và Hội nghị quan chức cấp cao Asean về Phúc lợi xã hội và phát triển xã hội (SOMSWD) đã thành lập nhóm công tác gồm 10 nước Asean để xây dựng quy chế hoạt động của Ủy ban thúc đẩy thực hiện quyền phụ nữ và trẻ em Asean (ACWC). ACWC ra đời nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản của phụ nữ và trẻ em Asean trên cơ sở tuân thủ Hiến chương Asean, tuân thủ các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế về nhân quyền, đảm bảo tính đặc thù của mỗi quốc gia và khu vực, không sử dụng các tiêu chuẩn khép kín. ACWC sẽ thúc đẩy hợp tác khu vực để hướng tới sự phát triển, tăng cường quyền năng và sự tham gia của phụ nữ và trẻ em dựa trên các nguyên tắc, đồng thời hình thành các chiến lược chung thúc đẩy và bảo vệ quyền trẻ em trong quá trình xây dựng cộng đồng Asean.

Trong năm năm đầu tiên của giai đoạn 2012 - 2016, ACWC đã đưa ra các kế hoạch hành động cụ thể, trong đó có các ưu tiên chính của kế hoạch hành động là xóa bỏ bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em; Quyền của trẻ em trong việc tham gia vào các vấn đề có tác động tới trẻ em; Hành động quốc tế chống lại nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh đó, ACWC cũng tích cực đưa ra sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, ra quyết định, quản lý và dân chủ. Thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em khuyết tật; Phụ nữ và trẻ em sống với HIV/AIDS; Tác động xã hội của biến đổi khí hậu tới phụ nữ và trẻ em. Nâng cao các quyền kinh tế của phụ nữ liên quan tới quyền của phụ nữ về đất đai và tài sản…

6Created by Thanh An - 27 -Thanh An Page 275/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 27

Page 28: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Điều tra quốc gia về gia đình tại Việt Nam (năm 2006) cho thấy 21,2% cặp vợ chồng đã từng xảy ra ít nhất một loại bạo lực gia đình. 32% phụ nữ từng kết hôn cho biết họ đã phải chịu bạo lực thể xác trong đời, 64% phụ nữ trong độ tuổi từ 15 - 19 coi việc bị chồng đối xử bằng bạo lực là bình thường. Việt Nam đã có những chính sách pháp luật cụ thể về bình đẳng giới, gia đình và phòng chống bạo lực gia đình như Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Luật Bình đẳng giới và hệ thống các thông tư, nghị định hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, thực hiện quyền về phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó nhận thức của nhiều người dân đối với việc thực hiện quyền của phụ nữ và trẻ em còn hạn chế, bản thân họ vẫn xem vấn đề bạo lực gia đình, vi phạm quyền con người là việc riêng của từng cá nhân, chuyện của từng gia đình và chưa dám công khai ra xã hội và cầu cứu sự giúp đỡ của các tổ chức bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em. Chính vì thế, tình trạng vi phạm quyền của phụ nữ và trẻ em vẫn còn tồn tại và có nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận.

Vấn đề thúc đẩy thực hiện quyền của phụ nữ và trẻ em không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia mà là vấn đề chung của cộng đồng ASEAN. Nâng cao năng lực của các tổ chức bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em cũng như các chương trình hành động của ACWC sẽ góp phần quan trọng vào việc hướng tới mục tiêu thực hiện đầy đủ các quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong thời gian tới. (www.molisa.gov.vn - Ngày 20/12/2011)

BẠO HÀNH GIA ĐÌNH - CHỦ YẾU LÀ DO ĐÀN ÔNGLâu nay, chúng ta vẫn nghe nói nhiều về bình đẳng giới tính, thế nhưng

hàng ngày ta vẫn bắt gặp đâu đó những cảnh bạo hành trong gia đình. Mặc dù các tổ chức đoàn thể và cộng đồng dân cư đã chung tay hành động vì nạn nhân bạo lực gia đình, song đây vẫn thực sự là nỗi lo của toàn xã hội!

Gia trưởng, phong kiến vẫn tồn tại...Một quan điểm bất di bất dịch và đã tồn tại từ bao giờ trong tâm thức đàn

ông, là họ chỉ có nhiệm vụ kiếm tiền nuôi gia đình, còn mọi công việc khác, như: Nội trợ, chăm sóc con cái… đều thuộc về người vợ. Như thế có thực sự công bằng với người phụ nữ không? Đó là câu hỏi đến nay vẫn chưa có lời giải thích xác đáng hoặc có nhưng chưa đủ, chưa đúng. Nếu nói công việc người chồng là nặng nhọc, vất vả thì công việc của người vợ cũng vất vả không kém, thậm chí là rất vất vả, song nhiều người không nhận ra hoặc cố tình không tán đồng điều đó.

Thời đại hiện nay, không chỉ người đàn ông là kiếm tiền mà không ít những người vợ cũng tham gia công tác xã hội; cũng bươn trải bán buôn, dãi nắng dầm sương để đáp ứng nhu cầu vật chất của gia đình mà họ còn có nghĩa vụ giáo dục con cái, bổn phận công dân đối với xã hội. Nói như một nhà xã hội học thì phụ

6Created by Thanh An - 28 -Thanh An Page 285/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201228

Page 29: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

nữ phải cáng đáng gấp đôi khối lượng công việc của một người đàn ông, họ vừa phải làm vợ, làm mẹ.

Các nhà nghiên cứu đã ghi nhận tình trạng bạo hành diễn ra nặng nề hơn ở nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, khi phụ nữ là nạn nhân của những đệ tử “thần cồn” sau những cuộc vui hội hè đình đám.

Theo thống kê thì bạo hành gia đình xảy ra phần nhiều từ người đàn ông, với tỷ lệ là 46,53% là do người đàn ông tự kiếm cớ để đánh chửi vợ; gây bạo lực theo bản năng là 8,37%; bạo hành khi say rượu là 22,96%; vấn đề tiền bạc là 16,94%; các nguyên nhân khác là 5,2%.

Mặt khác, bạo hành gia đình không chỉ là bạo hành thể xác khi những ông chồng vô nhân tính hành hạ vợ bằng dao, gậy gộc, đấm đá mà còn nhiều kiểu thậm tệ hơn đó là “chiến tranh lạnh”, chửi bới, lăng mạ, sỉ nhục, gây ức chế... đặc biệt, thời gian gần đây bạo hành tình dục đang diễn ra phổ biến. Tất cả hậu quả của những hành động thú tính đó đều do những người phụ nữ yếu ớt phải hứng chịu.

Sự nhẫn nhục, tự ti… không dám chia sẻMột điểm rất chung của người phụ nữ là sức chịu đựng, nhẫn nhục rất lớn,

miễn sao gia đình êm ấm. Điều đáng nói là người phụ nữ không nhận ra hành động bạo hành đó là cần và rất cần phải lên tiếng để xã hội lên án nhưng vì nhiều lý do: Hoặc sợ bị chê cười, sợ gia đình tan vỡ và phần nhiều là vì thương con. Qua trao đổi với cán bộ tư vấn của Trung tâm SUDECOM thì trước khi xảy ra bạo lực, số người hy vọng sẽ được ứng cứu là 42,05%; tìm cách thoát thân là 25,61%; 15,92% sẽ có hành động tự vệ; 16,43% chấp nhận sống chung với bạo lực gia đình. Nhưng khi bạo lực xảy ra, những người phụ nữ muốn kêu cứu là 50%; muốn bỏ chạy là 19,08%; có hành động tự vệ chỉ 6,94%, đáng ngạc nhiên là những người cam chịu bạo lực lại ở mức khá cao 23,98%. Chính họ đâu biết rằng hậu quả nặng nề không chỉ là bản thân mình gánh chịu mà còn cả những đứa trẻ vô tội. Hành động bạo lực trong gia đình dù là của cha hay mẹ chúng đều gây ra những tổn thương về tinh thần khiến con trẻ lo sợ, hoang mang và sống khép kín trước người khác.

Thời nay, người phụ nữ không còn phải bó mình trước những lễ giáo phong kiến, những ức chế về sự tuân phục trước đây đã được cởi bỏ, hơn nữa, bạo hành trong gia đình giờ không còn là chuyện riêng của một gia đình mà là chuyện của cả cộng đồng, của xã hội. Một xã hội văn minh không cho phép một người hành hạ một người khác dù chỉ là một lần, một ngày chứ nói gì đến… một đời. Thời gian qua, trên địa bàn phường Yên Thịnh và xã Tân Thịnh (thành phố Yên Bái) xảy ra nhiều vụ bạo hành gây bất bình dư luận xã hội như chuyện con rể dùng búa chém mẹ vợ, chồng hành hạ vợ khi đang mang thai... Vậy, điều mà chúng ta cần làm là gì?

6Created by Thanh An - 29 -Thanh An Page 295/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 29

Page 30: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Trước hết phải nâng cao trách nhiệm của mỗi người, bởi từ trước tới nay, mọi người vẫn có quan niệm “Đèn nhà ai nhà ấy rạng”, chuyện chồng đánh vợ chỉ là chuyện bình thường trong lúc nóng giận, hay đơn giản là họ đang “dạy vợ”,… Các cơ quan chức năng ở địa phương, các tổ chức hội đoàn thể cũng cần quan tâm tuyên truyền, giáo dục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ, nhất là phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình. Thực tế ở nhiều nơi khi xảy ra sự cố, người bị hại phải đi cấp cứu hoặc điều trị tại các trung tâm y tế thì các cơ quan chức năng, các hội đoàn thể mới biết và vào cuộc. Theo quy định của pháp luật, nếu giám định kết quả thương tích trên 11% thì truy cứu trách nhiệm, còn nhẹ thì lập biên bản, cảnh cáo và bắt người chồng làm cam kết, phạt hành chính. (www.hoilhpn.org.vn – Ngày 06/4/2010)

NHỨC NHỐI NẠN XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EMHiện nay, xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng gia tăng. Điều đáng

lưu tâm là tính chất của các vụ xâm hại trẻ em ngày càng nghiêm trọng với sự xuất hiện các vụ xâm hại trẻ dưới 5 tuổi. Tình trạng này báo động sự suy đồi về đạo đức, nhân cách của một bộ phận người dân.

Trẻ hóa độ tuổi trẻ bị xâm hạiTrong các loại hình xâm hại trẻ em thì tình trạng xâm hại tình dục nổi lên

bởi tính chất phức tạp và mức độ tổn hại nặng nề, ảnh hưởng lâu dài về sau. Đặc biệt, nếu như những năm trước xâm hại tình dục thường xảy ra với trẻ trên 10 tuổi thì thời gian gần đây lại xảy ra tình trạng xâm hại tình dục với những trẻ chỉ mới 3 - 4 tuổi, để lại những hậu quả nghiêm trọng. Trong vòng 4 năm trở lại đây, chỉ riêng tại TP. HCM đã có hơn 60 trẻ dưới 6 tuổi bị xâm hại tình dục.

Vừa qua, tại TP. HCM dư luận xôn xao về vụ bé gái 3 tuổi bị một nhân viên y tế ở Trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng, quận 10 xâm hại tình dục khi gia đình đưa bé đến khám bệnh tại trung tâm này. Lợi dụng lúc phòng khám vắng người, nhân viên y tế này đã yêu cầu mẹ bé đi đóng tiền khám bệnh để hắn có cơ hội thực hiện hành vi dâm ô của mình. Vào tháng 4/2012 cũng xảy ra trường hợp một cháu gái 4 tuổi, ngụ tại xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi bị một đối tượng ngụ gần nhà hiếp dâm khi cháu đang ở nhà một mình. Mẹ nạn nhân phát hiện và báo công an địa phương giải quyết.

Ông Nguyễn Trọng An – Cục phó Cục Chăm sóc và Bảo vệ trẻ em đánh giá: Con số hơn 1000 trẻ bị xâm hại tình dục mỗi năm cho thấy mức độ nghiêm trọng của xâm hại tình dục trẻ em. Tuy nhiên, con số này chỉ là một phần nổi của các vụ việc đã được phát hiện, xử lý. Còn rất nhiều vụ mà cơ quan chức năng chưa phát hiện do nạn nhân và gia đình không hợp tác, tự giải quyết thương

6Created by Thanh An - 30 -Thanh An Page 305/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201230

Page 31: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

lượng; một số vụ việc chỉ khi thương lượng không thành mới nhờ chính quyền can thiệp. Mặt khác, vì sợ dư luận xã hội ảnh hưởng đến tâm lý trẻ về sau nên nhiều gia đình không tố giác vụ việc.

So với những con số được báo cáo thì trên thực tế số trẻ bị xâm hại có thể cao gấp nhiều lần. Cụ thể, tại TP. HCM theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thì mỗi năm có khoảng 150 - 200 trẻ bị xâm hại tình dục. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê tại Bệnh viện Từ Dũ TP. HCM, mỗi năm bệnh viện này tiếp nhận khoảng 2.000 trường hợp trẻ vị thành niên đến phá thai và 5.000 trường hợp sinh con ở tuổi vị thành niên. Con số này cho thấy, số trẻ bị xâm hại tình dục đã lên đến mức báo động.

Bà Đinh Nguyễn Thiên Kim – Phó giám đốc Trung tâm Giám định Pháp y TP. HCM kể lại: Ngày 26/6, trung tâm vừa thực hiện giám định xâm hại tình dục cho một bé gái mới 12 tuổi đang mang thai 3 tháng. Khi hỏi bé vì sao đến nay mới tố cáo thì cô bé trả lời: “Cháu đã biết “chuyện ấy” từ năm 8 tuổi nhưng đến giờ bạn trai không còn thích cháu nữa nên cháu mới tố cáo để người ấy đi tù”. Do thiếu hiểu biết và thiếu sự quan tâm của phụ huynh mà một số trẻ em bị xâm hại tình dục nhiều lần trong một thời gian dài nhưng không được phát hiện, tố giác dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt, không chỉ các bé gái mà ngay cả các bé trai cũng bị xâm hại tình dục, nhiều vụ việc xâm hại tình dục với trẻ em trai cũng được phát hiện, xử lý trong thời gian gần đây.

Thắt chặt quản lýXâm hại tình dục trẻ em gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển

lành mạnh về thể chất cũng như vấn đề tâm, sinh lý của trẻ. Các em bị xâm hại có thể mang thai ngoài ý muốn, thậm chí mất khả năng sinh sản hoặc tử vong do quá trình nạo, hút thai… Về tinh thần, trẻ dễ mặc cảm, tự ti, nhiều em do quan điểm “không còn gì để mất” nên bắt đầu sống buông thả để lại hậu quả lâu dài cho tương lai của các em.

Đa phần trẻ bị xâm hại tình dục là các em ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ lo mưu sinh không có thời gian quan tâm đến con cái để mặc cho các em không ai chăm sóc, để trẻ ở nhà một mình, thậm chí có em bỏ nhà đi lang thang kiếm sống dẫn đến nhiều em không biết cách bảo vệ mình dễ dàng trở thành nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.

Với tính chất đặc thù là địa phương có số lượng dân nhập cư cao, TP. HCM là một trong những địa bàn trọng điểm thường xuyên xảy ra những vụ xâm hại tình dục trẻ em. Hiện nay, TP. HCM có khoảng 300.000 trẻ nhập cư, chiếm 16,7% tổng số trẻ em thành phố, trong đó số trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khoảng 70.000 em, nhiều em phải lao động kiếm sống, thiếu sự quản lý, chăm sóc của gia đình nên nguy cơ bị dụ dỗ, mua bán, xâm hại tình dục cao.

Ông Nguyễn Trọng An – Cục phó Cục Chăm sóc và Bảo vệ trẻ em nhận định: Số trẻ em bị xâm hại tình dục phát hiện được chưa sát với con số thực tế. Do hiện nay, chúng ta đang thiếu hẳn một mạng lưới thu thập thông tin, phát hiện

6Created by Thanh An - 31 -Thanh An Page 315/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 31

Page 32: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

sớm, giảm thiểu xâm hại tình dục trẻ em trong cộng đồng. Đội ngũ làm công tác phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em của cả nước vẫn còn rất mỏng và yếu. Việc hỗ trợ các dịch vụ y tế, tâm lý cho những trẻ em bị xâm hại tình dục cũng còn hạn chế.

Do đó, để giảm thiểu xâm hại trẻ em cần xây dựng một hệ thống bảo vệ trẻ một cách hoàn chỉnh từ tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa, phát hiện sớm,… đến hỗ trợ tư vấn tâm lý, pháp lý. Tạo sự gắn kết giữa các ban ngành để nâng cao hiệu quả của việc can thiệp, trợ giúp trẻ bị xâm hại tình dục. Tuyên truyền cho các gia đình về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc con cái; khi chẳng may trẻ bị xâm hại thì nên đưa trẻ đi giám định càng sớm càng tốt để có chứng cứ truy tố đối tượng vi phạm.

Hiện nay, nhiều Trung tâm giám định Pháp y đã áp dụng các kỹ thuật mới về sinh học phân tử để giám định xác định đối tượng xâm hại tình dục như: Nhuộm phát hiện tinh trùng trong dịch âm đạo. Các trường hợp không phát hiện được tinh trùng thì sẽ tiếp tục xác định bằng định lượng nhiễm sắc thể Y, lập hồ sơ ADN người nam trên nhiễm sắc thể thường… Đây là những phương pháp xác định đối tượng xâm hại khi trẻ đến trung tâm giám định mà thời gian bị xâm hại vượt qua thời điểm vàng để lấy dấu vết. Tuy nhiên, nhiều trường hợp trẻ đến quá muộn nên việc thăm khám, xác định tổn thương gặp khó khăn, việc lấy dấu vết bị hạn chế, không đủ cơ sở để bắt đối tượng vi phạm chịu trách nhiệm trước pháp luật. Mai Phương (dantri.com.vn – Ngày 14/7/2012)

----------------------------------------

TRẺ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC - HỒI CHUÔNG BÁO ĐỘNG SỰ SUY ĐỒI ĐẠO ĐỨC

Thời gian qua, tình hình tội phạm xâm hại trẻ em xảy ra rất nhiều và luôn tiềm ẩn yếu tố gia tăng. Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục đang là hồi chuông báo động cho sự suy đồi đạo đức xã hội, gây bức xúc trong dư luận.

Theo báo cáo của Cục Cảnh sát hình sự (C45), từ 2006 - 2010, toàn quốc phát hiện gần 7.900 vụ xâm hại trẻ em với hơn 8.400 em bị xâm hại; bắt giữ hơn 9.600 đối

tượng gây án (trong đó tội phạm xâm hại tình dục trẻ em chiếm gần 60%, đáng chú ý là tội hiếp dâm trẻ em). Chỉ tính riêng trong năm 2011, tội phạm xâm hại trẻ em trên toàn quốc phát hiện gần 1.500 vụ, hơn 1.600 đối tượng gây án, 1.640 em bị xâm hại. Địa phương xảy ra nhiều vụ xâm hại trẻ em là Hà Nội, Hà Nam, Sơn La, Bình Định, TP. HCM, Đồng Nai, Đắc Lắc, Long An, Kiên Giang, An Giang…

6Created by Thanh An - 32 -Thanh An Page 325/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201232

Page 33: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

60% trẻ bị xâm hại tình dục đều trở nên không bình thường

Công an tỉnh Hà Giang cho biết, ở vùng núi, đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí thấp; phân bố dân cư không đồng đều… Từ đó, bọn tội phạm đã triệt để lợi dụng thực hiện hành vi mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt trẻ em. Từ năm 2007 đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 59 vụ với 69 trẻ em bị buôn bán và chiếm đoạt liên quan đến hàng chục đối tượng phạm tội.

Trong khi đó tại An Giang, qua thống kê của Công an tỉnh, từ năm 2007 - 2011, toàn tỉnh phát hiện 167 trường hợp trẻ em bị xâm hại tình dục, liên quan 174 đối tượng; trong đó tỷ lệ trẻ em bị hiếp dâm chiếm gần 59%, trẻ em bị giao cấu (30,5%), trẻ em bị dâm ô (gần 11%).

Lãnh đạo Công an tỉnh An Giang cho hay, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng xâm hại tình dục trẻ em rất đa dạng và tinh vi. Đối với nạn nhân là trẻ dưới 13 tuổi, bọn chúng thường dùng thủ đoạn lừa gạt, dụ dỗ cho quà, cho tiền để điều nạn nhân đến nơi vắng vẻ thực hiện hành vi hiếp dâm. Đối với nạn nhân từ 13 - dưới 16 tuổi, bọn tội phạm thường dụ dỗ, rủ rê tụ tập vui chơi, tiệc tùng, uống rượu, sau khi nạn nhân say xỉn, bọn chúng thực hiện hành vi hiếp dâm và có vụ hiếp dâm tập thể. Đối tượng gây án phần nhiều là người cùng xóm ấp, quen biết với nạn nhân, lợi dụng thân quen hoặc cha mẹ, người thân đi

vắng không ai chăm sóc, quản lý, từ đó dụ dỗ để thực hiện hành vi phạm tội.

“Xâm hại tình dục trẻ em không những gây ra cho các em đau đớn, thương tật về thể xác, mà về tinh thần các em cũng bị tổn hại nặng nề. Theo khảo sát, có đến 60% trẻ em sau khi bị xâm hại tình dục đều trở nên không bình thường, luôn mặc cảm, lo sợ, nghi ngờ, xa lánh tất cả mọi người, kể cả người thân trong thời gian dài. Ngoài ra, các em sau khi bị xâm hại phải còn gánh chịu nguy cơ hết sức nguy hiểm đó là lây lan các bệnh truyền nhiễm, trong đó có HIV/AIDS” - một lãnh đạo Công an tỉnh An Giang nhận định.

Lãnh đạo C45 cho biết: Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em xảy ra ngày càng nhiều, bình quân một năm gần 1.000 em bị xâm hại tình dục. Trong đó, số trẻ em bị hiếp dâm ít tuổi bị xâm hại tình dục tăng, nhiều em bị hiếp dâm khi mới 4 - 5 tuổi; một số em bị hiếp dâm nhiều lần, hay nhiều người hiếp dâm một trẻ em mới 13 - 14 tuổi đã xảy ra ở nhiều địa phương.

Đại tá Hồ Sỹ Tiến – Quyền Cục trưởng C45 nhấn mạnh thêm, tình trạng loạn luân như: Bố đẻ hiếp dâm con gái nhiều lần dẫn đến mang thai, bố dượng hiếp dâm con gái riêng của vợ, anh hiếp em gái... cũng đang gia tăng, báo động sự suy đồi đạo đức, gây bức xúc trong thời gian qua.

6Created by Thanh An - 33 -Thanh An Page 335/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 33

Page 34: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Trong khi đó, số vụ giết trẻ em giảm 24,5% (so với giai đoạn 2001 - 2005) nhưng tính chất lại nghiêm trọng hơn như: Giết trẻ em để bịt đầu mối, hiếp xong rồi giết, giết con nghi vợ ngoại tình, giết con khi vợ chồng phát sinh mâu thuẫn… Ngoài ra, tình hình mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, mại dâm trẻ em, sử dụng trẻ em làm việc trong điều kiện tồi tệ, nặng nhọc vẫn chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả, thậm chí có vụ việc nghiêm trọng và tồn tại trong một thời gian dài gây dư luận bức xúc trong xã hội.

Lỗi của sự thiếu hiểu biết pháp luật

Theo C45, các đối tượng xâm hại trẻ em chủ yếu từ 18 tuổi trở lên là những đối tượng làm nghề tự do hoặc không nghề nghiệp. Đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tội phạm xâm hại trẻ em ngày càng phức tạp, lãnh đạo C45 cho rằng: Một phần do mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động trực tiếp đến đời sống của từng gia đình, mỗi cá nhân và những nhu cầu hưởng thụ, trong đó có nhu cầu hưởng thụ ích kỷ, hẹp hòi hay hủ hóa, biến chất; hoặc phát sinh tội phạm mới như: Mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, tổ chức cho trẻ em đi ăn xin và sử dụng trái phép các chất ma túy…

Lãnh đạo công an các địa phương nhận định: Do một số người có lối sống buông thả, thích đua đòi ăn chơi và một số bị suy thoái phẩm

chất đạo đức dẫn đến phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu dục vọng thấp hèn; Một số trẻ em bị xâm hại tình dục là do có sử dụng rượu bia dẫn đến mất tự chủ, bị tác động bởi phim ảnh đồi trụy; Một số xuất phát từ sự nuông chiều của gia đình; Công tác tuyên truyền pháp luật chưa được thường xuyên, sâu rộng trong tầng lớp nhân dân…

Còn lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thì cho rằng: Nhiều người làm bố, làm mẹ đang trong tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật về quyền trẻ em nói riêng; thiếu kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em… Từ đó dẫn tới việc cho rằng cha mẹ có quyền dạy con bằng đòn roi, bằng sự xỉ nhục, hành hạ. Chính văn hóa “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” đã khiến cho các bậc cha mẹ coi chuyện đánh con là bình thường, là quyền của cha mẹ; rằng đánh con là dạy con nên người. Nhưng nhiều trường hợp, quan niệm đó dẫn tới hành vi bạo lực và xâm hại trẻ em.

Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại sự lỏng lẻo và những khoảng trống trong hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em đã gây bất cập trong việc ngăn ngừa và giảm thiểu tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em như: Chưa có quy định cụ thể về bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng, nhận tố giác từ trẻ em; pháp luật cũng chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe những người có hành vi bạo lực; hoặc ngay cả khi có Luật Phòng, chống bạo lực

6Created by Thanh An - 34 -Thanh An Page 345/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201234

Page 35: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

gia đình nhưng thực hiện chưa nghiêm túc; tiếng nói và cách xử lý của chính quyền với các vụ cha, mẹ bạo hành với con cái còn yếu; cùng với thái độ thờ ơ, vô cảm của cộng đồng đã dẫn tới nhiều trẻ em bị bạo lực nhiều lần, gây hậu quả khá nghiêm trọng mà vẫn không bị xử lý.

Công an các địa phương cho biết, công tác phát hiện, phòng ngừa, điều tra, xử lý tình trạng tội phạm xâm hại trẻ em, đặc biệt là trẻ bị xâm hại tình dục thời gian qua được thực hiện rất quyết liệt: Từ 2006 - 2011, lực lượng công an các địa phương đã xử lý hình sự trên 7.200 vụ với trên 8.500 đối tượng xâm hại trẻ em. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn gặp một số khó khăn nhất định.

Nêu những giải pháp cho công tác đấu tranh tội phạm xâm hại trẻ em, lãnh đạo Tổng cục VI và lãnh đạo các cơ quan ban ngành đề nghị lực lượng công an các địa phương chủ động nắm tình hình, tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các đối tượng có tiền án tiền sự, có dấu hiệu nghi vấn phạm tội buôn bán phụ nữ, trẻ em; Tăng cường quản lý Nhà nước về trật tự xã hội, thường xuyên

kiểm tra các cơ sở hoạt động dịch vụ văn hóa để kịp thời phát hiện xử lý nghiêm đối với mọi hành vi tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy, kích dâm, kích dục; Rà soát, đánh giá một cách toàn diện hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan tới vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ em để từ đó có sự bổ sung, điều chỉnh phù hợp, tiến tới xây dựng Luật bảo vệ trẻ em tổng thể; đề nghị chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo cụ thể và sát sao đối với công tác chăm lo giáo dục trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho trẻ; các bậc cha mẹ phải thường xuyên quan tâm, giáo dục, quản lý tốt con trẻ, gạt bỏ mặc cảm, dư luận khi có con em bị xâm hại để tố cáo thủ phạm ra trước pháp luật, có như vậy trẻ em mới thực sự được bảo vệ.

Công tác phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em là biện pháp cấp bách và lâu dài, do đó công an các địa phương kiến nghị Bộ Công an quan tâm hơn nữa về hỗ trợ kinh phí, phương tiện cơ sở vật chất phục vụ cho công tác này. 

Huỳnh Hải (dantri.com.vn – Ngày 21/05/2012) 

                                                                                              

6Created by Thanh An - 35 -Thanh An Page 355/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 35

Page 36: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

CHẶN ĐỨNG VÀ ĐẨY LÙI TÌNH TRẠNG BẠO LỰC, XÂM HẠI TRẺ EM

Những vụ trẻ bị xâm hại, bạo hành đối với trẻ em thời gian gần đây một lần nữa đã gióng lên hồi chuông cảnh báo cho gia đình, xã hội cần phải có giải pháp quyết liệt, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế để bảo vệ trẻ em. Đồng thời, hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em phải được vận hành có hiệu quả và cần được bổ sung, hoàn thiện kịp thời. Đảm bảo tính nghiêm minh, chặt chẽ, đầy đủ của hệ thống pháp luật.

Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em ở nước ta trong những năm gần đây diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Cụ thể trong năm 2008, số trẻ em bị xâm hại, bạo lực là 1.613 em; năm 2009 là 1.805 em. Và trong năm 2010, theo báo cáo giám sát của HĐND 46/63 tỉnh, thành phố, thì có 1.245 em bị bạo lực, xâm hại. Số trẻ em bị xâm hại tình dục nhiều lần chiếm 28,2% và số trẻ em bỏ học, sống lang thang bị xâm hại là 11,6% trong tổng số các vụ xâm hại tình dục trẻ em. Bên cạnh đó, đã xuất hiện tình trạng xâm hại trẻ em nam, đối tượng là người nước ngoài, xâm hại thông qua internet. Cùng với đó, tình trạng bạo lực trẻ em cũng xảy ra phổ biến với khoảng hơn 4.300 vụ trong các năm 2008 - 2010, trong đó có tới 170 vụ giết trẻ em…

Đâu là nguyên nhân?Tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em ngày càng nghiêm trọng như trên xuất

phát từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do nhận thức của gia đình, cộng đồng chưa đầy đủ; chưa tạo dựng được môi trường sống an toàn, thân thiện cho trẻ; hệ thống bảo vệ và mạng lưới dịch vụ trẻ em nói riêng chưa phát triển. Đại diện các bộ, ngành cũng đã nhận định, mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận nhưng việc triển khai thực hiện chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước và các chương trình, đề án trong việc thực hiện chính sách pháp luật còn nhiều hạn chế. Trong đó nguyên nhân chủ quan do thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em từ Trung ương đến địa phương; hệ thống văn bản còn thiếu cụ thể và còn nhiều khoảng trống; công tác truyền thông giáo dục còn chưa đạt được hiệu quả cao và việc thực thi, ý thức chấp hành pháp luật của bộ phận cán bộ có thẩm quyền và người dân còn chưa nghiêm. 

Tại phiên giải trình của Chính phủ trước Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội về phòng, chống bạo lực đối với trẻ em vừa qua, Bộ trưởng Bộ LĐ, TB và XH Phạm Thị Hải Chuyền cho rằng, chính là do sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội đã dẫn đến sự chênh lệch về cơ hội phát triển, mức sống giữa các vùng miền, các nhóm dân cư trong xã hội. Khó

6Created by Thanh An - 36 -Thanh An Page 365/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201236

Page 37: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

khăn kinh tế dẫn đến tình trạng gia đình sao nhãng, ít quan tâm hoặc bỏ mặc trẻ em trước nguy cơ hoặc thực tế đã bị ngược đãi, xâm hại. Ngoài ra, do một bộ phận người dân có lối sống thực dụng, quá coi trọng đồng tiền và của cải vật chất, sự thiếu gương mẫu của người lớn, xem thường các giá trị đạo đức. Bên cạnh đó, tác động của văn hóa độc hại, bạo lực khiêu dâm thông qua mạng internet, truyện tranh, đĩa ghi hình ngày càng khó kiểm soát; áp lực về tâm lý trong gia đình và xã hội gia tăng; tình trạng gia đình ly hôn, ly thân cũng dẫn đến các sang chấn tâm lý, các hành vi lệch chuẩn ở trẻ em và người lớn, cũng dẫn đến trẻ em có nguy cơ bị sao nhãng, bỏ rơi, đi lang thang, lao động kiếm sống, vi phạm pháp luật, bị bạo lực và xâm hại. Cùng với đó, hệ thống bảo vệ trẻ em bước đầu được hình thành nhưng chưa phủ khắp các địa bàn nơi có trẻ em cần được bảo vệ. Việc vận hành hệ thống bảo vệ trẻ em và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức, cá nhân trong hệ thống còn nhiều hạn chế…

Cần có giải pháp quyết liệt hơnNhững vụ trẻ bị xâm hại, bạo hành thời gian gần đây một lần nữa đã gióng

lên hồi chuông, cần phải có giải pháp quyết liệt bảo vệ trẻ. Cùng với đó, trong tình hình hiện nay, hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em rất cần được nhanh chóng hoàn thiện. Trước mắt tội xâm hại, bạo hành trẻ em, nhất là xâm hại tình dục trẻ em rất cần được xét xử với khung hình phạt nghiêm khắc, chặt chẽ hơn. Cần xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành thống nhất từ Trung ương tới cơ sở trong phát hiện, xử lý, can thiệp, trợ giúp trẻ em bị xâm hại, bạo hành. Công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách, pháp luật của Nhà nước và các biện pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em cần được thực hiện thường xuyên tới các cấp ủy, chính quyền, cộng đồng, trường học, gia đình và trẻ em.

Để bảo đảm trong thời gian tới, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em cần tập trung giải quyết những yếu kém trong công tác phối hợp hoạt động giữa các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó cũng cần khẩn trương khắc phục những yếu kém trong việc kiện toàn bộ máy tổ chức và đầu tư ngân sách cho công tác chung về bảo vệ trẻ em; nghiên cứu thành lập Ủy ban Quốc gia về trẻ em để góp phần vào công tác phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em trong thời gian tới. Các cấp chính quyền và các ngành chức năng cũng cần xem vấn đề này như là một trong những yếu tố phát triển xã hội của địa phương. Hơn thế, chúng ta cần chú trọng xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ, trong đó phải củng cố và kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức, cán bộ xã hội làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ; hình thành các dịch vụ xã hội bảo vệ trẻ có tính hệ thống và chuyên nghiệp. Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em cần được nhanh chóng hoàn thiện, quy định rõ trách nhiệm của các cấp, ngành trong lĩnh vực này, thậm chí có thể nghiên cứu xây dựng luật. 

6Created by Thanh An - 37 -Thanh An Page 375/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 37

Page 38: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Đối với  các địa phương cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và giáo dục về bạo lực, xâm hại trẻ em; nâng cao nhận thức về việc nuôi dạy con cái cho các bậc cha mẹ. Các bậc cha mẹ cũng phải nhanh chóng tìm cách khắc phục chủ nghĩa thực dụng đang ảnh hưởng đến các gia đình như: Nuông chiều con cái quá mức hoặc phó mặc con cái... Và mỗi người trong gia đình nên xem lại chính mình, đừng đổ lỗi cho nhau. Cần phải dành thời gian nhiều hơn để ở bên người thân của mình, hiểu và chia sẻ với nhau, nhất là khi xảy ra mâu thuẫn.

Mặc dù còn nhiều khó khăn và thách thức, nhưng trong giai đoạn tới bằng các giải pháp về luật pháp, tư pháp, hành chính và các biện pháp giáo dục, xã hội phù hợp phải chặn đứng và tiến tới đẩy lùi tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em, bảo đảm sự an toàn cho trẻ em và tạo cơ hội bình đẳng cho trẻ em phát triển một cách toàn diện.  Diệp Anh (www.daibieunhandan.vn – Ngày 28/3/2012)

BẢO VỆ TRẺ TRÁNH BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤCChiếm 58,8% tổng số vụ xâm

hại trẻ em, tăng 6,4% so với giai đoạn 2001 - 2005 là thực trạng đáng báo động về tình trạng xâm hại tình dục trẻ em những năm gần đây.

Thực trạng đáng báo độngThông tin được đưa ra tại Hội

thảo Tập huấn Tổ chức an toàn với trẻ em từ ngày 20 - 22/6/2012 vừa qua tại Hà Nội cho thấy tình trạng trẻ bị lạm dụng, xâm hại tình dục đang là vấn đề nổi cộm. Số vụ xâm hại tình dục trẻ em giai đoạn 2006 - 2010 chiếm 58,8% tổng số vụ xâm hại trẻ em, tăng 6,4% so với giai đoạn 2001 - 2005. Điều đáng lưu tâm là tính chất của các vụ xâm hại trẻ em đặc biệt nghiêm trọng, báo động về sự suy đồi đạo đức như: Hiếp dâm tập thể, hiếp

dâm trẻ em dưới 5 tuổi, hiếp dâm rồi giết trẻ em…

Nguy hại hơn nữa, có tới 70% nạn nhân bị xâm hại bởi người quen, thậm chí chính là người thân, máu mủ, ruột rà. Thậm chí nhiều em bị xâm hại nhiều lần dẫn đến có thai. Bên cạnh đó, phần lớn trẻ bị lạm dụng tình dục không dám nói với cha, mẹ vì bị dọa nạt, bị bắt im lặng bằng vũ lực hay những lời đe dọa.

Trẻ em bị xâm hại tình dục bị tổn thương nặng nề về cả tinh thần và thể chất, đôi khi những di chứng này không biểu hiện rõ rệt ngay mà kéo dài âm ỉ nhiều năm sau đó. Việc bị lạm dụng tình dục có thể khiến trẻ trở nên không tin cậy ai, khó kết thân, tách biệt, sợ hãi, tự ti, cô lập bản thân

6Created by Thanh An - 38 -Thanh An Page 385/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201238

Page 39: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

với thế giới xung quanh, trầm cảm, nhiều người không thể có hạnh phúc bởi bị ám ảnh vì những sự việc bị xâm hại tình dục lúc nhỏ, nhiều người trở thành gái mại dâm...

Đau lòng trước những thân phận non nớt bị xâm hại, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Hòa gần đây đã chia sẻ với báo chí: "Tôi cực lực lên án những kẻ mất nhân tính xâm hại phụ nữ, nhất là đối với những trường hợp như trẻ bị thiểu năng, người tàn tật... Tôi cho rằng pháp luật phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ thủ ác này". Bà kêu gọi tất cả mọi người cần lên án những kẻ "táng tận lương tâm" và phải có biện pháp xử lý thật nghiêm những trường hợp lạm dụng tình dục trẻ em.

Nguy hiểm luôn rình rậpXâm hại tình dục có nhiều mức

độ khác nhau, những hành vi như động chạm, sờ mó, chụp hình, quay phim cơ thể, kích thích trẻ… cũng được coi là xâm hại tình dục trẻ em. Trẻ gái có nguy cơ bị lạm dụng tình dục cao hơn trẻ trai nhưng không có nghĩa các bé trai sẽ không bị xâm hại tình dục. Bên cạnh đó, kẻ xâm hại tình dục trẻ em luôn ở xung quanh trẻ, không phân biệt người lạ - quen, nam - nữ, già - trẻ, có bằng cấp hay thất học.... Những yêu râu xanh này không mang gương mặt độc ác, lạnh lùng, gian tà mà có bề ngoài hiền lành, thân thiện, gần gũi, dễ mến.

Nhiều câu chuyện đau lòng đã xảy ra đã minh chứng rằng, trẻ có thể

bị xâm hại bởi bất kì ai, bất kì thời gian và địa điểm nào. Nhiều học sinh Trường Tiểu học Đình Tổ 2 (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), Trường Tiểu học B Núi Sam (thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang) bị chính thầy giáo của mình xâm hại tình dục tại ngay chính ngôi trường mà hàng ngày các em theo học. Hay trường hợp của em N.K.L, xã Hòa Quang Bắc, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên, em đã bị chính cha đẻ của mình xâm hại và bắt làm nô lệ tình dục trong suốt thời gian dài. Hay trường hợp của em N.T.T ở Tây Hồ, Hà Nội, trên đường đi học về, em đã bị một thanh niên tự xưng là sinh viên hỏi đường, đi nhờ xe và em đã bị gã trai đồi bại đưa vào bãi tha ma bên đường làm hại.

Có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự tác động của cuộc sống đô thị hóa, người dân di dời từ vùng nông thôn ra đô thị mưu sinh, qua biên giới để kiếm sống, sao nhãng trách nhiệm đối với gia đình; sân chơi của trẻ em bị thu hẹp, trẻ em lang thang, trẻ em bỏ học gia tăng là nguy cơ bị xâm hại tình dục lớn nhất. Hơn nữa, cuộc sống đô thị hóa đã làm cho nhiều người trẻ sống buông thả, thích ăn chơi, đua đòi của một số phần tử thoái hóa, biến chất, suy thoái nhân cách dẫn đến phạm tội. Bên cạnh đó, phim, ảnh khiêu dâm tràn lan, đặc biệt trên internet, những website khiêu dâm, game online kích dục… khiến người ta dễ bị kích thích, mất kiểm soát hành vi. Các thông tin cá nhân bị phơi bày trên mạng, cha mẹ không có kiến thức hoặc không có

6Created by Thanh An - 39 -Thanh An Page 395/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 39

Page 40: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

thời gian để kiểm soát con cái đã tạo điều kiện cho những “yêu râu xanh” lợi dụng “kết bạn”, “chia sẻ” và có cơ hội “hẹn hò”, xâm hại trẻ.

Gia đình - hành lang bảo vệ trẻ

Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Hòa đã nhấn mạnh rằng: "Để tránh những sự việc đau lòng như vừa qua thì cũng cần có sự quản lý chặt chẽ từ gia đình, cha mẹ, đặc biệt là bà mẹ. Trong gia đình, người mẹ vừa là người mẹ vừa là người bạn với con, phải quan tâm, gần gũi, quản lý chặt chẽ con cái, tạo ra hàng rào bảo vệ con cái từ xa".

Đúng vậy, gia đình, đặc biệt là người mẹ, người bà - những người gần gũi nhất với trẻ có vai trò quan trọng trong việc giúp trẻ phòng, tránh khỏi bị xâm hại tình dục. Để làm được điều đó, cha mẹ phải luôn cảnh giác, có hiểu biết để xác định các nguy cơ rủi ro mà trẻ có thể bị xâm hại, đặc biệt là những hành vi khó phát hiện vì không để lại dấu vết trên cơ thể trẻ.

Để tránh tai họa cho con, các bậc cha mẹ cần dạy cho trẻ (cả bé trai và bé gái) cách nhận diện những kẻ xâm hại và thoát khỏi chúng, phải nhớ những số điện thoại của bố mẹ và những người thân khác trong gia đình cùng các số điện thoại khẩn cấp như 113, 115… Cha mẹ cần nói với trẻ ai có thể là “yêu râu xanh”, chỉ ra cho trẻ những điểm kín đáo trên cơ thể trẻ mà không ai được phép đụng

chạm vào đồng thời khuyến khích trẻ kể lại những hành vi hơi khác thường mà người lớn làm với chúng để kịp thời nhận ra các dấu hiệu nguy cơ cho con. Muốn vậy, cha mẹ cần phải thực sự gần gũi trẻ, lắng nghe, hỏi chuyện về cuộc sống của con hằng ngày, biết được trẻ hay chơi, tiếp xúc với người nào, tránh để trẻ ở nhà một mình, chơi một mình, kiểm soát được những website mà trẻ hay truy cập…

Để nhận biết trẻ bị xâm hại, cha mẹ, người thân cần lưu tâm đến sự thay đổi hành vi đột ngột ở trẻ như: Sợ hãi, không cho người khác đến gần, kêu đau, bị đau, chảy máu ở thân thể đặc biệt là bộ phận sinh dục, cảnh giác khi đề cập đến vấn đề giới tính, mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, chậm kinh, mang bầu… Cha mẹ cũng nên nhớ rằng, những kẻ xâm hại trẻ em cần phải bị tố cáo, được trừng trị đúng pháp luật, đừng vì điều gì e ngại mà giấu diếm sự việc, cuối cùng người thiệt thòi nhiều nhất, chịu tổn thương nhất vẫn là trẻ em.

Vì tương lai tươi sáng của trẻ em Việt Nam, gia đình và cộng đồng, đặc biệt là cha mẹ có trẻ nhỏ, hãy chủ động giúp trẻ phòng, tránh bị xâm hại tình dục ngay từ hôm nay.

Phạm Hồng (www.hoilhpn.org.vn Ngày 02/7/2012)

6Created by Thanh An - 40 -Thanh An Page 405/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201240

Page 41: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

NỘI LUẬT HÓA CÁC QUY ĐỊNH CỦA CEDAW TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1. Trong Hiến phápTừ khi giành được độc lập (1945), bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ và

giải phóng phụ nữ luôn là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật. Ngay trong Sắc lệnh số 14 ngày 18/09/1945, một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới, đã quy định quyền bình đẳng của phụ nữ trong vấn đề bầu cử. Hiến pháp năm 1946 khẳng định nguyên tắc bình đẳng nam nữ trên tất cả các lĩnh vực: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9); “Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6) và “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 7)...

Những quy định kể trên đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng về địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ nước ta được pháp luật thừa nhận và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực. Những quy định đó cũng cho thấy tính tiến bộ của pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực này.

Quan điểm đó tiếp tục được kế thừa và phát triển phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại qua các lần sửa đổi Hiến pháp năm 1959, 1980, và đặc biệt là Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quan điểm này được khẳng định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ…” (Điều 63), "...Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng... Nhà nước và xã hội

6Created by Thanh An - 41 -Thanh An Page 415/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012

Bạn có biết?

41

Page 42: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con” (Điều 65). Các quy định của Hiến pháp năm 1992 là sự kế thừa những nguyên tắc tiến bộ của các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời khẳng định lại những giá trị về nữ quyền đã được xác định và phát huy hơn một thập kỷ qua. Những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới nói trên đã được cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

2. Trong Luật Hôn nhân và Gia đìnhNội luật hóa các quy định của CEDAW, Luật Hôn nhân và Gia đình năm

2000 đã thể hiện rõ quyền bình đẳng giới trong việc kết hôn, trong quan hệ vợ chồng, trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, quyền bình đẳng giữa cha mẹ và con cái.

Phù hợp với quy định của CEDAW: “Nam, nữ kết hôn trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện”, khoản 2 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình ghi nhận: “Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”. Đây là một điều kiện quan trọng để việc kết hôn có giá trị pháp lý, về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm sự tự nguyện là vi phạm pháp luật và bị hủy bỏ.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã có quy định cụ thể về quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Vợ chồng có nghĩa vụ chung thủy, yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình (Điều 18), có quyền tự do lựa chọn nơi cư trú (Điều 20), có nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau (Điều 21), giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt (Điều 23). Những quy định này là sự cụ thể hóa nội dung điểm g Điều 16 của CEDAW. Bên cạnh đó, vợ chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau, không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào (Điều 22); cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau (khoản 1 Điều 21). Luật đã quy định về quyền đại diện cho nhau giữa vợ, chồng (Điều 24); trách nhiệm liên đới của vợ, chồng (Điều 25). Những quy định này nhằm bảo đảm quyền bình đẳng trên thực tế giữa vợ và chồng.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã tiếp cận quyền bình đẳng trong quan hệ tài sản của vợ chồng dưới góc độ giới. Đó là sự thừa nhận độc lập về tài sản của mỗi người trong quan hệ hôn nhân, cho phép thể hiện tự do ý chí của vợ, chồng khi xác lập tài sản chung và tài sản riêng. Theo quy định của pháp luật, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Đối với tài sản chung hợp nhất, vợ chồng có quyền bình đẳng như nhau trong việc chiếm hữu, quản lý, sử dụng, định đoạt. Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập” (Điều 95), vì thế tài sản mà vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung. Ngoài các tài sản được quy định là tài sản chung của vợ chồng, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 còn quy định: “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết

6Created by Thanh An - 42 -Thanh An Page 425/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201242

Page 43: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

hôn là tài sản chung của vợ, chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận” (Điều 27). Về tài sản riêng, khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng”. Việc thừa nhận và bảo vệ quyền có tài sản riêng của vợ hoặc chồng là phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo quyền sở hữu tài sản riêng của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Sự thừa nhận tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình là vấn đề hoàn toàn mới, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cần xác định sự độc lập về tài sản, về địa vị pháp lý của mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho người vợ hoặc người chồng thực hiện năng lực hành vi dân sự của mình một cách chủ động, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ trong trường hợp cần thiết.

Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng là một quy định nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân. Quyền thừa kế của vợ, chồng chủ yếu được quy định trong Luật Dân sự. Quyền bình đẳng của vợ chồng về thừa kế tài sản được pháp luật ghi nhận: “Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản như nhau” (Điều 31, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000).

Bình đẳng về quyền và trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, CEDAW đã khẳng định: “Thừa nhận trách nhiệm chung của cả vợ lẫn chồng trong việc nuôi dạy và phát triển con cái, lợi ích của con cái phải được nhận thức rõ là ưu tiên hàng đầu trong mọi trường hợp” (điểm b Điều 5). Ngoài ra, Công ước còn chỉ rõ: “Quyền và trách nhiệm như nhau với vai trò làm cha mẹ trong mọi vấn đề liên quan đến con cái, bất kể tình trạng hôn nhân như thế nào” (điểm b Điều 16). Như vậy, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái là như nhau trong mọi trường hợp khi hôn nhân đang tồn tại hay sau khi ly hôn, hoặc trong trường hợp hôn nhân trái pháp luật. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam đã chú ý đến vấn đề này nhằm bảo vệ quyền lợi của con trong mọi trường hợp, được cụ thể hóa tại Điều 2, Điều 17, Điều 92, Điều 93 và Điều 94.

3. Trong pháp luật lao độngCụ thể hóa và vận dụng linh hoạt các quy định của CEDAW trong pháp

luật lao động Việt Nam được thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm và học

nghề: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo” (khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động). Ngoài ra, khoản 1 Điều 109 Bộ luật Lao động quy định: “Nhà nước đảm bảo quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người lao động, tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà”.

6Created by Thanh An - 43 -Thanh An Page 435/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 43

Page 44: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

Các quy định trên được cụ thể hóa trong các văn bản dưới luật như Nghị định số 23/CP ngày 18/04/1996 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về những quy định riêng đối với lao động nữ. Thông tư số 03/LĐTBXH ngày 13/01/1997 hướng dẫn Nghị định số 23/CP như sau: “Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện làm việc, tính chất công việc của doanh nghiệp, người sử dụng lao động chủ động bàn với công đoàn lập kế hoạch bố trí lao động nữ theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà, tạo điều kiện cho lao động nữ có việc làm thường xuyên phù hợp với nguyện vọng chính đáng của lao động nữ”.

Những quy định trên đây đã tạo điều kiện cho lao động nữ thực hiện hai chức năng của mình: Xã hội và gia đình. Bằng pháp luật, Nhà nước quy định những chế độ, chính sách đối với lao động nữ, khuyến khích người sử dụng lao động mở mang ngành nghề, thu hút nhiều lao động nữ bằng những biện pháp khác nhau, như có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ (khoản 2 Điều 110 Bộ luật Lao động).

Nhằm tạo điều kiện để lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình, đồng thời bảo vệ lao động nữ do đặc điểm về tâm sinh lý và đặc biệt tránh những “cú sốc” trong nền kinh tế thị trường, khoản 1 Điều 110 Bộ luật Lao động quy định: “Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm, người lao động nữ có thêm nghề dự phòng và để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ”. Hơn thế, việc học nghề và đào tạo nghề cũng được quy định rất cụ thể trong các văn bản dưới luật nhằm tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho lao động nữ.

- Bảo đảm quyền cho lao động nữ trong việc ký kết, thực hiện, chấm dứt hợp đồng lao động.

Quán triệt tinh thần của Công ước CEDAW về việc tuyển chọn, sử dụng lao động cũng như ngăn ngừa các hành vi sa thải đối với lao động nữ vì lý do có thai, nghỉ thai sản hoặc kết hôn, pháp luật lao động nước ta đã có các quy định nhằm bảo vệ lao động nữ trong các trường hợp này. Tại khoản 1, 2 Điều 111 Bộ luật Lao động quy định: “…Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng lao động;

Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận lao động nữ vào làm việc khi người đó đủ tiêu chuẩn tuyển chọn làm công việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh nghiệp đang cần”.

Ngoài ra, để bảo vệ lao động nữ khỏi mất việc làm vì những lý do kết hôn, có thai, sinh con, nuôi dạy con cái, khoản 3 Điều 111 Bộ luật Lao động (đã sửa đổi, bổ sung) quy định: “Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ vì lý do kết hôn,

6Created by Thanh An - 44 -Thanh An Page 445/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201244

Page 45: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.

Trong thời gian có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, người lao động nữ được tạm hoãn việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kéo dài thời hiệu xem xét xử lý kỷ luật lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động”.

- Bảo đảm quyền cho lao động nữ trong việc trả lương.Công ước đã tạo tiền đề quan trọng để các quốc gia thành viên ban hành

các quy định về việc trả lương bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ. Các quy định về tiền lương trong pháp luật lao động Việt Nam đã thể hiện đúng nguyên tắc này. Khoản 1 Điều 111 Bộ luật Lao động (đã sửa đổi, bổ sung) nêu rõ: “Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về nâng bậc lương và trả công lao động”. Nhìn chung, các quy định về tiền lương đối với lao động nữ là tương đối đầy đủ, thể hiện sự quan tâm của nhà nước, xã hội đối với chị em. Tuy nhiên, trong thực tế mức lương bình quân của lao động nữ thường thấp hơn nam giới. Nguyên nhân của hiện tượng này là nhìn chung không phải do sự bất cập của quy định pháp luật, mà trước hết do trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ của nữ thường thấp hơn nam vì cơ hội học tập, phấn đấu của họ bị chi phối bởi các thiên chức khác. Ngoài ra, còn do các nguyên nhân khác về hoàn cảnh gia đình, đặc điểm văn hóa, truyền thống dân tộc, điều kiện kinh tế - xã hội chung chưa cho phép, buộc người lao động nữ phải bỏ qua những cơ hội thăng tiến và thu nhập. Do đó, trong đời sống thực tế có tình trạng cùng được tuyển dụng, đào tạo như nhau nhưng sau khoảng 7 - 10 năm người lao động nữ thường có thu nhập thấp hơn nam giới vì hạn chế về đào tạo và cơ hội thăng tiến.

- Bảo đảm quyền bảo hộ lao động đối với lao động nữ.Quyền được bảo hộ lao động là một trong những quyền cơ bản của mọi

người lao động. Do tính chất đặc thù của lao động nữ, ngoài những quy định chung, Nhà nước còn có những quy định riêng dành cho đối tượng này. Nhận thức được tầm quan trọng về quyền bảo hộ lao động cho lao động nữ và cụ thể hóa Điều 11 của Công ước CEDAW, pháp luật lao động Việt Nam đã đưa ra nhiều quy định như:

+ Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng tới chức năng sinh đẻ và nuôi con, theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành (khoản 1 Điều 113 Bộ luật Lao động).

+ Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ bất kì độ tuổi nào làm việc thường xuyên dưới hầm mỏ hoặc ngâm mình dưới nước (khoản 2 Điều 113 Bộ luật Lao động).

6Created by Thanh An - 45 -Thanh An Page 455/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 45

Page 46: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

+ Nơi có sử dụng lao động nữ phải có chỗ thay quần áo, buồng tắm và buồng vệ sinh nữ (khoản 1 Điều 116 Bộ luật Lao động).

Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi với lao động nữ, ngoài các quy định chung của Bộ luật Lao động còn bao gồm các quy định nhằm bảo vệ lao động nữ được quy định tại Điều 115 của Bộ luật, Điều 13 Nghị định số 195/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.

4. Trong Luật Bảo hiểm xã hộiVề lĩnh vực bảo hiểm xã hội, Công ước nêu rõ: “Các nước tham gia Công

ước phải áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo quyền bảo hiểm xã hội cho phụ nữ, đặc biệt trong các trường hợp về hưu, thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, tuổi già; áp dụng chế độ nghỉ đẻ vẫn hưởng lương hoặc hưởng các phúc lợi xã hội tương đương...” (Điều 11) và “đảm bảo cho phụ nữ nông thôn cũng được hưởng trực tiếp các chương trình bảo hiểm xã hội...” (Điều 14). Cụ thể hóa quy định của Công ước, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 ngoài các quy định áp dụng chung cho mọi người lao động đã dành một số quy định riêng cho lao động nữ qua hai chế độ: Bảo hiểm thai sản và hưu trí.

Đối với chế độ trợ cấp thai sản, đây là chế độ bảo hiểm xã hội đặc thù cho lao động nữ thể hiện rõ nét chức năng sinh nở và làm mẹ của đối tượng này. Trợ cấp thai sản chủ yếu được áp dụng cho lao động nữ khi mang thai, sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi, đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản, khi sẩy, nạo, hút thai... (về vấn đề này, có thể tham khảo Mục 2 Luật Bảo hiểm xã hội (từ Điều 27 đến Điều 37) và Nghị định s ố 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc).

Đối với chế độ hưu trí, đây là chế độ bảo hiểm dài hạn; là chế độ quan trọng nhất đối với người lao động bởi nó trợ giúp, cân bằng thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi hết tuổi lao động. Trong chế độ này, điều kiện hưởng hưu trí hàng tháng hiện nay được quy định khác nhau giữa lao động nam và lao động nữ. Theo Điều 50 Luật Bảo hiểm xã hội: Nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên thì đủ điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng. Như vậy, lao động nữ được về hưu trước nam năm tuổi. Với quy định này, có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Quan điểm đồng tình cho rằng, quy định về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ như trong Luật Bảo hiểm xã hội là phù hợp với sức khỏe, quá trình lão hóa, tâm sinh lý cũng như quan niệm ưu ái phụ nữ đã tồn tại từ lâu trong xã hội. Hơn thế, việc quy định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn nam là xuất phát từ chức năng sinh sản và nuôi con và để bù đắp lại sự khó nhọc của phụ nữ bởi họ thường chịu gánh nặng gia đình nhiều hơn nam giới. Lại có quan điểm cho rằng, pháp luật nước ta đang có sự phân biệt đối xử giữa lao động nam và lao động nữ trong việc xác định độ tuổi nghỉ hưu. Thực tế hiện nay cho thấy, tuổi thọ trung bình của nam và

6Created by Thanh An - 46 -Thanh An Page 465/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201246

Page 47: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

nữ là 71,5, riêng nữ là 73 nên quy định lao động nữ nghỉ hưu sớm sẽ dẫn đến thời gian hưởng bảo hiểm xã hội dài, trong khi thời gian đóng bảo hiểm xã hội ngắn hơn vừa tạo ra sự không công bằng trong cộng đồng, vừa dẫn đến sự thâm hụt quỹ trong bảo hiểm xã hội.

Về cách tính mức bảo hiểm hưu trí hàng tháng, Điều 52 Luật Bảo hiểm xã hội quy định: 15 năm đóng bảo hiểm xã hội được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa bằng 75%. Với công thức này đã quy định những quyền lợi mang tính đặc thù hơn đối với phụ nữ do sự khác biệt về giới.

Như vậy, đối chiếu với các quy định trong CEDAW có thể thấy chế độ thai sản, hưu trí đối với lao động nữ theo pháp luật Việt Nam hiện hành không chỉ thực hiện đúng nguyên tắc đã được xác định mà còn có nhiều quy định ưu việt hơn.

Với việc tham gia Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ từ năm 1980, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của lao động nữ trên nhiều phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Với sự ra đời của hai đạo luật: Luật Bình đẳng giới (2006) và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007) là những văn bản pháp lý quan trọng tạo tiền đề cho việc thực thi các hoạt động nhằm bảo vệ lao động nữ trong cơ chế thị trường, là sự cụ thể hóa CEDAW trong điều kiện thực tế của Việt Nam. Lê Thị Hoài Thu (Trích Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và sự nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam - Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2012)

10 THÔNG ĐIỆP VỀ “BÌNH ĐẲNG GIỚI”

1. Phụ nữ và nam giới đều bình đẳng tham gia và quyết định mọi công việc trong gia đình và xã hội.

2. Nam giới và phụ nữ cùng chia sẻ công việc trong gia đình và nuôi dạy con cái.

3. Phụ nữ không cam chịu bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử trong gia đình và xã hội.

4. Không khoan nhượng với hành vi ngược đãi phụ nữ và trẻ em gái.5. Gia trưởng là nguyên nhân chính dẫn đến bạo hành trong gia đình.6. Phụ nữ và trẻ em gái có quyền và cơ hội học tập, nâng cao hiểu biết

như nam giới và trẻ em trai.

6Created by Thanh An - 47 -Thanh An Page 475/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/2012 47

Page 48: + Thực hiện quyền bình đẳng với phụ nữ Việt Nam …thuviensonla.com.vn/uploads/news/2013_05/ttso10binhdang.doc · Web viewTuy nhiên, rất biện chứng, Hồ

Vì sự tiến bộ của phụ nữ và xã hội

7. Cha mẹ khuyến khích và tạo điều kiện cho trẻ em gái đến trường và tiếp tục theo học lên cao.

8. Hôn nhân không tự nguyện và tảo hôn là một nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình.

9. Lựa chọn hành vi tình dục an toàn là quyền và trách nhiệm của nam giới và phụ nữ để phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục.

10. Nói KHÔNG với tình dục trước 18 tuổi. (hoilhpn.org.vn)

NHỮNG CUỐN SÁCH BỔ ÍCH DÀNH CHO BẠN

1. Đưa vấn đề giới vào phát triển.- H. : Văn hóa thông tin, 2001.- 385tr.; 24cm

2. Hỏi – Đáp về Luật Bình đẳng giới.- H. : Văn hóa dân tộc. 2009.- 31tr.; 21cm

3. Hồ Chí Minh với cuộc đấu tranh về quyền bình đẳng của phụ nữ/ Nguyễn Thị Kim Dung.- H. : Dân trí, 2010.- 150tr.; 19cm

4. Phụ nữ và một số vấn đề giới trong thập kỷ 2001 – 2010 tại Việt Nam / Nguyễn Thị Ngân Hoa chủ biên.- H. : Khoa học xã hội, 2011.- 183tr.; 21cm

5. Giới, tăng quyền và phát triển: Quan hệ giới từ góc nhìn của dân tộc thiểu số Việt Nam/ Phạm Quỳnh Phương.- H. : Thế giới, 2012.- 82tr.; 23cm

6Created by Thanh An - 48 -Thanh An Page 485/16/2023

Thông tin khoa học chuyên đề số 10/201248