tin n i b t t · trong bối cảnh không gian chính sách tiền tệ cho phép, nền kinh tế...
TRANSCRIPT
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 06/12)
VN - Index 966,06 0,26%
HNX - Index 102,36 0,13%
D.JONES CK Mỹ 27.909,60 0,38%
STOXX CK C.Âu 3.672,18 0,55%
CSI 300 CK TQ 3.895,45 0,18%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 09/12)
SJC Ng.đ/L 41.420 0,10%
Quốc tế USD/Oz 1.459,30 0,01%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.163 0,01%
EUR/USD 1,1064 0,06%
Dầu
WTI USD/th 58,89 0,00%
Theo các chuyên gia, chính sách nới lỏng
tiền tệ được cân nhắc để hỗ trợ nền kinh tế có
dấu hiệu suy giảm tăng trưởng hoặc trì trệ.
Trong khi đó, NHNN đang điều hành trong bối
cảnh không gian chính sách tiền tệ cho phép,
nền kinh tế ổn định với cơ hội bứt phá. Vì vậy,
theo ông, những điều hành gần đây mang ý
nghĩa điều phối dòng vốn có trọng điểm, đáp
ứng linh hoạt với nhu cầu của nền kinh tế.
Tin nổi bật
Thấy gì với tăng trưởng tín dụng vẫn quanh 10%?
SSI Research: Chính sách tiền tệ của NHNN theo
hướng hỗ trợ tăng trưởng
Chưa có dấu hiệu nới lỏng chính sách tiền tệ
Airports Council International: Hàng không Việt
Nam tăng trưởng hành khách cao nhất thế giới
giai đoạn 2017-2040
Lãi suất âm có nguy cơ lan rộng ra toàn cầu vào
năm 2020
Thứ Hai, ngày 09/12/2019
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Thấy gì với TTTD vẫn quanh
10%?
TTTD tính đến cuối tháng 11/2019 đạt 10%, thấp hơn so với mọi năm.
Dư nợ toàn hệ thống thấp, nhưng tăng trưởng của nền kinh tế vẫn tăng,
cho thấy TTTD đã bền vững, đi vào thực chất. Giám đốc tài chính một
NH thương mại cổ phần cổ phần cho rằng, có 3 nguyên nhân chính. Thứ
nhất, tín dụng dành cho lĩnh vực bất động sản giảm do NHNN có động
thái điều chỉnh mạnh cơ cấu tín dụng cho vay bất động sản, tập trung
vào lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Do vậy, dù TTTD tính đến tháng 11
mới chỉ bằng TTTD tính đến tháng 9 của năm 2018, nhưng tăng trưởng
của nền kinh tế vẫn ổn định.
Thứ hai, các NH phải tăng vốn điều lệ nhằm đáp ứng quy định mới về tỷ
lệ an toàn vốn tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN, nhưng không ít NH gặp
khó khăn khi tăng vốn, đặc biệt đối với các NH có vốn nhà nước. Trong
khi đó, nhóm NH này chiếm khoảng 50% thị phần tín dụng của toàn hệ
thống, nếu không tăng được vốn điều lệ, các NH phải giảm tốc độ TTTD,
ảnh hưởng đến tỷ lệ TTTD chung của toàn hệ thống. Thứ ba, NHNN
đánh giá “sức khỏe” của các NH mới phân hạn mức tín dụng và vấn đề
này được tiến hành rất chặt chẽ. Do đó, những NH có các chỉ số an toàn
chưa tốt sẽ được phân một hạn mức tín dụng thấp hơn so với nhu cầu.
Chia sẻ với phóng viên Báo Ðầu tư Chứng khoán, ông Hoàng Minh
Hoàn, Phó tổng giám đốc SCB nêu quan điểm: “Dư nợ toàn hệ thống
thấp, nhưng tăng trưởng của nền kinh tế vẫn tăng, cho thấy TTTD đã
bền vững, đi vào thực chất”. TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế
cho biết, TTTD chậm lại vì tốc độ phát triển của thị trường bất động sản
chậm lại và nguồn vốn chuyển sang nhóm sản xuất - kinh doanh, đặc
biệt là khối DN nhỏ và vừa hiện chiếm 90% số lượng DN trên cả nước.
TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế - tài chính cho rằng, cần nhiều
động thái hơn để nguồn vốn từ NH có thể “chảy” đến các DN nhỏ và vừa,
đây cũng là một trong phương thức để nâng cao chất lượng dư nợ tín
dụng toàn hệ thống.
Tài chính – Ngân hàng
3
SSI Research: Chính sách tiền tệ
của NHNN theo hướng hỗ trợ tăng
trưởng
Trung tâm Phân tích CTCP Chứng khoán SSI (HoSE: SSI) - SSI
Research vừa có báo cáo thị trường tiền tệ tháng 11. Sau tín hiệu dừng
hạ LS của Fed, làn sóng nới lỏng tiền tệ trên thế giới cũng có vẻ chững
lại trong tháng 11, chỉ ghi nhận 10 NHTW giảm LS trong tháng vừa qua
trong đó có Trung Quốc, Thái Lan, Mexicô; bằng một nửa so với số lượng
NHTW cắt giảm LS hàng tháng giai đoạn tháng 8-10. Tuy nhiên, xu
hướng giảm LS trở lên rõ nét hơn ở Việt Nam với các động thái mạnh từ
NHNN, hướng tới mục tiêu giảm ít nhất 0,5%/năm LS cho vay trong năm
2020 mà Thủ tướng đã phát biểu trước Quốc hội.
NHNN đã bơm ròng 103.176 tỷ đồng trên thị trường mở; giảm LS mua
kỳ hạn (OMO) từ 4,5%/năm xuống 4%/năm - bước giảm lớn nhất (50
điểm cơ bản) trong 5 năm trở lại đây, là lần giảm thứ 2 trong năm nay,
tái khởi động lại kênh OMO sau gần 3 tháng không giao dịch, trần LS
tiền gửi ngắn hạn và cho vay lĩnh vực ưu tiên đồng loạt hạ xuống thấp
hơn 0,5%/năm so với mức cũ.
LS VND trên liên NH đi ngang ở mức thấp quanh 2%/năm trong nửa đầu
tháng 11 nhưng tăng lên quanh 4%/năm với kỳ hạn qua đêm trong 2
tuần cuối tháng khi nguồn cung tiền đồng từ các NHTM lớn sụt giảm.
Tháng 11 là tháng có hiệu lực đầu tiên của Thông tư 58 về quản lý và
sử dụng tài khoản của KBNN, theo đó tiền gửi không kỳ hạn của KBNN
sẽ được quản lý tập trung về tài khoản của KBNN ở Sở giao dịch NHNN
thay vì để tại các NHTM. Bởi vậy, thực chất việc áp dụng thông tư mới
có làm sụt giảm số dư tiền gửi không kỳ hạn của KBNN tại các NHTM
nhưng tác động không lớn. Biến động thanh khoản một phần đến từ việc
quay vòng các khoản tiền gửi có kỳ hạn tại NHTM.
Ngoại trừ 4 NHTM Nhà nước và một vài NHTM lớn, LS huy động các kỳ
hạn 1 đến dưới 6 tháng của hầu hết các NHTM trong những tháng gần
đây đều đang ở mức 5,5%/năm nên khi trần LS huy động giảm, một loạt
các NHTM cũng điều chỉnh giảm LS ở kỳ hạn này về mức 5%/năm kể từ
ngày 19/11/2019.
Điểm đáng chú ý là các kỳ hạn dài hơn cũng đã bắt đầu giảm, rõ rệt nhất
là ở nhóm các NHTM có thị phần nhỏ (giảm 20-30 điểm cơ bản), thu hẹp
mức chênh lệch LS với nhóm các NHTM lớn. LS huy động kỳ hạn dưới
6 tháng dao động trong khoảng 4,1-5%/năm, từ 6 đến dưới 12 tháng
trong khoảng 5,5-7,5%/năm và từ 12-13 tháng là 6,4-7,9%/năm.
4
Trong tháng 12, cung cầu ngoại tệ vẫn thuận lợi nhưng do lạm phát nên
LS thị trường 1 sẽ khó giảm. Tuy nhiên, sang năm 2020, với dự báo lạm
phát sẽ hạ nhiệt nhanh sau Tết nguyên đán, LS huy động có thể tiếp tục
được định hướng giảm tiếp 0,5%-1% từ đó kéo giảm LS cho vay. Các kỳ
hạn dài trên 12 tháng sẽ giảm chậm hơn do các quy định về tỷ lệ vốn
ngắn hạn cho vay trung dài hạn và vẫn có sự phân hóa LS giữa các
nhóm NHTM lớn và nhỏ.
Chưa có dấu hiệu nới lỏng chính
sách tiền tệ
Ông Nguyễn Đức Khương, Giáo sư tài chính tại Học viện Hành chính và
quản trị kinh doanh Paris (IPAG Business School) cho biết, chính sách
nới lỏng tiền tệ được cân nhắc để hỗ trợ nền kinh tế có dấu hiệu suy giảm
tăng trưởng hoặc trì trệ. Trong khi đó, NH Nhà nước đang điều hành
trong bối cảnh không gian chính sách tiền tệ cho phép, nền kinh tế ổn
định với cơ hội bứt phá. Vì vậy, theo ông, những điều hành gần đây mang
ý nghĩa điều phối dòng vốn có trọng điểm, đáp ứng linh hoạt với nhu cầu
của nền kinh tế.
Ngay cả trong năm 2020 khi kinh tế toàn cầu còn nhiều dấu hiệu khó
khăn, Việt Nam vẫn có tiềm năng để phát triển. Ông Khương cho rằng,
khi các cơ hội mở ra đòi hỏi DN phải có nguồn lực tài chính. Đây cũng
có thể là lý do NH Nhà nước nới rộng tín dụng cho tiêu dùng và đầu tư,
thông qua việc giảm LS, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Ông dẫn các chỉ số cho thấy kinh tế vĩ mô của Việt Nam ổn định và có
chiều hướng tiến triển tốt. Lạm phát ở mức 3–3,5% (thấp hơn so với mục
tiêu đề ra của Chính phủ), nợ công giảm dần (nợ công so với GDP giảm
từ 58,4% vào 2018 xuống 56,1%), cán cân thu chi ngân sách cân bằng
và được đảm bảo ở cả cấp trung ương và địa phương. Đây là những chỉ
số quan trọng cho thấy chính phủ quản lý chi tiêu tốt, tốc độ tăng trưởng
GDP của Việt Nam cũng nằm top đầu trong khu vực và thế giới.
Việc điều phối dòng vốn càng cần thiết hơn, trong bối cảnh đầu tháng
11, Thủ tướng yêu cầu phải sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để
giảm ít nhất 0,5 điểm phần trăm LS cho vay vào đầu 2020, đặc biệt là
đối với lĩnh vực ưu tiên. Ông Khương nhận định, chính sách này sẽ rất
có lợi với nền kinh tế nếu gia tăng tín dụng được điều chuyển đến các
khu vực đầu tư trọng điểm, các DN vừa và nhỏ. Định hướng này cũng
được thể hiện qua việc NH Nhà nước thắt chặt tín dụng bất động sản và
ban hành chính sách theo mục tiêu này, như hỗ trợ cho lĩnh vực ưu tiên.
5
LS huy động giảm vào cuối năm là việc ít thấy tại Việt Nam do đây là
thời kỳ cao điểm cho nhu cầu nguồn vốn, tiền mặt. Việc các NH đồng
loạt giảm LS vừa qua nhiều khả năng không nằm trong kế hoạch từ trước
mà nhằm thực thi chủ trương giảm LS của Chính phủ, NH Nhà nước,
báo cáo của Viện nhiên cứu & đào tạo BIDV nhận định. Theo ước tính
của Viện nghiên cứu và đào tạo BIDV, bình quân LS toàn thị trường kỳ
hạn dưới 6 tháng giảm khoảng 0,3% một năm so với trước khi giảm trần
LS. Việc giảm trần không ảnh hưởng nhiều đến LS tiền gửi của các NH
có vốn nhà nước nhưng giúp thu hẹp mức chênh lệch LS giữa nhóm này
với NH cổ phần.
Thanh khoản ổn định trở lại,
NHNN giảm “bơm” tiền vào hệ
thống
Sau khi được NHNN hỗ trợ thanh khoản trong tuần cuối tháng 11, LS
liên NH đã bắt đầu bình ổn trở lại. Trong tuần từ 02/12 - 06/12, LS VND
liên NH tăng ở hầu hết các kỳ hạn, ngoại trừ giảm nhẹ ở kỳ hạn 1 tháng.
Theo đó, chốt phiên cuối tuần 06/12, LS VND liên NH kỳ hạn qua đêm
giao dịch quanh mức 4,0%, tăng 0,17 điểm phần trăm; kỳ hạn 1 tuần là
4,10%, tăng 0,07 điểm phần trăm; kỳ hạn 2 tuần là 4,20%, tăng 0,07
điểm phần trăm; kỳ hạn 1 tháng là 4,26%, giảm 0,04 điểm phần trăm so
với chốt cuối tuần trước.
LS USD liên NH tiếp tục ít biến động trong tuần vừa qua ở tất cả các kỳ
hạn. Cuối tuần 06/12, LS đứng ở mức: kỳ hạn qua đêm là 1,75% (không
thay đổi); kỳ hạn 1 tuần là 1,84%, giảm 0,01 điểm phần trăm, kỳ hạn 2
tuần là 1,93%, giảm 0,02 điểm phần trăm và kỳ hạn 1 tháng là 2,09%,
giảm 0,04 điểm phần trăm.
Tuần qua, trên thị trường mở, NHNN chào thầu 50.000 tỷ đồng trên kênh
cầm cố, đều với kỳ hạn 14 ngày, LS chào thầu ở mức 4,0%. Các tổ chức
tín dụng hấp thụ được 34.593 tỷ đồng, trong tuần có 31.286 tỷ đồng đáo
hạn trên kênh này. Như vậy, NHNN chỉ còn bơm ròng 3.307 tỷ đồng ra
thị trường thông qua kênh cầm cố trong tuần vừa qua, giảm mạnh so với
mức bơm ròng hơn 62.000 tỷ đồng trong tuần trước đó.
6
Airports Council International:
Hàng không Việt Nam tăng
trưởng hành khách cao nhất thế
giới giai đoạn 2017-2040
Báo cáo Giao thông Sân bay Thế giới của Airports Council International
dự đoán rằng Việt Nam sẽ là quốc gia tăng trưởng hành khách nhanh
nhất trong giai đoạn 2017-2040. Trong top 10, Việt Nam xếp trên Ấn Độ,
Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á khác như Philippines,
Indonesia và Malaysia. Sân bay Nội Bài - Hà Nội (đứng thứ 5) và Tân
Sơn Nhất - Thành phố Hồ Chí Minh (đứng thứ 10) cũng được xếp hạng
trong 10 sân bay tăng trưởng nhanh nhất thế giới về hành khách. Riêng
Nội Bài tăng trưởng nhanh đứng top 4 cả về khối lượng hàng hóa.
Báo cáo cũng cho biết, lượng hành khách toàn cầu ước tính đạt tới 8,8
tỷ trong năm 2018, tăng 6,4% so với năm 2017. Lưu lượng hành khách
quốc tế tăng nhanh hơn lưu lượng hành khách nội địa (6,7% so với 5,5%).
Với sự bất ổn của các nền kinh tế lớn, báo cáo cho thấy thị trường hàng
hóa hàng không cũng như lưu lượng hành khách chịu tác động rõ rệt của
các bức tường thuế quan giữa Trung Quốc và Mỹ. Hàng không thế giới
hiện đang phải phụ thuộc rất nhiều vào các thị trường mở khác để phát
triển. Nếu căng thẳng thương mại còn tiếp tục leo thang, tác động bất lợi
của chúng sẽ tiếp tục kìm hãm sự tăng trưởng hàng không ở nhiều quốc
gia. Các nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu hoặc mang gánh
nặng nợ cao hơn sẽ nhạy cảm nhất với các tác động tiêu cực. Hiệu ứng
lan truyền của một cuộc suy thoái kinh tế có thể nhanh chóng lan rộng
sang lĩnh vực hàng không.
Nhiều quốc gia ở khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam, đang chứng
kiến sự gia tăng nhanh chóng nhu cầu vận tải hàng không, khiến các
sân bay gần như bão hòa, thậm chí là quá tải. ACI cho rằng, tận dụng
tối đa cơ sở hạ tầng hiện có cùng với việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng mới
là điều cần thiết để các sân bay có thể đáp ứng nhu cầu và nâng cao
hiệu quả.
Sự tăng trưởng liên tục trong nhu cầu vận tải hàng không cũng có tác
động lớn đến lực lượng lao động hàng không toàn cầu. Theo đánh giá
của CAE - một công ty dịch vụ đào tạo hàng không, sẽ cần 255.000 phi
công mới để duy trì và phát triển ngành vận tải hàng không thương mại
trên toàn cầu vào năm 2027.
Kinh tế Việt Nam
7
LS âm có nguy cơ lan rộng ra toàn
cầu vào năm 2020
Đầu tiên là Nhật Bản, sau đó đến châu Âu. Giờ thì nhà đầu tư đang theo
dõi các diễn biến trên thế giới để xem tình trạng lạm phát trì trệ và lợi
suất giảm mạnh sẽ diễn ra ở đâu kế tiếp. Đây là một tai họa có nguy cơ
lan rộng – có lẽ thậm chí là đến Mỹ. Nền kinh tế lớn nhất thế giới chỉ
cần bước một chân vào “suy thoái” thì lợi suất có thể rơi xuống mức 0%,
Jan Loeys, Cố vấn cấp cao phụ trách chiến lược đầu tư dài hạn tại
JPMorgan Chase & Co, cho hay.
Mặc dù báo cáo việc làm mạnh hơn dự báo trong tuần trước làm giảm
bớt lo ngại về khả năng suy thoái của nền kinh tế Mỹ, nhưng đường
cong lợi suất của Mỹ đã báo hiệu một cơn suy thoái đang dần dần thành
hình. Nếu suy thoái thực sự xảy ra, Fed có thể theo bước NH trung ương
ở Nhật Bản và Eurozone giảm LS xuống mức 0 và tung ra gói QE, theo
ông Loeys. Thêm vào đó, còn có rủi ro từ tình hình chính trị rối rắm tại
Mỹ và tình trạng tiết kiệm quá mức trên toàn cầu, ông nói.
Đây là một kịch bản đang hiện hữu trong tâm trí của nhà lãnh đạo NH
trung ương. Thống đốc Fed Lael Brainard thậm chí còn đưa ra ý tưởng
mua tài sản để kìm hãm chi phí vay ngắn hạn đến trung hạn trong kịch
bản LS quỹ Fed ở mức 0. Biện pháp này trông giống với biện pháp kiểm
soát đường cong lợi suất theo phong cách Nhật Bản.
Báo cáo việc làm “khủng” trong tháng 11/2019 đã đẩy lợi suất trái phiếu
Chính phủ Mỹ lên cao hơn nhưng cũng đủ để làm thay đổi quan điểm
cho rằng Fed sẽ giữ nguyên LS đến ít nhất là quý 1/2020. Khi lạm phát
vẫn còn ảm đạm, Chủ tịch Fed Jerome Powell không có lý do để nâng
LS.
LS âm và các chương trình mua tài sản của ECB đã góp phần giảm bớt
căng thẳng ở các thành viên Eurozone, nhưng cũng tạo ra tình trạng
khó khăn hơn cho các NH trong khu vực. Khoản tiền tiết kiệm cho hưu
trí cũng gặp nguy cơ, từ đó tạo ra phản ứng dữ dội hơn. Hai nền kinh tế
phát triển khác vẫn chưa sử dụng tới chính sách LS âm là Anh và
Australia. Nhưng điều đó có thể sớm thay đổi.
Kinh tế Quốc tế
8
Nhà đầu tư nín thở chờ đợi tuần
quan trọng của thương mại toàn
cầu
Chỉ còn một tuần nữa, hàng rào thuế quan dự kiến đối với 156 tỷ USD
hàng hóa Trung Quốc của Mỹ chính thức có hiệu lực. Trong khi đó, cả
hai bên vẫn đang cố gắng đàm phán để tiến tới một thỏa thuận thương
mại giai đoạn 1 – từ đó giúp nền kinh tế toàn cầu dễ thở hơn đôi chút.
Tại thời điểm này, nhà đầu tư tỏ ra thận trọng trước những tuyên bố từ
Nhà Trắng. Tuy vậy, các quan chức từ Mỹ và Trung Quốc đều nhất trí
rằng cả hai bên đang hướng tới một thỏa thuận. Bắc Kinh đưa ra một
bước nhượng bộ quan trọng và có thể tạo bước đột phá trong cuộc đàm
phán trong ngày thứ Sáu (06/12), cam kết giảm hàng rào thuế quan đối
với nông sản và thịt heo từ Mỹ.
Nhà đầu tư nên lùi lại để cân nhắc hai điểm quan trọng sau: Thứ nhất,
vẫn còn chưa rõ thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 sẽ có phạm vi ra
sao và các điều khoản chi tiết cũng rất quan trọng. Thứ hai, thậm chí
nếu tiến tới thỏa thuận, hàng rào thuế quan vẫn cao hơn so với thời điểm
trước khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung nổ ra.
Theo Neil Shearing, Chuyên gia kinh tế trưởng tại Capital Economics,
Cuộc chiến thương mại chưa có dấu hiệu chấm dứt, nó đơn thuần chỉ
chuyển từ tập trung chủ yếu vào thuế quan sang các vấn đề rộng hơn
xoay quanh công nghệ, đầu tư, chiến dịch công nghiệp và an ninh.
Cuối tuần trước, dữ liệu từ cơ quan hải quan Trung Quốc cho thấy tổng
giá trị xuất khẩu tháng 11 giảm 1.1% so với cùng kỳ năm ngoái, trái
ngược với dự báo tăng 0.8% từ các chuyên viên phân tích. Trong khi
đó, xuất khẩu từ Trung Quốc sang Mỹ giảm tới 23%. Cuộc chiến thuế
quan kéo dài 18 tháng qua đã gây hại cho cả hai nền kinh tế, khi mà
DN Trung Quốc và nông dân Mỹ giảm tổng giá trị xuất khẩu cho nước
còn lại.
"Nhìn về tương lai, hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc sẽ phụ thuộc
vào tiến trình đàm phán thương mại. Nếu hai bên đạt được thỏa thuận
giai đoạn một và hàng rào thuế quan được gỡ bỏ một phần, DN có thể
trở nên tự tin hơn và xuất khẩu có thể đi lên", Wang Youxin nhận định.
9
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492
8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH https://ndh.vn/ngan-hang/ssi-research-chinh-sach-tien-te-cua-nhnn-theo-huong-ho-tro-tang-
truong-1259820.html
http://cafef.vn/thanh-khoan-on-dinh-tro-lai-ngan-hang-nha-nuoc-giam-bom-tien-vao-he-thong-
20191209144536641.chn
https://vietstock.vn/2019/12/chua-co-dau-hieu-noi-long-chinh-sach-tien-te-757-718680.htm
https://tinnhanhchungkhoan.vn/ngan-hang/thay-gi-voi-tang-truong-tin-dung-van-quanh-10-
306578.html
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/airports-council-international-hang-khong-viet-nam-tang-truong-hanh-khach-cao-
nhat-the-gioi-giai-doan-2017-2040-20191209164156563.chn
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2019/12/lai-suat-am-co-nguy-co-lan-rong-ra-toan-cau-vao-nam-2020-775-
718729.htm
https://vietstock.vn/2019/12/nha-dau-tu-nin-tho-cho-doi-tuan-quan-trong-cua-thuong-mai-toan-
cau-775-718724.htm
10
Danh mục viết tắt
B K
Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng DN KHDN
Bảo hiểm BH Khách hàng cá nhân KHCN
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Kinh tế KT
Bảo hiểm y tế BHYT Kinh tế xã hội KTXH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Kinh tế vĩ mô KTVM
Bảo hiểm xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Kết quả KQ
BĐS BĐS Khu vực KV
Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN
C
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L
Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS
Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH
Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT
Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST
Công nghệ thông tin CNTT
Công ty cổ phần CTCP M
Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A
Cơ sở hạ tầng CSHT
Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N
Cơ quan Nhà nước CQNN Nhà đầu tư NĐT
D Nhà đầu tư nước ngoài NĐTNN
Dịch vụ DV NH NH
DN DN NH liên doanh NHLD
DN nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN
DN tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD
DN vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN
Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW
Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH
Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN
G Ngân sách địa phương NSĐP
Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK
Giá trị gia tăng GTGT Nợ xấu NX
Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH
H
Hợp tác xã HTX
11
P V
Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL
Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC
Vốn chủ sở hữu VCSH
Q Văn bản pháp luật VBPL
Quản lý rủi ro QLRR
Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X
Xã hội XH
S Xuất khẩu XK
Sản xuất SX Xuất nhập khẩu XNK
Sản xuất kinh doanh SXKD Xây dựng XD
So với SV Xây dựng cơ bản XDCB
T Quốc gia/Tổ chức
Tài chính - NH TC-NH Việt Nam VN
Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN
TTTD TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)
TTCK TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT
Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN
Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VERP
Thu nhập DN TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
Tổ chức tín dụng TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE
Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU
Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB
Trái phiếu Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB
Trái phiếu DN TPDN NH trung ương châu Âu ECB
NH trung ương Trung Quốc PBOC
NH trung ương Nhật Bản BOJ
NH TTQT BIS
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD
Trung Quốc TQ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF