mÔ hÌnh giẢm nghÈo tẠi mỘt sỐ cỘng ĐỒng dÂn tỘc … · chúng tôi hy vọng...

78
Nghiên cứu trường hợp tại Hà Giang, Nghệ An và Đăk Nông MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐIỂN HÌNH Ở VIỆT NAM

Upload: phamtuyen

Post on 25-Feb-2019

224 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 1

Nghiên cứu trường hợp tại Hà Giang, Nghệ An và Đăk Nông

Oxfam22 Lê Đại HànhHà Nội Việt NamĐT: 04 - 3945 4448Fax: 04 - 3945 4449Email: [email protected]

ActionAid Quốc tế tại Việt NamTầng 2, tòa nhà HEAC14 - 16 Hàm Long, Hà Nội Việt NamĐT: 04 - 3943 9866Fax: 04 - 3943 9872Email: [email protected]

MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNGDÂN TỘC THIỂU SỐ ĐIỂN HÌNH Ở VIỆT NAM

©A

AV-O

XFA

M-1

3051

0/A

MV

HÌN

H G

IẢM

NG

HÈO

TẠI M

ỘT SỐ

CỘN

G Đ

ỒN

G D

ÂN

TỘC TH

IỂU SỐ

ĐIỂN

HÌN

H Ở

VIỆT NA

MN

ghiên cứu trường hợp tại Hà G

iang, Nghệ An và Đ

ăk Nông

Page 2: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 3: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Huyện Quản Bạ, tỉnh Hà GiangXã Lùng Tám, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà GiangXã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang

Huyện Đak Glong, tỉnh Đăk NôngXã Quảng Khê, huyện Đak Glong, tỉnh Đăk NôngXã Đak Som, huyện Đak Glong, tỉnh Đăk Nông

Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ AnXã Châu Thôn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ AnXã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An

MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNGDÂN TỘC THIỂU SỐ ĐIỂN HÌNH Ở VIỆT NAM

Nghiên cứu trường hợp tại Hà Giang, Nghệ An và Đăk Nông

Hà Nội, tháng 3 năm 2013

Tỉ lệ nghèo (%)

Page 4: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 5: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

MỤC LỤC

LỜI TỰA IIILỜI CẢM ƠN VTỪ VIẾT TẮT VITÓM LƯỢC VII1. GIỚI THIỆU 3 1.1. Tình trạng nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số 3 1.2. Tại sao một bộ phận người DTTS không nghèo? 4 1.3. “Mô hình giảm nghèo” 5 1.4. Cách tiếp cận “điểm sáng” 6 1.5. Mục tiêu và Phương pháp nghiên cứu 7

2. NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH 15 2.1. Nghèo và giảm nghèo theo cảm nhận của đồng bào DTTS 15 2.2. Đặc trưng của mô hình giảm nghèo ở vùng DTTS 17 2.3. Các yếu tố tạo nên mô hình giảm nghèo tại các cộng đồng DTTS 20 2.3.1. Tiên phong 21 2.3.2. Lan tỏa 21 2.3.3. Gắn kết cộng đồng 23 2.3.4. Tận dụng lợi thế 25 2.3.5. Thích ứng với điều kiện mới 29 2.3.6. Đa dạng hóa sinh kế 32 2.3.7. Phòng chống rủi ro 37 2.3.8. Quản trị ở cấp cơ sở 41 2.3.9. Vai trò của các chính sách phát triển DTTS – Một số bài học rút ra 44

3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 53 3.1. Kết luận 53 3.2. Khuyến nghị 56

TÀI LIỆU THAM KHẢO 61

Page 6: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 7: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

LỜI TỰA1

Trong các năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách giảm nghèo hướng đến đồng bào các dân tộc thiểu số, tập trung vào những huyện và xã nghèo nhất. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đã có những mô hình giảm nghèo thành công tại các cộng đồng dân tộc thiểu số. Đến năm 2010, khoảng một phần ba đồng bào dân tộc thiểu số tại Việt Nam đã thoát nghèo 2.

Trong bối cảnh đó, ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (AAV) và Oxfam, những tổ chức làm việc lâu năm hỗ trợ người nghèo và thiệt thòi nhất ở Việt Nam đã cùng với các đối tác địa phương tiến hành một nghiên cứu về vai trò của các yếu tố xã hội và chiến lược sinh kế đối với mô hình giảm nghèo thành công tại các cộng đồng dân tộc thiểu số.

Nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ của dự án “Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia” do AAV và Oxfam tổ chức thực hiện từ năm 2007 đến năm 2013.

Thông qua nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn đóng góp một số khuyến nghị cho thảo luận chính sách ở cấp quốc gia và cấp địa phương nhằm nhân rộng các mô hình giảm nghèo thành công tại các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ích và thú vị trong báo cáo “Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam” này.

Thay mặt ActionAid Quốc tế tại Việt Nam Thay mặt Oxfam

Hoàng Phương Thảo Andy Baker Trưởng Đại diện Giám đốc

1Nghiên cứu này có sự đóng góp của nhiều tổ chức và cá nhân. Các ý kiến, quan điểm, kết luận, và đề xuất trình bày trong nghiên cứu này không nhất thiết là quan điểm chính sách của ActionAid Quốc tế tại Việt Nam, Oxfam hay tổ chức và nhà nghiên cứu nào có tài liệu được trích dẫn trong báo cáo này.2Theo chuẩn nghèo chi tiêu mới năm 2010 do Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê đề xuất (WB 2012).

Lời tựa | III

Page 8: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 9: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

LỜI CẢM ƠNBáo cáo “Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam” này là nỗ lực tập thể, và không thể hoàn thành nếu thiếu sự đóng góp quan trọng của nhiều người.

Chúng tôi xin cảm ơn lãnh đạo và cán bộ của các tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (AAV) và Oxfam đã đóng góp những ý kiến quí báu trong suốt các bước thiết kế, triển khai thực địa và viết báo cáo. Một số cán bộ của AAV và Oxfam đã trực tiếp tham gia các chuyến thực địa, chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm hữu ích về phương pháp và nội dung nghiên cứu.

Chúng tôi xin cảm ơn sự cho phép và tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu này của UBND, các Sở ban ngành liên quan ở cấp tỉnh và cấp huyện tại các tỉnh Nghệ An, Hà Giang và Đăk Nông. Chúng tôi xin cảm ơn các cán bộ điều phối thuộc Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Quế Phong (Nghệ An), Ban Quản lý Chương trình hỗ trợ phát triển AAV huyện Quản Bạ (Hà Giang) và Ban Quản lý Dự án Oxfam huyện Đăk Glong (Đăk Nông) đã phối hợp chặt chẽ, dành nhiều thời gian và nỗ lực để hỗ trợ các chuyến thực địa. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn các cán bộ xã và thôn bản đã tích cực tham gia trong các chuyến thực địa.

Cuối cùng, chúng tôi xin bày tỏ những lời cảm ơn chân thành nhất tới những người dân nam và nữ tại các thôn bản đã dành thời gian chia sẻ những suy nghĩ, trải nghiệm về đời sống, và các yếu tố tạo nên mô hình giảm nghèo thành công tại địa phương. Nếu không có sự tham gia tích cực của họ, đợt nghiên cứu này đã không thể thực hiện được.

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của mọi người quan tâm3 . Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

Nhóm tư vấn công ty Trường Xuân (Ageless)

Hoàng Xuân Thành (trưởng nhóm), cùng vớiMai Thanh SơnLưu Trọng QuangNguyễn Thị HoaTrương Tuấn AnhĐinh Thị Giang

3Các ý kiến đóng góp có thể gửi cho: anh Hoàng Xuân Thành, Trưởng nhóm tư vấn, Giám đốc Công ty Trường Xuân (Ageless): (04) 39434478 (văn phòng), 091 334 0972 (di động), email: [email protected]; chị Trần Hồng Điệp, Cán bộ Chương trình Vận động Chính sách và Truyền thông, Oxfam, (04) 39454448, email: [email protected]; chị Dương Minh Nguyệt, Cán bộ Điều phối Chính sách, ActionAid Quốc tế tại Việt Nam, (04) 39439866, email: [email protected].

Lời cảm ơn | V

Page 10: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

TỪ VIẾT TẮTAAV ActionAid Quốc tế tại Việt NamABCD Cách tiếp cận phát triển cộng đồng dựa trên nội lực (tiềm năng, thế mạnh) của cộng đồngANLT An ninh lương thựcANTT An ninh trật tựBBĐ Bất bình đẳngBHYT Bảo hiểm y tếBQL Ban Quản lýBTXH Bảo trợ xã hộiBVTV Bảo vệ thực vậtCĐ Cao đẳngChương trình 135 Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn (theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ)Chương trình 30a Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ), hiện nay là 62 huyện do chia tách địa giới hành chínhCSHT Cơ sở hạ tầngCTMTQG GN Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèoĐH Đại họcDTTS Dân tộc thiểu sốHND Hội Nông dânHTX Hợp tác xãKHHGĐ Kế hoạch hóa gia đìnhKHKT Khoa học kỹ thuậtKT-XH Kinh tế - xã hộiLĐTB-XH Lao động, Thương binh và Xã hộiNghị quyết 80 Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020NGOs Các Tổ chức phi chính phủNHCSXH Ngân hàng Chính sách Xã hộiNN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thônPCBLGĐ Phòng chống bạo lực gia đìnhPIM Quản lý thủy nông có sự tham giaTC Trung cấpTCTK Tổng cục Thống kêTH Tiểu họcTHCS Trung học cơ sởTHPT Trung học phổ thôngUNDP Chương trình Phát triển Liên hợp quốcVASS Viện Khoa học Xã hội Việt NamVHLSS Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt NamWB Ngân hàng Thế giớiXKLĐ Xuất khẩu lao động

VI | Từ viết tắt

Page 11: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

TÓM LƯỢC

Nghiên cứu này áp dụng cách tiếp cận “điểm sáng” (“positive deviance”) trong phân tích các “mô hình giảm nghèo”, nhằm tìm hiểu những yếu tố dẫn đến những hộ gia đình và cộng đồng DTTS điển hình có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống tốt hơn các hộ gia đình và cộng đồng khác trong cùng bối cảnh.

Kết quả khảo sát cho thấy, các “mô hình giảm nghèo” tại các vùng miền núi DTTS mang đặc trưng thôn bản rõ rệt. Thực tế không có “mô hình giảm nghèo” lý tưởng. Các “mô hình giảm nghèo” luôn tự vận động liên tục trong một bối cảnh đang thay đổi rất nhanh. Do đó, bản chất của “nhân rộng mô hình giảm nghèo” là nhân rộng những cách tiếp cận, phương pháp, qui trình dựa trên sự tôn trọng đa dạng văn hóa và phát huy tính chủ thể tích cực của đồng bào DTTS ở mỗi thôn bản.

Đồng bào DTTS đã ở một trình độ phát triển cao hơn so với trước, do đó nhu cầu của họ đã mở rộng hơn và hướng đến chất lượng cuộc sống tốt hơn. Thấu hiểu nhận thức đa chiều của người dân về giảm nghèo - không chỉ là tăng thu nhập nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản, mà còn là cải thiện các mặt văn hóa, xã hội, tâm linh và tiếp cận thị trường – trở thành điểm xuất phát quan trọng cho công cuộc giảm nghèo ở vùng DTTS.

Mỗi “mô hình giảm nghèo” được khảo sát đều dựa trên các yếu tố tiên phong, lan tỏa, gắn kết cộng đồng, tận dụng lợi thế, thích ứng với điều kiện mới, đa dạng hóa sinh kế, phòng chống rủi ro và quản trị địa phương. Các yếu tố này có mức độ thành công khác nhau ở từng cộng đồng DTTS, dẫn đến kết quả giảm nghèo và cải thiện đời sống khác nhau.

Tại các “mô hình giảm nghèo” ở các cộng đồng DTTS đều có vai trò then chốt của những người tiên phong trong áp dụng giống mới, kỹ thuật mới, cây con mới nhằm phát triển kinh tế hộ, hoặc trong xây dựng các mô hình liên kết, hợp tác và vận động người dân tham gia. Đa số người tiên phong dựa vào nỗ lực của bản thân, tự mình chấp nhận rủi ro, không phụ thuộc vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước hay các chương trình – dự án.

Lan tỏa các thực hành mới trong cộng đồng DTTS là quá trình mang tính lựa chọn, cần thời gian nhất định và qua những kênh nhất định. Do đó, quá trình lan tỏa các thực hành mới cần thực hiện từng bước, tạo cơ hội cho đồng bào DTTS kiểm chứng và học hỏi từ thực tế.

Gắn kết cộng đồng cao tại các “mô hình giảm nghèo” là tác nhân quan trọng để tăng hiệu quả sinh kế, lan tỏa và duy trì các thực hành mới. Duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội giúp cải thiện nguồn vốn xã hội của người nghèo, là điểm tựa của họ khi gặp khó khăn.

Tận dụng lợi thế của mỗi thôn bản giúp cho đời sống hộ gia đình DTTS trong thôn bản đi lên. Các chiến lược sinh kế hộ gia đình DTTS sẽ có cơ hội thành công cao hơn khi dựa trên những lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng. ngành nghề thủ công truyền thống và đặc sản, quan hệ xã hội, các dòng tiền có thể huy động… của từng thôn bản.

Khả năng thích ứng với điều kiện mới rất quan trọng tại các “mô hình giảm nghèo”. Ngay cả khi gặp những hệ lụy không mong muốn của chính sách, một số cộng đồng DTTS có

Tóm lược | VII

Page 12: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

thể tự điều chỉnh theo tập quán truyền thống có lợi cho người dân, tuy nhiên những thỏa thuận cộng đồng này còn thiếu căn cứ pháp lý để có thể được công nhận và bảo vệ.

Đa dạng hóa sinh kế là chiến lược cốt lõi để thoát nghèo của các hộ gia đình DTTS ở các “mô hình giảm nghèo”. Hiểu rõ con đường đi lên của hộ DTTS tại từng thôn bản rất quan trọng, là cơ sở để thiết kế các hỗ trợ sinh kế phù hợp.

Năng lực phòng chống rủi ro của người dân và cộng đồng DTTS là yếu tố còn thiếu hụt, ảnh hưởng bất lợi đến tính bền vững của các “mô hình giảm nghèo”.

Quản trị ở cấp cơ sở là yếu tố bao trùm lên những yếu tố đã nêu trên của “mô hình giảm nghèo” ở một cộng đồng DTTS. Trong đó, đội ngũ nòng cốt ở thôn bản nhiệt tình, năng động và có trách nhiệm là rất quan trọng trong việc lắng nghe tiếng nói của người dân, vận động người dân thực hiện các sáng kiến cộng đồng và tham gia vào các chương trình – dự án. Các thiết chế phi chính thức và các hình thức tổ nhóm hợp tác đa dạng có thể thực hiện tốt các chức năng cộng đồng, kinh tế và xã hội có lợi cho người nghèo.

Tác động của các chính sách và chương trình – dự án đến cải thiện đời sống đồng bào DTTS tại các “mô hình giảm nghèo” được thể hiện rất rõ về mọi mặt, như tiếp cận CSHT, giáo dục, y tế, tín dụng ưu đãi, giống mới, thông tin KHKT, thông tin thị trường, nhà ở... Không phải một chính sách hay chương trình – dự án đơn lẻ nào, mà là tổng hòa của rất nhiều chính sách và chương trình – dự án đã góp phần tạo nên những “mô hình giảm nghèo”, dù rằng ở từng thời điểm và từng địa bàn chính sách này có thể có tác động mạnh hơn chính sách khác. Tuy nhiên, chính sách phát triển đối với DTTS còn những hạn chế. Nếu các thiếu hụt chính sách được khắc phục, thì tiến trình giảm nghèo của đồng bào DTTS sẽ nhanh và bền vững hơn, và sẽ có nhiều “mô hình giảm nghèo” hơn nữa.

Dựa trên kết quả phân tích về vai trò quan trọng của các yếu tố xã hội ở cấp cộng đồng và chiến lược sinh kế của hộ gia đình đối với các “mô hình giảm nghèo”, nghiên cứu này nêu một số đề xuất phục vụ thảo luận chính sách nhằm đẩy mạnh giảm nghèo bền vững ở các cộng đồng DTTS tại Việt Nam như sau.

Về cách tiếp cận và định hướng chính sách giảm nghèo

1. Xây dựng các chương trình giảm nghèo ở các địa bàn DTTS với nguồn lực lớn hơn, lấy thôn bản làm trung tâm. Tập trung đầu tư vào các thôn bản DTTS khó khăn nhất. Khảo sát kỹ lưỡng đặc điểm của từng thôn bản, từng tộc người trước khi lập bất cứ dự án giảm nghèo nào ở vùng DTTS.

2. Thiết kế một chương trình đồng bộ về cải thiện quản trị địa phương tại các cộng đồng DTTS dựa trên tăng quyền năng và tiếng nói của người dân và các thiết chế thôn bản, từ đó tăng cường trách nhiệm giải trình với bên dưới của các cấp chính quyền và các cơ quan dịch vụ công.

3. Tạo cơ sở pháp lý rõ ràng và thực hiện các biện pháp thúc đẩy vai trò của cộng đồng dân cư trong việc quản lý, sử dụng các nguồn lực tự nhiên theo tập quán truyền thống.

4. Tìm kiếm các nhân tố tiên phong trong giảm nghèo, xác định kênh lan tỏa để từ đó có những giải pháp chính sách cụ thể nhằm nhân rộng các “điểm sáng” giảm nghèo trong cộng đồng DTTS theo cách tiếp cận “phát triển cộng đồng dựa trên nội lực (tiềm năng, thế mạnh) của cộng đồng” (cách tiếp cận “ABCD”)

5. Nâng cao vai trò của các cơ quan chuyên môn (Ủy ban Dân tộc, Bộ NN&PTNT…) trong

VIII | Tóm lược

Page 13: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

thực hiện dự án “nhân rộng mô hình giảm nghèo” trong CTMTQG GN bền vững giai đoạn 2012 – 2015

Về thực hiện chính sách, chương trình – dự án giảm nghèo

6. Nâng cao chất lượng xây dựng, vận hành và bảo dưỡng các công trình CSHT ở vùng DTTS. Riêng đối với các công trình nước sạch và thủy lợi nhỏ, cần áp dụng triệt để qui trình quản lý thủy nông có sự tham gia (PIM).

7. Thiết kế mỗi dự án giảm nghèo với hỗ trợ mô hình sinh kế tại các thôn bản DTTS có thời hạn hoạt động đủ dài (ít nhất 3 năm). Đầu tư hỗ trợ liên tục và giảm dần trong thời hạn dự án nhằm duy trì và lan rộng mô hình. Hạn chế cho không 100% đối với hỗ trợ trực tiếp về sinh kế. Cũng cần cải tiến các định mức chi phí trong các dự án giảm nghèo, theo hướng dành chi phí thích đáng trong mỗi dự án cho các yếu tố “phần mềm” (khảo sát, truyền thông, tập huấn theo từng bước mùa vụ, hỗ trợ các thiết chế cộng đồng, theo dõi và đánh giá…).

8. Áp dụng các phương pháp, qui trình, công cụ (đã được tổng kết và tài liệu hóa) nhằm tăng cường sự tham gia, tiếng nói và quyền làm chủ của phụ nữ và nam giới DTTS trong các dự án giảm nghèo. Đặc biệt hỗ trợ những người tiên phong, lãnh đạo là phụ nữ trong các hoạt động kinh tế và phát triển cộng đồng. Ưu tiên hỗ trợ đối tượng thanh niên DTTS. Chú trọng hướng dẫn đồng bào DTTS nghèo về lập kế hoạch, hạch toán kinh tế hộ gia đình.

9. Lựa chọn các mô hình đa dạng hóa sinh kế theo từng bước tiệm tiến, kết hợp cây ngắn ngày (cây lương thực, hoa màu) và cây dài ngày (cây công nghiệp) trên cơ sở xen canh, luân canh, gối vụ, rải vụ. Tránh giới thiệu cho hộ nghèo DTTS những mô hình sinh kế cần đầu tư thâm canh lớn, sử dụng quá nhiều lao động, khó mua giống, khó bán, nhiều rủi ro về dịch bệnh và giá cả thị trường… Ưu tiên các mô hình sinh kế dựa trên tri thức bản địa của đồng bào DTTS theo phương châm “mỗi thôn bản một sản phẩm nổi bật”; kết hợp sản xuất nông nghiệp và việc làm phi nông nghiệp bền vững.

10. Áp dụng rộng rãi phương pháp khuyến nông “từ nông dân đến nông dân” trên cơ sở học hỏi từ người dân, phát huy vai trò lan tỏa của những người tiên phong. Cần gấp rút xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ khuyến nông đủ năng lực và bám sát cơ sở, chú trọng hỗ trợ người dân tự nhân rộng những kinh nghiệm và mô hình tốt đang có ngay trong các cộng đồng DTTS. Phát triển các tổ nhóm nông dân kết hợp giữa người nghèo và người không nghèo (người tiên phong) dựa trên các liên kết truyền thống trong cộng đồng. Hỗ trợ đối ứng cho địa phương thực hiện dự án liên kết giữa các doanh nghiệp, HTX và người dân có mục tiêu tạo việc làm, canh tác theo hợp đồng bền vững và đảm bảo lợi ích của người dân ở các vùng DTTS

11. Kết nối các hỗ trợ về sinh kế với các cải tiến về thể chế giảm nghèo tại địa phương. Cần áp dụng rộng rãi chính sách đầu tư trọn gói cho cấp xã và thôn bản bằng các nguồn tài chính phân cấp (dưới dạng “quỹ phát triển cộng đồng”), lồng ghép với các hỗ trợ mạnh và liên tục về nâng cao năng lực lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội có sự tham gia, quản lý tài chính và theo dõi - giám sát cho cấp xã và thôn bản.

Tóm lược | IX

Page 14: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 15: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 1

Phần 1GIỚI THIỆU

Page 16: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 17: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 3

1. GIỚI THIỆU

1.1. Tình trạng nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số

Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách giảm nghèo hướng đến đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS)4 tập trung vào những huyện và xã nghèo nhất, điển hình là Chương trình 135, Chương trình 30a và Nghị quyết 80. Đời sống đồng bào DTTS đã có sự cải thiện về mọi mặt trong thời gian qua. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo trong đồng bào DTTS giảm còn chậm. Nghèo tại Việt Nam ngày càng tập trung ở đồng bào DTTS. Cụ thể, đồng bào DTTS chiếm dưới 15% tổng dân số cả nước nhưng lại chiếm 47% trong tổng số người nghèo vào năm 2010 (so với 28% vào năm 1998)5 . Trên toàn quốc, có 66% đồng bào DTTS sống ở mức dưới chuẩn nghèo vào năm 2010, trong khi đó chỉ có 13% đồng bào dân tộc đa số (người Kinh) sống ở mức dưới chuẩn nghèo (WB 2012).

Đã có nhiều đánh giá và nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân nghèo của đồng bào DTTS tại Việt Nam. Ngay từ năm 1998, Jamieson và các cộng sự (1998) đã khái quát những khó khăn và thách thức phát triển ở các vùng DTTS thành 4 vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau, bao gồm: i) Nghèo đói; ii) Sức ép dân số; iii) Môi trường bị suy thoái; và iv) Sự phụ thuộc của đồng bào DTTS vào các hệ thống bên ngoài cũng như sự lề hóa của nền kinh tế các DTTS.

Các huyện nghèo trong cả nước thuộc Chương trình 30a đều có đông đồng bào DTTS. Văn kiện Chương trình 30a của Chính phủ ban hành năm 2008 đã nhận định: “Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ-TBXH đến cuối năm 2006, cả nước có 61 huyện (gồm 797 xã và thị trấn) thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách và dành nhiều nguồn lực để ưu tiên phát triển vùng này, nhưng mức độ chuyển biến còn chậm, đời sống của đồng bào DTTS vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao gấp 3,5 lần bình quân cả nước… Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do các huyện này đều nằm ở vùng núi, địa hình chia cắt, diện tích tự nhiên rộng, nhưng diện tích đất canh tác ít; điều kiện thời tiết không thuận lợi, thường xuyên xảy ra lũ quét, lũ ống; dân số gồm 2,4 triệu người, trong đó trên 90% là đồng bào DTTS, sống phân tán, thu nhập thấp (bình quân 2,5 triệu đồng/người/năm) chủ yếu từ nông nghiệp nhưng trình độ sản xuất còn lạc hậu; cơ sở hạ tầng vừa thiếu, vừa kém; thu ngân sách trên địa bàn mỗi huyện bình quân 3 tỷ đồng/năm. Các nguồn hỗ trợ của Nhà nước còn phân tán, thiếu đồng bộ, hiệu quả thấp, chưa hỗ trợ đúng mức cho phát triển sản xuất; đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu và thiếu cán bộ khoa học, kỹ thuật; chưa thu hút được các doanh nghiệp đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước ở một bộ phận cán bộ và dân cư còn nặng nên đã hạn chế phát huy nội lực và sự nỗ lực vươn lên...”

Gần đây, có thể kể đến báo cáo phân tích xã hội quốc gia năm 2009 của Ngân hàng thế giới (WB 2009), trong đó đã tổng kết các nhóm DTTS đang gặp bất lợi ở 6 yếu tố cơ bản dẫn đến kết quả sinh kế thấp hơn so với nhóm đa số, đó là bất lợi về tiếp cận giáo dục, di chuyển lao động, tín dụng, đất sản xuất, tiếp cận thị trường và định kiến của nhóm đa số

4 Thuật ngữ “dân tộc” trong nghiên cứu này được hiểu theo nghĩa “tộc người” (ethnicity). Thuật ngữ “dân tộc thiểu số - DTTS” (ethnic minorities) để chỉ các tộc người không phải là người Kinh – tộc người đa số tại Việt Nam. Thuật ngữ “cộng đồng DTTS” (ethnic minority community) để chỉ một nhóm xã hội gồm những người DTTS sống chung trong một môi trường và có cùng các mối quan tâm chung, trong nghiên cứu này được hiểu là những người DTTS sinh sống trên cùng địa bàn thôn bản.5 Các số liệu về nghèo DTTS tại Việt Nam (theo số liệu VHLSS) không bao gồm người Kinh và người Hoa.

Page 18: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số4

đối với các nhóm DTTS. Không có một yếu tố duy nhất giải thích sự khác biệt về mức sống giữa các nhóm DTTS và nhóm đa số, mà 6 yếu tố trên kết hợp lại tạo thành một “vòng luẩn quẩn” dẫn đến nghèo trong đồng bào DTTS giảm chậm.

Mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, tính dễ tổn thương ở các cộng đồng DTTS tại Việt Nam với biến đổi khí hậu và thiên tai đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu của các cơ quan phát triển Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới (WB) và các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Tổng hợp ý kiến từ các nghiên cứu đó, Gay McDougall (2010), một chuyên gia độc lập về các vấn đề DTTS của Liên hợp quốc, chỉ rõ: “Biến đổi khí hậu có thể làm cho mực nước biển tăng lên, có khả năng ảnh hưởng đến hàng triệu người sống ở vùng đồng bằng và vùng ven biển, đòi hỏi phải tái định cư hàng loạt ở các khu vực miền núi… Và điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến diễn biến kinh tế - xã hội của các cộng đồng DTTS”.

Dựa trên kết quả khảo sát tại các tỉnh Lạng Sơn, Hải Dương, Kon Tum, Bình Thuận và An Giang, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS 2011) đã phân tích bối cảnh nghèo của đồng bào DTTS, trong đó đề cập đến những khó khăn chính về cơ sở hạ tầng, tạo việc làm, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, chất lượng giáo dục và các rào cản ngôn ngữ.

Nghiên cứu của Baulch và Vũ (2012) phân tích vai trò của đặc điểm (gồm đặc điểm nhân khẩu hộ gia đình, trình độ học vấn, sở hữu đất, đặc điểm xã…) và hiệu quả thu nhập6 của các đặc điểm (do ảnh hưởng của các yếu tố không quan sát được qua điều tra mức sống, ví dụ như chất lượng đất, chất lượng giáo dục, các rào cản văn hóa, định kiến và kỳ thị với đồng bào DTTS…) đến sự khác biệt về thu nhập/chi tiêu giữa nhóm dân tộc đa số và các nhóm DTTS, dựa trên số liệu VHLSS 2010 (cập nhật một nghiên cứu tương tự trước đó dựa trên số liệu VHLSS 2006). Khác biệt về đặc điểm đóng góp gần một nửa vào khác biệt về mức sống giữa nhóm đa số và các nhóm DTTS; ngược lại, khác biệt về hiệu quả thu nhập đóng góp trên một nửa vào sự khác biệt về mức sống. Nghiên cứu cũng cho thấy, thu nhập từ việc làm phi nông nghiệp, kinh doanh, dịch vụ và tiền gửi chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhiều trong thu nhập của nhóm DTTS so với nhóm đa số.

Báo cáo của Oxfam và AAV (2012) tổng hợp kết quả theo dõi nghèo nông thôn tại mạng lưới các điểm quan trắc giai đoạn 2007-2011 cũng cho thấy mức độ giảm nghèo không đồng đều giữa các địa bàn dân cư. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo thu nhập của Chính phủ tại các vùng DTTS giảm chậm và còn ở mức rất cao. Cuộc sống của đồng bào DTTS còn rất khó khăn với những bất lợi đa chiều, điển hình là bất lợi về điều kiện sống (nước sinh hoạt, nhà vệ sinh), tiếp cận thị trường, việc làm phi nông nghiệp và chống đỡ rủi ro. Tỷ lệ hộ thuần làm nông nghiệp còn khá cao, trong khi đây là một tiêu chí nghèo quan trọng theo cảm nhận của người dân. Tình trạng “thiếu ăn” vào thời điểm giáp hạt, gặp thiên tai dịch bệnh vẫn là thách thức lớn đối với một bộ phận dân cư ở vùng DTTS. Ngay trong một cộng đồng cũng có nhiều nhóm gặp khó khăn đặc thù, như nhóm nghèo kinh niên, nhóm nghèo tạm thời, nhóm nghèo dễ bị tổn thương, và nhóm cận nghèo hoặc mới thoát nghèo, cần có chính sách hỗ trợ phù hợp với từng nhóm.

1.2. Tại sao một bộ phận người DTTS không nghèo?

Báo cáo của WB (2012) cho thấy, có 34% người DTTS không thuộc diện nghèo (theo chuẩn nghèo chi tiêu năm 2010 do WB/TCTK đề xuất). “Tại sao khoảng một phần ba

6 Bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như chất lượng đất, chất lượng giáo dục, rào cản văn hóa, thành kiến và phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số - những yếu tố không được tính đến trong các nghiên cứu trước đó của VHLSS.

Page 19: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 5

người DTTS đã thoát nghèo?” là một câu hỏi có ý nghĩa. Trả lời câu hỏi này sẽ giúp bổ sung các thông tin hữu ích cho việc thiết kế và thực hiện tốt hơn các chính sách, chương trình giảm nghèo ở vùng DTTS.

Một số nghiên cứu định tính gần đây có những nỗ lực bước đầu nhằm tài liệu hóa các chiến lược thoát nghèo của đồng bào DTTS. Nghiên cứu do WB và Oxfam phối hợp thực hiện trong năm 2011 về động lực giảm nghèo dài hạn tại Việt Nam chỉ ra rằng, cải thiện về sinh kế nông nghiệp được coi là yếu tố chính dẫn đến cải thiện đời sống trong những năm 1990; sang đến các năm 2000 việc làm phi nông nghiệp, đặc biệt là lao động di cư, đóng vai trò ngày càng lớn hơn. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây hiệu quả của di cư bị chững lại. Triển vọng tiếp tục cải thiện sinh kế bền vững đang gặp nhiều khó khăn, thách thức ở các cộng đồng DTTS, đặc biệt liên quan đến những hạn chế về chất lượng lao động và khả năng di chuyển lao động (Nguyễn Tam Giang et al. 2012).

Nghiên cứu của Andrew Wells-Dang (2012) lần đầu tiên áp dụng cách tiếp cận “lệch chuẩn tích cực” (“positive deviance”) vào việc tài liệu hóa các yếu tố tạo nên “điểm sáng” giảm nghèo tại một số cộng đồng DTTS có tốc độ giảm nghèo nhanh và chi tiêu bình quân đầu người tăng khá trong 10 năm qua. Nghiên cứu chỉ ra con đường thoát nghèo của các cộng đồng DTTS khảo sát là: sản xuất nông sản hàng hóa (xuất phát từ sản xuất tự cấp tự túc), tiếp theo là thâm canh rồi đa dạng hóa (trong nông nghiệp, thương mại, dịch vụ), cuối cùng là hợp nhất với sự đầu tư vào giáo dục. Tác giả cho rằng cần có thêm các nghiên cứu khác nhằm kiểm định giả thuyết trong các bối cảnh khác nhau của các nhóm DTTS đa dạng.

Mặc dù đã có những nghiên cứu về nguyên nhân nghèo và động lực giảm nghèo của đồng bào DTTS, hiện đang còn thiếu các nghiên cứu chuyên sâu về các “mô hình giảm nghèo” trong các cộng đồng DTTS.

Trong khuôn khổ dự án “Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia”, một nghiên cứu của Oxfam và AAV (2012) đã bước đầu tổng kết những chiến lược thoát nghèo khác nhau của hộ gia đình nông thôn tại các điểm quan trắc trong giai đoạn 2007-2011, dựa trên sự kết hợp giữa phát triển sản xuất nông nghiệp (đa dạng hóa,thâm canh dựa vào đất), tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp (bao gồm cả di chuyển lao động) và đầu tư vào học hành của con cái. Tiếp nối nghiên cứu nêu trên, Oxfam và AAV đã tổ chức thực hiện một chuyên đề nghiên cứu về “mô hình giảm nghèo” tại một số cộng đồng DTTS điển hình, nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng khiến cho cộng đồng này, hộ gia đình này có đời sống tốt hơn cộng đồng khác, hộ gia đình khác trong cùng bối cảnh.

1.3. “Mô hình giảm nghèo”

Tại Việt Nam, thuật ngữ “mô hình giảm nghèo” có thể hiểu theo 3 cách sau đây: • “Mô hình giảm nghèo” căn cứ vào kết quả (“điểm sáng” giảm nghèo) - là những cộng

đồng và hộ gia đình có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống tương đối tốt so với những cộng đồng và hộ gia đình khác trong cùng bối cảnh.

• “Mô hình giảm nghèo” căn cứ vào quá trình - là những cách làm mới, sáng tạo, thí điểm hướng đến giảm nghèo tại từng địa phương. Đây là cách hiểu phổ biến nhất của cán bộ cơ sở và người dân, thường gắn với các “mô hình sinh kế”, “mô hình khuyến nông” hoặc “mô hình tổ chức thực hiện” (ví dụ: mô hình lúa chất lượng cao, mô hình liên kết với doanh nghiệp, mô hình quỹ phát triển cộng đồng…)

• “Mô hình giảm nghèo” căn cứ vào thực hiện chính sách -là các tiểu dự án thuộc dự án “Nhân rộng mô hình giảm nghèo” trong CTMTQG GN do ngành LĐ-TBXH chủ trì. Thời

Page 20: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số6

“Mô hình giảm nghèo” theo cách hiểu dựa vào kết quả (“điểm sáng” giảm nghèo) là đối tượng phân tích của nghiên cứu này. Trong nghiên cứu sẽ khảo sát một số cộng đồng DTTS điển hình có kết quả giảm nghèo và cải thiện đời sống tương đối tốt so với các cộng đồng DTTS khác trong cùng một huyện, từ đó tìm hiểu các yếu tố thành công làm nên các “điểm sáng” giảm nghèo.

1.4. Cách tiếp cận “điểm sáng”

Nghiên cứu này áp dụng cách tiếp cận “điểm sáng” (“positive deviance” –lệch chuẩn tích cực) trong phân tích các “mô hình giảm nghèo” – những hộ gia đình và cộng đồng DTTS điển hình có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống tốt hơn các hộ gia đình và cộng đồng khác trong cùng một huyện.

Thay vì đặt câu hỏi “tại sao nhiều hộ gia đình và cộng đồng DTTS nghèo?” nghiên cứu này đặt câu hỏi ngược lại “tại sao một số hộ gia đình và cộng đồng DTTS không

HỘP 1. Dự án “nhân rộng mô hình giảm nghèo”

“Nhân rộng mô hình giảm nghèo” là một dự án thuộc CTMTQG GN giai đoạn 2006-2010 (theo Quyết định số 20 /2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ). Trong giai đoạn này, Bộ LĐ-TBXH tập trung xây dựng 3 loại mô hình là: giảm nghèo ở các vùng đặc thù, giảm nghèo liên kết giữa người nghèo với doanh nghiệp và giảm nghèo gắn với củng cố an ninh – quốc phòng. Các mô hình giảm nghèo hiện nay về bản chất là các “tiểu dự án hỗ trợ sinh kế” hoặc “mô hình khuyến nông” kết hợp giữa tập huấn, hướng dẫn sản xuất với hỗ trợ vật tư, con giống, công cụ sản xuất cho hộ nghèo, nhóm hộ nghèo (cho không hoặc cho vay quay vòng).

Theo báo cáo của Cục BTXH, Bộ LĐ-TBXH (2012), riêng trong năm 2011, 105 mô hình giảm nghèo đã được thực hiện ở 117 xã thuộc 35 tỉnh, với tổng số vốn 40 tỷ đồng và 7.700 hộ nghèo hưởng lợi trực tiếp. Tuy nhiên, các địa phương mới tập trung “xây dựng” mô hình, chưa chú trọng đến việc tổng kết, tài liệu hóa, nâng cao năng lực, thể chế hóa về phương pháp và cách làm giảm nghèo; do đó khía cạnh “nhân rộng” mô hình giảm nghèo chưa đạt kết quả mong đợi.

“Nhân rộng mô hình giảm nghèo” tiếp tục là một dự án thuộc CTMTQG GN bền vững giai đoạn 2012-2015 (theo Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 8/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ). Quy mô của dự án “nhân rộng mô hình giảm nghèo” đã tăng mạnh, với tổng số vốn dự kiến trong giai đoạn 2012-2015 là 2.850 tỷ đồng. Một thay đổi quan trọng của Chương trình trong giai đoạn 2012-2015 là các chính sách hỗ trợ người nghèo (tín dụng, khuyến nông, dạy nghề, hỗ trợ giáo dục, y tế…) được thực hiện theo các văn bản riêng, do các Bộ ngành trực tiếp quản lý, không trở thành các hợp phần của Chương trình. Vì vậy, dự án “nhân rộng mô hình giảm nghèo” càng trở thành một kênh quan trọng để có thể nhân rộng các phương pháp, cách làm mới và hiệu quả về giảm nghèo trong thời gian tới.

gian qua, các địa phương chủ yếu “xây dựng” các mô hình sinh kế từ nguồn kinh phí của CTMTQG GN, khía cạnh“nhân rộng” mô hình giảm nghèo chưa được chú trọng và chưa đạt kết quả mong đợi (Hộp 1).

Page 21: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 7

nghèo?”. Nghiên cứu tập trung vào kiểm tra giả thuyết “vai trò quan trọng của chiến lược sinh kế của hộ gia đình và các yếu tố xã hội ở cấp cộng đồng tạo nên các“ mô hình giảm nghèo” (“điểm sáng”) ở vùng DTTS”.

Cách tiếp cận “điểm sáng” bắt nguồn ở Việt Nam từ một chương trình về dinh dưỡng trong thập kỷ 90 do tổ chức Save The Children tài trợ. Chương trình đã lan tỏa thực hành dinh dưỡng từ những hộ gia đình“tích cực” (“positive”) vì họ đạt được kết quả dinh dưỡng tốt mà không cần thêm nguồn lực bên ngoài, đồng thời đó là những hộ gia đình “lệch chuẩn” (“deviance”) vì họ có cách làm khác biệt với những người láng giềng của họ. Kể từ đó, cách tiếp cận “điểm sáng” được áp dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu trong lĩnh vực y tế và giáo dục. Tìm hiểu những thực hành tốt và những yếu tố làm nên thành công theo cách tiếp cận “điểm sáng” có thể gợi ý cho việc thiết kế và thực hiện hiệu quả các chính sách, chương trình giảm nghèo – điều mà các nghiên cứu theo cách tiếp cận dựa vào hạn chế (constraint approach) khó đạt được. Hơn nữa, cách tiếp cận “điểm sáng” giúp tăng sự tự tin và tương tác xã hội của đối tượng nghiên cứu – với tư cách là các chủ thể tích cực, tự làm chủ quá trình vươn lên của mình (Andrew Wells-Dang, 2012).

Nghiên cứu này là một bước phân tích sâu hơn, chi tiết hơn so với nghiên cứu của Andrew Wells-Dang (2012) về vai trò của các yếu tố xã hội ở cấp cộng đồng đến kết quả giảm nghèo trong các cộng đồng DTTS tại Việt Nam.

1.5. Mục tiêu và Phương pháp nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu này là “Đánh giá mô hình giảm nghèo (“điểm sáng”) tại một số cộng đồng DTTS điển hình có kết quả giảm nghèo và cải thiện đời sống tốt hơn so với các cộng đồng và gia đình khác trong cùng bối cảnh trong 5 năm qua (2008-2012), nhằm cung cấp các phân tích và đề xuất cho thảo luận chính sách nói chung, cũng như việc thiết kế, thực hiện các chương trình, dự án của Oxfam, AAV và các đối tác nói riêng”.

Nghiên cứu không nhằm rút ra một mô hình giảm nghèo “lý tưởng” hoặc “duy nhất” (thực tế không tồn tại), mà nhằm chỉ ra các yếu tố có ý nghĩa tích cực đối với tiến trình giảm nghèo của các cộng đồng DTTS rất đa dạng.

Các câu hỏi nghiên cứu chính là:

1. Khái niệm và đặc trưng của “mô hình giảm nghèo” (“điểm sáng”) ở vùng DTTS?2. Các đặc điểm (tiềm năng, thế mạnh) dẫn đến kết quả giảm nghèo và cải thiện đời

sống “tốt hơn” (nhanh hơn, trên diện rộng hơn, bền vững hơn) của một số cộng đồng và hộ gia đình DTTS so với các cộng đồng và hộ gia đình khác?

3. Các nỗ lực của cộng đồng/người dân, chiến lược sinh kế nhằm tận dụng, phát huy các tiềm năng, thế mạnh nói trên?

4. Hiệu quả, tính bền vững và khả năng nhân rộng của các mô hình giảm nghèo tại các địa bàn khảo sát?

5. Các thực hành tốt và bài học kinh nghiệm dẫn đến kết quả giảm nghèo và cải thiện đời sống tốt hơn của một số cộng đồng và hộ gia đình DTTS so với các cộng đồng và gia đình khác?

6. Các đề xuất, khuyến nghị cho thảo luận chính sách giảm nghèo ở vùng DTTS, và thiết kế, thực hiện các chương trình, dự án của Oxfam, AAV và các đối tác nhằm cải thiện tiến trình giảm nghèo ở các vùng DTTS miền núi đặc biệt khó khăn?

Page 22: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số8

Khung phân tích mô hình giảm nghèo dựa trên 3 vòng tác động đến kết quả giảm nghèo. Trong cùng là các “đặc điểm” của cộng đồng và hộ gia đình, tiếp đến là các “quá trình nội tại”, và ngoài cùng là các “quá trình có tác động bên ngoài”. Giữa 3 vòng tác động có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau (Hình 1).

HÌNH 1. Khung phân tích Mô hình giảm nghèo

Quá trình có tác độngbên ngoài (chính sáchhỗ trợ, CT-DA, dịch vụ

công, cơ hội thị trường,bối cảnh rủi ro)

Quá trình nội tại(”chiếc lược

thoát nghèo”)

Đặc điểm(quan sátđược và

không quansát được)

Các đặc điểm: (tiềm năng và thế mạnh của cộng đồng và hộ gia đình) bao gồm các đặc điểm quan sát được và không quan sát được.

• Các đặc điểm quan sát được từ các cuộc điều tra hộ định lượng (ví dụ, từ số liệu VHLSS), trong đó có: đặc điểm xã (như tiếp cận điện, đường, thị trường, bưu điện, trường học và địa điểm địa lý của xã), cơ cấu hộ gia đình (quy mô hộ, cơ cấu tuổi của hộ), phân bố sở hữu đất đai (tiếp cận của hộ gia đình đến các loại đất khác nhau), trình độ học vấn của chủ hộ và các thành viên hộ…

• Các đặc điểm không quan sát được từ các cuộc điều tra hộ định lượng, trong đó có: chất lượng của các yếu tố (ví dụ chất lượng đất, chất lượng giáo dục, kỹ năng/tay nghề, chất lượng CSHT, chất lượng cán bộ), phong tục tập quán, tâm linh, gắn kết cộng đồng, quản trị địa phương, tiếng nói và trao quyền, quan hệ giới, sự hòa nhập, quan niệm và định kiến đối với DTTS…

Các quá trình nội tại (sự vận động và các mối liên kết của cộng đồng), bao gồm:

• Chiến lược sinh kế của từng cộng đồng và hộ gia đình (sản xuất hàng hóa, thâm canh, chuyên canh, đa dạng hóa trong nông nghiệp như cây ngắn ngày, dài ngày, chăn nuôi, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến, thương mại, dịch vụ, tiền lương, tiền công từ việc làm phi nông nghiệp tại chỗ, di cư, tiền gửi về từ đi làm ăn xa, thu nhập phi nông nghiệp khác).

• Sự vận hành các tổ chức/thiết chế cộng đồng, tổ nhóm nông dân, áp dụng tri thức bản địa…

Page 23: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 9

Các quá trình có tác động bên ngoài, bao gồm:

• Các chính sách và chương trình/dự án giảm nghèo (đầu tư CSHT, hỗ trợ nhà ở, tín dụng, giao đất giao rừng, các hỗ trợ xã hội thường xuyên/đột xuất…)

• Cải thiện dịch vụ công (giáo dục, y tế, khuyến nông lâm, dạy nghề…)• Dự án của các nhà tài trợ/NGOs• Cơ hội thị trường, vai trò của doanh nghiệp, bối cảnh rủi ro…

Địa bàn khảo sát được lựa chọn có mục đích, gồm 3 tỉnh thuộc 3 vùng bắc, trung, nam trong cả nước là Hà Giang, Nghệ An và Đăk Nông. Tại mỗi tỉnh chọn 1 huyện điển hình có đông đồng bào DTTS và có tỷ lệ nghèo cao, nằm trong Chương trình 30a hoặc được áp dụng cơ chế chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng giống như các huyện thuộc Chương trình 30a. Tại mỗi huyện, chọn 4 thôn (2 thôn/xã) có tỷ lệ đồng bào DTTS cao (trên 50%), trong đó có 2 thôn “điểm sáng” có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống tương đối khá hơn so với các thôn khác của huyện trong 5 năm qua, và 2 thôn đối chứng. Các đặc điểm cơ bản của các thôn khảo sát nêu tại Bảng 1.

Page 24: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số10

Bảng

1: Đ

ặc đ

iểm

bản

của

các

thôn

khả

o sá

t

Tỉnh

Huy

ện

Xã Thôn

Ngh

ệ A

n

Quế

Pho

ng

Đăk

Nôn

g

Đăk

GIo

ng

Gia

ng

Quả

n Bạ

Châu

Thô

nTr

i Lễ

Quả

ng K

Đăk

Som

Quy

ết T

iến

L

ùng

Tám Lù

ng T

ámTh

ấp

Chươ

ng tr

ình

30a

Quy

ết đ

ịnh

615/

QD

-TTg

7

Địa

hìn

h

Tổng

số

hộ

Thàn

h ph

ần d

ân tộ

c ch

ủ yế

u

KC đ

ến tr

ung

tâm

(km

)

KC đ

ến đ

ường

ô tô

gần

nhất

(km

)

KC đ

ến tr

ạm y

tế g

ần n

hất (

km)

KC đ

ến tr

ường

TH

gần

nhấ

t (km

)

KC đ

ến tr

ường

TH

CS g

ần n

hất (

km)

KC đ

ến tr

ường

TH

PT g

ần n

hất (

km)

KC đ

ến c

hợ g

ần n

hất (

km)

Diệ

n tíc

h đấ

t SX

nông

ngh

iệp

(ha)

Ngu

ồn th

u nh

ập c

hính

của

thôn

Đỉn

Đản

h

Piể

u

Yên

Sơn

Min

h Ch

âu

T

hôn

3

T

hôn

9

Thô

n 2

B’ S

re B

T

ân T

iến

D

ìn S

án

Hợp

Tiế

n

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

Núi

thấp

Núi

thấp

Núi

thấp

Núi

thấp

Cao

nguy

ên

Cao

nguy

ênCa

o ng

uyên

núi t

hấp

Cao

nguy

ênTh

ung

lũng

núi t

hấp

Núi

thấp

Thun

g lũ

ngnú

i thấ

pTh

ung

lũng

núi t

hấp

53

6

2

60

65

285

150

124

16

7

14

3

7

7

222

11

7

1,5

3

1

1

1

1

2

12

4

7

0

,5

1

,5

0,5

3

0,8

0

0

0

0

0

0

0

0

4

5

0

0

1,6

4

0,8

1,5

1

1

2

7

0

1

6

5

0,5

3

0,5

4

0,8

0,3

1,5

8

1

,5

0

1,

5

5

0

,5

3

1,7

4

0,8

2

1,5

8

1

,5

0

1,

5

5

0

,5

3

17

1

5

4

0

2

7

2

12

32

2

0

1,5

5

12

15

1,5

15

0,7

1

,5

2

12

0,

3

2

0

1,5

5

0,5

3

52,8

54,

8

81

,7

-

18,

5

4,1

95

,6

59,6

1

5,5

72,

7

6

1,6

6

1,6

Thái

: 100

%

Thá

i: 10

0%

Thá

i: 10

0%

Môn

g: 1

00%

Mạ:

41%

M

ạ: 4

7%

M

ông:

92%

M

ạ: 5

4%

Nùn

g: 6

1%

Môn

g: 9

0%

Môn

g: 1

00%

Môn

g: 1

00%

Kinh

: 51%

Mườ

ng,

Tày:

8%

Kinh

: 47%

Hoa

: 6%

Kinh

: 4%

Tày:

4%

Kinh

: 46%

Dao

: 10%

Dao

: 28%

Môn

g: 8

%Kh

ác: 3

%

22 h

a/27

6kh

ẩu24

ha/

284

khẩu

90 h

a/25

6kh

ẩu20

ha/

334

khẩu

300

ha/5

56kh

ẩu11

5 ha

/750

khẩu

500

ha/5

22kh

ẩu21

ha/

630

khẩu

49 h

a/36

9kh

ẩu11

3 ha

/918

khẩu

116

ha/5

58kh

ẩu50

0 ha

/168

5kh

ẩu

Lúa,

trâu

,bò

, rừn

g,là

m th

uê,

đi rừ

ng

Lúa,

trâu

, bò,

lợn,

vịt,

gà,

dê,

xoan

, mét

Lúa,

chan

h le

o,lợ

n tr

ắng,

làm

ăn

xa,

cá g

iống

,đi

rừng

Trâu

, bò,

buôn

bán

,lú

a, ra

u,gà

Cà p

hê,

mì,

điều

,là

m th

uê,

tiêu,

lúa,

cao

su,

heo,

Cà p

hê,

bắp,

cao

su, b

ò,he

o, g

à

Mì,

càph

ê, là

mth

uê g

ầnnh

à, đ

irừ

ng, t

râu

Cà p

hê,

mì,

bắp,

heo,

điề

u

Rau,

chă

nnu

ôi, n

gô,

lúa,

đi l

àmăn

xa

Chăn

nuôi

, ngô

,lú

a, n

ấurư

ợu

Ngô

, lúa

,ch

ăn n

uôi,

đi là

m ă

nxa

, rau

Chăn

nuôi

, ngô

,lú

a, đ

i làm

ăn x

a

Tỉ lệ

hộ

nghè

o cu

ối 2

011

(%)

7 Q

uyết

địn

h số

615

/QĐ

-TTg

ngà

y 25

/4/2

011c

ủa T

hủ tư

ớng

Chín

h ph

ủ về

việ

c H

ỗ tr

ợ có

mục

tiêu

từ n

gân

sách

trun

g ươ

ng c

ho 0

7 hu

yện

có tỷ

lệ h

ộ ng

hèo

cao

được

áp

dụng

cơ c

hế, c

hính

ch đ

ầu tư

sở h

ạ tầ

ng th

eo q

uy đ

ịnh

của

Ngh

ị quy

ết số

30a

/200

8/N

Q-C

P ng

ày 2

7 th

áng

12 n

ăm 2

008

của

Chín

h ph

ủ về

Chư

ơng

trìn

h hỗ

trợ

giảm

ngh

èo n

hanh

bền

vững

đối

với

62

huy

ện n

ghèo

.

Page 25: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 11

Thời gian khảo sát thực địa trong tháng 9 và tháng 10/2012, mỗi tỉnh khảo sát trong 1 tuần, gồm 1 ngày ở cấp huyện và 3 ngày tại mỗi xã (6 ngày tại 2 xã).

Phương pháp nhân học (nghiên cứu tham gia) được áp dụng tại thực địa với 3 nguyên tắc cơ bản: (i) Tôn trọng sự đa dạng và khác biệt; (ii) Đề cao tiếng nói của người dân/người trong cuộc; và (iii) Coi người dân là chủ thể sáng tạo, tích cực. Nghiên cứu cố gắng thấu hiểu hoàn cảnh và sự vận động của người dân và cộng đồng DTTS với cách nhìn không có định kiến.

Các nguồn thông tin chính của nghiên cứu này là:

• Thảo luận nhóm với cán bộ huyện, xã và thôn, người dân nam và nữ, sử dụng các công cụ trực quan (phân loại kinh tế hộ, đi lát cắt, đường thời gian, bảng phân tích sinh kế, sơ đồ Venn, ma trận liệt kê – xếp hạng, sơ đồ nhân quả…)

• Phỏng vấn sâu một số hộ gia đình điển hình (hộ làm ăn khá, hộ thoát nghèo, hộ nghèo) để hiểu rõ hơn những yếu tố tạo nên mô hình giảm nghèo. Bên cạnh đó, tiến hành phỏng vấn sâu một số bên liên quan trong xã (trang trại, đại lý, doanh nghiệp, HTX, tổ nhóm nông dân, cán bộ khuyến nông, già làng…)

• Quan sát và chụp ảnh về cộng đồng, hộ gia đình liên quan đến chủ đề nghiên cứu.• Thông tin thứ cấp: tham khảo báo cáo phát triển KT-XH và các thông tin thống kê cơ

bản của xã và thôn khảo sát; tham khảo các nghiên cứu liên quan về DTTS.

Tổng cộng, nghiên cứu đã tiến hành 16 cuộc thảo luận nhóm tại cấp huyện và xã với sự tham gia của 63 người; 24 cuộc thảo luận nhóm tại cấp thôn, bản với sự tham gia của 148 người. Thực hiện phỏng vấn sâu 74 người, trong đó có 56 nam, 18 nữ, hầu hết là người đồng bào DTTS.

Phân tích thông tin thực địa được tiến hành theo phương pháp so sánh đối chứng và phân tích trường hợp điển hình:

• Tại mỗi tỉnh/huyện khảo sát, phân tích những cộng đồng DTTS điển hình có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống tốt (“điểm sáng”), so sánh đối chứng với những cộng đồng có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống kém hơn, để làm rõ đặc trưng và những yếu tố ảnh hưởng đến “điểm sáng” về giảm nghèo.

• Trong mỗi cộng đồng DTTS, phân tích những hộ gia đình điển hình có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống tốt, so sánh đối chứng với những hộ gia đình có kết quả giảm nghèo, cải thiện đời sống kém hơn.

Hạn chế của nghiên cứu này chủ yếu liên quan đến qui mô khảo sát và bản chất khám phá của cách tiếp cận “điểm sáng”. Khảo sát thực địa được tiến hành tại một số thôn bản DTTS điển hình (12 thôn bản ở cả 3 miền bắc, trung và nam, là nơi sinh tụ của các nhóm dân tộc Thái, Hmông, Mạ và Nùng). Trong khi đó, mô hình giảm nghèo tại các cộng đồng DTTS và các yếu tố ảnh hưởng rất phong phú và đa dạng mà một cuộc khảo sát trong vòng 2 tháng không thể bao quát hết. Để khắc phục hạn chế về qui mô khảo sát, nghiên cứu đã tiến hành thêm một chuyến khảo sát ngắn về HTX Vọng Ngàn tại tỉnh Hòa Bình, đồng thời sử dụng thêm một số điển cứu trong các chuyến thực địa gần đây đến các cộng đồng DTTS khác tại tỉnh Lào Cai, Quảng Trị, Đắc Lắc và Trà Vinh (cùng trong khuôn khổ dự án theo dõi nghèo có sự tham gia) và tham khảo các tài liệu thứ cấp có liên quan 8. Để tiếp tục làm rõ và khẳng định các phát hiện của nghiên cứu này cần có thêm các nghiên cứu thực chứng ở các cộng đồng DTTS khác.

8 Thông tin từ các địa phương khác (ngoài các điểm khảo sát tại Hà Giang, Nghệ An và Đắc Nông và HTX Vọng Ngàn tại Hòa Bình) sử dụng trong báo cáo này được ghi chú riêng

Page 26: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 27: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 13

Phần 2NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH

Page 28: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 29: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 15

2. NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH

2.1. Nghèo và giảm nghèo theo cảm nhận của đồng bào DTTS

Một mối quan tâm của nghiên cứu này là tìm hiểu khái niệm “nghèo” và “giảm nghèo” (với các khái niệm liên quan như “làm ăn khá” và “thành công”) theo cảm nhận của đồng bào DTTS ở các địa bàn khảo sát. Phản hồi phổ biến là nghèo và giảm nghèo mang tính đa chiều. Nhận thức đa chiều của đồng bào DTTS về nghèo và giảm nghèo phù hợp với phát hiện của nhiều nghiên cứu về nghèo gần đây, cũng như phù hợp với mối quan tâm ngày càng tăng về phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc sống tại Việt Nam (TCTK 2010, UNDP 2010, Oxfam và AAV 2012, Andrew Wells-Dang 2012 9).

Ngay cả đồng bào DTTS tại những thôn khó khăn nhất trong số các thôn khảo sát cũng nhìn nhận khái niệm “nghèo” và “giảm nghèo” theo hướng đa chiều. Có thể nói, đồng bào DTTS đã có sự thay đổi nhất định trong nhận thức, nhu cầu của họ đã mở rộng hơn, hướng đến chất lượng cuộc sống tốt hơn. Người Thái, Hmông, Nùng, Mạ tại các điểm khảo sát không còn chỉ lo đến thu nhập nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản (đủ ăn, quần áo, nhà ở và tài sản cơ bản), mà đã quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh văn hóa, xã hội (giáo dục, y tế, thông tin, bình đẳng giới, thực hành các phong tục, lễ hội, tâm linh) và các khía cạnh thị trường (dòng tiền, việc làm phi nông nghiệp). Nhiều tiêu chí thoát nghèo do người dân nêu lên vừa là kết quả của sự phát triển, vừa là động lực cho sự phát triển.

--- “Có xe đi làm, máy móc để làm, có ti vi xem chưa gọi là thoát nghèo… Thoát nghèo là không có nợ nữa, sinh hoạt trong gia đình đầy đủ và con em được học hành.” (Một người nghèo dân tộc Mạ, thôn 9, xã Quảng Khê, tỉnh Đăk Nông)

--- “Thành công, thoát nghèo là ít nợ, con cái đi học, đoàn kết vợ con gia đình, nhà cửa kiên cố, tài sản cơ bản đỡ, cà phê đủ ăn.” (Nhóm người Mạ, Thôn 3, xã Quảng Khê, Đăk Nông)

--- “Giờ trong nhà tài sản tạm tạm rồi. Hết nghèo là đầu tư được ao cá để nuôi cá nhiều, hoặc trồng chanh leo có tiền, hoặc có nghề gì đó để làm ổn định.” (Thanh niên người Thái, bản Yên Sơn, xã Tri Lễ, Nghệ An)

Thu nhập vẫn là tiêu chí cơ bản khi đồng bào DTTS cảm nhận về nghèo và giảm nghèo, ngay cả khi nghèo và giảm nghèo được nhìn nhận đa chiều. Tỷ lệ nghèo chính thức là một chỉ tiêu thể hiện sự cải thiện thu nhập (vượt chuẩn nghèo thu nhập của Chính phủ). Tuy nhiên, số liệu nghèo chính thức không thể hiện đúng câu chuyện giảm nghèo tại nhiều nơi 10. Cán bộ cơ sở và người dân tại các điểm khảo sát đều phản ánh rà soát nghèo hàng năm gặp rất nhiều khó khăn, như: thời gian rà soát gấp gáp; thời điểm cuối năm trùng lịch mùa vụ hoặc đi làm thuê của người dân; năng lực cán bộ cơ sở còn yếu; cách tính điểm

9Andrew Wells-Dang (2012) ghi nhận, câu trả lời phổ biến của người DTTS tại các điểm khảo sát về “định nghĩa thành công” là đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cơ bản như lương thực để ăn quanh năm, quần áo để mặc, một ngôi nhà khang trang để ở và có thể tham dự các lễ hội truyền thống (ví dụ như có thể chuẩn bị một con lợn cho ngày Tết). Một số ý kiến cũng cho rằng các tiêu chí thành công của người DTTS hiện nay đã ở mức cao hơn và rộng hơn trước đây, thể hiện ở mong muốn “ăn ngon mặc đẹp” (thay vì “ăn no mặc ấm”), giữ và mở rộng đất đai, đầu tư cho con cái ăn học và có việc làm phi nông nghiệp ổn định.10 Tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo chi tiêu dựa trên số liệu VHLSS, kể cả khi áp dụng phương pháp “bản đồ nghèo” để ước tính ở qui mô nhỏ, không có từ cấp xã trở xuống (Nguyễn Việt Cường et al. 2012).

Page 30: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số16

một số tài sản của hộ gia đình chưa hợp lý; các nguồn thu nhập được qui thành tiền khó tính đủ và đúng; ranh giới giữa nghèo, cận nghèo và không nghèo khó phân định… Tâm lý “giữ nghèo” khá phổ biến do có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo. Một số địa phương có tỷ lệ nghèo từ năm trước sang năm sau giảm hoặc tăng đột biến (cùng một chuẩn nghèo) mang nhiều dấu ấn của ý chí chủ quan11. Thực tế phỏng vấn, bản thân các cán bộ thôn bản đề cập nhiều đến thu nhập, nhưng thường không dùng “số liệu hộ nghèo” làm minh chứng cho sự thay đổi đời sống của người dân trong thôn bản mình.

An ninh lương thực được đồng bào DTTS đặc biệt ưu tiên. Đồng bào Thái, Hmông, Nùng ở Nghệ An và Hà Giang vẫn dành ưu tiên hàng đầu cho việc tự trồng lúa, ngô đủ ăn quanh năm, coi đó là nền tảng cho sự phát triển kinh tế hộ gia đình. Riêng người Mạ ở Đăk Nông trước đây cũng ưu tiên trồng lúa, ngô, nhưng 5 năm trở lại đây nhiều người đã chuyển sang trồng cà phê, khái niệm an ninh lương thực dựa vào thị trường ngày càng chiếm ưu thế.

Đất đai có ý nghĩa rất quan trọng đối với đồng bào DTTS do việc làm phi nông nghiệp tại chỗ và đi làm ăn xa còn hạn chế. Trong bối cảnh dân số tăng, những rủi ro về đất đai (xâm canh, tranh chấp đất đai; mất đất và tái định cư do xây dựng thủy điện, khai khoáng, phát triển CSHT...), sự mâu thuẫn giữa các qui định pháp luật và tập quán sở hữu, sử dụng đất truyền thống, đồng bào DTTS tại các điểm khảo sát ngày càng quan tâm đến việc giữ và mở rộng đất sản xuất. Diện tích đất sản xuất thường là tiêu chí đầu tiên được đồng bào DTTS nhắc đến khi phân biệt giàu – nghèo. Theo quan niệm của người Mạ ở Đăk Nông, một hộ gia đình 4-5 thành viên cần có ít nhất 1ha nương rãy tốt để đảm bảo cuộc sống tối thiểu; với người Thái, Hmông ở Nghệ An và Hà Giang là cần có ít nhất 1000m2 ruộng lúa 2 vụ (hoặc 2000m2 ruộng lúa 1 vụ). Nhiều hộ gia đình người Mạ ở Đăk Nông tiếc nuối vì trước đây từng bán đi diện tích lớn đất nương rãy với giá rẻ để mua sắm, tiêu dùng và trả nợ.

Đảm bảo dòng tiền trở thành mối quan tâm của đồng bào DTTS khi tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn. Mối quan tâm “đảm bảo dòng tiền”(có sẵn tiền mặt để trang trải các phi phí sản xuất và chi phí đời sống) nổi lên ở các vùng sản xuất hàng hóa. Tại các thôn khảo sát thuộc tỉnh Đăk Nông, đa số hộ gia đình người Mạ trồng ngô, cà phê đều vay ngân hàng vài chục triệu đồng trở lên. Họ đồng thời nợ quán, đại lý để mua phân, gạo và hàng thiết yếu khác từ 10 triệu đồng trở lên (hộ càng khá giả vay nợ càng nhiều), đến cuối vụ bán sản phẩm trả nợ. Lạm phát cao, giá nông sản bấp bênh và rủi ro do thời tiết bất thường, sâu bệnh càng khiến người dân khó đảm bảo dòng tiền. Vì vậy, người dân tại đây thường cho rằng mình chỉ thoát nghèo khi đã “thoát nợ”. Trong khi đó, yếu tố “vay nợ” không được tính đến trong rà soát nghèo chính thức.

Có việc làm ổn định ngày càng được nhóm thanh niên DTTS quan tâm. Do sức ép dân số tăng nên thanh niên DTTS khi lập gia đình và tách hộ thường thiếu đất sản xuất (bố mẹ không có đủ đất để chia cho con), cơ giới hóa và sử dụng thuốc BVTV làm giảm nhu cầu lao động nông nghiệp, dẫn đến nhu cầu việc làm phi nông nghiệp ngày càng tăng. Nhiều thanh niên DTTS được học hành tốt hơn mong muốn tìm được việc làm ổn định, nhất là việc làm trong khu vực công tại địa phương.

11 Điển hình về tỷ lệ nghèo tăng giảm bất thường là huyện Đăk Glong (tỉnh Đăk Nông). Giai đoạn 2006-2008 tỷ lệ nghèo của huyện giảm nhanh (giảm từ 34% xuống 17%). Năm 2008 huyện Đăk Glong không thuộc các huyện được thụ hưởng Chương trình 30a, dù cán bộ tỉnh và huyện cho rằng Đăk Glong thực sự vẫn là một huyện nghèo. Sang năm 2009, vẫn sử dụng chuẩn nghèo cũ nhưng tỷ lệ nghèo của huyện Đăk Glong đã tăng cao đột biến (tăng từ 17% lên 55%). Kết quả là, từ đầu năm 2011 huyện Đăk Glong được xếp là 1 trong 7 huyện có tỷ lệ nghèo cao được áp dụng cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng như quy định cho các huyện thuộc Chương trình 30a (theo Quyết định số 615/QĐ-TTg ngày 25/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ).

Page 31: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 17

Thực hành các phong tục, lễ hội, tâm linh truyền thống được đồng bào DTTS coi trọng.Giữ gìn bản sắc tộc người là nhu cầu tự nhiên của các cộng đồng DTTS, dù nhiều phong tục, lễ hội, tâm linh truyền thống đã bị xóa bỏ hoặc phai nhạt đi trước các tác động bên ngoài. Có đủ lương thực, rượu và vật nuôi để dùng trong các lễ hội, thờ cúng, ăn Tết… được nhiều đồng bào DTTS tại các điểm khảo sát coi là một biểu hiện của thành công, đảm bảo sự hòa nhập và vị thế trong cộng đồng. Một số nghề truyền thống được duy trì và phát triển còn là nguồn thu nhập phụ thường xuyên của hộ gia đình, ví dụ nỗ lực duy trì nghề dệt lanh, thêu thổ cẩm vốn là bản sắc độc đáo của người Hmông tại Hà Giang hoặc người Mường tại Hòa Bình.

2.2. Đặc trưng của mô hình giảm nghèo ở vùng DTTS

Các mô hình giảm nghèo (“điểm sáng”) ở vùng DTTS mang đặc trưng thôn bản rõ rệt.Mỗi thôn bản cổ truyền là một đơn vị xã hội cơ sở, có vị trí địa lý, phạm vi lãnh thổ, đặc trưng tộc người, lịch sử hình thành, phong tục tập quán, yếu tố tâm linh, tổ chức cộng đồng, đất đai, kiến thức bản địa, cơ cấu sinh kế… riêng (Hộp 2). Mỗi “điểm sáng” giảm nghèo, do đó là một hệ thống khác biệt được hợp thành từ tất cả các yếu tố đặc trưng của từng thôn. Thực tế rất khó tìm thấy “điểm sáng” giảm nghèo chung ở cấp xã tại các địa bàn miền núi DTTS, vì trong một xã gồm nhiều thôn có đặc điểm, mức độ phát triển KT-XH và kết quả giảm nghèo không đồng đều. Trong 12 thôn DTTS thuộc diện khảo sát đều rất khác nhau, ngay cả hai thôn cùng tộc người trong cùng một xã cũng khác nhau.

HỘP 2. Làng ở Việt Nam – những diện mạo và cá tính riêng biệt

Làng (với các tên gọi làng/bản/thôn/ấp/buôn/bon/plei/palei/vil…) là tổ chức xã hội cơ sở cổ truyền của tất cả các tộc người ở Việt Nam, thuộc loại hình công xã láng giềng, tập hợp của các thành viên thuộc nhiều dòng họ khác nhau trên một địa vực cư trú. Mỗi làng đều có lịch sử hình thành, đặc điểm tộc người, địa vực sinh sống, truyền thống cộng đồng, quy định ràng buộc… riêng.

Theo Nguyễn Từ Chi (2003), vô vàn làng Việt ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ là những tế bào sống vốn sinh thành một cách tự nhiên, ra đời mà không phải qua bàn tay nhào nặn của chính quyền trung ương, từng tồn tại lâu dài với một diện mạo và cá tính riêng biệt cho từng làng. Về mặt phân chia địa vực và tổ chức các đơn vị tụ cư, dù bị thay đổi nhiều lần với nhiều tên gọi khác nhau (thôn, đội sản xuất trong HTX) từng làng cũ vẫn giữ nguyên diện mạo cơ bản của một tế bào, với một khu đất tụ cư riêng, một tên gọi riêng, và truyền thống riêng.

Ngô Đức Thịnh (2010) cũng cho rằng, làng có hình dạng và quy mô riêng; có không gian sinh tồn (đất đai và các nguồn tài nguyên thuộc sở hữu chung của cộng đồng) phân biệt với các làng khác; thờ riêng một vị thần linh “hộ mệnh” cho cả cộng đồng; có quan hệ xã hội, sinh hoạt văn hóa riêng, và sự tự ý thức về làng của mình với làng của người khác.

So với các làng người Việt ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, tính riêng biệt giữa các làng DTTS càng rõ hơn. Theo danh mục các thành phần dân tộc ở Việt Nam được TCTK ban hành vào ngày 2/3/1979, ở Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số. Mỗi tộc người có lịch sử hình thành, ngôn ngữ, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa truyền thống, tổ chức xã hội… riêng. Theo đó, đặc điểm thôn làng giữa các tộc

Page 32: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số18

Đặc trưng thôn bản của “điểm sáng” giảm nghèo ở vùng DTTS hàm nghĩa: “điểm sáng” rất đa dạng, có tính tương đối, và không hoàn hảo. Bảng 2 tổng kết những tiêu chí có sự tiến bộ rõ rệt (hoặc thuộc hàng đầu trong phạm vi xã/huyện) tại 12 thôn khảo sát trong 5 năm qua theo cảm nhận của cán bộ cơ sở và người dân. Mỗi thôn đều có một số tiêu chí tiến bộ rõ rệt, nhưng không thôn nào có sự tiến bộ rõ rệt ở tất cả các tiêu chí. Mức độ tiến bộ của từng tiêu chí trên thực tế cũng không đồng đều giữa các thôn. Các thôn Đỉn Đảnh, Yên Sơn, Thôn 3, Thôn 9, B’Sre B, Tân Tiến và Hợp Tiến được coi là “điểm sáng” giảm nghèo vì có những lợi thế riêng, có nhiều hơn số tiêu chí tiến bộ rõ rệt so với các thôn khác. Ngược lại các thôn khác dù còn khó khăn cũng có một số tiêu chí đạt mức tiến bộ gần tương đương các “điểm sáng” (ví dụ về an ninh lương thực, giáo dục, y tế). Một cán bộ Sở LĐTB-XH tỉnh Đăk Nông chia sẻ nhận xét này: “ở đâu cũng có điểm sáng, ở đâu cũng có điểm tối”.

người cũng khác nhau. Theo Mai Thanh Sơn (2011a, 2011b), đồng bào DTTS - với tư cách là chủ thể văn hóa - luôn dựa trên 3 điểm tựa cơ bản: tự nhiên, cộng đồng thôn làng và nỗi ám ảnh. Cư dân trong mỗi thôn làng cổ truyền đều thuộc về một thành phần dân tộc, nói chung một thứ tiếng, có chung những niềm tin và cùng có những lúc thăng hoa về tinh thần. Sự vận hành của mỗi thôn làng được duy trì trên cơ sở của luật tục và phong tục tập quán, được điều hành bởi bộ máy tự quản, nhận được sự ủng hộ của cộng đồng và được giám sát bởi cộng đồng. Các đặc trưng của văn hóa tộc người (cái chung) tồn tại thông qua văn hóa thôn làng (cái riêng), do đó thôn làng chính là môi trường nuôi dưỡng văn hóa tộc người.

Một đặc điểm quan trọng về mặt cư trú của các DTTS ở Việt Nam là tính xen kẽ (Bùi Minh Đạo 2003). Đa số các xã vùng DTTS có từ 2 tộc người trở lên cùng sinh sống, mỗi thôn làng có một tộc người chiếm ưu thế. Do đó, khó có thể tìm được mẫu số chung cho tất cả thôn làng trong cùng một xã. Ngay cả cùng một tộc người, nhưng sinh sống ở các thôn làng khác nhau, ở những địa bàn khác nhau cũng có những nét khác biệt nhằm thích nghi với điều kiện sống. Ví dụ trên khía cạnh luật tục, Ngô Đức Thịnh (2010) chỉ ra rằng, không có bộ luật tục nào chung cho cả một dân tộc, dù là dân tộc đa số hay thiểu số, mà chỉ có luật tục phù hợp với từng bản mường, từng buôn, play, bon của mỗi nhóm dân tộc hay nhóm địa phương.

Như vậy, các thôn làng Việt Nam, dù là của người Việt hay của các DTTS, đều có những đặc trưng riêng biệt. Điều này gợi ý rằng, các can thiệp giảm nghèo cần được điều chỉnh cho phù hợp với từng thôn làng. Mỗi chương trình – dự án phải khảo sát kỹ từng thôn làng về mọi mặt, phát huy tính chủ thể tích cực của người dân và cộng đồng khi thiết kế và thực hiện những hoạt động cụ thể.

Page 33: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 19

Mỗi thôn bản là “điểm sáng” giảm nghèo có đặc điểm và con đường đi lên khác nhau. Do đó, để “nhân rộng mô hình giảm nghèo” quan trọng nhất là nhân rộng những cách tiếp cận, phương pháp, qui trình (đã chứng minh hiệu quả tích cực, được tổng kết và tài liệu hóa) dựa trên sự tôn trọng đa dạng văn hóa và phát huy tính chủ thể tích cực của đồng bào DTTS ở mỗi thôn bản.

Khi khẳng định “điểm sáng” giảm nghèo mang đặc trưng thôn bản, cần nhắc đến mâu thuẫn hiện nay giữa phát triển và bảo tồn đối với các tộc người thiểu số mà nhiều nhà nghiên cứu đã nêu lên. Theo qui định pháp luật hiện hành, thôn bản không phải là một cấp hành chính mà là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư có chung địa bàn cư trú trong một khu vực ở một xã; nơi người dân thực hiện dân chủ trực tiếp và rộng rãi 12.Theo truyền thống, cộng đồng thôn bản với không gian tự nhiên - văn hóa – xã hội – tâm linh đặc trưng là điểm tựa cơ bản nhất của đồng bào DTTS. Có thể nói, đồng bào DTTS “giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình 13” thông qua các thôn bản. Tuy nhiên, cơ chế quản lý nhà nước về đất đai, chủ trương tái cấu trúc dân cư, tổ chức lại bộ máy quản lý ở cấp cơ sở và cả các chính sách văn hoá mới từng cố gắng “giải thiêng” đối với các hiện tượng tâm linh…đã khiến cho các đơn vị xã hội cơ sở truyền thống của tộc người bị thu hẹp hoặc biến dạng. Với việc thực hiện chính sách quản lý đất đai hiện nay, tại hầu hết thôn bản DTTS không còn hình thức quản lý và sử dụng chung của cộng đồng theo truyền thống và phong tục. Tước bỏ quyền quản lý của các cộng đồng đối với các nguồn lực tự nhiên đồng nghĩa với việc triệt hạ một trong những điểm tựa cơ bản nhất của chủ thể văn hoá. Khi điểm tựa về tự nhiên bị triệt hạ, các điểm tựa khác (cộng đồng thôn làng và ngưỡng hành vi) cũng có thể bị triệt hạ theo. Như vậy, Nhà nước cho phép và khuyến khích các tộc người – với tư cách là các chủ thể văn hoá được bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hoá của mình (thông qua các thôn bản), nhưng lại chưa trao cho họ quyền củng cố các cơ sở hình thành nền văn hoá đó, đồng thời cũng chính là điểm tựa mà họ có thể dựa vào để chống lại sự tác động tiêu cực của các yếu tố ngoại lai. Nói cách khác, các thôn bản chỉ có quyền tự quản với phần ngọn, còn phần gốc chưa được bảo vệ bởi các công cụ pháp lý (Mai Thanh Sơn 2011b).

Tỉnh Nghệ An Đăk Nông Hà Giang Huyện Quế Phong Đăk Glong Quản Bạ

Xã Châu Thôn Tri Lễ Quảng Khê Đăk Som Quyết Tiến Lùng Tám Thôn

Đỉn

Đảnh Piểu Yên

Sơn Minh Châu

Thôn 3

Thôn 9

Thôn 2

B’ Sre B

Tân Tiến

Dìn Sán

Hợp Tiến

Lùng Tám Thấp

Thu nhập Nhà cửa Tài sản cơ bản An ninh lương thực Đảm bảo dòng tiền Giáo dục Y tế, dinh dưỡng Chăn nuôi Thương mại, dịch vụ,nghề truyền thống

Đi làm ăn xa, XKLĐ Thông tin

BẢNG 2. Những khía cạnh tiến bộ rõ rệt của các thôn khảo sát trong 5 năm qua

12 Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 của Bộ Nội Vụ.13 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992

Page 34: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số20

Trong khi không gian văn hóa – xã hội truyền thống của các cộng đồng thôn bản DTTS bị thu hẹp hoặc biến dạng đáng kể, sự tiếp xúc với không gian bên ngoài ngày càng rộng mở đặt các cộng đồng thôn bản DTTS vào một hoàn cảnh mới đầy thách thức và cũng không ít cơ hội. Trong nền kinh tế thị trường, sự giao thoa về các dòng người, hàng hóa, dịch vụ, vốn và thông tin rất mạnh mẽ. Nhiều giá trị văn hóa, tri thức bản địa và mô hình sinh kế truyền thống tỏ ra không còn phù hợp; ngược lại nhiều tri thức mới, quan hệ mới, văn hóa tiêu dùng mới, cơ hội sinh kế mới được du nhập. Vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội là quá trình vận động liên tục nhằm thử nghiệm, hình thành, lan tỏa, duy trì và phát triển các thực hành hiệu quả (cũ, cải tiến hoặc mới) trong từng cộng đồng thôn bản DTTS, nếu thành công sẽ tạo ra những “điểm sáng” giảm nghèo trong bối cảnh mới (được phân tích ở phần 2.3 tiếp theo). Tính “động” theo thời gian là một đặc trưng quan trọng của các “điểm sáng” giảm nghèo (hôm nay là “điểm sáng” nhưng ngày mai có thể không còn “sáng” nữa), cần đặc biệt quan tâm nhằm hướng đến giảm nghèo bền vững.

Theo nghiên cứu của WB (2012), các nhóm DTTS đang ngày càng bị bỏ xa trong quá trình tăng trưởng, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng thu nhập/chi tiêu bình quân của các nhóm DTTS tăng chậm hơn so với nhóm dân tộc đa số; thậm chí hộ DTTS có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ nhất cũng tăng trưởng chậm hơn so với hộ dân tộc đa số trung bình. Trong các vùng có tỷ lệ nghèo cao – nơi tập trung người DTTS, thường có xu hướng bất bình đẳng cao hơn. Hiện nay, nhận thức về BBĐ của người dân Việt Nam dù ở đô thị hay ở nông thôn, dù ở vùng người Kinh hay ở vùng đồng bào DTTS đều cho rằng tình trạng BBĐ đã gia tăng đáng kể trong vòng 5 năm trở lại đây. Như vậy, tăng trưởng và giảm nghèo chưa chắc đã đi kèm với giảm BBĐ, cản trở việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong từng bước phát triển của Việt Nam.

Ghi nhận từ các thôn bản khảo sát trong nghiên cứu này cũng khẳng định mối lo ngại về BBĐ ngày càng gia tăng tại các vùng DTTS. Chênh lệch về đất đai và vốn xã hội là hai trong những nguyên nhân quan trọng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo tại các cộng đồng này. Hiện nay, diện tích khai hoang mới hạn chế trong khi dân số gia tăng dẫn tới diện tích đất trên đầu người giảm. Trong các thôn bản khảo sát, có những hộ DTTS có hàng chục ha đất nương rãy hoặc vài nghìn m2 ruộng, trong khi có những hộ DTTS khác không có đất hoặc chỉ có dưới 1ha đất nương rãy hoặc vài trăm m2 ruộng (chưa kể một số người Kinh từ nơi khác đến mua đất chất lượng tốt với diện tích lớn làm trang trại). Những hộ có nhiều đất thường có lợi thế trong đảm bảo an ninh lương thực, từ đó đầu tư thâm canh và đa dạng hóa để trở nên khá giả. Ngược lại, những hộ không có đất, có ít đất phải bỏ nhiều lao động vào việc làm thuê bấp bênh hoặc vào rừng lấy củi hái măng… để đảm bảo an ninh lương thực nên cuộc sống vẫn khó khăn. Hộ nghèo cũng thường chịu thiệt thòi hơn về vốn xã hội, do đó tiếp cận các dịch vụ công và tiếp cận việc làm kém hơn nhiều so với hộ khá giả, càng khiến khoảng cách giàu nghèo gia tăng.

2.3. Các yếu tố tạo nên mô hình giảm nghèo tại các cộng đồng DTTS

Có rất nhiều yếu tố góp phần tạo nên mô hình giảm nghèo (“điểm sáng”) tại các cộng đồng DTTS. Báo cáo này trình bày những yếu tố chính được giả thuyết và kiểm chứng trong quá trình phân tích trường hợp điển hình và so sánh đối chứng giữa các thôn bản khảo sát, kết hợp tham khảo tài liệu thứ cấp và các điển cứu bổ sung từ một số địa bàn khác.

Page 35: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 21

2.3.1. Tiên phong

Tại các“điểm sáng” giảm nghèo ở cộng đồng DTTS đều có những người tiên phong trong phát triển kinh tế hộ, dẫn dắt mọi người làm theo. Vai trò của người tiên phong rất rõ ở những địa bàn sản xuất hàng hóa, hoặc đang có sự chuyển đổi lớn về sinh kế. Người tiên phong thường là người nhạy bén, muốn tìm tòi thử nghiệm cái mới, đồng thời là người có tính cộng đồng, biết chia sẻ và có khả năng dẫn dắt 14. Người tiên phong trong các thôn bản DTTS không nhất thiết phải có trình độ học vấn cao (thậm chí có người không biết chữ), không nhất thiết phải là cán xã/thôn, nhưng là người biết hạch toán kinh tế hộ gia đình, biết tổ chức sản xuất và phân công lao động hợp lý dựa trên thế mạnh của mỗi thành viên trong gia đình. Người tiên phong sẽ có vai trò lan tỏa lớn nếu là người có uy tín, già làng, trưởng họ… trong cộng đồng, không những về kinh tế mà còn về nhiều khía cạnh khác như giáo dục con cái, giữ gìn hạnh phúc gia đình, đảm bảo an ninh trật tự.

Dạng tiên phong phổ biến là những người đi đầu áp dụng giống mới, kỹ thuật mới (hoặc kỹ thuật cải tiến dựa trên tri thức bản địa) nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình sinh kế. Có nhiều câu chuyện điển hình về người tiên phong tại các điểm khảo sát. Tại xã Quảng Khê (Đắk Glong, Đăk Nông), chủ tịch HND xã người Mạ là người đầu tiên đưa cây chè về trồng tại địa phương và đạt hiệu quả cao. Trồng chè kết hợp cà phê là mô hình sinh kế đa dạng hóa có nhiều triển vọng, được nhiều người làm theo. Tại xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang), một số nông dân người Nùng và Hmông đã chủ động tìm tòi kỹ thuật làm rau trái vụ để cải thiện đáng kể thu nhập từ trồng rau, từ đó một số người học theo trồng rau trái vụ thành công. Tại các địa bàn khảo sát cũng có nhiều người tiên phong trong phong trào chuyển đổi từ giống lúa, ngô cũ sang sử dụng giống lúa, ngô mới cho năng suất cao, góp phần đảm bảo an ninh lương thực tiến đến sản xuất hàng hóa. Như tại thôn Dìn Sán (xã Quyết Tiến, Quản Bạ, Hà Giang), sau khi bí thư thôn trồng thử lúa lai, ngô lai cho năng suất cao, tất cả hộ gia đình trong thôn đều làm theo; hoặc tại bản Minh Châu (xã Tri Lễ, Quế Phong, Nghệ An) bác phó chủ tịch xã tiên phong hạ sơn và trồng lúa nước ở vùng thấp, vận động thành công một số đồng bào người Hmông về tái định cư tại bản mới (Hộp 3).

14 Có sự phân biệt giữa những “người tiên phong” làm ăn giỏi đóng vai trò dẫn dắt đa số người trong thôn bản làm theo, với những “người điển hình” làm ăn giỏi dựa trên lợi thế riêng có hoặc tận dụng cơ hội dành cho số ít, nhưng đa số người dân trong thôn bản không thể làm theo.

HỘP 3 . Người Hmông tiên phong hạ sơn và trồng lúa nước

Bản Minh Châu (xã Tri Lễ, huyện Quế Phong) được thành lập năm 2001 từ chủ trương “hạ sơn” cho đồng bào người Hmông. Bác T.C.P. là người hạ sơn đầu tiên, sau đó bác cùng chính quyền xã vận động được hơn 50 hộ hạ sơn tại bản mới cạnh đường cái. Nhưng do điều kiện sống khó khăn (chưa có nước sạch, điện, thủy lợi) nên từ năm 2004 – 2008 lần lượt các hộ quay trở lại bản cũ trên núi.

Riêng gia đình bác P. vẫn tiếp tục ở lại. Năm 2006, bác P. đã xây dựng một ngôi nhà kiên cố tại bản mới. Đến năm 2009, hồ trữ nước được hoàn thành, gia đình bác P. đã trồng lúa nước (1 vụ) trên diện tích 2000 m2, được xã hỗ trợ 100% giống. Thời gian đầu do đất mới, nên năng suất lúa không cao, nhưng bác P. vẫn kiên trì trồng lúa. Năm 2010, bác mở rộng diện tích trồng lúa nước lên 5000m2, lúc này lúa (2 vụ) cho năng suất khá cao, đạt 5-6 tấn/ha/vụ. Thấy gia đình bác P.

Page 36: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số22

Dạng tiên phong thứ hai, hiếm hơn nhưng rất có ích, là những người đi đầu xây dựng các mô hình liên kết, hợp tác và vận động người dân tham gia. Điển hình là một số người tiên phong có tay nghề, có tâm huyết gìn giữ bản sắc tộc người, bằng nội lực và sức lan tỏa của mình đã hình thành các HTX ngành nghề truyền thống, tạo việc làm cho nhiều người dân tại chỗ, như trường hợp HTX lanh Hợp Tiến (Quản Bạ, Hà Giang) và HTX thổ cẩm Vọng Ngàn (Tân Lạc, Hòa Bình). Tại các điểm khảo sát, hầu hết người tiên phong áp dụng giống mới, kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp là nam giới; nhưng lại có một số phụ nữ DTTS đã phát huy được thế mạnh tay nghề và khả năng liên kết, vận động, thuyết phục của mình để thực hiện vai trò tiên phong trong các mô hình liên kết, hợp tác phát triển ngành nghề truyền thống. (Hộp 4).

HỘP 4. Những cá nhân tiên phong trong duy trì và phát triển ngành nghề truyền thống

Câu chuyện thứ nhất. Thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang) hiện nay được biết đến rộng rãi với sản phẩm lanh truyền thống của người Hmông. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1998, khi chị V.T.M – lúc đó là chủ tịch HPN xã cùng chồng đứng ra vận động một số chị em tham gia tổ sản xuất lanh. Thời kì đầu, đơn hàng ít, nhưng chị vẫn quyết tâm duy trì nghề lanh. Năm 2001, với sự tư vấn và hỗ trợ của tổ chức Craftlink, chị M. đứng ra thành lập HTX lanh truyền thống Hợp Tiến, với vốn ban đầu 25 triệu đồng, tổng số 70 xã viên. Đến năm 2005, số lượng xã viên đã tăng lên 120 người.

Chị M. nỗ lực tìm kiếm thị trường, tham gia các hội chợ, triển lãm, từng bước tìm được những đơn hàng lớn cho HTX. Năm 2006-2007, Chương trình hợp tác Việt Nam – Thụy Sỹ đã hỗ trợ HTX về kỹ thuật và tìm thị trường. Tháng 3/2009, HTX đã ký kết hợp tác với Association Batik International – một tổ chức hướng nghiệp quốc tế của Pháp giúp phát triển thị trường xuất khẩu. Thông qua các chương trình hợp tác và nỗ lực tự thân, HTX đã phát triển nhiều mẫu mã sản phẩm được khách hàng đón nhận, đem lại thu nhập bình quân 1 triệu đồng/tháng cho xã viên.

Câu chuyện thứ hai. Về nghỉ hưu, cô B.L.P người Mường ở xóm Định, xã Mãn Đức (Tân Lạc, Hòa Bình) bắt tay vào một việc khó: khôi phục và phát triển nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc Mường. Trong bối cảnh hàng may sẵn vừa rẻ, mẫu mã phong phú, nhiều phụ nữ Mường đã từng gắn bó với nghề dệt truyền thống cũng không mặn mà nữa. Cô P. đã thuyết phục được một số chị em tham gia HTX. Tháng 6/2008, HTX dệt may thổ cẩm Vọng Ngàn chính thức được thành lập với 5 thành viên Ban chủ nhiệm HTX và 9 xã viên, vốn tự có ban đầu là 20 triệu đồng.

Đến tháng 8/2012, HTX đã phát triển lên 115 xã viên, giúp phụ nữ Mường có thêm thu nhập, bình quân mỗi xã viên là 700-800 ngàn đồng/tháng. HTX Vọng Ngàn được đánh giá là một trong những đơn vị kinh tế tập thể điển hình của huyện Tân Lạc.

xây nhà và ổn định sản xuất lúa nước, nhiều hộ người Hmông lại chuyển từ bản cũ về bản mới sinh sống theo gương bác.

Đến năm 2012 đã có 65 hộ hạ sơn, xây nhà và canh tác lúa nước tại bản mới. Tổng diện tích lúa nước hiện nay tại bản mới đã lên tới 6 ha.

Page 37: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 23

Đa số người tiên phong tại các “điểm sáng” giảm nghèo dựa vào nỗ lực của bản thân, tự mình chấp nhận rủi ro, không phụ thuộc vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước (hỗ trợ bên ngoài, nếu có, chỉ là một phần rất nhỏ so với công sức và tiền bạc mà họ bỏ ra). Thực tế, số đồng bào DTTS tiên phong đi đến thành công chưa nhiều, kỹ thuật sản xuất hoặc quản lý kinh doanh do tự mày mò học hỏi nên còn những khiếm khuyết. Ví dụ một số người Mạ tiên phong trồng cà phê ở Đăk Glong lúc đầu dùng giống trôi nổi chất lượng thấp, nên hiện nay đang phải ghép lại hoặc trồng lại bằng giống cà phê tốt của viện Eakmat.

2.3.2. Lan tỏa

Tại mỗi “điểm sáng” giảm nghèo, quá trình lan tỏa những thực hành mới và hiệu quả có thể đi theo 3 kênh chính: (i) lan tỏa từ người đi tiên phong đến các thành viên khác trong cộng đồng; (ii) lan tỏa thông qua các hoạt động kinh tế như làm thuê, đổi công, bán giống, thu mua sản phẩm; (iii) lan tỏa theo mối liên hệ tộc người và xen ghép tộc người. Mỗi kênh có thế mạnh và sức lan tỏa khác nhau ở từng địa bàn.

Lan tỏa từ người tiên phong trong cộng đồng diễn ra ở hầu hết các “điểm sáng” giảm nghèo. Từ những người tiên phong, các thực hành mới được đa số người dân trong thôn bản làm theo, có thể qua các thiết chế cộng đồng (gia đình, dòng họ, tổ nhóm, đoàn thể...) hoặc qua học hỏi trực tiếp giữa các cá nhân. Đây là cách lan tỏa “từ nông dân đến nông dân” hiệu quả nhất, dựa trên những trải nghiệm thực tế ngay tại chỗ. Tuy nhiên, lan tỏa chỉ trên diện rộng khi thực hành mới dựa trên những lợi thế, đặc điểm chung của đa số người dân trong cộng đồng. Ví dụ: việc lan tỏa trồng lúa nước trong người Hmông ở bản Minh Châu (Nghệ An) hay trồng rau trái vụ trong người Nùng, Hmông tại xã Quyết Tiến (Hà Giang). Với những thực hành mới dựa trên lợi thế riêng có của những hộ đơn lẻ, việc lan tỏa khó thực hiện.

Sự lan tỏa thông qua chuyển giao thế hệ khá phổ biến. Các ông K.S, người Mạ ở thôn 9, xã Quảng Khê và K.Kr, người M’nông ở bon B’Srê B, xã Đăk Som (Đăk Nông) đều có chung nhận định“Mình làm được rồi, phải dạy cho các con nó làm theo. Chia đất cho chúng nó trồng cà nhưng những năm đầu vẫn phải chỉ bảo cho chúng nó cách làm. Khi nào chúng nó đứng vững rồi mới thôi. Với con trai cũng vậy, mà con gái, con rể cũng vậy thôi.”

Lan tỏa thông qua các hoạt động kinh tế như làm thuê, đổi công, bán giống, thu mua… Ở những vùng sản xuất hàng hóa như Đăk Glong (Đăk Nông), vào những thời điểm thu hoạch, việc đổi công, làm thuê khá phổ biến. Trong quá trình đi làm thuê hay đổi công, nhiều người Mạ đã học hỏi kinh nghiệm trồng và chăm sóc cà phê, cách chuyển đổi từ trồng lúa, mì sang trồng cà phê… để về áp dụng trong gia đình mình. Tại xã Quyết Tiến (Hà Giang), trước đây bà con người Nùng, Hmông chủ yếu trồng rau để phục vụ nhu cầu của gia đình. Thông qua quá trình trao đổi hàng hóa (đổi lúa, ngô lấy rau) với thôn người Kinh lân cận, đồng bào DTTS dần học tập kinh nghiệm trồng rau, đến nay một số thôn DTTS trong xã đã đẩy mạnh trồng rau hàng hóa, cung cấp ra thị trường (Hộp 5).

Lan tỏa theo mối liên kết tộc người, không chịu ảnh hưởng bởi địa giới hành chính. Mối liên hệ “liên làng” hay “siêu làng” theo từng tộc người có thể từ huyện này sang huyện khác, thậm chí giữa các tỉnh với nhau. Ví dụ như quá trình người Mạ ở Đăk Glong (Đăk Nông) học cách trồng cà phê, trồng chè của anh em người Mạ bên các huyện Di Linh, Bảo Lộc (Lâm Đồng). Ngược lại, một số người Mạ ở bên Lâm Đồng sang Đắk Glong mua đất làm ăn và dạy lại kinh nghiệm trồng chè cho người Mạ tại địa phương.

Page 38: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số24

--- “Mô hình chè bác cũng học hỏi từ người Mạ mình bên Bảo Lộc – Lâm Đồng. Nghe bà con trồng 4-5 sào chè, 1 tháng thu 4-6 triệu. Bên Lâm Đồng đều tự làm giống, giờ mình cũng có thể làm. Giờ đường sá đi lại thuận tiện. Người bên Bảo Lộc – Lâm Đồng sang mua. Nhà máy bên Lâm Đồng còn đang thiếu nguyên liệu. Trước có muốn cũng không làm vì không bán được. Giờ có điện thoại, điều xe 2 chiều dễ…Khả năng năm nay bà con sẽ tự mở rộng. Quan trọng nhất là thực tế mắt thấy tai nghe mới tin, dân sẽ tự làm.” (K.S người Mạ, chủ tịch HND xã Quảng Khê, huyện Đăk Glong, Đăk Nông).

Lan tỏa do sự xen ghép dân tộc cũng đáng lưu ý. Tại các “điểm sáng” giảm nghèo hầu hết đồng bào DTTS đều nói được tiếng Kinh, trừ một số ít phụ nữ DTTS lớn tuổi. Ghi nhận tại xã Quảng Khê (Đăk Glong, Đăk Nông), một số hộ người Kinh chuyển đến và trồng cà phê trước. Sau một thời gian, nhìn thấy lợi ích cũng như học hỏi được kinh nghiệm từ người Kinh, các hộ người Mạ tại chỗ cũng chuyển đổi dần từ ngô, sắn, điều sang cà phê.

--- “Tôi học trồng cà từ người Kinh. Ban đầu còn bỡ ngỡ, sau riết rồi cũng quen. Bây giờ tôi đã nắm vững được mọi kỹ thuật từ làm bồn, xuống giống, tỉa cành, chăm sóc. Khó nhất là ghép giống, tôi cũng học và làm được. Ban đầu tôi mua giống cà của các đại lý, sau tôi học ghép và tự ghép lấy giống để trồng. Bây giờ thì tôi chủ động được giống rồi.” (K.S người Mạ, Trưởng thôn 9, xã Quảng Khê, huyện Đăk Glong, Đăk Nông).

Cần nhấn mạnh, lan tỏa một thực hành mới trong cộng đồng DTTS là quá trình mang tính lựa chọn cao, cần thời gian nhất định và thông qua những kênh nhất định. Với tâm lý phổ biến “làm mới biết” và “nhìn mới tin” của đồng bào DTTS, lan tỏa một thực hành mới cần thực hiện từng bước, tạo cơ hội cho người DTTS kiểm chứng và học hỏi từ thực tế.

HỘP 5: Lan tỏa mô hình trồng rau từ thôn người Kinh ra thôn DTTS

Vĩnh Tiến là thôn người Kinh từ Thạch Đà-Vĩnh Phúc di cư đến xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang) theo phong trào “kinh tế mới” trong những năm 60. Nhờ có truyền thống làm rau, gặp điều kiện thuận lợi về khí hậu (ẩm, lạnh) tại nơi ở mới, nên hầu hết trong số 46 hộ gia đình trong thôn đều phát triển kinh tế dựa vào cây rau. Thôn chỉ có 3ha đất sản xuất, nhờ chuyên canh làm rau trái vụ đem lại nguồn thu nhập lớn đã trở thành thôn có điều kiện kinh tế khá trong xã.

Thời gian đầu khi các hộ tại Vĩnh Tiến làm rau, đồng bào người Nùng, Hmông, Dao tại các thôn DTTS lân cận như Bó Lách, Đông Tinh, Tân Tiến…chủ yếu mang ngô, lúa ra đổi rau về ăn. Phong trào trồng rau tại các thôn DTTS chỉ thực sự phát triển mạnh từ đầu năm 2000. Thông qua việc mua cây giống của người Kinh tại Vĩnh Tiến, các hộ tại các thôn DTTS học hỏi kỹ thuật trồng, chăm sóc rau. Ban đầu là một vài hộ, sau lan rộng ra toàn bộ các hộ trong thôn. Đến nay, tại các thôn DTTS các hộ gia đình đều đã biết trồng rau để bán có thêm thu nhập.

Một số hộ DTTS đã biết làm rau trái vụ cho thu nhập cao. Trên cùng một diện tích 360m2 nếu làm ngô lai cho thu từ 3-4 triệu/vụ, làm lúa 2-3 triệu/vụ, làm rau bắp cải chính vụ 3 triệu/lứa, làm bắp cải trái vụ có thể cho thu đến 20 triệu/lứa.Kỹ thuật làm rau trái vụ không khó, chỉ cần chăm chỉ và đảm bảo đủ phân, nước.Làm rau trái vụ không ngại vấn đề giá cả do nhu cầu của thị trường luôn rất lớn. Một hộ gia đình chỉ cần khoảng 2000m2 đất làm rau trái vụ là có thể thoát nghèo, đảm bảo cuộc sống dư dả.

Page 39: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 25

HỘP 6. Các yếu tố thúc đẩy và nguyên tắc lan tỏa các thực hành mới

“Lan tỏa sáng tạo” (Diffusion of Innovations) là lý thuyết do Everett M. Rogers (2003) khởi xướng, được áp dụng khá phổ biến trong quản trị kinh doanh và nhiều lĩnh vực khác, bao gồm cả lĩnh vực phát triển cộng đồng. Các yếu tố thúc đẩy sự lan tỏa các thực hành mới trong cộng đồng bao gồm:• Thực hành mới phải có lợi thế hơn so với những thực hành đã và đang tồn tại• Tương thích với các giá trị, kinh nghiệm và nhu cầu của người dân• Đơn giản và dễ thực hiện, phù hợp với điều kiện và khả năng của người dân• Có thể thử nghiệm• Kết quả nhìn thấy được.

Theo Rogers, có 3 nguyên tắc cần lưu ý khi tìm cách lan tỏa các thực hành mới:• “Tái sáng tạo”: điều chỉnh thực hành mới cho phù hợp với nhu cầu của một

nhóm cụ thể. Cách tốt nhất là thu hút những người dùng, người hưởng lợi trở thành đối tác trong quá trình liên tục thử nghiệm và phát triển.

• Tầm quan trọng của những lời khuyên được truyền miệng từ những người cùng cảnh ngộ, lan tỏa thông qua mạng lưới những người cùng cảnh ngộ.

• Hiểu rõ nhu cầu của các nhóm người dùng, người hưởng lợi khác nhau.

2.3.3. Gắn kết cộng đồng

Gắn kết cộng đồng (“đoàn kết”) là truyền thống của đồng bào DTTS. Các mối quan hệ trong thôn bản là nguồn vốn xã hội chủ yếu của người nghèo, là điểm tựa của họ khi gặp khó khăn. Tại các “điểm sáng” giảm nghèo được khảo sát, tính gắn kết cộng đồng khá mạnh, là tác nhân quan trọng để tăng hiệu quả sinh kế, lan tỏa và duy trì các thực hành mới.

Hình thức đổi công giúp đồng bào DTTS tăng hiệu quả lao động và chia sẻ kinh nghiệm sản xuất. Tại Quản Bạ (Hà Giang) và Quế Phong (Nghệ An), đổi công được đồng bào người Hmông, Nùng, Thái vận dụng rất phổ biến trong những thời điểm mùa vụ cần nhiều lao động như gieo trồng, làm cỏ hoặc thu hoạch sản phẩm. Với hộ nghèo, hộ ít lao động, hộ không có sức kéo, đổi công giúp họ có điều kiện sản xuất tốt hơn. Đổi công cũng là dịp đồng bào DTTS chia sẻ thông tin và học hỏi lẫn nhau về kinh nghiệm sản xuất, tăng tính đoàn kết cộng đồng, hộ nghèo có cơ hội hòa nhập tốt hơn. Riêng tại Đăk Glong (Đăk Nông), trước đây đổi công trong đồng bào người Mạ cũng rất phổ biến, nhưng thị trường

Các yếu tố thúc đẩy và nguyên tắc lan tỏa các thực hành mới trong cộng đồng đã được Everett M. Rogers (2003) tổng kết trong lý thuyết “lan tỏa sáng tạo” (Hộp 6). Các yếu tố và nguyên tắc lan tỏa này (nhất là nguyên tắc “thu hút những người dùng, người hưởng lợi trở thành đối tác trong quá trình liên tục thử nghiệm và phát triển” và “lan tỏa thông qua mạng lưới những người cùng cảnh ngộ”) rất phù hợp với 3 kênh lan tỏa chính trong các cộng đồng DTTS. Tại các địa bàn khảo sát, tình trạng các chương trình, dự án không tuân thủ các yếu tố và nguyên tắc lan tỏa dẫn đến “chuyển giao công nghệ” hay “mô hình trình diễn” không duy trì và nhân rộng được là khá phổ biến. Nhóm cán bộ huyện Quế Phong (Nghệ An), rút kinh nghiệm từ chính những thất bại tại địa phương mình, cũng cho rằng các mô hình sinh kế cần được đầu tư liên tục ít nhất trong 2-3 năm, với hỗ trợ giảm dần, để đồng bào DTTS thấy được hiệu quả từ đó học hỏi lẫn nhau và làm theo.

Page 40: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số26

lao động phát triển (có đông người làm thuê bán sức lao động phổ thông) nên phong trào đổi công gần đây đã giảm đi.

Tại Quế Phong (Nghệ An), nhiều bản người Thái và người Hmông vẫn giữ tập quán cùng nhau quản lý đàn gia súc. Các khu chăn thả gia súc của bản được chia thành các cụm nhỏ, thường từ 10-20 hộ/cụm. Tại mỗi cụm có nhà tạm của một số hộ dựng lên để tiện trông gia súc. Các hộ thiếu lao động có thể nhờ các hộ khác trông nom gia súc, hàng tuần mới đi thăm gia súc một lần. Nếu có gia súc bị ốm các hộ gia đình sẽ thông báo cho nhau.

Tập quán cùng nhau làm các công việc chung giúp tăng sức mạnh của cộng đồng DTTS tại các “điểm sáng” giảm nghèo như làm đường, làm trường. Tại nhiều địa phương, việc chung sức xây dựng lớp học tại các bản xa được người dân ủng hộ và tham gia nhiệt tình. Ngay trong một số thôn bản có sự xen ghép nhiều dân tộc (như tại Hà Giang trong 1 bản có người Nùng, Hmông và Dao hoặc tại Đăk Nông trong 1 thôn bon có người Mạ, Hmông và Kinh), người dân sống tương đối hòa đồng, cùng tham gia các công việc chung của thôn bản. Tại thôn 2, xã Đắc Som (Đắk Glong, Đăk Nông) người Hmông di cư cùng người Mạ bản địa làm cầu tạm, sửa đường vào rãy sản xuất, phục vụ cho nhu cầu chung. Trong các thôn bản này, mỗi nhóm dân tộc vẫn giữ bản sắc riêng trong các thực hành lễ hội và tâm linh. Tiếng Kinh hoặc tiếng của dân tộc chiếm ưu thế (trong thôn bản hoặc trong xã) được sử dụng là ngôn ngữ chung trong hội họp; còn mỗi nhóm dân tộc vẫn sử dụng ngôn ngữ riêng trong gia đình và giao tiếp với người cùng dân tộc.

Yếu tố “gia đình mở rộng” trong cộng đồng DTTS vẫn được đặc biệt coi trọng và là nền tảng để thế hệ sau ổn định cuộc sống. Trong gia đình lớn, bên cạnh việc phân chia đất đai cho con cái, bố mẹ còn hỗ trợ con cái trong những năm đầu tách hộ cho đến khi kinh tế gia đình ổn định.

--- “Cha mẹ vẫn giúp đỡ con cái, con có gia đình nhưng vẫn ăn chung, khi nào ổn biết hạch toán mới ra ở riêng, cho rẫy, làm nhà. Vững vàng mới có nền tảng ban đầu được. Chờ Nhà nước hỗ trợ lâu, phải dựa vào bố mẹ, bà con mới thoát nghèo được.” (Nhóm người Mạ thôn 9 xã Quảng Khê, huyện Đăk Glong, Đăk Nông).

Gắn kết trong anh em, dòng họ là điểm tựa quan trọng của người nghèo khi gặp khó khăn. Tại những cộng đồng người Hmông, Nùng, Thái…, quan hệ dòng họ rất bền chặt, trải qua nhiều thế hệ. Những người trong họ có thể giúp đỡ người nghèo về công lao động, gạo, tiền, làm nhà. Tại các “điểm sáng” giảm nghèo trong cộng đồng DTTS có phong trào đi làm ăn xa, mạng lưới xã hội tạo nên sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng dòng họ, cùng thôn bản hoặc cùng dân tộc. Người đi trước truyền thông tin về công việc cho người ở nhà, là đầu mối giúp những người đi sau tìm việc. Tại xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang), những người Nùng đi XKLĐ thường theo nhóm họ hàng, người đi trước giúp đỡ về kinh phí cho người đi sau. Tại thôn 2, xã Đăk Som (Đăk Glong, Đăk Nông), những người Hmông di cư vào trước thường giúp đỡ họ hàng vào sau, kể cả cho hoặc cho mượn đất để sản xuất.

Sự giúp đỡ lẫn nhau thông qua quan hệ hôn nhân cũng khá phổ biến. Ông V.V.H, người Thái ở bản Piểu vốn là chủ hộ nghèo cách đây khoảng 10 năm. Sau khi học được nghề mộc từ người Kinh, ông đã truyền nghề lại cho các anh em trai bên vợ và cùng họ thành lập 1 hiệp thợ mới. Tiền công có được từ các hợp đồng làm nhà được ông dành 1 phần đầu tư vào đàn trâu bò. Chỉ trong vòng chưa đầy chục năm, ông đã có 13 con trâu và 8 con bò và trở thành hộ khá giả. Các anh em vợ của ông cũng có đàn trâu bò riêng của mình và đều thoát nghèo. Ông L.S.L, người Hmông ở bản Minh Châu, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong vốn là người bản Nậm Tụt. Khi chuyển cư xuống bản mới Minh Châu (2002), ông để lại toàn bộ ruộng nước (khoảng 9.000m2) và vườn tược (khoảng 2.000m2) cho người em vợ,

Page 41: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 27

HỘP 7. Hội Phụ nữ người Mạ tổ chức đổi công giúp hộ nghèo

Chi hội phụ nữ bon B’Sre B, xã Đăk Som (Đăk Glong, Đăk Nông) có 55 chị em tham gia thường xuyên. Mặc dù tại địa phương thị trường lao động rất phát triển, ai cần lao động thì bỏ tiền thuê, riêng chi hội phụ nữ B’Sre B vẫn duy trì phong trào đổi công để giúp những chị em có hoàn cảnh khó khăn. Mỗi năm chi hội phụ nữ đổi công để giúp cho 7-8 chị. Mỗi lần đổi công, chủ nhà trả công tượng trưng 200-400.000 đồng/ngày gồm khoảng 10-20 chị em tham gia, số tiền này sau đó được góp thành quĩ của chi hội, mỗi năm được 3-4 triệu đồng, dùng để liên hoan, thăm hỏi.

Chị H.D người Mạ là hộ nghèo neo người trong bon B’Sre B. Chị H.D đã vài lần được các chị trong chi hội phụ nữ đến giúp đổi công. Chị cho biết: “Năm ngoái mượn đất người ta được 2 sào làm bắp, được khoảng 1, 5 tấn, cũng nhờ bên phụ nữ đi giúp, hôm đó có khoảng 12 người. Đi làm về có bữa ăn nhẹ chị em liên hoan với nhau. Nếu 12 người đi, tính công 1 người là 150 nghìn đồng, tính ra là gần 1,8 triệu đồng. Họ giúp mình, thì mình chỉ mất khoảng 300 nghìn đồng tiền mua đồ ăn, góp vào quỹ của hội khoảng 200 nghìn đồng, tính ra mình cũng tiết kiệm được hơn 1 triệu đồng rồi. Đi làm đổi công thế này, chị em gắn bó hơn… Hội phụ nữ thường liên hoan vào 8/3, rồi 20/10. Tổ chức ăn uống, vui lắm, quá vui luôn... Chồng của các chị cũng có tham gia luôn đó.”

vốn là chủ 1 hộ nghèo đông con, trông coi và canh tác mà không thu hoa lợi. Đồng thời, ông giao đàn trâu bò của mình (20 con trâu và 40 con bò) cho em vợ nuôi rẽ. Nhờ vậy, sau gần chục năm, em vợ của ông đã thoát nghèo. Ông G.A.M, em vợ ông L.S.L, cho biết: “Mình học anh L. cách tính toán làm ăn, lại được anh giúp cho mượn đất nên giờ không còn nghèo nữa. Nhà lúc nào cũng thừa thóc ăn và đã có 4 con trâu với lại 9 con bò.”

Các đoàn thể ở một số “điểm sáng” giảm nghèo đã góp phần tích cực trong việc gắn kết các thành viên thông qua các hoạt động chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Tại bon B’Sre B, xã Đăk Som (Đăk Glong, Đăk Nông), chi hội phụ nữ đã thành lập tổ đổi công để giúp đỡ những chị em người Mạ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vào thời điểm thu hoạch, được các chị em đánh giá cao (Hộp 7).

Các thực hành tín ngưỡng, tâm linh, lễ hội góp phần tăng cường gắn kết cộng đồng. Tại huyện Đăk Glong (Đăk Nông) người Mạ bản địa và người Hmông di cư thường theo hai tín ngưỡng tôn giáo chính là Đạo Tin Lành và Đạo Công Giáo. Tuy theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau nhưng người dân vẫn sống hòa đồng. Đa số đông bào DTTS tại các “điểm sáng” giảm nghèo được khảo sát đều chia sẻ những tác động tích cực của sinh hoạt tôn giáo trong cộng đồng. Những hộ gia đình khó khăn nhận được sự giúp đỡ của anh em trong cùng tổ giáo hữu, như đổi công, giúp ít gạo hoặc ít tiền, trao đổi kinh nghiệm làm ăn. Người theo đạo bỏ tục uống rượu, trộm cắp cũng giảm hẳn so với trước. Trong các buổi sinh hoạt tôn giáo hàng tuần, bà con cùng nhắc nhau các gia đình sống thuận hòa, đoàn kết, nhắc con cái học hành.

--- “Tổ nhóm Tin Lành có thể trao đổi kinh nghiệm làm kinh tế; đổi công trong nhóm hoặc giữa các nhóm khác nhau; cho nhau mượn đất làm; hỗ trợ đi thăm ốm đau; cho mượn vốn làm ăn, cái này thì giúp nhau thôi, vay bằng gì thì trả thế, không tính lãi, không quy ra vàng; quyên góp hỗ trợ hộ khó khăn, con đi học có quần áo, sách vở đi học. Tùy vào kinh tế

Page 42: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số28

gia đình, hộ giàu có thể đóng góp 100, hộ nghèo 20, trung bình đóng 50 ngàn.” (Nhóm cán bộ thôn người Mạ, thôn 9, xã Quảng Khê, huyện Đăk Glong, Đăk Nông).

Có sự thay đổi tích cực về yếu tố giới trong những năm qua tại các “điểm sáng” giảm nghèo khảo sát. Phụ nữ DTTS đã tham gia nhiều hơn vào quá trình ra quyết định và quản lý kinh tế trong gia đình, đặc biệt là trong các gia đình trẻ. Thực tế, những hộ tiên phong, hộ làm ăn khá trong cộng đồng thường có sự chia sẻ, trao đổi giữa hai vợ chồng, bản thân người vợ cũng khá năng động và mạnh dạn trong giao tiếp. Một số phụ nữ người Mạ và người Hmông biết tiếng Kinh, biết tính toán đã tham gia nhiều vào các hoạt động xã hội và các giao dịch mua bán; họ có sự bình đẳng hơn so với nam giới trong gia đình.

Phân công lao động hợp lý giúp nâng cao đời sống. Ở bản Đỉn Đảnh người Thái, xã Châu Thôn (Quế Phong, Nghệ An), người già hoặc cặp vợ chồng trẻ ở khu chăn thả để trông trâu bò, người lớn ở nhà làm ruộng và nuôi lợn, còn thanh niên đi làm ăn xa, đi học. Bản Yên Sơn, xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An), một số phụ nữ Thái tận dụng ưu thế gần chợ phiên để buôn bán nhỏ. Sự chia sẻ công việc trong gia đình được thể hiện rõ qua phong trào làm lanh ở xã Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang). Khi phụ nữ Hmông tập trung làm lanh, nam giới đã làm việc nhà nhiều hơn. Nam giới cũng tham gia trong nhiều công đoạn làm lanh. Tình trạng cãi cọ trong gia đình và mâu thuẫn trong cộng đồng đã giảm hẳn trong 5 năm qua.

--- “Phụ nữ làm lanh thì phải làm suốt ngày. Đàn ông đi cày, đi bón phân. Phụ nữ làm lanh thì nam giới đi chăn trâu, chăn bò, làm việc nhà.” (Nhóm cán bộ người Hmông thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám, Quản Bạ, Hà Giang).

--- “Làm cái này ra tiền nên cãi cọ cũng giảm đi. Nữ nào mà ra ngoài đi tập huấn, biết tiết kiệm, làm ăn, đời sống của hộ đấy khá lên hơn các hộ khác. Vợ chồng sống tình cảm, con cái có được đi học, ốm thì đi bệnh viện. Giờ trong thôn chỉ đẻ 2 con thôi.” (H.T.P người Hmông, thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám, Quản Bạ, Hà Giang).

Tại những “điểm sáng”giảm nghèo có ít định kiến với người nghèo DTTS trong cộng đồng. Cán bộ cơ sở và người dân có nhắc đến nguyên nhân “nghèo do lười” nhưng công nhận đó chỉ là trường hợp cá biệt, số lượng ít (mà trong tộc người nào, kể cả người Kinh cũng có). Trong thảo luận với nhóm cán bộ xã và thôn (trong đó có cả người Kinh) về nguyên nhân nghèo của đồng bào DTTS, các nguyên nhân “đông con”, “thiếu đất sản xuất”, “rủi ro” thường được ưu tiên hàng đầu, trong khi các nguyên nhân “lười”, “không chịu làm ăn” không được nhắc đến hoặc chỉ được xếp ưu tiên ở các hạng cuối cùng.

--- “Người Mạ có ý chí sản xuất, nhưng đất đai cằn cỗi, không làm màu, làm lúa được. Lười thì số rất ít thôi.” (Nhóm cán bộ xã Đăk Som, Đăk Glong, Đăk Nông).

Đồng bào DTTS ở các “điểm sáng” giảm nghèo cũng ít có sự “tự định kiến” về tộc người, mặc dù vẫn cho rằng họ “kém hơn” người Kinh trong “tính toán làm ăn” và “áp dụng KHKT”. Trong một số cộng đồng DTTS còn có sự tự hào với phong tục tập quán, những kinh nghiệm hay trong sản xuất. Điển hình tại thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang), người Hmông vẫn duy trì nghề dệt lanh và thêu thổ cẩm truyền thống, dù quần áo may sẵn theo kiểu người Kinh hiện nay sẵn có với giá rẻ. Bộ váy áo tự làm gắn liền với các lễ hội và nghi lễ truyền thống, được người Hmông nơi đây coi là niềm tự hào, là bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Hoặc tại bản Minh Châu, xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An), một số người Hmông rất tự hào với kinh nghiệm chọn gia súc và vỗ béo gia súc để bán của mình.

--- “Người Mông không thể thiếu vải lanh, con gái 15 tuổi phải có một bộ để đi lễ hội. Cưới gả phải có, người chết cũng phải có mặc, không thì không làm ma được, tổ tiên

Page 43: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 29

15 Theo báo cáo của UBND huyện Đăk Glong (2012), tổng diện tích cà phê tính đến tháng 6/2012 trên địa bàn toàn huyện Đăk Glong là 8.232 ha, tăng 4.966 ha so với năm 2005

không nhận. Nghề là mẹ truyền cho con gái, trẻ con cũng làm, lớp 7, lớp 8 là làm, trẻ con đi học về đua nhau làm. Có cả một câu lạc bộ đi biểu diễn dệt lanh ở Thái Nguyên, ở bảo tàng các dân tộc Việt Nam.” (Nhóm nòng cốt người Hmông thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám, Quản Bạ, Hà Giang).

Tại các địa bàn khảo sát vẫn còn những nhận xét mang tính “dán nhãn” đối với đồng bào DTTS từ phía một số cán bộ người Kinh. Đồng bào DTTS thường bị cho là “trông chờ, ỷ lại” vào những hỗ trợ của Nhà nước (trong khi trên thực tế, các hỗ trợ theo cách “ban phát gia trưởng” mới là nguyên nhân gốc rễ của tâm lý thụ động của một bộ phận đồng bào DTTS). Đã có một số nghiên cứu về định kiến tộc người tại Việt Nam (WB 2009, iSee và nhóm nghiên cứu HVBCTT 2009, Phạm Quỳnh Phương và Hoàng Cầm 2011, Hoàng Cầm và Mai Thanh Sơn 2012), tuy nhiên còn thiếu những nghiên cứu dưới dạng phân tích chính sách chuyên sâu về định kiến tộc người để đề xuất những giải pháp chính sách cụ thể hơn.

2.3.4. Tận dụng lợi thế

Với đặc trưng thôn bản của các “điểm sáng” giảm nghèo, mỗi thôn bản có những lợi thế riêng của mình. Tận dụng được lợi thế của mỗi thôn bản sẽ giúp cho đời sống đa số hộ gia đình DTTS trong thôn bản đi lên.

Lợi thế về điều kiện tự nhiên. Những lợi thế về đất ruộng, rẫy, rừng, nguồn nước đã giúp cộng đồng DTTS tại các “điểm sáng” giảm nghèo có tiền đề thuận lợi để đảm bảo an ninh lương thực, phát triển kinh tế hộ. Tại huyện Quản Bạ (Hà Giang), một số thôn bản người Nùng, Hmông như thôn Tân Tiến, xã Quyết Tiến đã tận dụng lợi thế đất bằng phẳng, có nước tưới, thời tiết lạnh, ít sâu bệnh để trồng rau hàng hóa để cải thiện thu nhập. Tại huyện Quế Phong (Nghệ An) một số thôn bản còn giữ được diện tích đất đủ lớn để làm khu chăn thả gia súc tập trung từ đó phát triển mạnh đàn gia súc. Điển hình như người Thái ở bản Đỉn Đảnh, xã Châu Thôn dựa vào tập quán sử dụng rừng cộng đồng theo truyền thống để hình thành các khu chăn thả tập trung rộng vài trăm ha. Tại huyện Đăk Glong (Đăk Nông), những lợi thế về diện tích đất đai màu mỡ phù hợp với cây công nghiệp dài ngày đã được người Mạ tận dụng. Đa số người dân từng bước chuyển diện tích đất nương rẫy, đất vườn sang trồng cà phê cho thu nhập cao hơn so với trồng sắn, ngô, lúa 15.

Lợi thế về cơ sở hạ tầng. Hầu hết các “điểm sáng” giảm nghèo được khảo sát đều gần đường cái hoặc gần chợ, được đầu tư CSHT và thủy lợi tương đối tốt, thuận lợi cho tiếp cận thị trường và thông tin. Tại xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang), những thôn bản gần đường cái đã phát triển trồng rau để bán nên đời sống của đa số người dân được cải thiện đáng kể. Ngược lại, những thôn bản khó khăn nằm sâu phía trong, đường đi lại không thuận tiện, có rất ít gia đình trồng rau để bán. Tại xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An), từ khi chuyển về bản mới cạnh đường cái và gần trung tâm xã, các gia đình người Hmông thuận lợi hơn trong việc cho con đi học, khám chữa bệnh và mua bán. Câu chuyện ở xã Quảng Khê (Đăk Glong, Đăk Nông) cũng cho thấy, từ khi có đường nhựa thuận tiện nối với tỉnh Lâm Đồng, việc sản xuất chè tươi của người Mạ mới thuận lợi.

--- “Từ khi đường sá tốt lên mấy năm nay, làm chè ở Quảng Khê mới khả thi, trước có muốn cũng không làm vì không bán được, bán chè tươi cần có xe chở về nhà máy ở Lâm Đồng trong ngày”. (K.S người Mạ, xã Quảng Khê, Đăk Nông)

Page 44: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số30

HỘP 8. Mô hình nuôi bò vỗ béo của người Hmông

Gia đình bác N.N.P người Hmông tại bản Minh Châu, xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An) hiện có 5 con trâu và 30 con bò. Bác cho biết, năm 1996 nhà chỉ có 2 con bò, số lượng trâu bò nhiều là do tích lũy nhiều năm và qua mua bán. Nhờ phát triển đàn bò theo hướng chăn nuôi vỗ béo và kinh doanh, đến năm 1999 gia đình bác thoát nghèo, và hiện nay là một trong những hộ có kinh tế khá nhất trong bản.

Bác P. thường xuyên tìm sang các địa bàn lân cận Quế Phong như huyện Tương Dương, Kỳ Sơn hoặc sang Lào để mua bê con. Bò mới đưa về được cách ly riêng tại một khu chăn thả nhỏ trên diện tích rẫy của gia đình, sau khoảng 2-3 tháng thì nhập vào khu chăn thả tập trung cùng với một vài hộ khác trong bản. Mỗi con bò bán sau 6 tháng nuôi vỗ béo có thể lãi 1-1,5 triệu đồng, chỉ tốn công cắt cỏ cho bò. Bác P. cho biết, mua bê con về nuôi vỗ béo rồi bán cho thu nhập cao hơn nhiều so với việc chăn nuôi bò sinh sản từ lúc nhỏ đến khi lớn.

Lợi thế về tri thức bản địa, ngành nghề thủ công truyền thống và sản phẩm đặc hữu. Các ngành nghề thủ công, đặc sản là lợi thế của nhiều cộng đồng DTTS do gắn với truyền thống, bản sắc của dân tộc, đặc thù về đất đai, khí hậu và tri thức bản địa, như các sản phẩm dệt thổ cẩm, gạo, rượu, chè, lợn, gà, trái cây, bài thuốc bản địa... Xu hướng ưa thích “đặc sản miền núi”, “sản phẩm sạch”, “du lịch khám phá” trong cuộc sống hiện đại tạo cơ hội cho việc khôi phục và phát triển các dịch vụ du lịch, ngành nghề thủ công nghiệp gắn với các cộng đồng DTTS, như trường hợp người Hmông tại xã Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang) tận dụng lợi thế nghề dệt lanh truyền thống của mình. Tuy nhiên, tận dụng cơ hội để tạo nên các “điểm sáng” giảm nghèo còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố (như đã phân tích trong báo cáo này), và đặc biệt quan trọng là xây dựng được mối liên kết cùng có lợi giữa nông dân với doanh nghiệp trong tiếp cận thị trường –là yếu tố còn rất yếu trong phát triển ở các vùng DTTS.

Lợi thế về vị trí địa lý gần biên giới. Tại những xã giáp biên, nhiều đồng bào DTTS tận dụng cơ hội kinh doanh qua biên giới. Như tại xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An) do có địa thế giáp Lào nên cả bản người Thái và người Hmông trong xã đều có nhiều người sang Lào buôn bán. Tại bản Minh Châu, tới 50% số hộ Hmông trong bản có buôn bán sang Lào. Việc buôn bán thường đi theo nhóm anh em họ hàng. Mặt hàng buôn bán rất đa dạng, như mang quần áo, nhu yếu phẩm, bánh kẹo từ Việt Nam sang và mua lợn, dê, chó, gạo từ Lào về. Thu nhập sau mỗi chuyến đi 5-30 ngày có thể được 3-4 triệu đồng. Cũng với lợi thế về khu chăn thả tại bản cũ trên núi và ở khu vực giáp ranh với Lào, nhiều người Hmông ở bản Minh Châu- xã Tri Lễ đã phát triển mạnh nghề vỗ béo và buôn bán trâu bò. Người dân đi các bản xa, sang Lào mua trâu bò, về vỗ béo rồi bán. Sau một năm giá trị trâu bò được vỗ béo có thể tăng gấp đôi, nhiều hộ gia đình vì vậy có thu nhập vài chục triệu đồng một năm (Hộp 8).

Lợi thế về quan hệ xã hội. Như đã nêu, sự gắn kết cộng đồng và liên kết tộc người của đồng bào DTTS rất bền chặt, có thể trở thành lợi thế trong phát triển kinh tế. Nhiều người Mạ tại huyện Đăk Glong (Đăk Nông) có mối liên hệ họ hàng với người Mạ tại một số huyện giáp ranh của tỉnh Lâm Đồng, thông qua đó học tập kinh nghiệm làm cà phê hay làm chè. Tại xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang) đã có nhiều người Hmông đi xuất khẩu lao động tại Malaysia hay đi làm việc tại các tỉnh phía Nam nhờ dựa trên mạng lưới xã hội của những người cùng dân tộc.

Page 45: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 31

Bên cạnh đó, còn phải kể đến lợi thế từ các quan hệ xã hội mới được thiết lập. Tại xã Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang), các cơ sở dệt lanh và làm thổ cẩm của bà V.T.M và G.T.C đã phát huy được lợi thế của các sản phẩm truyền thống là nhờ có sự hỗ trợ của doanh nghiệp Craft Link, Bảo tàng Dân tộc học và các bạn hàng mới ở trong và ngoài nước.

Lợi thế trong việc tận dụng các dòng tiền có thể huy động. Tại các “điểm sáng” giảm nghèo, nhiều hộ gia đình có thể vay các nguồn vốn tín dụng ngân hàng và vay nợ quán, đại lý để đầu tư cho sản xuất, cho con em ăn học. Tại xã Quảng Khê và Đắc Som (Đăk Glong, Đăk Nông) đa số hộ người Mạ đều vay nợ từ các nguồn với số tiền vài chục triệu đồng. Tuy nhiên, vay nợ quán phải chịu lãi cao, nhiều trường hợp bị ép giá, ép cân khi bán sản phẩm trả nợ. Những hộ nghèo nhất cũng khó vay nợ quán, đại lý do lo ngại không có nguồn trả nợ.

Các hộ gia đình có con em đi XKLĐ ở Quản Bạ (Hà Giang) cũng phải dựa vào dòng tiền từ NHCSXH trong khuôn khổ của chương trình cho vay ưu đãi. Khi những người đi XKLĐ gửi tiền về, nguồn tiền đó lại có thể dành cho anh em thân hữu vay để đầu tư vào kinh doanh hoặc đầu tư cho các thực hành sinh kế khác.

2.3.5. Thích ứng với điều kiện mới

Khả năng thích ứng với điều kiện mới rất quan trọng tại các “điểm sáng” giảm nghèo khi đồng bào DTTS phải đối diện với những thách thức về thay đổi điều kiện sống, diễn biến thị trường hoặc thực thi chính sách.

Đã có nhiều nghiên cứu về tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” của đồng bào DTTS trong các chương trình tái định cư (ví dụ, Hoàng Cầm và Mai Thanh Sơn 2012). Câu chuyện “1 chốn đôi nơi” của người Hmông tại bản Minh Châu, xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An) thể hiện rõ sự thích ứng của đồng bào DTTS với những bất cập của chương trình tái định cư. Mặc dù điều kiện tiếp cận giáo dục, y tế, thị trường tại bản mới cạnh đường cái tốt hơn hẳn so với bản cũ trên núi cao, người Hmông vẫn đi về bản cũ thường xuyên. Lý do là ở bản cũ có bãi chăn thả tập trung để nuôi trâu bò, trong khi ở bản mới cạnh đường cái không có bãi chăn thả. Tại bản cũ bà con có thể tiếp tục trồng lúa và rau màu, trong khi diện tích lúa nước ở bản mới không nhiều. Các thực hành tâm linh, khu nghĩa địa của người Hmông vẫn tại bản cũ (khu nghĩa địa tại bản mới quá nhỏ). Chuồng gia súc được Nhà nước hỗ trợ ở bản mới không làm nơi nuôi trâu bò, mà trở thành nơi “trung chuyển” khi mới mua trâu bò trước khi đưa lên bản cũ, hoặc khi đưa trâu bò từ bản cũ xuống để bán hoặc để cày ruộng.

Khi gặp những hệ lụy không mong muốn của chính sách, các cộng đồng DTTS có thể tự điều chỉnh theo tập quán truyền thống có lợi cho người dân. Tại bản Đỉn Đảnh, xã Châu Thôn (Quế Phong, Nghệ An), theo truyền thống của người Thái tại đây, các khu đất rừng của bản thuộc sở hữu cộng đồng, ai cũng có thể khai thác lâm sản phụ nhưng không được phá rừng, và rừng dùng làm nơi chăn thả gia súc chung. Từ khi có Nghị định 163/1999/NĐ-CP, đất rừng đã được chia nhỏ và giao cho từng hộ gia đình. Đối mặt với tình trạng này, các hộ trong bản vẫn thống nhất áp dụng cách quản lý và sử dụng rừng cộng đồng theo truyền thống (người dân trong bản đều có thể lấy củi, măng, lá dong, bo bo… từ rừng; nếu cần lấy gỗ để làm nhà phải có đồng ý của BQL bản và không được lấy gỗ để bán). BQL bản đã làm tờ trình lên xã để qui hoạch khu chăn thả gia súc chung của bản trong số diện tích đất rừng đã giao cho từng hộ. Nhờ vậy, bản Đỉn Đảnh phát triển mạnh chăn nuôi, có đàn gia súc lớn nhất trong xã, đồng thời không xảy ra tình trạng chặt phá rừng.

Page 46: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số32

Tại các xã Quyết Tiến và Lùng Tám thuộc huyện Quản Bạ (Hà Giang), do diện tích đất trống và bãi chăn thả ngày càng hạn hẹp, hầu hết các hộ gia đình nuôi trâu bò đều phải trồng cỏ ngoại nhập. Nhiều gia đình trồng cỏ ngay tại vườn nhà hoặc trồng xung quanh vườn làm hàng rào. Đây là hiện tượng phổ biến ở cả người Hmông, người Nùng và Bố Y.

Riêng nhóm Hmông di cư từ các tỉnh phía Bắc vào Đăk Nông thích nghi với điều kiện sống mới rất tốt. Tại thôn 2, xã Đăk Som (huyện Đăk Glong), đồng bào Hmông lúc đầu thử sử dụng các giống địa phương mang từ miền núi phía Bắc vào nhưng thất bại, sau đó đã chuyển sang sử dụng đa dạng các giống tại chỗ. Đồng bào Hmông ở phía Bắc ít có tập quán đi làm thuê, nhưng khi di cư vào Đăk Glong họ đã đi làm thuê thường xuyên để có thêm nguồn thu nhập. Sau khi ổn định cuộc sống, đồng bào Hmông đã chuyển dần sang trồng cà phê, chịu khó chăm sóc và bón phân, cho năng suất cao hơn so với nhiều đồng bào DTTS tại chỗ.

2.3.6. Đa dạng hóa sinh kế

Đa dạng hóa sinh kế là chiến lược cốt lõi để thoát nghèo của các hộ gia đình DTTS ở các “điểm sáng” giảm nghèo được khảo sát. Các yếu tố đã phân tích ở trên (tiên phong, lan tỏa, gắn kết cộng đồng, tận dụng lợi thế, thích ứng với điều kiện mới) cũng nhằm hướng đến mục tiêu đa dạng hóa sinh kế hộ gia đình một cách hiệu quả.

Hình 2 mô tả chiến lược sinh kế đa dạng của các hộ gia đình DTTS “thành công” ở các mức độ khác nhau. Con đường đi lên của hộ DTTS thường bắt đầu từ việc đảm bảo an ninh lương thực dựa trên cây lương thực, hoa màu ngắn ngày và làm thuê gần nhà. Sau khi đã vượt ngưỡng “đủ ăn”, đa số hộ DTTS có lợi thế đất đai sẽ đa dạng hóa để tăng thu nhập nông nghiệp bằng cách kết hợp trồng cây hàng hóa ngắn ngày và dài ngày, và phát triển chăn nuôi. Bước tiếp theo, một số hộ sẽ từng bước thâm canh một loại cây hàng hóa nhằm tăng thu nhập theo cách “lấy ngắn nuôi dài”. Một số hộ sau quá trình thâm canh sẽ tiếp tục đa dạng hóa nông nghiệp ở mức cao hơn để đảm bảo dòng tiền và tăng thu nhập bền vững hơn. Một số ít hộ khác tìm cách tăng thu nhập phi nông nghiệp bằng cách đi làm ăn xa hoặc XKLĐ, đầu tư vào thương mại – dịch vụ, phát triển nghề truyền thống. Trong quá trình vươn lên, hộ DTTS thành công đầu tư cho giáo dục với hy vọng thế hệ sau có nghề phi nông nghiệp ổn định với thu nhập cao hơn 16 . Chiến lược đa dạng hóa thường dựa vào sự phân công lao động hợp lý giữa các thành viên trong hộ gia đình.

HÌNH 2. Chiến lược đa dạng hóa sinh kế của hộ gia đình DTTS thành công

Cải thiện giáodục

Trung niên, người già

Thanh niên, trung niên

Trẻ em, thanh niên

Đa dạng hóa/Thâm canh

HGĐ

Việc làm phinông

nghiệp

Làm thuê/Đilàm ăn

xa/XKLĐ

Thươngmại/Dịchvụ/Nghề

truyềnthống

Cây ngắnngày

Chănnuôi/Thủy

sản

Cây dàingày

FIGURE 2: Livelihood diversi�cation strategy of successful ethnic minority households

16 Con đường đi lên của người DTTS trong nghiên cứu này tương tự con đường đi lên đã nêu trong các báo cáo gần đây của Oxfam và ActionAid (2012), Nguyễn Tam Giang et al. (2012) và Andrew Wells-Dang (2012).

Page 47: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 33

Mặc dù đích đến về chiến lược sinh kế của đồng bào DTTS thành công cũng gần giống đồng bào dân tộc đa số (người Kinh)17 , nhưng đồng bào DTTS thường theo đuổi quá trình đa dạng hóa tiệm tiến từng bước, để giảm rủi ro và giữ bản sắc văn hóa của mình. Phân tích dưới đây sẽ giúp làm rõ hơn chiến lược sinh kế đa dạng hóa của đồng bào DTTS tại các địa bàn khảo sát.

Nông nghiệp

Nông nghiệp là sinh kế chính của đồng bào DTTS, do đó phát triển nông nghiệp vẫn là con đường thoát nghèo chủ đạo ở các cộng đồng DTTS. Theo báo cáo của WB (2012), nhóm DTTS nghèo nhất có khoảng ba phần tư thu nhập từ nông nghiệp và việc làm thuê trong nông nghiệp, và thu nhập từ nông nghiệp của nhóm DTTS nghèo nhất chỉ bằng khoảng một nửa thu nhập từ nông nghiệp của nhóm DTTS giàu nhất.

Điểm xuất phát là đảm bảo nguồn lương thực “đủ ăn”. Tại Nghệ An và Hà Giang, người Thái, Hmông, Nùng…đều tập trung trồng lúa, ngô để đảm bảo nguồn lương thực cho gia đình, phần còn thừa để chăn nuôi và bán. Tại Đăk Nông, người Mạ trước đây tập trung trồng lúa, ngô, gần đây trồng sắn công nghiệp để bán mua gạo. Việc sử dụng giống mới phổ biến, bón phân và cơ giới hóa đã khiến năng suất lương thực tăng mạnh trong 5 năm qua. Khai hoang thêm ruộng, mua thêm đất hoặc thuê mượn đất là chiến lược vươn lên của nhiều hộ gia đình DTTS nhằm tăng thu nhập từ nông nghiệp (Oxfam và AAV 2012). Ngược lại, thiếu đất sản xuất là vấn đề nghiêm trọng đối với những hộ DTTS nghèo ở tất cả các địa bàn khảo sát. Thiếu đất do nhiều nguyên nhân, như gia đình đông con, không còn diện tích đất có thể khai hoang, do mua bán cầm cố đất, hoặc mất đất do tái định cư, đền bù giải tỏa. Những hộ thiếu đất phải đi làm thuê, hoặc vào rừng kiếm củi và lâm sản phụ để có tiền mua gạo. Mặc dù vậy, tại các địa bàn khảo sát hầu như không còn hộ thiếu ăn dài ngày.

--- “Dùng giống ngô lai cách đây gần 10 năm, trước đây có dùng nhưng ít, đến 2011 thì 90% dân đều trồng giống lai. Năng suất ngô, lúa đều cao gấp đôi so với trước. Giờ chỉ còn đói giáp hạt 4-5 hộ, đói hẳn thì không có.” (Nhóm cán bộ người Hmông thôn Tân Tiến, xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, Hà Giang)

Đa dạng hóa kết hợp chăn nuôi, cây hàng hóa ngắn ngày và dài ngày là chiến lược tăng thu nhập phổ biến của gia đình DTTS. Tại Đăk Nông, đa số người Mạ kết hợp giữa trồng ngô, sắn, làm thuê và chuyển dần sang trồng cà phê. Tại Hà Giang, người Nùng, Hmông kết hợp giữa lúa, ngô, trồng rau và chăn nuôi. Tại Nghệ An, người Thái kết hợp trồng lúa, chăn nuôi và làm thuê (Hộp 9). Tại các địa phương khác cũng có nhiều mô hình đa dạng hóa, như kết hợp lúa – chè ở Lào Cai, lúa–rau ở Điện Biên, lúa – hoa màu và lúa – tôm ở Trà Vinh… giúp nhiều hộ gia đình DTTS thoát nghèo (Oxfam và AAV 2012).

HỘP 9. Đảm bảo an ninh lương thực tiến tới đa dạng hóa sinh kế để thoát nghèo

Chị V.T.X, 22 tuổi là người Thái tại bản Đỉn Đảnh (xã Châu Thôn, Quế Phong, Nghệ An). Năm 2008, chị X. lập gia đình. Nhà có 5 sào ruộng, không có tiền mua phân, chỉ bón phân xanh nên năng suất lúa thấp (3-4 tạ thóc/vụ), thường thiếu ăn 2 tháng 1 năm.

17 Báo cáo của WB (2012) cho thấy, cơ cấu thu nhập của một hộ gia đình DTTS thuộc nhóm ngũ vị phân giàu nhất rất giống với cơ cấu thu nhập của một hộ gia đình người Kinh, trong đó thu nhập từ tiền lương/tiền công phi nông nghiệp, tự làm phi nông nghiệp và chuyển tiền chiếm tỷ trọng lớn.

Page 48: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số34

Từng bước chuyển sang thâm canh. Đây là bước chuyển từ từ theo cách “lấy ngắn nuôi dài”, cho đến khi hộ DTTS đã có khả năng tiếp cận thông tin thị trường, kỹ thuật, dịch vụ tín dụng và vật tư nông nghiệp. Phát triển cây con đặc sản là một phương án ở giai đoạn này. Tại Hà Giang, một số hộ người Nùng, Hmông đã chuyển từ trồng rau chính vụ sang trồng rau trái vụ cho thu nhập cao hơn nhưng đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, tốn công lao động hơn. Tại Nghệ An, một số hộ người Thái và Hmông đã thâm canh cây chanh leo (có liên kết với doanh nghiệp chế biến) bên cạnh các cây lúa, ngô truyền thống. Tại Đăk Nông nhiều người Mạ đã chuyển sang chuyên canh cà phê, giảm dần diện tích lúa, ngô (bắp), sắn (mỳ), điều và giảm chăn nuôi. Quá trình chuyển đổi diễn ra từ từ từng bước, tăng dần diện tích cà phê và tăng dần đầu tư cho cà phê khi đến tuổi thu hoạch. Nhóm người Mạ tại thôn B’Sre B, xã Đăk Som (Đăk Glong, Đăk Nông) tổng kết con đường đi lên của một hộ gia đình thành công gồm 4 người và có 2 mẫu đất, đó là chuyển đổi dần từ trồng ngô/sắn và làm thuê sang chuyên canh cà phê trong vòng 6 năm.

--- “Một hộ gia đình có 4 người, cần có 2 mẫu. Năm đầu trồng bắp, mì; năm 2 trồng 1 mẫu cà, 1 mẫu bắp, mì và làm mướn; năm 3, cà phê bói thu hoạch mua phân đầu tư; vẫn làm bắp, mì, vẫn duy trì làm mướn. Năm 4 làm 1,5 mẫu cà; làm mướn, làm bắp, mì. Năm thứ 5 duy trì. Đến năm thứ 6 độc canh cà, lúc này sẽ ổn định, không phải làm thuê nữa.” (Nhóm người Mạ bon B’ Sre B, xã Đăk Som, tỉnh Đăk Nông)

Vấn đề lớn nhất của những hộ gia đình DTTS thành công khi đã ở bước thâm canh nông nghiệp là chống đỡ rủi ro. Điển hình là rủi ro sâu bệnh đối với cây chanh leo ở bản Yên Sơn, xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An) khiến các hộ gia đình người Thái dừng đầu tư mở rộng, dù đây là cây trồng được chính quyền cấp huyện kỳ vọng tạo nên một mô hình sinh kế hiệu quả. Các tín hiệu giá truyền rất nhanh từ thị trường thế giới đến từng người dân, và rủi ro giá cả luôn được người dân nhắc đến như là mối lo hàng đầu. Cây cà phê đang có giá và người dân ở Đăk Nông đang tăng mạnh diện tích, kể cả tại những diện tích không thực sự phù hợp với cà phê (ví dụ, thiếu nước tưới); nhưng bài học giá giảm mạnh trong những năm đầu 2000 đang đặt ra câu hỏi cho tính bền vững của cà phê.

Tiếp tục đa dạng hóa. Một số hộ DTTS sau quá trình thâm canh sẽ quay lại chiến lược đa dạng hóa nông nghiệp ở mức độ cao hơn. Hộ DTTS thành công lúc này đã có tiềm lực kinh tế nhất định, có thể thử nghiệm cây con mới có giá trị cao, mặc dù mức đầu tư cao hơn hoặc thời gian hoàn vốn lâu hơn (ví dụ trồng ca cao, cao su, cây ăn trái, nuôi nhím…). Tiếp tục đa dạng hóa còn nhằm giảm rủi ro, đảm bảo dòng tiền. Tại xã Quảng Khê (Đăk Glong, Đăk Nông), một số người Mạ bắt đầu kết hợp giữa thâm canh cà phê với các cây trồng mới như chè, dâu tằm, cây ăn trái… nhằm giảm sự phụ thuộc vào độc canh cà phê,

Từ năm 2009, chị vay phân trả chậm qua xã, năng suất lúa tăng, mỗi vụ thu khoảng 7-8 tạ thóc. Có nhiều lúa, chị tăng cường chăn nuôi. Năm 2010, chị nuôi 2 con lợn đen sinh sản, mỗi lứa lợn đẻ hơn 10 con, mỗi con bán cũng được 500-600 nghìn đồng. Trong nhà chị thường có 20-25 con gà, vừa để ăn và bán. Mẹ chồng chị từ năm 2009 đi làm thuê cho trang trại ở Quỳ Châu, khoảng 2-3 tháng đi một lần, mỗi lần đi 10 – 20 ngày, tiền công 80 nghìn/ngày. Chồng chị chuyển sang làm thuê cùng anh vợ (xẻ gỗ, đào ruộng), có thu nhập đều hơn. Thỉnh thoảng, chị và mẹ đi lấy măng về bán.

Những khoản thu nhỏ từ bán gà, măng chị dùng để chi tiêu hàng ngày; những khoản thu lớn như bán lợn, tiền làm thuê của chồng và mẹ chồng chị dành để tiết kiệm. Nhờ vậy, đến cuối năm 2010, gia đình chị đã dựng được nhà mới, lợp ngói khang trang và đã thoát nghèo.

Page 49: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 35

có nguồn thu nhập thường xuyên để đảm bảo cuộc sống hàng ngày, tránh vay nợ lớn trong năm (cây cà phê cho thu nhập 1 năm 1 lần vào cuối vụ). Mô hình chè – cà phê đang mở ra một hướng đi mới cho người Mạ hướng đến mô hình sinh kế bền vững hơn.

--- “Cây chè là phù hợp nhất, mở ra một hướng mới cho bà con. Vì chăn nuôi không làm được: bò không có chỗ chăn thả, heo giá thức ăn quá đắt. Trồng rừng là cho người giàu vì 4-5 năm sau mới có thu. Cam quít gặp vấn đề kỹ thuật, vốn cao. Các cây ăn quả khác gặp vấn đề chất lượng, khó tìm đầu ra. Trong khi đó cây chè phù hợp đất đai, khí hậu ở đây; chè không kén đất, đất dốc cũng làm được, chè không cần nhiều nước như cà phê; đầu ra ổn định do bên Lâm Đồng sẵn sàng thu mua chè tươi. Nếu hạch toán chè đầu tư 5-6 triệu 1 sào, nhưng năm đầu 3 sào chè của chú đã có thu 1,5 triệu/tháng, các năm sau sẽ thu gấp đôi. Chè là cây lấy ngắn nuôi dài. Cà phê 1 năm mới thu một lần, người nghèo lấy gì để sống, làm thuê thì không ổn định, vào rừng kiếm măng củi 1 ngày chỉ kiếm được 1-2 kg gạo thôi. Cần khuyến cáo bà con kết hợp chè với cà phê, mỗi hộ chuyển đổi 3 sào mì sang trồng chè, đủ tiền gạo nước hàng ngày.” (K.S người Mạ, chủ tịch hội Nông dân xã Quảng Khê, Đăk Nông)

Lâm nghiệp

Rất ít hộ thoát nghèo nhờ vào trồng rừng, vì trồng rừng đòi hỏi thời gian lâu (ít nhất 5 năm), và không phải hộ DTTS nào cũng được giao đất rừng. Ngay cả những hộ được giao khoanh nuôi bảo vệ rừng trong Chương trình 30a thì thu nhập cũng không cao (100-200.000 đồng/ha/năm). Tại bản Đỉn Đảnh, xã Châu Thôn (Quế Phong, Nghệ An), những hộ người Thái được giao đất rừng, nhưng để dùng chung, làm bãi chăn thả gia súc của bản.

Tại tất cả các địa bàn miền núi được khảo sát trong phạm vi nghiên cứu này và trong dự án “theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia” (Hà Giang, Lào Cai, Nghệ An, Quảng Trị, Đăk Nông...), đồng bào DTTS nghèo sống gần rừng thường dựa vào rừng để khai thác củi, măng, mây tre, đót, thú rừng… để tiêu dùng và để bán. Đối với nhiều hộ nghèo DTTS những sản phẩm phụ từ rừng rất quan trọng, nhất là vào thời điểm giáp hạt hoặc gặp rủi ro thiên tai. Tuy nhiên, rừng ngày càng cạn kiệt, những quy chế quản lý rừng siết chặt hơn, nên việc săn bắt hái lượm cũng khó khăn hơn (phải đi xa hơn, tốn thời gian hơn, kiếm được ít hơn).

Phi nông nghiệp

Khi có thặng dư từ sản xuất nông nghiệp đa dạng hóa hoặc thâm canh, một số hộ gia đình DTTS sẽ đầu tư vào những hoạt động phi nông nghiệp. Phân tích số liệu VHLSS về sự khác biệt nguồn thu nhập trong các nhóm DTTS cũng khẳng định, thu nhập tiền lương phi nông nghiệp tăng 10 lần từ nhóm ngũ phân vị nghèo nhất đến nhóm ngũ phân vị giàu nhất, thu nhập tự làm phi nông nghiệp (thương mại, dịch vụ) không đáng kể trong 2 nhóm ngũ phân vị dưới, nhưng tăng nhanh trong 3 nhóm ngũ phân vị trên. Đối với nhóm ngũ phân vị giàu nhất, các khoản tiền gửi về của người đi làm ăn xa rất quan trọng (WB 2012).

Đi làm thuê gần nhà là nguồn thu nhập tiền mặt quan trọng của hộ nghèo. Có nhiều cơ hội làm thuê tại những vùng sản xuất hàng hóa phát triển, nhiều công trình CSHT và nhà ở được xây dựng. Công làm thuê đã tăng lên theo mức giá cả chung (hiện nay là 100-150.000 đồng/ngày). Đi làm thuê kết hợp với làm nương rãy là giải pháp thoát nghèo của nhiều đồng bào DTTS. Thông qua làm thuê, đồng bào DTTS cũng học hỏi được các kiến thức sản xuất.

--- “Hộ thoát nghèo là chăm chỉ làm ăn, trồng cà và đi làm thuê.” (K.B người Mạ, thôn 9, xã Quảng Khê, Đăk Nông)

Page 50: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số36

Tại các vùng miền núi DTTS, người đi làm ăn xa (đến các tỉnh, thành phố khác) và XKLĐ còn rất ít, và thường thuộc gia đình khá giả. Tại thôn Dìn Sán người Hmông ở xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang), cả thôn hiện có 5 người đang đi XKLĐ, 2 người đi làm trong miền Nam, 2 người đi làm tại Hà Nội, tất cả đều không phải là người nghèo. Dù sao đây vẫn là một bước chuyển đổi lớn, vì cách đây 5 năm trong cả xã hầu như không có người Hmông nào đi làm ăn xa hoặc đi XKLĐ, thể hiện nhu cầu tìm việc làm phi nông nghiệp của đồng bào DTTS đang tăng lên.

Tiền công phi nông nghiệp (làm giáo viên, y tế, cán bộ công chức…) rất quan trọng với đồng bào DTTS. Tại các điểm khảo sát, đa số hộ DTTS nhờ có tiền lương cán bộ, lương hưu, là nguồn thu nhập ổn định và đều đặn, đều không phải là hộ nghèo. Ghi nhận từ các địa bàn tham gia dự án theo dõi nghèo nông thôn trong 5 năm qua cũng cho thấy, ở những thôn bản DTTS, những hộ có trợ cấp người có công hoặc làm cán bộ “có lương” thường là hộ khá giả trong cộng đồng (Oxfam và AAV 2012).

Một số “điểm sáng” giảm nghèo đã phát triển mạnh ngành nghề truyền thống. Điển hình là phát triển nghề dệt lanh tại bản Hợp Tiến, xã Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang). Tham gia HTX lanh giúp phụ nữ Hmông hiểu biết hơn, có thêm thu nhập để mua sắm tài sản, đầu tư ngược lại cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

--- “Năm 2001, thành lập HTX với 70 thành viên. Lúc đó nhiều người thấy các hộ trong HTX bán được tiền mua được tivi, xe máy… họ mới thích vào, nên mình kết nạp họ vào thôi… Nhiều chị em tham gia HTX lanh có tiền lát nền, nhà sạch sẽ hơn; mua được tivi; mua phân bón cho lúa, ngô vì vậy năng suất cũng tăng; hiểu biết nhiều hơn do được tập huấn, được học kỹ thuật. Con cái có tiền đi học, ốm có tiền đi bệnh viện. Mình làm ra tiền, cả 2 vợ chồng cùng làm nên không cãi cọ nhau. Trước không có HTX không có đâu.” (Chị H.T.P, người Mông thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám, Quản Bạ, Hà Giang)

Mở quán, đại lý vẫn là nghề do người Kinh chiếm ưu thế tại các vùng DTTS. Tuy nhiên, số lượng đồng bào DTTS hành nghề kinh doanh buôn bán, làm dịch vụ đã tăng lên, nhiều trường hợp qui mô dịch vụ cũng không thua kém người Kinh. Như tại Trà Vinh, một số hộ người Kh’mer đã đầu tư vài trăm triệu đồng mua máy gặt đập liên hợp để làm dịch vụ. Tại Đăk Nông một số hộ người Hmông di cư đã mua xe khách chất lượng cao giá hàng tỷ đồng để chạy tuyến xuyên Việt (chủ yếu phục vụ đồng bào DTTS di cư về quê ở các tỉnh phía Bắc). Tại Quế Phong (Nghệ An), tận dụng lợi thế gần chợ phiên và cơ hội kinh doanh qua biên giới với Lào, một số bản người Thái và người Mông (như bản Yên Sơn và Minh Châu, xã Tri Lễ) đã phát triển mạnh nghề buôn bán hàng tiêu dùng và buôn bán trâu bò mang lại thu nhập cao. Khái niệm thành công của đồng bào DTTS tại đây đã mở rộng, không chỉ là tự trồng trọt hay chăn nuôi, mà đã bao gồm cả việc kinh doanh buôn bán.

--- “Sướng là được cho vay không lãi; có lợn, trâu, bò nuôi; chanh leo không bị bệnh, tóm lại nuôi gì cũng không bị bệnh…Có vốn để mua máy xát về xát lúa; mua máy cày đi thuê làm ruộng cho họ; mua trâu bò buôn chuyến, mua đi bán lại.” (Nhóm người Thái bản Yên Sơn, xã Tri Lễ, Quế Phong, Nghệ An)

Đầu tư vào học hành của con cái

Báo cáo WB (2012) cho thấy, nghèo liên quan chặt chẽ với trình độ học vấn thấp, những hộ khá giả có học vấn cao hơn hẳn so với những hộ nghèo. Báo cáo cũng nêu lên mối quan hệ giữa bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục/việc làm với việc gia tăng bất bình đẳng về thu nhập/chi tiêu, dẫn đến tình trạng nghèo kéo dài qua các thế hệ.

Page 51: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 37

Tại các điểm khảo sát, việc cải thiện CSHT, trường lớp, các chính sách hỗ trợ cho con em DTTS đi học… tạo thuận lợi cho giáo dục. Những hộ DTTS khá giả đều cố gắng đầu tư cho con cái đi học ít nhất hết cấp 3, nhiều trường hợp cho đi học trung cấp, cao đẳng, đại học. Tại bản Tân Tiến, xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang) – một “điểm sáng” giảm nghèo khá nổi tiếng, đa số thanh niên Hmông sau khi tốt nghiệp cấp 3 chọn con đường đi học trung cấp, cao đẳng với mong muốn có một công việc phi nông nghiệp tốt với thu nhập ổn định. Xu hướng tích cực hiện nay là ngay cả hộ nghèo DTTS cũng ngày càng quan tâm đến giáo dục của con cái, với hy vọng thế hệ sau sẽ có cuộc sống tốt hơn.

--- “Tất cả mình làm là cho con ăn học thôi, nó không thể như mình được. Cha mẹ làm cho con đi học hết thì thôi, không phân biệt trai gái. Không thấy khổ gì hết, mình làm xe lai được bao nhiêu cho con. Nó sướng thì sau này mình mới sướng được.” (anh L.N.D người Hmông bản Minh Châu, xã Tri Lễ, Quế Phong, Nghệ An)

Tuy nhiên, tại các điểm khảo sát có rất ít trường hợp được ghi nhận thanh niên sau khi tốt nghiệp TC, CĐ, ĐH có việc làm ổn định và gửi tiền về giúp tăng thu nhập cho gia đình. Tình trạng này cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác (Oxfam và AAV 2012, Hoàng Xuân Thành et al. 2012). Nghịch lý hiện nay là con em DTTS đi học cao hơn chưa đồng nghĩa với kinh tế gia đình cao hơn. Trong ngắn hạn, con em đi học còn là gánh nặng chi phí cho gia đình. Tại một số nơi, thanh niên đi học về không kiếm được việc, lại quay về làm nông hoặc đi làm thuê với thu nhập chỉ bằng thanh niên không đi học. Có nhiều lý do dẫn đến thanh niên đi học về không kiếm được việc làm theo mong muốn, như ngành học lựa chọn thường rơi vào các dịch vụ công có ít vị trí tuyển dụng tại địa phương hoặc phải có “quan hệ”, “tiền bạc” mới xin được việc (như giáo viên, y tế, công chức huyện/xã), do cơ hội việc làm tại chỗ trong khu vực doanh nghiệp còn ít, do tâm lý không muốn đi làm xa nhà, do chất lượng giáo dục chưa cao (nhất là sinh viên học các trường TC, CĐ cấp tỉnh).

2.3.7. Phòng chống rủi ro

Năng lực phòng chống rủi ro của người dân và cộng đồng DTTS còn rất yếu, là yếu tố còn thiếu hụt tại các “điểm sáng” giảm nghèo được khảo sát. Trong 5 năm qua (2008-2012), các địa bàn khảo sát đều chịu tác động mạnh của nhiều loại rủi ro, trong đó thời tiết bất thường, biến động giá cả bất lợi và sâu bệnh, dịch bệnh là 3 loại rủi ro phổ biến nhất (Bảng 3). Khi một rủi ro nghiêm trọng trên diện rộng xảy ra (ví dụ, giá cà phê giảm mạnh), thì “điểm sáng” giảm nghèo cũng có thể không còn “sáng” nữa.

Page 52: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số38

Tiêu chí

Nghệ An Đăk Nông Hà Giang

Châu Thôn Tri Lễ Quảng

Khê Đăk Som QuyếtTiếnTiến

Lùng Tám

Thiên tai : nắng hạn, mưalớn kéo dài, rét đậm rét hại ++ ++ ++ ++ +++ ++

+ + +++ +++ ++ +

Dịch b ệnh, sâu bệnh +++ +++ +++ ++ ++ ++

+ + ++ ++ ++ +

– – + + ++ +

++ ++ + + – –

Rủi ro trong thực hiện cácchương trình - dự án

Biến động giá cả, rủi ro thịtrường

Rủi ro trong đi làm ăn xa,XKLĐRủi ro mất trộm

Thiên tai, thời tiết bất thường ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp của người dân. Trong những năm qua, tại các địa bàn khảo sát đã ghi nhận những ảnh hưởng bất lợi của nắng hạn, mưa lũ kéo dài, sạt lở … Theo người dân, thời tiết ngày càng không theo qui luật và khó dự báo so với trước. Tại Đăk Glong (Đăk Nông), đợt nắng hạn kéo dài đầu năm 2012 khiến sản lượng ngô giảm mạnh, nhiều hộ gia đình bị thiệt hại đến 40-50% so với các năm trước. Tại Quế Phong (Nghệ An) ảnh hưởng của trận lũ năm 2010 (tác động của mưa kéo dài sau cơn bão số 7) đã gây thiệt hại cho nhiều xã trong địa bàn huyện. Theo ước tính của phòng nông nghiệp huyện, 35% diện tích lúa và hoa màu trên địa huyện bị thiệt hại, không cho thu hoạch sau trận lũ này. Tại Quản Bạ (Hà Giang), các vụ sạt lở nhỏ do lũ ống, lũ quét diễn ra ngày càng tăng. Đầu năm 2011, đàn trâu bò trên địa bàn huyện bị giảm mạnh do rét đậm rét hại, như tại xã Quyết Tiến bị chết hơn 100 con trâu bò.

Tại các điểm khảo sát, cả kể các thôn bản DTTS được coi là “điểm sáng” giảm nghèo chưa ghi nhận được các cách làm mới và hiệu quả nhằm giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Tuy nhiên, do có điểm mạnh về gắn kết cộng đồng và hỗ trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn, nên đa số hộ gia đình tại các “điểm sáng” có thể phục hồi sau thiên tai nhanh hơn so với hộ gia đình tại các thôn bản khác trong cùng hoàn cảnh.

Biến động giá cả là mối lo thường trực của người dân. Giá gạo, vật tư nông nghiệp và các dịch vụ tăng mạnh, trong khi giá bán sản phẩm thất thường trong 5 năm qua. Phong trào nuôi lợn giảm ở đa số điểm khảo sát, do giá lợn hơi bấp bênh và giá thức ăn gia súc tăng cao, chưa kể dịch bệnh thường trực. Tại Quản Bạ (Hà Giang), bà con người Nùng, Hmông thâm canh rau nhưng giá rau biến động thất thường, điển hình là năm 2011 giá rau quá thấp. Tại Đăk Glong (Đăk Nông), thâm canh cà phê đi kèm với bỏ dần các cây trồng khác và bỏ dần chăn nuôi gia súc, khiến toàn bộ đời sống người dân phụ thuộc vào cà phê – loại nông sản đòi hỏi chi phí lớn và thời gian kiến thiết dài nhưng lại có giá biến động hàng ngày rất mạnh theo thị trường thế giới. Trong khi đó, mối liên kết giữa nông dân với nhau chưa đủ mạnh (có rất ít HTX hiệu quả ở vùng DTTS), liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp hoặc chưa có, hoặc có nhưng bấp bênh và người nông dân thường ở thế bất lợi.

Ghi nhận tại các “điểm sáng” giảm nghèo, đồng bào DTTS đã có sự linh hoạt trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng KHKT để chống đỡ với biến động giá cả (xem thêm mục 2.3.6 – Đa dạng hóa sinh kế). Tại xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang) nhiều hộ

BẢNG 3. Tổng hợp các rủi ro tại các địa bàn khảo sát trong 5 năm qua

Ghi chú: +++ tác động mạnh ++ tác động tương đối + tác động nhẹ - không chịu ảnh hưởng

Page 53: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 39

người Nùng, Hmông đã chủ động tìm tòi kỹ thuật làm rau trái vụ mang lại thu nhập cao hơn hẳn so với rau chính vụ. Tại xã Quảng Khê (Đắk Glong, Đăk Nông), một số hộ người Mạ đã thử nghiệm đưa cây chè vào trồng, phá bỏ thế độc canh của cà phê, giảm thiểu rủi ro khi cà phê rớt giá. Tại xã Châu Thôn (Quế Phong, Nghệ An), nhiều đồng bào người Thái đã sử dụng phân viên dúi được sản xuất ngay tại địa phương để giảm chi phí (so với phân NPK đóng bao) và tăng năng suất lúa.

Sâu bệnh, dịch bệnh được ghi nhận ở tất cả các địa bàn. Tại xã Châu Thôn (Quế Phong, Nghệ An) năm 2008 đã xảy ra dịch tụ huyết trùng lớn làm chết hơn 200 con trâu bò. Tại xã Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang) cuối năm 2011 có hơn 50 con trâu bò bị chết do dịch lở mồm, long móng. Tại một số xã của huyện Đak Glong và xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An), thời điểm năm 2010-2011 nhiều hộ gia đình tập trung vào thâm canh cây chanh leo. Thời gian đầu, chanh leo cho hiệu quả thu nhập cao, tuy nhiên sau 1-2 vụ xảy ra bệnh thối quả, nhiều nhà hỏng cả vườn.

Ngành nông nghiệp và cơ quan thú y, BVTV ở các địa phương đã chú trọng giúp người dân phòng chống dịch bệnh, như tiêm phòng và tập huấn về các biện pháp tránh rét cho gia súc, dập dịch kịp thời, hỗ trợ khi gặp rủi ro… nhưng việc kiểm soát dịch bệnh còn nhiều hạn chế. Một số đồng bào DTTS đã áp dụng tri thức bản địa vào phòng chống dịch bệnh. Như tại Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An), một số hộ đã thử nghiệm việc ghép giống chanh leo nhập ngoại với gốc chanh leo rừng tại địa phương nhằm tăng khả năng kháng bệnh của chanh leo (do chanh leo rừng có khả năng chịu bệnh tốt và phù hợp với điều kiện địa phương).

Rủi ro trong thực hiện các chương trình, dự án. Một số chương trình, dự án triển khai tại các địa bàn DTTS miền núi nhưng chưa tính hết các điều kiện sản xuất, thị trường đầu ra nên thất bại, không đảm bảo lợi ích người dân. Tại xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang), công ty cổ phần gà đen được dự án Caritas hỗ trợ thành lập năm 2009 với sự tham gia của 7 thành viên. Do qui mô quá lớn (trên 1.000 con) chưa phù hợp với năng lực quản lý, công nghệ nuôi gà địa phương theo kiểu công nghiệp tập trung không phù hợp, không tìm được thị trường đầu ra ổn định, dẫn đến năm 2011 khi hết dự án hỗ trợ công ty phải ngừng hoạt động chờ giải thể.

--- “Làm quy mô lớn quá, nuôi công nghiệp, ăn cám sạch nên khó bán, người ta thích ăn gà đen thả tự nhiên. Làm giám đốc công ty gà đen lỗ gần chết. Bây giờ nuôi quy mô gia đình, cho ăn ngô, chỉ 100-200 con thì không đủ bán, người ta còn đến tận nơi bắt.”(C.T.N người Nùng, nguyên Giám đốc công ty cổ phần Gà đen, xã Quyết Tiến, Quản Bạ, Hà Giang)

Cũng liên quan đến gà đen, dự án “Nhân rộng mô hình giảm nghèo” do ngành LĐ-TBXH chủ trì đã hỗ trợ mô hình gà đen vào cuối năm 2011 tại bản Minh Châu, xã Tri Lễ (Quế Phong, Nghệ An). Dự án hỗ trợ người dân 100% giống, hỗ trợ chi phí làm chuồng và thức ăn cho gà. Mô hình thất bại vì gà chết gần hết. Nguyên nhân được cán bộ huyện, xã cho rằng tập huấn quá ít, hỗ trợ trực tiếp cao không tạo ra tính sở hữu của người dân. Nếu đem so sánh với một mô hình gà đen khá thành công tại một xã khác trong huyện Quế Phong (Nghệ An) trong dự án CARE, có thể thấy sự khác biệt về cách hỗ trợ và hiệu quả (Bảng 4).

--- ”Cho từ A đến Z không đem lại hiệu quả cao, vì dân dễ ỷ lại, thóc gạo dân đâu có thiếu mà cho thức ăn, chuyển tiền đấy vào tập huấn kiến thức cho họ hiệu quả cao hơn. Như Dự án CARE làm ở xã Châu Kim lại hay, chỉ hỗ trợ một phần tiền giống còn anh tự làm chuồng, tự chuẩn bị thức ăn, nhưng ngược lại họ tập huấn nhiều, mỗi giai đoạn sinh trưởng của gà họ lại cho chuyên gia về dạy.” (cán bộ Ban Định canh định cư huyện Quế Phong, Nghệ An)

Page 54: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số40

Dự án “ nhân rộng mô hình giảm nghèo ” (xã Tri Lễ)

Dự án CARE (xã Châu Kim)

Thời gian hỗ trợ Tháng 11/2011 Tháng 10/2011

Đối tượng hưởng lợi hộ nghèo người Hmông hộ nghèo người Thái

Tập huấn 1 ngày (chi phí tập huấn chỉ được 2% tổng chi phí mô hình)

Lớp học hiện trường ( FFS ) : tập huấn nhiều buổi theo suốt 1 lứa gà Tập huấn về hạch toán nuôi gà

Hỗ trợ trực tiếp

Giống 100% (2 đợt, tổng là 60 con) 75%

Chuồng trại 100% (chuồng khung sắt) Không

Thức ăn 50 cân cám ăn thẳng, thóc Không

Kết quả Đợt 1: tỷ lệ sống: 0% Đợt 2: tỷ lệ sống 40%

Tỷ lệ sống: trên 70%

Khả năng nhân rộng Không Một số hộ ngoài dự án bắt đầu nuôi gà đen

BẢNG 4. So sánh mô hình nuôi gà đen theo Dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo và Dự án Care tại huyện Quế Phong

Mô hình Nguyên nhân thất bại Keo Thời tiết lạnh, không hợp

Táo Israrel Đưa cây trồng mới vào với quy mô lớn (80ha) không qua thử nghiệm trước. Cây táo không hợp đất nên không có quả

Cải dầu Giá giống cao (400.000 đồng/kg) nhưng giá bán sản phẩm thấp (4.000 đồng/kg) Ớt Công ty đặt vấn đề thu mua với từng hộ,nhưng thực tế sau đó không mua Đậu Hà Lan Công ty ký hợp đồng thu mua, nhưng sau 1 vụ không mua nữa Khoai tây Giá giống cao, trong khi công ty thu mua sản phẩm với giá thấp

Rủi ro khi đi làm ăn xa, XKLĐ. Thanh niên DTTS đã đi làm ăn xa, đi XKLĐ nhiều hơn so với cách đây 5 năm, nhưng hiệu quả thu nhập chưa cao. Người dân tại các điểm khảo sát cho biết, tiền gửi về nhà của người đi làm ăn xa trong nước 2-3 năm nay giảm mạnh do chi phí cuộc sống ở đô thị tăng cao. Một số người đi XKLĐ ở Malaysia gặp đợt khủng hoảng kinh tế phải về nước sớm. Xu hướng người đi làm ăn xa quay về tìm việc làm gần nhà đang diễn ra, khi trong huyện, trong tỉnh hiện cũng có một số công ty tuyển người. Một số người dân còn cho rằng, bây giờ đi làm ăn xa cũng không hơn làm ở nhà.

Tại các điểm khảo sát người dân đều nêu ra bài học của nhiều mô hình cây con do các chương trình – dự án giới thiệu nhưng không thành công trong 5 năm qua, với nhiều nguyên nhân như: không phù hợp với đất đai, thổ nhưỡng địa phương, yêu cầu đầu tư quá cao, rủi ro thời tiết, dịch bệnh, khó mua giống, khó bán sản phẩm, giá cả bấp bênh, doanh nghiệp dừng hợp đồng thu mua hoặc mua giá quá thấp… Các mô hình thất bại do chưa lường hết các yếu tố liên quan không chỉ khiến bà con thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của người dân không muốn thử nghiệm các mô hình mới (Bảng 5). Tình trạng này đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan, đơn vị triển khai dự án phải đặc biệt quan tâm đến tính phù hợp của mô hình sinh kế với tập quán, điều kiện và khả năng chống đỡ rủi ro của người dân.

BẢNG 5. Những mô hình thất bại tại thôn Tân Tiến, xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang)

Page 55: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 41

--- “Ở đây thanh niên chưa có gia đình đi Nam nhiều. Em đi Sài gòn 3 năm, làm công nhân may. Con trai giao lưu nhiều, bạn nhiều, nên không tiết kiệm được mấy. Em giờ về lấy vợ, không định đi nữa, ở quê làm theo bố mẹ.” (em H.V.B người Thái, bản Yên Sơn, xã Tri Lễ, Quế Phong, Nghệ An)

Tại các “điểm sáng” giảm nghèo có phong trào đi làm ăn xa, mạng lưới xã hội trong cộng đồng DTTS tạo nên sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng dòng họ, cùng thôn bản hoặc cùng dân tộc. Điều này góp phần giảm thiểu rủi ro cho những người đi sau. Tại xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang) nhờ mạng lưới người đã đi XKLĐ nên những người đi sau có thông tin tốt hơn. Đồng thời, nguồn tiền gửi về của những người đi XKLĐ trước cũng dùng để cho người đi sau vay mượn, giảm được vay ngân hàng.

Rủi ro về an ninh trật tự (ANTT) cũng được người dân quan tâm. Tại Đăk Glong (Đăk Nông), người dân đến mùa thu hoạch phải cử người trông vườn cà phê vì lo bị hái trộm (thường do người nơi khác đến). Tại Quế Phong (Nghệ An), những năm gần đây đã xảy ra một số vụ mất trộm trâu bò, có vụ mất đến 6-7 con, dù địa phương đã tăng cường công tác ANTT. Do đường giao thông thuận tiện, các khu chăn thả gần đường nhựa nên một số đối tượng xấu sử dụng ô tô để bắt trộm trâu bò vào lúc đêm tối. Tập quán nuôi rẽ trâu bò vì thế giảm đi: trước đây hộ gia đình nhận trông coi trâu bò trong khu chăn thả được chia bê nghé sinh ra (đẻ 3 con lấy 1 con), nhưng hiện nay an ninh không đảm bảo, ít hộ dám nhận nuôi rẽ trâu bò, chỉ nhận trông hộ và không gắn trách nhiệm khi xảy ra mất trộm. Tại bản Đỉn Đảnh (Châu Thôn, Quế Phong, Nghệ An), một số hộ gia đình (thường là anh em, họ hàng) vẫn giúp nhau trông coi gia súc theo hình thức luân phiên góp phần giảm tình trạng mất trộm.

2.3.8. Quản trị ở cấp cơ sở

Vai trò quan trọng của cán bộ cơ sở người DTTS trong phát triển và giảm nghèo. Tại các điểm khảo sát có đông đồng bào DTTS, cán bộ lãnh đạo ở cấp xã và thôn bản hầu hết là người DTTS tại chỗ, với tỷ lệ đại diện tương thích với tỷ lệ đồng bào DTTS trên địa bàn. Nhiều lớp tập huấn đã được tổ chức cho nhóm cán bộ này. Cùng ngôn ngữ, thấu hiểu điều kiện địa phương, dễ dàng hơn trong vận động sự tham gia của bà con… là những lợi thế của họ.

Hầu hết thôn bản DTTS là “điểm sáng” giảm nghèo có nhóm nòng cốt thôn bản nhiệt tình, năng động và có trách nhiệm, lắng nghe tiếng nói của người dân, huy động được người dân thực hiện các sáng kiến cộng đồng và tham gia vào các chương trình – dự án. Bản Đỉn Đảnh, xã Châu Thôn (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An) là ví dụ điển hình. Trong nhiều nguyên nhân giảm nghèo như có diện tích ruộng lúa rộng và có khu chăn thả tập trung để phát triển chăn nuôi, thì sự nhiệt tình, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ bản Đỉn Đảnh được người dân coi là nhân tố rất quan trọng, khác biệt với các bản khác trong xã (Hộp 10).

---“Bản này khá là do tinh thần đoàn kết, cán bộ bản nhiệt tình, có gì là hỗ trợ luôn nên nhận được sự tín nhiệm, không phải bầu lại 15-16 năm rồi. Các bản khác thay cán bộ thường xuyên, phong trào không ổn định… Người dân tin tưởng vào cán bộ bản, họ làm tốt thì dân khỏe, yên tâm lo cuộc sống.” (Nhóm người Thái bản Đỉn Đảnh, xã Châu Thôn, huyện Quế Phong, Nghệ An)

Page 56: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số42

Các đoàn thể (hội Nông dân, Phụ nữ…) hoạt động khá hiệu quả trong việc hỗ trợ các thành viên tiếp cận tín dụng ưu đãi. Nhiều phụ nữ DTTS đánh giá tích cực vai trò của hội Phụ nữ trong các hoạt động truyền thông về dinh dưỡng, KHHGĐ, PCBLGĐ, hoạt động tiết kiệm và giúp đỡ nhau giữa các thành viên. Tuy nhiên, đoàn thể cơ sở tại nhiều nơi chưa phát huy được vai trò của mình trong giảm nghèo. Một cán bộ hội Nông dân tại xã Quảng Khê (Đăk Glong, Đăk Nông) nhận xét, các đoàn thể cơ sở còn phụ thuộc vào chỉ đạo từ cấp trên, chưa chủ động thực thi các sáng kiến mang lại lợi ích cho người dân.

--- “Thôn có nhiều “cán bộ”. Cán bộ chỉ “phổ biến” thôi… Dân đòi hỏi quyền lợi nhiều, dân chỉ muốn vay vốn, vào hội không có quyền lợi thì ngay cả đóng hội phí 500-1000 đồng 1 tháng cũng không đóng, trong khi chi tiêu các thứ khác tốn kém hơn nhiều. Dân cần được thấy vào hội có quyền lợi cụ thể gì… Hiện nay tự các chi hội không nghĩ ra hoạt động gì, đều phụ thuộc theo sự chỉ đạo của hội cấp trên, triển khai theo chỉ đạo cấp trên hiệu quả cũng chưa cao… Thực ra chính các chi hội cũng đang ỷ lại Nhà nước, chỉ muốn được hỗ trợ, đây là nguyên nhân quan trọng nhất…”(K.S. người Mạ, Chủ tịch HND xã Quảng Khê, huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông)

Bản Đỉn Đảnh, xã Châu Thôn (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An) là bản người Thái có điều kiện kinh tế khá nhất trong xã (chỉ sau bản người Kinh chuyên kinh doanh, buôn bán). Theo người dân tại bản Đỉn Đảnh, vai trò tích cực của đội ngũ cán bộ bản được thể hiện thông qua các công việc sau:• Vận động người dân đoàn kết, cùng nhau làm các việc chung “ở bản này huy

động đi làm mương là đi làm hết, nếu cán bộ mà chỉ làm việc nhà mình thì nói các hộ khác không nghe.”

• Chỉ đạo các hộ gia đình trong thôn thực hiện theo đúng lịch mùa vụ• Đại diện cho các hộ gia đình làm các thủ tục chính sách, chế độ• Huy động sự đóng góp của người dân hình thành “quỹ thôn” để chi cho các

việc chung, chủ trì các công việc hiếu hỉ trong bản• Nhắc nhở, phạt với các trường hợp không thực hiện đúng hương ước của bản.• Vận hành tổ vay vốn giúp người dân tiếp cận tín dụng ngân hàng thuận lợi.

Bản bầu riêng một chức danh “Thư ký bản” làm nhiệm vụ ghi chép, tính toán thu chi cho bản, kiêm luôn nhiệm vụ thủ quỹ cho tổ vay vốn.

• Vận động người dân đồng thuận trong việc áp dụng tập quán rừng cộng đồng theo truyền thống, mặc dù rừng đã được giao về cho từng hộ. Nhờ đó bản Bản Đỉn Đảnh duy trì được vùng chăn thả gia súc tập trung với diện tích lớn nhất trong xã, phát triển chăn nuôi trâu bò trở thành một lợi thế của bản.

• Phân công cụ thể từng thành viên nhóm nòng cốt để lắng nghe và hỗ trợ các hộ gia đình.

--- “Đội ngũ 13 đảng viên và cán bộ kèm các hộ, cứ một người kèm 5 hộ ở gần nhà, làm tự nguyện, không có hỗ trợ gì. Nhiệm vụ của các cán bộ đảng viên này là nhắc nhở các hộ thực hiện nghiêm túc việc không thả rông trâu bò; ghi nhận ý kiến phản ảnh của các hộ; hỗ trợ việc thực hiện chế độ, chính sách. Hàng tháng, trước ngày họp bản, tổ chức họp chi bộ mở rộng để các cán bộ báo cáo tình hình của các hộ được phân công hỗ trợ.” (Nhóm cán bộ bản Đỉn Đảnh, xã Châu Thôn, Quế Phong, Nghệ An)

HỘP 10. Cán bộ thôn bản đóng vai trò quan trọng tạo nên “điểm sáng” giảm nghèo

Page 57: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 43

Người dân tham gia vào các hình thức tổ nhóm hợp tác đa dạng. Các tổ nhóm dựa vào cộng đồng, có thể là “bán chính thức” (do các dự án và đoàn thể hỗ trợ thành lập) hoặc “phi chính thức” (hoàn toàn do người dân tự thành lập) đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân. Báo cáo Oxfam và AAV (2011) khẳng định, nhiều tổ nhóm đang thực hiện tốt các chức năng cộng đồng, kinh tế và xã hội có lợi cho người nghèo và các nhóm yếu thế. Tuy nhiên, tính bền vững của các tổ nhóm “bán chính thức” do các dự án hỗ trợ thành lập còn là một vấn đề khó khăn. Nhiều tổ nhóm không còn hoạt động sau khi dự án kết thúc vì các thành viên hết động lực hợp tác, hoặc do tổ nhóm không thể đáp ứng được các nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của các thành viên. Sự tham gia và hưởng lợi thực chất của các hộ nghèo trong các tổ nhóm cũng là một khía cạnh cần đặc biệt lưu tâm. Ngược lại, các tổ nhóm phi chính thức do người dân tự thành lập thường đáp ứng các nhu cầu hợp tác cơ bản, phát huy được các nguồn lực cộng đồng, có khả năng tự duy trì cao.

Kết quả khảo sát trong nghiên cứu này cho thấy, các loại hình tổ nhóm đa dạng đang hoạt động rộng khắp, mỗi người dân đều tham gia trong 1 hoặc nhiều tổ nhóm. Riêng hoạt động của các tổ nhóm trong các dự án tài trợ có kết quả đan xen. Một số tổ nhóm được đánh giá là bước đầu hoạt động hiệu quả, góp phần tăng tiếng nói và quyền năng của các thành viên là đồng bào DTTS nghèo (Hộp 11). Một số tổ nhóm khác hoạt động còn khó khăn, sự tham gia của hộ nghèo còn hạn chế, không có kế hoạch hoạt động cụ thể và không sinh hoạt định kỳ.

HỘP 11. Bước đầu thành công của 3 tổ nhóm trong dự án Oxfam tại Đăk Glong

Chương trình giảm nghèo và sinh kế bền vững của Oxfam tại huyện Đăk Glong (Đăk Nông) được triển khai từ tháng 3 năm 2011. Ba tổ nhóm nông dân đầu tiên đã được thành lập và đi vào hoạt động, cho thấy những kết quả ban đầu được ghi nhận là:• Tinh thần đoàn kết tăng lên giữa các thành viên của tổ nhóm, thể hiện qua các

câu chuyện người dân giúp đỡ nhau thu hoạch, chia sẻ thông tin, kỹ thuật…• Người dân tham gia tự nguyện, họ còn đóng góp thêm tiền để hỗ trợ các thành

viên khác trong vay vốn; đóng góp tiền để có thêm thông tin về giá cả trong năm

• Sự tự tin của các thành viên. Không chỉ các trưởng và phó nhóm trở nên tự tin khi trình bày trước đám đông mà các chị em phụ nữ cũng bớt rụt rè hơn so với bắt đầu thành lập nhóm

• Tăng cường kiến thức KHKT là kết quả rõ ràng nhất, được các thành viên áp dụng trên chính gia đình mình (ví dụ: ủ phân vi sinh)

• Khả năng đàm phán và vị thế được nâng cao. Các tổ nhóm giúp nhau nắm bắt thông tin để tránh bị ép giá, chủ động trong việc tìm kiếm cách bán hàng tốt hơn.

Những kết quả ban đầu của tổ nhóm nông dân được lãnh đạo huyện Đăk Glong đánh giá cao. Đại diện của BQL dự án đã nhấn mạnh cơ hội áp dụng mô hình tổ nhóm này trong dự án 3EM18 . Trong đó, vai trò thành lập tổ nhóm sẽ được giao cho hội Nông dân và hội Phụ nữ huyện.

Nguồn: Oxfam (2012)

18 Dự án “Tăng cường năng lực kinh tế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Ðăk Nông (dự án 3EM)”do Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD) tài trợ.

Page 58: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số44

Các thiết chế phi chính thức truyền thống (gắn với vai trò của luật tục, già làng, người có uy tín, dòng họ, tâm linh…) có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống người dân (xem thêm mục 2.3.3 – Gắn kết cộng đồng). Mỗi thôn bản DTTS đều có những qui tắc cộng đồng truyền thống và mới được các thành viên đồng thuận và tuân thủ. Tại một số thôn bản DTTS còn bảo lưu tốt những giá trị truyền thống, vai trò của già làng đối với cộng đồng còn khá mạnh. Ví dụ trong cộng đồng người Vân Kiều tại xã Xy (Hướng Hóa, Quảng Trị), già làng phối hợp với các trưởng họ duy trì thiết chế thôn làng trong mọi lĩnh vực: hoạt động kinh tế, duy trì tính hợp cách của các cuộc hôn nhân (hôn nhân thuận chiều), tổ chức các hoạt động tâm linh và giải quyết các xung đột trong phạm vi thôn làng; già làng cũng thay mặt thôn làng giải quyết các tranh chấp với các thôn làng láng giềng. Một số cá nhân người DTTS làm kinh tế giỏi, hiểu biết xã hội tốt cũng trở thành người có uy tín trong cộng đồng, tiếng nói của họ được nhiều người dân nghe theo. Họ là tấm gương ảnh hưởng lớn đển các hộ gia đình khác, không những về kinh tế mà còn trên nhiều khía cạnh khác của đời sống như giáo dục con cái, giữ gìn hạnh phúc gia đình, đảm bảo an ninh trật tự…

Dòng họ/gia đình mở rộng vẫn duy trì việc thực hành chung các phong tục, lễ hội, tâm linh truyền thống. Khi gặp khó khăn về kinh tế hoặc sức khỏe, hộ nghèo DTTS vẫn thường dựa vào thiết chế này (được giúp công, giúp gạo, giúp khoản tiền nhỏ...).

Những hình thức hợp tác phi chính thức được thành lập do nhu cầu thực tế của cộng đồng tồn tại khá vững chắc. Một số đóng vai trò “tự an sinh” như hội Sằn Khụm tại xã Thuận Hòa (Cầu Ngang, Trà Vinh) - tổ nhóm truyền thống của những Phật tử (hầu hết là người Khmer) phân theo địa vực sinh sống. Hiện nay, các hội Sằn Khụm thường sinh hoạt 2 lần/tháng trong các buổi lễ cầu an được tổ chức luân phiên giữa các gia đình thành viên. Một phần tiền quyên góp trong mỗi buổi lễ được trích làm quỹ để thăm hỏi, giúp đỡ người bị ốm đau. Các thành viên trong hội Sằn Khụm cũng góp thêm tiền mua sắm phông bạt, bát đĩa phục vụ cho các đám lễ, người nghèo có thể mượn để sử dụng. Khi có đám tang, các thành viên góp tiền, gạo, giúp chuẩn bị hậu sự, thay mặt gia đình tiếp đón khách... Những giúp đỡ của hội Sằn Khụm cả về vật chất và tinh thần được nhiều người nghèo Khmer đánh giá cao.

Đáng lưu ý, tại các xã khảo sát, các qui trình lập kế hoạch phát triển KT-XH có sự tham gia và phân cấp tài chính (ví dụ, dưới dạng “ngân sách trọn gói” hay “quỹ phát triển cộng đồng”) chưa được triển khai. Tiếng nói của nhóm nòng cốt và người dân thôn bản đối với các nguồn lực bên ngoài và các dịch vụ công còn rất hạn chế. Do đó, vai trò tích cực của quản trị cơ sở đối với các “điểm sáng” giảm nghèo ở vùng DTTS mới chủ yếu thể hiện ở khía cạnh phát huy nội lực cộng đồng, chưa thể hiện rõ ở khía cạnh tăng cường trách nhiệm giải trình với cộng đồng và các bên liên quan của các cấp chính quyền và các cơ quan dịch vụ công.

2.3.9.Vai trò của các chính sách phát triển DTTS–Một số bài học rút ra

Nhờ tác động của các chính sách và chương trình – dự án kèm theo, đời sống đồng bào DTTS tại các điểm khảo sát đã được cải thiện về mọi mặt: tiếp cận CSHT, giáo dục, y tế, tín dụng ưu đãi, giống mới, thông tin liên lạc, nhà ở... Cán bộ cơ sở và người dân đều cho rằng, không phải một chính sách đơn lẻ nào, mà là tổng hòa của rất nhiều chính sách đã góp phần tạo nên những “điểm sáng” giảm nghèo, dù rằng ở từng thời điểm và từng địa bàn chính sách này có thể có tác động mạnh hơn chính sách khác (Andrew Wells-Dang 2012).

Page 59: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 45

Tuy nhiên, chính sách phát triển đối với các DTTS còn những hạn chế làm giảm hiệu quả hỗ trợ, đồng thời cũng có những hiệu ứng không mong đợi của chính sách gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân (Mai Thanh Sơn 2012). Nếu các chính sách, chương trình – dự án được thiết kế và thực hiện tốt hơn, giảm thiểu được các hiệu ứng không mong đợi, thì tiến trình giảm nghèo của đồng bào DTTS sẽ nhanh và bền vững hơn, và sẽ có nhiều “điểm sáng” giảm nghèo hơn nữa.

Từ việc phân tích vai trò của các chính sách phát triển DTTS tại các “điểm sáng” giảm nghèo và các địa bàn đối chứng, có thể rút ra một số bài học ở hai góc độ: (i) cách tiếp cận, định hướng thiết kế chính sách; và (ii) thực hiện chính sách của các cấp chính quyền.

Cách tiếp cận, định hướng thiết kế chính sách

Chính sách đầu tư CSHT đã làm thay đổi diện mạo của các cộng đồng DTTS, tạo ra những cơ hội mới cho người dân. Các “điểm sáng” giảm nghèo được khảo sát đã tận dụng các lợi thế về CSHT để vươn lên. Khi được hỏi về những khó khăn của thôn bản, ít người dân tại các “điểm sáng” nêu khó khăn hàng đầu về CSHT, điều rất khác so với 5-10 năm về trước. Cho đến nay, CSHT đến cấp xã về cơ bản đã được đầu tư nâng cấp; tuy nhiên trong mỗi xã đều có những thôn bản DTTS khó khăn ở vùng sâu vùng xa còn nhiều yếu kém về CSHT. Chỉ đầu tư CSHT chưa đủ, mà các thôn bản DTTS khó khăn cần được hỗ trợ đồng bộ về nhiều mặt. Hiện nay còn thiếu một cách tiếp cận đầu tư phát triển DTTS lấy thôn bản khó khăn làm trung tâm, phù hợp với bản sắc văn hóa của từng dân tộc. Các chương trình của Nhà nước đã và đang thực hiện (như Chương trình 135, 30a, Nông thôn mới…) đều lấy cấp xã là đơn vị lập kế hoạch, do đó không tránh khỏi đầu tư vào các thôn bản khó khăn trong xã còn nhỏ lẻ và không đồng bộ, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố dân tộc của từng thôn bản. Riêng tỉnh Đăk Nông đã có tư duy đột phá từ rất sớm khi quyết định thực hiện dự án đầu tư phát triển bền vững 12 buôn, bon DTTS khó khăn từ năm 2004. Tỉnh Đăk Nông mong muốn tiếp tục mở rộng cách tiếp cận đầu tư phát triển đến các buôn, bon DTTS khó khăn trong thời gian tới, nhưng đang gặp hạn chế về nguồn lực (Hộp 12).

HỘP 12. Dự án “đầu tư phát triển bền vững 12 buôn, bon đồng bào DTTS khó khăn” của tỉnh Đăk Nông

Ngay sau khi tái lập tỉnh vào năm 2004, tỉnh Đăk Nông đã có chủ trương đột phá là phê duyệt “Dự án đầu tư phát triển bền vững 12 buôn, bon đồng bào DTTS khó khăn” thuộc địa bàn 6 huyện 19 . Đây là những buôn, bon còn hết sức khó khăn về mọi mặt. Tỷ lệ nghèo trung bình của 12 buôn, bon là 36%, riêng một số bon tỷ lệ nghèo là 90-100% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005).

Dự án chính thức thực hiện từ năm 2005 với tổng vốn đầu tư gần 13 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển sản xuất chiếm 30,5%, vốn đầu tư CSHT là 59,5%, còn lại là dự phòng và chi phí khác. Dự án còn kết hợp với nguồn vốn từ các Chương trình khác của Chính phủ. Tỉnh Đăk Nông giao cho Ban Dân tộc tỉnh và UBND các huyện làm chủ đầu tư dự án.

19 Nghị quyết số 155/2004/NQ-HĐND ngày 12/8/2004 của HĐND tỉnh Đăk Nông về việc phát triển bền vững 12 buôn, bon đồng bào DTTS khó khăn; và Quyết định số 801/QĐ-UB ngày 24/8/2004 của UBND tỉnh Đăk Nông về việc phê duyệt Dự án đầu tư phát triển bền vững 12 buôn, bon đồng bào DTTS khó khăn.

Page 60: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số46

Lợi thế về điều kiện tự nhiên rất quan trọng đối với các thôn bản là “điểm sáng” giảm nghèo. Cách tiếp cận hướng đến thôn bản đặt ra vấn đề tăng cường vai trò của cộng đồng dân cư, gồm những người sinh sống trên cùng địa bàn thôn bản, trong việc sở hữu, quản lý các nguồn lực tự nhiên theo tập quán truyền thống–điểm tựa rất quan trọng của người DTTS với tư cách là các chủ thể văn hóa. Trường hợp của bản Đỉn Đảnh (Nghệ An) cho thấy, đồng bào DTTS trong thôn bản có thể tự thỏa thuận với nhau về cách thức quản lý và sử dụng đất rừng một cách hiệu quả theo tập quán truyền thống, kể cả khi đất rừng đó đã được phân giao cho hộ gia đình theo Nghị định 163. Tuy nhiên, sự tự thỏa thuận như ở bản Đỉn Đảnh không phổ biến, trong khi các văn bản pháp luật, gồm Luật Đất đai, Luật Dân sự và các văn bản liên quan, chưa tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho tập quán sở hữu, quản lý cộng đồng đối với tài nguyên thiên nhiên 20.

Các thôn bản DTTS là “điểm sáng” giảm nghèo được khảo sát thường duy trì được tính tự quản cao, nhờ có sự nhiệt tình, trách nhiệm, hoạt động tự nguyện của nhóm cán bộ nòng cốt ở thôn bản, phát huy sự gắn kết cộng đồng dựa trên các thiết chế truyền thống và phi chính thức, các hình thức tổ nhóm đa dạng và các thực hành tâm linh, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Các yếu tố xã hội “nội sinh” của từng thôn bản DTTS rất quan trọng đối với giảm nghèo. Tuy nhiên các chính sách hiện nay chưa chú trọng đúng mức đến vấn đề quản trị địa phương ở cấp cơ sở. Một số chính sách còn góp phầnnảy sinh xu hướng “quan liêu hóa”, “bao cấp hóa” các thiết chế thôn bản chính thức. Một ví dụ điển hình là vấn đề “phụ cấp” của cán bộ thôn bản. Khi được hỏi về “phụ cấp” (đã tăng lên theo từng đợt điều chỉnh) thì trưởng thôn bản và cán bộ đoàn thể ở các điểm khảo sát thường nói là “quá thấp” so với khối lượng công việc mà họ phải đảm nhiệm. Trong khi đó từ bao đời

20 Các vấn đề đặc thù về đất đai của người DTTS phần nào đã được các cơ quan Nhà nước nhận thấy và tìm cách khắc phục. Tình trạng thiếu đất sản xuất của một bộ phận người DTTS, quyền quản lý và sử dụng đất của cộng đồng dân cư theo truyền thống và phong tục là hai trong số những nội dungquan trọng được xem xét trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai (dự kiến thông qua trong năm 2013).

Dự án được tỉnh Đăk Nông đánh giá là thành công. Sau gần 4 năm thực hiện (2005 – 2009), dự án đã tạo ra bước đột phá lớn trong phát triển sản xuất, xây dựng CSHT tại các buôn, bon, qua đó từng bước nâng cao đời sống cho người dân. Dự án đã giải quyết cho 650 hộ đồng bào DTTS vay vốn không lãi suất với số tiền hơn 3 tỷ đồng. Với nguồn vốn vay từ dự án, đồng bào đã đa dạng hoá các loại cây trồng vật nuôi, như đầu tư thâm canh cà phê, khai hoang phục hoá, cải tạo vườn tạp, phát triển ruộng nước. Dự án cũng đã xây dựng được 11 km đường giao thông, một số công trình phục vụ giáo dục, nâng cấp một số đập thủy lợi, kiên cố hoá kênh mương…

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Dự án vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: một số hạng mục được khảo sát chưa phù hợp với thực tế; chi phí đầu tư một số hạng mục vượt mức được phê duyệt (do giá cả biến động) nên bị chậm tiến độ; việc cho vay vốn phát triển sản xuất ở một số địa phương chưa gắn kết đồng bộ với công tác khuyến nông, một số hộ sử dụng vốn không đúng mục đích…

Dựa trên những thành công và bài học kinh nghiệm của Dự án, năm 2012 tỉnh Đăk Nông đã xây dựng tiếp một dự án phát triển tại 39 buôn bon DTTS khó khăn, nhưng tỉnh đang gặp khó khăn về tìm nguồn kinh phí để thực hiện.

Page 61: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 47

nay những người đứng đầu các thiết chế xã hội ở thôn bản DTTS đều hoạt động dựa trên uy tín, tự nguyện và không có thù lao chính thức, nhưng đổi lại họ được trao đủ quyền năng dựa trên sự đồng thuận của người dân trong cộng đồng, phù hợp với phong tục, tập quán dân tộc. Tóm lại, cải thiện quản trị địa phương dựa trên tăng quyền năng, tăng sự tự tin và chủ động tích cực của cộng đồng thôn bản (bao gồm cả vấn đề sở hữu, quản lý cộng đồng đối với tài nguyên thiên nhiên đã nêu trên) trên cơ sở đảm bảo sự quản lý chung của Nhà nước là một vấn đề cốt lõi trong phát triển và giảm nghèo ở vùng DTTS hiện nay.

Thực hiện chính sách, chương trình – dự án

Về đầu tư CSHT, vấn đề nâng cao chất lượng xây dựng, vận hành và bảo dưỡng công trình thường được cán bộ cơ sở và người dân tại các điểm khảo sát nêu lên. Điển hình là các công trình nước sinh hoạt đã được đầu tư tại hầu hết thôn bản nhưng nhiều công trình đã bị hỏng và ngừng hoạt động, cho thấy cần gấp rút cải thiện hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực này (ví dụ, áp dụng triệt để qui trình PIM – quản lý thủy nông có sự tham gia).

Về hỗ trợ tiếp cận dịch vụ công và hỗ trợ sinh kế, đề xuất thường được cán bộ các cấp và người dân ở vùng DTTS nêu lên là “3 tăng”: tăng mức hỗ trợ, tăng diện được hưởng hỗ trợ, và tăng thời gian thực hiện chính sách hỗ trợ. Thực tế là Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ trên hầu khắp các lĩnh vực hướng đến người nghèo. Tuy nhiên hiệu quả của các hỗ trợ còn thấp. Đồng bào DTTS nghèo vẫn cần được hỗ trợ nhiều hơn nữa, nhưng thay đổi cách hỗ trợ để tăng hiệu quả là một vấn đề cấp bách (“quan trọng không chỉ là hỗ trợ cái gì, mà quan trọng còn là hỗ trợ như thế nào”).

Khảo sát các “điểm sáng” giảm nghèo cho thấy, những người tiên phong trong áp dụng KHKT, chuyển đổi mô hình sinh kế, phát triển ngành nghề truyền thống… đóng vai trò rất quan trọng. Đa số người tiên phong đi đến thành công dựa vào nỗ lực tự thân, không phụ thuộc vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước. Để có thêm nhiều “điểm sáng” giảm nghèo ở vùng DTTS cần có thêm nhiều người tiên phong hơn nữa. Trong khi đó, vai trò “bà đỡ” của các chương trình – dự án và hệ thống khuyến nông còn hạn chế, do chưa thực sự cùng làm việc, lắng nghe, thúc đẩy và đồng hành hỗ trợ những sáng kiến, thử nghiệm của người dân.

Lan tỏa một thực hành mới là một quá trình cần thời gian và cách làm thích hợp, ngay cả tại các “điểm sáng” giảm nghèo. Sự thất bại của nhiều mô hình sinh kế trong các năm qua càng làm cho đồng bào DTTS thận trọng với những thực hành mới. Ngay cả những mô hình sinh kế được cho là “thực hiện thành công”, thì việc duy trì và nhân rộng vẫn còn nhiều khó khăn. Nhiều cán bộ địa phương qua thực tế đã đúc rút được các bài học kinh nghiệm hay trong triển khai mô hình sinh kế, điển hình là các bài học “không đầu tư cho không 100%”, “đầu tư hỗ trợ giảm dần theo dự án trong 3 năm”, “tập huấn theo từng bước mùa vụ - phương pháp lớp học hiện trường”, “thường xuyên chia sẻ từ nông dân đến nông dân”… Tuy nhiên, những hạn chế về chính sách khiến họ khó áp dụng các bài học kinh nghiệm đó (Hộp 13).

Page 62: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số48

HỘP 13. Kinh nghiệm thực hiện các mô hình cây con tại huyện Quế Phong (Nghệ An)

Trong các năm qua, huyện Quế Phong (Nghệ An) đã thực hiện rất nhiều mô hình cây con hướng đến giảm nghèo trên địa bàn huyện, tuy nhiên việc duy trì và nhân rộng mô hình còn hạn chế. Qua thảo luận, nhiều bài học kinh nghiệm được nhóm cán bộ huyện nêu lên là:Lựa chọn mô hình phù hợp với địa bàn: “mỗi xã/thôn bản một sản phẩm chủ lực”. Lựa chọn sản phẩm thế mạnh, phù hợp với đất đai, thời tiết, con người của từng xã/thôn. Kết hợp áp dụng KHKT với tri thức bản địa của người DTTS.Tiến hành khảo sát thực tế kỹ lưỡng, đây là khâu quan trọng nhất. Mô hình xây dựng dựa trên nhu cầu thực tế của người dân (do người dân đăng ký, lựa chọn giống). • Mô hình được thử nghiệm trong các “nhóm sở thích”, thực hiện quy mô vừa

phải trước khi nhân ra diện rộng.• Lập và triển khai dự án hỗ trợ kịp thời, phù hợp với lịch sản xuất mùa vụ tại

địa phương.• Sản phẩm gắn với thị trường. Các sản phẩm làm ra phải có khả năng tiêu thụ

thông qua liên kết với doanh nghiệp hoặc có sự khảo sát kỹ về thị trường đầu ra. Hạn chế những rủi ro về mặt thị trường là điều kiện tiên quyết để các mô hình có thể được nhân rộng.

• Không đầu tư cho không 100%, “cho không tưởng là ưu điểm mà lại thành nhược điểm” vì người dân không thấy trách nhiệm thực hiện mô hình.

• Tránh đầu tư hỗ trợ một lần, thay vào đó đầu tư hỗ trợ giảm dần theo dự án, ít nhất trong 3 năm để người dân làm quen dần và thấy rõ kết quả thực tế.

• Tập huấn theo đợt, làm đến đâu tập huấn đến đó (phương pháp “lớp học hiện trường – FFS”: tập huấn theo từng bước mùa vụ). Chú trọng tập huấn cách hạch toán kinh tế để người dân thấy rõ lợi ích của mô hình.

• Thường xuyên chia sẻ từ cấp “nhóm sở thích” giữa người dân với nhau, đến tổ chức hội thảo, tham quan học hỏi lẫn nhau ở cấp xã, cấp huyện để rút kinh nghiệm.

• Phối kết hợp giữa các chương trình, dự án. Khi có định mức hỗ trợ khác nhau giữa các chương trình, dự án khác nhau, phải giải thích rõ ràng với dân để tránh dân thắc mắc.

Khó khăn hiện nay là các chính sách của Nhà nước chưa tạo điều kiện cho việc thực hiện đúng các bài học kinh nghiệm nêu trên. Ví dụ, kinh phí cho tập huấn quá thấp, không thể tập huấn nhiều buổi theo từng bước mùa vụ. Chính sách triển khai mô hình là hỗ trợ cho không 100% vật tư đối với hộ nghèo, khó làm theo cách khác (“dân cứ chờ được cho”). Mô hình cây con hoặc mô hình khuyến nông tại mỗi địa bàn chỉ làm một lần, không có kinh phí để làm mô hình lặp lại vài năm theo dự án dài hạn…

Về hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, hiện có nhiều chính sách: hỗ trợ đời sống và sản xuất (Quyết định 102), hỗ trợ nhà ở (Quyết định 167), hỗ trợ giáo dục (Nghị định 49), hỗ trợ y tế (cấp thẻ BHYT), hỗ trợ giống cây trồng vật nuôi, vật tư và dụng cụ sản xuất, hỗ trợ học nghề… Ngoài ra, còn có chính sách bảo trợ xã hội (Nghị định 67) và các chính sách hỗ trợ đột xuất khác (ví dụ, hỗ trợ gạo cứu đói, cứu trợ thiên tai, hỗ trợ giá điện…). Các hỗ

Page 63: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Những phát hiện chính 49

trợ trực tiếp cho người nghèo, do chưa gắn với hướng dẫn tại chỗ, theo dõi và giám sát chặt chẽ, chưa gắn với các điều kiện về nỗ lực và kết quả cải thiện đời sống, đang tạo ra “tâm lý muốn nghèo” và “so bì tỵ nạnh” trong dân. Đây là những hiệu ứng không mong đợi của chính sách, cần được khắc phục bằng việc thay đổi chính sách, thay vì “dán nhãn” cho đồng bào DTTS nghèo là “trông chờ ỷ lại” và “thiếu ý chí vươn lên”.

--- “Nhà nước còn cho hộ nghèo như thế này, cả tiền, bò, gạo, thì còn trông chờ, hộ nghèo còn nhiều… Ai cũng muốn được nghèo, con đi học là có tiền. Có những người vẫn nghèo từ khi có bình xét nghèo đến giờ. Có nhà cái chi cũng nói là của bố mẹ, tách hộ ra để được nghèo... Nên khuyến khích, ví dụ ai khai hoang làm ruộng nhiều thì nghiệm thu cho tiền, sẽ đỡ hơn, người ta mới chịu khó làm… Nếu ai cũng chịu khó là thoát nghèo hết thôi…” (Q.V.T người Thái, bản Piểu, xã Châu Thôn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An)

Page 64: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 65: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 51

Phần 3KẾT LUẬN VÀKHUYẾN NGHỊ

Page 66: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 67: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Kết luận và khuyến nghị 53

3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

3.1. Kết luận

Không gian văn hóa – xã hội truyền thống của các cộng đồng DTTS tại Việt Nam đã bị thu hẹp hoặc biến dạng đáng kể. Sự tiếp xúc với không gian bên ngoài ngày càng rộng mở đặt các cộng đồng DTTS vào một hoàn cảnh mới đầy thách thức và cũng không ít cơ hội. Trong bối cảnh đó, một bộ phận đồng bào DTTS đã vươn lên thoát nghèo. Đã và đang có sự dịch chuyển giá trị, từ chỗ lấy cộng đồng làm trung tâm sang chỗ lấy các hộ gia đình cá thể làm trung tâm. Các bằng chứng thu thập được trong nghiên cứu này ủng hộ mạnh mẽ cho giả thuyết “chiến lược sinh kế của hộ gia đình dựa trên phát huy các thế mạnh nội sinh cũng như tận dụng các cơ hội được đưa đến từ bên ngoài, trong đó có vai trò quan trọng của các yếu tố xã hội ở cấp cộng đồng, đã tạo nên các “mô hình giảm nghèo” (“điểm sáng”) ở vùng DTTS”.

Hình 3 trình bày một khung “mô hình giảm nghèo” rút ra từ nghiên cứu này. Khung gồm các yếu tố xã hội ở cấp cộng đồng và chiến lược sinh kế hộ gia đình có liên quan mật thiết với nhau, góp phần tạo nên một “điểm sáng” về giảm nghèo ở vùng DTTS. Các “mô hình giảm nghèo” luôn tự vận động liên tục trong một bối cảnh đang thay đổi rất nhanh. Khung “mô hình giảm nghèo” này có thể hữu dụng trong việc phân tích bối cảnh, thiết kế, thực hiện, theo dõi và đánh giá các can thiệp phát triển và giảm nghèo tại các cộng đồng DTTS ở Việt Nam21 .

HÌNH 3. Khung Mô hình Giảm nghèo (“điểm sáng”)

21 Những phân tích về vai trò quan trọng của các yếu tố xã hội ở cấp cộng đồng dân cư đối với giảm nghèo DTTS như trong nghiên cứu này cũng đóng góp thêm hiểu biết về các yếu tố không đo lường được trong các phân tích định lượng sự chênh lệch thu nhập/chi tiêu giữa các nhóm DTTS và nhóm đa số (Baulch et al. 2010, Baulch và Vũ 2012).

Nhận thức của người dân về giảm nghèo: đa chiều

Tiên phong

Lan tỏa

Gắn kết cộng đồng

Tận dụng lợi thế

Thích ứng với điềukiện mới

Đa dạng hóa

Phòng chống rủi ro

HỘ GIA ĐÌNH

THÔN BẢN

QUẢN TRỊ CƠ SỞ

Chính sách đất đai,qui hoạch

Hỗ trợ trực tiếp

Cơ sở hạ tầng

Tín dụng

Giáo dục, Y tế

Khuyến nông lâmMô hình cây con

Dạy nghề, XKLĐ

CHÍNH SÁCH, CHƯƠNGTRÌNH - DỰ ÁN

Page 68: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số54

Các yếu tố trong khung “mô hình giảm nghèo” này đã được kiểm chứng tại 12 thôn bản khảo sát, thể hiện rõ nhất tại các thôn bản DTTS được coi là “điểm sáng” như Đỉn Đảnh, Yên Sơn, Thôn 3, Thôn 9, B’SreB, Tân Tiến và Hợp Tiến (Bảng 6). Đồng thời, khung này cũng phù hợp với các “điểm sáng” giảm nghèo tại nhiều địa bàn DTTS trong khuôn khổ dự án “Theo dõi nghèo có sự tham gia”, như tại Lào Cai, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Trị, Ninh Thuận… Thực tế không có “mô hình giảm nghèo” lý tưởng. Mỗi “mô hình giảm nghèo” được khảo sát đều hiện diện các yếu tố với mức độ thành công khác nhau, dẫn đến kết quả giảm nghèo và cải thiện đời sống khác nhau.

BẢNG 6 . Các yếu tố tạo nên “mô hình giảm nghèo”

Khung “mô hình giảm nghèo” bắt đầu với nhận thức của người dân về giảm nghèo. Đồng bào DTTS đã ở một trình độ phát triển cao hơn so với trước, do đó nhu cầu của họ đã mở rộng hơn và hướng đến chất lượng cuộc sống tốt hơn. Thấu hiểu nhận thức đa chiều của người dân về giảm nghèo - không chỉ là tăng thu nhập nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản, mà còn là cải thiện các mặt văn hóa, xã hội, tâm linh và tiếp cận thị trường – trở thành điểm xuất phát quan trọng cho công cuộc giảm nghèo ở vùng DTTS.

Các “mô hình giảm nghèo” ở vùng DTTS mang đặc trưng thôn bản. Mỗi “mô hình giảm nghèo” là một hệ thống khác biệt được hợp thành từ các yếu tố đặc trưng riêng của từng thôn bản. Không có hai “mô hình giảm nghèo” giống nhau. Do đó, nhân rộng “mô hình giảm nghèo” chính là nhân rộng những cách tiếp cận, phương pháp, qui trình dựa trên sự tôn trọng đa dạng văn hóa và phát huy tính chủ thể tích cực của đồng bào DTTS ở mỗi thôn bản.

Tại các “mô hình giảm nghèo” ở các cộng đồng DTTS đều có vai trò then chốt của những người tiên phong trong áp dụng giống mới, kỹ thuật mới, cây con mới nhằm phát triển kinh tế hộ, hoặc trong xây dựng các mô hình liên kết, hợp tác và vận động người dân tham gia. Vai trò dẫn dắt của người tiên phong trong cộng đồng không chỉ về kinh tế mà còn về nhiều khía cạnh xã hội khác. Đáng lưu ý, đa số người tiên phong dựa vào nỗ lực của bản thân, tự mình chấp nhận rủi ro, không phụ thuộc vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước hay các chương trình – dự án.

Lan tỏa các thực hành mới trong cộng đồng DTTS là quá trình mang tính lựa chọn, cần thời gian nhất định và qua những kênh nhất định, như lan tỏa từ người tiên phong đến các thành viên trong cộng đồng, thông qua các hoạt động kinh tế, thông qua mối liên hệ tộc người và xen ghép tộc người. Do đó, quá trình lan tỏa các thực hành mới cần thực hiện

Tỉnh Nghệ An Đăk Nông Hà Giang Huyện Quế Phong Đăk Glong Quản Bạ

Xã Châu Thôn Tri Lễ Quảng Khê Đăk Som Quyết Tiến Lùng Tám Thôn bản

Đỉn Đảnh

Piểu Yên Sơn

Minh Châu

Thôn 3

Thôn 9

Thôn 2

B’ Sre B

Tân Tiến

Dìn Sán

Hợp Tiến

Lùng Tám Thấp

Tiên phong + + ++ +++ +++ +++ + ++ +++ + +++ + Lan tỏa + + ++ ++ +++ +++ + ++ ++ + +++ + Gắn kết cộng đồng +++ ++ ++ ++ ++ ++ +++ +++ +++ ++ +++ ++ Tận dụng lợi thế +++ + ++ ++ ++ ++ ++ ++ +++ + +++ ++ Thích ứng điều kiện mới +++ + + +++ ++ ++ +++ ++ ++ ++ ++ +

Đa dạng hóa ++ + +++ ++ +++ ++ ++ ++ ++ + ++ + Quản trị cơ sở +++ + ++ + + + + ++ ++ + ++ + Phòng chống rủi ro ++ + + + + + + + + + ++ +

Ghi chú: +++ mạnh ++ trung bình + yếu

Page 69: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Kết luận và khuyến nghị 55

từng bước, tạo cơ hội cho đồng bào DTTS kiểm chứng và học hỏi từ thực tế.

Gắn kết cộng đồng cao tại các “mô hình giảm nghèo” là tác nhân quan trọng để tăng hiệu quả sinh kế, lan tỏa và duy trì các thực hành mới. Duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội (từ quan hệ giới, gia đình mở rộng, anh em dòng họ đến các tổ nhóm, tổ chức đoàn thể, thực hành tín ngưỡng, tâm linh, lễ hội, mạng lưới xã hội khi làm ăn xa…) giúp cải thiện nguồn vốn xã hội của người nghèo, là điểm tựa của họ khi gặp khó khăn.

Tận dụng lợi thế của mỗi thôn bản giúp cho đời sống hộ gia đình DTTS trong thôn bản đi lên. Các chiến lược sinh kế hộ gia đình DTTS sẽ có cơ hội thành công cao hơn khi dựa trên những lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng. ngành nghề thủ công truyền thống và đặc sản, quan hệ xã hội, các dòng tiền có thể huy động… của từng thôn bản.

Khả năng thích ứng với điều kiện mới rất quan trọng tại các “mô hình giảm nghèo” khi đồng bào DTTS phải đối diện với những thách thức về thay đổi điều kiện sống, diễn biến thị trường hoặc thực thi chính sách. Ngay cả khi gặp những hệ lụy không mong muốn của chính sách, một số cộng đồng DTTS có thể tự điều chỉnh theo tập quán truyền thống có lợi cho người dân, tuy nhiên những thỏa thuận cộng đồng này còn thiếu căn cứ pháp lý để có thể được công nhận và bảo vệ.

Đa dạng hóa sinh kế là chiến lược cốt lõi để thoát nghèo của các hộ gia đình DTTS ở các “mô hình giảm nghèo”. Hiểu rõ con đường đi lên của hộ DTTS tại từng thôn bản rất quan trọng, là cơ sở để thiết kế các hỗ trợ sinh kế phù hợp.

Người DTTS thường theo đuổi quá trình đa dạng hóa tiệm tiến từng bước, để giảm rủi ro và giữ bản sắc văn hóa của mình. Con đường đi lên của hộ DTTS thường bắt đầu từ việc đảm bảo an ninh lương thực dựa trên cây lương thực, hoa màu ngắn ngày và làm thuê gần nhà. Sau khi đã vượt ngưỡng “đủ ăn”, đa số hộ DTTS có lợi thế đất đai sẽ đa dạng hóa để tăng thu nhập nông nghiệp bằng cách kết hợp trồng cây hàng hóa ngắn ngày và dài ngày, và phát triển chăn nuôi. Bước tiếp theo, một số hộ sẽ từng bước thâm canh một loại cây hàng hóa nhằm tăng thu nhập theo cách “lấy ngắn nuôi dài”. Một số hộ sau quá trình thâm canh sẽ tiếp tục đa dạng hóa nông nghiệp ở mức cao hơn để đảm bảo dòng tiền và tăng thu nhập bền vững hơn. Một số ít hộ khác tìm cách tăng thu nhập phi nông nghiệp bằng cách đi làm ăn xa hoặc XKLĐ, đầu tư vào thương mại – dịch vụ, phát triển nghề truyền thống. Trong quá trình vươn lên, hộ DTTS thành công đầu tư cho giáo dục với hy vọng thế hệ sau có nghề phi nông nghiệp ổn định với thu nhập cao hơn.

Năng lực phòng chống rủi ro của người dân và cộng đồng DTTS là yếu tố còn thiếu hụt, ảnh hưởng bất lợi đến tính bền vững của các “mô hình giảm nghèo”. Thời tiết bất thường, biến động giá cả bất lợi và sâu bệnh, dịch bệnh là 3 loại rủi ro ảnh hưởng lớn nhất. Sản xuất gắn với thị trường là bước nhảy vọt của đồng bào DTTS trong thời gian qua, vừa đem đến cơ hội lớn nhưng cũng tạo ra những rủi ro lớn. Trong khi đó, mối liên kết giữa nông dân với nhau chưa đủ mạnh, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp hoặc chưa có, hoặc có nhưng bấp bênh và người nông dân thường ở thế bất lợi.

Quản trị ở cấp cơ sở là yếu tố bao trùm lên những yếu tố đã nêu trên của “mô hình giảm nghèo” ở một cộng đồng DTTS. Trong đó, đội ngũ nòng cốt ở thôn bản nhiệt tình, năng động và có trách nhiệm là rất quan trọng trong việc lắng nghe tiếng nói của người dân, vận động người dân thực hiện các sáng kiến cộng đồng và tham gia vào các chương trình – dự án. Các thiết chế phi chính thức và các hình thức tổ nhóm hợp tác đa dạng có thể thực hiện tốt các chức năng cộng đồng, kinh tế và xã hội có lợi cho người nghèo. Các tổ nhóm phi chính thức do người dân tự thành lập thường đáp ứng các nhu cầu hợp tác cơ bản, phát huy được các nguồn lực cộng đồng, có khả năng tự duy trì cao.

Page 70: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số56

Tuy nhiên, tại các điểm khảo sát, các qui trình lập kế hoạch phát triển KT-XH có sự tham gia và phân cấp tài chính (dưới dạng “quỹ phát triển cộng đồng”) chưa được triển khai, do đó vai trò tích cực của quản trị cơ sở đối với các “điểm sáng” giảm nghèo ở vùng DTTS mới chủ yếu thể hiện ở khía cạnh phát huy nội lực cộng đồng, chưa thể hiện rõ ở khía cạnh tăng cường trách nhiệm giải trình với bên dưới của các cấp chính quyền và các cơ quan dịch vụ công.

Tác động của các chính sách và chương trình – dự án đến cải thiện đời sống đồng bào DTTS tại các “mô hình giảm nghèo” được thể hiện rất rõ về mọi mặt, như tiếp cận CSHT, giáo dục, y tế, tín dụng ưu đãi, giống mới, thông tin KHKT, thông tin thị trường, nhà ở... Không phải một chính sách hay chương trình – dự án đơn lẻ nào, mà là tổng hòa của rất nhiều chính sách và chương trình – dự án đã góp phần tạo nên những “mô hình giảm nghèo”, dù rằng ở từng thời điểm và từng địa bàn chính sách này có thể có tác động mạnh hơn chính sách khác.

Tuy nhiên, chính sách phát triển đối với DTTS còn những hạn chế. Nếu các thiếu hụt chính sách được khắc phục, thì tiến trình giảm nghèo của đồng bào DTTS sẽ nhanh và bền vững hơn, và sẽ có nhiều “mô hình giảm nghèo” hơn nữa.

Về cách tiếp cận và định hướng chính sách, hiện nay còn thiếu một cách tiếp cận đầu tư phát triển DTTS lấy thôn bản khó khăn làm trung tâm, phù hợp với bản sắc văn hóa của từng dân tộc. Còn những thiếu hụt chính sách về nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư trong việc sở hữu, quản lý các nguồn lực tự nhiên theo tập quán truyền thống – điểm tựa rất quan trọng của đồng bào DTTS với tư cách là các chủ thể văn hóa. Thời gian vừa qua, chính sách phát triển DTTS tập trung chủ yếu vào đầu tư CSHT và hỗ trợ cải thiện sinh kế, còn thiếu các chính sách phù hợp nhằm cải thiện quản trị địa phương dựa trên tăng quyền năng, tăng sự tự tin và chủ động tích cực của cộng đồng thôn bản trên cơ sở đảm bảo sự quản lý chung của Nhà nước.

Về mặt thực hiện chính sách, thiếu hụt về chất lượng xây dựng, vận hành và bảo dưỡng công trình đang là một vấn đề cấp bách. Các hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, do chưa gắn với hướng dẫn tại chỗ, theo dõi và giám sát chặt chẽ, chưa gắn với đo lường kết quả cải thiện đời sống, đang tạo ra “tâm lý muốn nghèo” và “so bì tỵ nạnh” trong dân.

Mặc dù đề xuất phổ biến hiện nay là “3 tăng” đối với người nghèo (tăng mức hỗ trợ, tăng diện được hưởng hỗ trợ, và tăng thời gian thực hiện chính sách hỗ trợ), vấn đề chính nằm ở việc thay đổi cách hỗ trợ để tăng hiệu quả. Vai trò “bà đỡ” của các chương trình – dự án và hệ thống khuyến nông còn hạn chế, do chưa thực sự cùng làm việc, lắng nghe, thúc đẩy và đồng hành hỗ trợ kịp thời những sáng kiến, thử nghiệm của người dân. Đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong triển khai các mô hình sinh kế, như ““không đầu tư cho không 100%”, “đầu tư hỗ trợ giảm dần theo dự án trong 3 năm”, “tập huấn theo từng bước mùa vụ - phương pháp lớp học hiện trường (FFS)”, “thường xuyên chia sẻ từ nông dân đến nông dân”…, tuy nhiên những hạn chế về chính sách dẫn đến khó áp dụng các bài học kinh nghiệm đó.

3.2. Khuyến nghịDựa trên khung “mô hình giảm nghèo” và các bài học rút ra về vai trò quan trọng của các yếu tố xã hội ở cấp cộng đồng và chiến lược sinh kế của hộ gia đình đối với giảm nghèo, nghiên cứu này nêu một số đề xuất phục vụ thảo luận chính sách nhằm đẩy mạnh giảm nghèo bền vững ở các cộng đồng DTTS tại Việt Nam như sau

Page 71: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Kết luận và khuyến nghị 57

Về cách tiếp cận và định hướng chính sách giảm nghèo

1. Xây dựng các chương trình đầu tư phát triển và giảm nghèo ở các địa bàn DTTS với nguồn lực lớn hơn, lấy thôn bản làm trung tâm. Tập trung đầu tư vào các thôn bản DTTS khó khăn nhất. Khảo sát kỹ lưỡng đặc điểm của từng thôn bản, từng tộc người, nhân tố tiên phong, kênh lan tỏa, các hình thức gắn kết cộng đồng, ưu thế bản địa, con đường đi lên, chiến lược đa dạng hóa, chống đỡ rủi ro, điều kiện tiếp nhận các thực hành mới từ góc nhìn của người dân (người nghèo, người sản xuất nhỏ)… trước khi lập bất cứ dự án giảm nghèo nào ở các địa bàn DTTS.

2. Thiết kế một chương trình đồng bộ về cải thiện quản trị địa phương tại các cộng đồng DTTS dựa trên tăng quyền năng và tiếng nói của người dân và các thiết chế thôn bản, từ đó tăng cường trách nhiệm giải trình với bên dưới của các cấp chính quyền và các cơ quan dịch vụ công. Cần áp dụng những cách tiếp cận, phương pháp, qui trình dựa trên sự tôn trọng đa dạng văn hóa và phát huy tính chủ thể tích cực của đồng bào DTTS, giảm thiểu những hệ lụy không mong muốn trong các chính sách phát triển DTTS.

3. Tạo cơ sở pháp lý rõ ràng và thực hiện các biện pháp thúc đẩy vai trò của cộng đồng dân cư trong việc quản lý, sử dụng các nguồn lực tự nhiên theo tập quán truyền thống – điểm tựa rất quan trọng của đồng bào DTTS với tư cách là các chủ thể văn hóa.

4. Tìm kiếm các nhân tố tiên phong trong giảm nghèo, xác định kênh lan tỏa để từ đó có những giải pháp chính sách cụ thể nhằm nhân rộng các “điểm sáng” giảm nghèo trong cộng đồng DTTS theo cách tiếp cận “phát triển cộng đồng dựa trên nội lực (tiềm năng, thế mạnh) của cộng đồng” (cách tiếp cận “ABCD”).

5. Nâng cao vai trò của các cơ quan chuyên môn (Ủy ban Dân tộc, Bộ NN&PTNT…) trong thực hiện dự án “nhân rộng mô hình giảm nghèo” trong CTMTQG GN bền vững giai đoạn 2012 – 2015, vì bản chất của “nhân rộng mô hình giảm nghèo” là nhân rộng những cách tiếp cận, phương pháp, qui trình dựa trên sự tôn trọng đa dạng văn hóa và phát huy tính chủ thể tích cực của đồng bào DTTS ở mỗi thôn bản.

Về thực hiện chính sách, chương trình – dự án giảm nghèo

6. Nâng cao chất lượng xây dựng, vận hành và bảo dưỡng các công trình CSHT ở vùng DTTS. Riêng đối với các công trình nước sạch và thủy lợi nhỏ, cần áp dụng triệt để qui trình quản lý thủy nông có sự tham gia (PIM).

7. Thiết kế mỗi dự án giảm nghèo với hỗ trợ mô hình sinh kế tại các thôn bản DTTS có thời hạn hoạt động đủ dài (ít nhất 3 năm). Đầu tư hỗ trợ liên tục và giảm dần trong thời hạn dự án nhằm duy trì và lan rộng mô hình. Hạn chế cho không 100% đối với hỗ trợ trực tiếp về sinh kế. Qui định rõ ràng về cách thức sử dụng nguồn vốn thu hồi hoặc quay vòng. Đầu tư có địa chỉ, đầu tư dựa trên kết quả, gắn với cam kết cải thiện sinh kế, cải thiện đời sống và thoát nghèo của từng hộ gia đình. Cũng cần cải tiến các định mức chi phí trong các dự án giảm nghèo, theo hướng dành chi phí thích đáng trong mỗi dự án cho các yếu tố “phần mềm” (khảo sát, truyền thông, tập huấn theo từng bước mùa vụ, hỗ trợ các thiết chế cộng đồng, theo dõi và đánh giá…).

8. p dụng các phương pháp, qui trình, công cụ (đã được tổng kết và tài liệu hóa) nhằm tăng cường sự tham gia, tiếng nói và quyền làm chủ của phụ nữ và nam giới DTTS trong các dự án giảm nghèo nhằm phát huy sự chủ động sáng tạo và nâng cao năng lực tự thoát nghèo. Đặc biệt hỗ trợ những người tiên phong, lãnh đạo là phụ nữ trong

Page 72: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số58

các hoạt động kinh tế và phát triển cộng đồng. Ưu tiên hỗ trợ đối tượng thanh niên DTTS (mới tách hộ, thiếu đất, thường được xếp vào hộ nghèo do chưa có tích lũy), kết hợp sản xuất nông nghiệp và việc làm phi nông nghiệp bền vững. Chú trọng hướng dẫn đồng bào DTTS nghèo về lập kế hoạch, hạch toán kinh tế hộ gia đình (quản lý tài chính vi mô, kiểm soát nguồn vốn và các dòng tiền có thể huy động).

9. Lựa chọn các mô hình đa dạng hóa sinh kế theo từng bước tiệm tiến, kết hợp cây ngắn ngày (cây lương thực, hoa màu) và cây dài ngày (cây công nghiệp) trên cơ sở xen canh, luân canh, gối vụ, rải vụ. Tránh giới thiệu cho hộ nghèo DTTS những mô hình sinh kế cần đầu tư thâm canh lớn, sử dụng quá nhiều lao động, khó mua giống, khó bán, nhiều rủi ro về dịch bệnh và giá cả thị trường… Ưu tiên các mô hình sinh kế dựa trên tri thức bản địa của đồng bào DTTS theo phương châm “mỗi thôn bản một sản phẩm nổi bật”.

10. Áp dụng rộng rãi phương pháp khuyến nông “từ nông dân đến nông dân” trên cơ sở học hỏi từ người dân, phát huy vai trò lan tỏa của những người tiên phong, tận dụng các kênh truyền bá phi chính thức. Cần gấp rút xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ khuyến nông đủ năng lực và bám sát cơ sở, chú trọng hỗ trợ người dân tự nhân rộng những kinh nghiệm và mô hình tốt đang có ngay trong các cộng đồng DTTS. Phát triển các tổ nhóm nông dân kết hợp giữa người nghèo và người không nghèo (người tiên phong) dựa trên các liên kết truyền thống trong cộng đồng. Thận trọng khi thành lập các tổ nhóm “kiểu mới” có thể hoạt động hình thức, không hiệu quả và không bền vững ở các vùng DTTS. Hỗ trợ đối ứng cho địa phương thực hiện dự án liên kết giữa các doanh nghiệp, HTX và người dân có mục tiêu tạo việc làm, canh tác theo hợp đồng bền vững và đảm bảo lợi ích của người dân ở các vùng DTTS.

11. Kết nối các hỗ trợ về sinh kế với các cải tiến về thể chế giảm nghèo tại địa phương, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở, phân cấp trao quyền, quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng. Kinh nghiệm của nhiều dự án có mục tiêu phát triển và giảm nghèo bền vững ở các địa bàn DTTS cho thấy, cần áp dụng rộng rãi chính sách đầu tư trọn gói cho cấp xã và thôn bản bằng các nguồn tài chính phân cấp (dưới dạng “quỹ phát triển cộng đồng”), lồng ghép với các hỗ trợ mạnh và liên tục về nâng cao năng lực lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội có sự tham gia, quản lý tài chính và theo dõi - giám sát cho cấp xã và thôn bản22.

22 Tham khảo kinh nghiệm của các dự án hướng đến cải thiện công tác lập, tổ chức thực hiện, theo dõi – đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp xã và thôn bản, và vận hành “quỹ phát triển cộng đồng” tại các tỉnh Hòa Bình, Cao Bằng, Hà Giang, Sơn La, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Nghệ An, Quảng Bình, ĐakNong… do nhiều tổ chức tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật (SIDA, SDC, JICA, GTZ, AusAid, Helvetas, Plan International, Oxfam…).

Page 73: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Giới thiệu 59

Phần 4TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 74: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số60

Page 75: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Tài liệu tham khảo 61

TÀI LIỆU THAM KHẢOAndrew Wells-Dang (2012), ”Phát triển dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Điều gì làm nên thành công?”, báo cáo cơ sở cho Đánh giá Nghèo năm 2012, tháng 5Bob Baulch et al. (2010) “Nghèo dân tộc thiểu số tại Việt Nam”, Trung tâm nghiên cứu nghèo kinh niên (Chronic Poverty Research Centre - CPRC), Manchester, UK, tháng 2Bob Baulch và Vũ Hoàng Đạt (2012), “Phân tích khía cạnh dân tộc của tình trạng nghèo tại Việt Nam”, báo cáo cơ sở cho Đánh giá Nghèo năm 2012, tháng 5Bùi Minh Đạo (2003), “Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, NXB KHXHCục BTXH - Bộ LĐ-TBXH (2012), Báo cáo Kết quả thực hiện dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo năm 2011; kế hoạch thực hiện năm 2012Everett M. Rogers (2003), “Lan tỏa sáng tạo” (Diffusion of Innovations), Free Press, New YorkGay McDougall (2010), “Báo cáo của chuyên gia độc lập về các vấn đề dân tộc thiểu số - chuyến công tác tại Việt Nam (5-15/7/2010)” Hoàng Cầm và Mai Thanh Sơn (2012), “Thiểu số tiến kịp đa số”: Định kiến tộc người và sự ngoài lề hóa của người Dao Bắc Kạn và người Raglai Ninh Thuận”, Hà NộiHoàng Xuân Thành et al. (2012), “Nghiên cứu nhận thức về bất bình đẳng tại Việt Nam”, báo cáo cơ sở cho Đánh giá Nghèo năm 2012, tháng 5iSEE và nhóm nghiên cứu Học viện Báo chí và Tuyên truyền(2009), “Thông điệp về nhóm dân tộc thiểu số trên báo in hiện nay”, Hà NộiJamieson, Neil L., Lê Trọng Cúc và A.Tery Rambo (1998) “Khủng hoảng phát triển ở miền núi Việt Nam”, Honolulu, Hawai: Trung tâm Đông – TâyMai Thanh Sơn (2011a), “Ba điểm tựa và nhiều chiều tác động của chủ thể văn hóa dân tộc thiểu số Việt Nam”--- (2011b), “Quyền của người dân các tộc người thiểu số tại Việt Nam”--- (2012), “Một số hiệu ứng không mong đợi của chính sách đối với dân tộc thiểu số”Ngân hàng thế giới – WB (2009), “Phân tích xã hội quốc gia: Dân tộc và phát triển tại Việt Nam”, Washington--- (2012), “Khởi đầu tốt, nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo và những thách thức mới”, tháng 7Ngô Đức Thịnh (2010), “Luật tục trong đời sống các tộc người ở Việt Nam”, NXB Tư phápNguyễn Tam Giang et al. (2012), “Nghiên cứu kết hợp định tính-định lượng về các động lực giảm nghèo dài hạn tại Việt Nam trong giai đoạn 1992-2011”, báo cáo cơ sở cho Đánh giá Nghèo năm 2012, tháng 5Nguyễn Từ Chi (2003), “Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người”, NXB Văn hóa Dân tộcNguyễn Việt Cường et al. (2012), “Phân bố nghèo theo không gian và sự biến đổi tại Việt Nam: Phân tích sâu và bài học chính sách từ Bản đồ nghèo năm 1999 và 2009”, báo cáo cơ sở cho Đánh giá Nghèo năm 2012, tháng 5

Page 76: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số62

Oxfam (2012), “Báo cáo hội thảo tổng kết thường niên chương trình giảm nghèo và sinh kế bền vững tại huyện Đăk Glong (tỉnh Đăk Nông)”, tháng 3Oxfam và AAV (2011), Báo cáo tổng hợp vòng 4 năm 2011 “Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia tại một số cộng đồng dân cư nông thôn Việt Nam”, tháng 5--- (2012), Báo cáo tổng hợp 5 năm 2007-2011 “Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia tại một số cộng đồng dân cư nông thôn Việt Nam”, tháng 5Phạm Quỳnh Phương và Hoàng Cầm (2011), “Câu chuyện định kiến tộc người và những vấn đề đặt ra (qua nghiên cứu định tính ở một số tỉnh miền Bắc và Trung Việt Nam)”, Hà NộiTCTK (2010), “Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008”, NXB Thống kê, Hà NộiUNDP (2010), Báo cáo phát triển con người năm 2010 “Của cải thực sự của các quốc gia: Đường đi tới phát triển con người”, tháng 11Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - VASS (2011), “Giảm nghèo tại Việt Nam: Thành tựu và Thách thức”, NXB KHXH, Hà Nội.

Giấy phép xuất bản số : 288-2013/CXB/07-08/TN

Page 77: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng
Page 78: MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC … · Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ... tích cực của đồng ... phòng

Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số64

Nghiên cứu trường hợp tại Hà Giang, Nghệ An và Đăk Nông

Oxfam22 Lê Đại HànhHà Nội Việt NamĐT: 04 - 3945 4448Fax: 04 - 3945 4449Email: [email protected]

ActionAid Quốc tế tại Việt NamTầng 2, tòa nhà HEAC14 - 16 Hàm Long, Hà Nội Việt NamĐT: 04 - 3943 9866Fax: 04 - 3943 9872Email: [email protected]

MÔ HÌNH GIẢM NGHÈO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNGDÂN TỘC THIỂU SỐ ĐIỂN HÌNH Ở VIỆT NAM

©A

AV-O

XFA

M-1

3051

0/A

MV

HÌN

H G

IẢM

NG

HÈO

TẠI M

ỘT SỐ

CỘN

G Đ

ỒN

G D

ÂN

TỘC TH

IỂU SỐ

ĐIỂN

HÌN

H Ở

VIỆT NA

MN

ghiên cứu trường hợp tại Hà G

iang, Nghệ An và Đ

ăk Nông