ĐỊnh hƯỚng cÔng tÁc tuyÊn giÁo tiếp tục phát...

32
1 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015 ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO H iện nay, tỉnh Quảng Nam có 6 cơ quan báo, tạp chí là Báo Quảng Nam, Đài Phát thanh-Truyền hình Quảng Nam, Tạp chí Đất Quảng, Tạp chí Văn hóa Quảng Nam, Tạp chí Khoa học và Sáng tạo và tạp chí Khoa học của Đại học Quảng Nam cùng hàng chục bản tin của các ngành và hệ thống truyền thanh-phát truyền hình ở các địa phương của tỉnh. Ngoài báo viết, báo nói, báo hình, trong những năm qua, loại hình báo điện tử đã nhanh chóng phát triển như Báo Quảng Nam điện tử, QRT điện tử, Cổng thông tin điện tử của tỉnh và hàng chục trang thông tin điện tử của các ngành, địa phương cũng đã đi vào hoạt động. Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn có đại diện của nhiều cơ quan, phóng viên của các báo Trung ương, các bộ, ngành Trung ương và của các địa phương khác hoạt động. Thời gian qua, hệ thống báo chí của tỉnh ngày càng khẳng định vai trò là diễn đàn của Nhân dân, là phương tiện tích cực để thông tin, định hướng dư luận, phản biện xã hội, tham gia vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ kỷ cương pháp luật; giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường dân tộc; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo tồn và phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội; củng cố niềm tin của Nhân dân vào Ðảng, vào chế độ, cổ vũ phong trào cách mạng. Trước yêu cầu mới của đất nước nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng là phải giữ được ổn định chính trị, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của các tầng lớp Nhân dân trong việc thực hiện các phong trào cách mạng, phấn đấu đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công tác tư tưởng của Đảng đặt trọng tâm là phải phát huy tích cực vai trò của báo chí. Trước hết, các cấp, các ngành, các cơ quan báo chí và người làm báo, cần quán triệt quan điểm của Đảng ta về báo chí: “Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công cuộc đổi mới. Coi trọng đúng mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng… ” 1 . Đội ngũ những người làm báo ở Quảng Nam cần quán triệt quan điểm chỉ đạo trên đây của 1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới”. Tiếp tục phát huy vai trò của báo chí trên mặt trận tư tưởng trong tình hình mới TS. Ngô VăN HùNg UVBTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tác nghiệp.

Upload: others

Post on 14-Sep-2019

13 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

Hiện nay, tỉnh Quảng Nam có 6 cơ quan báo, tạp chí là Báo Quảng Nam, Đài Phát thanh-Truyền hình Quảng Nam,

Tạp chí Đất Quảng, Tạp chí Văn hóa Quảng Nam, Tạp chí Khoa học và Sáng tạo và tạp chí Khoa học của Đại học Quảng Nam cùng hàng chục bản tin của các ngành và hệ thống truyền thanh-phát truyền hình ở các địa phương của tỉnh. Ngoài báo viết, báo nói, báo hình, trong những năm qua, loại hình báo điện tử đã nhanh chóng phát triển như Báo Quảng Nam điện tử, QRT điện tử, Cổng thông tin điện tử của tỉnh và hàng chục trang thông tin điện tử của các ngành, địa phương cũng đã đi vào hoạt động. Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn có đại diện của nhiều cơ quan, phóng viên của các báo Trung ương, các bộ, ngành Trung ương và của các địa phương khác hoạt động.

Thời gian qua, hệ thống báo chí của tỉnh ngày càng khẳng định vai trò là diễn đàn của Nhân dân, là phương tiện tích cực để thông tin, định hướng dư luận, phản biện xã hội, tham gia vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ kỷ cương pháp luật; giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường dân tộc; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo tồn và phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội; củng cố niềm tin của Nhân dân vào Ðảng, vào chế độ, cổ vũ phong trào cách mạng.

Trước yêu cầu mới của đất nước nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng là phải giữ được ổn định chính trị, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của các tầng lớp Nhân dân trong việc thực hiện các phong trào cách mạng, phấn đấu đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tiến hành

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công tác tư tưởng của Đảng đặt trọng tâm là phải phát huy tích cực vai trò của báo chí.

Trước hết, các cấp, các ngành, các cơ quan báo chí và người làm báo, cần quán triệt quan điểm của Đảng ta về báo chí: “Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công cuộc đổi mới. Coi trọng đúng mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng… ” 1.

Đội ngũ những người làm báo ở Quảng Nam cần quán triệt quan điểm chỉ đạo trên đây của

1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới”.

Tiếp tục phát huy vai trò của báo chí trên mặt trậntư tưởng trong tình hình mới

TS. Ngô VăN HùNg �UVBTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Tác nghiệp.

2 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

Đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của mình là tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm củng cố, tăng cường sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới giữ vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội. Báo chí cũng cần có chương trình, kế hoạch và nội dung cụ thể về thông tin kinh tế - xã hội, bám sát cơ sở, doanh nghiệp, cơ quan, các ngành của tỉnh để thực hiện công tác thông tin phục vụ thu hút đầu tư phát triển, hướng đến mục tiêu xây dựng và phát triển tỉnh Quảng Nam.

Báo chí phải góp phần tích cực thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng trong sạch,vững mạnh; góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Chỉ thị 03 của bộ Chính trị “Về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; phản ảnh trung thực, khách quan các phong trào cách mạng ở các ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh; kịp thời nêu gương những cá nhân, điển hình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa, xây dựng và phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, thực hiện tốt các chính sách xã hội; đồng thời, phê phán những hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; thúc đẩy thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở; góp phần nâng cao dân trí, nâng cao nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân đối với xã hội.

Báo chí phải đóng vai trò tích cực là chiếc cầu nối giữa Đảng, chính quyền với Nhân dân, là phương tiện chuyển tải thông tin nhiều chiều đến với các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, cung cấp thông tin trong và ngoài nước, định hướng dư luận xã hội nhằm tạo sự hiểu biết, đồng thuận để góp phần vào sự phát triển của tỉnh, là người bạn đồng hành cùng các doanh nghiệp, hỗ

trợ các doanh nghiệp trong thông tin kinh tế, thúc đẩy thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa, giải quyết những khó khăn về kinh tế, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh …

Các cơ quan báo chí quán triệt Kết luận Hội nghị Trung ương 10, khóa XI về Quy hoạch báo chí của nước ta đến năm 2015 chủ động tiếp tục đổi mới về tổ chức, nghiên cứu các phương án tiến đến thực hiện tự chủ về tài chính... để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động báo chí. Mỗi cán bộ, phóng viên báo chí phải không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng tác nghiệp, nâng cao tính chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của báo chí trong tình hình mới, làm cho hoạt động báo chí của tỉnh luôn luôn đảm bảo tính tư tưởng, chính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng cũng như các tiêu chí của cơ quan báo đã đề ra.

Trong điều kiện hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và truyền thông tác động đến mọi đời sống xã hội, báo chí của tỉnh phải vươn lên theo hướng hiện đại hóa nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin không những đến với đồng bào vùng sâu, vùng xa của tỉnh mà phải vươn ra quốc tế, đến với đồng bào ta ở ngoài nước và bè bạn khắp năm châu.

Các cơ quan chức năng của tỉnh cần thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với báo chí và công tác thông tin, tuyên truyền của tỉnh đảm bảo định hướng tư tưởng của Đảng, đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông tin của các tầng lớp Nhân dân.

Củng cố tổ chức và phát huy tích cực vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Quảng Nam trong công tác tập hợp, quản lý, phát triển hội viên, tổ chức cho hội viên học tập, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để nâng cao bản lĩnh chính trị, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ báo chí của tỉnh.

Các cấp ủy, chính quyền có những cơ chế phù hợp để huy động các nguồn lực và tạo điều kiện để xây dựng và phát triển hệ thống báo chí, thông tin, tuyên truyền trên địa bàn tỉnh ngày càng vững mạnh; các cấp, các ngành cần chủ động, phối hợp với báo chí trong việc cung cấp thông tin, tuyên truyền phù hợp với các định hướng của Đảng bộ, của các ngành, địa phương trong tỉnh, nhằm phát huy vai trò của báo chí trong công tác tư tưởng ở tỉnh Quảng Nam đạt hiệu quả cao nhất.

3Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

Nhà - làng - nước là những cố kết cộng đồng truyền thống của dân tộc Việt Nam, ngày nay “xây dựng Gia đình văn hoá” được xem

là nội dung cốt lõi, không những quyết định chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (TDĐKXDĐSVH) mà còn góp phần nâng cao ý thức và nghĩa vụ gia đình đối với cộng đồng và xã hội; bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống, hình thành môi trường văn hoá lành mạnh tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX xác định: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, trọng tâm là xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam và văn hóa Đất Quảng, văn hóa của từng dân tộc để làm nền tảng cho sự phát triển bền vững, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Chú trọng cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, tộc, họ văn hóa, cơ quan văn hóa...”. 5 năm qua, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa của tỉnh ta đã dần đi vào chiều sâu theo hướng phát huy các giá trị văn hóa truyền thống xây dựng con người và cộng đồng.

Thực tế cho thấy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tác động và làm thay đổi mạnh mẽ đời sống của các gia đình trong xã hội. Sự giao lưu, hội nhập trong thời kỳ mới đã mang đến cho gia đình nhiều cơ hội để phát triển kinh tế. Mức sống của người dân được cải thiện, số hộ gia đình có thu nhập cao ngày càng tăng. Chất lượng cuộc sống gia đình ngày càng được nâng cao. Tuy

nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường hình thành nên lối sống thực dụng, ích kỷ và các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội đã ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của gia đình truyền thống. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta xác định cần phải đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng gia đình; đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, xây dựng gia đình, xây dựng con người không thể tách rời với phát triển bền vững đất nước.

Từ thực tiễn nêu trên, Tỉnh ủy đã ban hành nhiều chủ trương đẩy mạnh thực hiện và nâng cao chất lượng Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên địa bàn tỉnh... Đến nay, toàn tỉnh có 321.716hộ gia đình văn hóa (tỷ lệ 84.78%); 999 thôn, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa (tỷ lệ 58.14%), 453 lượt tộc được công nhận Tộc văn hóa (tỷ lệ 17%); 1764 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá (tỷ lệ 89%). Ngày càng nhiều mô hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương đã phát huy hiệu quả và có sức lan tỏa sâu rộng đến nhiều đối tượng, tầng lớp nhân dân với nhiều nội dung phong phú, tác động tích cực đến việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, khơi dậy truyền thống yêu quê hương, đất nước. Môi trường văn hóa từng bước được cải thiện, thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư gắn với xây dựng nông thôn mới; văn hóa trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo được phát huy, đáp ứng một phần về nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân. Phong trào đã góp phần xây dựng con người Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng phát triển toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, lòng nhân ái khoan dung, năng lực sáng tạo… đây là những yếu tố cần thiết tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Gắn với xây dựng con người Quảng Nam trong tình hình mới

ĐiNH Hài �TUV, Giám đốc Sở VHTTDL Quảng Nam

4 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

Xây dựng gia đình văn hóa với 03 tiêu chuẩn xây dựng Gia đình văn hóa (Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương; Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng; Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả), các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã quan tâm chỉ đạo đạt được những kết quả đáng ghi nhận, trong đó các nội dung về xây dựng con người, xây dựng Gia đình phát triển bền vững thông qua việc thực hiện các mô hình giúp nhau phát triển kinh tế “xóa đói giảm nghèo”; gia đình và cộng đồng chấp hành chủ trương pháp luật, hôn nhân gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình... được đề cao. Cuộc vận động “5 không 3 sạch” gắn xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh được triển khai thực hiện. Xây dựng gia đình nề nếp, “ông bà, cha mẹ gương mẫu, con cháu thảo hiền”, giữ gìn các giá trị văn hóa gia đình, các mối quan hệ vợ chồng, bố mẹ, con cái, anh em tốt đẹp, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, có trách nhiệm nuôi con khoẻ, dạy con ngoan. Phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới; ứng xử trong quan hệ xóm giềng, hàng xóm, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, giúp nhau vươn lên làm giàu chính đáng. Xây dựng gia đình theo tiêu chí ít con (mỗi gia đình có từ một đến hai con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để gia đình thật sự là tổ ấm của mỗi người là tế bào lành mạnh của xã hội. Đến nay, toàn tỉnh có trên 194 câu lạc bộ “Gia đình hạnh phúc”.

Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhờ xây dựng và triển khai tốt các tiêu chí về xây dựng gia đình văn hoá, làm cho đồng bào nhận thức đúng đắn hiệu quả của phong trào, những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan được xoá bỏ; quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống. Điển hình có gia đình ông Coor Dênh, thôn Vinh xã Tà Pơ huyện Nam Giang, nhiều năm liền đạt danh hiệu gia đình văn hoá tiêu biểu xuất sắc của huyện, là những tấm gương trong việc vận động đồng bào Cơ tu xây dựng gia đình văn hoá, thôn văn hoá giữ vững nét đẹp truyền thống của dân tộc mình; gia đình ông Hồ Văn Nhun, dân tộc Bh’noong ở khối 5, thị trấn Khâm Đức huyện Phước Sơn cả 4 thế hệ đều chung sống đùm bọc, thương yêu nhau,

con cái học hành thành đạt, có việc làm ổn định, là điển hình gia đình “ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”.

Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc là mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng con người, xây dựng gia đình của Đảng ta. Đối với tỉnh Quảng Nam, sau hơn 15 năm triển khai thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hoá đã tạo chuyển biến đáng kể trong nhận thức của cộng đồng, từng bước xây dựng gia đình là nơi hội tụ những giá trị truyền thống và hiện đại phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập. Bình đẳng giới, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Thông qua phong trào, công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng ngàn gia đình thoát nghèo bền vững và vươn lên làm giàu góp phần xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc. Phong trào đã tác động tích cực góp phần phát huy tiềm năng to lớn của gia đình; giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội, tạo môi trường văn hoá lành mạnh, nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Những năm gần đây Quảng Nam có nhiều hộ gia đình mạnh dạn chuyển đổi giống cây trồng con vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh trở thành điển hình sản xuất, kinh doanh giỏi như mô hình trồng keo lai ở xã Tiên Sơn huyện Tiên Phước, nuôi bò lai ở xã Thăng Phước huyện Hiệp Đức, xã Trà Tân huyện Bắc Trà My...

Xác định xây dựng Gia đình văn hóa mà nội dung cốt lõi là hướng trọng tâm vào việc xây dựng con người Quảng Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo. Gắn kết chặt chẽ mối quan hệ giữa văn hoá gia đình, xây dựng môi trường văn hoá với vấn đề hình thành nhân cách con người. Công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hoá đất Quảng được từng gia đình, từng cá nhân hưởng ứng tích cực. Phong trào đã tác động quan trọng làm thay đổi hành vi con người một cách tự nguyện, tự giác, tự nhiên từ bên trong, bồi dưỡng cho con người những tình cảm cao đẹp, nhân văn trong sáng; xây dựng niềm tin, tình yêu và khát vọng cho con người hướng về những gì cao cả nhân văn tốt đẹp, hun đúc tâm hồn, bản lĩnh cho các thành viên gia đình vươn lên trong xã hội.

5Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

Tuy nhiên, đánh giá một cách toàn diện phong trào xây dựng gia đình văn hoá gắn với xây dựng con người ở tỉnh ta còn một số hạn chế, nhận thức về gia đình và vai trò của gia đình, gia đình văn hoá trong quá trình phát triển xã hội chưa đúng mức và chưa toàn diện. Các giá trị tốt đẹp của gia đình như: hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới... đang có biểu hiện xuống cấp, sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới, các tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập và tác động xấu vào các gia đình.Tổ chức biểu dương, tôn vinh, khen thưởng gia đình văn hóa chưa chu đáo và kịp thời.

Trong thời gian đến, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng gia đình văn hoá gắn với xây dựng con người Quảng Nam phát triển toàn diện, cần tập trung thực hiện các nội dung:

Một là, Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, trách nhiệm của các ngành, Mặt trận, hội đoàn thể trong việc tổ chức thực hiện phong trào, đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm cho phong trào thật sự thấm định văn hoá là nội dung cốt lõi của phong trào TDĐKXDĐSVH, coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; có cơ chế đầu tư đúng mức cho phong trào TDĐKXDĐSVH nói chung và xây dựng gia đình văn hoá nói riêng.

Hai là, Quán triệt sâu rộng Chương trình số 29-CTr/TU ngày 28/8/2014 của Tỉnh ủy Quảng Nam về thực hiện Nghị quyết lần thứ chín BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Ba là, Tiếp tục thực hiện Thông tư số 12/2011/

TT-BVHTTDL ngày 10/10/2011 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về việc Quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá” “Thôn văn hoá”, “Làng văn hoá”, “Ấp văn hoá” “Bản văn hoá” “Tổ dân phố văn hoá” và tương đương. Biểu dương và phát huy kịp thời các gia đình vượt khó vươn lên làm kinh tế giỏi, gia đình hiếu học, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ chung sống mẫu mực...

Bốn là, Gắn kết việc xây dựng gia đình văn hoá với phong trào xây dựng thôn - khu phố văn hoá, tộc văn hoá và các phong trào thi đua, chương trình hành động của các ngành, địa phương, hội, đoàn thể các cấp nhằm tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phong trào phát triển.

Năm là, Nâng cao ý thức tự giác, tự nguyện của các gia đình thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa. Tổ chức việc bình bầu gia đình văn hóa công khai, dân chủ từ thôn, tổ dân phố. Công nhận gia đình văn hóa đúng quy trình, trình tự thủ tục, hồ sơ, tiêu chuẩn quy định. Biểu dương, khen thưởng gia đình văn hóa thiết thực, hiệu quả, kịp thời để động viên khích lệ phong trào.

Xây dựng gia đình văn hoá gắn với xây dựng con người Quảng Nam là sự vun đắp cho những giá trị tốt đẹp đã và đang tồn tại, khơi dậy tinh thần, ý thức tự giác tham gia của người dân. Đây là một quá trình lâu dài xuất phát từ ý thức cá nhân và sự quan tâm của các ngành, hội, đoàn thể hướng đến lợi ích của từng gia đình gắn với lợi ích của cộng đồng xã hội. Sự quyết tâm đồng lòng ấy sẽ giúp cho phong trào xây dựng gia đình văn hoá ngày càng đi vào chiều sâu chất lượng nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng con người Quảng Nam phát triển toàn diện.

6 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng là vấn đề mang tính quy luật và là nhu cầu tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh

đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước yêu cầu ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng sẽ làm cho Đảng trở thành một khối thống nhất, vững mạnh, đủ sức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là sự vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác-Lênin về chính đảng vô sản vào hoàn cảnh cụ thể của một nước vốn là thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn Người khẳng định, công tác xây dựng Đảng giữ một vị trí quyết định giành mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Do vậy, Đảng phải luôn là một Đảng trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, gắn bó với Nhân dân, đủ năng lực lãnh đạo Nhân dân trong mọi tình huống, mọi thời điểm.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng rất phong phú, Người chỉ ra: Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi “trước hết, phải có đảng cách mệnh”. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”. “Chủ nghĩa” mà Người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặt khác, xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ yếu là: Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Nguyên tắc tự

phê bình và phê bình; Kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Quá trình thực hiện công tác xây dựng Đảng, Người chú trọng, quan tâm công tác xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”; tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với dân, đồng thời, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn.

Trong công tác xây dựng Đảng, người quan tâm bậc nhất là sự đoàn kết, nhất là đoàn kết trong Đảng. Tư tưởng về đoàn kết của Người bắt nguồn từ tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc; từ vai trò của Đảng trong đại đoàn kết toàn dân và

Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh...!

TrầN VăN CậN �Phó Trưởng ban trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.

7Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

các nguyên tắc xây dựng Đảng. Người cho rằng, “Đoàn kết là then chốt của thành công”, nên đã sớm lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất và Đảng Cộng sản phải là hạt nhân của đại đoàn kết trong Mặt trận để vận động các tầng lớp Nhân dân làm cách mạng. Muốn làm được việc đó, Đảng phải thực sự là “đạo đức, là văn minh”; phải đoàn kết trong Đảng, làm gương và thúc đẩy đoàn kết toàn dân. Người chỉ rõ “Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết là do sự đoàn kết trong Đảng đem lại, bởi từ đoàn kết trong Đảng dẫn tới đại đoàn kết toàn dân. Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ” mà “Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”; đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Trong Di chúc, việc đầu tiên, Người tâm huyết căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo Người, cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, phải dân chủ, phải tự phê bình, phê bình; phải cần có tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Người còn dặn dò, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của Đảng, Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư… “.

Suốt cả cuộc đời phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, quan tâm lãnh đạo, rèn luyện Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Hồ Chí Minh tự đặt mình trong tập thể, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, là một tấm gương sáng, mẫu mực của một đảng viên suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; là tấm gương luôn luôn tự rèn luyện, trau dồi phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống, tác phong của một đảng viên, giữ vững đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; lòng nhân ái bao la, trong sáng, thủy chung; lối sống giản dị, thiết thực, hòa đồng, làm chủ bản thân và luôn có khát vọng vươn tới những chuẩn mực của chân, thiện, mỹ.

Tiếp cận tư tưởng vĩ đại, tấm gương trong sáng với những hành vi cụ thể, thực tiễn của bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng

trong sạch, vững mạnh, là lớp người đi sau, từ thực tiễn, chúng ta nhận diện được rằng, ra đời được tôi luyện và trưởng thành, qua từng giai đoạn lịch sử cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có nhiều thăng trầm, khi thuận lợi, lúc khó khăn, có thời điểm như ngàn cân treo sợi tóc, thì Đảng ta biết phát huy được truyền thống đoàn kết, vượt qua khó khăn, thử thách, tập hợp sức mạnh toàn Đảng, toàn dân tộc để giành được mọi thắng lợi. Nguyên nhân chủ yếu và bài học chung của các thắng lợi là đoàn kết toàn Đảng, toàn dân.

Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những thử thách lớn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay đã trở thành “vấn đề cấp bách”, cần tập trung giải quyết. Chủ nghĩa cá nhân, vướng vào vòng danh lợi, lợi ích, ích kỷ bon chen, vụ lợi đã xảy ra mất đoàn kết. Lợi ích nhóm đang tác động lớn đến việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đang là nguy cơ của sự chia rẽ, thiếu thống nhất trong nội bộ. Yêu cầu của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc ngày càng trở nên trực tiếp và thường xuyên. Đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đang trở nên quan trọng và cấp thiết. Hơn lúc nào hết, cần thể hiện đoàn kết thực sự bằng hành động chứ không phải bằng lời nói suông. Đây cũng là giải pháp để phát huy truyền thống tốt đẹp của Đảng, nêu cao năng lực của cán bộ, đảng viên. Tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tập trung vào xây dựng chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức với những nội dung, công việc cụ thể sau đây:

Một là, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có giải pháp nâng cao trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và rèn luyện bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do thực tiễn của đơn vị, địa phương đặt ra. Đặc biệt, chú trọng năng lực hoạch định đường lối, chủ trương của đơn vị, cơ quan trên cơ sở nghiên cứu, sơ, tổng kết đường lối, chủ trương của cấp trên, nhất là trong công tác xây dựng Đảng.

Hai là, quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành. Trong đó, cần quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài. Tích cực có biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi,

8 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng để xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”.

Ba là, Duy trì và tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trước hết và trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng.

Bốn là, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng phải thường xuyên có trách nhiệm giải quyết tốt mối quan hệ với dân. Đây là một trong những bài học lớn rút ra trong quá trình lãnh đạo của Đảng, nhất là trong giai đoạn đổi mới. Thực trạng thời gian qua, sự phản ứng của Nhân dân, hoặc thậm chí có “điểm nóng” xảy ra ở một số nơi đối với chính quyền các cấp, với đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các địa phương liên tiếp xuất hiện cũng là nguyên nhân không tốt trong mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Bài học xương máu nầy không phải là mới, nhưng trong thực tế, cán bộ, đảng viên thiếu quan tâm thực hiện. Do vậy, cần nghiêm túc làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “lấy dân làm gốc”, “vì nhân dân phục vụ”.

Năm là, Năm 2015, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình để thực hiện tốt việc tổ chức đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII theo tinh thần Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị

và các quy định, hướng dẫn của Đảng. Quá trình đại hội các cấp phải gắn kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW; chú trọng phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương, coi trọng chất lượng; thật sự dân chủ, phát huy trí tuệ, thảo luận những nội dung lớn nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội các cấp; nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đồng thời, có trách nhiệm giới thiệu và chọn lựa nhân sự để bầu vào cấp ủy nhiệm kỳ mới.

Qua từng giai đoạn cách mạng, đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức, Đảng ta vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, đồng thời xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nền tảng tinh thần cho sự phát triển xã hội. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về mọi mặt, nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh; phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi những hạn chế, yếu kém; để lấy lại niềm tin trong nhân dân, xứng đáng với vai trò người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh phải được quán triệt đến từng tổ chức cơ sở đảng, từng cán bộ, đảng viên. Và khẳng định, đoàn kết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” hiện nay không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy các cấp, từ Trung ương đến cơ sở, của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, mà còn là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và là sự mong đợi của các tầng lớp Nhân dân.

9Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Những kinh nghiệmtrong triển khai thực hiện chỉ thịsố 20-ct/tw, ngày 05/11/2012của Bộ chính trị

TrầN BìNH PHươNg �

Quảng Nam là tỉnh nằm ở vị trí trung độ nước ta. Hai phần ba diện tích tự nhiên của tỉnh là rừng núi. Ngoài 80% dân số

là người Kinh, Quảng Nam còn có 04 tộc người sinh sống, đó là: người Cor, Xơ Đăng, Cơ Tu và Giẻ - Triêng định cư lâu đời ở rừng núi phía tây của tỉnh. Với địa hình phức tạp và là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em nên việc phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng đến với Nhân dân luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền coi trọng. Trong nhiều năm qua, các cấp ủy ở các địa phương Quảng Nam luôn chú trọng công tác chỉ đạo điều hành, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng để các chủ trương này thật sự đi vào đời sống của Nhân dân, trong đó, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, cấp Trung ương đã có nhiều văn bản được ban hành: năm 1991, Quốc hội đã thông qua “Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”; ngày 30-5-1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ban hành Chỉ thị số 38 - CT/TW “Về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”; ngày 30-7-1998, Thường vụ Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành thông tri “Về việc tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”; ngày 28/6/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 55-CT/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Và ngày 05/11/2012, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em”.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là thực hiện Chỉ thị 20-CT/TW, ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị, công tác chăm

sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trên địa bàn tỉnh đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, ngành chức năng và toàn dân quan tâm thực hiện, vai trò trách nhiệm của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực; xem đây là nhiệm vụ, là nội dung quan trọng được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, XIX, XX và các Nghị quyết đại hội Đảng bộ địa phương. Hằng năm, trong các Nghị quyết của cấp ủy Đảng đều đề ra các mục tiêu liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục (BV,CS&GD) trẻ em. Tiêu chí xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh và một số phong trào thi đua khác đều gắn với việc đầu tư, tập trung thực hiện các chỉ tiêu về công tác BV,CS&GD trẻ em. Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành Chương trình hành động số 22-CTr/TU của Tỉnh ủy “về thực hiện công tác DS-KHHGĐ và xây dựng gia đình trong thời kỳ CNH-HĐH”, trong đó xác định mục tiêu, chỉ tiêu về BV,CS&GD trẻ em cho những năm kế tiếp. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; quản lý, điều hành và hỗ trợ của chính quyền các cấp, nhiệm vụ triển khai thực hiện công tác BV,CS&GD trẻ em được tăng cường. Chính quyền các cấp đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các hoạt động BV,CS&GD trẻ em ở địa phương sâu sát, kịp thời hơn; UBND tỉnh đã chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt chương trình hành động Vì trẻ em ở từng giai đoạn. Đặc biệt, trong mấy năm gần đây, chính quyền các cấp đã tích cực chỉ đạo phong trào “xây dựng xã, phường phù hợp với trẻ em” rộng khắp, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho trẻ em và cộng đồng, nhất là ở những vùng khó khăn, thông qua các hoạt động như: xây dựng cơ sở hạ tầng (trường học, trạm y tế, đường giao thông, nước sạch…), hỗ trợ phát triển kinh tế gia

10 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

đình (vay vốn, đào tạo văn hoá - kỹ thuật, chuyển đổi làm kinh tế), hỗ trợ trực tiếp hoạt động học tập, vui chơi của trẻ em; các hoạt động phối hợp thực hiện các chương trình vì trẻ em giữa các ban, ngành, đoàn thể liên quan từng bước được cải thiện theo hướng ngày càng tăng cường phương thức xã hội hoá; động viên, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân cùng góp phần tham gia phong trào bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu vì trẻ em. Các ngành Y tế, Giáo dục - Đào tạo đã có sự phối hợp chặt chẽ với ngành Lao động, Thương binh và Xã hội triển khai tốt các chương trình mục tiêu vì trẻ em.

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy đảng và sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trên địa bàn tỉnh đạt được kết quả quan trọng: Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng tạo miễn dịch cơ bản đạt trên 95%; toàn tỉnh duy trì bền vững thành quả thanh toán bại liệt từ năm 2000; trên 97% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ khám, chữa bệnh miễn phí; tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi bình quân hàng năm giảm 1,9%; tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi bình quân hàng năm giảm 3,35%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi bình quân hàng năm giảm 1,9%; 100% trẻ em nghèo trong diện chính sách theo Nghị định 67/NĐ-CP của Chính phủ được hỗ trợ. Đã xây dựng trên 200 nhà tình thương, trao hơn 3.000 suất học bổng, sổ tiết kiệm và được hỗ trợ học nghề, trên 80% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, hỗ trợ; các chương trình phổ cập Tiểu học, THCS đạt kết quả tốt; huy động trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,86%; 243/244 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS đạt tỉ lệ 99,6%; 87,2% trẻ em vị thành niên được tiếp nhận truyền thông, tư vấn sức khỏe sinh sản…; Chú trọng đầu tư chăm lo đời sống văn hóa tinh thần, vui chơi giải trí cho trẻ em. Các địa bàn dân cư trên địa bàn tỉnh đều tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, nhất là vào dịp hè như: Hội thi tiếng hát Hoa phượng đỏ, Chương trình phát thanh truyền hình thiếu nhi, bóng đá thiếu nhi…; hệ thống thiết chế văn hóa thể thao như nhà văn hóa, nhà thiếu nhi, sân vận động, điểm vui chơi tại cộng đồng được đầu tư xây dựng; nhiều ấn phẩm sách, báo, tạp chí, phim ảnh... được phát hành đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để phục vụ nhân

dân, trong đó có trẻ em...; Các văn bản pháp luật liên quan đến trẻ em được triển khai đến tận cơ sở. Các cơ quan pháp luật xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc vi phạm quyền trẻ em, xâm hại và ngược đãi trẻ em…; các cấp các ngành, đoàn thể quan tâm bảo vệ, hỗ trợ đối với trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em lao động nặng nhọc, trẻ em nhiễm HIV/AIDS;…

Tuy nhiên, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trên địa bàn tỉnh còn tồn tại một số hạn chế: Nhận thức của một số cấp uỷ đảng, chính quyền, gia đình, dòng họ và người dân còn hạn chế, có phần buông lỏng quản lý, chỉ đạo đối với công tác BV,CS&GD trẻ em. Mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, đoàn thể có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, đồng bộ. Công tác tuyên truyền giáo dục các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về trẻ em tuy có nhiều cố gắng nhưng hiệu quả chưa cao; Chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp chưa cao, thiếu tính ổn định; Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn ở mức cao, không đồng đều giữa miền núi và đô thị; Trẻ em bị tai nạn thương tích xảy ra còn nhiều, trong đó, chết đuối nước tới 32% và tai nạn giao thông tới 29%; tình trạng trẻ em bỏ học vẫn còn cao, nhất là ở một số địa bàn khó khăn, miền núi cao; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, hoàn cảnh khó khăn rất đông; nhiều vụ trẻ em bị xâm hại, cưỡng hiếp xảy rất nghiêm trọng; trẻ em làm trái pháp luật còn nhiều và diễn biến phức tạp;…

Nguyên nhân của hạn chế trên là do một số cấp ủy cơ sở tổ chức học tập, quán triệt triển khai thực hiện chỉ thị 55- CT/TW chưa được nghiêm túc; một số địa phương xây dựng các văn bản chỉ đạo còn chưa sâu, chưa cụ thể, chưa bám sát vào tình hình thực tế của địa phương; Nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về tầm quan trọng của sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em còn hạn chế nên chưa thực sự quan tâm; Bộ máy làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa được củng cố kịp thời; Công tác truyền thông vận động chưa đến tất cả các ngành, các cấp; …

Có thể nói rằng, trong thời gian qua, công tác chỉ đạo điều hành, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết Trung ương về CS,BV&GD trẻ em của Tỉnh ủy Quảng Nam được thực hiện tốt, đạt được yêu cầu đề ra. Thông qua việc tổ chức

(Xem tiếp trang 16)

11Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Trên cơ sở nắm vững quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được đề ra trong Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam về công tác khoa giáo; Đảng bộ, chính quyền thành phố Hội An luôn chú trọng đến việc lãnh, chỉ đạo công tác khoa học và công nghệ, môi trường, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế và các vấn đề xã hội… gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn thành phố.

Công tác khoa giáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác tuyên giáo, vì vậy, trong nhiều năm qua, BTV Thành ủy, BCH

Đảng bộ thành phố Hội An đã chỉ đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy bám sát định hướng, sự chỉ đạo của cấp trên và phối hợp với các ngành trong khối triển khai thực hiện công tác khoa giáo đạt được những kết quả đáng kể. Giáo dục - đào tạo có bước chuyển biến tích cực, chất lượng dạy và học được nâng lên. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ được đẩy mạnh, đem lại hiệu quả thiết thực. Y tế và dân số có những tiến bộ trong các chương trình trọng điểm; tuổi thọ bình quân của người dân Hội An tăng từ 72 lên 74 tuổi và cơ cấu dân số đang nằm trong thời kỳ “dân số vàng”, cơ hội tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách an sinh xã hội được quan tâm, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của các tầng lớp Nhân dân; nhất là việc ngày càng có nhiều đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

Ngoài việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên

môn trên từng lĩnh vực, Đảng bộ thành phố còn lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng trong lĩnh vực khoa giáo gắn với triển khai học tập Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chỉ đạo ngành y tế triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn với Chỉ thị số 03/CT-BYT ngày 01/4/2013 của Bộ Y tế về việc tăng cường các giải pháp thực hiện tốt Quy tắc ứng xử, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Ngành giáo dục thành phố với cuộc vận động: “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” gắn với phong trào thi đua “ dạy tốt - học tốt”...

Từ kết quả thực tiễn cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình đạt danh hiệu văn hóa tăng từ 88,8% (năm 2005) lên 94,04% (năm 2014); tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên giảm từ 10.75% (năm 2005) xuống còn 7.01% (năm 2014). Tính đến cuối năm 2014, thu nhập bình quân đầu người đạt 27,49 triệu đồng, tăng 5,54% so với năm 2013; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và bền vững (chỉ còn 0,72%); đời sống nhân dân được cải thiện, mức sống vật chất tinh thần và thụ hưởng các dịch vụ xã hội của người dân tương đối đồng đều, ổn định.

Hơn nữa, việc tăng cường công tác phối hợp với các ngành khoa giáo tham mưu BTV Thành ủy ban hành kịp thời các chương trình hành ðộng triển khai các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng trên lĩnh vực khoa giáo phù hợp với điều kiện thực tế của thành phố đã giúp cho công tác khoa giáo bám sát kịp thời và đúng định hướng chỉ đạo của cấp trên. Một số chương trình hành động được ban hành kịp thời để lãnh, chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ môi trường (Nghị quyết 24-NQ/TW), bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (Nghị quyết số 21-NQ/TW), thể

Một số kinh nghiệm TRONG VIỆC THAM MƯU, PHỐI HỢP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÔNG TÁC KHOA GIÁO Ở HỘI AN

Hồ THị XuâN SaNH �Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hội An

12 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

dục thể thao (Nghị quyết số 08-NQ/TW), vấn đề an toàn thực phẩm (Chỉ thị số 08-CT/TW), chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em (20-CTr/TU), giáo dục và đào tạo (Nghị quyết 26-CTr/TU)… Trên cơ sở đó, các đơn vị, địa phương cụ thể hóa chương trình, đưa công tác khoa giáo gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị mình.

Ngoài ra, BTV Thành ủy đã ban hành kịp thời các Chỉ thị, Thông tri để tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc thực hiện hiệu quả công tác khoa giáo, như: Thông tri số 08-TT/TU, ngày 22/2/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với Hội KHHGĐ và công tác DS-KHHGĐ; Chỉ thị 15-CT/TU, ngày 22/4/2013 về tăng cường lãnh đạo chỉ đạo công tác Dân số - KHHGĐ… Đặc biệt, công tác bảo vệ môi trường được thành phố quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, đồng bộ bằng nhiều giải pháp cụ thể gắn với phát động thực hiện các cuộc vận động, phong trào nhằm xây dựng Hội An trở thành thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch, cơ bản trở thành một trong những đô thị sạch của quốc gia vào năm 2015: “Giảm thiểu sử dụng túi nylon”, “Một giờ vì Hội An xanh-sạch-đẹp”, “Đi xe đạp bảo vệ môi trường”...; bên cạnh đó, đã ban hành kịp thời các văn bản để lãnh, chỉ đạo cấp ủy Đảng, Chính quyền và địa phương, ban ngành, Hội, đoàn thể phối hợp thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, như: Chỉ thị số 19-CT/TU, 19/3/2014 về việc tăng cường công tác vệ sinh môi trường trên địa bàn thành phố, Chỉ thị 37-CT/TV, ngày 17/6/2009 về “tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân nâng cao ý thức và giảm thiểu sử dụng túi nilông nhằm góp phần bảo vệ môi trường”…

Phối hợp với các ngành trong khối khoa giáo tổ chức kiểm tra, giám sát, khảo sát, báo cáo kết quả thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, thông báo, kết luận của Trung ương, của cấp ủy cấp trên về công tác khoa giáo. Tham mưu đánh giá sơ kết, tổng kết kịp thời các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng; phát hiện và biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân điển hình trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, môi trường, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế và các vấn đề xã hội khác. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ hoạt động ở lĩnh vực khoa giáo. Kịp thời đề xuất phân bổ nguồn kinh phí để thực hiện các chương trình, kế hoạch của công tác khoa giáo.

Những kết quả đạt được trong việc lãnh, chỉ đạo từng nhiệm vụ trên lĩnh vực khoa giáo đã giúp

cho Đảng bộ Hội An đúc kết những bài học kinh nghiệm về nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng đối với công tác khoa giáo nói riêng, các nhiệm vụ xây dựng và phát triển Thành phố nói chung.

Trong từng lĩnh vực, trước hết cần đảm bảo và phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong các tổ chức, đơn vị thuộc các lĩnh vực khoa giáo. Cần có sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp; gắn công tác khoa giáo với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Phải duy trì và tổ chức giao ban khoa giáo định kỳ với các ngành trong khối để tiếp nhận kịp thời kết quả trên từng lĩnh vực, nhất là việc nắm bắt tình hình tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong khối và những vấn đề nổi cộm, vướng mắc mới phát sinh để tham mưu BTV Thành ủy chỉ đạo kịp thời. Thông qua giao ban, chỉ đạo ban tuyên giáo xã, phường và các ngành gắn công tác khoa giáo với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương, đơn vị mình; đồng thời, lấy tiêu chí ở lĩnh vực môi trường, dân số-kế hoạch hóa gia đình… làm tiêu chí quan trọng để bình xét các danh hiệu thi đua hằng năm, nhất là danh hiệu gia đình văn hóa, thôn/khối phố văn hóa, tộc họ văn hóa gắn với thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” và “Khu dân cư hài hòa xóa đói giảm nghèo gắn với bảo vệ môi trường”, để bình xét tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, tập thể lao động xuất sắc, cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa, đoàn thể vững mạnh...

Có thể nói, những kinh nghiệm trong việc tham mưu, phối hợp triển khai thực hiện công tác khoa giáo trong thời gian qua đã mang lại những kết quả đáng kể, góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của thành phố. Năm 2015 là năm cuối triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội đảng bộ thành phố lần thứ XVI, là năm tổ chức đại hội đảng bộ, chi bộ cơ sở tiến đến đại hội đại biểu đảng bộ thành phố lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2015-2020). Vì vậy, việc tập trung triển khai những nhiệm vụ trọng tâm năm 2015 trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, môi trường, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế và các vấn đề xã hội khác có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội đảng bộ thành phố lần thứ XVI; đồng thời, tạo cơ sở đề ra chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thành phố giai đoạn 2015-2020.

13Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh là một nhà báo vĩ đại. Người không chỉ thể hiện rõ tài năng viết báo mà còn để lại những dấu ấn khó quên về khả năng tuyệt vời và tư duy sắc sảo trong công tác tổ chức, điều hành hoạt động của những tờ báo cách mạng, mà Người cùng khổ là một minh chứng sinh động.

Ngày 19/1/1922, Nguyễn Ái Quốc và Ban Thường vụ Hội Liên hiệp thuộc địa họp tại quán cà phê “Hợp tác” mang biển số

nhà 28, phố Aragô, Pari (Pháp) quyết định thành lập Hội hợp tác Lơparia nhằm mục đích xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria). Mặc dù có những khó khăn nhất định, nhất là về tài chính, song nhờ chuẩn bị hết sức khẩn trương của Nguyễn Ái Quốc và các cộng sự nên đúng ngày 01/4/1922, số đầu tiên của Người cùng khổ ra mắt bạn đọc. Trong lời chào, báo khẳng định: “Trong lịch sử của nhân dân bản xứ các thuộc địa Pháp chưa có một tờ báo nào lập ra để kêu to sự thống khổ và sự nghèo nàn chung của họ, không phân biệt xứ sở và chủng tộc. Báo Người cùng khổ ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Mađagatxca, Đông Dương, Ăti và Guyan… Báo Người cùng khổ là vũ khí để chiến dấu, sứ mạng của nó đã rõ ràng: giải phóng con người”.

“Vạn sự khởi đầu nan”, là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc có vai trò và trách nhiệm hết sức quan trọng.

Trước hết, đối với khâu phát hành, hàng tuần khi báo in xong, Nguyễn Ái Quốc phải trực tiếp ngồi viết tay lên băng báo địa chỉ người nhận rồi tự anh đem ra bưu điện gửi hoặc đem đi phát hành. Anh bán báo trong bà con Việt kiều, kể cả trong

số công nhân Việt Nam đang làm việc tại Pháp. Anh còn nhờ các quầy bán báo bán hộ (không lấy tiền ”hoa hồng”). Nguyễn Ái Quốc ưu tiên phát hành báo đến các xứ thuộc địa để thức tỉnh ý thức đấu tranh giải phóng dân tộc, bằng nhiều cách: nhờ anh em thuỷ thủ Pháp lập ra hệ thống bí mật chuyển báo về thuộc địa, thậm chí dùng đồng hồ quả lắc cũ, tháo máy ở trong ra, bỏ báo Người cùng khổ vào để chuyển đi. Có lúc, anh Nguyễn đem báo đến bán ở các cuộc mitting đông người dự, phát không cho mọi người rồi lên diễn đàn kêu gọi: “Báo này kể cho các bạn biết bọn thực dân áp bức chúng tôi như thế nào. Báo này để biếu bạn.

Nhà báo Nguyễn Ái Quốc phát hành báo Người cùng khổ.

HỒ CHÍ MINHBản lĩnh và tài năng của một nhà báo cách mạng!

VâN TrìNH �

14 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

Nhưng bạn nào có lòng tốt giúp báo một xu, một quan cũng được, thì chúng tôi xin cảm ơn”.

Cũng xin được nhắc lại rằng, không giống như ở những tờ báo khác ở Pháp, báo Người cùng khổ hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn vì phải đối phó trực diện với sức ép của bọn thực dân ngay tại sào huyệt của chúng.(Tên tướng Vây-găng, chỉ huy lính Pháp ở Bắc Phi đề nghị Chính phủ phải xoá bỏ việc tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản ở thuộc địa từ gốc của nó là toà soạn báo Người cùng khổ). Mặt khác, để duy trì một tờ báo giữa thủ đô Pari cũng không phải là dễ dàng: Tiền vốn không có, giá cả ngày một đắt đỏ. Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí phải lo chạy từng số báo, vừa ra số báo trước thì phải quyên góp tiền để ra số báo sau. Nguyễn Ái Quốc luôn động viên anh em trong toà soạn “hãy dũng cảm, có nghị lực” và xác định rõ quyết tâm: “Chúng ta phải, bằng bất cứ giá nào, làm cho tờ báo sống. Nó mất đi sẽ là một thiệt hại to lớn đối với tổ chức của chúng ta và nhất là đối với công tác tuyên truyền lúc này cần thiết hơn lúc nào hết của giai cấp vô sản thế giới đứng lên chống lại giai cấp tư sản bóc lột”. Bản thân anh Nguyễn thể hiện nhiều nghĩa cử cao đẹp, có tác dụng nêu gương tốt cho mọi người. Mặc dù đời sống rất kham khổ, anh vẫn tự nguyện ủng hộ báo Người cùng khổ đều đặn mỗi tháng 25 Phrăng. Và, ngày 14/3/1923, Nguyễn Ái Quốc dọn từ nhà số 9, ngõ Công-poanh đến ở căn buồng trong nhà số 3, phố Macxê đê patơriácsơ- nơi đặt trụ sở của báo- không ngoài mục đích: lấy số tiền thuê nhà hằng tháng nộp vào quỹ công, giúp cơ quan báo khắc phục khó khăn về tài chính. Anh Nguyễn còn vui vẻ nhận việc trình bày báo, đưa báo đi nhà in, sửa bài, chuyển báo từ nhà in về toà báo... để các đồng chí khác có thì giờ lo việc gia đình.

Vừa nỗ lực đảm bảo cho tờ báo tồn tại, Nguyễn Ái Quốc vừa chú trọng nâng cao tính chiến đấu của báo Người cùng khổ nhằm gieo hạt giống Cách mạng khắp bốn phương và bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa không chỉ của nhân dân Việt Nam mà cả nhân dân các nước thuộc địa. Giữa lúc bọn đế quốc và giai cấp tư sản thi nhau đả kích, vu cáo, xuyên tạc Quốc tế Cộng sản, báo Người cùng khổ lên tiếng bênh vực, ca ngợi Quốc tế Cộng sản: “Quốc tế Cộng sản đấu tranh không ngừng chống sự tham tàn của bọn tư sản ở tất cả mọi nước trên thế giới.Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố công khai ủng hộ

và tham gia cuộc đấu tranh đó, và trung thành với mục tiêu đề ra, tiếp tục tăng cường sự ủng hộ đó”. Đồng thời, báo kêu gọi: “Hỡi anh em lao khổ! Hãy đoàn kết lại! xiết chặt hàng ngũ của chúng ta chung quanh lá cờ Quốc tế Cộng sản, lá cờ này là lá cờ duy nhất để giải phóng những người bị áp bức...”.

Trong các bài viết trên báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc thường đưa ra những sự việc cụ thể, so sánh và phân tích có sự thuyết phục, định rõ thái độ của mình một cách dứt khoát, rút ra những bài học và kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân. Anh Nguyễn còn là hoạ sĩ chính của báo Người cùng khổ, tác giả của rất nhiều tranh châm biếm bọn thực dân, in ở trang nhất với những nét vẽ giản dị, phóng khoáng mà dí dỏm, trào lộng: Thằng Tây bụng phệ ngồi trên xe lăn vênh mặt quát người kéo xe chạy nhanh; dân thuộc địa kiệu Tây thực dân trên vai; lính Tây quất roi người bản xứ..., để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Ngày 20/6/1923, trong phiên họp Ban Biên tập báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc báo cáo xin phép nghỉ việc một thời gian để đi dưỡng bệnh ở một nơi xa Paris và giao lại công việc cho đồng nghiệp. Thực ra, lúc này Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản với danh nghĩa là “đại biểu các dân tộc thuộc địa”. Và, giữa lúc toàn bộ mạng lưới mật thám Pháp ráo riết truy lùng “Nguyễn Ái Quốc, người Cách mạng An Nam có chân trong các tổ chức Cộng sản, chủ bút báo Người cùng khổ” thì ngày 30/6/1923, Người đã đặt chân an toàn lên đất nước Lê - nin vĩ đại! Từ đây mở ra một chặng đường đấu tranh mới của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Tranh châm biếm của Nguyễn Ái Quốc trên báo Người cùng khổ.

15Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

Giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã trãi qua một cuộc cách tân lớn, làm thay đổi cả phạm trù và thể loại văn học. Những biến động của lịch sử trong giai đoạn này gắn liền với sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như tiểu thuyết, thơ trữ tình, phóng sự, tùy bút… Trong đó sự xuất hiện của báo chí là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với những thay đổi của văn học Việt Nam. Trong thời kỳ này, báo chí không chỉ là phương tiện thông tin đại chúng mà còn là kiểu văn chương mới mẻ, độc đáo mang tính chất đặc thù thời đại. So với báo chí thế giới, báo chí Việt Nam xuất hiện khá muộn nhưng lại có vai trò quan trọng, cùng với chữ Quốc ngữ đã tạo nên một sức mạnh cộng hưởng đưa văn học Việt Nam phát triển theo gia tốc lịch sử.

Tờ Gia Định báo là tờ báo đầu tiên ra đời tại Nam Kỳ, phát hành chính thức vào ngày 15/4/1865 đánh dấu sự khởi đầu của báo

chí Việt Nam. Sau Gia Định báo còn có Phan Yên báo (1898), Nhật trình Nam Kỳ (1883), Nam Kỳ địa phận (1883), Nhật tỉnh báo (1905), Nông cổ mín đàm (1901), Lục tỉnh tân văn (1907); những tờ báo này đã góp phần quan trọng trong việc hình thành diện mạo báo chí Việt Nam cuối thế kỷ

XIX và đầu thế kỷ XX. Thực ra trước đó, thực dân Pháp đã cho xuất bản một số tờ báo bằng tiếng Pháp và tiếng Hán, nhưng nhìn chung những tờ báo này và kể cả những tờ báo Quốc ngữ lúc bây giờ chỉ mang tính chất công báo, chưa có tính văn học. Theo các nhà nghiên cứu, nói đến văn học thời kỳ này cũng chính là nói đến sự phát triển của báo chí. Khi nhà xuất bản chưa ra đời, báo chí trở thành một phương tiện duy nhất để truyền bá tác phẩm. Nhìn lại giai đoạn văn học này, chúng ta thấy hầu như tác giả nào cũng có sự nghiệp gắn liền với một tờ báo; Trương Vĩnh Ký(Gia Định báo, Thông loại khóa trình), Trần Chánh Chiếu (Mông cổ mín đàm; Lục tỉnh tân văn), Nguyễn Chánh Sắt (Nông cổ văn đàm), Trương Duy Toản (Lục tỉnh tân văn).v.v… Nhiều tác phẩm văn học ra đời trong thời kỳ này như truyện “thầy Lazarô phiền” của Nguyễn Trọng Quản, “Hoàng Tố Anh hàm oan” của Trần Chánh Chiếu.v.v… đều được đăng tải trên báo trước khi in.

Từ những biến động của xã hội và văn học, dần dần viết văn, làm báo trở thành một nghề có thể kiếm sống được. Bên cạnh đó, theo chân thực dân Pháp, những tầng lớp mới trong xã hội xuất hiện như nhà tư sản, thầy thông, thầy ký, me tây, học trò trường hậu bổ… Sự xuất hiện của họ cùng với cuộc sống thành thị sôi động đã tác động đến cách sống và nhu cầu giải trí. Trong cuốn Công chúng Nam Bộ với thể loại tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX xuất bản năm 1993 nhà nghiên cứu Tôn Thất

XuâN LộC �

Vai trò của báo chítrong quá trình phát triển của ngôn ngữ và văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

16 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

Dụng viết: “…ở đây người công chức sau 8 giờ làm việc ở công sở về nhà rồi chậm rãi cầm đọc báo, đọc tiểu thuyết, đi xem hát, những nhà kinh doanh cần biết tin tức, cần tiêu khiển, những cô gái ngồi trong cửa hàng, những cậu bồi, những anh lái xe ngồi chờ chủ, những cô sen ngồi chờ lấy nước bên giếng máy cần xem truyện…”. Vì vậy, báo chí ra đời đã đáp ứng được những nhu cầu mới nảy sinh và góp phần quan trọng vào việc hình thành một lực lượng đông đảo tác giả và bạn đọc kiểu mới. Với nhiệm vụ truyền đạt thông tin nhanh chóng, chính xác, báo chí trong giai đoạn này không chỉ cung cấp thông tin mà còn tạo ra sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, thu hẹp không gian để các nhà văn trên thế giới đến được với bạn đọc Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tập hợp quanh mình một lực lượng độc giả rất nhiệt tâm và hào phóng chính họ là động lực quan trọng, nuôi dưỡng các nhà văn trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Sự phát triển mạnh của báo chí và sự xuất hiện của các thư quán, nhà xuất bản sau này, tác phẩm văn học trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, số nhà văn sống bằng ngoài bút ngày càng tăng.

Văn học là hệ thống ngôn từ, vì vậy khi nói đến sự đổi mới của văn học phải xét đến sự đổi mới của ngôn ngữ. Trong giai đoạn này nhờ có báo chí mà câu văn xuôi quốc ngữ được chuẩn hóa và phát triển theo hướng hiện đại. Từ Gia Định báo đến Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí … câu văn xuôi quốc ngữ ngày càng cách xa với câu văn biền ngẫu tiến gần đến lối hành văn sáng sủa, logich của cách viết văn Pháp. Trong quá trình dịch thuật, các nhà báo, nhà văn đã lấy một số tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt nhờ công lao, tâm huyết của những cây bút nổi tiếng như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của.v.v… chữ quốc ngữ đã phát triển nhanh chóng, vượt xa sự cố gắng của ba bốn thế hệ cộng lại.Trong cuốn giáo khoa bằng tiếng Pháp, Trương Vĩnh Ký đã viết những dòng rất lạc quan “Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì sự lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện… ” Lịch sử và cuộc sống của những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đầy ắp những sự kiện, khi đi vào báo chí đã làm cho câu văn trở nên phóng túng, tạo ra một ngôn ngữ

văn học sinh động, tươi mới. Câu văn xuôi quốc ngữ thời kỳ phôi thai ở Nam Kỳ theo “Cách nói An Nam ròng”, “trơn tuột” và dễ hiểu như khẩu ngữ tự nhiên, nhưng càng về sau càng được nâng cao theo phong cách ngôn ngữ văn chương. Nói như nhà nghiên cứu Bằng Giang trong cuốn Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ (1865 - 1930): “Bây giờ một nhà văn viết tiểu thuyết không phải chỉ nghĩ đến độc giả của một vùng, một địa phương. Một nhà báo viết cho mọt tờ báo địa phương cũng vẫn nằm ở trong giao lưu văn hóa nhiều chiều trên đất nước”. Vì vậy, câu văn quốc ngữ đã đi theo hướng thống nhất, không còn sự phân biệt từ phong cách khẩu ngữ tự nhiên đến phong cách ngôn ngữ văn chương. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong giai đoạn này các nhà báo, nhà văn đã coi vấn đề xây dựng câu văn quốc ngữ, đổi mới nền văn học dân tộc là mục tiêu quan trọng để hướng đến. Họ thể hiện tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.

Khi nghiên cứu về giai đoạn văn học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, không ai có thể phủ nhận vai trò của báo chí. Bởi báo chí đã có công đầu, là một trong những động lực tác động trực tiếp đến quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.

quán triệt học tập, tuyên truyền Chỉ thị, các cấp ủy đảng, chính quyền phát huy tinh thần trách nhiệm, tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động đối với công tác BV,CS&GD trẻ em tại địa phương, xem đây là nội dung quan trọng trong chương trình hoạt động của cấp mình và là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, địa phương; các tầng lớp nhân dân ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò, vị trí quan trọng của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, qua đó đã nâng cao trách nhiệm giáo dục, rèn luyện thường xuyên ở gia đình, nhà trường, đồng thời, hướng dẫn giúp đỡ trẻ em thông qua các phong trào nhân các dịp Tết Nguyên đán, Tết Trung thu, Tháng hành động Vì trẻ em, Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, vận động con em ra lớp, tiêm chủng mở rộng... góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.

(Tiếp theo trang 10)Những kinh nghiệm...

17Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

công đoàn Quảng Namđẩy mạnh xây dựng các thiết chế văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động

CôNg Huy �Ban Tuyên giáo LĐLĐ tỉnh

Quy hoạch chi tiết quần thể các thiết chế văn hóa Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc.

Hiện nay, Quảng Nam có 19 khu và cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động, đóng góp tích cực vào quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hầu hết, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất kinh doanh tập trung vào các ngành chế biến gỗ, may mặc, gạch, cơ khí, sản xuất lắp ráp ôtô. Có 219 CĐCS ở khu vực doanh nghiệp với gần 43.000 đoàn viên; riêng Công đoàn các Khu công nghiệp tỉnh đang quản lý 47 CĐCS với tổng số hơn 30.000 CNLĐ, trong đó có khoảng 20.000 đoàn viên.

Từ khi Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ra đời, công tác xây dựng đời sống văn hóa công nhân ở các khu, cụm công nghiệp, bước đầu được các địa phương, đơn vị và doanh nghiệp quan tâm thực hiện.

Đến nay, trong các khu, cụm công nghiệp và doanh nghiệp của tỉnh đã có 21 sân bóng đá, 30 sân cầu lông, 16 sân tennis, 01 nhà thi đấu thể thao cấp tỉnh, 11 Nhà văn hóa cấp huyện và 50 đội văn nghệ quần chúng của công nhân, hàng trăm CLB theo sở thích… tuy nhiên vẫn còn thiếu so với nhu cầu chung, chưa đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ, sinh hoạt văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động. Qua công tác khảo sát và theo số liệu báo cáo của LĐLĐ các huyện, thị xã, thành phố và LĐLĐ tỉnh cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao cho công nhân ở các khu công nghiệp chưa cao, chỉ có khoản 60% doanh nghiệp tổ chức các cuộc giao lưu, liên hoan nghệ thuật, hội diễn văn nghệ; trên 60% doanh nghiệp tổ chức luyện tập, thi đấu thể thao; trên 50% doanh nghiệp tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; gần 30% doanh nghiệp tổ chức tham quan du lịch, học hỏi kinh nghiệm. Nguyên nhân chính là do chính sách và

cơ chế thu hút đầu tư cho khu, cụm công nghiệp chưa đầy đủ, hầu hết các khu công nghiệp chưa có quy hoạch về xây dựng nhà ở tập trung, cơ sở hạ tầng xã hội và các thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ công nhân lao động chưa được đầu tư xây dựng. Các hoạt động văn hóa, thể thao do các cấp Công đoàn và doanh nghiệp chưa đầu tư, chưa tổ chức đa dạng, thường xuyên.

Từ thực tiễn tình hình trên, tổ chức Công đoàn toàn tỉnh đã đề cao vai trò của mình trong việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho đoàn viên, CNLĐ, đặc biệt là ở các khu, cụm công nghiệp. Được sự quan tâm hỗ trợ của Quỹ Tấm lòng vàng Lao động, LĐLĐ tỉnh đã tiến hành xây dựng Nhà trẻ tại Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, với tổng giá trị 1,2 tỷ đồng (trong đó Quỹ TLV Lao động hỗ trợ là 700 triệu đồng, vốn tích lũy của LĐLĐ tỉnh Quảng Nam là 500 triệu đồng). Đây là công trình được thiết kế, xây dựng theo hướng hiện đại, đáp ứng nhu cầu nuôi, dạy con trẻ cho CNLĐ tại khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, giúp người lao động yên tâm sản xuất, tăng năng suất lao động.

(Xem tiếp trang 22)

18 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

Năm 2015 là năm kết thúc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Đông Giang lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2010 - 2015). Dưới

sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân huyện nhà thu được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa thiết thực về mọi mặt: Kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh, an ninh - chính trị ổn định, đời sống - văn hóa Cơ tu không ngừng được cải thiện nâng cao; bộ mặt nông thôn mới đang từng ngày khởi sắc rõ rệt; nhân dân phấn chấn, tin tưởng và hưởng ứng sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Về công tác giáo dục lý luận chính trị tại Trung trung tâm bồi dưỡng chính trị (BDCT) huyện Đông Giang. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XVII đã vạch ra hướng đi đúng đắn, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của địa phương; đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn Huyện. Kết quả công tác bồi dưỡng, đào tạo lý luận chính trị giai đoạn 2010 – 2015 đạt được những kết quả cơ bản. Số lượng đảng viên mới được bồi dưỡng từ năm 2010 - 2015 là 662 người, vượt chỉ tiêu 162 người so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2010 – 2015) đề ra (Nghị quyết Đại hội đề ra là phát triển 500 đảng viên) và chiếm trên 64% trong tổng số 1030 người được cử đi học lớp đối tượng kết nạp đảng. Lớp sơ cấp lý luận chính trị trong những năm trở lại đây tuy số lượng người tham gia học tập có xu hướng giảm dần nhưng vẫn được duy trì đều đặn hằng năm.

Về nội dung và chương trình giảng dạy không ngừng được đổi mới, thực hiện đúng theo quy định của Ban Tuyên giáo Trung ương, đáp ứng yêu cầu tình hình hiện nay. Các chương trình báo cáo chuyên đề như thời sự, tình hình biển Đông,

giáo dục pháp luật, triển khai chuyên đề về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nghị quyết Đại hội Đảng, nông thôn mới…được tăng thời lượng và lồng ghép vào các chương trình giảng dạy chính khóa. Phương pháp giảng dạy được cải tiến, công nghệ thông tin được ứng dụng vào trong giảng đường, các hình thức học tập theo nhóm, tổ, seminar, đối thoại trực tiếp giữa giảng viên và học viên; các loại hình kiểm tra, thi cử được đổi mới.

Mối quan hệ giữa cán bộ, giáo viên và học viên gần gũi, thân thiết tạo nên môi trường học tập lành mạnh, thân thiện thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Các chế độ, chính sách cho học viên ngoài biên chế được giải quyết nhanh, kịp thời và đúng theo quy định. Đối với những học viên xa nhà, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Trung tâm BDCT cung cấp chăn, màn, tạo điều kiện về nơi ăn ở, học tập cho học viên ở ký túc xá.

Kết quả chất lượng đào tạo, bồi dưỡng kết thúc khóa học đều đạt kết quả tốt; 100% cán bộ, đảng viên đã trải qua các chương trình bồi dưỡng, đào tạo đều có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường chính trị vững vàng, thực hiện tốt các chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Qua đào tạo, học viên phát huy được tính tư duy độc lập, làm việc khoa học, vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức đã học vào trong thực tiễn công việc, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển.

Ngoài các lớp chính khóa nói trên, các chương trình đào tạo dưới hình thức liên kết, phối hợp với các trường đại học trong và ngoài tỉnh được mở rộng. Năm 2012 Trung tâm BDCT huyện Đông Giang phối hợp với Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam mở lớp Trung cấp lý luận chính trị - Hành

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ XVII (NHIỆM KỲ 2010 – 2015)

Trên lĩnh vực giáo dục lý luận chính trịaVô Tô Com �

Chuyên viên Trung BDCT huyện Đông Giang

19Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

chính K58 tại huyện cho 115 học viên. Năm 2014 phối hợp với Trường đại học Kinh tế Huế khai giảng lớp đại học tại chức K47-KTNN&PTNT (khóa 2013 – 2018) với tổng số 87 sinh viên tham gia học tập là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các địa phương.

Hằng năm phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Huyện ủy mở các đợt bồi dưỡng chính trị hè cho cán bộ, giáo viên ngành Giáo dục và Đào tạo; các lớp học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp; chuyên đề học tập và làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh. Phối phợp với cơ quan Quân sự Huyện mở các đợt bồi dưỡng kiến thức an ninh - quốc phòng cho đối tượng 4; phối hợp với các Đảng ủy xã, thị trấn mở các lớp báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở, góp phần tích cực xây dựng vững mạnh công tác Đảng ở cơ sở. Tham gia tích cực vào thành viên Hội đồng phối hợp giáo dục pháp luật Huyện.

Phải khẳng định rằng, Trung tâm BDCT huyện Đông Giang đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2010 – 2015) đề ra về công tác bồi dưỡng, đào tạo. Song quá trình triển khai thực hiện còn nhiều khuyết điểm, hạn chế nhất định. Để tiếp tục thực hiện tốt công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời gian đến, Trung tâm BDCT huyện Đông Giang cần giải quyết tốt một số vấn đề sau đây:

Một là, củng cố xây dựng thêm cơ sở, vật chất. Trong đó cần tập trung đề xuất kiến nghị xây dựng một số công trình cơ bản như thư viện sách, phòng học tập, nhà nấu ăn cho học viên, nhà ở cho cán bộ giảng viên. Tiến hành bê tông hóa sân bãi để khắc phục tình trạng cỏ cây mọc lu bu, bùn lầy vào mùa mưa, xây dựng nhà để xe, tường rào bảo vệ. Đặc biệt là bảng hiệu, cổng ngõ ra vào, cải tạo khuôn viên, mỹ quan trường học. Đối với UBND huyện Đông Giang cần xem xét lại dự án đã bị “treo” từ năm 2013 về xây dựng công trình cho Trung tâm bồi dưỡng chính trị Huyện.

Trung tâm bồi dưỡng chính trị là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo không chỉ ở cấp cơ sở mà còn cán bộ cấp Huyện. Việc xây dựng các điều kiện cơ sở, vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập là điều rất cần thiết. Trang bị vật chất chính là cải thiện môi trường học tập tốt, trách nhiệm đó không chỉ là của những người làm công tác tại Trung tâm BDCT mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội.

Hai là, bố trí thêm 1 cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ chuyên môn cao. Trung tâm BDCT huyện Đông Giang là một thực thể “không hoàn chỉnh”, đây là đặc điểm cá biệt so với các Trung tâm BDCT huyện trong địa bàn tỉnh, có Giám đốc nhưng lại không có phó Giám đốc. Mọi hoạt động từ A – Z đều do 1 ông Giám đốc gánh. Thực trạng này tồn tại đã hơn 10 năm nay và gây nhiều khó khăn trong công tác lãnh đạo, điều hành đơn vị, nhất là khi Giám đốc đi vắng (do công tác hoặc ốm đau).

Ba là, xây dựng đội ngũ báo cáo viên chuyên nghiệp, gắn công tác giảng dạy với công tác nghiên cứu khoa học (ý này thống nhất với đồng chí Trần Văn Cận – Phó trưởng Ban trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Bản tin Tuyên giáo số 12/2014). Tổng số giảng viên lý luận chính trị (LLCT) của Trung tâm BDCT huyện Đông Giang hiện nay là 3 người, trong đó 2 người là cán bộ quản lý (Giám đốc và Trưởng Ban Tuyên giáo).

Với số lượng báo cáo viên còn mỏng (chỉ có 3 người), chiếm hơn 66.7 % giảng viên là cán bộ quản lý kiêm nhiệm, không có giảng viên chuyên trách. Do vậy, nhiệm vụ trước mắt của Trung tâm BDCT huyện Đông Giang là cần phải giải quyết thực trạng thiếu giảng viên LLCT, bố trí cán bộ phụ trách công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ giảng viên chuyên trách, đặc biệt là giảng viên chuyên nghiệp có chuyên môn cao.

Đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp phải có trình độ chuyên môn sâu, kỹ năng truyền thụ tốt, có tác phong làm việc bài bản, khoa học. Trong hoạt động chuyên môn, giảng viên chuyên nghiệp phải gắn chặt mối quan hệ giữa nhiệm vụ giảng dạy trên lớp với nghiên cứu khoa học thực địa, tích cực học tập, không để kiến thức bị tụt hậu.

Bốn là, giải quyết tốt các chế độ, chính sách dành cho những người làm công tác giáo dục lý luận chính trị. Đặc điểm của Trung tâm BDCT ở các huyện miền núi là số lượng mở lớp đào tạo, bồi dưỡng hằng năm ít, đơn vị không có nguồn thu nhập khác. Cán bộ và giảng viên vừa mang hai chức danh: Vừa “công chức”, vừa “viên chức”, không được hưởng phụ cấp công vụ 25% (vì công chức làm việc ở cơ quan sự nghiệp) và phụ cấp ưu đãi 30% theo quyết định số 244/2005/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ (vì không phải là giảng viên chuyên trách); các chế độ như tham quan, bồi dưỡng nghiệp vụ, tham gia hội nghị, học

20 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

tập nghiên cứu khoa học cũng không có. Đây là những thiệt thòi lớn cho những người làm công tác giáo dục lý luận chính trị tại Trung tâm BDCT nói chung.

Việc giải quyết tốt các chế độ, chính sách ưu đãi cho cán bộ và giảng viên LLCT không những giúp họ cải thiện được đời sống, mà đây còn là nguồn động viên lớn, khích lệ tinh thần học tập, phấn đấu vươn lên trong cuộc sống và công tác.

Năm là, UBND huyện Đông Giang phải bảo đảm nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng đúng theo Quyết định số 185-QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X). Theo hướng dẫn công tác giáo dục lý luận chính trị của Ban Tuyên giáo Trung ương thì mỗi năm tổng cộng là 20 lớp bồi dưỡng, đào tạo (lớp chính trị cơ bản 3, chuyên đề 6, nghiệp vụ 5, nghiệp vụ công tác đoàn thể 6). Trong khi bình quân mỗi năm Trung tâm BDCT huyện Đông Giang chỉ triển khai được 3 lớp chính trị cơ bản, các lớp bồi dưỡng còn lại thì không thực hiện được, vì không đủ kinh phí.

Do vậy, để thực hiện tốt công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời gian đến, UBND huyện và Phòng Tài chính- Kế hoạch phải bảo đảm nguồn kinh phí hoạt động cho Trung tâm BDCT. Kinh phí

đào tạo, bồi dưỡng phải đúng và đủ theo dự toán kế hoạch mở lớp đã được Ban Thường vụ Huyện ủy xét duyệt.

Sáu là, lựa chọn đúng đối tượng học tập (học viên), các Tổ chức cơ sở Đảng (Chi bộ, Đảng bộ) và Đoàn phải đặc biệt quan tâm. Học viên là chủ thể của lớp học, tác động trực tiếp đến quá trình giảng dạy, còn giảng viên chỉ là người trực tiếp hướng dẫn nội dung bài học trên lớp. Lớp học sẽ mang lại kết quả cao nhất, nếu chủ thể biết cách làm chủ lớp học, có ý thức tự giác học tập, nghiên cứu, có tinh thần xây dựng, tự giác cai quản lớp. Do vậy việc tuyển chọn đối tượng tham gia học tập phải đúng, tránh tình trạng chọn những người “vô học”, lười biếng, bướng bỉnh làm ảnh hưởng đến tập thể lớp.

Tổ chức cơ sở Đảng và Đoàn là đơn vị trực tiếp quản lý đảng viên và đoàn viên ở cơ sở. Hai tổ chức này phải phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo, quản lý, phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác phát triển và xây dựng Đảng ở cơ sở. Đặc biệt là quan tâm nhiều hơn công tác phát triển đảng viên mới, xem xét, lựa chọn những đoàn viên tiêu biểu, quần chúng ưu tú tham gia học tập lý luận chính trị tại Trung tâm BDCT.

21Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước.

Nhận thức được tầm quan trọng trong quan điểm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết 46-NQ/TW, ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị,

trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân luôn được Đảng bộ, ngành y tế và nhân dân huyện Núi Thành quan tâm và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Sau 10 năm tiếp thu thực hiện Nghị quyết, được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Huyện ủy nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể từ

huyện đến cơ sở được nâng lên, chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân có sự chuyển biến rõ rệt. Cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, củng cố mạng lưới y tế, tuyển chọn, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ y tế phù hợp. Từng bước nâng cao điều kiện đáp ứng yêu cầu chăm sóc và nâng cao sức khỏe của nhân dân.

Đến nay, toàn huyện có 01 Trung tâm y tế cấp huyện, 01 Phòng khám đa khoa và 17 trạm y tế xã, thị trấn; trong đó có 08/17 Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia theo chuẩn mới. 100% thôn, khối phố có cán bộ y tế thôn, được đào tạo theo chuẩn của Bộ Y tế. Với đội ngũ hơn 130 cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống Trung tâm y tế huyện (Trung tâm Y tế huyện: 37 công chức, viên chức; Trạm y tế xã, thị trấn: 93 công chức, viên chức), trong đó: Bác sỹ Chuyên khoa I: 02, Bác sỹ đa khoa: 08, Dược sỹ đại học: 02, dược sỹ trung học: 03, Y sỹ: 56, Nữ hộ sinh: 30, Điều dưỡng: 17 và nhiều cán bộ chuyên môn khác. Cơ

Kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị “về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” ở huyện Núi Thành

DươNg VăN Bảo �Ban Tuyên giáo Huyện ủy Núi Thành

Người dân đến khám bệnh tại Trung tâm Y tế huyện Núi Thành.

22 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TƯ LIỆU THÔNG TIN

sở vật chất, trang thiết bị trong các cơ sở y tế trên địa bàn huyện được quan tâm đầu tư nâng cấp, cải tạo và xây dựng ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn là nơi đóng chân của Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam, được trang bị thiết bị hiện đại, ngày càng đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của Nhân dân.

Công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân luôn được quan tâm và triển khai đồng bộ đến cấp xã. Hiện nay, 17/17 xã, thị trấn có cán bộ phụ trách công tác dược, bảo đảm việc cấp thuốc cho bệnh nhân và bố trí cán bộ trực thường xuyên thực hiện tốt việc sơ cấp cứu ban đầu cho người bệnh. Việc triển khai khám BHYT cho đối tượng đăng ký tại trạm với tổng số thẻ là 63.033 thẻ (năm 2014 khám được 187.959 lần), 100% thôn, khố phố có nhân viên y tế hoạt động. Đặc biệt, Phòng khám đa khoa Trung tâm y tế huyện được thành lập từ năm 2012 đến nay ngoài chức năng dự phòng đã triển khai khám điều trị ngoại trú BHYT đăng ký tại Trung tâm y tế với tổng số thẻ 14.477 thẻ, chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên (năm 2014 khám 48.664 lần), các dịch vụ xét nghiệm, X quang, siêu âm được triển khai nhằm phục vụ kịp thời nhu cầu của nhân dân.

Các chỉ tiêu về khám, chữa bệnh đạt được những kết quả tích cực: Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân dưới 2500 gam giảm từ 4,01% (năm 2005) xuống còn 1,87% (năm 2014). Tỷ lệ trẻ được tiêm chủng đầy đủ tăng từ 94,6% (năm 2005) lên 99% (năm 2014), đồng thời thực hiện đúng quy trình tiêm chủng nên không xảy ra các tai biến sau tiêm chủng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân giảm dần từ 24,04% (năm 2005) xuống còn 15,17% (năm 2014). Tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh tăng từ 57,6% (năm 2005) lên trên 95% (năm 2014). Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh tăng từ 89,9% (năm 2005) lên 97,12% (năm 2014). Đến năm 2014 các Chương trình y tế Quốc gia đều đạt và vượt chỉ tiêu trên giao.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn huyện trong những năm qua cũng có một số hạn chế, đó là: hệ thống y tế chậm đổi mới, dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân; công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe chưa thường xuyên; ý thức tự bảo vệ sức khỏe và phong trào toàn dân tham gia phòng, chống bệnh ở một số nơi còn thấp; mạng lưới y tế dự phòng chưa mạnh, dịch sốt xuất huyết vẫn tiềm ẩn đe dọa; vệ

sinh môi trường, an toàn thực phẩm, phòng chống tai nạn thương tích chưa được kiểm soát chặt chẽ; một bộ phận nhỏ nhân viên y tế chưa nhiệt huyết với nghề nghiệp, ảnh hưởng lòng tin của nhân dân; công tác quản lý hành nghề y dược tư nhân còn hạn chế, một số thầy thuốc y dược chạy theo lợi nhuận vi phạm quy chế hành nghề và đạo đức nghề nghiệp...

Là địa bàn trọng điểm xây dựng Khu Kinh tế mở Chu Lai nên huyện Núi Thành phải thường xuyên đối mặt với những khó khăn, thách thức của việc kiểm soát yếu tố nguy hại đến sức khỏe con người do ô nhiễm môi trường sống. Chính vì thế, thời gian đến huyện Núi Thành tiếp tục tuyên truyền và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị nhằm đẩy mạnh nâng cao nhận thức, vai trò và trách nhiệm của các tổ chức và mỗi người dân trong việc bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho bản thân và toàn xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công đoàn...Đồng thời trong giai đoạn này, LĐLĐ tỉnh đang gấp rút hoàn tất các thủ tục để tiến hành khởi công xây dựng Nhà văn hóa lao động tại Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, với quy mô 4ha, vốn đầu tư từ nguồn hỗ trợ của Tổng Liên đoàn gần 20 tỷ đồng. Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh cũng đã thống nhất chủ trương xây dựng Trung tâm Hội nghị và Nhà nghỉ Công đoàn cùng với các thiết chế văn hóa phục vụ công nhân lao động tại xã Tam Thanh, thành phố Tam Kỳ. Đồng chí Đặng Văn Chương, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh cho biết: “Các công trình này được hoàn thành sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, là nơi tập hợp CNLĐ của tổ chức công đoàn, qua đó đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, hưởng thụ, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân lao động có đời sống văn hóa phong phú, có sức khỏe tốt, có kỹ năng nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh nhà”.

(Tiếp theo trang 17)

23Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGƯỜI TỐT - VIỆC TỐT

Sau nhiều lần ấp ủ dự định, viết bài về anh - người cán bộ thi hành án liêm khiết; tôi quyết định hẹn gặp

anh để thực hiện dự định của mình. Ấn tượng đầu tiên về anh là sự hiền lành, nhưng rất cương nghị. Khi biết được ý định của tôi, anh cười hiền như đúng với tên gọi của mình “Hiền”, pha lẫn chất giọng mộc mạc “Viết ít ít thôi nghe, anh không muốn viết nhiều về anh”.

Anh Nguyễn Hổ Hiền - Chi cục trưởng, Bí thư chi bộ Thi hành án dân sự vào làm việc tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh như một duyên cơ; ngay khi bước vào ngành, anh đã có những nhận thức đúng đắn về tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác, luôn xem lời Bác căn dặn đối với người cán bộ ngành tư pháp: phải công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn. Và nhận thức của anh đã chuyển hóa thành những hành động, việc làm cụ thể khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 06 về Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nay là Chỉ thị 03 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Để đưa việc “học” và “làm” theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của đơn vị đi vào thực chất, trên cương vị Bí thư chi bộ Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, anh Hiền luôn giữ vai trò tiên phong gương mẫu, nói đi đôi với làm để cấp dưới noi theo. Thông qua việc học tập chuyên đề mỗi năm, đã chỉ đạo cán bộ, đảng viên chi bộ thực hiện nghiêm túc việc đăng ký chuẩn mực. Nội dung đăng ký ngắn gọn, thiết thực, gắn với chức năng, nhiệm vụ của ngành và của mỗi người, như: không gây nhũng nhiễu, gợi ý hoặc có biểu hiện tiêu cực

khác trong thi hành nhiệm vụ, từ chối nhận tiền, quà có giá trị của đương sự trong thi hành nhiệm vụ... Trong các phiên họp định kỳ, chi bộ đánh giá, nhận xét về mức độ thực hiện chuẩn mực đăng ký của đảng viên; biểu dương những cá nhân làm tốt, thẳng thắn phê bình, nhắc nhở những cá nhân thực hiện chưa tốt; đó là một trong những cơ sở để đánh giá xếp loại đảng viên vào cuối năm.

Cùng với đó, anh và tập thể cán bộ, đảng viên, viên chức của đơn vị trong nhiều năm liền đã thực hiện tốt việc thực hành tiết kiệm (từ 10.000 đến 15.000 đồng/người/tháng), số tiền đóng góp được dùng để nhận đỡ đầu cho những em học sinh học giỏi nhưng có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn huyện. Trong suốt 7 năm (từ năm 2007 đến 2013), đã nhận đỡ đầu cho em Nguyễn Thị Thu Sa ở thôn 3- xã Tam Vinh bị khuyết tật về mắt từ nhỏ, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; việc làm của tập thể cán bộ, đảng viên và viên chức của Thi hành án

NguyễN THị THùy �Phó ban Tuyên giáo Huyện ủy Phú Ninh

NGƯỜI CÁN BỘ THI HÀNH ÁNTrong học tập và làm theo lời Bác!

Anh Nguyễn Hổ Hiền tại Hội nghị cán bộ, công chức Chi cục Thi hành án Phú Ninh năm 2015.

24 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGƯỜI TỐT - VIỆC TỐT

huyện đã tiếp thêm niềm tin cho em, khích lệ tinh thần để em vượt qua khó khăn, vươn lên học giỏi và hiện nay là sinh viên trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Để thể hiện lòng tri ân đến những người đã giúp đỡ mình, trong một đoạn thư gửi chi bộ Thi hành án, em viết: “…Con biết để giúp con như vậy, các cô chú đã chi tiền lương và dành nhiều thời gian của mình để lên nhà thăm, động viên an ủi con. Trước kia, đường lên nhà con rất khó khăn, lúc trời mưa đường sình lầy khó đi nhưng các cô chú không quản ngại lên nhà con. Những việc làm của cô chú khiến con rất cảm động. Con hứa với cô chú sẽ cố gắng học tập tốt hơn nữa để không phụ lòng mong mỏi của ba má con và các cô chú…”. Những dòng tâm sự chân thành, đầy cảm xúc của em tạo thêm động lực để cán bộ, đảng viên, viên chức ngành Thi hành án của huyện tiếp tục có những việc làm thiết thực, giúp ích cho người, cho đời. Năm 2014, tập thể chi bộ tiếp tục nhận em học sinh ở xã Tam Đàn và tích cực hưởng ứng và thực hiện tốt công tác nhân đạo từ thiện, đền ơn đáp nghĩa do địa phương và ngành phát động. Với những kết quả đạt được trong việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, trong 03 năm liền (từ năm 2012, 2013, 2014) anh Hiền và chi bộ Thi hành án dân sự được Huyện uỷ khen thưởng vì đã có thành tích tiêu biểu trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.

Không chỉ làm tốt vai trò của người Bí thư Chi bộ, anh Hiền còn là người lãnh đạo đầy trách nhiệm, tận tụy với công việc, không ngại khó và biết hy sinh vì nhiệm vụ chính trị của đơn vị, lấy kết quả công việc làm nguồn cảm hứng trong công tác chuyên môn. Đặc thù tính chất công việc của ngành Thi hành án dân sự rất nhạy cảm

vì liên quan trực tiếp đến tiền và tài sản; anh đã vận động cán bộ, đảng viên trong ngành đăng ký những việc làm cụ thể để tránh tiêu cực như: không gợi ý hoặc có hành vi để nhân dân nghi là gợi ý tiêu cực; biết từ chối nhận tiền, quà có giá trị về vật chất của đương sự… Thường xuyên sưu tầm những vụ việc tiêu cực có liên quan đến đặc thù của ngành nhằm quán triệt và rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân và đơn vị. Để nêu gương cho cấp dưới, anh đã trực tiếp cấp mới, cấp lại xác nhận kết quả thi hành án nhanh chóng kịp thời, xin lỗi nhân dân khi trễ hẹn và hứa mang kết quả xác nhận đến giao tận nhà dân, như trường hợp của bà Nguyễn Thị Thu - thôn Khánh An, xã Tam Dân. Anh không nhận tiền bồi dưỡng tự nguyện của đương sự; vụ ông Nguyễn Văn Phương ở Tam Kỳ, vụ bà Huỳnh Thị Trọng ở Tam Phước và trong vụ tai nạn giao thông của gia đình ông Đoàn Văn Tâm - thôn Phước Bắc, Tam Lãnh… đương sự tự nguyện bồi dưỡng, nhưng anh từ chối không nhận. Sự cố gắng, tích cực của anh trong công tác chuyên môn đã được các ngành cấp trên đánh giá cao và tặng thưởng nhiều danh hiệu thi đua, mà không phải ai cũng đạt được: Liên tục trong 10 năm (2005-2015), được công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở; 05 năm (2006, 2007, 2008, 2010, 2013) được Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Bằng khen; đặc biệt anh vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động Hạng Ba.

Tiếp xúc, gặp gỡ anh đọng lại trong tôi là nụ cười hiền và nét mặt cương nghị của anh - người cán bộ ngành tư pháp liêm khiết, gương mẫu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Hy vọng sẽ có nhiều gương sáng như anh, tạo niềm tin trong nhân dân.

Phú Ninh hôm nay.

25Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGƯỜI TỐT - VIỆC TỐT

Đến huyện miền núi Nam Giang, nhắc đến gia đình anh Coor Dênh, người dân tộc Cơ Tu, ở thôn Vinh xã Tà Pơ, nhiều người đều

trầm trồ thán phục bởi đây là gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc nhiều năm liền. Danh hiệu này là sự tôn vinh ghi nhận của chính quyền, ban ngành các cấp về sự “đóng góp” của gia đình anh cho bà con thôn bản, là tấm gương sáng cho đồng bào nơi đây chung tay đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế...

Lập gia đình năm 1999, đến nay, gia đình anh Coor Dênh đã có hai con. Cuộc sống nơi vùng cao còn gặp nhiều khó khăn nên vợ chồng anh luôn chăm chỉ, cần cù lao động. Được dân làng tin yêu, quý trọng bầu làm Trưởng ban công tác Mặt trận thôn Vinh, xã Tà Pơơ, anh Coor Dênh đã phấn đấu, năng nổ trong công việc, vận động bà con nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước bằng những việc làm cụ thể: Phải đoàn kết giúp nhau làm nương, làm rẫy, biết bảo vệ rừng, giữ con sông con suối, học tập các mô hình phát triển kinh tế trang trại... Trong những năm qua, gia đình anh Coor Dênh luôn đi đầu trong mọi hoạt động ở địa phương như xóa bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa; giữ vững những nét đẹp và giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Cơ Tu. Gia đình anh đã vận động và cùng bà con thực hiện định canh định cư, giãn dân tách hộ lập vườn, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, thực hiện chương trình dân số - KHHGĐ, vận động bà con không nghe lời của kẻ xấu lôi kéo, kích động nhằm chống cách mạng, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vận động nhân dân đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tự mình vươn lên trong cuộc sống bằng những việc làm thiết thực. Đặc biệt, trong

những năm gần đây, việc người dân hiến đất làm đường, hay làm những công trình giao thông đã trở nên rất quen thuộc ở những bản làng vùng cao biên giới của tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, gia đình anh Coor Dênh đã tự bỏ tiền ra hơn 400 triệu đồng để làm một cây cầu cho người dân đi lại là một câu chuyện “kỳ tích” nơi đây. Để làm được cây cầu Cơ Piếh, có chiều dài 5m, chiều rộng 2,5m, chiều cao 12m, đủ cho hai xe máy và người dân cùng đi lại trong một thời điểm, bản thân anh Coor Dênh đã phải nhiều lần bàn bạc với vợ con. Xuất phát từ thực tế của những năm khi chưa có cây cầu Cơ Piếh, việc đi lại, làm nhà, dựng làng... của hơn 300 hộ đồng bào thiểu số ở thôn Vinh, xã Tà Pơ đều gặp rất nhiều khó khăn, có khi phải băng qua suối Lồ Ô, nhất là mỗi khi mùa mưa lũ về, ngôi làng Cơ Piếh lại bị cô lập hoàn toàn bởi dòng nước lũ. Câu chuyện cô lập, khó khăn, nguy hiểm trong việc đi lại của dân làng giờ đã lùi vào quá khứ, khi năm 2013, cây cầu Cơ Piếh hay còn được dân làng gọi bằng cái tên thân mật là cầu Cor Dênh hoàn thành. Và vui nhất, có lẽ chính là những em học sinh hàng ngày tung tăng đến trường trên cây cầu mới. Ông A Lăng Chước- một người dân ở thôn Vinh, xã Tà Pơ phấn khởi chia sẻ: “Từ khi ông Coor Dênh làm xong cầu, bà con vui lắm, bản thân tôi và nhiều nhà cũng tranh thủ làm nhà, ngày trước không có cầu, chắc cũng khó khăn lắm, hôm nay thì tốt rồi, Coor Dênh giúp đỡ bà con, ai cũng vui và cám ơn tấm lòng nghĩa cử đẹp của ông ấy” . Anh Coor Dênh cho biết: Số tiền đền bù hơn 600 triệu đồng từ dự án thủy điện Sông Bung 4, đối với gia đình anh là một tài sản lớn. Song, không thể sống riêng cho gia đình mình, anh không ngần ngại và quyết định đã bỏ ra số tiền hơn 400 triệu để làm cầu, vừa phục vụ cho gia đình, vừa giúp bà con đi lại tốt hơn. Không những thế, gia đình anh đã hỗ trợ ngày công, vật liệu làm hàng rào nhà Gươl và tu bổ nhà Gươl; hỗ

Khi trách nhiệmĐÃ tRỞ tHÀNH tÌNH cẢM LỚN...!

HươNg giaNg �

26 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGƯỜI TỐT - VIỆC TỐT

trợ xe tải chở cát 165 khối và thuê xe múc để san bằng sân trường tiểu học Tà Pơơ; đóng góp tiền hỗ trợ cho nhiều hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ của thôn, bản; và tận tình giúp đỡ những gia đình gặp khó khăn, gặp nạn. Hiện nay gia đình anh Coor Dênh có trang trại hơn 12 ha trồng keo, với 100.000 cây giống; 0,7 ha trồng cây lon bon, với hơn 200 cây giống; 1 ha trồng cây huỳnh đàn, với 8.000 cây giống và chăn nuôi hơn 10 con bò, nuôi heo và cá. Ngoài ra, gia đình sở hữu một máy xay xát gạo, bắp cho bà con dân làng, một chiếc xe tải vận chuyển nông sản thực phẩm về xuôi buôn bán, giải quyết đầu ra nông sản hàng hóa cho bà con. Không những giúp nhau phát triển kinh tế, gia đình anh Coor Dênh còn tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt cộng đồng với bà con dân bản. Những câu chuyện về Bác Hồ, các chính sách pháp luật về phát triển kinh tế, dân số... đều được anh và bà con chia sẻ để cùng nhau học tập, đoàn kết, xây dựng gia đình văn hóa, thôn văn hóa. Bên cạnh đó, gia đình anh còn vận động bà con nêu cao tinh thần, trách nhiệm trong công việc và đời sống hằng ngày về chấp hành tốt hương ước, quy ước của làng, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức và sự đoàn kết các dân tộc anh em tạo sức mạnh xây dựng nông thôn mới.

Với tinh thần hết mình vì cộng đồng của mình, bản thân anh Cor Dênh được vinh dự nhận bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vì đã có thành tích tiêu biểu trong thực hiện Chỉ thị 03 về học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời, gia đình anh luôn được bình chọn là gia đình tiêu biểu các cấp nhiều năm liền. Mới đây, tại Hội nghị điển hình thi đua yêu nước 05 năm của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2010-2015), gia đình anh Coor Dênh được báo cáo tham luận và nhận Bằng khen về thành tích Gia đình văn hóa tiêu biểu trong toàn tỉnh. Những dự định sắp đến của gia đình anh Coor Dênh, tất cả đều hướng về bà con cộng đồng rất chân thành. Anh bộc bạch: “Gia đình tôi sẽ giúp đỡ thêm nhiều gia đình còn gặp khó khăn sẽ thoát cái đói cái nghèo; tạo điều kiện cho xóm, làng được đoàn kết với nhau để cùng nhau thực hiện tốt phong trào xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới; tôi sẽ ươm nhiều loại cây giống để cấp phát miễn phí cho bà con làm ăn phát triển kinh tế; và cuối cùng, gia đình tôi sẽ tuyên truyền cho bà con hãy phát huy và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Cơ Tu... Với gia đình tôi, đó là trách nhiệm và cũng là tình cảm với bà con...”.

Anh Coor Dênh báo cáo thành tích Gia đình văn hóa tại Hội nghị điển hình thi đua yêu nước 05 năm của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2010-2015).

27Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

NGƯỜI TỐT - VIỆC TỐT

Từng là bộ đội xông pha trận mạc, sau ngày đất nước thống nhất (1975), ông Alăng Đàn (nay là

Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Tây Giang) về lại quê hương công tác tại xã A Nông, làm Chủ tịch rồi Bí thư Đảng ủy xã, khi nghỉ hưu, được tín nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện.

Ông là người tiên phong phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo ở xã A Nông. Gia đình ông nhiều trâu bò, trồng hơn 5ha lúa rẫy và 15 sào lúa nước. Nhớ lại những ngày chiến tranh gian khổ, ông kể, hồi đó tuy chưa được gặp nhưng hình ảnh Bác Hồ đã in đậm trong tâm khảm mỗi người dân miền Tây tỉnh Quảng Nam. Ai cũng khắc sâu lời dạy của Người, cố gắng hoàn thành thật tốt nhiệm vụ mà Đảng giao phó để về chung tay xây dựng quê hương. Nhiều năm trên cương vị lãnh đạo xã, rồi về huyện công tác, ông luôn làm theo lời Bác dạy, vận động bà con xây dựng đời sống văn hóa, phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ dần tập tục lạc hậu, vận động nhân dân tích cực bảo vệ rừng, bảo vệ an ninh biên giới. Ông Đàn chia sẻ: “Trước đây đời sống bà con Cơ Tu du canh du cư, đói nghèo và thất học. Noi theo gương Bác, mình đứng ra vận động bà con bỏ tập tục đốt nương làm rẫy, từ du canh, du cư chuyển sang chọn đất lập làng, định cư lâu dài ổn định cuộc sống. Nhờ đó, giờ đây hộ nào cũng có nhà gỗ kiên cố, khang trang; có nước sạch, thủy lợi phục vụ đời sống dân sinh và sản xuất; có trường tiểu học, trạm xá, cơ quan xã được đầu tư xây dựng mới khang trang”. Hưởng ứng chương trình xây dựng nông thôn mới, gia đình ông hiến hơn 1ha đất để làm sân vận động xã, làm nơi vui chơi, thể dục thể thao. Góp phần để A Nông là xã miền núi đầu tiên của tỉnh được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới vào cuối năm 2014.

Cựu chiến binh Bling Đáp ở thôn Abanh I, xã

Tr’Hy là người Cơ Tu đầu tiên ở Tây Giang canh tác thành công lúa nước, đưa nước từ “cổng trời” về tưới cho đồng ruộng. Ông tâm sự: “Có Đảng, có Bác đời sống người Cơ Tu mới được như ngày hôm nay. Hồi chiến tranh ác liệt, người Cơ Tu một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ. Nay hòa bình, phải nghe lời Đảng, nhớ lời Bác dạy, nỗ lực phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo. Canh tác lúa nước không có gì là khó. Bà con người Kinh, người đồng bằng làm được thì người Cơ Tu cũng làm được. Không có nước tưới thì ngăn đập trên núi lấy ống tre, ống nứa dẫn về”. Còn nhớ năm 2014, bà con ở thôn Abanh 1 của ông Đáp trúng mùa đậu phụng. Đậu nhiều không bán được thế là ông đứng ra vận động bà con trong thôn chở hết đậu ra trung tâm xã, ngày ngày từ sáng sớm đến tối ông đứng ra bán giúp. “Học tập theo Bác, tất cả đều vì dân thì mình làm việc gì không được” - ông Bling Đáp nói.

Tình cảm của người Cơ Tu ở Tây Giang nói chung, cựu chiến binh huyện nói riêng đối với Bác Hồ vô cùng sâu nặng. Họ luôn làm theo lời Bác dạy, sống đoàn kết, thân ái. Chính họ là những người góp phần quan trọng trong công tác bảo vệ rừng, bảo vệ cột mốc biên giới. Lên vùng cao Tây Giang, đến nhà đồng bào Cơ Tu, khách sẽ bắt gặp ngay hình ảnh cờ Tổ quốc và di ảnh Bác Hồ được đặt nơi trang trọng nhất.

Cựu chiến binh Alăng Đàn, luôn tận tụy với công việc...

cựu chiến binh cơ tu noi gương Bác Hồ... ĐìNH HiệP �

28 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TIN HOẠT ĐỘNG

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tổ chức lấy ý kiến đóng góp của đội ngũ Trí Thức vào Báo cáo chính Trị Trình đại hội đảng Bộ Tỉnh lần Thứ XXi

Thực hiện Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 28-5-2015, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp của đội ngũ trí thức vào Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI.

Đồng chí Nguyễn Thị Thu Lan, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy định hướng nội dung góp ý tại Hội nghị.

Hội nghị có sự tham dự của gần 40 đại biểu đại diện cho trí thức trong lĩnh vực Khoa học-Công nghệ, trí thức trong lĩnh vực văn hóa-văn nghệ, trí thức là những người làm báo, trí thức các trường đại học, cao đẳng của tỉnh.

Các ý kiến góp ý tại Hội nghị đã tập trung vào các giải pháp nhằm đẩy mạnh giảm nghèo,thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới, quan tâm đến miền núi và công tác dân tộc và các vấn đề an sinh xã hội, tri ân các anh hùng, liệt sĩ, chính sách đối với gia đình có công với cách mạng; các chính sách đối với phát triển y tế, đổi mới giáo dục và đào tạo, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ; tiếp tục thực hiện 3 nhiệm vụ đột phá, các giải pháp nhằm phòng, chống tham nhũng, cải cách hành chính; tăng cường quản lý tài nguyên và môi trường, nhất là có giải pháp mạnh để quản lý tài nguyên rừng, khoáng sản; vấn đề khai thác hiệu quả những thiết chế văn hóa đã được đầu tư như: thư viện, Nhà văn hóa, bảo tàng, công tác bảo tồn di sản văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn; nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn...

Hồng Hướng

Thành ủy TaM kỲ Tổ chức hội nghị Tuyên DƯƠng khEn ThƯỞng các điỂn hình Tiên Tiến ThỰc hiỆn chỉ Thị 03

Chiều ngày 18/5/2015, Thành ủy Tam Kỳ tổ chức Hội nghị tuyên dương khen thưởng các cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến qua 04 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị và tổng kết, trao thưởng cho những tập thể, cá nhân đạt giải trong cuộc thi “Tìm hiểu 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” do thành phố phát động. Tham dự và chỉ đạo hội nghị, có đồng chí Trần Văn Cận - Phó Trưởng ban trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam.

Tập thể, cá nhân được khen thưởng tại Hội nghị.Qua 04 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ

Chính trị (khóa XI) trong toàn Đảng bộ thành phố, ý thức tự giác, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm đã có những chuyển biến tích cực; góp phần vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị hằng năm của thành phố. Trong thời gian qua, đã xuất hiện nhiều tập thể, gương cá nhân điển hình, tiên tiến trong việc học tập và làm theo gương Bác với những hành động, việc làm hết sức cụ thể, thiết thực, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng. Tại hội nghị, Thành ủy Tam Kỳ đã tuyên dương, khen thưởng cho 20 tập thể và 39 cá nhân có thành tích xuất sắc trong 04 năm liền thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về làm theo gương Bác. Cũng dịp này, Thành ủy Tam Kỳ đã tiến hành tổng kết và trao thưởng cho 02 tập thể là đơn vị phát động, triển khai tốt và 19 cá nhân đạt kết quả cao trong cuộc thi “Tìm hiểu 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”; qua gần 03 tháng

29Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TIN HOẠT ĐỘNG

phát động đã nhận được sự hưởng ứng, tham gia đông đảo, nhiệt tình của cán bộ, đảng viên, nhân dân, giáo viên và học sinh từ các trường trên địa bàn thành phố với nhiều bài đạt chất lượng cao, đầu tư công phu, đặc biệt là những đồng chí đảng viên, cán bộ hưu trí lớn tuổi với những bài viết tay. Tổng số bài dự thi ở các địa phương, đơn vị là 2.494 bài, đã tổ chức chấm chọn và gửi về Ban Tổ chức cuộc thi cấp thành phố là 275 bài. Qua cuộc thi, đã giúp cho cán bộ, đảng viên và mỗi người dân nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về ý nghĩa, giá trị và những nội dung cốt lõi của Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, đã tạo sự chuyển biến trong việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác.

Thu Thủy

uBnD huyỆn Thăng Bình Tổ chức hội nghị lấy ý kiến góp ý DỰ Thảo Báo cáo chính Trị Trình đại hội đại BiỂu đảng Bộ huyỆn lần Thứ XX

Ngày 20/5/2015, UBND huyện Thăng Bình tổ chức hội nghị để lấy ý kiến góp ý của các sở, ban ngành của tỉnh vào dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020. Tham dự Hội nghị có lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh.

Quang cảnh Hội nghị.Đa số các đồng chí dự hội nghị đều nhất trí

với kết cấu báo cáo và cho rằng, Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XX Đảng bộ huyện được chuẩn bị chu đáo, công phu, bố cục chặt chẽ, rõ ràng, nội dung đánh giá sâu, đầy đủ và toàn diện những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ; thẳng thắn, nghiêm

túc trong chỉ ra những hạn chế, yếu kém; đồng thời, đề ra nhiều nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm để triển khai trong nhiệm kỳ tới. Đã có 9 đồng chí tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp tại hội nghị và nhiều đồng chí đã gửi ý kiến đóng góp bằng văn bản. Trong đó, một số ý kiến đề nghị điều chỉnh số liệu báo cáo khớp với quy hoạch chung phát triển kinh tế- xã hội của huyện giai đoạn 2015-2020 tầm nhìn đến 2030; một số đồng chí đề nghị phần giải pháp cần nhấn mạnh việc phát huy tiềm năng, lợi thế về hạ tầng giao thông kết nối, kinh tế biển của vùng Đông nằm trong chiến lược phát triển vùng Đông của tỉnh để làm động lực phát triển kinh tế của huyện trong 5 năm đến; xác định những lợi thế về đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, trồng rau sạch và phát triển du lịch; tăng cường công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch; quan tâm đẩy mạnh phát triển công nghiệp, xác định ngành công nghiệp mũi nhọn của địa phương; nhấn mạnh các giải pháp đẩy mạnh việc huy động nguồn lực…

Thay mặt Ban Thường vụ Huyện ủy, đồng chí Phan Nghĩa - TUV, Bí thư Huyện ủy trân trọng cảm ơn những ý kiến đóng góp trách nhiệm, tâm huyết và thiết thực của các đồng chí tham dự Hội nghị. Ban Thường vụ Huyện ủy sẽ chỉ đạo Tiểu ban Văn kiện tiếp thu các ý kiến đóng góp để chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện Dự thảo Báo cáo chính trị trước khi trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015- 2020.

Trung Hiếu

huyỆn ủy Tiên phƯớc Tổ chức hội nghị sƠ kếT 04 năM ThỰc hiỆn chỉ Thị 03-cT/TW của Bộ chính Trị

Sáng 18/5/2015, Huyện ủy Tiên Phước tổ chức Hội nghị đánh giá 04 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và triển khai nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, đồng chí Vũ Xuân Sơn, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy phát biểu khai mạc và chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị còn có đồng chí Huỳnh Thị Tuyết, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.

Trong 04 năm qua, với nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cùng với sự hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên, cấp ủy Đảng và

30 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TIN HOẠT ĐỘNG

người đứng đầu các cấp đã tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Thực tế cho thấy, từng tổ chức, cá nhân đã gắn việc đăng ký chuẩn mực làm theo tấm gương đạo đức của Bác trong từng chủ đề, nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, thẳng thắn nhìn nhận khuyết điểm, hạn chế yếu kém và đề ra các giải pháp khắc phục; những vấn đề bức xúc nổi cộm như nạn phá rừng, trồng rừng trái phép, nạn khai thác cát sỏi, đào đãi vàng trái phép, việc đền bù giải phóng mặt bằng, đơn thư khiếu nại trong nhân dân trên một số lĩnh vực…, đã được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết bước đầu tạo được những chuyển biến tích cực.

Đồng chí Vũ Xuân Sơn, TUV, Bí thư Huyện ủy phát biểu khai mạc Hội nghị.

Việc triển khai thực hiện Chỉ thị 1973 của Thủ tướng Chính phủ gắn với Chỉ thị 22/CT-UBND, ngày 12/10/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh theo tinh thần học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt nhiều kết quả. Công tác kiểm tra, đánh giá thực hiện các Chỉ thị được tiến hành thường xuyên, kịp thời. Nhìn chung, qua 4 năm triển khai thực hiện, hầu hết các cơ quan đơn vị hành chính trên địa bàn thực hiện nghiêm túc, vai trò người đứng đầu, thủ trưởng cơ quan được phát huy, trách nhiệm trong quản lý, điều hành được nâng cao, đã góp phần chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính tại các cơ quan, công sở.

Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Vũ Xuân Sơn, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy đã biểu dương những thành tích mà huyện nhà đạt được qua 4 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ chính trị, đồng thời biểu dương những tập thể, cá nhân điển hình

tiêu biểu trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ. Đồng chí Bí thư huyện ủy đã đề nghị các ngành, các cấp tiếp tục tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị cùng với chuyên đề toàn khóa, các chuyên đề đã học, đặc biệt chuyên đề năm 2015; tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa của Chỉ thị đối với công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở tại địa phương đơn vị; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với việc đánh giá việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW tại chi bộ, phát huy trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu; kết hợp chặt chẽ giữa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chi Minh với triển khai đồng bộ các giải pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm qua kiểm điểm tự phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) nhằm ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nhân rộng những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến được tôn vinh, tuyên dương về những mô hình, cách làm hay, sáng tạo trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tăng cường công tác vận động quần chúng tích cực tham gia việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thông qua việc hưởng ứng tích cực các phong trào hành động cách mạng tại địa phương.

Tại hội nghị lần này đã có 17 tập thể và 42 cá nhân tiêu biểu được biểu dương, khen thưởng vì đã có thành tích xuất sắc qua 04 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ chính trị.

Nguyễn Ngọc Triều

khai Mạc TriỂn lãM Bản đồ và TrƯng Bày TƯ liỆu về hoàng sa, TrƯờng sa

Sáng 19/5, tại Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Thăng Bình, Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với UBND huyện Thăng Bình tổ chức Triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu với chủ đề “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”.

Diễn ra trong 4 ngày (kết thúc vào ngày 22/5) gian trưng bày sẽ giới thiệu đến công chúng nhiều

31Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TIN HOẠT ĐỘNG

tư liệu, văn bản, hiện vật, ấn phẩm và bản đồ về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã được các nhà nghiên cứu, các học giả trong nước và quốc tế công bố. Trong đó có các văn bản do triều đình phong kiến Việt Nam ban hành từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX; 95 bản đồ và 4 cuốn atlas tuyển chọn từ hơn 260 bản đồ và các atlas liên quan đến vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; 102 ấn phẩm xuất bản tại các nước phương Tây từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX; hình ảnh tư liệu về quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thời Pháp thuộc và thời Việt Nam Cộng Hòa; hình ảnh về đời sống và sinh hoạt của quân và dân ở huyện đảo Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa)…

Đông đảo cán bộ và nhân dân đến tham quan triển lãm.

Thông qua việc trưng bày tại triển lãm các bản đồ, hiện vật, tư liệu, hình ảnh, các ấn phẩm xuất bản lần này, nhằm giúp nhân dân và cán bộ trên địa bàn huyện hiểu rõ về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý thức trách nhiệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ: đoàn viên, thanh niên, học sinh. Góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thi Chinh

đảng ủy Thị Trấn prao Tổ chức hội nghị Tổng kếT 04 năM ThỰc hiỆn chỉ Thị 03-cT/TW, của Bộ chính Trị

Sáng ngày 28 tháng 5 năm 2015, Ban Thường vụ Đảng ủy thị trấn Prao tổ chức Hội nghị tổng kết 04 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW , ngày 14/5/2011

của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đến dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Bộ phận giúp việc Chỉ thị 03 Huyện ủy. Đồng chí Bùi Đức Ngọc, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy chủ trì Hội nghị.

Khen thưởng tại Hội nghị.Theo báo cáo tại Hội nghị, qua 04 năm triển khai

thực hiện chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở Đảng bộ xã đã đạt những kết quả quan trọng. Ban thường vụ Đảng ủy đã kịp thời tổ chức quán triệt, học tập các chuyên đề theo từng năm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tổ chức thực hiện đồng bộ việc đăng ký nội dung làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Hướng dẫn số 02-HD/HU, ngày 04/9/2012 của Ban Thường vụ Huyện ủy, đồng thời chỉ đạo các chi bộ trực thuộc đưa nội dung đăng ký làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên vào đánh giá, góp ý trong các cuộc họp chi bộ, cơ quan định kỳ; tổ chức có hiệu quả phong trào “05 không, 03 có, 03 sạch” đến các hội viên, đoàn viên và từng hộ gia đình; gắn việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác với các phong trào thi đua và việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; đẩy mạnh công tác tuyên truyền việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng các hình thức phong phú, đa dạng như: Kể chuyện về Bác dưới cờ vào sáng thứ hai đầu tuần, tổ chức hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thành lập tổ kể chuyện lưu động để kể chuyện về tấm gương đạo đức của Bác tại các thôn trên địa bàn thị trấn Prao;... qua đó, đã tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên địa bàn thị trấn.

32 Thông tin TUYÊN GIÁO - Số 06/2015

TIN HOẠT ĐỘNG

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị trên địa bàn thị trấn vẫn còn bộc lộ những hạn chế: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện còn lúng túng; công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên; việc nhân rộng các gương điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa được chú trọng; sự phối hợp giữa các ban, ngành trong việc thực hiện Chỉ thị chưa nhịp nhàng.

Tại Hội nghị các đại biểu đã thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp để nâng cao hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; những kinh nghiệm trong sản xuất, phát triển kinh tế hộ gia đình.

Nhân dịp này, Đảng ủy thị trấn Prao đã tặng giấy khen cho 02 tập thể và 05 cá nhân có thành tích xuất sắc trong 04 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Kiều Diễm

Xã TaM đại Tổ chức hội Thi “chúng EM kỂ chuyỆn Bác hồ”

Sáng ngày 16/5, Hội đồng Đội xã Tam Đại (Phú Ninh) phối hợp với Trường Tiểu học Thái Phiên tổ chức chung kết Hội thi “Chúng em kể chuyện Bác Hồ” năm học 2014 - 2015. Tham gia hội thi có 9 thí sinh tiêu biểu, được lựa chọn qua vòng sơ khảo.

Tại vòng chung kết, các thí sinh đã mang đến hội thi 9 tiết mục kể chuyện đặc sắc. Các tiết mục được đầu tư dàn dựng khá công phu, kĩ lưỡng từ nội dung, bối cảnh, trang phục đến phần phụ họa. Với chất giọng mộc mạc, chân tình, hồn nhiên của thiếu nhi đã thể hiện những mẩu chuyện nhỏ, kể

về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về đạo đức, lối sống giản dị, ca ngợi lòng yêu nước, tình thương người, đức tính quý báu, gần gũi của Bác như mẩu chuyện “Ai ngoan sẽ được thưởng”, “Tình yêu của Bác dành cho những khúc dân ca”... Bên cạnh đó, trong mỗi câu chuyện các thí sinh đã biết lồng cảm xúc của mình để làm cho câu chuyện trở nên xúc động và đầy ấn tượng đem đến cho người nghe nhiều cảm xúc thiêng liêng và ý nghĩa giáo dục, nhân văn sâu sắc, làm sống dậy những giá trị đạo đức cao cả của Bác Hồ kính yêu.

Kết thúc hội thi, Ban tổ chức đã trao 01 giải nhất, 01 giải nhì và 01 giải khuyến khích cho mỗi khối lớp 3, lớp 4 và lớp 5. Hội thi chúng em kể chuyện Bác Hồ là hoạt động thiết thực, sáng tạo trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống, ý thức đoàn kết, biết yêu thương và sẻ chia cho các em học sinh, giúp các em hình thành nên nhân cách đẹp để làm hành trang cho mục tiêu, lý tưởng và hoài bão cho các em trong tương lai. Đồng thời, hội thi còn dịp để các em thể hiện sự kính trọng, lòng cảm phục sâu sắc đối với tấm gương đạo đức Bác Hồ và quyết tâm học tập, rèn luyện; xứng đáng là con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.

Thanh Sơn

HỘP THƯTrong tháng qua, Bản tin “Thông tin Tuyên

giáo” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã nhận được nhiều tin, bài, ảnh của các cộng tác viên: Trần Ánh Dương; Nguyễn Ngọc Anh, Hoàng Việt, Trần Duy Độ, Hà Phan, Đinh Hiếu Trung, Phan Chiến Trung, Võ Ngọc Ánh,... nhưng do số lượng trang in có hạn nên chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng và đăng tải vào các số sau.

Ban biên tập rất mong nhận được sự tham gia, cộng tác nhiệt tình và đóng góp ý kiến của các

cộng tác viên trong thời gian đến.Các tin, bài viết cũng như mọi ý

kiến góp ý xin gửi về hộp thư điện tử: [email protected], địa chỉ: phòng Thông tin, Ban

Tuyên giáo Tỉnh ủy, số 16 - Trần Quý Cáp, tp. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Kính chúc quý cộng tác viên hạnh phúc, thành đạt.

Chân thành cảm ơn!