nghiệp vụ phát hành tiền

24

Click here to load reader

Upload: ha-nguyen

Post on 03-Jul-2015

3.180 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

Page 1: nghiệp vụ phát hành tiền

Đề tài 7:

Phát hành tiền của NHTW và tác động đối với nền kinh tế

I/ Lược sử phát hành tiền:

1.1 Giới thiệu sơ nét về NHTW và chức năng NHTW:

1.1.1 Định nghĩa NHTW:

NHTW là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý

Nhà nước về tiềntệ và hoạt động ngân hàng nhằm ổn định giá trị tiền tệ góp phần đảm

bảo an tòan hoạt động ngân hàngvà hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển

kinh tế xã hội.

1.1.2 Chức năng của NHTW:

Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền

tệ, ngân hàngcủa các tố chức tín dụng, và ngân hàng của chính phủ. Tuy nhiên, không

phải ngân hàng trung ươngnào cũng mang đầy đủ ba chức năng này.

+ Phát hành tiền tệ:

Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát

hành tiền tệ. Ởmột số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành

tiền giấy, còn tiền kim loại vớitư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Ví dụ

như: Cục Dự trữ Liên bang - ngân hàng trungương của Mỹ- không có chức năng phát

hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năngnày. Cũng có thông tin

cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do CụcDự Trữ

Liên Bang.

+ Ngân hàng của các tổ chức tín dụng:

Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ

chức tín

dụng , cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm

soát lãi suất).

Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá , qua đó điều tiết lượng vốn

trên thị

trường.

Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại

Ngân

hàng Trung ương và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất

định. Thông

thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào

ngân hàng thương

mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Page 2: nghiệp vụ phát hành tiền

Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến

cả hệ thống tàichính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín

dụng đó để cứu nó. Vì thế,ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối

cùng(hay người cho vay cứu cánh).

+Ngân hàng của Chính phủ:

Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính

phủ. Chính phủ sẽmở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương.

Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạnnhư ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm

nhiệm.

Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chính phủ khi can thiệp vào thị trường

ngoại hối.

1.2 Các cơ quan phát hành tiền:

Khi nghiên cứu về sự hình thành hệ thống ngân hàng và hoạt động của hệ

thống ngân hàngngày nay, chúng ta đã thấy việc phát hành tiền tê khi xưa không có

tính chất tập trung. Trong bối cảnhấy các ngân hàng phát hành nhiều loại giấy bạc

ngân hàng khác nhau và đã làm cản trở quá trinh pháttriển của nền kinh tế. Chính vì

thế, đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của ngân hàng.Các Nhà nước đã

ban hành các đạo luật để hạn chế số lượng ngân hàng đựợc phép phát hành giấy

bạc.Lúc này, hệ thống ngân hàng được chia ra thành hai nhóm ngân hàng với các

nghiệp vụ khác nhau:

+ Thứ nhất: nhóm các ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát

hành

+ Thứ hai: nhóm các ngân hàng không được phép phát hành tiền và chỉ thực hiện các

nghiệp

vụ khác gọi là ngân hàng trung gian.

Sang đầu thế kỷ XX hầu hết các nước phát triển đều thực hiện cơ chế một ngân

hàng độc quyềnphát hành. Song, ngân hàng phát hành vẫn còn thuộc sở hữu tư nhân

rồi về sau bị quốc hữu hóa, đó làtrường hợp của Ngân Hàng Anh Quốc, Ngân Hàng

Pháp Quốc; có khi là một ngân hàng tư được Chínhphủ trao cho nhiệm vụ phát hành

tiền tệ dưới sự kiểm soát của Chính phủ, đó là trường hợp của NgânHàng Đông

Dương (Banque de l’Indochine) ở nước ta hồi thời Pháp thuộc; có khi là một cơ quan

côngnhư Viện Phát Hành.

Sau cuộc khủng hỏang kinh tế 1929-1933 đã bắt buộc Nhà nước tăng cường hơn

nữa việc canthiệp của mình vào lĩnh vực kinh tế. Xuất phát từ yêu cầu đó, Nhà nước

đã nhanh chóng nắm lấy Ngânhàng phát hành để qua đó điều tiết các hoạt động kinh

tế vĩ mô bằng cách quốc hữu hóa Ngân hàngphát hành hoặc thiết lập Ngân hàng phát

hành thuộc quyền sở hữu Nhà nước, điển hình như NgânHàng Anh Quốc và Ngân

Page 3: nghiệp vụ phát hành tiền

Hàng Pháp Quốc đã nói ở trên. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vẫn có một sốnước

Ngân hàng phát hành không hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước nhưng hoạt

động của nó vẫn mang tính chất sở hữu Nhà nước, bởi lẽ bộ phận điều hành cao nhất

của Ngân hàng phát hành

do Nhà nước bổ nhiệm.

Đến gần giữa thế kỷ XX thì bắt đầu xuất hiện tiến trình cải tiến ngân hàng

phát hành thànhngân hàng Trung ương. Bằng việc các Nhà nước tiến hành quốc

hữu hóa ngân hàng phát hành để biếnngân hàng phát hành thuộc sở hữu tư nhân thành

ngân hàng Trung ương (NHTW) thuộc sở hữu Nhànước. NHTW ra đời sau khi vai trò

độc quyền phát hành đã được ấn định vào ngân hàng phát hành vàlà cơ sở để ngân

hàng Trung ương có thể thực hiện các chức năng khác. Độc quyền phát hành tiền

cónghĩa là NHTW là người duy nhất được phép phát hành tiền theo các quy định

trong luật hoặc đượcChính phủ phê duyệt (mệnh giá tiền, lọai tiền, mức phát hành…)

nhằm đảm bảo thống nhất và an tòancho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Giấy

bạc và tiền kim loại là phương tiện thanh toán hợppháp duy nhất trong cả nước và

được thanh toán không hạn chế. Vì đây là đồng tiền có quyền lựcmạnh và là cơ sở tạo

tiền gửi của ngân hàng trung gian do đó mà mọi họat động cung ứng tiền củaNHTW

sẽ ảnh hưởng đến tổng phương tiện thanh tóan trong xã hội và do đó ảnh hưởng đến

tòan bộnền kinh tế. Cho nên vai trò độc quyền không chỉ đề cập đến quyền lực mà còn

ngụ ý trách nhiệm củaNHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành và thời

điểm phát hành cũng như phương thứcphát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát

triển kinh tế.

Vậy tại sao quyền lực phát hành giấy bạc lại tập trung vào ngân hàng trung ương, việc

đó có

tác động như thế nào đối với nền kinh tế?

Sỡ dĩ việc phát hành tiền tập trung vào NHTW là vì các lí do sau:

+ Các Chính phủ các nước muốn kiểm soát sự biến động của lượng tiền trong

lưu thông trongphạm vi toàn quốc. Điều này cũng có thể thực hiện được nếu như Nhà

nước là người phát hành tiền,nhưng kinh nghiệm thực tế đã cho thấy rằng, khi Chính

phủ phát hành tiền thì việc kiểm soát và hạnchế khối lượng phát hành rất khó.

+ Lượng tiền trong lưu thông giờ đây bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi ở ngân

hàng. Sự mở rộngcác hoạt động tín dụng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu tiền mặt. Vì thế, khi

nắm vai trò độc quyền phát hành,NHTW có cơ hội để kiểm soát khả năng mở rộng tín

dụng và do đó điều chỉnh lượng tiền cần phát hành.

+ Giấy bạc do NHTW phát hành- một ngân hàng nhận được sư ưu đãi tối ưu từ Chính

phủ- sẽ

có uy tín cao trong lưu thông

Page 4: nghiệp vụ phát hành tiền

+ Việc phát hành tiền mang lại lợi nhuận, vì thế tốt nhất nên được tập trung

vào một ngân hàng

để tiện cho việc phân phối và sử dụng nguồn lợi đó một cách thích hợp.

1.3 Nguyên tắ c phát hành tiền:

1.3.1 Nguyên tắc trữ kim

Nguyên tắc này được áp dụng trong thời kì lưu thông tiền vàng (thời kì bản vị

vàng). Việc pháthành tiền giấy ràng buộc chặt chẽ bởi quý kim. Việc tăng hay giảm số

lượng tiền giấy tuỳ thuộc vào sốlượng quý kim dự trữ của ngân hàng. Việc phát hành

tiền giấy chỉ được thực hiện khi nào có mộtlượng quý kim được nhập vào kho. Tuy

nhiên có thể chấp nhận một lượng nhất định vượt mức củakhối tiền phát hành đối đối

với số quý kim dự trữ, phần vượt đó phải thật thấp và cố định.Việc đảmbảo bằng vàng

có thể được thực hiện bằng một trong các hình thức sau:

-Nhà nước qui định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng: nếu khối

lượng giấy bạc ngânhàng nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim loại quí

(vàng) làm đảm bảo, nhưng nếu vượt quáhạn mức đó thì đòi hỏi cần phải có 100%

vàng làm đảm bảo.

Thực tế trước năm 1893 Hoa Kì đã cho phép đổi đô la giấy ra vàng không

hạn chế, điều đóđã cho thấy dụ trữ vàng đảm bảo cho phát hành giấy bạc là vô cùng

lớn. Ở Anh năm 1939 qui định chỉđược phát hành tối đa giấy bạc bảng Anh là 58 triệu

bảng.

-Nhà nước qui định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát

hành, phần còn lạiphải được đảm bảo bằng các chứng từ có giá như thương phiếu,

chứng khoán chính phủ và các tài sảnCó khác của NHTW.

Năm 1913 Chính phủ Mỹ qui định tỷ lệ 40% dự trữ vàng cho khối lượng

giấy bạc pháthành. Năm 1915 khi thành lập ngân hàng quốc gia Sài Gòn chính phủ

ngụy quyền đã qui định dự trữvàng cho khối lượng tiền phát hành vào lưu thông là

33%. Luật ngân hàng năm 1884 cho phép NHTWAnh phát hành tiền tín dụng được

đảm bảo bằng chứng khoán của chính phủ và tạo ra một lượng tiềntín dụng là 14 triệu

bảng Anh, nếu phát hành vượt con số đó thì phần vượt thêm phải được đảm bảobằng

lượng vàng tương đương với lượng gửi tại quĩ đảm bảo của nhà nước.

Phát hành tiền có đảm bảo bằng vàng dược qui định cụ thể cho từng thời gian tùy

thuộc vào mục tiêu ổn định tiền tệ và khả năng dự trữ vàng.

Thực hiện theo nguyên tắc này có ưu điểm: một mặt khống chế mức phát hành

giấy bạc tănggiảm theo khối lượng dự trữ kim loại hiện có, tránh sự lạm dụng quyền

phát hành tiền để phát hànhmột lượng tiền vào lưu thông vượt quá nhu cầu của nền

kinh tế, dễ gây ra lạm phát. Mặt khác, dự trữvàng làm đảm bảo còn làm cơ sở cho việc

Page 5: nghiệp vụ phát hành tiền

chuyển đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng; thông qua chuyểnđổi mà điều tiết lượng giấy

bạc trong lưu thông phù hợp với giá trị mà nó thay thế, đảm bảo giá trịdanh nghĩa

(mệnh giá) của giấy bạc phù hợp với giá trị thực tế (vàng) mà nó đại diện.( Mỹ trước

năm1893 cho phép đổi giấy bạc đô la ra vàng không hạn chế, Ngân hàng Anh năm

1916 qui định 389 bảngcho 1 ounce chuẩn với độ nguyên chất là 11/12)

Nguyên tắc này có nhược điểm là sự thiếu linh hoạt của khối lượng tiền phát hành và

phần nào

tách rời khối lượng tiền phát hành khỏi nhu cầu lưu thông hàng hóa, đặt sự ổn định

của lưu thông giấy bạc ngân hàng phụ thuộc vào dự trữ vàng. Nếu khối lượng hàng

hóa lưu thông tăng khi số lượng vàngdự trữ có hạn sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền

tệ. Mặc dù các quy định bổ sung của các nước làm chonguyên tắc dự trữ vàng trở nên

linh hoạt hơn đối với hoạt động phát hành của NHTW, nhưng nhiềuquốc gia, có thể

do áp lực của cuộc khủng hỏang kinh tế 1929-1933 hoặc do ảnh hưởng của các

điềukiện sau chiến tranh, cùng với sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng, đã giảm, ngừng

hoặc hủy bỏ yêu cầudự trữ vàng cho lượng tiền phát hành. Việc này chính là bước

khởi đầu của sự chuyển đổi cơ chế pháthành tiền nhằm đảm bảo tính linh hoạt đang

ngày càng tăng lên trong hoạt động phát hành tiền củaNHTW.Như vậy trong thời kì

vàng còn đóng vai trò là tiền tệ thì cơ sở đảm bảo cho phát hành tiền của

NHTW là một trọng lượng vàng dự trữ làm căn cứ cho việc phát hành tiền và khả

năng dự trữ điều tiết

của tiền vàng đã dự trữ cho tiền tệ được ổn định.

1.3.2 Nguyên tắc hàng hoá:

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa khối lượng hàng hóa sản xuất

ngày càng gia tăng,đòi hỏi phải đưa nhiều tiền vào lưu thông để đáp ứng cho nhu cầu

trao đổi hàng hóa và dịch vụ, mặtkhác để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu chính phủ

ngày càng tăng, nguyên tắc phát hành tiền dựa vào dựtrữ kim loại quí gần như chấm

dứt. Thay vào đó phát hành tiền được đảm bảo bằng hàng hóa. Quátrình lưu thông

tiền tệ đã làm xuất hiện nhận thức mới về tiền, thế giới đã phải tiền tệ hóa vai trò

củavàng, các loại tiền dấu hiệu ra đời thay thế cho tiền vàng trong lưu thông.

Theo nguyên tắc này giấy bạc ngân hàng được phát hành không còn bị cột chặt

vào dự trữ vànghay bất kì một loại hàng hoá cố định nào khác mà hoàn toàn dựa vào

nhu cầu của nền kinh tế. NHTWchỉ phát hành phát hành thêm tiền vào lưu thông khi

có sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tăng thêm trongnền kinh tế. Ngược lại nếu số lượng

sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tạo ra ít hơn trước thì NHTW phải rútbớt tiền về. Như

vậy, theo cơ chế phát hành này NHTW có thể điều chỉnh linh hoạt khối lượng tiềnphát

hành phù hợp với sự biến động của nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế trong từng thời kỳ

và đảm bảolưu thông tiền tệ ổn định. Tuy nhiên, nếu dựa trên cớ chế phát hành này,

Page 6: nghiệp vụ phát hành tiền

nếu NHTW không căn cứ vàotình hình kinh tế hay nhu cầu tiền tệ trên thị trường,

phát hành ra một lượng tiền lớn hơn số lượnghàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế, gây

mất cân bằng về tỷ lệ giữa hàng và tiền, sẽ rất dễ dàng gây ralạm phát. Ngày nay hầu

hết NHTW các quốc gia đều thực hiện phát hành tiền theo nguyên tắc này.Lượng tiền

cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm ở VN được chính phủ phê duyệt chủ yếu

căn cứvào tốc độ tăng tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát dự kiến, tốc độ chu chuyển

tiền tệ, tiền mặt tồn quỹvà nghiệp vụ thanh toán…

1.4 Các lần phát hành tiền ở Việt Nam kể từ ngày thống nhất đất nước 

Sau khi Hội nghị hiệp thương thống nhất hai miền, ngày 25.4.1978, chính

phủ nướcCHXHCNVN quyết định thống nhất tiền tệ trên toàn quốc, cả nước

thực hiện hệ thống ngân hàng mộtcấp là NHNNVN. Ngày 3.5.1978 chính thức phát

hành tiền mới gồm các loại giấy 5 hào, 1đ, 5 đ, 10 đ,20 đ và 50 đ mặt trước có quốc

huy và hàng chữ NHNNVN, mặt sau in hình các cơ sở kinh tế hai miềnvà năm in là

1976.

Riêng tiền đúc bằng nhôm, mặt trước cũng luôn có hình quốc huy, còn mặt sau có

ghi NHNNVN,giá trị đồng tiền gồm 1 hào, 2 hào, 5 hào và 1 đồng cùng năm đúc là

1976. Hệ thống tiền mới này cógiá trị tương đương hệ thống cũ, nghĩa là: 1 đồng tiền

miền Bắc hoặc 0, 8 đồng tiền miền Nam đổi lấy1 đồng tiền mới!. Như vậy từ đây, trên

toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có một hệ thống tiền duy nhất lưu hành...

Dần đến năm 1980, ngân hàng lại phát hành thêm loại tiền giấy mới mặt trước có

quốc huy vàquốc hiệu CHXHCNVN, mặt sau ghi hàng chữ NHNNVN năm in 1980

và phong cảnh hai miền: tờ 2đmàu tím than, tờ 10 đ màu lục; và tờ 100 đ là tờ giấy

tiền có giá trị lớn nhất thời ấy.

Đặc biệt năm 1981 cho phát hành tờ 30 đ màu hồng tím cũng có chân dung Bác và

hình ảnh cảngNhà Rồng làm mọi người thắc mắc: - Nếu chỉ dùng loại tiền 30 đ thì

làm sao làm tròn số tiền theo cơsố thập phân (100, 1000...).

Sau đó, khối lượng tiền cung ứng và tổng phương tiện thanh toán tăng lên nhanh

chóng, đến năm1985 tăng gấp 35 lần so với năm 1980, trong đó khối lượng tiền

lưu hành tăng gấp 20 lần làm lạm pháttrầm trọng, vật giá leo thang...

Để thi hành Nghị quyết về Giá - Lương - Tiền nhằm mục đích điều chỉnh và ổn

định sức mua củađồng tiền, từ ngày 14.9.1985, Nhà nước lại tiến hành đổi tiền: 1

đồng tiền mới bằng 10 đồng tiền cũ.Đợt đầu từ tháng 9.1985 đến 1986 phát hành các

loại tiền giấy 5 hào, 1 đ, 2đ, 5đ, 10đ, 20đ, 30đ, 50đ,100đ và 500 đ. Hệ thống tiền đúc

1 hào, 2 hào, 5 hào và 1 đồng năm 1976 vẫn cho lưu hành... Vì tỉ lệ đồng mớibằng 10

đồng cũ nên tờ tiền mới lúc đó có giá trị rất cao. Đợt đổi tiền mới này vẫn làm người

ta thắcmắc: - Vì sao vẫn còn thiết kế loại tiền 30đ? - Tiền cũ lớn nhất chỉ là tờ 100đ,

Page 7: nghiệp vụ phát hành tiền

tương đương 10đ tiềnmới, thế mà đợt phát hành tiền mới này lại có đến 500 đ

(tức bằng 5000 đ tiền cũ), đây có phải là dấuhiệu ban đầu của sự lạm phát? Và có một

điều lấy làm lạ nữa là ngay sau khi đổi tiền chưa được baolâu thì chính phủ quyết định

nâng giá lên trở lại 10 lần!.

Cuộc cải cách Giá - Lương - Tiền xét trên tổng thể đã tiến hành thiếu đồng bộ,

chỉ một năm sau,tức năm 1986, lạm phát đến mức chóng mặt: 774%. Báo cáo Chính

trị của BCHTW Đảng tại Đại hộiVI chỉ rõ: "- Việc giải quyết vấn đề Giá - Lương -

Tiền đã phạm sai lầm".

Với sự gợi ý của ông Lữ Minh Châu (Thống đốc Ngân hàng), một người hoạt

động về lĩnh vựcngân hàng nhiều kinh nghiệm từ trước 1975, để khắc phục tình hình

này, báo cáo chính trị đã cóphương hướng: “Bên cạnh nhiệm quản lý lưu thông tiền tệ

của NHNN, cần xây dựng hệ thống ngânhàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và

dịch vụ ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế”.

Để thực hiện Nghị quyết VI, ngày 13.7.1987, Hội đồng Bộ trưởng (HĐBT) ban

hành Chỉ thị218.CT cho phép ngân hàng chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp thí

điểm ở 4 thành phố lớn:Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.

Sau khi thử nghiệm có kết quả, ngày26.3.1988, Nghị định 53.HĐBT có nội dung cơ

bản là xóa bỏ hệ thống ngân hàng một cấp, xây dựngmô hình ngân hàng hai cấp theo

nền kinh tế thị trường. Ngân hàng Nhà nước lúc này là ngân hàng củacác ngân hàng,

là cơ quan phát hành tiền của nhà nước, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

điềuhòa lưu thông tiền tệ, giám sát và thanh tra hoạt động kinh doanh của các ngân

hàng chuyên doanh(như: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân

hàng Phát triển Nông nghiệp...). Từcuộc cải cách đó, năm 1988 nạn lạm phát 500%

đến 1989 kéo xuống còn 34%.

Trong những năm 1987 - 1988, ngân hàng phát hành thêm các loại tiền mới luôn có

chân dung Bác:tờ 200đ; tờ 500đ, tờ 1000đ, tờ 2000đ, tờ 5000đ, cả 4 tờ đều có hình

chìm chân dung Bác, hiện dần bịthu hồi nay hầu như đã vắng bóng...

Sau đó, ngân hàng lại cho phát hành thêm các loại tiến giấy 100đ màu xanh

lục .Tờ 1000đ màuxanh in năm 1988 mang hình con voi kéo gỗ, tờ 2000đ màu tím in

năm 1988 mang hình các nữ côngnhân trong nhà máy dệt, tờ 5000đ màu xanh nước

biển in năm 1991 mang hình đập thủy điện và cáccột đường dây cao thế, cùng các tờ

10.000đ màu đỏ, 20.000đ màu xanh dương và 50.000đ màu xanhlục (cả 3 tờ này đều

có hình chìm chân dung Bác).

NHNN VN luôn áp dụng các kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới trong việc sản

xuất tiền giấy,nhằm nâng cao chất lượng in ấn cũng như tính bảo an của đồng tiền

Việt Nam. Do đó, có những thờiđiểm, trong lưu thông có 2 đồng tiền cùng mệnh giá

Page 8: nghiệp vụ phát hành tiền

( giá trị ngang nhau) nhưng khác nhau về mẫuthiết kế ( hình thức ) cùng song song

lưu hành .

Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bổ sung

vào lưu thông 2đồng tiền mệnh giá 500.000đ và 50.000đ được in trên chất liệu giấy

polymer. Ngày 01 tháng 9 năm2004, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bổ

sung loại tiền giấy polymer mệnh giá 100.000đ.Ngày 17 tháng 5 năm 2006, Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục phát hành vào lưu thông đồng tiềnpolymer mệnh

giá 20.000đ. Và ngày 30 tháng 8 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

đưa vàolưu thông 2 đồng tiền mệnh giá 200.000đ và 10.000đ in trên giấy polymer.

Như vậy, hiện nay tron

ưu thông, mệnh giá 100.000đ, 50.000đ, 20.000đ và 10.000đ có 2 mẫu thiết kế, in trên

chất liệu giấy

nền polymer và cotton cùng song song lưu hành

Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành tiền

kim loại vào lưuthông với 3 mệnh giá: 5.000đ, 1.000đ và 200đ. Ngày 01 tháng 4 năm

2004 Ngân hàng Nhà nước ViệtNam phát hành thêm 2 mệnh giá: 2.000đ và 500đ.

Việc phát hành trở lại tiền kim loại không chỉ đánhdấu sự ổn định về mặt giá trị của

đồng tiền Việt Nam trong thời gian qua, mà còn là bước đi nhằmhoàn thiện hệ thống

tiền tệ Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế, tiết giảm chi phí phát hành đối

vớiđồng tiền có mệnh giá nhỏ.

II/ Phát hành tiền ngày nay:

2.1 Điểm khác biệt so với phát hành tiền ngày xưa:

Về căn bản, việc phát hành khi xưa bị ràng buộc quá nhiều bởi dự trữ vàng ở

ngân hàng. Sự lệthuộc của khối lượng tiền tệ phát hành vào khối trữ kim đã làm cho

nền kinh tế nhiều lúc thiếu tiền.Chính nguyên do thiếu tiền này đã làm xuất hiện

những cuộc khủng hỏang kinh tế nhiều nơi vào nửathế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Lúc

bấy giờ, nền kinh tế các nước Châu Âu phát triển quá mau nhưng khốilượng tiền tệ bị

ràng buộc bởi quý kim nên không tăng theo cùng một tỷ lệ. Đôi khi giữa lúc nền

kinhtế đáng lẽ cần phải có nhiều tiền hơn để tiếp tục yểm trợ các hoạt động sản xuất

phát triển, thì ngânhàng, do áp lực của nhu cầu chuyển đổi của dân từ tiền giấy sang

vàng, đã buộc phải làm áp lực vớikhách hàng thu hồi nợ, khiến cho nền kinh tế đang

cần tiền, trở nên thiếu tiền trầm trọng, làm phátsinh những cuộc khủng hoảng ở Hoa

Kỳ năm 1907, và cuộc khủng hỏang kinh tế thế giới 1929.

Từ thập niên 1930 trở đi, các nước đã lần lượt cắt đứt mối liên hệ giữa tiền

giấy và vàng theomột tỷ giá cố định. NHTW đảm nhiệm vai trò phát hành tiền tệ trên

một căn bản rộng rãi hơn là cănbản vàng và điều này đã làm cho việc phát hành

dựa vào nhu cầu thực tế của nền kinh tế.

Page 9: nghiệp vụ phát hành tiền

Chúng ta đã biết là tiền tệ có một sức mua, một giá trị tiềm ẩn. Sức mua này

bao gồm cả mọilọai hàng hóa và dịch vụ, kể cả vàng chứ không riêng gì vàng. Vậy

giữa tiền tệ và hàng hóa, dịch vụ cómột tương quan nhất định. Vai trò của tiền tệ là

làm thế nào để yểm trợ những hoạt động sản xuất hànghóa và dịch vụ hay những hoạt

động đưa khối lượng hàng hóa và dịch vụ vào lưu thông phân phối.Việc phát hành

tiền tệ phải dựa vào nhu cầu làm xuất hiện một khối lượng hàng hóa dịch vụ đủ

giữvững cho sức mua của tiền tệ, nghĩa là việc phát hành tiền tệ ngày nay căn bản là

dựa vào nguyên tắchàng hóa. Đó là căn bản của việc phát hành tiền tệ ngày nay. Căn

bản phát hành này rộng hơn căn bảnphát hành ngày xưa. Trước thập niên 30, như

chúng ta đã thấy, theo nguyên tắc trữ kim, đại bộ phậ

tiền giấy phát hành có đối phần là vàng, lúc ban đầu 100% là vàng, nhưng lần

lần về sau, có thể cómột khối tiền giấy vượt đinh mức vàng ở một biên vực lúc đầu

nhỏ hẹp về sau rộng dần. Tuy số tiền

giấy ngoài định mức vàng đó cũng phải có đối phần là thương phiếu hay trái phiếu quốc gia, nhưng nóchiếm một tỷ lệ tương đối ít hơn đối phần bằng vàng.

Ngày nay, tỷ lệ quan trọng của các đối phần của tiền tệ đảo ngược lại. Tiền tệ

phát hành phầnlớn là để làm ra của cải vật chất, tức là hàng hóa dịch vụ, vì hàng hóa

dịch vụ được tiêu dùng trong cảnước khắp mọi tầng lớp. Nó được tượng trưng bởi

khối thương phiếu làm đảm bảo cho việc ứng tiềnhay cấp phát tín dụng. Khối thương

phiếu đó là đối phần quan trong nhất, kế đó là vàng và ngoại tệ,rồi mới tới đối phần

thứ ba là trái phiếu quốc gia.2.2 Công cuộc chuẩn bị phát hành tiền:

Như đã biết, một trong các nghiệp vụ của NHTW là cung ứng một khối lượng

tiền tệ cho nhucầu của nền kinh tế. Nhu cầu này nhiều khi rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu

này, NHTW lúc nào cũng phảiin và đúc sẵn một số lượng tiền tệ quan trọng, đủ để

thay thế tòan bộ số lượng tiền đang lưu hành.In là in tiền giấy, đúc là đúc tiền kim lọai, tiền kim lọai dành cho những giá trị nhỏ, tiền giấymang những ngạch số giá trị lớn hơn.

Những tiền giấy và tiền kim lọai, in và đúc sẵn để dự trữ như vậy chưa phải là

tiền. Khối dự trữnày được phân làm 2 lọai lớn. Một loại dự trữ gồm những loại tiền có

hình dáng, khuông khổ, màu sắcchữ in hay đúc… giống hoàn toàn những thứ tiền

đang lưu hành, chỉ khác nhau về số thứ tự hay mộtvài chi tiết nhỏ khác. Loại dự trữ

nay dùng để thay thế những tiền đang lưu hành khi nó dơ, rách…

Loại dự trữ thứ hai, gồm những thứ có hình dáng khuôn khổ, có thể màu sắc

khác những thứ tiền đanglưu hành trên thị trường, loại này là để đề phòng những thứ

tiền đang lưu hành có triệu chứng bị làmgiả, nhất là những tờ giấy bạc có ngạch số giá

Page 10: nghiệp vụ phát hành tiền

trị lớn. Trong trường hợp đó, NH sẽ thay nguyên cả mộtloạt giấy bạc bị làm giả để

thay thế bằng một thứ tiền mới có một giá trị bề mặt tương đương.

Tuy nhiên, việc thay thế tiền bằng cách này không nên làm thường xuyên, vì

như chúng tathấy , một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến giá trị tiền tệ là

yếu tố dân chúng chịu giữtiền, chấp nhận tiền trong dự trữ tài sản của mình. Nếu đổi

tiền được tiến hành thường xuyên, chẳngnhững gây tốn kém mà còn gây nên hậu quả

nghiêm trọng là người dân không dám giữ tiền. Hoa Kỳ làmột ước được lợi thế có

đồng Mỹ Kim được cả thế giới tí nhiệm, tích trữ tiêu dùng, đó là do tính ổnđịnh của

đơn vị tiền tệ này.

NHTW có cơ sở in và đúc tiền của riêng mình để phục vụ nhu cầu phát hành,

cũng có khi có cơsở in đúc tiền trực thuộc một cơ quan khác, nhưng đó là dấu vết còn

sót lại của thời đại xa xưa của sởđúc tiền của kho bạc hy sở đúc tiền của Nhà vua.

Về ngạch số giá trị tiền giấy, NHTW có nhiệm vụ phải cung ứng tiền đủ

ngạch số, từ giá trịnhỏ đến gía trị bề mặt lớn nhắm đáp ứng nhu cầu giao dịch của dân.

Thiếu giấy bạc nhỏ cũng nhưthiếu giấy bạc lớn đều gây trở ngại cho hoạt động kinh

tế.

2.3Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng tiền phát hành trong lưu thông:

Lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm là khối lượng tiền do

NHTW phát hànhcho lưu thông hàng năm. Lượng tiền này thường được gọi là tiền

mạnh vì một đồng tiền dự trữ củaNHTW đưa vào lưu thông có thể tạo ra 2 hoặc 3

đồng tiền trong tổng phương tiện thanh toán.

Việc xác định lượng tiền bổ sung cung ứng cho lưu thông hàng năm là rất cần thiết

trong khuôn

khổ chính sách tiền tệ điều tiết khối lượng tiền.

2.3.1Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng

năm(MB):

* Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối tiền tệ NHTW với MB:

MB= Tài sản có trong nước ròng + Tài sản có ngoại tệ ròng

MB= Tiền ngoài NHNN + Tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại NHNN

Do đó sự thay đổi những chỉ tiêu đó sẽ tác động trực tiếp đến lượng tiền đưa ra

lưu thông hàng năm.

a) Sự thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng trên bảng cân đối tiền tệ của NHTW:

- NHTW mua hay bán ngoại tệ, vàng đều làm tăng hay giảm tài sản có ngoại tệ

- Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách

ngoại hối,

tỷ giá lãi suất…sẽ tác động đến các luồng chu chuyển ngoại tệ quốc gia.

Page 11: nghiệp vụ phát hành tiền

- Sự thay đổi về dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ cũng sẽ làm thay đổi tài sản có

ngoại tệ ròng.Khi NHTW tăng dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ thì một lượng ngoại tệ

của các NHTM sẽ do NHTWnắm giữ, do đó sẽ làm tăng tài sản có ngoại tệ của

NHTW và giảm tài sản có ngoại tệ của NHTM.

- Sự biến động tỷ giá và giá vàng cũng làm thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng, do dự trữ

vàng

cũng được hạch toán vào Tài sản có ngoài tệ.

b) Sự thay đổi tài sản có trong nước ròng trên bảng cân đối tiền tệ của NHTW:

- Thu chi ngân sách có tác động rất lớn đến lượng tiền cung ứng cho lưu thông

hàng năm, và lànhân tố ngoài tầm kiểm soát của NHTW. Bởi lẽ việc thu chi của

NSNN có ảnh hưởng trực tiếp đếnkhoản tiền NHTW cho chính phủ vay và tiền

gửi của chính phủ ở NHTW. Việc NHTW cho vay các NHTM. Sự tăng giảm khoản mục này phụ thuộc nhiều vào mục tiêucủa chính sách tiền tệ. Nếu thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ thì nhu cầu vay vốn của các NHTMvới NHTW tăng lên. Tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, nếu thịtrường tiền tệ thông suốt, NHTW là người cho vay cuối cùng trên thị trường lên ngân hàng, thì mức độtăng giảm của khoản mục này gắn chặt với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong trường hợp thịtrường tiền tệ chưa phát triển, mức độ thông suốt của thị trường còn hạn chế thì khoản mục này gắnkết chưa chặt chẽ với mục tiêu của chính sách tiền tệ, mà còn phụ thuộc vào mức độ huy động vốn củacác NHTM và điều tiết nguồn vốn giữa các NHTM với nhau. Các khoản ròng khác có mức độ tác động nhỏ, phụ thuộc vào mức độ chi tiêu của NHTW.

2.3.2 Xác định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm:

Hành động phát hành tiền của NHTW là hành động khởi đầu cho quá trình

cung ứng tiền tệ củanền kinh tế. Có 4 tác nhân tham gia quá trình cung ứng tiền tệ,

gồm: NHTW, các tổ chức tín dụng,người gửi tiền, người vay tiền từ các tổ chức tín

dụng. Trong đó, NHTW là quan trọng nhất vì nó tạora lượng tiền mạnh- lượng tiền

làm thay đổi các điều kiện của thị trường tiền tệ (cung cầu vốn, lãi suất,tỷ giá…), đến

cách ứng xứ của các tác nhân còn lại, qua đó tác động đến lạm phát, sản lượng.a) Quy trình xác định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông:

Trên lý thuyết, lượng tiền phát hành bổ sung hàng năm cho lưu thông phải phù

hợp với tốc độtăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, trên thực tế, lượng tiền

này có mối quan hệ trực tiếpđến lạm phát và tổng sản lượng quốc gia, mà muốn tác

động đến lạm phát và tổng sản lượng thì phảithông qua tiêu chí tổng phương tiện

thanh toán hay còn gọi là M2, hay mục tiêu trung gian.b) Phương pháp tính toán:*Bước 1: Tính mức tăng M2 hàng năm:

Page 12: nghiệp vụ phát hành tiền

Tổng phương tiện thanh toán là toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế được chấp

nhận chungtrong thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. Theo

đó, tổng phương tiện thanhtoán bao gồm:

Tiền theo nghĩa hẹp: tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi không kỳ hạn

-Tiền theo nghĩa rộng: tiền theo nghĩa hẹp, tiền gửi có kỳ hạn tại các NHTM, tiền

gửi ngoại tệ,

số dư tài khoản các chứng từ có giá do Ngân hàng phát hành.

M2V = PY

Trong đó:

-M2 là tổng phương tiện thanh toán

-V là vòng quay tiền tệ

-P là mức giá chung

-Y là tổng sản lượng quốc gia

*Bước 2: Xác định mức tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm, kí hiệu MB:

MB = MBc – MBđ

MBc = M2c / m

Trong đó:

-MBc là tiền dự trữ cuối kỳ

-MBđ là tiền dự trữ đầu kỳ

-M2c là tổng phương tiện thanh toán đến cuối kỳ

-m là hệ số tạo tiền dự kiến

Các công thức trên biểu hiện mối quan hệ tất yếu giữa các biến số tiền tệ với

tăng trưởng vàlạm phát, mối quan hệ tỷ lệ này tương đối chính xác trong nền kinh tế

thị trường phát triển, nhữngnước có hệ thống thống kê hoàn chỉnh, chính xác.

Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là nước có nền kinh tế thị

trường đangphát triển như nước ta hiện nay thì mối quan hệ tỷ lệ này chưa thật phù

hợp, do nền kinh tế đang quátrình tiền tệ hóa, hệ thống các số liệu chưa thật sự đồng

nhất, mức độ tác động giữa các biến số tiền tệ,biến số kinh tế chưa thực sự mang tính

thị trường.

Vì vậy, trong thực tế xác định khối lượng tiền cung ứng hàng năm của NHNN

Việt Nam về cơbản dựa vào mối quan hệ của các biến số tiền tệ, kinh tế nêu trên,

nhưng có sự điều chỉnh nhất định vàphải căn cứ vào nhiều biến số kinh tế khác

như: cán cân thanh toán, khả năng mở rộng tín dụng, tìnhhình thu chi ngân sách nhà

nước…

2.4 Các kênh phát hành tiền :

NHTW có bốn đối tượng giao dịch chính. Trong bốn mối quan hệ đó, NHTW phát

hành tiền tệ.

Page 13: nghiệp vụ phát hành tiền

Đó là Chính phủ, các ngân hàng thương mại, thị trường mở và thị trường ngoại hối.

2.4.1 Kênh ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước phải cân đối giữa tổng thu tài chính và tổng chi tài chính

nhưng trong thựctế ngân sách nhà nước thường rơi vào một trong 2 trạng thái: ngân

sách bội thu nếu tổng thu lớn hơntổng chi. Khi ngân sách bội thu thì hoạt đông của

ngân sách không ảnh hưởng đến hoạt động củaNHTW. Nhưng khi ngân sách bội chi

sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của chính sách tiền tệ. Bởi lẽ chínhphủ với tư cách là chủ

thể kinh tế như mọi chủ thể kinh tế khác khi thiếu tiền chi tiêu sẽ phải đi vay

tiền để bù đắp thiếu hụt, chính phủ sẽ xử lí bằng cách:

Vay của công chúng thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ dưới các

hình thức: tínhphiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái nhà nước. Với cách này sẽ

không ảnh hưởng đến mứccung ứng tiền của NHTW. Bởi vì khi chính phủ phát hành

các công cụ nợ, công chúng bỏ tiền ra muacác công cụ đó tức là đã cho chính phủ

vay. Khi đến kì hạn, chính phủ thu được thuế, có tiền để trả lạicho công chúng, chính

phủ lại thu các công cụ nợ về. Như vậy NHTW không phải phát hành thêm tiền.

Vay của nước ngoài: lượng tiền vay được thông thường dưới hình thức hàng

hóa, vàng hoặcngoại tệ các loại. Những loại tài sản này khi đem về nước thường phải

kí quĩ ở NHTW để chuyển đổithành tiền mặt, có nghĩa là NHTW sẽ phải phát hành

thêm tiền.

Vay của NHTW: khi Chính phủ vay của NHTW, lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ

tăng lên

thông qua chi tiêu của Chính phủ

Vay của NHTW và vay của nước ngòai (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng nhanh khối

tiền tệ, gây áplực lạm phát tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của các NHTM trong

nước, nguy cơ làm tăng khốitiền tệ nhẹ hơn. Áp lực lạm phát ở các nước đang phát

triển mạnh hơn so với các nước có thu nhập caolà do các nước này chủ yếu sử dụng

biện pháp vay NHTW bằng cách phát hành tiền trực tiếp và nợnước ngòai. Hành vi

cung ứng tiền cho Ngân sách Nhà nước chi tiêu (dù có đảm bảo) sẽ làm yếu

nănglực kiểm soát tiền tệ của NHTW và chứa đựng nguy cơ lạm phát tiềm năng. Vì

thế kênh phát hành nàyngày càng ít được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới.

2.4.2 Kênh ngân hàng thương mại

Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, và lượng tiền cung ứng thêm

trong năm kếhoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ và nhu cầu vay vốn của

các tổ chức tín dụng, NHTWphát hành tiền bằng cách cho các tổ chức tín dụng vay

ngắn hạng dưới hình thức tái cấp vốn như:

-Cho vay đảm bảo bằng các chứng từ có giá

-Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá…

Page 14: nghiệp vụ phát hành tiền

Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số

lượng và chấtlượng tín dụng của các NH trung gian, bơm tiền ra lưu thông theo

mức độ đã được không chế để kiềmchế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế.

Tái cấp vốn được coi là hình thức phát triển lànhmạnh, vì nó dựa trên thương phiếu là

một loại giấy tờ có giá tượng trưng cho những món nợ về thươngmại và đằng sau nó

có vật tư hàng hóa. Qua việc cấp tín dụng NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩytoàn

bộ hệ thống NH trung gian tạo ra tiền, cũng như khai thông được năng lực thanh toán

cho họ bởivì không phải lúc nào hoạt động của các NH trung gian cũng diễn ra trôi

chảy thuận lợi, cũng có lúc,nhu cầu rút tiền lớn, NH trung gian lâm vào tình trạng

thiếu vốn. Đối với các NH trung gian, với tưcách là người “ đi vay vốn để cho vay”,

khi vốn khả dụng bị đe dọa, NHTW là chỗ dựa, là cứu tinhcủa họ, vì họ có khả năng

điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán bằngtiền trung

ương vừa được cung ứng.NHTW điều tiết hoạt động cho vay của các NH trung gian thông qua lãi suất tín dụng. Thôngthường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền gửi được nâng lên thì lãisuất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, làm sao dung hòa được 2 yêu cầu: nâng lãi suất huyđộng để thu hút được nguồn vốn và kìm chế lạm phát. Hạ lãi suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay, nângđỡ sản xuất.Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, NHTW tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi vàtiền vay của NH trung gian bằng lãi suất tái chiết khấu của mình, nhằm điều tiết cung cầu tín dụng. Đểbành trướng hay thu hẹp khối tiền tệ, NHTW áp dụng một lãi suất tái chiết khấu khích lệ hay làm nảnlòng các NH trung gian trong việc đi vay vốn NHTW, khi cần mở rộng tín dụng, NHTW hạ thấp lãi

suất tái chiết khấu, làm “rẻ” tín dụng để kích thích đầu tư. Ngược lại khi cần thắt chặt

tín dụng, NHTW

sẽ nâng lãi suất tái chiết khấu lên, làm “đắt” tín dụng để hạn chế đầu tư.

Tóm lại khi NHTW cho các tổ chức tín dụng vay sẽ đẫn đến tăng tiền nghĩa là

một khối lượngtiền được đưa vào lưu thông và khoảng tín dụng mà các NHTM nhận

được đã trở thành nguồn vốnnhằm mở rộng cho hoạt động đầu tư, cho vay đối với nền

kinh tế.

2.4.3 Kênh thị trường mở

Thị trường mở là một trong các cửa ngõ để NHTW phát hành tiền vào guồng

máy kinh tế, hoặcrút bớt khối tiền tệ lưu thông trong đó bằng cách mua hay bán các

lọai giấy tờ có giá ngắn hạn thôngqua các nghiệp vụ của thị trường mở, tức là thông

qua thị trường tiền tệ do NHTW tổ chức và chi phối.

Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở NHTW mua các chứng từ có giá trên thị

trường tiền tệ như:tín phiếu kho bạc, chứng từ có giá ngắn hạn khác. Khi NHTW

thực hiện nghiệp vụ mua là NHTW đãđưa một lượng tiền vào lưu thông, các chứng từ

có giá được NHTW nắm giữ trở thành tài sản Có củaNHTW, tương ứng với nó là sự

tăng lên một lượng tiền dự trữ của các NHTM hoặc lượng tiền mặt,làm tăng khối tiền

Page 15: nghiệp vụ phát hành tiền

tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, bằng cáchbán

các loại tín phiếu có giá ngắn hạn NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng

tiền tệ theo ýmuốn để ngăn chặn lạm phát. Phát hành tiền bằng việc mua các chứng

khóan có giá ngắn hạn trên thịtrường mở cũng được xem là một nghiệp vụ phát hành

có đảm bảo, bởi lẽ tiền tăng thêm trong lưuthông đã được cân đối bởi một lượng

chứng khoán.Nếu không có sự tham gia mua bán của NHTWtrên thị trường tiền tệ mà

chỉ có việc mua bán tín phiếu giữa các NH trung gian với nhau, thì khối tiềntệ nói

chung sẽ không thay đổi. Bởi vì một NH thương mại này bán tín phiếu cho các NH

thương mạikhác, thì trong tòan cục chỉ là sự chuyển dịch trái phiếu và sự di chuyển

ngược lại của một phần dự trữđang thừa từ NHTM này qua NHTM khác đang thiếu

mà thôi. Kênh phát hành thông qua nghiệp vụ thịtrường mở hiện nay đang được sử

dụng phổ biến ở các nước có thị trường tiền tệ phát triển vì có hiệuquả hơn rất nhiều

so với các kênh khác.

2.4.4 Kênh thị trường ngoại hối

Mỗi quốc gia trên thế giới đều có dự trữ vàng và ngoại tệ nhất định. Dự trữ

chính thức nằmtrong kho bạc của Chính phủ dưới dạng dự trữ quốc gia. Dự trữ này

không phải để đáp ứng nhu cầuchuyển đổi của công chúng cũng không phải để bảo

đảm giá trị tiền tệ phát hành, mà chúng nhằm thựchiện công dụng chính, đó là một

công cụ để NHTW can thiệp vào thị trường vàng và ngoại tê.

Bên cạnh dư trữ chính thức là dự trữ không chính thức, dự trữ không chính

thức hình thànhmột thị trường mua bán diễn biến rất sôi động, giá cả trên thị trường

này hết sức nhạy bén và có ảnhhưởng sâu sắc đến giá cả thị trường hàng hóacũng như

họat động chung của tòan bộ nền kinh tế.Chính vì thế, NHTW với tư cách là định chế

tài chính quản lý kinh tế vĩ mô của NN phải can thiệp vào

thị trường này khi cần thiết, thực hiên các nghiệp vụ mua hoặc bán trên thị trường này

bằng việc tungra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua ngọai tệ và

vàng, hoạt động này một mặt làmtăng dự trữ quốc gia, mặt khác làm gia tăng

lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế, và đây chính làphương thức phát hành tiền qua

kênh thị trường ngọai hối

Phát hành tiền thông qua kênh thị trường ngoại hối không chỉ không chỉ có ý nghĩa

tăng tiền

mà còn giúp NHTW thực hiện chính sách tỷ giá và sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối có

hiệu quả hơn.

Như vậy tùy theo từng điều kiện nhất định mà NHTW sử dụng các kênh phát

hành tiền cho phùhợp. Mặc dù tiền được phát hành theo kênh nào thì cũng nhằm

thưc hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ.

III/ Tác động của việc phát hành tiền đối với nền kinh tế:

Page 16: nghiệp vụ phát hành tiền

Một trong những chức năng cơ bản của NHTW là phát hành tiền.Về nguyên

tắc, việc phát hànhtiền trong lưu thông được thực hiện thông qua nghiệp vụ cung ứng

tiền trung ương cho nền kinh tế,bản chất của việc phát hành tiền là đưa vào lưu thông

giấy bạc ngân hàng mang nội dung tiền tín dụng,tính chất tín dụng của giấy bạc Ngân

hàng thể hiện tập trung ở nghiệp vụ tái cấp vốn dưới hình thứcchủ yếu là tái chiết

khấu thương phiếu hoặc các khỏan tín dụng ngắn hạn của các NH thương mại chocác

khách hàng của mình. Lượng tiền mà NHTW phát hành ra lưu thông tùy vào số lượng

ít hay nhiềumà có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với nền kinh tế. Khi NHTW

xác định đúng lượng tiền cầnthiết phát hành vào trong lưu thông sẽ làm kích thích tiêu

dùng, đầu tư và sản xuất.

Thông qua kênh ngân sách Nhà nước, một lượng tìền mới phát hành sẽ được

đưa vào lưu thôngqua con đường chi tiêu của Chính phù, góp phần giải quyết tình

hình bội chi của Chính phủ, tuy nhiênnếu lạm dụng cách phát hành này và nếu ngân

sách Nhà nước cứ tiếp tục bội chi và NHTW cứ tiếp tụcphát hành tiền cho Chính phủ

vay sẽ dẫn đến nguy cơ lạm phát tiềm tàng về sau. Từ 1992, NHNN ViệtNam đã

không phát hành tiền để bù dắp thâm hụt ngân sách, tuy nhiên theo luật NHNN thì

NHNN sẽtạm ứng cho ngân sách để xử lý thiếu hụt tạm thời của ngân sách (hay nói

cách khác là cho NN vaytiền). Như vậy để xử lý bội chi NN có thể vay từ NHNN. Kết

quả của việc NHTW cho nhà nước vaytiền để bù dắp bội chi sẽ làm cho lượng tiền cơ

bản đi vào lưu thông tăng lên đáp ứng cho nhu cầu chitiêu của Chính phủ vào đầu tư

xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các ngành kinh tế trọngđiểm, thực  hiện an

sinh xã hội hay các nhu cầu chi tiêu cần thiết khi mà thu từ ngân sách không đủ bùđấp

kịp thời. Tuy nhiên giải pháp này cũng có hai mặt, nó có thể gây ra lạm phát nếu Nhà

nước vay

quá nhiều tiền để chi tiêu, đặc biệt khi nguyên nhân gây thiếu hụt là do thiếu các

nguồn vốn đối ứng đểđầu tư phát triển gây tăng trưởng nóng và không cân đối với khả

năng tài chính quốc giaThông qua kênh ngân hàng trung gian, việc phát hành tiền ra

lưu thông qua con đường cấp tín

dụng cho các ngân hàng trung gian góp phần đáp ứng phương tiện thanh tóan cho nền

kinh tế phù hợp. với việc mở rộng hay thu hẹp thị trường hàng hóa, dịch vụ, đồng thời giúp cho hoạt động của ngânhàng thương mại diễn ra một cách trôi chảy thuận lợi. Qua kênh ngân hàng trung gian, NHTW làngười cho vay sau cùng, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kiềm chế lạm pháthoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái thì NHTW có thể tăng lượng tiền cungứng bằng cách giảm lãi suất tái chiết khấu và tăng hạn mức tín dụng từ đó sẽ làm tăng lượng tiền cungứng, thúc dẩy đầu tư phát triển sản xuất. Ngược lại khi nền kinh tế lạm phát, NHTW có thể tăng lãisuất tái chiết khấu và giảm hạn mức tín dụng từ đó làm giảm lượng tiền cho vay của các NHTG dẫnđến giảm lượng tiền trong lưu thông.

Page 17: nghiệp vụ phát hành tiền

Việc đưa tiền ra lưu thông thông qua kênh thị trường ngọai hối, nếu không có sự điều

tiết thíchhợp cũng dễ dàng dẫn đến nguy cơ lạm phát, như ta đã biết tình hình lạm

phát hai con số của Việt Namnăm 2007, do giá lương thực thực phẩm và giá dầu

lửa thế giới biến động dẫn đến tình trạng lạm phátở Việt Nam, nhưng tại sao cũng

cùng chịu sư ảnh hưởng của biến động giá đó mà 2 nước trong khuvực như Thái Lan,

và Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức một con số, đó là do khác biệt rõ rệt

nhấtgiữa Việt Nam và các quốc gia đó là tốc độ tăng cung tiền, cung tiền ở VN tăng

mạnh trong năm 2007là do vốn nước ngòai chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc NHNN

đóng vai trò là người mua ngọai tệcuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông, tuy

nhiên thông qua kênh này NHNN có thể góp phầnđiều chỉnh bình ổn lại thị trường

ngọai tê, bằng cách thực hiện các nghiệp vụ mua bán trên thị trườngnay, bằng việc

tung ra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua ngoại tệ và vàng, từ đó

làmtăng dự trữ quốc gia , mặt khác làm gia tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế.

Bên cạnh sự ảnhhưởng từ các kênh dẫn tiền vào lưu thông, thì việc đổi tiền, một trong

các nghiệp vụ phát hành tiền,nếu thực hiện không đúng thời điểm và dựa vào tình

hình phát triển kinh tế và nhu cầu về tiền tệ đểxác định đúng khối lượng tiền cần phát

hành cũng sẽ dẫn đến hậu quả tiêu cực cho sự phát triển kinhtế. Điển hình như lần đổi

tiền thứ tư của Nhà nước vào 14/9/1985 theo tỉ lệ 10đ tiền NHNN cũ ăn 1đtiền NHNN

mới, tuy nhiên lẽ ra trước khi làm cuộc cách mạng về tiền thì Chính phủ phải làm

cuộccách mạng về giá và lương, nhưng ta đã làm theo quy trình ngược: Tiền - Lương

- Giá, hậu quả là cuộcđổi tiền 1985 đã bị coi là không thành công nhất trong lịch sử

lưu thông tiền tệ Việt Nam, ngay sau khiđổi tiền tình hình lạm phát tiếp tục gia tăng

hơn bao giờ hết- chỉ 3,5 tháng sau ngày đổi tiền, Nhà nướcđã cho phát hành thêm vào

lưu thông một khối lượng lớn tiền tương đương 1,38 lần khối lượng tiềnmới đã phát

hành trong đợt đổi tiền trước đó để phục vụ công cuộc cải cách lương và giá. Tiếp

đólạilà một quá trình diễn biến phức tạp về quan hệ tiền- hàng và kết quả là lạm phát

đã không ngừng giatăng, như năm 1986 lạm phát lên đến 774% ngay đối với đồng

tiền mệnh giá mới đã gấp 10 lần đồngtiền mệnh giá cũ. Mặt khác sự can thiệp của

NHTW vào thị trường vàng và ngoại tệ sẽ ảnh hưởng tớitỷ giá hối đoái do đó sẽ có tác

động đến các hoạt động xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Cụ thể khi tỷ giá hối

đoái tăng sẽ làm cho đồng nội tệ giảm giá tương đối so với ngoại tệ từ đó hoạt động

xuấtkhẩu sẽ hưởng lợi. Khi tỷ giá hối đoái giảm thì xảy ra trường hợp ngược lại gây

ảnh hưởng đến cáncân thanh toán.

Thông qua thị trường mở, là một kênh phát hành tiền hiệu quả và linh hoạt của

NHTW .Thôngqua nghiệp vụ thị trường mở NHTW có thể điều tiết linh hoạt vốn khả

dụng của các tổ chức tín dụngtheo cả hai chiều bơm – hút từ đó điều tiết được lượng

tiền trong lưu thông phù hợp với nhu cầu củanền kinh tế

Page 18: nghiệp vụ phát hành tiền

Tóm lại tùy vào sự phát triển của nền kinh tế, mà NHTW cần thận trọng khi ra

quyết định sựdụng kênh nào đề phát hành tiền và xác định lưu lượng tiền bổ sung vào

lưu thông, nhằm tạo ra hiệuquả tích cực cho nền kinh tế, kích thích đầu tư sản xuất

phát triển, hạn chế được tình trạng lạm phát.

----------HẾT----------

Danh sách nhóm:

Hồ Trúc Quyên

Định Văn Tuấn Em

Nguyễn Trần Mộng Hân

Giã Thành Lộc

Nguyễn Hồ Thảo Ngân