trung tÂm thÔng tin bẢn tin sỐ 06/2019
TRANSCRIPT
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 1/60
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN SỐ 06/2019
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Hệ thống quản lý sản xuất ứng dụng mô hình internet vạn vật cho công nghiệp (Industrial IoT)
Mô hình “Ngôi nhà thông minh”
Thiết bị nhúng kiểm soát trạng thái ngủ gật của lái xe
Nghiên cứu giảm tổn thất điện được giải bài báo khoa học xuất sắc
Hệ thống điều khiển tự động hóa dây chuyền sản xuất gạch gốm
Phần mềm quản lý chuỗi cung ứng tối ưu vận tải Abivin - Startup Việt Vô địch khởi nghiệp
sáng tạo thế giới
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Việt Nam chế tạo thành công đạn chống tăng xuyên động năng
Chế tạo máy dán tem năng suất bằng 200 công nhân
Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thiết bị thử khả năng chịu rung động của ắc quy xe đạp, xe
máy điện phục vụ công tác đăng kiểm xe đạp, xe máy điện
Việt Nam lần thứ 5 vô địch châu Á về xe tiết kiệm nhiên liệu
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Tận dụng nụ thanh long làm thực phẩm muối chua
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu vật liệu sản xuất áo chống đạn được Giải thưởng Trần Đại Nghĩa
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ sắt
Tận dụng nguồn vi sinh vật bản địa: Phát triển Chế phẩm nấm rễ cộng sinh
Nghiên cứu chọn tạo giống khoai lang có hàm lượng tinh bột cao bằng chỉ thị phân tử cho
các tỉnh phía Bắc
Y HỌC
Tá dược từ hạt mít giúp thuốc tan trong 6 phút
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 2/60
Sáng chế robot phát thuốc
Chế tạo thành công bộ sinh phẩm phát hiện gene kháng kháng sinh
Phát hiện tinh dầu hạt tiêu có thể chống bệnh gút
Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cắt toàn bộ hạ họng - thanh quản - thực quản và tái tạo hạ
họng - thực quản bằng ống dạ dày trong điều trị ung thư vùng hạ họng thanh quản - thực
quản cổ
Nghiên cứu nhân giống hai dòng bạch đàn PNCT3 và PNCIV bằng phương pháp nuôi cấy mô
Nghiên cứu hoàn thiện quy trình kỹ thuật nhân giống cây nuôi cấy mô giai đoạn vườn ươm
của một số dòng bạch đàn mô (U6, PN14) và keo lai (BV10, BV16)
NÔNG NGHIỆP
Chế tạo hệ thống thiết bị cắt, tách gáo và làm sạch vỏ nâu cơm dừa
Trở về đầu trang
Công nghệ tạo thức ăn cho gia súc và cây trồng từ rơm, lá mía
Thiết bị Ewater giúp cây trồng phát triển tươi tốt hơn
Nghiên cứu ứng dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công nghệ chuyển đổi cơ cấu cây
trồng đạt hiệu quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng
Mô hình sản xuất lúa - thủy sản chất lượng cao gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm cho
vùng chiêm trũng Đồng bằng sông Hồng
Nhân nuôi thành công chủng giống tảo xoắn Spirulina
MÔI TRƯỜNG
Ứng dụng công nghệ keo tụ điện hóa trong xử lý nước thải công nghiệp
Hệ thống thiết bị hiệu chuẩn máy trắc địa
Đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong bụi đường và ảnh hưởng của nó đến mức độ
phơi nhiễm của người dân
LĨNH VỰC KHÁC
Chốt bảo vệ thông minh
3 nhà khoa học được trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2019
Khoa học công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đi đầu trong liên kết 3 nhà
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 3/60
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Hệ thống quản lý sản xuất ứng dụng mô hình internet vạn vật cho công nghiệp (Industrial IoT)
Hiện nay, nhiều đơn vị nghiên cứu,
doanh nghiệp tại Việt Nam đã bắt đầu quan
tâm, triển khai phát triển và ứng dụng nhiều
công nghệ mới liên quan đến kết nối vạn vật.
IoT đã bắt đầu được ứng dụng trong một số
lĩnh vực như nhà thông minh, nông nghiệp,
giao thông, y tế, công nghiệp,... Công nghệ
IoT có khả năng tích hợp nhiều hệ thống hỗn
hợp, ứng dụng đòi hỏi phải kết hợp nhiều hệ
thống với nhau, việc tích hợp các hệ thống
hỗn hợp sẽ đưa đến khả năng đưa ra nhiều
chức năng mới mà từng hệ thống đơn lẻ
không thể làm được, IoT cho công nghiệp
được triển khai tại các nhà máy khiến cho
chúng trở nên thông minh hơn với dữ liệu
được chia sẻ trong toàn bộ nhà máy từ phân
xưởng đến các chuỗi cung ứng đầu vào/ra cho
phép tối ưu hóa các quy trình, cung & cầu,
thời gian xử lý, góp phần hiện đại hóa quản lý
sản xuất. Trên thị trường thiết bị cảm biến có
rất nhiều lựa chọn phong phú và kinh tế. Với
sự hiện diện của nhiều nhà cung cấp mới, giá
thành những bộ cảm biến cao cấp cũng trên
đà đi xuống, cùng với sự nâng cao về chất
lượng, độ tin cậy và chính xác. Xu hướng này
mở ra cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chuyển mình từ những nhà máy truyền thống
thành nhà máy thông minh hoạt động dựa trên
dữ liệu thời gian thực. Những nhà máy sử
dụng máy móc thô sơ vẫn có khả năng thông
minh hóa ngang với những nhà máy hiện đại
nếu được trang bị những bộ cảm biến IoT
cộng với nền tảng phần mềm có khả năng tập
hợp và phân tích dữ liệu hoạt động sản xuất.
Mục đích của thiết bị IoT là để loại bỏ việc
theo dõi bằng con người, kiểm soát chặt chẽ
hơn những quá trình thủ công và tự động.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoàn toàn có khả
năng sử dụng những cảm biến IoT giá thành
thấp tích hợp với nền tảng phần mềm mạnh
mẽ để giảm chi phí và nâng cao chất lượng
sản xuất.
Nhằm nghiên cứu xây dựng 01 hệ
thống quản lý sản xuất ứng dụng mô hình
Internet vạn vật cho công nghiệp - IoT và
ứng dụng thực tế tại doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng;
phân bón hoặc tương tự, nhóm nghiên cứu
do ThS. Nguyễn Đình Lượng, Viện Nghiên
cứu Điện tử, Tin học, Tự động hoá đứng đầu
đã thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
xây dựng hệ thống quản lý sản xuất ứng
dụng mô hình internet vạn vật cho công
nghiệp (Industrial IoT)”.
Trong thời gian gần một năm tiến hành
nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đưa ra kết luận
như sau:
Đề tài đã nghiên cứu về công nghệ IoT
từ mô hình kiến trúc, tìm hiểu một số nền
tảng IoT hàng đầu trên thế giới và lựa chọn
nền tảng IoT phù hợp để xây dựng hệ thống.
Xây dựng phần mềm cho VIELINA-IoT
GATEWAY GW.1017, kết nối với các cảm
biến để thu thập dữ liệu. Phân tích, thiết kế,
xây dựng phần mềm của hệ thống quản lý sản
xuất. Phần mềm của hệ thống hoạt động trên
nền giao diện web, cho phép người sử dụng
truy cập từ xa qua mạng Internet. Sản phẩm
của đề tài đã được thử nghiệm thực tế tại
doanh nghiệp và đã đáp ứng chỉ tiêu chất
lượng chủ yếu so với đăng ký. Về giá thành
sản phẩm của đề tài hoàn toàn có thể cạnh
tranh được so với sản phẩm nhập ngoại, lý do
vì đề tài chỉ mua các sensor, gateway, thuê
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 5/60
dịch vụ IoT Platform, còn các nội dung như
xây dựng phần mềm cho IoT Gateway, xây
dựng phần mềm quản lý sản xuất, thi công,
lắp đặt, bảo hành bảo trì hoàn toàn do các
chuyên gia, kỹ thuật viên trong nước thực
hiện, như vậy có thể giảm được giá thành của
hệ thống, cạnh tranh được với sản phẩm nhập
ngoại có cùng tính năng.
Qua thực hiện các nội dung nghiên cứu
của đề tài, nhóm nghiên cứu đã có kiến thức,
kinh nghiệm về IoT, mô hình IoT, IoT
Platform,… xây dựng một hệ thống ứng dụng
mô hình IoT, qua đó có thể phục vụ phát triển
các ứng dụng trong các lĩnh vực khác như
giám sát môi trường, nông nghiệp,…
Đề tài đã hoàn thành các mục tiêu
nghiên cứu đề ra, đã tạo ra được sản phẩm
đáp ứng được xu hướng công nghệ mới (IoT)
và có triển vọng ứng dụng trong thực tế, cung
cấp cho doanh hệ thống quản lý sản xuất ứng
dụng mô hình Internet vạn vật. Trong thời
gian tới, song song với việc thương mại hóa
sản phẩm, đề tài còn có thể phát triển tiếp về
quy mô, phát triển thêm chức năng như giám
sát điều kiện sản xuất của người lao động,
môi trường làm việc trong nhà máy,… để trở
thành sản phẩm đa dạng về mặt ứng dụng.
Theo tìm hiểu của nhóm thực hiện đề
tài, sản phẩm của đề tài có triển vọng ứng
dụng trong thực tế. Thời gian tới nhóm thực
hiện đề tài sẽ phối hợp với các doanh nghiệp
để có thể đưa sản phẩm ra thị trường, qua đó
tiếp tục hoàn thiện, nghiên cứu về phân tích
dữ liệu lớn, khai thác công cụ phân tích dữ
liệu của nền tảng IoT, nâng cấp phiên bản sản
phẩm nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của
doanh nghiệp. Nhóm thực hiện đề tài mong
muốn được tiếp tục hỗ trợ để nâng cấp sản
phẩm trong quá trình thương mại hóa sản
phẩm.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
08/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Mô hình “Ngôi nhà thông minh”
Em Đặng Thanh Bình và em Vưu
Hoàng Phạm Tấn, học sinh lớp 12, Trường
THPT Vĩnh Kim (Châu Thành, Tiền Giang)
vừa nghiên cứu sáng tạo thành công mô hình
“Ngôi nhà thông minh”, có thể được ứng
dụng vào thực tế mang lại nhiều tiện ích cho
người sử dụng.
“Ngôi nhà thông minh” sử dụng một số
thiết bị sẵn có hoặc dễ tìm để lắp ráp thành
một hệ thống hoàn chỉnh. Trong đó: khung
nhà (làm bằng nhựa xốp), đèn LED tận dụng
đồ đã qua sử dụng; các thiết bị, dụng cụ còn lại
(quạt, máy bơm, nguồn dự phòng, dây điện,
cảm biến, thẻ từ…) có thể tìm mua ở một số
tiệm điện, điện tử gia dụng. Tổng chi phí để
đầu tư hệ thống này khoảng 1,8 triệu đồng.
“Ngôi nhà thông minh” là một hệ
thống kết nối tất cả các thiết bị trong nhà
thành một hệ thống mạng và chúng có thể
được điều khiển theo các kịch bản thông
minh, bao gồm: hệ thống cửa, hệ thống điều
khiển thiết bị điện trong nhà, hệ thống phòng
cháy chữa cháy, hệ thống bơm nước. Hệ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 6/60
thống này có thể được điều khiển trực tiếp
thông qua smart phone hoặc máy tính bảng.
Khi lắp đặt vào một ngôi nhà thực tế,
hệ thống này có thể vận hành dễ dàng, mang
lại nhiều tiện ích cho người sử dụng. Hệ
thống này chia ra 2 hệ thống con, gồm: hệ
thống điều khiển bằng điện thoại smart phone
(hoặc máy tính bảng) qua sóng wifi và hệ
thống tự động điều khiển đóng, mở các thiết
bị trong nhà.
Hệ thống điều khiển đóng/mở cửa tự
động sử dụng điện thoại thông minh với hệ
điều hành Android hoặc iOS cài đặt phần
mềm App Blynk. Khi được kích hoạt, tín hiệu
truyền đến mạch wifi (Esp 8266), tiếp theo vi
xử lý (Ardunino) nhận tín hiệu, xử lý rồi
truyền tín hiệu đến relay (rờ-le) ra lệnh cho
servo (động cơ) đóng/mở cửa hay các thiết bị
điện (đèn, quạt máy) theo ý muốn. Việc
đóng/mở cửa có thể thực hiện trực tiếp bằng
thẻ từ NFC (tần số 13,56 MHz).
Trường hợp đi làm hoặc có việc phải
ra ngoài, người chủ vẫn có thể sử dụng smart
phone để điều khiển (đóng/mở) các thiết bị
điện trong nhà bằng một số phím chức năng
hay thông qua giọng nói với điều kiện khu
vực nhà ở phải được phủ sóng wifi.
Ngoài ra, hệ thống này còn thực hiện
một số chức năng khác như: phòng cháy, chữa
cháy (khi nhiệt độ trong nhà tăng quá cao
hoặc có rò rỉ khí gas, còi báo động sẽ kêu to);
tự động tưới cây (sử dụng cảm biến nhiệt độ
kết nối với rờ-le để điều khiển việc đóng/ngắt
mạch điện đấu với mô-tơ bơm nước).
Tuy gọi là mô hình nhưng khi được lắp
đặt vào ngôi nhà thực tế, hệ thống này có thể
vận hành hiệu quả và mang lại rất nhiều tiện
ích, đặc biệt là trong những trường hợp chủ
nhà đi làm hay ra ngoài hoặc trong một số
trường hợp khẩn cấp..
Nguồn: Huỳnh Văn Xĩ,
khoahocphothong.com.vn, 27/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Thiết bị nhúng kiểm soát trạng thái ngủ gật của lái xe
Nhóm nghiên cứu do Nguyễn Quang
Trường, Khoa Điện tử Viễn Thông, Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội đã thiết kế chế tạo
được một loại thiết bị kiểm soát cơn buồn ngủ
của lái xem có chi phí rẻ, đây là thiết bị tự
động đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm cho tài
xế. Khi không có tiếng trả lời hoặc nếu thời
gian trả lời chậm, ngắt quãng, tín hiệu cảnh
báo chống ngủ gật lập tức phát ra. Ngoài ra,
đã có một vài sản phẩm sử dụng camera và
thiết bị xử lý hình ảnh (trên main board máy
tính) để phát hiện hiện tượng buồn ngủ của lái
tàu, xe nhưng những thiết bị này cồng kềnh,
khó lắp đặt vào trong ô tô. Ở nhiều doanh
nghiệp vận tải trang bị hộp đen và hệ thống
định vị GPS để theo dõi hành trình của mỗi
xe. Tài xế cũng được trang bị thiết bị chống
buồn ngủ loại đeo tai. Tuy nhiên, thiết bị đeo
tai thường gây cảm giác khó chịu cho một số
lái xe, hoặc lái xe không sử dụng nó. Một nhu
cầu đối với công ty vận tải là kiểm soát khách
quan từ trung tâm trạng thái buồn ngủ của lái
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 7/60
xe. Thiết bị kiểm soát trạng thái buồn ngủ của
lái xe khi phát hiện có tình trạng này sẽ thông
báo về trung tâm quản lý để có tác động đánh
thức phù hợp.
Nhằm nghiên cứu thiết kế chế tạo máy
giám sát trạng thái buồn ngủ của lái xe có tính
năng kết nối mạng, nhỏ gọn, giá thành thấp.
Cung cấp cho các doanh nghiệp vận tải, góp
phần giảm thiểu tai nạn giao thông gây bởi
trạng thái buồn ngủ của lái xe và tiến tới tích
hợp với hộp đen chế tạo trong nước để tạo sản
phẩm ứng dụng mới, nhóm nghiên cứu do TS.
Nguyễn Minh Sơn, Phân Viện Nghiên cứu
Điện tử, Tin học, Tự động hóa tại Tp. HCM
đứng đầu đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị nhúng
kiểm soát trạng thái ngủ gật của lái xe”.
Nhóm nghiến cứu đã triển khai thực
hiện các nội dung chính bao gồm:
- Nghiên cứu tổng quan Khảo sát, phân
tích một số thiết bị chống ngủ gật có trên thị
trường.
- Xác định những biểu hiện cơ bản và
rút trích đặc trưng cơ bản xác định trạng thái
ngủ gật.
- Thiết kế tổng thể, phân tích các yêu cầu
kỹ thuật, cấu hình và chức năng của thiết bị.
- Thiết kế phần cứng và phần mềm của
thiết bị cảnh báo ngủ gật.
- Chế tạo phần cứng, cài đặt phần mềm
và thực nghiệm với thiết bị cảnh báo ngủ gật
được thiết kế, chế tạo.
- Đề xuất mô hình ứng dụng
- Kết quả đo đạc trên thiết bị VDAS-
01 được thiết kế chế tạo như sau:
+ Khối thiết bị nhúng: Kích thước nhỏ
(không quá 150 x 100 mm) lắp đặt được trong
mọi loại ô tô
+ Sử dụng camera số: Kết nối với bộ
xử lý nhúng
+ Phát hiện buồn ngủ: Theo 5 thông số
quan sát đặc trưng: 1) mắt nhắm, 2) mắt
không chớp, 3) góc nghiêng của đầu do ngủ
gục, 4) chuyển động đột ngột của đầu, 5) sự
không thay đổi tư thế của đầu trong khoảng
thời gian đủ dài.
+ Thời gian cập nhật khuôn mặt lái xe:
10 giây, xử lý ảnh nhắm mắt 1,5 giây.
+ Cập nhật tầm vóc tài xế Tự động cập
nhật thông số hình dạng đầu của tài xế.
+ Cảnh báo tại chỗ và truyền thông
báo về trung tâm.
Như vậy, đề tài thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và ứng dụng thử
nghiệm một hệ thống giám sát và phát hiện từ
xa trạng thái buồn ngủ của lái xe. Trên cơ sở
rút trích 5 đặc trưng cơ bản phát hiện buồn
ngủ, các tác giả đã xây dựng giải thuật và
phần mềm có tính kết hợp để xác định các
đặc trưng, nhằm giải quyết nhanh những
trường hợp nhiễu, chiếu sáng kém,... Đặc biệt,
đề tài thiết kế phần mềm huấn luyện máy theo
đặc điểm của lái xe (hình dạng mặt, mũi, tai,
thời gian nháy mắt,..). Do đó, các ngưỡng
phát hiện buồn ngủ được tự động hiệu chỉnh
theo từng lái xe. Thiết bị xây dựng trên cơ sở
board vi xử lý kết nối với các ngoại vi
Camera, LED hồng ngoại, GPS/GPRS,… cho
phép cảnh báo tại chỗ và truyền về trung tâm
giám sát. Hệ thống cho phép nhận diện trạng
thái buồn ngủ của lái xe với thời gian nhỏ hơn
1,5 giây và độ tin cậy đạt 90%.
Nhóm nghiên cứu đề xuất mô hình ứng
dụng như sau:
- Đối với công ty vận tải hàng hoá đã
có hệ thống tin học giám sát hành trình của xe
vận tải, tín hiệu định vị của xe (qua GPS)
được thể hiện trên bản đồ. Hệ thống được xây
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 8/60
dựng trên nền web, sử dụng các công nghệ
GIS, Google Maps API. Trong đó GIS là một
hệ thống thông tin mà nó sử dụng dữ liệu đầu
vào, thao tác phân tích, cơ sở dữ liệu đầu ra
liên quan về mặt địa lý không gian, nhằm trợ
giúp việc thu nhận, lưu trữ, quản lý, xử lý,
phân tích và hiển thị các thông tin không gian
từ thế giới thực để giải quyết các vấn đề tổng
hợp thông tin cho các mục đích con người đặt
ra. Còn Google Maps API bao gồm các API
hỗ trợ cho người dùng sử dụng các chức năng
của google maps vào việc tạo lớp dữ liệu
riêng cho ứng dụng của mình. Dựa trên các
công nghệ đó để xây dựng nên lớp bản đồ
định vị xe cho hệ thống. Người dùng có thể
thao tác trên bản đồ xe buýt như: phóng to,
thu nhỏ, kéo bản đồ, xem thông tin trên bản
đồ,… Hệ thống phát hiện và cảnh báo ngủ gật
của lái xe đối với hệ thống có sẵn này được
cài đặt đơn giản. Thiết bị phát hiện ngủ gật
của lái xe đặt trong ca bin sẽ giám sát lái xe
qua camera và khi phát hiện trạng thái ngủ
gật sẽ cảnh báo tại chỗ và qua mạng gửi về
trung tâm để thông báo. Người điều hành
trung tâm có thể có tác động cần thiết để nhắc
nhở lái xe. Phần mềm giám sát trạng thái
buồn ngủ của lái xe được cài đặt vào server
trung tâm Trường hợp công ty xe tải chưa có
hệ thống giám sát hành trình, Thiết bị phát
hiện ngủ gật có chứa sẵn bộ định vị bằng
GPS. Tín hiệu định vị được gửi về trung tâm,
với phần mềm sử dụng công nghệ GIS, vị trí
của xe được thể hiện trên bản đồ, giúp cho
trung tâm vừa giám sát trạng thái buồn ngủ
của lái xe, vừa có tính năng giám sát hành
trình của xe.
- Mô hình ứng dụng cho công ty xe
khách đường dài
Theo thống kê của Bộ GTVT, tính đến
tháng 6.2014, cả nước có 457 bến xe khách,
trong đó có 322 bến xe loại 4 trở lên, đảm bảo
phục vụ cho hơn 2.500 tuyến vận tải hành
khách liên tỉnh. Tương tự như hệ thống quản
lý giám sát xe vận tải hàng hoá, thiết bị phát
hiện ngủ gật lái xe đặt trên cabin sẽ theo dõi
trạng thái lái xe, khi phát hiện có triệu chứng
ngủ gật của lái xe sẽ cảnh báo về trung tâm.
Trường hợp công ty xe khách chưa có hệ
thống giám sát hành trình, Thiết bị phát hiện
ngủ gật có chứa sẵn bộ định vị bằng GPS. Tín
hiệu định vị được gửi về trung tâm, với phần
mềm sử dụng công nghệ GIS, vị trí của xe
được thể hiện trên bản đồ, giúp cho trung tâm
vừa giám sát trạng thái buồn ngủ của lái xe,
vừa có tính năng giám sát hành trình của xe.
Máy chủ của Công ty có thể kết nối mạng với
máy chủ của bến xe. Từ đây, máy chỉ bến xe
kết nối mạng với hệ thống quản lý theo ngành
của địa phương và trung ương. Với sự phát
triển hiện nay của điện thoại thông minh, máy
tính bảng, dễ dàng biên soạn một phần mềm
giao diện (GUI) để giám sát xe bằng phương
tiện di động.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
09/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Nghiên cứu giảm tổn thất điện được giải bài báo khoa học xuất sắc
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 9/60
Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam TS Nguyễn Quân (trái) trao giải cho đại diện nhóm tác giả.
Sáng 10/5, tại Hà Nội, Hiệp hội Tự
động hóa Việt Nam đã trao Giải thưởng Bài
báo xuất sắc (Best Paper) đăng trên Chuyên
san Kỹ thuật đo lường - điều khiển và tự động
hóa với công trình "Giải thuật triệt tiêu điện
áp common mode cho bộ biến đổi ma trận
gián tiếp và ngõ ra kép" của tác giả Nguyễn
Chấn Việt, Phan Quốc Dũng, Lê An Nhuận,
Nguyễn Đình Tuyên thuộc Đại học Bách
khoa (Đại học Quốc gia TP HCM).
Ý tưởng chính của nghiên cứu đưa ra
phương pháp vector không gian cho phép
giảm điện áp common mode (CMV) sinh ra
trong quá trình đóng cắt của bộ biến đổi điện
trong các động cơ. Cấu hình của bộ biến đổi
được thiết kế gồm 6 khóa hai chiều và 12
khóa một chiều có thể biến đổi năng lượng
trực tiếp từ nguồn điện để cấp cho tải mà
không cần đến khâu lưu trữ năng lượng trung
gian. Cách này đơn giản và không cần các bộ
lọc cồng kềnh như giải pháp truyền thống.
Phương pháp này cũng giúp giảm tác động
xấu của dòng điện áp CMV lên động cơ và
các thiết bị.
PGS Tạ Cao Minh, Phó Chủ tịch –
Tổng thư ký Hiệp hội tự động hóa Việt Nam
đánh giá, công trình đã nghiên cứu cải tiến,
nâng cao chất lượng của biến tần ma trận
gián tiếp và ngõ ra kép. Đây là một cấu hình
mới trên thế giới hiện nay, có khả ứng dụng
thực tế cao.
Đây cũng là lý do bài báo được chọn
trong số 78 bài khoa học được xét chọn trong
3 năm (2016 – 2018) ở lần đầu tiên tổ chức
giải thưởng. Tiêu chí lựa chọn đảm bảo tính
mới, độc đáo, có kết quả thực nghiệm và có
cấu trúc bài viết khoa học, văn phong sáng.
Nguồn: Phan Minh, vnexpress.net,
10/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Hệ thống điều khiển tự động hóa dây chuyền sản xuất gạch gốm
Khi ngành kỹ thuật tự động hóa ngày
càng phát triển, các dây chuyền sản xuất gạch
gốm yêu cầu về việc tự động giám sát và phát
hiện, cảnh báo sớm các nguy cơ sảy ra sự cố
để đảm bảo an toàn lao động cũng như an toàn
trang thiết bị, đảm bảo sản xuất ổn định. Khi
sự phức tạp của cả hệ thống tăng lên đòi hỏi cả
dây chuyền sản xuất phải được giám sát và
quản lý đồng bộ, tập trung với đầy đủ thông
tin được lưu trữ để phục vụ cho thống kê vật
tư sản phẩm cũng như phục vụ cho việc phân
tích chính xác sự cố nhằm khắc phục kịp thời,
hiệu quả các sự cố. Một hệ thống điều khiển
cho dây chuyền sản xuất gạch gốm với các
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 10/60
cụm rời rạc ít liên quan tự động với nhau gồm
điều khiển định lượng (tự động), điều khiển
cấp liệu (thủ công), điều khiển điện động lực
(thủ công) được thay thế.. Trong điều kiện các
nhà chế tạo cơ khí và tự động hóa trong nước
chưa kịp cung cấp các dây chuyền sản xuất
gạch gốm, các hãng nước ngoài (Italy, Đức,
Trung quốc...) đã chớp thời cơ chiếm thị
trường này tại Việt nam. Với các nhà máy sản
xuất gạch gốm hiện đại, việc sử dụng hệ thống
điều khiển tích hợp là một xu thế tất yếu của
các hãng nước ngoài vì độ phức tạp cao và đòi
hỏi yêu cầu gắt gao về công nghệ. Khi đó toàn
bộ hệ thống dây chuyền sản xuất đều được
giám sát và điều khiển từ một hệ điều khiển
tích hợp, giải quyết được các vấn đề còn tồn
tại của các dây chuyền sản xuất thủ công, lạc
hậu hiện nay.
Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự
động hóa (VIELINA) ngay từ năm1997 đã có
sản phẩm là hệ thống định lượng tự động
cung cấp cho các dây chuyền sản xuất có
khâu định lượng trong sản xuất xi măng, thức
ăn chăn nuôi, phân bón tổng hợp... và vật liệu
xây dựng như trạm trộn bê tông xi măng và
trạm trộn bê tông nhựa nóng, trong đó các hệ
thống điều khiển định lượng đã trở thành sản
phẩm có uy tín cao tại Việt Nam và đến nay.
Với kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực hệ
thống điều khiển từ nhiều năm nay, nhóm
nghiên cứu do ThS. Dương Đức Anh, Viện
nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự động hóa,
đứng đầu đã mạnh dạn tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu thiết kế chế tạo hệ thống
điều khiển tự động hóa dây chuyền sản xuất
gạch gốm” trên cơ sở kế thừa các giải pháp
công nghệ của bài toán định lượng mà
VIELINA đang sở hữu, kết hợp với việc giải
quyết các vấn đề mới trong phạm vi thời gian
và kinh phí của một đề tài cấp bộ, nhằm tạo ra
một sản phẩm hoàn thiện triển khai ngay
thành sản phẩm thương mại (không cần trải
qua giai đoạn hoàn thiện của quá trình sản
xuất thử nghiệm) cung cấp cho các dây
chuyền sản xuất gạch gốm và các cơ sở sử
dụng, giúp sản phẩm Cơ khí - TĐH này sẽ
cạnh tranh tốt với sản phẩm của nước ngoài
ngay tại “sân nhà”.
Các kết quả thu được từ đề tài như sau:
Đã phân tích sơ đồ sản xuất của dây
chuyền sản xuất gạch gốm cơ bản, sau đó đưa
ra cấu hình sản xuất của một số hãng chế tạo
dây chuyền gạch gốm nổi tiếng hiện nay đang
được sử dụng trên thế giới và ngay tại Việt
Nam. Trong đó nêu ra các hệ thống điều
khiển đi kèm với nó một cách tương đối chi
tiết. Đồng thời phân tích được những khả
năng có thế phát triển sản phầm của đề tài,
đánh giá những mặt tích cực của hệ thống
điều khiển tự động hóa dây chuyền sản xuất
gạch gốm khi cung cấp cho các nhà nhà chế
tạo cơ khí, cơ sở sử dụng.
Xây dựng cấu trúc tổng thể của hệ
thống, lựa chọn phương pháp truyền thông
Ethernet từ bộ điều khiển từng công đoạn đến
máy tính quản lý giám sát trung tâm cấp trên
là một xu thế của tự động hóa ngày nay. Lựa
chọn địa điểm thực hiện các nội dung đặt ra
trước đó, kết hợp với những địa điểm có thể
đưa sản phẩm của đề tài đi thử nghiệm thực tế.
Đưa ra sơ đồ nguyên lý chi tiết cho
toàn bộ hệ thống điều khiển, lựa chọn phương
án thiết kế của từng khối chức năng của hệ
thống theo dạng phần cứng. Phân tích những
yêu cầu cần đạt được của mỗi khối chức
năng, lựa chọn các linh kiện đáp ứng được
trong môi trường làm việc khắc nghiệt, ổn
định trong một khoảng thời gian dài, thiết kế
đảm bảo tính linh hoạt, dễ dàng thay thế, bảo
chỉ và bảo hành, tránh ảnh hưởng đến quá
trình sản xuất. Từ những thiết kế phần cứng,
báo cáo nêu những yêu cầu của phần mềm đối
với sản phầm đề tài.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 11/60
Xây dựng các lưu đồ chương trình của
phần mềm, đưa ra phương án tính toán cho
từng khối chức năng theo các module một
cách tối ưu nhất, đảm bảo hệ thống dễ dàng
mở rộng các chức năng về phần mềm khi cần
nâng cấp hệ thống, tăng tính linh hoạt cho
nhiều dây chuyền sản xuất các loại gạch khác
nhau. Phần giao diện cấp trên máy tính có khả
năng lưu trữ, giám sát toàn bộ hoạt động của
dây chuyền sản xuất gạch gốm. Một ứng dụng
cao hơn của phần mềm giám sát là có khả
năng cảnh bảo các sự cố xảy ra đối với hệ
thống, lưu trữ các thông số trong quá trình
lầm việc.
Ngoài ra, đưa ra những quy trình trong
quá trình chế tạo phần cứng và lắp đặt hệ
thống. Dựa vào sơ đồ thiết kế, đấu nối hệ
thống để giúp người vận hành dễ dàng sữa
chữa, và thay thế khi có những sự cố xảy ra.
Màn hình giao diện HMI thân thiện với người
sử dụng.
Hệ thống điều khiển tự động hóa dây
chuyền sản xuất gạch gốm bao gồm như sau:
- Công đoạn nghiền: Năng suất: 20
tấn/giờ; Định lượng liên tục 3 thành phần
nguyên liệu; Điện áp cấp: 220V AC, 50Hz;
Hiệu chỉnh hệ thống cân
- Mô phỏng đồ thị cân, sơ đồ công
nghệ sản xuất Công đoạn cân trộn: Năng suất
20 tấn/giờ; Định lượng 2 thành phần theo mẻ;
Công suất mẻ trộn: 1300 kg/mẻ; Hiệu chỉnh
hệ thống cân; Điện áp cấp : 220V AC, 50Hz
- Mô phỏng đồ thị cân, sơ đồ công
nghệ sản xuất Công đoạn nhào đùn: Năng
suất9 tấn/giờ; Điều chỉnh quá trình cấp liệu,
cấp nước theo độ ẩm; Giám sát dòng điện
động cơ; Đặt độ ẩm, năng suất làm việc theo
ca; Điện áp cấp 220V AC, 50Hz
- Mô phỏng sơ đồ công nghệ sản xuất
Sản phẩm đã được đưa đi thử nghiệm
thực tế để đánh giá tính ổn định và độ chính xác
của hệ thống. Đề tài đã làm chủ các vấn đề về
kỹ thuật và công nghệ về hệ thống điều khiển
tự động hóa dây chuyền sản xuất gạch gốm.
Như vậy, sản phẩm của đề tài có khả
năng ứng dụng cho nhiều dây chuyền sản
xuất gạch khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu
của nhà chế tạo mà hệ thống có khả năng
thêm bớt hoặc lược bỏ một số chức năng khi
cần thiết. Trong quá trình thử nghiệm thực tế,
với những đóng góp của các nhà vận hành,
sản phẩm đã hoàn thiện, cải tạo hệ thống so
với ban đầu, đáp ứng đòi hỏi khắt khe của các
nhà sử dụng, làm tăng tính tương tác từ nhà
sản xuất với cơ sở sử dụng. Nhóm thực hiện
đề tài tin rằng có thể sớm đưa các nghiên cứu
ra thành sản phẩm thương mại có sức cạnh
tranh cao trên thị trường. Việc từng bước cải
tiến và hoàn thiện công nghệ, chủ động sản
xuất tại Việt Nam giúp việc hạ giá thành sản
phẩm, thuận lợi trong việc bảo trì, sửa chữa
chủ động tại chỗ cũng như tiết kiệm chi phí
bảo trì, giảm khó khăn và tốn kém cả về tiền
của lẫn thời gian.
Nguồn: P.T.T, vista.gov.vn, 08/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Phần mềm quản lý chuỗi cung ứng tối ưu vận tải Abivin - Startup Việt Vô địch khởi nghiệp sáng tạo thế giới
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 12/60
Abivin chiên thăng giải thương 1 triệu USD tại Startup World Cup
Vượt qua các đôi thi đên từ 40 quôc gia
trên thê giới, Abivin - startup Viêt cung cấp
phần mềm quản lý chuỗi cung ứng tôi ưu vận
tải đã trở thành quán quân của Startup World
Cup với giải thưởng 1 triêu USD đầu tư.
Cuộc thi vừa kết thúc lúc 22 giờ ngày
17.5 (giờ Mỹ), tức 10 giờ sáng nay, 18.5 (giờ
Việt Nam). Theo Bộ Khoa học và Công nghệ,
năm 2018, Abivin là quán quân tại cuộc thi
thuộc Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
quốc gia - Techfest Vietnam 2018 và được Bộ
Khoa học và Công nghệ kết nối trở thành đại
diện của Việt Nam tham dự Startup World
Cup tranh tài cùng các doanh nghiệp từ hơn
40 quốc gia trên thế giới như Nhật, Mỹ,
Canada, Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc,
Singapore, Hàn Quốc.....
Abivin được đào tạo và trưởng thành
bởi Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo
Việt Nam - Phần Lan, giai đoạn 2 (IPP2) vận
hành bởi Bộ Khoa học và Công nghệ. Sau 4
năm hoạt động cùng sản phẩm Abivin vRoute
- phần mềm có thể tạo ra một kế hoạch định
tuyến tối ưu chỉ trong vài giây; đồng thời, tối
đa hóa công suất của xe và giúp bạn tiết kiệm
40% chi phí nhân lực và nhiên liệu, Abivin đã
ngày càng cho thấy giá trị của các sản phẩm
khởi nghiệp startup thuần Việt trên trường
quốc tế.
Abivin cũng đã tham gia hàng loạt các
chương trình như Shark Tank Việt Nam,
Techfest Vietnam 2018 và được kết nối để
với các chương trình quốc tế như giải thưởng
Rice Bowl Startup Awards và mới đây nhất là
Startup World Cup 2019.
Theo anh Phạm Nam Long - sáng lập
Abivin, nhờ có giai đoạn làm du học sinh
ngành khoa học máy tính tại Đại học
Cambridge và làm việc tại Google, những
môi trường tốt nhất thế giới, mà bản thân anh
cũng như các cộng sự với tư cách là sáng lập
viên có thể tự tin trước những thử thách mới
vượt ra ngoài lãnh thổ. “Viêc chúng ta có tầm
nhìn quôc tê ngay từ đầu sẽ giúp ích cho
startup với sản phẩm sáng tạo có được năng
lực cạnh tranh quôc tê cao”, anh Long nói.
Chia sẻ về dự định sau vô địch cuộc thi
khởi nghiệp sáng tạo thế giới với 1 triệu USD
tiền đầu tư, anh Phạm Nam Long cho biết:
“Nêu thuận lợi, Abivin dự định sử dụng tiền
đầu tư để tiêp tục phát triển cho sản phẩm với
trí tuê nhân taọ trong logistics để giải quyêt
bài toán lõi về công nghê tôi ưu hóa tìm
đường”.
Bên cạnh đó, tới đây Abivin cũng sẽ
mở rộng thị trường ngoài Hà Nội, TP.HCM
và tiến tới ở Myanmar, Singapore, Thái Lan,
Indonesia, mong muốn có sự tham gia của
nhiều nhà đầu tư để phát triển doanh nghiệp.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, đội
Abivin vinh dự đưa khởi nghiệp sáng tạo Việt
Nam lên bản đồ thế giới, khẳng định những
sự thay đổi hoàn toàn về chất lượng khởi
nghiệp sáng tạo tại Việt Nam.
Nguồn: Thu Hằng, thanhnien.vn,
18/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 13/60
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Việt Nam chế tạo thành công đạn chống tăng xuyên động năng
Thử nghiệm băn đạn nổ lõm và xuyên động năng
Các nhà khoa học Viện Công nghệ -
Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Viện
Khoa học vật liệu, Trung tâm Phát triển Công
nghệ cao (Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam) đã chế tạo thành công đạn
chống tăng, xe thiết giáp phục vụ quốc phòng,
an ninh quốc gia.
Theo nhóm nghiên cứu, để tiêu diệt xe
tăng cần dựa trên hai nguyên lý cơ bản là chế
tạo được đạn nổ lõm (đạn chống tăng nổi
tiếng B40, B41 ngày xưa hay ngày nay là
súng RPG-29, tên lửa chống tăng) và đạn
xuyên động năng (bộ phận chủ yếu của đầu
đạn là một thanh kim loại, thường làm bằng
hợp kim vônfram hoặc Urani nghèo) với khối
lượng riêng lớn được pháo bắn đi với vận tốc
cao (từ 1,5 đến 1,9 km/s).
Nhóm nghiên cứu do PGS Đoàn Đình
Phương, Viện Khoa học vật liệu chủ trì, thông
qua Hợp phần dự án "Nghiên cứu công nghệ
chế tạo một số chủng loại hợp kim vônfram
ứng dụng làm lõi đạn xuyên động năng trong
quân sự" sau 3 năm đã chế tạo thành công lõi
xuyên cho đạn pháo 85 mm bằng hợp kim
WC-Ni. Lõi đạn đảm bảo được hai yếu tố
quan trọng là tỷ trọng và độ dai của hợp kim.
Bài toán tỷ trọng được nhóm nghiên
cứu dùng công nghệ ép nóng đẳng tĩnh ở
nhiệt độ và áp suất cao (gần 1.500 độ C và
1.000 atmosphere) nhằm tạo ra hợp kim có
mật độ xít chặt hoàn toàn và đồng đều trong
toàn bộ thể tích.
Để đảm bảo độ dai cho hợp kim, nhóm
đã tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu về
vật lý kim loại và tìm ra phương pháp loại bỏ
pha êta trong cấu trúc hợp kim, đây là pha
gây giòn, làm cho độ dai của hợp kim giảm
mạnh. Phát hiện này nhóm nghiên cứu đã
công bố trên tạp chí quốc tế ISI có uy tín về
vật liệu kim loại và gốm.
Đầu đạn chống tăng và các sản phẩm của đề tài.
Kết quả bắn thử nghiệm đạn thật cho
thấy, đạn xuyên động năng pháo 85 mm có sử
dụng lõi xuyên do nhóm chế tạo đã đạt được
các yêu cầu về độ xuyên thép, cũng như các
yêu cầu kỹ thuật khác.
Đây là lần đầu tiên ở nước ta đã chế
tạo thành công đạn xuyên động năng chống
xe tăng và xe thiết giáp. Trong đó, nhóm
nghiên cứu của Viện Công nghệ - Tổng cục
Công nghiệp Quốc phòng chế tạo toàn bộ quả
đạn và nhóm nghiên cứu của PGS Đoàn Đình
Phương chế tạo lõi xuyên.
Trước đó Việt Nam từng sản xuất
được đạn chống tăng theo nguyên lý nổ lõm,
đạn chống tăng theo nguyên lý đạn xuyên
động năng đã nghiên cứu chế tạo nhưng
không thành công.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 14/60
Tuy nhiên, trong chiến tranh hiện đại,
nếu chỉ dùng đạn nổ lõm sẽ bị các cơ cấu
phòng thủ bị động là giáp phản ứng nổ đặt
quanh thành xe, hoặc cơ cấu phòng thủ chủ
động là các vũ khí tia laze gắn trên xe tăng
nhằm vô hiệu hóa đạn nổ. Chỉ có động năng
lớn đạn mới xuyên qua giáp phản ứng nổ và
vỏ thép của xe. Đạn xuyên động năng sẽ bay
rất nhanh, từ khi bắn đến lúc chạm mục tiêu
dưới một giây, do đó các vũ khí laze không
thể đối phó được.
Với thành công mới, kết quả nghiên
cứu được Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
ứng dụng để chế tạo các loại đạn chống tăng
cho pháo lớn hơn như pháo 100 mm và 125
mm với chiều sâu xuyên và uy lực lớn hơn.
Giải thưởng Trần Đại Nghĩa năm 2019 cũng
vừa được trao cho nhóm tác giả công trình.
Nhóm nghiên cứu đề tài đến từ:
- Trung tâm Phát triển công nghê cao;
Viên Khoa học vật liêu; Viên Hóa học (Viên
Hàn lâm Khoa học và Công nghê Viêt
Nam);
- Viên Kỹ thuật Hóa học, Sinh học và
tài liêu nghiêp vụ, Tổng cục Hậu cần Kỹ
thuật, Bô Công an;
- Viên Công nghê nghê, Viên vũ khí
thuôc Tổng cục Công nghiêp Quôc phòng,
Bô Quôc phòng;
- Viên Hóa học - Vật liêu, Viên Khoa
học và Công nghê Quân sự, Bô Quôc phòng.
Nguồn: Bích Ngọc, vnexpress.net,
22/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Chế tạo máy dán tem năng suất bằng 200 công nhân
Chiêc máy dán tem tự động đang được hoàn thiện hình thức cho đẹp măt hơn.
Ông Nguyễn Quốc Hòa (59 tuổi, Thái
Bình) vừa cho ra mắt sản phẩm máy dán tem
tự động chuẩn bị xuất sang Nhật Bản. Chiếc
máy này được thiết kế để thực hiện nhiệm vụ
dán những con tem lên các tờ quảng cáo.
Kỹ sư Hòa cho biết, hồi cuối năm 2018
ông đến thăm một công ty in cao cấp của Nhật
Bản. Bước chân vào nhà xưởng, thấy hàng
trăm công nhân ngồi lúi húi cắt những tem
nhỏ bằng đốt ngón tay rồi dán lên các tờ bìa
quảng cáo. Công ty này đang muốn làm nhanh
hơn cho kịp các đơn hàng và bớt người làm
thủ công nhưng chưa có giải pháp. Họ cho
biết, hiện ở Thụy Sỹ đã chế tạo ra chiếc máy
dán tự động nhưng giá quá cao (gần 500.000
USD) nên họ chưa có khả năng đầu tư. Nếu
như ông Hòa có thể chế tạo chiếc máy tương
tự nhưng giá phù hợp hơn họ sẽ mua.
Để nhặt những con tem nhỏ hơn hoặc
bằng tem bưu điện, dán đúng vào các vị trí của
các tờ mẫu quảng cáo là khá tỉ mỉ và phải rất
chính xác. Thông thường một người làm phải
mất 20 giây để dán xong một tờ. Một quyển có
khoảng 10 tờ nhưng cả trăm ngàn quyển nếu
làm thủ công sẽ tốn rất nhiều thời gian. “Đề
bài khách hàng đưa ra là chê tạo môt chiêc
máy cùng môt lúc có thể nhặt mấy trăm tem
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 15/60
dán lên tờ quảng cáo. Thời gian xong máy
càng sớm càng tôt”, ông Hòa cho biết và nghĩ
rằng có thể làm được nên đã nhận lời.
Tranh thủ những ngày nghỉ Tết
Nguyên đán 2019, ông đã dành khoảng hơn
10 ngày để vẽ thiết kế máy, sau đó công nhân
ở xưởng bắt tay ngay vào chế tạo liên tục
trong 60 ngày. Các kỹ sư phần mềm cũng lập
trình phần điều khiển tự động. Sau gần 4
tháng, chiếc máy hoàn thiện phần thô và chạy
thử. Bài tập chiếc máy thực hiện là in, dán
cùng lúc số lượng lớn, cứ 6 - 8 giây dán xong
một sản phẩm.
Ông Hòa cho biết, việc máy dán
nhanh hay chậm phụ thuộc vào chất lượng
keo dán khô nhanh, bám dính tốt hay chậm.
Nếu máy chạy nhanh quá, dán xong có thể
tem lại bị nhấc lên. “Với kêt quả chạy thử,
máy có thể thay thê khoảng 200 công nhân vì
trung bình 10 giây, máy sẽ dán xong 1 mẫu
với 200 tờ tem”.
Máy được thiết kế gồm 5 cụm với các
nhiệm vụ khác nhau: nhặt tờ cần dán vào
băng chuyền; in lưới để in keo dán vào các ô
đã định trước; nhặt tem để dán lên vị trí đã
được phủ keo; lấy tờ đã dán ra ngoài và cuối
cùng là ép chặt, làm khô.
Toàn bộ vật tư để chế tạo máy được
tận dụng là các khung nhôm, cột thép, cưa và
gắn bằng thiết bị chuyên dụng. Ông cho biết,
nhiệm vụ của ông không phải là làm chiếc
máy cho thật phức tạp mà cố gắng đơn giản
hóa những nhiệm vụ phức tạp vào từng bộ
phận cấu thành máy. “Đó là cái khó nhất và
tôn nhiều công nhưng hiêu quả phải như thiêt
bị đang có của Thụy Sỹ, trong khi đây là máy
chuyên dụng nên không phổ biên trên thị
trường”, ông Hòa nói và cho biết bài toán
khó đã được giải quyết nhưng phải thừa nhận
nhìn bề ngoài hiện máy vẫn còn thô, không
đẹp như máy của Thụy Sỹ nhưng tính năng
thì không thua kém.
Điểm quan trọng hơn, giá của máy dự
kiến chỉ bằng 1/5 giá chiếc máy của Thụy Sỹ và
bảo hành hai năm trong khi máy của nước ngoài
thời gian bảo hành chỉ 6 tháng đến 1 năm.
Trong tháng 5 này, khách hàng ở Nhật
Bản sẽ về nghiệm thu sản phẩm. KS Hòa tâm
sự, cứ có đơn đặt hàng mới, ông sẽ tìm cách
thiết kế máy phù hợp, vì thế không có gì cần bí
mật. Vì vậy ông đã không đăng ký bản quyền
và ai muốn xin bản vẽ để chế tạo ông sẽ cho.
Quan điểm của ông là tiếp tục sáng tạo
những chiếc máy mới, phục vụ cho nhiều
ngành chứ không chỉ sản xuất một loại máy.
Bằng chứng là không chỉ tập trung làm tàu
ngầm, Công ty cơ khí Quốc Hòa do ông đang
làm giám đốc chỉ có khoảng 20 kỹ sư cơ khí,
điện tử nhưng đã cùng với ông thực hiện
nhiều thiết bị đơn chiếc như máy in cuốn
công nghệ Flexo dùng cho ngành in ấn, sản
xuất bao bì, giấy vở học sinh hay máy xén
giấy cung cấp cho khách hàng.
Nguồn: Bích Ngọc, vnexpress.net,
06/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thiết bị thử khả năng chịu rung động của ắc quy xe đạp, xe máy điện phục vụ công tác đăng kiểm xe đạp, xe máy điện
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 16/60
Ắc quy là linh kiện quan trọng đối với
xe đạp điện và xe máy điện, là nguồn động
lực cung cấp năng lượng điện năng cho động
cơ hoạt động. Chất lượng ắc quy ảnh hưởng
đến quãng đường xe có thể chạy được sau
một lần nạp đầy, ảnh hưởng đến an toàn cho
người sử dụng. Khi xe vận hành trong các
điều kiện mặt đường có biên dạng khác nhau
ở các chế độ tốc độ, tải trọng khác nhau thì
rung động là yếu tố tác động trực tiếp lên ắc
quy và có thể gây ra những hỏng hóc như: rò
rỉ dung dịch axit, đánh lửa, cháy, nổ, ảnh
hưởng tới đặc tính lưu điện, phóng điện của
ắc quy và tính năng vận hành của xe cũng
như an toàn cho người sử dụng. Ở các nước
có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật,
châu Âu, Trung Quốc thì khả năng chịu rung
động của ắc quy xe đạp, xe máy điện là hạng
mục bắt buộc phải kiểm tra, thử nghiệm trước
Ắc quy được lắp lên phương tiện hoặc bán
trực tiếp ra thị trường. Hiện nay, thiết bị thử
khả năng chịu rung động của ắc quy xe đạp,
xe máy điện được chế tạo và bán tại các nước
có nền công nghiệp phát triển, tuy nhiên giá
thành rất cao trong khi ở Việt Nam chưa có
một đơn vị nào chế tạo được thiết bị với đầy
đủ tính năng đảm bảo thử nghiệm theo
QCVN 76:2014/BGTVT và QCVN
91:2015/BGTVT.
Với mục đích nghiên cứu nhằm tiết
kiệm kinh phí khi nhập khẩu thiết bị nhưng
vẫn đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và Việt
Nam, việc nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thiết
bị thử khả năng chịu rung động của ắc quy xe
đạp, xe máy điện là rất cần thiết do đó, nhóm
nghiên cứu do ThS. Đinh Quang Vũ, Cục
Đăng kiểm Việt Nam, Bộ Giao thông Vận tải,
đứng đầu đã đề xuất thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu, thiết kế, chế tạo thiết bị thử khả năng
chịu rung động của ắc quy xe đạp, xe máy
điện phục vụ công tác đăng kiểm xe đạp, xe
máy điện”.
Nghiên cứu, thiết kế chế tạo thiết bị
thử khả năng chịu rung động của ắc quy xe
đạp, xe gắn máy điện là một nhiệm vụ rất khó
khăn nhưng cần thiết để phục vụ công tác
đăng kiểm xe cơ giới. Sau 18 tháng nghiên
cứu nghiêm túc, bám sát các yêu cầu trong
thuyết minh đề cương, chủ nhiệm đề tài cùng
nhóm nghiên cứu đã hoàn thành đề tài khoa
học cấp Bộ. Các nội dung đề tài đã đạt được
như sau:
1. Nghiên cứu một cách tổng quát về
thiết bị thử khả năng chịu rung động của ắc
quy xe đạp, xe gắn máy điện;
2. Tìm hiểu một cách hệ thống các tiêu
chuẩn, tài liệu quốc tế và Việt Nam về thiết bị
thử khả năng chịu rung động của ắc quy xe
đạp, xe gắn máy điện và ứng dụng của nó;
3. Nghiên cứu lựa chọn phương án,
thiết kế, chế tạo và lắp đặt hoàn chỉnh 01 thiết
bị phù hợp yêu cầu của thuyết minh đề cương
và đáp ứng được quy chuẩn thử nghiệm
QCVN 76:2014/BGTVT; QCVN
91:2015/BGTVT.
4. Ứng dụng thiết bị chế tạo để thử
nghiệm trên 10 mẫu ắc quy xe đạp, xe gắn
máy điện khác nhau.
5. Thiết bị đã được Tổng cục Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng hiệu chuẩn và cấp
Giấy chứng nhận hiệu chuẩn số
V12CN5:272.17 ngày 16/11/2017. Bằng các
nghiên cứu lý thuyết và áp dụng các tiêu
chuẩn quốc tế, thiết bị có ứng dụng công nghệ
tự động hóa sử dụng linh kiện điện tử hiện đại
của Nhật Bản, Hàn Quốc có thể khẳng định
những kết quả đo có độ tin cậy.
Như vậy, thiết bị này có thể sử dụng
phục vụ công tác thử nghiệm linh kiện xe cơ
giới. Ngoài ra, thiết bị còn phục vụ công tác
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 17/60
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu phát triển
sản phẩm ắc quy của các doanh nghiệp và quá
trình kiểm tra thử nghiệm xe cơ giới phục vụ
công tác quản lý chất lượng phương tiện.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
15/05/2019
Trở về đầu trang
*************
Việt Nam lần thứ 5 vô địch châu Á về xe tiết kiệm nhiên liệu
Đội sinh viên Đại học Lạc Hồng lần thứ 5 đem về chức vô địch cho Việt Nam.
Ngày 1/5, sinh viên Đại học Lạc Hồng
(Đồng Nai) đã vượt qua nhiều đối thủ mạnh để
về nhất cuộc thi Sáng tạo xe tiết kiệm nhiên
liệu châu Á - Shell Eco Marthon Asia 2019
diễn ra tại Malaysia. Đây là chức vô địch thứ 5
liên tiếp của Đại học Lạc Hồng.
Thuộc thể loại đường mô hình đô thị
chạy bằng nhiên liệu pin điện, các thành viên
đội Đại học Lạc Hồng đã về nhất khi đạt được
170 km với 1 kWh điện. Thành tích này hơn
đội về nhì của Indonesia 1 km. Tại cuộc thi
năm ngoái, Đại học Lạc Hồng cũng về nhất
với thành tích 129,3 km/1kWh điện.
Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh, Hiệu phó
Đại học Lạc Hồng cho biết để chuẩn bị cuộc
thi năm nay, nhà trường đã tạo điều kiện cho
các sinh viên được nghiên cứu sáng tạo. “Điểm
mới của thiêt kê lần này là phần vỏ khung nhẹ,
giúp xe giảm khôi lượng và tiêt kiêm năng
lượng”, TS Quỳnh nói.
Cuộc thi năm nay diễn ra từ ngày
28/4 đến 2/5 với hơn 100 đội từ 18 quốc
gia, trong đó Việt Nam có 5 đội đến từ Đại
học Công nghiệp Hà Nội, Đại học Sư phạm
Kỹ thuật TP HCM, Đại học Bách khoa Đà
Nẵng, Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội
và Đại học Lạc Hồng.
Theo Ban tổ chức, cuộc thi năm nay
đánh dấu cột mốc 10 năm vinh danh những
sáng kiến của sinh viên trong thiết kế, chế tạo
các mẫu siêu xe tiết kiệm nhiên liệu.
Nguồn: Phước Tuấn, vnexpress.net,
01/05/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Tận dụng nụ thanh long làm thực phẩm muối chua
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 18/60
Thành phẩm nụ thanh long muối chua của nhóm.
Nhóm sinh viên ĐH Công nghệ
TP.HCM gồm Lê Thị Thúy Dung, Trần Thị
Ngọc Hòa, Nguyễn Dương Huy Hiếu,
Nguyễn Thùy Dung, đã xây dựng một quy
trình chế biến nụ thanh long – một sản phẩm
bỏ đi để tạo ra một loại thực phẩm muối chua
mới lạ.
Lê Thị Thúy Dung, trưởng nhóm kể
trong một chuyến đi thực tế về Long An về
quê một người bạn thân, người dân trồng rất
nhiều thanh long. Song, nụ thanh long bị bỏ
đi rất nhiều.
Lượng nụ bỏ đi quá nhiều nên hầu như
sau khi vặt bỏ thì sẽ làm thức ăn cho cá, làm
phân bón hoặc bỏ đi. Từ đó, Dung suy nghĩ là
tại sao không biến nụ thanh long thành
nguyên liệu trong công nghệ chế biến thực
phẩm. Cách làm này vừa tận dụng nguồn
nguyên liệu sạch, rẻ và đặc biệt là mới lạ đối
với thị trường cũng như người tiêu dùng.
“Chúng em nghĩ rằng sẽ thay thê
nguyên liêu truyền thông như cải bẹ, cà pháo,
dưa chuôt,… thành nụ thanh long sẽ làm mới
môt sản phẩm đã cũ, sẽ tạo nên sự tò mò đôi
với người tiêu dùng và sự khác biêt trên thị
trường. Từ đó, chúng em đã tiên hành nghiên
cứu sản phẩm nụ thanh long muôi chua”-
Trần Thị Ngọc Hòa, thành viên nhóm nói.
Quy trình chế biến nụ thanh long muối
chua đơn giản và khá giống với quy trình chế
biến cải muối chua thông thường. Tuy nhiên,
vì là nguyên liệu mới nên nhóm đã tiến hành
chạy một số thí nghiệm như khảo sát hàm
lượng đường, hàm lượng muối trong dung
dịch muối chua kết hợp khảo sát thời gian lên
men phù hợp để cho ra sản phẩm có giá trị
cảm quan màu, mùi, vị tốt nhất.
“Nêu có điều kiên thì chúng em sẽ
kiểm tra thành phần dinh dưỡng, hóa học có
trong nụ thanh long trước và sau khi muôi
chua để xem có sự biên đổi nào gây nguy hiểm
cho người tiêu dùng hay không”- Nguyễn
Dương Duy Hiếu, thành viên nhóm nói.
TS Nguyễn Lệ Hà, Viện trưởng Viện
khoa học ứng dụng ĐH Công nghệ TP.HCM
đánh giá cao về sự mới lạ của sản phẩm nụ
thanh long muối chua vừa tận dụng được
nguồn nguyên liệu sạch, vừa giúp người dân
thêm thu nhập nếu sản phẩm được chế biến ở
quy mô lớn.
“Nhóm cần thực hiên những nghiên
cứu sâu hơn về sản phẩm để đạt mục tiêu sản
phẩm sẽ được thực hiên ở quy mô lớn hơn,
đưa sản phẩm ra thị trường”- TS Hà nói.
Sản phẩm nụ thanh long muối chua
của nhóm đã xuất sắc đoạt giải Nhì cuộc thi
“Công nghệ chế biến sau thu hoạch” do
Thành đoàn TP.HCM phối hợp với ĐH Công
nghiệp Thực phẩm TP.HCM tổ chức mới đây.
Nguồn: Hà Thê An, khampha.vn,
06/05/2019
Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu vật liệu sản xuất áo chống đạn được Giải thưởng Trần Đại Nghĩa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 19/60
TS Nguyễn Văn Thao - đại diện nhóm tác giả nghiên cứu vật liệu đặc chủng chia sẻ tại
lễ công bố sáng 13/5.
Sáng 13/5, Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam công bố các công trình
được xét trao Giải thưởng Trần Đại Nghĩa
năm 2019 cho các nhà khoa học có thành tựu
xuất sắc về khoa học tự nhiên và công nghệ,
đã hoặc có tiềm năng ứng dụng vào thực tế.
Mỗi công trình được giải sẽ được nhận tiền
thưởng 200 triệu đồng. Dự kiến sáng 17/5 tại
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam sẽ trao giải
thưởng cho các tác giả.
Trong số bốn công trình xuất sắc được
đề nghị trao giải năm nay, đề tài "Nghiên cứu
tổ hợp vật liệu đặc chủng phục vụ chế tạo bộ
hỗ trợ chiến đấu cho người lính và lõi đạn
xuyên động năng 85mm" (tác giả là TS
Nguyễn Văn Thao, PGS Đoàn Đình Phương,
TS Lê Văn Thụ) thuộc lĩnh vực an ninh - quốc
phòng, đã làm chủ được công nghệ sản xuất
vật liệu đặc chủng.
Nhóm tác giả đã tạo được hệ vật liệu
tổ hợp mới và vật liệu nano giúp cho việc chủ
động trong nước tạo ra các sản phẩm chống
va đập, giáp chống đạn hấp thụ năng lượng
hiệu quả, bền, nâng cao hạn sử dụng, giảm
khối lượng trang bị và tăng cường tính cơ
động trong tác chiến. Ngoài ra, các sản phẩm
này còn được phát triển khả năng ngụy trang,
ngăn chặn và phát hiện kịp thời, bảo vệ người
lính khỏi vũ khí hoá học, sinh học
Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Ủy viên
thường trực Hội đồng giải thưởng cho biết,
tiêu chí để lựa chọn công trình để xét giải kết
hợp cả hàn lâm và ứng dụng. Vì thế các nhà
khoa học nghiên cứu hàn lâm có thể phối hợp
cùng các nhà khoa học phát triển ứng dụng để
đưa kết quả vào thực tế.
Giải thưởng Trần Đại Nghĩa tổ chức ba
năm một lần vào dịp kỷ niệm ngày thành lập
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam và Ngày Khoa học và Công nghệ Việt
Nam. Giải thưởng có quy chế mở, áp dụng
với các nhà khoa học người Việt Nam và
nước ngoài đã hoàn thành hoặc đang chủ trì
các công trình nghiên cứu xuất sắc thuộc các
lĩnh vực khoa học tự nhiên, được công bố trên
các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín hoặc
được cấp bằng phát minh, bằng độc quyền
sáng chế trong và ngoài nước.
Nguồn: Bích Ngọc, vnexpress.net,
13/05/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ sắt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 20/60
Trong sản xuất đậu tương ở Việt Nam
cũng như trên thế giới hiện nay, bệnh rỉ sắt
được đánh giá là loại bệnh gây hại nặng nề
nhất, có thể làm giảm năng suất tới 50% hoặc
mất trắng. Các giống đậu tương của ta hiện
nay đang sản xuất, trừ một số giống địa
phương, có tính kháng với bệnh này rất thấp,
đặc biệt trong vụ Xuân và vụ Hè - Thu, bệnh
rỉ sắt phá hại trên diện rộng, là nguyên nhân
dẫn đến giảm năng suất trong sản sản xuất đậu
tương ở Việt Nam hiện nay. Trước thực tế đó,
việc tạo ra một giống đậu tương có năng suất
cao, kháng bệnh rỉ sắt có tính thích ứng rộng
cho sản xuất hiện nay là cần thiết. Công tác
nghiên cứu, chọn tạo giống đậu tương ở Việt
Nam trong những năm qua đã được nhiều cơ
quan nghiên cứu triển khai. Phương pháp
chọn tạo áp dụng vẫn chủ yếu là phương pháp
truyền thống, nên tốn rất nhiều thời gian và
không hiệu quả. Với phương pháp này thì việc
chuyển các gen qui định các tính trạng mong
muốn như: Năng suất cao, chịu hạn, kháng rỉ
sắt... vào cùng một cá thể là rất khó. Cũng
vậy, việc phát triển các giống đậu tương
kháng bệnh rỉ sắt ở nước ta còn chậm và chủ
yếu dựa vào phương pháp chọn tạo truyền
thống, việc áp dụng các kỹ thuật hiện đại như
chọn tạo nhờ chỉ thị phân tử còn hạn chế, mới
chỉ giới hạn ở những nghiên cứu bước đầu.
Như vậy, việc tạo ra giống đậu tương tương
có năng suất cao, ngắn ngày, kháng tốt với
bệnh rỉ sắt và các sâu bệnh khác đáp ứng được
yêu cầu hiện tại của sản xuất là rất cần thiết.
Nếu chỉ bằng phương pháp truyền thống thì
việc tạo ra giống đậu tương mới này là rất
khó. Sử dụng chỉ thị phân nhận diện gen mục
tiêu (gen kháng rỉ sắt) hỗ trợ trong lai tạo và
chọn lọc là cách tốt nhất hiện nay để tạo ra
những giống đậu tương mới theo mục đích
này do đó, nhóm nghiên cứu do TS. Nguyễn
Văn Lâm và TS. Dương Xuân Tú, Viện Cây
lương thực và Cây thực phẩm đứng đầu đã
kiến nghị tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong
chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ sắt”.
Đề tài đã hoàn thành các nội dung,
công việc và sản phẩm theo kế hoạch. Kết
quả chính đã đạt được trong các nội dung
nghiên cứu, cụ thể như sau:
- Thu thập, phân lập và duy trì được 3
nguồn nấm gây bệnh rỉ sắt đặc trưng trên cây
đâu đậu tương tại các vùng sinh thái Việt
Nam: IS-15 đại diện cho vùng sinh thái phía
Bắc; IS-17 đại diện cho vùng sinh thái miền
Trung và S-28 đại diện cho vùng sinh thái
phía Nam.
- Đã xác định được trên cây đậu tương
gen Rpp2 và Rpp4 có khả năng kháng tốt với
nguồn nấm bệnh rỉ sắt Việt Nam, gen Rpp5
kháng tốt với nguồn nấm bệnh rỉ sắt ở khu
vực sinh thái phía Nam.
- Cho mục tiêu chọn tạo giống đậu
tương mới có TGST ≤ 100 ngày, năng suất
≥25 tạ/ha, kháng tốt với bệnh rỉ sắt, đã xác
định được vật liệu bố mẹ trong các tổ hợp lai
định hướng, bao gồm: 15 mẫu giống giống sử
dụng làm mẹ có TGST ≤ 98 ngày, năng suất
đạt từ 25 tạ/ha và 18 mẫu giống có thể sử
dụng làm các giống cho gen kháng bệnh rỉ sắt
trong các gen Rpp2, Rpp4 và Rpp5.
- Lựa chọn được 3 chỉ thị phân tử liên
kết với gen kháng với các nguồn nấm bệnh rỉ
sắt đậu tương Việt Nam: Satt 620 - Rpp2 =
3,75 cM, Satt288 - Rpp4 = 2,08 cM và Sat_
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 21/60
275 - Rpp5 = 4,16 cM - Lai tạo được 52 tổ
hợp lai đơn tạo vật liệu cho chọn lọc giống
mới theo mục tiêu, trong đó 42 tổ hợp lai cho
vùng sinh thái phía Bắc và 10 tổ hợp lai cho
vùng sinh thái phía Nam; 15 tổ hợp lai
backross để chuyển gen kháng bệnh rỉ sắt
trong các gen Rpp2 và Rpp4 vào các giống
đậu tương có năng suất cao nhưng kháng
bệnh rỉ sắt còn hạn chế.
- Chọn được 23 dòng đậu tương triển
vọng, trong đó 17 dòng cho vùng sinh thái
phái Bắc và 6 dòng cho vùng sinh thái phía
Nam, có năng suất từ 25 tạ/ha, thời gian sinh
trưởng < 100 ngày, mang gen kháng bệnh rỉ
sắt, thể hiện tính kháng tốt với nguồn nấm
gây bệnh tại các vùng sinh thái trong điều
kiện lây nhiễm nhân tạo và trên đồng ruộng,
chống đổ và chịu hạn tốt.
- 4 giống đậu tương khảo nghiệm được
đánh giá triển vọng. Trong đó 2 giống cho
vùng sinh thái phía Bắc là giống Đ9 và Đ10
có TGST từ 92 – 89 ngày (vụ Đông), có thể
gieo trồng được cả 3 vụ (Vụ Xuân, vụ Hè và
vụ Đông) tại các tỉnh phía Bắc, năng suất từ
25,6 - 28,3 tạ/ha, chống chịu tốt với sâu bệnh
hại, chống đổ, chịu hạn tốt; 2 giống cho vùng
sinh thái phía Nam là TH29 và TH6 có TGST
từ 88 - 91 ngày, năng suất đạt từ 25,2 - 25,6
tạ/ha, kháng tốt với bệnh rỉ sắt và các loại sâu
bệnh hại khác, chống đổ và chịu hạn tốt. -
Hoàn thiện qui trình ứng dụng chỉ thị phân tử
trong chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ
sắt, được hội đồng KHCN cấp cơ sở thông
qua. Qui trình đã được ứng dụng tại Viện
CLT - CTP trong chọn tạo giống đậu tương
kháng bệnh rỉ sắt mang lại hiệu quả cao.
Kết quả nghiên cứu của đề tài được
đăng tải trên Tạp chí của Bộ NN&PTNT,
Tạp chí của Học viện Nông nghiệp Việt Nam
và Tạp chí của Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam.
Như vậy, kết quả đề tài đã cung cấp
dẫn liệu thông tin khoa học về các nguồn nấm
gây bệnh rỉ sắt đậu tương Việt Nam; di truyền
gen kiểm soát tính kháng với các nguồn nấm
gây bệnh rỉ sắt đậu tương Việt nam; các chỉ
thị phân tử ADN liên kết với gen kháng với
các nguồn nấm gây bệnh sử dụng trong chọn
tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ sắt. Khẳng
định hiệu quả của phương pháp lai tạo và
chọn lọc kiểu hình kết hợp với sử dụng chỉ thị
phân tử DNA chọn kiểu gen mục tiêu (MAS)
trong chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ
sắt. Qui trình ứng dụng chỉ thị phân tử trong
chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ sắt
được ứng dụng tại Viện Cây lương thực và
Cây thực phẩm và là tài liệu tham khảo tốt
cho các tổ chức chọn tạo giống đậu tương
khác trong cả nước. Cung cấp nguồn vật liệu
cho chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ
sắt: các vật liệu bố mẹ cho xây dựng các tổ
hợp lai; 23 dòng đậu tương triển vọng được
tạo mới từ từ đề tài mang gen kháng bệnh rỉ
sắt có các đặc điểm: TGST ngắn (<100 ngày),
năng suất: 25 - 27 tạ/ha, kháng bệnh rỉ sắt tốt
(điểm 1-3). Các giống đậu tương phát triển
cho sản xuất: 4 giống đậu tương (Đ9 và Đ10
tại khu vực phía Bắc, TH6 và TH29 tại khu
vực phía Nam) đáp ứng được yêu cầu trong
sản xuất hiện nay: thời gian sinh trưởng từ 95
- 100 ngày, năng suất từ 25,0 - 28,0 tạ/ha,
kháng bệnh rỉ sắt điểm 1 - 3. Các giống đậu
tương này đang được tiếp tục khảo nghiệm để
phát riển cho sản xuất trong thời gian tới.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
16/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Tận dụng nguồn vi sinh vật bản địa: Phát triển Chế phẩm nấm rễ cộng sinh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 22/60
Vùng thử nghiệm chê phẩm nấm rễ cộng sinh ơ Băc Giang
Hiện nay, đã có rất nhiều doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư phát triển các chế phẩm
sinh học cải tạo đất và nhiều doanh nghiệp
Việt Nam cũng đi theo con đường này, tự tạo
ra một số chế phẩm tương tự. Tuy nhiên, các
sản phẩm hiện có tại Việt Nam mới chỉ dừng
lại ở mức chế phẩm sinh học hay hóa học có
tác dụng giữ ẩm đất và kích thích cây trồng
phát triển phần nào chứ chưa phải nhằm giải
quyết vấn đề cải tạo đất triệt để, PGS.TS.
Nguyễn Thị Minh, Khoa Môi trường, Học
viện Nông nghiệp Việt Nam (HVNNVN)
nhận xét.
Ngoài hạn chế này, các chế phẩm đó
lại có nhược điểm là thời gian sử dụng ngắn,
chỉ ở tầm vài tháng do có chứa các vi sinh vật
sống như vi khuẩn quang hợp, vi khuẩn lactic,
nấm men, xạ khuẩn, nấm mốc..., nghĩa là khi
đến tay người nông dân thì họ chỉ còn rất ít
thời gian để sử dụng và chất lượng không ổn
định. Mặt khác, các sản phẩm của nước ngoài
có giá thành cao (khoảng 600.000 đồng/lít
chế phẩm), lại không phù hợp với điều kiện
sinh thái ở Việt Nam (nhiều sản phẩm sử
dụng ở nước ngoài rất hiệu quả nhưng khi áp
dụng trên các vùng đất Việt Nam, vi sinh vật
ngoại lai phải cạnh tranh với vi sinh vật bản
địa nên bị giảm tác dụng).
Do vậy, PGS.TS. Nguyễn Thị Minh và
cộng sự đã quyết định phát triển chế phẩm
sinh học sử dụng các giống nấm rễ nội cộng
sinh Arbuscular Mycorrhizae (AM) và
Rhizobium bản địa thông qua việc triển khai
“Nghiên cứu vật liệu sinh học nhằm tái tạo
thảm thực vật phủ xanh đất trống đồi núi
trọc” - đề tài do HVNNVN cấp kinh phí và
được thực hiện từ năm 2012.
Từ lâu, nấm rễ đã được biết đến với
khả năng thúc đẩy phát triển hệ rễ và việc hấp
thụ dinh dưỡng của cây trồng, đồng thời giúp
cải thiện cấu trúc đất qua việc tạo ra các chất
hữu cơ và chất keo. PGS.TS. Nguyễn Thị
Minh cho biết, mặc dù các chủng nấm rễ nội
cộng sinh AM và Rhizobium đều phổ biến
trong đất Việt Nam nhưng để có được những
chủng giống phù hợp với mục đích sử dụng,
chị Minh đã phải thực hiện rất nhiều bước
tuyển chọn như chọn mẫu, phân lập, đọc mã
gene để xác định loài và hoạt tính rồi thử
nghiệm trên các mô thực vật và động vật. Quá
trình này cứ lặp đi lặp lại hàng năm trời, “đó
là trong trường hợp thuận lợi, nêu không còn
mất nhiều thời gian hơn”, PGS.TS. Nguyễn
Thị Minh cho biết.
Quá trình phân lập và tuyển chọn đã
khó, việc nhân giống nấm rễ cộng sinh còn
phức tạp hơn. Khác với các loại vi sinh vật
thông thường có thể sinh sản rất nhanh trong
vài giờ đồng hồ bằng phương pháp lên men,
nấm rễ AM bắt buộc phải cộng sinh trên rễ.
Có 2 phương pháp nhân giống nấm rễ AM là
in vitro (nhân giống trong ống nghiệm) và in
vivo (nuôi cấy trong điều kiện tự nhiên ngoài
ống nghiệm). Bởi các kỹ thuật này khá phức
tạp, lại yêu cầu các dụng cụ và hóa chất đặc
biệt nên giá thành của các chủng giống nấm
rễ cộng sinh thường cao gấp 4-5 lần so với
các chủng vi sinh vật bình thường, “môt
chủng giông vi sinh vật bình thường có giá
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 23/60
khoảng 50 triêu đồng, nhưng nấm rễ công
sinh có thể lên tới 200 triêu đồng”, PGS.TS.
Nguyễn Thị Minh cho biết.
Sau gần 1 năm, PGS.TS. Nguyễn Thị
Minh và nhóm nghiên cứu đã chế tạo thành
công chế phẩm sinh học chứa nấm rễ cộng
sinh, phối trộn thêm một số loài vi sinh vật
bản địa khác, cùng các chất dinh dưỡng và hạt
giống cây. Kết quả thử nghiệm ban đầu cho
thấy, chế phẩm có khả năng tái tạo thảm thực
vật thành công 100% ngay cả trong điều kiện
đất đai cạn kiệt dinh dưỡng, bị axit hóa hay bị
tàn phá sau thiên tai cũng như ở các địa hình
phức tạp.
Từ dòng chế phẩm tái tạo thảm thực
vật ban đầu, PGS.TS. Nguyễn Thị Minh đến
nay đã mở rộng ra nhiều dòng khác như dòng
chế phẩm kích thích sinh trưởng, trị bệnh
truyến trùng cho hồ tiêu hoặc chế phẩm cải
tạo đất bị axit, thoái hóa, rửa trôi, nhiễm mặn,
khô hạn quá, hoặc bị ô nhiễm,…
Sau khi áp dụng thành công ở Bắc
Giang, HVNNVN đã sản xuất thử và trưng
bày chế phẩm ở siêu thị HVNNVN - một
kênh tiếp thị đã được mở từ khá lâu và thu hút
được sự chú ý của cả doanh nghiệp lẫn người
tiêu dùng. Ngay sau đó, đã có rất nhiều người
liên hệ với trường để hỏi mua, phần lớn là
những người làm trang trại hồ tiêu, cà phê... ở
trong miền Nam. Không chỉ các cá nhân mà
cả công ty vi sinh của TS. Phạm Xuân Đại
cũng muốn mua lại kết quả nghiên cứu này để
triển khai sản xuất.
Đây là dấu hiệu đáng mừng vì không
chỉ chứng minh được giá trị của sản phẩm mà
với PGS.TS. Nguyễn Thị Minh, đó là cơ hội
để giúp người dùng tiếp cận được sản phẩm
có giá thành phù hợp mà vẫn mang lại hiệu
quả cao. Chị bày tỏ: “Là nhà khoa học, mình
thấy có nhiều kêt quả nghiên cứu có giá trị
nhưng không thể thương mại hóa được, rất
lãng phí trong khi người dùng nhiều lúc mua
phải những sản phẩm kém chất lượng, vừa
ảnh hưởng lại vừa tôn tiền”.
Nguồn: Thanh An,
khoahocphattrien.vn, 11/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu chọn tạo giống khoai lang có hàm lượng tinh bột cao bằng chỉ thị phân tử cho các tỉnh phía Bắc
Việc xác định chỉ thị hay một nhóm chỉ
thị đồng đẳng để nhận dạng ADN (ADN
riboxom hoặc ADN lục lạp) của một dòng
khoai lang mang những đặc điểm cụ thể nào
đó là điều có thể làm được. Tuy độ chính xác
của loại chỉ thị này không cao như những chỉ
thị được xác định trên các dòng thuần tự phối,
nhưng vẫn có khả năng sử dụng để phân biệt,
lựa chọn được những cá thể hoặc dòng khoai
lang mang những đặc điểm mong muốn. Để
giải quyết một số vấn đề đang tồn tại trong sản
xuất và chọn tạo giống khoai lang ở các tỉnh
phía Bắc, Nhóm nghiên cứu do TS. Ngô Doãn
Đảm, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm
đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu chọn tạo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 24/60
giống khoai lang có hàm lượng tinh bột cao
bằng chỉ thị phân tử cho các tỉnh phía Bắc”.
Các kết quả chính đã đạt được của đề
tài như sau:
1. Đánh giá nguồn vật liệu khởi đầu
phục vụ cho công tác lai tạo và chọn lọc các
dòng khoai lang mới theo mục tiêu: Đã đánh
giá sơ bộ 122 mẫu dòng giống khoai lang vật
liệu, đánh giá chi tiết kiểu hình của 100 dòng
giống, đánh giá đa dạng di truyền và xác định
mối quan hệ di truyền của tập đoàn giống
khoai lang vật liệu. Trên cơ sở đó, đã chọn
được 43 dòng giống khoai lang để làm nguồn
giống bố mẹ cho lai tạo tổ hợp lai mới.
2. Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân
tử trong chọn giống khoai lang có hàm lượng
tinh bột cao: Sử dụng 60 chỉ thị SSR để phân
tích đa hình và nghiên cứu mối tương quan
giữa chỉ thị SSR và tính trạng tinh bột của tập
đoàn dòng giống khoai lang có hàm lượng
tinh bột từ thấp đến cao, đã xác định được 3
chỉ thị có mối tương quan khá chặt với tính
trạng hàm lượng tinh bột: chỉ thị ITSSR15 là
83,64%; chỉ thị ITSSR8 là 77,2%; chỉ thị
IbY47 là 71,0% và 1 chỉ thị có mối tương
quan với tính trạng hàm lượng tinh bột ở mức
trung bình (chỉ thị IbE29 là 52,9%).
3. Lai tạo và chọn lọc các dòng khoai
lang mới theo mục tiêu: Đã tiến hành lai tạo
58 tổ hợp lai xác định, thu được 8.455 hạt lai
phục vụ chọn giống khoai lang có năng suất
cao >25 tấn/ha và hàm lượng tinh bột củ
>22%. Đã gieo trồng và đánh giá sơ bộ kiểu
hình 7.919 dòng khoai lang thực sinh (đời
C0). Đã sử dụng 4 chỉ thị liên quan đến tính
trạng hàm lượng tinh bột cao trong củ để sàng
lọc 914 dòng khoai lang ưu tú đời C0, đã phát
hiện được 116/914 dòng có gen liên kết với 1
hoặc 2 trong 4 chỉ thị phân tử nghiên cứu.
Tiếp tục chọn lọc kiểu hình đời C1 và C2 với
116 dòng, so sánh chính qui các dòng ưu tú
nhất, đã chọn được 11 dòng khoai lang triển
vọng có mang gen liên quan đến tính trạng
hàm lượng tinh bột củ cao, đạt năng suất củ
từ 25,1 đến 27,7 tấn/ha, vượt 58,9 đến 77,3%
năng suất của giống đối chứng Hoàng Long
(15,8 tấn/ha); hàm lượng tinh bột củ đạt từ
22,2% đến 23,8% và cao hơn so với giống đối
chứng (20,7%).
4. Kết quả khảo nghiệm sinh thái các
dòng giống triển vọng tại 4 tỉnh phía Bắc
trong 3 vụ (đông 2014, xuân 2015 và đông
2015); đã chọn được 2 giống khoai lang đáp
ứng được các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật mục
tiêu đề tài đặt ra. Giống khoai lang VC6 có
nguồn gốc từ tổ hợp lai VA1 x CIP68 được
lai tạo năm 2012; trong đó giống mẹ VA1 là
giống năng suất cao và giống bố CIP68 có
hàm lượng tinh bột củ cao. Giống VC6 mang
số mã dòng 190, đã được xác định có gen liên
quan đến tính trạng hàm lượng tinh bột củ
cao; được nhận dạng bằng 2 chỉ thị ITSSR15
và IbE29. Giống VC6 có TGST vụ xuân 130
– 140 ngày, vụ đông 110 - 115 ngày, dạng
thân nửa đứng, dạng lá hình tim, lá non màu
tím, vỏ củ màu đỏ, ruột củ màu trắng ngà; củ
luộc rất bở. Năng suất củ đạt 25,8 - 26,8
tấn/ha (vượt 58,3 đến 62,1% so với giống đối
chứng Hoàng Long); hàm lượng tinh bột củ
đạt 22,23%; năng suất tinh bột củ đạt 5,8 đến
5,9 tấn/ha (vượt 72,6% giống đối chứng).
Giống khoai lang VC7 có nguồn gốc từ tổ
hợp lai 194555.7/KLC19, được lai tạo năm
2012; mang số mã dòng 70, đã được xác định
có gen liên quan đến tính trạng hàm lượng
tinh bột cao trong củ; được nhận dạng bằng
chỉ thị IbY47. Giống VC7 có TGST vụ xuân
130 - 140 ngày, vụ đông 110 - 115 ngày, dạng
thân nửa đứng, dạng lá hình tim, vỏ củ màu
đỏ, ruột củ màu vàng nhạt; củ luộc rất bở.
Năng suất đạt 25,1 - 25,4 tấn/ha (vượt 52,0
đến 55,8% năng suất giống đối chứng); hàm
lượng tinh bột củ đạt 22,7%; năng suất tinh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 25/60
bột củ đạt 5,7 đến 5,8 tấn/ha (vượt 68,6%
giống đối chứng).
5. Biện pháp kỹ thuật: Đã tiến hành
nghiên cứu biện pháp kỹ thuật cho giống
VC6, sơ bộ kết luận trong điều kiện vụ đông,
nên trồng giống khoai lang VC6 ở mật độ
33.000 dây/ha và bón với mức 10 tấn phân
chuồng cộng với 80 kg N + 40 kg P205 + 120
kg K20 cho 1 hecta.
6. Qui trình: Đã xây dựng được qui
trình ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn
giống khoai lang có hàm lượng tinh bột cao,
được Hội đồng KHCN cấp cơ sở thông qua.
Qui trình đã và đang được sử dụng trong chọn
tạo giống khoai lang có hàm lượng tinh bột
cao tại Viện CLT - CTP.
Nhóm nghiên cứu đề nghị Bộ NN-
PTNT cho đề tài triển khai giai đoạn 2 để
phát triển các dòng khoai lang triển vọng từ
nguồn vật liệu đã tạo và phát triển 2 giống
khoai lang VC6 và VC7 có năng suất củ và
hàm lượng tinh bột củ cao ra sản xuất.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
19/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Y HỌC
Tá dược từ hạt mít giúp thuốc tan trong 6 phút
Tinh bột carbonxymethyl từ hạt mít sau sấy sẵn sàng để sản xuất tá dược.
Hạt mít chứa 65 - 80% tinh bột (theo
khối lượng chất khô) có thể sử dụng làm thành
phần chủ yếu để sản xuất tá dược. Nhóm sinh
viên từ Khoa Công nghệ kỹ thuật hóa học, Đại
học Công nghiệp thực phẩm TP.HCM gồm
Huỳnh Thị Anh Thư, Lê Nguyễn Phương
Thanh, Nguyễn Thị Huệ Chi, Nguyễn Quỳnh
Như đã tận dụng tinh bột từ hạt mít để thay thế
nguồn tinh bột đang dùng sản xuất tá dược là
ngũ cốc, khoai, sắn.
Hạt mít sau khi loại vỏ trắng và vỏ nâu
được nghiền nhỏ với nước, tỷ lệ nguyên liệu
và nước là 1:5 (khối lượng/thể tích), bỏ bã, để
lắng 3 ngày. Tinh bột thu được với hiệu suất
thu hồi khoảng 27.11% đưa vào tủ sấy ở 50
độ C trong một ngày để thu được tinh bột hạt
mít nguyên chất.
Tinh bột hạt mít trải qua quá trình phản
ứng hóa học với axit chloroactetic
(CH2ClOOH) hoặc muối natri chloroactat
(CH2ClCOONa) để tạo thành tinh bột
carboxymethyl (CMS). Tinh bột CMS có độ
trương nở, hòa tan cao hơn so với tinh bột
nguyên liệu hạt mít, đặc biệt có độ ổn định cao
so với môi trường.
Thử nghiệm tá dược sản xuất từ tinh
bột CMS để tạo thành viên paracetamol
350mg cho thấy, khi thuốc vào cơ thể đã tan
chỉ trong 6 – 7 phút. Mức độ hòa tan và khả
năng trương nở (rã thuốc) này tương đương 2
loại tá dược thương phẩm phổ biến trên thị
trường là primogel và explotab.
Tại Cuộc thi Công nghệ chế biến sau
thu hoạch năm 2019, đề tài nghiên cứu được
trao giải khuyến khích. Hội đồng chuyên môn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 26/60
đánh giá đề tài nghiên cứu đã tìm ra nguyên
liệu tinh bột mới tốt hơn, chi phí thấp hơn
(thay thế cho nguồn nguyên liệu phổ biến), dễ
thu hồi để chế tạo CMS, không cạnh tranh với
nhu cầu tiêu thụ tinh bột hàng ngày của con
người, có tiềm năng mở rộng quy mô sản xuất
công nghiệp.
Huỳnh Thị Anh Thư, thành viên nhóm
nghiên cứu cho biết, nhóm sẽ tiếp tục hoàn
thiện quy trình trên quy mô phòng thí nghiệm
để tiến tới đưa sản phẩm phẩm tinh bột
carboxymethyl chế tạo từ tinh bột hạt mít ra
thị trường.
Nguồn: Phan Minh, vnexpress.net,
30/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Sáng chế robot phát thuốc
Hải và Lam tại gian hàng trưng bày sáng chê ơ triển lãm ITEX.
Một tuần sau khi về nước từ Triển lãm
quốc tế về sáng kiến, sáng chế (ITEX) tại
Kuala Lumpur (Malaysia), Tống Duy Hải và
Trần Phương Lam (học sinh lớp 11A3, trường
THPT Yên Hòa, Hà Nội) vẫn không quên
cảm giác được gọi tên lên bục nhận huy
chương vàng, rồi lại trở thành một trong số ít
nhóm giành giải thưởng Best Invention (Sáng
chế tốt nhất) và Best Young Inventor (Nhà
sáng chế trẻ tốt nhất) cho dự án Robot hỗ trợ
trong bệnh viện.
Hai em còn đạt thêm giải phụ Special
Gold Medal (Huy chương vàng đặc biệt) từ tổ
chức Highly Innovative Unique Foundation
của Saudi Arabia cho dự án.
Trước khi đăng ký tham dự triển lãm
quốc tế với hơn 1.000 nhóm đến từ khoảng 20
quốc gia, Hải và Lam đã mang sáng chế robot
hỗ trợ trong bệnh viện tới cuộc thi Khoa học
kỹ thuật trong nước. Trải qua nhiều vòng thi,
các em nhận được giải nhì toàn quốc.
Hải và Lam có ý tưởng sáng tạo robot
vào tháng 5/2018, sau khi bày tỏ mong muốn
tham gia cuộc thi khoa học kỹ thuật với thầy
cô. Nhận thấy Việt Nam chỉ có khoảng 1,3 y
tá trên một nghìn dân, công việc của y tá lại
nặng nề, áp lực trong khi Việt Nam chưa có
một dự án nào để giải quyết vấn đề này, hai
em quyết định tìm giải pháp. “Ngay từ đầu,
chúng em không nghĩ tới những gì lớn lao mà
chỉ nghĩ thiêt kê môt thiêt bị đơn giản, có thể
hỗ trợ y tá môt phần nhỏ công viêc hàng ngày
như cấp phát thuôc tới bênh nhân. Viêc này
tưởng chừng nhỏ nhưng đòi hỏi thời gian và
đô chính xác cao”, Hải chia sẻ.
Sau quá trình tìm hiểu, thấy Thái Lan
có robot y tá giúp chuyển hồ sơ, tài liệu giữa
các văn phòng trong bệnh viện, hay Nhật Bản
có robot di chuyển tới một số khu vực đặc
biệt để cung cấp dịch truyền tĩnh mạch, các
mẫu xét nghiệm và một số vật liệu y tế, Hải
và Lam cũng nghĩ tới một robot sẽ chạy khắp
các phòng bệnh để phát thuốc cho bệnh nhân
thay y tá.
Lam cho biết dưới sự hỗ trợ của một
thầy giáo ở Đại học Khoa học tự nhiên (Đại
học Quốc gia Hà Nội), em và Hải đã sáng tạo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 27/60
ra mô hình robot đơn giản để dự thi cấp cụm
(gồm hai quận) rồi thi thành phố. Sau đó, các
em có một số cải tiến để dự thi cấp quốc gia
và đạt giải nhì hồi tháng 3.
Robot của hai em được trang bị thiết bị
dò đường sử dụng cảm biến quang học, tích
hợp cảm biến tiệm cận giúp nó có thể dò
đường trong bệnh viện theo ký hiệu, biết
dừng lại trước các phòng bệnh và dừng lại khi
có vật cản. Một camera được lắp giúp người ở
trung tâm điều khiến theo dõi lộ trình di
chuyển của robot đồng thời điều khiển bằng
tay từ xa khi thấy nó gặp vật cản.
Robot cũng có các ngăn với số thuốc
tương ứng cho bệnh nhân. Người bệnh điều
trị sẽ được cấp một mã QR. Trước khi lấy
thuốc, họ chỉ cần đến gần robot, quét mã QR
và robot sẽ đưa thuốc ra theo đúng địa chỉ.
Ngoài ra, robot còn được trang bị trạm sạc
điện không dây sử dụng năng lượng mặt trời
giúp nó có thể tự động sạc điện sau khi kết
thúc công việc.
“Khi Hải và Lam được giải nhì quôc
gia và gần đây nhất là huy chương vàng tại
Malaysia, tôi cũng như các thầy cô rất vui
mừng. Dù vừa phải nghiên cứu và học tập,
hai em vẫn hoàn thành tôt nhiêm vụ tại
trường”, thầy Thầy Hoàng Việt Hưng, giáo
viên Vật lý trường THPT Yên Hòa, người
hướng dẫn Lam và Hải, nói.
Hiện robot phát thuốc của Hải và Lam
mới được thiết kế dưới dạng thử nghiệm, di
chuyển trong không gian nhỏ. “Để tạo ra môt
chú robot thực thụ, có thể sử dụng trong bênh
viên, chúng em cần nhiều thời gian hơn.
Ngoài ra, chúng em cũng cần sự hướng dẫn,
trợ giúp và đồng hành của những người thực
sự quan tâm, có khả năng giúp phát triển sản
phẩm này”, Lam nói.
Nguồn: Dương Tâm, vnexpress.net,
12/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công bộ sinh phẩm phát hiện gene kháng kháng sinh
Bộ sinh phẩm giúp rút ngắn thời gian
chẩn đoán bệnh, phát hiện gene kháng kháng
sinh với yêu cầu lượng máu ít.
Tác giả của công trình là nhóm nghiên
cứu đến từ Bệnh viện Trung ương Quân đội
108 do PGS.TS Lê Hữu Song, Phó Giám đốc
Bệnh viện làm trưởng nhóm.
Đây là kết quả chính của đề tài
“Nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xác định
vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp
và phát hiện gene kháng kháng sinh”. Đề tài
đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước
đánh giá xuất sắc với những thành công vượt
bậc như đạt hai Bằng sáng chế sở hữu trí tuệ,
4 bài báo Quốc tế ISI có hệ số ảnh hưởng cao,
3 bài báo đăng trên tạp chí uy tín trong nước.
Cốt lõi của đề tài là phát minh được
phương pháp loại bỏ được hơn 98% ADN của
người trong mẫu máu và làm giàu ADN của
mầm bệnh, từ đó làm tăng khả năng phát hiện
mầm bệnh từ 34% lên 54%, rút ngắn thời gian
chẩn đoán bệnh còn 4-6 giờ (so với 48-72 giờ
của phương pháp cấy máu truyền thống).
Phương pháp này yêu cầu lượng máu ít
(chỉ khoảng 1-2 ml, trong khi cấy máu truyền
thống yêu cầu đến 10-20 ml). Ưu việt như
vậy nhưng giá thành tạm tính của bộ sinh
phẩm mới tạo ra thấp hơn gần 1/2 lần so với
bộ kit thương mại CE-IVD septifast.
Hiện công trình nghiên cứu đã được áp
dụng và triển khai chẩn đoán thường quy tại
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 28/60
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 với gần
1.000 ca xét nghiệm. Ngoài ra, tại các bệnh
viện lớn như Bệnh viện 175, Bệnh viện Quân
y 103, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương
cũng đã áp dụng. Bộ sinh phẩm này có thể sử
dụng trên nhiều thiết bị sinh học phân tử hiện
có tại các phòng xét nghiệm của các bệnh
viện ở nước ta nên không cần phải đầu tư lớn.
Ngày 14/5 tới đây, công trình sẽ nhận
giải Nhất Giải thưởng Khoa học Công nghệ
Việt Nam năm 2018 và Chứng chỉ WIPO (Tổ
chức sở hữu trí tuệ thế giới) tại Cung Văn hóa
Hữu nghị Việt Xô.
Nguồn: BT, baochinhphu.vn,
10/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Phát hiện tinh dầu hạt tiêu có thể chống bệnh gút
PGS Trần Đăng Xuân (bên phải) và nghiên cứu sinh tại phòng thí nghiệm.
Nhóm nghiên cứu người Việt Nam và
Indonesia tại Đại học Hiroshima (Nhật Bản)
do PGS Trần Đăng Xuân đứng đầu vừa công
bố trên tạp chí sinh hóa quốc tế nổi tiếng
Molecules của MDPI ngày 15/5 về tinh dầu
tiêu của Việt Nam, có tác dụng chống ôxy
hóa mạnh và ức chế bệnh gút. Ngoài ra tinh
dầu tiêu còn có tác dụng ức chế sinh trưởng
các loài cỏ xâm hại như đơn buốt (Bidens
pilosa) và cỏ lồng vực (Echinochloa crus-
galli). PGS Xuân cho biết, “tinh dầu tiêu sẽ
mang lại nhiều giá trị cao trong ngành y
dược, và cả nông nghiêp cho Viêt Nam”.
Các nhà khoa học đã tiến hành chưng
cất tinh dầu từ hạt tiêu thất và tiêu đen, sau đó
nghiên cứu các hoạt tính chống ôxy hóa, tác
dụng lên hoạt động của enzyme xanthine
oxidase, một trong những tác nhân chính gây
nên bệnh gút. Tinh dầu tiêu còn có thể ức chế
sinh trưởng đối với cây đơn buốt và lồng vực
- loại cỏ xâm hại khắp đồng ruộng Việt Nam
và nhiều nơi trên thế giới.
PGS Trần Đăng Xuân cho biết, so với
chất chống gút chuẩn hiện đang phổ biến trên
thị trường (Allopurinol là 20.45
microgram/ml), tinh dầu tiêu có khả năng ức
chế hoạt động của enzyme xanthine oxidase
bằng gần 30% so với chất chuẩn (giá trị IC50
lên tới 54.87-77.11 microgram/ml). Tuy
nhiên, sử dụng Allopurinol cũng như các
thuốc điều trị gút khác thường gây tác dụng
phụ lên gan, thận, tim mạch, tuyến
giáp....Ngoài ra, cả hai loại tinh dầu tiêu đều
ức chế nảy mầm, độ dài rễ và thân của cỏ đơn
buốt và lồng vực (giá trị IC50 trong khoảng
1.93-7.21 mg/ml).
Tìm hiểu khả năng ức chế sinh trưởng
của cỏ dại, nhóm nghiên cứu phát hiện tinh
dầu khiến các sắc tố carotenoids và diệp lục bị
suy giảm mạnh, mức độ rò rỉ ion trong tế bào
và khả năng ôxy hóa quá mức chất béo trong
hai loại cỏ bị tăng mạnh. “Đây chính là môt
trong những nguyên nhân gây ức chê phát
triển của hai loại cỏ hại này”, PGS Xuân nói.
Thành phần hóa học của hai loại tinh
dầu tiêu này được nhóm nghiên cứu phân tích
bằng phương pháp sắc khí ghép khối phổ GC-
MS và sắc khí lỏng ghép dầu dò khối phổ
(LC-ESI-MS). Trong mọi thí nghiệm đều cho
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 29/60
thấy tinh dầu tiêu thất có tác dụng chống ôxy
hóa, ức chế gút, và giảm sinh trưởng cỏ dại
đều tốt hơn tiêu đen. Nguyên nhân có lẽ là do
các thành phần hóa học chính trong hai loại
tinh dầu trên có khác nhau.
Theo PGS Trần Đăng Xuân, các
nghiên cứu cho thấy tinh dầu tiêu là nguồn
dược liệu quý mà Việt Nam cần tìm hiểu,
phân tích kĩ lưỡng, để có thể mang lại giá trị
cao hơn cho hạt tiêu Việt Nam. Đặc biệt nếu
nhỏ một vài giọt tinh dầu tiêu vào thức ăn
hoặc đồ uống, hoặc tiêu sử dụng trong nấu ăn
có nhiều tác dụng không ngờ.
Các nghiên cứu cũng cho thấy tinh dầu
tiêu không mang các tác dụng phụ lên cơ thể
như các loại thuốc điều trị gút khác. Tinh dầu
tiêu còn có nhiều trong lá tiêu, ông Xuân cho
rằng đây là một nguồn dồi dào có thể tái sử
dụng nhằm tiêu diệt cỏ xâm hại và cỏ dại
trong sản xuất nông nghiệp một cách hiệu
quả, giúp giảm dần lượng thuốc diệt cỏ. Ông
cho biết nhóm sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
như các thí nghiệm lâm sàng trên tinh dầu hồ
tiêu, và các hoạt tính sinh học khác.
Độc giả quan tâm có thể xem toàn văn
nghiên cứu tại đây.
Nhóm nghiên cứu gồm các tác giả:
1.Trần Đăng Xuân, Trưởng phòng
thí nghiêm Sinh lý thực vật và Hóa sinh
(Đại học Hiroshima, Nhật Bản);
2.Yusuf Andriana – Nghiên cứu sinh
Đại học Hiroshima, cán bô nghiên cứu Viên
khoa học Indonesia;
3.Trần Ngọc Quý-Nghiên cứu sinh
Đại học Hiroshima, giảng viên Đại học
Cần Thơ;
4. PGS.TS Trần Hoàng Dũng (Khoa
Công nghê sinh học, Đại học Nguyễn Tất
Thành, TPHCM, Viêt Nam);
5. Bác sĩ. TS Lê Quang Trí (Giám
đôc Bênh viên Quân y sô 7A, TPHCM).
PGS. TS Trần Đăng Xuân là nhà
khoa học người Viêt đang sinh sông và làm
viêc tại Nhật Bản. Hiên ông hoạt đông
trong lĩnh vực nghiên cứu chủ yêu về nhân
giông cây trồng, bô gene, khoa học cỏ dại,
sản xuất nông nghiêp bền vững, hóa học
hữu cơ, hóa học phân tích, năng lượng sinh
khôi...
Ông có hơn 120 công trình đăng
trên các tạp chí khoa học quôc tê trong
danh mục ISI và 140 bài trong danh mục
Scopus, với điểm H-index là 25.
Nguồn: Bích Ngọc, vnexpress.net,
18/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cắt toàn bộ hạ họng - thanh quản - thực quản và tái tạo hạ họng - thực quản bằng ống dạ dày trong điều trị ung thư
vùng hạ họng thanh quản - thực quản cổ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 30/60
Tại bệnh viện Chợ Rẫy, khoa Tai Mũi
Họng là một đơn vị mạnh của khu vực phía
Nam, từ năm 2004 khoa đã kết hợp với các
bác sĩ của khoa ngoại tổng quát tiến hành việc
sử dụng dạ dày tái tạo, thay thế thực quản
trong những trường hợp sẹo, bỏng do các hoá
chất ăn mòn. Sau đó, tiếp tục áp dụng kỹ
thuật này để kéo lên cao hơn nối vào hạ họng,
đáy lưỡi trong những trường hợp sau cắt
thanh quản - hạ họng - thực quản toàn phần
do ung thư ở giai đoạn muộn giai đoạn III giai
đoạn IV. Phẫu thuật cắt thanh quản-hạ họng -
thực quản toàn phần có tái tạo hạ họng thực
quản bằng ống dạ dày trong một thì là một
phẫu thuật lớn đòi hỏi phải có sự kết hợp tốt
của hai kíp phẫu thuật chính là Ngoại Tổng
Quát và Tai Mũi Họng đồng thời với kíp gây
mê và chăm sóc hậu phẫu có kinh nghiệm. Ở
Việt Nam hiện nay do chưa có công trình
nghiên cứu nào thực hiện một cách hệ thống
về tái tạo họng thực quản bằng ống dạ dày
sau cắt thanh quản hạ họng thực quản toàn
phần do ung thư.
Nhằm hoàn thiện một quy trình kỹ
thuật cao vào điều trị bệnh bệnh nhân ở Việt
Nam, nâng cao chất lượng điều trị, cải thiện
chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư
hạ họng thanh quản, hội nhập với xu thế của
các nước trên khu vực và trên thế giới, giúp
bệnh nhân Việt Nam có thể thụ hưởng được
những thành tựu y học trên thế giới, nhóm
nghiên cứu do PGS.TS.Trần Minh Trường,
Bệnh viện Chợ Rẫy đã tiến hành thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cắt toàn
bộ hạ họng- thanh quản-thực quản và tái tạo
hạ họng-thực quản bằng ống dạ dày trong
điều trị ung thư vùng hạ họngthanh quản-thực
quản cổ”, với mục tiêu nghiên cứu đánh giá
kết quả sớm phẫu thuật cắt toàn bộ hạ họng-
thanh quản-thực quản và tái tạo hạ họng-thực
quản bằng ống dạ dày trong điều trị ung thư
vùng hạ họng-thanh quản-thực quản cổ, xây
dựng được quy trình kỹ thuật cắt toàn bộ hạ
họng-thanh quản-thực quản và tái tạo hạ
họng-thực quản bằng ống dạ dày trong điều
trị ung thư vùng hạ họng-thanh quản-thực
quản cổ và xây dựng được quy trình hoá xạ trị
sau phẫu thuật cắt toàn bộ hạ họng-thanh
quảnthực quản và tái tạo hạ họng-thực quản
bằng ống dạ dày trong điều trị ung thư vùng
hạ họngthanh quản-thực quản cổ.
Qua nghiên cứu 30 trường hợp ung thư
hạ họng - thanh quản - thực quản được điều
trị bằng phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ thanh quản
- hạ họng - thực quản và tái tạo thực quản
bằng ống dạ dày, nhóm nghiên cứu đưa ra
một số kết luận sau:
1. Đặc điểm ung thư hạ họng - thanh
quản - thực quản trong nghiên cứu này như sau:
+ Thường gặp ở bệnh nhânlớn tuổi, có
độ tuổi trung bình: 58,6 ± 9 tuổi.
+ Tần suất nam nhiều hơn nữ với tỷ lệ
14/ 1
+ Triệu chứng làm bệnh nhận phải
nhập viện là khó thở 33,7%. Triệu chứng gây
khó chịu làm người bệnh phải đi khám bệnh
là rối loạn nuốt có ở hầu hết bệnh nhân. Các
triệu chứng về hạch ít được bệnh nhân chú ý.
+ Mô bệnh học: Tất cả là ung thư tế
bào gai (100%)
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 31/60
+ Bệnh nhận nhập viện đa phần là ung
thư đã tiến triển ở giai đoạn muộn (III là
3,3%, IV là 96,7%).
2. Về xây dựng “Quy trình kỹ thuật cắt
toàn bộ hạ họng - thanh quản - thực quản và
tái tạo hạ họng - thực quản bằng ống dạ dày
trong điều trị ung thư vùng hạ họng - thanh
quản - thực quản cổ”:
- Kỹ thuật cắt hạ họng thanh quản do
ung thư có xâm lấn thực quản.
- Kỹ thuật cắt dạ dày và tái tạo hạ họng
- thực quản bằng ống dạ dày. Phẫu thuật cắt
toàn bộ ung thự hạ họng - thanh quản - thực
quản và tái tạo hạ họng - thực quản bằng ống
dạ dày theo quy trình xây dựng hoàn chỉnh,
cho kết quả sau:
+ Cắt thanh quản toàn phần
+ cắt hạ họng thực quản và tái tạo ống
thực quản bằng dạ dày: 100%
+ Nạo vét hạch cổ chức năng: 100% và
nạo vét hạch cố tận gốc: 16,5%
+ Biến chứng trong và sau phẫu thuật
thấp chảy máu miệng nối (3,3%), hẹp miệng
nối (3,3%), nhiễm trùng 10% và xử lý tốt.
+ Khả năng lấy hết u ở mức vi thể cao
với kết quả mô bệnh học lát cắt rìa 96,7% âm
tính.
+ Miệng nối hạ họng - ống dạ dày
được cung cấp mạch máu nuôi tốt 96,7%. +
Miệng nối không căng : 76,7%
+ Chiều dài ống dạ dày: 38,6 ± 3,1 cm
+ Đường kính ống dạ dày: 3 ± 0,5 cm
+ Đường kính miệng nối: 5 ± 0,3 cm
+ Bệnh nhân ăn uống sớm 86,7% +
Miệng nối hạ họng - ống dạ dày qua nội soi
cải thiện tốt 83,3% -88,8%
+ Thời gian xuất viện trung bình là
13,5 ± 2,6 ngày
3. Xây dựng bản đề xuất chế độ dinh
dưỡng chu phẫu ở phẫu thuật cắt toàn bộ hạ
họng - thanh quản - thực quản và tái tạo bằng
ống dạ dày trong ung thư hạ họng thanh quản
thực quản cổ:
- Phân loại tình trạng dinh dưỡng của
bệnh nhântrước mổ
+ Nếu không suy dinh dưỡng nặng :
Có thể tiến hành phẫu thuật
+ Có suy dinh dưỡng nặng: Cần điều
trị dinh dưỡng từ 7-14 ngày - Điều trị dinh
dưỡng trước mổ bao gồm 6 bước nhằm đạt
được: 25kcal/kg*/ngày (*kg cân nặng lý
tưởng), đạm từ 1,5-2,0g/kg/ngày, cân bằng
điện giải bằng dinh dưỡng qua đường tĩnh
mạch và hoặc đường miệng.
- Điều trị dinh dưỡng sau mổ: 30-35
kcal/kg*/ngày (*kg cân nặng lý tưởng), đạm
từ 1,5-2,0 g/kg/ngày, cân bằng điện giải và vi
chất dinh dưỡng truyền tĩnh mạch, cùng với
bắt đầu dinh dưỡng qua ống thông mũi dạ dày
sớm (48 tiếng sau phẫu thuật). Kết quả trung
bình trọng lượng cơ thể, albumin và
prealbumin lúc nhập viện, trước mổ và lúc
xuất viện có khuynh hướng cải thiện tốt.
4. Xây dựng “Quy trình hóa xạ trị sau
phẫu thuật cắt toàn bộ hạ họng-thanh quản-
thực quản và tái tạo hạ họng-thực quản bằng
ống dạ dày trong điều trị ung thư vùng hạ
họng - thanh quản - thực quản cổ”:
- Quy trình hóa trị: kế hoạch hóa trị
theo phác đồ DCX, chỉ hỗ trợ cho các bệnh
nhân trong thời gian chờ xạ trị kéo dài.
- Quy trình xạ trị: Liều xạ trị (60Gy,
30 phân liều) sau phẫu thuật.
5. Tỷ lệ sống:
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 32/60
Qua 30 ca bệnh nhân được nghiên cứu
trong đề tài, 25 bệnh nhân hiện còn đang sống.
Như vậy, phẫu thuật cắt toàn bộ hạ
họng-thanh quản-thực quản và tái tạo hạ
họng-thực quản bằng ống dạ dày trong điều
trị ung thư vùng hạ họng - thanh quản - thực
quản cổ mặc dù là một phẫu thuật lớn, phức
tạp, phối hợp nhiều chuyên khoa trên một nền
tảng bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn,
nhưng kết quả thu nhận được là khả quan với
những cải thiện về chất lượng cuộc sống cũng
như thời gian sống còn. Nhóm nghiên cứu
cũng có một số đề xuất cần tiếp tục thực hiện
nghiên cứu và theo dõi tiếp tục để có thêm
kinh nghiệm trong việc chăm sóc và điều trị
bệnh lý ung thư hạ họng - thanh quản xấm lấn
thực quản. Nên triển khai kỹ thuật cắt toàn bộ
hạ họng - thanh quản - thực quản và tái tạo
thực quản bằng ống dạ dày trong điều trị ung
thư hạ họng - thanh quản thực quản tại các cơ
sở y tế tuyến Trung ương. Giúp cải thiện chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân, cho dù là
trong những hoàn cảnh bệnh lý khó khăn
nhất. Việc chụp PET/CT trước khi thực hiện
phẫu thuật cắt toàn bộ hạ họng - thanh quản -
thực quản và tái tạo thực quản bằng ống dạ
dày trong điều trị ung thư hạ họng - thanh
quản thực quản là cần thiết và nên là một xét
nghiệm thường quy.
Nguồn: P.T.T, vista.gov.vn,
26/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu nhân giống hai dòng bạch đàn PNCT3 và PNCIV bằng phương pháp nuôi cấy mô
Hai dòng Bạch đàn PNCT3 và PNCIV
đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật.
Vùng trồng thích hợp của hai dòng Bạch đàn
này là tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ và các vùng
có sinh thái tương tự. Trong nhân giống cây
rừng hiện nay, đặc biệt là đối với các loài cây
công nghiệp và diện tích trồng rừng trên diện
rộng như cây nguyên liệu giấu thì phương
pháp nhân giống hiệu quả nhất vẫn là nhân
giống bằng phương pháp nuôi cấy mô.
Phương pháp này cho hiệu quả rõ rệt với các
phương thức nhân giống khác đó là có thể tạo
được số lượng lớn cây con trong thời gian
ngắn, cây con tạo ta lưu giữ được những đặc
tính tốt của cây mẹ; chất lượng cây giống
đồng đều nên chất lượng cây rừng đồng đều
do đó nâng cao chất lượng rừng trồng, đặc
biệt cây giống tạo ra bằng phương pháp nuôi
cấy mô được trẻ hóa hơn so với phương pháp
giâm hom nên sức sinh trưởng của cây rừng
cũng tốt hơn.
Nhằm cung cấp cây giống bạch đàn
dòng PNCT3 và PNCIV có năng suất cao,
chất lượng tốt cho trồng rừng cũng như góp
phần nâng cao tính cạnh tranh và duy trì tốc
độ phát triển của ngành Giấy Việt Nam,
nhóm nghiên cứu do ThS. Phạm Đức Huy,
Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy đứng
đầu đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu nhân giống hai dòng bạch đàn PNCT3 và
PNCIV bằng phương pháp nuôi cấy mô”.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 33/60
Sau 12 tháng triển khai (1- 12/2017),
nhóm nghiên cứu thu được các kết quả như
sau:
1. Khi môi trường đã có tổ hợp chất
điều hòa sinh trưởng là BAP và NAA thì việc
bổ sung IBA vào môi trường là không thích
hợp cho nhân chôi hai dòng bạch đàn PNCT3
và PNCIV.
2. Với cả hai dòng bạch đà PNCT3 và
PNCIV thì việc bổ sung vitamin B2 vào môi
trường nuôi cấy là cần thiết. Dòng PNCT3
thích hợp với nồng độ vitamnin B2 bổ sung
vào môi trường là 5,0mg/l đạt hệ số nhân chồi
3,6 lần và tỷ lệ chồi hiện hữu 34,5%. Dòng
PNCIV thích hợp với nồng độ vitamnin B2
bổ sung vào môi trường là 10,0mg/l đạt hệ số
nhân chồi 3,5 lần và tỷ lệ chồi hiện hữu
34,9%.
3. Nghiên cứu bổ sung vitamin H
(biotin) vào môi trường nuôi cấy cho thấy
dòng PNCT3 thích hợp với nồng độ biotin
1,0mg/l đạt hệ số nhân chồi 3,5 lần và tỷ lệ
chồi hiện hữu 35,3%. Dòng PNCIV không
thích hợp với việc bổ sung biotin vào môi
trường nuôi cấy.
4. Với cả hai dòng nghiên cứu thì bình
giống gốc sau khi cấy được che tối một tuần
sau đó chiếu sáng hoàn toàn cho hiệu quả
nhân chồi cao nhất (dòng PNCT3 cho hệ số
nhân chồi đạt 3,6 lần, tỷ lệ chồi hữu hiệu đạt
35,8%; và PNCIV cho hệ số nhân chồi đạt 3,5
lần, tỷ lệ chồi hữu hiệu đạt 37,3%).
5. Bước đầu triển khai thử nghiệm cấy
ra rễ thì nồng độ IBA 3,5mg/l cho hiệu quả
rễ tốt nhất đối với 2 dòng nghiên cứu. Với
công thực này thì tỉ lệ ra rễ của dòng PNCT3
là 60,2%, chiều dài rễ là 2,3cm và số rễ bình
quân đạt được là 2,3 cái/cây. Với dòng
PNCIV tỉ lệ ra rễ đạt được là 67,6%, chiều
dài rễ là 2,3cm và số rễ bình quân đạt được
là 2,4 cái/cây.
Như vậy, kết quả thu được đầy triển
vọng, bước đầu có thể áp dụng kỹ thuật nuôi
cấy mô hai dòng bạch đàn PNCT3 và PNCIV
vào sản xuất thử nghiệm.
Nguồn: P.T.T, vista.gov.vn,
03/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu hoàn thiện quy trình kỹ thuật nhân giống cây nuôi cấy mô giai đoạn vườn ươm của một số dòng bạch đàn mô (U6, PN14) và keo lai (BV10, BV16)
Năm 2015 Viện nghiên cứu cây
nguyên liệu giấy đã ban hành quy trình kỹ
thuật nhân giống cây nuôi cấy mô giai đoạn
vườn ươm của một số dòng Bạch đàn (U6,
PN14) và keo lai (BV10, BV16) để phục vụ
công tác sản xuất cây giống trồng rừng. Do
thời vụ sản xuất cây giống trồng rừng kéo dài
từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 4 năm
sau đối với bạch đàn mô và từ tháng 8 năm
trước cho hết đến tháng 5 năm sau đối với
keo lai mô. Đây là khoảng thời gian sản xuất
cây giống gặp nhiều khó khăn về điều kiện
ngoại cảnh, do gặp phải những điều kiện thời
tiết bất lợi gây ra như rét đậm, rét hại kéo dài,
sương muối, nhiệt độ thấp, độ ẩm cao…. dẫn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 34/60
đến hàng năm cây giống bị nấm, bệnh chết từ
20% đến 30%, đặc biệt có năm chết đến 50%
và gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cho sản xuất
kinh doanh.
Trong quá trình sản xuất cây giống
còn bộc lộ một số hạn chế về kỹ thuật trong
quá trình nhân giống cây nuôi cấy mô bạch
đàn và keo lai ở giai đoạn vườn ươm như: độ
che phủ, chế độ tưới nước, sử dụng loại túi
bầu.… Đây là những vấn đề kỹ thuật vẫn còn
hạn chế cần được khắc phục bằng các nghiên
cứu thử nghiệm để từ đó tìm ra được công
thức tối ưu nhất góp phần vào việc hoàn
thiện quy trình kỹ thuật nhân giống cây nuôi
cấy mô giai đoạn vườn ươm của bạch đàn
mô và keo lai mô.
Nhằm nâng cao tỉ lệ cây xuất vườn đạt
tiêu chuẩn và tăng ít nhất 10% so với quy trình
cũ, để cung cấp cây giống trồng rừng cho
Tổng công ty giấy Việt Nam và các đơn vị
trong và ngoài tỉnh Phú Thọ, nhóm nghiên cứu
do ông Lữ Văn Thảo, Viện nghiên cứu cây
nguyên liệu giấy đứng đầu đã tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu hoàn thiện quy trình
kỹ thuật nhân giống cây nuôi cấy mô giai đoạn
vườn ươm của một số dòng bạch đàn mô (U6,
PN14) và keo lai (BV10, BV16)”.
Qua một thời gian triển khai, nhóm
nghiên cứu thu được các kết quả như sau:
1. Đối với kết quả nghiên cứu hai dòng
bạch đàn (U6, PN14).
- Ảnh hưởng của nhà phủ màng ni lon
và chế độ tưới nước đến tỉ lệ sống, sinh
trưởng và chất lượng của bạch đàn dòng U6,
PN14 đều cho hiệu quả cao nhất ở công thức
3 (có phủ màng ni lon, tưới nước 30 giây/lần
và 4 lần/ngày) cho tỉ lệ sống đạt cao nhất
94,0% và 94,7% và tỉ lệ cây đủ tiêu chuẩn
xuất vườn cao hơn so với qui trình kỹ thuật cũ
là 10,58% và 11,8%.
- Ảnh hưởng của nhà phủ màng ni lon
và loại túi bầu đến tỉ lệ sống, sinh trưởng và
chất lượng của bạch đàn dòng U6, PN14 đều
cho hiệu quả cao nhất ở công thức 2 (có phủ
màng ni lon, bầu có đáy) cho tỉ lệ sống cao
nhất 94,7% và 94,0%. Tỉ lệ cây đủ tiêu chuẩn
xuất vườn cao hơn so với qui trình kỹ thuật cũ
là 12,73% và 10,97%.
- Ảnh hưởng của chế độ tưới nước và
loại túi bầu đến tỉ lệ sống, sinh trưởng và chất
lượng của bạch đàn dòng U6, PN14 đều cho
hiệu quả cao nhất ở công thức 3 (tưới nước 30
giây/lần, 4 lần/ngày, bầu có đáy) cho tỉ lệ
sống đạt cao nhất 88,7% và 89,3% và tỉ lệ cây
đủ tiêu chuẩn xuất vườn cao hơn so với qui
trình kỹ thuật cũ là 5,59% và 5,43%.
- Có sử dụng hệ thống nhà phủ màng
ni lon cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mô
hình không sử dụng hệ thống nhà phủ màng
ni lon là 1.481.119 đ/10.000 cây giống.
- Có sử dụng chế độ tưới nước tự động
cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mô hình
không sử dụng chế độ tưới nước tự động là
368.796 đ/10.000 cây giống.
2. Đối với kết quả nghiên cứu hai dòng
keo (BV10, BV16)
- Ảnh hưởng của nhà phủ màng ni lon
và chế độ tưới nước đến tỉ lệ sống, sinh
trưởng và chất lượng của keo lai dòng BV10,
BV16 đều cho hiệu quả cao nhất ở công thức
3 (có phủ màng ni lon, tưới nước 30 giây/lần
và 4 lần/ngày) cho tỉ lệ sống đạt cao nhất
95,3% và 96,0% và tỉ lệ cây đủ tiêu chuẩn
xuất vườn cao hơn so với qui trình kỹ thuật cũ
là 10,49% và 10,41%.
- Ảnh hưởng của nhà phủ màng ni lon
và loại túi bầu đến tỉ lệ sống, sinh trưởng và
chất lượng của bạch đàn dòng BV10, BV16
đều cho hiệu quả cao nhất ở công thức 2 (có
phủ màng ni lon, bầu có đáy) cho tỉ lệ sống
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 35/60
cao nhất 94,7% và 93,3%. Tỉ lệ cây đủ tiêu
chuẩn xuất vườn cao hơn so với qui trình kỹ
thuật cũ là 10,55% và 10,49%.
- Ảnh hưởng của chế độ tưới nước và
loại túi bầu đến tỉ lệ sống, sinh trưởng và chất
lượng của bạch đàn dòng BV10, BV16 đều
cho hiệu quả cao nhất ở công thức 3 (tưới
nước 30 giây/lần, 4 lần/ngày, bầu có đáy) cho
tỉ lệ sống đạt cao nhất 90,0% và 89,3% và tỉ
lệ cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn cao hơn so với
qui trình kỹ thuật cũ là 6,66% và 5,15%.
- Có sử dụng hệ thống nhà phủ màng
ni lon cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mô
hình không sử dụng hệ thống nhà phủ màng
ni lon là 1.911.796 đ/10.000 cây giống.
- Có sử dụng chế độ tưới nước tự động
cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mô hình
không sử dụng chế độ tưới nước tự động là
870.796 đ/10.000 cây giống.
Với những kết quả đạt được của đề tài
trong năm 2016 và năm 2017, đề tài khuyến
nghị với các đơn vị sản xuất cây giống lâm
nghiệp trong Tổng công ty giấy Việt Nam có
thể áp dụng quy trình kỹ thuật nhân giống cây
nuôi cấy mô giai đoạn vườn ươm cho một số
dòng bạch đàn (U6, PN14 và keo lai (V10,
V16) vào sản xuất.
Nguồn: P.T.T, vista.gov.vn,
03/05/2019
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP
Chế tạo hệ thống thiết bị cắt, tách gáo và làm sạch vỏ nâu cơm dừa
Kỹ sư cơ khí Cao Minh Đạt đang công
tác tại DNTN Phương Nhi và nhóm nghiên
cứu đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu công
nghệ và thiết kế chế tạo hệ thống thiết bị cắt,
tách gáo và làm sạch vỏ nâu cơm dừa”.
Mục tiêu cụ thể của đề tài nhằm
nghiên cứu chế tạo hệ thống thiết bị cơ giới
hoá các công đoạn chế biến cơm dừa nguyên
liệu gồm: cắt, tách gáo và làm sạch vỏ nâu
cơm dừa với năng suất 1000 trái/giờ và cơm
dừa sau khi tách đáp ứng được các công đoạn
chế biến các sản phẩm tiếp theo, sọ dừa sau
khi tách phục vụ được cho việc sản xuất than
thiêu kết.
Qua nghiên cứu, nhóm thực hiện đã
xây dựng được quy trình cơ giới hoá công
đoạn cắt hột, tách gáo và làm sạch vỏ nâu trái
dừa gồm các bước:
Hột dừa sau khi làm sạch xơ sẽ được
xử lý nhiệt thích hợp trong bộ phận xử lý. Sau
đó qua hệ thống thiết bị định vị và cắt hột, thu
hồi nước dừa và làm nguội. Gáo dừa sau đó
được tách rất đơn giản vì phần cơm và gáo đã
mất liên kết.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 36/60
Thiêt bị xử lý nhiệt
So sánh vỏ nâu trái dừa không xử lý nhiệt (trái) và xử lý nhiệt (phải)
Thiêt bị căt.
Sau khi tách gáo phần vỏ nâu bề mặt
cơm dừa cũng được làm sạch, tuy nhiên do
ảnh hưởng thực tế nên cần có khâu hoàn thiện
để làm lại một số miếng cơm dừa còn sót vỏ
nâu (khoảng 5%).
Đề tài đã được Hội đồng KH&CN
đánh giá cao về hướng nghiên cứu, kết quả và
hiệu quả của đề tài. Đề tài đã đạt mục tiêu,
nội dung đề ra. Để hoàn thiện hơn, Hội đồng
cũng đề nghị nhóm tác giả chỉnh sửa bố cục
trình bày cho hợp lý, bổ sung một số hình ảnh
minh hoạ thực tế việc vận hành thiết bị.
Nguồn: Châu Quang Thông,
Trung tâm Thông tin và Thông kê KH&CN,
bentre.gov.vn, 22/04/2019
Trở về đầu trang **************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 37/60
Công nghệ tạo thức ăn cho gia súc và cây trồng từ rơm, lá mía
Thức ăn thô cho trâu, bò sản xuất từ phụ phê phẩm nông nghiệp.
Phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ, thân
ngô, lá mía, dây khoai, dây lạc...) vốn bị coi
là rác, bà con nông dân thường phải đốt bỏ
sau mỗi mùa vụ. Các nhà khoa học Viện Cơ
điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch
đã nghiên cứu, tận dụng chúng để sản xuất
thức ăn gia súc và phân bón cho cây trồng.
Với sản phẩm đầu ra là thức ăn chăn
nuôi trâu, bò, nhóm nghiên cứu đã chế biến
thành hai dạng là thức ăn thô cho chăn nuôi
trâu, bò phân tán tại các khu vực nguồn thức
ăn khan hiếm thường xuyên hoặc theo mùa và
thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (TMR) cho chăn
nuôi tập trung.
Nguyên liệu được sử dụng là phụ
phẩm nông nghiệp, đưa vào dây chuyền
nghiền nhỏ, trộn đều cùng rỉ mật, urê và một
số thành phần khác rồi ép tạo viên có đường
kính từ 6 - 10 mm.
Ở công thức sản xuất thức ăn hỗn hợp
hoàn chỉnh cũng theo quy trình tương tự
nhưng nguyên liệu đầu vào được băm nhỏ
hơn với kích thước trung bình 2 - 5 cm và
phối trộn cùng nhiều phụ gia để đảm bảo nhu
cầu dinh dưỡng của vật nuôi ở mỗi lứa tuổi.
Thử nghiệm trên thực tế, trâu, bò ăn
tốt, ăn hết khẩu phần và sinh trưởng và phát
triển mạnh, đặc biệt là với thức ăn TMR.
Ở sản phẩm phân bón hữu cơ, nguyên
liệu đầu vào được nghiền nhỏ giúp quá trình ủ
phân diễn ra nhanh, phân thành phẩm hình
thức đẹp hơn, sau đó, phối trộn với chế phẩm
vi sinh gồm 3 chủng vi sinh vật nêu trên, ủ
hỗn hợp lên men trong vòng 25 – 30 ngày rồi
phân loại, đánh tơi.
Nhóm nghiên cứu phân lập được 3
chủng vi sinh vật (đã cấp Bằng độc quyền giải
pháp hữu ích) có thể phân hủy chất xơ (trong
các phụ phẩm nông nghiệp) ở nhiệt độ cao tới
65 độ C (các chủng vi sinh vật phổ biến chỉ
chịu được 55 độ C). Vì vậy, chúng có thể tiêu
diệt vi sinh vật, vi khuẩn có hại trong nguyên
liệu đầu vào trong thời tiết nắng nóng của mùa
hè, giúp hạn chế việc đảo trộn đống ủ. Kết quả
cho ra phân hữu cơ vi sinh dạng bột.
Muốn có phân bón dạng viên tan
chậm, không bị rửa trôi, gió thổi bay khi bón,
khó đấu trộn với tạp chất làm giả, phân dạng
bột được đưa vào ép thành viên hình trụ với
đường kính từ 6 -10 mm (hoặc có thể thay đổi
theo yêu cầu).
Công nghệ này cũng cho phép tận dụng
chất thải trong chăn nuôi như phân, đệm lót
sinh học (chất rải sàn chuồng nuôi)... để sản
xuất phân hữu cơ vi sinh có hàm lượng hữu cơ
50 – 60%, cao hơn ở phân hữu cơ vi sinh từ
phụ phế phẩm nông nghiệp (45 – 50%).
Áp dụng vào thực tế, chỉ cần sử dụng
lượng phân hữu cơ vi sinh bằng 1/3 lượng
phân chuồng để bón cho cây ra cùng năng
suất thu hoạch (bón cho một gốc cam chỉ cần
6 – 7kg phân hữu cơ vi sinh thay vì 25 – 30kg
phân chuồng).
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 38/60
TS Nguyễn Năng Nhượng, Phó Viện
trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công
nghệ sau thu hoạch, chủ nhiệm đề tài cho
biết, trong thời gian tới, nhóm sẽ đưa ra quy
mô sản xuất đa dạng để đáp ứng nhu cầu chăn
nuôi, trồng trọt, phù hợp với trữ lượng nguồn
nguyên liệu đầu vào và khả năng đầu tư của
doanh nghiệp.
Nguồn: Phan Minh, vnexpress.net,
29/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị Ewater giúp cây trồng phát triển tươi tốt hơn
Ứng dụng Thiêt bị Ewater sử dụng sóng điện từ tần số thấp để ion hóa nước cho nông nghiệp.
Công ty Ewater Engineering, một
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa
học - công nghệ đã giới thiệu thiết bị Ewater
sử dụng sóng điện từ tần số thấp tạo trường
cảm ứng và lực điện để ion hóa nước, tạo ra
nước phân tử nhỏ, làm tăng độ hòa tan của
nước, giúp rễ cây hấp thụ dinh dưỡng dễ hơn
tại sự kiện Techmart 2019 do Trung tâm
thông tin và thống kê khoa học - công nghệ
(thuộc Sở khoa học và công nghệ TP.HCM)
vừa tổ chức tại TP.HCM.
Theo ông Lê Trung Hiếu - giám đốc
điều hành Công ty Ewater Engineering, thiết
bị Ewater sử dụng sóng điện từ tần số thấp để
tạo ra một trường cảm ứng trong lòng ống
nước. Sóng điện từ này sẽ cung cấp năng
lượng thích hợp để ion hóa nước và làm thay
đổi cấu trúc phân tử của nước tưới cây trồng,
qua đó làm giảm độ cứng trong nước và đất,
làm tăng độ hòa tan của nước, giúp nước
được hấp thụ vào lòng đất dễ dàng hơn...
Từ trường phát ra từ thiết bị của Ewater
cũng sẽ phân tách các phần tử nước trở nên
nhỏ hơn khiến nước và chất dinh dưỡng dễ
chui vào rễ cây, giúp rễ và cây khỏe hơn.
Vẫn theo ông Hiếu, kết quả thực
nghiệm tại một số nông trại cho thấy: tốc độ
tăng trưởng của rau xanh tăng từ 5 - 10% so
với cách tưới nước không qua xử lý bằng
Ewater. Nếu lắp thiết bị Ewater trên đường
ống nước trồng rau thủy canh sẽ giảm đáng
kể hao hụt dinh dưỡng, vì khoáng chất sẽ
không bám trên đường ống.
“Đặc biêt, quá trình ion hóa nước của
thiêt bị Ewater chỉ dùng nước, hoàn toàn
không sử dụng bất kỳ loại hóa chất nào, nên
rất an toàn và không tác đông đên môi trường
sinh trưởng của cây trồng. Hơn nữa, chi phí
điên năng cho thiêt bị khá thấp, chỉ khoảng từ
100.000 -200.000 đồng tiền điên cho suôt 1
năm sử dụng. Ewater rất hiêu quả trong viêc
xử lý nguồn nước cung cấp cho các hê thông
trồng rau thủy canh, hê thông tưới phun và
tưới nhỏ giọt, hê thông tưới rau củ quả”, ông
Hiếu, chia sẻ.
Nước bị nhiễm mặn vẫn hiệu quả khi
dùng thiết bị này, do dưới tác dụng của từ
trường thiết bị Ewater tạo ra, những hạt nước
được phân tách sẽ làm mất tính kết dính của
các muối hòa tan, khiến chúng không thể tích
tụ trong khe đất, mà sẽ bị rửa trôi xuống tầng
đất dưới bộ rễ, giúp cây vẫn hấp thụ được
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 39/60
nước và dinh dưỡng một cách tốt nhất cho sự
phát triển.
Hiện tại, Ewater có 2 phiên bản là EB
341 (lưu lượng nước 3,6 m3/giờ) và EB 342
(lưu lượng nước 7,2 m3/giờ), đáp ứng đa dạng
nhu cầu xử lý và cung cấp nước ion cho trang
trại và đã được nhiều đơn vị ứng dụng.
Nguồn: Cao Kiên Nam,
khoahocphothong.com.vn, 21/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu ứng dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công nghệ chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng
Trong những năm gần đây nhiều kết
quả nghiên cứu và mô hình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng đã được chuyển giao và ứng dụng
hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp vùng đồng
bằng sông Hồng. Tuy nhiên việc phân tích
đánh giá cụ thể các kết quả này để trở thành
hệ thống lý luận để phục vụ việc xây dựng
nông thôn mới cho vùng chưa được hoàn
thiện. Chưa xây dựng được hệ thống các giải
pháp KHCN đồng bộ (cánh đồng mẫu lớn, cơ
giới hóa trong sản xuất, tổ chức nông dân,
liên kết thị trường...) áp dụng cho toàn bộ cơ
cấu cây trồng trong 1 năm để thúc đẩy và phát
huy hết tiềm năng hiệu quả kinh tế- xã hội các
hệ thống cây trồng của vùng. Vấn đề nghiên
cứu về chuỗi giá trị cho 1 số cây trồng hàng
hóa chủ lực chưa được tập trung, vì vậy nhiều
mô hình cho năng suất cây trồng cao nhưng
chưa cho hiệu quả kinh tế cao. Chính vì
những lý do trên, nhóm nghiên cứu do TS. Lê
Quốc Thanh Thời, Trung tâm Chuyển giao
công nghệ và Khuyến nông đứng đầu đã tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ứng
dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công
nghệ chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu
quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng”
nhằm phục vụ xây dựng nông thôn mới, đáp
ứng yêu cầu thực tế đang đặt ra.
Sau một thời gian triển khai gian thực
hiện (2013 - 2016), nhóm nghiên cứu thu
được các kết quả như sau:
1. Đã thu thập, hồi cứu, khảo sát bổ
sung các dữ liệu tự nhiên, xã hội, các kế
hoạch, quy hoạch phát triển vùng ĐBSH.
Phân vùng nghiên cứu theo đặc điểm địa
hình, vị trí địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội
và hình thái sản xuất vùng ĐBSH. Đánh giá,
làm rõ các nghiên cứu về hệ thống cây trồng
và chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên thế giới
và ở trong nước.
2. Đánh giá được hiện trạng sản xuất
và cơ cấu cây trồng của vùng ĐBSH và đề
xuất các giải pháp KHCN phục vụ chuyển đổi
cơ cấu cây trồng: lựa chọn giống phù hợp,
hoàn thiện kỹ thuật canh tác, bố trí mùa vụ,
xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý có hiệu quả
kinh tế và bền vững. Đánh giá được các cơ
cấu cây trồng hiệu quả, cần mở rộng cho
ĐBSH. Đánh giá được thuận lợi và hạn chế
của vùng ĐBSH trong việc sản xuất nông
nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng phục
vụ xây dựng NTM.
3. Về giải pháp KHCN cho vùng
ĐBSH chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho vùng:
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 40/60
* Về giống cây trồng: Đề tài đã lựa
chọn được 16 giống cây trồng có năng suất
cao, ngắn ngày, chống chịu và có chất lượng
tốt, phù hợp cho từng cơ cấu của các tiểu
vùng sinh thái và hoàn thiện quy trình thâm
canh cho từng giống gồm:
+ 3 giống lúa ngắn ngày, năng suất
cao, chất lượng: HT9, ĐS3 và J01 có TGST
vụ mùa 100-108 ngày, năng suất : 55-65
tạ/ha, góp phần tăng vụ và giải quyết vấn đề
thời vụ cho sản xuất cây vụ đông.
+ 3 giống ngô, năng suất cao, chất
lượng: Đường lai 20, HN88, NK4300 phù
hợp với vùng sản xuất hàng hóa ven đô, vùng
thâm canh ngô hè và ngô đông.
+ 2 giống lạc, năng suất cao, chất
lượng: L23 và L26, đáp ứng với chân đất 1
lúa 2 màu và chân đất chuyên màu.
+ 2 giống đậu tương, năng suất cao,
chất lượng: ĐVN14, Đ2101 góp phần bổ sung
vào cơ cấu giống và mở rộng diện tích đậu
tương đông.
+ 2 giống khoai tây, năng suất cao,
chất lượng: Diamant và Solara.
+ 2 giống bí xanh, năng suất cao, chất
lượng: Tre việt, bí xanh số 1.
+ 2 giống rau, năng suất cao, chất
lượng: bắp cải và súp lơ.
* Về kỹ thuật thâm canh: Xây dựng
được 7 gói quy trình kỹ thuật (QTKT) canh
tác cho 7 công thức luân canh cây trồng
(CTLC) trên 3 chân đất chính của vùng
ĐBSH đạt hiệu quả kinh tế cao:
(1) Trên chân đất 2 lúa - 1 màu:
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa Mùa - đậu tương Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa Mùa - khoai tây Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa Mùa - bí xanh Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa chét - bí xanh Thu Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa chét - ngô Thu Đông”
(2) Trên chân đất 1 lúa - 2 màu:
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lạc Xuân
- lúa Mùa - Khoai tây Đông”
(3) Trên chân đất chuyên màu:
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lạc Xuân
- ngô Hè Thu - cải bắp Đông
- Đánh giá và hoàn thiện kỹ thuật sản
xuất lúa chét ở Hà Nội và Nam Định, giúp
giải quyết được vấn đề thời vụ của cây vụ
đông ưa ấm ở ĐBSH (Ngô, đậu tương, rau
màu). Chiều cao gốc cắt để chét có mối quan
hệ tương quan nghịch với TGST của lúa chét
và chiều cao cây.
- Xác định được thành phần của giá thể
làm bầu cải tiến gieo ngô ở các tỉnh trong
vùng, góp phần tăng hiệu quả và nhân rộng
quá trình cơ giới hóa.
4. Xây dựng được 53 ha cây trồng các
loại trên cho 7 công thức luân canh trên 3
chân đất tại 3 tỉnh Hưng Yên, Hà Nội và Nam
Định. Trong đó: Lúa 29 ha, Lạc: 6 ha, Ngô: 5
ha, Bí xanh: 5 ha, Khoai tây: 3 ha, Đậu tương:
3 ha, rau bắp cải: 2 ha. Các công thức luân
canh cây trồng trong mô hình tại các tỉnh đều
cho năng suất cao hơn so với sản xuất đại trà
và cho hiệu quả kinh tế vượt hơn so với sản
xuất đại trà từ 21.150.000 đ/ha đến
39.954.000 đ/ha, vượt sản xuất đại trà từ 35,2
- 126,2%. Các công thức luân canh có sử
dụng giống mới cho lợi nhuận cao, dễ áp
dụng và người dân chấp nhận nhân rộng: Lúa
xuân (BT7) - lúa chét (BT7) - bí xanh đông
(bí xanh số 1); Lúa xuân (ĐS3) - lúa mùa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 41/60
(HT9) - bí xanh đông (bí xanh số 1); Lúa
xuân (ĐS3) - lúa mùa (HT9) - khoai tây đông
(Diamant); Lạc xuân (L26) - ngô hè thu
(NK4300) - bắp cải đông (bắp cải kk cross);
Lạc xuân (L23) - lúa mùa (HT9) - khoai tây
đông (Solara); Lúa xuân (BT7) - lúa chét
(BT7) - ngô đông sớm (HN88).
Nhóm nghiên cứu kiến nghị cho phép
ứng dụng, nhân rộng kết quả một số mô hình
hiểu quả kinh tế cao ra sản xuất thông qua các
Dự án phát triển nhằm đóng góp tích cực hơn
nữa trong xây dựng nông thôn mới ở các giai
đoạn tiếp theo của Chương trình.
Nguồn: P.T.T, vista.gov.vn,
04/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Mô hình sản xuất lúa - thủy sản chất lượng cao gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm cho vùng chiêm trũng Đồng bằng sông Hồng
Vùng đồng bằng sông Hồng là một
trong những vùng sản xuất nông nghiệp trọng
điểm của cả nước, toàn vùng có 207.858 ha
diện tích ruộng ngập úng và 44.499 ha đất
ruộng trũng mất trắng (Viện Thiết kế quy
hoạc Nông nghiệp, 2006) nên tiềm năng xây
dựng mô hình lúa-thủy sản là rất lớn. Tuy
nhiên hiện nay hiệu quả sử dụng đất ruộng
ngập úng tại các địa phương là chưa cao.
Phần lớn người nông dân vẫn chỉ tập trung
trồng lúa đơn thuần với rủi ro lớn, hiệu quả
thấp. Phần diện tích nhỏ còn lại đã chuyển
sang trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên hình thức này phần nhiều do sự tự
phát của người dân mà ít được chuyển giao
công nghệ của các cơ quan nghiên cứu khoa
học. Các gia đình vẫn chủ yếu sản xuất nông
nghiệp theo lối truyền thống, hình thức nuôi
nhỏ lẻ, với quy mô hộ gia đình và mang nặng
tính chất tự cung tự cấp, đối tượng nuôi chủ
yếu là các giống cá truyền thống năng suất,
chất lượng thấp. Xuất phát từ thực tế trên,
nhóm nghiên cứu do TS. Phạm Văn Dân,
Trung tâm Chuyển giao Công nghệ và KN
đứng đầu đã đề xuất dự án: “Xây dựng mô
hình sản xuất lúa-thủy sản chất lượng cao gắn
với thị trường tiêu thụ sản phẩm cho vùng
chiêm trũng Đồng bằng sông Hồng nhằm góp
phần làm thay đổi tập quán sản xuất của
người dân”.
Qua 16 tháng triển khai, dự án đã tiến
hành đầy đủ các nội dung công việc và hoàn
thành xuất sắc các mục tiêu đề ra. Kết quả của
dự án được thể hiện ở những nội dung sau:
- Dự án đã tiến hành khảo sát, điều tra
bổ sung, đánh giá thực trạng sản xuất lúa cá
tại các vùng chiêm trũng đồng bằng sông
Hồng; nêu được những thuận lợi và khó khăn
trong mô hình canh tác lúa-thủy sản tại các
địa phương để từ đó đề xuất những giải pháp
triển khai hiệu quả.
- Dự án đã chuyển giao thành công
quy trình sản xuất lúa - thủy sản đến với
người nông dân thông qua việc xây dựng
thành công hai mô hình canh tác 1 vụ lúa-1
vụ cá và một mô hình 2 vụ lúa-1 vụ cá trên
quy mô 60ha tại các địa bàn triển khai. Tổng
thu nhập từ các mô hình đạt từ 192,405 -
225,390 triệu đồng/ha, lợi nhuận thu được từ
59,197 - 71,344 triệu đồng/ha, gấp 2,4 - 3,3
lần so với mô hình trồng 2 vụ lúa đơn canh và
gấp 1,2- 1,4 lần so với mô hình canh tác lúa -
cá ngoài sản xuất.
- Dự án đã xây dựng 03 mô hình tổ
chức liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 42/60
phẩm giữa 4 nhà, góp phần ổn định sản xuất
và tăng thu nhập cho người nông dân tại các
vùng triển khai.
- Dự án đã xây dựng được 01 bộ sổ tay
hướng dẫn Quy trình sản xuất lúa - thủy sản
kết hợp cho cán bộ và người nông dân tại các
vùng triển khai.
- Dự án đã tổ chức đào tạo, tập
huấncho 312 lượt người dân nắm vững kỹ
thuật canh tác lúa-thủy sản. Kết quả của dự án
đã có những tác động to lớn về các mặt kinh
tế, xã hội và môi trường trong sản xuất nông
nghiệp tại vùng chiêm trũng đồng bằng sông
Hồng, góp phần đắc lực trong công cuộc xây
dựng Nông thôn mới tại các địa phương.
Từ kế quả thu được, những hiệu quả
kinh tế nổi bật của dự án là tại các khu vực có
diện tích ruộng trũng vốn không thể cấy trồng
vào mùa ngập úng, không thể trồng được cây
vụ đông và không khai thác hết tiềm năng của
đất, mặt nước, thì việc nuôi luân canh lúa - cá
đã góp phần tăng vụ sản xuất trên cùng một
diện tích, từ đó tăng thu nhập cho nông dân,
giảm được công làm đất, thuốc bảo vệ thực vật,
tăng năng suất lúa là điều rất quan trọng hiện
nay. Mô hình canh tác 1 vụ lúa - 1 vụ cá cho
thu nhập từ 192,405 - 202,440 triệu đồng/ha,
lợi nhuận thu được từ 59,197 - 68,632 triệu
đồng/ha, cao hơn mô hình trồng 2 vụ lúa đơn
canh lúa của người dân từ 41,387 - 45,332 triệu
đồng/ha, hiệu quả kinh tế gấp 3,0 - 3,3 lần. So
với mô hình canh tác lúa - cá ngoài sản xuất,
mô hình trong dự án cho lợi nhuận cao hơn từ
13,587 - 19,607 triệu đồng/ha, tương ứng 29,2 -
40,0%. Mô hình canh tác 2 vụ lúa - 1 vụ cá cho
thu nhập 225,390 triệu đồng/ha, lợi nhuận thu
được từ 71,344 triệu đồng/ha, cao hơn mô hình
trồng 2 vụ lúa đơn canh lúa của người dân
41,444 triệu đồng/ha, hiệu quả kinh tế gấp 2,4
lần. So với mô hình canh tác 2 lúa lúa - 1 vụ cá
ngoài sản xuất, mô hình trong dự án cho lợi
nhuận cao hơn từ 20,014 triệu đồng/ha, tương
ứng 41,8%.
* Hiệu quả lâu dài: Dự án triển khai sẽ
làm tiền đề mở rộng trên 200 nghìn ha diện
tích đất chiêm trũng vùng đồng bằng sông
Hồng trong những năm tiếp theo. Đồng thời
sẽ tận dụng tài nguyên đất, nước và nguồn lao
động dư giả để biến vùng đất kém hiệu quả
này dần dần hình thành vùng sản xuất nông
nghiệp đặc thù của vùng với các sản phẩm an
toàn cung cấp cho xã hội như các loại lúa gạo
chất lượng, các chủng loại thủy sản khác nhau
đa dạng và phong phú về sản phẩm.
Dự án đã cung cấp cho thị trường sản
phẩm cá chất lượng tốt, an toàn vệ sinh thực
phẩm, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu
nhập, góp phần nâng cao đời sống cho hộ
tham gia mô hình, thúc đẩy phong trào nuôi cá
tại địa phương. Thông qua dự án người dân
nâng cao được cả năng suất cá và lúa, tăng
hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích theo
hướng bền vững và bảo vệ môi trường sinh
thái tốt hơn. Nâng cao trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm về chỉ đạo, hướng dẫn kỹ thuật,
kiểm tra giám sát và đánh giá trong triển khai
mô hình cho cán bộ kỹ thuật các địa phương
và chủ nhiệm dự án. Giảm thiểu ô nhiễm môi
trường, môi sinh do hạn chế được thuốc bảo vệ
thực vật; giảm phân hóa học..., bảo vệ sức
khỏe cho người lao động do việc áp dụng tiến
bộ kỹ thuật, sản xuất sản phẩm đạt chỉ tiêu an
toàn thực phẩm theo quy định hiện hành. Hệ
thống canh tác lúa - thủy sản được xem như
một dạng IPM, chính hình thức này sẽ giúp
cho môi trường canh tác được cải thiện tốt
hơn, thông qua việc giảm thiểu sử dụng các
chất hóa học và thuốc trừ sâu. Đồng thời chất
lượng nước, chất lượng các sản phẩm nông
nghiệp cũng được cải thiện.
Như vậy, Dự án vừa có ý nghĩa khoa
học, vừa mang tính kinh tế-xã hội, bảo đảm
phát triển bền vững và bảo vệ môi trường
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 43/60
sinh thái. Bên cạnh đó, dự án còn tạo thêm
nhiều việc làm, tăng thu nhập trên một đơn vị
diện tích, góp phần tạo ra bước đột phá về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới tại các tỉnh vùng Đồng
bằng sông Hồng.
Nguồn: P.T.T, vista.gov.vn,
07/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Nhân nuôi thành công chủng giống tảo xoắn Spirulina
Khu nuôi trồng tảo xoăn Spirulina VNU A03 tại Viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao
Hòa Lạc
Viện nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ cao Hòa Lạc (Bộ Khoa học và Công
nghệ) đã nhân nuôi thành công tảo xoắn
Spirulina VNU A03 - một vi tảo có dạng
xoắn hình lò xo, màu xanh lam, kích thước từ
0,25-1 mm. Loài tảo này có các dưỡng chất
(đạm, đường, axit béo, vitamin...) có lợi cho
hoạt động của tim mạch và hệ thần kinh,
chống lão hóa, ngăn ngừa ung thư, tăng sức
đề kháng cơ thể.
Ông Bùi Đức Thắng, Viện trưởng Viện
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao Hòa
Lạc cho biết, trong số hàng trăm chủng giống,
các nhà khoa học Việt Nam đã chọn tạo, nuôi
cấy thử nghiệm, chọn Spirulina VNU A03 và
xây dựng quy trình nuôi cấy. Sau 5 năm, phân
tích, theo dõi sự phát triển con giống trong
các điều kiện môi trường của Việt Nam,
tháng 9/2018 các nhà khoa học đã chọn giống
và xây dựng thành công quy trình nuôi cấy
thông thường và quy mô công nghiệp.
"Hiên công suất nuôi cấy đạt 5 - 6 tấn
tảo khô/năm", ông Thắng nói và cho biết so
với các tảo nhập khẩu, tảo của Việt Nam có
protein cao, chiếm 68% khối lượng (các sản
phẩm tử Pháp chiếm 60%, Đài Loan 62%) .
Đặc biệt, hàm lượng beta – caroten vượt trội so
với các sản phẩm tảo của Nhật Bản - quốc gia
có thương hiệu trong khai thác và sản xuất các
sản phẩm có nguồn gốc từ tảo Spirulina. Chất
này có tác dụng ngăn ngừa ung thư, chống lão
hóa và hiệu quả ở những người có nguy cơ
bệnh tim mạch, phòng và chữa bệnh khô mắt ở
trẻ em, đã được chứng nhận bởi nhiều công
trình nghiên cứu khoa học trên thế giới.
Hiện Viện nghiên cứu và ứng dụng
công nghệ cao Hòa Lạc ứng dụng công nghệ
trong nuôi cấy và sản xuất tảo Spirulina với
cơ sở hạ tầng gần 6.000 m2. Khu sản xuất
được quy hoạch khép kín, bảo đảm vệ sinh,
được Bộ Y tế cấp giấy chứng nhận cho cơ sở
đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Nguyên liệu
tảo xoắn Spirulina VNU A03 đang được
nhóm nghiên cứu hướng đến đối tượng sử
dụng là các doanh nghiệp dược, chế biến sản
phẩm thực phẩm, thực phẩm dinh dưỡng, bảo
vệ sức khỏe, sản xuất mỹ phẩm...
Giống tảo xoắn Spirulina VNU A03 là
kết quả của Đề án nghiên cứu khoa học cấp
Nhà nước do Viện nghiên cứu và ứng dụng
công nghệ cao Hòa Lạc và Học Viện Nông
nghiệp Việt Nam phối hợp thực hiện. Chủng
giống tảo này đã được Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn công nhận là chủng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 44/60
giống đầu tiên tại Việt Nam. Theo Nghị định
65/2017 của Thủ tướng Chính phủ, chủng tảo
Spirulina VNU A03 được xếp vào nguồn
dược liệu để ứng dụng trong lĩnh vực Y tế.
Nguồn: Bích Ngọc, vnexpress.net,
21/05/2019
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Ứng dụng công nghệ keo tụ điện hóa trong xử lý nước thải công nghiệp
Đề tài do tác giả Phan Quang Huy
Hoàng và cộng sự (Trung tâm Phát triển Khoa
học và Công nghệ Trẻ) thực hiện nhằm ứng
dụng keo tụ điện hóa trong xử lý nước thải
mực in và nước thải cà phê quy mô phòng thí
nghiệm và mô hình pilot ngoài hiện trường.
Nước thải mực in thường được coi là
chất thải nguy hại và khi thải bỏ phải tuân theo
một quy trình xử lý nghiêm ngặt. Nước thải
mực in phát sinh từ các công đoạn của quá
trình sản xuất in ấn, vệ sinh thiết bị máy móc
và quá trình vệ sinh xưởng khi mực in bị đổ
tràn. Nước thải từ các cơ sở in ấn thường có
thể tích không lớn, nhưng có thành phần phức
tạp với nồng độ cao, bao gồm các chất màu,
dung môi hữu cơ, chất dầu mỡ, và các chất
phụ trợ, và có thể có một lượng các kim loại
nặng. Đây là một trong những loại nước thải
công nghiệp rất khó phân hủy sinh học.
Nghiên cứu này ứng dụng công nghệ
keo tụ điện hóa với để xử lý nước thải mực in
từ xí nghiệp sản xuất bao bì của Công ty Cổ
phần Bảo vệ thực vật An Giang, tỉnh An
Giang (NT1) và nước thải mực in từ Công ty
TNHH Quốc tế Sianghe, Khu công nghiệp
Vĩnh Lộc, TP.HCM (NT2); nước thải từ quá
trình sản xuất cà phê hòa tan của Công ty Cổ
phần Vinacafe, KCN Long Thành, Đồng Nai
(NT3).
Mô hình keo tụ điện hóa được thiết lập
tại phòng thí nghiệm bao gồm: bình phản ứng,
máy phát dòng một chiều và các cặp điện cực
(Al-Al). Tiếp theo, tiến hành chạy thực
nghiệm chế độ theo mẻ xử lý nước thải mực in
và kiểm tra sự ảnh hưởng của các thông số vận
hành bao gồm hiệu điện thế, pH, khoảng cách
điện cực, tốc độ khuấy trộn, và nồng độ chất
điện ly. Tác động của các thông số này được
đánh giá dựa trên hiệu quả xử lý COD và độ
màu của nước thải. Độ giảm khối lượng điện
cực sau các quá trình keo tụ điện hóa cũng
được đo đạc. Sau đó, hiệu quả xử lý COD, độ
màu, BOD và TSS trên nước thải mực in được
khảo sát tại điều kiện thích hợp với các thông
số vận hành nêu trên.
Kết quả cho thấy, đối với nước thải in
ấn, tại điều kiện tối ưu (30 V, keo tụ điện hóa
trong thời gian 30 phút, khoảng cách 2 cm, pH
và nồng độ chất điện ly không điều chỉnh,
không khuấy trộn, và lắng 30 phút), độ màu
gần như được loại bỏ hoàn toàn khỏi nước
thải. TSS đầu ra ở cả hai loại nước thải đều đạt
QCVN tương ứng. COD xử lý đạt hiệu quả
95,1% (NT1) và 85% (NT2), mẫu đầu ra của
NT1 đạt QCVN nhưng NT2 thì chưa đạt.
Mô hình pilot đã được thiết kế và đưa
vào chạy thử để xử lý nước thải in ấn tại Công
ty TNHH Quốc tế Sianghe. Kết quả cho thấy,
chế độ chạy theo mẻ cho hiệu quả xử lý COD
và độ màu cao hơn, nhưng không nhiều, so với
chạy liên tục. Số cặp điện cực được thử
nghiệm bao gồm 1 cặp và 3 cặp. Quá trình
chạy theo thời gian dài cho thấy mặc dù tính
chất nước đầu vào biến thiên mạnh theo ngày,
nước thải đầu ra có tính chất tương đối ổn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 45/60
định, với độ màu và TSS đạt QCVN 10:2011,
cột B. Mặc dù vậy, COD còn vượt giá trị cho
phép. Do đó, quá trình keo tụ điện hóa có thể
coi là một bước tiền xử lý rất hiệu quả, xử lý
được 77% COD.
Nghiên cứu này cũng mở rộng áp dụng
keo tụ điện hóa với đối tượng nước thải công
nghiệp là nước thải cà phê, với mục đích đưa
ra một công nghệ mới xử lý nước thải với hiệu
quả xử lý cao và giảm thời gian xử lý, sử dụng
các cặp điện cực (Al-Al, Al-Ti). Nước thải
thực được lấy ở bể thu gom nước thải từ quá
trình sản xuất cà phê hòa tan của Công ty Cổ
phần Vinacafe. Điều kiện tối ưu bao gồm: pH
6, điện thế 30 V, khoảng cách điện cực 2 cm,
thời gian 60-75 phút. Ở điều kiện này, hiệu
quả loại bỏ COD và độ màu là 87% và 99%.
Chi phí vận hành tương ứng 0,83-1,49
USD/kgCOD (Al-Al) và 0,88-1,39
USD/kgCOD (Al-Ti). Kết quả đã chứng minh
rằng keo tụ điện hóa với thiết kế và vận hành
đơn giản hứa hẹn là một phương pháp có thể
được được ứng dụng phổ biến, đặc biệt là
bước tiền xử lý đối với nước thải cà phê.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
22/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Hệ thống thiết bị hiệu chuẩn máy trắc địa
Hiện, dự án trang thiết bị và hệ trụ
chuẩn đã hoàn tất , năng lực hiệu chuẩn của
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn - Đo lường -
Chất lượng 3 (Quatest 3) về thiết bị đo đạc
trắc địa được mở rộng, đảm bảo các máy móc
sử dụng trong công trình như toàn đạc, kinh
vĩ, thủy bình được kiểm tra một cách kịp thời,
chính xác và tin cậy. Đặc biệt, máy trắc địa
thường được sử dụng ở ngoài trời với điều
kiện nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió,.. luôn biến
động. Cho nên thực hiện hiệu chuẩn máy trắc
địa phải đi đôi với việc xác định thông số Độ
chụm (cách gọi khác trong xây dựng là Sai số
trung phương), phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế ISO 17123. Với lý do này, Quatest 3 đã
trang bị hệ thiết bị chuẩn đồng bộ của hãng
sản xuất nổi tiếng Leica, Thụy sỹ có độ ổn
định và chính xác cao.
Hệ thống thiết bị hiệu chuẩn máy
trắc địa bao gồm:
Hệ trực chuẩn: tạo 5 hướng trên mặt
phẳng nằm ngang và 4 hướng trên mặt phẳng
thẳng đứng để kiểm góc (Hình 1)
Hệ trực chuẩn kiểm góc đứng và góc bằng của máy kinh vĩ, máy toàn đạc
Đường chuẩn: là hệ trụ gồm 7 trụ bê
tông cứng vững trên chiều dài 130 m, tạo các
khoảng cách chuẩn theo thiết kế Herrbrugg.
(Hình 2)
Đường chuẩn (hệ trụ chuẩn)
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 46/60
Hệ trụ chuẩn tại Khu thí nghiệm Biên Hòa
Máy toàn đạc chuẩn thuộc dòng máy
hiện đại nhất của Leica có độ chính xác đo
cạnh là ±(0,6 mm + 1 ppm.D) & và đo góc
là ±0,5” .
Máy thủy bình chuẩn có chức năng tự
động điều quang, có camera kỹ thuật số chỉnh
nét tự động với độ chính xác cao là ± 0,2 mm
trên 1 km đo đi đo về.
Máy toàn đạc chuẩn và máy thủy bình chuẩn của Leica – Thụy Sĩ
Phương pháp hiệu chuẩn
Khi thực hiện hiệu chuẩn máy toàn đạc
về phép đo khoảng cách, máy toàn đạc và
gương lăng kính được lắp đặt cố định trên hệ
trụ chuẩn bằng các chân đế, bộ nối có độ định
tâm cao để đo chính xác 21 khoảng cách và
tính toán độ chụm theo tiêu chuẩn ISO
17123-4 (hình 5)
Sơ đồ kiểm tra khoảng cách của máy toàn đạc
Khi thực hiện hiệu chuẩn máy kinh vĩ
hoặc máy toàn đạc về phép đo góc, máy kinh
vĩ hoặc máy toàn đạc được đặt trên hệ trực
chuẩn để tiến hành 3 loạt đo góc đứng và đo
góc bằng, đối với mỗi loạt đo, thực hiện đo
góc theo 4 hướng đứng và 5 hướng ngang, ở 2
vị trí thuận kính và đảo kính và tính toán độ
chụm theo tiêu chuẩn ISO 17123-3 ( hình 6).
Sơ đồ kiểm tra góc của máy kinh vĩ hoặc toàn đạc
Khi thực hiện hiệu chuẩn máy thủy bình về
phép đo chênh cao, máy thủy bình được đặt
trên gá 3 chân để tiến hành 40 cặp đo đi đo về
giữa 2 điểm mốc A & B và tính toán độ chụm
theo tiêu chuẩn ISO 17123-2 (xem hình 7).
Sơ đồ kiểm tra độ trên cao của máy thủy bình
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 47/60
Bằng các phương pháp trên, với đội
ngũ hiệu chuẩn viên có kinh nghiệm chuyên
sâu về đo lường và kỹ năng tay nghề cao,
cùng các phương tiện chuẩn hiện đại, chính
xác, Quatest 3 sẽ cung cấp kết quả hiệu chuẩn
thiết bị trắc địa có đầy đủ nội dung phù hợp
với tiêu chuẩn quốc tế ISO 17123 với độ tin
cậy cao.
Nguồn: Huỳnh Thị Thu Vân,
khoahocphattrien.vn, 15/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong bụi đường và ảnh hưởng của nó đến mức độ phơi nhiễm của người dân
Nhằm đánh giá mức độ ô nhiễm kim
loại nặng trong bụi đường ở các khu vực khác
nhau (đô thị, nông thôn, khu công nghiệp) ở
miền Bắc Việt Nam và đánh giá mức phơi
nhiễm bụi đường trong các nhóm cộng đồng
khác nhau (sống ở các khu vực khác nhau) ở
miền Bắc Việt Nam, nhóm nghiên cứu do
Thái Hà Phi, Trường Đại học Giao thông Vận
tải đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong bụi
đường và ảnh hưởng của nó đến mức độ phơi
nhiễm của người dân”.
Các nội dung triển khai bao gồm:
- Đánh giá hàm lượng kim loại nặng có
trong bụi đường ở các khu vực khác nhau (đô
thị, nông thôn, khu công nghiệp) ở miền Bắc
Việt Nam.
- Quan trắc sự phân bố của kim loại
nặng trong bụi đường dọc theo các tuyến
đường tại các khu đô thị, nông thôn và khu
công nghiệp điển hình. Kế hoạch lấy mẫu
được thiết kế để có thể bao quát được tất cả
các khu vực có thể có mức rủi ro cao đối với
sức khỏe bằng số lượng lớn mẫu (khoảng 220
mẫu ở Hà Nội, 140 mẫu ở Hải Phòng) và
phân tích nhanh.
- Thiết lập một cơ sở dữ liệu về sự
phân bố không gian của kim loại nặng trong
bụi đường tại khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá mức độ phơi nhiêm bụi
đường trong các nhóm cộng đồng khác nhau
(sống ở các khu vực khác nhau.
- Sử dụng mô hình phù hợp để đánh
giá liều lượng hấp thụ kim loại nặng trong bụi
qua việc hít thở hoặc ăn phải giữa các nhóm
đối tượng khác nhau.
- Đánh giá mức phơi nhiễm kim loại
nặng trong bụi ở Việt Nam và ô nhiễm bụi
nói chung.
Kết quả đạt được sau một thời gian
triển khai như sau:
1. Về đánh giá hàm lượng kim loại
nặng có trong bụi đường tại các đường phố
của Thủ đô Hà Nội và tại dọc khu vực đường
quốc lộ số 5 và quốc lộ số 18 phía Bắc - Việt
Nam. Cụ thể:
- Đã thực hiện quan trắc sự phân bố
kim loại trong bụi đường theo các tuyến phố
của Thủ đô Hà Nội (đại diện cho các đô thị
lớn của Việt Nam) (thực hiện gần 220 mẫu).
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 48/60
- Đã thực hiện quan trắc sự phân bố
kim loại nặng trong bụi đường theo các tuyến
quốc lộ chính của phía Bắc - Việt Nam, Quốc
lộ số 5 (nối Hà Nội và Hải Phòng); Quốc lộ số
18 nối Hà Nội và tỉnh Quảng Ninh. Đây là các
tuyến quốc lộ nối Thủ đô Hà Nội với 02 trung
tâm công nghiệp lớn nhất ở phía Bắc là Hải
Phòng và Quảng Ninh. Ở đây đã lấy 150 mẫu.
- Đã thiết lập cơ sở dữ liệu về phân bố
không gian của kim loại nặng trong bụi
đường tại Thủ đô Hà Nội và dọc đường quốc
lộ số 5 và số 18 ở phía Bắc - Việt Nam.
2. Về đánh giá mức độ phơi nhiễm bụi
đường trong các cộng đồng khác nhau tại Hà
Nội và khu vực phía Bắc (dọc quốc lộ số 5 và
số 18).
+ Sử dụng mô hình phù hợp để đánh
giá liều lượng hấp thụ kim loại nặng trong việc
hít thở hoặc ăn phải giữa các nhóm đối tượng.
+ Đánh giá mức phơi nhiễm kim loại
nặng từ bụi đường ở Việt Nam và so sánh với
các nước khác.
+ Đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề
ô nhiễm kim loại nặng trong bụi ở Việt Nam.
Đề tài là nghiên cứu đầu tiên ở Việt
Nam đánh giá mức độ ô nhiễm bụi đường về
mặt không gian và thời gian (theo mùa). Lần
đầu tiên đã quan trắc tại hai khu vực điển
hình là thủ đô Hà Nội (đại diện các thành phố
lớn) và dọc theo quốc lộ 5 và quốc lộ 18 (là
khu vực đường quốc lộ nối Hà Nội với Hải
Phòng và Quảng ninh là 02 trung tâm công
nghiệp lớn tại phía Bắc - Việt Nam cũng như
thiết lập được cơ sở dữ liệu về sự phân bố
không gian của kim loại nặng trong bụi
đường tại khu vực nghiên cứu. Nhóm nghiên
cứu đề tài đã áp dụng thành công phương
pháp đo nhanh bằng sử dụng thiết bị phân tích
huỳnh quang tia X (XRF) cầm tay và công
nghệ GIS để thiết lập được bản đồ phân bố
không gian của kim loại nặng trong bụi
đường tại khu vực nghiên cứu.
3. Về đánh giá mức độ phơi nhiễm của
dân cư dưới tác động của kim loại nặng trong
bụi đường.
- Đã sử dụng phương pháp phân tích
thành phần chính (PCA) và đã ứng dụng phần
mềm SPSS để phân tích PCA.
- Đã lựa chọn mô hình toán phù hợp để
tính liều lượng hấp thụ hàng ngày của kim
loại nặng thông qua hô hấp và tiêu hóa của
nhóm cộng đồng dân cư khác nhau trong
vùng nghiên cứu.
Như vậy, kết quả của đề tài là cơ sở
khoa học cho các Bộ, Ngành liên quan đề
xuất các giải pháp kinh tế - xã hội phù hợp..
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
15/05/2019
Trở về đầu trang
**************
LĨNH VỰC KHÁC
Chốt bảo vệ thông minh
Dự án Chốt bảo vệ thông minh của sinh
viên Ngô Triệu Nhân (khoa xây dựng Trường
ĐH Bách khoa - ĐH Quốc gia TP.HCM) vừa
giành giải nhất “Giải thưởng xây dựng bền
vững - Insee Prize 2019” do Công ty vật liệu
xây dựng INSEE VN trao.
Đây là dự án chốt canh gác cơ động ở
ngã tư đường Trục chính 2 và Trục chính 7, tại
khu đô thị ĐH Quốc gia TP.HCM, có nhà vệ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 49/60
sinh, bể 900 lít tích nước mưa, pin năng lượng
tiết kiệm điện, trồng cây có tính đuổi muỗi.
Ngô Triệu Nhân nhận giải nhất Giải thương xây dựng bền vững - Insee Prize 2019
Nhân chia sẻ: “Hầu hêt các chôt bảo
vê hiên nay đều thiêu khá nhiều thứ cần thiêt
cho nhân viên bảo vê như nhà vê sinh, không
gian nghỉ ngơi. Công với buổi trưa thì nóng
bức, còn buổi tôi tại những chôt bảo vê này
rất nhiều muỗi. Do đó mình đã nảy ra ý tưởng
thiêt kê chôt bảo vê thông minh hơn”.
Chốt bảo vệ thông minh có diện tích
4m2 nhưng đáp ứng được các nhu cầu nghỉ
ngơi, vệ sinh của nhân viên bảo vệ. Nhân
thiết kế bàn làm việc có thể gấp lại nhằm tạo
thêm không gian trống để nghỉ ngơi.
Bên cạnh đó, trong chốt bảo vệ thông
minh có thêm nhà vệ sinh riêng vì nhân viên
bảo vệ không thể bỏ nơi làm việc của họ
được, ở hạng mục này sản phẩm sử dụng
tường cong để tiết kiệm không gian.
“Phía mái trên chôt bảo vê mình bô trí
bể nước 900 lít nhằm tận dụng nguồn nước
mưa cũng như cách nhiêt cho không gian bên
trong, và lắp thêm tấm pin năng lượng mặt
trời 85W để tiêt kiêm điên” - Nhân phân tích.
Chốt bảo vệ này có nhiều ưu điểm
khác như thông gió tự nhiên, trồng các cây
đuổi muỗi xung quanh như bạc hà, hương
thảo, húng quế... khi tưới nước cho cây cũng
đồng thời làm mát cho không gian bên trong.
“Mình mong muôn cải thiên môi
trường làm viêc, mang đên không gian thoải
mái hơn, từ đó những người bảo vê có thể
làm viêc tôt hơn” - Nhân nhấn mạnh.
Là sinh viên, Triêu Nhân đã thiêt kê
sản phẩm theo hướng bền vững, đóng góp
cho chính khu đô thị nơi mình đang theo
học.
TS.KTS Lê Thị Hồng Na
Nguồn: Khánh Hưng, tuoitre.vn,
03/05/2019
Trở về đầu trang
**************
3 nhà khoa học được trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2019
PGS Nguyễn Lê Khánh Hằng nhận giải thương Tạ Quang Bửu
Chiều 18-5, tại Hà Nôi, Bô Khoa học -
Công nghê (KH-CN) tổ chức lễ kỷ niêm chào
mừng Ngày KH-CN Viêt Nam 18-5, lễ trao
Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2019 và lễ
trao Giải thưởng Báo chí về KH-CN năm
2018.
Giải thưởng Tạ Quang Bửu được năm
2019 được trao tặng cho 3 nhà khoa học
thuộc các ngành Cơ học, Y sinh dược học và
Vật lý. Đây cũng là năm đầu tiên, một nhà
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 50/60
khoa học nữ và các nhà khoa học trong các
ngành Y sinh Dược học và Cơ học được trao
tặng giải thưởng.
Giải thưởng Tạ Quang Bửu (do Quỹ
Phát triển khoa học và công nghê Quôc gia
làm Cơ quan thường trực) được Bô KH-CN tổ
chức hằng năm, là sự ghi nhận và tôn vinh
đôi với các nhà khoa học có kêt quả nghiên
cứu xuất sắc được công bô trên các Tạp chí
khoa học quôc tê uy tín thuôc lĩnh vực khoa
học tự nhiên và kỹ thuật. Giải thưởng góp
phần thúc đẩy nghiên cứu khoa học cơ bản
nói riêng, khoa học và công nghê Viêt Nam
nói chung.
Các nhà khoa học đoạt Giải thưởng
phải có những đóng góp chủ đạo trong quá
trình nghiên cứu khoa học tại Viêt Nam và
công bô các kêt quả thu được trên các tạp chí
khoa học quôc tê uy tín.
Năm 2019, Ban Tổ chức đã tiếp nhận
45 hồ sơ đăng ký tham gia Giải thưởng. Các
Hội đồng khoa học chuyên ngành đã đánh giá
và đề cử 8 hồ sơ để tiếp tục đưa ra xét chọn
tại Hội đồng Giải thưởng. Hội đồng Giải
thưởng Tạ Quang Bửu 2018 nhận định các
công trình năm nay đều có chất lượng tốt,
được xuất bản trên các tạp chí có uy tín và
một vài trong số đó có tiềm năng ứng dụng
cao trong thực tiễn.
Cụ thể, Giải thưởng Tạ Quang Bửu
năm nay được trao cho ba nhà khoa học gồm
PGS Phạm Đức Chính, Viện Cơ học, Viện
Hàn lâm KH-CN Việt Nam (lĩnh vực Cơ
học); PGS Nguyễn Lê Khánh Hằng, Viện Vệ
sinh Dịch tễ Trung ương (lĩnh vực Y sinh
Dược học) và TS Lê Trọng Lư, Viện Kỹ thuật
Nhiệt đới, Viện Hàn Lâm KH-CN Việt Nam
(lĩnh vực Vật lý).
Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ
KH-CN Chu Ngọc Anh khẳng định, Đảng và
Nhà nước luôn xác định KH-CN và đổi mới
sáng tạo có vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ chế, chính sách
về KH-CN đã được tập trung hoàn thiện với
nhiều quy định tiến bộ và đổi mới để KH-CN
thực sự đồng hành và thúc đẩy sự phát triển
của các ngành, lĩnh vực và địa phương.
Bộ trưởng KH-CN Chu Ngọc Anh
chúc mừng và ghi nhận cống hiến của các tác
giả đoạt Giải thưởng Tạ Quang Bửu được
năm 2019 đối với sự nghiệp phát triển KH-
CN. Đồng thời khẳng định, Bộ được Chính
phủ giao nhiệm vụ huy động đội ngũ cán bộ
khoa học và công nghệ, xây dựng các chính
sách để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo. Mọi nhiệm vụ hướng đến mục tiêu, giải
quyết các bài toán lớn, đồng bộ, tổng thể theo
chuỗi giá trị.
“Trong hê thông KH-CN hiên nay,
chúng ta cần quan tâm, tạo điều kiên cho
thê hê trẻ, trong đó có đôi ngũ startup, khởi
nghiêp đổi mới sáng tạo, doanh nghiêp
KH-CN”, Bô trưởng Chu Ngọc Anh nói.
Là nhà khoa học nữ lần đầu tiên được
vinh danh trong Giải thưởng Tạ Quang Bửu,
PGS Nguyễn Lê Khánh Hằng cho rằng, các
cơ quan quản lý khoa học thời gian qua tạo
môi trường, cơ hội bình đẳng trong việc tiếp
cận nguồn tài trợ nghiên cứu và hướng đến
các công trình nghiên cứu hội nhập quốc tế.
Việc tổ chức giải thưởng cũng góp phần tôn
vinh, nuôi dưỡng niềm đam mê nghiên cứu
tới các nhà khoa học.
Dịp này, Bộ KH-CN cũng trao Giải
thưởng Báo chí về KH-CN năm 2018. Giải
thưởng Báo chí về KH-CN là sự ghi nhận của
Bộ KH-CN đối với những nhà báo có tinh
thần khoa học, những nhà báo đã nỗ lực hết
mình, tìm tòi, phát hiện, phản ánh mọi lĩnh
vực của ngành KH-CN, đóng góp cho sự phát
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 51/60
triển KH-CN của đất nước bằng chính các tác
phẩm của mình. Đồng thời thông qua các bài
viết góp phần nâng cao nhận thức của xã hội
về vai trò của KH-CN trong thời kỳ phát triển
và hội nhập.
Giải thưởng năm nay được Hội đồng
chung tuyển giải thưởng đề xuất trao tặng 4
giải Nhất, 4 giải Nhì, 4 giải Ba và 6 giải
Khuyến khích.
Nguồn: Phan Thảo, sggp.org.vn,
18/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Khoa học công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đi đầu trong liên kết 3 nhà
Quang cảnh lễ Ra măt
Mô hình “Doanh nghiệp - Nhà nước -
Tổ chức nghiên cứu” lấy doanh nghiệp làm
trung tâm do Sở KH&CN TP. HCM khởi
xướng đã giúp các nhà khoa học, nhà sản
xuất, kinh doanh “hiểu nhau”, giúp đưa các
sản phẩm nghiên cứu khoa học được ứng
dụng trong sản xuất và đời sống.
Nhiều chương trình đã được xây dựng
nhằm phát triển sản phẩm công nghiệp thay thế
nhập khẩu với chi phí thấp cho năm lĩnh vực
ưu tiên của thành phố, gồm: chế biến thực
phẩm, dệt may-da, nhựa-cao su, cơ khí nông
nghiệp và cơ khí tiêu dùng. Qua đó góp phần
nâng cao năng lực thiết kế, trình độ chế tạo của
đội ngũ kỹ thuật của doanh nghiệp, kết hợp với
đội ngũ Khoa học và Công nghệ tại các viện,
trung tâm nghiên cứu, trường đại học.
Kết quả đã tạo dựng cơ chế liên kết
hợp tác ba bên, trong đó nhà nước đóng vai
trò cầu nối, là “bà đỡ” và cùng chia sẻ rủi ro
trong mối liên hệ giữa doanh nghiệp và các tổ
chức nghiên cứu. Sự hợp tác liên kết là khâu
đột phá rất quan trọng, nhằm phát huy năng
lực của đội ngũ cán bộ Khoa học và Công
nghệ, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư,
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Nổi bật nhất của mô hình này là
Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp hiện đại
hóa với chi phí thấp, tạo ưu thế cạnh tranh
tổng hợp và đẩy mạnh xuất khẩu (gọi tắt là
Chương trình 04 theo Chỉ thị 04/2000/CT-
UB-KT ngày 23/2/2000 của UBND TP. Hồ
Chí Minh).
Chương trình 04 đã thu được những
kết quả đáng khích lệ trong hoạt động hỗ trợ
doanh nghiệp như tổ chức các lớp tập huấn,
bồi dưỡng kiến thức về hệ thống quản lý chất
lượng quốc tế, kỹ năng tiếp xúc thương mại,
sở hữu trí tuệ, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa,
chương trình cung cấp thông tin cho doanh
nghiệp thông qua hệ thống đối thoại doanh
nghiệp và chính quyền thành phố…
Chương trình đã hình thành và phát
triển mô hình “tam giác liên kết” thông qua
các nội dung như: Hỗ trợ thiết kế, chế tạo thiết
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 52/60
bị có trình độ công nghệ tiên tiến với chi phí
thấp so với giá nhập khẩu, khai thác thế mạnh
của các cơ quan nghiên cứu, đáp ứng nhu cầu
hiện đại hóa của một số ngành sản xuất, làm
tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Ðến nay, qua chương trình “Hỗ trợ
thiết kế, chế tạo thiết bị có trình độ công nghệ
tiên tiến với chi phí thấp”, TP. HCM đầu tư
kinh phí 17,3 tỷ đồng để thiết kế chế tạo 27
loại thiết bị, công nghệ thay thế nhập khẩu
với giá thành chỉ bằng 30 -70% giá nhập
khẩu. Ðã chuyển giao hơn 180 thiết bị, tiết
kiệm được 11,3 triệu USD (hơn 160 tỷ đồng)
cho doanh nghiệp. Sản phẩm của chương
trình đã xuất khẩu sang Thái Lan, Lào,
Campuchia, Australia với giá trị gần một triệu
USD trong hai năm 2003 và 2004.
Thành phố cũng đã thành lập Trung
tâm Thiết kế Chế tạo Thiết bị mới (Neptech) -
đơn vị trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ
TP. Hồ Chí Minh. Ðây là nơi tập hợp, thu hút
các nguồn lực Khoa học và Công nghệ của
thành phố để nghiên cứu, hoàn thiện công
nghệ và sản xuất thử nghiệm một số thiết bị -
công nghệ, góp phần hiện đại hóa một số
ngành sản xuất mũi nhọn của thành phố.
Có thể nói việc hình thành và phát
triển mô hình liên kết tam giác: “Doanh
nghiệp - Nhà nước - Cơ sở nghiên cứu khoa
học” trong hoạt động Khoa học và Công nghệ
thông qua chương trình “Hỗ trợ doanh nghiệp
hiện đại hóa với chi phí thấp, tạo ưu thế cạnh
tranh tổng hợp và đẩy mạnh xuất khẩu” đã tạo
tiền đề cho việc xây dựng và phát triển thị
trường Khoa học và Công nghệ tại TP. Hồ
Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Nguồn: Lê Hạnh, khampha.vn,
26/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 53/60
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1 Nghiên cứu thiết kế chế tạo bộ nguồn thay thế dùng cho
máy đẩy Cuda của bộ đội đặc công Hải quân.
ThS. Trịnh Đình Cường -
Viện Công nghệ mới
2
Nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị tự động sấy hồng
ngoại và khử khuẩn.
TS. Vũ Kế Hoạch - Trường
Cao đẳng Kỹ thuật Cao
Thắng
3
Nghiên cứu thiết kế hệ thống phần mềm khai thác dữ
liệu DICOM trên nền Web phục vụ hội chẩn y tế qua
thiết bị Mobile và Smart tivi.
TS. Nguyễn Chí Ngọc -
Công ty Cổ phần Thông
minh Ưu Việt
4
Nghiên cứu lên men chủng Candida bombicola từ rỉ
đường và dầu đậu nành để thu nhận sophorolipid nhằm
ứng dụng cho mỹ phẩm.
TS. Nguyễn Thị Bạch Huệ -
Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
5
Tách chiết hợp chất ecdysteroid từ thông đỏ (taxus
wallichiana) và thử nghiệm khả năng gây lột xác trên cua
(scylla paramamosain).
ThS. Bùi Thế Vinh - Trung
tâm Sâm và Dược liệu thành
phố Hồ Chí Minh
6 Điều tra hiện trạng và xây dựng quy trình phòng trị tổng
hợp bệnh chân móng trên bò sữa TP.HCM.
PGS. TS. Dương Nguyên
Khang - Trung tâm Nghiên
cứu và Chuyển giao Khoa
học Công nghệ
7
Nghiên cứu bào chế và thử nghiệm tác dụng hạ acid uric
máu của viên nang DR từ Diệp hạ châu đắng
(Phyllanthus amarus) và Râu mèo (Orthosiphon
aristatus).
PGS. TS. Nguyễn Phương
Dung - Đại học Y dược
thành phố Hồ Chí Minh
8
Giải pháp giảm thiểu xung đột trong quan hệ lao động tại
doanh nghiệp ở khu công nghiệp, khu chế xuất thành
phố Hồ Chí Minh.
PGS.TS. Lê Thị Mai -
Trường Đại học Tôn Đức
Thắng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 54/60
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án Chủ nhiệm/ CQ chủ trì
Ngành Kinh tế
1 17/05/2019 Giải pháp nâng cao hiệu quả trả lương cho
lao động trực tiếp trong doanh nghiệp may.
ThS. NCS. Lê Thị Kim
Tuyết - Trường Đại học
Công nghiệp Dệt May Hà
Nội
2 12/05/2019 Xây dựng hướng dẫn xác định trọng yếu
kiểm toán chi đầu tư phát triển trong các
cuộc kiểm toán ngân sách địa phương.
TS. Đặng Anh Tuấn và
KS. Lê Ngọc Thọ - Kiểm
toán Nhà nước khu vực IV
3 23/05/2019 Vấn đề giải pháp nâng cao hiệu quả điều
hành chính sách nhà nước nhằm ổn định thị
trường tài chính Việt Nam.
PGS.TS Lê Thị Mận -
trường Đại học Kinh tế -
Tài chính TP.HCM
4 24/05/2019 Giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng Hệ
thống quản lý chất lượng theo TCVN 9001
tại Kho bạc Nhà nước Thừa Thiên Huế.
Thạc sỹ Nguyễn Hoàng
Đệ và Thạc sỹ Hà Văn
Dũng - Kho bạc Nhà nước
Thừa Thiên Huế
5 17/05/2019 Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu
phạt vi phạm hành chính qua Kho bạc Nhà
nước Bà Rịa - Vũng Tàu.
Kho bạc Nhà nước
6 08/05/2019
Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu
chứng nhận “ Chè Yên Thế” dùng cho
sản phẩm chè khô huyện Yên Thế,
tỉnh Bắc Giang.
Viện Kinh tế và Phát triển
- Học viện Nông nghiệp
Việt Nam
7 16/05/2019 Tác động của những hiệp định thương mại tự
do đối với thành phố Cần Thơ và giải pháp
ứng phó.
Ông Phạm Bình An - Viện
Kinh tế Xã hội thành phố
Cần Thơ
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
8 25/05/2019
Xây dựng mô hình thử nghiệm ứng dụng
công nghệ thuỷ canh vào việc xanh hoá
công sở tại văn phòng Sở KH&CN tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu.
KS. Mã Thị Anh Thư -
Trung tâm Ứng dụng Tiến
bộ KH&CN tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu
9 04/05/2019 Nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm chiết
xuất từ cây quế và cây chiêu liêu trong bảo
quản trái bơ và chanh dây tại tỉnh Đắk Lắk
TS.KTS Nuyễn Thị Bích
Thuận - Tổng hội Xây
dựng Việt Nam
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 55/60
10 10/05/2019 Điều tra thành phần loài và đề xuất mô hình
phát triển cây sa nhân tại tỉnh Thừa Thiên
Huế để tạo nguồn dược liệu.
Trường đại học Y Dược
Huế
11 25/05/2019 Xây dựng quy trình trồng và nhân giống Hoa
Hồng cổ Sapa và Hải Phòng tại Long Xuyên,
An Giang.
ThS. Nguyễn Thị Mỹ
Duyên - Trường Đại học
An Giang
12 23/05/2019 Ứng dụng quy trình kỹ thuật trồng táo theo
tiêu chuẩn VietGap tại xã Cam Thành Nam,
thành phố Cam Ranh.
KS. Bùi Văn Binh - Trung
tâm Nông nghiệp Công
nghệ cao Khánh Hòa
13 24/05/2019 Hoàn thiện và chuyển giao quy trình sử dụng
đèn LED cho nghề lưới vây xa bờ tỉnh
Khánh Hòa.
ThS. Nguyễn Văn Nhuận -
Trường Đại học Nha Trang
14 09/05/2019 Nghiên cứu chế tạo cừ bê tông chất lượng
siêu cao thay thế cừ Larsen thép (Cọc ván
ép).
TS. Nguyễn Công Thắng -
Trường Đại học Xây dựng
Hà Nội
15 11/05/2019 Khảo nghiệm, chọn tạo các giống hoa và
cây kiểng tiềm năng phục vụ phát triển du
lịch Bảy Núi, An Giang.
ThS. Nguyễn Hoài Vững -
Trung tâm Công nghệ sinh
học An Giang
16 24/05/2019
Xây dựng mô hình ứng dụng, chuyển giao
công nghệ sinh sản nhân tạo và nuôi thương
phẩm cá chạch sông (Mastacembelus
amatus) tại tỉnh Phú Thọ.
PGS.TS Cao Văn - Trường
Đại học Hùng Vương
17 08/05/2019 Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây
dựng vùng chè Yên Thế năng suất, chất
lượng phục vụ xuất khẩu.
Viện Nghiên cứu và Phát
triển Vùng - Bộ KH&CN
18 08/05/2019
Nghiên cứu tuyển chọn cây đầu dòng và
một số biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng
năng suất, chất lượng cây vú sữa huyện Tân
Yên, tỉnh Bắc Giang.
Viện Nghiên cứu Rau quả
19 02/05/2019 Nghiên cứu diễn biến xâm nhập mặn vùng
ven biển tỉnh Quảng Nam, đề xuất và giải
pháp.
Viện địa lý
20 04/05/2019 Trồng thử nghiệm cây Macadamia trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang.
Chi cục Kiểm lâm tỉnh
Tuyên Quang
21 12/05/2019 Xây dựng mô hình trồng thử nghiệm cây
trôm trên vùng khô hạn thuộc khu vực biên
TS. Phạm Trọng Nhân -
Viện Khoa học Lâm nghiệp
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 56/60
giới của tỉnh Đắk Lắk. Nam Trung bộ và Tây
Nguyên
22 25/05/2019
Khảo sát thực nghiệm và đề xuất giải pháp
tối ưu hóa kỹ thuật sửa chữa, nâng cấp cầu
bê tông sử dụng tấm sợi polyme gia cường
ở tỉnh Cà Mau.
PGs.Ts. Nguyễn Minh
Long và Ths. Lê Minh
Luân, - Ban Quản lý dự án
xây dựng công trình giao
thông
23 22/05/2019 Nghiên cứu công nghệ và thiết kế chế tạo hệ
thống thiết bị cắt, tách gáo và làm sạch vỏ
nâu cơm dừa.
Kỹ sư cơ khí Cao Minh
Đạt - DNTN Phương Nhi
24 05/05/2019
Tuyển chọn và nhân giống vô tính cây bơ
(Persea americana Mill.) trồng bằng hạt, hoa
tự thụ, cho trái ổn định và phẩm chất trái
ngon trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
TS. Lê Hữu Hải - Trường
Đại học Tiền Giang
25 24/05/2019
Ứng dụng khoa học và công nghệ sử dụng
phân bón hữu cơ vi sinh Hudavil trên một số
cây trồng tại tỉnh Cao Bằng góp phần phát
triển nông nghiệp bền vững.
Sở Khoa học và Công nghệ
tỉnh Cao Bằng
26 16/05/2019 Nghiên cứu cơ sở khoa học sinh thái để phát
triển nông nghiệp bền vững thị xã Duyên
Hải, tỉnh Trà Vinh.
TS Nguyễn Văn Tú - Viện
Sinh học Nhiệt đới
27 16/05/2019
Nghiên cứu thực nghiệm sinh sản nhân tạo,
ương và nuôi thương phẩm cá Dìa bông
(Siganus guttatus, Bloch 1787) tại Bình
Định.
KS Phan Thanh Việt -
Trung tâm Giống Nông
nghiệp
28 16/05/2019 Nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm chiết
xuất từ cây quế và cây chiêu liêu trong bảo
quản trái bơ và chanh dây tại tỉnh Đắk Lắk.
PGS.TS Nguyễn Quang
Vinh - Viện Công nghệ
Sinh học và Môi trường,
Trường Đại học Tây
Nguyên
29 16/05/2019
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình
thâm canh hồ tiêu theo tiêu chuẩn VietGAP
nhằm phòng bệnh chết nhanh, chết chậm góp
phần xây dựng nông thôn mới bền vững và
xây dựng nhãn hiệu hồ tiêu tại huyện Tân
Phú, tỉnh Đồng Nai.
Phòng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn huyện Tân
Phú và Trung tâm Nghiên
cứu cây ăn quả miền Đông
Nam
30 23/05/2019 Nghiên cứu bảo tồn nguồn gen cây mãng cầu
ta (Na) đặc hữu của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
KS. Đỗ Văn Thịnh - Trung
tâm Nghiên cứu Cây ăn quả
miền Đông Nam Bộ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 57/60
Ngành Y dược
31 29/05/2019 Đánh giá hiệu quả can thiệp đến kiến thức
sử dụng kháng sinh của người dân trong
điều trị tại tỉnh Hải Dương.
TS. Nguyễn Thị Hường
32 05/05/2019
Nghiên cứu thành phần các hoạt chất có tác
động hỗ trợ điều trị ung thư đường tiêu hóa
từ củ ngải bún (Boesenbergia pandurata) ở
An Giang.
PGS.TS. Nguyễn Trung
Nhân - Trường Đại học
Khoa học tự nhiên và
Trung tâm công nghệ sinh
học An Giang
33 12/05/2019
Xây dựng mô hình can thiệp dự phòng,
sàng lọc và kiểm soát ung thư cổ tử cung
của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49
tuổi) dựa vào y tế xã tỉnh Bình Định.
TS Trương Quang Đạt -
Liên hiệp các Hội khoa
học và kỹ thuật Bình Định
34 25/05/2019
Giải pháp phòng chống dịch bệnh truyền
nhiễm để đảm bảo sức khỏe cán bộ chiến sĩ
và học viên đang học tập và làm việc tại
cơ sở 3 Trường Đại học Phòng cháy
chữa cháy.
Thiếu tá Nguyễn Thanh
Vân - Trường Đại học
Phòng cháy chữa cháy
35 26/05/2019 Nghiên cứu quy trình điều chế Felodipin
làm thuốc điều trị bệnh cao huyết áp.
PGS.TS. Vũ Minh Tân -
Trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội
36 22/05/2019 Xây dựng mô hình quản lý, chăm sóc sức
khỏe người dân tại cộng đồng bằng sổ sức
khỏe điện tử.
TS. Nguyễn Đình Học -
Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn
Ngành Giáo dục đào tạo
37 24/05/2019
Giải pháp nâng cao hiệu quả tự học học
phần Kĩ thuật May của sinh viên ngành
Công nghệ May đáp ứng yêu cầu gắn đào
tạo với thực tế sản xuất hàng xuất khẩu.
ThS. Dương Thị Hồng
Lượng - Trường Đại học
Công nghiệp Dệt May Hà
Nội
38 12/05/2019 Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
quản lý đào tạo của Kiểm toán nhà nước.
TS. Nguyễn Hữu Hiểu và
TS. Lê Anh Vũ Trường
Đào tạo và Bồi dưỡng
nghiệp vụ kiểm toán
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 58/60
39 24/05/2019 Ứng dụng của việc sử dụng portfolio- hồ sơ
sinh viên trong việc cải thiện học từ vựng
của sinh viên Đại Nam.
ThS. Phùng Thị Yên -
Trường Đại học Đại Nam
40 24/05/2019 Sử dụng trò chơi ngôn ngữ để tạo hứng thú
học tiếng Anh cho sinh viên năm nhất Đại
học Đại Nam.
Th.S Nguyễn Thị Nhiên -
Trường Đại học Đại Nam
41 19/05/2019 Nghiên cứu giải pháp tạo nguồn đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Thiếu tướng, TS Nguyễn
Xuân Trường - Trường
Đại học Chính trị
42 24/05/2019
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phối
hợp thực hiện công tác đào tạo bậc trung
cấp hệ chính quy tại cơ sở 3, Trường Đại
học Phòng cháy chữa cháy.
Đại úy Phạm Thị Hồng
Biên - Trường Đại học
Phòng cháy chữa cháy
43 24/05/2019
Giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp với lực
lượng Công an cơ sở làm tốt công tác bảo
đảm an ninh trật tự xung quanh khu vực
trường đóng quân tại Cơ sở 3 Trường Đại
học Phòng cháy chữa cháy.
Trung tá Bùi Đức Thịnh
và Thiếu úy Vũ Chiến
Thắng - Trường Đại học
Phòng cháy chữa cháy
44 19/05/2019
Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và bố trí,
sử dụng cán bộ công chức người dân tộc
thiểu số tỉnh Bình Phước.
Ông Nguyễn Thành
Chương - Sở Nội Vụ tỉnh
Bình Phước
45 24/05/2019
Nghiên cứu thiết kế và chế tạo bộ Duplexer,
bộ khuếch đại công suất (PA) và bộ tản nhiệt
hiệu suất cao cho hệ thống RRU (Remote
Radio Unit).
Thạc sĩ Đỗ Trọng Tấn -
Trung tâm Công nghệ Vi
điện tử và Tin học (IMET)
Ngành văn hóa xã hội
46 24/05/2019
Tổng kết lịch sử Công an tỉnh Sông Bé
(nay là Bình Dương và Bình Phước)
giúp tỉnh Kratíe (Campuchia), giai đoạn
1978 – 1991.
Công an tỉnh Bình Phước
47 24/05/2019 Nghiên cứu giải pháp tạo nguồn cán bộ
chính trị cấp phân đội (CBCTCPĐ) trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Thiếu tướng, TS Nguyễn
Xuân Trường - Trường Sĩ
quan Chính trị
48 19/05/2019 Điều chỉnh hệ thống đô thị quốc gia đến
năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050.
KTS. Phạm Thị Nhâm -
Viện Quy hoạch đô thị và
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 06/2019 59/60
nông thôn quốc gia
49 24/05/2019 Nghiên cứu thiết kế cây xanh đường phố
trong các đồ án quy hoạch đô thị Việt Nam.
ThS.KTS. Nguyễn Thị
Hồng Diệp - Viện Quy
hoạch Đô thị và Nông
thôn Quốc gia
50 24/05/2019 Xung đột xã hội và những vấn đề đặt ra đối
với công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở
nước ta hiện nay.
Thiếu tướng, PGS.TS Trần
Vi Dân
51 24/05/2019
Đánh giá thực trạng môi trường lao động,
công tác quản lý an toàn vệ sinh lao động
và sức khỏe người lao động tại các cơ sở
sản xuất VLXD có sử dụng tro, xỉ, thạch
cao tại Việt Nam.
TS.Bác sĩ Lê Thị Hằng -
Bệnh viện Xây dựng
52 19/05/2019 Nghiên cứu thiết kế cây xanh đường phố
trong các đồ án quy hoạch đô thị Việt Nam.
ThS.KTS. Nguyễn Thị
Hồng Diệp - Viện Quy
hoạch Đô thị và Nông
thôn Quốc gia
53 24/05/2019 Văn học đại chúng trong bối cảnh văn hóa
Việt Nam đương đại.
PGS.TS. Nguyễn Đăng
Điệp l - Viện Văn học
54 24/05/2019 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
lực lượng CSKV trong phòng ngừa tội
phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Thượng tá Hoàng Giang
Nam - Phòng PX03, Công
an tỉnh Quảng Bình
55 19/05/2019 Diễn ngôn phát triển, chuyển đổi sinh kế và
biến đổi văn hoá ở người Ê Đê và Cơ Ho,
Tây Nguyên.
TS. Hoàng Cầm - Viện
Nghiên cứu Văn hóa
56 24/05/2019 Vai trò của già làng và người có uy tín
trong phát triển bền vững vùng đồng bào
dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước.
TS. Nguyễn Văn Thắng,
Trường đại học Thủ đô Hà
Nội
57 24/05/2019 Đổi mới, nâng cao chất lượng đánh giá, xếp
loại tổ chức Công đoàn.
Ths. Đặng Quang Hợp -
Viện Công nhân và Công
đoàn
58 26/05/2019 Những giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam
hiện nay.
PGS.TS. Trần Thị Minh
Thi - Viện Nghiên cứu Gia
đình và Giới
59 26/05/2019 Văn học trào phúng Việt Nam (Từ thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX).
PGS.TS. Vũ Thanh - Viện
Văn học