y ban dân tộc undp hrd... · cprgs chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá...
TRANSCRIPT
Ủy ban Dân tộc UNDP
DỰ ÁN VIE02/001 – SEDEMA & EMPCD
“Tăng cường Năng lực cho Ủy ban Dân tộc Xây dựng Thực
hiện và Giám sát Chính sách Dân tộc”
“Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực
vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề xuất
các giải pháp phát triển nguồn nhân lực
vùng DT& MN”
Nhóm nghiên cứu: Trần Thị Hạnh
Phạm Văn Hùng
Nguyễn Cao Thịnh
Hà Quang Khuê
Lò Giàng Páo
Đặng Văn Thuận
Trần Trung Hiếu
Hà Nội, tháng 11/ 2010
I. Lời mở đầu .............................................................................................. 5
II. Bối cảnh chung và sự cần thiết phải nghiên cứu thực trạng nguồn
nhân lực vùng dân tộc và miền núi ............................................................. 6
III. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7
IV. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 8
4.1. Cách tiếp cận .................................................................................................................. 8
4.2 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 9
5.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực ................................................................................ 10
5.2.1. Số lượng nguồn nhân lực vùng DT& MN: ............................................................. 10
5.2.2. Cơ cấu nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi ................................................. 12
- Cơ cấu nguồn nhân lực theo độ tuổi .......................................................................... 12
- Cơ cấu nguồn nhân lực theo giới ............................................................................... 12
- Cơ cấu nguồn nhân lực (lao động) theo các ngành nghề sản xuất ............................. 12
5.3.1. Thực trạng về thể lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi ................... 13
5.3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thể lực nguồn nhân lực DTTS ................................. 15
- Tỷ lệ nghèo đói cao: .................................................................................................. 15
- Phụ nữ ít được quan tâm, kể cả trong thời kỳ mang thai: .......................................... 15
- Hạn chế trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ: .................................................. 15
- Tập quán của một số nhóm DTTS ............................................................................. 16
- Nước sạch và vệ sinh môi trường: ............................................................................. 17
5.4. Thực trạng về trí lực ..................................................................................................... 17
5.4.1. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực ............................. 17
- Về trình độ học vấn: .................................................................................................. 18
- Thực trạng chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực vùng DT& MN: .................... 21
5.4.2. Một số yếu tố chính có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực vùng DT& MN
......................................................................................................................................... 21
- Tỷ lệ nghèo đói cao: .................................................................................................. 21
- Rào cản về ngôn ngữ: ................................................................................................ 21
- Phương pháp giảng dạy chưa lấy học sinh làm trung tâm: ........................................ 22
- Chương trình học chưa thực sự phù hợp với học sinh nhiều nhóm DTTS: ............... 23
- Quan hệ giữa giáo viên và học sinh: .......................................................................... 23
- Điều kiện đi lại và cơ sở vật chất của nhà trường: ..................................................... 24
5.5. Tâm lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi ............................................... 25
5.5.1. Thực trạng về tâm lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi .................. 25
- Về nhận thức, hiểu biết xã hội và kỹ năng sống: ....................................................... 25
- Tính năng động và thích ứng trong môi trường làm việc mới: .................................. 25
- Tác phong và kỷ luật lao động:................................................................................. 25
5.5.2. Hoạt động nâng cao tâm lực cho nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi ........ 26
- Về các hoạt động văn hóa: ......................................................................................... 26
- Hoạt động thể thao phong trào và giáo dục thể chất, kỹ năng sống: ......................... 26
VI. Phân tích và đánh giá các chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng
DTMN hiện nay ........................................................................................ 26
6.1. Các chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân cho vùng dân tộc và miền núi ............... 26
6.1.1. Phát triển cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ
nhân dân: ......................................................................................................................... 27
6.1.2. Bảo hiểm y tế dành cho các hộ nghèo, hộ DTTS: .................................................. 27
6.1.3. Chính sách phòng chống các bệnh phổ biến và tiêm chủng mở rộng: .................. 29
- Chương trình phòng chống sốt rét: ............................................................................ 29
- Chương trình phòng, chống bướu cổ ......................................................................... 30
- Chương trình tiêm chủng mở rộng ............................................................................ 30
- Chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em .................................................... 31
6.1.4. Cải thiện khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường: ............................ 31
6.2. Các chính sách giáo dục, đào tạo ................................................................................. 32
6.2.1. Tăng cường cơ hội học tập cho học sinh DTTS vùng DT& MN thông qua hệ thống
các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú và các điểm trường ................................. 32
6.2.2. Chính sách cử tuyển cho học sinh DTTS họăc ưu tiên điểm theo vùng ................. 35
6.2.3.Chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn ............. 37
6.3.4. Nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh DTTS thông qua chính sách ưu tiên
dạy và học bằng tiếng dân tộc: ........................................................................................ 38
6.3.5. Chính sách hỗ trợ giáo viên dạy tiếng dân tộc và giáo viên vùng núi, hải đảo, vùng
khó khăn, xa xôi, hẻo lánh ............................................................................................... 39
6.3.6. Chính sách đào tạo nghề ........................................................................................ 39
6.4. Các chính sách liên quan đến phát triển tâm lực..................................................... 41
6.5. Một số chính sách có liên quan gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực vùng DT&
MN 42
6.5.1. Các chính sách giảm nghèo: ............................................................................ 42
6.5.2. Chính sách phát triển vùng .............................................................................. 43
6.6. Những vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính sách phát triển NNL vùng DT& MN
hiện nay ................................................................................................................................ 44
VII. Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực DTMN giai đoạn 2011- 2015 và
đến năm 2020 ............................................................................................ 45
7.1 Quan điểm phát triển KTXH đến năm 2020 .................................................................. 45
7.2 Mục tiêu phát triển KTXH 2011- 2015 .......................................................................... 45
7.3 Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN giai đoạn 2011- 2015 và đến năm
2020 ..................................................................................................................................... 46
7.3.1. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN có tay nghề cao .................................. 46
7.3.2. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN biết ngoại ngữ và có kiến thức về công
nghệ thông tin .................................................................................................................. 47
7.3.3. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN nhanh nhạy, linh hoạt, dễ dàng chuyển
đổi phù hợp với nhu cầu của thị trường. .......................................................................... 47
7.3.4. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN có sức khoẻ tốt.................................... 48
VIII. Một số giải pháp chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc
thiếu số giai đoạn 2011 – 2020. ................................................................ 49
8.1. Các chính sách còn hiệu lực cần điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi .................................... 49
8.1.1. Các chính sách dân số và y tế: ............................................................................... 49
8.1.2. Các chính sách giáo dục và đào tạo ................................................................ 49
8.1.3. Các chính sách cán bộ ..................................................................................... 50
8.1.4. Các chính sách cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, phát triển CSHT nông
thôn ......................................................................................................................... 50
8.2. Xây dựng các chính sách mới (đặc thù) ........................................................................ 51
8.2.1. Xây dựng chương trình cải thiện và nâng cao tầm vóc, thể trạng cho người dân
vùng dân tộc và miền núi, trong đó ưu tiên các đối tượng là dân tộc thiểu số, bao gồm:51
8.2.2. Xây dựng chương trình tuyên truyền vận động thực hiện chính sách, thay đổi
một số tập quán không phù hợp với cuộc sống hiện đại, bao gồm: ................................. 51
8.2.3. Một số chính sách nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo: ........................ 52
8.2.4. Các chính sách cán bộ ..................................................................................... 53
8.2.5. Các chính sách cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, phát triển CSHT nông
thôn ......................................................................................................................... 53
IX. Phụ lục và số liệu liên quan ................................................................ 54
CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
Bộ GD-ĐT Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
Bộ LĐ-TB-XH Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Việt Nam)
Bộ KH-ĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam)
Bộ NNPTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bộ TC Bộ Tài chính
CIEM Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (Việt Nam)
CPRGS Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo
CT 30a Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại 61 huyện
nghèo nhất trên toàn quốc để thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
của Chính phủ, ban hành ngày 27/12/2008
CTMTQG-GN Chương trình mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo
DTTS Dân tộc thiểu số
JICA Văn phòng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
MDGs Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
NGO Tổ chức phi Chính phủ
NHTG Ngân hàng Thế Giới
P134 Hỗ trợ tiếp cận với đất đai, nhà ở và nước sạch (CT134) (Quyết định số
134/2004/QĐ-TTG ngày 20/7/2004)
P135-II Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng
bào dân tộc và miền núi (CT135-II) (Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày
10/1/2006)
PTKTXH Phát triển Kinh tế - Xã hội
SIDA Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thuỵ Điển
Sở NNPTNT Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
TCTK Tổng cục Thống kê
UBDT Ủy ban Dân tộc
UNDP Chương trình Phát triển Liên hiệp Quốc
UNFPA Tổ chức Dân số và Gia đình Liên hiệp quốc
UNICEF Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc
VBARD Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
VBSP Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam
VHLSS Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
Báo cáo 3
“Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi
(DTMN) và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng DTMN”
I. Lời mở đầu
Dự án “Tăng cường năng lực cho công tác xây dựng, thực hiện và giám sát các chính
sách DTTS” (VIE02/001 – SEDEMA & EMPCD) do Chương trình phát triển Liên
Hợp quốc (UNDP) tài trợ cho UBDT thực hiện trong giai đoạn 2008-2012 nhằm nâng
cao năng lực cho UBDT và Ban Dân tộc của ba tỉnh Lai Châu, Quảng Nam và Bình
Phước, trong việc xây dựng, thực hiện và giám sát các chính sách dân tộc. Dự án tập
trung vào ba mảng vấn đề liên quan đến năng lực là phát triển thể chế, tăng cường
năng lực lãnh đạo và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ. Dự án hỗ trợ UBDT trong
việc tăng cường năng lực lập chính sách dân tộc thiểu số với các công cụ hoạch định
chính sách dựa trên các nghiên cứu và bằng chứng.
Mục tiêu của Báo cáo “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền
núi và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi”
nhằm phân tích thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi
và các chính sách đang thực hiện của nhà nước về phát triển nguồn nhân lực vùng
Dân tộc và miền núi. Những phát hiện và kiến nghị của báo cáo nghiên cứu này dự
kiến sẽ hỗ trợ UBDT “Nghiên cứu và xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực vùng
dân tộc và miền núi đến năm 2015 định hướng đến năm 2020”.
TS. Trần Thị Hạnh là trưởng nhóm tư vấn cùng các thành viên khác trong nhóm như
TS. Phạm Mạnh Hùng, TS. Nguyễn Cao Thịnh, ThS. Hà Quang Khuê, TS. Lò Giàng
Páo, TS. Đặng Văn Thuận và ThS. Trần Trung Hiếu đã thực hiện “Nghiên cứu thực
trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề xuất các giải pháp phát
triển nguồn nhân lực vùng DT& MN”. Nhóm nghiên cứu đã nhận được sự chỉ đạo của
Vụ Chính sách Dân tộc, các thành viên của Hội đồng Dân tộc và đặc biệt là Ông
Trịnh Công Khanh, Vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu
cũng nhận được sự hỗ trợ của Bà Võ Hoàng Nga và ông Peter Chauldry đại diện
UNDP, Ông Trần Văn Đoài, Bà Trần Đông Phương, các ôngLê Minh Tuấn, Lã
Quang Trung, Peter Chauldry đại diện của Ban Quản lý dự án SEDEMA & EMPCD.
Nhóm tư vấn xin gửi lời cảm ơn đến UNDP, Uỷ ban Dân tộc, Uỷ Ban Nhân Dân và
Ban Dân tộc các tỉnh, Uỷ Ban nhân Dân các huyện và xã, các sở ban ngành tại các cấp
tỉnh và huyện đã có những đóng góp tích cực cho nghiên cứu đánh giá này.
II. Bối cảnh chung và sự cần thiết phải nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực
vùng dân tộc và miền núi
Trong thập kỷ qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích cả trong tăng trưởng kinh tế
và xoá đói giảm nghèo. Tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn 2000- 2010 là 7,2%,
mặc dù trong 2 năm 2008, 2009, tăng trưởng kinh tế có bị giảm mạnh do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ USD 402
năm 2000 lên USD 1064 năm 2009. Việt Nam đang chuẩn bị bước sang giai đoạn là
một nước có thu nhập trung bình.1
Thành tích giảm nghèo cũng rất ấn tượng, với tốc độ giảm nghèo từ 58,1% năm 1993
xuống còn 28,9% vào năm 2002, và 14,5% năm 20082. Trong cùng thời gian này tỷ lệ
đói nghèo lương thực giảm từ 24% xuống còn 6,9%. Mức chênh lệch đói nghèo giữa
các nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất giảm từ 18,4% xuống còn 3,5%.3 Tỷ lệ
người có mức sống dưới 1 đô la Mỹ giảm từ mức 39,9% năm 1993 xuống còn dưới
5% năm 2006 và 4,1% năm 2008. Theo tiêu chí của Bộ Lao động- Thương binh và Xã
hội tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 20,2% năm 2005 xuống còn 9,5% ước tính sẽ đạt được
vào năm 20104. Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo của nhóm DTTS thấp hơn nhiều so với
của dân tộc Kinh và Hoa kiều (từ 86,4% năm 1993 xuống còn 50,3% năm 2008 so
với 53,9% năm 1993 xuống còn 8,9% năm 2008). Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã rất
nỗ lực và quyết tâm giảm nghèo ở các vùng DT& MN và hỗ trợ các nhóm DTTS
thông qua các Chương trình Mục tiêu Quốc gia (CTMTQG), như CTMTQG về Giảm
nghèo, CTMTQG 135, các hoạt động hỗ trợ giảm nghèo cho 62 huyện khó khăn nhất
theo Nghị quyết 30a…, tỷ lệ nghèo của các nhóm DTTS vẫn còn cao (53,9% năm
2008) và chênh lệch giữa tỷ lệ nghèo trong các nhóm DTTS và các nhóm dân tộc
Kinh và Hoa kiều còn lớn (gần gấp 6 lần).
Mặc dù chênh lệch giữa tỷ lệ nghèo trong các nhóm DTTS và các nhóm dân tộc Kinh
và Hoa kiều còn lớn và giảm chậm nhưng tốc độ tăng mức chi tiêu bình quân của cả
hai nhóm lại khá đồng đều (đều khoảng 2 lần trong giai đoạn 1993- 2008) và chênh
lệch về mức chi tiêu bình quân giữa hai nhóm là khoảng 2 lần.5
Chênh lệch về tỷ lệ nghèo giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt giữa vùng khó khăn
và vùng thuận lợi là khá cao. Giữa nông thôn và thành thị tỷ lệ nghèo là gần gấp 6 lần
vào năm 2008, còn giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Nam bộ là gần 15 lần. Đặc biệt,
Chênh lệch về tỷ lệ nghèo giữa các vùng ngày lớn. Nếu năm 1993 chênh lệch về tỷ lệ
nghèo giữa thành thị và nông thôn và giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Nam bộ là
khoảng hơn 2 lần và gần 2 lần, thì đến năm 2008, các con số này là 6 và 15 lần. Trong
khi đó phần lớn đồng bào DTTS sống ở vùng nông thôn và núi cao và tỷ lệ người
DTTS ở vùng Tây Bắc là cao nhất trong cả nước. Điều này cho thấy những cải thiện
1 Báo cáo đánh giá thực hiện kế hoạch 2006- 2010, Bộ KHĐT, 2010 2 TCTK, 2010, Kết quả Điều tra mức sống hộ gia đình 2008 3 Báo cáo Thiên niên kỷ 2010, Bộ KHĐT 4 Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 2006- 2010 của Bộ LĐ-TB-XH, Dự thảo Kế hoạch 2011- 2015,
7/2010 5 Báo cáo Thiên niên kỷ 2010, Bộ KHĐT
về điều kiện sống và giảm nghèo ở những vùng nông thôn và vùng khó khăn nhất sẽ
giúp cải thiện về điều kiện sống và giảm nghèo cho đồng bào DTTS.
Tuy nhiên, theo đánh giá của một số chuyên gia “nguyên nhân đói nghèo của đồng
bào DTTS không thể chỉ giải thích bằng các yếu tố địa lý”6, mà cả các khía cạnh khác
nữa như nguồn nhân lực. Điều này thể hiện khá rõ thông qua sự chênh lệch về mức độ
nghèo đói giữa các nhóm DTTS ở một số vùng khó khăn nhất, như Tây Bắc và Tây
Nguyên. Chẳng hạn, ở Hà Giang tỷ lệ nghèo trong nhóm người H’Mông là 42% trong
khi đó người Tày là 19%. Còn ở Tây Nguyên tỷ lệ nghèo trong nhóm người Ê đê, Gia
ra, Banar cao hơn trong số các nhóm DTTS khác (Bault, Pham, và Reilly, 2008b).
Chỉ tính riêng vấn đề năng lực sử dụng ngôn ngữ phổ thông cũng cho thấy vai trò của
nguồn nhân lực đối với việc nâng cao mức sống cho đồng bào DTTS. Theo Bob Bault
và nhóm đồng tác giả (Bob Bault và các tác giả, 2009) các hộ gia đình DTTS ở nông
thôn không nói được tiếng Việt (phải qua phiên dịch) có khả năng nghèo hơn 1,9 lần
so với các hộ biết tiếng Việt và 7,9 lần so với các hộ người Kinh và người Hoa sống ở
nông thôn.7
Phát triển nguồn nhân lực DTTS sẽ là một trong những định hướng chính sách đúng
đắn nhằm giúp cải thiện đời sống cho đồng bào DTTS. Với vai trò là cơ quan tư vấn
cho Chính phủ trong việc xây dựng, thực hiện và theo dõi- đánh giá thực hiện các
chính sách liên quan đến DTTS, Uỷ ban Dân tộc đã được UNDP hỗ trợ thực hiện Dự
án “Tăng cường năng lực cho công tác xây dựng, thực hiện và giám sát các chính sách
DTTS”. Trong khuôn khổ dự án này, “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng
dân tộc thiểu số (DTTS) và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng
DT& MN” đã được thực hiện nhằm giúp UBDT xây dựng Đề án phát triển nguồn
nhân lực vùng DT& MN” với các đề xuất chính sách liên quan đến DTTS trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
III. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu này là:
- Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực hiện nay vùng dân tộc và miền núi
- Xác định nhu cầu phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi đến năm
2015 và 2020
- Đề xuất các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi
Phạm vi của nghiên cứu là toàn vùng dân tộc và miền núi, gồm 51/63 tỉnh thành phố
trực thuộc trung ương (gồm các tỉnh miền núi và các tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống), có tính đến việc xem xét, nghiên cứu theo các vùng kinh tế xã hội của cả
nước.
6 Ethnics and Development in Vietnam”, Báo cáo Phân tích quốc gia của NHTG, 2009
7 Bob Baulch và các tác giả (2009), Nghèo ở các dân tộc thiểu số tại Việt Nam
Đối tượng nghiên cứu là nguồn nhân lực hay chính là yếu tố con người của vùng dân
tộc và miền núi, trong đó chủ yếu tập trung ưu tiên vào đối tượng nguồn nhân lực dân
tộc thiểu số trong cả nước.
IV. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận
Để đạt mục tiêu đặt ra nhóm tư vấn đã tiến hành đánh giá thực trạng nguồn nhân lực
dân tộc thiểu số trong mối quan hệ tương tác với các yếu tố quốc tế, trong nước và địa
phương có liên quan. Các yếu tố này bao gồm các yếu tố văn hóa, kinh tế, địa lý và
dân số- xã hội (xem Hình 1).
Hình 1: Khung khái niệm về nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
Áp dụng định nghĩa về phát triển nguồn nhân lực nêu trên, các hoạt động phát triển
nguồn nhân lực đã được xem xét như một chuỗi các quá trình tạo ra nguồn lao động
khỏe về thể chất, lành mạnh về tinh thần, đạt trình độ giáo dục cao, được đào tạo nghề
nghiệp, có lối sống và tác phong phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong
giai đoạn mới. Do đó, trong phạm vi Nghiên cứu này, nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
đã được đánh giá, phân tích từ các góc độ có liên quan mật thiết với nhau, như sau:
- Số lượng nguồn nhân lực: bao gồm việc nghiên cứu quy mô dân số, cơ cấu dân số,
phân bổ dân số theo vùng, xu hướng di cư, sở thích của người dân vùng DT& MN
về môi trường sinh sống và các chính sách có ảnh hưởng, như chính sách dân số,
chính sách phát triển miền núi và vùng dân tộc thiểu số…
- Thực trạng thể chất và các chính sách giúp phát triển thể chất: bao gồm việc đánh
giá tình trạng dinh dưỡng, bệnh tật, tuổi thọ và các yếu tố có ảnh hưởng đến tình
trạng thể chất như tỷ lệ đói nghèo, khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế, nước
sạch, môi trường, giao thông, truyền thông…, các chính sách và hoạt động can
thiệp của nhà nước về dân số, y tế, giáo dục, truyền thông và phát triển nông thôn
nói chung.
- Thực trạng về tinh thần, lối sống, tác phong làm việc…
- Trình độ học vấn và chuyên môn, nghề nghiệp: bao gồm việc đánh giá thực trạng
về trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng đáp ứng yêu cầu làm việc
trong một môi trường công nghiệp và các chính sách có tác động nhằm nâng cao
khả năng làm việc, như các chính sách quốc gia và địa phương về giáo dục, đào
tạo, tuyên truyền, chính sách lao động và việc làm…
Để có được các minh chứng về thực trạng nguồn nhân lực DTTS, tác dụng của các
chính sách DTTS đã ban hành và mong muốn của người dân cũng như cán bộ chính
quyền vùng DT& MN, nhóm nghiên cứu đã đi thực tế tại 6 tỉnh (ở cả 3 cấp tỉnh,
huyện và xã), ở mỗi tỉnh đánh giá 2 xã – là các địa phương thuộc vùng DT& MN, bao
gồm các tỉnh Lai Châu, Hà Giang, Nghệ An, Quảng Nam, ĐắkLắk và An Giang.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, nhóm nghiên cứu đã áp dụng một số
phương pháp nghiên cứu như sau:
Rà soát, tổng hợp các tài liệu hiện có, bao gồm:
- Các báo cáo nghiên cứu, đánh giá về năng lực, báo cáo tiến độ được soạn thảo
trong khuôn khổ dự án “Tăng cường năng lực cho công tác xây dựng, thực
hiện và giám sát các chính sách DTTS”.
- Các báo cáo nghiên cứu trong và ngoài nước
- Báo cáo kết quả điều tra dân số 2009 và điều tra mức sống hộ gia đình 2008;
- Các báo cáo đánh giá giữa kỳ, cuối kỳ việc thực hiện các Chương trình, dự án
lớn có liên quan;
- Các tài liệu của Nhà nước và chính quyền các cấp có liên quan đến chiến lược,
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cho các vùng DT& MN;
Điều tra và khảo sát thực địa tại 6 tỉnh là Hà Giang, Lai Châu, Quảng Nam,
Nghệ An, Đăk Lăk và An Giang.
Hội thảo tham vấn và/hoặc các cuộc họp với các cán bộ UBND, HĐND và đại
diện một số tổ chức quần chúng cấp xã, huyện và cấp tỉnh đã được tổ chức
trong quá trình đi nghiên cứu thực tế tại 6 tình.
Phỏng vấn có định hướng (Guided interview): nhóm nghiên cứu đã thảo luận
với các cán bộ của một số các cơ quan, đơn vị thuộc chính quyền trung ương
và địa phương, các cơ quan tài trợ, các tổ chức phi chính phủ … và đã thu
nhận được nhiều ý kiến đánh giá và phản hồi.
V. Thực trạng nguồn nhân lực vùng DTMN
5.1. Khái niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và
miền núi
5.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của mỗi cá nhân đảm
bảo nguồn sáng tạo, cùng các nội dung khác cho sự thành công, đạt được mục tiêu
của tổ chức (Milkovich T. George và Boudreau John, 1996). Nguồn nhân lực còn có
thể được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả
năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995). Ở đây cần
phân biệt khái niệm nguồn nhân lực và lực lượng lao động. Lực lượng lao động được
xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu
nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Nguồn nhân lực là những người đã,
đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động.
Khi nói đến nguồn nhân lực, tức là nói đến vốn con người. Các yếu tố phản ánh nguồn
nhân lực được thể hiện gồm số lượng, chất lượng và cơ cấu, trong đó số lượng thể
hiện ở quy mô; chất lượng thể hiện ở sức khoẻ, thể lực, trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết,
đạo đức, kỹ năng, thẩm mỹ... và thể lực, trí lực, tâm lực là ba yếu tố quan trọng nhất.
5.1.2. Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực
Từ khái niệm về nguồn nhân lực nói chung, chúng ta có thể hiểu nguồn nhân lực vùng
dân tộc và miền núi bao gồm nguồn nhân lực dân tộc thiểu số và nguồn nhân lực dân
tộc đa số (dân tộc Kinh) hiện đang có tại vùng dân tộc và miền núi nước ta (gồm 51
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
Theo định nghĩa của Ủy ban Dân tộc “Phát triền nguồn nhân lực là quá trình tạo ra
nguồn lao động khỏe về thể chất, lành mạnh về tinh thần, đạt trình độ giáo dục cao,
được đào tạo nghề nghiệp, có lối sống và tác phong phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội trong giai đoạn mới (hội nhập quốc tế, đẩy mạnh tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa) (UBDT, 2009).” Phát triền nguồn nhân lực đòi hỏi phải có sự phối
hợp liên ngành vì đó là quá trình kết hợp giữa giáo dục và đào tạo trong một bối cảnh
có các chính sách y tế và lao động đầy đủ và phù hợp, đảm bảo liên tục hoàn thiện và
phát triển nguồn lực của cá nhân, tổ chức và quốc gia.
5.2. Số lượng, cơ cấu và sự phân bổ nguồn nhân lực của toàn vùng dân tộc và
miền núi
5.2.1. Số lượng nguồn nhân lực vùng DT& MN:
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2009 cả nước có 51 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có dân tộc và miền núi với tổng số 68.194.369 người sinh sống,
chiếm tỷ lệ 79,43% so với tổng dân số cả nước, trong đó số dân là DTTS chiếm
17,96% (xem Bảng 1- Phần Phụ lục). Hiện tại, có 53 thành phân dân tộc thiểu số sinh
sống trên địa bàn cả nước. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 tổng
số dân tộc thiểu số là 12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số cả nước và chiếm
gần 18% dân số các tỉnh có dân tộc và miền núi.
Gần một nửa dân số DTTS (48,6%) sống tại vùng trung du miền núi phía Bắc.
Khoảng 30% (29,3%) sống tại các vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung và Tây
Nguyên. Như vậy, có đến gần 80% dân số DTTS sống tại 3 vùng khó khăn nhất trong
cả nước. Hầu hết các tỉnh trong ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ và
Duyên hải miền trung và Tây Nguyên có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt hơn (núi non
hiểm trở, xa xôi hẻo lánh, hoặc là vùng chịu nhiều thiên tai như bão, lũ). Các điều
kiện phục vụ sản xuất, kinh doanh như đường xá, các công t nh thuỷ lợi, điện, cấp
nước sạch... cũng kém hơn ở các tỉnh hai vùng đồng bằng và vùng Đông Nam bộ. Ví
dụ như ở Lai Châu, chỉ có 53% hộ gia đình sử dụng điện nối mạng quốc gia, trong khi
tỷ lệ này lên đến 100% ở một số tỉnh, như Vĩnh Phúc, Hải Phòng8... Cơ sở hạ tầng
kém, điều kiện sinh hoạt khó khăn và địa hình hiểm trở đã làm hạn chế điều kiện và
khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức
khoẻ và môi trường... của người dân vùng DT& MN. Điều này không chỉ ảnh hưởng
đến chất lượng, mà cả số lượng dân số vùng DT& MN.
Mười tỉnh có tỷ lệ dân số là DTTS cao nhất nước là Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Kạn,
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lạng Sơn, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, đều thuộc vùng
trung du miền núi phía Bắc. Mười hai tỉnh có trên 50% dân số là DTTS. Hầu hết các
tỉnh có tỷ trọng cao về dân số là DTTS đều là các tỉnh nghèo.
Năm nhóm dân tộc thiểu số có số dân khá lớn (trên 1 triệu người) là Tày, Thái,
Mường, Khmer và H’Mông (xem bảng 2- Phần Phụ lục). Các nhóm dân tộc này đều
có chữ viết riêng. Nhóm người Tày, Thái, Mường có mức sống, trình độ văn hoá...
không thua kém so với mức trung bình trong cả nước. Mặc dù người Hoa chỉ chiếm
chưa đến 1% dân số, nhưng trong số liệu thống kê về thu nhập bình quân đầu người,
tỷ lệ nghèo đói, tỷ lệ tiếp cận các điều kiện dịch vụ xã hội... nhóm người Hoa và
người Kinh được xếp chung vào một nhóm lớn vì có mức thu nhập và trình độ phát
triển tương đồng với người Kinh, còn lại 52 nhóm DTTS khác được gộp vào một
nhóm lớn.
Năm nhóm dân tộc (Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu) có số dân rất ít (dưới 1.000
người) đã được đưa vào danh sách cần quan tâm đặc biệt. Trong giai đoạn 2006- 2010
Chính phủ đã thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển dân tộc thiểu số Si La, Pu
Peo, Rơ Măm, Brâu và Ơ Đu bên cạnh các chương trình hỗ trợ giảm nghèo toàn quốc
khác.
Sáu nhóm dân tộc (Lô Lô, Mảng, Cơ Lao, Bố Y, Cống, Ngái) có số dân từ 1.000 đến
dưới 5.000 người tuy chưa được quan tâm đặc biệt như năm nhóm dân tộc ít người
nhất, nhưng cũng rất đáng lo lắng bởi tốc độ tăng dân số của các nhóm này có xu
hướng chậm hơn, cá biệt một số dân tộc có dân số trong tình trạng tăng rất chậm như:
Mảng, Cống, Cờ Lao, Bố Y.... Số dân thuộc một số nhóm dân tộc rất ít người đã giảm
đi đáng kể trong 10 năm qua, như nhóm dân tộc Pu péo (18 người hay gần 3% tổng số
dân Pu Péo) và nhóm dân tộc Si La (131 người hay 18,5%) .
8 Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, TCTK, 2008
5.2.2. Cơ cấu nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi
- Cơ cấu nguồn nhân lực theo độ tuổi
Giống như cơ cấu nguồn nhân lực của cả nước nói chung, nguồn nhân lực toàn vùng
DT& MN và miền núi cũng đang ở trong giai đọan “cơ cấu dân số vàng” (xem Bảng
3- Phần Phụ lục) với 31,03% dân số ở độ tuổi từ 15 trở xuống, trong đó 25,38% dân
số có độ tuổi từ 12 đến 15 (độ tuổi đi học trung học cơ sở). Trong số 8.452.266 người
từ 15 tuổi trở lên gần 10% (4.305.552 người) ở độ tuổi đi học trung học phổ thông
(16-18 tuổi).9
Đối với nguồn nhân lực DTTS, cơ cấu này có khác đôi chút, với 25,55% dân số ở độ
tuổi từ 15 trở xuống, trong đó 28,84% dân số có độ tuổi từ 12 đến 15 (độ tuổi đi học
trung học cơ sở). Trong số 50.769.895 người từ 15 tuổi trở lên (74,45% tổng dân số)
gần 10% ở độ tuổi đi học trung học phổ thông (16-18 tuổi). Cơ cấu này cho thấy
không nằm trong thực trạng “Cơ cấu dân số vàng” như của vùng dân tộc và miền núi
cũng như của cả nước.
- Cơ cấu nguồn nhân lực theo giới
Nguồn nhân lực dân tộc thiểu số có cơ cấu mất cân bằng về giới, với tỷ lệ nam giới rất
thấp, chỉ chiếm 42,8%, trong khi đó tỷ lệ nữ chiếm 57,2%. Kết quả này cho thấy cơ
cấu giữa nữ - nam trong dân tộc thiểu số chênh lệch rất lớn (14,4%) so với chênh lệch
chung giữa nữ - nam của cả nước (1,18%) và của các tỉnh vùng dân tộc và miền núi
(0,7%). Một số dân tộc có độ chênh lệch giữa nam và nữ cao và rất cao như: Xtiêng
16,88%, Mnông 16,42%, Chu Ru, Tà Ôi, Lô Lô trên 16%, Khmer - 15,88%, Raglay
- 15,72%.10
Một số dân tộc có tỷ lệ nam giới cao hơn nữ giới, như: Ơ Đu (nam -
58,2%, nữ - 41,8%), Si La (nam - 52,3%, nữ - 47,7%) ... Điều này đã và đang tác
động không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số hiện nay. Nguyên
nhân mất cân bằng về giới trong các nhóm DTTS là do đàn ông của các nhóm DTTS,
đặc biệt là các nhóm theo chế độ mẫu hệ ít phải làm nương rẫy và việc nhà. Cơ hội để
họ được làm việc và giao tiếp xã hội thấp dẫn đến tình trạng tinh thần trì trệ, dễ mắc
bệnh nghiện rượu đối với đàn ông trong các nhóm DTTS.
- Cơ cấu nguồn nhân lực (lao động) theo các ngành nghề sản xuất
Lao động trong vùng dân tộc và miền núi chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông
nghiệp, đặc biệt là 2 vùng có số lượng và tỷ lệ dân tộc thiểu số cao nhất cả nước là
Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên với trên 70% lao động nông nghiệp,
trong khi trên cả nước là 51,9% (Bảng 4- Phần Phụ lục).
Chỉ riêng đối với đội ngũ cán bộ (lao động làmcông tác lãnh đạo, quản lý) tỷ lệ này ở
vùng dân tộc và miền núi chiếm tỷ lệ không thấp hơn so với các vùng khác (0,92% so
với 0,92% trong cả nước) phần nào nhờ chính sách ưu tiên DTTS trong công tác cán
bộ. Các tỉnh đông người dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ lao động
9 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 10 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
làm công tác lãnh đạo, quản lý thấp nhất (tỷ lệ 0,56%), tiếp đến là các tỉnh vùng Tây
Nguyên (tỷ lệ 0,76%) và trung du và miền núi phía Bắc (tỷ lệ 0,85%).
Chính sách ưu tiên DTTS cũng được thực hiện trong việc tuyên truyền bầu cử đại
biểu quốc hội và HĐND các cấp. Trong tổng số các đại biểu Quốc hội khóa XII (493
người), có 87 đại biểu là người dân tộc thiểu số (tỷ lệ 17,7%), thuộc 32/53 thành phần
dân tộc. Ở cấp địa phương, tỷ lệ dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng nhân dân các cấp
còn cao hơn. Tại nhiệm kỳ 2004 - 2009 tỷ lệ này là 20,53% ở cấp tỉnh, 20,18% ở cấp
huyện và 24,4% ở cấp xã.
Tỷ lệ thành viên ủy ban nhân dân các cấp là người dân tộc thiểu số thấp hơn, tương
ứng bằng: 10,9% (cấp tỉnh), 11,32% (cấp huyện), 17,9% (cấp xã). Điển hình có tỉnh
như Cao Bằng tỷ lệ thành viên là dân tộc thiểu số tham gia ủy ban nhân nhân đạt gần
100%. Thực tế này cho thấy tỷ lệ người dân tộc tham gia hội đồng nhân dân các cấp
(tính cơ cấu được ưu tiên) cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia vào ủy ban
nhân dân (trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý được ưu tiên).
Hình 2: Cơ cấu ngành nghề làm việc theo vùng
5.3. Thể lực nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi
5.3.1. Thực trạng về thể lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi
Thể lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi được đánh giá dựa vào một số
chỉ báo chính như tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ suất chết trẻ em, tình trạng bệnh tật và tuổi
thọ bình quân. Về tỷ lệ suy dinh dưỡng, khi xem xét ở 3 tiêu thức đo lường là suy
dinh dưỡng cân nặng/độ tuổi, suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi và suy dinh dưỡng cân
nặng/chiều cao thì tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em vùng dân tộc và miền núi hàng
năm có giảm đi nhưng vẫn cao so với mức trung bình trong cả nước (Bảng 5- Phần
Phụ lục).
Đối với một số nhóm dân tộc thiểu số rất ít người tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em còn cao
hơn rất nhiều như dân tộc Mảng- 40,03%, La Hủ- 44%, Cờ Lao- 47,37%... Tỷ lệ suy
dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 24 tháng trong các nhóm DTTS có giảm đôi
chút, từ 35% năm 1998 xuống còn 33% năm 2006, nhưng lại tăng lên đối với nhóm
trẻ em từ 24 tháng trở lên, từ 54% năm 1998 lên 57% năm 2006. Ngược lại, tỷ lệ suy
dinh dưỡng thể gầy còm của trẻ em dưới 24 tháng trong các nhóm DTTS tăng lên, từ
13% năm 1998 lên 18% năm 2006, và giảm đi đối với nhóm trẻ em từ 24 tháng trở
lên, từ 11% năm 1998 xuống còn 10% năm 2006.11
Các tỷ lệ này cao hơn khá nhiều
so với tỷ lệ của trẻ em người Kinh và Hoa, cao nhất là tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp
còi của trẻ em dưới 24 tháng năm 1998 với mức chênh là 6% . Đây là một trong
những nguyên nhân gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển về thể chất, trí tuệ… của
nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi và của dân tộc thiểu số rất ít người.
Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng ở mức cao, trong đó một số tỉnh tại 2 vùng miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cao hơn gấp đôi, thậm
chí gần gấp ba mức trung bình trong cả nước, như Lai Châu (47,7%), Điện Biên
(39,7%), Hà Giang (37,5%), Kon Tum (38,2%)… (Bảng 5- Phần Phụ lục)
Tuổi thọ của người DTTS cũng thấp hơn so với tuổi thọ bình quân chung cả nước.
Mức độ chênh lệch giữa tuổi thọ của nam giới và nữ giới cũng cao hơn so với mặt
bằng chung. Nhiều địa phương đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống có tuổi thọ
bình quân rất thấp như: Lai Châu - 63,8 tuổi, Lào Cai - 65,8 tuổi, Hà Giang - 66,3
tuổi,… Đối với một số dân tộc ít người, đang cư trú trong các địa bàn khó khăn như
Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao, Pu Péo, Rơmăm, Ơ Đu… tuổi thọ bình quân thấp tới
mức báo động (thường chỉ khoảng 50 - 55 tuổi, trong đó tuổi thọ của nam giới thấp
hơn nữ giới rất nhiều).12
Tuổi thọ của dân tộc thiểu số thấp, trong khi tình trạng sinh đẻ chưa được kiểm soát là
một trong những nguyên nhân làm cho cơ cấu dân số ở độ tuổi dưới 15 cao và trên 15
tuổi thấp hơn so với cả nước như đã nêu trong mục 5.2.2.
Mô hình bệnh tật phổ biến của vùng dân tộc và miền núi bao gồm các loại bệnh như
lao, sốt rét, viêm não Nhật Bản, sốt xuất huyết, tả, lỵ, thương hàn, giun ký sinh, trùng
đường ruột, bướu cổ, phong, phụ khoa, bệnh dạ dày, viêm ruột thừa, ngộ độc (thức ăn,
thuốc trừ sâu, củ ấu tầu...), uốn ván, suy dinh dưỡng... Nguyên nhân khiến tỷ lệ mắc
bệnh ở những vùng DT& MN cao hơn so với các vùng khác là: do nhà ở chật trội, tạm
bợ, ẩm thấp, những hạn chế về điều kiện vệ sinh môi trường và tiếp cận nước sạch, tệ
nạn nghiện hút, uống rượu, ngại sử dụng dịch vụ y tế hiện đại… Hơn nữa, phần lớn
các hộ gia đình DTTS là hộ nghèo, thẻ bảo hiểm y tế không đủ trang trải mọi chi phí
cho người bệnh khi phải vào bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện cấp cao. Theo thống kê
của Bộ Y tế, tỷ lệ người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa ốm không được khám chữa
bệnh cao gấp 4-5 lần miền xuôi13
. Ngoài các bệnh nói trên, gần đây, tại các vùng
DT& MN đã xuất hiện mô hình bệnh tật của các nước phát triển như suy tim, cao
huyết áp, phù phế quản, tắc nghẽn phế quản, đái tháo đường, nhiễm HIV...
Chiều cao trung bình của thanh niên độ tuổi 18-22 ở các vùng miền núi và DTTS
cũng thấp hơn ở một số vùng khác. Ví dụ như theo thống kê về chiều cao năm 2003,
11 Bob Baulch và các tác giả (2009), Nghèo ở các dân tộc thiểu số tại Việt Nam
12 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
13 Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan ngành y tế
chiều cao trung bình của thanh niên độ tuổi 18-22 ở đồng bằng sông Hồng là 164,3
cm (nam) và 153,2 cm (nữ), trong khi đó ở vùng Tây Bắc chiều cao trung bình của
nam thanh niên là 161,8 cm và của nữ thanh niên ở vùng Đông Bắc là 151,7 cm. Theo
Giáo sư tiến sĩ khoa học Hà Huy Khôi, Phó chủ tịch Hội Dinh dưỡng VN, yếu tố môi
trường (vệ sinh, dinh dưỡng), chứ không phải yếu tố di truyền ảnh hưởng nhiều đến
sự cải thiện của chiều cao.14
5.3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thể lực nguồn nhân lực DTTS
- Tỷ lệ nghèo đói cao:
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ trẻ em DTTS suy dinh dưỡng và tỷ suất
chết trẻ em dưới 1 và 5 tuổi cao, tuổi thọ trung bình thấp... là do nghèo đói. Mặc dù
Việt Nam đã đạt được thành tích giảm nghèo gây ấn tượng đối với thế giới và tỷ lệ
nghèo đói, kể cả trong các nhóm DTTS, đã giảm mạnh trong gần hai thập kỷ qua, trên
50% dân số thuộc các nhóm DTTS vẫn sống dưới ngưỡng nghèo đói15
. Nghèo đói làm
cho nhiều trẻ em không được chăm sóc đầy đủ ngay từ khi còn là thai nhi. Nghèo đói
làm cho người dân, kể cả trẻ em không được ăn uống đầy đủ, thiếu dưỡng chất, vì
vậy, nhiều người DTTS gầy, yếu, rất dễ mắc các bệnh do sức đề kháng kém. Nghèo
đói dẫn đến bệnh nặng hơn, khó cứu chữa, do không được phòng bệnh và chữa bệnh
kịp thời, đầy đủ. Sức khoẻ kém do nghèo đói càng làm cho người dân trở nên nghèo
đói hơn do không có sức lao động tốt và tốn chi phí cho khám chữa bệnh.
- Phụ nữ ít được quan tâm, kể cả trong thời kỳ mang thai:
Ngoài nguyên nhân nghèo đói các chỉ số dinh dưỡng thấp đối với trẻ dân tộc thiểu số
có thể xuất phát một số yếu tố khác như chiều cao của bố mẹ, tình trạng dinh dưỡng
của người mẹ khi mang thai và suốt 3 tháng đầu của thai kỳ, trình độ học vấn của
người mẹ, môi trường sống,... Nhiều bà mẹ DTTS không được chăm sóc, ăn uống đầy
đủ và phải làm các công việc nặng nề. Mới có khoảng 53% bà mẹ có đi khám thai
trong quá trình mang thai16
. Một số nhóm DTTS theo truyền thống mẫu hệ, phụ nữ
phải cáng đáng hầu hết các công việc nội trợ gia đình và làm nương. Do phải đi làm
nương xa, nhiều phụ nữ mang thai không có thời gian để đi khám thai.
- Hạn chế trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ:
Mặc dù ở hầu hết cả xã vùng DT& MN, kể cả các xã vùng cao, hiểm trở đều đã có
trạm xá xã, người dân trong vùng DT& MN, đặc biệt là sống ở trên núi cao, ít có điều
kiện tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Đường xá xa xôi gây trở ngại lớn cho người
DTTS đi khám, chữa bệnh tại trạm xá xã, nhất là đi chữa bệnh tại các bệnh viện
huyện, tỉnh và trung ương. Hơn nữa, chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của trạm
xá xã cũng còn hạn chế, mặc dù Chính phủ đã nỗ lực hỗ trợ tăng cường chất lượng
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ sở thông qua chính sách bố trí bác sỹ về làm việc tại
các trạm xá xã. Tuy nhiên, nhiều xã vùng cao vẫn chưa có bác sỹ vì khó thu hút được
cán bộ y tế từ miền xuôi lên. Chính sách cử tuyển cũng giúp các địa phương vùng
14 Điều tra y tế quốc gia 2003 - Bộ Y tế
15 TCTK, 2010, Báo cáo Điều tra Mức sống hộ gia đình
16 Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan ngành y tế
DT& MN giải quyết một số khó khăn về thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ đạt
chuẩn làm việc cho cấp xã, nhưng vẫn chưa đủ hiệu lực vì một số sinh viên cử tuyển
sau khi tốt nghiệp không muốn về làm việc ở cấp xã.
- Tập quán của một số nhóm DTTS
Nghèo đói cùng với điều kiện tự nhiên khó khăn (xa xôi, đường xá đi lại khó khăn)
càng làm cho nhiều nhóm DTTS duy trì tập quán chữa bệnh không sử dụng dịch vụ y
tế hiện đại. Khoảng gần 40% đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và
khoảng 20% đồng bào các tỉnh Tây Nguyên tự chữa bệnh, mà không đến cơ sở y tế17
.
Tình trạng tự sinh con tại nhà thiếu sự giúp đỡ của các nhân viên y tế vẫn xảy ra, đặc
biệt vùng sâu, vùng xa và một số dân tộc thiểu số, ví dụ như người Mơ Nông, Cờ Ho
ở Quảng Nam. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ suất chết trẻ dưới 1
tuổi và tỷ suất chết mẹ cao trong các nhóm DTTS. Khoảng cách đến trạm y tế xã xa
chỉ là nguyên nhân thứ yếu, mà chủ yếu do phong tục tập quán. Ở Tahbin hay Cà Di,
huyện Nam Giang, Quảng Nam, nhiều phụ nữ sinh con tại nhà mặc dù nhà chỉ cách
trạm xá xã 1-2 km.
Tình trạng tảo hôn chưa được kiểm soát thể hiện ở tỷ lệ kết hôn trước 19 tuổi còn cao:
15% đối với nam, 36,8% đối với nữ ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc và 10%
đối với nam, 31,8% đối với nữ ở Tây Nguyên...18
Có một số trường hợp kết hôn ở độ
tuổi 13-14 (Hộp 1). Tình trạng tảo hôn tồn tại là do nhiều nhóm dân tộc thiểu số có
tập tục bắt vợ từ sớm và do nhận thức, hiểu biết về pháp luật của người dân còn hạn
chế…. Vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp hôn nhân cận huyết thống trong một số
nhóm dân nhóm rất ít người (dưới 10 nghìn người như Mảng, La Hủ, Cờ Lao, Kháng,
Mông, Dao, Xinh Mun Gia Rai, Ê Đê, Lô Lô…) dẫn đến tình trạng giảm dân số của
các nhóm DTTS này.
Hộp 1: Tảo hôn ở huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu)
Bản Hua Bon, xã Phúc Khoa, tỉnh Lai Châu là nơi có 100% người Mông sinh sống.
Hầu hết phụ nữ đã kết hôn trước 16 tuổi, có trường hợp kết hôn từ năm 13 tuổi. Số
con bình quân của một phụ nữ ở bản là 5 đến 6 con. Ở xã Hố Mít, huyện Tân Uyên,
nơi đồng bào dân tộc Mông sinh sống tình trạng tảo hôn cũng xảy ra phổ biến, hầu
hết nữ giới kết hôn trước 16 tuổi, thậm chí con của các đồng chí lãnh đạo cũng tảo
hôn. Trên địa bàn vùng cao, đồng bào dân tộc không làm giấy khai sinh, vì thế
chính quyền không có cơ sở để xử lý các cặp vợ chồng tảo hôn.
(Nguồn: Phỏng vấn các cán bộ huyện Tân Uyên)
Đông con cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng tỷ lệ nghèo đói, tăng tỷ lệ
suy dinh dưỡng trẻ em. Ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc quy mô bình quân một
17 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
18 Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2010), Báo cáo Kết quả thực hiện chiến lược xây dựng gia đình
Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010
hộ là 4 người, với 31,4 % số hộ có từ 5 con trở lên, còn ở Tây Nguyên quy mô bình
quân một hộ là 4,1 người, với 35,9 % số hộ có từ 5 con trở lên.19
Phần lớn thanh niên
vùng dân tộc và miền núi nhất là vùng sâu vùng xa, khó khăn về hạ tầng cở sở chưa
được tiếp cận các kiến thức trước hôn nhân, nhất là kiến thức về sức khỏe sinh sản và
kỹ năng làm mẹ cho nữ thanh niên chưa lập gia đình. Học sinh trong các trường phổ
thông cũng ít được giáo dục về sức khỏe sinh sản và các kiến thức có liên quan.
Ở một số nơi, các tệ nạn nghiện hút, nghiện rượu vẫn tái diễn làm huỷ hoại sức khoẻ
của nhiều người, đặc biệt làm nam giới DTTS. Đàn ông trong một số dân tộc theo
truyền thống mẫu hệ rất ngại làm nương và việc nhà, vì theo truyền thống họ phải
chịu trách nhiệm đi săn, đi rừng. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn diện tích rừng đã được
giao khoán trực tiếp và ngày càng bị thu hẹp làm cho họ trở nên thất nghiệp. Một số
cùng vợ đi làm nương, một số ngồi nhà chờ được thuê việc. Vì vậy, rất nhiều người
trong số họ đã lấy rượu giải khuây. Đây cũng là một trong những nguyên dẫn đến
chênh lệch lớn về tuổi thọ bình quân giữa nam và nữ DTTS và tỷ lệ nam giới trong
tổng dân số DTTS thấp hơn nữ giới nhiều.
- Nước sạch và vệ sinh môi trường:
Tình trạng ăn ở và thói quen sinh hoạt chưa đảm bảo vệ sinh, cùng với tình trạng thiếu
nước sạch đã dẫn đến các loại bệnh như lao, sốt rét, viêm não Nhật Bản, sốt xuất
huyết, tả, lỵ, thương hàn, giun ký sinh, trùng đường ruột, bướu cổ, phong, phụ khoa,
bệnh dạ dày, viêm ruột thừa, ngộ độc, uốn ván, suy dinh dưỡng... trở thành mô hình
bệnh tật phổ biến của vùng dân tộc và miền núi. Tại các vùng miền núi cao, vùng sâu
vùng xa, trung bình mỗi hộ thiếu nước 2 tháng/năm. Phần lớn các hộ gia đình sử dụng
nước mưa và nước suối cho ăn uống sinh hoạt. Tỷ lệ hộ gia đình có nguồn nước hợp
vệ sinh và tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh là rất thấp so với tỷ lệ hộ có nguồn
nước hợp vệ sinh (86,7%) và tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh (54%) bình quân toàn quốc,
ví dụ như ở tỉnh Lai Châu tương ứng là 17,2% và 14,3%; ở tỉnh Điện Biên là 29,9%
và 17,8%; Sơn La là 29,7% và 22,1%; Hà Giang là 32,2% và 22,0%....20
Về mùa khô
nhiều bản làng ở vùng cao phải đi xa từ 5 đến 10 km mới lấy được nước sinh hoạt.
Hầu như tất cả các bản làng vùng cao, nơi đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống
không gia đình nào có công trình vệ sinh. Vừa qua Chương trình 135 đã hỗ trợ mỗi hộ
gia đình 1 triệu đồng, để làm nhà vệ sinh, nhưng phần lớn các hộ dân nghèo nên
không có tiền góp thêm.
5.4. Thực trạng về trí lực
5.4.1. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực
Trí lực là thành tố quan trọng trong việc hình thành và quyết định chất lượng nguồn
nhân lực. Để đánh giá về trí lực, cần xem xét dưới nhiều góc độ, trong đó vấn đề trình
độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật được xem như là 2 tiêu chí cơ bản để nghiên cứu,
phân tích.
19 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
20 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
- Về trình độ học vấn:
Việt Nam đã đạt thành tích to lớn trong việc giải quyết nạn mù chữ. Tỷ lệ biết chữ của
số dân từ 15 tuổi trở lên tăng liên tục qua 3 cuộc tổng điều tra (năm 1989 là 88%, năm
1999 là 90%, và 93,5% vào năm 2009, trong đó vùng nông thôn là 92,0%). Tỷ lệ biết
chữ theo nhóm tuổi đã được cải thiện một cách đáng kể. Tỷ lệ biết chữ của nhóm 50
tuổi vào năm 2009 trở lên là 87,2%, trong khi đó tỷ lệ biết chữ của nhóm tuổi từ 15 –
17 tuổi là 98% đối với cả nam và nữ. Sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ của nông thôn và
thành thị cũng không cao (97% ở thành thị và 92% ở nông thôn)21
.
Mặc dù có những thành tích như vậy trên toàn quốc, tỷ lệ dân số không biết chữ tại
các vùng DT& MN vẫn còn khá cao. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc, với tỷ lệ
dân số là DTTS cao nhất, cũng là vùng đứng đầu về tỷ lệ dân số trên 15 tuổi không
biết chữ (12,7%). Vùng Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long đứng thứ ba
và thứ tư trong cả nước về tỷ lệ dân số là người DTTS, nhưng có tỷ lệ dân số không
biết chữ cao thứ hai và thứ ba, tương ứng là 11,73% và 8,4%. Đối tượng không biết
chữ chủ yếu rơi vào những người có độ tuổi cao (trên 40 tuổi), một số địa phương có
tỷ lệ người trong độ tuổi lao động (từ 15 trở lên) không biết chữ cao như: Lai Châu-
42,6%, Hà Giang- 34,5%, Điện Biên- 32,4%, ... (Bảng 6- Phần Phụ lục).
Tỷ lệ không biết chữ ở các vùng DT& MN cao chủ yếu là do nhiều người trong các
nhóm DTTS không đi học, hoặc có đi học, nhưng thời gian đi học ít và chất lượng học
tập không cao do những khó khăn về ngôn ngữ, điều kiện học tập (trường lớp tồi tàn,
thiếu đồ dùng học tập), điều kiện sống (đường xá xa xôi, cách trở, nghèo đói) và cách
truyền đạt của thày cô giáo và chương trình học chưa phù hợp.
Theo báo cáo kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở lên
chưa từng đi học trong một số nhóm DTTS cao, như H’Mông (61,4%), Khmer
(23,9%) và một số dân tộc khác (23,3%).22
Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tình
trạng biết chữ của các nhóm DTTS này. Nếu tính theo vùng, vùng Trung du và miền
núi phía Bắc, Vùng Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng chiếm vị trí
nhất, nhì, ba về tỷ lệ dân số trên 15 tuổi chưa đi học tại thời điểm điều tra dân số
2009. Tỷ lệ không biết chữ cao tại ba vùng này vào năm 2009 chủ yếu là do tỷ lệ
không đi học cao của nhiều năm trước đây. Chẳng hạn như, tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở
lên chưa từng đi học năm 1999 của dân tộc La Hủ là 90,5%, Mảng: 71%, H’Mông:
69%, Hà Nhì: 67%, Lô lô: 66,3%. Điều này có nghĩa là gần như hầu hết người La Hủ
không đến trường. Một điều rất đáng suy nghĩ là bốn trong số 5 nhóm dân tộc ít người
nhất là Sila, Ơ đu, Pu péo và Rơ Măm có tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở lên chưa từng đi
học vào năm 1999 không hề cao, thậm chí tỷ lệ này của người Ơ đu cao hơn không
nhiều so với mức bình quân trong cả nước (14% so với 9,8%)23
.
Tỷ lệ trẻ em đi học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở một số vùng
DT& MN, như vùng trung du miền núi phía bắc, vùng Tây Nguyên và vùng Đồng
21 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
22 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
23 TCTK, 2000, Tổng điều tra dân số 1999
bằng sông Cửu long, thấp hơn mức trung bình trong cả nước. Chênh lệch giữa ba
vùng này với mức bình quân cả nước về tỷ lệ trẻ em đi học tăng dần từ cấp tiểu học,
lên THCS và THPT. Tỷ lệ trẻ em đi học cấp tiểu học của ba vùng này tương ứng là
92%, 93% và 93% so với mức bình quân trên cả nước là 94%. Mức chênh lệch so với
tỷ lệ trung bình cả nước đối với cấp tiểu học tăng từ 1-2% tăng lên 4% (vùng Tây
Nguyên) và gần 14% (vùng Đồng bằng sông Cửu long) đối với cấp THCS và gần 9%
(vùng trung du miền núi phía bắc), 12,4% (vùng Tây Nguyên) và gần 19% (vùng
Đồng bằng sông Cửu long) đối với cấp THPT. Qua hình 3 có thể thấy mức chênh lệch
giữa tỷ lệ đi học cấp tiểu học với cấp THPT cao nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, còn nếu tính theo tỉnh thì cao nhất là ở Lạng Sơn và Hà Giang.
Hình 3: Tỷ lệ đi học các cấp phổ thông, theo vùng, năm 2009
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010
Mức chênh lệch so với tỷ lệ đi học trung bình toàn quốc tăng dần theo cấp học cùng
đồng hành với mức chênh lệch về tỷ lệ bỏ học, không hoàn thành cấp học ở các vùng
dân tộc và miền núi so với tỷ lệ trung bình toàn quốc. Theo Bob Baulch phần lớn học
sinh từ nhóm dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc bỏ học trong giai đoạn giữa lớp 2 và
3, tức là vào độ tuổi mà trẻ phải di chuyển từ lớp học ở làng (lớp cắm bản) sang trụ sở
chính của trường tiểu học. Ở vùng núi phía Bắc, do địa hình hiểm trở và xa xôi, trẻ em
học ở trường tiểu học thường phải đi bộ khoảng 1 giờ hoặc lâu hơn để đến trường.
Đối với học sinh từ Nhóm Tây Nguyên, tỉ lệ bỏ học cao nhất là từ lớp 6 lên lớp 7, đặc
biệt là nữ. Ở nhóm Khmer-Chăm bỏ học nhiều nhất là giữa lớp 4 và lớp 6. Do đã bỏ
học nhiều ở lớp dưới, tỷ lệ bỏ học ở cấp THPT của học sinh người Khmer và Chăm
trở nên khá thấp.24
Một điều thú vị là, tỷ lệ bỏ học cao không phải ở các tỉnh có điều kiện tự nhiên khó
khăn, hiểm trở, như Hà Giang, Sơn La, Lai Châu (tất nhiên là có cao hơn mức bình
quân toàn quốc- xem Bảng 8, Phần phụ lục), mặc dù cho đến nay đường xa thường
24 Bob Baulch và các tác giả (2009), Nghèo ở các dân tộc thiểu số tại Việt Nam
được coi là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bỏ học của trẻ em
tiểu học. Rõ ràng các lớp cắm bản phát triển tại các tỉnh miền núi phía Bắc rất khó
khăn này nhằm tạo điều kiện cho học sinh bớt phải đi học xa đã có tác dụng giảm tỷ lệ
bỏ học cấp tiểu học ở những tỉnh miền núi cao này. Hiện tại (2009), tỷ lệ bỏ học ở cấp
tiểu học cao nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, như Sóc Trăng (15,4%), Cà
Mau (7%), Kiên Giang (5,7%) và Bạc Liêu (5,5%) và Tây Nguyên như Đắc Nông
(6,1%) và các vùng khác, như Tây Ninh (6,6%). Chuyển sang cấp THCS, tỷ lệ bỏ học
tăng cao, nhất là ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, như Sóc Trăng (28,3%),
Cà Mau (23%), Trà Vinh (18,5%), Bạc Liêu (17,2%), An Giang (16,3), Kiên Giang
(16,1%)... Tỷ lệ bỏ học cao và có tỷ lệ người Khmer sinh sống đông ở vùng Sóc
Trăng, Trà Vinh cho thấy có thể chương trình học chưa phù hợp với văn hoá và tập
quán của học sinh Khmer.
Tỷ lệ đi học các cấp thấp ở một số vùng dân tộc và miền núi đã dẫn đến tỷ lệ dân số từ
5 tuổi trở lên tốt nghiệp các cấp học thấp. Tỷ lệ học sinh hoàn thành cấp học vùng dân
tộc thiểu số thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước. Năm học 2005-2006, ở các vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ hoàn thành cấp THCS chỉ đạt
khoảng 58%, trong khi mức bình quân cả nước là 78%. Số năm trung bình để hoàn
thành một cấp học của học sinh dân tộc thiểu số cao hơn mức chung của cả nước, ví
dụ như số năm trung bình để hoàn thành cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông
bình quân cả nước tương ứng là 4,92 và 3,71 năm, trong khi đó ở vùng Tây Bắc là
6,57 và 4,12 năm, Tây Nguyên là 7,1 và 4,1 năm, Đồng bằng sông Cửu Long là 6,6 và
4,9 năm.25
Mặc dù tỷ lệ đi học cấp tiểu học ở hầu hết các tỉnh, kể cả tỉnh đông người DTTS liên
tục tăng và đã đạt mức khá cao, chất lượng giáo dục ở một số vùng dân tộc và miền
núi vẫn kém hơn so với mức bình quân cả nước. Kết quả khảo sát cuối năm học 2006
- 2007 ở 6 tỉnh có đông học sinh dân tộc là Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Kon Tum,
Đăk Nông, Trà Vinh cho thấy: môn Toán đạt chuẩn 56,54% (cả nước 70,80%), dưới
chuẩn 25,1% (cả nước 14,25%); môn Tiếng Việt đạt chuẩn 53,68% (cả nước 71,07%),
dưới chuẩn 28,57% (cả nước 18,03%).26
Công tác Phổ cập giáo dục tiểu học - Chống mù chữ (PCGDTH - CMC) được triển
khai rộng khắp trên cả địa bàn vùng dân tộc và miền núi, kết quả của chương trình
đem lại là rất khả quan. Tính đến thời điểm năm 2009 có 71% xã đặc biệt khó khăn đã
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.
Trong khi tỷ lệ tốt nghiệp THCS và THPT trong cả nước tương ứng là 28,9% và
12,1%, thì tỷ lệ này ở ba vùng DT& MN (là vùng trung du miền núi phía bắc, vùng
Tây Nguyên và vùng Đồng bằng sông Cửu long) tương ứng là 28,7%; 27,6%; 17,4%
và 9,5%; 8,4% và 6,4%. Các tỷ lệ này của một số nhóm DTTS, ví dụ như H’Mông,
KhMer, Thái và các nhóm DTTS khác thấp hơn nhiều so với mức trung bình trong cả
nước (Bảng 9). Trình độ học vấn tốt nghiệp THCS và THPT chính là nền tảng để tiếp
25 Ủy ban Dân tộc, 2010, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và
chính sách đại đoàn kết dân tộc
26 Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2008, Báo cáo đánh giá kết quả tiểu học
tục vào học các trường kỹ thuật nghề, cao đẳng và đại học. Như vậy, cơ hội để theo
học các trường kỹ thuật nghề, cao đẳng và đại học của nhiều nhóm dân tộc, đặc biệt là
các nhóm DTTS trong ba vùng nói trên bị hạn chế hơn ở các vùng khác.
- Thực trạng chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực vùng DT& MN:
Trình độ chuyên môn của lực lượng lao động trong độ tuổi ở một số vùng DT& MN
cũng đáng lo ngại. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo ở các vùng
DT& MN cao hơn nhiều so với mức trung bình. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long và
Tây Nguyên là 2 vùng có tỷ lệ lao động trong độ tuổi chưa qua đào tạo cao nhất trong
cả nước (trên 90%), trong đó 17 tỉnh có tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo lên đến trên
90%, thậm chí trên 94% như Trà Vinh, Sóc Trăng ... (Bảng 10). Tỷ lệ lao động chưa
qua đào tạo ở một số tỉnh như Trà Vinh, Sóc Trăng rất cao là hoàn toàn nhất quán với
thực trạng tỷ lệ bỏ học cao ở cấp tiểu học và THCS tại các tỉnh này cao. Tỷ trọng dân
số đã qua đào tạo của các nhóm DTTS ở các bậc sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại
học thấp, trong đó tốt nghiệp cao đẳng, đại học rất thấp: Thái - 1,6%; Mường 2,0%,
Khmer 1,0%; Mông - 0,3%, các dân tộc thiểu số khác cũng chỉ đạt 1,5%.
5.4.2. Một số yếu tố chính có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực vùng
DT& MN
- Tỷ lệ nghèo đói cao:
Giống như phần thể lực, tỷ lệ đói nghèo cao trong nhiều nhóm DTTS và trong một số
vùng DT& MN là một trong những nguyên nhân đã dẫn đến những khó khăn cho việc
học tập của trẻ em DTTS. Nghèo đói được coi là một trong 5 nhóm nguyên nhân
chính dẫn đến bỏ học, nhất là đối với học sinh nữ, thậm chí còn là nguyên nhân hàng
đầu theo các học sinh H’Mông, J’rai và Khmer trả lời phỏng vấn.27
Đối với các em
gái người dân tộc H’Mông, J’rai và Khmer thì bỏ học để ở nhà làm việc giúp đỡ gia
đình là nguyên nhân quan trọng thứ hai28
.
Nghèo đói có thể dẫn đến sức khoẻ kém, hạn chế khả năng tiếp thu bài giảng của các
học sinh vùng DT& MN. Cảm giác đói bụng và sự lo lắng cho gia đình có thể làm cho
một số học sinh, nhất là các học sinh lớp lớn mất tập trung tư tưởng khi nghe giảng,
làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
- Rào cản về ngôn ngữ:
Phần lớn học sinh DTTS gặp khó khăn về ngôn ngữ khi tới lớp. Đánh giá xã hội quốc
gia (CSA) cho thấy phần lớn con em đồng bào dân tộc thiểu số nói tiếng dân tộc mình
ở nhà và chứng tỏ rằng “Nhiều trẻ em dân tộc thiểu số từ ngày đầu tiên đi học đã
không được dạy bằng tiếng Việt”.29
Một trong những nguyên nhân dẫn đến khó khăn
về ngôn ngữ trước khi đi học mà nhiều học sinh DTTS gặp phải là do các em thiếu
được chuẩn bị trong giai đoạn ở lứa tuổi mầm non. Trong thời gian vừa qua giáo dục
27 Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009, Học sinh nữ DTTS chuyển từ cấp tiểu học sang THCS
28 Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009, Học sinh nữ DTTS chuyển từ cấp tiểu học sang THCS
29 Bob Baulch và các tác giả (2009), Nghèo ở các dân tộc thiểu số tại Việt Nam
mầm non chưa được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ phòng học mầm non kiên cố chỉ đạt
30,30%, còn lại là phòng học bán kiên cố (52,57%) và phòng học tạm (11,87%).
Thậm chí 17,13% tổng số các phòng học cho giáo dục mầm non là đi mượn của các
cấp học khác, hoặc sử dụng tạm nhà kho HTX cũ, hoặc phòng của trụ sở UBND xã.
Vùng có phòng học tạm nhiều nhất là Trung du và miền núi phía Bắc với tỷ lệ 26,41%
phòng học tạm, đặc biệt là Điện Biên - 53,35%, Sơn La - 46,55%, Lai Châu - 46,36%
and Hà Giang - 23,68%.30
Đội ngũ giáo viên mầm non vùng DT& MN thiếu cả về số lượng và chất lượng. Theo
đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2009 hiện còn thiếu có 12.279 giáo viên
mầm non so với nhu cầu của các địa phương. Về trình độ chuyên môn, vẫn còn 8.210
giáo viên chưa đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ 5,7%. Tỷ lệ giáo viên chưa đạt chuẩn cao nhất
là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (9,2%), tiếp đến Tây Nguyên (gần 8%), rồi đến
vùng miền núi phía Bắc là (7,5%)... Với những khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ
giáo viên và điều kiện kinh tế của các gia đình, tỷ lệ trẻ em đi học mẫu giáo, đặc biệt
là trẻ các nhóm từ 3 đến 5 tuổi, chưa cao.
- Phương pháp giảng dạy chưa lấy học sinh làm trung tâm:
Mặc dù phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm đã được tuyên
truyền áp dụng, nhất là trong 5 năm qua khi 14 tỉnh miền núi phía Bắc được hỗ trợ thí
điểm áp dụng cách tiếp cận này trong khuôn khổ dự án “Đào tạo giáo viên Việt- Bỉ”
vừa mới kết thúc năm 2010, ở phần lớn các trường, phương pháp dạy học chính vẫn là
đọc chép. Do thời gian trên lớp ngắn, chương trình học nặng, các giáo viên thường ít
dành thời gian cho các học sinh chậm tiếp thu, nhút nhát. Trong khi đó, do rào cản về
ngôn ngữ, khi mới đến trường, hầu hết các học sinh dân tộc đều gặp khó khăn về tiếp
thu bài mới và vì vậy, thường nhút nhát, ít dám phát biểu trên lớp. “Chỉ một số học
sinh ngồi các bàn đầu được thày cô giáo hỏi bài, còn lại gần 2/3 lớp không được tham
gia trong suốt tiết học”.31
Điều đó đã làm giảm cơ hội tham gia trên lớp của các học
sinh DTTS, nhất là học sinh kém. Khó khăn trong tiếp thu bài vào những năm đầu đi
học lại tiếp tục ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em trong những năm tiếp
theo. Với cách dạy học không lấy học sinh làm trung tâm, các học sinh học kém luôn
luôn ít có cơ hội tham gia để hiểu bài, và lỗ hổng kiến thức ngày một rộng.
Để áp dụng phương pháp giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm đòi hỏi đội ngũ giáo
viên phải được đào tạo về phương pháp này và dành nhiều thời gian cho việc chuẩn bị
bài giảng. Vì vậy, đòi hỏi phải có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn và tâm
huyết với học sinh. Hiện tại, vẫn còn tỷ lệ khá cao giáo viên tiểu học chưa đạt chuẩn
(phải được đào tạo thấp nhất là theo hệ Cao đẳng). Ở các điểm trường chính tỷ lệ giáo
viên có trình độ 9 + 3 hoặc thấp hơn là 37%, còn các điểm trường lẻ tỷ lệ này là 78%.
Tại nhiều tỉnh tỷ lệ giáo viên có trình độ đào tạo dưới chuẩn còn cao: Kon Tum
15,72%, Đăk Lăk 13,98%, Đăk Nông 7,37%, Trà Vinh 7,23%... Tỷ lệ giáo viên đạt
yêu cầu về năng lực chuyên môn ở cấp trung học cơ sở là 66,48% và trung học phổ
30 Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009, Báo cáo tình hình cơ sở vật chất trong giáo dục
31 Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009, Học sinh nữ DTTS chuyển từ cấp tiểu học sang THCS
thông là 59,80%; và yêu cầu về năng lực sư phạm là gần 90% đối với trung học cơ sở
và 85% đối với trung học phổ thông.32
- Chương trình học chưa thực sự phù hợp với học sinh nhiều nhóm DTTS:
Cho đến nay, một chương trình học khung duy nhất vẫn được áp dụng cho toàn quốc,
không phân biệt thành thị, nông thôn, học sinh là người Kinh hay DTTS. Mặc dù gần
đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dành 30% chương trình học phổ thông cho phép các
địa phương điều chỉnh chương trình cho phù hợp với nhu cầu và ðiều kiện thực tế của
ðịa phýõng, chýõng trình học vẫn chưa thực sự phù hợp với học sinh nhiều nhóm
DTTS. Một số môn học khó tiếp thu, nhưng lại không thực sự hữu ích cho học sinh
nông thôn vùng núi cao, vì vậy, dễ gây chán nản cho học sinh.
Đối với một số nhóm DTTS có chữ viết, sống tách biệt với người Kinh, dạy học bằng
tiếng dân tộc có thể thuận lợi hơn đối với trẻ em DTTS để tiếp thu bài giảng.
Bài giảng về hướng nghiệp đã được đưa vào chương trình học từ lớp 9 (cấp THCS)
với một tiết trong cả tháng và ở cấp THPT, cũng với một tiết trong cả tháng. Bài
giảng về hướng nghiệp thường do hiệu trưởng hoặc một giáo viên bất kỳ theo sự phân
công của Lãnh đạo nhà trường thực hiện. Các giáo viên này hầu như không được đào
tạo về hướng nghiệp, trừ các lớp bồi dưỡng ngắn ngày do Phòng GD-ĐT huyện tổ
chức để giới thiệu về định hướng phát triển kinh tế- xã hội trong huyện, trong tỉnh. Vì
vậy, học sinh phổ thông hầu như chưa được hướng nghiệp thực sự. Hầu hết các em tốt
nghiệp THCS, nếu muốn tiếp tục học, thì chỉ biết một con đường là học THPT, còn
đối với các em tốt nghiệp THPT- là phải thi đại học hoặc đi học cử tuyển. Do vậy,
một số học sinh không đủ năng lực vẫn thi đại học gây tốn kém sức lực và tiền của
cho bản thân, gia đình và xã hội. Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng của các tỉnh miền núi rất thấp. Theo báo cáo của tỉnh Lai Châu, năm học 2009 -
2010 cả tỉnh chỉ có 6 em thi đỗ vào các trường đại học.
- Quan hệ giữa giáo viên và học sinh:
Mỗi dân tộc có một phong tục, tập quán và văn hoá riêng làm cho các thày cô giáo có
thể không hiểu được học sinh thuộc nhóm DTTS khác của mình. Tại 6 tỉnh khảo sát là
Hà Giang, Lai Châu, Nghệ An, Quảng Nam, Đắc Lắc và An Giang, khoảng 50% giáo
viên không phải người dân tộc. Tỷ lệ này cao hơn rất nhiều tại Hà Giang và Lai Châu,
với 85,7% và 61,1% giáo viên tại các trường trong xã là người Kinh. “Một số học sinh
DTTS cho biết không muốn đi học vì ngại thày cô mắng khi không hiểu bài”33
. Ngay
cả khi giáo viên là người DTTS, học sinh thuộc một số nhóm DTTS vẫn gặp khó khăn
khi giao tiếp với thày, cô vì thông thường trong một lớp ở vùng DT& MN có vài đến
nhiều nhóm DTTS cùng học.
Trong 5 năm gần đây, đội ngũ giáo viên tiểu học vùng dân tộc và miền núi từng bước
được chuẩn hoá và ổn định. Theo báo cáo đầu năm học 2007-2008, đội ngũ giáo viên
32 Ủy ban Dân tộc, 2010, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và
chính sách đại đoàn kết dân tộc” 33 Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009, Học sinh nữ DTTS chuyển từ cấp tiểu học sang THCS
tiểu học là người dân tộc thiểu số có 39.865 người (năm 2008 là 38.763 người), chiếm
tỷ lệ 10,86% so với tổng số giáo viên tiểu học cả nước. Đối với đội ngũ giáo viên là
người dân tộc thiểu số, năm 2009 có 29.631 người, chiếm tỷ lệ 6,48% giáo viên trung
học của cả nước năm 2009, trong đó giáo viên trung học cơ sở là 22.852 người, chiếm
tỷ lệ 7,2% và giáo viên trung học phổ thông là 6.779 người, chiếm tỷ lệ 4,84% so với
tổng số giáo viên cùng cấp của cả nước. Như vậy, có thể thấy rằng so với cả nước,
đội ngũ giáo viên vùng dân tộc và miền núi nói chung và giáo viên dân tộc thiểu số
nói riêng còn ít về số lượng, yếu về năng lực chuyên môn.
- Điều kiện đi lại và cơ sở vật chất của nhà trường:
Đi học xa là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở học sinh vùng DT&
MN đến trường. Mặc dù hiện nay ở cấp tiểu học, nhiều xã xa xôi, hẻo lánh đã thành
lập các điểm trường lẻ tại các thôn bản để giúp các em đi học dễ dàng hơn, tỷ lệ bỏ
học ở cấp tiểu học ở một số tỉnh đông DTTS vẫn cao như phân tích ở phần 5.4.1.
Đối với cấp THCS và THPT, hiện nay, hầu hết các xã đã có trường trung học cơ sở
hoàn chỉnh, các huyện đã có trường trung học phổ thông, nhiều huyện có thêm trường
trung học phổ thông cụm xã... Ngoài ra, hệ thống giáo dục chuyên biệt (dành cho đối
tượng con em của đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn) đã
được nhà nước quan tâm đầu tư phát triển mạnh mẽ, góp phần đắc lực cho việc phát
triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi trong nhiều năm qua. Số lượng các
trường chuyên biệt (trường nội trú, bán trú) đã tăng nhanh, từ 81 vào năm 1989 –
1990, lên 284 trường phổ thông dân tộc nội trú năm 2009-2010. Hầu hết các trường
đều được đầu tư, xây dựng kiên cố, bán kiên cố, trang bị phương tiện dạy, học và ở
nội trú, cơ bản đáp ứng yêu cầu cho giáo viên và học sinh 2 cấp: trung học cơ sở và
trung học phổ thông. Tuy nhiên, do nhu cầu học tập ngày càng tăng tại các địa
phương có đông người dân tộc thiểu số sinh sống; do nhiều trường DTNT tuyển sinh
vượt quy mô... đã dẫn đến hiện tượng quá tải ở một số trường DTNT (thiếu cơ sở vật
chất, giáo viên, công trình phụ trợ...). Một số địa phương (Bạc Liêu, Cà Mau) do tỷ lệ
người dân tộc thiểu số ít, chỉ có 1 trường PTDTNT, nên đa số học sinh phải đi học rất
xa, do vậy không thu hút được học sinh trong diện đối tượng ưu tiên.
Để khắc phục tình trạng quá tải của các trường dân tộc nội trú, các tỉnh vùng DT&
MN đã áp dụng mô hình trường “bán trú dân nuôi”. Tuy nhiên, mô hình này đang gặp
một số khó khăn như: nơi ăn, ở của học sinh bán trú còn thiếu thốn, chưa đảm bảo an
toàn. 82,81% trường chưa có giường chắc chắn cho học sinh bán trú; 92,19% trường
chưa có chỗ ở bán trú đảm bảo các điều kiện sinh hoạt tối thiểu; nhiều khu bán trú
không có hoặc thiếu nhà vệ sinh, nhà tắm, 16,92% trường chưa có nhà vệ sinh;
84,38% trường chưa có nguồn nước đảm bảo vệ sinh. Bên cạnh đó, do tỷ lệ hộ nghèo
ở vùng dân tộc và miền núi hiện nay còn cao nên khả năng cung cấp lương thực của
gia đình cho con em thường không liên tục, khiến các em có thể bị đứt bữa, đặc biệt
vào những kì giáp hạt. Sự quyên góp, ủng hộ của cộng đồng và các tổ chức xã hội cho
học sinh bán trú chưa thường xuyên.
5.5. Tâm lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi
5.5.1. Thực trạng về tâm lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi
Tâm lực là một yếu tố quan trọng hình thành nên chất lượng của nguồn nhân lực.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ giới hạn khi xem xét yếu tố tâm lực ở các khía
cạnh cụ thể về nhận thức, hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, tính năng động và thích
ứng trong môi trường mới, tác phong và kỷ luật lao động của nguồn nhân lực vùng
dân tộc và miền núi.
- Về nhận thức, hiểu biết xã hội và kỹ năng sống:
Số lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số khá dồi dào, nhận thức, hiểu biết xã
hội và kỹ năng sống của phần lớn nguồn nhân lực được hình thành chủ yếu qua tích
lũy kinh nghiệm từ các họat động sản xuất, đời sống và được truyền từ đời này sang
đời khác, thế hệ này sang thế hệ khác trong phạm vi một dòng họ, một cộng đồng,
một dân tộc cụ thể. Tuy nhiên, khả năng hội nhập quốc tế và trong nước còn rất hạn
chế, kỹ năng sống chưa được hoàn thiện và phù hợp với sự phát triển chung của xã
hội, gây rào cản về phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi nói chung và
của một số nhóm dân tộc thiểu số nói riêng. Nguyên nhân của vấn đề này là do điều
kiện địa bàn cư trú khó khăn, phức tạp, nhiều vùng dân cư sống khá biệt lập với bên
ngoài, ít có cơ hội giao lưu trong khi hạ tầng cở sở và các dịch vụ xã hội chưa phát
triển, các rào cản về ngôn ngữ, trình độ học vấn thấp, khó khăn trong việc tự điều
chỉnh để phù hợp với môi trường mới luôn thay đổi.
- Tính năng động và thích ứng trong môi trường làm việc mới:
Như đã phân tích, thực trạng ngành nghề sản xuất của vùng dân tộc và miền núi chủ
yếu là nông nghiệp truyền thống với ruộng đất manh mún, tư liệu giản đơn, sản xuất
mang tự tính tự nhiên. Nền kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp đã làm cho người dân
sống ít hướng ngoại. Cùng với các rào cản về thể chế, điều này đã làm giảm cơ hội
trong việc tiếp cận và hòa nhập với kinh tế thị trường đầy tính năng động. Những yếu
tố này đã làm hạn chế đến tính chủ động, sáng tạo, cũng như khả năng thích ứng của
nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi.
- Tác phong và kỷ luật lao động:
Nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thường có tố chất cần cù chịu khó, nhưng
tính thời vụ và tự do được thể hiện rất rõ nét trong các hoạt động sản xuất, đời sống
với tác phong, kỹ năng và kỷ luật lao động không cao. Bên cạnh đó, vùng dân tộc và
miền núi với đặc trưng là nơi tập trung sinh sống của các thành phần dân tộc thiểu số.
Mỗi dân tộc có những đặc điểm về văn hóa, lễ hội truyền thống và tín ngưỡng tôn
giáo khác biệt, như Tết Chôl Chnam Thmây, Lễ Sên Đôn - Ta, hội đua Ghe Ngo của
người Khơ me, Tết Ka Tê, Ramưwan của người Chăm, Tết Mông, Lễ hội sải sán,
Gầu Tào… của người H’Mong. Việc tham gia các sinh hoạt cộng đồng là một nhu cầu
về đời sống tinh thần không thể thiếu của đồng bào. Kèm theo đó là các vấn đề kiêng
kị theo quy định của các tín ngưỡng, tôn giáo của từng dân tộc… vấn đề này sẽ trở
thành một trở ngại khi lao động dân tộc thiểu số tham gia làm việc trong các môi
trường nghề nghiệp công nghiệp, các vị trí công việc đòi hỏi tính liên tục về thời gian
với yêu cầu về ý thức kỷ luật lao động cao và rất cao.
5.5.2. Hoạt động nâng cao tâm lực cho nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền
núi
- Về các hoạt động văn hóa:
Hiện nay hầu hết các xã vùng dân tộc và miền núi có nhà văn hóa, hoặc bưu điện văn
hóa xã. Nhiều thôn, bản đã có nhà sinh hoạt cộng đồng… phục vụ các hoạt động văn
hóa ở cơ sở. Có gần 100% khu dân cư của 51 tỉnh, thành phố vùng dân tộc và miền
núi triển khai thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
ở khu dân cư". Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm bảo tồn văn hóa truyền thống
thông qua tổ chức các lễ hội, phát huy nhà sinh hoạt cộng đồng, sử dụng tiếng dân
tộc...
- Hoạt động thể thao phong trào và giáo dục thể chất, kỹ năng sống:
Các hoạt động thể thao phong trào được tổ chức ở các cấp độ và quy mô khác nhau
dưới các hình thức như lễ hội giao lưu, hội thi văn hóa - thể thao… Nhiều môn thể
thao truyền thống bao gồm vật dân gian, đẩy gậy, bắn nỏ, đua thuyền, kéo co, … đã
được tổ chức, thu hút được sự tham gia tích cực của nhiều đồng bào ở vùng DT&
MN.
Đối với giáo dục thể chất, những khó khăn, trở ngại mà giáo dục thể chất và rèn luyện
kỹ năng cho học sinh, sinh viên vùng dân tộc và miền núi hiện nay đang gặp phải đó
là hầu hết các trường đều thiếu sân bãi, thiếu dụng cụ tập luyện, thậm chí thiếu giáo
viên dạy thể dục. Hơn nữa, nhiều lãnh đạo nhà trường và giáo viên chưa nhận thức hết
tầm quan trọng của giáo dục thể chất trong nhà trường… Điều này dẫn đến chất lượng
giáo dục thể chất và kỹ năng sống chưa đạt yêu cầu.
VI. Phân tích và đánh giá các chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng DTMN
hiện nay
6.1. Các chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân cho vùng dân tộc và miền núi
Tình hình sức khoẻ chưa tốt của nhiều người DTTS, thể hiện ở tỷ lệ suy dinh dưỡng
và tỷ suất chết trẻ em dưới 1 và 5 tuổi cao, tuổi thọ trung bình thấp và tình hình bệnh
tật của người dân... cho thấy các chính sách chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân của nhà
nước chưa đạt hiệu quả cao ở các vùng dân tộc và miền núi. Trong những năm qua,
Chính phủ đã dành nhiều nỗ lực cho việc cải thiện điều kiện tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ, nhất là sức khoẻ ban đầu cho người dân, trong đó có ưu tiên
người nghèo, đồng bào DTTS và người dân vùng DT& MN. Các chính sách chăm sóc
sức khỏe được đưa ra khá đồng bộ, bao gồm từ các chính sách về phát triển cơ sở vật
chất, như xây dựng trạm xá, bệnh viện, cung cấp trang thiết bị y tế, đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tuyên truyền nâng cao nhận
thức cho người dân về phòng bệnh và chữa bệnh, hỗ trợ người nghèo và đồng bào
DTTS thẻ bảo hiểm y tế tạo điều kiện cho họ có thể tiếp cận được các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ cơ bản...
6.1.1. Phát triển cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ công tác chăm sóc
sức khoẻ nhân dân:
Về cơ sở vật chất, tính đến thời điểm năm 2009, 100% các huyện vùng dân tộc và
miền núi đã có trung tâm y tế với cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản đáp ứng yêu cầu
khám chữa bệnh cho đồng bào. Hầu hết các xã đặc biệt khó khăn của vùng đã có trạm
y tế. Tỷ lệ xã có trạm y tế được đầu tư xây dựng kiên cố đạt 52,86% với 41,2%34
số trạm
y tế đạt chuẩn quốc gia. Bên cạnh việc xây dựng và nâng cấp trạm y tế xã các bệnh
viện tuyến huyện, tuyến tỉnh ở các vùng DT& MN cũng được ưu tiên đầu tư.
Ở một số tỉnh thuộc vùng DT& MN đã thành lập các đội y tế lưu động để thường
khám bệnh cho người dân. Tuy nhiên, do kinh phí hạn chế và điều kiện đi lại khó
khăn các đội y tế lưu động không hoạt động được thường xuyên, trong khi đó y tế
thôn, bản chưa được quan tâm đầu tư.
Nhà nước đã có chính sách tăng cường cán bộ y tế cho cấp cơ sở. 40% trạm y tế xã có
bác sỹ, còn lại là y sỹ. Tại nhiều địa phương đã bố trí cán bộ (thường là cán bộ nghỉ
hưu, bộ đội biên phòng, giáo viên cắm bản kiêm nhiệm) làm cộng tác viên chăm sóc
sức khoẻ ban đầu. Tuy nhiên, tình trạng thiếu nhân lực y tế vẫn phổ biến ở nhiều địa
phương vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nhất là ở Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng
bằng sông Cửu Long.
Thiếu cán bộ y tế có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở, địa bàn vùng sâu,
vùng xa ở các vùng DT& MN làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dịch vụ y tế
cơ sở vùng dân tộc và miền núi hiện nay. Số lượng bác sĩ là người DTTS hoặc từ các
vùng DT& MN được đào tạo theo chính sách cử tuyển tăng liên tục, nhưng ít sinh
viên tốt nghiệp y khoa muốn về công tác tại y tế cơ sở, địa bàn vùng sâu, vùng xa,
trong khi đó nhiều cán bộ y tế công tác lâu năm từ tuyến dưới muốn chuyển về tuyến
trên, từ các vùng khó khăn ra vùng kinh tế - xã hội phát triển.
6.1.2. Bảo hiểm y tế dành cho các hộ nghèo, hộ DTTS:
Để tạo điều kiện cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số có thể tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
139/2002/TTg về Chính sách chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo và người dân tộc
thiểu số. Để thực hiện chính sách này, Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho các địa
phương và giao cho Ban Quản lý Quỹ khám chữa bệnh người nghèo của địa phương
quản lý. Theo Quyết định này người nghèo và các hộ DTTS được cấp thẻ bảo hiểm y
tế với mức phí là 130.000đ/người/ năm. Cho đến nay số đối tượng được cấp thẻ bảo
hiểm y tế đã lên đến 18 triệu người. Ngân sách nhà nước chi cho hoạt động này hàng
năm tăng liên tục, từ 520 tỷ đồng năm 2003 lên 751 tỷ đồng năm 2005 và 10.000 tỷ
đồng năm 2008.35
Bảo hiểm y tế miễn phí đã giúp cho người nghèo và người DTTS có thể tiếp cận được
một số dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, trước hết là từ các trung tâm y tế xã. Khoảng 55%
34 Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan ngành y tế
35 Bộ Y tế, năm 2008, Kết quả điều tra dịch vụ CSSK người dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
những người trả lời phỏng vấn ở vùng miền núi được thụ hưởng Chương trình 135-II
cho biết đã được điều trị miễn phí khi ốm đau và gần một nửa trong số đó đã sử dụng
dịch vụ khám chữa bệnh tại các trung tâm y tế xã.36
Tương tự như vậy, kết quả điều
tra trong nhóm nghiên cứu tại 6 tỉnh cũng cho thấy chỉ có 15% người trả lời phỏng
vấn không sử dụng thẻ bảo hiểm để khám chữa bệnh, thậm chí 45% cho biết họ đã
dùng để khám chữa bệnh trên 3 lần. 87,5% người trả lời phỏng vấn cho rằng thẻ bảo
hiểm y tế đã đủ đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của họ. Tất nhiên là đối với bệnh
nặng, phải đi bệnh viện thì bảo hiểm y tế không đáp ứng đủ (với trên 50% người đồng
tình). Tiền phải chi trả thêm chủ yếu là tiền đi lại và mua thuốc. Điều này cho thấy
việc cải thiện chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại các trung tâm y tế xã là rất quan
trọng đối với người nghèo và đồng bào dân tộc.
Mặc dù chính sách cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và người dân tộc
thiểu số có tác động rất tích cực góp phần nâng cao tỷ lệ sử dụng dịch vụ y tế của
người nghèo và người dân tộc thiểu số, cải thiện sức khoẻ cho nhân dân, việc quản lý
quỹ bảo hiểm y tế và cấp thẻ còn gặp nhiều khó khăn. Việc xác định đối tượng thuộc
hộ nghèo đôi chỗ còn chưa đầy đủ và chính xác, dẫn đến tình trạng một số hộ thuộc
diện nghèo nhưng chưa được hưởng lợi từ chính sách cấp thẻ bỏ hiểm y tế cho người
nghèo. Việc lập danh sách người nghèo được ghi chép bằng tay. Chưa xây dựng được
cơ chế để kiểm tra và kiểm tra chéo danh sách hộ nghèo. Quy trình xác định hộ nghèo
được tiến hành rất chậm xuất phát từ những khó khăn trong việc viết tên của người
dân tộc, đặc biệt là người các dân tộc ở Tây Nguyên. Qua điều tra thực tế cho thấy
78% người nghèo đã được cấp, 20% người chưa được cấp thẻ, trong khi đó 17% được
cấp thẻ bảo hiểm y tế nhưng không thuộc diện hộ nghèo.37
Điều kiện đi lại khó khăn, khoảng cách đến trạm y tế xã, nhất là các bệnh viện tuyến
trên xa cũng là một trong số những rào cản đối với việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y
tế của người nghèo. Theo đánh giá trong Chương trình 135-II, khoảng cách từ nhà
đến cơ sở khám chữa bệnh khoảng gần 4 km, còn từ nhà đến bệnh viện huyện trung
bình là 40 km trong điều kiện núi non hiểm trở là một quãng đường khá dài đối với
bệnh nhân. Và theo như thông tin thu thập được qua điều tra 6 tỉnh trong nghiên cứu
này 41% người trả lời phỏng vấn cho biết phải trả thêm cho tiền đi lại ăn ở ngoài tiền
được hỗ trợ từ thẻ bảo hiểm y tế khi phải nằm viện.
Sự hiểu biết về CSSK của một số đồng bào dân tộc thiểu số ở các khu vực vùng sâu,
vùng xa cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế
chữa bệnh và phòng bệnh của người dân.
Một số đối tượng hưởng lợi còn gặp khó khăn về kinh tế trong khám chữa bệnh do
phải trả thêm chi phí cho thuốc hoặc các chi phí gián tiếp khác khi đi khám chữa bệnh
như chi phí cho ăn uống và đi lại… Thủ tục hành chính rườm rà cũng là một rào cản
trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tuyến trên.
36 Uỷ ban Dân tộc (2009), Báo cáo Điều tra hiện trạng thực hiện Chương trình 135
37 Bộ Y tế (2008), “Đánh giá việc thực hiện Quyết định 139 tại 3 tỉnh Yên Bái, Ninh Thuận, Đồng
Tháp và thực tế chi tiêu của bệnh nhân tại ba bệnh viện tuyến Trung ương: Ung bướu, Nhi, và Phụ sản”
6.1.3. Chính sách phòng chống các bệnh phổ biến và tiêm chủng mở rộng:
- Chương trình phòng chống sốt rét:
Nhờ những nỗ lực của Chính phủ trong việc phòng chống sốt rét, tình hình sốt rét ở
Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, mỗi năm chỉ xảy ra 1 vụ dịch nhỏ từ năm 2007.
Số người bệnh chết do sốt rét năm 2008 giảm 86,5% so với năm 2007, còn tỷ lệ chết
giảm 89,5% trong cùng kỳ. Đến năm 2008 cả nước có 60.426 bệnh nhân sốt rét (giảm
14,8%); 11.355 ký sinh trùng sốt rét dương tính (giảm 30,7%); 141 trường hợp sốt rét
ác tính (giảm 10,7%).38
Để đạt được những kết quả như trên, từ năm 2000 đến nay Chương trình phòng,
chống sốt rét đã cung cấp thuốc để điều trị sốt rét, uống thuốc phòng sốt rét hoặc cấp
thuốc để bệnh nhân tự điều trị khi mắc sốt rét (các đối tượng người dân tộc thiểu số
làm nương ngủ rẫy, ngủ rừng và dân từ vùng không có sốt rét đi làm ăn tại vùng sốt
rét lưu hành nặng...). Ngoài ra, vùng sốt rét lưu hành nặng còn được bảo vệ bằng hoá
chất diệt muỗi hàng năm. Cán bộ y tế, trong số đó 60% là cán bộ y tế xã, thường
xuyên được tập huấn cập nhật về phòng chống sốt rét (khoảng 70- 80.000 lượt
người/năm). Các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình trung ương, đài
tiếng nói VN và báo đài địa phương cũng vào cuộc tuyên truyền cho chương trình
phòng chống sốt rét. Nhiều tỉnh đã kết hợp chặt chẽ với lực lượng quân y, y tế bộ đội
biên phòng giám sát sốt rét ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đạt hiệu quả rất tốt.
Ngoài kinh phí từ ngân sách nhà nước chương trình phòng chống sốt rét còn nhận
được sự giúp đỡ to lớn về tiền của, vật tư, hoá chất, thuốc men, trang thiết bị, phương
tiện PCSR cũng như hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ của các tổ chức
quốc tế và các nước tài trợ ODA.
Tuy nhiên, các thành quả nêu trên chưa thực sự tính bền vững do mạng lưới y tế các
tuyến, đặc biệt là tuyến cơ sở chưa kiểm soát được bệnh nhân và người dân chưa có ý
thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét, hoặc vào vùng sốt rét. Sốt rét kháng thuốc
tồn tại và lan rộng ở nhiều khu vực kể cả về diện kháng và mức độ kháng thuốc.
Vùng sốt rét lưu hành còn rộng, trên 27,4 triệu dân sống trong vùng sốt rét (hơn 32%
dân số toàn quốc) bao gồm các trọng điểm phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng,
vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng biên giới, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên.
Mạng lưới y tế cơ sở đã được phát triển, củng cố nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
phòng chống sốt rét, chưa bao phủ 100% thôn, bản. Trình độ nhân viên y tế còn yếu,
thiếu biên chế và không ổn định và thiếu kinh phí hoạt động. Nguồn lực cho phòng
chống sốt rét không ổn định. Kinh phí Nhà nước cấp không đủ nhu cầu, địa phương
không có kinh phí hỗ trợ cho phòng chống sốt rét. Các nhà tài trợ quốc tế cũng rút
dần không hỗ trợ cho phòng chống sốt rét.
Công tác truyền thông còn rất khó khăn vì chưa có biện pháp bảo vệ khả thi cho các
nhóm dân di cư biến động như dân ngủ rẫy dài ngày, dân di cư tự do, dân từ các tỉnh
38 Bộ Y tế, (2009), báo cáo công tác thực hiện chương trình phòng chống sốt rét
đồng bằng vào làm ăn theo mùa vụ và dân giao lưu qua các vùng biên giới Việt- Lào,
Việt Nam- Cambodia.
- Chương trình phòng, chống bướu cổ
Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống bướu cổ bắt đầu được thực hiện từ năm
1994 theo Quyết định số 481/TTg của TTCP. Nhờ thực hiện chương trình này tỷ lệ
trẻ em mắc bệnh bướu cổ từ 8-10 tuổi trên cả nước giảm từ 22,4% năm 1993 xuống
6% năm 2003 và 3,6% năm 2005. Độ phủ muối Iốt tăng từ 82,5% vào năm 2003 lên
93,2% năm 2005, nhưng lại giảm xuống còn 88,6% vào năm 2008 (trong đó thấp nhất
là ở Tây Nam bộ, chỉ đạt 74,8%). Năm 2008 có tới 44,6% thai phụ ở 3 khu vực Tây
Nam bộ, Đông Nam bộ và Thành phố Hồ Chí Minh bị thiếu iốt ở thể trung bình đến
nặng.39
Một trong những nguyên nhân dẫn đến độ phủ muối iốt giảm mạnh năm 2008 so với
năm 2006 là từ năm 2006 chương trình PCBC bắt đầu chuyển sang giai đoạn duy trì
bền vững với nguồn kinh phí hàng năm cho các địa phương khoảng 10- 20 triệu đồng.
Ban chỉ đạo của trung ương đã bị giải thể, và các Ban quản lý của một số địa phương
cũngbị giải thể hoặc chuyển sang làm công tác khác hoặc chỉ có cán bộ kiêm nghiệm.
Tình hình giảm độ phủ muối iốt còn đáng lo ngại hơn tại vùng đồng bào dân tộc và
miền núi: từ 88,8% năm 2006 xuống còn 70,8% năm 2008 với 67 trong số 90 xã
(74,5% tổng số xã điều tra) chưa đạt độ bao phủ muối iốt tối thiểu đạt là trên 90%.40
Sở dĩ công tác phòng, chống bướu cổ hiện nay đang gặp những vấn đề như nêu trên là
do một số nguyên như (i) Công tác phòng chống bướu cổ còn thiếu sự quản lý, chỉ
đạo chặt chẽ của lãnh đạo địa phương; (ii) thiếu coi trọng công tác truyền thông giáo
dục về phòng chống bệnh bướu cổ; (iii) thiếu nguồn lực không còn nguồn hỗ trợ từ
bên ngoài.
- Chương trình tiêm chủng mở rộng
Ngay từ những năm 1985 nước ta đã đưa chương trình tiêm chủng mở rộng vào
chương trình mục tiêu quốc gia, một số vacxin Việt Nam đã tự sản xuất được như
vacxin phòng, chống bệnh bại liệt. Nhờ tiêm chủng cho trẻ em và các biện pháp can
thiệp khác, Việt Nam đã thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000 và bệnh uốn ván ở bà
mẹ và trẻ sơ sinh vào năm 2005. Ngoài ra, tỷ lệ mắc bệnh sởi đã giảm 95% kể từ năm
1990 đến nay. Tỷ lệ trẻ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tiêm chủng đầy đủ
không thấp hơn tỷ lệ trung bình trong cả nước (theo kết quả điều tra y tế quốc gia
năm 2001-2002, cho thấy 89% hộ gia đình thiểu số biết rõ chương trình tiêm chủng,
trong đó vùng miền núi Đông Bắc đạt 92,7%, vùng miền núi Tây Bắc đạt 89,5%, tỷ lệ
này trong cả nước là 89,7%). Có được những thành quả này là nhờ vào mạng lưới y tế
xã và y tế thôn bản ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa nơi có dân tộc thiểu số
sinh sống. Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình này vẫn gặp khó khăn tại một số
vùng do trở ngại trong việc tiếp cận các thông tin đặc biệt là thông tin về tuyên truyền
giáo dục sức khỏe cũng là yếu tố có ảnh hưởng tới hiệu quả của một số chương trình
39 Bộ Y tế (2008), Báo cáo đánh giá thực hiện chương trình phòng chống bệnh bướu cổ 40
UNICEF (2008), Đánh giá tỷ lệ sử dụng muối iốt và thu nhận iốt
phòng bệnh. Vẫn còn một tỷ lệ tương đối lớn các bà mẹ không có kiến thức về phòng
bệnh cho trẻ em. Đặc biệt ở vùng miền Trung và Tây Nguyên, 61,3% các bà mẹ dân
tộc có con dưới 5 tuổi trả lời không biết một bệnh nào có thể phòng ngừa được bằng
tiêm chủng mở rộng cho trẻ dưới 5 tuổi41
. Việc hạn chế trong tiếp cận nguồn thông tin
tuyên truyền của đồng bào dân tộc thiểu số cho thấy cần phải đẩy mạnh công tác
tuyên truyền cho các đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số trong đó bao gồm cả các
hoạt động tuyên truyền giáo dục sức khoẻ cũng như tuyên truyền các chính sách về
chăm sóc sức khoẻ để người dân tộc thiểu số biết được quyền lợi trong chăm sóc sức
khoẻ, tăng cường khả năng tiếp cận của họ tới cơ sở y tế.
- Chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em
Chương trình sức khoẻ sinh sản đã được đã được thực hiện với sự hỗ trợ của nhiều
nhà tài trợ quốc tế, trong đó có UNFPA, UNICEF, ... Vùng miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long được đặc biệt ưu tiên. Tuy nhiên, mặc dù tỷ lệ
chết mẹ đã giảm liên tục trong những năm qua, tỷ lệ này vẫn còn cao tại các vùng
DT& MN. Điều kiện đi lại khó khăn, trình độ học vấn thấp và phong tục tập quán là
những yếu tố cản trở việc tiếp cận dịch vụ sức khoẻ sinh sản của nhiều phụ nữ người
DTTS và vùng DT& MN. Mạng lưới dịch vụ sức khoẻ sinh sản cũng như đội ngũ cán
bộ y tế tại các vùng DT& MN cũng rất hạn chế. Thanh niên và phụ nữ DTTS gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về các dịch vụ sức khoẻ sinh sản do điều
kiện sống xa xôi và rào cản về ngôn ngữ.
Trong hệ thống nhà trường việc đưa các kiến thức về sức khoẻ sinh sản vào chương
trình giảng dạy cũng chýa ðýợc chú trọng, ðặc biệt là những kiến thức và kinh
nghiệm ðể giúp thanh niên và phụ nữ DTTS tìm được các biện pháp tăng cường sức
khoẻ sinh sản phù hợp với điều kiện địa phương và truyền thống, văn hoá của địa
phương. Để giúp giảm bớt tình trạng đẻ tại nhà hoặc ngoài rẫy không có sự chăm sóc
của cán bộ y tế, ngoài việc tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức cho người dân
về sức khoẻ sinh sản, Bộ Y tế đã tổ chức các chương trình đào tạo 18 tháng cho các
cô đỡ thôn bản dân tộc thiểu số về phục vụ đồng bào.
6.1.4. Cải thiện khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường:
Như phần trên đã nói, điều kiện sống khó khăn, thiếu nước sạch và các phương tiện về
vệ sinh môi trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân
vùng DTTS, đặc biệt là đồng bào DTTS. Ngoài chương trình mục tiêu quốc gia Nước
sạch và vệ sinh môi trường 2006- 2010 nhằm hỗ trợ cải thiện khả năng tiếp cận dịch
vụ cấp nước sạch và vệ sinh môi trường trên toàn quốc nói chung, người dân tại một
số vùng DTTS còn được hỗ trợ cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ cấp nước sạch và
vệ sinh môi trường từ một số CTMTQG khác như từ CTMTQG về Giảm nghèo,
CTMTQG 135- II, CT- 134 và the program 30a.
4.500 tỷ đồng dự kiến được phân bổ từ ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2006-
2010 để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường.
Ngoài ra, ngân sách địa phương cũng phải đóng góp khoảng 2.300 tỷ đồng. 70% nhu
41 Bộ Y tế (2008), Báo cáo đánh giá thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng
cầu kinh phí còn lại (khoảng 15.800 tỷ đồng) dự kiến được huy động từ các nhà tài trợ
ODA, từ cộng đồng và tín dụng ưu đãi.
6.2. Các chính sách giáo dục, đào tạo
6.2.1. Tăng cường cơ hội học tập cho học sinh DTTS vùng DT& MN thông qua
hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú và các điểm trường
Vùng dân tộc thiểu số là vùng nghèo, khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, vì thế trẻ
em ít đến trường. Để tăng cường cơ hội học tập cho học sinh DTTS vùng DT& MN,
một loại hình giáo dục chuyên biệt dành cho đối tượng con em của đồng bào dân tộc
thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn đã được hình thành, đó là các trường phổ
thông dân tộc nội trú, bắt đầu từ năm 1985 theo Quyết định số 661/GD, của Bộ Giáo
dục và Đào tạo ra ĐT ban hành về Quy định tổ chức và hoạt động các trường phổ
thông dân tộc nội trú. Mục đích mở trường phổ thông dân tộc nội trú là tạo nguồn cho
các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, để đào tạo cán bộ cho các
dân tộc trước hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ
chuyên môn khoa học kỹ thuật. Sau khi được điều chỉnh bằng Quyết định số
2590/GDĐT, ngày 14/8/1997, đến năm 1998 tổ chức và hoạt động của hệ thống
trường PTDTNT đã được Luật hóa, với các quy định tại Điều 56 Luật Giáo dục (và
Điều 61 - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2005).
Đối với bậc trung học cơ sở các trường phổ thông dân tộc nội trú đã được thành lập ở
cấp huyện. Đối với cấp xã, tại những vùng phát triển giáo dục gặp nhiều khó khăn,
trình độ dân trí thấp, chưa phổ cập giáo dục tiểu học thì trường phổ thông dân tộc nội
trú được mở dưới hình thức bán trú ở cụm xã cho các học sinh ở 2 năm cuối của bậc
tiểu học. Nếu huyện không có trường bán trú ở cụm xã thì trường phổ thông dân tộc
nội trú huyện được mở thêm lớp 4 và lớp 5. Trường huyện thường có từ 150 đến 250
học sinh, trường tỉnh có qui mô từ 300 - 400 học sinh.
Nguyên tắc tuyển sinh vào học tại các trường PTDTNT là học sinh DTTS, hoặc ít
nhất là học sinh dân tộc Kinh từ các vùng DT& MN, xa xôi, hẻo lánh. Để tạo điều
kiện cho học sinh DTTS, số lượng học sinh dân tộc Kinh được phép tuyển sinh vào
các trường PTDTNT không được vượt quá 5% tổng số học sinh được phép tuyển sinh.
Có 2 hình thức tuyển sinh là thông qua xét tuyển và thi tuyển. Nguyên tắc xét tuyển
giúp hạn chế khả năng học sinh dân tộc Kinh chiếm chỗ của học sinh DTTS và học
sinh DTTS ở một số vùng có thể vào các trường PTDTNT mà không cần thi tuyển.
Tuy nhiên, nguyên tắc này không hạn chế được tình trạng học sinh DTTS ở những
vùng khá hơn hoặc con cán bộ chiếm chỗ của học sinh DTTS nghèo, từ những vùng
rất xa xôi hẻo lánh do chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường PTDTNT ở nhiều vùng thấp
hơn so với nhu cầu.
Các trường phổ thông dân tộc nội trú vẫn giảng dạy theo chương trình khung chung
toàn quốc, có điều chỉnh và bổ sung thêm một số kiến thức về địa phương và về các
dân tộc thiểu số trong cả nước trong các môn Lịch sử, Văn học, Địa lý và Công nghệ.
Trường được phép sử dụng một phần thời gian ngoài giờ lên lớp để củng cố, bổ sung,
mở rộng kiết thức, bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh kém.
Từ năm 1991 đến nay Nhà nước đã đầu tư trên 500 tỷ đồng để xây dựng hệ thống
trường dân tộc nội trú. Đã hình thành hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú các
cấp như sau: 06 trường trực thuộc Bộ, 47 trường thuộc các tỉnh và 231 trường thuộc
huyện. Đội ngũ cán bộ, giáo viên tham gia quản lý, giảng dạy và thực hiện các công
tác nghiệp vụ chuyên môn khác là khoảng 8.500 cán bộ, trong đó có 4.900 giáo viên
trực tiếp. Phần lớn đội ngũ giáo viên đạt chuẩn về trình độ theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, đảm bảo về số lượng và chất lượng phù hợp với quy mô hiện tại. Tuy
nhiên, tỷ lệ giáo viên là người dân tộc thiểu số thấp chỉ chiếm khoảng 23% so với
tổng giáo viên dạy trong các trường PTDTNT, đặc biệt một số tỉnh rất thấp như Vĩnh
Phúc, Quảng Ninh (khoảng 5-6%), Khánh Hòa (7,59%), Thừa Thiên Huế (8,3%), Kon
Tum (14,4%)... Giáo viên dạy nghề chủ yếu được bố trí tạm thời, dạy kiêm nhiệm
nên chất lượng chưa đạt yêu cầu.
Học sinh các trường dân tộc nội trú được nhận nhiều hỗ trợ của nhà nước, như không
phải đóng học phí, được nhà trường bố trí chỗ ở, được Nhà nước cấp kinh phí nuôi
dưỡng, cung cấp sách vở, đồ dùng học tập, sinh hoạt… Học sinh học tại các trường
phổ thông dân tộc nội trú và các trường dự bị đại học dân tộc được hưởng học bổng
chính sách bằng 80% mức lương tối thiểu của Nhà nước. Nếu học tập tốt, học sinh,
sinh viên còn được nhà trường thưởng một lần/năm theo các mức 400.000 đồng (đạt
loại khá), 600.000 đồng (giỏi), 800.000 đồng (xuất sắc). Khi nhập trường, sinh viên
được trang bị đồ dùng cá nhân, đồng phục và được cấp tiền tàu, xe mỗi năm để thăm
gia đình vào dịp Tết hoặc dịp nghỉ hè...
Nhờ chính sách hỗ trợ toàn diện cho các học sinh học tại trường dân tộc nội trú số
lượng học sinh DTTS theo học tại các trường này liên tục tăng. Nếu năm 1990, cả
nước chỉ có 1.094.153 học sinh học trong hệ thống trường PTDTNT thì đến năm 2009
đã tăng lên đến 84.677 em, chiếm tỷ lệ 7,74% tổng số học sinh người dân tộc thiểu số
của cả nước đang đi học trung học cơ sở và trung học phổ thông, trong đó trung học
cơ sở có 50.818 em (chiếm tỷ lệ 6,34% tổng số học sinh dân tộc thiểu số học trung
học cơ sở), trung học phổ thông có 33.859 em (chiếm tỷ lệ 12,22% tổng số học sinh
dân tộc thiểu số học trung học phổ thông). Như vậy, có thể thấy rằng tỷ lệ học sinh
được học trong các trường PTDTNT có xu hướng tăng nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ rất
thấp. Số học sinh dân tộc thiểu số rất ít người theo học các trường PTDTNT rất ít.
Năm học 2008 - 2009 chỉ xét tuyển được 32 học sinh thuộc 9 dân tộc thiểu số rất ít
người: Lự, Ngái, Mảng, Si La, La Hủ, Pu Péo… vào học tại Trường phổ thông vùng
cao Việt Bắc
Kết quả học tập tại các trường PTDTNT khá khả quan. Đối với hệ trung học cơ sở, tỷ
lệ học sinh có học lực giỏi đạt khoảng 6,4%, khá - 37%. Đối với hệ phổ thông trung
học, tỷ lệ học sinh có học giỏi đạt gần 3,1%, khá - 34,5%. Tỷ lệ tốt nghiệp PTTH lần
1 đạt trên 77%. Ngoài học kiến thức, học sinh các trường PTDTNT còn được tham
gia các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, được tiếp cận các kiến thức về
dân tộc, khoa học kỹ thuật, được quan tâm tu dưỡng rèn luyện nhân cách sống, do đó
đa số (trên 90%) học sinh đều có hạnh kiểm từ khá trở lên.
Mặc dù có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giáo dục cho học sinh DTTS, còn
khá nhiều vấn đề tồn tại trong hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú. Trước
hết, nhu cầu và khả năng học sinh DTTS nhập học các trường PTDT nội trú chưa
được đánh giá thường xuyên để phát triển cơ sở vật chất và bố trí đội ngũ giáo viên
cho phù hợp với yêu cầu. Vì vậy, ở nhiều tỉnh xảy ra tình trạng quá tải (quá đông học
sinh nội trú so với đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất của nhà trường), ví dụ như năm
học 2006-2007, khoảng 39% trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh vượt quy mô tối
đa42
và khoảng 25% trường phổ thông dân tộc nội trú huyện vượt mức quy mô tối đa.
Ngược lại, tại nhiều trường số học sinh nhập học quá thấp so với mức quy mô tối
thiểu43
.
Một số học sinh DTTS ngại đi học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú vì tiền hỗ
trợ học phẩm, tiền ăn còn thấp so với thời giá hiện tại. Hơn nữa, dù mức hỗ trợ theo
quy định chính thức thấp, một số trường phổ thông dân tộc nội trú cũng không thực
hiện hỗ trợ đúng theo quy định. Ví dụ, các trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Gò
Quao và Châu Thành, thị xã Hà Tiên không thực hiện chi trả học bổng với mức
360.000 đồng/tháng theo như quy định từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, vẫn giữ mức
học bổng 280.000 đồng/tháng.44
Công tác hướng nghiệp tại các trường này chưa được chú trọng. Trong năm học 2008-
2009, chỉ có 10,18% trong tổng số 4.231 học sinh tốt nghiệp THCS đi học các trường
trung học chuyên nghiệp, trong khi đó 35,5% chuyển tiếp lên học trung học phổ thông
tại các trường PTDTNT của Bộ và của tỉnh, huyện và 45%- vào học tại các trường
trung học phổ thông tại địa phương. Ở cấp trung học phổ thông, số học sinh tốt nghiệp
THPT đi học trung học chuyên nghiệp còn ít hơn (6,3% trong tổng số 2.478 em).
Phần đông các em học sinh tốt nghiệp THPT vào học đại học hoặc cao đẳng, hoặc dự
bị đại học (chiếm 48,42%) với số lượng cử tuyển cũng không nhỏ (6,37%) hoặc quay
về làm ruộng (khoảng 40%).45
Do số lượng tuyển sinh vào các trường PTDTNT có hạn, nhiều gia đình phải cho con
ở lại trường hoặc trọ ở nhà dân gần trường để giảm bớt khó khăn cho các em đi học
do nhà xa. Từ hiện tượng “bán trú dân nuôi” tự phát, nhiều trường đã tổ chức cho học
sinh ở bán trú tại trường. Một số địa phương có đông học sinh bán trú đã ban hành
chính sách riêng và xây dựng đề án hỗ trợ cho học sinh bán trú và trường phổ thông
có học sinh bán trú như Hà Giang, Lào Cai, Quảng Ninh, Quảng Nam, Đắk Lắk...
Một số tỉnh đã được hỗ trợ xây dựng phòng ở bán trú cho học sinh THCS từ dự án
“Phát triển THCS vùng khó khăn nhất” do ADB tài trợ.
Cho đến nay đã có 1.657 trường (tiểu học - 37,96%, trung học cơ sở - 55,33%, trung
học phổ thông - 8,03%) thuộc 24 tỉnh (Sơn La: 334 trường, Lào Cai: 222 trường, Hà
Giang: 214 trường, Điện Biên: 183 trường...) tổ chức học bán trú cho khoảng 144.124
học sinh, trong đó học sinh người dân tộc thiểu số ở bán trú chiếm tới 96,12%, học
sinh nữ chiếm tỷ lệ đáng kể (40,68%). Do học bán trú là xuất phát từ nhu cầu của học
sinh, mô hình này đã phát triển rất nhanh với số học sinh bán trú tăng hơn gấp đôi
42 Ví dụ trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh An Giang có 686 học sinh, Nghệ An có 557 học sinh, Hoà Bình có
532 học sinh, trong khi mức quy định tối đa là 400 học sinh/trường 43 Ví dụ trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hậu Giang có 176 học sinh, Bà Rịa-Vũng Tàu có 188 học sinh… 44 Ban Dân tộc tỉnh Kiên Giang, năm 2009, Báo cáo kết quả kiểm tra chính sách giáo dục dân tộc 45
Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2010, Báo cáo thực hiện chính sách dân tộc
trong vòng 8 năm (tăng từ 60.695 học sinh, năm học 2000 - 2001 lên 144.124 học
sinh năm 2008- 2009). Ở Hà Giang, 100% các xã, huyện vùng cao đều có trường phổ
thông dân tộc bán trú.46
Đối với lớp 1 đến lớp 3, để tạo cơ hội cho các trẻ em ở những xa xôi, hẻo lánh có thể
đi học, nhiều tỉnh vùng cao, ví dụ như Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai... đã phát triển
các điểm trường (lớp cắm bản) tại các thôn/bản xa xôi. Cũng chính nhờ phát triển tốt
các điểm trường và trường bán trú ở một số tỉnh miền núi, khó khăn nhất như Hà
Giang, Sơn La, Lai Châu tỷ lệ bỏ học năm 2009 khá thấp ở cấp tiểu học (Hà Giang:
3,9%, Sơn La: 3,5 và Lai Châu: 3,1%), trong khi mức bình quân toàn quốc là 2,8%, tỷ
lệ bỏ học ở tỉnh cao nhất là Sóc Trăng: 15,4% và THCS (Hà Giang: 11,7%, Sơn La:
10,1 và Lai Châu: 11,9%), trong khi mức bình quân toàn quốc là 10,6%, tỷ lệ bỏ học
ở tỉnh cao nhất là Sóc Trăng: 28,3%.47
Đề hỗ trợ các tỉnh vùng khó xây dựng các điểm trường và hỗ trợ nâng cao chất lượng
tiểu học, Chính phủ đã vay Ngân hàng Thế giới để thực hiện dự án “Phát triển Tiểu
học”. Cho đến cuối năm 2009, cả nước đã có thêm gần 3000 điểm trường được xây
dựng tại 40 tỉnh với trên 8000 phòng học48
. Ngoài việc hỗ trợ xây dựng điểm trường,
một số trường vùng khó còn được hỗ trợ đội ngũ trợ giảng là người DTTS để giúp các
em học sinh DTTS. Chắng hạn, tỉnh Quảng Ngãi có 210 nhân viên hỗ trợ giáo viên
người dân tộc Hre, CaDong, Cor tại 5 huyện miền núi. Mỗi người được nhận khoảng
432 nghìn đồng/tháng. Đây là những người bản địa, am hiểu tiếng dân tộc. Sự có mặt
của họ đã mang lại hiệu quả thiết thực, cùng với giáo viên thực hiện chương trình
chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1 trong 2 tháng hè, giúp các em hòa nhập
tốt hơn
6.2.2. Chính sách cử tuyển cho học sinh DTTS họăc ưu tiên điểm theo vùng
Do điều kiện khó khăn, chất lượng giảng dạy ở các vùng DT& MN thấp hơn mức
trung bình toàn quốc, kết quả học tập của học sinh DTTS nhìn chung còn chưa cao
như đã phân tích ở phần 5.4.1. Để tạo điều kiện cho học sinh DTTS có thể vào học
các trường đại học và cao đẳng, chính phủ đã thực hiện chính sách cử tuyển cho học
sinh DTTS họăc ưu tiên điểm theo vùng cho các học sinh vào học đại học hoặc cao
đẳng.
Cử tuyển là tuyển sinh không qua kỳ thi tuyển (đại học, cao đẳng, trung cấp) để đào
tạo cán bộ, trí thức cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và
các dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học, cao đẳng, trung
cấp. Cử tuyển được thực hiện từ năm 1990, sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
22/NQ-TW ngày 27/11/1989 và Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 72/HĐBT
ngày 13/3/1990 về một số chủ trương, chính sách chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội
miền núi.
46 Ủy ban Dân tộc (2010) Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và
chính sách đại đoàn kết dân tộc” 47
TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 48
Bộ GD-DDT (2010), Báo cáo kết quả thực hiện dự án Phát triển Tiểu học vùng khó do NHTG tài trợ
Từ năm 1999 đến năm 2009, Nhà nước đã giao 22.084 chỉ tiêu cử tuyển vào các
trường đại học, cao đẳng. Các địa phương đã xét duyệt được 19.720 học sinh dân tộc
thiểu số ở các vùng đặc biệt khó khăn vào học tại 79 trường đại học, cao đẳng trung
ương và 30 trường cao đẳng địa phương, trung bình mỗi năm cử tuyển được 1.793
học sinh là con em các dân tộc thiểu số vào học trong các trường đại học, cao đẳng,
đạt tỷ lệ trung bình 89,3% so với kế hoạch tuyển sinh cử tuyển. Nguyên nhân phần
lớn là do học sinh diện cử tuyển ít hơn mức được phép cử tuyển, vì tại các vùng đặc
biệt khó khăn, số lượng học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông rất ít.
Theo kết quả giám sát của Hội đồng Dân tộc Quốc hội, sau khi tốt nghiệp, có trên
80% học sinh, sinh viên trở về quê hương công tác theo sự điều động và phân công
của địa phương49
. Tuy nhiên, khá nhiều học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp chậm tìm được việc làm tại địa phương, mặc dù nhiều huyện, xã
rất thiếu cán bộ có đủ trình độ chuẩn theo yêu cầu công việc (xem Hộp 2) do hầu hết
biên chế tại cơ quan chính quyền các cấp đã có cán bộ, không thể tăng thêm. Từ năm
1999 đến 2009, Quảng Nam cử 976 học sinh dân tộc thiểu số, miền núi đi học cử
tuyển, có 293 người trở về địa phương, trong số đó chỉ có 85 người được bố trí công
việc, Thừa Thiên - Huế, từ năm 2007 - 2009, có 37 người tốt nghiệp cử tuyển nhưng
chỉ có ba người được tuyển dụng50
…
Hộp 2: Học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp
diện cử tuyển và việc làm
Năm 2009 huyện Nam Giang đã nhận 46 học sinh tốt nghiệp đại học, cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp vào làm việc tại các cơ quan trong huyện.
Đến thời điểm cuối năm 2009, trong huyện vẫn còn 109 em đã nộp hồ sơ xin
việc đang chờ việc làm, trong đó có 8 em tốt nghiệp đại học, 19 cao đẳng, còn
lại là học sinh tốt nghiệp các trường trung cấp chuyên nghiệp. Trong số 19 em
tốt nghiệp cao đẳng có 18 em tốt nghiệp cao đẳng sư phạm. Các ngành nghề
trung cấp chuyên nghiệp của các học sinh đã tốt nghiệp rất đa dạng, bao gồm sư
phạm, y tá kỹ thuật, kế toán, kỹ thuật lâm nghiệp, luật, quản lý đất đai, thuỷ lợi,
tin học, thú y, văn hoá quần chúng, quản trị mạng, điện và quản trị kinh doanh,
trong đó số học sinh tốt nghiệp các lớp trung cấp y là nhiều nhất 29/74 em.
Trong số 74 em tốt nghiệp các trường trung cấp chuyên nghiệp có đến 13 nhập
học trên cơ sở tự thi tuyển, vì vậy, phải tự lo công việc.
Nguồn: Thông tin từ cuộc làm việc của Nhóm nghiên cứu với huyện Nam
Giang, ngày 17/7/2010
Một trong những nguyên nhân là do chính sách cử tuyển chưa gắn với quy hoạch cán
bộ. Đối với các nhóm DTTS ít người số học sinh được cử tuyển rất ít do thiếu nguồn,
và vì vậy, ở những vùng có nhiều nhóm DTTS ít người rất thiếu cán bộ. Trong khi đó,
ở một số vùng có các nhóm DTTS đông dân sinh sống, như người Tày, Nùng… nhiều
49 Hội đồng Dân tộc Quốc hội (20008), Báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI 50
Hồng Sơn – Nguyễn Phương (2010), Lãng phí đào tạo cử tuyển
học sinh đi học cử tuyển, số vị trí công chức, viên chức trống không đủ để bố trí công
việc cho các học sinh tốt nghiệp hệ cử tuyển về địa phương công tác.
Trước năm 2008, chỉ tiêu học cử tuyển (phân bổ theo ngành và điạ phương) do Bộ
Giáo dục quyết định. Do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền các cấp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo cơ cấu ngành nghề được đào tạo cử tuyển chưa phù hợp với nhu
cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Một số ngành nghề địa phương rất cần
được cử tuyển như: Y tế, giao thông, thủy lợi, lâm nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi…
nhưng lại được giao chỉ tiêu ít. Lãnh đạo tại một số huyện ở Quảng Nam cho biết học
sinh DTTS diện cử tuyển thường thích học các ngành xã hội, như Văn, Nhạc, Hoạ,
trong khi đó các trường THPT và THCS ở các huyện miền núi lại thiếu giáo viên
toán, vật lý, hoá học...
Mặc dù chính sách cử tuyển đã giúp các nhiều địa phương đào tạo được các cán bộ
người bản địa có trình độ đại học hoặc cao đẳng về làm việc tại địa phương, ở những
vùng thuộc diện được hưởng chính sách, nhưng thuận lợi hơn các vùng rất khó khăn,
có thể gây ra hiện tượng bất bình đẳng giữa học sinh cử tuyển và học sinh đỗ đại học,
cao đẳng do tự thi. Học sinh đỗ đại học, cao đẳng do tự thi không được hưởng chế độ
trợ cấp như các học sinh cử tuyển cho dù cũng là học sinh DTTS, trong các vùng
DT& MN. Dù năng lực tốt hơn và có nguyện vọng về địa phương công tác, cơ hội để
các học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng diện tự thi được về địa phương công tác tại
các cơ quan chính quyền nhà nước vẫn thấp hơn rất nhiều so với các học sinh tốt
nghiệp đại học, cao đẳng diện cử tuyển. Một số hộ gia đình còn thay đổi địa chỉ cư trú
từ thị trấn, thị xã thành vùng cao, từ hộ dân tộc Kinh thành dân tộc thiểu số để con cái
họ được hưởng chính sách cử tuyển. Một số học sinh tốt nghiệp cử tuyển sai đối
tượng này không trở về địa phương công tác theo cam kết, không thực hiện bồi hoàn
kinh phí đào tạo.
Ngoài chính sách cử tuyến đối với học sinh DTTS, học sinh DTTS và học sinh các
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn được hưởng chế độ ưu tiên điểm khi thi vào
các trường đại học, cao đẳng. Theo chính sách ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại
học, cao đẳng trung học chuyên nghiệp, học sinh là công dân Việt Nam có cha hoặc
mẹ là người dân tộc thiểu số được cộng 1 điểm ưu tiên vào điểm thi đại học, cao đẳng
trung học chuyên nghiệp.
Chính sách ưu tiên điểm theo vùng trong thi đầu vào các trường đại học, cao đẳng đã
tạo điều kiện cho các học sinh vùng khó khăn bớt căng thẳng trong cạnh tranh với học
sinh vùng thuận lợi. Tuy nhiên, chính sách này cũng có thể bị lợi dụng, ví dụ như
trong thực tế đã nảy sinh nhiều trường hợp học sinh đã "chạy" hộ khẩu để được hưởng
chính sách ưu tiên.
6.2.3.Chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn
Theo Thông tư số 06/2007/TT-UBDT ngày 20/9/2007 về hướng dẫn thực hiện Quyết
định 112/2007/QĐ-TTg, các học sinh là con hộ nghèo đi học được hỗ trợ cụ thể như
sau:
- 70.000đồng/tháng x 9 tháng/năm cho một học sinh tại các lớp mẫu giáo thôn,
bản là con hộ nghèo dưới hình thức hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc ăn tại lớp tuỳ thuộc vào
quyết định của hội phụ huynh học sinh và Ban giám hiệu trường.
- 140.000 đồng/tháng x 9 tháng/năm cho một học sinh tiểu học, THCS hoặc
THPT là con hộ nghèo dưới hình thức hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc hiện vật tuỳ thuộc
vào quyết định của hội phụ huynh học sinh và Ban giám hiệu trường trên cơ sở cân
nhắc điều kiện cụ thể và nguyện vọng của học sinh.
Ngoài những hỗ trợ mang tính chất quốc gia này, một số tỉnh đã dành thêm nguồn lực
của tỉnh để hỗ trợ cho học sinh nghèo, ví dụ như Quảng Nam có chính sách hỗ trợ tất
cả các học sinh THCS 100.000 đồng/tháng/1 học sinh, góp phần thu hút trẻ em đến
trường nhằm thực hiện mục tiêu phổ cập THCS trong tỉnh.
6.3.4. Nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh DTTS thông qua chính sách
ưu tiên dạy và học bằng tiếng dân tộc:
Để khắc phục tình trạng học sinh một số nhóm DTTS khó tiếp thu bài do phải học
bằng tiếng Kinh, trong những năm qua một số tại một số địa phương đã thực hiện dạy
bằng tiếng DTTS cho học sinh DTTS. Cho đến nay đã có hơn 10 loại chữ dân tộc
thiểu số được dạy trong trường học. Các địa phương đã triển khai dạy tiếng dân tộc
cho các em học sinh theo chương trình và sách giáo khoa được Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành 4 thứ tiếng gồm: Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Mông được bố trí ở 3 trình độ
được triển khai từ lớp 3 đến lớp 5. Đối với chương trình tiếng Chăm hiện nay đã xây
dựng ở mức 5 trình độ và tiếng Khmer là 7 trình độ, tiếng Hoa là 9 trình độ , việc dạy
được triển khai ngay từ lớp 1 hoặc lớp 2 và dạy đến hết cấp tiểu học, hoặc cấp trung
học cơ sở. Một số tiếng, chữ dân tộc thiểu số được sử dụng trên các phương tiện
thông tin đại chúng như: Hmông, Thái, Jrai, Êđê, Bana, Chăm, Khơme.
Năm học 2008-2009, cả nước có 17 tỉnh, thành phố thực hiện việc dạy học tiếng dân
tộc thiểu số trong trường phổ thông như: Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Cà Mau,
Cần Thơ, Đắc Lắc, Gia Lai, Lào Cai, Yên Bái... Việc dạy tiếng dân tộc thiểu số được
triển khai ở 646 trường, 4.518 lớp với 105.638 học sinh. Trong năm học này, cả nước
có 1.223 giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số, hầu hết đều là người dân tộc thiểu số.
Có 2 hình thức dạy học tiếng dân tộc đã được triển khai: (i) theo lớp có sẵn (đối với
các lớp có tính đồng nhất cao về dân tộc), theo đó môn học tiếng dân tộc là môn tự
chọn, thời gian phân phối từ 2 - 4 tiết/tuần và (ii) học xen với các tiết học khác của
cấp học. Đối với trường hợp số học sinh dân tộc/lớp ít, hình thức tổ chức dạy là hình
thành các lớp ghép (trong phạm vi cùng cấp với các lớp trong 1 trường, với quy mô
khoảng 25 em/lớp). Các lớp học này thường được bố trí học vào cuối buổi học hoặc
học vào các buổi chiều.
Về chất lượng học tập môn tiếng dân tộc, cho thấy ở cấp tiểu học chỉ có 46,9% học
sinh đạt khá giỏi, tỷ lệ học sinh đạt loại trung bình và yếu lên đến đến 53,1%; đối với
cấp trung học cơ sở tỷ lệ tương ứng là 42,1% và 57,9%; cấp trung học phổ thông là
59,8% và 40,2%.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các tỉnh vùng DT& MN đểu nhận thức được là dạy
và học bằng tiếng dân tộc là vấn đề hết sức cần thiết góp phần nâng đáng kể trong
việc hoàn thiện chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, việc dạy tiếng
dân tộc và học bằng tiếng dân tộc còn gặp nhiều trở ngại do chất lượng giáo trình
chưa cao, tính đồng nhất về dân tộc ở các lớp học không cao do học sinh trong một
lớp vùng cao thường thuộc nhiều nhóm dân tộc khác nhau, chất lượng giáo viên dạy
lớp ghép chưa đạt yêu cầu, thiếu sự hỗ trợ và khuyến khích đối với giáo viên dạy
tiếng dân tộc...
Để tăng cường dạy tiếng dân tộc và học bằng tiếng dân tộc, mới đây, Nghị định
82/2010/NĐ-CP, Quy định về việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số
trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên, đã được ban
hành ngày 15 tháng 7 năm 2010. Nghị định này quy định việc dạy và học tiếng nói,
chữ viết của dân tộc thiểu số, bao gồm: điều kiện, nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; chế độ, chính sách đối với người
dạy và người học tiếng dân tộc thiểu số. Việc đưa tiếng dân tộc thiểu số vào dạy học
được quyết định trên cơ sở nguyện vọng của người dân tộc thiểu số và điều kiện tổ
chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số của địa phương. UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm
đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số trên địa bàn.
6.3.5. Chính sách hỗ trợ giáo viên dạy tiếng dân tộc và giáo viên vùng núi, hải
đảo, vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh
Để thu hút được giáo viên, sinh viên tốt nghiệp các trường sư phạm về dạy tại các khu
vực miền núi, hải đảo, vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh, một số chính sách khuyến
khích đã được ban hành, ví dụ như chính sách lương, chính sách nhà ở, chính sách hỗ
trợ trực tiếp ngoài lương... Cán bộ quản lý và giáo viên làm việc tại các vùng núi cao,
hải đảo, vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh được hưởng phụ cấp lương theo vùng ngoài
phụ cấp đứng lớp51
.
Trong mấy năm gần đây, các tỉnh miền núi, hải đảo đã được hỗ trợ một phần cho việc
xây nhà ở cho giáo viên. Ngoài ra, chính phủ đã ban hành các nguyên tắc sử dụng
kinh phí từ các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và hỗ trợ phát triển
kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (CT135II)
cho các hoạt động hỗ trợ giáo viên vùng khó khăn nhất.52
Theo Nghị định
82/2010/NĐ-CP mới ban hành, giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số được hưởng phụ
cấp trách nhiệm công việc bằng 0,3 so với mức lương tối thiểu chung.
6.3.6. Chính sách đào tạo nghề
Như đã phân tích ở phần 5.4.1. tỷ lệ hoàn thành các cấp học ở các tỉnh vùng DT&
MN, đặc biệt là của học sinh một số nhóm DTTS thấp. Điều đó đồng nghĩa với việc
cơ hội vào học các trường đại học và cao đẳng của học sinh DTTS cũng bị hạn chế.
51 Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ về chính sách đối với nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục đang công tác ở trường chuyên biệt, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn 52
Xem Thông tư số 06/2007/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC ngày 27/3/2007
Tỷ lệ chưa được đào tạo của một số nhóm DTTS cao, như đối với nhóm dân tộc Thái
là 94,6%, Khmer: 97,8%, H’Mông: 98,7%, các dân tộc khác: 96%, trong khi đó tỷ lệ
chưa được đào tạo nghề của toàn quốc là 86,7% (xem Bảng 10, Phần Phụ lục). Như
vậy, đào tạo nghề càng quan trọng đối với thanh niên DTTS. Ngoài các chính sách hỗ
trợ đào tạo nghề chung cho toàn quốc và các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nông
thôn, thanh niên DTTS thiểu số đã được ưu tiên đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo nghề.
Để khuyến khích học nghề, học sinh tốt nghiệp các trường trung học cơ sở dân tộc nội
trú, trung học phổ thông dân tộc nội trú, kể cả nội trú dân nuôi; học sinh tốt nghiệp
trung học cơ sở dân tộc nội trú và có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hệ bổ túc
văn hóa được cử tuyển học nghề nội trú, trong đó ưu tiên các đối tượng thuộc dân tộc
thiểu số ở khu vực đặc biệt khó khăn và các đối tượng chính sách theo quy định tại
Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng được hỗ trợ học bổng
(280.000đ/người/tháng;), được thưởng một lần/năm theo kết quả học tập, được hỗ trợ
mua đồ dùng cá nhân, hỗ trợ tiền tàu, xe mỗi năm 01 lần, được hỗ trợ tiền mua học
phẩm dùng cho học tập, sách giáo khoa, tài liệu học tập và tiền lễ tết nguyên đán, tết
dân tộc nếu học sinh ở lại trường không về nhà.53
Trong các đề án dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 2008-2015 theo
Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21/7/2008 và đề án về Dạy nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020, thanh niên DTTS cũng được coi là đối tượng ưu tiên cao.
Mặc dù học sinh học nghề nói chung và học sinh học nghề là người DTTS nói riêng
được hưởng một số chính sách hỗ trợ, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT đi học
nghề vẫn rất thấp. Một trong những lý do khiến học sinh tốt nghiệp THCS và THPT
ngại đi học nghề là khả năng tìm việc làm hạn chế. Trình độ học vấn và kết quả học
tập của một số nhóm DTTS thấp hơn mức bình quân toàn quốc là một trở ngại cho
các học sinh DTTS tốt nghiệp các trường sơ cấp, trung cấp và cao đẳng nghề trong
quá trình cạnh tranh tìm việc làm tại các thành phố lớn hoặc khu công nghiệp tập
trung. Tập quán sinh hoạt tự do không theo tác phong công nghiệp của một số thanh
niên DTTS cũng làm cho các chủ doanh nghiệp ngại tuyển nhân viên là người DTTS.
Hơn nữa, bản thân một số nhóm DTTS cũng ngại làm việc xa nhà, đặc biệt là những
người đã có gia đình.
Để khắc phục tình trạng này, trong Chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn,
các cơ sở dạy nghề chỉ được hỗ trợ (do học viên học nghề không phải đóng học phí)
khi có được cam kết từ các doanh nghiệp là sẽ nhận các học viên tốt nghiệp các khoá
học nghề vào làm việc. Tuy nhiên, biện pháp này cũng chỉ khuyến khích được các cơ
sở dạy các nghề ngắn hạn, không đòi hỏi chi phí cao cho việc tổ chức dạy nghề tham
gia. Việc làm cho học viên tốt nghiệp các khoá học nghề ngắn hạn không bền vững.
Hiện tại, do nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc từ các nước EU đang cao, nhiều cơ sở
dạy nghề may tư nhân được thành lập trong năm 2009 và 2010 để được hưởng lợi từ
chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nông thôn. Tuy nhiên, nếu các nước EU ngừng hoặc
53 Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách dạy nghề
đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú
giảm nhập khẩu hàng may mặc, có thể các cơ sở dạy nghề này sẽ phải ngừng hoạt
động và các học viên tốt nghiệp các khoá học nghề may sẽ bị mất việc.
Đào tạo nghề dài hạn chưa được chú trọng đúng mức. Trước hết, nhận thức về tầm
quan trọng của đào tạo nghề dài hạn đối với phát triển kỹ năng nghề trong học sinh
THCS và THPT chưa cao, kể cả học sinh DTTS. Vì vậy, nhiều học sinh THPT vùng
DT& MN chỉ thích thi đại học dù năng lực hạn chế cũng giống như các học sinh
THPT khác trong cả nước, gây lãng phí nguồn lực. Công tác hướng nghiệp cho học
sinh THCS và THPT, kể cả tại các trường PTDTNT chưa được quan tâm đúng mức.
Số giờ dành cho hướng nghiệp quá ít. Hơn nữa, giáo viên dạy hướng nghiệp thường
kiêm nhiệm, chưa được đào tạo về hướng nghiệp và thiếu thông tin và kỹ năng cần
thiết.
6.4. Các chính sách liên quan đến phát triển tâm lực
Tập quán và văn hoá của một số nhóm DTTS đã gây trở ngại cho việc phát triển
nguồn nhân lực DTTS. Như đã phân tích ở phần 5.3.1. do tập quán, phụ nữ nhiều
nhóm DTTS ngại đi khám thai và thường sinh đẻ tại nhà, thậm chí ngoài nương rẫy,
không có sự chăm sóc của cán bộ y tế, dẫn đến tỷ suất chết mẹ cao. Phụ nữ DTTS ít
được chăm sóc tốt sau khi sinh, phải đi làm nương xa nhà sớm, đã dẫn đến tỷ lệ trẻ em
suy dinh dưỡng cao, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi. Chương trình sức khoẻ
sinh sản do Bộ Y tế thực hiện đã tập trung ưu tiên các tỉnh vùng DT& MN nhưng
chưa hỗ trợ được nhiều do thiếu những biện pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của
từng địa phương và nhóm dân tộc.
Một số dân tộc như Mông, Dao, Kháng, Giáy,... ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn
kết hôn trong phạm vi 3 đời, dẫn đến nguy cơ hôn nhân cận huyết cao nhất, làm ảnh
hưởng lâu dài đến tầm vóc, thể trạng, sức khỏe thể chất và tinh thần, trí tuệ các thế hệ.
Để giải quyết vấn đề này, Tổng cục Dân số đã thực hiện một số dự án thí điểm truyền
thông, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi tại một số huyện như: Sìn Hồ, Mường Tè,
Phong Thổ (tỉnh Lai Châu); Mèo Vạc, Đồng Văn, Quản Bạ (tỉnh Hà Giang). Tuy
nhiên, các dự án còn ở qui mô nhỏ, chưa đồng bộ, chưa bao phủ hết các dân tộc thiểu
số trên phạm vi cả nước.
Tình trạng tảo hôn còn khá phổ biến trong nhiều nhóm dân tộc thiểu số, trong đó rõ
nhất là trong các dân tộc Mông, Dao, Khơ mú,... Nhiều cặp vợ chồng không áp dụng
các biện pháp sinh đẻ có kế hoạch, dẫn đến đông con, nghèo đói. Trừ một số nhóm
DTTS rất ít người, chính sách kế hoạch hoá gia đình cũng được tuyên truyền và áp
dụng đối với các gia đình DTTS. Tuy nhiên, việc tuyên truyền và vận động sinh đẻ có
kế hoạch gặp rất nhiều khó khăn tại các vùng núi xa xôi, hẻo lánh.
Do điều kiện sống biệt lập, thưa dân, người dân thuộc nhiều nhóm DTTS thường gặp
khó khăn khi làm việc trong môi trường công nghiệp, đông người, học sinh đi học
thiếu tự tin nếu không được giáo viên quan tâm đúng mức. Tập quán lễ hội đã gây trở
ngại cho người dân tộc thiểu số kiếm việc làm ở các doanh nghiệp lớn, có dây chuyền
sản xuất công nghiệp.
Nhiều hoạt động văn hoá, bảo tồn thiên nhiên đã được thực hiện nhằm bảo vệ và phát
huy các truyển thống, văn hoá tốt đẹp của các nhóm DTTS. Tuy nhiên, nạn phá rừng,
huỷ hoại môi trường đã làm cho cuộc sống của nhiều nhóm DTTS, nhất là các nhóm
DTTS quen sống ở núi cao, vùng sâu gặp nhiều khó khăn. Cuộc sống của họ trở nên
khó duy trì với các tập quán truyền thống và văn hoá vốn có.
Việc xây dựng các chính sách vừa bảo tồn được những nét đẹp trong truyền thống,
văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số, vừa giúp bà con khắc phục những trở ngại do
tập quán và văn hoá gây ra để hoà nhập vào cuộc sống chung của đa số mọi người đòi
hỏi Đảng và Chính phủ phải dành nhiều tâm huyết và nguồn lực cho việc tham vấn
cộng đồng DTTS trong xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực DTTS nói
riêng và phát triển đất nước nói chung.
6.5. Một số chính sách có liên quan gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực
vùng DT& MN
Có khá nhiều chính sách liên quan gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực vùng DT&
MN nhưng lại có ảnh hưởng khá mạnh, bao gồm chính sách giảm nghèo thông qua hỗ
trợ sản xuất, phát triển CSHTNT, hỗ trợ nhà ở, hỗ trợ trực tiếp đột xuất và chính sách
phát triển vùng...
6.5.1. Các chính sách giảm nghèo:
Như đã phân tích ở phần 5.3 và 5.4 nghèo đói là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến khó khăn trong phát triển thể lực và trí lực của các nhóm DTTS. Thậm chí
theo điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo, một số học sinh nữ dân tộc H’ Mông, J’rai
và Khmer còn cho nghèo đói là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến bỏ học, sau đó đến
phải ở nhà giúp bố mẹ làm nương54
.
Trong 5 năm qua Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, thực hiện nhiều chương
trình, dự án nhằm mục đích giảm nghèo, đặc biệt là đối với các tỉnh khó khăn trong
vùng DT& MN. Nghiên cứu “Tổng quan về các chính sách và dự án giảm nghèo hiện
hành của Chính phủ Việt Nam”55
đã chỉ ra 41 dự án và chính sách định hướng vào
việc giảm nghèo được thực hiện trên toàn quốc tại thời điểm năm 2009, trong đó có
ba chương trình mục tiêu quốc gia lớn nhất, đó là i) chương trình kinh tế - xã hội cho
các xã đặc biệt khó khăn tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2006-
2010 (CT135II); ii) chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006-
2010 (CTMTQG-GN) và chương trình vừa mới được bắt đầu iii) Nghị quyết 30a về
giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo. Cả ba chương trình này đều tập
trung vào các tỉnh, huyện nghèo, vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, nơi có
nhiều đồng bào DTTS sinh sống.
Ngân sách phân bổ cho các chương trình giảm nghèo là 46.311 tỷ VNĐ, hay 2,6 tỷ
USD cho giai đoạn 2006-2020. Tuy nhiên, do số liệu báo cáo có trùng lắp, ví dụ như
54 Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009, Học sinh nữ DTTS chuyển từ cấp tiểu học sang THCS
55 Richard Jones và đồng nghiệp (2009), Tổng quan về các chính sách và dự án giảm nghèo hiện hành
của Chính phủ Việt Nam
giữa CTMTQG-NSVSNT với CT134 và CT135 cũng như giữa CTMTQG-GN với tất
cả các chương trình giảm nghèo khác nên con số thực tế là thấp hơn. CTMTQG-
135II, CTMTQG-GN, CTMTQG-NSVSNT và chương trình 62 huyện nghèo bao
trùm phần lớn các hỗ trợ giảm nghèo. Vì vậy, số liệu hiện có cho thấy giải ngân cho
các hoạt động giảm nghèo thấp hơn nhiều so với kế hoạch ngân sách với 19.911 tỷ
VNĐ đã được giải ngân trong giai đoạn 2006-2009. Trong năm 2008, tỷ lệ nghèo của
Việt Nam là 12.1% hay trên 10 triệu người nghèo. Điều này có nghĩa là ngân sách hỗ
trợ được phân bổ chỉ khoảng 2 triệu VNĐ/người trong vòng 3 năm qua.56
Các chương trình giảm nghèo bao trùm các hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực, từ phát
triển CSHTNT, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ nhà ở, nước sạch, hỗ trợ trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo, y tế, ... cho đến các hỗ trợ trực tiếp đột xuất cho người nghèo.
CSHTNT, đặc biệt là đường nông thôn, được xây dựng đã giúp cho người dân vùng
DT& MN tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục và y tế.
Hỗ trợ về nhà ở, cấp nước sạch cho người nghèo các vùng DT& MN cũng giúp cải
thiện sức khoẻ cho người DTTS.
Trong số 41 chương trình/dự án liên quan đến giảm nghèo, có một số chương trình
dành riêng cho đồng bào DTTS, bao gồm: Vốn vay ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu
số đặc biệt khó khăn57
, Một số chính sách hỗ trợ người thiểu số, các hộ chính sách xã
hội, các hộ nghèo và cận nghèo và ngư dân, Trợ giá và cước giao thông cho vùng núi
và vùng dân tộc thiểu số58
, Hỗ trợ cho các nhu cầu cơ bản của đồng bào dân tộc thiểu
số thuộc các vùng khó khăn59
và các chương trình phát triển dân tộc thiểu số Si La, Pu
Péo, Rơ Măm, Brâu và Ơ Đu.60
Các chương trình/dự án liên quan đến giảm nghèo này
đã có tác dụng nhất định đối với việc giảm nghèo trong các vùng DT& MN. Tuy
nhiên, đối với một số nhóm DTTS, các hỗ trợ giảm nghèo chưa có tác động lớn thể
hiện ở tỷ lệ nghèo đói cao và tốc độ giảm nghèo chậm của các nhóm DTTS này, như
đã phân tích ở trên. Một số nguyên nhân dẫn đến các chương trình hỗ trợ giảm nghèo
chưa có hiệu quả cao là do sự chồng chéo, phân tán và thiếu sự tham gia của người
hưởng lợi trong quá trình thiết kế các chương trình. Nhu cầu của người nghèo, các đặc
điểm truyền thống, văn hoá của các nhóm DTTS chưa được thể hiện trong thiết kế
chương trình/dự án.
6.5.2. Chính sách phát triển vùng
Nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực vùng DT& MN nói riêng chịu ảnh
hưởng khá lớn từ trình độ phát triển kinh tế- xã hội của các vùng. Thông thường,
chính sách phát triển vùng phù hợp sẽ giúp phát huy được các ưu thế về vị trí địa lý,
văn hoá và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, miền trong phát triển kinh tế- xã hội. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, chính sách phát triển vùng chưa được quan tâm đúng mức.
56 Richard Jones và đồng nghiệp (2009), Tổng quan về các chính sách và dự án giảm nghèo hiện hành
của Chính phủ Việt Nam 57
Quyết định 32/2007/QĐ-TTG ngày 5/3/2007 58 Công văn số 20/UBDT-CSDT ngày 10/1/2008 59
Nghị định 20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 và nghị định 02/2002/NĐ-CP ngày 3/1/2002 60 Các Quyết định số 236, 237, 238, 292, 304 và 255 do UBDT ban hành năm 2005
Các bản quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010, rồi 2020 của các vùng
đều được xây dựng. Tuy nhiên, phần lớn các bản quy hoạch này đều thiếu hệ thống
giải pháp chính sách toàn diện, đồng bộ và phù hợp. Trong 5 năm qua Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành 6 nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội 6 vùng, bao
gồm Nghị quyết số 54/NQ-TW về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông
Hồng, Nghị quyết số 37/NQ-TW về phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi phía
Bắc, Nghị quyết số 39/NQ-TW về phát triển kinh tế - xã hội vùng Duyên Hải miền
Trung, Nghị quyết số 10/NQ-TW về phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên,
Nghị quyết số 21/NQ-TW về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu
Long Nghị quyết số 55/NQ-TW về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên, các Nghị quyết này chỉ nêu ra định hướng phát triển kinh tế- xã hội các
vùng, chứ chưa đi kèm các giải pháp chính sách và nguồn lực thực hiện. Chỉ có 4
vùng là miền núi phía Bắc, Duyên Hải miền Trung, Tây Nguyên, và đồng bằng sông
Cửu Long là được hưởng hỗ trợ từ ngân sách bổ sung năm 2009 và 2010 nhờ các
quyết định 24, 25, 26, 27 do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2008. Với nguồn
ngân sách hạn hẹp nguồn ngân sách được bổ sung thêm nhờ thực hiện các quyết định
trên cũng không có tác dụng đối với việc phát triển kinh tế xã hội các vùng DT& MN.
6.6. Những vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính sách phát triển NNL vùng DT&
MN hiện nay
Có thể nói trong những năm qua, rất nhiều chính sách đã được ban hành có liên quan
đến phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN. Mặc dù số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực vùng DT& MN có tăng lên liên tục, vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết để
giúp cải thiện đời sống cho đồng bào vùng DT& MN và chất lượng nguồn lực DTTS.
Trước hết, là tình trạng chồng chéo, trùng lắp trong việc ban hành chính sách phát
triển kinh tế- xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN nói riêng.
Có quá nhiều các chính sách được ban hành và thực hiện chồng chéo, trùng lắp, thiếu
sự phối hợp, đã làm giảm hiệu quả và hiệu lực thực hiện chính sách. Với nguồn lực
công hạn chế như hiện nay, sự chồng chéo, trùng lắp trong việc ban hành chính sách
đã dẫn đến nhiều chính sách chỉ tồn tại trên giấy, mà không có hiệu lực trên thực tiễn.
Sự bất bình đằng cũng đã xảy ra do sự chồng chéo và trùng lắp, do có đối tượng cần
được hỗ trợ thì bị bỏ qua, trong khi đó có đối tượng được hưởng lợi cùng một lúc từ
nhiều chính sách.
Nhiều chính sách, chương trình/dự án đầu tư công hỗ trợ vùng DT& MN được xây
dựng chưa trên cơ sở nhu cầu thực tế của người dân, đặc biệt là của các đối tượng cần
được hỗ trợ. Vì vậy, nhiều hoạt động hỗ trợ được thực hiện không đạt mục tiêu đặt ra.
Ví dụ như, tại một số địa phương, người dân nông thôn dự các lớp học nghề không
phải để học nghề mà phần nhiều để lĩnh tiền phụ cấp. Khi tiền phụ cấp quá thấp so với
mức tiền công họ có thể nhận được khi đi làm thuê ở ngoài thì việc tham gia học nghề
không còn hấp dẫn đối với họ nữa.
Các chính sách liên quan đến đồng bào DTTS thường áp dụng chung cho tất cả các
nhóm DTTS chưa có sự phân nhóm cho phù hợp với trình độ học vấn, chuyên môn,
tập quán, truyền thống của từng nhóm DTTS, trong khi một số nhóm DTTS có các
thành tích và mức sống gần tương đương với người Kinh và người Hoa, còn nhiều
nhóm DTTS có điều kiện sống rất khó khăn, ít được tiếp cận với những hỗ trợ của
Chính phủ.
VII. Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực DTMN giai đoạn 2011- 2015 và đến năm
2020
7.1 Quan điểm phát triển KTXH đến năm 2020
Trong Chiến lược phát triển Kinh tế- Xã hội 2011- 2020, năm quan điểm phát triển đã
được đưa ra, bao gồm:
- Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững;
- Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế, chính trị vè mục tiêu xây dựng Việt
Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
- Thực hành dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ
thế, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển
- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuât với trình độ khoa học công nghệ ngày
càng cao đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN
- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng
7.2 Mục tiêu phát triển KTXH 2011- 2015
Mục tiêu chiến lược phát triển KTXH 2011- 2020 là phấn đấu trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, với một nền chính trị ổn định, đồng thuận, dân chủ, kỷ
cương, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng cao tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn
trong giai đoạn sau.
Để thực hiện mục tiêu chiến lược này, ba mũi đột phá chiến lược đã được xác định,
một trong ba mũi đột phá đó là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao”.
Thực hiện mũi đột phá “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao”, một số mục tiêu cụ thể đã được xác định trong chiến lược phát triển
KTXH 2011- 2020, bao gồm: (i) Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài
hoà với phát triển kinh tế; (ii) Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng
công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân; (iii) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi
mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo; và (iv) bảo vệ và cải thiện chất
lượng môi trường, chủ động ứng phó với hậu quả biến đổi khí hậu.
Chiến lược phát triển KTXH 2011- 2020 đã nhấn mạnh định hướng “tạo cơ hội bình
đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi
xã hội” và “đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền
vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn khác”. “Nâng
cao chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc” được coi là định
hướng ưu tiên phát triển.
7.3 Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN giai đoạn 2011- 2015 và
đến năm 2020
Để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển KTXH 2011- 2020 với khẩu đột phá là
phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, chỉ tiêu cụ
thể về tỷ lệ lao động được đào tạo đến năm 2015 trong kế hoạch phát triển KTXH 5
năm 2011- 2015 được xác định là 55% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh
tế. Việc thực hiện chỉ tiêu này dẫn đến nhu cầu rất cao về phát triển nguồn nhân lực
vùng DT& MN vì tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở nhiều vùng DT& MN đặc biệt là
nhiều nhóm DTTS, như người H’Mông, Kh’mer rất cao, khoảng trên dưới 98% (xem
Bảng 10). Để có thể nâng tỷ lệ lao động được đào tạo của một số nhóm DTTS từ 2%
trong tổng số lao động đang làm việc lên mức bằng nửa chỉ tiêu đặt ra cho bình quân
cả nước (27,5%) trong vòng 5 năm đòi hỏi nỗ lực rất lớn từ phía Nhà nứơc, doanh
nghiệp và cộng đồng dành cho phát triển nguồn nhân lực DTTS và vùng DT& MN.
Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN trong giai đoạn 2011- 2015 dự
kiến như sau:
7.3.1. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN có tay nghề cao
Việt Nam chuẩn bị bước vào giai đoạn là một nước có thu nhập trung bình. Rất nhiều
nước đang phát triển trên thế giới đã mắc phải “Bẫy thu nhập trung bình”. Thông
thường những nước mắc phải bẫy thu nhập trung bình là những nước có tỷ lệ lao động
có tay nghề thấp. Khi chuyển sang một nước có thu nhập trung bình nguồn nhân lực
rẻ tiền không còn là ưu thế để thu hút đầu tư nữa. Nhu cầu về nguồn nhân lực có trình
độ tay nghề sẽ dần thay thế cho nhu cầu về nguồn nhân lực rẻ tiền. Nếu Việt Nam
không có chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN, đặc biệt là nguồn
nhân lực cho một số nhóm DTTS đặc biệt khó khăn, chắc chắn phần lớn người lao
động DTTS sẽ không kiếm được việc làm và sẽ bị gạt ra khỏi nền kinh tế. Lúc đó mục
tiêu giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân đặt ra trong kế hoạch phát triển KTXH
2011-2020 và Chiến lược phát triển KTXH sẽ khó lòng đạt được.
74,45% dân số hay 50.769.895 người vùng DT& MN ở độ tuổi lao động vào năm
2009. Nếu tạm lấy tỷ lệ dân số chưa qua đào tạo trung bình toàn quốc để tính thì số
dân trong vùng DT& MN chưa qua đào tạo cũng đã rất lớn, trên 44 triệu người. Vấn
đề đào tạo nghề là đặc biệt cần thiết đối với đồng bào DTTS, do tỷ lệ dân số chưa qua
đào tạo của một số nhóm DTTS, thậm chí là nhóm DTTS đông người, như dân tộc
Thái (94,6%), Kh’mer (97,7%) và H’Mông (98,7) rất cao.61
Chỉ tính riêng số dân ở độ tuổi đi học trung học phổ thông (16-18 tuổi) nhưng không
đến trường thì cũng đã có trên 2 triệu người không có tay nghề cần được đào tạo trong
61 TCTK 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
các vùng DT& MN. Việc đào tạo nghề trung và dài hạn nhằm tạo việc làm bền vững
sẽ cực kỳ khó khăn đối với đồng bào DTTS vì tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chưa từng
đi học của nhiều nhóm DTTS rất cao, như H’Mông: 61,4%, Kh’mer: 23,9%, Thái:
17,8% và các nhóm DTTS khác: 23,3%. Vì vậy, để đào tạo nghề cho đồng bào DTTS
và vùng DT& MN nhu cầu phát triển giáo dục, tạo cơ hội thuận lợi hơn và nâng cao
chất lượng giáo dục cho phù hợp với điều kiện, truyền thống văn hoá của nhiều nhóm
DTTS ngày càng lớn. Chính sách cử tuyển hay thành lập các trường dạy nghề ở các
vùng DT& MN sẽ không phát huy tác dụng nếu thiếu nguồn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là
phải làm thế nào để tăng tỷ lệ nhập học, hoàn thành cấp học đối với các nhóm DTTS
có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chưa từng đi học cao.
Muốn nâng tỷ lệ lao động có tay nghề trong vùng DT& MN và các nhóm DTTS, tỷ lệ
học sinh hoàn thành các cấp học cũng phải được nâng cao. Như đã phân tích ở trên, tỷ
lệ nhập học và hoàn thành các cấp học của nhiều nhóm DTTS, cũng như vùng DT&
MN còn thấp. Như vậy, nhu cầu về giáo dục, đặc biệt là giáo dục phù hợp với đặc
điểm tự nhiên, văn hoá, xã hội của đồng bào DTTS và vùng DT& MN là cực kỳ cao.
Nghị định 82/2010/NĐ-CP, Quy định về việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu
số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên, vừa được ban
hành, hy vọng sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục tại các vùng DT& MN.
7.3.2. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN biết ngoại ngữ và có kiến thức
về công nghệ thông tin
Ngày càng có nhiều việc làm mới được tạo ra từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, cũng như từ thị trường việc làm ngoài nước. Như vậy, có thể đòi hỏi
người lao động phải biết ngoại ngữ và sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin.
Trong những năm qua trong chính sách xuất khẩu lao động đã dành ưu tiên cao cho
người lao động DTTS và các vùng DT& MN. Từ kinh nghiệm về lao động xuất khẩu
trong những năm qua cho thấy, người lao động DTTS đi lao động ở nước ngoài cũng
đạt được những thành tích không kém gì người lao động người Kinh.
7.3.3. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN nhanh nhạy, linh hoạt, dễ
dàng chuyển đổi phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Việt Nam đã gia nhập WTO từ năm 2007. Tất cả những cam kết chưa hoàn tất khi gia
nhập WTO sẽ phải được thực hiện vào năm 2014. Như vậy, đến năm 2020, Việt Nam
sẽ phải hoàn thiện thể chế để vận hành nền kinh tế theo nguyên tắc của một nền kinh
tế thị trường. Giai đoạn 2011- 2020 cũng là lúc Việt Nam từng bước trở thành một
nước có thu nhập trung bình. Tất cả những hỗ trợ ưu đãi hoặc viện trợ không hoàn lại
từ cộng đồng quốc tế sẽ chấm dứt. Hiệu quả đầu tư sẽ phải được quan tâm nhiều hơn.
Dưới ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá, không những lực lượng lao động cần có
tay nghề cao, mà phải nhanh nhạy, linh hoạt, liên tục hoàn thiện và chuyển đổi cho
phù hợp với nhu cầu của thị trường. Trong bối cảnh như vậy, lực lượng lao động vùng
DT& MN cũng phải trở nên linh hoạt liên tục hoàn thiện và chuyển đổi cho phù hợp
với nhu cầu của thị trường.
Hiện tại, ở nhiều vùng DT& MN, phần lớn lực lượng lao động làm nghề nông và các
nghề đơn giản (Vùng Trung du& miền núi BB: 78,44%; Duyên hải miền Trung:
64,8% và Tây nguyên: 76,33%). Trong xu thế phát triển hiện nay, với diện tích đất
nông nghiệp và đất rừng ngày càng bị thu hẹp, năng suất cây trồng ngày càng tăng,
việc làm trong nông nghiệp sẽ bị thu hẹp. Nếu không có tay nghề và đặc biệt không
đủ nhanh nhạy, linh hoạt, dễ dàng chuyển đổi phù hợp với nhu cầu của thị trường thì
nhiều người lao động vùng DT& MN sẽ bị mất việc và mất nguồn kiếm sống.
Như đã phân tích ở phần trên, nhiều người DTTS ngại xa nhà, khó làm quen với môi
trường làm việc công nghiệp, kém tự tin… đã cản trở khả năng kiếm việc làm và tăng
thu nhập, trong khi đó các vùng nơi phần lớn người DTTS sinh sống thường là miền
núi, vùng sâu điều kiện đi lại khó khăn, không đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư, phát triển
kinh tế để tạo việc làm mới.
Các dạy học không lấy học sinh làm trung tâm và áp dụng một khung chương trình,
một bộ sách giáo khoa cho tất cả các vùng càng làm giảm tính tự tin của học sinh
DTTS. Trình độ văn hoá thấp, môi trường sống biệt lập đã tạo nên thói quen của
nhiều nhóm DTTS ngại thay đổi, khó thích nghi với môi trường mới. Người lao động
DTTS càng kém tự tin hơn do bị giới hạn về tiếp cận thông tin.
Để phát triển nguồn nhân lực DTTS đòi hỏi phải thay đổi cách dạy học trong các
trường phổ thông các cấp. Các thông tin về các chính sách của Đảng và Nhà nước và
về việc làm cần được cung cấp thường xuyên, đầy đủ, kịp thời cho người dân các
vùng DT& MN, đặc biệt là các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa.
7.3.4. Phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN có sức khoẻ tốt
Việt Nam được đánh giá là một trong mười nước sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất
từ biến đổi khí hậu, trong đó vùng ven biển miền Trung và vùng đồng bằng sông Cửu
Long là bị ảnh hưởng nhiều nhất, đặc biệt liên quan đến phát triển nông nghiệp và
việc làm trong nông nghiệp. Điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều nông dân tại các vùng
này phải đi tìm việc làm phi nông nghiệp, trong khi đó vùng đồng bằng sông Cửu
Long là vùng có tỷ lệ dân số trên 5 tuổi chưa từng đi học cao nhất trong cả nước. Điều
này có nghĩa là đối với nhiều thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long, song song
với việc học nghề để kiếm việc làm phi nông nghiệp, còn phải học phổ thông để có
thể có đủ nền tảng giáo dục tiếp thu kiến thức từ các chương trình dạy nghề trung hạn
và dài hạn.
Quá trình toàn cầu hoá làm cho xã hội, kể cả yêu cầu công việc, kỹ năng, có nhiều
biến đổi nhanh chóng. Vì vậy, thay đổi thường xuyên sẽ trở thành một hiện tượng phổ
biến hơn so với trước đây. Như vậy, áp lực công việc, áp lực học hành và áp lực phải
tìm việc làm mới đòi hỏi người lao động phải có sức khoẻ tốt, tâm lý ổn định và ý chí
kiên định. Đào tạo nguồn nhân lực trong thời đại ngày nay đòi hỏi không chỉ đào tạo
nghề, mà còn phải đạo tạo về tinh thần, tâm lý và giáo dục về thể chất.
VIII. Một số giải pháp chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiếu
số giai đoạn 2011 – 2020.
8.1. Các chính sách còn hiệu lực cần điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi
8.1.1. Các chính sách dân số và y tế:
Một số chính sách liên quan đến chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho đồng bào DTTS và
người dân vùng miền núi, hải đảo và vùng nghèo nhằm tạo cơ hội cho họ được tiếp
cận với các dịch vụ dân số và y tế đã phát huy tác dụng tốt, cần được tiếp tục duy trì.
Ví dụ như, cần duy trì và ưu tiên cao hơn nữa cho việc thực hiện chính sách đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh cho
các trung y tế xã và tăng cường cán bộ y tế cho cấp cơ sở vì phần lớn người dân vùng
DT& MN đã sử dụng dịch vụ y tế từ trung y tế xã là chủ yếu. Tỷ lệ xã có trạm y tế
được đầu tư xây dựng kiên cố mới đạt 52,86% và mới có 40% trạm y tế xã có bác sỹ.
Như vậy, để tạo nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tuyến xã cần đầu tư hơn nữa về cả
cơ sở vật chất và đội ngũ bác sỹ cho y tế tuyến xã.
Đối với cả xã vùng sâu, vùng xa, cần duy trì chính sách y tế lưu động và tăng cường
y tế thôn, bản để tạo điều kiện cho những người dân vùng sâu, nhất là những hộ gia
đình còn duy trì tập quán di canh được hưởng dịch vụ y tế thôn bản.
Chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế với miễn phí cho người nghèo và người DTTS đã tỏ
ra có tác dụng nâng cao tỷ lệ người nghèo, nhất là người DTTS tiếp cận các dịch vụ y
tế. Tuy nhiên, cần có nghiên cứu, đánh giá sâu hơn nữa để đưa ra các giải pháp hoàn
thiện chính sách này nhằm khắc phục tình trạng cấp nhầm, cấp sót thẻ bảo hiểm cho
người nghèo và nâng cao hiệu quả của chính sách này.
Đối với những núi cao, vùng sâu, vùng xa, cần tiếp tục hỗ trợ để đảm bảo cho người
dân các vùng này được hưởng các dịch vụ phòng chống một số bệnh thường gặp ở các
vùng DT& MN, như sốt rét, bướu cố, thương hàn, ỉa chảy...
Cần điều chỉnh chính sách thông tin tuyên truyền về bảo vệ sức khoẻ, đặc biệt là sức
khoẻ sinh sản cho đồng bào dân tộc thiểu số để nâng cao nhận thức cho thấy đồng bào
DTTS hiểu rõ về tầm quan trọng cũng như cách thức chăm sóc sức khoẻ.
8.1.2. Các chính sách giáo dục và đào tạo
Những hỗ trợ về đầu tư cơ sở vật chất và nguồn nhân lực để phát triển hệ thống các
trường PTDTNT, bán trú và các điểm trường lẻ ở vùng núi cao, xa xôi hẻo lánh đã
thực sự có tác dụng nâng cao tỷ lệ đi học cũng như hoàn thành các cấp học của con
em đồng bào DTTS, nhất là những vùng núi cao hiểm trở, xa xôi hẻo lánh như Hà
Giang, Lai Châu, Cao Bằng... Các chính sách hỗ trợ này cần được duy trì. Ngoài ra,
cần ưu tiên hơn nữa để hỗ trợ phát triển các trường bán trú, các điểm trường để giúp
các học sinh không được vào học các trường PTDTNT có thể tiếp tục đến lớp.
Chính sách hỗ trợ dạy tiếng dân tộc trong các trường phổ thông cần được tiếp tục thực
hiện. Cần nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường năng lực xây dựng
chương trình học phù hợp với nhu cầu và điều kiện cụ thể của học sinh.
Giáo dục mầm non đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn. Cần có chính sách hỗ trợ
phù hợp cho giáo viên mầm non vùng DT& MN, đặc biệt là giáo viên ở những vùng
đặc biệt khó khăn, nơi nhiều cha mẹ phụ huynh không biết tiếng Kinh. Bộ Giáo dục
và Đào tạo cần có cơ chế để giám sát các tỉnh trong việc tăng cường đầu tư cho giáo
dục mầm non vùng DT& MN.
Chính sách cử tuyển cũng cần được tiếp tục thực hiện, nhưng cần tập trung ưu tiên
cho các dân tộc có dân số ít. Để tránh tình trạng lãng phí nguồn lực như sinh viên tốt
nghiệp vùng DT& MN về địa phương không tìm được việc làm, cần bổ sung các giải
pháp nhằm gắn trách nhiệm của địa phương trong việc lựa chọn đối tượng và ngành
học cử tuyển với việc bố trí sử dụng sinh viên cử tuyển sau khi tốt nghiệp về công tác
tại địa phương sau này.
Chính phủ đã có chính sách đào tạo nghề nông thôn và đào tạo nghề cho thanh niên
DTTS. Một số mô hình đào tạo nghề mới đã được tìm tòi, áp dụng, như dạy nghề gắn
với việc làm thông qua hỗ trợ các doanh nghiệp tạo việc làm mới, dạy nghề di động,
dạy nghề trên cơ sở cộng đồng (có sự tham gia và hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau của cả hộ
nghèo và hộ khá trong cùng một cộng đồng)… Tuy nhiên, các chính sách này tỏ ra
chưa thực sự thu hút được sự tham gia của người lao động DTTS.
Một trong những lý do là các hỗ trợ dạy nghề nông thôn thường chỉ tập trung vào đào
tạo nghề ngắn hạn, vì vậy, việc làm sau đào tạo thường không bền vững hoặc thu
nhập quá thấp so với công sức, thời gian và nỗ lực mà người lao động DTTS phải bỏ
ra (thông thường để làm việc, người lao động DTTS phải đi xa quê, hoặc hàng ngày
phải đi về một quãng đường rất xa, trong khi thu nhập quá thấp để có thể trang trải
cho tiền thuê nhà, tiền đi lại, tiền ăn và tiền dành để nuôi con). Tuy nhiên, muốn đào
tạo nghề trung hạn, hoặc dài hạn cho người DTTS và người nghèo vùng DT& MN,
cần hỗ trợ đào tạo nghề đi kèm với hỗ trợ nâng cao trình độ học vấn vì như đã phân
tích ở trên tỷ lệ hoàn thành cấp học, nhất là cấp THPT ở các vùng DT& MN và đặc
biệt là của một số nhóm DTTS rất thấp. Vì vậy, cần sửa đổi chính sách đào tạo nghề
cho thanh niên dân tộc thiểu số theo hướng chuyển trọng tâm từ đào tạo nghề ngắn
hạn sang hỗ trợ đào tạo nghề kết hợp với đào tạo văn hóa trước khi đào tạo nghề. Cần
tăng cường hoạt động hướng nghiệp cho học sinh trong các trường THCS và THPT
để nâng cao tỷ lệ học sinh hoàn thành các cấp học này tham gia học nghề trung và dài
hạn. Cần ưu tiên hỗ trợ cử tuyển cho học sinh học nghề.
8.1.3. Các chính sách cán bộ
Các chính sách hỗ trợ thông qua hệ số phụ cấp vùng trong lương cho cán bộ, công
chức vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa cần tiếp tục được duy trì để thu hút
cán bộ đến làm việc ở những vùng khó khăn này. Bên cạnh đó, cần tăng cường hỗ trợ
về nhà ở cho các bác sỹ, giáo viên vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
8.1.4. Các chính sách cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, phát triển CSHT nông
thôn
Có khá nhiều chương trình mục tiêu quốc gia, dự án được thực hiện ở các vùng DT&
MN giúp cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, phát triển CSHT nông thôn cho
đồng bào DTTS và người dân vùng DT& MN, như chương trình mục tiêu quốc gia về
giảm nghèo, chương trình 135 giai đoạn 2006- 2010, chương trình nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự chồng chéo giữa nhiều
chương trình và tính hiệu quả kém do đầu tư phân tán, quyết định đầu tư thiếu cơ sở
khoa học. Trong tương lai cần đánh giá hiệu quả và tác động của các chương trình
này. Tất cả các hỗ trợ cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, phát triển CSHT nông
thôn cho đồng bào DTTS và người dân vùng DT& MN nên được tiếp tục, nhưng gộp
lại trong một hoặc một số chương trình mang tính tổng hợp, linh hoạt.
Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, chương trình 135 giai đoạn 2011-
2015, chương trình xây dựng nông thôn mới… nên được thiết kế theo hướng tăng
cường tính tự chủ của cấp cơ sở để các hoạt động hỗ trợ được đưa ra xuất phát từ nhu
cầu thực tế của người hưởng lợi vùng DT& MN, lồng ghép các chương trình, tránh
chồng chéo, trùng lặp, ưu tiên các nhóm DTTS rất ít người và những vùng khó khăn
nhất.
8.2. Xây dựng các chính sách mới (đặc thù)
8.2.1. Xây dựng chương trình cải thiện và nâng cao tầm vóc, thể trạng cho người dân
vùng dân tộc và miền núi, trong đó ưu tiên các đối tượng là dân tộc thiểu số,
bao gồm:
+ Các chính sách tăng cường sức khoẻ sinh sản nhằm khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đến khám thai định kỳ và sinh đẻ tại các
cơ sở y tế thông qua hỗ trợ kinh phí đi lại, khám, tư vấn và cấp thuốc miễn phí cho
sản phụ, hỗ trợ dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, trợ cấp kinh phí khi đẻ tại cơ sở y
tế; hỗ trợ dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh khi đến tiêm chủng các mũi theo quy định, tăng
cường đào tạo cô đỡ thôn bản;
+ Các chính sách cải thiện nâng cao thể trạng kết hợp với khuyến khích trẻ em đến
trường, thông qua việc cấp khẩu phần dinh dưỡng “bữa ăn học đường” và “uống sữa
miễn phí” cho trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn với ưu tiên cao dành
cho học sinh từ bậc học mầm non đến hết tiểu học.
+ Tăng cường hiệu quả khám, chữa bệnh của các đội y tế di động đối với các thôn,
bản vùng dân tộc và miền núi đặc biệt khó khăn, có khoảng cách quá xa trung tâm xã
và có mật độ dân số đông;
+ Đẩy mạnh giáo dục thể chất trong các trường dân tộc nội trú, tăng đủ cơ số giáo viên,
phương tiện dạy học, giúp định hướng tốt ý thức chăm sóc phát triển thể chất của học sinh
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường.
8.2.2. Xây dựng chương trình tuyên truyền vận động thực hiện chính sách, thay đổi
một số tập quán không phù hợp với cuộc sống hiện đại, bao gồm:
+ Đưa ra các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ nam nữ thanh niên vùng dân tộc và
miền núi ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thực hiện kết hôn đúng độ tuổi
quy định (ví dụ như cấp chăn, màn nếu các đôi vợ chồng mới đi đăng ký tại trụ sở
UBND xã);
+ Tư vấn cho thanh niên DTTS về kiến thức hôn nhân, đời sống vợ chồng và kiến
thức làm cha mẹ (chính sách này có thể tách riêng hoặc lồng vào chương trình cải
thiện và nâng cao tầm vóc thể trạng đã nêu trên);
+ Nâng cao nhận thức về những hậu quả có thể xảy ra liên quan đến tập quán, tập tục
hôn nhân cận huyết (chính sách này có thể tách riêng hoặc lồng vào chương trình cải
thiện và nâng cao tầm vóc, thể trạng đã nêu trên).
8.2.3. Một số chính sách nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo:
+ Khuyến khích dạy bằng tiếng dân tộc cho học sinh ở những vùng DT& MN tương
đối đồng nhất về các nhóm dân tộc cùng sinh sống trong vùng. Ưu tiên phân bổ ngân
sách để thực hiện Nghị định 82/2010/NĐ-CP, Quy định về việc dạy và học tiếng nói, chữ
viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường
xuyên, vừa được ban hành ngày 15 tháng 7 năm 2010;
+ Ban hành chính sách ưu đãi (cấp phí học tập sinh hoạt…) cho các đối tượng học
sinh là người dân tộc thiểu số vùng đặc biêt khó khăn đỗ thẳng vào các trường đại học
công lập của cả nước;
+ Chủ động phát hiện và lựa chọn trong đội ngũ cán bộ trí thức tiêu biểu hiện có, các
học sinh sinh viên tài năng là người dân tộc thiểu số (ngay từ bậc tiểu học ở địa
phương), có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho đi đào tạo bồi dưỡng trong nước và
nước ngoài.
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Khuyến khích các giáo viên học tiếng dân
tộc, văn hoá dân tộc. Nếu theo như phát hiện ở phần 5.4.1, một trong những nguyên
nhân làm cho học sinh DTTS bỏ học là do các em không hài lòng với cách đối xử của
giáo viên, một phần xuất phát từ sự khác nhau về văn hoá và tập quán, thì nâng tỷ lệ
giáo viên là người DTTS có thể giúp cải thiện phần nào quan hệ giáo viên- học sinh
và nhờ đó giám bớt tình trạng bỏ học.
+ Ưu tiên nguồn lực để thực hiện tốt Đề án “Tăng cường Giáo dục Mầm non” ở các
vùng DT& MN đặc biêt khó khăn để tạo điều kiện cho trẻ em DTTS được đi học mẫu
giáo, chuẩn bị tốt về ngôn ngữ trước khi vào lớp 1.
+ Sửa đổi chính sách đào tạo nghề cho nông dân là người dân tộc thiểu số: đối với lao
động chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở được miễn phí đào tạo văn hóa trước khi đào
tạo nghề; thực hiện miễn học phí, chi phí mua sách vở tài liệu, hỗ trợ sinh hoạt phí
cho người theo học vì hầu hết họ là lao động chính, việc đi học ảnh hưởng rất lớn đến
kinh tế, thu nhập của gia đình;
+ Đổi mới công tác hướng nghiệp cho học sinh trong các trường THCS, THPT, trước
hết là trong các trường PTDTNT. Tăng cường sự phối hợp giữa ngành giáo dục- đào
tạo và các ngành khác theo hướng cung cấp thông tin về thị trường lao động, định
hướng phát triển kinh tế- xã hội quốc gia và địa phương, tư vấn cho học sinh để giúp
học sinh tự đánh giá được năng lực của mình và lựa chọn ngành nghề, định hướng
nghề cho phù hợp;
+ Thành lập trường đại học dân tộc để thực hiện chức năng đào tạo, bồi dưỡng đa
ngành, đa lĩnh vực, đa loại hình (từ đào tạo nghề, đến trung cấp chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học và sau đại học…) dành chủ yếu cho các đối tượng là người dân tộc thiểu
số (có tỷ lệ nhất định học sinh dân tộc Kinh).
8.2.4. Các chính sách cán bộ
+ Cần sửa đổi chính sách thi, tuyển dụng công chức tại vùng dân tộc và miền núi, đặc
biệt là các tỉnh có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao, thay thế môn thi ngoại ngữ
bằng môn tiếng dân tộc để tạo cơ hội nhiều hơn cho các sinh viên DTTS tốt nghiệp
các ngành và cấp học phù hợp với yêu cầu công việc trong bộ máy hành chính cấp cơ
sở.
+ Ban hành chính sách luân chuyển và thu hút cán bộ vùng dân tộc và miền núi, có
quy định thời hạn luân chuyển cán bộ (luân chuyển trong nội bộ địa phương và luân
chuyển giữa các tỉnh có kinh tế - xã hội phát triển với các tỉnh vùng dân tộc và miền
núi kém phát triển) coi đây là tiêu chí để bổ nhiệm, đề bạt sau này; quy định về tỷ lệ,
cơ cấu và chế độ tuyển dụng cán bộ dân tộc thiểu số tại các địa phương có đông đồng
bào dân tộc)…
8.2.5. Các chính sách cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, phát triển CSHT nông
thôn
Các hỗ trợ của Chính phủ nên đưa trực tiếp tới người dân, nhưng có điều kiện (ví dụ
chỉ hỗ trợ người đi học, người đi khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế…).
IX. Phụ lục và số liệu liên quan
Bảng 1: Số lượng và tỷ lệ dân tộc thiểu số các tỉnh năm 2009
TT Các vùng kinh tế xã hội Tổng dân số Dân số
DTTS
Tỷ lệ
(%)
Toàn vùng dân tộc và miền núi 68.194.369 12.251.436 100%
I Vùng trung du miền núi phía Bắc (14) 11.064.449 5.949.346 0.486
II Đồng bằng sông Hồng (4) 9.492.515 250.401 0.020
III Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung (14) 18.835.485 1.850.776 0.151
IV Tây Nguyên (5) 5.107.437 1.738.216 0.142
V Đông Nam Bộ (5) 12.542.751 1.100.398 0.090
VI Đồng bằng sông Cửu Long (9) 11.151.732 1.362.299
0.111
Nguồn: Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009
Bảng 2: Số lượng và cơ cấu dân số của các dân tộc thiểu số Việt Nam, năm 2009
TT Vùng, dân
tộc
Dân số
(người)
Tỷ lệ so
với tổng
dân số (%)
Nam Nữ
Số lượng Tỷ lệ
(%) Số lượng
Tỷ lệ
(%)
I Dân số cả
nước 85.846.997 100.00 42.413.143 49,41 43.433.854 50,59
II Vùng DTMN 68.194.369 79,43 33861459 49,65 34.332.910 50,35
III Dân số DTTS 12.251.436 14,27120 6.108.298 42,80 6.143.138 57,20
1 Tày 1.626.392 1,89452 808.579 42,68 817.813 57,32
2 Thái 1.550.423 1,80603 772.605 42,78 777.818 57,22
3 Mường 1.268.963 1,47817 630.983 42,69 637.980 57,31
4 Khmer 1.260.640 1,46847 617.650 42,06 642.990 57,94
5 Mông 1.068.189 1,24429 537.423 43,19 530.766 56,81
6 Nùng 968.800 1,12852 485.579 43,03 483.221 56,97
7 Hoa 823.071 0,95877 421.883 44,00 401.188 56,00
8-
42
35 nhóm DTTS có số dân từ 5.000 đến 800.000 người, bao gồm Dao, Gia Rai, Êđê, Banar, Sán
Chay, Cơ Ho….
43 Lô Lô 4.541 0,00529 2.218 41,93 2.323 58,07
44 Mảng 3.700 0,00431 1.868 43,34 1.832 56,66
45 Cơ Lao 2.636 0,00307 1.344 43,78 1.292 56,22
46 Bố Y 2.273 0,00265 1.170 44,15 1.103 55,85
47 Cống 2.029 0,00236 1.009 42,75 1.020 57,25
48 Ngái 1.035 0,00121 557 46,03 478 53,97
49 Si La 709 0,00083 371 44,70 338 55,30
50 Pu Péo 687 0,00080 352 44,00 335 56,00
51 Rơ Măm 436 0,00051 227 44,51 209 55,49
52 Brâu 397 0,00046 196 42,61 201 57,39
53 Ơ Đu 376 0,00044 219 49,77 157 50,23
Nguồn: Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009
Bảng 3: Cơ cấu dân số DTTS theo độ tuổi
ĐVT: Người
Nhóm dân số theo độ tuối Vùng dân tộc và miền núi DTTS
Tổng số 68194369 100% 12.251.436 100%
Trong đó: Nam 49,65% 42,8%,
Nữ 50,35% 57,2%
Trên 15 tuổi 50769895 74,45% 8.452.266 68,97%
Trong đó 15- 18 tuổi 4305552 8,48%
Từ 15 tuổi trở xuống 17424474 25,55% 3799170 31,03%
12- 15 tuổi 5025803 28,84% 25,38%
7- 11tuổi 5375091 30,85% 31,16%
Dưới 7 tuổi 7.023.580 40,31% 43,46 %
Nguồn: TCTK, 2009, Tổng điều tra dân số và nhà ở
Bảng 4: Cơ cấu dân số DTTS theo ngành nghề làm việc
ĐVT: % Nhóm dân số Cả nước Vùng Trung du&
miền núi BB
Duyên hải
miền Trung
Tây
nguyên
Theo ngành
Nông nghiệp 51,9 75,0 58,5 73,4
Công nghiệp 21,5 9,9 17,5 7,9
Dịch vụ 26,5 15,1 24,0 18,6
Theo nghề
Nghề nông& nghề đơn giản 78,44 64,81 76,33
Ngành nghề có chuyên môn kỹ
thuật cao và trung bình
22,37% lao
động có CMKT
6,26 7,31 5,93
Lao động quản lý 0,85 0,56(ĐBSCL) 0,76
Bảng 5: Một số chỉ số về thể lực nguồn nhân lực vùng DT& MN
Đơn vị: %
Nhóm dân số Tỷ lệ SDD cân
nặng trẻ <5T
Tỷ suất chết
trẻ em < 1 tuổi
Tuổi thọ bình quân (tuổi)
Cả nước 19,9 16 72,8 (nam: 70,2, nữ: 75,6)
Trung du và miền núi phía Bắc 25,9 24,5 70 (nam: 67,2, nữ: 73)
Tây Nguyên 27,4 27,3 69,1 (nam: 66,3; nữ: 72,2)
DT Mảng 40,03 73,0 53,6
La Hủ 44,0 85 51,0
Cờ Lao 47,37 68 54,0
Tày 23,3 70,3
Thái 27,1 69,2
Mường 22,2 68
Khmer 18 69,5
H’Mông 45,5 61,3
Các dân tộc thiểu số khác 32,0 64,9
Nguồn: Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009; Dự án bảo tồn và phát triển kinh tế xã
hội các dân tộc Mảng, La Hủ, Cống -Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu năm 2010; Dự án bảo
tồn và phát triển kinh tế xã hội các dân tộc Cờ Lao -Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm
2010
Bảng 6: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên tại một số tỉnh miền núi,
đông dân tộc sinh sống
ĐVT:%
TT Khu vực, đơn vị hành chính Chung Nam Nữ Chênh lệch
Chung toàn quốc 93,5 95,8 91,4 4,4
Ba vùng có tỷ lệ biết chữ thấp nhất
I Vùng miền núi phía Bắc 87,3
II Vùng Tây nguyên 88,27
III Vùng ĐB sông Cửu Long 91,6
10 tỉnh có tỷ lệ biết chữ thấp nhất
1 Lai Châu 57,4 71,9 42,7 29,2
2 Hà Giang 65,5 76,1 55,1 21,0
3 Điện Biên 67,6 80,7 54,8 25,9
4 Sơn La 75,2 86,7 63,8 22,9
5 Lào Cai 77,5 84,7 70,6 14,1
6 Gia Lai 80,5 86,6 74,5 12,1
7 Cao Bằng 82,2 87,2 77,4 9,8
8 Kon Tum 84,5 90,1 79,0 11,1
9 Trà Vinh 86,4 90,5 82,6 7,9
10 Sóc Trăng 86,5 89,5 83,7 5,8
Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
Bảng 7: Dân số trong độ tuổi và số học sinh học và tỷ lệ đi học đúng tuổi, không đúng tuổi bậc
tiểu học các tỉnh vùng dân tộc và miền núi, năm 2009
TT
Các vùng KT-XH
Tiểu học THCS THPT
Tỷ lệ đi
học
Tỷ lệ ngoài
độ tuổi
Tỷ lệ đi
học
Tỷ lệ
ngoài độ
tuổi
Tỷ lệ
đi học
Tỷ lệ
ngoài độ
tuổi
Bình quân toàn vùng 94,18 8,70 87,60 9,52 60,34 13,82
I Vùng Trung du
MNPB
92,01 10,66 88,06 12,29 57,25 15,13
1 Hà Giang 83,99 19,06 67,11 22,92 34,51 25,49
3 Bắc Cạn 89,33 10,67 83,92 13,59 44,21 19,22
11 Thái Nguyên 82,82 16,38 76,25 21,26 47,35 29,74
12 Lạng Sơn 81,68 16,91 67,16 24,15 29,38 32,08
13 Bắc Giang 85,98 18,87 82,20 24,34 45,65 27,12
II Đồng bằng SH 97,28 5,61 96,20 6,30 77,54 9,28
III Bắc TB & DHMT 95,82 7,05 95,09 8,39 69,03 10,61
20 Ninh Thuận 91,58 10,01 74,89 9,46 53,12 14,64
IV Tây Nguyên 93,13 10,50 83,74 10,59 57,95 15,96
21 Kon Tum 94,02 9,03 84,50 12,70 43,59 13,15
22 Gia Lai 87,47 12,93 71,08 11,61 45,56 14,53
V Đông Nam Bộ 97,10 4,76 90,96 6,45 64,96 13,56
VI Đồng bằng SCL 92,26 11,57 71,30 10,34 41,22 20,21
32 Sóc Trăng 90,61 14,87 67,45 14,69 38,50 27,07
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảng 8: Tỷ lệ bỏ học, lưu ban cấp tiểu học và THCS theo vùng, tỉnh
Đơn vị tính: %
Tỉnh/thành phố
Tiểu học THCS
Tỷ lệ bỏ
học
Tỷ lệ
lưu ban
Tỷ lệ
không đi
học
Tỷ lệ
bỏ học
Tỷ lệ
lưu ban
Tỷ lệ
không đi
học
2.8% 2.15% 1.74% 10.6% 2.16% 1.36%
Đông Bắc 2.1% 2.60% 0.63% 12.2% 1.57% 0.58%
11 Hà Giang 3.9% 3.26% 2.69% 11.7% 3.74% 2.44%
12 Cao Bằng 4.9% 2.19% 2.95% 15.9% 1.31% 0.00%
21 Quảng Ninh 5.1% 1.74% 0.15% 13.0% 1.10% 0.63%
Tây Bắc 4.1% 1.54% 1.30% 10.9% 3.17% 0.56%
22 Lai Châu 3.1% 0.67% 0.62% 11.9% 9.95% 0.82%
24 Sơn La 3.5% 1.43% 2.26% 10.1% 2.39% 0.78%
Bắc trung bộ 2.5% 1.90% 0.15% 11.3% 1.03% 0.13%
27 Nghệ An 2.3% 1.94% 0.14% 11.2% 1.13% 0.22%
28 Hà Tĩnh 2.5% 0.93% 0.15% 11.1% 0.49% 0.13%
Nam trung bộ 1.6% 2.02% 0.15% 10.3% 1.75% 0.32%
33 Quảng Nam 4.4% 2.02% 0.06% 13.3% 2.10% 0.06%
36 Phú Yên 1.0% 1.01% 0.27% 12.9% 0.63% 0.29%
Tây nguyên 4.1% 3.34% 1.41% 7.3% 4.54% 0.99%
38 Kon Tum 3.4% 0.70% 0.93% 10.9% 3.37% 0.18%
39 Gia Lai 4.3% 2.39% 2.67% 9.2% 4.01% 3.35%
41 Đac Nông 6.1% 5.35% 1.53% -4.3% 5.65% 1.03%
Đông Nam Bộ 2.6% 2.60% 0.34% 9.1% 3.23% 0.39%
44 Ninh Thuận 2.6% 3.16% 1.60% 13.1% 3.48% 1.99%
46 Tây Ninh 6.6% 1.24% 0.14% 16.4% 2.96% 0.08%
ĐBSCL 4.4% 1.96% 7.56% 15.4% 3.67% 5.19%
52 Đồng Tháp 2.6% 2.99% 0.14% 15.2% 1.43% 0.00%
53 An Giang 2.9% 1.04% 0.64% 16.3% 1.42% 0.87%
57 Kiên Giang 5.7% 1.99% 0.80% 16.1% 5.13% 0.60%
59 Hậu Giang 3.5% 3.18% 0.09% 14.9% 5.90% 0.00%
60 Trà Vinh 3.2% 2.08% 0.50% 17.2% 4.33% 0.25%
61 Sóc Trăng 15.4% 1.56% 0.52% 28.3% 4.99% 0.00%
62 Bạc Liêu 5.5% 2.23% 0.67% 18.5% 2.81% 0.88%
63 Cà Mau 7.0% 2.04% 0.65% 23.0% 3.74% 0.00%
Nguồn: tự tính từ một số báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảng 9: Tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở lên theo tỉnh hình đi học, 2009
Đơn vị tính: %
Chưa từng
đi học
Chưa tốt
nghiệp TH
Tốt nghiệp
TH
Tốt nghiệp
THCS
Tốt nghiệp
THPT
Cả nước 5,5 14,5 25,7 28,9 12,1
Thành thị 2,5 8, 8 20,4 24,1 18,9
Nông thôn 6,8 17,1 28 31 9,1
Miền núi phía Bắc 11,6 13,4 23,5 28,7 9,5
ĐB sông Hồng 2,3 7,5 15 39,3 16,5
BTB& DH miền Trung 4,7 13,6 25,7 32,1 11,6
Vùng Tây nguyên 10,3 13,7 30,3 27,6 8,4
Đông Nam bộ 3 12,1 28 24,8 16,5
Vùng ĐB sông Cửu Long 6,9 26,7 36,1 17,4 6,4
Thái 17,8 20,7 29,3 21,5 5,3
KhMer 23,9 30 30,6 10,5 2,5
H’Mong 61,4 14,3 13,8 7,9 1,4
Các DTTS khác 23 22,9 27,3 16,7 5,3
Nguồn: TCTK, 2010, Kết quả điều tra dân số và nhà ở 2009
Bảng 10: Tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở lên theo trình độ đào tạo, 2009
Đơn vị tính: %
Chưa được
đào tạo
Tốt nghiệp
sơ cấp
Tốt nghiệp
trung cấp
Tốt nghiệp
cao đẳng
Tốt nghiệp đại
học trở lên
Cả nước 86,7 2,6 4,7 1,6 4,4
Thành thị 34,7 4,4 47,6 2,5 10,8
Nông thôn 91,9 1,8 3,5 1,2 1,6
Miền núi phía Bắc 86,6 2,4 6,4 1,8 2,8
BTB& DH miền Trung 84,4 2,1 4,8 1,7 3,6
Vùng Tây nguyên 90,6 1,9 3,8 1,3 2,8
Đông Nam bộ 84,4 3,6 3,8 1,6 6,6
Vùng ĐB sông Cửu Long 93,4 1,4 2,2 0,9 2,1
Thái 94,6 3,8 1,6
KhMer 97,7 1,3 1
H’Mong 98,7 1 0,3
Các DTTS khác 96 2,5 1,5
Nguồn: TCTK,2010, Kết quả điều tra dân số 2009
Bảng 11: Tỷ lệ trẻ đến trường của một số tỉnh vùng dân tộc miền núi, năm 2009
Đơn vị tính: %
Khu vực và đơn vị hành chính Trẻ 0-2 tuổi Trẻ 3-5 tuổi Mẫu giáo 5 tuổi
Đi học Tỷ lệ Đi học Tỷ lệ Đi học Tỷ lệ
I, Các tỉnh vùng dân tộc miền núi
1. Cao Bằng 2.027 8,2 17.425 69,1 8.238 95,8
2. Điện Biên 2.290 9,9 24.270 71,4 10.595 94,2
3. Quảng Ngãi 4.083 10,3 38.187 70,5 18.685 99,8
4. Bình Thuận 4.901 6,8 39.070 56,5 19.516 83,7
5. Đắk Lắk 3.912 5,4 60.442 70,5 33.509 97,7
6. Đắk Nông 1.748 9,4 19.497 67,9 10.218 93,8
7. Sóc Trăng 1.148 2,3 34.185 71,1 17.932 99,9
8. Trà Vinh 890 1,6 27.821 63,8 14.538 98,2
Nguồn: TCTK, 2010, Kết quả điều tra dân số và nhà ở 2009
Tài liệu tham khảo
1. Bộ GD-ĐT (2010), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện dự án Phát triển Tiểu
học vùng khó do NHTG tài trợ
2. Bộ GD-ĐT (2009), Học sinh nữ DTTS trong quá trình chuyển từ tiều học sang
THCS
3. Bộ Y tế (2008), Báo cáo đánh giá thực hiện chương trình phòng chống bướu
cổ
4. Bộ Y tế (2008), Báo cáo đánh giá thực hiện Quyết định 139/2002/QĐ-TTg, tại
Yên Bái, Ninh Thuận, Đồng Tháp và tình hình chi tiêu của các bệnh viện Bà
mẹ, Trẻ em và u bướu tỉnh”
5. Nghị định No- 20/1998/NĐ-CP, hỗ trợ phát triển thương mại vùng miền núi,
hải đảo và vùng DTTS và nghị định 02/2002/ND-CP, sửa dổi một số điều
trong nghị định 20/1998/ND-CP
6. Nghị định 61/2006/ND-CP, ban hành ngày 20/6/2006 về Chinh sách đối với
giáo viên và cán bộ quản lý làm việc tại các trường chuyên biệt vùng DTTS và
miền núi
7. Quyết định 32/2007/QĐ-TTg, ban hành ngày 5/3/2007, Chính sách cho vay ưu
đãi để phát triển sản xuất đối với đồng bào DTTS
8. Quyết định 267/2005/QĐ-TTg ban hành ngày 31/10/2005 về các chính sách
hỗ trợ học nghề đối với học sinh dân tộc nội trú
9. Quyết định 139/2002/QD-TTg, Chính sách bảo hiểm y tế cho người nghèo,
2002
10. Richard Jones và đồng nghiệp (2009), Tổng quan các chương trình/chính sách
giảm nghèo
11. TCTK, 2010, 2009, Tổng điều tra dân số và nhà ở
12. Thông tư 06/2007/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC, hướng dẫn thực hiện Nghị định
61/2006/ND-CP, Chinh sách đối với giáo viên và cán bộ quản lý làm việc tại
các trường chuyên biệt vùng DTTS và miền núi
13. UBDT (2010) Báo cáo Hội nghị quốc gia về “Cộng đồng các dân tộc thiểu số
Việt Nam và chính sách đoàn kết dân tộc”
14. UBDT, công văn số 20/UBDT-CSDT ban hành ngày 10/1/2008
15. UNICEF (2008), Báo cáo đánh giá thực hiện chương trình sử dụng muối i ốt