dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · web viewmỗi...

86
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÀI TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠI ĐỀ TÀI NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA NHÀ LÊ SƠ ĐỐI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC Giảng viên: Trần Thuận Thực hiện: Nguyễn Minh Tuấn. MSSV 1256040096 1

Upload: lynhan

Post on 31-Mar-2018

221 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Page 1: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠI

ĐỀ TÀI

NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA NHÀ LÊ SƠ

ĐỐI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘCGiảng viên: Trần Thuận

Thực hiện: Nguyễn Minh Tuấn. MSSV 1256040096

1

Page 2: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

MỤC LỤC

1. Khái quát về nhà Lê sơ…………………………………………………….…….6

2. Những cống hiến của nhà Lê sơ đối với lịch sử dân tộc……………….………6

2.1. Hành chính Đại Việt thời Lê sơ………………………………….…….6

2.1.1. Chính quyền trung ương……………………………………………….7

2.1.1.1. Lục bộ………………………………………………………….…….7

2.1.1.2. Lục tự……………………………………………………….………..8

2.1.1.3. Các cơ quan chuyên môn…………………………..……….………..8

2.1.2. Chính quyền địa phương……………………………...………….…….9

2.2. Kinh tế…………………………………………………………………..10

2.2.1. Nông nghiệp……………………………………………………….…..10

2.2.1.1. Đẩy mạnh nghề nông………………………….……….……………10

2.2.1.2. Lập đồn điền…………………………………………….…………..11

2.2.1.3. Di dân và khẩn hoang………………………………………………11

2.2.1.4. Chế độ ruộng đất……………………………………………………12

2.2.1.5. Trị thủy và làm thủy lợi…………………………………………….13

2.2.2. Thủ công nghiệp…………………………………...…………………14

2.2.2.1. Thủ công nghiệp nhân dân…………………………………………14

2.2.2.2 Cục Bách công………………………………………………...…….15

2.2.2.3. Các nghề thủ công nghiệp………………………………………….15

2.2.3. Thương mại…………………………………………………………...17

2.2.3.1. Nội thương…………………………………………………………..17

2.2.3.2. Ngoại thương………………………………………………………..18

2.3. Giáo dục………………………………………………………….……..20

2

Page 3: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

2.3.1. Hệ thống trường học………………………………….………………21

2.3.2. Sách giáo khoa………………………………………………………..21

2.3.3. Hệ thống khoa cử……………………………………………….…….22

2.3.3.1. Thi Hương………………………………………….….……………22

2.3.3.2. Thi Hội…………………………………………..………………….23

2.3.3.3. Thi Đình………………………………………..………….………..23

2.3.4. Tư tưởng trọng hiền tài (1428- 1527) thông qua hệ thống văn bia

tại Văn Miếu………………………………………………………..………24

2.3.4.1. Đôi nét về Văn Miếu – Quốc Tử Giám và hệ thống bia đá

– Quốc Tử Giám……………………………………………………….……24

2.3.4.2. Tư tưởng trọng hiền tài thời Lê Sơ thông qua hệ thống văn bia

tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám…………………………………….………..25

2.3.4.2.1. Vai trò của hiền tài đối với Quốc gia………………………..……25

2.3.4.2.2. Coi trọng đào tạo và kén trọng nhân tài qua khoa cử…..………...26

2.3.4.2.3. Chế độ đãi ngộ và tôn vinh hiền tài……………………...……….27

2.3.4.2.4. Yêu cầu đối với hiền tài và trách nhiệm của hiền tài đối với

quốc gia……………………………………………………………..……...28

2.3.4.3. Nhận xét chung……………………………………………………..29

2.3.5. Ba nhà văn hóa xuất sắc: Lê Thánh Tông, Phan Phu Tiên,

Lương Thế Vinh…………………………………………………………….31

2.4. Luật pháp………………………………………………………………32

2.5. Xã hội………………………………………………………….………..35

2.6. Nghệ thuật……………………………………………………….……..37

2.6.1. Văn học……………………………………………………………….37

3

Page 4: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

2.6.1.1. Khái quát………………………………………………………...…37

2.6.1.2. Tác gia và tác phẩm tiêu biểu………………………….……..……37

2.6.1.3. Nguyễn Trãi Vinh quang và thảm kịch của một bậc thiên tài...........39

2.6.2. Kiến trúc…………………………………………….……………..…40

2.6.2.1. Kiến trúc cung đình: ……………………………….………...…….40

2.6.2.2 . Kiến trúc tôn giáo:………………………………………..…..……40

2.6.2.3. Kiến trúc lăng mộ………………………………………..….……...42

2.6.3. Điêu khắc…………………………………………………….……….42

2.6.3.1 .Điêu khắc lăng mộ …………………………………………...……43

2.6.3.2. Chạm Khắc Trang trí……………………………………..……..45

2.6.3.3. Nghệ Thuật Gốm………………………………………..…………46

2.6.3.4. Tượng Rồng ở Thành Bậc Cửa Điện Kinh Thiên………..……….46

2.6.4. Hội họa………………………………………………………..……..46

2.6.5. Âm nhạc……………………………………………………..………48

2.7. Khoa học……………………………………………………..……….49

2.7.1. Toán học…………………………………………………….………49

2.7.2. Y học……………………………………………………….……….50

2.7.3. Thiên văn, lịch pháp và thủy văn…………………………………...50

2.7.4. Người Việt ở nước ngoài……………………………………………51

2.8. Nho giáo………………………………………………………………51

2.9. Sử học………………………………………………………...……….52

2.10. Mở rộng lãnh thổ………………………………………..…….……52

2.10.1. Đánh Chiêm Thành………………………………………..………52

2.10.2. Đánh Bồn Man…………………………………………..………...53

4

Page 5: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

2.10.3. Đánh Lão Qua………………………………………………………..53

3. Nhận định…………………………………………………………………54

Phụ lục: Một số hình ảnh về thời Lê sơ……………………………………55

Tài liệu tham khảo…………………………………………………………..57

5

Page 6: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

1. Khái quát về nhà Lê sơ

Nhà Lê sơ là giai đoạn đầu của nhà Hậu Lê (Hán-Nôm: 家後黎・後黎朝 1428–1527), một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau khi vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh.

Sau nhiều thế kỷ độc lập và văn hiến nhờ những tướng tài, vua giỏi, và trí thức lớn của các đời từ Ngô tới Trần, Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, tự xưng vua, lấy hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước là Đại Ngu. Như vậy là sau triều Trần một triều đại mới bắt đầu: triều đại nhà Hồ (Lê Quý Ly đổi sang họ Hồ)

Đến ngày 19 tháng 11 năm 1406, nhà Minh vượt qua biên giới đánh về Thăng Long. Đến ngay 10 tháng 01 năm 1407, thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự chống quân Minh của nhà Hồ bị phá vỡ.Tháng 6 năm 1407 cuộc kháng chiến của quân nhà Hồ bị thất bại, nước ta rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh. Nhưng rồi khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ (1418) đưa tới những chiến thắng vang dội khiến quan quân Minh phải rút về nước; nền độc lập dân tộc được phục hồi, một triều đại mới được thành lập. Ánh sáng của tự chủ tự do đã lại trở về với Đại Việt, với kinh đô cũ Thăng Long được triều Lê Sơ cho một tên gọi mới là Đông Đô để phân biệt với Lam Kinh ở Thanh Hóa, còn gọi là Tây Đô hay Tây Kinh.

Thời Lê sơ kéo dài đúng 100 năm, có 10 vua thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các vua Lê nắm trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Trải qua các triều vua Thái Tổ (1428-1433), Thái Tông (1434-1442), Nhân Tông (1443-1459), Thánh Tông (1460-1497), Hiến Tông (1497-1503) đất nước Đại Việt dần dần được hồi phục và phát triển lên một đỉnh cao mới về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá giáo dục…. Đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông, nước Đại Việt chưa bao giờ cường thịnh bằng thời này.

2. Những cống hiến của nhà Lê sơ đối với lịch sử dân tộc

2.1. Hành chính Đại Việt thời Lê sơ

Hành chính Đại Việt thời Lê sơ, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần, mang tính quan liêu và chuyên chế cao độ.

6

Page 7: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Từ thời Lê Thánh Tông, có sự sắp xếp lại bộ máy nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế và kiểm soát chặt chẽ cấp địa phương. Bộ máy tổ chức thời Lê Thánh Tông là bộ máy quân chủ chuyên chế quan liêu được tổ chức khá chặt chẽ và hoàn chỉnh.

2.1.1. Chính quyền trung ương

Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân.

Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã, thôn. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên, thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách 3 mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã, thôn.

Bộ máy chính quyền thời Lê Thái Tổ cơ bản theo mô hình thời Trần. Giúp việc trực tiếp cho hoàng đế là trung khu gồm các quan tả, hữu tướng quốc, tam thái (thái sư, thái uý, thái bảo), tam thiếu (thiếu sư, thiếu uý, thiếu bảo), tam tư (tư mã, tư không, tư khấu), bộc xạ. Dưới trung khu là hai ban văn, võ.

Đứng đầu ban văn là quan đại hành khiển. Các bộ, ngành thuộc văn ban là bộ Lại, bộ Lễ, khu mật viện, hàn lâm viện, ngũ hình viện, ngự sử đài, quốc tử giám, quốc sử viện, nội thị sảnh, và các cơ quan khác gọi là quán, cục, hay ty. Đứng đầu các bộ là quan thượng thư.

Đứng đầu ban võ là đại tổng quan. Tiếp đến là các chức đại đô đốc, đô tổng quản, tổng quản, tổng binh, tư mã. Ban võ gồm 6 quân điện tiền và 5 quân thiết đột.

Tổng số quan lại thời Hồng Đức là 5.370 người, trong đó quan lại trong triều 2.755 người

Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.

2.1.1.1. Lục bộ

Thời Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Đến năm 1466, Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:

- Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;

7

Page 8: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

- Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;

- Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;

- Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;

- Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;

- Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.

Mỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường trực là Vụ tư sảnh đứng đầu. Giám sát Lục bộ là Lục khoa tương ứng, gồm Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Công khoa. Đứng đầu các khoa là Đô cấp sự trung và Cấp sự trung. Giúp việc cho Lục bộ là Lục tự.

2.1.1.2. Lục tự

Gồm có:

- Đại lý tự: cơ quan phụ trách hình án. Xét xong án chuyển sang Bộ Hình để tâu lên vua quyết định

- Thái thường tự: cơ quan phụ trách lễ nghi, âm nhạc cung đình

- Quang lộc tự: phụ trách hậu cần đồ lễ trong các buổi lễ của triều đình

- Thái bộc tự: cơ quan phụ trách xe ngựa của vua và coi sóc chuồng ngựa của vua

- Hồng lô tự: Tổ chức việc xướng danh những người đỗ trong kỳ thi đình; lo an táng đại thần qua đời và tiếp đón các ông hoàng ngoại quốc

- Thượng bảo tự: Cơ quan coi việc đóng ấn vào quyển thi của các thí sinh thi Hội

2.1.1.3. Các cơ quan chuyên môn

Lê Thánh Tông tổ chức thêm một số cơ quan chuyên môn không lệ thuộc vào 6 Bộ, bao gồm:

8

Page 9: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

- Thông Chính ty: cơ quan phụ trách chuyển đạt giấy tờ của triều đình xuống và nhận đơn từ của nhân dân tâu lên vua. Đứng đầu là Thông chính sứ, trật Tòng tứ phẩm.

- Quốc Tử Giám: cơ quan giáo dục cao nhất trong cả nước. Đây là trường đại học của triều đình có nhiệm vụ đào tạo nhân tài cho quốc gia. Đứng đầu là Tế tửu, trật chánh tứ phẩm.

- Quốc sử viện: cơ quan chép sử của triều đình. Nhà vua nói gì, làm gì, sử quan đều phải ghi chép cẩn thận và trung thực. Đứng đầu là Quốc sử viện Tu soạn, trật chánh bát phẩm

- Khuyến nông và Hà đê xứ: Hai cơ quan coi việc nông nghiệp và trông nom về thủy lợi.

2.1.2. Chính quyền địa phương

Năm 1428, Lê Lợi khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Thuận Thiên (tuân theo Trời), chia đất nước thành 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc (đều ở vùng Bắc bộ) và Hải Tây (từ Thanh Hóa trở vào). Dưới đạo là trấn, dưới trấn là lộ, dưới lộ là châu và huyện. Cấp hành chính địa phương thấp nhất là xã. Xã lại chia làm đại xã, trung xã và tiểu xã tùy theo số dân.

Đứng đầu chính quyền các đạo là chức hành khiển (phụ trách cả dân sự lẫn quân sự). Đứng đầu các trấn là các an phủ sứ, các lộ là tuyên phủ sứ, các châu, huyện là tri châu hay tri huyện, các xã là xã quan (từ thời Lê Thánh Tông đổi thành xã trưởng).

Đến năm Quang Thuận thứ 5 (1464) thời vua Lê Thánh Tông, Đại Việt được chia thành 1 phủ và 13 đạo "thừa tuyên"; năm 1490 đổi gọi phần lớn các "thừa tuyên" là "xứ"; sang thời Lê Uy Mục và Lê Tương Dực đổi gọi các đơn vị cấp cao nhất là "trấn". Các đơn vị hành chính cao nhất gồm gồm: Phủ Trung Đô (phủ Phụng Thiên), Thanh Hóa, Nghệ An,Thuận Hóa, Thiên Trường (Sơn Nam), Hải Dương (Nam Sách), Sơn Tây (Quốc Oai), Bắc Giang (Kinh Bắc), An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên (Ninh Sóc), Lạng Sơn. Từ năm 1471 mở rộng đất đai phía nam, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam. Tuy địa giới có một số điều chỉnh và riêng Sơn Tây không còn là đơn vị cấp cao nhất, một nửa trong số các đơn vị hành chính lớn nhất thời kỳ này (Hải Dương, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam) có tên gọi được dùng làm tên các đơn vị hành chính lớn nhất (tỉnh) của Việt Nam hiện nay.

9

Page 10: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Bộ máy chính quyền của mỗi đạo thừa tuyên gồm 3 ty: đô tổng binh sứ ty (phụ trách quân sự), thừa tuyên ty (phụ trách các việc dân sự), hiến sát ty (phụ trách các việc thanh tra, giám sát).

Các quan địa phương được ban ngạch cao nhất là chánh tứ phẩm, hưởng lương 48 quan mỗi năm. Tổng số quan lại địa phương thời Hồng Đức là 2.615 người

2.2. Kinh tế

Lê Thánh Tông còn quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển khá mạnh.

2.2.1. Nông nghiệp

Hai mươi năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh, đời sống nhân dân Đại Việt rất cực khổ. Để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất. Nhà Lê kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân điền; cấm giết trâu bò bừa bãi cấm điều động dân phu trong mùa cấy gặt.

Nhà Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác những vùng đất mới. Nhờ những chính sách tích cực, nông nghiệp đã đảm bảo tương đối đời sống nhân dân trong nước. Nhân dân thời Lê có câu thơ:

Đời vua Thái Tổ, Thái Tông

Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng buồn ăn

2.2.1.1. Đẩy mạnh nghề nông

Ngay từ năm 1427, khi đang vây hãm thành Đông Quan, Lê Lợi đã có chủ trương sẽ cho 25 vạn trong tổng số 35 vạn quân về quê cày cấy sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ giữ lại 10 vạn quân làm lính triều đình. Cùng năm, ông lệnh cho những người chạy loạn trở về quê quán cày cấy và xử tội nặng những người bỏ nghề nghiệp.

Xây dựng xã hội lấy nông nghiệp làm gốc nên nhà Lê chủ trương tận dụng triệt để ruộng đất, không để hoang hóa. Năm 1428, sau khi quân Minh về nước, Lê Thái Tổ lệnh cho con em các tướng và các đầu mục về quê nhận ruộng đất cày cấy. Năm 1429, ông lại

10

Page 11: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

ra lệnh: vườn của các quan ở kinh thành đều phải trồng hoa hoặc rau đậu, nếu bỏ hoang sẽ bị thu hồi.

Việc miễn giảm tô thuế trong những năm đầu của nhà Lê đã góp phần kích thích nông nghiệp phát triển đáng kể, khôi phục sau 20 năm chiếm đóng của nhà Minh.

Lê Thánh Tông cũng tiếp thu tư tưởng của Lê Thái Tổ, quy định trong Luật Hồng Đức: nếu ruộng đất công có chỗ bỏ hoang thì quan trông coi phải tâu lên để chia cho người cày ruộng khai khẩn, nếu không sẽ bị xử tội

2.2.1.2. Lập đồn điền

Do ruộng đất bị bỏ hoang nhiều sau chiến tranh, nhà Lê áp dụng chính sách khuyến khích dân khẩn hoang và lập đồn điền để tận dụng sức lao động của các tù binh và người phạm tội.

Việc khai hoang được bắt đầu từ thời nhà Lý; việc lập tổ chức đồn điền và đặt quan chánh phó đồn điền thực hiện từ thời nhà Trần. Nhà Lê kế tục các triều đại trước, cho các tù binh người Minh và người Chiêm Thành khi khai phá những vùng đất mới, lập thôn xóm. Các công thần Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ, Trần Lạn… được cấp tù binh để đi khai hoang. Những vùng đất mới được thành lập mang tên vệ, sở được hình thành ở ven sông thuộc huyện Hưng Nguyên, Thiên Bảo, Diễn Châu…

Sang thời Lê Thánh Tông, chính sách đồn điền được thực hiện rộng rãi. Vua ban chiếu lập đồn điền, mở rộng quy mô các đồn điền tại các địa phương, tận dụng sức lao động của người lưu vong, tội đồ. Tới năm 1481, trong cả nước có 43 đồn điền:

- Vùng Bắc Bộ có 30 sở

- Thanh Hóa có 5 sở

- Nghệ An có 4 sở

- Thuận Hóa có 2 sở

- Quảng Nam có 2 sở

Các đồn điền ở Bắc Bộ thường nhỏ và mang tên xã; trong khi các đồn điền từ Thanh Hóa trở vào rộng lớn hơn và mang tên huyện, do những vùng đất này còn nhiều nơi chưa được khai thác.

2.2.1.3. Di dân và khẩn hoang

11

Page 12: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Không chỉ tận dụng sức lao động của tù binh và người phạm tội, nhà Lê còn chú trọng tới lực lượng lao động là nông dân tại các địa phương để mở mang những vùng đất hoang. Thời Lê Thánh Tông hình thành hai loại ruộng mới là “ruộng chiếm xạ” và “ruộng thông cáo”.

Ruộng thông cáo là ruộng bỏ hoang ở các làng xã được triều đình cho phép cày cấy sau khi tâu báo lên. Người khai phá phải ở cùng phủ, huyện, xã. Họ được hưởng lợi trên ruộng cày cấy đó và truyền cho con cháu nhưng không được biến thành ruộng tư hữu mà vẫn thuộc sở hữu triều đình

Ruộng chiếm xạ cũng là ruộng khẩn hoang nộp thuế. Tùy sức người đi khai phá, làm được trên diện tích bao nhiêu thì được hưởng lợi sau khi nộp thuế và có thể xin với bộ Hộ làm ruộng tư.

Với chính sách khẩn hoang và cho phép người nông dân được sở hữu ruộng tư, nhà Lê đã khuyến khích được sức sản xuất nông nghiệp tăng đáng kể, giảm bớt mâu thuẫn trong xã hội về ruộng đất.

Do chính sách khuyến khích dân, những vùng ven biển Yên Quảng, Sơn Nam và Thuận Hóa trở vào vốn thưa dân ngày càng đông người đến sinh sống.

2.2.1.4. Chế độ ruộng đất

Chế độ ruộng đất thời Lê sơ chia hai loại chính là ruộng công và ruộng tư.

Ruộng công gọi là quan điền. Trong số ruộng công, một bộ phận được đem phong thưởng cho các công thần, ban cho các quý tộc và quan lại, gọi là lộc điền. Các thân vương hoàng tộc có thể được cấp tới 2000 mẫu ruộng (500 mẫu trong đó là đất tập ấm thừa kế); các quan chính nhất phẩm được cấp 200 mẫu ruộng (trong đó 20 mẫu là đất tập ấm thừa kế).

Tuy nhiên, Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục cho rằng: ruộng đất trên thực tế có không đủ để thực hiện chính sách lộc điền này, do đó chính sách chỉ thực hiện được một phần, do đó trên danh nghĩa các quý tộc và quan lại được hưởng 10 phần song thực tế chỉ được cấp phát bằng khoảng 1/5 trên giấy tờ.

Một bộ phận khác trong ruộng công, đất công và đất hoang được kê khai, đo đạc và chia cho các hạng từ tướng, quân, quan, dân tới cả người già yếu, cô quả ở các địa phương được hưởng. Đó gọi là chế độ quân điền. Chế độ quân điền có tác dụng ổn định trật tự xã hội, khôi phục sản xuất nông nghiệp.

12

Page 13: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Ruộng tư thời Lê sơ chủ yếu nằm trong tay các quý tộc, quan lại và địa chủ chiếm hữu. Một bộ phận nhỏ khác trong tay nông dân có ruộng tự canh tác, nếu có nhiều ruộng, họ lại trở thành địa chủ.

2.2.1.5. Trị thủy và làm thủy lợi

Khí hậu nhiệt đới gió mùa khiến nước Đại Việt thường bị lũ lụt vào mùa mưa và hạn hán và mùa khô. Do đó đắp đê và làm thủy lợi là yêu cầu cấp bách của sản xuất nông nghiệp.

Thời Lê Thái Tông, năm 1438, vua cho đào và khơi các kênh ở Trường Yên, Thanh Hóa, Nghệ An.

Năm 1449, Lê Nhân Tông lệnh cho Cục bách tác đào sông Bình Lỗ từ Lãnh Canh đến cầu Phù Lỗ dài 2500 trượng (10 km).

Năm 1467, Lê Thánh Tông lệnh cho Bộ Hộ khai hoặc lấp các đường nước ở ruộng, không để ruộng bị úng hoặc hạn. Cùng năm, ông sai khai các kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An,Thuận Hóa.

Thời Lê Thánh Tông, việc đắp đê sông và đê biển được chú trọng hơn các thời trước. Tại Ninh Bình, năm 1472 vua cho đắp đê bằng đá ở huyện Yên Mô từ phía bắc cửa Thần Phù đến bờ phía nam cửa Cờn và con đê đắp bằng đất từ xã Côi Trì huyện Yên Mô tới bờ nam xã Bồng Hải huyện Yên Khánh. Con đê chống nước mặn đắp trong niên hiệu Hồng Đức được gọi là đê Hồng Đức dài gần 25 km, hiện vẫn còn dấu tích tại phía bắc huyện Hải Hậu.

Năm 1503, Lê Hiến Tông sai khai cừ An Phúc xuống cừ Thượng Phúc để lấy nước tưới ruộng cho dân.

Bên cạnh các công trình lớn, các công trình nhỏ phục vụ chống hạn thường xuyên được thực hiện.

Việc tu sửa đê và làm thủy lợi được đưa vào quy định của triều đình. Năm 1475, Lê Thánh Tông ra sắc lệnh về sửa đắp đê điều và đường xá. Cùng năm, ông đặt ra chức quan Hà đê để trông coi đê điều và chức quan Khuyến nông để đôn đốc nhân dân việc cày cấy.

Trình độ sản xuất nông nghiệp thời Lê sơ tuy có được nâng lên so với các đời trước nhưng nhìn chung không có chuyển biến quan trọng. Nông nghiệp vẫn điển hình là

13

Page 14: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

trình độ kỹ thuật của nền sản xuất tiểu nông dựa trên sức lao động và kinh nghiệm lâu đời, với những công cụ thô sơ, nhỏ bé. Những công trình thủy lợi lớn do triều đình tổ chức thực hiện cũng như các công trình nhỏ do nhân dân góp sức đã góp phần hạn chế được tác hại của thiên tai và đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp trong nước

2.2.2. Thủ công nghiệp

Nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, phường Nghi Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xá đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác.

Các ngành nghề thủ công truyền thống như ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm v.v... ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.

Các công xưởng do nhà nước quản lí gọi là Cục Bách tác, chuyên sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng...; các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh.

2.2.2.1. Thủ công nghiệp nhân dân

Nghề phụ của nông dân

Dù không sản xuất thường xuyên nhưng hình thức này cũng khá quan trọng trong đời sống xã hội. Khi nông nhàn, người nông dân thường làm những công việc dệt vải, làm nón, đan lát... Sản xuất sản phẩm chủ yếu để giải quyết nhu cầu gia đình, một số khác phục vụ thị trường địa phương. Sự kết hợp giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp này phản ánh tính chất tự nhiên, tự cung tự cấp của kinh tế thời kỳ này

Phường hội, làng nghề chuyên nghiệp

Các làng nghề thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng đương thời có:

- Sơn Tây: huyện Bất Bạt có nghề làm dầu, gai, đay; huyện Tam Nông có nghề làm chè tai mèo, sáp vàng sáp trắng, làng Nguyên Thán dệt vải, huyện Tiên Phong dệt lụa.

14

Page 15: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

- Sơn Nam: huyện Thanh Oai, Bộ La Thái Bình dệt lụa, huyện Kim Bảng làm the; Hải Triều Thái Bình đệt chiếu, xã Hoàng Mai huyện Thanh Trì và xã Bình Vọng huyện Thượng Phúc nấu rượu sen, rượu cúc, xã Đông Thái nấu rượu nếp. Những làng rượu này rất nổi tiếng, để tiến cống triều đình và dùng trong các dịp lễ đón bốn mùa.

- Kinh Bắc: làng Bát Tràng, Gia Lâm làm bát chén; làng Huệ Cầu huyện Văn Giang nung vôi

- Nghệ An: huyện Tương Dương dệt vải thưa, huyện Thạch Hà làm the mỏng

- Quảng Nam: xã Tư Minh huyện Tuy Viễn làm tơ gai, xã Miên Sơn huyện Tuy Viễn dệt lụa màu huyền

- Lạng Sơn: châu Yên Bác có nghề làm gấm thêu, các chất thơm. Sản phẩm dùng làm đồ tiến cống.

2.2.2.2 Cục Bách công

Cục Bách công là hình thức tổ chức sản xuất thủ công nghiệp của triều đình. Đây là nơi chuyên sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho cung vua như tiền, vũ khí, các đồ nghi trượng, đồ dùng vua quan, đồ trang sức...

Các thợ thủ công tham gia Cục Bách công gọi là công tượng. Họ là những thợ giỏi trong nhân dân được triều đình trưng tập. Hàng năm, triều đình cử người về các địa phương cùng các quan phủ, huyện có nhiệm vụ đề cử những thợ lành nghề lên Cục Bách công.

Công tượng là chế độ lao động cưỡng bức, tổ chức thành đội ngũ như quân lính. Từ thời Lê Thánh Tông chia công tượng làm hai ban luân phiên nhau, một nửa sản xuất, một nửa về quê làm ruộng. Do chế độ công tượng có tính trói buộc người thợ thủ công nên họ không hứng thú với công việc trưng tập của triều đình. Do đó nhiều người đã phản ứng bằng cách trốn tránh, đến chậm hoặc thoái thác. Vì vậy Luật Hồng Đức đã có những điều khoản trị tội họ.

Ngoài công tượng, trong Cục Bách tác còn có các công nô là những người bị tội đồ, bị sung vào đây sản xuất với thân phận nô tỳ.

Sản xuất của Cục Bách tác chỉ phục vụ riêng cho cung đình, sản phẩm không phục vụ nhân dân, không trở thành hàng hóa, do đó không có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa

2.2.2.3. Các nghề thủ công nghiệp

15

Page 16: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Nghề gốm

Gốm Chu Đậu

Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp, xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ.

Chu Đậu chuyên sản xuất đồ gốm sứ cao cấp, đa dạng về các loại hình sản phẩm như chén, bát, hộp sứ, lọ, bình, tước... được trang trí bằng nhiều loại men màu, phổ biến là men trắng trong, hoa lam, men ngọc. Một số sản phẩm tráng tới 2 màu men. Hoa văn chủ đạo là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người.

Bát Tràng :

Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần và thường cung cấp cống phẩm cho nhà Minh. Trước đây, người làng vốn ở làng Bồ Bát hay Bạch Bát (Thanh Hóa) di cư đến lập nghiệp, đặt tên làng mới là Bạch Thổ phường (phường đất trắng), sau đổi là Bá Tràng phường, cuối cùng mới lấy tên Bát Tràng phường (nơi làm bát).

Sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói... Men trang trí có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng.

Nghề dệt

Nghề dệt có ở Việt Nam từ hơn 1000 năm trước thời Hậu Lê.

Tại kinh thành Thăng Long có các phường dệt nổi tiếng như Thụy Chương, Nghi Tàm. Tại Hải Dương có 3 ấp nổi tiếng là Mao Điền (huyện Cẩm Giàng), Hộ Am và ấp Bất Bế (huyện Đồng Lai, nay là huyện Vĩnh Lại).

Thời Lê sơ, các thợ dệt đã làm được hàng sợi bông trông gần như dạ và nỉ hiện đại gọi là “nuy đoạn” hoặc “nhung thúc”. Đến thế kỷ 20, các cửa hàng bán đồ tế lễ dùng loại nhung này để cắt chữ dán câu đối hoặc bọc ngoài các đôi hia cúng thần. Phủ Quốc Oai đã sản xuất thứ hàng này gồm đủ màu xanh, tím, vàng, biếc không kém chất lượng hàng của Trung Quốc

Nghề sơn

16

Page 17: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Nghề sơn đã có từ khá lâu đời, nhưng đến thời Hậu Lê thì được phát triển thêm một bước.

Sơn dùng trang trí ở hầu hết các đền thờ dinh thự ở đồng bằng Bắc Bộ. Sản phẩm nối tiếng xuất phát từ làng Bình Vọng, huyện Thường Tín (Hà Nội) với ông tổ là Trần Lư.

Nghề chạm khắc đá

Nổi tiếng nhất là làng Kính Chủ thuộc phủ Kinh Môn (Hải Dương). Hầu hết đàn ông tại làng Kính Chủ đều biết nghề chạm đá.

Nguyên liệu sẵn có, khai thác thuận tiện làm cho làng nghề có công việc quanh năm. Không chỉ phục vụ nhu cầu tại địa phương, làng nghề này còn sản xuất cối đá, trục lúa, đá phiến... giao cho thương nhân chở theo đường thủy đến các địa phương khác hoặc nhận đi làm công trình ở các nơi khác

Nghề in mộc bản

Bắt đầu từ thời Lý (thế kỷ 12) nhưng đến thời Lê Sơ, nghề này mới đi vào quy củ. Nổi tiếng nhất là 2 làng Hồng Lục và Liễu Tràng (phủ Hạ Hồng, Hải Dương). Sự thăng tiến về trình độ của nghề này có ghi nhận sự du nhập kỹ thuật của Trung Quốc

2.2.3. Thương mại

Nhà vua khuyến khích lập chợ mới, họp chợ, ban hành những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ.

Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành sứ, vải lụa, lâm sảm quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.

Tuy nhiên, cùng với thủ công nghiệp, thương mại vẫn bị nhà nước ức chế. Thời nhà Lê chính quyền dùng chính sách bế quan tỏa cảng. Nhà Lê hạn chế ngoại thương hơn cả nhà Lý, nhà Trần. Các tàu ngoại quốc tới buôn bán đều phải đậu ở Vân Đồn. Dân buôn muốn đi buôn bán thì phải có giấy phép, về cũng phải có giấy phép. Quan lại vô cớ tới Vân Đồn, dân chúng tự tiện đón tàu vào buôn bán cũng đều bị xử tội

2.2.3.1. Nội thương

17

Page 18: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Kinh đô Thăng Long là trung tâm buôn bán lớn nhất và sầm uất nhất. Do có ưu thế về vị trí, những người buôn bán muốn đến Thăng Long bằng đường bộ hay đường sông đều thuận tiện.

Trục giao thông chính trong nước là sông Nhĩ Hà (sông Hồng), đoạn chảy qua nội thị dài gần 5 km. Bên hữu ngạn sông Nhĩ Hà có nhiều bến đò liền sát với phố phường tạo ra một mạch giao thương chính nối Thăng Long với các thị trường các địa phương khác. Hệ thống sông Tô Lịch – Kim Ngưu, trong nhiều thế kỷ vẫn ăn thông với sông Nhĩ Hà và Hồ Tây, có tác dụng là hệ thống giao thông nội thị hiệu quả cho nội thương.

Ngoài Thăng Long và một vài thị trấn là trung tâm buôn bán, hầu hết là các chợ nằm ở các địa phương. Mỗi xã có một chợ hoặc một vài xã lân cận có một chợ chung. Chợ họp hàng ngày hoặc theo những ngày nhất định trong tháng gọi là ngày phiên chợ. Họp chợ là dịp để những người trong địa phương và các lái buôn từ xa tới buôn bán trao đổi sản phẩm - chủ yếu là trao đổi giữa nông phẩm và sản phẩm thủ công. Thời  Lê Thánh Tông ra quy định các làng mở chợ sau phải định ra phiên sau ngày phiên chợ của các làng xung quanh để tránh việc tranh chấp ăn chặn mối hàng của các lái buôn. Làng nào phạm luật sẽ bị phạt.

Do dân cư ngày càng đông đúc và nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng lớn, năm 1477, Lê Thánh Tông ra quy định về việc chia chợ. Theo đó, các quan phủ, huyện, châu phải xem xét thực trạng, nếu việc chia chợ là thuận tiện cho việc buôn bán của dân thì làm bản tâu lên xin phép triều đình.

Luật Hồng Đức có quy định cấm những hành động sách nhiễu và thu thuế quá cao đối với các chợ. Điều 186 chương Vi chế ghi:

« Những người coi chợ trong kinh thành mà sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xung, đánh 50 roi, biếm 1 tư; lấy thuế chợ quá nặng biếm 2 tư, mất chức coi chợ và bồi thường tiền gấp đôi trả cho dân, tiền phạt trả cho người cáo giác. Nếu lấy thuế chợ không đúng luật thì đánh 80 trượng và dẫn đi rao trong chợ 3 ngày »

2.2.3.2. Ngoại thương

Nhà Hậu Lê cũng như nhiều triều đại phong kiến phương Đông khác có chính sách hạn chế ngoại thương, một phần lý do xuất phát từ nhu cầu tự vệ để ngăn ngừa do thám của nước ngoài và mặt khác do tư tưởng trọng nông, muốn gắn chặt người dân với đồng ruộng, không cho người dân rời đồng ruộng và quê hương đi buôn bán. Chính vì vậy, triều đình đã có nhiều biện pháp kiểm soát ngoại thương chặt chẽ, nhất là với hoạt động của tư nhân.

18

Page 19: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Đường biển

Trên cửa khẩu dọc biên giới miền duyên hải, triều đình lập cơ quan kiểm soát ngoại thương rất khắt khe. Những nhà buôn ngoại quốc đến Đại Việt buôn bán phải vào những nơi quy định như Vân Đồn, Càn Hải, Hội Thống, Hội Triều, Thông Lãnh, Phú Lương, Tam Kỳ, Trúc Hoa, không được tự ý vào các trấn. Các thuyền ngoại quốc vào buôn bán chỉ được ra vào hạn chế tại một số cảng, chủ yếu là Vân Đồn. Tại các cửa biển có các quan Sát hải sứ kiểm soát tàu bè, các An phủ ty và Đề Bạc ty kiểm soát buôn bán và đi lại.

Nhân dân và quan lại vùng duyên hải tự ý mua hàng hoá của người nước ngoài hoặc đón tiếp các thuyền buôn thì sẽ bị nghiêm trị, phạt tiền rất nặng, từ 50 quan đến 200 quan

Đường bộ

Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và sự phát triển của kinh tế hàng hoá khiến hoạt động buôn bán lén lút với nước ngoài vẫn diễn ra, với sự tham gia của các quan lại trong triều.

Nhiều quan lại nhà Lê – cũng như quan lại nhà Minh từ Trung Quốc - đã tận dụng cơ hội đi sứ để mua hàng hoá về bán trong nước kiếm lời. Những vụ điển hình như Chánh sứ Lê Vĩ sang Trung Quốc năm 1434 mua trên 30 gánh hàng hoá về; năm 1435 sứ bộ của Chu Bật sang Trung Quốc về phải dùng tới 1000 phu gánh gồng hàng hoá và hành lý. Năm 1448, có tin nhà Minh hội khám để bàn vấn đề tranh chấp biên giới, Lê Khắc Phục, Nguyễn Mộng Tuân, Đào Công Soạn… được lệnh đi hội khám. Cuối cùng nhà Minh lỡ hẹn không đến, đoàn quan lại bèn mang tiền mua hàng hoá từ Trung Quốc chở nặng mang về. Có những vụ việc bị phát giác và bị xử lý như trường hợp Thái Quân Thực và Nguyễn Tông Trụ năm 1435 mang nhiều bạc sang Trung Quốc trong chuyến đi sứ, khi về bị vua Lê Thái Tông tịch thu hết chia cho các quan

Để hạn chế việc quan lại mua bán hàng hoá với Trung Quốc, nhà Lê ra quy định: sứ thần nào mang hàng về sẽ bị khám xét, thu và trưng bày trong triều để bêu làm xấu hổ rồi mới cho mang về. Việc khám xét dù thành thường lệ nhưng việc mua bán của các quan vẫn phổ biến.

Công thương nghiệp của Trung Quốc thời nhà Minh khá phát triển, nhưng cũng gặp phải sự ngăn cấm của triều đình nhà Minh. Nhiều người Hoa vẫn lén lút qua lại biên giới buôn bán với người dân Việt. Sự ngăn cấm ngặt nghèo của nhà Minh sau đó khiến một bộ phận người Hoa vượt biên giới sang rồi không dám trở về, ở lại sinh sống tại Đại

19

Page 20: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Việt. Do đó sau nhiều năm, hình thành một tầng lớp người Hoa chuyên kinh doanh buôn bán ngày càng đông

Hậu quả

Sự ngăn cấm khắt khe của triều đình khiến ngoại thương phát triển rất kém. Thuyền buôn các nước vào thưa thớt, các chợ miền biển như Kỳ Lừa (Lạng Sơn), Móng Cái, Vạn Ninh, Vân Đồn (An Bang)… suy giảm dần. Năm 1467, thuyền buôn Xiêm La đến Vân Đồn dâng biểu bằng vàng lá và hiến sản vật quý để xin thông thương nhưng bị vua Lê Thánh Tông từ chối.

Chính sách nghiêm ngặt đó là trở lực kìm hãm sự phát triển kinh tế hàng hoá, làm cho quá trình tách rời thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp và quá trình phát triển của các đô thị rất khó khăn

2.3. Giáo dục

Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám, ở kinh thành Thăng Long mở trường học, các lộ mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học, đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.

Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời Lê sơ (1428-1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ và 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.

Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà Trần. Tài liệu học tập thì gồm mấy bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh tinh tuý, Bắc sử (Sử Trung Quốc). Phương pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là trừng phạt bằng roi vọt và học thuộc lòng. Ngoài ra còn nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng những câu sáo rỗng.

Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái.

20

Page 21: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới Nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ.

Hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học tuyệt đối không ai được phát huy ý kiến riêng của mình, cấm chỉ tự do tư tưởng. 

2.3.1. Hệ thống trường học

Vua Lê Thái Tổ chú trọng đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước ngay sau khi lên ngôi. Ông ra lệnh cho các trấn trong nước đều phải xây trường học, mở mang nền giáo dục trong nước.

Tại kinh đô có Quốc tử giám và nhà Thái học. Học trò ở đây là con em quan lại và những người có học lực hạng ưu tú tuyển chọn trong dân. Thầy dạy trong Quốc tử giám gọi chung là Giáo quan, bao gồm các quan văn trong triều hoặc những người có học vấn uyên bác trong xã hội.

Thời Lê Thánh Tông, Quốc Tử giám được mở rộng, sau Văn Miếu là nhà Thái học, có Minh Luận đường là nơi giảng dạy. Ngoài ra, triều đình còn xây thêm Bí thư khố là kho trữ sách và khu nhà tập thể cho các giám sinh lưu trú từ nơi xa đến.

Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà Trần. Tại các lộ đều có trường học, học trò ở đây gọi là Lộ hiệu sinh. Chỉ trừ con nhà hát xướng và người đang bị tội tù đày, con em các nhà lương thiện đều có thể vào học tại đây. Sang thời Lê Thánh Tông, trường lộ đổi thành trường phủ.

Giáo quan giảng dạy tại đây được tuyển từ các nhà Nho địa phương. Muốn lên học tại Quốc Tử giám, học trò ở trường lộ phải qua sát hạch, lấy những Lộ hiệu sinh học xuất sắc nhất, nhì.

Ngoài các trường do triều đình mở còn có các trường lớp tư nhân trên khắp toàn quốc do các nhà Nho không đỗ đạt hoặc đã đỗ đạt nhưng thôi làm quan về dạy học.

2.3.2. Sách giáo khoa

21

Page 22: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Tài liệu học tập, giảng dạy và thi cử chính thức gồm có:

- Tứ Thư

- Ngũ Kinh

- Ngọc đường văn phạm

- Văn hiến thông khảo

- Văn tuyển

- Cương mục

- Bắc sử (Sử Trung Quốc)

Phương pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là học thuộc lòng và trừng phạt bằng roi vọt. Ngoài ra, còn nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng những câu sáo rỗng.

Dưới thời Lê sơ nói chung và trong thời trị vì của Lê Thánh Tông nói riêng, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới nho học.

Theo ý kiến của nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học không được phát huy ý kiến riêng của mình. Kiểu người điển hình do phương pháp giáo dục này đào tạo là người hủ nho hoàn toàn trung thành với chế độ quân chủ nhà Lê

2.3.3. Hệ thống khoa cử

Việc tuyển dụng quan lại vào bộ máy chính quyền có 3 đường:

- Đỗ đạt qua thi cử

- Nhờ quan lại đề cử có bảo đảm (bảo cử)

- Lấy con cháu công thần hưởng tập tước

Trong 3 con đường trên, con đường khoa cử là quan trọng nhất, được triều đình đề cao, chú trọng.

22

Page 23: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Ngay từ năm 1426, khi khởi nghĩa Lam Sơn chưa kết thúc, Lê Lợi tiến ra Bồ Đề đã mở kỳ thi đặc biệt, lấy đỗ 30 người. Từ khi nhà Lê chính thức thành lập, việc tổ chức các khoa thi diễn ra đều đặn định kỳ.

Có 3 kỳ thi chính và quan trọng nhất là thi Hương, thi Hội và thi Đình.

2.3.3.1. Thi Hương

Từ thời Lê Thánh Tông, thi Hương có quy định chặt chẽ, rõ ràng, với yêu cầu: người thi Hương phải là người dân có đạo đức, cấm người bất hiếu, loạn luân, gian ngoa; cấm con nhà phản nghịch, con phường chèo, hát xướng. Năm 1462, vua đặt lệ “bảo kết thi Hương” quy định rõ thủ tục giấy tờ của những người ứng thí.

Người thi Hương phải qua 4 kỳ:

Kỳ 1 thi kinh nghĩa về Tứ thư

Kỳ 2 thi Ngũ kinh

Kỳ 3 thi chiếu, chế, biểu mỗi môn 1 bài

Kỳ 4 thi một bài văn trường thiên 1000 chữ.

Qua 4 kỳ thi, ai trúng được 3 kỳ gọi là Sinh đồ, khoa sau lại vào thi; ai trúng 4 kỳ thì gọi là Hương cống. Đỗ Hương cống rồi năm sau mới được thi Hội. Các tên gọi Sinh đồ, Hương cống bắt đầu từ năm 1462 niên hiệu Quang Thuận. Định kỳ 3 năm tổ chức 1 lần.

2.3.3.2. Thi Hội

Thi Hội thuộc hàng đại khoa để các Hương cống cả nước đua tài. Thời gian đầu, người đang làm quan dù chưa đỗ Hương cống vẫn được thi Hội, nhưng từ năm 1486 người làm quan cũng phải đỗ thi Hương mới được thi Hội.

Định kỳ 3 năm tổ chức 1 lần thi Hội, sau năm thi Hương. Từ thời Lê Nhân Tông, thi Hội gồm có 4 kỳ:

Kỳ 1 thi Tứ thư, Luận ngữ; 4 đề về Mạnh Tử (thí sinh được chọn 4 trong 8 đề). Về Ngũ kinh, mỗi kinh 3 đề cho thí sinh chọn làm 1 đề; riêng kinh Xuân Thu có 2 đề nhưng phải gộp vào làm thành 1 bài văn.

Kỳ 2 thi chế, chiếu, biểu, mỗi thể loại có 3 đề

23

Page 24: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Kỳ 3 thi thơ phú, mỗi thể 2 đề. Thơ dùng thể Đường luật, phú dùng thể Lý Bạch thường viết

Kỳ 4 ra bài văn sách, hỏi những điểm khác nhau giữa Ngũ Kinh và Tứ Thư cùng chính sự xấu, tốt của các đời trước.

Người đỗ thi Hội gọi là trúng cách, người đạt điểm cao nhất gọi là Hội nguyên.

Suốt thời Lê sơ, từ thời Lê Thái Tông tổ chức thi Hội; tổng cộng đến năm 1526 thời Lê Cung Hoàng, nhà Lê tổ chức 26 khoa thi

2.3.3.3. Thi Đình

Là cuộc thi dành cho những người đỗ thi Hội, tổ chức tại sân điện, do nhà vua đích thân ra đề. Trong số những người đỗ, chọn ra 3 người cao nhất (gọi là Tam khôi) là Đệ nhất giáp đệ nhất danh (Trạng nguyên), Đệ nhất giáp đệ nhị danh (Bảng nhãn), Đệ nhất giáp đệ tam danh (Thám hoa).

Người đỗ hạng nhì, tức là Đệ nhị giáp, gọi là Hoàng giáp hay Tiến sĩ xuất thân. Người đỗ Đệ tam giáp gọi chung là Tiến sĩ, hay Tiến sĩ xuất thân.

Những người đỗ thi Đình rất được trọng vọng, được vua ban thưởng áo mũ, thết tiệc, các quan hồng lô làm lễ xướng danh ở nhà Thái học, Bộ Lễ ghi tên vào bảng vàng treo trước cửa Đông hoa, làm lễ vinh quy bái tổ. Đặc biệt, vua Lê Thánh Tông còn cho tạc bia tiến sĩ dựng trong nhà Thái học. Họ được triều đình bổ dụng làm quan. Thời Lê sơ tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.

Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới.

2.3.4. Tư tưởng trọng hiền tài (1428- 1527) thông qua hệ thống văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám

2.3.4.1. Đôi nét về Văn Miếu – Quốc Tử Giám và hệ thống bia đá

Văn Miếu – Quốc Tử Giám được coi là biểu tượng của văn hiến Việt Nam nói chung và biểu tượng của văn hiến Thăng Long nói riêng. Việc thành lập Văn Miếu vào năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2 (1070) dưới triều vua Lý Thánh Tông đã được chép trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: “Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng

24

Page 25: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây.”. Sáu năm sau, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ nhất dưới triều vua Lý Nhân Tông, Quốc Tử Giám được thành lập. Sự kiện này, bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có ghi: “Lập nhà Quốc Tử Giám; tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó” . Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, Văn Miếu – Quốc Tử Giám luôn có hai chức năng cơ bản: chức năng tôn giáo và chức năng đào tạo nhân tài. Văn Miếu là nơi tôn vinh Đại Thành Chí Thành Tiên Sư Khổng Tử và các bậc tiên nho. Còn Quốc Tử Giám đóng vai trò là trung tâm đào tạo nhân tài. Sự khẳng định Quốc Tử Giám là trung tâm đào tạo nhân tài được thể hiện rõ nét qua câu đối tại nghi môn của Văn Miếu:

Đông Tây Nam Bắc do tư đạo

Công khanh phu sĩ xuất thử đồ

Tạm dịch:

Khắp cả bốn phương, đông, tây, nam, bắc chỗ nào cũng từ đạo này

Các bậc công, khanh, sĩ, đại phu đều từ con đường này mà ra cả

Quy mô của Văn Miếu - Quốc Tử Giám thời phong kiến so với quy mô Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện tại không có sự thay đổi nhiều. Hiện tại, Văn Miếu - Quốc Tử Giám với chiều dài hơn 300m và chiều rộng 70m được bao quanh bởi 4 con phố: Quốc Tử Giám, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thái Học và Văn Miếu.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn bảo tồn và lưu giữ được rất nhiều di vật quý nhưng di vật có giá trị đặc biệt quan trọng chính là hệ thống bia đá. Hiện nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn giữ được 82 tấm bia được dựng từ năm Hồng Đức năm thứ 15 (1484) đến năm Cảnh Hưng thứ 41 (1780) ghi lại các khoa thi được tổ chức từ năm 1442 đến năm 1779. Ngày 9/3/2010, hồ sơ 82 bia Tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới và được đưa vào chương trình “Ký ức thế giới”. Sự công nhận này càng khẳng định thêm rằng: Hệ thống 82 tấm bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám hàm chứa rất nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, giáo dục, mỹ thuật…

Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến một khía cạnh trong hệ giá trị của hệ thống bia đá nơi đây, đó là tư tưởng trọng hiền tài thông qua các tấm bia được dựng vào thời Lê Sơ (1428 – 1527). Theo nghiên cứu của Giáo sư Đỗ Văn Ninh trong cuốn “Văn Bia Quốc Tử Giám Hà Nội” thì hiện tại, ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám thời Lê Sơ còn 12 tấm bia được dựng từ năm Hồng Đức năm thứ 15 (1484) đến năm Quang Thiệu năm thứ 6 (1521). Chúng tôi tìm hiểu tư tưởng trọng hiền tài thời Lê Sơ qua hệ thống văn

25

Page 26: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

bia trên những bình diện: vai trò của hiền tài đối với quốc gia, cách thức tuyển chọn hiền tài, chế độ đãi ngộ và tôn vinh hiền tài và yêu cầu đối với hiền tài, trách nhiệm của hiền tài đối với quốc gia.

2.3.4.2. Tư tưởng trọng hiền tài thời Lê Sơ thông qua hệ thống văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám

2.3.4.2.1. Vai trò của hiền tài đối với Quốc gia

Trong bài văn bia khoa thi năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), Thân Nhân Trung đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí là việc làm đầu tiên”

Đây là tư tưởng quan trọng nhất về văn hoá, giáo dục của Thân Nhân Trung. Tư tưởng trên khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với quốc gia, đội ngũ người hiền tài đem lại hưng thịnh cho đất nước. Có thể nói, trong lịch sử văn hoá, giáo dục trước đời Lê Thánh Tông, chưa có ai đặt vấn đề như ông. Người ta không ai là không biết mối quan hệ giữa hiền tài và sự thịnh suy của một triều đại, một quốc gia. Nhưng còn coi người “hiền tài là nguyên khí quốc gia” thì phải ghi nhận bắt đầu từ Thân Nhân Trung, một câu tổng kết chính xác cho cả một đường lối chiến lược về văn hoá, giáo dục của bất cứ một thời đại nào, một chính thể nào.

Tiếp đến trong tấm bia ghi lại khoa thi Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 (1448), Đông Các Đại Học Sĩ Đỗ Nhuận cũng khẳng định: trọng hiền tài là một yếu tố quan trọng trong việc trị nước: “Việc trị nước của đế vương chẳng có gì lớn lao hơn là trọng nhân tài, phép tắc. Nhà nước rõ ràng hẳn phải đợi bậc hậu thánh, bởi trị nước mà không kén chọn nhân tài, gây dựng mà không nhờ ở hậu thánh thì đều là cẩu thả”.

Nguyên khí chính là gốc của trời đất, không có nguyên khí trời đất không thể vận hành. Cũng giống như vậy, quốc gia không thể vận hành mà không có hiền tài. Bài ký Bia số 5, khoa Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức 6 (1478) cũng đã khẳng định tư tưởng này: “Hiền tài đối với quốc gia cũng như người có nguyên khí không thể một ngày không có”

            Bài ký khoa Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 3 (1511) do Đông Các Đại Học Sĩ kiêm Quốc Tử Giám Tế Tửu Lê Trung soạn cũng khẳng định thêm những tư tưởng trọng người tài: “Trời đất sinh muôn vật tất phải nhờ có bốn mùa mới thành công. Đế vương chăm sóc muôn phương tất phải tìm nhiều người hiền để giúp việc. Cho nên,

26

Page 27: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

nhà Ngu không bỏ sót người hiền ở nơi thôn dã mới tiến lên cõi thái bình, nhà Chu có được nhiều người giỏi ở triều đình mới tiến cảnh thịnh vượng. Xuống các đời Hán, Đường, Tống những vua chăm lo trị nước không ai không coi việc dùng người hiền, kén kẻ sĩ là công việc cần làm trước tiên.”. Lê Trung muốn khẳng định, dùng người tài là một nguyên tắc bất biến không thể không theo. Cũng giống như “trời đất sinh muôn vật tất phải nhờ có bốn mùa mới thành công”

2.3.4.2.2. Coi trọng đào tạo và kén trọng nhân tài qua khoa cử

Xác định vai trò của người tài quan trọng đối với đất nước là vậy. Nhưng làm sao để có được người tài và làm sao để chọn được người tài cũng được đề cập đến rất rõ ràng trong các bài văn bia thời Lê Sơ.

Bia số 4, khoa Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận 7 (1466) viết: “Trời đất vô tâm mà nên đức hóa, nhờ bốn mùa để giúp công; thánh nhân hữu tâm mà không lầm, dùng người tài để giúp trị. Người tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn; phải có đào tạo sau mới có người tài…”. Như vậy chúng ta có thể hiểu rằng, người tài không thể tự nhiên mà có. Đoạn trích này đã cho chúng ta một chiến lược rõ ràng trong giáo dục, phải đặt công tác đào tạo lên hàng đầu. Tư tưởng này được tiếp nối trong bài ký khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức năm thứ 18 (1487): “Trời đã mở cho nhà nước cuộc thái bình muôn năm tất phải sinh ra người tài để giúp việc, vì rằng chính trị giáo hóa mà được thịnh vượng là nhờ có người tài giỏi. Người tài giỏi có nhiều là do ở việc bồi dưỡng giáo dục.”

Theo tư tưởng được thể hiện trong văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám thời Lê Sơ thì cách tốt nhất để tuyển lựa nhân tài là qua con đường khoa cử: “Vẻ vang thay đức Thái Tông Văn Hoàng Đế phúc nối nghiệp lớn, đức rạng nếp xưa, xem xét nhân văn, giáo hóa thiên hạ; lấy trọng đạo sùng Nho làm việc  trước, coi kén tài kính trời là chước hay. Người nghĩ rằng mở khoa thi, kén kẻ sĩ là việc phải làm trước tiên trong phép trị nước. Tô điểm cơ đồ, mở mang giáo hóa thịnh trị là nhờ đó. Sắp xếp chính sự, trau dồi tục hay cũng nhờ đó. Các bậc đế vương xưa đã làm nên sự nghiệp trị bình không ai không đi theo con đường ấy” (Bia số1, khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3, 1442)

Khoa cử cũng giúp cho nhà nước ngoài việc chọn được nhân tài còn có thể đánh giá chính xác tài năng cao thấp của từng người: “Khí vận của nhà nước quan hệ ở người tài mà người tài cao thấp là do ở khoa mục.” 

2.3.4.2.3. Chế độ đãi ngộ và tôn vinh hiền tài

Để khuyến khích những nhân tài sau khi đỗ đạt đem hết khả năng phục vụ cho triều đình, nhà Lê Sơ đã có những chính sách tôn vinh, ban thưởng rất trọng hậu: “Kẻ sĩ

27

Page 28: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

đối với đất nước quan trọng là thế cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã quý chuộng bằng khoa danh lại tôn trọng bằng tước trật, ơn ban đã lớn vẫn cho là chưa đủ. Lại còn đề tên ở Tháp Nhạn, ban danh Long Hổ, mở tiệc Văn Hỷ, triều đình mừng được người tài. Không việc gì không làm tới mức cao nhất.” 

Trước hết, người hiền tài được lập bia khắc tên: “Khen chuộng hưng khởi đức ý hồn hậu, ân vinh thứ bậc, tiết mục rõ ràng, nghiêm trang rực rỡ hơn cả xưa nay. Khắc vào đá tốt, chép thực sự văn hoa, để chốn Hiền quan mà khuyến khích kẻ sĩ.”  

Sáng kiến của vua Lê Thánh Tông ở chỗ ngoài việc lập bia khắc tên những người đỗ đại khoa, ông còn tiến hành đọc to tên người đỗ đạt cho thiên hạ rõ.  Năm 1481, trong một kỳ thi Hội, sau khi đã thi Đình, nhà vua ngự ra điện Kính Thiên để làm lễ xướng danh, rồi cho viết tên người trúng tuyển lên giấy vàng, yết ra ngoài cửa Đông Hoa (tức cửa Đông kinh thành Thăng Long): “Ngày 22, vua ngự điện Kính Thiên. Loa truyền việc thi đã xong. Lễ quan mang bảng vàng yết ngoài cửa Đông Hoa cho sĩ tử xem lại. Lại ban mũ áo yến tiệc để tỏ lòng ưu đãi. Ân huệ thật là dồi dào” (Bia số 3, khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận năm thứ 4, 1463) Người đỗ đại khoa được nhà vua thân hành ban cho áo mão và được dự yến tiệc của vua ban: “Ngày mồng 3 tháng 3, xướng danh treo bảng để tỏ rõ cho sĩ phu thấy sự vẻ vang. Ân ban tước trật để biểu dương, cấp mũ đai xiêm áo để tô điểm, thết yến ở Quỳnh Lâm để tỏ ân huệ, cho ngựa tốt về quê để tỏ ý ân cần”  (Bia số 1, khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3, 1442) . Đây vừa là một đặc ân lớn lao cho người đỗ đạt vừa là niềm tự hào vinh hiển không chỉ cho riêng người đỗ mà cho cả họ hàng, làng xóm.

Bên cạnh đó, nhà nước sẽ tổ chức cho những người đỗ đạt được vinh quy bái tổ. Những bậc hiền tài được vua ban cho trở về bái lạy tổ tiên để tỏ lòng biết ơn chân thành đối với đấng đã có công sinh thành dưỡng dục, chia sẻ vinh quang với những người đã ân cần săn sóc mình trong những tháng năm miệt mài đèn sách.

2.3.4.2.4. Yêu cầu đối với hiền tài và trách nhiệm của hiền tài đối với quốc gia

Bên cạnh việc tôn vinh, đối đãi, ban thưởng rất trọng hậu cho hiền tài, nhà Lê Sơ cũng đặt ra những yêu cầu rất cao đối với nhân cách của người hiền tài và trách nhiệm của bậc hiền tài đối với quốc gia khi đã tham gia vào bộ máy chính quyền: “Kẻ sĩ mong được khắc tên lên bia đá này tất phải làm sao “danh” xứng với “thực”, sửa  đức hạnh, yên phận mình, bắt chước Văn Hiến giữ lòng, đừng theo lòng quay quắt của Công Tôn, đức thanh liêm phải như Triệu Duyệt Đạo, tính cương trực phải như Phạm Cảnh Nhân. Người ở chức Thị Tụng thì phải nghĩ sao để dâng được mưu hay. Người nắm việc kỷ cương thì nghĩ sao khiến chính sự trong sạch. Người cai trị địa phương thì lo làm sao làm tỏ đức

28

Page 29: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

vua mà thấu tình dân. Người giữ quyền chăn dân thì lo sao cho đủ dân  sinh mà bền gốc nước.” (Bia số 3, khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận năm thứ 4, 1463) Đông các Hiệu thư Đào Cử, người soạn bài văn bia này đã đưa ra một phạm trù trở thành tư tưởng chỉ đạo cho các bậc hiền tài sau khi đã được ghi danh trên bảng vàng, bia đá đó là vấn đề giữa “Danh” và “Thực”. “Danh” phải xứng với “Thực”. “Danh” đã có, đã được tôn vinh thì “Thực” chính là danh tiết và việc làm cụ thể của hiền tài trong việc phò vua giúp nước.

Những bậc hiền tài phải dốc hết lòng đem tài “kinh bang tế thế” đem lại lợi ích cho dân cho nước:“Đề tên bia đá là để ghi nhớ việc tốt, lưu truyền về sau, lẽ nào lại khi có khi không được? Những người được đề tên trong thời gian ấy tất phải suy nghĩ để hiểu ý dựng bia của triều đình ở chỗ là càng ngày càng cố gắng làm con hiếu, tôi trung, ngày thường thì dám nói ngay, can thẳng, tôn trọng nhà vua, làm lợi cho dân. Lúc có việc thì phải vì nước mà quên nhà, thấy nguy thì không tiếc tính mạng, khiến người đời chỉ từng tên mà nói: “Người này trung, người này trực, người này biết tiến cử người thiện, ruồng kẻ tà, có ích cho nước, người này giữ vẹn danh tiết bề tôi, không hổ với khoa mục. Như thế bia đá càng lâu càng không mòn.” (bài ký khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 9 (1468). Trách nhiệm của hiền tài tiếp tục được đặt ra trong bài ký khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức, năm thứ 18 (1487): “Những người có tên trên tấm bia này hân hạnh biết bao! Phải nên trung nghĩa hẹn lòng, danh thực là một, thi hành những điều đã học để nên sự nghiệp to lớn vẻ vang khiến cho thiên hạ đời sau trông ngóng thanh danh mà kính mến là bậc hiền liệt, may ra trên không phụ ơn nuôi dưỡng của triều đình, dưới không uổng chí thờ vua giúp nước mà đời mình ấp ủ. Được như thế thì tấm bia này sẽ mãi mãi không mòn.”

Bên cạnh phạm trù “Danh” và “Thực”, bài ký Khoa thi Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 3 (1511) còn đưa ra phạm trù “Ngọc” và “Đá” để giáo dục danh tiết cho bậc hiền tài: “Nếu ai ngoài là ngọc, trong là đá, tiếng như phượng hoàng mà cánh tựa diều hâu, bẻm mép như bôi cột mỡ mềm mại như nhẫn đeo tay thì người đời sau sẽ chê rằng: kẻ ấy học lối xiên lệch giống như Công Tôn Hoằng, kẻ này phản lại kinh điển giống như Vương An Thạch” 

2.3.4.3. Nhận xét chung

Giáo dục đang trở thành quốc sách hàng đầu, chấn hưng giáo dục là chìa khoá mở cửa vào tương lai dân tộc. Văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức đang giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp chung của đất nước. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Thân Nhân Trung thường xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với kẻ

29

Page 30: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

sĩ, và luôn luôn minh chứng lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài

Trong lịch sử Việt Nam, triều Lê sơ có đóng góp đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục đào tạo thời phong kiến: “Từ khoa thi Hội đầu tiên vào năm 1442 đến khoa thi Hội cuối cùng vào năm 1526, nhà Lê Sơ đã mở 26 khoa thi đào tạo được 988 tiến sĩ. Đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông là đỉnh cao nhất của chế độ giáo dục, thi cử trong toàn bộ thời kỳ phong kiến Việt Nam. Chỉ riêng 37 năm dưới triều vua Lê Thánh Tông, có 12 khoa thi Hội với 501 người thi đỗ tiến sĩ, trong đó có 10 người đỗ Trạng nguyên. Nếu đem con số ấy so sánh với tổng số 2325 người đỗ Thái học sinh và Tiến sĩ từ nhà Lý đến Duy Tân, trong đó có 30 người đỗ Trạng nguyên, thì thấy rằng chỉ trong vòng 37 năm dưới triều Lê Thánh Tông, số Tiến sĩ đã chiếm đến 20%, trong đó số Trạng nguyên chiếm trên 30% tổng số Tiến sĩ và Trạng nguyên trong toàn bộ lịch sử khoa cử thời phong kiến nước ta.”

            Chính vì có chính sách đào tạo, kén chọn người tài và đối đãi với người tài rất trọng hậu mà thời Lê Sơ đã sản sinh ra rất nhiều bậc hiền tài cho đất nước.  Đội ngũ trí thức Nho học - sản phẩm giáo dục khoa cử thời Lê sơ như Bùi Xương Trạch, Đào Công Soạn, Bùi Cầm Hồ, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Như Đổ, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh…trở thành những trụ cột góp phần đưa quốc gia phong kiến Đại Việt phát triển cường thịnh trên nhiều mặt.

            Về chính trị: Bộ máy quan liêu hành chính và chuyên môn thời Lê sơ được kiện toàn từng bước. Trong triều đình, dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có 2 Thí lang. Bên cạnh đó, còn có Lục khoa với chức năng theo dõi, giám sát và Lục tự với chức năng điều hành. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Nội thị sảnh… Đội ngũ nhân tài đứng đầu các khoa thi đã được sử dụng vào vị trí các chức quan quan trọng như Thượng thư Bộ Hộ Vũ Hữu, Thượng thư Bộ Hộ Đào Công Soạn, Đô ngự sử Bùi Xương Trạch, Hàn lâm viện Đại học sĩ Vũ Vĩnh Trinh, Tư nghiệp Quốc tử giám Nguyễn Thiên Túng, Hàn lâm viện Thừa chỉ Nguyễn Trực, Thượng thư Bộ Lại kiêm Quốc tử giám Tế tửu Nguyễn Như Đổ, Đô ngự sử Lương Như Hộc…

            Về ngoại giao: Thời Lê sơ lĩnh vực bang giao với nhà Minh vẫn rất phức tạp như các vấn đề giải quyết hậu quả sau cuộc chiến, vấn đề biên cương trên đất liền và biển đảo, buôn bán, cống nạp…Tất cả các việc ngoại giao được triều đình trao cho các Tiến sĩ, Trạng nguyên đảm nhiệm và họ đều hoàn thành tốt như Trạng nguyên Nguyễn Trực, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ 3 lần đi sứ, thám hoa Quách Đình Bảo…

30

Page 31: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

            Về xã hội: Xã hội Đại Việt thời Lê sơ là một xã hội tương đối ổn định và phát triển, đồng thời là một xã hội mang tính đẳng cấp đã chín muồi. Có hai đẳng cấp chính: quan liêu và thứ dân. Quan liêu là đẳng cấp cầm quyền, cai trị, đồng thời cũng được coi là tầng lớp ưu tú của xã hội, yêu nuôi và giáo hóa dân chúng. Đội ngũ quan chức thời Lê sơ là những tri thức Nho sĩ được tuyển lựa kỹ lưỡng (chủ yếu qua khoa cử), được rèn luyện và kiểm soát chặt chẽ (bởi nhà vua, các quy chế, bộ Lại và chế độ khảo khóa). Đầu thời Lê sơ, các công thần chủ yếu là quan võ (tham gia từ đầu cuộc khởi nghĩa), sau dần dần chuyển sang các quan văn (những người đỗ đại khoa). Với việc mở rộng khoa cử, các Nho sĩ trí thức bình dân đã có điều kiện tham gia chính quyền, tạo nên sự bình đẳng tiến thân. 

            Về văn hóa: Chính việc trọng người hiền tài cũng như nền giáo dục khoa bảng phát triển vào thời Lê sơ đã đào tạo được đội ngũ nhân tài đáng kể cho đất nước. Họ chính là chủ nhân của dòng văn hóa bác học, có đóng góp nhiều cho văn hóa dân tộc ở các lĩnh vực văn học, sử học, địa lý học, toán học, y học… như các công trình Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Việt giám thông khảo của Vũ Quỳnh,Thiên Nam ngữ lục của Đỗ Nhuận, Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên, Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực, Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh …

            Thiết nghĩ, những tư tưởng trọng hiền tài thời Lê Sơ cũng vẫn là những viên ngọc sáng, chắc hẳn sẽ tồn tại mãi với thời gian và góp phần tích cực vào trong quá trình xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo của nước nhà nói chung và Thăng Long- Hà Nội nói riêng trong thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, tiến đến thời kỳ kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu.

2.3.5. Ba nhà văn hóa xuất sắc: Lê Thánh Tông, Phan Phu Tiên, Lương Thế Vinh

Nhân tài thời Lê Sơ thật đông đảo. Tổng tập văn học Việt Nam, bộ hợp tuyển thơ văn đồ sộ và tương đối đầy đủ từ trước tới nay (42 tập, hơn 30.000 trang in), xuất bản năm 2000 - trong tập 4 nói về văn học thời Lê Sơ - đã dành hơn một nghìn trang để giới thiệu và trích dẫn nhiều trăm tác phẩm của hơn 50 tác giả.

Trong cái rừng văn sầm uất ấy nổi bật lên tên tuổi và tài năng của Nguyễn Trãi, bên cạnh ba nhà văn hóa lớn: một ông vua và hai nhà bác học.

Lê Thánh Tông (1442-1497) lên ngôi năm 19 tuổi, rồi trị vì suốt 38 năm và chỉ thọ 56 tuổi, nhưng đã để lại cho đời một sự nghiệp văn hóa to tát hiếm thấy:

31

Page 32: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

- Đã chủ trì biên soạn bộ luật Hồng Đức, cùng nhiều bộ sách quý báu như bộ Thiên Nam dự hạ tập (hàng trăm quyển), bộ Đại Việt sử ký toàn thư (24 quyển) là hai bộ sách lớn đầu tiên trong kho tàng thư tịch cổ Việt Nam;

- Đã quan tâm nhiều đến giáo dục và thi cử nên cho tổ chức tổng cộng 12 khoa thi hội, chọn được 501 tiến sĩ, trong đó có 9 trạng nguyên;

- Đã nghĩ ra nhiều thuần phong mỹ tục văn hóa như dựng bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, đặt lệ xướng danh, tổ chức lễ vinh qui bái tổ đưa những vị tân khoa về quê hương mình đều là những biện pháp tốt đẹp đề cao người hiền tài

- Đã khuyến khích dùng văn Nôm, cổ xúy thơ Nôm, thành lập tổ chức văn học - văn hóa lớn đầu tiên của thời đại quân chủ là Hội Tao Đàn do chính vua làm chủ soái;

- Đã sáng tác rất dồi dào và quan tâm tới nhiều thể loại ; thơ văn của vua có mặt trong nhiều công trình tập thể lớn như Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Lê triều danh nhân thi tập;

- Trong sự nghiệp của vua, đáng chú ý hơn cả là bài phú Lam Sơn lương thủy và tập truyện ký Thánh Tông di thảo (chữ Hán), bài văn Nôm Mười giới cô hồn và nhiều áng thơ Nôm khác thắm đượm tình tự dân tộc.

Nhà văn hóa Phan Phu Tiên là một nhà bác học thực thụ. Chưa rõ năm sinh năm mất, chỉ biết ông hai lần đậu tiến sĩ: vào thời Trần (1396) rồi vào đời Lê Thái Tổ (1429). Làm việc ở Quốc Tử Giám và Quốc Sử Viện từ 1445, 10 năm sau ông trở thành tổng tài (chủ biên), phụ trách việc biên soạn Đại Việt sử ký tục biên.

Nhà sử học Phan Phu Tiên cũng có một cống hiến lớn về nghiên cứu văn học, do đã biên soạn Việt âm thi tập, bộ hợp tuyển thơ văn đầu tiên ở nước ta. Ông còn quan tâm tới thực vật học và y dược học nên đã viết Bản thảo thực vật toản yếu.

Thơ của Phan Phu Tiên chỉ còn lại ba bài chép trong Toàn Việt thi lục: một bài đề tặng Nguyễn Trãi mà ông gọi là "bậc tiên tri tiên giác", bài thứ hai khuyên thanh niên hãy dốc sức học tập vì học vấn xưa nay vẫn là "bậc cấp để bước lên ngôi nhà lớn của đời người", bài thứ ba nói lên chí hướng cao đẹp của nhà nho Phan Phu Tiên chỉ nghĩ tới trách nhiệm và nghĩa vụ, không hề nghĩ tới cá nhân.

Nhà văn hóa Lương Thế Vinh cũng xứng đáng được gọi là nhà bác học. Sinh năm 1442 (chưa rõ năm mất), từng nổi tiếng là thần đồng, ông đậu trạng nguyên năm 21 tuổi, rồi làm việc tại Viện Hàn Lâm, chuyên soạn các công văn bang giao với triều Minh. Việc làm này của ông đã có tiếng vang ra tận cõi ngoài. Lê Quí Đôn từng khen ông là "con

32

Page 33: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

người tài hoa, danh vọng tột bực", còn Phan Huy Chú cho biết "ông ham đọc sách, học vấn rộng rãi, từng là sái phu của Hội Tao Đàn".

Sự nghiệp của ông gồm chủ yếu những bài thơ đoạn văn xướng họa với vua quan trong triều và những trước tác thuộc nhiều lãnh vực như Đại thành toán pháp (phép toán tổng hợp), Thiền môn giáo khoa (sách giảng dạy đạo Phật dùng nơi cửa Thiền) ... Đặc biệt đáng khen là Hí phường phả lục (ghi chép phả ký của phường trò) viết năm 1501, là công trình nghiên cứu lý luận sớm nhất ở nước ta về hát chèo, một nghệ thuật sân khấu dân gian quý báu của dân tộc mà đương thời triều đình sính Tống Nho có thái độ kỳ thị, coi rẻ, còn ông thì can đảm trọng thị và đề cao .

2.4. Luật pháp

Về luật pháp, Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.

Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua và hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị địa chủ phong kiến. Đặc biệt bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ

Do các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam đều có tên gọi là Quốc triều hình luật nên người ta vẫn quen gọi là Luật Hồng Đức mặc dù nó không phải là tên gọi chính thức.

Nó có thể coi là bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như: Lĩnh vực luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân-gia đình, luật hành chính…

Giống như các bộ luật phong kiến khác, luật Hồng Đức thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và gia đình gia trưởng phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo. Tuy vậy, không thể phủ nhận các điểm đặc sắc và tiến bộ của nó.

33

Page 34: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Luật Hồng Đức tiếp thụ nhiều thành tựu lập pháp của Trung Hoa, chịu ảnh hưởng của cả luật pháp nhà Đường và nhà Minh. Tuy vậy, nó có những điểm không giống với các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc cả về nội dung lẫn bố cục.

Về bố cục, bộ Đường luật có 500 điều chia thành 12 chương (Danh lệ, Vệ cấm, Chức chế, Hộ hôn, Khai khố, Thiện hưng, Đạo tặc, Đấu tụng, Trá ngụy, Tạp luật, Bộ vong, Đoán ngục) trong 30 quyển. Có thể thấy, trong luật Hồng Đức các quy định về các nhóm tội tình dục và các vấn đề ruộng đất được quy định riêng biệt và cụ thể hơn.

Về nội dung, các quy định về hôn nhân-gia đình, điền sản của luật Hồng Đức được chú trọng hơn so với Đường luật (quy định cụ thể về văn tự, chúc thư, chế độ và phương thức chia thừa kế, tài sản của vợ-chồng khi góa bụa v.v). Chính vì thế, sau này các tòa án thời Pháp thuộc hay Tòa thượng thẩm Sài Gòn thời Việt Nam Cộng hòa hay dựa trên các quy định này của luật Hồng Đức để phân xử các vụ kiện tụng liên quan tới tài sản vợ-chồng.

So với bộ Hoàng Việt luật lệ (hay luật Gia Long) (năm 1811) ra đời sau hàng thế kỷ, có thể thấy luật Hồng Đức chưa có tính khái quát hóa cao và phân ngành rõ như Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên, mức độ bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong luật Hồng Đức lại cao hơn so với Hoàng Việt luật lệ. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi nhận xét về Hoàng Việt luật lệ: "Bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng."

Ngoài ra, Luật Hồng Đức còn được đánh giá là nhẹ hơn các triều đại trước và nhẹ hơn luật của nhà Nguyễn sau này, có cả sự phân biệt trừng phạt người phạm tội còn nhỏ tuổi hoặc tàn tật.

Điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là nó có một bước tiến khá căn bản trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng chết) và họ có quyền thừa kế như nam giới.

Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam. Ví dụ: Điều 1 qui định trượng hình chỉ đàn ông phải chịu: “Từ 60 cho đến 100 trượng, chia làm 5 bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng, tuỳ theo tội mà thêm bớt. Xử tội này có thể cùng với tội lưu, tội đồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ đàn ông phải chịu.” Điều 680: "Đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đang có thai, thì

34

Page 35: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi , nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình, thì ngục quan và ngục lại bị tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100 ngày mà không đem hành hình, thì ngục quan hay ngục lại bị tội biếm hay tội phạt”..

Điểm thứ ba, nó thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt rất nặng các tội như phá hoại đê điều (điều 596), chặt phá cây cối và lúa má của người khác (điều 601), tự tiện giết trâu ngựa (điều 580) v.v Những điều luật trong Quốc Triều Hình Luật đã xác định trách nhiệm của nhà nước thông qua trách nhiệm của hệ thống quan lại nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người nghèo khổ trong xã hội (Điều 294; Điều 295).

Điểm thứ tư, luật Hồng Đức có nhiều qui định thể hiện tính chất nhân đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo vệ dân thường. Ví dụ: Điều 17 Quốc Triều Hình Luật qui định: "Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi già cả tàn tật mới bị phát giác thì xử theo luật già cả tàn tật.Khi ở nơi bị đồ thì già cả tàn tật cũng thế. Khi còn bé nhỏ phạm tội đến khi lớn mới phát giác thì xử tội theo luật lúc còn nhỏ“. Quốc Triều Hình Luật còn thể hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội tuy chưa bị phát giác và tự thú trước (trừ phạm tội thập ác hoặc giết người). Điều 18 và điều 19: "Phàm ăn trộm tài vặt của người sau lại tự thú với người mất của thì cũng coi như là thú ở cửa quan". Điều 21, 22, 23, 24 của Quốc Triều Hình Luật quy định cho chuộc tội bằng tiền (trừ hình phạt đánh roi vì cho rằng đánh roi có tính chất răn bảo dạy dỗ nên không phải cho chuộc).

Điểm thứ năm, luật Hồng Đức vừa tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Ví dụ: Điều 40: “Những người miền thượng du (miền núi, miền đồng bào dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội.”. Có thể nói đây là một trong những điều luật thể hiện rõ nhất tính sáng tạo của nhà làm luật. Điểm thú vị của quy định này ở chỗ luật pháp dù có hoàn bị đến đâu cũng không thể phủ nhận hoặc thay thế hoàn toàn vai trò của phong tục tập quán vốn dĩ đã tồn tại lâu dài trước cả khi có luật.

2.5. Xã hội

Những sự kiện lớn về chính trị, kinh tế của thế kỉ XV đã làm thay đổi ít nhiều cấu tạo giai cấp trong xã hội. Hai giai cấp chính: địa chủ phong kiến và nông dân, ngày càng xác lập. Giai cấp địa chủ phong kiến được chia thành hai tầng lớp chính: quý tộc, quan

35

Page 36: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

chức trung cao cấp và địa chủ thường. Bộ phận quý tộc dòng họ vua, tuy được ban cấp nhiều ruộng đất thế nghiệp vẫn không cấu thành một lực lượng có điền trang và thế lực chính trị ở địa phương. Một số lớn công thần khai quốc được ban họ vua (quốc tính) song không hình thành một lớp quý tộc. Sang thời Thánh Tông, họ dần dần trở lại với họ gốc của mình. Các quan lại trung, cao cấp do được ban nhiều ruộng lộc mà trở thành địa chủ, song không cách biệt với các địa chủ thường hoặc nhân dân và phần lớn xuất thân khoa cử. Trong lúc đó, tầng lớp địa chủ thường hầu như rải ra ở các làng, xã, dần dần trở thành những người chủ về mọi mặt.

 Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số cư dân, sống chủ yếu ở các làng xã, bao gồm nông dân tư hữu, tá điền và một ít nông nô. Phần lớn nông dân được chia ruộng công, cày cấy sinh sống, làm nghĩa vụ cho nhà nước và ít nhiều được học hành.

Bấy giờ ruộng thượng đẳng nộp thuế cho nhà nước 60 thăng thóc và 6 tiền/mẫu.

 Ruộng trung đẳng nộp thuế cho nhà nước 40 thăng thóc và 4 tiền/mẫu. Ruộng hạ đẳng nộp thuế cho nhà nước 20 thăng thóc và 3 tiền/mẫu (1 thăng = l,2 - l,4 kg)

Thuế nhân đinh: 8 tiền - 1 quan 2 tiền/năm.

Được sự cho phép của nhà nước, những nông dân nghèo, không ruộng đất có thể họp nhau đi khai hoang xây dựng làng xóm, đồng ruộng mới.

Đất đai khai phá được, họ chia nhau làm ruộng tư (bấy giờ nhà nước chưa đánh thuế ruộng tư), dành một phần làm ruộng công nộp thuế.

Tầng lớp thợ thủ công và thương nhân ngày càng đông hơn nhưng chưa trở thành một lực lượng lớn mạnh. Họ bị xem là những kẻ “bỏ gốc”, theo “ngọn”, ngoại trừ dân các làng thủ công chuyên nghiệp hoặc dân phường ở Thăng Long. Trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông có câu nói về thương nhân:

Lừa đảo lọ xem nào có khác

Người ta lại bán được người ta.

Nô tì vẫn còn là một tầng lớp đáng kể trong xã hội. Số đông trong họ là người Hoa hoặc các dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô hoặc bức dân đinh tự do làm nô tì.

Điều 168 của ''Lê triều hình luật” quy định: vương công, thế gia tự tiện thích chữ vào dân đinh làm gia nô (sung công, thu danh tịch cũng vậy) một người thì xử biếm 3 tư,

36

Page 37: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

nếu là quan nhất, phị phẩm trở lên thì phạt tiền 100 quan, cứ 3 người tăng 1 bậc, tội chỉ đến biếm 5 tư, phạt tiền 500 quan".

Cuộc đấu tranh của nô tì (bỏ trốn) và các lệnh cấm bắt, mua bán người thiểu số làm nô đã giảm dần số lượng nô tì và cuối cùng xóa bỏ nó.

Nhờ sự nỗ lực của nhân dân và nhà nước, nền kinh tế nhanh chóng được phục hồi rồi phát triển. Dân số ngày càng tăng, nhà nước đã cho phép các làng có trên 500 hộ có thể tách ra, thành lập thêm làng mới. Tất nhiên, gió bão, hạn hán, mất mùa đói kém là những tai họa tự nhiên không tránh khỏi nhưng theo ghì chép của sử cũ, số lượng không nhiều. Cuộc sống của nhân dân nói chung ổn định, thanh bình. Nền độc lập và thống nhất của nước Đại Việt được củng cố và có thể nói, bấy giờ Đại Việt là nước cường thịnh nhất của cả khu vực nam Trung Quốc.

Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân dân được ổn định dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thành lập. Các nhà nghiên cứu Việt Nam tự nhận Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á

2.6. Nghệ thuật

2.6.1. Văn học

2.6.1.1. Khái quát

Các thể loại văn học chính thời kỳ này gồm thơ, phú, chiếu, biểu, văn bia, truyện ký, cáo, chính luận. Lực lượng sáng tác thời Lê sơ khá hùng hậu và thành tựu sáng tác cũng rất lớn, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn học thời phong kiến của Việt Nam.

Nội dung văn học thời kỳ này khá phong phú, phản ánh đa dạng đời sống chính trị, xã hội, tinh thần.

2.6.1.2. Tác gia và tác phẩm tiêu biểu

Thời kỳ đầu

Nguyễn Trãi được xem là tác gia quan trọng hàng đầu của văn học thời Lê sơ. Những tác phẩm được truyền tụng nhiều nhất của ông gồm có:

37

Page 38: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Bình Ngô đại cáo: viết tháng 3 năm 1427, thuật lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - quá trình đánh đuổi quân Minh, giành lại độc lập cho nước Đại Việt. Tác phẩm này được coi là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 trong lịch sử Việt Nam.

Quân trung từ mệnh tập: Là tác phẩm văn xuôi do Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết trong màn trướng từ năm 1423 đến 1427, phần lớn là thư từ gửi cho tướng lĩnh nhà Minh trong thời gian chiến tranh và các biểu, dụ. Tổng số còn sưu tầm được đến nay là 69 bài.

Ức Trai thi tập: tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, hiện còn lại 99 bài.

Quốc âm thi tập: Tập thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi, hiện còn 254 bài. Đây là tập thơ Nôm cổ nhất và cũng là mốc đánh dấu bước phát triển của chữ Nôm thế kỷ 15.

Nguyễn Mộng Tuân cũng là nhà văn nổi tiếng đương thời. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là Hạ thừa chỉ Ức Trai tân cư (Mừng nhà mới của quan thừa chỉ Ức Trai) và Chí Linh sơn phú (Phú núi Chí Linh)

Lý Tử Tấn có tập thơ Chuyết Am, trong đó nổi tiếng nhất là Đề Ức Trai bích (đề thơ trên vách nhà Ức Trai).

Thời kỳ sau

Sang nửa sau thời Lê sơ, dưới triều Lê Thánh Tông, văn học Đại Việt có bước phát triển mới. Chính vua Lê Thánh Tông là đại diện tiêu biểu nhất của giai đoạn này.

Lê Thánh Tông

Các tập thơ chữ Hán: Anh hoa hiếu trị (xướng hoạ với con các đại thần khi về thăm Lam Kinh), Chinh Tây kỷ hành (viết trên đường đánh Chiêm Thành năm 1471), Minh lương cẩm tú (xướng hoạ với các văn thần), Quỳnh uyển cửu ca (xướng hoạ với các văn nhân trong hội Tao Đàn), Xuân Vân thi tập(năm 1496), Châu cơ thắng thưởng, Văn minh cổ suý, Cổ kim cung từ thi tập

Lam Sơn Lương thuỷ phú (bài phú miêu tả vẻ đẹp của núi Lam và sông Lương và công trạng của khởi nghĩa Lam Sơn)

Thơ chữ Nôm: Hồng Đức quốc âm thi tập, và một số bài trong Lê triều danh nhân thi tập

Ngô Chi Lan là nữ nhà thơ, mang bản sắc riêng, không khuôn sáo, gò ép, đẹp cả ý và lời, thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cảnh vật với những chi tiết chân thực

38

Page 39: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

của đời sống và có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời và con người. Có thể coi bà là nhà thơ nữ đầu tiên có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam.

Thái Thuận là nhà thơ trữ tình, có tiếng thời Hồng Đức, tác phẩm được các học trò sưu tầm thành Lã Đường thi tập.

Nguyễn Bảo để lại tập thơ Châu Khê tập, cũng do học trò sưu tầm sau khi ông mất.

Vũ Quỳnh và Kiều Phú: hai nhà văn có công lớn trong việc sắp xếp hiệu chỉnh lại tác phẩm Lĩnh Nam chích quái ra đời từ thời nhà Trần.

Đặng Minh Khiêm để lại tập thơ vịnh sử Việt giám định sử thi - tập thơ vịnh sử lớn đầu tiên trong văn học Việt Nam.

Ngoài các tác gia trên, còn những người có công lao sưu tầm, biên soạn các bộ thi tuyển như Phan Phu Tiên và Chu Xa kế tục nhau làm bộ thi tuyển sớm nhất ở Việt Nam gọi làViệt âm thi tập (thơ các tác giả Trần - Hồ và đầu Lê sơ gồm hơn 700 bài. Sau đó có Dương Đức Nhan soạn bộ Cổ kim chư gia tinh tuyển và Hoàng Đức Lương làm bộ Trích diễm thi tập.

Như vậy, bên cạnh thơ văn chữ Hán ít nhiều nối tiếp tinh thần dânn tộc của thời Lý - Trần, văn học chữ Nôm đã giữ một vị trí quan trọng, không chỉ các nho sĩ, quan lại sáng tác thơ Nôm mà nhà vua cũng xem chữ Nôm là một phương tiện quan trọng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình.

Tinh thần dân tộc đó cũng biểu hiện cả trong việc sưu tập thơ văn xưa, một mong muốn khẳng định "Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang".

2.6.1.3. Nguyễn Trãi Vinh quang và thảm kịch của một bậc thiên tài

Chắc nhiều người trong chúng ta còn nhớ vào năm 1980, một hội nghị quốc tế lớn tập họp đông đảo các nhà Đông phương học và Việt Nam học của nhiều nước đã được tổ chức tại Hà Nội để kỷ niệm trọng thể 600 năm sinh Nguyễn Trãi (1390-1442). Toàn thể hội nghị rất phấn khởi khi được biết hai tổ chức văn hóa lớn là UNESCO và Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới đã đồng thanh tuyên dương Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới, một vinh dự mà 15 năm trước đó (1965) giới văn hóa quốc tế cũng đã trao cho Nguyễn Du nhân kỷ niệm trọng thể 200 năm sinh của thi hào (1765-1820).

Riêng về Nguyễn Trãi, có thể công nhận rằng 45 dòng dành cho thiên tài này trong Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, tập 3, N-S, (NXB Từ Điển Bách Khoa , Hà Nội, 2003, tr. 187) đã chứa đựng những thông tin và đánh giá xác đáng. Chúng ta biết ông đã sớm vào

39

Page 40: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Lam Sơn cùng với chủ tướng Bình Định Vương Lê Lợi tham gia cuộc kháng chiến chống Minh - đặc biệt công lao ông rất lớn trong lãnh vực ngoại giao.

Về tài ngoại giao tuyệt trần của Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn ở cuối thế kỷ 18 đã đánh giá : "Nguyễn Trãi viết văn, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời đại ", còn Phan huy Chú ở đầu thế kỷ 19 thì khẳng định "Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi có sức mạnh của 10 vạn quân".

Là một thiên tài văn hóa, Nguyễn Trãi đã viết rất nhiều và rất hay từ hơn 350 bài thơ vừa Nôm vừa Hán cho tới các kiệt tác Đại Cáo Bình Ngô và Dư Địa Chí ...

Sau kháng chiến thắng lợi, ông được coi là đệ nhất công thần, được liệt vào hàng đại phu, giữ nhiều chức vụ lớn đầu triều, nhưng lại bị nhiều gian thần ganh ghét, dèm pha nên đã cáo quan về Côn Sơn ẩn dật giữa suối rừng. Năm 1439, Lê Thái Tông triệu ông trở lại triều đình để cùng chăm lo việc nước. Ba năm sau (1442), thảm kịch sảy ra.

Ông có người vợ thứ ba xinh đẹp và hay chữ là Nguyễn Thị Lộ. Chẳng may Lê Thái Tông đã chết đột ngột tại Lệ Chi viên (vườn vải) khi bà Lộ đang có mặt bên vua . Thế là những kẻ thù trong triều đình đã ghép cả đại gia đình ông vào hình phạt tru di ba họ (họ cha, họ mẹ, và họ vợ). Một nỗi oan tày trời ! Đằng đẵng 23 năm sau (1465), Nguyễn Trãi mới được Lê Thánh Tông trịnh trọng minh oan.

2.6.2. Kiến trúc

2.6.2.1. Kiến trúc cung đình:

Trong 20 năm bị giặc minh thống trị, kinh thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề. Sau khi lên ngôi Lê Lợi đả cho xây dựng lại kinh thành cho xứng đáng với tầm vóc của một nhà nước phong kiến hùng mạnh. Năm 1430 thành Thăng Long xưa được đổi tên là thành Đông Kinh để tương ứng với khu cung điện ở Lam Sơn (Thanh Hoá) thành Đông Kinh nay còn lại rất ít dấu vết. Trên đất Hà Nội còn giữ lại được bốn thành bậc cửa điện Kính Thiên, thành bậc cửa đàn Nam Giao và một số di vật khác ở khu Lam Kinh (Thanh Hoá)

Điện Kính Thiên là công trình chính trong thành Đông Kinh thời Lê đây là nơi coi trầu bàn việc nước. Ngày nay căn cứ trên kích thước thành bậc cửa còn lai giúp chúng ta hình dung ra quy mô của điện cung như của kinh thành xưa. Thành bậc cửa điện Kính Thiên có chiều cao 13,7m chiều rộng 4,45m và chiều cao 2,1m. Đây là tác phẩm nghệ

40

Page 41: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

thuật điêu khắc bằng đá của thời Lê Sơ có niên đại xác định năm 1467. Ngoài ra còn có cung điện Lam Kinh - là nơi tụ họp sinh sống của họ hàng thân thích nhà vua giống như phủ Thiên Trường thời Trần. Theo sử sách để lại, điện Lam Kinh có kích thước 315x256(m), được xây dựng theo đồ án gần như một hình chữ nhật. Bởi vì cạnh phía sau của điện lại được tạo bởi một đường cong. Toàn bộ điện lam kinh gồm ba lớp nền cao dần trên triền đồi. Lớp nền thứ nhất gồm cổng ngoài, hồ. Cổng trong và sân điện. Cổng trong có mặt bằng hình vuông cạnh 15m. Điện chính nằm ở lớp nền thứ hai gồm có ba ngôi nhà bố cục theo kiểu chữ công. Lớp nền thứ ba còn lại dấu vết của chín nền nhỏ xếp theo hình vòng cung ôm lấy điện Lam Kinh. Phía sau cũng còn thấy dấu vết của giếng nước. Qua sử sách ta còn được biết, ngoài các công trình kể trên , còn có các công trình kiến trúc như Thái Miếu, Nhà ở của các quan....

2.6.2.2 . Kiến trúc tôn giáo:

Kiến trúc chùa tháp: do phật giáo bị hạn chế nên các chùa mới không được dựng thêm nhiều, nhưng việc trùng tu các chùa củ vẩn được duy trì. Năm 1434, chùa Bảo Thiên nổi tiếng từ thời Lý, Trần được xây dựng lại. Một số công trình khác như chùa Thanh Đàm, Chiêu Đô, Minh Độ, chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) được tu sửa mở rộng.Chùa Thầy được sửa lại năm 1499.... Trong các làng xã, dân làng cũng góp tiền để tu bổ chùa, phật điện của làng mình như chùa Bối Khê, chùa Quang Kháng, Minh Khánh (1515).... Chùa Keo ở huyện Vũ Thủ, Thái Bình là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc phật giáo. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lí. Sau đó được tu sửa lớn vào đầu thế kỷ XVII. Toàn bộ khu chùa gồm 154 gian (hiện còn 128 gian). Có tường bao quanh bốn phía. Bên trong là các công trình kiến trúc nối tiếp nhau trên đường trục: Tam Quan Nội- Khu Tam Bảo thờ phật, khu điện thờ thánh,cuối cùng là gác chuông. Những công trình này có độ gấp mái liên tiếp với độ cao tăng dần và cao nhất là gác chuông bốn tầng cao 12 m.

Gác chuông Chùa Keo là một công trình kiến trúc bằng gỗ tiêu biểu, có cách lắp ráp, kết cấu vưà chính xác, vừa đẹp về hình dáng, xứng đáng là công trình kiến trúc nổi tiếng của nền nghệ thuật cổ Việt Nam.

Kiến trúc đền miếu để phục vụ cho nhu cầu thờ thần, thánh và các anh hùng dân tộc, nhà Lê đã ban hành sắc lệnh duy trì đền miếu thờ xâydựng từ các thời kỳ truớc. Ngoài ra nhà Lê còn cho xây dựng đền miếu nhiều nơi trong nước. Từ đền miếu thờ, những người có công với đất nước như Ngô Quyền, Phùng Hưng, Trần Hưng Đạo.... Cho đến những tấm gương trung quân ái quốc, các anh hùng liệt nữ cũng được xây dựng miếu thờ cúng.

41

Page 42: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Đến thời Lê Sơ, Nho giáo đã thắng thế. Vì vậy bên cạnh việc tu sửa, trùng tu các công trình kiến trúc phật giáo,các đền miếu thờ, kiến trúc nho giáo cũng được chú ý xây dựng. Miếu thờ Khổng Tử và học trò giỏi của ông được xây dựng ở Thăng Long ở thời Lí nay cũng được mở mang vào những năm 1483, 1484, 1511. Các điện sáng nho, hai nhà bia.... Được xây dựng hoặc làm mới vào thời Lê Sơ. Tượng phật Bà Quan Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay(chùa bút tháp ở Bắc Ninh) bằng gỗ, được tạc vào năm 1656 là pho tượng đẹp nhất trong số các pho tượng quan âm cổ ở Việt Nam.

Đây là tượng đức phật với 42 tay lớn và 952 tay nhỏ toạ lạc trên toà sen cao 2m(cả bệ cao 3,7m).Tượng đá được các nghệ nhân xưa thể hiện bằng nghệ thuật điêu luyện, kỷ thuật tinh sảo diển tả vẽ đẹp tự nhiên, hài hoà thuận mắt. Tượng thể hiện tư thế thiền định các cánh tay đưa lên trông như đoá sen đang nở. Vòng ngoài là những tay nhỏ(trong mỗi lòng bàn tay có một con mắt) tạo thành vòng hào quang toả sáng xung quanh pho tượng. Toàn bộ tượng là một thể thống nhất trong cách diễn tả đường nét và hình khối khiên cho tác phẩm tránh được sự đơn điệu của phần lớn các pho tuợng phật.Đến ngày nay, các công trình kiến trúc thời Lê như Văn Miếu cũng đã được sửa chữa nhiều lần bởi vây mà quy mô vá cấu trúc mặt bằng cũng được thay đồi. Phần lớn các công trình văn miếu ta thấy ở ngày nay được làm cuối thế kỷ XVIII và thời Nguyễn gần đây nhất, năm 2000, nhà nước đã cho tu sửa và làm lại nhà thái học trong khu văn miếu- Quốc Tử Giám với mục đích tìm lại vẻ đẹp hoàn thiện cho một khu di tích lịch sử nghệ thuật của Thăng Long ngàn năm văn hiến và khơi dậy truyền thống hiếu hoc của dân tộc.

2.6.2.3. Kiến trúc lăng mộ.

Các lăng mộ thời Lê sơ tập trung ở Lam Sơn . Đây vừa là quê hương của nhà Lê vừa là nơi dấy cờ khởi nghĩa lớn, ở đây có sáu ngôi mộ cổ của các vua đầu triều lê như : Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông , Lê Nhân Tông , Lê Hiến Tông , Lê Túc Túc . Ngoài ra còn có mộ của các bà Hoàng Hậu và công chúa thời Lê như mộ bà Ngô Thị Ngọc Giao, Nguyễn Thị Ngọc Huyền, công chúa Thụy Hoa.... nhưng có lẽ lăng lớn nhất ở khu Lam Kinh là lăng Lê Thái Tổ (Vĩnh Lăng).

Lăng Lê Thái Tổ được xây dựng đầu tiên và cũng là tiêu biểu cho kiến trúc lăng mộ thời Lê, lăng có kích thước 24x24,7m. Đồng thời đây cũng là lăng mộ lớn nhất trong số các lăng mộ ở Lam Kinh. đến thời Lê Sơ, lăng cũng còn rất đơn giản, quan trọng nhất là ngôi mộ đất có xây bỏ móng xung quanh. Dọc trên con đường dẫn vào mộ được sắp xếp hai dãy tượng đối xứng qua trục thần đạo. kể từ trong ra ngoài, các tượng được đặt

42

Page 43: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

theo thứ tự: quan hầu, lân, tê giác, ngựa và hổ ở ngoài cùng. Phía bên phải lăng có nhà bia Vĩnh Lăng.

Công trình này được tu sửa năm 1960 theo cách kiến trúc cũ, đến nay vẩn còn nguyên vẹn nhà bia không tường bao quanh chủ yếu là kết cấu các hàng cột chịu lực, đến mái. Toàn bộ nhà bia không xây tường bao quanh, chủ yếu là kết cấu các hàng cột chịu lực, đổ mái. Toàn bộ nhà bia có bố cục mặt bằng hình vuông, mổi cạnh 8,75m. Đây là một phần đáng kể trong kiến trúc lăng Lê Thái Tổ. Các lăng khác ở Lam Kinh đều có cấu trúc tương tự. Tuy nhiên đến nay hầu như các công trình lăng mộ không còn ngưyên vẹn, tượng đá cái thì vỡ, cái thì bị di chuyển nên không còn giữ lại được nhiều dấu vết xưa. Phần lớn các lăng khi xây dựng đều có tường bao bọc trừ lăng Lê Hiến Tông.Ngoài khu Lam Kinh, ở một số nơi khác cũng có lăng mô. Nhưng các lăng mộ này cũng có hiện trạng giống như lăng mộ ở Lam Sơn. Dấu tích của kiến trúc xưa hầu như không có gì đáng kể. Nhìn chung các lăng mộ thời Lê Sơ đã được chú ý xây dưng và quy tụ về một nơi. Tuy vậy phần lớn các lăng đều đều có kích thước nhỏ hơn so với thời trần và các thời sau. Về kiểu dáng cũng chưa có gì đặc biệt. Thành phần cấu trúc chỉ bao gồm: mộ, tượng trang trí, nhà bia. Thực sự các công trình này chỉ là nơi đặt mộ của vua hoặc hoàng hậu theo đúng tinh thần của tiến ngưỡng thờ phụng tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Lăng mộ của các vua đại việt ta thuở ấy không mang ý nghĩa thể hiện uy quyền của thiên tử như quan niệm của một số dân tộc khác ở phương tây và trên toàn thế giới. 

2.6.3. Điêu khắc

2.6.3.1 .Điêu khắc lăng mộ 

Các lăng mộ thời Lê Sơ thường trang trí bằng 10 pho tượng chia làm 5 đôi gồm: người, lân, tê giác, ngựa, hổ....ở một số lăng muộn hơn có sự thay0 đổi nhỏ:tượng voi thay cho tương hổ ,còn các tượng khác vẫn giữ nguyên .

Những pho tượng này đều nhỏ. Kích thước trung bình là 1,1 m đối với tượng người và 0,60m với tượng thú. Một đặc điểm nổi bật, dễ dàng nhận thấy là các pho tượng lăng mộ thời Lê Sơ có sự sắp xếp, bố cục và kích thước đều nhau ở các lăng mộ, bắt đẩu từ lăng Lê Lợi. Vì vậy bố cục mặt bằng,số lượng và thể loại tượng ở lăng Lê Lợi trở thành mẫu mực. Các lăng thời kì sau cứ theo thế mà làm và cũng không thể thay đổi hoặc vượt qua hình mẫu, kích thước của Vĩnh Lăng. Điều này phần nào bộc lộ tính khuôn

43

Page 44: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

thước, mẫu mực theo tinh thần nho giáo. Các lăng đều nhỏ, do đó, tượng đặt ở lăng cũng không được quá lớn. Quy mô của kiến trúc sẽ quy định quy mô, kích thước cho tác phẩm điêu khắc.

Với những pho tượng nhỏ bé như vậy, cách thể hiện cũng đơn giản, biểu hiện ở cách tạo dáng, khối, đường nét. Tỉ lệ giữa các phần chi tiết cũng chưa thật chính xác. Tuy vậy giữa tượng nọ với tượng kia có sự thay đổi để làm rõ đặc điểm của từng hình tượng. Tất cả đều được tạo ra từ một khối đá. Hoa văn trang trí trên tượng ít. Từ cách tạo hình đến đường nét trên các pho tượng phần nào bộc lộ tính dân gian. Tính chất Nho giáo có thể biểu hiện ở nội dung, ở cách chọn lựa các hình tượng, cách sắp xếp đôí xứng qua thần đạo

Nhưng tác giả của các pho tượng đó lại chính là những người thợ xuất thân từ nông dân hoăc những người lao động bình thường. Vì vậy khi làm ra các tác phẩm này họ vẫn bị chi phối bởi những quan điểm, thị hiếu thẩm mĩ dân gian. Tuy vậy tính chất này có thể thay đổi ở từng lăng, từng thời gian khác nhau. Nếu xét trên tổng thể 100 năm tồn tại của nhà Lê, phong cách có sự chuyển biến, thay đổi theo một quy luật nhất định. Thời kì đầu, điêu khắc của Lê Sơ vẫn là sự kế thừa những nét tinh hoa của mĩ thuật Lý, Trần. Điều này thể hiện rõ trong điêu khắc ở lăng Lê Thái Tổ. Lăng Lê Thái Tông làm năm 1442 và phong cách điêu khắc ở lăng này biểu hiện sự chuyển tiếp từ Lý, Trần sang Lê tuy chưa rõ nét. Có thể nói, phong cách điêu khắc Lê Sơ đã thể hiện rõ bắt đầu từ thời Lê Thánh Tông

Đây cũng chính là thời kì phát triển cực thịnh của phong kiến Lê Sơ. Có lẽ vì thế mà các tác phẩm thời kì này được thể hiện với phong cách hoa mĩ, nuột nà,cầu kì hơn nhiều điêu khắc thời trước đó. Tính dân gian giảm dần, ngược lại tính chính thống thể hiện rõ hơn trong tác phẳm. Mặc dù vậy, thời gian trôi qua, điêu khắc Lê Sơ đã để lại một phong cách riêng biệt thể hiện trên các tác phẩm còn lại đến ngày nay.phong cách đó tạo mạch nối liền quá trình phát triển của mĩ thuật dân tộc. Giá trị của nó chính là được thừa kế và phát triển trên truyền thống và cơ sở dân gian hình thành từ các các thời kì trước. Đó là sự mềm mại, tinh tế trong đường nét, chặt chẽ, khái quát và mang tính biểu tượng, tượng trưng cao trong bố cục các hình tượng nghệ thuật của các tác phẩm điêu khắc. Một trong những tác phẩm điển hình là bia Vĩnh Lăng. Đây là một tấm bia đá tương đối lớn, còn nguyên vẹn. Bia được đặt trên lưng một tượng rùa có kích thước tương đương. Bia Vĩnh Lăng cao 2,80m, rộng 1,92m và dày 0,27m. Trong khi đó tượng rùa cao 0,80m, dài 3,58m và rộng 1,94m. Điều đáng chú ý là các tác giả thời Lê Sơ đã ghép được bia vào tượng rùa bằng một kĩ thuật đặc biệt. Vì vậy suốt bao nhiêu năm tồn tại, bia lăng mộ vẫn được gắn vững chãi với bệ rùa trông như tác phẩm bia và thần rùa được tạo ra từ một khối đá lớn. Trang trí trên bia Vĩnh Lăng vẫn được làm theo truyền thống xưa. Viền bia

44

Page 45: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

đươc trang trí bằng hình tượng con rồng bố cục trong nửa lá đề nối tiếp nhau giống như thời Lý. Vũ cơ bản hình tượng rồng trên bia Lăng Vĩnh có nhiều đặc điểm giống rồng thời Lý, Trần. Cũng những khúc uốn thoăn thoắt, nhịp nhàng, cũng hình lá thiêng bốc lên như ngọn lửa....

Nhưng nếu đi vào chi tiết thật kĩ lưỡng cũng nhận thấy nhiều sự thay đổi. Ở đây không thấy cái đẹp về tỉ lệ như rồng Lý, các nét uốn cũng không tinh xảo, điêu luyện và thiếu sự đều đặn, uyển chuyển. Tuy vậy những hình tượng đó vẫn giữ được nét cơ bản về tinh thần của rồng Lý và Trần. Hay nói cách khác con rồng vẫn là một mô típ, một hoa văn trang trí được tạo bởi trí tưọng tượng phong phú và đậm chất triết lý của cha ông ta. Trên trán bia Vĩnh Lăng ta bắt gặp mô típ rồng chầu rồng. Đây là một mô típ quen thụôc của thời Lê Sơ thể hiện một đặc điểm về đề tài trang trí giữa trán bia là một hình vuông, trong là hình tròn và trung tâm là con rồng được sắp xếp bố cục cân đối, chặt chẽ.ở đây ta gặp một số khái niệm: vuông, tròn và con rồng. Liệu các tác giả làm nghệ thuật điêu khắc này đã suy nghĩ gì khi tạo ra một mô típ trang trí đẹp và mang nhiều ý nghĩa như hình trên. Vuông, tròn ở đây liệu có phải giống như quan niệm của dân tộc ta về trời đất, vũ trụ. Và trung tâm của trời đất, vũ trụ ấy chính là ông vua đươc biểu hiện qua hình tượng con rồng. Hình tượng con rồng ở đây đã có cách tạo hình khách với thời Lý, Trần: Từ khúc uốn văn vỏ đỗ, đến các chi tiết như vây, sừng, chân, móng.... tất cả tạo nên sự uy nghiêm, bề thế cho hình tượng rồng. Hình vuông, hình tròn và con rồng được "đặt" trên nền của hoa văn mây hình nấm linh chi, sắp xếp cân đối và thoáng, hoạt ở các góc. Các bia ở lăng Lê Thánh Tông (1498), lăng bà hoàng Ngô Thị Ngọc Giao và lăng Lê Hiến Tông (1505) không còn vẻ đẹp chân thực, sống động và thoáng đạt như bia Vĩnh Lăng nữa. Thay vào đó là sự dày đặc, cầu kỳ về đường nét và cách tạo hình. Đường nét thì sắc nhọn, dứt khoát. Bố cục thì cầu kì, rối mắt, cái đẹp có vẻ trau chuốt, tỉ mỉ. Trên toàn bộ trán và diềm bia đươc trang trí bằng hình tượng rồng. Từ thời Lê Thánh Tông, con rồng được thể hiện mang đặc điểm của rồng thời Lê Sơ. Có thể nói nó đã thoát ra khỏi hình dáng, cách biểu hiện của rồng thời Lý, Trần và xứng đáng tiêu biểu, bôc lộ rõ đặc điểm phong cách rồng thời Lê Sơ. Đó là vẻ đẹp sống động, tự nhiên, hiện thực, khoẻ mạnh và dữ tợn hơn. Đến đây con rồng đã trở thành một biểu tượng văn hoá, tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền của vua. Vì vậy có thể nói điều này phần nào do ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo. Những đường nét mềm mại, cân đối được thay bằng những đường nét sắc, nhọn, mạnh mẽ. Ngoài mô típ rồng chầu rồng, ta còn gặp nhiều mô típ rồng chầu khác như rồng chầu chữ phật, rồng chầu mặt trời, rồng chầu lá đề.... tuy vậy, những mô típ trang trí kể trên không có trên trang trí bia ở lăng mộ, mà chủ yếu là trên bia ở chùa, các tiến sĩ ở Văn Miếu lại không trang trí hình rồng mà chỉ co hình mặt trời, mây, hoa lá và sóng nước .

45

Page 46: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Ngay cả kích thước các bia ở Văn Miếu cũng nhỏ hơn lăng các vua và hoàng hậu. Như vậy ta thấy có một sự quy định rõ ràng của hình tượng rồng trong thời kì Lê Sơ. Từ sự quy định này cho thấy sự phân chia đẳng cấp theo tinh thần Nho giáo được thể hiện khá rõ ràng trong nghệ thuật. Hình tượng con rồng không chỉ là một hình tượng được tạo ra do trí tưởng tương phong phú, bay bổng của cha ông ta về môt con vật thiêng nữa. Nó đã thực sự tượng trưng cho vương quyền mà không dành cho những nơi dân dã bình thường. Kể cả ở Văn Miếu, nơi thờ Khổng Tử cũng không vi phạm quy định này. Ngoài hoa văn hình rồng tiêu biểu, trong chạm khắc thời Lê Sơ còn có môt số đề tài khác như: Hoa văn hoa thị bốn mùa, sóng nước, mây, hình nấm linh chi, hoa sen....tất cả đều được thể hiện khác với các hoa văn cùng loại của thời kì Lý, Trần.

Biểu hiện đó là hoa văn sóng nước. Hoa văn sóng nước thường được chạm ở diềm, chân bia. Ở bia Vĩnh Long vẫn là sóng nước hình núi nhưng cao hơn và nhiều đường song song hơn. Ở mặt bên bia ở lăng bà hoàng Ngô Thị Ngọc Giao lại là sang nước trường và sang bạc đầu. Phía sau lại trồi cao như ba ngọn núi, phía trên là hoa văn mây bay thành dải. Đây là hình thức sóng nước đặc biệt của thời Lê Sơ 

   2.6.3.2. Chạm khắc trang trí

Chạm khắc trang trí thời Lê rất tinh xảo. Các thành bậc bằng đá, bia đá đều được chạm khắc 

Cảnh sinh hoạt của nhân dân như các cảnh đấu vật, đánh cờ, trai gái vui đùa, chèo thuyền, uống ruợu.... được chạm khắc trên gỗ ở các đình làng. Các dòng tranh khắc gỗ Đông Hồ, Hàng Trổ nga đời đã tạo ra những bức tranh dân gian đặc sắc,trở thành tài san quý giá trong kho tàng nghệ thuật dân tộc.

Thời Lê có nhiều bia đá được chạm khắc nổi, trang trí hình rồng bên cạnh các hoạ tiêt sóng, nước, hoa, lá....

Trên lăng vua Lê Thái Tổ, ở cảc hai mặt trên bán bia được chạm khác hàng chục hình rồng lớn nhỏ.Sự hiện hình rồng thời Lý-Trần đã đạt đến mức hoàn chỉnh.Nhìn chung, hình rồng trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam cho đến nửa đầu thời Lê vẫn là hình rồng có đặc điểm rất riêng. Còn ở nửa sau thời Lê, hình dáng của rồng mạnh mẽ gần như trở thành hình mẫu chủ yếu của nghệ thuât thời Lê.

2.6.3.3. Nghệ Thuật Gốm.

Đồ gốm thời Lê kế thừa tinh hoa của nghệ thuật gốm thời Lý-Trần nhưng có nét độc đáo mang đậm chất dân gian

46

Page 47: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Gốm thời Lê vừa có nét trau chuốt khoẻ khoắn trong nét tạo dáng, vừa có các hoạ tiết được thể hiện theo phong cách hiện thực.

2.6.3.4. Tượng Rồng ở Thành Bậc Cửa Điện Kinh Thiên.

Đây là những tác phâm điêu khắc đá của thời Lê Sơ còn lại khá nguyên vẹn.Thành bậc cửa được chạm hinh tượng rồng bò xoài theo chín bậc cấp, đầu rồng nhô cao, các chi tiết trên đầu rồng được thể hiện rõ ràng: Bờm tóc mượt, mềm mại chảy về phía sau, kết hợp với các khúc uốn đều đặn tạo ra vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng rồng. Các hoa văn được diễn đạt với đường nét chạm điêu luyện, tinh tế. Hình được cách điệu cao với nhiều nét cong xoắn nhịp nhàng, cân đối, bố cục hình chặt chẽ, tỷ lệ giữa mảng đặc trống hợp lý tạo ra sự hài hoà về đậm nhạt. Xen lẫn hoa văn sóng nước, các nghệ nhân tạo hình Vịt cách điệu nhưng rất sống động và thể hiên rõ những đặc điêm của hình tượng.Cũng chủ đề, đề tài đó nhưng qua nét đục chạm, bàn tay tài hoa của người Việt Nam được chi đạo bởi ý thức dân tộc nên thẩm mỹ của người Việt vẫn được thể hiện rõ nét. Phong cách Lê Sơ có thể nói bắt đầu định hình rõ nét trên các tác phẩm của thời kì Lê Thánh Tông. Càng về cuối thời Lê Sơ phong cách đó cành bộc lộ sâu sắc.

2.6.4. Hội họa

Cũng giống như các thời kì trước, tranh của thời kì Lê Sơ hầu như không còn giữ được đến ngày nay.Việc tìm hiểu nghệ thuật qua thơ, qua sử sách lưu truyền đã trơ nên quen thuộc khi nghiên cứu về hội hoạ thời phong kiến. Hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông đứng đầu đã tập hợp nhiều văn sĩ của thời Lê Sơ. Qua nhữnh bài thơ của họ trong "Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập" có thể chứng minh cho sự có mặt của nghệ thuật hội hoạ thời Lê Sơ bên cạnh các loại hình nghệ thuật khác. Nhiều bức tranh được "xem" qua như tranh vẽ hoa mai, hoa sen....cùng với thể loại tranh phong cảnh, thời Lê còn có nhiều tranh vẽ theo đề tài ca ngợi tình bạn ,tình người tri kỷ.đó là các tranh vẽ "Bá Nha Gẩy Đàn", "Chim Núi Gọi Người"....

Đặc biệt thể loại tranh chân dung dã phát tiển từ các thế kỉ trước nay vẫn được chú trọng. Đó là tranh chân dung của những người nổi tiếng trung quân ái quốc. Đồng thời cũng là hình thức ban thưởng của vua đối với người mình yêu quý, mến mộ tài năng, đức độ. Bức tranh được nhắc đến nhiều hơn cả là tranh chân dung Nguyễn Trãi. Sau vụ án "Lệ Chi Viên" với hình thức "tru di tam tộc", Nguyễn Trãi được minh oan ở thời Hồng Đức.Vua Lê Thánh Tông sau khi minh oan cho ông, đã cho vẽ chân dung ông để lưu truyền lại đời sau, đây có lẽ là một bức chân dung vẽ theo lối tượng trưng, lí tưởng hoá và dựa trên cơ sở mô tả của những người biết về Nguyễn Trãi

47

Page 48: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

 Các nhà nghiên cứu mĩ thuật còn đưa ra một chứng minh về hình vẽ của thời Lê Sơ. Đó là những hình vẽ trên đồ gốm của thời kỳ này. Có thể nói các hình vẽ này khá phong phú về thể loại và có bút pháp rất đặc biệt.

Hình vẽ ở đây có thể là môt hình đơn lẻ, cũng có thể là một đồ án trang trí được bố cục chặt chẽ, đậm nhạt phong phú, đường nét sinh động.Thường là các dải hoa văn ngang, vòng quanh thân gốm. Thỉnh thoảng cũng có những tác phẩm gốm được trang trí chia thành các ô dọc. Mỗi ô là một đồ án trang trí như liễn gốm có đồ án hoa sen dưới đây.

Điều đáng chú ý ở đây là độ đậm nhạt thể hiện qua từng nét bút, xem hình vẽ ta có thể hình dung ra cách đặt nét bút bắt đầu từ đâu và kết thúc ở chỗ nào, căn cứ trên độ đậm nhạt của nét vẽ khi nghiên cứu các hình vẽ trên đồ gốm càng cho ta lòng tin về sự phát triển của hội hoạ thời Lê Sơ. Với tài năng sáng tạo thể hiện qua kiến thức điêu khắc đồ gốm còn lại đến ngày nay thì chúng ta tin rằng ông cha ta không thể không sáng tạo ra các tác phẩm tranh vẽ. Vì vậy cũng không thể đi sâu hơn vào loại hình nghệ thuật này.Trải qua 100 năm tồn tại lịch sử và mĩ thuật thời Lê Sơ có sự chuyển biến và phát triển theo một chiều hướng khác. Một mặt nó kế thừa những tinh hoa truyền thống trong mỹ thuật thời Lý –thời Trần. Mặt khác do sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội nên mỹ thuật Lê Sơ mang môt phong cách riêng biệt. Trong môt số tác phẩm từ thời Lê Thánh Tông về sau có nhiều ảnh hưởng của tinh thần Nho giáo. Tuy vậy phong cách nghê thuật Lê Sơ vẫn không xa rời với truyền thống dân tộc. Có thể vì tính chất chính thống Nho Giáo thể hiện ở nội dung, đề tài nhưng hình thức thể hiện vẫn mang nét chân thực, đơn giản, giàu chất sống động, hồn nhiên.

Chúng ta có thể nói mỹ thuật Lê Sơ là một dấu gạch nối giữa nguồn mỹ cảm dân gian thời Trần với những thế kỉ sau, là tiền đê cho một thời đại huy hoàng của nghệ thuật dân gian Viêt Nam với những sáng tạo kì diệu.

2.6.5. Âm nhạc

Âm nhạc cung đình

Âm nhạc cung đình chỉ chính thức xuất hiện từ thời Lê Thái Tông. Giữa ý kiến của Nguyễn Trãi và Lương Đăng, vua Thái Tông chấp nhận ý kiến của Lương Đăng. Lương Đăng được lệnh thiết kế dàn nhạc khí để sử dụng trong những dịp lễ.

Bộ nhạc khí cung đình được Lương Đăng thiết kế mô phỏng theo cách của nhà Minh, gồm có:

- Trống cái

48

Page 49: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

- Bộ khánh có 16 chiếc khánh

- Bộ chuông có 16 chiếc chuông

- Đàn cầm

- Đàn sắt

- Sinh tiêu

- Quản

- Thược: Sáo ngắn, có 3 lỗ

- Chúc: Đồ để gõ

- Ngữ: Gõ bằng dùi

- Huân: đồ nặn bằng đất, có lỗ để thổi

- Trì: thổi hoà phối với huân

- Phương hưởng: bộ 15 tấm kim loại, gõ bằng dùi đồng

- Không hầu: loại đàn cổ

- Đàn tì bà

- Quản địch: sáo cổ, dài hơn 1 thước

- Nổi tiếng nhất trong các bản nhạc cung đình thời Lê sơ là bản vũ “Bình Ngô phá trận”.

Âm nhạc dân gian

Từ đầu thời Hậu Lê đến trước năm 1437, hát chèo vẫn được biểu diễn trong sinh hoạt cung đình. Từ năm 1437, khi âm nhạc cung đình của Lương Đăng chính thức được áp dụng thì Lê Thái Tông ra lệnh bãi bỏ trò hát chèo và thôi không tấu các loại nhạc thông tục dân gian - những loại nhạc này bị triều đình gọi là “dâm nhạc”.

Tuy ra khỏi cung đình, hát chèo vẫn là thể loại âm nhạc phổ cập nhất trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân thời Lê sơ. Nhà Lê đã có những chính sách quy định khắc nghiệt với người chuyên làm nghề ca xướng như:

- Không cho con nhà ca xướng đi thi;

49

Page 50: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

- Con gái nhà ca xướng không được lấy con nhà quan;

- Nếu quan chức lấy con nhà ca xướng thì sẽ bị đánh gậy và giáng chức;

- Con cháu nhà quan lại lấy con nhà ca xướng sẽ bị đánh và bị buộc phải ly hôn

2.7. Khoa học

2.7.1. Toán học

Môn toán thời Lê Sơ được triều đình khá coi trọng. Trên thực tế, việc xây cất cung điện, đền chùa, chế tạo vũ khí cũng như làm cơ sở cho các môn khoa học khác như thiên văn học, luôn đòi hỏi phải tính toán.

Toán học thời kỳ này là toán học ứng dụng, với trình độ giải quyết các phép tính lập phương, khai bình phương, sai phân, tích phân và còn mang nhiều cách tính theo lối dân gian.

Hai nhà toán học nổi tiếng thời Lê sơ là Lương Thế Vinh và Vũ Hữu.

Lương Thế Vinh được gọi là Trạng Lường. Ông đã bỏ ra nhiều thời gian đo đạc, tính toán ruộng đất trên thực địa, rồi rút ra những quy tắc chung để truyền dạy cho đời. Tác phẩm ông để lại là Đại thành Toán pháp.

Vũ Hữu được đánh giá là nhà toán học xuất sắc nhất thế kỷ 15. Tác phẩm Lập thành toán pháp cùng phương pháp đo tính ruộng đất của ông được phổ biến ra cả nước. Có lần Vũ Hữu tính toán số gạch cần thiết để tu bổ các cổng thành Thăng Long mà số gạch vừa đủ, không thừa, không thiếu một viên nào.

Môn toán được sĩ tử theo học khá phổ biến và có sức hấp dẫn đối với nhiều người trong xã hội. Năm 1506, vua Lê Uy Mục mở kỳ thi toán ở sân điện Giảng Võ, có tới 3 vạn người tới dự thi. Triều đình lấy đỗ 1519 người, trong đó 144 người đỗ loại giỏi. Nhà Lê tổ chức thi toán 10 năm 1 lần

2.7.2. Y học

Cơ quan đứng đầu triều đình về y học là Viện Thái y chuyên lo chữa bệnh cho các thành viên trong cung đình. Đối với nhân dân, thường có các lang y ở các làng quê hành nghề chữa khám tư.

Lê Thánh Tông đề ra quy định giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm và khám nghiệm pháp y khá nghiêm ngặt trong Luật Hồng Đức. Theo quy định, các nạn nhân bị chết trên đường mà thân thể có thương tích thì quan địa phương phải cho khám nghiệm pháp y rồi

50

Page 51: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

mới được chôn cất. Đồng thời, Lê Thánh Tông còn nghiêm cấm bán thịt hoặc chế biến thức ăn từ thịt thiu thối.

Hai nhà y học nổi tiếng nhất trong thời kỳ này là Phan Phu Tiên (đồng thời là nhà sử học) và Trạng nguyên Nguyễn Trực.

Phan Phu Tiên là tác giả sách Bản thảo thực vật toản yếu. Nội dung sách bao gồm các biện pháp chữa bệnh, nhưng chú trọng đến chế độ ăn uống hơn cả. Ông kê ra hơn 400 loại thức ăn động vật và thực vật ở Đại Việt và các công dụng của các loại thức ăn đó.

Nguyễn Trực có tác phẩm để lại là Bảo anh lương phương (Phương thuốc hay để bảo vệ trẻ nhỏ) viết xong năm 1455. Nguyễn Trực đã nêu ra 5 phép khám bệnh cho trẻ em, đi sâu vào bệnh đậu mùa và liệt kê 114 vị thuốc chữa bệnh này.

2.7.3. Thiên văn, lịch pháp và thủy văn

Cơ quan phụ trách công việc này trong triều đình là Thái sử viện. Người đứng đầu Thái sử viện là Thái sử lệnh, bên dưới có Thái sử thừa, Linh đài lang, thái chức và Chưởng lịch. Sang thời Lê Thánh Tông, cơ quan này đổi gọi là Tư thiên giám, với chức năng xem diễn biến thời tiết, thấy các “điềm lành” và “tai dị” được suy luận và làm tờ tấu trình.

Quan niệm của người Việt thế kỷ 15 vẫn xem các hiện tượng gió, mưa, sương, tuyết… đều do sự vận hành của trăng sao, tức là khí hậu thuộc về môn thiên văn. Do đó công việc làm lịch, quan sát thiên văn và thủy văn vẫn được đặt chung trong một cơ quan như thời nhà Trần trước đây.

2.7.4. Người Việt ở nước ngoài

Có hai nhà khoa học lớn của Việt Nam thế kỷ 15 là Hồ Nguyên Trừng và Nguyễn An, nhưng không phục vụ được cho đất nước mà vì hoàn cảnh lịch sử đã bị bắt sang Trung Quốc, phục vụ cho nhà Minh.

Hồ Nguyên Trừng là hoàng tử nhà Hồ, anh vua Hồ Hán Thương. Ông bị bắt sang Trung Quốc khi nhà Hồ thất bại. Tại Trung Quốc, ông đã chế ra súng Thần công gồm 3 loại: đại, trung tiểu.

Nguyễn An là kiến trúc sư nổi tiếng, xây dựng nhiều công trình ở Cố Cung Bắc Kinh và hệ thống cống, đập trên sông Hoàng Hà

51

Page 52: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

2.8. Nho giáo

Các vua Lê từ Lê Thái Tổ trở đi rất sùng đạo Nho, dùng đường lối này làm tư tưởng chính thống để cai trị quốc gia.

Để tỏ sự tôn sùng Nho học, năm 1435, Lê Thái Tông sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng chọn ngày làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn Miếu. Khoa thi tiến sĩ năm Nhâm tuất (1442) được xem là mốc quan trọng xác lập vị trí độc tôn của Nho học ở Việt Nam

Sang thời Lê Thánh Tông, Nho giáo đạt tới đỉnh cao thịnh vượng. Dù vẫn để tâm tới Phật giáo và Đạo giáo nhưng tư tưởng chủ đạo của Lê Thánh Tông là Nho giáo. Lê Thánh Tông đưa Nho giáo lên vị trí hàng đầu trong đời sống văn hóa tinh thần của thời đại. Để làm đời sống tư tưởng của xã hội quy về với Nho giáo, ông đã tìm cách “làm sáng tỏ đạo thánh hiền” khiến muôn người tin theo.

Trong giáo dục và thi cử, Nho giáo chiếm nội dung chủ yếu. Để tôn vinh Nho học, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ, những người đỗ từ năm 1442 tại nhà Thái học.

Nho giáo thời Hậu Lê áp dụng theo kiểu nhà Tống, còn gọi là Tống Nho. Năm 1467, ông đặt ra chức Ngũ Kinh bác sĩ, tức là chọn người giỏi giao cho nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu về Ngũ Kinh để giảng cho học trò, truyền bá Nho giáo trong xã hội. Bản thân Thánh Tông cũng có học vấn khá cao về Nho học, ông thường cùng các quan lại bàn về Nho giáo trong lúc rỗi rãi. Ông đề cao “tam cương”: quân thần, phụ tử, phu phụ (vua tôi, cha con, vợ chồng) và chữ “hiếu”, ít bàn về phạm trù “nhân nghĩa”

2.9. Sử học

Về sử học, từ sớm nhà sử học Phan Phu Tiên đã soạn Đại Việt sứ kí tục biên gồm l0 quyển, nối tiếp Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, mở đầu với sự thành lập nhà Trần và kết thúc với việc quân Minh rút về nước (1427). Hiện nay bộ sử này đã mất.

Trên cơ sở các bộ sử cũ, tham khảo thêm Bắc sử, dã sử, các bản truyện, chí cùng những điều đã được nghe truyền, tra xét, so sánh", năm 1479 sử quan Ngô Sĩ Liên soạn Đaok Việt sử kí toàn thư gồm 15 tập, chia thành 2 phần: Ngoại kỉ chép từ họ Hồng Bàng đến 12 sứ quân (5 tập), Bản kỉ chép từ nhà Đinh đến Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (10 quyển). Cùng với hai bộ sử chính thống này, có bộ Lam Sơn thực lục" của Nguyễn Trãi ghi lại toàn bộ quá trình chiến đấu giải phóng Tổ quốc của nghĩa quân Lam Sơn, Việt

52

Page 53: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

giám thông khảo của Vũ Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung, Đại Việt lịch đại sứ kí'' và tập thơViệt giám vịnh sứ của Đặng Minh Khiêm.

Ngoài các công trình văn học, sử học còn có nhiều công trình khoa học khác rất có giá trị như: Thiên nam dư hạ tập (100 quyển) ghi lại toàn bộ chế độ, luật lệ, văn thư, điển lễ của nhà Lê (nay chỉ còn 4-5 quyển),Hoàng triều quan chế, Dư địa chí, một tập sách địa lí lịch sử do Nguyễn Trãi soạn, An nam hình thang đồcủa ĐàmVăn Lễ viết về địa lí Đại Việt, Hồng Đức bản đồ. Về y học có Bản thảo thực vật toản yếu của Phan Phu Tiên nghiên cứu về thuốc nam và cách phòng bệnh, Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực, dạy cách giữ gìn sức khỏe cho trẻ em.

2.10. Mở rộng lãnh thổ

2.10.1. Đánh Chiêm Thành

Vua Chiêm Thành là Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Năm 1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện nhà Minh, thân hành đem 10 vạnquân thủy, bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu. Viên tướng trấn giữ Hóa Châu Phạm Văn Hiển chống không nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về kinh đô Thăng Long.

Quân đội nhà Lê thời Thánh Tông đã được xây dựng rất hùng mạnh. Tháng 10 năm 1470, vua Lê Thánh Tông sai sứ đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh.và thân chinh cầm 200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành.

Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có chúa Trà Toàn. 40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận.

Bấy giờ 1 tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo Việt Nam Sử Lược, vua Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 vua: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.

Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, vua nhà Minh sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.

Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải

53

Page 54: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.

2.10.2. Đánh Bồn Man

Bồn Man, lãnh thổ gồm miền tây Nghệ An, tỉnh Hủa Phăn (Lào) và tỉnh Sơn La ngày nay, trước đây đã xin nội thuộc Đại Việt, đổi thành châu Quy Hợp dưới quyền các tù trưởng họ Cầm, sau đó đổi thành phủ Trấn Ninh, và đặt quan phủ huyện để trị vì. Nay Cầm Công, với sự giúp đỡ của người Lão Qua, bèn đánh đuổi quân Đại Việt, rồi ra quân chống giữ với quan quân.

Vua Lê Thánh Tông bèn ngự giá thân chinh, nhưng khi tới Phù Liệt, được tin quân Đại Việt thắng Lão Qua thì rút về và cử Lê Niệm đem quân đi đánh. Kết quả là những người Bồn Man ra hàng, tù trưởng là Cầm Công cũng tử trận.

Sau đó, Thánh Tông phong người họ Cầm Công và Cầm Đông làm Tuyên Úy Đại Sứ và đặt lại quan cai trị như trước, đặt vùng đất mới này là xứ Trấn Ninh.

2.10.3. Đánh Lão Qua

Năm 1479, có tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản, xúi giục người Lão Qua cầm binh quấy nhiễu miền tây Đại Việt..

Lê Thánh Tông sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia quân làm 5 đạo đi từ Nghệ An, Thanh Hóa và Hưng Hóa đánh đuổi quân Lão Qua tới sông Kim Sa giáp với Miến Điện. Quân Đại Việt toàn thắng

3. Nhận định

  Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà Hậu Lê lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương Bắc để giành lại nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững chắc 470 năm liên tục (938-1407) do các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần trước đó tạo dựng nên thành quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê tồn tại được 360 năm (1428-1788).

Các vua đầu thời Lê như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những vị vua giỏi, đặc biệt là Thánh Tông, đã đưa Việt Nam tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Chẳng những có thành tựu về chính trị, kinh tế mà cả giáo dục và nhất là quân sự khiến

54

Page 55: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

nước Đại Việt được mở mang tới phía bắc Nam Trung Bộ. Cũng chính cuộc tấn công của vua Lê Thánh Tông đánh dấu bước khởi đầu cho sự diệt vong của nước Chiêm Thành mà các chúa Nguyễn sau này hoàn thành. Dù trong cung đình nhà Lê luôn có biến, nhiều việc khuynh loát, tranh quyền xảy ra nhưng chính sách đối nội, đối ngoại không thay đổi, đời sống nhân dân được đảm bảo nên nước Đại Việt vẫn phát triển vững mạnh. Ngay thời Nhân Tông, dù vua còn nhỏ và Nguyễn Thái hậu chấp chính nhưng vẫn không gây xáo trộn xã hội, nhân dân không bị điêu đứng như thời Uy Mục, Tương Dực sau này.

Lê Hiến Tông đã đúng khi chọn Túc Tông Thuần là người kế nghiệp nhưng vua này lại yểu mệnh và có lẽ đó là bước ngoặt đầu tiên của nhà Hậu Lê. Uy Mục tàn ác, Tương Dực xa hoa trụy lạc, Chiêu Tông thiếu sáng suốt. Cả ba vua đều không đủ năng lực và quyền thần nổi lên nắm quyền như một lẽ tất yếu khi đất nước có biến loạn. Nếu không có Mạc Đăng Dung thì những quyền thần khác cũng làm điều tương tự, mà trong đó Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Trần Chân là những đại diện.

Dù sao, nhà Lê sơ cũng có công rất lớn đối với dân tộc và là một triều đại có thể nói là " được lòng dân " nhất trong số các triều đại phong kiến Việt Nam.

55

Page 56: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

Phụ lục: Một số hình ảnh về thời Lê sơ

Lương Thế Vinh (1441-1496)

Tiền cổ thời Lê sơ

56

Page 57: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

57

Page 58: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

ĐĐĩa gốm Chu Đậu

Đĩa trang trí hình rồng

58

Page 59: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van/... · Web viewMỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Lịch sử Việt Nam, Viện sử học, 2007, NXB Khoa học xã hội

- Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, 2009, NXB Văn hóa thông tin

- Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Quốc sử quán, ấn hành năm 1998, NXB giáo dục Hà Nội

- Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Đào Duy Anh, 2002, NXB Văn hóa thông tin

- Văn bia Quốc Tử Giám Hà Nội, Đỗ Văn Ninh, 2001, NXB Văn hóa thông tin

- Lịch sử và văn hóa Việt Nam tiếp cận bộ phận, Phan Huy Lê, 2007, NXB Giáo dục

- Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, 2008, NXB Văn hóa thông tin

- Trang báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam www.dangcongsan.vn

- Trang báo điện tử VNTimes www.vntimes.com.vn

59