tài chính tiền tệ 111
TRANSCRIPT
Giảng viên hướng dẫn: Mai Hoàng Thịnh
Đề tài : Nghiên cứu về USD
Nhóm thực hiện số 4: 1. Phạm Thị Hương Thảo
2. Bùi Như Mai
3. Nguyễn Thị Hồng Nhung 13/07
4. Lê Thị Trang Nhung
5. Nguyễn Thị Thanh Thủy
6. Lê Phú Phương
I. Khái quát về quá trình hình
thành và phát triển của đồng tiền
Tiền tệ hàng hóa –hóa tệ
(phi kim loại,kim loại)
Tiền danh nghĩa
(tiền xu kim loại, tiền giấy)
Tiền tín dụng Tiền điện tử
1.Thời kỳ hàng đổi hàng
Người cổ đại không dùng
tiền để mua bán, trao đổi hàng
hóa. Thay vào đó, họ dùng
phương thức trao đổi hàng lấy
hàng, tức là dùng những tài sản
cá nhân để trao đổi lấy những
loại hàng hóa khác.
Một người có thể trao đổi 450g táo lấy 450g hạt giống.
Khoảng giữa những
năm 9000 – 6000
trước công nguyên, vật
nuôi được xem là đơn
vị trao đổi chủ yếu.
Sau đó, khi nền nông
nghiệp phát triển mạnh
mẽ thì những loại cây
trồng, sản phẩm từ
nông nghiệp lại được
sử dụng để trao đổi
một cách phổ biến.
Vỏ sò thường được sử dụng như một
món quà rất giá trị trong lễ cưới.
2.Đồng tiền kim loại đầu tiên Vào khoảng 1000 năm
trước Công nguyên, người
Trung Quốc bắt đầu sản
xuất ra những đồng tiền xu
đầu tiên. Những đồng tiền
này được làm từ kim loại,
và có lỗ trống để có thể
xâu thành một chuỗi vòng.
Những đồng tiền xu đầu
tiên này được xem như là
khởi nguồn của quá trình
phát triển đồng tiền kim
loại.
Những đồng tiền xu có lỗ thủng để có thể xâu
chuỗi lại thành vòng cổ. Bên cạnh đó, Trung
Quốc còn sử dụng những công cụ làm từ kim loại như dao, thuổng như một loại tiền tệ.
3.Đồng xu vàng và bạc Khoảng 500 năm trước
công nguyên, những đồng
tiền xu bằng bạc in hình
các vị thần, vị hoàng đế để
khẳng định sự thống trị
của họ. Ban đầu những
đồng tiền này được sử
dụng ở Lydia, Thổ Nhĩ Kỳ
sau đó lan rộng ra Hy Lạp,
đế quốc Ba Tư và cả thành
La Mã. Cũng trong thời
gian này, nhiều nước khác
bao gồm cả Lydia cũng sử
dụng đồng tiền xu vàng để
mua bán hàng hóa.
Những đồng xu vàng có giá trị hơn những
đồng xu bạc bởi vì vàng ít phổ biến hơn bạc.
4.Tiền giấy
Đồng tiền giấy đầu tiên
được sử dụng bởi người Trung
Quốc từ khoảng thế kỷ thứ 9
đến thế kỷ 19 sau công nguyên.
Tuy nhiên, thời gian này xảy ra
hàng loạt những cuộc khủng
hoảng, lạm phát nghiêm trọng
do sự tăng vọt số lượng tiền
giấy. Và vào năm 1455 loại tiền
này đã không xuất hiện nữa.
Nhiều năm sau đó, những
người dân Châu Âu vẫn không
sử dụng loại tiền giấy này.
Tiền giấy gọn nhẹ, dễ mang theo
người hơn là tiền kim loại.
5.Vàng miếng
Người Anh đã đưa ra
một tiêu chuẩn vàng xác
định, theo đó, vàng được
đo bằng đơn vị ounce.
Mỗi đơn vị tiền tệ được ấn
định một lượng vàng nhất
định, do đó ngăn chặn
được lạm phát tiền giấy.
Ngày nay, đơn vị đo vàng chuẩn được
sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
6.Thẻ tín dụng Hầu hết mọi người phải dùng
tiền mặt để chi trả cho tất cả các
loại hàng hóa, dịch vụ mà họ sử
dụng. Điều này đôi khi gây ra
những khó khăn và bất tiện .
Tuy nhiên, mọi chuyện đã được
giải quyết vào năm 1950, khi
mà nhà khoa học Frank X.
McNamara đưa ra ý tưởng mới
về một loại thẻ tín dụng, loại thẻ
này có thể dùng ở nhiều địa
điểm khác nhau, chi trả cho
nhiều loại hàng hóa, dịch vụ
khác nhau mà không cần dùng
đến tiền mặt.
Ngày nay, lợi ích đáng kể mà thẻ tín dụng mang
lại đã được công nhận trên toàn thế giới.
II. Quy luật vận động và chức năng của USD
A : Quy luật vận động của USD
1• Đồng dollar trong thời kỉ bản vị vàng
2• Đồng dollar trong thời kì hai đại chiến
thế giới
3• Đồng dollar trong chế độ Bretton
Woods hay chế độ bản vị dollar
4• Đồng dollar trong thời kì hậu chế độ
Bretton Woods
1.Đồng dollar trong thời kì bản vị
vàng
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế thế giới được
vận hành dưới chế độ bản vị vàng. Đồng tiền của mỗi quốc gia
đều được quy đổi thành vàng theo một tỉ lệ nhất định. Chế độ
này tạo ra một hệ thống tỷ giá cố định. Đồng tiền của một nước
có thể được trao đổi với một đồng tiền khác với một tỉ lệ không
đổi, phụ thuộc vào giá trị của từng đồng tiền với vàng. Tỷ giá
cố định thúc đẩy thương mại quốc tế bằng cách lọai bỏ hoàng
toàn rủi ro tỷ giá
Trong chế độ bản vị vàng, đồng bảng Anh (sperling) là đồng
tiền được sử dụng rộng rãi nhất, đựoc coi là đồng tiền quốc tế
lúc bấy giờ. .
Trong khoảng thời gian này, đồng usd chỉ có vai trò là đồng
bản vị của nước Mỹ.
2. Đồng dollar trong thời kì hai đại
chiến thế giới • Năm 1914, đại chiến thế giới thứ
nhất nổ ra buộc các nước chấm dứt chuyển đổi đồng tiền của mình ra vàng. Hệ thống tỷ giá cố định thời kì bản vị vàng phải nhường chỗ cho chế
độ tỷ giá thả nổi. Chính phủ các nước thay đổi chính sách tiền tệ tài trợ cho chiến tranh làm cho lạm phát bùng nổ. Do Mỹ tham chiến muộn và trung tâm chiến tranh xảy ra ở châu Âu là cho lạm phát của châu Âu lớn hơn nhiều so với Mỹ. Kết quả là sức cạnh tranh của Mỹ tăng lên nhanh chóng, đồng dollar dẫn xây dựng được vị thế trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu của Mỹ và Anh trong giai đoạn 1900-
1956
Nền kinh tế Mỹ từ 1872 đã vượt Anh về quy mô nhưng phải
đến năm 1915, kim ngạch xuất khẩu Mỹ mới có thể vượt Anh,
sau đó tăng mạnh trong suốt thời kì chiến tranh. Cùng với sự
phát triển của xuất khẩu, từ 1914 trở đi, Mỹ chuyền dần từ vị
trí người đi vay sang người cho vay. Thêm vào đó, trong khi
các nước thả nổi đồng tiền của mình, Mỹ vẫn duy trì tỷ giá của
dollar với vàng. Dollar trở thành đồng tiền duy nhất chuyển đổi
sang vàng trong những năm 20.
Tất cả các yếu tố trên đã xây dựng cho vị thế là phương tiện
chuyển đổi và phương tiện tích lũy quốc tế của đồng dollar.
Dollar được sử dụng một cách rộng rãi trong những hoạt động
tài chính và thương mại quốc tế. Tài sản ghi bằng đồng dollar
trở thành một danh mục đầu tư hấp dẫn. Trong thời gian này,
đồng dollar không có chức năng làm thước đo gía trị vì mặc dù
giữ được tỷ lệ cố định so với vàng, nhưng vì các đồng tiển khác
đều đươc thả nổi nên thực chất dollar cũng được thả nổi so với
những đồng tiền khác
Tuy nhiên, trong thời kì đại chiến thế giới, đồng
bảng Anh vẫn giữ được vị trí cao nhất trong hệ thống
tiền tệ quốc tế
Trong vị thế là đồng tiền dự trữ quốc tế, đồng bảng
vẫn được tin dùng. Cho đến tận những năm 1940, giá
trị của những giấy tờ có giá bằng bảng vẫn gấp 2 giá
trị những giấy tờ có giá bằng USD. Đây là hệ quả sức
ỳ hay độ trễ của quyết định dùng một đồng tiền quốc
tế (phân tích mục 1 phần lý thuyết).
Đại suy thoái 1930 xảy ra chia hệ thống tiền tệ thế
giới thành những khối tiền tệ không liên kết trong đó
2 khối lớn nhất là khối đồng bảng Anh và khối đồng
dollar làm đối trọng của nhau.
3.Đồng dollar trong chế độ Bretton
Woods hay chế độ bản vị dollar• Hệ thống Bretton Woods ra
đời khi chiến tranh thế giới thứ 2 sắp đến hồi kết thúc. Năm 1944, 730 đại diện cho 44 nước đồng minh đến dự hội nghị tài chính-tiền tệ liên hiệp quốc tổ chức tại khách sạn Mount Washington, New Hampshire, Mỹ. Nhằm xây dựng một thế giới hòa bình và ổn định sau chiến tranh, các nhà lãnh đạo đã thống nhất với nhau những vấn đề chính và từ đó cho ra đời hệ thống tiền tệ quốc tế mới: hệ thống Bretton Woods.
• Hoa Kì lúc đó đóng góp một nửa năng lực sản xuất của thế giới và hơn 75%
dự trữ vàng, các nhà lãnh đạo quyết định thiết lập hệ thống tiền tệ quốc tế là chế
độ tỷ giá cố dịnh nhưng có thể điều tiết. Mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định
một tỷ giá trung tâm với USD và được phép giao động trong biên độ 1%. Trong
khi đồng dollar được cố định với vàng với tỉ lệ 35 dollar = 1 ouce vàng. Thực
chất, hệ thống tiền tệ thế giới mới cũng giống như hệ thống bản vị vàng nhưng
đồng dollar được dùng làm đồng tiền quốc tế thay cho vàng.
• Tháng 3 năm 1947, khi chế độ Bretton Woods chính thức được đưa vào hoạt
động, nhìn chung các đồng tiền chưa được tự do chuyển đổi. Các nước rơi vào
tình trạng thiếu hụt lớn lượng dollar cần thiết trong khi cán cân thương mại của
Mỹ lại thặng dư lớn. Các ngân hàng trung ương trên thế giới, đặc biệt là khu vực
châu Âu, đều không có đủ lượng dự trữ dollar cần thiết. Để Bretton Woods được
hoạt động, Mỹ phải có trách nhiệm đưa đồng dollar được sử dụng trên toàn cầu.
• Từ 1947 đến 1958, USD được đưa ra thế giới dưới dạng những chương trình
hỗ trợ kinh tế của Mỹ
• Cuối những năm 60, . Lòng tin vào dollar Mỹ bị giảm sút. Các ngân hàng trung
ương bắt đầu chuyển dần dự trữ sang vàng, lượng vàng của nước Mỹ liên tục bị
chảy ra khỏi biên giới.
Tỷ lệ “vàng/USD” của Mỹ
Năm Tỷ lệ “vàng/USD” Năm Tỷ lệ “vàng/USD”
1950 2.72 0.58
1952 2.38 0.5
1954 1.84 0.41
1956 1.59 0.31
1958 1.34 0.16
1960 0.92 0.14
1962 0.71 0.22
Thêm vào đó là việc đầu cơ khốc liệt đồng dollar đã gia tăng áp lực
buộc tổng thống Mỹ Nixon phải chính thức tuyên bố đồng dollar
không được tiếp tục chuyển đổi sang vàng nữa vào ngày 15 tháng 8
năm 1971. Sau đó, các nước đã nỗ lực phục hồi Bretton Woods
nhưng đều thất bại. Ngày 19 tháng 3 năm 1973, khi thị trường ngoại
hối mở cửa giao dịch trở lại thì đồng tiền các nước châu Âu đã liên
kết cùng thả nổi đối với đồng USD. Bretton Woods chính thức sụp
đổ.
Chế độ Bretton Woods đã đưa đồng dollar trở thành đồng tiền trao
đổi quốc tế, sau chiến tranh, nhiều nước, đặc biệt là khu vực Tây Âu
có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu từ Mỹ trang thiết bị máy móc,
nguyên vật liệu phục vụ cho công cuộc tái thiết nền kinh tế. Nhờ đó,
thương mại của Mỹ ngày càng mở rộng làm tăng phạm vị sử dụng
USD.
4.Đồng dollar trong thời kì hậu chế
độ Bretton Woods
Tháng 3 năm 1973, các quốc gia lớn nhất thế giới ngồi lại với nhau tại thủ đô Washington và tất cả đồng ý cho phép đồng tiền của họ lưu hành tự do qua lại lẫn nhau. Một chỉ số mới sinh ra để do giá trị đồng USD là chỉ số USD (USD index). Chỉ số USD đo tương quan của đồng USD so với 6 loại tiền tệ lớn khác trên thế giới đó là đồng Euro(EUR), đồng yên Nhật (JPY), đồng bảng Anh (GBP), đồng USD Canada (CAD), đồng franc Pháp (F??) và đồng Sek (SEK) Thụy Điển. chỉ số USD cho biết diễn biến về thay đổi giá trị của đồng USD đối với các loại tiền tệ khác. Chỉ số USD(USDX) thể hiện được điều này thông qua mối tương quan đối với 6 loại tiền tệ lớn khác trong rổ tiền tệ.
Biểu đồ chỉ số USD từ năm 1973-2010
Từ năm 1973 đến nay, USD index biến đổi liên tục đáng chú ý nhất là giai đoạn tăng giá mạnh 1980-1985, giai đoạn sụt giảm liên tục 2002-nay
4.1.Giá trị đồng dollar giai đoạn 1980-1985
Trong khoàng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 3 năm
1985 đồng USD không ngừng tăng giá. Tỷ giá danh nghĩa cũng như
tỷ giá thực của USD tăng gần 50%.
Nguyên nhân chính khiến cho đồng USD tăng giá mạnh mẽ là do
chính sách vĩ mổ của Mỹ và các nước châu Âu được điều chỉnh khác
nhau. Các ngân hàng châu Âu áp dụng chính sách thắt chặt đồng thời
cả tiền tệ lẫn tài khóa. Trong khi đó, Mỹ áp dụng chính sách thắt chặt
tiền tệ nhưng nới lỏng tài khóa. Kết quả là thâm hụt ngân sách tăng
từ $16 tỷ năm 1979 lên đến $204 tỷ năm 1986. Chính sách mở rộng
tài khóa quá mức làm cho mức lãi suất thực của Mỹ cao hơn của
châu Âu, dẫn đến luồng vốn đổ vào Mỹ ngày càng lớn. Nhờ đó, giá
trị của đồng USD ngày càng được nâng cao.
Tháng 5 năm 1985, hiệp định Plaza được hình thành. Nội dung của
hiệp định nói lên rằng tỷ giá của USD không phản ánh đúng thay đổi
của các thông số kinh tế cơ bản. Chính phủ Mỹ cam kết sẽ giảm
thâm hụt ngân sách và Nhật sẽ tìm kiếm các biện pháp kích cầu nền
kinh tế. Các nước cam kết hợp tác với nhau chặt chẽ hơn nữa để
khiến cho USD tiếp tục giảm giá. Để làm được điều này, các chính
phủ mua mark, yên vào và bán dollar ra.
Sau hiệp định Plaza, dollar giảm giá liên tục theo chiều thằng đứng
trong suốt năm 1986. Giá trị dollar giảm nhanh đến mức năm 1987,
các nước G-7 tiến hành họp tại Paris công bố hiệp định Louvre.
Trong hiệp định, các nước đặt ra mục tiêu duy trì sự giao động tỷ giá
USD với mark và yên trong biên độ 5%. Tuy nhiên, thảo thuận này
không được công bố.
Sau hiệp đinh Louvre, tỷ giá được duy trì tương đối ổn định
4.2.Giá trị đồng dollar giai đoạn 2002-Nay
• Sau sự kiện 11/9/2001, đồng dollar liên tục mất giá và chạm đáy vào năm 2009, hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 xuất phát từ Mỹ.
• Từ năm 2002 đến nay, đồng dollar đã mất giá trên 20%.
• Kể từ đầu năm 2007 tới nay, đồng USD nhìn chung đã mất giá khoảng 16%.Trong giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 9/2007, giá trị đồng USD đã giảm 5,4% so với đồng Euro và giảm 6,8% so với đồng yên Nhật. Đồng USD liên tục xuống dốc không phanh trong những tháng cuối năm 2007.
• Đồng USD đã thực sự đạt được một dấu mốc khi nó vượt cả mức thấp nhất so với đồng Mark Đức hồi đầu năm 1995
Nguyên nhân đầu tiên dẫn tới sự sụt giảm giá trị đồng
dollar là mức thâm hụt ngân sách khổng lồ của Mỹ. Sau sự
kiện 11/9/2001, Mỹ liên tục bỏ ra nhiều triệu dollar cho cuộc
chiến chống khủng bố, và tiếp theo là tham chiến ở Trung
Đông. Việc nới lỏng chính sách tài khóa quá mức, cùng với sự
sụt giảm uy tín của Mỹ đã khiến cho giá trị của đồng dollar liên
tục sụt giảm.
Đồng dollar giảm giá một phần do sự nổi lên của các nước
phát triển, đặc biệt là Trung Quốc. Đồng USD ngay lập tức bị
ảnh hưởng sau khi vài quan chức ngân hàng Trung Quốc phát
biểu rằng Trung Quốc có thể thay đổi cơ cấu tiền tệ của kho dự
trữ ngoại hối khổng lồ.
Đồng dollar giảm giá do FED liên tục giảm lãi suất từ năm 2007.
Tiền tệ luôn có xu hướng di chuyển qua biên giới để tìm kiếm lợi
nhuận cao hơn. Bởi vậy, tiền tệ sẽ tăng khi thị trường kỳ vọng vào
triển vọng kinh tế khả quan và giảm khi kinh tế suy giảm. Sự mạnh
lên hay yếu đi về kinh tế được thể hiện trong thu nhập từ trái phiếu
và lãi suất trái phiếu của quốc gia đó. Vào thời điểm này, thị trường
cho rằng nền kinh tế Mỹ đang phát triển chậm lại. Bởi vậy, các nhà
đầu tư đã liên tục từ đồng USD sang các loại tiền tệ khác cho lãi cao
hơn.
Tuy nhiên, các nhân tố kinh tế vĩ mô này cũng chưa giải thích toàn
bộ các vấn đề trên thị trường ngoại hối. Theo quan điểm của IMF và
bộ trưởng tài chính các nước G7, sự định giá quá thấp của các đồng
tiền châu Á, đặc biệt là đồng NDT của Trung Quốc và đồng Yen
Nhật, là nguyên nhân chính khiến đồng tiền chủ chốt trong thanh
toán quốc tế này giảm giá
B.Chức năng của USD
1• Chức năng thước đo giá trị
2• Chức năng làm phương tiện trao đổi
3• Chức năng làm phương tiện tích lũy
1. Chức năng thước đo giá trị Trong hệ thống Bretton Woods, chức năng làm thước đo giá trị
được chính phủ các nước chính thức hóa bằng việc quy định các
đồng tiền của các nước thành viên trong hệ thống đều được định giá
qua đồng dollar và được cam kết duy trì tỷ giả trung tâm với độ dao
động không quá 1%.
Tuy nhiên, đối trên thị trường, chức năng thước đo giá trị không ưu
tiên cho dollar. Thâm chí cho đến những năm 60, việc tính toán giá
trị của hợp đồng buôn bán không ưu tiên đồng dollar.
Tỷ giá một số đồng tiền các nước với đồng
dollar
Thời gian Đồng tiền (nước) Tỷ giá (so với 1$ US)
Tháng 8, 1946 Yên (Nhật) 15
21, tháng 6, 1948 Mark (Đức) 3.33
27, tháng 12, 1945 Bảng (Anh) 1/ 4.03 = 0.25
27, tháng 12, 1945 Franc (Pháp) 119.11
4, tháng 1, 1946 Lira (Ý) 225
4, tháng 1, 1946 Peseta (Tây Đào Nha) 60
27, tháng 12, 1945 Gulden (Hà Lan) 2.652
1954 Drachma (Hy Lạp) 30
2. Chức năng làm phương tiện trao đổi
Khi đồng dollar được sử dụng làm thước đo các đồng tiền
khác và làm dự trữ quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế tất
yếu sẽ ưu tiên dùng đồng dollar. Hơn nữa, sau chiến
tranh, nhiều nước, đặc biệt là khu vực Tây Âu có nhu cầu rất
lớn về nhập khẩu từ Mỹ trang thiết bị máy móc, nguyên vật
liệu phục vụ cho công cuộc tái thiết nền kinh tế. Nhờ
đó, thương mại của Mỹ ngày càng mở rộng làm tăng phạm vị
sử dụng USD.
3. Chức năng làm phương tiện tích lũy
Tháng 3 năm 1947, khi chế độ Bretton Woods chính thức được
đưa vào hoạt động, nhìn chung các đồng tiền chưa được tự do
chuyển đổi. Các nước rơi vào tình trạng thiếu hụt lớn lượng
dollar cần thiết trong khi cán cân thương mại của Mỹ lại thặng
dư lớn. Các ngân hàng trung ương trên thế giới, đặc biệt là khu
vực châu Âu, đều không có đủ lượng dự trữ dollar cần thiết. Để
Bretton Woods được hoạt động, Mỹ phải có trách nhiệm đưa
đồng dollar được sử dụng trên toàn cầu.
Từ 1947 đến 1958, USD được đưa ra thế giới dưới dạng những
chương trình hỗ trợ kinh tế của Mỹ: gói viện trợ cho Hy Lạp và Thổ
Nhĩ Kì theo học thuyết Truman nhằm lật đổ cách mạng cộng sản, gói
viện trợ cho những nước đang phát triển ủng hộ Mỹ, gói cứu trợ
Marshall cho việc tái thiết châu Âu. Từ năm 1948 đến 1954, Mỹ đã
cung cấp cho 16 nước Tây Âu 17 tỷ dollar. Vào năm 1958, Tây Âu
đã tích tụ đủ lượng dollar cần thiết để tiến hành tự do chuyển đổi
đồng tiền của mình.
. Cuối những năm 60, BP của Mỹ liên tục thâm hụt. Những khỏan
chi cho chiến tranh Việt Nam làm cho BP của Mỹ xấu đi. Lòng tin
vào dollar Mỹ bị giảm sút. Các ngân hàng trung ương bắt đầu chuyển
dần dự trữ sang vàng, lượng vàng của nước Mỹ liên tục bị chảy ra
khỏi biên giới.
Tiền USD được “bơm hút” trong lưu thông như thế
nào?
FED là cơ quan quyết định in
bao nhiêu tiền USD mỗi năm,
còn Cục In tiền là cơ quan thực
hiện công tác in ấn. Vậy tiền cũ
trong lưu thông được đổi sang
tiền mới bằng cách nào?
Khi FED nhận được tiền gửi
bằng tiền mặt từ các ngân hàng,
cơ quan này sẽ kiểm tra tất cả
các đồng tiền bằng loại máy
móc đặc biệt. Thông thường,
những lần kiểm tra sẽ kết luận
khoảng 1/3 số tiền được kiểm
không còn phù hợp trong lưu
thông và phải được thay bằng
tiền in mới. Tiền bị loại sẽ được
xé vụn, đem chôn lấp ở bãi rác,
hoặc đóng gói lại như “quà lưu
niệm” dành cho các chi nhánh
FED ở địa phương.
Mỗi tờ USD có thể được
gấp đi gấp lại bao nhiêu lần
trước khi rách nát?
Theo CNBC, mỗi tờ USD
có thể được gấp đi gấp
4.000 lần trước khi kết thúc
vòng đời. Báo cáo từ Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) cho thấy, tuổi thọ
bình quân của tờ 1 USD là
22 tháng, 5 USD là 2 năm,
10 USD là 3 năm, 20 USD
là 4 năm, 50 USD và 100
USD là 9 năm. Tiền xu thì
bền hơn và có thể “sống”
tới 30 năm.
Các loại mệnh giá đồng USD
Đồng 1 dollar -Phát hành 1957
Đồng 2 dollars – Phát hành Tháng 7/1862
Đồng 5 dollars
Đồng 10 dollars
Đồng 20 dollars
Đồng 50 dollars
Đồng 100 dollars
Các loại tiền xu