phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

61
Bài Tiểu Luận Trái Phiếu Quốc Tế Của Chính Phủ Việt Nam Thực Trạng và Giải Pháp Họ Và Tên: Hoàng Thị Kim Oanh Lớp: CQ50/02.01 – 02.2-LT1

Upload: until-you

Post on 13-Jan-2017

2.441 views

Category:

Business


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Bài Tiểu Luận

Trái Phiếu Quốc Tế Của Chính Phủ Việt Nam

Thực Trạng và Giải Pháp

Họ Và Tên: Hoàng Thị Kim Oanh

Lớp: CQ50/02.01 – 02.2-LT1

Hà Nội – Năm 2015

Page 2: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

MỤC LỤC:

Chương 1: Khái quát chung về trái phiếu quốc tế

1. Khái niệm

2. Phân loại

3.Đặc điểm của trái phiếu quốc tế

4. Mục tiêu của phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế

Chương 2: Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:

2.1Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế

2.1.1 Cân bằng bên trong và bên ngoài đối với nền kinh tế của một nước

2.1.2 Cung cầu ngoại tệ

2.1.3 Ngưỡng an toàn của các khoản vay nợ nước ngoài

2.2 Ưu và nhược điểm của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:

2.2.1 Ưu điểm của việc phát hành trái phiếu

2.2.2 Nhược điểm của việc phát hành trái phiếu

Chương 3: Thực trạng của việc phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam

ra thị trường quốc tế.

1. Căn cứ pháp lí

2. Khái quát chung về tình hình kinh tế Việt Nam

2.1Tốc độ tăng trưởng

Page 3: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

2.2 Cán cân thương mại – dự trữ ngoại hối

2.3 Hệ số tín nhiệm

3.1 Phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ:

3.1.1 Phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên 2005

3.1.2 Phát hành trái phiếu quốc tế năm 2010

3.1.3 Phát hành trái phiếu quốc tế năm 2014

3.1.4 Nhận xét về ba đợt phát hành

3.1.5 Đánh giá về việc sử dụng vốn vay

Chương 4: Giải pháp cho vấn đề phát hành trái phiếu quốc trong giai đoạn

hiện nay

4.1 Phát hành trái phiếu quốc tế dưới gốc độ so sánh với các phương

thức huy động vốn khác

4.1.1. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu trên thị trường quốc tế

4.1.2 Huy động vốn bằng cách tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính

thức

4.13 Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

4.2 Giải pháp cho vấn đề phát hành trái phiếu quốc tế trong giai đoạn hiện

nay

KẾT LUẬN.

Page 4: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay nền kinh tế thế giới đang phát triển không ngừng, vị thế của các nước

dần thay đổi bởi tốc độ phát triển của các quốc gia mới nổi, nơi mà nền kinh tế

hứa hẹn những cơ hội đầu tư tiềm năng. Với những lợi thế chưa được khai thác

như nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào đang được

đào tạo chuyên nghiệp và hoàn thiện hơn và nhu cầu về vốn đang được đặt lên

hàng đầu. Vì vậy, các quốc gia đang phát triển luôn luôn tìm mọi cách để thu hút

và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động được. Ngoài nguồn vốn huy

động trong nước, các quốc gia tìm mọi cách để thú hút nguồn vốn bên ngoài.

Trong khi đó, thị trường cổ phiếu quốc tế thời gian qua đang chao đảo trước sự

sụt giảm liên tục của hàng loạt các chỉ số lớn và việc giảm điểm liên tục trong

các phiên giao dịch tại các trung tâm giao dịch lớn như New York, Tokyo, Hồng

Kông. Bên cạnh đó, cơn bão khủng hoảng tài chính do các biến động trong thị

trường tài chính thứ cấp bắt đầu từ Mỹ đã lan ra một số nền kinh tế khác kéo

theo chỉ số niềm tin vào thị trường chứng khoán thế giới nói chung sụt giảm

nghiêm trọng. Thị trường chứng khoán xuống dốc là một khó khăn cực kỳ to lớn

đối với những công ty, những tổ chức tài chính muốn thông qua thị trường này

để huy động vốn cho các dự án đầu tư của mình. Phát hành cổ phiếu lúc này trở

nên một quyết định nhiều rủi ro khiến các công ty đau đầu. Chính lúc này thì thị

trường trái phiếu tỏ ra là một lựa chọn thích hợp, đặc biệt là thị trường trái phiếu

quốc tế do những ưu điểm của thị trường này đem lại cho nhà đầu tư và những tồ

chức muốn huy động vốn.

Việt nam là một nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ nên nhu cầu về vốn để

đầu tư phát triển là rất cao. Trong bối cảnh này, phát hành trái phiếu quốc tế là

một kênh huy động vốn hiệu quả mà Chính phủ và các doanh nghiệp nên tìm

hiểu và tận dụng để phục vụ cho nhu cầu phát triển, nhưng nhìn chung thì loại

Page 5: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

hình này còn khá mới mẻ do đó thông qua đề tài này hướng mọi người có cái

nhìn cận cảnh hơn về các lần phát hành trái phiếu quốc tế của Việt nam và hướng

phát triển trong tương lai.

Chương 1: Khái quát chung về trái phiếu quốc tế

1. Khái niệm:

Theo điều 16 nghị định 53/2009 NĐ-CP :

Trái phiếu quốc tế: là chứng chỉ vay nợ có mệnh giá, có thời hạn, có lãi, do

Chính phủ hoặc các doanh nghiệp của Việt Nam phát hành để vay vốn trên thị

trường tài chính quốc tế phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.

Trái phiếu quốc tế được điều chỉnh trong Nghị định này gồm:

a) Trái phiếu Chính phủ: là trái phiếu quốc tế do Chính phủ ủy quyền cho Bộ Tài

chính phát hành.

b) Trái phiếu doanh nghiệp: là trái phiếu quốc tế do các doanh nghiệp Việt Nam

tự phát hành có hoặc không có bảo lãnh Chính phủ.

2.Phân loại:

*) Phân loại theo nhà phát hành:

- Trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu ngân hàng

-Trái phiếu của các tổ chức quốc tế

*) Phân loại theo thị trường phát hành:

-Trái phiếu nước ngoài

- Trái phiếu châu âu

Page 6: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

*) Phân loại theo lãi suất:

- Trái Phiếu có lãi suất cố định

- Trái phiếu có lãi suất biến đổi

- Trái phiếu có lãi suất chiết khấu

3.Đặc điểm của trái phiếu quốc tê:

+ có đầy đủ tính chất một trái phiếu : mệnh giá, lãi suất định kì và thời hạn

+ Trái phiếu quốc tế không trực tiếp phụ thuộc vào thị trường vốn trong nước.

Giá cả của nó được xác định trên cơ sở điều kiện của thị trường vốn quốc tế và

hệ số tín nhiệm của chủ thể phát hành. Đặc điểm này phản ánh đúng mối quan hệ

về giá vốn theo lý thuyết về nền kinh tế mở.

+ Trái phiếu được mua bán trao đổi bằng nhiều loại ngoại tệ khác nhau. điều này

đi đôi với một số rủi ro mà trái phiếu nội địa không có, như rủi ro tỷ giá, rủi ro

quốc gia…

+ Trái phiếu quốc tế được giao dịch ở nhiều trung tâm tài chính khác nhau trên

thế giới, nên việc mua bán trao đổi diễn ra không ngừng không nghỉ, kể cả việc

mua bán trên trên thị trường thứ cấp, hoặc thị trường OTC…

Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu quốc tế:

1. Lãi suất thị trường:

Giá của trái phiếu quốc tế thay đổi ngược chiều với lãi suất.Do giá trái phiếu

là giá trị

Lãi suất của thị trường của tài chính quốc tế luôn biến động, được quyết định

thị trường quốc tế, phản ánh mức chi phí vốn thực tế so với các nước khác.

Page 7: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Y-Values

lãi suất thị trường

giá

Đồ thị 1: quan hệ giữa lãi suất thị trường và giá trái phiếu

- Khi lãi suất thị trường bằng lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu bằng mệnh

giá

- Khi lãi suất thị trường lớn hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu thấp hơn

mệnh giá

- Khi lãi suất thị trường nhỏ hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu cao hơn

mệnh giá

2. Lạm Phát

Nếu lạm phát dự kiến tăng làm cho lãi suất thị trường tăng cao và khi đó

giá trái phiếu thấp hơn giá trái phiếu với lãi suất cố định. Tác động của

lạm phát và lãi suất nghịch chiều nhau lên dòng tiền hằng năm của trái

phiếu

3. Tỷ giá hối đoái

Đây là yếu tố đặc trưng chỉ ảnh hưởng đến trái phiếu có đơn vị tiền tệ là

đồng ngoại tệ. Giả sử trên thị trường đồng đô la mỹ có giá trị cao hơn

đồng bản anh điều này sẽ làm tăng giá trị thanh toán của các trái phiếu

được thanh toán bằng đồng đô la mỹ.

Page 8: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

4. Mục tiêu của phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế:

Góp phần bổ sung nguồn lực tài chính trung và dài hạn, góp phần thúc đẩy

sự tăng trưởng và ổn định kinh tế của các nước

Đáp ứng khả năng thanh toán của các chủ thể khác nhau khi tham gia vào

các hoạt động tài chính quốc tế

Góp phần hình thành và phát triển hệ thống thị trường tài chính quốc tế

Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung

ương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước;

Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ Chính phủ;

Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương

vay lại theo quy định của pháp luật;

Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh được phát hành để đầu tư cho các

chương trình, dự án: Chương trình, dự án đầu tư được Quốc hội hoặc Thủ

tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư, bao gồm cả phương án tái

cơ cấu nợ của các chương trình dự án này; Chương trình, dự án ứng dụng

công nghệ cao, dự án trong lĩnh vực năng lượng khai thác, chế biến

khoáng sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu do Thủ

tướng Chính phủ quyết định phù hợp với định hướng phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước; Chương trình, dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn được nhà

nước khuyến khích đầu tư theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

Chương trình tín dụng có mục tiêu của nhà nước do Ngân hàng Phát triển

Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc tổ chức tài chính, tín dụng

thực hiện theo quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Chương 2: Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:

2.1. Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:

Page 9: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

2.1.1. Cân bằng bên trong và bên ngoài đối với nền kinh tế của một

nước:

2.1.1.1. Cân bằng bên trong (cân bằng giữa thị trường hàng hóa và

tiền tệ):

Khoản vay tiền từ trái phiếu sẽ được chính phủ chi tiêu vào nền kinh tế. Khi

chi tiêu của chính phủ tăng lên thì làm cho thu nhập của toàn bộ nền kinh tế

tăng lên vì khi đó năng lực sản xuất của nền kinh tế tăng lên (nếu việc sử

dụng vốn vay là có hiệu quả). Hay nói một cách khác, nền kinh tế đã tăng

trưởng lên một mức mới. Khi đó, để đáp ứng với nhu cầu giao dịch hàng hóa

trong nền kinh tế thì lượng tiền trong lưu thông sẽ tăng lên. Và với một mức

lãi suất đã định, thị trường tiền tệ và thị trường hàng hoá trong nền kinh tế

gặp nhau tại một vị trí cân bằng mới. Điểm cân bằng mới này nói lên sự tăng

trưởng của nền kinh tế khi huy động nguồn vốn từ bên ngoài thông qua hình

thức phát hành trái phiếu quốc tế.

2.1.1.2. Cân bằng bên ngoài:

Khi chính phủ vay nợ bên ngoài bằng hình thức phát hành trái phiếu quốc tế,

thì luồng vốn vay này chảy vào nền kinh tế làm cho cán cân vốn thặng dư. Để

cán cân thanh toán cân bằng thì cán cân vốn và cán cân vãng lai có mối quan

hệ bù trừ cho nhau. Như chúng ta đã biết, khi có một lượng vốn đổ vào nền

kinh tế thì thu nhập của nền kinh tế sẽ tăng lên (nếu như việc sử dụng vốn đó

là có hiệu quả). Khoảng tăng thu nhập này là lượng thu nhập cần thiết để cán

cân vãng lai thâm hụt một lượng chính bằng luồng vốn chảy vào nền kinh tế,

và khi đó cán cân thanh toán sẽ cân bằng. Hay nói cách khác, luồng vốn quốc

tế đổ vào nền kinh tế bằng hình thức phát hành trái phiếu quốc tế sẽ đưa cán

cân thanh toán đến một vị trí cân bằng mới cao hơn so với điểm cân bằng cũ.

Đây là vị trí nói lên sự tăng trưởng của nền kinh tế.

Cả hai vị trí cân bằng mới đối với cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài

chỉ đạt được khi việc sử dụng vốn mang lại hiệu quả. Nếu như việc sử dụng

Page 10: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

nguồn vốn vay này là không có hiệu quả thì khi đó áp lực trả nợ gia tăng, làm

cho chính phủ phải cắt giảm chi tiêu cho đầu tư. Sự cắt giảm này sẽ làm cho

nền kinh tế trở nên trì trệ hơn.

Hơn nữa, việc trả lãi sẽ làm cho cán cân vãng lai thâm hụt và việc trả vốn làm

cho cán cân vốn thâm hụt. Do đó, cán cân thanh toán sẽ thâm hụt nhiều hơn

mức thặng như ban đầu đạt được. Hay nói cách khác, trong trường hợp này,

nếu như điểm cân bằng mới đạt được, thì vị trí cân bằng này sẽ thấp hơn vị trí

cân bằng cũ. Và vì vậy, nền kinh tế đã thụt lùi so với trước khi vay vốn bằng

hình thức phát hành trái phiếu quốc tế.

2.1.2. Cung cầu ngoại tệ:

Trái phiếu khác với vay nợ. Trái phiếu đưa lên giao dịch thì luân chuyển

trong thị trường. Ông nào bỏ tiền ra mua trái phiếu ngày hôm nay, ngày mai

cần tiền thì bán đi. Chứ không phải cho vay. Cho vay thì làm sao sang nợ

được? Còn đây mua trái phiếu, ngày mai nếu bí tiền thì bán đi, có người mua

ngay lập tức. Bởi vì người đó đang có nhu cầu đầu tư mà thấy lãi suất (trái

phiếu) này hấp dẫn hơn lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ. Hoặc giả sử muốn đa

dạng hoá danh mục đầu tư, mua trái phiếu vào...

Trái phiếu không phải là nợ mà là công cụ nợ, có thể mua bán, sang nhượng.

Tính thanh khoản khi niêm yết cao hơn hẳn việc vay nợ.

2.1.3. Ngưỡng an toàn của các khoản vay nợ nước ngoài:

Lấy ví dụ như nước ta thì giá trị trái phiếu phát hành quá bé. Nước ta vay

hàng tỷ đôla, trái phiếu chỉ có mấy trăm triệu. Hơn nữa, vay nợ để phục vụ

kinh tế nói chung, còn trường hợp này là phát hành trái phiếu phục vụ cho

những dự án cụ thể có thu nhập bằng đôla. Nên việc phát hành trái phiếu theo

một vài chuyên gia thì không ảnh hưởng đến ngưỡng an toàn của các khoản

vay nước ngoài.

Page 11: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Tuy nhiên, huy động trái phiếu có nghĩa là chính phủ đi vay ở nước ngoài. Đã

đi vay thì phải trả mà còn phải trả với lãi suất cao. Một khoản đi vay chỉ có

thể trả được khi suất sinh lợi mà nó làm ra tối thiểu phải bằng lãi suất đi vay.

Vấn đề đặt ra đầu tiên đối với khoản vay này là phải sử dụng một cách hiệu

quả. Có nghĩa là, việc sử dụng khoản vốn này không được rơi vào vết xe đổ

của các khoản vốn vay ODA khi đi vay chỉ lãi suất tượng trưng một vài phần

trăm năm, nhưng ta phải chịu những ràng buộc để lãi suất thực phải trả cao

hơn gấp nhiều lần. Hoặc rơi tình trạng đầu tư lãng phí ngân sách hiện nay với

một tỷ lệ thất thoát không thể tính toán được .

Thế hệ này đi vay, thế hệ sau sẽ phải trả . Các khoản nợ chỉ có thể trả được

khi mà một nền tảng vững chắc được để lại. Nếu không gánh nặng nợ nần

cho thế hệ sau là rất khủng khiếp.

Nhìn vào biểu đồ trên, có thể thấy rằng, thị trường trái phiếu đóng vai trò rất

quan trọng. Điều này cho thấy, các nước trên thế giới đều tận dụng tối đa

nguồn vốn bên ngoài để đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế nội địa.

Page 12: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Lý do chủ yếu tại sao các nước này lại tranh thủ nguồn vốn bên ngoài để đẩy

mạnh đầu tư phát triển nền kinh tế nội địa của mình ?

2.2. Ưu và nhược điểm của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:

2.2.1. Ưu điểm của việc phát hành trái phiếu :

2.2.1.1. Đối với tổ chức phát hành :

Huy động vốn đồng thời quảng bá được thương hiệu trên thị

trường quốc tế :

Phát hành trái phiếu quốc tế có thể giúp doanh nghiệp huy động được lượng vốn

lớn với kỳ hạn dài để tài trợ cho các nhu cầu kinh doanh của mình. Ngoài ra,

thông qua đó, doanh nghiệp có thể quảng bá thương hiệu. ra thế giới. Bản thân

doanh nghiệp cũng trưởng thành và trở nên hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư nhờ

việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Có thể nói, một doanh nghiệp được các nhà

đầu tư quốc tế quan tâm sẽ dễ dàng thu hút sự quan tâm của cộng đồng đầu tư.

Quyền sử dụng vốn:

Tổ chức phát hành trái phiếu có toàn quyền trong việc sử dụng vốn vay và không

chịu sự ràng buộc nào từ phía các nhà đầu tư. Đây là một ưu điểm vượt trội hơn

so với việc phát hành cổ phiếu. Nếu như các cổ đông có quyền tham gia vào các

quyết định định đầu tư cũng như cách thức sử dụng vốn, và đôi khi vì mâu thuẫn

trong lợi ích nhận được từ các quyết định đầu tư mà các cổ đông sẽ ngăn cản,

thậm chí bác bỏ các dự án đầu tư mặc dù chúng sẽ đem lại lợi nhuận cho công

ty; thì ngược lại, các trái chủ hoàn toàn đứng ngoài các quyết định này.

Quyền quyết định khối lượng và thời hạn của trái phiếu:

Khối lượng vốn huy động và thời hạn của trái phiếu đều do tổ chức phát hành

quyết định. Điều này tỏ ra có hiệu quả tốt, nhất là trong các trường hợp phát

hành trái phiếu trung và dài hạn.

Chi phí:

Page 13: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Chi phí có thể thấp hơn nếu xét về lâu dài, khi đã có được sự tin tưởng của thị

trường thì càng về sau lãi suất huy động có thể giảm. Phát hành trái phiếu quốc

tế không chỉ là một phương thức huy động vốn đơn thuần mà nó còn là một cách

khẳng định uy tín của tổ chức phát hành trên thị trường vốn quốc tế.

Quan trọng hơn nữa, nếu như các khoản nợ và lãi vay được thanh toán đúng hạn,

cũng như vốn vay được sử dụng hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao cho công ty thì

sẽ làm gia tăng uy tín và kéo theo việc nâng bậc hệ số tín nhiệm, một chỉ số rất

quan trọng mà các nhà đầu tư thường tham khảo khi muốn đầu tư vào một công

ty. Một khi công ty được đánh giá cao thì lãi suất vay cho những lần phát hành

sau sẽ giảm hơn lần trước.

Không cần thế chấp :

Phát hành trái phiếu không đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm hay thế chấp. Điều đó

giúp các công ty chủ động hơn trong việc sử dụng tài sản của mình trong kinh

doanh.

Công cụ quản lý nợ quốc gia :

Đối với những nước có thị trường tài chính phát triển, ngân sách nhà nước thặng

dư, trái phiếu quốc tế còn đóng vai trò là công cụ để thực hiện chính sách quản lý

nợ quốc gia. Thông qua việc phát hành mới trái phiếu ra thị trường quốc tế,

chính phủ có thể chủ động điều tiết danh mục tài sản nợ chính phủ để thực hiện

các chính sách tài chính tiền tệ.

2.2.1.2. Đối với nhà đầu tư :

Về phía các nhà đầu tư, khi mua các trái phiếu quốc tế họ cũng thường tham

khảo thêm chỉ số tín nhiệm của tổ chức phát hành do các tổ chức có uy tín lâu

năm xếp hạng. Để có thể đưa ra các chỉ số này thì các tổ chức xếp hạng đã phải

căn cứ vào rất nhiều yếu tố quan trọng như tình hình tài chính, doanh số, các dự

Page 14: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

án… của công ty. Điều đó có nghĩa là các tổ chức xếp hạng đã đảm bảo một

phần cho sự an toàn khi đầu tư vào trái phiếu của các tổ chức đó.

2.2.2. Nhược điểm của việc phát hành trái phiếu quốc tế :

Bên cạnh những ưu điểm, thì việc phát hành trái phiếu quốc tế vẫn có những

nhược điểm sau đây :

2.2.2.1. Đối với tổ chức phát hành:

- Các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu quốc tế là chi phí tư vấn,

minh bạch hóa thông tin và đáp ứng các yêu cầu thủ tục là không nhỏ.

Ngoài ra, doanh nghiệp còn chịu rủi ro ngoại hối do vay vốn bằng ngoại tệ

trong khi tiền đồng có xu hướng giảm giá. Nếu không có nguồn thu trong

tương lai bằng ngoại tệ hoặc thực hiện các công cụ bảo hiểm, doanh

nghiệp có thể sẽ bị thua lỗ do biến động tỉ giá.

- Phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế hoàn toàn không phải là

chuyện đơn giản chút nào. Các tổ chức phát hành phải tuân thủ chặt chẽ

các thông lệ quốc tế về trình tự, thủ tục phát hành và cách thức thanh toán

trái phiếu. Những thủ tục này tương đối phức tạp, đòi hỏi phải được chuẩn

bị chu đáo về cơ sở pháp lý, kinh tế, các kỹ thuật nghiệp vụ phức tạp như

lựa chọn thị trường, loại tiền tệ, hình thức phát hành, lựa chọn người bảo

lãnh, đại lý thanh toán, tư vấn pháp lý. Tất cả các nghiệp vụ này đều yêu

cầu phải được tiến hành thận trọng bởi những chuyên gia có kinh nghiệm.

- Trái phiếu quốc tế thường trung hoặc dài hạn mà những trái phiếu càng dài

hạn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào các trái phiếu này các nhà

đầu tư đứng trước nguy cơ đối mặt với các rủi ro về khủng hoảng kinh tế,

thay đổi lãi suất, tỷ giá hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành.

Điều đó buộc các tổ chức phát hành phải có những cam kết vay chặt chẽ

với những điều khoản khắt khe hơn để tạo lòng tin nơi các nhà đầu tư.

Page 15: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

- Để phát hành trái phiếu quốc tế buộc phải có sự xếp hạng tín nhiệm của

một công ty xếp hạng uy tín mà chi phí cho việc mời công ty đó thường

không rẻ và việc mời các công ty xếp hạng thường là công ty nước ngoài

sẽ cần nhiều thời gian để đưa ra xếp hạng.

- Nguy cơ là chính phủ và các công ty trong nước sẽ trở nên phụ thuộc quá

nhiều vào các khoản vay nước ngoài, để né tránh những quyết định khó

khăn hơn nhưng cần thiết để củng cố hệ thống tài chính trong nước. Nếu

sử dụng các khoản vay này không hiệu quả thì các doanh nghiệp tiếp cận

với thị trường vốn quốc tế thì rủi ro phải trả một cái giá khá đắt cho những

khoản vay không mang lại mấy giá trị. Bên cạnh đó, ngay cả trong giai

đoạn thị trường thuận lợi thì nhà nước vẫn phải thận trọng trong việc giữ

nợ ở mức kiểm soát được để tránh những cú sốc chắc chắn sẽ xảy ra trong

tương lai.

- Lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế sẽ được quyết định theo thị

trường quốc tế và sẽ phản ánh mức chi phí vốn thực tế so với các nước

khác. Với chính sách kinh tế mở, hội nhập kinh tế quốc tế sản phẩm hàng

hóa quốc gia cần phải cạnh tranh trên thị trường thế giới. Lãi suất trái

phiếu quốc tế sẽ phản ánh chi phí vốn thực tế của quốc gia trên thị trường

và sẽ giúp cho chính phủ cũng như các công ty tính toán đầu tư vào các dự

án có hiệu quả, đảm bảo sản phẩm có thể cạnh tranh được trên thị trường.

Đây là một bước đi chiến lược đảm bảo tính hiệu quả và cạnh tranh của

nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.

- Lãi suất có thể cao hơn lãi suất danh nghĩa của các khoản vay ưu đãi, tín

dụng xuất nhập khẩu và vay qua ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên theo dự

đoán nguồn ODA sẽ giảm trong tương lai tín dụng xuất nhập khẩu thường

kèm theo các ràng buộc đẩy phí vay lên cao, trong khi hệ thống ngân hàng

không đủ đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn. Huy động vốn bằng phát

hành trái phiếu quốc tế sẽ đa dạng hóa các nguồn vốn vay, tạo kênh huy

Page 16: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

động vốn trung dài hạn, nếu được quản lý thận trọng, hạn chế được những

ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh tài chính quốc gia, hình thức huy động

mới này sẽ tạo động lực thúc đẩy tiến trình tự do hóa, hội nhập kinh tế

quốc tế.

- Phải xây dựng kế hoạch sử dụng có hiệu quả ngay tiền thu được từ phát

hành trái phiếu quốc tế: Với hình thức huy động vốn qua thị trường trái

phiếu quốc tế, một lượng vốn lớn sẽ được thu về trong một thời gian ngắn,

cho nên, cần có kế hoạch cụ thể để giải ngân ngay cho đầu tư, tránh ứ

động vốn sẽ làm tăng chi phí, gây nên lãng phí trong đầu tư.

- Có kế hoạch cụ thể trong thanh toán nợ gốc và lãi trái phiếu khi đáo hạn:

Chính phủ cần phải có kế hoạch cân đối nguồn thu và chuẩn bị nguồn

ngoại tệ đủ để thanh toán lãi và vốn gốc khi đáo hạn. Nếu việc thanh toán

không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường

quốc tế, và đến các đợt phát hành tiếp sau.

2.2.2.2. Đối với nhà đầu tư :

Trái phiếu quốc tế thường trung hoặc dài hạn mà những trái phiếu càng dài hạn

thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào các trái phiếu này các nhà đầu tư

đứng trước nguy cơ đối mặt với các rủi ro về khủng hoảng kinh tế, thay đổi lãi

suất, tỷ giá hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành.

Từ những phân tich trên ta có thấy rằng phát hành trái phiếu quốc tế có những

khó khăn và thuận lợi nhất định, nếu như có phương án phát hành và sử dụng

vốn vay hợp lý thì việc làm này sẽ mang lại hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế,

kích thích nền kinh tế phát triển mạnh hơn; nếu sử dụng nguồn vốn này không

hiệu quả, nó sẽ tác động tiêu cực đến đến nền kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh

tế của quốc gia. Do đó, phát hành trái phiếu quốc tế là việc làm cần phải được

cân nhắc kỹ lưỡng dựa vào các yếu tố khách quan như điều kiện thị trường tại

thời điểm phát hành cũng như các điều kiện chủ quan như tính hấp dẫn của trái

Page 17: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

phiếu, sự chuẩn bị của doanh nghiệp trong việc đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư

quốc tế….

Chương 3: Thực trạng của việc phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam

ra thị trường quốc tế:

1. Căn cứ pháp lí:

+ Căn cứ NĐ 53/2009 NĐ-CP về phát hành trái phiếu quốc tế

+ Căn cứ Pháp lệnh Ngoại hối ban hành ngày 21 tháng 12 năm 2005

+ Số 01/2011 NĐ-CP về phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được

chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền đia phương

+ tư số 17/2013/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với việc

phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo

lãnh.

2. Khái quát chung về tình hình kinh tế Việt Nam

2.1Tốc độ tăng trưởng:

Từ năm 2004 đên nay tốc độ tăng trưởng việt nam nhanh so với khu

vực và thế giới giai đoạn 2004- 2007 luôn ở mức trên 7%

từ năm 2008-2014 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoang thế giới thì tốc

độ tương trưởng có phần giảm nhưng vẫn giữ được trên mức 5.5%/

năm. Nền kinh tế việt nam có tiềm năng phát triển.

Page 18: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Tỉ lệ lạm phát được giữ khá ổn định trong thời gian qua, việc thi hành các công

cụ chính sách tiền tệ nhằm duy trì sự ổn đinh nền kinh tế khá tốt, trong thời gian

diễn ra khủng hoảng chỉ số lạm phát khá cao sau đó lại được ổn định dần trong

thời gian gần đây

Page 19: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

2.2Cán cân thương mại – dự trữ ngoại hối

Qua biểu đồ ta thấy việt nam là 1 nước nhập siêu vì vậy cán cân thương

mại có xu hướng âm. Nhưng trong mấy năm vừa qua càng được cải

thiện dần kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh.

+ Về dự trự ngoại hối năm 2015: từ giai đoạn 2010 -2015 dự trữ ngoại hối tăng

mạnh từ 12.5 tỉ USD năm 2010 đến 36 tỷ năm 2014 ( tăng gần 3 lần ) giúp nhà

nước ổn định thị trường ngoại hối.

Page 20: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

2.3 Hệ số tín nhiệm :

Trong thời gian vừa qua hệ số tín nhiệm của việt nam được cải thiện đáng kể từ

đó giúp việc phát hành trái phiếu giảm chi phí hơn và nâng cao được vị thế uy tín

của việt nam trên tầm quốc tế

Page 21: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Chương 3: Thực trạng của việc phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam

ra thị trường quốc tế:

3.1. Phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ:

3.1.1. Phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên 2005:

3.1.1.1. Thực trạng phát hành:

- Ngày 27-10-2005, Chính phủ Việt Nam lần đầu tiên chính thức phát hành

ra thị trường vốn quốc tế trái phiếu quốc tế kỳ hạn 10 năm tại New York.

Theo dự định ban đầu, Việt Nam sẽ phát hành ở mức 500 triệu USD với

lãi suất 7,5%/năm nhưng do nhà đầu tư đăng ký lên đến 4,5 tỷ USD, Việt

Nam đã quyết định phát hành 750 triệu USD, giá bán 98,223% so với

mệnh giá với mức lãi suất 7,125% tuy nằm dưới mức định hướng 7,25%

lúc đầu nhưng thấp hơn trái phiếu các nước tương đương như

Philippines (8,09%) và Indonesia (7,75%) là 90 và 60 điểm và được niêm

yết tại thị trường Singapore. Trong số các trái phiếu được phát hành, các

quỹ đầu tư tài chính nắm 51%, ngân hàng nắm 25%, các công ty bảo hiểm

nắm 17,5% và các tổ chức khác nắm 7% còn lại. Đặc biệt là số trái phiếu

Page 22: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

này các châu lục bao gồm châu Á nắm giữ 38%, châu Âu nắm giữ 32% và

châu Mỹ nắm 30% còn lại ). Điều quan trọng nhất là việc một trái phiếu

phát hành từ châu Á có mức lãi suất thấp đã thực sự được phân bổ toàn

cầu mà không bị dồn vào các nhà đầu tư châu Á.

- Mức lãi suất 7,125%/năm cho trái phiếu thời hạn 10 năm là một mức lãi

suất rất có lợi cho Việt Nam bởi nó thấp hơn mức lãi suất trái phiếu của

các nước có cùng, thậm chí cao hơn mức xếp hạng tín nhiệm của Việt

Nam như Philippines, Indonesia – những nước có mặt trên thị trường trái

phiếu quốc tế từ lâu (Việt Nam có hệ số tín nhiệm lần lượt là B1/BB-/BB-

theo Moody’s/Standard & Poors/Fitch; hệ số tín nhiệm của Indonesia là

B2/B+/BB- nhưng lãi suất trái phiếu là 7,7%/năm.

3.1.1.2. Nguyên nhân của sự phát hành thành công là do :

- Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền

kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới trước đó.

- Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền

kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung

Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối

với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế

chính trị các nước này trong khoảng thời gian đó không ổn định lắm.

- Thứ ba, đến thời điểm năm 2005, cơ hội phát hành trái phiếu Chính phủ

lần đầu tiên ra thị trường vốn quốc tế đã thực sự tốt. Trước hết, các khoản

nợ thương mại và Chính phủ quá hạn do yếu tố lịch sử trước đây đã được

xử lý dứt điểm thành công thông qua Câu lạc bộ London và Paris. Nợ

quốc gia đang ở mức 32% GDP, được đánh giá là an toàn (Phillipines là

72%, Indonesia 80%)

3.1.1.3. Kết quả phát hành:

Page 23: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

- Nếu so với mức lãi suất cho vay ngoại tệ trong nước với thời hạn cho vay

ngắn, khối lượng cho vay rất hạn chế, thì việc huy động phát hành trái

phiếu quốc tế này là có hiệu quả.

- Sau 1 năm phát hành, trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam đã được

Tạp chí Tài chính quốc tế  và các nhà đầu tư khu vực châu Á đánh giá là

trái phiếu phát hành thành công nhất của năm 2005.  Bên cạnh đó, Ông

Jon Pratt – lãnh đạo Thị trường vốn châu Á của Ngân hàng Credit Suisse

First Boston (CSFB) nhận định rằng đây là một đợt phát hành trái phiếu

quốc tế tạo bước ngoặt đặc biệt và tạo nền tảng quan trọng cho các đợt

phát hành sau vì sự thành công của đợt phát hành này đã có ý nghĩa tác

động đến các nhà đầu tư quốc tế để họ xây dựng các hạn mức tín dụng đầu

tư vào Việt Nam trong tương lai.

3.1.2. Phát hành trái phiếu quốc tế năm 2010:

3.1.2.1. Thực trạng phát hành:

- Ngày 26-01-2010, Việt Nam đã đánh dấu sự trở lại thị trường trái phiếu

quốc tế với đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm

với lãi suất danh nghĩa 6,75%/năm và lợi tức phát hành là 6,95%/năm

dưới sự phối hợp của tổ hợp bảo lãnh bao gồm Barclays Capital, Citi,

Deutsche Bank.

- Trái phiếu này được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore và

đáo hạn vào ngày 29/1/2020. Mặc dù định mức tín nhiệm của Việt Nam

cao hơn cả Indonesia và Phillippines một bậc, thế nhưng mức lợi tức của

trái phiếu chính phủ Việt Nam (6,95%/năm) cao hơn mức lợi tức của

Indonesia và Phillippines phát hành trong tháng 1-2010 đến 1%/năm. Cụ

thể là Philippines phát hành 1 tỉ USD trái phiếu ngày 7/1/2010 và đã vay

được với lãi suất 5,67%, Indonesia phát hành 2 tỉ USD ngày 13/1/2010,

lãi suất cũng chỉ 6%. Năm 2009, tổ chức xếp hạng Moody’s đã xếp hạng

tín nhiệm Việt Nam ở mức Ba3 như hai năm trước đó. Mức xếp hạng này

Page 24: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

tương đương với Philippines và thấp hơn 1 bậc so với Indonesia, nhưng

thấp hơn 3 bậc so với mức chuẩn của đầu tư trái phiếu. Theo

Standard&Poors, Việt Nam được xếp hạng BB, cao hơn mức BB- của

Indonesia và Philippines.

3.1.2.2. Nguyên nhân của mức lãi suất cao:

- Thứ nhất, trong quá trình triển khai đợt phát hành này, Việt Nam phải đối

mặt với không ít diễn biễn bất lợi từ tình hình kinh tế thế giới. Do nhu cầu

kích thích kinh tế sau khủng hoảng, hàng loạt các quốc gia như: Indonesia,

Phillippines, Hy Lạp, Mehico, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Slovakia.... đã tung ra

thị trường quốc tế hàng chục tỉ USD trái phiếu.

Trong khi đó, đối mặt với sự sụp đổ hàng loạt các ngân hàng và tập đoàn

kinh tế lớn của Mỹ, Tổng thống Obama đã đề xuất đưa ra một số quy định

hạn chế các định chế tài chính nắm giữ các khoản đầu tư rủi ro: Ngân hàng

Dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ được quyền kiểm tra bất cứ tập đoàn ngân

hàng và tài chính nào có tài sản lớn hơn 50 tỷ USD; đồng thời có quyền

buộc các ngân hàng phải cắt giảm hoặc đình chỉ các hoạt động giao dịch

nhiều rủi ro; các tập đoàn tài chính lớn phải ký quỹ 50 tỷ USD dự phòng

nhằm giải cứu chính nó khi bị thua lỗ,…Ngoài ra thị trường tài chính quốc

tế cũng đang lo ngại về các biện pháp thắt chặt kinh tế của Trung Quốc.

- Thứ hai, về phía Việt Nam, dù hơn Indonesia và Philippines một bậc ở

Bảng xếp hạng tín nhiệm của S&P, nhưng không được đánh giá cao bằng

hai nước này, vì chưa có đà lên hạng: Việt Nam phát hành trái phiếu, khi

tình hình lạm phát và sự định giá thấp đồng tiền, khủng hoảng cán cân

thanh toán và dự trữ của Việt Nam sụt giảm, ảnh hưởng tới lòng tin của

nhà đầu tư trong đợt phát hành lần này. Tóm lại, đó là sự lo ngại của các

nhà đầu tư quốc tế về sự ổn định kinh tế vĩ mô trong tương lai của Việt

Nam.

Page 25: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

- Thứ ba, sở dĩ Việt Nam săn sàng trả lãi suất cao để vay mượn, đó là

vì Việt Nam đang rất cần ngoại tệ vào lúc cán cân thanh toán bị thiếu hụt,

thâm thủng mậu dịch tiếp tục đáng ngại. Cụ thể trong năm khủng hoảng

kinh tế thế giới, thâm hụt cán cân thương mại 18 tỷ đô la, năm 2009

khoảng 13 tỷ đô la, thời điểm đó chưa thấy có một sự biển chuyển kinh tế

để tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu, cho nên nhập siêu vẫn là lớn.

- Thứ tư, lợi tức trái phiếu của Việt Nam trong đợt phát hành này còn được

căn cứ vào tình hình giao dịch của trái phiếu Việt Nam đáo hạn vào năm

2016 (VN2016), tính thanh khoản của trái phiếu Việt nam ngoài việc phụ

thuộc vào tình hình thị trường vốn quốc tế tại thời điểm phát hành, hệ số

tín nhiệm quốc gia. Theo đó, lợi tức của VN2016 so với lợi tức TP của

Indonesia và Philippines có cùng thời gian đáo hạn (năm 2016) cao hơn từ

1,25 - 1,5%. TP có kỳ hạn còn lại 6 năm có mức chênh lợi tức khá lớn như

vậy, nếu tính theo kỳ hạn 10 năm thì khả năng chênh lệch còn lớn hơn. Có

hai điều mà bất kỳ một NĐT nào bỏ tiền ra mua TP cũng đặc biệt quan

tâm là lợi tức và tính thanh khoản. Trong khi đó, do khối lượng TP Việt

Nam giao dịch trên thị trường quốc tế còn mỏng, nên tính thanh khoản còn

hạn chế. Do vậy, để có thể thu hút các NĐT, không có sự lựa chọn nào

khác là phải dựa vào tỷ lệ lợi tức. Đây là một trong những lý do giải thích

tại sao mức lợi tức TP của đợt phát hành lần này cao hơn một số nước có

điều kiện phát hành tương đương.

3.1.2.3. Kết quả phát hành:

- Từ những nguyên nhân trên, ta thấy sức cạnh tranh của Trái phiếu quốc tế

Việt Nam khó sánh được với TP của các nền kinh tế tương đương trong

khu vực.

- Tuy nhiên, với nhiều nỗ lực nhằm củng cố uy tín trước khi phát hành trái

phiếu trong bối cảnh lạm phát ở Việt Nam có thể ảnh hưởng đến niềm tin

của các nhà đầu tư như: tổ chức quảng bá tại các thị trường châu Á (Hồng

Page 26: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Kông), châu Âu (London) và châu Mỹ (Boston, New York),…Trái phiểu

Chính phủ Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm từ những luồng vốn

chất lượng. Cụ thể là, 56% giao dịch thuộc về các nhà đầu tư Mỹ, 16% là

các nhà đầu tư châu Âu và 28% là châu Á. Có thể nói, đây cũng là một đợt

phát hành thành công của TP Việt Nam.

- 3.1.3 phát hành trái phiếu 1 tỷ USD năm 2014:

- Với điều kiện thị trường vốn quốc tế diễn biến thuận lợi và nhu cầu nắm

giữ trái phiếu Chính phủ Việt Nam của các nhà đầu tư quốc tế đạt mức kỷ

lục so với khối lượng phát hành, trái phiếu quốc tế của Chính phủ đạt mức

lãi suất cố định 4,8%/năm, thấp hơn mức dự kiến là 5,125%/năm, đây

là  mức lãi suất thấp nhất trong các đợt phát hành từ trước đến nay (lần

lượt là 6,875%/năm và 6,755/năm đối với trái phiếu phát hành năm 2005

và 2010).

- Cùng với việc Fitch nâng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên một

bậc (từ B+ lên BB-) và Moody (từ B2 lên B1), thành công của đợt phát

hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế lần này đã giúp thiết

lập mức lãi suất chuẩn thấp hơn nhiều so với trước, tạo điều kiện thuận lợi

cho các doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn trên thị trường quốc tế với

lãi suất hợp lý hơn so với trước đây. Đồng thời, đợt phát hành trái phiếu

lần này cũng giúp giảm rủi ro tái cấp vốn và rủi ro lãi suất đối với danh

mục nợ nước ngoài của Chính phủ. Đây là việc chủ động thực hiện nghiệp

vụ quản lý rủi ro đối với danh mục nợ công, tiếp cận với thông lệ quản lý

nợ công của quốc tế.   

- Tổng trị giá đăng ký mua trái phiếu của Chính phủ từ 437 nhà đầu tư quốc

tế là trên [10,6] tỷ Đô la Mỹ, gấp hơn 10 lần so với lượng chào bán ra là 1

tỷ Đô la Mỹ, trong đó có [17%] nhà đầu tư ở Châu Á, [28%] nhà đầu tư ở

Châu Âu và [55%] nhà đầu tư ở Mỹ.  Nếu phân loại theo loại hình nhà đầu

tư, có [84%] nhà đầu tư là các công ty quản lý quỹ đầu tư, [12%] nhà đầu

Page 27: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

tư là các ngân hàng và [4%]  nhà đầu tư là các công ty bảo hiểm và quỹ

hưu trí. Tổng mệnh giá đăng ký hoán đổi lại trái phiếu đã phát hành được

chấp nhận mua lại là 726.626.000 Đô la Mỹ, trong đó mua lại 436.452.000

Đô la Mỹ trái phiếu phát hành năm 2005 và 290.174.000 Đô la Mỹ trái

phiếu phát hành năm 2010.

- Các ngân hàng là Deutsche Bank, HSBC, và Standard Chartered Bank

đóng vai trò là Tổ hợp quản lý cho đợt phát hành trái phiếu và giao dịch

hoán đổi/mua lại các trái phiếu cũ. HSBC là ngân hàng thanh toán và phân

phối trái phiếu.

- Thành công của đợt phát hành trái phiếu 2014 được thể hiện ở một số mặt

sau:

- Lãi suất phát hành thấp (4,8%/năm so với mức lãi suất dự kiến ban đầu khi

chào bán là 5,125%/năm), tiết kiệm được khoảng 32,5 triệu USD tiền

thanh toán lãi trái phiếu Chính phủ (trong 10 năm);

- Hoán đổi được 54,4% giá trị gốc của trái phiếu quốc tế 2005 và 25,4% giá

trị gốc của trái phiếu quốc tế 2010 với tổng lợi ích sau khi hoán đổi là 13,9

triệu USD; góp phần cơ cấu lại nợ công theo hướng kéo dài thời hạn vay

và giảm áp lực về nghĩa vụ trả nợ theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chính

phủ.

- Với thành công vượt mức mong đợi về lãi suất đối với trái phiếu mới phát

hành lần này, đồng thời tận dụng thị trường vốn quốc tế đang diễn biến rất

thuận lợi, Bộ Tài chính đang nghiên cứu và báo cáo Chính phủ  khả năng

phát hành trong thời gian tới để tiếp tục chủ động tái cơ cấu danh mục nợ

công hiện hành. 

-

3.1.4 Nhận xét về ba đợt phát hành:

1.Tác động tích cực:

Page 28: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

- Phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế là một trong ba

cách vay nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nước. Việc

phát hành thành công trong 2 lần đầu bước đầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi

cho Việt Nam tiếp cận thị trường vốn quốc tế và tham gia trực tiếp vào thị

trường này trong tương lai.

- 1 tỷ USD thu về trong lần hai sẽ là một nguồn thu ngoại tệ bổ sung khi

nguồn cung ngoại tệ trong nước đang tương đối căng thẳng do khủng

hoảng kinh tế trong và ngoài nước tác động đến xuất khẩu, kiều hối cũng

như thu ngoại tệ từ du lịch. Có thể nói sự thành công của đợt phát hành 1

tỷ đô la trái phiếu quốc tế là đã đạt được mục tiêu mà chính phủ đề ra. Đó

là có thêm nguồn vốn vay nước ngoài để trang trải cho thâm hụt ngân sách

và thâm hụt cán cân thanh toán do nhập siêu.

2.Tác động tiêu cực:

- Hiện tại Việt Nam đã phải mượn với lãi suất cao hơn thị trường. Hơn thế

nữa, chính cách dùng số tiền vay được là mối quan tâm của giới phân tích,

lo ngại rằng việc sử dụng không hợp lý sẽ đè nặng thêm trên nền tài chính

Việt Nam vốn đang gặp khó khăn. Nếu như việc sử dụng nguồn vốn vay

này là không có hiệu quả thì khi đó áp lực trả nợ gia tăng, làm cho chính

phủ phải cắt giảm chi tiêu cho đầu tư. Sự cắt giảm này sẽ làm cho nền

kinh tế trở nên trì trệ hơn.

- Nợ Chính phủ gia tăng và rủi ro tài chính cao: Bội chi ngân sách trong

những năm gần đây luôn duy trì ở mức cao. Mức bội chi trong năm 2009

lên tới 7% GDP, trong đó chưa bao gồm các khoản chi từ nguồn trái phiếu

Chính phủ và các khoản Chính phủ vay về cho doanh nghiệp vay lại. Do

thường xuyên ở trong tình trạng bội chi ngân sách nên nợ công (mà chủ

yếu là nợ Chính phủ) tăng mạnh trong những năm gần đây. Năm 2008, nợ

Chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước lên đến 40% GDP

và năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP. Nếu không có các biện pháp để

Page 29: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

giảm bội chi ngân sách thì nợ Chính phủ sẽ tiến dần đến mức giới hạn an

toàn là 50% GDP. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh tài chính

quốc gia và làm giảm mức độ tín nhiệm của Việt Nam trên thị trường tài

chính thế giới. Việc vay thêm 1 tỷ USD bằng ngoại tệ (tương đương

18.000 tỷ VND, ở thời điểm 2010) sẽ làm cho gánh nặng nợ nần càng

thêm chồng chất, rủi ro gặp phải sẽ là rủi ro thanh toán và rủi ro tỷ giá. Rủi

ro thanh toán là việc khi trái phiếu đáo hạn, Nhà nước sẽ phải dành ra một

số lượng tiền tương ứng để thanh toán số tiền gốc đã vay, hơn nữa, hàng

năm Việt Nam cũng sẽ phải chi trả lãi coupon tương ứng. Rủi ro tỷ giá do

trong thời gian 10 năm cho tới ngày đáo hạn, diễn biến đồng USD cũng

như VNĐ rất khó lường đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi phục hồi kinh

tế thế giới cũng như sự phát triển của Việt Nam còn nhiều câu hỏi vẫn

được bỏ ngỏ.

3.1.5 Đánh giá về việc sử dụng vốn vay:

- Phát hành trái phiếu Chính Phủ ra thị trường quốc tế là một kênh huy động

vốn hữu hiệu với nền kinh tế các nước đang phát triển. Nguồn vốn huy

động được sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển, đầu tư của Chính Phủ. Tuy

nhiên, nếu không quản lý và sử dụng hiệu quả sẽ gây ra những tác động

đảo ngược, tiêu cực và ảnh hưởng tới an ninh tài chính quốc gia cả theo lý

thuyết lẫn thực tế Việt Nam hiện nay.

- Trước hết, về đợt phát hành 2005, mục đích của đợt phát hành trái phiếu

quốc tế này là nhằm cho vay lại đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của

tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt nam Vinashin. Toàn bộ 750 triệu

USD từ đợt phát hành này, chính phủ cho Vinashin vay lại, thế nhưng tập

đòan này đã đầu tư giàn trải và không hiệu quả, cách làm ăn tùy tiện

không những thế mà còn dẫn đến nợ nần chồng chất. Đây là kết quả tất

yếu từ yếu kém trong thanh tra, giám sát nguồn vốn vay từ việc phát hành

trái phiếu.

Page 30: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

- Còn về đợt phát hành 2010, số tiền này ban đầu dự kiến cho một số dự án

lớn, trong đó có Nhà máy lọc dầu Dung Quất vay lại, nhưng sau đó đã

điều chuyển và Vinashin được vay 300 triệu USD để trả nợ cho ngân

hàng Pháp.

- Có thể nói vụ Vinashin sẽ có ảnh hưởng lâu dài và lan rộng, nó làm ảnh hệ

số tín nhiệm của Vịệt Nam giảm, điều này khiến cho việc tiếp cận nguồn

vốn quốc tế đối với các doanh nghiệp Việt Nam càng khó khăn hơn ( phải

trả lãi suất cao hơn so với các công ty, doang nghiệp các nước trong cùng

khu vực). Công ty Moody's đặc biệt nhấn mạnh đến nhu cầu vay nợ của

Việt Nam trong những thập niên sắp tới. Một nước đang bắt đầu phát triển

cần phải xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sá, cầu, sân bay, bến cảng,

không thể thiếu và không thể chậm được. Muốn vậy, phải vay nợ trên thị

trường quốc tế. Ấy vậy, vì vụ Vinashin, nếu như Việt Nam muốn đi vay

cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở sẽ khó khăn hơn, và tất nhiên khi vay sẽ

phải trả lãi suất cao hơn. Vì thế đối diện với vấn đề này, phải chăng Việt

Nam có lẽ sẽ chậm trễ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ? Hậu quả là cả

nền kinh tế sẽ chạy chậm lại, trong khi nhà nước tiếp tục lo trả nợ cho

công ty Vinashin.

Chương 4: Giải pháp cho vấn đề phát hành trái phiếu quốc trong giai đoạn

hiện nay:

4.1 Phát hành trái phiếu quốc tế dưới gốc độ so sánh với các phương

thức huy động vốn khác:

4.1.1. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu trên thị trường quốc tế:

Đây là kênh huy động vốn cũng rất có tiềm năng, nhưng nhìn chung thì vẫn chưa

phù hợp với việt nam trong giai đoạn hiện nay khi mà quy mô của các doanh

nghiệp Việt Nam còn nhỏ, chưa đáp ứng những điều kiện được niêm yết trên sàn

chứng khoán ở các nước( hiện nay chỉ có một số ít công ty được niêm yết trên

Page 31: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Bên cạnh đó, theo hành trình cam kết gia nhập WTO thì các nhà đầu tư nước

ngoài còn bị hạn chế về tỷ lệ vốn (<=49%) và tính minh bạch trong các bản cáo

tài chính và quy định về công bố thông tin chưa được tuân thủ một cách triệt để.

Hiện tại vấn đề về giao dịch nội gián và giao dịch nội bộ vẫn là vấn đề “nóng

nổi” khi mà cơ chế giám sát của cơ quan chức năng còn yếu kém.

Chính vì thế chưa thể thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài,

cho nên tính khả thi đối với kênh huy động vốn bằng hình thức này không cao.

4.1.2. Huy động vốn bằng cách tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển

chính thức:

Hỗ trợ phát triển chính thức ( Official Development Assistance hay

ODA),là một hình thức đầu tư nước ngoài. Các khoản đầu tư này thường là

các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình

từ 0.25%năm) với thời gian cho vay và thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới

phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm), đôi khi nó còn được gọi là viện

trợ. Nguồn vốn ODA vì mục tiêu danh nghĩa là phát triển kinh tế và nâng

cao phúc lợi ở quốc gia được đầu tư, thường là cho Nhà nước vay.

Nguồn vốn ODA có ưu điểm về chi phí sử dụng. Tuy nhiên, các nước giàu

khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị

trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc

phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách

riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế, họ đều

phải tính toán đến những lợi ích mà họ sẽ nhận được từ quốc gia nhận sự

hỗ trợ này như:

- Đối với các dự án ODA phải đạt được sự thỏa thuận, đồng ý của nước

viện trợ, thông qua hình thức đấu thầu họăc hỗ trợ về chuyên gia, nước viện

trợ sẽ gian tiếp tham gia điều hành.

Page 32: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

- Với mục đích tăng thêm lợi ích kinh tế của mình, các nước viện trợ sẽ yêu

cầu các nước nhận viện trợ từ từ dỡ bỏ các hàng rào thuế quan bảo hộ

ngành công nghiệp còn non trẻ trong nước và thuế xuất nhập khẩu hàng hóa

của nước tài trợ như Việt Nam mở cửa đối với mặt hàng ôtô của Nhật Bản

và Mỹ vào năm 2006, thực hiện cam kết thuế đối với khu vực ASEAN.

Ngoài ra các nước nghèo còn phải nhận một khoản ODA dưới hình thức là

hàng hóa dịch vụ do các nước viện trợ sản xuất.

- Các khoản chi cho các chuyên gia, cố vấn do các nước viện trợ cử đến

trong các dự án ODA thường cao hơn so với việc tự đi thuê các chuyên gia

ỏ ngoài khác.

- Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA khi

hoàn lại tăng thêm.

- Điều đáng lo ngại nhất là phía tiếp nhận nguồn vốn ODA chưa hiểu rõ

được bản chất của nguồn vốn này. Một số nơi coi ODA như “bầu sữa” miễn

phí được cho không hoặc nếu phải trả lại thì Chính phủ phải là người chịu

trách nhiệm. Do vậy, việc tham ô, lãng phí trong khi sử dụng nguồn vốn

ODA là không thể tránh khỏi. Hàng lọat vụ bê bối liên quan tới việc bê bối

như PMU đã khiến cho các nước viện trở không khỏi băn khoăn khi đặt vấn

đề cho những dự án ODA tiếp theo.

- Việc giải ngân chậm trễ luôn được đề cập đến mà nguyên nhân cụ thể là

do sự phức tạp của quy trình và thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ;

việc chậm trễ trong công tác giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu, năng

lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các ban quản lý còn nhiều hạn

chế.

Với các lý do nêu trên thì chúng ta thấy rằng ODA không phải là “thiên

đường” cho các quốc gia hay công ty, nhất là nếu sử dụng không hiệu quả

Page 33: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

còn đưa đến tình trạng nợ nần. Tuy ODA là một nguồn vốn có ý nghĩa quan

trọng nhưng nó không thể thay thế hoàn toàn nguồn lực bên trong của một

quốc gia, chưa kể đến việc nó sẽ bị thu hẹp dần khi mức thu nhập bình quân

đầu người ở Việt Nam đạt mức trung bình.

4.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:

Mặc dù Việt Nam đã tích cực cải thiện môi trường đầu tư như sửa đổi Luật

đầu tư nước ngoài nhưng dòng vốn FDI vẫn chủ yếu đến từ các nước châu

Á và FDI đầu tư vào các vùng không đồng đều mà chỉ Chủ yếu tập trung

vào các vùng kinh tế trọng điểm như TP.HCM, Hà Nội, Bình Dương, Đồng

Nai do các địa phương này có nhiều lợi thế về vị trí địa lý, dân cư, cơ sở hạ

tầng, thị trường tiêu thụ và lao động. Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu

vào khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ đứng thứ hai trong

việc thu hút vốn còn nông-lâm-thủy hải sản lại thu hút ít nhất.

Môi trường đâu tư tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như: thủ tục hành

chính rườm rà, nạn quan liêu tham nhũng lan rộng và các vụ “chạy chức”

mới được phát hiện gần đây cũng làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trong

mắt các nhà đầu tư.

Các văn bản pháp luật, chính sách còn nhiều hạn chế, chồng chéo lẫn nhau,

chưa có sự đồng bộ giữa thuế và kế toán. Khi thu hút đầu tư nước ngoài

chúng ta ít nhận thấy những mặt trái của vấn đề là các luồng vốn này sẽ kéo

theo các khoản vay không nhỏ, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt,

môi trường ô nhiễm nghiêm trọng và chúng ta trở thành “bãi rác công

nghiệp” cho các máy móc công nghệ lỗi thời từ các nước khác đem vào.

4.2 Giải pháp cho vấn đề phát hành trái phiếu quốc tế trong giai

đoạn hiện nay:

Page 34: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng hình thức huy động vốn lên thị

trường quốc tế là một kênh huy động tiềm năng nhưng chúng ta phải biết

tận dụng hình thức huy động này một cách hủy quả. Vậy khi nào là Việt

nam nên phát hành và phát hành ra sao là vấn đề cần phải xác định rõ ràng

và đúng đắn. Sau đây là một số kiến nghị cho những vấn đề trên:

4.2.1. Xây dựng hệ thống tín nhiệm riêng cảu Việt Nam theo chuẩn

quốc tế:

Thị trường trái phiếu quốc tế không chỉ dành riêng cho Chính phủ các quốc

gia mà đối với các doanh nghiệp đủ tiềm lực thì đây cũng là một nguồn huy

động vốn rất tốt,giúp các doanh nghiệp tự mình phát hành tráiphiếu ra thị

trường vốn quốc tế. Tuy nhiên, cái khó mà các doanh nghiệp gặp phải là

quốc tế biết quá ít về các doanh nghiệp Việt Nam và công tác thống kê của

Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế dẫn đến những thông tin sai lệch như

đã đề cập ở trên. Khi các nhà đầu tư cânnhắc có nên đầu tư vào một công ty

nào đó thì họ thường tham khảo thêm các thông tin của các công ty xếp

hạng tín nhiệm có uy tín trên thế giới. Nhiệm vụ của các công ty này là thu

thập, phân tích và làm rõ các chỉ số cũng như tình hình kinh doanh của các

công ty để từ đó làm căn cứ xếp hạng tín nhiệm công ty theo các tiêu chí

của mình.

Nếu một công ty có được một mức xếp hạng tín nhiệm cao thì họ sẽ

gặp rất nhiều thuận lợi khi phát hành trái phiếu như: nhận được sự quan

tâm tin tưởng của các nhà đầu tư cho nên mức lãi suất mà họ phải trả cho

việc huy động vốn cũng sẽ thấp hơn.

Ngược lại, với một mức xếp hạng thấp hoặc bị các tổ chức xếp hạng đánh

giá là “ không có khả năng trả nợ” thì con đường phát hành trái phiếu đã trở

nên chông gai hơn rất nhiều.

Page 35: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Tuy nhiên, chi phí cho việc mời một công ty về đánh giá xếp hạng tín

nhiệm không hề rẻ chút nào và việc các công ty xếp hạng đều là công ty

nước ngoài sẽ khiến họ mất nhiều thời gian để tìm hiểu và nắm rõ các quy

luật trong nền kinh tế Việt Nam. Theo tình hình hiện tại do hệ thống pháp lý

của Việt Nam đang trong giai đoạn hoàn thiện, các công bố thông báo chưa

được công khai hoàn toàn, số liệu chưa đồng bộ nên việc xếp hạng sẽ gặp

khó khăn có thể dẫn đến mức xếp hạng tín nhiệm thấp gây bất lợi cho trái

phiếu quốc tế về giá và lãi suất khi phát hành. Nên chăng tự thân các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ cùng nhau thành lập một Trung tâm xếp hạng tín

nhiệm riêng dành cho các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tại

Việt Nam. Trung tâm này sẽ là một đơn vị ngoài quốc doanh, chuyên thu

thập các dữ liệu, thông tin về thị trường cũng như các doanh nghiệp. Ưu

điểm của trung tâm này là đây là một đơn vị độc lập, không chịu sự chi phối

của Nhà nước hay tư nhân và hoạt động dựa trên nguyên tắc công khai,

minh bạch và nắm rõ thị trường Việt Nam. Họ là nơi thống kê, phân tích và

tổng hợp các số liệu đó và sẽ bán lại cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, dựa

vào các tiêu chí mà các công ty xếp hạng tín nhiệm trên thế giới thường áp

dụng, các công ty này cũng sẽ xây dựng một danh mục xếp hạng tín nhiệm

các công ty. Danh mục này sẽ rất cần thiết cho bản thân các công ty để họ

có thể điều chỉnh, khắc phục những khó khăn, sai sót để được nâng mức

xếp hạng. Đối với các nhà đầu tư, danh mục này sẽ là một nguồn thông tin

hữu ích cho họ trước khi bỏ tiền đầu tư.

Bên cạnh đó, phương pháp này còn hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp

Việt nam để phát triển kênh huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu.

4.2.2. Lựa chọn những tổ chức tư vấn, hỗ trợ phát hành trái phiếu

chuyên nghiệp:

Page 36: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều các tổ chức, ngân hàng nhận bảo lãnh

phát hành trái phiếu. Việc lựa chọn tổ chức nào là phù hợp, chuyên nghiệp

và có chi phí hợp lý là rất quan trọng. Điều đó giúp các doanh nghiệp tiết

kiệm được thời gian và chi phí rất nhiều. Do đó, để có thể phát hành trái

phiếu ra nước ngòai thành công chúng ta cần chú trọng đến vai trò của các

tổ chức tư vấn này trong việc đưa ra những nhận định, những lời khuyên bổ

ích. Trên cơ sở đó chúng ta tiến hành lựa chọn những tổ chức bảo lãnh

phát hành phù hợp nhất với điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam.

4.2.3. Lựa chọn thị trường phát hành phù hợp:

Hiện nay chúng ta có nhiều lựa chọn cho thị trường phát hành như thị

trường châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Mỗi thị trường lại có những đặc điểm

riêng của mình với những ưu, khuyết khác nhau.Tuy nhiên thị trường trái

phiếu châu Âu hiện nay đang chiếm ưu thế và dành được nhiều sự quan tâm

của các nhà đầu tư lẫn các tổ chức phát hành do có đặc ưu việt của nó.Trái

phiếu châu Âu chiếm hơn 80% của thị trường chứng khoán quốc tế.

Hai lý do chính cho việc này xuất phát từ thực trạng là đồng đôla Mỹ là

đồng tiền được tìm kiếm nhiều nhất trong tài chính trái phiếu quốc tế.

- Thứ nhất, trái phiếu châu Âu có thể được mang ra thị trường nhanh hơn

hơn trái phiếu nước Mỹ bởi vì chúng không phải được cung cấp cho các

nhà đầu tư Mỹ và do đó không phái tuân thủ các điểu kiện đăng ký khắt khe

của Ủy ban chứng khoán và thị trường chứng khoán Mỹ.

- Thứ hai, trái phiếu châu Âu là những trái phiếu vô danh điển hỉnh cung

cấp sự vô danh cho các trái chủ và do vậy cho phép họ tránh bị đánh thuế

lên lãi suất nhận được. Nhờ có đặc tính này mà các nhà đầu tư thường săn

lòng chấp nhận một suất lợi tức của trái phiếu châu Âu thấp hơn khi so sánh

với trái phiếu nước Mỹ ở những điều khoản có thể so sánh được, ở những

Page 37: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

điểm quyền sở hữu được ghi nhận. Đối với tổ chức phát hành trái phiếu thì

suất lợi tức thấp hơn nghĩa là chi phí cho khoản nợ cũng thấp hơn. Riêng

đối với các doanh nghiệp Việt Nam lần đầu tiên phát hành trái phiếu quốc

tế thì nên phát hành tại thị trường châu Á. Thị trường này tuy còn non trẻ

nhưng có tốc độ phát triển rất nhanh và có ưu thế là không yêu cầu có phải

xếp hạng mức tín nhiệm.

Đây chính là ưu điểm vì đã giúp các doanh nghiệp giảm thiểu thuê công ty

định mức xếp hạng tín nhiệm cho mình. Các nhà đầu tư châu Á cũng tỏ ra

quan tâm nhiều hơn đến trái phiếu quốc tế của Việt Nam, bằng chứng là

trong đợt phát hành trái phiếu quốc tế của chính phủ Việt Nam năm 2005

các nhà đầu tư châu Á nắm giữ 38% tổng số lượng phát hành.

Trong giai đoạn hiện nay và tương lai gần, chính phủ không nên tiếp tục

bảo lãnh cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế nữa vì các lý do

sau:

- Hiệu quả của đợt phát hành trái phiếu bảo lãnh cho vinashin không hiệu

quả cho nên tác động không tốt đến các lần phát hành trái phiếu sau này mà

trực tiếp tác động đến niềm tin của nhà đầu tư do đó làm tăng lãi suất các

đợt phát hành sau.

- Việc phát hành trái phiếu quốc tế có sự bảo lãnh sẽ tạo tiền lệ không tốt

cho các doanh nghiệp lẫn các nhà đầu tư, dễ dẫn đến nhận các doanh nghiệp

Việt Nam yếu kém, không có khả năng trả nợ nên không thể tự mình phát

hành trái phiếu. Về phía các nhà đầu tư, sẽ rất dễ tạo tâm lý e dè, nghi ngại

khi mua những đợt trái phiếu không có bảo lãnh vì sợ rủi ro. Còn về phía

các doanh nghiệp lại dễ nảy sinh tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự bảo lãnh

của chính phủ từ đó dẫn đến việc sử dụng vốn vay không hiệu quả.

Page 38: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

4.2.4 Lựa chọn đổng tiền phát hành hiệu quả:

Đôla Mỹ tỏ ra là một lựa chọn hợp lý vì từ trước đến nay người Việt Nam

có thói quen sử dụng đồng đôla Mỹ nhiều trong giao dịch mua bán cả trong

và ngoài nước. Trên thế giới thì do sự ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ nên

đồng đôla Mỹ cũng rất thông dụng trên thị trường mua bán trái phiếu. Tuy

nhiên, đó là chuyện quá khứ, hiện tại nền kinh tế Mỹ đang sụt giảm và đồng

đôla Mỹ đang bị mất giá bất chấp những nỗ lực của chính phủ Mỹ. Trước

tình cảnh đó, nhiều quốc gia đã chuyển sang sử dụng một ngoại tệ khác thay

thế để dùng trong trao đổi buôn bán như Euro, bảng Anh… Bên cạnh đó,

việc lựa chọn phát hành trái phiếu quốc tế bằng một ngoại tệ khác đôla Mỹ

cũng giúp chúng ta đa dạng hóa danh mục ngoại tệ mà mình đang nắm giữ

nhằn phân tán rủi ro trong trường hợp đôla Mỹ mất giá khi vay hoặc tăng

giá quá cao khi chúng ta phải trả nợ.

4.2.5 Lựa chọn kỳ hạn, khối lượng trái phiếu phát hành:

Việc phát hành lần đầu tiên mang động thái thăm dò nhiều hơn từ cả hai

phía nhà đầu tư và người phát hành. Nếu khối lượng lớn thì giá sẽ giảm và

lãi suất cao lại phải gánh chịu một khoản nợ cao. Nhưng nếu phát hành quá

ít thì không thể thỏa mãn nhu cầu huy động vốn của tổ chức phát hành mặc

dù có thể đạt được giá cao và lãi suất thấp do tạo nên tâm lý khan hàng. Căn

cứ vào nhu cầu vốn và tình hình thị trường mà các nhà phát hành sẽ quyết

định lựa chọn phù hợp, cần phải cân nhắc kỹ vì thành công hay thất bại của

đợt phát hành trườc sẽ ảnh hường rất nhiều đến thành công của đợt phát

hành sau.

Kỳ hạn của trái phiếu thì nên dài hơn vòng đời của dự án mà số tiền có

được từ trái phiếu đầu tư vào để chúng ta có thời gian thu hồi vốn và lên

Page 39: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

kế hoạch thanh toán trái phiếu hiệu quả nhất. Theo kinh nghiệm của các

nhà phát hành thì thường trái phiếu quốc tế là trái phiếu trung và dài hạn vì

chúng giúp các nhà vay vồn giảm thiểu được rủi ro. Tuy nhiên, nếu là lần

đẩu tiên phát hành trái phiếu quốc tế thì các doanh nghiệp nên lựa chọn kỳ

hạn trung hoặc không quá dài vì bước đầu các nhà đầu tư còn e dè trước

môt loại trái phiếu mới. Sau đó, khi đã gây dựng được uy tín trên thị trường

thì doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu dài hạn.

4.2.6 Sử dụng vốn vay hiệu quả:

Đây là bài toán mà các doanh nghiệp phải đặt ra đầu tiên khi có ý định phát

hành trái phiếu quốc tế. Phát hành trái phiếu quốc tế không chỉ đơn thuần là

đi vay mà còn là việc quảng bà hình ảnh doanh nghiệp, đất nước ra thế giới.

Nếu phát hành thành công và thanh toán trái phiếu đúng hạn thì sẽ là một

tiền đề rất tốt cho các hoạt mua bán ký kết hay mở rộng kinh doanh của

doanh nghiệp ra thị trường thế giới. Ngược lại, không chỉ uy tín, thương

hiệu của công ty giảm sút mà còn làm ành hưởng đến hình ảnh chung của

các doanh nghiệp Việt Nam, tạo ấn tượng xấu cho các nhà đầu tư.

Xây dưng một chiến lược kinh doanh hợp lý, dài hơi và chặt chẽ cùng với

sự tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh vực phát hành trái phiếu quốc tế để

tránh những sai sót không đáng có. Đặc biệt, hiểu biết về luật pháp quốc tế

thường là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, trước khi

phát hành trái phiếu quốc tế, nhất thiết phải có được đội ngũ tư vấn pháp lý

chuyên nghiệp.

Do đó, cần phải cân nhắc khi lựa chọn các khoản vay và sử dụng sao cho

hiệu quả nhằm tránh tình trạng thất thoát vốn vay và nhất là cần nên tránh

tình trạng vay nợ mới để thanh toán nợ cũ. Muốn được như vậy thì phải có

Page 40: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

sự độc lập trong trong việc thẩm định các dự án vay và khả năng trả nợ của

các đối tượng sử dụng nguồn vốn vay đó.

Nên phân bổ nguồn vốn vay hiệu quả, sử dụng nguồn vốn vay này để phát

triển các thế mạnh hiện có của đất nước, tránh đầu tư dàn trải, nên tập trung

đầu tư vào các ngành có lợi thế về xuất khẩu có hiệu quả, trong đó đẩy

mạnh sử dụng lao động để tạo công ăn việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.

4.2.7. Tạo sức mạnh cho thương hiệu Việt Nam:

Như đã đề cập đến ở trên, uy tín, hình ảnh là một phần rất quan trọng trong

việc phát hành trái phiếu, nhất là khi đây là một lĩnn vực còn khá mới mẽ

đối với chúng ta và hình ảnh Việt Nam cũng còn xa lạ đối với các nhà đầu

tư.

Xây dựng sức mạnh cho thương hiệu Việt Nam không chỉ là việc tuân thủ

các nguyên tắc, luật lệ quốc tế, thanh toán trái phiếu đúng hạn mà còn là

cách ứng xử lịch thiệp, cư xử có văn hóa và chuyên nghiệp với các đối tác,

xây dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam thanh bình, ổn định về chính trị,

tăng trưởng nhanh và ổn định về kinh tế cùng với môi trường sống và làm

việc thân thiện, hiếu khách.

Bên cạnh đó, việc chính phủ cần củng cố hệ thống pháp lý rõ ràng, tạo một

môi trường đầu tư minh bạch và hệ thống thông tin rộng khắp cũng như dẹp

bỏ được nạn tham ô, hối lộ cũng góp một phần vô cùng quan trọng vào

việc xây dựng hình ảnh một nướcViệt Nam hiệu quả trong kinh doanh

và lành mạnh, ổn định trong xã hội.

KẾT LUẬN:

Nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng trưởng và phát triển không ngừng.

Với xu thế hội nhập, nền kinh tế nước ta ngày càng bay cao, bay xa hòa

Page 41: Phát hành-trái-phiếu-quốc-tế-của-việt-nam-thực-trạng-và-giải-pháp (1)

mình vào những sân chơi lớn. Qúa trình tham gia vào các sân chơi quốc tế

lớn đưa đến cho chúng ta những thuận lợi, những tích cực đáng kể cho nền

kinh tế.

Bên cạnh đó,quá trình hội nhập sâu rộng ấy cũng mang đến cho chúng ta những

khó khăn và thử thách cần phải vượt qua. Thị trường tài chính quốc tế với những

chuẩn mực hết sức khắt khe, nhưng nếu các doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị

đầy đủ các hành trang cần thiết, có những kế hoạch, chiến lược phát hành trái

phiếu quốc tế thật chu đáo và được đầu tư đúng mức thì vẫn có khả năng thành

công cao. Phát hành thành công trái phiếu quốc tế sẽ đem lại rất nhiều thuận

lợi cho doanh nghiệp trong việc huy động nguồn vốn có nhiều tính ưu việt này.

Đồng thời mang lại những lợi ích to lớn hơn đó là khẳng định uy tín và năng lực

mạnh mẽ về tài chính được đánh giá bởi những tổ chức tài chính có chất lượng

trên thế giới.