minh Đức tân dân tiến tu lục

101
www.nhatquantungthu.com Ph MINH MINH MINH MINH TI TI TI TI Mùa Xu Minh hát Nhất Sùng Đức ĐỨC TÂN D ỨC TÂN D ỨC TÂN D ỨC TÂN D ẾN TU LỤC ẾN TU LỤC ẾN TU LỤC ẾN TU LỤC uân năm Kỷ-Mão, 199 c Tân Dân tin tu lc 1 DÂN DÂN DÂN DÂN 99

Upload: cao-thanh-vang

Post on 17-Jul-2015

140 views

Category:

Spiritual


5 download

TRANSCRIPT

Page 1: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

www.nhatquantungthu.com

Phát Nh

MINHMINHMINHMINH TITITITIẾN TU LỤCẾN TU LỤCẾN TU LỤCẾN TU LỤC

Mùa Xuân năm K

Minh �

Phát Nhất Sùng Đức

ĐĐĐĐỨC TÂN DÂNỨC TÂN DÂNỨC TÂN DÂNỨC TÂN DÂNẾN TU LỤCẾN TU LỤCẾN TU LỤCẾN TU LỤC

Mùa Xuân năm Kỷ-Mão, 1999

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

1

ỨC TÂN DÂNỨC TÂN DÂNỨC TÂN DÂNỨC TÂN DÂN

, 1999

Page 2: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 2

Bài thứ nhất:

ĐẠO

Chúng ta đã đắc Đạo rồi, vậy Đạo là gì? “Đạo” là chân lý của Vô-Cực, khi được Trời phú cho con người thì gọi là linh-tánh. Cái linh-tánh này vốn thuần thiện vô ác, trong trắng vô nhiễm, do nguyên-nhân lạc xuống hậu-thiên, phải chịu khí-bỉnh câu thúc, bị vật-dục che lấp, làm cho cái tánh vốn sáng suốt lại bị nhiễm ngầm trong mê muội, tuy có tồn tại nhưng không biết là có tồn tại, chỉ biết làm việc theo tâm trạng người phàm trần, tham niềm khoái lạc trên tấm thân hữu sắc nhãn tiền, bị tình dục ràng buộc. Do tham mà cứ tham miết cho nên sự ô trược ngày càng dày đặc, tạo ra các thứ nghiệp-chướng, cho nên bị rơi vào tứ-sanh lục-đạo, luân-hồi chuyển biến, trải qua bao nhiêu ngàn năm, bị như thế chỉ do đắm mê trần thế, không biết làm sao để phản-bổn hoàn-nguyên? Chúng ta nay đã đắc Đạo, được biết con đường trở về cõi Trời, hiểu được tấm thân hữu sắc này là giả, là tạm bợ không thể tồn tại mãi!

Chúng ta may mắn gặp lúc Thiên khai phổ-độ, sau khi đắc pháp thượng-thừa thì cần phải tu Đạo. Thánh-nhân có nói: “Thiên-mệnh chi vị Tánh, suất Tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị Giáo” (1). Tu Đạo là học lấy con đường dẫn dắt tánh đi, từ vai trò làm người cho tới trở về cõi Trời, tẩy rửa sạch sẽ những nghiệp-chướng do chúng ta tạo ra trong nhiều kiếp trước, những thói hư tật xấu cùng các khí chất xấu xa khác mà chúng ta đang đắm chìm trong đó, cải ác hướng thiện, trở về với bổn-lai diện-mục, phản-bổn hoàn-nguyên, trở về cội nguồn nhận lại Mẫu, thoát khỏi tứ-sanh lục-đạo, địa-ngục luân-hồi, trở về Vô-Cực Lý-Thiên. Nếu chúng ta tiếp tục hành thêm đại công đại đức, phổ-độ chúng-sanh, sau này “Đạo thành Thiên-thượng, danh lưu nhân-gian”, siêu độ cửu-huyền thất-tổ, thành Thánh thành Phật muôn đời bất diệt, mới không uổng công chúng ta sinh ra làm người và gặp được Vô-thượng Đại-pháp.

Thiên-Đạo là con đường dẫn từ hậu-thiên trở về tiên-thiên. Đạo tức là Lý, tại Thiên gọi là Thiên-lý, tại Địa gọi là Địa-lý, tại Nhân gọi là Tánh-lý. Tánh-lý này chính là tâm-ấn chân pháp mà các vị Thánh đời đời tương truyền. Từ xưa tới nay các vị Thánh Hiền Tiên Phật đều phải đi tầm Minh-Sư cầu lấy bí pháp, tâm ấn tâm, khẩu truyền tâm thụ, nên xưng là “hằng cổ bất truyền chi bí bửu”. Thời cổ xưa có câu “pháp bất truyền lục nhĩ” là ý này đấy! Chúng ta gặp được duyên cơ tuyệt diệu này, gặp được Minh-Sư đắc thụ Vô-thượng Bồ-Đề diệu- (1) Bản tính tự nhiên do Trời phú cho ta gọi là Tánh; hành theo cái đức có sẵn của bản tính thì

gọi là Đạo; một khi đã mất đi tính bổn lai, muốn hồi phục lại thì phải nhờ đến pháp mà tu, gọi là

Giáo.

Page 3: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 3

pháp, thật là ba kiếp có tu. Nếu như không biết sự quý báu của Đạo, không tu Đạo bàn Đạo, không chịu gánh lấy đại-pháp để cứu nhân độ thế, thật đã phụ lòng Thiên-ân Sư-đức, uổng gặp phải Thiên-Đạo, cũng giống như đi vào bửu-sơn mà trở về tay không, có phải vừa đáng tiếc lại vừa đáng thương không? Tam-tào phổ-độ trong thời kỳ Bạch-Dương không tiền tuyệt hậu chưa từng có, hôm nay chúng ta may mắn gặp được, nếu như bỏ lỡ thì phải đợi tới 129.600 năm nữa, kỳ niên-nguyên-hội lần sau mới có thể gặp lại cơ duyên này.

Mời các vị xem hình vẽ trang sau để ấn chứng thêm, đây là ý nghĩa cho rõ linh-tánh từ Hậu-Thiên trở về Tiên-Thiên:

Page 4: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 4

Page 5: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 5

Page 6: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 6

Bài thứ hai

ĐẠO CHI TÔN QUÝ

Kinh Thanh-Tịnh có nói rằng: “Đại-đạo vô hình, sanh dục Thiên-Địa; Đại-Đạo vô tình, vận hành nhật-nguyệt; Đại-Đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn-vật, ngộ bất tri kỳ danh, cường danh viết Đạo”(1), theo ý trong đó ta không khó gì dòm thấy được tin tức của Đạo. Thế-Tôn có nói:

“Thiên thượng Địa hạ, duy Đạo độc tôn”

天天天天 上上上上 地地地地 下下下下, 唯唯唯唯 道道道道 獨獨獨獨 尊尊尊尊

Đạo là chân lý tuyệt đối trong vũ trụ. Không có Đạo không thể hình thành nên thế giới. Cho nên sách Trung-Dung có nói: “Đạo dã giả, bất khả tu du li dã”(2). Từ xưa đến nay, trở thành Thánh Thần Tiên Phật đều từ Đạo mà ra. Kinh Đạo-Đức có nói: “Lập Thiên-tử, trí tam công, tuy hữu hồng bích dĩ tiên tứ mã, bất như tọa tấn thỉ Đạo”(3). Do đó Đức Thích-Ca không ái mộ ngôi thái-tử cao quý; Đức Diệu-Thiện không tham vinh hoa ngôi công-chúa, lập chí tu Đạo, cho nên vạn cổ lưu phương.

Bác sĩ Phương-Đông-Mỹ, nhà triết-học đương thời, lúc phân tích nhân-cách vẹn toàn có nói: “Cho tới những người cao quý, được gọi là Thánh-nhân trong nhà Nho, Chí-nhân trong nhà Đạo, Giác-giả trong nhà phật, tuy là một cảnh giới rất khó đạt được, nhưng ít nhất phải tập trung lại tâm-tánh và tất cả tài năng của mình để cố gắng lo tiến thăng”. Chúng ta tu Đạo là nhằm mục đích đạt tới địa vị Thánh Hiền Tiên Phật.

Đức Khổng-Tử có ba ngàn đệ-tử và bảy mươi hai hiền-sĩ, trong đó chỉ khen ngợi Nhan-Hồi là người ham học. Y-Xuyên tiên-sinh có viết: “Nhan-tử sở hảo hà học luận”, viết rằng môn học của Nhan-Hồi là học làm Thánh-nhân, được kế thừa Khổng-môn tâm-truyền và trở thành Phục-Thánh, đó không phải là chuyện ngẫu nhiên. Người xưa có nói: “Thiên-đạo viễn, nhân-đạo cận”,

(1) Đức Thái-Thượng Lão-Quân nói: “Đại-Đạo bản lai vô hình vô sắc, nhưng có thể sanh dục

Thiên Địa. Đại-Đạo vô tình, nhưng vận hành nhật nguyệt mà sinh bốn mùa. Đại-Đạo không

có tên nhưng có thể sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật. Cái vô hình, vô tình, vô danh đó không

thể hình dung và miêu tả được, cũng không biết phải đặt một danh từ gì cho thích hợp, miễn

cưỡng đặt danh cho là Đạo”.

(2) “Cái Đạo này là không được rời khỏi dù trong chốc lát”.

(3) “ Được làm vua, hay chức tước cao quý, cũng không bằng được cái Đạo này”.

Page 7: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 7

huống hồ chi Đại-Đạo chân truyền, người hậu-bối không cách nào dòm thấy được, làm sao thấu hiểu được như thế nào? (Đức Khổng-Tử nói về tánh và Thiên-Đạo) Càng không biết được sự tôn quý của Đạo (“Sớm nghe Đạo tối chết cũng được”). Thời nay Thiên khai văn-vận, chân Đạo giáng thế, người có duyên đắc được là có thể “ki ến tánh thành Phật”.

1) Sự quý báu của Thiên-Đạo ở điểm nào?

Thiên-Đạo có rất nhiều điểm quý báu, có thể nói là nhất ngôn nan tận. Chủ yếu là có Minh-Sư ứng-thời ứng-vận gánh lấy Thiên-mệnh, có Đạo-thống đời đời tương truyền từ xưa đến nay, có tâm-ấn chân pháp hằng cổ bất truyền nhưng nay tùy thời cơ mà giáng truyền, còn có tiên-thiên loan đàn(1) để Thần-Đạo được thuyết-pháp dạy đời, nhờ thế mà chư Thiên Tiên Phật giáng đàn ban huấn-từ, tất cả những cái hiển hóa như tam-tài khai-sa chẳng hạn, để đánh thức giấc mộng mê đắm của người đời, cho nên chúng ta có cơ hội kết duyên cùng Tiên Phật; không những chư Thiên Tiên Phật có thể giáng đàn bất cứ lúc nào, mà còn có Vô-Sanh Lão-Mẫu cũng có thể đích thân giáng đàn cùng với chư Thiên Tiên Phật Thần Thánh vào những ngày trọng lễ, mồng một, ngày rằm mỗi tháng, đối diện với các con hoàng-thai của Lão-Mẫu để trút bầu tâm sự đau buồn, nhờ duyên cơ đó mà chúng ta được chính tai của mình và ở ngay trước mặt của mẹ để nghe những lời từ-huấn. Bất luận là Lão-Mẫu hoặc các vị Tiên Phật khác, khi phê thị Thiên-cơ diệu-huấn, đều là nói ra trước rồi sau đó ứng nghiệm. Vả lại, có khi Tiên Phật mượn khiếu, hiện thân thuyết-pháp, hiển hóa tại chỗ, nhờ thế mà giúp người đời tháo gỡ điềm nghi hoặc. Tất cả những điểm quý báu đó chỉ có ở Thiên-Đạo mà thôi! Ngoài ra, điều này mới là tôn quý nhất, đó là Minh-Sư nhất điểm, lập tức tỉnh ngộ trực siêu, không hành mà tới, đến tận Lý-Thiên. Tánh được trở về Vô-Cực, siêu-sanh liễu-tử, nhảy ra ngoài vòng tam-giới, không còn bị giam trong ngũ-hành, vĩnh viễn thoát khỏi cảnh khổ luân-hồi, chấm dứt hẳn khổ đau dưới Diêm-Vương. Chỉ cần theo Đạo chân tu, hết mọi khả năng độ nhân tu kỉ, chân tâm thực hành, còn có thể nhập thế thì là Thánh Hiền, xuất thế thì là Tiên Phật, siêu độ cửu-huyền thất-tổ đồng đăng Lý-Vực, tận đại hiếu báo hồng-ân lực đạt y Thiên(2), lại có cơ duyên cùng tổ tiên kết duyên, đối diện nhau nói chuyện, y như là tổ tiên được sống trở lại; gặp việc hung ác được hóa thành tốt lành, thể xác được thoát nạn, ngoài ra còn nhiều việc khác không kể xiết! Vả lại sau khi chúng ta điểm Đạo, được biết trong thân thể của mình có “Tự-tánh Chân-nhân Chủ-nhân-ông” là vị trường (1) Loan đàn: Tiên Phật mượn xác giáng cơ bút.

(2) Tận đại hiếu có thể cảm động đến Trời.

Page 8: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 8

sanh bất diệt, cho nên về mặt tinh thần có sự gởi gắm, có thể xem tất cả giả cảnh hồng-trần trước mắt này như bông nở ảo giác vậy, các việc được, mất, thành, bại, vinh hoa, tiều tụy, hoặc chết yểu hoặc trường thọ giàu nghèo đều nhìn thông suốt là giả tạo, cứ để cho nó tự nhiên, nên thường được tâm trạng vui vẻ, khỏi bị ràng buộc, khổ đau hay vui sướng đều không trụ nơi thâm tâm, hiển nhiên tự thấy sung túc, thấm mình trong bầu không khí an lạc. Nếu như không phải do sự quý báu của Thiên-Đạo thì làm sao có được như thế! Cho đến một ngày công-quả viên-mãn, linh quy thượng giới lãnh nhận từ-bi của Hoàng-Mẫu, theo công mà định quả-vị, chứng đắc liên-phẩm, hưởng thụ thanh phước 10,800 năm, vĩnh viễn thoát khỏi luân-hồi sanh-tử, chẳng lẽ như thế không phải sự quý báu của Thiên-Đạo chăng? Nếu không thì làm sao được hưởng cực-lạc như thế! Những lời vừa nói trên chỉ vài điểm tóm tắt khái quát, ấn chứng sơ sơ, nếu như nói tường tận cụ thể, thật không thể tả hết bằng giấy bút được!

2) Sau khi cầu Đạo có hữu ích gì cho chúng ta?

Sau khi chúng ta cầu Đạo, nhận được những lợi ích không thể dùng lời nói đôi ba câu mô tả hết được! Việc đầu tiên nhất là được thụ Minh-Sư chỉ điểm, điểm khai bí-khiếu sanh-tử, được biết linh-tánh của mình mới chính là vị chân-nhân của bản thân mình, thể nghiệm thật sâu sắc rằng thể xác không phải là chân-ngã, nó như một căn nhà chẳng qua mượn ở tạm vài chục năm thôi, mọi động tác của thể xác và tác dụng của nó đều dưới sự chi phối của chân-nhân này. Nếu như không có linh-tánh làm chủ tể, thì thể xác chẳng qua là một miếng thịt chết, còn có thể linh động hoặc tác dụng gì nữa? Nếu đã biết rõ thể xác không phải là thật, thì mọi thứ ở ngoài thân thể, đương nhiên không có thứ nào mà không phải là giả; thí dụ như: phú quý, công danh, tiền bạc, sản nghiệp, vợ con v.v... có thứ nào không phải là ảo cảnh trước mắt? Nếu như đã nhìn thấu suốt cái thật và cái giả, phân biệt rõ ràng cái nặng và cái nhẹ, thì đối với ảo cảnh ngoài thân thể, tự nhiên sẽ không trụ nơi thâm tâm, đạt được không đáng để mừng, mất đi không đáng để ưu sầu, tự nhiên sẽ nhất tâm thanh tịnh, không có một tí nào ràng buộc, thân tâm thoải mái, phiền não bị diệt tận gốc, được như thế có phải là Thần Tiên tại thế chăng?

Ngoài ra, sau khi đắc Đạo, coi trọng việc Đạo, gặp việc gì cũng tìm tòi nơi chính bản thân mình, luôn thầm lăng suy nhớ lỗi lầm của mình, tâm không dám dấy lên vọng niệm, thân không dám có vọng hành, khẩu không dám nói vọng ngữ, thân tâm thanh bạch, động tịnh hợp lý, đối với người khác hoặc chính mình đều như nhau cả, đại công vô tư, cho nên được sự hòa nhã trong gia đình, được láng giềng khen ngợi, làm cho bản thân càng cảm thấy vui

Page 9: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 9

sướng vô biên; còn sự quan hệ của việc ăn chay trong vô hình đã ít tạo tôi nghiệt biết bao, ít vướng bao nhiêu oán nợ, mà thân xác của mình lại được khử trược lưu thanh, kết quả là tránh âm dưỡng dương, cho nên từ yếu kém chuyển thành cường mạnh, ít bệnh tật, nét mặt sáng suốt, luôn luôn mạnh khỏe; hơn nữa sau khi cầu Đạo, chân tâm thực-hành, thành tâm sơ cảm, do lòng thành của mình nên lúc nào cũng được Tiên Phật phò-hộ, việc hung hóa kiết, gặp nạn được chuyển hóa thành tốt đẹp, không cầu bình an lại được bình an, không cầu hạnh-phúc lại được hạnh-phúc, thế này chẳng lẽ không phải là những lợi ích do được Đạo mà có chăng?

Huống hồ chi có sự chỉ dạy của Thần-Đạo, lúc nào cũng được Tiên Phật chỉ đường dẫn lối, nếu gặp việc gì chưa được rõ ràng hoặc có việc gì chưa đúng, liền được Tiên Phật từ-bi chỉ dạy cho ngay, được cứu vãn kịp thời, tránh được tình trạng đã sai rồi lại sai thêm, sau cùng trở thành một lỗi lầm lớn; không những như thế, luôn cả những tội lỗi đã tạo ra trong cuộc đời của mỗi người đều được Hoàng-Mẫu đặc biệt ân-từ phê chuẩn cho sám-hối, sửa lỗi hoàn lương, tống đi sạch sẽ những vật dơ bẩn đã tích lũy trong thân tâm nhiều năm, từ đó nội ngoại được thanh bạch, thân tâm không bị ràng buộc, nên nảy sinh niềm vui vô tận, thử hỏi hạnh-phúc của đời người có cái nào hơn thế này chăng?

Đối với việc tránh kiếp khỏi nạn, phản-hồi Lý-Thiên, siêu-sanh liễu-tử, thoát khỏi luân-hồi là việc sau này, tạm không nhắc tới, chỉ xem mọi thứ lợi ích trước mắt cũng không thể nói rõ từng cái một, như thế chính là những điểm lợi ích chúng ta nhận được sau khi cầu Đạo. Chúng ta được sự chiếu cố đặc biệt của Bề-trên, gặp phải lương duyên này, nhờ ân-từ của Bề-trên, cho nên mới nhận được mọi thứ siêu-nhiên hạnh-phúc vừa kể; nhưng “biết ơn phải nhớ đền đáp”, từ xưa đã có câu nói như thế, cho nên sau này càng phải cố gắng mà hành, như câu nói “cây dài trăm thước, tiến thêm một bước”, càng nỗ lực thêm trên con đường Đạo, để đền đáp Thiên-ân Sư-đức trong giây lát, để hồng-nguyện của mình được thực hiện, thật là một cơ may hiếm có mà phải trải qua 10,800 năm, hôm nay mới được gặp! Khổng-Tử, Đức Thích-Ca và Chúa Jesus được cơ quan học thuật Hoa-Kỳ công nhận là tam-đại vĩ-nhân trên thế giới, đủ cho ta thấy rằng dù có sự tiến bộ của khoa học vật chất, nhưng địa-vị và nhân-cách của Thánh-nhân vẫn muôn đời bất diệt. Vương-Dương-Minh lúc mười ba tuổi đã lập chí học làm Thánh-nhân. Nay chúng ta gặp được Thiên-Đạo, đó là con đường ngắn nhất đi đến Thánh Hiền.

Theo những lời vừa kể, đủ cho thấy rõ sự tôn quý của Đạo. Sư-Tôn có nói:

Page 10: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 10

“Nhân tước nã hữu Thiên tước quý, công danh yên hữu Đạo danh cao” (1), thật là không nói sai tí nào!

(1) “Tước vị ở trần gian nào quý bằng tước vị nơi Thiên-Đàng; công danh ở trần gian nào cao

hơn Đạo danh”.

Page 11: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 11

Bài thứ ba

THIÊN M ỆNH MINH SƯ CHI ẤN CHỨNG

Sư có dạy rằng: Ứng-vận lạc hồng-trần,

應 運 落 紅 塵

Hà mệnh độ càn-khôn,

何 命 度 乾 坤

Ấn chứng Minh-Sư đức,

運 證 明 師 德 ,

Ngộ giả thị tri âm.

悟 者 是 知 音 .

Từ xưa tới nay người tu Đạo rất nhiều, nhưng người được thụ chân truyền thì rất hiếm, là vì Minh-Sư khó gặp. Minh-Sư là người kế thừa Đạo-thống, do ứng-vận cứu thế mà giáng xuống phàm trần. Lúc này gặp phải Ngọ-Mùi, hai hội đổi giao nhau, là lúc tam-kỳ mạt-kiếp, Thiên khai phổ-độ, truyền cho “bí-bửu”, xưa nay không khinh truyền tận lộ nơi Đông-thổ. Chúng ta may mắn gặp được chân truyền, vốn không phải là việc dễ dàng, nếu không phải do Minh-Sư giáng trần, có thể nói là dù đi giầy sắt tới mòn lũng vẫn chưa tìm thấy! Do vậy, chúng ta ngày nay được thấm nhuần Thiên-ân, phải biết cái chân của Thiên-mệnh Minh-Sư, đừng có xem thường! Cho nên hôm nay nói sơ qua về chứng nghiệm của Minh-Sư truyền Đạo, để quý vị tham khảo.

Đạo là Tánh-lý chân truyền, là “bất nhị pháp môn” để được siêu-sanh liễu-tử thoát khỏi luân-hồi. Pháp môn bất nhị này là do Minh-Sư kế thừa truyền thụ. Minh-Sư là người nhận mệnh lệnh Thượng-Đế, giáng thế cứu nhân, kế Thiên lập cực, thế Thiên tuyên hóa. Cho nên Khổng-Tử có nói: “Quân-tử úy Thiên-mệnh, úy Đại-nhân, úy Thánh-nhân chi ngôn”.

Sư-Tôn, Sư-Mẫu là hai vị lão-tiền-bối lãnh thụ Thiên-mệnh của Lão-Mẫu giáng thế mang lốt phàm trần, hóa thân là Cung-Trường và Tử-Hệ, không luyến Thánh-vị, không ngại khổ cực, chỉ lo độ hóa chúng-sanh là nguyện vọng của mình. Gặp lúc thời kỳ mạt-kiếp này, càng gánh thêm trọng trách là phổ-độ tam-tào(1), không những chúng-sanh tại thế gian nhờ được thoát khổ nạn(2),

Page 12: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 12

luôn cả Khí-Thiên Tiên(3), Địa-phủ quỷ-hồn(4) cũng hiển hóa nhân gian khẩn cầu tế độ. Vả lại, Minh-Sư có nhiều điểm để chứng minh, không phải chỉ bằng lưỡi ba tấc tự xưng tự rằng. Sư-Tôn, Sư-Mẫu đồng lãnh Thiên-mệnh giáng thế có ấn chứng rất nhiều. Trong “Cổ-Ngôn Sám-Ngữ” có ghi rõ: Xưa kia có một ngôi Thất-Thánh-cung, còn gọi là Thất-Phật-tự, được dựng tại làng Mã Dinh, ấp Hiếu Nghĩa, huyện Phân Dương, phủ Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây, trong đó cung phụng bảy vị Thánh-nhân, nơi đây có Hà-đồ bia-văn ghi rõ, là do Nữ-Oa-Nương-Nương khắc ra, bài thất-ngôn cổ-sám rằng:

Mẫu định tam dương độ nguyên-nhân

Phục thủy Hy Hoàng giáng Đạo nguyên

Lâm sơ Thái Công xiển Thánh Vương

Thái lai Thiên Chân bàn thu viên(5).

Vào thời bị Nhật đánh chiếm, sông Hoàng-Hà bị khuyết đê, có hiện ra bia-văn ghi rằng:

Cung-Trường ứng-vận lãnh Thiên-mệnh

Khẩu truyền tâm-ấn hồng chân Đạo.

Vân cập tam lục trung thu dạ,

Nhân tuy viên tịch Đạo do tồn,

Tử-Hệ thái âm kế thừa tiếp,

Lập kỉ lập nhân Thiên-mệnh đảm.

Đồng thời Lão-Mẫu ứng cho việc mạt-hậu thâu-viên, đặc ban Phật-chỉ, lệnh Tiên chân Bồ-Tát tề thính Phật lệnh, đồng trợ Sư gánh vác, thiên Phật vạn Tổ, đều tới giúp sức trợ Đạo, huyền diệu thế này, thật khó tả cho tường tận! Cho nên nói Thiên-mệnh không phải trò đùa, nếu không phải do Đạo chánh, Lý chánh, Thiên-mệnh chánh, làm sao được thụ “Minh-Sư nhất chỉ”? Một khi hết tuổi thọ, thể xác chứng minh cho ta thấy: Mùa Đông không bị cứng, mùa Hạ không bị thối, mặt mũi như lúc còn sống. Lão-Mẫu e rằng các Phật-tử trầm mê khổ hải, không thể hiểu rõ Thiên ý và việc ứng-thời ứng-vận, nhất điểm siêu-sanh, sự quý báu của Thiên-mệnh giáng thế, cho nên đặc biệt ban cho phi loan(1) tuyên hóa, có thể cho các vị đã đắc Đạo quy-không, hoặc các vong-linh đã được siêu thoát đến dự đàn cơ, nói ra mọi việc trải qua trong lúc còn sống

(1) Phi loan: sự giáo hóa bằng cơ bút.

Page 13: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 13

và sau khi chết. Được huyền diệu như thế, nếu không phải do cái chân của Thiên-mệnh, thì người phàm sao có thể làm được!

Không những vậy, hiện nay trên thế giới có đủ loại thiên môn vạn phái, đó là do sự sắp xếp huyền diệu của Bề-trên, để ứng Cung-Trường tổ “đại biện thâu-viên”. Lão-Mẫu đã cho sai xuống trước đủ loại môn giáo để dẫn dắt con người hướng thiện, sau cùng là vạn giáo quy nhất. Trong kinh Long-Hoa có câu thơ rằng:

Cung-Trường xuất thế kỉ nhân tri,

Độ tận vạn giáo tề quy nhất,

Tẩu mã truyền Đạo thời niên chí,

Độ thoát hoàng-thai tảo xuất kỳ(1)

Trong Di-Lặc Chân-Kinh có nói: “Thiên-Chân thâu-viên quải Thánh-hiệu”(2). Những thứ này đều là nói trước và ứng nghiệm sau, chứng minh cho thấy sự kế thừa Đạo-thống của Sư-Tôn Sư-Mẫu, tuyệt đối không phải chỉ nói bằng miệng.

Lúc này đang gặp phải thời mạt-vận, chân Đạo phổ truyền, mà Sư chỉ có một người, làm sao có thể bôn ba đây đó được? Cho nên Lão-Mẫu từ-bi, bất cứ người nào có đức hạnh, có thể hi sinh vì Đạo, đều được lãnh nhận Thiên-mệnh, thế Sư đi lo mọi việc, thế Sư truyền Đạo. Cho nên sách Trung-Dung có nói: “Cố đại đức giả tất thụ mệnh”(3). Trong nhân gian thường nói câu: “Thiên-mệnh đại thị Hoàng Thánh-chỉ” (4). Chúng ta tu Đạo, đối với Đạo phải biết kính và luôn luôn khắc ghi trong lòng, uống nước nhớ nguồn, thường có Đạo-niệm trong lòng, đồng tâm đồng đức, phân biệt rõ ràng Minh-Sư chân hay ngụy. Tu Đại-Đạo này nói không khó, chỉ mong quý vị lấy làm tham khảo và tự tìm hiểu cho ngộ tỉnh.

* Phần chú thích:

(1) “Sư-Tôn ra đời được mấy người biết, độ tận vạn giáo đồng quy nhất, Thiên thời đến truyền

Đạo rất gấp rút, độ nguyên Phật tử thoát li bể khổ”.

(2) “Sư-Tôn Thiên-Nhiên và Sư-Mẫu Tố-Chân đồng lãnh Thiên-mệnh thu viên”.

(3) “N ếu người có đại đức, tất lãnh được Thiên-mệnh”.

(4) “Thiên-mệnh tựa như Thánh-chỉ của Hoàng-Đế”.

Page 14: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 14

(1) Tam-tào:

- Thiên-tào (các vị Tiên tại tầng giới Khí-thiên).

- Địa-tào (quỷ-hồn tại địa-phủ).

- Nhân-tào (chúng-sanh tại nhân-gian).

Tam-tào phổ-độ, Đại-Đạo phổ truyền, trên là độ Khí-Thiên Đại-Tiên, Hà-Hán Tinh-Tú; giữa là độ nhân-gian thiện-nam tín-nữ, dưới là độ quỷ-hồn u-minh tại địa-phủ, gọi là tam-tào phổ-độ, nếu như không phải là Thiên-mệnh Minh-Sư, thì làm sao tam-tào có thể cùng được độ?

(2) Trung độ nhân-gian thiện-tín:

Là phổ-độ cái dễ nhất trong tam-tào, chỉ cần thân gia được trong sạch, nhờ Dẫn-Bảo-sư lập nguyện đảm bảo, là được Minh-Sư chỉ điểm. Sau khi cầu Đạo, nếu có thể lo tu trì hành thiện, tích đức cảm động Bề-trên, thì khi còn sống trên đời có thể phùng hung hóa kiết, khi gặp nạn được trở nên tốt lành, sau khi chết được siêu-sanh thoát khỏi luân-hồi, được chứng minh qua xác thân sau khi chết. Thích-giáo và Đạo-giáo đều cho rằng khi sư phụ viên tịch (qua đời), có hiện tượng “tọa hóa thùy cân”, nhưng trong muôn ngàn người không được một, Đạo chúng ta hễ ai được điểm truyền xong, chỉ cần có tâm địa lương thiện, sau khi chết thân thể như còn sống: mùa Đông không bị cứng, mùa Hạ không bị thối; còn điều có thể chứng minh nữa là sau khi đắc Đạo quy-không, đủ 100 ngày sau có thể mời tánh-linh của người qua đời tới đàn thuyết giảng lời huấn để kết duyên, nói lại cho biết những việc trải qua trong lúc còn sống và sau khi chết, hoặc trước khi chết chưa kịp dặn dò điều chi. Về những chuyện kết duyên thế này có rất nhiều, các vị có thể tới thỉnh giáo các vị tiền-hiền.

Sau khi điểm Đạo, nếu biết thành tâm tu luyện, tu Đạo làm việc Đạo, lập công bồi đức, một khi công-quả viên-mãn, thoát xác quy thăng, linh-hồn được trở về cõi Thiên, là được Lão-Mẫu án công định quả, sắc phong phẩm-liên (cửu-phẩm liên-đài), vinh hoa biết bao!

Các vị có thể tham khảo câu chuyện “Từ-Đức Đại-Tiên” trong quyển “ Đại-Đạo Kiến-Văn-Lục” để hiểu rõ hơn sự tôn quý của Đạo!

(3) Thương độ Khí-Thiên Đại-Tiên:

Những người tu hành trong quá khứ, hoặc trung-thần hiếu-tử, liệt-nữ tiết-phụ, sau khi chết, lý nào lại không có gì hết? Nhưng tuy là có thể thăng lên làm Khí-thiên chi Tiên hoặc Quỷ trong chư Thần, mà không được đắc Thiên-

Page 15: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 15

Đạo vẫn không thể thoát khỏi luân-hồi. Cho nên Khí-thiên chư Tiên thường đi khắp nơi hiển hóa, và tới chỗ Nam-Cực Tiên-Ông xin cho quái-hiệu, tìm người hữu duyên lúc mình còn sống, nhờ dẫn-bảo để cầu đắc Thiên-Đạo đặng trở về Lý-Thiên. Có một vị trong số các vị đầu tiên, Vân-Du cô-nương, được Sư-Mẫu đích thân độ cho, sau khi cầu Đạo đi khắp nơi li ễu tay trị bệnh, hiển hóa độ nhân, rồi sau được Lão-Mẫu phong là Giáo-Hóa Bồ-Tát, trở thành Tiên trưởng trong Vân-tự-bang. Trong Vân-tự-bang gồm 3.000 vị đã được độ đầy đủ, đó là câu chuyện cầu Đạo của Khí-thiên Đại-tiên.

Một trong ba lớp có tên là Mậu-tự-bang, là quyến thuộc của Sư-Tôn trong 72 lần giáng thế, gồm có 3.000 vị, do sư huynh làm Tiên trưởng. Còn trong Ngộ-tự-bang là do Vương-Dương-Minh Phu-tử làm Tiên trưởng. Các vị Đại-Tiên có nhiều vị tới cầu Đạo, đều có huấn-văn làm chứng. Như Lão-tiền-hiền độ Tư-Mã-Quan, cho nên Lão-tiền-hiền tới Đài Loan, Tư-Mã Đại-Tiên cũng thường tới trợ Đạo. Một trong các Đại-Tiên cầu Đạo tại Đài Loan, Trịnh-Thành-Công Đại-Tiên, vào thời gian gần đây có hiển hóa rất nhiều, kế tiếp độ nhân viên làm việc trong miếu, sau đó lại chỉ điểm cho một số thiện-nam tín-nữ, do trước khi chưa cầu Đạo, được Đại-Giáp Thiết-Chăm-Sơn đến mở pháp hội một tuần, trong pháp hội độ được rất nhiều người, còn có Tiên Phật phê huấn lời khuyên hóa. Lại như những vị Chùa Bà rất nổi tiếng cũng mượn Tạ-Đăng-Giáp tới bái Minh-Sư.

(4) Dưới độ địa-phủ quỷ-hồn:

Hồi xưa Phật-quy có rằng: “Nhất tử thành Đạo cửu tổ siêu-sanh”. Đương thời trước khi phổ-độ, chắc chắn là độ người sống không độ người chết, sau được Tam-Quan Đại-Đế, Địa-Tạng Cổ-Phật khẩn cầu hồng-ân, mới được chuẩn âm dương tề độ, hễ có con cháu tu Đạo, tổ tiên có thể ở phòng chờ đợi, đặng được siêu bạt. Sau khi được siêu bạt, được tu luyện tại Thiên-Phật-Viện, qua 100 ngày sau, cũng có thể tới Phật-đàn phán lời huấn để kết duyên.

(Xin tham khảo “Thiện hồn Chu-Phụng-Liên cầu Đạo ký” trong quyển “ Đại-Đạo kiến-văn-lục”)

Sau khi cầu Đạo lại tới trợ Đạo, có thể thấy tam-kỳ mạt-kiếp này, quỷ-hồn cũng khiếp sợ đi khắp nơi tầm người hữu duyên để được siêu bạt.

(5) Giải nghĩa:

- Trong câu thứ nhất, là ý nói tiên-thiên Lão-Mẫu sắc định Thanh-dương, Hồng-dương, Bạch-dương phổ-độ hoàng-thai nguyên-nhân.

- Trong câu thứ hai, chữ “Phục” là địa lôi phục quái, cũng tức là thượng

Page 16: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 16

Khôn hạ Chấn, Khôn là hậu-thiên Chấn, tại Đông phương là tam, tam là thuộc màu xanh, Hy là Đế-hiệu của vua Phục-Hy, tức là nói Thanh-dương kỳ bắt đầu, vua Phục-Hy là khởi nguyên trong việc giáng Đạo. Trước vua Phục-Hy, Đạo-thống vốn là minh truyền minh thụ tại thế gian. Cho nên vào thời gian trước vua Phục-Hy 800 năm, con người ai ai cũng đều ý thành tâm chánh, nên ai nấy đều có Đạo; sau vì trong thời gian 800 năm này, tạo ra tội ác, Đạo ẩn Thiên thượng, còn kiếp họa thì hiện rõ nơi nhân gian, Phục-Hy Hoàng-Đế phụng Thiên thừa vận, bắt đầu truyền Đại-Đạo.

- Trong câu thứ ba, chữ “Lâm” là địa-trạch, “lâm” cũng tức là thượng Khôn hạ Đoái, Khôn là hậu-thiên Đoái, tại Tây phương là bảy, bảy là màu xích nâu là một chủng loại màu đỏ, Thái-Công là Thánh-hiệu của Lữ-Thượng, cũng tức là nói: Khởi điểm thời Hồng-dương, Thái-Công Lữ-Thượng huyền dương Đại-Đạo, nội Thánh ngoại Vương.

- Trong câu thứ tư, chữ “Thái” là Địa-Thiên thái-quái, cũng tức là thượng Khôn hạ Càng, Khôn là hậu-thiên Càng, tại Tây Bắc phương là sáu, sáu là màu trắng, Thiên-Chân là Thánh-hiệu của Sư-Tôn Thiên-Nhiên và Sư-Mẫu Tố-Chân. Thu viên là một quãng đường cuối cùng, cũng tức là nói: Đến thời kỳ Bạch-dương, Sư-Tôn Sư-Mẫu chúng ta lo việc mạt-kiếp tam-tào phổ-độ thu-viên đại sự, là cái chứng minh cho biết có Thiên-mệnh Minh-Sư.

Page 17: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 17

Bài thứ tư

ĐẠO THỐNG

Lão-tử rằng: “Đại-Đạo vô hình, sanh dục Thiên-Địa”; lại nói rằng: “Đạo sanh nhất, nhất sanh nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn vật”, đủ cho ta thấy nguồn gốc của Thiên-Địa là phát sinh từ cái “Đạo” này. Do đó Lão-tử nói: “Hữu vật hỗn thành(1) tiên Thiên-Địa sanh”. Cho nên trước khi có Trời Đất, thì vốn đã có cái “Đạo” này rồi!

Chúng ta phải biết rằng tôn giáo trên thế gian tuy có muôn ngàn môn phái, nhưng Đạo của Thượng-Đế là duy nhất không hai, cho nên cái chánh pháp do Phật nói gọi là “bất nhị pháp môn”, bất nhị pháp môn tức là chánh Đạo. Khổng-Tử nói rằng: “Sáng nghe Đạo, tối chết cũng được”. Vãng-Triết nói: “Tiên thiết vạn giáo truyền kinh điển, mạt-hậu Thiên-Đạo biện thâu-viên”. Do đó đủ cho ta thấy rằng muôn ngàn môn phái trên đời đều là phụng lệnh Thượng-Đế truyền thụ, và chứng minh thiên kinh vạn điển của chân Thiên-Đạo, phải đợi cho tới giờ phút sau cùng, Thượng-Đế phái Minh-Sư giáng thế lo việc đại-biện thâu-viên. Nhưng Minh-Sư từ cổ xưa cho tới hiện nay, không phải chỉ có một người, còn về thống-hệ cũng chẳng phải chỉ có một đời. Các tôn giáo đều tự cho là Minh-Sư phụng Thiên-mệnh của Bề-trên, là chân truyền chánh môn, chúng ta thử hỏi bằng chứng cụ thể rõ ràng, thì có thể trả lời một cách xác thực và viên-mãn không? Phải hỏi Đạo đang rao truyền là Đạo gì? Đạo của ai? Truyền Đạo do phụng lệnh của ai? Có bằng chứng cụ thể nào không? Thiên-tánh của chúng ta do ai phú cho? Thiên-Địa do ai sáng tạo ra? Đại-Đạo được giáng xuống trần gian bằng lối nào? Được minh hiển vào lúc nào? Cho tới hiện giờ gồm có bao nhiêu thời đại? Gồm có bao nhiêu truyền thống? Nếu như trả lời không được thì không hiểu chân Thiên-Đạo là như thế nào?

Chân Thiên-Đạo thì chắc có chân Thiên-mệnh. Thiên-mệnh là thừa minh mệnh của Thượng-Đế, cho nên chúng ta sùng bái vị tối cao là “Thượng-Đế”, Thiên-tánh của chúng ta là được Thượng-Đế phú cho, Thiên-Địa là do Thượng-Đế sáng tạo ra, Đạo là do Thượng-Đế cho giáng xuống, Minh-Sư là do Thượng-Đế sai xuống, một khi đã có mệnh danh của Thượng-Đế, thì tất nhiên là có sự chứng minh theo hệ thống, nên vị đó mới có thể gọi là “Thiên mệnh Minh-Sư”, là chánh Đạo chân truyền!

Từ vua Phục-Hy nhất vạch khai Thiên, tạo ra bát-quái tiên-thiên, thấy

(1) “H ữu vật hỗn thành”, là một khối hỗn độn không hình không tướng, ý nói là cái “Đạo”.

Page 18: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 18

được sự ảo diệu của Thiên-Địa, là lúc Đại-Đạo bắt đầu giáng thế, kế tiếp là vua Thần-Nông nếm thử trăm loài cỏ cây, phân biệt dược tính, để đặng cứu thế cứu dân mà thừa tiếp Đạo-thống; rồi có Hiên-Viên Hoàng-Đế đi khắp nơi tầm Minh-Sư, sau gặp Quảng-Thành-Tử mới đắc chân Đạo, có viết quyển “Âm-Phù-Kinh” nhằm huyền dương “Đại-đạo diệu-chỉ”; truyền tiếp cho Thiếu-Hạo, sau đó truyền cho vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, vua Thang, Y-Duẫn, Văn-Vương, Võ-Vương, Thái-Công, Châu-Công kế thừa Đạo-thống, tâm-pháp cứ “nhất mạch tương truyền”. Lúc này gọi là Thanh-dương ứng-vận, Đạo là hoàn chỉnh không phân tách ra, cho tới đời Chu-Lệ-Vương, Chu-U-Vương.

Về sau Quân-Vương vô Đạo, ngũ-bá thất-hùng trỗi dậy, chánh lệnh của Thiên-tử không thể thi hành trong thiên-hạ, là lúc Đạo chuyển sang thời kỳ Hồng-dương, được chia thành tam-giáo. Lão-tử ứng-vận giáng phàm, xiển dương Đạo-tông, Đông độ Đức Khổng-Tử, Tây hóa thân làm Nhiên-Đăng Cổ-Phật độ Phật Thích-Ca, sau hiển tử-khí nơi Hàm-Cốc quan, quan giữ cửa ải là Duẫn-tử xét thiên-văn biết có Thánh-nhân đi qua, nên giữ lại cầu xin lưu ngôn, Lão-Tử vì thế mà trứ Đạo-Đức kinh gồm năm ngàn chữ lưu truyền lại hậu thế, là thủy tổ của Lão-giáo. Đức Khổng-Tử chu du liệt quốc, lập ra Thi-Thư, Lễ-Lạc, soạn ra Chu-Dịch, tác ra quyển Xuân-Thu, lập đàn mở lớp dạy, giáo-hóa muôn vạn, huyền dương chân lý vĩnh cửu bất biến, kế vãng khai lai, lập ra định luận “vạn thế bất biến”, là thủy tổ của Nho-giáo. Những cái tinh vi ảo diệu của Chí-Đạo, trong quyển Đại-Học và Trung-Dung có nói rất tường tận: Khi Khổng-Tử truyền cho Nhan-Hồi, Nhan-Hồi nhận được “quyền quyền phục ưng” (chăm chăm giữ lấy và một lòng hướng tới); Tăng-Tử nhận được “chiến chiến căng căng” (thận trọng sợ hãi); Tăng-Tử truyền cho Tử-Tư; Tử-Tư truyền cho Mạnh-Tử; Tử-Tư nói rằng: “Đạo là cái không thể bị rời khỏi thân mình trong giây lát”; Mạnh-Tử nói rằng: “Thiên hạ nhược viện chi dĩ Đạo”. (Trên đây là 18 đời tổ-sư Đông phương kỳ trước).

Từ Mạnh-Tử trở đi, tâm-pháp bị thất truyền, dòng mạch Nho giáo bị ngắt, trải qua các triều đại như Tần, Hán, Tấn, Tùy, Đường, chu tử bách gia đều nghị luận về Đạo, nhưng không một người nào đạt đến Thánh-vực. Đến thời kỳ Viêm-Tống(1), ngũ tinh tụ Khuể, văn vận Thiên khai(2), có vài vị rất giỏi liên tiếp ra đời, bắt đầu từ Hi-Di, sau đến Châu-Liêm-Khê, anh em Trình-Hạo Trình-Di, Trương-Tải, Chu-Hy, Lục-Tượng-Sơn... Nhờ thế mà chân Nho được

(1) Thời Tống Thái-Tổ Triệu Khuông-Dẫn.

(2) Khuể là một vì sao trong nhị-thập bát-tú. Vào niên hiệu Càn-Đức năm thứ năm đời Tống

Thái-Tổ (năm 967 Tây lịch), Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ năm hành tinh xếp thành một hàng,

hướng về sao Khuể, lý-học bắt đầu thịnh hành vào thời đó.

Page 19: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 19

sáng tỏ lên, nhưng vì đạo vận chưa đến, chỉ thích nghĩa chân lý của Đạo mà không một người thừa kế Đạo-thống. Xem xét rõ thấy trước thời Mạnh-Tử, Đạo-bàn đã ám chuyển Tây-vực, về sau là Thích-giáo thừa kế. Cho nên Tống-Nho tuy có người tài liên tiếp ra đời, nhưng chẳng qua giúp xiển dương “Đạo-chỉ” mà thôi!

Đạo được chia ra làm tam-giáo, mỗi giáo tự truyền một nơi, tự có kinh điển để lại. Phật Thích-Ca cùng thời với Đức Khổng-Tử, ứng vận nơi Tây-trúc, thuyết pháp độ chúng 49 năm, là thủy tổ của Phật-giáo, truyền tâm-pháp cho đại đệ-tử là Ca-Diếp Tôn-Giả, là vị tổ-sư thứ nhất của nhà Phật. Ngài Ca-Diếp truyền cho A-Nan-Đà Tôn-Giả là tổ-sư thứ hai,..., tâm-pháp một mạch chân truyền đến tổ-sư thứ 28 là Bồ-Đề Đạt-Ma Tôn-giả. Đến đời Đạt-Ma tổ-sư, Đại-Đạo hoàn nguyên, trở về Trung Hoa, gọi là “lão-thủy hoàn-triều”. Đạt-Ma tổ-sư đến Trung Hoa (vào thời vua Lương-Võ) là sơ-tổ của nhà Phật ở Đông phương. Từ khi Đạt-Ma đi vào Trung Quốc, chân Đạo được nhất mạch tương truyền: Thần-Quang nhị-tổ, Tăng-Xán tam-tổ, Đạo-Tín tứ-tổ, Hoằng-Nhẫn ngũ-tổ, Huệ-Năng lục-tổ, cho tới lục-tổ là y-bát bị thất truyền, và rồi có danh từ gọi là “Nam đốn” “B ắc tiệm”, nhưng thật ra là Đạo được về với tục-gia; Lục-tổ độ Bạch-Ngọc-Thiềm và Mã-Đoan-Dương, hai vị là thất-tổ, từ đó Đạo được chuyển tới hỏa-trạch; La-Úy-Quần bát-tổ, Hoàng-Đức-Huy cửu-tổ, Ngô-Tử-Tường thập-tổ, Hà-Liễu-Khổ thập-nhất-tổ, Viên-Thối-An thập-nhị-tổ, Dương-Hoàn-Hư và Từ-Hoàn-Vô là thập-tam-tổ, Diệu-Hạc-Thiên thập-tứ-tổ, Vương-Giác-Nhất thập-ngũ-tổ, Lưu-Hóa-Phổ thập-lục-tổ. Như thế là 16 đời thời kỳ Hồng-dương được viên-mãn, rồi Đạo được chuyển qua Đông-Lỗ, Lộ-Trung-Nhất ứng-vận là thập-thất-tổ, Đại-Đạo chuyển sang thời kỳ Bạch-Dương. Đạo-thống tâm-pháp nhất mạch chân truyền đến đời tổ thứ 18 là Cung-Trường (Trương) và Tử-Hệ (Tôn) hai vị tổ-sư cùng chấp-chưởng Đạo-bàn, kế tiếp lo liệu mạt-hậu nhất-trước(1), lo phổ-độ tam-tào, vạn giáo quy nhất, vạn gia

(1) “Mạt-hậu nhất-trước”: Là kỳ phổ-độ lần chót, cũng là cơ hội cuối cùng để được siêu-sanh

liễu-tử.

Ý nghĩa “Mạt-hậu nhất-trước”:

- Là người phàm-phu tục-tử được đắc Đạo, trở về quê xưa chốn cũ, biết được con đường sanh-tử,

thoát khỏi luân-hồi.

- “M ạt-hậu nhất-trước” là việc đại sự thu-viên, tam-giáo quy nhất, vạn pháp quy chân.

- “M ạt-hậu nhất-trước” là thanh trược phân minh, thiện ác phân ban, ngọc thạch phân chia

ngay trong lúc này.

- “M ạt-hậu nhất-trước” là ngàn môn phái quy về một gốc.

Page 20: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 20

sẽ sanh Phật.

Tam-kỳ phổ-độ, thời kỳ thứ nhất là Đạo tại Quân-Vương, thời kỳ thứ hai là Đạo tại Sư-Nho, hiện nay là tam-kỳ mạt hội, thế phong bị suy tồi, hạo kiếp hoành hành, nếu không nhờ Thiên-Đạo cứu vãn độ hóa người đời, tuyệt nhiên không thể trở lại thời đại Nghiêu Thuấn. Do đó, Đạo giáng thứ dân, chân pháp phổ truyền, hễ ai đắc lấy là thành Đạo, hễ ai chịu tu lấy là thành Phật, thật là một cơ duyên thiên cổ nan phùng!

Page 21: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 21

Bài thứ năm

HIẾU

Từ xưa đến nay, khắp thiên-hạ đều công nhận “Hiếu” là cái đầu tiên của ngũ-luân, và cũng là cái đầu tiên của hàng trăm thứ hành thiện. Hiếu đi đầu, Hiếu là căn bản lớn để lập thân, một nguồn gốc lớn để xử sự; tại vì con người sống trên đời, thân thể tóc da, không có cái nào mà không phải do cha mẹ cho; cái khổ trong thời gian mang thai chín tháng mười ngày, cái ân tình trong thời gian ba năm bú sữa, cực nhọc nuôi dưỡng, ấm no lạnh đói, lời nói ít câu ú ớ, chập chững tập đi, không lúc nào không lắng lo; khi thì chơi giỡn dưới đầu gối, ra vẻ vui cười; khi thì khóc lóc bệnh tật, suốt ngày âu sầu. Khổng-Tử nói: “Phụ-mẫu duy kỳ tật chi ưu”(1) là nói thế đấy! Hễ phận làm con cái, lấy cái gì để an ủi tấm lòng của cha mẹ?

Tấm lòng cha mẹ thương con, từng li từng tí, thương con dạy con, cực nhọc không lời oán trách. Trong lúc thơ ấu, sợ lang thang thiếu dạy dỗ, dễ bị biến chất giống cầm thú, cho nên bắt phải đi học, mong được đi đứng theo nề nếp đàng hoàng, từng giây từng phút, quan tâm không hề bỏ rơi; đến khi lớn lên, trai thì cưới gái thì gả, suy lo nát óc; dạy con cách sinh nhai, mong con sớm thành gia thất; có làm những điều hay thì khen cho, có làm những điều quấy lỗi thì cố tìm cách đỡ cho; con cái nếu hiền từ tài giỏi, cha mẹ được nhờ; con cái nếu nghịch ngợm không ra gì, cha mẹ có ai được nhờ, cái nào cũng đem cực nhọc tới cho cha mẹ mình, làm cha mẹ lo âu ấm ức trong lòng. Liêu-Ngũ-Thi có nói rằng: “Cha sanh ra tôi, mẹ tạo ra thân tôi, ôm ấp tôi, nuôi dưỡng tôi cho tôi lớn lên, dạy dỗ tôi, chiếu cố tôi, cứ tiếp tục lo ra vào đều quan tâm lo lắng cho tôi, lo trong lo ngoài cho đầy đủ sung túc, công ơn này to lớn như lưới trời lồng lộng”. Muốn báo ơn đức này, phận làm con phải biết tỏ lòng hiếu thảo kịp thời, để tận “thiên luân chi lạc”.

Than ôi! Cha mẹ thương con như nước sông chảy dài, con hiếu với cha mẹ như gió thổi trên cây! Những ngày cha mẹ sống trên đời đã không còn bao lâu, nên thương cha mẹ như thương thời gian mỗi ngày, vì ngày tháng trôi qua không bao giờ quay trở lại; cha mẹ già rồi sẽ không có lúc trở lại, cây cối muốn yên tĩnh nhưng gió chẳng ngừng, con cái muốn nuôi dưỡng nhưng cha mẹ không còn nữa, khi đã qua đời mới đem rất nhiều phẩm vật để cúng tế, không bằng phụng sự cha mẹ lúc bây giờ còn sống có phải tốt hơn không? Một ngày cha mẹ còn sống, tỏ lòng hiếu thảo một ngày. Sự khoái lạc trên đời này, không có cái nào hơn được “Thiên luân chi lạc”. Khổng-Tử nói: “Phụ Mẫu chi

(1) “Bổn phận làm con, điều lo lắng nhất là bệnh tật của cha mẹ”.

Page 22: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 22

niên, bất khả bất tri giả”. Một mặt mừng tuổi thọ, một mặt lo sợ cha mẹ bị suy già đi! Phụng sự cha mẹ nếu có thể đầy đủ niềm kính thương, cho dù ăn đậu luộc nước trong, cha mẹ vẫn vui lòng. Xem lại ông Tăng-Nguyên với “khẩu thể chi dưỡng” lại không bằng Tăng-Tử với “dưỡng chí chi thành”. Mạnh-Tử nói ra việc này để nói lên việc phụng sự cha mẹ được giống như Tăng-Tử cung kính cha mẹ già vậy!

Con người chúng ta đến khi hết thời trung niên bước sang tuổi già, hình hài bị co rút, da thịt không còn sáng sủa nõn nà như trước; sức lực bị yếu đi, trung khí bị giảm sút, ngồi nằm không được thoải mái, đồ ăn vào miệng không thấy ngon, đối với mọi thứ đồ vật hay những sự việc đều thấy không được theo ý muốn sở thích của mình. Người giàu có thì không thiếu hụt tiền bạc, có người giúp việc để sai biểu; người nghèo thì không đủ tiền xoay xở, nhìn một dĩa thức ăn đơn giản là đã chảy nước miếng; ba bữa ăn không đủ, trầm trọng hơn là bệnh già liên miên, sầu não tối ngày. Những cái vừa kể là lúc cha mẹ bước vào tuổi già trong tình trạng khổ đau, cho nên phận làm con cái phải có bổn phận phụng dưỡng trong lúc này, cha mẹ nhờ con cũng chỉ trong lúc này đấy! Tục-ngữ có câu: “Ông bà may mắn được một dâu hiếu thảo, còn hơn được một con trai hiếu thảo”, đấy là câu nói mô tả khi nhìn thấy Đạo! Tại vì con trai ở nhà ngày giờ rất ít, tỏ lòng hiếu cũng bị hạn chế, con dâu ở nhà ngày giờ nhiều hơn, tỏ lòng hiếu được thường xuyên. Một điều rất đáng chê trách và cũng rất đáng thương, là có một số nam nữ bất lương, ca xướng khâu hiệu tự do bình đẳng, viện cớ mà lập luận bất hiêu, nhìn cha mẹ như người đi đường; do vấn đề tài sản mà người con thưa kiện người cha, vì luyến ái mà bóp méo lý lẽ để qua mặt cha mẹ; tự cho là văn minh mà không chịu tự xét lại mình như cây cối không có gốc, như nước không có nguồn. Con người nghịch ngợm bất hiếu, Trời Đất không dung chứa, Quỷ Thần không tha, trong ngục-hình có 3.000 hình phạt, không có tội nào lớn hơn so với tội bất hiếu. Con người sống trên đời, bất hiếu với cha mẹ, không bằng cầm thú, có đáng sống làm người không? Hoặc là gian dâm, cờ bạc, cướp giật, tranh giành sống chết về quyền lợi cá nhân; hoặc là cuộc sống xa xí phóng đãng, lang thang, mọi thứ hành vi tồi tệ, cử chỉ thất đức làm cho cha mẹ lo âu, khiếp sợ, đều là những việc thật bất hiếu.

Con người chúng ta nếu bất hiếu cha mẹ, thì tuy rằng có công lớn trên đời, tụng kinh sám-hối, cũng không thể bớt giảm tội lỗi của mình tí nào, vì nguồn gốc do chính mình đã đánh mất; có bao giờ cây cối không gốc mà không bị đổ xuống? Và có bao giờ nước không nguồn mà không bị cạn? Làm con cái là phải có bổn phận hiếu thảo cha mẹ, đó là nguồn gốc lớn để ta lập thân, nếu đã có nguồn gốc thì nhân-đạo tự nảy sinh ra. Chưa bao giờ có hiếu-tử mà đi làm việc bất nhân bất nghĩa, vô lễ vô trí, bất trung bất tín, vô liêm vô sỉ, bất trung

Page 23: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 23

bất độ lượng. Cho nên có câu: “Hiếu thủ ngũ luân nhi tiên bách hành”(1). Chúng ta làm con không được làm những việc nhục mạ đến cha mẹ, mà phải lập thân hành Đạo, hiển thân dương danh, khắc tận trung hiếu, để không bị mất bổn-tánh bẩm sinh, không bị xa rời nguồn gốc lớn của nhân-đạo!

Chúng ta thử nhìn lại các vị Thánh Hiền từ xưa đến nay đều làm nên từ chữ “Hi ếu”, như là Thuấn-đế, Văn-Vương, Võ-Vương, Tăng-Tử v.v... đều là lấy chữ Hiếu đi đầu:

− Văn-Vương, họ Cơ tên là Xương, cha là Vương-Quý, mẹ là Thái-Nhiệm. Lúc Văn-Vương trong thời làm Thế-tử vào triều kiến Vương-Quý, một ngày ba lần: Lần đầu tiên là khi gà gáy canh một, liền y phục chỉnh tề tới trước cửa phòng ngủ, hỏi quan nội thị rằng: “Hôm nay có khỏe không?” Quan nội thị rằng: “Khỏe”, Văn-Vương lại mừng; tới buổi trưa, Văn-Vương lại tới, cũng làm tương tự như buổi sáng; tới tối lại tới, cũng làm như hai lần trước; nếu như không khỏe, Văn-Vương tỏ sắc mặt âu sầu, đi đứng không yên; Ông Vương-Quý có ăn cơm trở lại, thì mình mới chịu ăn cơm, hầu cơm ở kế bên, tất hỏi ấm lạnh ra sao; khi ăn tất hỏi ăn uống ra sao? Chưa thấy có ngày nào tỏ vẻ hơi kém sút, hành động được chí thượng như thế đấy!

− Võ-Vương, tên là Phát, con của Văn-Vương, phụng sự Văn-Vương thật hiếu hết mức, cũng như Văn-Vương phụng sự ông Vương-Quý, ngày nào cũng hỏi thăm sức khỏe ăn uống ra sao; Văn-Vương có bệnh Võ-Vương tỏ vẻ âu sầu, y phục chỉnh tề tới thăm nuôi; Văn-Vương ăn được một chén thì mình cũng ăn được một chén; Văn-Vương có ăn thêm thì mình cũng ăn thêm, lòng thuần hiếu được như thế đấy! Quân-tử rằng: “Văn-Võ Thánh Thánh tương thừa, hiếu đức khả dĩ quán vạn thế vân”.

− Tăng-Tham, tên là Tử-Vĩ, đệ-tử của Khổng-Tử, phụng sự mẹ chí hiếu. Có lần đi vào núi đốn củi, ở nhà có khách tới, mẹ không biết làm sao, mong đợi Tăng-Tham về, nên cắn ngón tay, Tăng-Tham bỗng thấy đau tim, gánh củi về tới nhà, quỳ hỏi mẹ ra sao? mẹ rằng: “Có khách đến gấp quá, nên mẹ cắn ngón tay để nhắc con về”. Có một ngày làm ruộng trên núi Thái-Sơn, trời đang mưa tuyết, cả mấy ngày liền không được về nhà, nhớ cha mẹ của mình, làm bài thơ Lương-Sơn ngâm đọc. Tăng-Tử trồng dưa, lỡ làm rễ dưa bị tổn thương, Tăng-Triết giận, lấy cây đòn lớn tới đánh, Tăng-Tử bị đánh nằm dưới đất, từ từ lết dậy hỏi cha rằng: “Đại nhân lấy hết sức đánh đòn con, được khỏi bệnh tật chăng?”. Khổng-Tử nghe tin, lấy câu cổ nhân thường nói: “Đòn nhỏ hãy chịu, đòn lớn hãy chạy” để trách Tăng-Tử, Tăng-Tử rằng: “Con biết lỗi rồi!”, r ồi tới

(1) Trong trăm cái hành, ngũ luân đi đầu thì mới đạt được chữ Hiếu.

Page 24: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 24

Khổng-môn hành lễ cáo lỗi.

− Mẫn-Tử, tên Tổn-Tử-Khiên, còn nhỏ mẹ chết sớm, cha cưới mẹ ghẻ sanh thêm hai đứa con rất là cưng, chỉ ganh tị với Tổn. Mùa Đông tới, hai đứa con kia được áo bông gòn ấm áp, còn Tổn mặc hoa lư thường mặc. Cha bảo Tổn đi kéo xe, vì thân thể lạnh cứng quá mức nên kéo không nổi, người cha biết được đầu đuôi sự việc, định đuổi mẹ ghẻ đi, Tổn nói: “Mẫu tại nhất tử hàn, mẫu khứ tam tử đơn”, người cha mới thôi ý định ấy, người mẹ nghe được liền hối cải, xem Tổn như là con của mình đẻ ra.

− Trương-Thiện-Huân, tức Văn-Xương Đế-Quân, người Ngô Hội Gian, đời nhà Chu, phụng sự cha mẹ chí hiếu. mẹ sáu mươi tuổi có ghẻ sau lưng, Huân ngày đêm tới thăm viếng, y phục chỉnh tề ngày cũng như đêm không nhắm mắt nghỉ ngơi, hơn một tháng không thấy lành nên dùng miệng mình hút máu mủ ra, thấy hơi bớt. Thầy trị bệnh nói: “Ghẻ độc bám trên xương, không dễ thoát khỏi”. Cách ba ngày lại dùng miệng hút một lần, hút đầy trong miệng, liền nhổ ra xem thấy có chất nhừ nhừ như hạt tấm, rồi dần dần bệnh lành, sau tại chỗ đó bị lõm thịt xuống, Huấn cắt thịt mình nhét vào, bỗng nghe có tiếng từ trên không vang xuống rằng: “Vì con quá thuần hiếu, nên Bề-trên cho mẹ của con tuổi thọ thêm hai kỉ (24 năm)”, mẹ quả nhiên lành hẳn. Về sau có bệnh truyền nhiễm hoành hành, cha mẹ cùng chết mất, Huấn đích thân lo liệu từng cái trong việc liệm táng, giữ bên mộ ba năm, có hai con gà rừng trắng tới đậu trên cây, khi tế cúng thì bay tới ca hót, tế xong thì bay đi.

Page 25: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 25

Phân Biệt Về Chữ Hiếu

Đạo làm con nuôi dưỡng cha mẹ, có thể phân biệt nhiều dạng khác nhau: Nếu chỉ toàn là hạ dưỡng thì là tiểu hiếu, nếu toàn là thứ dưỡng thì là trung hiếu, nếu toàn là thượng dưỡng thì là đại hiếu, nếu toàn là tối thượng dưỡng thì là đại hiếu chi đại hiếu.

− Nói về hạ dưỡng, là “khẩu phúc chi dưỡng”, là cho đủ ăn đủ mặc mọi bề, không thiếu bề chi, là người thế gian khó làm được đấy, gọi là tiểu hiếu.

− Nói về thứ dưỡng, là “thể thân chi chí”, cái nào cha mẹ ưa thích thì mình cũng ưa thích, cái nào cha mẹ kính nể thì mình cũng kính nể, làm cho cha mẹ được yên tâm vui vẻ, gọi là trung hiếu.

− Nói về thượng dưỡng là dẫn dắt cha mẹ theo đường Đạo, thấy có làm việc thiện thì ủng hộ ngay, thấy có phạm lỗi lầm thì nhè nhẹ dịu dàng khuyến cải, làm cho cha mẹ dựng lập được Thánh-đức trên người, gọi là đại hiếu.

− Nói về tối thượng dưỡng, là thêm một bước, thường niệm ân tình cha mẹ, từng giờ từng phút, tuổi thọ của cha mẹ dễ cho kéo dài? Phải dùng phương pháp nào có thể đền đáp ân tình cha mẹ? Phải dùng cách nào có thể kéo dài tuổi thọ cho cha mẹ? Bằng cách nào có thể giúp cha mẹ được thoát khỏi vòng sanh-tử? Bằng cách nào có thể giúp cha mẹ tiêu trừ tội chướng? Bằng cách nào có thể giúp cha mẹ được đi vào Thánh-lưu để sau cùng thành Phật? Thí dụ như khi gặp đao binh kiếp đến, bế cha mẹ chạy trốn vào rừng núi, có thể khỏi bị giặc tìm tới chăng? Trốn dưới nước, có thể khỏi bị giặc tìm tới chăng? Trốn vào hoang dã, có thể khỏi bị giặc tìm tới chăng? Trong đầu óc lăn lóc suy nghĩ, làm sao để cho cha mẹ nhất định được ở nơi an toàn tuyệt đối, gọi là “tối thượng dưỡng”, cũng gọi là “vô thượng dưỡng”, cũng gọi là “siêu thượng nhất thiết thế gian dưỡng”, chẳng lẽ không phải “đại hiếu chi đại hiếu” chăng? Nếu như giết con vật để nuôi cha mẹ, làm cho con vật ôm oán ức trong kiếp tới đòi nợ cha mẹ, không thể cứu cha mẹ khỏi bị đói bằng cách lóc thịt kẻ khác; cũng không thể cứu cha mẹ khỏi bị khát nước bằng rượu bổ ngâm tẩm các loài rắn, như thế là cộng thêm nghiệp nặng cho cha mẹ, làm sao có thể gọi là hiếu thảo? Hoặc nói rằng: ”Sĩ nhân công thành danh toại, quang tông diệu tổ, khả vị hiếu ư?”, câu trả lời rằng: Công thành danh toại hẳn là đủ đấy, nếu nhờ thế mà làm việc thiện, hẳn là đem quang vinh đến cho cha mẹ, nhưng nếu nhờ thế mà làm việc ác, ngược lại là làm nhục cha mẹ phải chăng? Cha của Tần Cối là tể tướng, nếu như sanh vào thời nay, người ta chắc ghét và thù địch nhau, cho nên hiếu-tử đem vinh quang đến cho cha mẹ, không có gì hơn là tích đức, công danh chỉ là điều phụ thôi!

Page 26: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 26

Muốn làm tròn “tối thượng dưỡng” (vô thượng dưỡng), cần phải lập thân hành Đạo, lưu danh hậu thế, cứu cha mẹ siêu phàm nhập Thánh, như thế mới có thể gọi là hiếu lớn nhất đấy! Cổ Thánh Tiên Hiền, Phật-Tổ Bồ-Tát, đều là hành “vô thượng chi đại hiếu”. Như Phật Thích-Ca xuất gia lúc 19 tuổi, rời xa cha mẹ, nếu xem bề ngoài thì hình như là bất hiếu, nhưng kết quả trở thành “Phật-giáo chi Tổ”, dương danh hiển thân, cùng phản hồi Thiên-giới; Nam-Hải Cổ-Phật hủy bối tâm nguyện của song thân (chiêu thân) mà đi tu hành, sau được chứng “thiên thủ thiên nhãn Phật”. Cha mẹ được ban chiếu ân điển, cửu-huyền thất-tổ đồng thăng. Xem từ quan điểm này, các vị Cổ Thánh Tiên Hiền rất hiếm có vợ con bè bạn, hợp gia đoàn tụ, không rời khỏi tình khiên ái tỏa mà có thể chứng quả siêu-sanh chăng? Cho nên người cổ xưa có câu: “Thận chung truy viễn vi chân hiếu, sanh sự dĩ lễ vi thuận thân, nhược dĩ dưỡng thân vi hiếu tận, thân một ngục ưu tử trẩm phân”. Lại nói: “Cung kính kiền thành tức thị kính thân”(1). Tận lực phụng dưỡng cha mẹ gọi là “dưỡng thân”, gọi một tiếng dạ trăm tiếng gọi là “thuận thân”, như thế là hậu-thiên luân thường chi Đạo, có thể nói là đạt được chữ “thuận”. Làm sao đền đáp được ân tình cha mẹ? Muốn đền đáp ân tình cha mẹ, là làm sao cho thoát khỏi nỗi khổ của địa-ngục, phải tu đến mức phản-bổn hoàn-nguyên, công thành siêu bạt cửu-huyền thất-tổ, mới đền đáp được ân tình vô lượng của cha mẹ, mới có thể trọn vẹn chữ “Hi ếu” đấy!

(1) Suốt đời cung kính thành khẩn đối với cha mẹ, mới gọi là kính trọng cha mẹ.

Page 27: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 27

Bài thứ sáu

TÁNH LÝ TÂM PHÁP

- “Tánh-lý” là bổn-lai diện-mục của con người. Có câu nói: “Thiên-mệnh chi vị tánh”.

- “Tâm-pháp” là phép tắc để tu thân, tức là phương pháp để chuyển nhân-tâm thành đạo-tâm.

Tánh-lý của con người đến từ Lý-Thiên, sinh tồn trước khi được sanh ra, bắt nguồn từ lúc “tam ngũ kết tụ” (1) nên thuần thiện vô ác, gọi là “bổn nhiên chi tánh”. Và rồi sau khi giáng sanh, Lý-tánh thuần thiện bị khí-bỉnh vật-dục của hậu-thiên che lấp, biến thành “khí chất chi tánh” là có thiện và có ác.

“Bổn nhiên chi tánh” gọi là đạo-tâm, “khí chất chi tánh” gọi là nhân-tâm. Sau khi bị khí câu vật che, dần dần làm cho đạo-tâm thấp kém càng thấp kém thêm, nhân-tâm khôn nguy càng khốn nguy thêm, nếu không bồi thêm công đức tu luyện, mà cứ phóng túng tình dục, lang thang quên về, chắc tới nước “l ạc hoa lưu thủy”, đi rồi không trở lại nữa, quả là rất đáng ghê sợ! Muốn nhân-tâm bị tiêu đi, chuyển khốn nguy thành yên, đạo-tâm được khôi phục lại, từ thấp kém chuyển thành cao siêu, tất đợi chân-sư truyền thụ, rồi biết cách bắt tay vào, tìm lấy con đường cứu cánh phải đi, mới có thể đạt tới “minh thiện

(1) Từ thuở mênh mông mờ mịt chưa chia, trời đất còn là một khối hỗn độn, mặt trời mặt trăng

chưa phân, lúc đó khí tiên thiên vô tận, Thánh Phật Tiên hòa hợp chung cùng một thể, tỏa chiếu

vô lượng hào quang xoay chuyển hư không được gọi là: “Ng ười trên cõi mịt mờ” (Huyền huyền

thượng nhân) hay “Vua Trời thuở ban sơ” (Nguyên Thủy Thiên Vương). Bởi địa vị tối cao đó

nên còn được kêu là “Thượng Đế”, là thủy tổ muôn loài vạn vật, hoặc cha Trời mẹ Đất. Vì không

biết tên nên mới gọi là “huyền huyền” (mờ mịt), không rõ gốc rễ nên gọi là “nguyên thủy” (ban

đầu) tức là gốc của Đạo lớn, cõi của không tên. Vận chuyển tới mức tròn đầy thì khí tự nhiên

phân hóa thành “tam thanh” gồm: Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh

Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn. Ba nhân tố “Huyên, nguyên, thủy” cùng chung

một thể, ba cấp bậc khi đã nên sự thì “tam thanh” phân chia biến hóa sang hữu hình, khí thanh

nhẹ bay lên cao hội hợp làm trời, mặt trời, mặt trăng và sự xuất hiện này đã hoàn thành tam bảo.

Thiên Tôn vị ở tam thanh lại biến hóa Ngũ Lão: đông hoa Mộc Công, tây hoa Kim Mẫu, nam hoa

Hỏa Tinh, bắc hoa Thủy Tinh, trung hoa Hoàng Lão, năm lão đã thành, ngũ hành lập xong, khí

trược nặng lắng xuống ngưng tụ thành đất.

Page 28: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 28

phục sơ”, “phản vọng quy chân”. Cho nên tâm-pháp không thể từ văn tự có thể tầm kiếm được, tạm sơ lược thuyết minh như sau:

1. Quan hệ giữa tánh và cuộc sống con người:

Châu-Tử có nói: “Tánh là Lý đấy!”, Lý này tại Thiên gọi là Thiên-lý, khi được phú cho con người thì gọi là Tánh-lý. “Tánh” trong cơ thể con người, là chúa tể của thân thể, cái nghe, cái nhìn, cái nói, cái hành động của con người, hay cảm giác đói, khát, đau, ngứa, ..., thậm chí cả cái động và cái tĩnh của con người đều do “tánh” này làm chủ và điều khiển. Một khi con người chết đi, mọi động tác của cơ thể này liền bị ngưng lại, vì linh-tánh đã rời khỏi xác thân, là xác thân đã không còn chúa tể điều khiển. Cho nên sách Trung-Dung có nói: “Đạo không thể rời bỏ trong giây lát”; tục-ngữ có nói: “Hữu lý tẩu biến thiên hạ, vô lý tất bộ nan hành”. Nói về Đạo, về Lý, cũng đều là chỉ về Tánh đấy thôi! Lại có câu: “Tánh tại nhân tại, tánh khứ nhân vong”. Tổng quát lại lời nói trên, chứng minh được rằng tánh không thể rời khỏi thân người trong giây lát! Nhưng tánh này là một khối hư-linh, không hình không tướng, tuy vốn có trong con người, nhưng hầu như không mấy ai biết được sự tồn tại của nó, làm cho cái “chân” bị u mê rồi đi tầm cái “vọng”, bỏ cái “giác” mà đi theo cái “trần”, lang thang trong khổ hải sanh-tử, nếu không được Minh-Sư chỉ điểm, dù trải qua muôn vạn kiếp, cũng không tìm được ngày ló dạng, thật đáng thương thay!

Từ xưa đến nay, Minh-Sư nan ngộ, chân Đạo nan tầm. Cho nên có câu: “Đạp phá thiết hài vô tầm xứ”. Ta nay ba kiếp có tu, được gặp chân truyền, hãy nên mau tỉnh ngộ, nhìn xuyên thấu mọi thứ, theo Đạo phụng hành, đừng bao giờ gặp duyên mà lại để mất duyên. Trong kinh có nói: “Thiên-đàng Địa-ngục chi phán, chỉ tại mê ngộ chi gian, mê tắc điên đảo vọng tưởng, thị vô minh nghiệp tâm, ngộ tắc chuyển phàm thành Thánh, thị viên minh giác tánh”(1). Nói cách khác, tánh mê thì là chúng-sanh, tánh ngộ thì là Tiên Phật. Từ điểm này cho ta thấy rõ quan hệ giữa tánh và nhân-sanh con người liên quan chặt chẽ biết bao!

2. Tình trạng truyền giao “Tánh-lý Thiên-Đạo” từ xưa đến nay:

Tánh-lý Thiên-Đạo thời xưa chưa được phổ truyền, tam-giáo Thánh-nhân đều là đơn truyền ám điểm, xem lại lời của hai nhà Nho Thích, sẽ hiểu được

(1) “Sự phân biệt Thiên-đàng Địa-ngục, chỉ tại tánh mê hay ngộ, mê thì điên đảo vọng tưởng, đó

là cái nghiệp do tâm vô minh, ngộ thì chuyển phàm thành Thánh, là Tánh được giác ngộ viên

mãn”.

Page 29: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 29

một ít. Theo kinh Phật ghi lại, lúc ban đầu Thế-Tôn tại Linh-Sơn-Hội, cầm bông niêm niêm trước mặt, tất cả nhân thiên bách vạn, đều không biết phải làm sao, chỉ có đại đệ-tử Ca-Diếp mặt tươi mỉm cười, vì đã “tâm” lĩnh “thần” ngộ. Thế-Tôn nói:

“Ngô hữu chánh pháp nhãn-tàng, Niết-Bàn diệu-tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (lời Thế-Tôn dặn lại Ma-Ha-Ca-Diếp)

Sau đó, tôn-giả Ca-Diếp một mình được truyền “Như-Lai chánh pháp nhãn-tàng” gánh thừa “Như-Lai đại-pháp” và Đạo-thống nhà Phật, là tổ-sư đời thứ nhất nhà Phật. Lại xem tiếp Huỳnh-Mai ngũ-tổ nói với lục-tổ Huệ-Năng rằng: “Từ xưa Phật Phật duy truyền bổn thể, Sư Sư mật phó bổn tâm”; lục-tổ cũng có nói: “Tòng thượng dĩ lai, mật truyền phân phó”; và khi lục-tổ thụ pháp ngũ Tô, có điều như: “Tam canh thụ pháp, dụng cà sa che vi, bất lệnh nhân kiến”, v.v..., đều chứng minh chân Đạo chỉ đơn truyền ám điểm, nếu không thì sao gọi là “mật phó”, sao gọi là “mật truyền”, lại còn nói “không cho người ngoài thấy được”? Có thể cho thấy từ xưa đến nay muốn nghe được Đạo cũng là rất khó. Còn về cách nói của Nho môn kinh điển có khoản độ vài điều sau đây:

Tử-Cống nói: “Văn chương của Phu-tử có thể nhận được thính được, Phu-tử ngôn về tánh và Thiên-Đạo không thể nhận được thính được”. Theo lẽ Tử-Cống là Khổng-môn cao đệ, từ Nhan-Hồi, Tăng-Tử trở xuống có thể nói là đứng hàng thứ nhất, nhưng về Tánh-lý Thiên-Đạo, chỉ có thể nghe được nhưng mà không đắc được, thì những người dưới nữa, thử tưởng tượng sẽ ra sao? Lại xem tiếp Khổng-Tử nói với Tăng-Tử rằng: “Tăng-Tham, ngô Đạo nhất dĩ quán chi”, Tăng-Tử rằng: “Vâng”, trong lúc đó, tất cả đệ-tử đều không hiểu ý nói gì, đều ngơ ngác cả, chỉ có Tăng-Tử một người, một mình biết ảo diệu trong đó, nên không có gì là nghi hoặc cả, trả lời lẹ làng. Sau đó Tăng-Tử một mình được Phu-tử độc truyền Tánh-lý tâm-pháp, nhất quán chi truyền, kế thừa Đạo-thống Khổng-môn, người hậu thế xưng là “Tông-Thánh”. Khổng-Tử lại có nói: “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi”, đều là để thuyết minh chân Đạo phải đơn truyền ám điểm.

Tiền-Hiền có nói: “Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn truyền cho Vũ, thế này là nhìn thấy được mà biết được; Vũ truyền cho Thang, Thang truyền cho Văn-Võ, Chu-Công; Chu-Công truyền cho Khổng-Tử, thế này là nghe được và biết được; Khổng-Tử truyền cho Tăng-Tử; Tăng-Tử truyền cho Tử-Tư; Tử-Tư truyền cho Mạnh-Tử, cái này cũng là cái nhìn thấy được mà biết được; Mạnh-Tử về sau tâm-pháp thất truyền”, v.v... Học giả sau này đều biết, nhưng đã nói tâm-pháp thất truyền thì có thể hiểu là tâm-pháp không có ở trong văn tự, nếu

Page 30: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 30

cho là kinh điển văn tự là tâm-pháp thì Ngũ-Kinh, Tứ-Thư hiện vẫn còn tồn tại. Từ Mạnh-Tử về sau, những người tinh thông Ngũ-Kinh, Tứ-Thư, đời đời đều có người hiểu thông suốt, sao có thể nói là tâm-pháp thất truyền? Như vậy có thể biết rằng “chân kinh bất tại văn tự” không phải chỉ nói bằng miệng. Đạt-Ma bửu truyền có kệ văn rằng:

Đạt-Ma Tây lai nhất tự vô,

Toàn bằng tâm ý dụng công phu,

Nhược yếu chỉ thượng tầm Phật pháp,

Bút tiêm trám can Động-Đình hồ.(1)

Xem câu kệ này cũng có thể làm một điều chứng minh đấy.

3. Công sức tu tánh của tam-giáo Thánh-nhân:

Trong quyển Đại-Học, trang đầu có nói rằng: “Đại-học chi Đạo tại minh minh-đức” (2).

“Minh minh-đức” là công sức tu tánh đấy! Tu tánh tức là tu thân, tu thân là như thế nào? “Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm; dục chánh kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý; dục thành kỳ ý giả, tiên chí kỳ tri, chí tri tại cách vật” (3).

“Cách vật” là cách xa khỏi vật-dục đấy! Tức là nói muốn minh minh-đức, (1) “ Đạt-Ma Tây đến không một chữ, toàn bằng tâm ý dụng công phu, nếu như trên giấy tầm

Phật pháp, bút lông chấm cạn hồ Động-Đình”.

(2) Đại là lớn, cái lớn vô ngoại, bao thiên quả địa, tung khắp tam giới, hoành biến thập phương.

Sách Thượng-thư viết: Duy Thiên vi đại (duy có Trời là lớn). Thiên này không phải là trời

xanh mà mắt phàm ta thấy, mà là cái Thiên “vô thanh vô xú” của Thánh Tử-Tư trong sách

Trung-Dung, đó là Vô-Cực Lý-Thiên, tức là Đạo. Nên đại-học là học Đạo.

Muốn học Đạo bước đầu là phải minh tâm. Chữ minh đầu là động từ, có nghĩa là làm cho

sáng tỏ; minh-đức là bản tính mà Thiên phú cho mọi người, Tính này hội đủ chúng lý để ứng

vạn sự. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đều quy tụ trong bản tính thiên-nhiên của ta, ta không hành

nhân nghĩa, không trung tín, không hiếu thảo là bị khí-bỉnh và vật-dục che lấp. Dùng công

phu tu luyện để làm sáng tỏ đức tính cố hữu này gọi là minh minh-đức. Phật giáo gọi là minh

tâm. Chỉ có minh tâm mới có thể kiến tính.

(3) Muốn tu hành bước đầu tiên là phải chánh tâm, muốn chánh tâm bước đầu tiên là phải thành

ý, muốn thành ý trước tiên phải mở rộng hiểu biết, mở rộng hiểu biết tại ở cách vật.

Page 31: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 31

công phu đầu tiên nhất là cách xa khỏi vật-dục, nhưng muốn cách xa khỏi vật-dục, phải “chỉ y Chí-Thiện”, muốn ngưng tại điểm Chí-Thiện, phải đi tầm Minh-Sư chỉ cho biết “Chí-Thiện Bửu-Địa” ở đâu? Và rồi tâm thường gắn bó ở điểm đó, ngưng đậu đó không dời đi, lúc nào cũng niệm nhớ không bỏ rơi, thời gian lâu không thay đổi, công phu thuần nhuyễn, nhân ngã lưỡng vong, vắng lặng yên tĩnh, nhất niệm bất sanh, công phu tới đó thì không cách xa khỏi vật mà vật tự nó bị cách xa khỏi đi. Cho nên nói rằng: “Tri chỉ nhi hậu hữu định, định nhi hậu năng tịnh, tịnh nhi hậu năng an, an nhi hậu năng lự, lự nhi hậu năng đắc”, người nào được như vậy gọi là “Đại-học chi Đạo”, mới thật là đắc ở nơi tâm, minh đức chi công đã đạt được trong tay. Tới cảnh giới này, người được thanh tịnh hoàn toàn, Thiên-lý thuần toàn, hiện ra bổn-lai diện-mục. Cho nên có câu nói rằng: “Vật cách nhi hậu tri chí, tri chí nhi hậu ý thành, ý thành nhi hậu tâm chánh, tâm chánh nhi hậu thân tu”. Người có thể tu thân, tự-tánh đã được minh rồi đấy! Bởi vậy:

− Mạnh-Tử nói: “Tồn tâm dưỡng tánh”.

− Lự-Đình nói: “Duy tinh duy nhất, ưng chấp khuyết trung”.

− Nhà Phật nói: “Nhị lục thời trung, niệm niệm mạc li thi cái”.

− Thế-tôn nói: “Yên tọa nhi tỏa” và “Như thị nhi thị”.

− Quyển Thái-Giáp nói: “Cố thị thiên chi minh mệnh”.

− Khổng-Tử nói: “Học nhi thời tập chi”.

− Quyển Tâm-Kinh nói: “Quan-tự-tại Bồ-Tát”.

− Thái-Thượng Lão-Quân nói: “Vô dục quan diệu, hữu dục quan khiếu”, “Ki ến tiểu viết minh, thủ nhu viết cường, dụng kỳ quang, phục quy kỳ minh”.

... Là đều nói về việc “ngưng tại Chí-Thiện” để tu tánh. Lại như:

− Nhà Nho nói: “Tận tâm tri tánh, chấp trung quán nhất”.

− Nhà Phật nói: “Minh tâm kiến tánh, vạn pháp quy nhất”

− Đạo-gia nói: “Tu tâm luyện tánh, bảo nguyên thủ nhất”.

Tôn chỉ của tam-giáo đều không khỏi tâm tánh hợp nhất. Tâm là Tánh, là Nhất, cũng là cái thể của Đạo; thể của Đạo là nơi “Chí-Thiện Chi-Địa” đấy! Lời nói tuy khác nhau, nhưng lý đều là một.

Tổng quát lại lời dạy của tam-giáo, có thể biết công sức tu tánh của các vị

Page 32: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 32

Thánh, không thể có hai Lý khác nhau. Về danh từ “Chí-Thiện Bửu-Địa”, trong các sách Đạo và kinh điển danh-giáo đều có cách gọi khác nhau của mỗi giáo, thí dụ:

− Nhà Nho gọi “Chí-Thiện Bửu-Địa” là “Minh-Đức Chi-Địa”, “Suất-Tánh Chi-Hương”, “Phương-Tấc Bửu-Địa”, “Đại-Trung Chi-Địa”, “Huỳnh-Trung Thông-Lý”, “Trung-Ương Chánh-Vị”, “Đạo-Nghĩa Chi-Môn”, Linh-Đài Thần-Minh”.

− Nhà Phật gọi “Chí-Thiện Bửu-Địa” là “Linh-Sơn-Tự”, “Vô-Phùng-Tháp”, “Tam-Bửu-Điện”, “Thất-Bửu-Trì”, “Bát-Nhã-Môn”, “Bồ-Đề-Lộ”, “Xá-L ợi-Tháp”, “Vi-Diệu Pháp-Môn”.

− Đạo-gia gọi “Chí-Thiện Bửu-Địa” là “Huyền-Quan-Khiếu”, “Ngũ-Hành-Sơn”, “Thiên-Địa Linh-Căn”, “Huyền-Cái Chi-Môn”, “Chúng-Diệu Chi-Môn”.

− Đạo Jesus gọi “Chí-Thiện Bửu-Địa” là “Thập-Tự-Giá”.

− Hồi giáo gọi “Chí-Thiện Bửu-Địa” là “Ý-Mã-Ni”.

... Muôn ngàn danh hiệu, liệt kê cũng không hết, tạm kể một ít để các vị tham khảo.

Tóm lại, “Tánh-lý tâm-pháp” vốn không có một chữ, tiên Thánh hậu Thánh dĩ tâm ấn tâm, chỉ có thể ý hội, không thể dùng lời nói truyền đạt, văn tự không thể kí thác chân lý, chân lý không có trên giấy, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự mình biết. Muốn rõ ảo diệu trong đó, phải học và làm theo cách tu tánh của Thánh Hiền, thường xuyên giữ cho tâm được thanh tịnh, tìm thể nghiệm nơi bản thân mình, hết lòng cố gắng tham ngộ, thời gian lâu công phu thuần nhuyễn, tự mình sẽ có cảm nhận vô cùng tận.

Page 33: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 33

Bài thứ bảy

PHÂN BIỆT GIỮA CHÁNH ĐẠO - TÀ GIÁO

Trước hết, ta nói về quan hệ giữa cuộc sống con người và tín-ngưỡng. Tôn-Trung-Sơn đã từng nói: “Lòng chúng ta tin tưởng sự việc này có thể thực hiện, cũng như việc dời non lấp biển, chuyện khó như vậy rồi có một ngày cũng sẽ thành công; lòng chúng ta tin rằng sự việc không thể thực hiện, thì cũng như trở bàn tay bẻ cành cây, chuyện dễ như vậy cũng không có thời gian thành công”. Do đó, bất cứ làm việc gì, nếu như không có lòng tin thì cực khổ suốt đời cũng không thể thành công.

Trong kinh có nói: “Tín là mẹ của công đức Đạo nguyên, Tín có thể rời xa khỏi bể khổ sanh-tử, Tín có thể trưởng dưỡng các thứ thiện-căn, Tín là nền tảng cho Bồ-đề”. Trong Thiên-Địa có ngũ-thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Tín có thể thống tứ đoan(1) kiêm vạn thiện; và trong giữa ngũ thường, “trung dã giả thiên hạ chi đại bổn dã”(2), “bổn lập nhi Đạo sanh”(3), cho nên Tín là căn nguyên của Đạo. Khổng-Tử nói: “Dân vô Tín bất lập”(4). Lại nói: “Người nếu không có uy tín, thì không biết phải làm cái gì, giống như xe mà không có bánh xe, thì không có cách gì có thể vận hành”.

Con người chúng ta đầu đội trời, chân đạp đất, cao quý biết bao! Nếu như vô Tín thì hành động trái với đạo đức, nghịch lại Thiên-ý chẳng khác gì cầm thú. Nếu như không thể làm người thì làm sao có thể thành Đạo!

Con người sống trên đời, nếu như không có tín-ngưỡng thì tinh thần không có nơi nương tựa, chắc chắn trống lõng mơ màng, như chiếc ghe không người lái trên đại dương, đi mãi không biết nơi ngừng nghỉ, tương lai không biết ra sao? Nhưng tín-ngưỡng lại do trời do đất do người mà có sự khác biệt. Trong lúc này, vạn giáo đều hưng thịnh, chánh tà đồng hiện diện, sự lựa chọn về tín-ngưỡng không thể không cẩn thận, nếu không đừng có tin bừa tin đại, nghe người ta nói sao thì mình nói theo, thấy người ta vái lạy thì mình cũng vái lạy theo, gặp chùa miếu thì vào thắp nhang, hễ nơi nào có Thần là tới vái lạy, dù là hồ-li-tinh, thần cây, trâu bò, rắn, đá cũng cho là thần-linh mà tới vái lạy. Nhắm mắt tu luyện, rốt cuộc không những không nhận được một tí nào, lại còn bị

(1) Tứ-đoan: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí. Trong bốn thứ này, thứ nào cũng phải có chữ Tín làm đầu.

(2) “Người trung thực sống trong thiên hạ thì có cái vốn rất lớn”.

(3) “Có bổn tánh này thì có Đạo”.

(4) “Người không có uy tín thì không thể đứng chân trên đời được”.

Page 34: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 34

trầm luân trong bể khổ mà không tự biết, thật là đáng thương, đáng tiếc thay! Sau đây, chúng ta cùng nhau nghiên cứu xem giữa chánh Đạo và tà giáo có sự phân biệt ở điểm nào?

~*~*~

A. Chánh Đạo (Chánh Tín)

1. Chánh Đạo có Đạo-thống đời đời tương thừa:

Lúc chưa có Thiên-Địa là đã có cái “Đạo” rồi. Người nguyên thủy mặt là mặt thú nhưng tâm là tâm Phật, thuần thiện vô ác, người và thú cùng sống chung với nhau. Sau đó, tới vua Phục-Hy “nhất vạch khai Thiên”, con người bắt đầu hiểu biết tới “Đạo-tông”. Lúc bấy giờ Đạo giáng nơi Vua Chúa, gọi là “hữu Đạo minh Quân”, đơn truyền độc thụ, pháp bất truyền lục nhĩ, là khẩu truyền tâm-pháp: Vua Nghiêu dựa vào bốn chữ “ưng chấp khuyết trung” là tâm-pháp truyền cho vua Thuấn; vua Thuấn dựa vào mười sáu chữ “nhân-tâm duy nguy, đạo-tâm duy vi, duy tinh duy nhất, ưng chấp khuyết trung” là tâm-pháp truyền cho vua Đại Vũ. Cứ thế cho tới vua Thang, Văn-Vương, Võ-Vương, Chu-Công. Sau tiếp ba đời, Đạo giáng sư Nho, từ đó trở đi Đạo và quyền được tách ra. Khổng-Tử kế thừa Đạo-thống, Khổng-Tử truyền cho Nhan-tử và Tăng-Tử; Tăng-Tử truyền cho Tử-Tư; Tử-Tư truyền cho Mạnh-Tử, từ Mạnh-Tử trở đi, tâm-pháp thất truyền. Ở Trung Quốc chỉ có văn chương mà không có Đạo, ai nấy đều coi trọng văn chương, có câu nói: “Thư trung tự hữu vàng kim ốc, thư trung tự hữu nhan như ngọc” là câu miêu tả hay nhất! Cứ thế cho tới nay, người đời vẫn dựa vào văn chương để khoe khoang với mọi người, thật đáng than ôi!

Nhà Nho kế thừa Đạo-thống, không tiếp tục truyền xuống, sớm đã vào thời Chu-Chiêu-Vương, Thiên-mệnh ám chuyển qua Tây-vực. Tại nước Ấn-Độ, Thích-Ca Văn Phật được giáng sanh, thọ ký nơi Nhiên-Đăng Cổ-Phật, ngồi dưới cội Bồ-Đề 49 ngày, lúc đó trên trời bỗng nhiên có một vì sao xẹt ngang mà ngộ Đạo, kế thừa Đạo-thống, truyền thụ tâm-pháp. Ở pháp hội Linh-Sơn, tay cầm một đóa hoa sắc vàng, niêm trước mắt mà không nói một lời, trước hàng nghìn đệ-tử trong đó có cả Thiên-thần, đều im lặng không một người nào hiểu, chỉ có đại đệ-tử Ca-Diếp ngộ được hàm ý nên mỉm cười, lĩnh hội tâm-ấn, là đời tổ thứ nhất của nhà Phật, sau truyền cho A-Nan, cứ thế truyền tới đời tổ thứ 28 là Đạt-Ma tổ-sư. Lúc bấy giờ, Đạt-Ma Lão-tổ từ xa ngắm nhìn về phương Đông, thấy khí trời có hào quang rực rỡ, là chắc có người đại căn cơ xuất hiện, nên từ phương Tây xa xôi đến Đông-Thổ, muốn độ Lương-Võ-Đế, nhưng đáng tiếc, vua Lương-Võ chỉ thích lo cái bên ngoài, ra lệnh cứ cách năm dặm xây một am (chùa nhỏ), cách mười dặm xây một tự

Page 35: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 35

(chùa lớn), không biết chân tu thật luyện.

Vì vua Lương-Võ cơ duyên chưa đến, nên Đạt-Ma tổ-sư mới chuyển đến Giang Nam, gặp Thần-Quang pháp-sư đang giảng kinh thuyết-pháp, giáo hóa chúng sinh, công đức vô biên, nên có ý định độ Thần-Quang. Tổ-sư đến trước giảng đài, hỏi Thần-Quang rằng: “Thưa Đại Sư, ông đang giảng gì vậy?” Thần-Quang rằng: “Tôi đang giảng kinh thuyết pháp”, Tổ-sư rằng: “Kinh ở đâu? Pháp tại chỗ nào?” Thần-Quang rằng: “Kinh pháp đều ở trên giấy”, Tổ-sư nghe vậy liền cầm cây viết vẽ một cái bánh trên mặt giấy, rồi đưa cho Thần-Quang xem và rằng: “Bánh này tôi tặng Đại Sư ăn cho đỡ đói!” Thần-Quang thấy vậy ngạc nhiên hỏi: “Bánh giấy làm sao cho đỡ đói được?” Tổ-sư đáp rằng: “Bánh giấy không thể đỡ đói, vậy Phật-pháp trên giấy làm thế nào siêu sinh liễu tử được?” Thần-Quang trả lời: “Tuy không được siêu sinh liễu tử, nhưng cũng có thể miễn đi luân hồi”, Tổ-sư lại hỏi: “Có sinh có tử thì sẽ có luân hồi, không miễn được sự sinh tử làm thế nào thoát khỏi luân hồi? Kinh trên giấy vô dụng, những lời thuyết pháp của ông cũng vô dụng, đem đi đốt hết đi!” Thần-Quang nghe vậy phát cáu lên hét to: “Cái tôi giảng là vạn pháp quy nhất, tại sao bảo rằng vô dụng hả?” Tổ-sư lại hỏi Thần-Quang: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy về đâu?” Thần-Quang nghĩ không ra câu trả lời, vô cùng phẫn nộ, liền cầm sâu chuỗi sắt đánh vào mặt Tổ-sư làm gẫy hai chiếc răng cửa. Đạt-Ma im lặng định lui tránh đi ở ẩn, nhưng vì thấy Thần-Quang căn cơ sâu sắc, e rằng mất đi cơ duyên thành Phật, nên âm thầm lấy mười hạt chuỗi của mình, hóa thân thành mười vị Diêm-Quân để điểm hóa Thần-Quang. Thần-Quang đang thuyết-pháp, bỗng thấy mười vị bạch-diện thư-sinh tới nghe giảng. Sau khi giảng kinh xong, mười vị thư-sinh tiến tới cầu kiến nói rằng:

“Chúng tôi đây là Thập-Điện Diêm-Quân, vì ngươi đã tới lúc vô-thường, nay đến trói buộc linh hồn ngươi xuống địa-ngục”, Thần-Quang nghe vậy hết sức kinh hoàng liền hỏi:

“Tôi mỗi ngày thuyết pháp giảng kinh, giáo hóa chúng sanh đã có 49 năm, lẽ nào còn chưa được thoát khỏi địa-ngục, vượt khỏi luân hồi sao?” Diêm-Quân rằng:

“Ngươi chưa được chân kinh chân pháp, vì vậy không thể thoát khỏi sinh tử được”, Thần-Quang rằng:

“Chân kinh chân pháp ai mà có được?” Diêm-Quân đáp rằng:

“V ị Tăng hồi nãy ngươi đánh ấy là vị Tây-Thiên chân Phật, vị ấy có chân kinh chân pháp”. Thần-Quang nghe vậy, liền quỳ lạy cầu xin:

“Xin chư vị Diêm-Quân từ bi tạm tha tôi khỏi chết, để tôi đi cầu vị chân

Page 36: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 36

Phật đó truyền cho tôi chân pháp giải thoát, suốt đời không quên đại ân”.

Khi Thần-Quang khấn cầu quỳ lạy xong, mười vị Diêm-Quân đã biến mất, Thần-Quang liền lạy ơn Thần-Thánh điểm hóa, rồi tập hợp tất cả lại nói rằng:

“Tôi giảng kinh chỉ có thể khuyến các người làm việc thiện, gia đình hòa nhã, nhưng không thể siêu-sanh liễu-tử, giờ đây đường ai nấy đi, tôi đi tầm mạng của tôi đấy!”, rồi nhanh chóng đuổi theo Đạt-Ma, đến Hùng-Nhĩ-Sơn, thấy Tổ-sư ngồi nghiêm trang không lời, Thần-Quang quỳ tại trước mặt sám hối tội lỗi, suốt đêm bất động, tuyết rơi ngập đến lưng. Qua ngày sau, làm động lòng Tổ-sư, Tổ-sư nhướng mắt nhìn nói rằng: “Ngươi tới làm chi?” Thần-Quang nói:

Bất tri đáo để Nhất quy hà

Thị dĩ Thần-Quang bái Đạt-Ma

Thiếu-Lâm quỳ tuyết vi hà sự ?

Chỉ cầu nhất chỉ đóa Diêm-La.(1)

Tổ-Sư nói: “Dục cầu thượng thừa đại pháp, tất tiên khứ tả bàng”(2). Thần-Quang hiểu lầm ý của Tổ-sư, tưởng “tả bàng” (tả đạo bàng môn) là tả bàng (chặt bỏ tay trái), liền cầm dao lên chặt đi bắp tay trái của mình để tỏ lòng thành kính xin được cầu Đạo. Tổ-sư thấy Thần-Quang chân tâm phát hiện, thực lòng sám hối, trí tuệ cao siêu thật đáng khâm phục, nên đặt pháp danh cho Thần-Quang là “Huệ Khả”. Tổ-sư lấy áo cà sa khoác lên người Thần-Quang và truyền Đạo cho, có căn dặn rằng áo cà sa là chứng vật cầu pháp lưu lại cho đời sau. Sau khi Thần-Quang cầu Đạo xong có để lại một bài kệ:

Vạn pháp quy Nhất, Nhất quy hà?

Hùng-Nhĩ-Sơn tiền bái Đạt-Ma

Thủ chắp giới đao tả bàng khứ

Trực chỉ đơn truyền đóa Diêm La.

Là đời tổ thứ hai tại Đông phương. Sau đó là tam-tổ Tăng-Xán, tứ-tổ Đạo-

(1) “Không biết Nhất quy về nơi đâu? Cho nên Thần-Quang bái Đạt-Ma, Thiếu Lâm quỳ tuyết vì

chuyện gì? Chỉ cầu nhất chỉ tránh Diêm-Vương”.

(2) “Muốn cầu thượng thừa đại pháp, trước hết phải diệt sạch mọi ý niệm tả đạo bàng môn và tất

cả dục niệm”.

Page 37: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 37

Tín, ngũ-tổ Hoằng-Nhẫn, lục-tổ Huệ-Năng, thất-tổ Bạch-Ngọc-Thiềm và Mã-Đoan-Dương, bát-tổ La-Úy-Quần, cửu-tổ Huỳnh-Đức-Huy, thập-tổ Ngô-Tử-Tường, thập-nhất-tổ Hà-Liểu-Khổ, thập-nhị-tổ Viên-Thối-An, thập-tam-tổ Dương-Hoàn-Hư và Từ-Hoàn-Vô, thập-tứ-tổ Dao-Hạc-Thiên, thập-ngũ-tổ Vương-Giác-Nhất, thập-lục-tổ Lưu-Thanh-Hư, thập-thất-tổ Lộ-Trung-Nhất (Di-Lặc tổ-sư), thập-bát-tổ Cung-Trường (Tế-Công Hoạt-Phật) Tử-Hệ (Nguyệt-Huệ Bồ-Tát) tiếp thay truyền thụ Đạo-thống chính thức, tức chánh phái. Từ chánh phái mà tự mình đi truyền thụ, gọi là bàng-chi-môn. Hôm nay chúng ta bái được hai vị Sư, là Tế-Công Hoạt-Phật và Nguyệt-Huệ Bồ-Tát, là đời tổ thứ mười tám, đừng xem thường bản thân mình, vì đã chọn được con đường chánh mà đi, khỏi phải khổ công uổng phí đấy!

2. Chánh Đạo nhằm mục đích học theo Thánh Hiền, cứu độ chúng-sanh thoát khỏi khổ hải:

Con người đại đa số là sau khi thắp ba cây nhang, chỉ biết cầu an cầu phúc cho mình mà không hiểu ý nghĩa kính Thần ra sao. Ngày thường không chịu làm một tí việc thiện nào cả, tham tâm vọng cầu, tuy rằng Thần vốn rất từ-bi, cũng khó cho ta được toại nguyện. Các vị Thần-linh được người ta cúng bái tín-ngưỡng, là do người ta nghĩ đến họ trước đây khi còn sống đã bố-thí xả thân cứu người, phổ-độ sanh linh, như Nam-Hải Cổ-Phật cứu khổ cứu nạn, quảng độ chúng-sanh vô số kể; Quan-Thánh Đế-Quân đại trung đại nghĩa, với tâm chí cứu quốc cứu dân. Cho nên khi ta cúng bái họ, đáng lẽ phải học theo những thiện hạnh của họ, theo sau gót chân của họ, khấn cầu Tiên Phật phò-hộ chúng-sanh sớm được thoát khỏi khổ hải, thế mới là cách nghĩ đúng đắn khi ta lạy Thần bái Phật.

3. Chánh Đạo là chân truyền của ngũ-giáo Thánh-nhân:

Được sanh đúng lúc gặp phải chánh Đạo, nên hiểu thông suốt mục tiêu chung mà ngũ giáo cùng theo đuổi:

− Nho giáo: Chấp trung quán nhất, tồn tâm dưỡng tánh - trung hậu.

− Đạo giáo: Bảo nguyên thủ nhất, tu tâm luyện tánh - cảm ứng.

− Phật-giáo: Vạn pháp quy nhất, minh tâm kiến tánh - từ bi.

− Công giáo: Mật khấn thân nhất, tẩy tâm rời tánh - bác ái.

− Hồi giáo: Thanh chân phản nhất, kiên tâm định tánh - nhân-từ.

Những điều trên đây cho thấy rõ tầm quan trọng của tâm và tánh, “vạn pháp do tâm sanh, vạn pháp do tâm diệt, nhất thiết duy tâm tạo”. Lão-tiền-nhân

Page 38: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 38

thường nói: “Giảng Đạo bất li thân, thuyết-pháp bất li tự-tánh. Li thân giảng đạo tức tà Đạo, li tánh thuyết-pháp tức tà pháp” (Trong kinh có nói: “Nhất tự li kinh, tức đồng ma thuyết”). Mạnh-Tử rằng: “Con đường học vấn là không có gì cả ngoài việc cầu phóng tâm(1) mà thôi!” Cho nên chúng ta đã đắc Thiên-Đạo, phải rõ tự-tánh trước, bắt đầu từ Nhân-Đạo, sau đó tinh tiến lên cho hợp với Thiên-Đạo, thì mới là chánh tín.

4. Chánh Đạo có sự chỉ dạy của Thiên-mệnh Minh-Sư:

Tâm tánh là chúa tể của nhân-thân; “Tánh tại nhân tại, tánh khứ nhân vong”; “Phật hướng tánh trung tác”, muốn biết tâm tánh tại chỗ nào, định tại điểm “Chí-Thiện”, là phải được Minh-Sư đích thân truyền pháp môn vô-vi, chỉ cho biết “suất tánh chi hương”, khai mở “Huyền-Quan-Khiếu”, mới có thể siêu-sanh liễu-tử. Minh-Sư là người kế thừa Đạo-thống, phụng Thiên thừa vận, gánh lấy trách nhiệm cứu thế mà giáng trần. một đời Minh-Sư truyền một đời chi Đạo, nếu như không có Minh-Sư giáng thế thì chân truyền này của Thánh-nhân không cách nào tầm kiếm được!

~*~*~

B. Sự Phân Biệt Giữa Chánh Đạo Và Tà Giáo

Chánh Đạo là chân truyền của tam-giáo Thánh-nhân, dạy cho con người biết tu thân lập mạng, học Thánh theo Hiền, truyền thụ Đạo siêu-sanh liễu-tử, nhìn bề ngoài thấy hình như là giản đơn không có chi hết, nhưng nếu có thể nghiên cứu tỉ mỉ và thực hành theo, tự nhiên nhận được diệu lý trong đó. Dù là xuất thế hay nhập thế đều không tách khỏi “Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa”, “cang-thường luân-lý”, đó là chánh Đạo.

Tà giáo chuyên dùng tà thuật để gạt người, đi ngược với lời của Thánh Hiền, không lo tu dưỡng thân tâm, không thực hiện đạo luân thường, không lập công lập đức, hiểu sai lời của Thánh Hiền mà vọng tâm muốn thắng Thiên thành Phật. Hoặc là dùng tà pháp “điểm thạch thành kim”, “rãi đậu thành binh”, “ngồi chiếu thăng mây”, “hô phong hoán vũ” để dụ người có lòng tham vọng, đều là tà giáo đấy!

Tiên Phật có nói: “Đạo có chánh-tà, pháp có khác biệt; nhập tà giáo là tạo nghiệp, ra khỏi vòng tức ông Phật, nhận chân lý khỏi phải buồn lo, để khỏi gặp nạn kiếp”. Thời nay tà thuyết dị đoan nhiều vô số kể, thiên môn vạn giáo, nếu nhận lý chưa được rõ ràng, hoặc trong lòng còn tham vọng, rất dễ bị tà giáo mê hoặc, một khi bị trụy lạc, là đến sau cùng cũng khó rút khỏi, có thể không cẩn

(1) Ý rằng định tâm, không lo nghĩ.

Page 39: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 39

thận ư?

Kinh Kim-Cang có nói: “Tất cả pháp hữu vi như ảo mộng, ảo ảnh, như sương mù và như điện chớp, phải nên nhận xét chúng như thế nào?” Tất cả pháp hữu vi đều là sự hư vọng, tà phép ma thuật, làm sao có thể trường tồn? Do đó chúng ta nay may mắn gặp được chánh Đạo, được Minh-Sư “nhất chỉ”, nên biết Thánh Hiền Tiên Phật không hề có việc “tỏ ẩn hành quái”, Khổng-Phu-tử không tỏ ra lời nói “loạn thần quái lực”, phải tu tâm dưỡng tánh, từ nhân đạo bắt đầu làm nên, và phải thực hiện nhiều ngoại công, có hằng tâm duy trì mới có thể đạo thành Thiên thượng, lưu danh nhân gian, không uổng mất cơ duyên đắc đạo tu đạo.

ooo0ooo

Page 40: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 40

Bài thứ tám

TU ĐẠO CÓ TỨ NAN LÀ SAO ?

Người xưa có nói: “Kẻ tu Đạo nhiều như lông trâu, kẻ thành Đạo hiếm như sừng trâu”. Tại sao khó như thế? Là do có những chướng ngại nghịch cảnh đủ thứ nảy sinh trong quá trình tu Đạo của chúng ta, cản trở không cho chúng ta tiến tới, nay tạm nói sơ về “tứ nan” như sau:

1. Nhân thân nan đắc:

Sao gọi là “nhân thân nan đắc”? Chúng ta được làm người trong kiếp này tự nhận thấy đó là một việc rất dễ, rằng không có gì hay ho cả. Có quan niệm thế này là sai lầm, e rằng chúng ta đa số đều không khỏi có tư tưởng như thế, là vì chúng ta không biết tuổi thọ con người rất giới hạn, từ lúc sanh ra cho tới khi chết đi, thời gian chỉ có vài chục năm, nháy mắt đã trôi qua, uổng công đi một chuyến trên đời, sau khi chết là hoàn toàn không biết đoạn đường về sẽ như thế nào, thật là đáng thương! Người biết giác ngộ thì lại khác, xem mạng sống như giọt sương lúc ban mai, khi nhận được nhân thân này, phải nói là một điều không dễ dàng, quyết định không để uổng phí thời gian!

Lão-tử nói: “Tôi bị nhiễm thân này, tôi thương thân này”. Tại sao lại nhiễm thân này? Tại vì sắc thân này có lục tặc, tức là nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý. Nhãn là mắt, ham về sắc đẹp; nhĩ là tai, ham về tiếng hay; tị là mũi, ham ngửi mùi thơm; thiệt là lưỡi, ham nếm những mùi vị trong thức ăn; thân là thân thể, ham những cảm giác nhục dục, gây khoái cảm; ý là tư tưởng, ham vọng cầu, tham lam. Nếu bị tài sắc bên ngoài tới dụ dỗ, tình thức bên trong đã được mở thông sẵn, nội ngoại giao cảm, cái tâm muốn làm việc thiện nhưng không thể tự chủ được, cái tâm muốn làm việc ác không thể tự kiềm chế lại, tạo ra địa-ngục không đáy, là thân thể này đã bị nhiễm nặng rồi đấy! Do chúng ta thường say đắm trong dòng đời, không có chí nguyện “khắc niệm tác Thánh”, nên ngày ngày toàn làm những việc tạo nghiệp; một khi bỏ lại nhân gian này, lúc đó sẽ bị rơi xuống địa-ngục, hoặc bị trụy lạc làm quỷ đói, hoặc bị trụy lạc làm súc sanh, luân chuyển không ngừng. Cho nên nói tất cả mọi thứ ở trần gian đều không thể mang đi, chỉ có cái nghiệp là theo sát mình, cho nên mới rơi vào con đường luân-hồi. Chúng ta kiếp này may mắn được nhân thân, lúc nào cũng đừng quên rằng “nhân thân nan đắc”, lúc nào cũng có lòng cảnh giác, không dám tạo nghiệp ác, mà phải mượn giả tu chân, dựa vào cái thân này mà siêu cái Tánh này, nếu như không có thân này thì Tánh này làm sao được siêu? Cho nên phải thương cái thân này là vậy đấy! Mới có câu là “nhân thân nan đắc”.

Page 41: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 41

“Nhân vi vạn vật chi linh thủ, Thân vi tam-tài cần phải tu.

Nan tác năng tác công đức tựu, Đắc lưu phương danh vạn cổ thu”.

2. Tam-kỳ nan ngộ:

Vì sao nói “tam-kỳ nan ngộ”? Con người chúng ta đã được nhân thân, nếu không gặp tam-kỳ mạt-kiếp này, Bề-trên khai ân, là lúc đạo kiếp đồng giáng xuống, tuy rằng có nhân thân, cũng uổng công trải qua một cuộc đời. Nếu như con người không gặp được Thiên thời, thì làm sao được ban chiếu Thiên-ân, để đặng đạt-bổn hoàn-nguyên! Như thế phải chăng là “đạp phá thiết hài vô tầm xứ” (1)? Cái gì gọi là tam-kỳ: Đó là Thanh-dương kỳ, Hồng-dương kỳ và Bạch-dương kỳ, còn gọi là tam-dương. Người xưa có nói: ”Khi tam-dương khai thái cũng là lúc Bề-trên mở rộng từ-bi đại khai hồng-ân, cho nên nếu không gặp thời-vận thì cũng như gieo giống vào mùa Đông, làm sao có được thu hoạch?” Cho nên mới nói “tam-kỳ nan ngộ” là như thế đấy!

“Tam-dương khai thái giá từ thuyền, Kỳ mãn số tận đại địa sầu, Nan đắc đắc bửu Phật Tiên hộ, Ngộ thỉ giai kỳ tốc cần tu”.(2)

3. Minh-Sư nan ngộ:

Thiền-tông cho rằng Tâm tức Phật, nhưng Tâm nằm ở đâu? Nếu không có Minh-Sư chỉ điểm, dù có đọc hết thiên kinh vạn điển cũng tìm không ra. Đan-kinh viết: “Nhâm quân thông minh quá Nhan-Mẫn, bất ngộ Minh-Sư mặc cường sai”, dù tài trí thông minh hơn Nhan-Hồi và Mẫn-Tử-Khiêm (hai vị cao đồ của Đức Khổng-Tử), nhưng không gặp Minh-Sư cũng khó mà suy đoán ra được chân-đế của Đạo. Thành thử người xưa một khi ngộ được sinh-tử vô-thường, bỏ cả sự nghiệp và gia đình đi học Đạo, mục đích không ngoài phỏng Minh-Sư tầm khẩu quyết. Minh-Sư là người thừa lãnh Thiên-mệnh của Thượng-Đế để truyền Đạo. Thời nay tam-kỳ phổ-độ, Cung-Trường tổ và Tử-Hệ tổ là hai vị tổ-sư phụng mệnh đức Vô-Cực Chí-tôn thừa kế tổ vị thứ mười tám, phổ-độ tam-tào, dìu dắt chúng-sanh thoát li bể khổ, trở về miền Cực-Lạc, nếu không phải kiếp trước có tu và tổ tiên có đức thì dễ gì gặp được!

Ngày xưa Hiên-Viên Hoàng-Đế đã từng bái 72 vị sư học Đạo, nhưng những vị này chỉ biết cách nhập thế và trị thế, mãi cho đến khi gặp Chân-sư Quảng-Thành-Tử mới đắc Đạo; Thái-tử Tất-Đạt-Đa cũng từng bái qua 7 vị sư,

(1) “Cho dù đi giầy sắt đến mòn lủng cũng khó gặp được Minh-Sư”.

(2) Thời kỳ Bạch-dương có pháp-thuyền, kỳ số đã tận mạt kiếp đã đến Thiên-Địa cũng bi ai, khó

đắc nhưng đắc được thì Tiên Phật gia hộ, gặp thời kỳ này cần phải siêng năng tiến tu.

Page 42: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 42

về sau được thọ kí nơi Nhiên-Đăng Cổ-Phật mới đắc đạo.

4. Chân Đạo nan phùng:

Tại sao gọi là “chân Đạo nan phùng”? Chúng-sanh sống trên trần gian như rơi vào thiên la địa võng, đắm chìm trong bể khổ, mà chân Đạo như pháp thuyền đưa ta bình an vượt qua khổ hải, quý báu biết bao! Thời nay tam-kỳ mạt-kiếp, Bề-trên giáng xuống tam-tai bát-nạn(1), một hiện tượng nguy hiểm xưa nay chưa từng có! Con người chúng ta được nhân thân này, gặp phải lúc tam-kỳ, càng may mắn hơn là gặp được Minh-Sư, nếu như không có chân Đạo này giáng thế, thì cũng không phải là một việc dễ dàng! Chúng ta đã trải qua hơn sáu vạn năm rồi, ngày hôm nay mới theo kịp lúc, thật là ba kiếp có tu mới đặng! Nhưng có một số người, sáng chiều gặp được, lại sáng chiều bỏ đi, chẳng lẽ không làm cho người ta đáng tiếc sao? Khổng-Phu-tử nói: “Sáng nghe Đạo tối chết cũng được” thật không sai tí nào! Sau khi chúng ta đắc Đạo, hãy nên gắng sức đi theo, huống hồ chi lúc này là tam-kỳ, vạn giáo tề phát khắp nơi, cái chân và cái giả lẫn lộn, trắng đen khó phân biệt, nơi nơi đều như vậy. Phật có nói: “Chạm tới rễ gốc là thành Phật thành Tổ, chạm không tới rễ gốc là tu kiểu mù”. Người đắc chân Đạo, nếu không phải Phật duyên thâm hậu, tổ đức dày đặc thì thật khó mà gặp phải. Cho nên nói: “Chân Đạo nan phùng” là như thế đó!

“Chân tánh mê muội nan quy căn, Đạo lộ bất minh nhập mê tân, Nan đắc Minh-Sư chỉ bổn-tánh, Phùng Đạo lập chí siêu phàm trần”.(2)

Vào thời nay, bốn thứ khó đã biến thành bốn thứ dễ, vốn không phải là chuyện đơn giản! Chúng ta không nên xem thường Đạo, nhất định phải tu siêng năng hơn, tinh tấn hơn, trên thì đền đáp Thiên-ân Sư-đức, dưới thì liễu kết hồng-nguyện của mình, để không bỏ lỡ căn duyên tốt đẹp trong kiếp này.

“Tam-tào phổ-độ Thiên-ân long, Phật-tử tu Đạo siêu tổ-tông, Vĩnh li địa-ngục luân-hồi khổ, Miễn tái lũy tích muộn tại tâm.”

(1) Tam-tai: thủy, hỏa, phong; bát-nạn: hạn hán, lũ lụt, đói khát, dịch bệnh, sâu rầy, thú dữ, tinh

quái, quỷ dữ).

(2) Phật tính mê muội khó trở về cội nguồn, đường Đạo bất minh sẽ vào đường mê, khó được

Minh-Sư khai bổn-tánh, gặp Đạo lập chí thoát hồng-trần.

Page 43: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 43

Bài thứ chín

Ý NGHĨA TRÌ CHAY VÀ L ỢI ÍCH

Hồi xưa Vương-Hoa-Tử có nói: “Chay là tề, tề kỳ tâm nhi khiết kỳ thể dả, di cẩn như tố nhi kỉ”.

Cái gì gọi là tề kỳ tâm, tức là nói cái chí luôn giảm bớt dục vọng, coi nhẹ được mất, tách xa khỏi rượu men, để cho cái thân được sạch, không đi lối tà, không nhìn ái sắc, không nghe dâm thanh, không bị “vật dụ”, nhập thất bế hộ, đốt nhang tịnh tọa, như thế mới gọi là trì chay đấy! Nói cách khác, tức là miệng không nói lời phi lễ, không ăn ngũ-huân tam-yếm, thân không làm việc phi lễ, tâm lặng khí hòa, bên ngoài bên trong đều sạch sẽ mới có thể gọi là trì-chay. Nói đơn giản hơn là “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động, phi lễ vật thực”(1), năm thứ đều đủ cả mới là trì-chay thật sự!

Tại vì ngũ-huân, tam-yếm, thuốc lá, rượu men đều là vật làm cho tự-tánh bị hôn mê. Ngũ-huân (hành, tỏi, hẹ, củ kiệu, thuốc lá) được sanh do khí bất chánh của Thiên-Địa, là loại cây có nhiều khí trược, ăn vào làm cho người hôn mê mà tổn thần, làm cho nguyên khí ngũ tạng bị tổn thương (hành hại thận, tỏi hại tim, hẹ hại gan, kiệu hại tì, thuốc lá hại phổi), cho nên người tu Đạo không ăn. Yếm là ăn lâu thấy ớn, tam-yếm (thiên-yếm là các loài chim, địa-yếm là các loài thú, thủy-yếm là các loài hải sản) là động vật đi ngang(2), ăn rồi dễ làm cho nguyên-linh tam bửu bị thương, cho nên người tu Đạo không ăn. Thuốc lá, rượu men làm cho nguyên khí bị hao tổn, là vật làm nguyên-linh bị tổn thương, hút thuốc nhiều dễ gây ung thư phổi, uống rượu nhiều dễ sanh bệnh gan, làm trí óc bị tổn thương. Quan-Thánh Đế-Quân có nói rằng: “Rượu là nguồn gốc đi tới loạn tánh, trí bị tổn, thân mang tội lỗi gây việc chẳng lành, mặt mũi đỏ ngầu, ánh mắt thay đổi, như là ma quỷ tại nhân gian”, cho nên người tu Đạo phải giới bỏ, bởi vì tu Đạo là khử trược lưu thanh, luyện âm bổ dương, nên chay giới là điều quan trọng nhất.

Chúng ta đã tu Thiên-Đạo, cần phải nghĩ lại tới Thiên-tâm. Bề-trên có đức hiếu-sanh, lấy nhân-từ làm căn bản. Nhân là nguồn gốc của mạng, tức là cái căn bản của đức đấy! Nhân cũng là tâm-đức của con người; tâm-đức của con người là lương tâm của con người; lương tâm của con người tức là Thiên-lý; (1) “Không đúng lễ thì không nhìn, không đúng lễ thì không nghe, không đúng lễ thì không nói,

không đúng lễ thì không làm, không đúng lễ thì không ăn”.

(2) Ý nói là những động vật này có độc tố, ăn vào tính tình mình sẽ ngang tàng, làm những việc

trái với đạo lý.

Page 44: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 44

Thiên-lý là nguyên-tánh của con người, “kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội, vô nhân vô ngã”. Cho nên người tu Đạo chúng ta phải lấy nhân-từ làm căn bản, mau mau “thanh khẩu thực chay” để hạp với Thiên-tâm.

Lữ tổ có dạy:

Ngã nhục chúng-sanh nhục

Hình thù Lý bất thù

Hưu lệnh Diêm-Quân đoạn

Tự vấn ưng hà như (1).

Con người chúng ta vốn có mỹ đức ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), cho nên được sánh vai với Thiên-Địa, hợp lại gọi chung là tam-tài, được gọi là “vạn vật chi linh”, nhưng một khi phạm sát giới thì làm cho cái “nhân chi mỹ đức” của con người bị tiêu hủy. Tục-ngữ có câu: “Nhân là cái đầu của ngũ thường, Từ là cái trước của vạn đức”. Chúng ta muốn khôi phục lại nhân-cách hoàn mỹ, hãy nên có cái tâm nhân-từ, không nên sát sanh hại mạng, huống hồ chi đại đức của Thiên-Địa gọi là “hiếu sanh”, đại ác của người đời gọi là “sát sanh”. Tánh-mạng vốn là thứ quý báu nhất trên đời! Sát sanh là việc bi thảm nhất trên đời! Thử hỏi chúng ta có phải vì nhổ một cọng lông mà toàn thân giật mình lên, vì một mũi thuốc cứu (ngãi cứu) mà toàn thân đau khổ, đâu có con vật nào bị giết mà lại không thấy đau khổ? Cho nên Nam-Hải Cổ-Phật có nói:

Phụng khuyến thế nhân tảo thực chay

Nhân tánh vật tánh nhất xứ lai

Nhẫn tâm sát thực đồng bào nhục

Tương tâm bỉ tâm thật khả ai? (2)

Niết-Bàn kinh có ghi: Ca-Diếp bạch Thế-tôn: “Tại sao Như-Lai không dám ăn thịt?”, Phật đáp: “Thiện nam tử, phu thực nhục giả, đoạn đại bi chủng”. Vì Phật thấy vạn vật đều đồng nhất thể nên cấm ăn, cho nên được thiên-hạ tôn là Đấng Chí-Tôn chánh đẳng chánh giác.

(1) “Th ịt mình cũng giống như thịt chúng sanh; hình dạng khác nhau nhưng lý không khác;

muốn đoạn tiệt nẻo đường địa ngục; tự hỏi mình phải biết làm sao?”

(2) “Gặp người nên khuyên sớm ăn chay, nhân tánh vật tánh đều giống nhau, nhẫn tâm giết hại

bao đồng loại, hãy hỏi lòng mình có được không?”

Page 45: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 45

Hồi xưa Chu-Công nói Thành-Vương rằng: “Thuấn chi vi chánh háo sanh nhi ác sát”. Thang-Vương mở lưới ba mặt, có ân huệ với cầm thú. Sách Lễ-Kí có ghi: “Vô cớ không sát sanh, vô cớ không ăn những thứ quý giá, ý nói là không giết chết cái thai, không làm bể quả trứng, không phá hư nơi ở của loài vật”, đều là những đặc trưng cho thấy rõ thương vật ra sao!

Thí dụ: Các loại trứng ắp sắp có sự sống ra đời, chúng ta không thể nấu ăn, tại vì nó đến đầu thai để liễu tội (đền tội), nấu để ăn là hại nó không thể liễu tội, những tội lỗi đó sẽ chuyển qua những người nấu và người ăn gánh chịu. Bởi vậy nghiệp sát thai, phá noãn vô cùng nặng, những người có trí huệ cần cố gắng tránh bỏ.

Khổng-Tử nói: “Vạn vật đồng nhất thể”; l ại nói: “Quân-tử vô chung thực chi gian hủy nhân” (1). Nhan-Uyên hỏi: “Nhân là gì?”, Khổng-Tử đáp: “Khắc phục mình hợp với lễ gọi là nhân”.

Thế này là dạy người ta không nên có cái tâm riêng tư, phải suy nhớ tới Bề-trên luôn với đức hiếu sanh, học theo Thánh Hiền làm việc “tế nhân lợi vật”, thường xuyên nguyện thiên-hạ thái bình, như thế mới gọi là nhân-đức đấy! Sách Trung-Dung có nói: “Vạn vật sống nhờ với nhau, không hại lẫn nhau”, nếu không trì-chay và giới sát thì làm sao có thể sống nhờ nhau mà không hại nhau? Giết hại mạng sống con vật, làm tổn thương cái nhân-đức sinh dưỡng vạn vật của Trời Đất, làm sao có thể trọn “vật tánh”, giúp sự tiến hóa cho đặng?” Thầy Mạnh-Tử nói: “Nhìn nó sống không nhẫn tâm thấy nó chết; nghe nó kêu không nhẫn tâm ăn thịt nó”.

Vào thời nhà Đường, ông Nhan-Chân-Khanh, Bạch-Cư-Di cùng tâu trình Hoàng-Thượng xin xây cất hồ phóng-sanh để tiện lợi dân chúng giới sát phóng-sanh. Châu-Tử có nói: “Trời Đất không chỉ sinh dưỡng vạn vật, mà lúc nào cũng nhớ tới hiếu sanh lợi tế, đó là việc của Thiên-Địa đấy!”

Những gì vừa kể trên cho ta thấy rằng: Thánh Hiền nhà Nho không có khi nào không chủ trương phải “thanh khẩu trường chay”, nhưng lúc đương thời Khổng-Tử là một người không có quyền, không có địa vị, để tránh sự mỉa mai của người khác, cho nên nói đến điểm nào quan trọng thì dùng những lời ẩn ý mà thôi! Thử xem lại sách Luân-ngữ có ghi cách ăn uống như thế nào cho phù hợp vệ sinh, trong đó có hàm ý trì-chay đấy! Như có đoạn rằng: “Đi quán rượu đem món ăn về không ăn, sắc ác không ăn, ngửi mùi vị không lành mạnh không ăn, chưa nấu không ăn, không đúng lúc không ăn, cắt không ngay(2) (1) “Người quân-tử trong lúc ăn không bao giờ phạm vào cái bất nhơn”.

(2) Cắt không ngay: ám chỉ ăn tàu hủ vì chỉ có tàu hủ là cắt được thật ngay mà thôi!

Page 46: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 46

không ăn”. Khi Quý-Khang-tử yến tiệc đãi Khổng-Tử, Khổng-Tử cho biết: “Bất nhục nhi thực” (không có thịt thì ăn). Lại như Khổng-Tử trong một tháng ăn chay ba ngày, ngoài ra còn có ăn tán chay (ăn lẻ tẻ) bảy ngày, và Khổng-Tử rất thận trọng về chay, chiến, tật đủ chứng minh rằng Khổng-Tử chay giới là điều không thể nghi ngờ!

Ông Tôn-Trung-Sơn thường nói: ”Nước ta là một trong bốn nước tứ đại văn minh cổ quốc, trên thế giới, tới nay chỉ có Trung quốc chúng ta không bị diệt vong, suy tầm nguyên nhân, thấy công lao của miếng đậu hủ này thật là không nhỏ bé”; lại nói: “Trung quốc không những là về những thực phẩm được sáng chế, về mùi vị ngon miệng trong cách nấu ăn, ăn uống thường ngày của người Trung Quốc cũng tự nó có tính chất hạp với khoa học vệ sinh. Các dân thường Trung Quốc uống thanh trà, ăn cơm trắng với đồ ăn là rau cải đậu hủ, ăn uống như thế được các nhà vệ sinh hôm nay suy tầm ra là hữu ích nhất cho vấn đề dưỡng sinh. Cho nên ở những làng hẻo lánh tại Trung Quốc, ăn uống không có rượu thịt, thường có những người cao thọ; lại nữa, Trung Quốc có số người đông đúc, là do người Trung Quốc có sức chống dịch hầu như cường mạnh cả. Người ăn chay chắc có ăn đậu hủ, món vật này đều có công năng như món thịt, mà lại không có chất độc của món thịt”; l ại nói: “ăn chay là cách diệu thuật để tăng thêm tuổi thọ, đã được sự công nhận của các nhà khoa học, nhà vệ sinh học, sinh lý học, y học ngày nay”, đủ cho thấy ông Tôn-Trung-Sơn vốn là một bác sĩ tây y, nhưng cũng đề xướng ăn chay.

Từ những lời vừa kể, chúng ta có thể biết từ cổ xưa tới nay, Thánh Hiền đều là ăn chay cả. Hơn nữa, sát sanh cũng không phải bổn nguyện của các vị Thánh Hiền Tiên Phật. Như Ngộ-Chân-Tử có nói: “Từ xưa tới nay người thành Tiên thành Phật đều là biết suy nhớ tới Bề-trên có đức hiếu sanh, có thể làm trọn việc cải tạo lại mình cho hạp với lễ, công đức vô lượng, mới có thể thành chánh giác”. Chúng ta là người tu Đạo, phải trì-chay giới, cần phải đưa cái đức hiếu sanh đi đầu, để cái tâm biết thương yêu động vật.

Trì-chay có những lợi ích gì?

1. Có thể bồi dưỡng cái tâm từ-bi:

Cổ nhân nói: “Nhan-tử ăn chay không ăn mặn, Khổng-Tử ăn rau cải và canh cải”. Người ăn thịt thì thô thiển, người ăn chay có trí huệ. Miếng thịt vào thân thể gây ra sự cuồng si, rau quả tươi tế bái thần linh sạch sẽ và thanh khiết, tại sao phải dùng đến những thứ có mùi tanh như thịt dê bò để cúng? Tế bái Trời, Trời ghét, tế bái Thánh-nhân, Thánh-nhân bi thương! Nào có Thánh-nhân và Trời nào cho sát là việc tốt, và xem mùi tanh hôi của thịt là thơm ngon đâu? Chim phượng-hoàng không ăn vật có mạng sống, nên được gọi là thánh-cầm;

Page 47: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 47

kỳ-lân không nhẫn tâm dùng chân dẫm lên vật có mạng sống, nên gọi là thánh-thú. Cầm thú còn có cái tâm nhân-từ huống hồ chi là con người!

2. Có thể giúp ta tự-tánh quang minh:

Tiên-thiên chi-tánh vốn là chí thanh, không cho có trược khí hợp vào, nếu có trược khí nhiễm vào, tự nó sẽ loạn lên mất đi “bổn chân”, cho nên người tu Đạo phải khử trược lưu thanh, luyện âm bổ dương mới có thể khôi phục lại bổn-tánh, làm cho nó được sáng suốt lên, cho nên đối với các món như ngũ-huân, tam-yếm, thuốc lá, rượu men đều phải cố gắng lo trừ bỏ đi, nếu để tha hồ tùy sở thích chỉ vì tham về khẩu phúc, tùy ý sát sanh, tự tạo nghiệp-chướng, làm sao có thể thành Đạo?

3. Có thể miễn đi nhân-quả báo ứng:

“Giết mạng nó, trả lại mạng nó, lý này là nhất định. Mượn người ta tiền bạc, chắc chắn phải trả, lý này rõ nhất. Người ta hại mình, mình không phục đánh lộn cãi nhau, mình hại người ta chẳng lẽ người ta chịu dung tha?” Cho nên sau khi trì-chay, không trồng thêm cái nhân thì miễn đi quả báo, nếu như không trì-chay, nghiệp-chướng chưa hết làm sao thoát khỏi luân-hồi? Không giữ giới, gốc mạng không vững, làm sao liễu sanh-tử? Tục-ngữ có câu: “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, đa tu đa đắc, thiếu tu thiếu đắc, đồng tu đồng đắc, không tu không đắc”, nếu như bạn tu được công, người khác muốn phân chia cũng không được; nếu như tạo tội, người khác muốn thế cũng không được. Cho nên muốn khỏi nạn địa-ngục, phải trừ cái ác tâm; muốn khỏi trụy đạo ngã quỷ, sớm bỏ gian tham; muốn khỏi trụy đạo súc sanh, đừng ăn thịt súc sanh; muốn đắc nhân thân, tiên học hiếu-từ; muốn sanh tại Thiên-đàng, phải giữ ngũ giới; muốn thành Phật đạo, phải dụng minh tâm trước, nếu minh tâm thì nhân-quả bất muội, kiến tánh thành Phật là điều khỏi phải nghi ngờ. Chúng ta thử xem sự hình thành của tam-kỳ mạt-kiếp, chẳng lẽ không phải do nhân và súc ăn trả nhau, lũy tích mà thành sao? Có bài thơ cổ xưa rằng:

Thiên bách niên lai điệp trung nhục

Oán thâm thị hải hận nan bình

Dục tri thế thượng đao binh kiếp

Đản thính đồ môn dạ bán thanh(1).

Lại có câu rằng: “Con cháu cưới bà nội, lục thân nấu chung chảo, heo dê (1) “Từ xưa đến nay thịt trong chén; oán hờn sâu như biển khó được yên; muốn biết chuyện đao

binh trên cõi thế; thì nghe âm thanh đồ tể lúc nửa đêm”.

Page 48: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 48

lên bàn tiệc, con đánh trống da như đánh cha...”, ý nói ông bà đầu thai làm người, con cháu không biết cưới về làm vợ; tổ tiên thân thuộc kiếp trước tạo nghiệp đầu thai động vật, con cháu nấu để ăn, thịt dê và thịt heo đều bày trên bàn tiệc; người cha đầu thai làm động vật bị lột da làm trống, con không biết đã đánh trống bằng da của cha mình. Tu-Chân-Lục có nói:

Nhục tự bổn thị lưỡng cá nhân

Mê nhân bất tri đại khẩu thân;

Thực y bán cân hoàn bát lượng

Toán lai hoàn thị nhân thực nhân.(1)

Chữ Hoa, chữ “nhục” 肉, vốn là hai chữ “nhân” 人 , người mê muội thế gian không biết cứ nuốt vô miệng, ăn nửa cân là phải trả tám lượng, tính ra cũng là người ăn người.

4. Có thể hành công lập đức, tiêu oán giải nghiệp:

Thiên sanh vạn vật, vạn vật đều là con của Bề-trên, vạn sự vạn vật đều đồng quy nhất lý, cho nên nếu có thể trì chay thì trong vô hình đã cứu biết bao nhiêu sinh mạng, cũng có thể giải oan cùng lục súc, công đức thật vô biên. Hơn nữa, sau khi trì-chay lâu dài, sẽ làm cho thân thể của ta sạch sẽ, Tiên Phật dễ tới phò-hộ, không bị rơi vào kiếp nạn; đồng thời làm cho linh thể thanh khiết, Tiên Phật dễ tới vận dụng, mượn nó mà kiến lập công đức. Chúng ta gần gũi với Tiên Phật, nên trong vô hình tự nhiên tăng thêm diệu trí tuệ cho chúng ta, cho nên nếu có thể trì-chay giới sát, là có công lao hạng nhất. Huống hồ chi nay gặp lúc tam-kỳ, là tổng thanh toán, thăng lên hoặc giáng xuống là trong khoảnh khắc này, là kỳ đại phán xét cuối cùng, có công thì được phán tốt, vạn bát(2) vinh diệu; không có công thì bị phán không tốt, vạn bát(1) khổ não; có tội thì bị đào thải gặp nạn, linh-tánh bị hủy diệt. Cho nên nói thành Phật, thành tổ là do mình làm ra, sau này bị nạn kiếp là do mình tự chọn lấy. Do đó, chúng ta là người tu Đạo, trì-chay là để tích công chuộc tội đấy!

5. Có thể làm cho thân thể khỏe mạnh, tăng thêm tuổi thọ:

Trong ba ngày mở pháp hội, Viện trưởng có lời huấn: “Mãn phục trược khí nan thăng thiên, tự cổ kinh điển hữu định bình, khoa học lý luận tương đối

(1) “Chữ nhục vốn là hai chữ nhân, người mê không biết há họng ăn, ăn nó nửa cân hoàn tám

lượng, tính đi tính lại người ăn người”.

(2) Mười ngàn tám trăm năm.

Page 49: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 49

chứng, bất tín các vị xét phân minh. Nhật hậu thế giới tương canh tân, tận lưu thực tố trì-chay nhân, nhất thiết ngũ-huân chi thực vật, tề tề tảo tận căn bất sanh. Phi thị vi huynh hồng các vị, khoa học trường biến hữu chứng minh. Khích lệ thực chay vi tánh-mạng, các vị thực chay từ-bi sanh, tỉnh nội thủy oa bất tri tình; nhật nhật sát sanh hại tánh-mạng, ác khí chiêu lai ác bệnh tật, bất tri căn bản trị liệu, chỉ tri cầu y sanh, y sanh nan giải oan nghiệp bệnh, tự tác tự thụ mạng tự khuynh. Tiểu kê hoàn tri yếu cáo trạng, hà huống khuyển chư dương ngưu khởi dung tình? phi thị vi huynh thoại ngữ cương, thật thị thời thế bất dung tình” (1).

Căn cứ kết quả của các nhà khoa học, người ăn chay khí huyết thanh, trí óc lanh lẹ, thần trí thanh, sức bền dai rất khá, sự phát dục cơ thể chậm, sự suy già cũng chậm, có sức đề kháng bệnh tật rất khá; người ăn mặn thì ngược lại hẳn. Theo lời như thế, miếng thịt trong chén có oán tình sâu như biển, miếng thịt gắp trên đũa có mối hận thậm sâu khó đặng, thì sau khi ăn vào, ngoài việc day dưa thêm nỗi oan-nghiệp, có được cái gì trong việc tẩm bổ?

Tóm lại, Phật có nói: “Chúng-sanh giai hữu Phật tánh”, chỉ vì nó bị si mê trong kiếp trước, tạo ra tội ác, kiếp này chuyển làm súc sanh để trả quả, làm cho nó chịu khổ để liễu tội mà thôi, nay ta giết nó, xẻ ngực nó ra, cắt, đâm, cạo, chặt, nấu, xào, chiên, nướng để vừa miệng ta, cho ta no bụng, làm cho ta da đẹp lên thêm, cho ta mập lên, thử hỏi Thiên-lý ở đâu? Lương tâm ở đâu? Cho nên Phật có lời dạy rằng: “Dựa vào ta có thế mạnh mà ăn hiếp kẻ yếu, e rằng không hợp lý; ăn thịt nó nuôi thân ta, lương tâm nào được yên?”. Tội nghiệt sanh sanh tử tử đời đời kiếp kiếp của ta làm sao được cứu vãn? Phương pháp chủ yếu là hãy nên “thanh khẩu trường chay”, vì hiện giờ đang lúc tam-kỳ mạt-kiếp, Bề-trên đại khai từ-bi, chỉ cần là người có lập chí thanh khẩu thì “ti ền trái tích nghiệp” của họ được tạm để qua một bên, đợi họ hành công lập đức thì sẽ triệt tiêu. Nếu không chịu như thế, một mặt “hành công chuộc tội”, (1) Trược khí đầy mình khó trở về Trời, từ cổ chí kim kinh điển có ghi lại, khoa học có thể đem

đối chứng, không tin các vị cứ xem xét cho rõ ràng; sau này thế giới càng tân tiến hơn, cuối cùng

chỉ còn lại những người thanh khẩu trường chay; người ăn mặn đến khi mạt kiếp, quét sạch gốc

rễ cũng không còn, không phải lừa dối hay gạt các vị, khoa học đã có chứng minh, cổ vũ ăn chay

vì tánh mạng, ăn chay phát sanh lòng từ-bi, con ếch dưới giếng đâu biết chuyện, ngày ngày giết

hại bao nhiêu mạng, thân trược nhiều thì mang bệnh nan y, không biết nguồn gốc để chữa trị, chỉ

biết cầu bác sĩ, bác sĩ khó giải oan nghiệp bệnh, tự làm tự chịu số mạng yểu, gà con còn biết đi

thưa kiện, chó heo dê trâu há dung tình? Không phải lời nói trên cứng rắn, mà thật sự thời thế

bất dung tình.”

Page 50: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 50

một mặt “sát sanh tạo tội”, không bổ ích bề chi cả, y hệt như “bịt tai trộm chuông” đấy! Mong rằng các vị hãy mau mau nhận cho rõ, đừng có chỉ lo miếng ăn. Nếu như có thể như thế mà làm, đồng thời giúp cho hậu-học và gia đình của mình, giúp cho người chưa thanh khẩu cũng được thanh khẩu, người chưa lập nguyện được lập nguyện, sau này đều có thể thoát qua mạt-kiếp, linh-tánh được trở về cội nguồn, đến khi tam-nguyên-hội, Thần Nhân cùng hưởng lạc, cả nhà đoàn tụ, mới không uổng cơ duyên tốt đẹp lần này chúng ta đã gặp được.

ooo0ooo

* * * * TTTTếếếế----C“ng HoC“ng HoC“ng HoC“ng Hoạtạtạtạt----PhPhPhPhật từ huấnật từ huấnật từ huấnật từ huấn::::

¹Đ¹Đ¹Đ¹Đạo ạo ạo ạo ---- Bšn đBšn đBšn đBšn đạo chỉ c’n c‚ hai nạo chỉ c’n c‚ hai nạo chỉ c’n c‚ hai nạo chỉ c’n c‚ hai năm năm năm năm nữa th“i, bảy bảy bốn ữa th“i, bảy bảy bốn ữa th“i, bảy bảy bốn ữa th“i, bảy bảy bốn mươi ch˝n ngšy kh“ng xa x“i nmươi ch˝n ngšy kh“ng xa x“i nmươi ch˝n ngšy kh“ng xa x“i nmươi ch˝n ngšy kh“ng xa x“i nữa ữa ữa ữa đŽu, mđŽu, mđŽu, mđŽu, mỗi ngỗi ngỗi ngỗi ngưưưười ch…ng ta ời ch…ng ta ời ch…ng ta ời ch…ng ta đđđđều ều ều ều c‚ thc‚ thc‚ thc‚ thể tận mắt tr“ng thấy ể tận mắt tr“ng thấy ể tận mắt tr“ng thấy ể tận mắt tr“ng thấy đưđưđưđược. L…c ợc. L…c ợc. L…c ợc. L…c đ‚ ch…ng ta lo Žu tđ‚ ch…ng ta lo Žu tđ‚ ch…ng ta lo Žu tđ‚ ch…ng ta lo Žu tới nỗi ới nỗi ới nỗi ới nỗi cơm ăn ccơm ăn ccơm ăn ccơm ăn cũng kh“ng v“, ngủ cũng kh“ng ũng kh“ng v“, ngủ cũng kh“ng ũng kh“ng v“, ngủ cũng kh“ng ũng kh“ng v“, ngủ cũng kh“ng đưđưđưđược, những vị nšo ợc, những vị nšo ợc, những vị nšo ợc, những vị nšo kh“ng c‚ thanh khkh“ng c‚ thanh khkh“ng c‚ thanh khkh“ng c‚ thanh khẩu trẩu trẩu trẩu trưưưường chay ờng chay ờng chay ờng chay đđđđều sẽ gặp kiếp nạn, trừ phi ều sẽ gặp kiếp nạn, trừ phi ều sẽ gặp kiếp nạn, trừ phi ều sẽ gặp kiếp nạn, trừ phi ngưngưngưngười ời ời ời đ‚ c“ng đđ‚ c“ng đđ‚ c“ng đđ‚ c“ng đức quŸ lớn, nếu kh“ng th˜ kh“ng thể nšo trŸnh ức quŸ lớn, nếu kh“ng th˜ kh“ng thể nšo trŸnh ức quŸ lớn, nếu kh“ng th˜ kh“ng thể nšo trŸnh ức quŸ lớn, nếu kh“ng th˜ kh“ng thể nšo trŸnh kikikikiếp khỏi nạn ếp khỏi nạn ếp khỏi nạn ếp khỏi nạn đưđưđưđược. D• ợc. D• ợc. D• ợc. D• đang tu đđang tu đđang tu đđang tu đạo ạo ạo ạo đang bšn đđang bšn đđang bšn đđang bšn đạo, nếu kh“ng ạo, nếu kh“ng ạo, nếu kh“ng ạo, nếu kh“ng c‚ thanh khc‚ thanh khc‚ thanh khc‚ thanh khẩu trẩu trẩu trẩu trưưưường chay vẫn kh“ng thể trŸnh khỏi. Ngờng chay vẫn kh“ng thể trŸnh khỏi. Ngờng chay vẫn kh“ng thể trŸnh khỏi. Ngờng chay vẫn kh“ng thể trŸnh khỏi. Ngưưưười ời ời ời kh“ng ăn trưkh“ng ăn trưkh“ng ăn trưkh“ng ăn trường chay, ờng chay, ờng chay, ờng chay, đđđđến l…c ến l…c ến l…c ến l…c đ‚ thđ‚ thđ‚ thđ‚ thịt tịt tịt tịt tr˚n thŽn thr˚n thŽn thr˚n thŽn thr˚n thŽn thể giống nhể giống nhể giống nhể giống như ư ư ư ththththịt gš x˙ phai, nhịt gš x˙ phai, nhịt gš x˙ phai, nhịt gš x˙ phai, như thư thư thư thịt heo chš b“ng vš thối rữa, ịt heo chš b“ng vš thối rữa, ịt heo chš b“ng vš thối rữa, ịt heo chš b“ng vš thối rữa, đau tđau tđau tđau tới ới ới ới kh“ng mukh“ng mukh“ng mukh“ng muốn sống, tošn thŽn bị x˙ nŸt mới chết. ènốn sống, tošn thŽn bị x˙ nŸt mới chết. ènốn sống, tošn thŽn bị x˙ nŸt mới chết. ènốn sống, tošn thŽn bị x˙ nŸt mới chết. èn----sư tisư tisư tisư tiết lộ ết lộ ết lộ ết lộ thi˚nthi˚nthi˚nthi˚n----cơ lš mucơ lš mucơ lš mucơ lš muốn ch…ng ta mau mau ốn ch…ng ta mau mau ốn ch…ng ta mau mau ốn ch…ng ta mau mau đđđđộ những ngộ những ngộ những ngộ những ngưưưười c‚ duy˚n, ời c‚ duy˚n, ời c‚ duy˚n, ời c‚ duy˚n, thšnh tošn đthšnh tošn đthšnh tošn đthšnh tošn đạoạoạoạo----thŽn ăn chay, thithŽn ăn chay, thithŽn ăn chay, thithŽn ăn chay, thiết lập Phậtết lập Phậtết lập Phậtết lập Phật----đưđưđưđường, gấờng, gấờng, gấờng, gấp r…t p r…t p r…t p r…t mš timš timš timš tiến l˚n. V˜ lửa ến l˚n. V˜ lửa ến l˚n. V˜ lửa ến l˚n. V˜ lửa đđđđž chŸy ngang mši, kh“ng muž chŸy ngang mši, kh“ng muž chŸy ngang mši, kh“ng muž chŸy ngang mši, kh“ng muốn thấy ch…ng ốn thấy ch…ng ốn thấy ch…ng ốn thấy ch…ng ta c’n m˚ muta c’n m˚ muta c’n m˚ muta c’n m˚ muội, ội, ội, ội, đđđđắm m˚ nữa. Bềắm m˚ nữa. Bềắm m˚ nữa. Bềắm m˚ nữa. Bề----tr˚n mtr˚n mtr˚n mtr˚n mấy nấy nấy nấy năm nay đăm nay đăm nay đăm nay đž c‚ ž c‚ ž c‚ ž c‚ ccccảnh giŸc ch…ng ta, c‚ thể tu c‚ thể bšn ảnh giŸc ch…ng ta, c‚ thể tu c‚ thể bšn ảnh giŸc ch…ng ta, c‚ thể tu c‚ thể bšn ảnh giŸc ch…ng ta, c‚ thể tu c‚ thể bšn đđđđạo th˜ phải mau ạo th˜ phải mau ạo th˜ phải mau ạo th˜ phải mau mau mau, tai kimau mau, tai kimau mau, tai kimau mau, tai kiếp giŸng xuống nhiều lần thảm thếp giŸng xuống nhiều lần thảm thếp giŸng xuống nhiều lần thảm thếp giŸng xuống nhiều lần thảm thương kh“ng ương kh“ng ương kh“ng ương kh“ng ththththể n‚i ể n‚i ể n‚i ể n‚i đưđưđưđược, ch…nợc, ch…nợc, ch…nợc, ch…ng sanh chưa đg sanh chưa đg sanh chưa đg sanh chưa độ tận th˜ ch…ng ta lšm sao ộ tận th˜ ch…ng ta lšm sao ộ tận th˜ ch…ng ta lšm sao ộ tận th˜ ch…ng ta lšm sao y˚n l’ng y˚n l’ng y˚n l’ng y˚n l’ng đưđưđưđược?ºợc?ºợc?ºợc?º

PhŸpPhŸpPhŸpPhŸp----hhhhội tại TŽnội tại TŽnội tại TŽnội tại TŽn----TŽyTŽyTŽyTŽy----LanLanLanLan

Page 51: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 51

Bài thứ mười

LÀM SAO ĐỂ TIÊU OÁN GIẢI NGHI ỆT ?

Sanh-tử cốt như sơn

Nhân quả phục tuần hoàn.

Dục tiêu oán-nghiệt trái

Hoàn đương đức vi tiên.(1)

“Con người từ thời nguyên-thủy lúc bắt đầu cho tới nay đã có sáu vạn mấy trăm năm sanh-tử luân-hồi, chuyển biến không ngừng, nhân-quả tuần hoàn, thiện ác báo ứng. Than ôi! Con người đắm mê vọng tham vọng tranh, rồi tích tụ lũy kiếp oán thù, cho nên phải mau mau lập công đức để hồi trả. May mắn gặp phải lúc tam-kỳ mạt-vận, Thiên-Đạo đại khai phổ-độ, hành công lập đức đúng lúc gặp phải Thiên thời! Đừng bỏ lỡ kỳ duyên này, cần phải cấp tốc anh dũng tiến lên, đừng sợ gai góc, nên hiểu rằng khi oán-nghiệt được hoàn trả sạch rồi mới có thể thoát li bể khổ đạt-bổn hoàn-nguyên”.

Đoạn trên đây là lời dạy của Hoạt-Phật Sư-Tôn, dặn dò chúng ta tu Đạo trước tiên cần phải hiểu rõ thanh toán kết oán-nghiệt trái, mới có thể thoát khỏi khổ hải đạt-bổn hoàn-nguyên, hậu-học sau khi nghe xong, nhận thấy được tầm quan trọng của việc tiêu oán trả nghiệp, cho nên tạm mượn dịp hôm nay, cùng với các vị bàn xem làm sao mới có thể tiêu oán giải nghiệp? Và thuật lại sự việc do Tiên Phật từ-bi hiển hóa để các vị cùng xem và ấn chứng.

Trước khi nói về đề tài này, nên bàn xem oán-trái từ đâu mà có? Tại sao gọi là oán-trái?

− Oán: là khi chưa được sự đồng ý của người đã đoạt lấy lợi ích. Thí dụ như: do tham miếng ăn, tùy ý sát hại sanh linh, âm mưu thầm tính nhỏ nhen, tổn nhân lợi kỉ, làm cho người ta chịu đựng không rõ chuyện bị oan khúc.

− Trái: là tuy rằng được sự đồng ý của đối phương, nhưng chịu ơn người mà

(1) “Sanh sanh tử tử xương chất cao như núi, nhân quả tái diễn không bao giờ ngừng, muốn mau

tiêu hết oan nghiệt trái, trước tiên phải lấy đức bù”.

Page 52: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 52

không trả, để người chịu phần thiệt thòi.

Việc oán-trái người nào cũng có, suy tầm nguyên nhân, hầu hết là do không rõ nhân-quả báo ứng. Do ngày tháng tích lũy, năm này kiếp kia chồng chất lên, ngày trầm trọng hơn ngày. Thí dụ: Con người do chánh khí Thiên-Địa sinh ra, nhận sự che chở của Trời Đất, nhật nguyệt tương chiếu, mưa móc nuôi dưỡng, ngũ cốc thủy hỏa giúp tiến hóa, mới có thể sống được trên thế gian, được Trời Đất ban chiếu ân đức nồng hậu như thế, thì phải ở cho có nhân có nghĩa, thuận theo chánh đạo của Thiên-Địa mà đền đáp Thiên-ân mới đúng, nhưng có người không chịu theo phép tắc chi cả, làm những việc khinh Trời oán Đất, chẳng lẽ người như thế không thiếu nợ Thiên-ân sao? Cũng như việc cha mẹ nuôi con hết bề khổ sở, cái ân nghĩa đó hết đời này cũng khó đền đáp, nếu như không trọn hiếu-đạo chẳng lẽ không phải thiếu nợ ơn nghĩa cha mẹ sao? Ngoài ra, vợ chồng bạc nghĩa, con cái bạc tình, chẳng lẽ không phải do oan nợ hay sao? Còn một số người vô tri, chân tánh bị đắm mê, làm mọi việc ác đức: cướp của, tà dâm, giết người, đốt nhà, làm cái việc tổn Thiên hại Lý đều là nguồn gốc tạo nghiệp. Trong kinh sách có nói: “Thiên tác nghiệt, do khả vi; tự tác nghiệt, bất khả hoạt” (1). Cho nên con người như thế tự làm tự gánh chịu, tự tạo ra tự đền trả, Thiên võng rành rành, có hở nhưng không lậu, hễ thiếu nợ tiền thì phải đem tiền trả, thiếu mạng thì phải đền mạng, sự việc bắt buộc phải như thế, con người ai cũng có bổn-tánh, con vật nào cũng có cái linh, hễ bị oán trái không lý nào không đòi!

Hiện giờ chúng ta do ba kiếp có tu, gặp phải lúc này Thiên-Đạo phổ truyền, được Minh-Sư chỉ điểm giác-lộ, có thể một bước trực siêu, nếu như không thanh toán hết oán-trái của mình, tuy là các vị hữu tâm cầu tiến, nhưng oán-trái ở phía sau tới đòi, sau này cũng khó cao siêu. Phật có lời huấn rằng:

Đại-đạo tu lai hữu dị nan

Dã tri do ngã dịch do Thiên

Nhược phi tích công tu âm đức

Động hữu quần ma tác chướng duyên. (2)

(1) “Tr ời tạo nghiệp (giáng xuống tam-tai bát-nạn) thì có thể tránh, tự tạo nghiệp thì không thể

sống”.

(2) “ Đại Đạo tu có dễ có khó, cũng là do mình và do Thiên, nếu như không tích tu công đức, sẽ

khiến quần ma đến quấy nhiễu.”

Page 53: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 53

Do đó có thể biết rằng người tu Đạo nếu không có chân công thật hành, tuy có bản tâu trình, nhưng làm thế nào đi nữa, cũng có quần ma tới quấy nhiễu, lôi kéo đi xuống.

Năm kia có một vị đạo-thân, sau khi cầu Đạo, tuy là có thành tâm, nhưng chưa có làm được chân công thật hành nào cả. Một ngày kia cầu Tiền-nhân từ-bi, muốn thanh khẩu trường chay, được Tiền-nhân ân chuẩn làm bản lập nguyện. Sau đó chẳng bao lâu, gặp lúc Phật-đường có mở lớp nghiên cứu, người này tới tham dự, ngồi chẳng bao lâu thì chợt bất tỉnh, miệng sùi bọt trắng, trong miệng thoát ra tiếng nói rành rành (tiếng Nhật), hai tay đánh mạnh vào đùi của mình, ai thấy cũng đều khiếp sợ. Lúc đó nhiều người tới nắm giữ lại, nào ngờ người này có sức mạnh kỳ lạ, không ai có thể nắm giữ nổi, mặc sức cho đánh tới hai đùi sưng đỏ lên, rất may được Địa-Tạng Cổ-Phật kịp thời lâm đàn nói rõ nguyên do, tất cả người có mặt mới biết vị đạo-thân này hại chết một người Nhật trong kiếp trước, kiếp này đắc Đạo, và có bản lập nguyện thanh khẩu, làm cho quỷ hồn lo sợ, e rằng đạo-thân này tu Đạo, về sau oán-nghiệp sẽ không đòi được, nên đã thưa lên tới Cổ-Phật, Cổ-Phật đặc biệt ân chuẩn đem oán hồn này tới đàn hiển hóa, để chứng minh rằng việc oán-trái không phải là không có, sau đó Cổ-Phật dặn các đạo-thân đợi vị này tỉnh lại rồi khuyên phải phát tâm làm việc Đạo, lấy công chuộc tội, hành công lập đức để tiêu oán giải nghiệp, nếu không cũng khó siêu-sanh liễu-tử.

Phật có dạy rằng: “Nhìn thấy ma quỷ khóc lóc tại bốn phía, tiếng khóc thê thảm, có cảm giác đắng cay khó chịu. Nếu như không lo tự tiến lên trên con đường Bồ-đề giác-lộ, thì cái tự-tánh Như-Lai sẽ biến thành đất bùn”. Cho nên chúng ta nên biết rằng trong ngày cầu Đạo, biểu-văn thăng Thiên, tam-tào đều biết, thần quỷ đều sợ, còn oan hồn lũy kiếp kia, chờ đợi sẵn nơi âm phủ, những lúc các vị trong tâm không lành mạnh, liền tiến tới đòi nợ. Có điều may mắn chúng ta là đệ-tử của Tế-Công Hoạt-Phật, trong lúc lập nguyện cầu Đạo, được Ân-sư đảm bảo, có nợ từ từ trả, có tội từ từ kết liễu, oan-nghiệp phải qua mệnh lệnh đồng ý của Ân-sư mới có thể đến đòi. Cho nên Ân-sư chỉ có thể đảm bảo trong nhất thời mà thôi, không thể đảm bảo suốt đời. Chúng ta nếu như quên đi lời nguyện trước Phật, có nguyện mà không liễu, thì Ân-sư cũng không cách nào đảm bảo tiếp cho ta đấy!

Lúc này Thiên thời rất khẩn cấp, oan-nghiệp đến đòi rất gấp, nếu như không mau mau nghĩ cách tiêu giải, một khi oan-nghiệp đã đòi tới trên thân mình, nguyên thần không thể làm chủ, tâm-tánh điên đảo hỗn loạn, trong lúc bất tri bất giác, phá giới bỏ chay, phản Đạo bại đức, một khi trụy lạc vạn kiếp khó được siêu thăng, ngẫm nghĩ tỉ mỉ, thấy đáng sợ chăng? Nhưng làm sao mới có thể tiêu oan giải nghiệp? Ân-sư có dạy rằng: “Các vị nếu muốn kết liễu oán-

Page 54: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 54

trái kiếp trước, phải nhờ công đức của chính các vị mới có thể triệt tiêu đặng”. Cho nên chúng ta phải mau mau hành tam thí (tài thí, pháp thí, vô úy thí).

Chúng thiện phụng hành, càng không nên tự tạo thêm tội ác, không tự gây thêm oán-nghiệp, thì oán-trái lũy kiếp kia tự nhiên sẽ được hoá giải dần dần.

Page 55: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 55

Bài thứ mười một

NỘI NGOẠI CÔNG TU TRÌ

Đạo đã là tôn quý như thế, chúng ta đáng lý phải thay Trời tuyên hóa, cứu độ đồng bào. Hiện nay các vị có thể phát tâm độ chúng-sanh tức Bồ-đề tâm được phát hiện đấy! Tiền-nhân đã từng nói: “Con người khi rời khỏi ác Đạo, muốn được thân người là khó; khi đã được thân người, lục căn đầy đủ là không dễ; khi lục căn đã đầy đủ, muốn gặp chân Đạo cũng khó; khi gặp chân Đạo rồi, sanh lòng tin cũng khó; đã có lòng tin lại phát Bồ-đề tâm càng khó; khi đã phát Bồ-đề tâm không tu không chứng còn khó hơn”. Hiện nay các vị đã được chân Đạo, lại phát Bồ-đề tâm là một hiện tượng rất tốt.

Kinh Phật có nói: “Tại sao phải phát Bồ-đề tâm? Do có bốn thứ dưới đây:

1. Bên ngoài nhìn Phật, bên trong tự ngẫm lại bản thân cảm thấy hổ thẹn.

2. Xem cái khổ của chúng-sanh cũng như là cái khổ của mình, muốn hóa thế gian thành nơi tịnh thổ.

3. Nhìn tượng Phật cảm thấy rất tốt, do tâm được an lạc.

4. Tu hành tới đỉnh thượng thừa, công quả viên mãn, thành Tiên thành Phật, không phải không đạt được, mà do có nỗ lực hay không?”

Cho nên nói Thánh Hiền Tiên Phật, người người đều có phần, chỉ do mình có chí hay không có chí mà thôi!

Chúng ta đừng xem thường hậu-học, Phật kinh có ghi rằng: “Dục học vô thượng Bồ-đề, bất đắc khinh y sơ học; nhược khinh nhân, tức hữu vô thượng vô biên tội”; Khổng-Tử có nói: “Hậu sanh khả úy”. Chúng ta nên biết người đi trước chưa chắc gì có thể hay hơn người đi sau. Sư có lời huấn: “Ngộ được Đạo, không phân biệt trước sau, măng non mọc ra cũng có ngày cao bằng tre già”. Chúng ta đừng cho mình là một người bình thường, nếu có thể tỉnh ngộ, phát Bồ-đề tâm, tinh tấn lo việc Đạo, tức là Thánh Hiền Tiên Phật mai này, quỷ thần khâm kính.

Tu Đạo không rời khỏi chính bản thân mình, có hai loại công phu là nội công và ngoại công. Nội công là độ thân mình, ngoại công là độ người ta, cũng tức là công phu “Minh minh-đức hóa tân dân”. Vậy chúng ta cùng nhau nghiên cứu phương pháp tu trì nội ngoại công là như thế nào?

Page 56: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 56

A. Nội Công

Tu Đạo phải bắt đầu từ chánh tâm tu thân. Mạnh-Tử có nói: “Người tận tâm được là biết tánh mình, đã biết tánh là biết Bề-trên; giữ lấy tâm mình, dưỡng cái tánh mình là làm việc cho Bề-trên đấy”. Chúng ta trong bản tánh vốn có ngũ-thường chi-đức là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, phải giữ gìn đừng để bỏ mất, nếu không sẽ không bằng cầm thú. Làm sao mới có thể phát huy ngũ-thường chi-đức? Phải bắt đầu từ tứ chánh làm nên, tức là nhân, nghĩa, lễ, trí. Mạnh-tử nói: “Từ-bi tâm, nhân chi đoan; ác chi tâm, nghĩa chi đoan; từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan; thị phi chi tâm, trí chi đoan.” (1)

− Nhân: Là lòng từ-bi, lòng không nhẫn tâm, nên Mạnh-Tử có nói: ”Thấy nó sống không nhẫn tâm thấy nó chết, nghe tiếng kêu không nhẫn tâm ăn thịt nó, cho nên Quân-tử đi xa khỏi nơi nấu nướng đấy”. Mỗi người đều có lòng nhân từ này nhưng vào lúc nào mới có thể phát hiện ra? Sách Mạnh-Tử, Công-Tôn-Sửu có ghi: ”Bỗng nhiên trông thấy đứa con nít sắp rớt vào giếng, lập tức đến cứu nó, rất là tự nhiên, tâm trạng lúc đó tức là lòng nhân, không phải muốn cha mẹ đứa bé cảm tạ hoặc hàng xóm bạn bè khen tặng gì, đó là lòng từ-bi. Nếu như trông thấy mà không cứu thì không có lòng từ-bi, như vậy không phải là nhân”. Cho nên mỗi một con người chúng ta đều vốn có lòng từ-bi đấy!

− Nghĩa: Biết phán đoán sự việc, phân biệt thiện ác là cái nghĩa đức được bắt đầu đấy! Như người ăn trộm, do bị vật chất bên ngoài dẫn dụ, mà trong nhất thời bị che lấp đi cái tâm nghĩa đức mới làm cái việc bất chánh, một khi bị bắt cũng biết hổ thẹn, cho nên biết hổ thẹn là cái lương tri bộc phát tự nhiên đấy!

− Lễ: Chủ yếu là nhân nhượng, đối với bất cứ người nào cũng phải cung kính, khiêm tốn, nhân nhượng, hòa nhã, hiền lành; khiêm tốn là đức hạnh tốt đẹp, “kính nhân giả nhân hằng kính chi, ái nhân giả nhân hằng ái chi” (2) là lý nhứt định đấy! Cho nên làm người cần phải khiêm tốn nhân nhường, tuyệt đối không được tự cho là hay, người kiêu ngạo chắc chắn thất bại; tự cho mình rất đắc ý, “mãn chiêu tổn, liêm thụ ích”(3) là câu nói không sai đấy. Khiêm nhượng thể hiện rất là tự nhiên. Thí dụ như có người mời mình uống nước, thì cũng biết từ chối, cám ơn, để tỏ ý không dám nhận; ngược lại, khi mình muốn uống, nếu kế bên có người, thì cũng biết rót một li nhường người ta trước. Do đó có (1) “Lòng từ-bi khởi đầu từ cái Nhơn, dấu cái ác khởi đầu từ cái Nghĩa, lòng khiêm nhường khởi

đầu từ cái Lễ, lòng thị phi khởi đầu từ cái Trí.”

(2) “Kính người thì người kính lại mình, thương người thì người thương lại mình”

(3) “Kiêu ngạo thì gặp nhiều tổn thất, khiêm nhường thì được nhiều ích lợi.”

Page 57: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 57

thể biết rằng cái lễ phép như từng lời nói, từng cái nhân nhượng đều do lương tri bộc phát ra.

− Trí : Là chân trí tuệ để phân biệt việc thị phi. Con người có thể phân biệt thị phi là trí đức con người được bắt đầu. Thí dụ như trung-thần hiếu-tử đều biết làm theo lẽ phải, gian-thần nghịch-tử đều làm điều trái nghịch, cũng là do lương tri tự bộc ra. Có một số người mới biết thêm vài chữ, biết thêm một số sự việc thì đã cho là hay, thật ra thế này là thông minh giả do hậu-thiên mà có. Người có chân trí tuệ lúc nào cũng tỏ ra “thân cận hữu đức” tránh xa kẻ nói vọng. Như trong sách Luân-ngữ có nói: ”Dĩ văn hội hữu, dĩ hữu hội nhân”, đừng tưởng là được mời xem một cuốn phim, hoặc ăn một bữa cơm thì đã là bằng hữu, nên biết hai chữ “bằng hữu” rất có ý nghĩa: đồng Đạo là “bằng”, đồng chí là “hữu”; “gần mực thì đen gần đèn thì sáng”. Có câu cách-ngôn rằng: ”V ới người thiện làm bạn, như bước vào phòng có bông lan, thời gian lâu không thấy mùi thơm, là được đồng hóa rồi đấy! Với người bất thiện làm bạn, như bước vào phòng chứa cá khô, thời gian lâu không thấy mùi hôi, là đã đồng hóa rồi đấy!”. Cho nên gặp sự việc là cần phân biệt thị phi, thận trọng tiếng nói và hành động, không thể nhắm mắt thuận theo trào lưu, mới không làm nhục tiếng tăm của cha mẹ và nhân-cách của bản thân mình. Khổng-Tử có nói: ”Quân-tử thượng đạt” (1), như thế mới là chân trí tuệ!

Tóm lại các lời trên đây, đủ chứng minh rằng tứ chánh (nhân, nghĩa, lễ, trí) vốn có trong bổn-tánh, không phải do hậu-thiên mà có, nay đã biết có tứ chánh này thì hãy nên bồi đắp cho nó thêm. Mạnh-Tử có nói: “Nếu có thể bồi đắp thêm, đủ để giữ lấy tứ hải, nếu không được bồi đắp thêm, không đủ để phụng sự cha mẹ”. Chúng ta đã tu chân Đạo, nào có thể không cho tứ chánh này được bồi đắp thêm để lập thân sao?

− Tín: Là căn bản xử thế của con người, là điều cần thiết nhất đấy! Khổng-Tử có nói: “Tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất lập”. Tín có thể dẫn dắt tứ chánh mà trọn vẹn vạn thiện, không có tín, việc gì cũng không thể lập. Nên có câu: “Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu”(2), tu Đạo cũng phải lập sẵn tín tâm (tức lòng tin) này trước.

Những gì vừa kể trên là nói về việc phát huy ngũ-thường chi-đức để nuôi dưỡng cái “hạo nhiên chánh khí”. Cho nên trong bất cứ lúc nào, đi đứng nằm ngồi, đều không rời khỏi đạo-tâm. Tâm có ba loại: Đạo tâm, nhân tâm, huyết nhục tâm.

(1) “Người quân-tử lúc nào cũng cầu tiến”.

(2) “Tín là mẹ của mọi công đức, là nguồn gốc của Đạo”.

Page 58: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 58

1) Đạo tâm: Thuần thiện vô ác, đồng nhất thể với Bề-trên, là tự nhiên vô-vi.

2) Nhân tâm: Có thiện có ác, khi thì Thiên-đàng, khi thì Địa-ngục; lúc thì hiếu thảo cha mẹ, lúc thì nổi giận la mắng, thế này là do nhiễm khí hậu-thiên. Nên có bài thơ rằng:

Thiên-đàng Địa-ngục lưỡng giới liên

Nhiệm quân cước đạp nã biên thuyền

Thành Tiên thành súc do nhân tác

Sai chi hào ly biệt vạn thiên.(1)

Tất cả đều do tâm tạo, “Nhứt thiết duy tâm tạo, vạn pháp do tâm sanh”.

3) Huyết nhục tâm: Thuần ác vô thiện, là căn cơ địa-ngục, chắc trụy vào đạo súc-sanh, phải nhứt đao lưỡng đoạn, chặt bỏ thập ác.

Thập ác: là tham, sân, si, ác khẩu, lưỡng thiệt, vọng ngữ, kỳ ngữ, sát, đạo, dâm.

* Tâm có tam độc: là tham, sân, si.

− Tham: là không biết thỏa mãn, tửu sắc tài khí không có cái nào là không muốn. Hễ có mười thì lại muốn có trăm, có trăm thì muốn có ngàn có vạn. Nghĩ ra cái này cái nọ để gạt tiền người ta, đều do lòng tham mà ra. Người tu Đạo tuyệt đối không được có lòng tham niệm, nếu có thể an bần lạc đạo, tri túc thường lạc, tự nhiên sẽ không có tham cầu.

− Sân: là nổi giận, hễ nhìn thấy cái gì không thuận mắt vừa ý là sanh đố kị oán hận, là do sân tâm quá nặng. Người tu Đạo phải bỏ sân tâm, vì “nhứt niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”(2), dù cho công đức lớn cỡ nào nhưng “nhất bả vô danh hỏa, năng thiêu vạn lý công đức lâm”(3).

− Si: là ngu si, vọng tưởng, hồ đồ không biết bề chi cả, người nói không nghe tự cho mình là thông minh. Sách Trung-Dung có nói: “Bản-tánh đã ngu muội, còn cho là thông minh, đê tiện không đạt đến địa vị đó, còn tự tác chủ

(1) “Thiên-đàng Địa-ngục hai thế giới gần nhau, tùy do người chọn bước bên nào, thành Tiên

thành súc do người tạo, sai lầm một bước hối vạn năm”.

(2) “M ột ý niệm nóng giận trong tâm, trăm ngàn điều trắc trở xảy đến”.

(3) “M ột ngọn lửa sân nổi lên, thiêu đốt cả rừng công đức.”

Page 59: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 59

trương, như vậy tai họa sẽ giáng tới thân mình đó thôi”. Loại người như thế kêu ngạo còn tưởng là cao siêu, không chịu nghe ý kiến của người khác, sai mà còn cố chấp, rốt cuộc chắc cô độc.

* Khẩu có tứ ác: là ác khẩu, lưỡng thiệt, vọng ngôn, kỳ ngữ.

− Ác khẩu: mở miệng là nói lời phi lễ, la trời mắng người, la lớn mắng nhỏ, làm như thế này hạ thấp nhân-cách. Như một số phụ nữ la con mình là “đồ chết yểu”, nếu như con cái bị chết yểu, chẳng lẽ không thương tâm sao? Mọi lời nói không lành mạnh, nếu đã từng nói thì phải mau sửa lại!

− Lưỡng thiệt: moi móc chuyện thị phi, nói người ta thế này thế nọ. Người như thế tội ác rất lớn. Chúng ta hãy nên che dấu cái ác và bộc lộ cái thiện, không nên đi tuyên truyền cái xấu của người khác.

− Vọng ngôn: vọng ý tạo ra trắng đen, lời nói tổn nhân lợi kỉ, suông miệng nói bừa, làm tổn đến âm đức. Nếu như người kia thật sự có làm việc trái với đạo-lý lương tâm mà mình biết được, nhưng vì liên quan đến danh dự người ta, cũng tuyệt đối không được nói.

− Kỳ ngữ: là nói lời hay tiếng đẹp đặng tạo ra tin đồn tầm bậy; nói chuyện kẻ khác đã biết hổ thẹn, tự đặt ra những lời không hợp lễ để làm trò cười, làm những việc bại hoại phong tục, tự tổn nhân-cách, lại còn đắc ý nữa. Chúng ta nên học theo Thánh Hiền, phải luôn thận trọng tiếng nói và hành động.

* Thân có tam ác: là sát, đạo, dâm.

− Sát: nói đơn giản là sát hại tánh mạng, nghịch với cái đức hiếu sanh của Bề-trên. Do nghiệp sát nặng quá, sát khí xung thiên cho nên tai họa xảy đến liên miên. Phật có nói: “Dục tri thế thượng đao binh kiếp, đản thính đồ môn dạ bán thanh”(1). Cho nên tu Đạo hãy phát từ-bi tâm, giới sát, phóng-sanh.

− Đạo: Tiền của kẻ khác, nếu chưa được chấp thuận, tự ý lấy xài, tuy là nhỏ nhưng cũng là cướp là đạo, lợi dụng kẻ khác đó cũng là đạo.

− Dâm: “V ạn cái ác cái dâm đi đầu”, giữa phái nam và phái nữ có hành vi bất chánh, tức là phạm phải chữ này. Xã hội ngày nay tự do luyến ái, nên tổn hại danh tiếng con gái nhà lành, làm cho họ phải uống thuốc độc nhảy sông tự tử, những việc này thường thấy không lạ chi! Thế này đều là nguyên nhân làm cho gia đình chia li tan nát. Cho nên nói “vạn ác dâm vi thủ”.

(1) “Muốn biết thế gian tại sao xảy ra nạn khói lửa đao binh thì nửa đêm hãy nghe tiếng khóc

kêu.” - ý nói đồ tể làm thịt vào lúc nửa đêm.

Page 60: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 60

Thập ác vừa kể trên đây, tuyệt đối không được phạm phải, hãy nên “nhứt đao lưỡng đoạn”. Nếu như thập ác không trừ thì dù các vị có công đức cỡ nào, e rằng cũng không thể chuộc tội!

Do vậy, chúng ta là người tu Đạo, hãy nên tuân theo tam-thanh, tứ-chánh.

• Tam-thanh: là tiền tài thanh, nam nữ thanh, thánh phàm thanh. • Tứ-chánh: là tâm chánh, thân chánh, ngôn chánh, hành chánh.

Giữ lấy tam-thanh tứ-chánh, mới là một người Quân-tử chánh đáng!

Về mặt luân thường đạo-đức, phụ nữ phải tuân theo tam-tòng tứ-đức. Như tứ-đức mà ngày nay nam nữ đều phải học là: đức, ngôn, dung, công.

− Đức: “Tu đức dĩ phục nhân”, tự mình không ngay làm sao có thể giúp người khác được ngay! Đạo cao đức trọng mới có thể làm người ta khâm phục.

− Ngôn: “Cẩn ngôn dĩ quả quá”(1), tai họa là do miệng mà ra, hãy nên giữ kín miệng như chai được đậy nắp, cẩn thận mọi việc. Như Khổng-Tử có dạy: “Quân-tử dục nột ư ngôn” (2).

− Dung: “Thận uy nghi sứ nhân kính quý” (3), hành động cử chỉ phải đoan trang; cái nói và cái hành đông phải có lễ phép, không được tùy tiện cười giỡn, nên biết “Quân-tử bất trọng tắc bất oai, học tắc bất cố” (4). Nói tóm lại, phải tự ái, tự trọng sửa đổi khí chất hậu-thiên.

− Công: “Mỹ công tác thiện kỳ sơ sự” (5), Quân-tử không chỉ có một tài năng, có thể lớn có thể nhỏ, có thể giãn có thể co, bất luận làm việc gì cũng phải nghiên cứu cho càng lúc càng hay, làm việc có trách nhiệm, làm cho trọn vẹn. Tu Đạo là nam nữ bình quyền, trong một gia đình cũng thế, huống hồ chi tu Đạo?

Những gì vừa kể trên là tứ đức mà càn-đạo và khôn-đạo đều phải thực hiện. Đời tổ thứ mười lăm có nói rằng: “Hiện nay tu Đạo không tham thiền, tam-tĩnh tứ-vật chân công phu”.

“Tứ-vật” là gì? Trong sách Luân-Ngữ, Nhan-Uyên có ghi: Nhan-Uyên hỏi:

(1) “Cẩn trọng lời nói để ít tạo khẩu nghiệp”.

(2) “Người quân-tử muốn nói gì trước tiên phải suy nghĩ cẩn thận”

(3) “Thận trọng mọi uy nguy bề ngoài để người ta kính nể”.

(4) “Quân-tử không trọng phép tắc thì không uy nghiêm”.

(5) “Làm việc gì cũng phải làm cho tốt cho đẹp”.

Page 61: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 61

“Nhân là gì?” Khổng-Tử nói: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân ư. Quy nhân do kỷ, nhi do nhân hồ thay?” Nhan-Uyên nói: “Xin hỏi cho được rõ ràng”, Khổng-Tử nói: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”(1). Nhan-Hồi được Phu-tử chỉ dạy, suốt đời hành theo, được nhất thiện là “thành tâm bảo thủ, không để mất đi”. Cho nên Nhan-Hồi có phẩm đức cao nhất, được Khổng-Tử khen ngợi: “Hi ền thay! Nhan-Hồi dã, một chén để ăn, một hồ để uống, ở tại nơi hẻo lánh, người ta không chịu nổi cảnh lo âu ấy, Nhan-Hồi cũng không thay đổi cái niềm vui thoải mái có sẵn, hiền thay Hồi dã!”. Nhan-Hồi thường được Khổng-Tử khen ngợi, làm cho Tử-Lộ bất mãn, bèn lấy một miếng vàng trên có khắc chữ “Thiên ban Nhan-Hồi nhứt đỉnh kim” đặt trước cửa nhà Nhan-Hồi để thử lòng ông ta. Nhan-Hồi thức sớm mở cửa ra, thấy có miếng vàng lượm lên coi, liền ghi thêm hàng chữ lên trên: “Ngoại tài bất phú mạng cùng nhân”, rồi để lại chỗ cũ, từ đó trở đi Tử-Lộ rất khâm phục. Hiện nay chúng ta tu Đạo, cũng nên học theo những hành vi thanh cao và an bần lạc đạo của Nhan-tử.

Cái gì gọi là “tam-tĩnh”? Tăng-Tử nói: “Ngộ nhựt tam tĩnh ngộ thân: vi nhân mưu nhi bất trung hồ? Dĩ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?” (2), để giữ lấy cái đức, luôn suy nhớ cho thật thận trọng, nhờ nội công mà ta giữ lấy Thiên-tánh, làm cho bản thân được thận trọng thêm, thế này gọi là nội đức, không hành Bồ-Tát Đại-Đạo thì không thể giúp cho thiên-hạ được trọn vẹn, cho nên phải hành ngoại công. Ngoại công là bàn đạo độ người, tế thế lợi nhân là thiện hành, đem nội đức triển khai ra đến mọi người.

Thời nay gặp lúc tam-tào phổ-độ, vạn Phật xuất thế, ngũ-bàn tứ-quý bàn việc Long-Hoa, Thần Nhân đều bận rộn. Ngũ-bàn: là Thiên-bàn, Địa-bàn, Nhân-bàn, Sơn-bàn, Thủy-bàn đều đầu thai xuống nhân gian, cho nên thiện ác lẫn lộn. Tứ quý: là Tiên, Phật, Thần, Thánh cũng đến đầu thai làm người. Lão-Mẫu nói: “Tây-Thiên bất lưu nhất Phật-tử, Thượng-Thiên bất lưu nhất Bồ-tát”. Tam-tào hội nghị, kết quả cũng nhờ vào nền tảng công đức, công nhiều thì quả lớn. Hiện giờ không ai biết ai từ Lý-Thiên xuống, cho nên mạnh ai nấy đi tầm người có duyên, Phật tầm Phật, ma tầm ma, mạnh ai nấy lo đi thu viên. Thời nay phổ-độ, Thiên thùy kim tuyến(3), đại xá tam-tào, sau này định Tử-Bàn là

(1) “Không có lễ thì không nhìn, không có lễ thì không nghe, không có lễ thì không nói, không có

lễ thì không làm”.

(2) “M ỗi ngày phản tỉnh mình ba lần: Làm việc cho người ta có trung thực không? Giao tiếp với

bằng hữu có mất uy tín không?”

(3) Bề-trên buông xuống một đường kim tuyến: Tế Công Hoạt Phật - Lão tiền nhân - Tiền nhân -

Page 62: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 62

10,800 năm, nếu như có thể nhìn nhận được xuyên thấu thì là Bồ-Tát Thánh Hiền. Lúc này là tam-kỳ phổ-độ, tiên lập công hậu lập quả.

~*~*~

B. Ngoại Công

Ngoại công gồm có ba loại:

1) Tài thí:

Là ấn tống kinh sách, trợ giúp người đi khai hoang làm việc Đạo, thiết lập pháp-thuyền, tiền tài tùy sức của mình mà dâng hiến cho Lão-Mẫu, gọi là “hiến tâm”. Lão-Mẫu có nói: “Ta không cần tiền bạc của con, chỉ cần con có hảo tâm điền”. Hiện giờ Đại-Đạo phổ-độ, thông hành khắp nơi, thành lập Phật-đường giúp việc kết duyên là một điều lớn trong vấn đề phổ-độ, tàu lớn có bến cảng lớn, tàu nhỏ có bến cảng nhỏ, nơi nào cũng cần có Phật-đường để cho đạo-thân cùng nhau nghiên cứu, thượng tiếp hạ dẫn, giao phó mọi việc, “lấy tiền tài ở Đông phương mua Phật địa ở Tây phương” (1) có thể nói là “nhứt bổn vạn lợi” (Chúng ta nên biết trong Phật-đường, Điểm-Truyền-Sư, Dẫn-Bảo-Sư tuyệt đối không lấy sổ hóa duyên đi các nơi hóa duyên).

Sau khi cầu Đạo được minh lý rồi, nếu muốn hành công thì phải xuất phát từ tâm chí thành của mình, người có tiền thì nên đem bố-thí, người nào có dư là do mình tu tích trong nhiều kiếp. Bề-trên ban tiền bạc cho các vị sử dụng trong kiếp này, không phải kêu các vị tự mình đi hưởng thụ mà phải làm việc thiện nhiều; cái ăn cái mặc, việc xã giao hồng-trần có thể tiết kiệm lại, một khi có dư tiền thì nên ấn tống kinh sách, “nhất thế khuyến nhân dĩ ngôn, bách thế khuyến nhân dĩ sách”(2), quãng kết thiện duyên, tùy sức của mình mà trợ Đạo. Thí dụ như quyên góp vào Phật-đường, phụng dưỡng Sư và khách vãng lai, nhất định được ban chiếu điển quang rất nhiều, giúp đỡ đạo-thân đi “khai hoang hạ chủng” (3), như thế thì công đức các vị nhất định có phần. Khi mở lớp cần được trợ giúp phí sở hụi, hoặc là tế nhân lợi vật, giúp người ta việc gấp bách mọi lúc mọi khi, Thần Nhân đều vui vẻ, gọi là tài thí. Điểm truyền Sư - Dẫn Sư - Bảo Sư - đến bản thân mình.

(1) Ý nói dùng tiền hành tài thí, cũng như là gởi tiền vào ngân hàng ở cõi Tây phương.

(2) “M ột kiếp khuyến nhân bằng lời nói, trăm kiếp khuyến nhân bằng kinh sách.”

(3) Nơi nào chưa có Đạo thì đến đó xiển dương Đại-Đạo, gieo hạ chủng tử Phật.

Page 63: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 63

2) Pháp thí: Là xả thân lo việc Đạo, chịu cực chịu khổ

a) Khai hoang xiển Đạo: Thay Trời tuyên hóa, thế Phật tuyên ngôn. Vì đại đức đại hạnh của Sư và nhờ được Thiên-ân Sư-đức, nên có thể từ bản thân triển khai cho tới người khác, đức của ta tuy nhỏ nhưng cũng có thể tuông chảy như dòng sông từ một truyền mười, mười truyền trăm, truyền nghìn truyền vạn, để cho Đại-Đạo như dòng sông chảy không ngừng, thay thế Sư-Tôn Sư-Mẫu bố công đức, đó gọi là kỳ công đấy! Nếu như độ một người có thể tu Đạo làm việc Đạo thì công đức vô lượng đấy!

b) Thành lập Phật-đường: Là bắc một Thiên-kiều(1) cho Bề-trên, là tạo ra một pháp-thuyền có thể tiếp dẫn vô số chúng-sanh. Lại có thể nghênh thượng tiếp hạ “nhân gian thiết nhứt tọa Phật-đường, thượng thiên khai nhứt đóa liên hoa” (2) là tôn quý biết bao!

c) Độ người và giúp người thành tựu: Thay Trời tuyên hóa, khuyến hóa những người mê muội là công đức vô lượng! Giúp một người có thể minh Lý tu Đạo, là có liên quan đến cả nhà người đó. Không những như thế, mà còn có thể giúp cửu-huyền thất-tổ người đó siêu thăng Lý-Thiên. Cho nên nói tài thí có giới hạn, pháp thí vô cùng tận.

3) Vô úy thí:

Là có tinh thần đại vô úy. Như là gặp ma khảo, không khiếp sợ, có thể gánh lấy tất cả, bảo vệ Đạo-tràng, trung tâm tận tụy, gọi là đại vô úy. Nếu như không có khả năng làm tài thí và pháp thí, thì cũng có thể giữ vững Đạo niệm, thanh khẩu trường chay, là hành tiểu vô úy. Siêng năng tới Phật-đường tiếp đón đạo-thân, có việc gì cũng giúp đỡ, hành như vậy gọi là khổ lao chi công, cũng là tỏ bày lòng thành tâm của mình đấy!

Nói chung, pháp thí là làm việc Đạo, thay Trời tuyên hóa, đóng góp cho Đạo bôn ba cực nhọc; tài thí là đem tiền tài tới âm thầm trợ Đạo; vô úy thí là hộ Đạo làm việc Đạo hi sinh tất cả. Nếu có thể hành đủ tam thí chắc chắn thành “Đại Phật Tiên”. Tóm lại, hễ có ra sức hộ Đạo, đều là ngoại công. Mạnh-Tử nói: “Nhân nghĩa trung tín, lạc thiện bất quyện, thỉ thiên tước dã; công khanh đại phu, thỉ nhân tước dã”, Thiên-tước là phước vĩnh viễn, nhân-tước chỉ là hư danh và hưởng thụ nhất thời mà thôi! Sư có nói: “Nhân tước nả hữu thiên tước quý, công danh nả hữu Đạo danh cao”, mong các vị hãy suy nghĩ cho tường tận!

(1) Kiều: là cây cầu

(2) Nhân gian thiết lập một Phật-đường, Lý Thiên khai nở một đóa sen.

Page 64: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 64

Bài thứ mười hai

TAM THANH T Ứ CHÁNH

Cái gì gọi là tam-thanh? Là gồm có Thánh phàm thanh, tiền tài thanh, giới hạn nam nữ thanh.

− Thánh phàm thanh: Thế nào gọi là Thánh phàm thanh? Tức là giữa việc phàm tình và thánh sự, giới hạn phải được vạch ra rõ ràng tuyệt đối không được lẫn lộn, làm cho bất thanh bất bạch, tuyệt đối không được giả Thánh tế phàm. Thí dụ như người làm việc Đạo, hành Đạo, thành-toàn đạo-thân, tôn Sư kính Thầy, thì phải nhận Đạo làm đối tượng chớ không nhận người làm đối tượng. Hễ có đạo-thân xuất ra tiền tài và sức lực, phải dụng trong việc Đạo, không được mượn danh nghĩa của Đạo để đạo-thân phải giúp mình chuyện riêng, để khỏi phải tạo ra tội nghiệt. Hơn nữa quan hệ đạo-thân này với đạo-thân kia, không được xem là bằng hữu như phàm tình, phải biết rằng tất cả chúng ta đều là con của một vị Mẫu-thân, đệ-tử của một vị Sư, phải suy nhớ tới cái tâm của Lão-Mẫu và Sư-Tôn Sư-Mẫu, phải biết thương yêu, đùm bọc, khích lệ nhau, phải có lòng tin và thông cảm nhau. Theo tôn chỉ này, chân thành thực hành, tuyệt đối không được để cho có một tí phàm tình lẫn lộn. Nếu như có việc riêng phàm tình cần vị nào giúp đỡ, đó là việc riêng của mình, không được lẫn lộn với Đạo, có thể làm được như thế mới gọi là Thánh phàm thanh.

− Tiền tài thanh: Người làm việc Đạo, đối với sổ sách tiền tài qua tay mình phải công xuất và công nhập, một đồng bạc cũng phải đăng ký rõ ràng, khi giao nhận với Tiền-nhân không được day dưa, ra lẽ bất thanh bất bạch để khỏi phải tạo tội lỗi. Không những là công đức phí phải được xử lý như thế, đối với việc đạo-thân đem tiền tài tới hiến tâm trợ Đạo, trợ giúp Phật-đường, cũng phải được làm như thế, trước tiên là sử dụng phải cho đúng chỗ, mỗi khi tới cuối năm, phải làm báo cáo tỉ mỉ cho Tiền-nhân về tình hình thu chi trong năm ra sao và các đạo-thân hành công bao nhiêu, để xong mọi thủ tục kết toán, mới không bị tội dấu ém công đức người khác. Nếu như sử dụng không đúng chỗ, hoặc không báo cáo sự thật, tạo ra tội lỗi vô biên, làm sao gánh nổi? Phật có nói: “Phật gia nhứt văn tiền, đại thị Tu Di sơn, xâm thốn bất thật báo, phi mao đới giác hoàn”(1), có thể không cẩn thận sao? Cho nên người làm việc Đạo, đối với việc này đặc biệt chú ý, không thể có một chút hồ đồ, để khỏi vất

(1) Một đồng tiền của nhà Phật, lớn tựa núi Tu-Di, nếu gian lận không thật, kiếp sau sẽ phải

mang thân cầm thú để trả nợ.

Page 65: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 65

vã suốt đời, rốt cuộc bị trụy lạc, chẳng lẽ không đáng tiếc sao?

− Nam nữ thanh: Thế nào gọi là giới hạn nam nữ thanh? Người xưa có nói: “Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quán, nam nữ bất tương thọ, càn khôn bất tinh kiên, đồng xa vật đồng tọa, lộ hành phân hậu tiền, càn khôn vật tư ngữ, tư thất vật giao đàm” (1), cho thấy giới hạn giữa nam và nữ nghiêm chỉnh như thế, là việc được các vị Thánh Hiền coi trọng nhất, tại vì nước ta chịu ảnh hưởng nhiều triết học Nho giáo Đông phương, cho nên giới hạn giữa nam nữ được vạch ra rất rõ ràng. Thời nay Đại-Đạo phổ truyền, đầu tiên phải cho cổ lễ được phục hưng, nhất là người tu Đạo làm việc Đạo, đối với giới hạn nam nữ, càng phải từng giây từng phút chú ý tránh xa sự hiềm nghi của người đời, đối với hành động và lời nói cần phải đoan trang nghiêm túc, không được có cử chỉ bồng bột, tùy ý cười giỡn để khỏi bị người ta đánh giá sau lưng, chê trách này kia. Viện trưởng có đến giáng đàn chỉ dạy chúng ta với thánh huấn rằng: “Nam nữ thanh giới hạn, tam-thanh tứ-chánh nghiêm, chánh dung tịnh chánh sắc, chánh tâm tịnh chánh ngôn”, có thể làm kim chỉ nam cho chúng ta, mong các vị đạo-thân, ai ai cũng đều tuân chiếu phụng hành, mới không phụ lòng Viện trưởng đã từ tâm thành khẩn chỉ dạy.

* Thế nào gọi là tứ chánh?

Là thân-chánh, tâm-chánh, ngôn-chánh, hành-chánh.

Chúng ta đã là người tu Đạo làm việc Đạo, thì phải làm gương cho người ta và các hậu-học, mọi cử chỉ hành động tiếng nói cần phải được kiểm điểm nghiêm khắc mọi lúc mọi khi, phải thực tại mà phản tỉnh mình, không tùy ý làm bừa, thân tâm ngôn hành đều phải chánh đáng, không cho bị lệch tí nào, mới có thể tỏ ra sự tôn quý và cao siêu của Đạo. Thế này cũng là sự thể hiện cụ thể cần phải có của người tu Đạo làm việc Đạo, được như thế mới không hổ thẹn với tiếng tu Đạo; ngược lại, thân không kiểm điểm cho ngay, cử chỉ phóng đãng, tâm không được kiềm chế lại, có sự tư dục đầy mình, ngôn ngữ bất cẩn, tùy miệng thoát ra lời lẽ lung tung, hành vi cẩu thả, nói tới là điên đảo, nếu như thật tình mà có những hành vi như thế thì thật là uổng mất cái tiếng gọi là tu Đạo làm việc Đạo, thử hỏi có gì khác biệt với những kẻ phàm phu tục tử ở những nơi giành danh trục lợi?

Tóm lại, tam-thanh tứ-chánh là giới hạn cần được tuân thủ tuyệt đối của

(1) Không nên cúi đầu xâu giầy trong vườn dâu, cũng không nên sửa mũ dưới vườn táo, vì dễ bị

người tưởng lầm là hái trộm. Nam nữ không sánh vai đi đôi, cùng xe phải khác chỗ ngồi, đi

đường chia trước sau, nói chuyện tránh tư tình...

Page 66: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 66

người hành Đạo. Muốn Đạo-bàn được tốt, phải tuân thủ giới điều này không được vi phạm, mới có thể trên thì hợp với Thiên tâm, dưới thì hợp với nhân ý.

Page 67: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 67

Bài thứ mười ba

TU ĐẠO PHẢI NHẬN RÕ MA KH ẢO

Chân Đạo chân khảo cổ nan di

Hữu tình vô tình thử căn cơ

Mỹ ngọc kinh trác phương thành khí

Kiên tâm phương năng bộ vân thê(1).

(Tế-Công Hoạt-Phật)

Ma khảo là con đường mà người tu Đạo nhứt định phải đi qua. Cho nên nói: “Tu Đạo mà chưa biết khảo là gì, thì không đủ tư cách để nói với nhau”; lại nói: “Có Đạo thì nhất định có ma, Đạo và ma như bóng theo hình”; “Đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Nếu như muốn thành Đạo, nhứt định phải trải qua sự rèn luyện từ trong ma khảo. Vì người tu Đạo, vốn không được bình thản vô sự, thế nào cũng vướng nhiều việc đắng cay đủ bề, hoặc là bị người đời khinh miệt, hoặc là bị tiểu nhân ăn hiếp, mọi sự việc không được đắc ý, đều là trong những hoàn cảnh gian truân hoạn nạn. Tục-ngữ có câu: “Không trải qua một sự việc, không tăng thêm một trí tuệ”; có thể chịu đựng một phen ma khảo, mới có thể nảy sinh ra một phen trí tuệ. Nên Đạo-Gia có nói: “Bất luyện bất thành chân”; nhà Nho có nói: “Bất khảo bất thành Thánh”; nhà Phật có nói: “Bất ma bất luyện bất thành Phật”; có câu ca-dao rằng: “Ngọc bất điêu bất thành khí, kim bất luyện bất trực tiền”. Chúng ta là người tu Đạo, trải qua ma khảo, phải biết rằng Bề-trên đang đào luyện chúng ta. Cho nên Mạnh-Tử có nói: “Trời sắp giáng xuống nhiệm vụ lớn cho người đó, trước tiên chắc phải làm khổ tâm trí người đó, làm cho người đó xương cốt dao động, để cho đói khát, tăng thêm sức lực, làm cho thân tâm người đó bị trống lỏng, không được minh bạch, nghèo khổ cực nhọc, chịu tận khổ nạn, làm việc không được thuận lợi, cho nên cái tâm và cái tánh phải biết nhẫn nại, rồi là tăng thêm cho người đó không thể chịu đựng được. Con người ai cũng có lỗi, nhưng sau đó có thể sửa chữa; gặp phải chuyện khó để trong tâm, suy nhớ mãi, rồi sau đó mới làm được đại sự”. Nay xin trình bày nguyên do của ma khảo như sau:

(1) “Chân Đạo chân khảo xưa nay không thay đổi; hữu tình vô tình thử căn cơ; ngọc có mài dũa

mới thành vật quý; kiên tâm thì có thể bước lên thang mây”.

Page 68: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 68

1. Phân biệt chân ngụy:

Hiện nay Thiên thời cấp bách, đã tới khoảnh khắc sau cùng, nào là đại kiếp, nào là đại nạn, nào là đại khảo, nào là đại thanh toán, đại phán xét, đầy đủ mọi thứ hiện ra trước mắt ta, thế này mới gọi là “ngàn cân treo trên sợi tóc”, là “mạt-hậu nhất-trước”. Tam-tào phổ-độ màn chót, màn thu viên đã cận kề, người tu Đạo có kẻ chân tu kẻ giả tu, lẫn lộn nhau khó phân biệt chân giả. Hơn nữa, có người thuận nhân tình nghịch Thiên ý, do vọng tâm tạo ra việc trắng đen, trong lúc vô sự lại sanh ra việc thị phi, mượn việc công mà lo việc tư, tâm tánh hiểm độc, toàn làm những việc tổn Thiên hại Lý, làm cho người chân tu bị oán ức khó tỏ bày, cho nên Thiên giáng ma khảo, sàng lọc lựa chọn, đào thải những bất lương, rồi sau đó mới phân biệt được cái nào chân cái nào giả. Thông thường người chân tâm tu luyện, phải đạt tới mức độ không còn khuyết điểm, mới dễ dàng xử lý việc tam-kỳ thu-viên.

2. Tiêu oan nghiệt:

Chúng ta trong thời gian trước đây, sanh sanh tử tử luân-hồi chuyển kiếp, bao nhiêu oan-trái hơn sáu vạn năm đã tạo ra, chồng chất lên nhau như núi như biển, trong kiếp này được cầu Thiên-Đạo, nhưng lũy kiếp oan-trái, nào có thể dung tha các vị? Cho nên Hoàng-Thiên muôn phần từ-bi, giáng hạ ma khảo, nhồi ném nghiền mài, để cho nhìn thấy cái chân chí, đặng kết liễu lũy kiếp oan-nghiệt, hễ trải qua một lần khảo chắc được liễu kết oan-trái một lần, dần dần oan-nghiệt từ nặng chuyển nhẹ, từ cái chết chuyển thành cái sống. Từ xưa tới nay các vị Thánh Hiền Tiên Phật, chưa từng có vị nào chưa trải qua sự rèn dập của ma khảo mà được thành đạt.

3. Hóa phàm-tánh thành Thiên-tánh:

Nhân-tánh vốn thiện do lạc vào hậu-thiên, khí chất biến hóa khác nhau, được phân chia ra thành các tánh khác nhau thiên hình vạn dạng vô số kể, đều là không phù hợp với trung-đạo. Có một số người tu Đạo thường hay giành cái đúng cái phải về mình và cứ cho người ta là không đúng không phải, ham trèo cao tính xa, bồng bột nóng tánh, tùy ý làm bừa, cái hành có thể chưa đúng, trong tánh có chỗ chưa phải, những thứ này luôn luôn khó tránh khỏi. Nếu như trải qua nhiều lần ma khảo, chạm phải đinh nhọn vài lần, tự nhiên biết hồi tâm chuyển ý, sám-hối sửa lỗi, được chuyển hóa từ phàm-tánh trở lại Thiên-tánh như xưa.

4. Định phẩm vị:

Cửu-phẩm liên-đài đều tùy theo công quả hỏa hầu mà định vị. Cho nên nói: “Chân Đạo chân khảo kiến chân tâm”, Tiên Phật trước khi chứng quả đều

Page 69: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 69

phải qua nhiều cuộc truân chuyên hoạn nạn, trên thì Trời khảo, dưới thì người luyện, để nghiệm chí hướng, kiến giải, học vấn, công phu và hỏa hầu mà định phẩm-vị.

Ngày xưa Đức Khổng-Tử bị vây khốn bảy ngày ở biên giới của hai nước Trần và Thái, môn đệ đi theo đều bị đói và lâm bệnh. Trong khi đó Đức Khổng-Tử vẫn ngồi khảy đàn ca hát như không có chuyện gì xảy ra. Trong lúc này Ngài mới thử công phu và hỏa-hầu của mấy vị cao-đồ, trước hết Ngài gọi Tử-Lộ đến hỏi:

− “Này Do, kinh Thi có câu: “Chẳng phải là con tê-ngưu, chẳng phải là con hổ, cũng lang thang nơi đồng vắng hay sao”, Đạo của ta không đúng chăng? Tại sao ta lại gặp phải cảnh này, như con thú dữ bị người ta đuổi?” Tử-Lộ với sắc mặt không vui và trả lời rằng:

− “Người quân-tử không bao giờ bị khốn, theo ý con thì đức nhân của thầy chưa đủ nên người ta không tin, hay là đức trí của thầy chưa đủ nên người ta không theo đạo ta chăng? Lại nữa, con nghe thầy nói: “Làm thiện trời sẽ giáng phúc cho, làm ác thì trời sẽ giáng họa cho”, nay Thầy hoài nghĩa tích đức đã lâu, tại sao lại gặp cảnh cùng được?” Đức Khổng-Tử đáp:

− “Này Do, con chưa rõ đâu, để thầy nói cho con nghe: Nếu cho rằng người có nhân luôn luôn được người ta tin thì Bá-Di và Thúc-Tề đã không bị chết đói tại núi Thú-Dương; nếu cho rằng người có trí luôn luôn được mọi người nghe theo thì Tì-Can sao lại bị vua Trụ mổ tim mà chết; nếu cho rằng có lòng tốt thì được trời giáng phúc thì Quan-Long-Bàng đã không bị vua Kiệt hành hình; nếu cho rằng có lòng can-gián sẽ được người nghe thì Ngũ-Tử-Tư đã không bị vua Sở giết”. Gặp và không gặp là thời, người quân-tử bác học thâm mưu nhưng không gặp thời cũng rất nhiều, chẳng phải chỉ có mình thầy mà thôi. Hơn nữa bông Chi-Lan sinh trưởng nơi u-cốc, chẳng vì không người biết đến mà không phất mùi hương, người quân-tử tu đạo lập đức không vì bần-khốn mà đổi lòng.”

Khi Tử-Lộ ra, Đức Khổng-Tử gọi Tử-Cống đến hỏi:

− “Này Tứ, kinh Thi có câu: “Chẳng phải là con tê-ngưu, chẳng phải là con hổ mà cũng lang thang ngoài đồng vắng hay sao?”, Đạo ta có sai chăng? Tại sao ta lại gặp phải cảnh này?” Tử-Cống đáp:

− “Đạo của thầy quá cao, cho nên thiên-hạ không ai dung nạp được thầy, thầy nên hạ thấp một chút để người ta dễ theo”. Đức Khổng-Tử đáp:

− “Này Tứ con, người nông giỏi về canh tác nhưng không tin chắc rằng sẽ

Page 70: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 70

được gặt hái; người thợ giỏi khéo tay nhưng vẫn không chắc sẽ làm vừa ý được khách hàng. Người quân-tử tu đạo giữ nét kỷ cương mà không cần bị người dung nạp, nay không tu Đạo mà cầu người ta dung nạp mình, chí của con không lớn, nghĩ không xa”.

Tử-Cống đi ra, Nhan-Hồi vào, Đức Khổng-Tử cũng dùng một câu hỏi để hỏi Nhan-Hồi. Nhan-Hồi đáp:

− “Đạo của thầy quá cao cho nên thiên-hạ không thể dung nạp, nhưng thầy vẫn theo đó mà làm. Người ta không dung nạp Thầy cũng không có hại gì, không trau dồi đạo-đức là điều làm cho ta xấu hổ; đã trau dồi đạo-đức mà không được người dung nạp thì là điều xấu hổ của kẻ làm vua, không có hại gì cho thầy cả, chính vì không bị người dung nạp, nên thầy mới là bậc quân-tử”.

Đức Khổng-Tử nghe Nhan-Hồi đáp xong, trong lòng vui mừng và nói:

− “Hỡi con nhà họ Nhan, con người có Đạo, nếu con là kẻ giàu có, thầy sẽ làm người quản lý tài chánh cho con”.

Căn cứ vào lời đối thoại của Đức Khổng-Tử với ba vị cao-đồ, ta hiểu được có sự khác biệt về tính tình, kiến thức, tài đức và hỏa-hầu của từng người. Cảnh giới của Đức Khổng-Tử là Chí-Thánh, Nhan-Hồi là Phục-Thánh, Tử-Cống là Thành-Triết, Tử-Lộ là Đại-Hiền. Như vậy cũng có thể làm tham khảo để hiểu về vấn đề định phẩm vị qua sự ma khảo.

Tóm lại, chúng ta đã tu chân Đạo, chắc chắn phải trải qua ma khảo, là lý nhất định không thể tránh khỏi. Nay xin phân tích các loại ma khảo và cách ứng phó như thế nào để các vị tự tìm tòi lấy:

1. Nội-khảo:

Là bệnh tật, mọc ghẻ, day dưa thời gian không chịu lành, bị sâu bọ chích, chó cắn, bị thương do té ngã, tai nạn thủy hỏa, tai họa cướp giựt... hễ bị những thứ này, dù là nặng hay nhẹ đều có nhân-quả. Muốn hóa giải, là nhờ “lòng thành” để cảm hóa, tại vì “đức” có thể cảm động Bề-trên, “thành” có thể cảm động Thần-linh, chỉ cần các vị giữ vững chân tâm tin vào Thượng-Đế, hành công lập đức liễu nghiệp, thì “Hoàng-Thiên vô thân, duy đức thị phụ” (1), trong vô hình tự nhiên nảy sinh ra hóa giải. Sau cơn khảo nghiệm đạo-hạnh sẽ cao thêm một bậc.

(1) “B ề-Trên không bênh vực ai, chỉ có cái đức mới giúp cho mình”.

Page 71: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 71

2. Ngoại-khảo:

Là những việc như bị thân-nhân phản đối, bạn bè hủy báng, hàng xóm chê cười, chính quyền bắt bớ... đều thuộc ngoại-khảo. Khi gặp ngoại-khảo, cách ứng phó là dựa vào cái Lý để trọn chữ “Tín”, tức là hiểu chân lý phải xem nhẹ dục vọng trên thế gian, chuyện sống chết là do mạng của mình, có gì phải khiếp sợ? Cho nên khi xưa Trình-Tử tu Đạo, vào thời ấy bị xem là ngụy-Đạo, bị coi là người trong tổ chức phe đảng, bị tâu lên triều đình, khắc lên trên đá, đất rông mênh mông cũng không có chỗ đứng chân; Châu-Tử học Đạo, vào thời ấy bị xem là vọng tâm, bị gọi là yêu-quái, người nào tin theo là bị bắt giam, người nào lánh xa là vô tội, người nào hủy báng là có công, người nào bài xích là được thưởng, cho nên Châu-Tử bị cách chức, cúp quan bổng, bị đày ra biên giới chịu vất vả; Dương-Minh tiên-sinh diệt trừ nỗi loạn cho đất nước trở lại thái bình, có công không được thưởng, về ở nơi chùa chiềng bàn về thiền định, như là không biết có việc ấy từng xảy ra; cha con Thái-Nguyên-Định do học theo Châu Tử, bị bắt làm lính, không ngại gian truân nguy hiểm, cũng vẫn truyền Đạo.

Khi gặp ngoại-khảo, phải giữ vững lòng tin, đồng thời dùng lòng thành cầu xin Ơn Trên từ-bi cho cơn hoạn nạn chóng qua.

3. Khí-khảo:

Bị người lấy oán báo ân, xuyên tạc thị phi, vô cớ bị oan, áp bức, tình bạn biến thành cừu-địch..., những sự vô lý đó làm cho hành-giả không thể chịu đựng được mà phải nổi cơn tam-bành, như thế đã bị khí-khảo mà không hay. Khi gặp khí-khảo, phải lấy lòng khoan dung đại lượng để ứng phó. Di-Lặc tổ-sư có nói: “Có người đánh lão-chuyết, lão-chuyết đã ngã xuống trước rồi; có người chửi lão-chuyết, lão-chuyết cười hì hì; nếu nhổ nước miếng vào mặt ta, mặc sức cho nó tự khô đi, ta khỏi cần phí công đi lau chùi, kẻ nhổ cũng được vui”; như Đức Chúa Jesus nói: “Kẻ nào đánh vào má bên trái của ta, ta đưa luôn má bên phải cho họ đánh chung một lượt; có người muốn lấy áo của ta, ta cho người ấy lấy đi luôn; nếu bị ép buộc đi một dặm đường, thì đi cùng người ấy hai dặm đường”. Cho nên chúng ta nên học và làm theo lời dạy của tổ-sư và chúa Jesus.

4. Kỳ-khảo:

Những việc như tán gia bại sản, vợ chồng chia li, con cái tử vong, ..., đều là kỳ khảo. Người tu Đạo phải biết được kỳ-khảo và nhận lý để tu hành, nếu không dễ bị khảo đảo, chẳng những nửa đường hoang phế, nếu quay trở lại hủy báng Đạo thì trụy lạc vào ác-đạo. Ứng phó kỳ-khảo là phải giữ lý nhận mệnh, nên hiểu rằng vợ chồng con cái đều là duyên nợ, duyên tốt hay xấu, dài hay

Page 72: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 72

ngắn đều là nhân đã kết từ kiếp trước, dù có tu Đạo hay không, khi duyên nợ hết rồi thì đường ai nấy đi, công ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu; còn tiền tài ruộng đất chỉ là vật ngoại thân, sinh ra không mang đến, chết rồi cũng không mang đi được. Hiểu rõ được như thế thì sự vinh hoa đắc thất chỉ như một giấc mộng, trong lòng thản nhiên như mây trôi trên không, như nước chảy trên sông.

Có bài thơ cổ xưa rằng: “Thiên dã không, địa dã không, nhân sanh xa võng tại kỳ trung; nhật dã không, nguyệt dã không, đông thăng tây trụy vi thủy công? Kim dã không, ngân dã không, tử hậu hà tằng tại thủy trung? Điền dã không, địa dã không, hoán liễu đa thiếu chủ nhân ông; thê dã không, tử dã không, huỳnh tuyền lộ thượng bất tương phùng”.

5. Thuận-khảo: Có thể chia ra hai loại Thánh và phàm

− Về mặt Thánh: Được Tiền-nhân khen thưởng, được hậu-học ủng hộ phụ họa, dần dần trở nên đắc ý vọng hình, rơi vào con đường “danh” của Đạo mà trở nên ngạo mạn, bỏ quên phần đạo-tâm ở sau ót. Khi được bậc trên yêu thương, hậu-học xem trọng, càng phải tự cảnh tỉnh lấy mình, tài đâu đức đâu mà được sủng như vậy, trong lòng luôn luôn cảm tạ ân đề-bạt của các bậc huynh tỉ, đem lòng yêu thương của các bậc tiền-hiền đối với ta đi đoái hoài bậc hậu-học, khiêm tốn nhún nhường, lấy thối làm tiến, làm gương mẫu cho hậu-học noi theo. Đó là phương pháp biến thuận khảo làm bậc thang trên con đường tiến đức tu nghiệp.

− Về mặt phàm: Buôn bán phát đạt, thăng quan tiến chức, vợ chồng nặng tình, ân-ái khó lìa... trong những hoàn cảnh như ý này, người tu Đạo dần dần trở nên trọng phàm khinh Thánh, biến tu Đạo thành tu đời mà quên đi nguyện hạnh ban đầu. Muốn thoát vòng tục lụy này, ta phải lấy trọng Thánh khinh phàm làm đầu, dùng hai chữ đạm bạc để xử thế.

6. Nghịch-khảo: Cũng chia ra hai loại Thánh và phàm:

− Về mặt Thánh: Trên gặp Tiền-nhân vô tình, có công không được khen, vô cớ bị chỉ trích, dưới thì không được hậu-học kính trọng, bao lâu khổ công hy sinh ở đạo-tràng, nay bị nghịch cảnh khảo nghiệm, người tu hành cảm thấy nản lòng thối chí. Khi gặp nghịch khảo chớ nên sinh lòng oán hờn, mà nên tự suy lấy mình, Đạo thuộc vô vi, tấm lòng son sắt đã có Trời Cao soi xét, khen thưởng hay chê bai chỉ là phần nhân sự mà thôi! Một thanh sắt phải chịu đựng được cảnh trên đe dưới búa mới luyện thành một thanh kiếm hữu dụng. Tu Đạo cũng thế, gặp khảo càng nhiều thành quả càng cao.

− Về mặt phàm: Khi phát tâm hành Đạo, cha mẹ không thích, vợ chồng

Page 73: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 73

oán hận lẫn nhau, việc làm không thuận, cấp trên khinh khi, cấp dưới trở mặt. Gặp cảnh này ta phải an phận, lấy đức cảm hóa người để thay đổi hoàn cảnh. Nên biết ngọc quý tuy vỡ nhưng vẫn giữ được tính cao quý trong sạch; tre tuy bị cháy, nhưng vẫn giữ nguyên được khúc đốt không biến, chí của người tu Đạo cũng phải như thế!

7. Điên-đảo-khảo:

Vì căn cơ duyên phận, nhân-quả oan-trái của mỗi người không giống nhau, có người gặp thuận khảo trước, nghịch khảo sau; có người thì gặp nghịch khảo trước, thuận khảo sau; cũng có người bị nội, ngoại, khí, kỳ, thuận, nghịch luân phiên đến khảo, làm cho người tu hành không thể tránh đỡ mà phải thất điên bát đảo, đến nỗi sờn lòng thối chí. Dù ở trong hoàn cảnh khó khăn nào, đạo tâm của người tu đạo vẫn vững như Thái-Sơn, mặc cho mây bay gió thổi. Mây mưa dù lớn cũng có lúc ngừng, tấm lòng son sắt vẫn không phai.

8. Đạo-khảo: Chia ra hai loại nội khảo và ngoại khảo:

− Nội đạo-khảo: Phát xuất trong đạo, nhỏ thì tranh chấp về quan niệm tu hành hay Phật quy, nghiêm trọng thì tự lập chi nhánh hay môn phái mà lìa gốc, làm cho người tu hành không biết phải trái mà theo. Khi gặp khảo này, người tu hành phải lấy trí mà phán xét. Người có tôn Sư trọng Đạo chăng? Tôn Sư và trọng Đạo là hai con đường song song với nhau, nếu chỉ tôn Sư (chỉ biết đi theo người lãnh đạo) mà không trọng Đạo thì là tu Đạo nhân-tình, không hợp với lòng Trời; chỉ trọng Đạo mà không tôn Sư (chỉ lấy Đạo làm trọng, nhưng không nghe lời của các bậc Sư) thì dễ trở thành khi Sư mà biệt lập môn phái.

− Ngoại đạo-khảo: Là do bàng-môn tả-đạo đến khảo người trong Đạo. Mạt-hậu nhất-trước, tứ-quý ngũ-bàn đều phụng mệnh xuống phàm, 36 vị Tế-Công giả và 72 vị Di-Lặc giả sẽ xuất hiện. Phật độ người có duyên, Ma tìm người háo kỳ, cho nên đạo môn nhiều hơn bao giờ hết. Về pháp thuật, rải đậu thành binh, điểm thạch thành kim, chỉ trời trời mở, chỉ đất đất lở, tàng hình độn thổ..., ngoài ra có loại Thiên-ma nhập vào xác người, tự xưng là Phật, dùng thần thông biến hóa để mê hoặc lòng người. Nếu không chú ý, vì động lòng háo kỳ hay nổi lòng tham mà đi theo thì dễ rời khỏi chánh Đạo mà vào bàng-môn.

Đạo-khảo thử phần trí của người tu hành, nên cũng gọi là trí-tuệ khảo, khảo sự phán xét chính tà, khảo trung hiếu tiết nghĩa là phần đức hạnh của người tu Đạo. Đối với người chưa khai huệ, tôn Sư trọng Đạo, không tham không vọng, là một phương pháp để ứng phó đạo-khảo.

Kinh Đạo-Đức viết: “Thanh tịnh vô-vi”; sách Trung-Dung: “Vô thanh vô

Page 74: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 74

xú”; kinh Kim-Cang: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng ảo bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”(1) ; Phật nói: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như-Lai” (2); lại nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”; Cổ-Đức nói: “Ma đến chém ma, Phật đến chém Phật”, vì đó là pháp hữu-vi, làm cản bước tiến của người tu hành.

Trong những loại khảo nói trên, mỗi người tu hành đều có thể gặp phải. Khảo do nơi mình, dễ biết mà phòng, ma thuộc âm khó hiểu, nhưng không ngoài bốn chữ hỷ, nộ, ái, tăng (mừng, giận, yêu, ghét). Hỷ, nộ, ái, tăng phát không trung tiết đều dễ đi vào ma-đạo, cho nên tu Đạo phải hiểu rõ ma-tướng, trái lại chính ta đã ở trong ma-đạo mà không hay. Ma không có hình tướng tùy tâm người hiện, sắc tâm chưa dứt, thấy sắc động lòng tà dâm thì bị sắc ma thừa cơ làm hại; tính nộ chưa diệt, một khi phát nộ, nghiến răng trợn mắt... đó là hiện thân của ma quỷ. Do đó tu Đạo phải tu tâm, tâm không nhiễm trần, không sinh niệm thì mọi sự khảo nghiệm đều như hư không, có mà không thực.

Cũng như Phật Như-Lai trong tiền kiếp là nhẫn nhục tiên nhân, bị Ca-Lợi-Vương phân thân, còn nhận Ca-Lợi-Vương là ân nhân của mình, đã giúp mình sớm được thành Đạo, nên nói rằng: “Khi tôi được giáng sanh trong kiếp tới, nhất định phải độ ông trước”. Sau đó Như-Lai thành Đạo, độ đệ-tử là A-Nan, A-Nan tức là Ca-Lợi-Vương giáng thế đấy! Như là Nhạc Phi gặp nạn ở Phong-Ba-Đình, vì e rằng đệ-tử sau này phản lại, nên gọi tới sân hành hình, để cùng chết hết cả, còn cảm tạ Tần Cối đã giúp mình được trở thành kẻ trung lương. Do vậy ta thấy rằng: Từ xưa tới nay, người trung hiếu tiết nghĩa, đều là nhờ sắc thân đội lấy kiếp nạn, linh-tánh mới được trở về Trời, huống hồ chi chúng ta là người tu Thiên-Đạo!

Tuy là như thế, e rằng có một số người do kiến thức cạn, hiểu biết quá ít nên thấy nghi hoặc, khó tránh khỏi những lời phỉ báng, mỉa mai phê bình, nên Lão-Tử có nói: “Thượng sĩ khi nghe thấy Đạo siêng năng thực hiện; trung sĩ khi nghe thấy Đạo nửa giống như giữ lấy nửa giống như xa lìa mất; hạ sĩ khi nghe thấy Đạo là cười lớn lên, nếu không cười thì không đủ cho là Đạo”; Trang-Chu có nói: “Con én sống ở mái hiên, không hiểu được đại bàng có thể sống, con sâu mùa hè không thể biết được cái lạnh của băng đá, con ếch dưới đáy giếng không tin trời lớn mênh mông”; Tống-Ngọc có nói: “Một bài âm

(1) “Tất cả pháp hữu vi như ảo mộng, ảo ảnh, như sương mù và như điện chớp, phải nên nhận

xét chúng như thế nào?

(2) “Nếu như chạy theo sắc tướng hoặc chạy theo âm thanh, thì đó là hành tà Đạo, không thể

thấy bổn-tánh Như-Lai.”

Page 75: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 75

điệu, nếu tiết tấu cao thì kẻ theo kịp rất là ít”. Khổng-Tử có nói: “Hễ tu đức là có ngay lời phỉ báng, Đạo được cao là người muốn tới hủy diệt”. Do đó chúng ta thấy rằng: có Đạo là có ma, đó là cái lý nhất định. Chúng ta tu Đạo phải cảnh giác cùng khuyến khích nhau, giữ lấy tinh thần vô-úy vô-vi, tâm không biết nóng giận oán hờn, mới khỏi bị ma khảo bao vây!

Có bài thơ rằng:

Chân Đạo chân khảo ma

Thức thấu hi Tiên Phật.

Thụ tận khổ trung khổ

Thành Đạo lạc như hà!

Page 76: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 76

Bài thứ mười bốn

TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO THIÊN ÂN SƯ ĐỨC

Tôn hà Thiên mệnh độ Tam-Tào

Sư thừa ân trạch tế anh hào

Trọng nhiệm Sư đảm chúng hiệp lực

Đạo hạnh đức thụ phẩm liên cao.

Một đất nước được gọi là “Lễ Nghĩa chi bang”, là vì rất chú trọng tư tưởng biết lớn biết nhỏ, biết kẻ trên người dưới, biết tôn kính sư thầy và người trưởng-bối, nên mới được gọi là nước văn minh. Biết tôn kính sư thầy và người trưởng-bối, là kính trọng cái đức của họ, tôn trọng họ có Đạo. Huống hồ chi ngươn cuối đã tới màn chót, kiếp sát giáng lâm, gặp lúc này đang là “mạt-hậu nhất-trước”, là giây phút phân biệt thiện ác, nên Thiên thùy kim tuyến, Minh-Sư giáng phàm tế thế độ mê, cứu tánh-mạng chúng ta, chỉ cho biết Huyền-Quan ở đâu? Sau này được thoát khỏi khổ hải, đều là dựa vào ơn đức cứu tế của Sư. Do đó, cái chí-tôn của Minh-Sư, cái chí-quý của chân Đạo, chúng ta tu trì thì nên hiểu được và lo đền đáp. Nếu như muốn đền đáp tận gốc, cần phải tôn trọng Sư trưởng, tôn trọng Chí-Đạo mới được. Người xưa có nói: “Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ”, ơn nghĩa của Sư lớn biết bao! Cha mẹ sanh ra thân ta, nhưng chưa thể giúp ta kết liễu sanh-tử; Sư truyền cho ta chân Đạo, tức là có thể cứu tánh-mạng của ta, cho nên ân tình của Sư lớn hơn cha mẹ. Bất kính tam Sư (Điểm-Truyền-Sư, Dẫn-Sư, Bảo-Sư) là vong ân, thì làm sao có thể thành Đạo? Mà việc tôn trọng Sư là dựa trên Đạo để tôn kính, dù Sư tuổi nhỏ hơn ta, tài năng học thức kém hơn ta, công danh không bằng ta, lời nói không hay hơn ta, có khí phái bề ngoài không cao bằng ta, nhưng đã nhận cái ân của Dẫn-sư, Bảo-sư khai thị và dẫn bảo nhập vào Phật-môn thì phải nên tôn kính Sư trưởng. Biểu hiện lòng tôn kính là:

1. Tâm thành ý khẩn, không được khinh khi dấu diếm.

2. Lời nói cẩn thận, không được thất lễ.

3. Lễ phép chu đáo, không được xem thường.

Page 77: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 77

Ngoài ba việc này, còn phải nghe theo sự giao phó của Sư (Điểm-Truyền-Sư), làm theo ý của Sư, hễ việc gì cũng phải vâng lời mà làm, không được trái ý; có thể làm được việc gì thì nên làm, sau khi được Sư giao phó, đừng từ chối khổ cực phải hết sức đi làm; hoặc là có việc không thể làm được, cũng phải hết lòng thành kính. Nếu như có sai lầm, Sư đến khuyến giới, hoặc là phạm phải phép tắc bị Sư trách, phải có thái độ chân thành sửa chữa lỗi lầm, tuyệt đối không được dấy lên tâm tư sân niệm; dù có điểm nào trách lầm, cũng không được có thái độ nổi giận, nên biết Sư trách chúng ta khuyên chúng ta, là đều muốn chúng ta tốt. Quyển Học-Kí có ghi: “Sư nghiêm nhiên hậu Đạo tôn”, nếu thương nhiều thì dạy dỗ nghiêm, nên Sư trách chúng ta là muốn luyện chúng ta, chuốt mài chúng ta, đấy chính là phương pháp để giúp chúng ta thành Đạo. Hãy xem xưa kia Khưu-Trường-Xuân trong thất chân-nhân(1), nếu như không phải do hôm đó có Trùng Dương tiên-sinh tới chỉ trách nghiêm khắc, dạy cho nhiều, thì làm sao có tước vị Trạng-nguyên tiên-thiên? Lúc đầu Trường-Xuân đến cầu Sư xin được thâu nhận, bị cản ở ngoài cửa, sự chân thành của ông ta khi đến cầu Sư, trước sau như một không thay đổi, sau cùng cảm động Trùng-Dương tiên-sinh; Trùng-dương tiên-sinh thấy ông ta có căn cơ bất phàm, hơn nữa tuổi nhỏ học Đạo, khí chất không bị nhiễm hóa, nên bằng đủ thứ chuyện để chuốt mài ông ta. Nếu như không phải do Trùng-Dương tiên-sinh nghiêm khắc dạy dỗ, thì làm sao được thành tựu chứng quả? Trường-Xuân thường mỗi khi bị rầy, không một tí sân oán trong tâm, về sau chứng quả cao hơn các sư huynh. Cho nên chúng ta học Đạo, phải học theo cái tâm kính tổ tôn Sư của Khưu Tổ, mới không uổng việc chúng ta được gặp Minh-Sư và được Sư điểm truyền. Sách Luân-ngữ có câu: “Hữu sự đệ-tử phục kỳ lao, hữu tửu thực tiên-sinh soạn” (2), là nói rõ cái ý tôn kính Sư trưởng.

Việc tôn Sư là việc lớn hơn tất cả, như là thay thế Sư đi khai hoang, thay thế Sư đi giảng dạy, tiếp dẫn nguyên-nhân phát huy đạo-tràng, tận trung tận hiếu trước sau như một, cần cù siêng năng, v.v... Tôn Sư không nhất thiết là phải lo cái bên ngoài như phụng dưỡng và tôn kính. Võ-Huấn tiên-sinh có nói: “Đản nguyện dưỡng ngã chí, hà tuy dưỡng ngã thân” (3), nếu là nuôi chí thì phải:

1. Hay suy nhớ tới tâm của Sư;

2. Tuân theo Sư huấn;

(1) Là bảy vị chân-nhơn khổ tu khổ luyện, về sau đắc Đạo; xem quyển “Thất chân nhơn-quả”

(2) “Có việc nặng nên làm thế Thầy, khi ăn uống nên kính Thầy trước.”

(3) “Thà nuôi cái chí của tôi, chứ không nuôi cái thân tôi.”

Page 78: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 78

3. Học theo Sư hạnh;

4. Nghiêm khắc đi theo Sư đạo;

5. Giúp Sư được liễu nguyện;

6. Tuân theo Sư ý;

7. Kế thừa Sư chí.

Cứ hành theo như thế thì trở thành tâm tâm tương ứng, làm những việc giống như Sư làm, mới là cao siêu, mới là tôn Sư một cách chân chánh!

Vấn đề tôn Sư chỉ là phiến diện tu trì của người tu Đạo, nếu như có thể thành khẩn tôn kính, cũng chẳng qua là lập định tình lý, cũng là phiến diện mà thôi! Cho nên tôn Sư là phải trọng Đạo, việc tôn Sư và trọng Đạo không được tách ra, vì bổn ý của Sư là truyền Đạo, nên Đạo không thể không trọng, mà Đạo là do Sư truyền, cho nên không thể không tôn. Tôn Sư là tình lý, thí dụ như nở bông vậy, trọng Đạo là pháp lý, như là kết quả đấy! Nếu như chỉ có tôn Sư, thì biến thành chấp tướng, trở thành “nhân tình” rồi đấy! Như là nở bông mà không được chi cả, nếu như chỉ có trọng Đạo thì trở thành vong bổn, làm sao đạt kết quả? Nên tôn Sư và trọng Đạo có liên quan với nhau, vốn là nhất thể lưỡng tiện, hai cái quan trọng như nhau, tình lý và pháp lý phải được cùng lo, mới là trung-đạo.

Trọng Đạo, nơi nào cũng lấy Đạo làm tiêu đề, chẳng thà chịu uất khúc, bản thân chịu thua người ta, để kiến Đạo thành Đạo, tuyệt đối không tư tâm lợi kỉ, do nghèo mà mất đi tiết hạnh; giữ Đạo cho tới cùng, vẫn không bỏ mất tiết hạnh lớn; hoàn cảnh thay đổi, bị điên đảo bề chi cũng giữ vững như thế. Tăng-Tử có nói: “Hành nhân đạo, thay Trời tuyên hóa, tu kỉ hóa nhân cho đến chết mà thôi, cái lộ trình này không phải xa lắm sao?”

Phật có dạy rằng: “Bửu thuyền tế thế cứu vãn chúng-sanh trong dòng kiếp dội dập ào ạt, tôn Sư trọng Đạo là việc tối cần thiết, hầu mong người nào cũng có thể hiểu rõ sự quý báu của Chí-Đạo, Thiên-ân Sư-đức được mau mau lo cho vẹn toàn”. Lại nói: “Cá trong hồ cạn, khi được nước là bơi rất tự nhiên tiêu diêu, cỏ cây qua sự thấm nhuần của cơn mưa là sẽ dựng đứng ngọn lên. Cái khóa Vô-Phùng-Tỏa (Huyền-Quan) nay được điểm là một đường siêu thoát ra khổ hải. Bề-trên ban ân trạch, hãy mau đền đáp, sáng suốt mà tiến tới. Về mọi thứ công danh lợi lộc, tự phải sớm ngày nhìn xuyên thấu nó, phải ngộ ra bổn-lai diện-mục, tức là phải tu linh-đài của bản thân mình đấy!”

Con người chúng ta đã nhận lấy cái ơn của Bề-trên ban bố, làm mưa thấm sương nhuần, đã nhận được cái đức của đất sanh ra ngũ cốc để nuôi thân nào ai

Page 79: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 79

có biết? Vào tam-kỳ thời nay, hào kiếp khắp nơi, Lão-Mẫu e rằng các nguyên Phật-tử bị hủy trong đại kiếp, nên cho huyền-cơ tiết lộ hẳn nơi Đông-Thổ, lại ban mệnh lệnh cho Ân-sư giáng phàm, đích thân đi hóa độ, cho muôn ngàn vị Phật đến trợ Đạo, đi đây đi đó hiển linh cho thấy sự huyền diệu, làm cho thiện-lương nguyên-nhân được đồng đăng bỉ ngạn, hầu mong cả thảy đều thoát khỏi màn tận thế, được bảo toàn cả thể xác và linh-tánh, rồi linh-tánh đi về cõi Thiên, sau này mãn tuổi thọ được cứu thoát vĩnh viễn khỏi phải luân-hồi, không những được cứu bản thân ta một người, còn được cứu cả tổ tiên cha mẹ của ta thoát khỏi vòng khổ ải cùng hưởng khoái lạc an nhàn. Tất cả thế này đều do Lão-Mẫu Bề-trên ban ân điển cho, chúng ta nếu không phải được nhiễm phước Thiên-ân, muốn được siêu phàm thoát khổ, e rằng cho dù thân bấy xương nát cũng khó mà đặng!

Do đó, “long ân hậu trạch” (1) của Lão-Mẫu được phổ biến ra vô cùng tận, để cứu độ tam-tào, mệnh cho Hoạt-Phật Bồ-Tát giáng thế, trong khổ hải lái thuyền tới cứu vớt.

Sư-Tôn, Sư-Mẫu không luyến tiếc thánh-vị, hi sinh tất cả, chịu đựng gió cuồng phong bão, bụi bùn đen thấm, đi khắp mọi nơi tận chân trời góc biển, đi đây đi đó tầm kiếm nguyên-nhân, trải qua mọi thứ gian truân, chịu đựng đủ bề gian nan, dầm mưa dãi nắng, ăn ngủ ngoài trời, tối phơi ánh trăng, ngày đêm bôn ba, ăn không ngon ngủ không yên, để lo đại sự mạt-hậu thâu-viên, cứu vãn Phật-tánh nguyên-linh tam-tào, chịu đựng đủ thứ khổ sở, cho tới lúc thân suy sức yếu như dầu đốt cạn, Sư-Tôn quy-thiên vào lúc trung thu với mây sầu phủ kín (năm Đinh Hợi), tin buồn truyền ra, thật là giang sơn cũng khóc thảo mộc cũng rên! Ân-sư tuy rằng đã giao mệnh về Thiên, nhưng tình nghĩa sư đồ dài đằng đẳng, do nhớ tới các đệ-tử, làm sao được yên thân nơi Thiên-đàng, “Trăm phương ngàn kế để hóa độ vớt lấy những kẻ đắm mê, với huyết-thư trang này trang kia, mấy phen kêu gọi, chỉ thêm tổn thần không được chi cả, tiếng khan cạn ai hiểu cho?” Nay xin ghi lại một đoạn huyết-thư dưới đây để các vị tham khảo:

“Dục ngữ Sư tâm đoan, thoại tòng nã nhi đàm? Chỉ nhân hà chức trọng, cứu độ chúng linh tàn, không bã lệ lưu tận, độc tọa đối Bình Sơn. Hữu thùy chân thể hội, thể sư trực bôn tiền? Hữu tửu vô tâm túy, quái hoài ngã đồ nam, đồ nhi tửu sắc luyến, bất bả tánh tu viên; sư tuy hữu bửu phiên, nan dĩ phiên thượng thiên; duy khủng phá tảo bả, tảo tận nhập thâm yên; bửu phiên vi lương thiện, tảo bả đối nghiệt nam. Nhứt lợi nhứt bại thùy phân biệt? Cố nhi bất tri tu thượng thiên; không hữu thông minh tự đam ngộ, chỉ vì danh lợi thái thảm

(1) Nghĩa là: Ân điển lớn lao cho thấm nhuần dày đặc

Page 80: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 80

nhiên. Sư bổn nhứt cuồng điên, mệnh trưởng tam thiên quyền, lĩnh mệnh đảo hạ thế, giao mệnh dĩ hồi thiên, không bả đồ nhi niệm, kỷ cá minh tâm điền?”(1)

Ân-sư rất nỗi sầu đau, nhưng nào nói được với ai? Nào ai có thể hiểu được khổ sở ấy ra sao? Sư-Tôn để lại rất nhiều việc chưa liễu, Thiên-mệnh trọng nhiệm, chỉ để Sư-Mẫu một mình đảm nhận. Sư-Mẫu vì đại sự mạt-hậu thâu-viên, chịu đựng đủ thứ đau khổ, vì các đệ-tử mà bôn ba, ngậm nước mắt đau sầu, sau cùng làm mỏi mòn thân thể. Tâm của Từ-Mẫu, có thể nghĩ mà hiểu đặng, nào cần ta đây kể thêm? Nhưng mà chúng ta đã là đệ-tử, trong lòng có cảm tưởng gì? Nhất là vào lúc này Thiên-vận nửa sáng nửa mờ, chúng ta được Bề-trên đặc biệt chiếu cố, có thể lên pháp-thuyền, thế này cũng là diễm phúc đức trạch Lão-tiền-nhân. Nếu như không phải do Tiền-nhân hi sinh mọi thứ, không ngại sóng gió, vạn lý khai hoang đi tới Đài Loan, thì chúng ta làm sao được gặp chân Đạo này? Lão-tiền-nhân vì cứu độ tánh-mạng chúng-sanh, không ngại cực khổ sương gió, thiên ngôn vạn ngữ, lưỡi chay môi khô, nhưng mà người trên thế gian vẫn chưa minh lý. Cho nên Lão-Tiền-nhân chịu tận mọi thứ khổ cực, gian nan. Nhớ có một lần, Lão-Tiền-nhân vì Đạo-vụ mà thấy chúng-sanh gần như thối chí, cho nên Lão-Tiền-nhân mới viết xuống những lời huấn của đời tổ thứ mười lăm:

(1) Lời nói trong lòng chưa biết sao tỏ bày, mà lòng Thầy đã đau buồn, xót xa. Chỉ vì gánh lấy

trách nhiệm cứu độ chúng-sanh, linh-tánh bị mê mờ, trách nhiệm này rất trọng đại, nên ngồi một

mình trên Nam-Bình-Sơn, dòng lệ đã rơi tận. Vì cứu độ chúng-sanh mà bôn ba không ngừng, có

ai hiểu được Thầy. Thầy là vị Tiên tự tại ung dung tiêu diêu thoải mái, giờ đây cũng không còn

cảm thấy được. Vấn vương đến các đệ-tử, lo sợ đệ-tử đắm mê trong tửu sắc, không tu cho linh-

tánh được vẹn tròn, sáng suốt. Tuy Thầy có cây quạt bảo này, nhưng nếu con không chịu tu thì

Thầy cũng khó quạt cho con được trở về nguồn cội; chỉ sợ là cây chổi nát này, quét tận vào địa-

ngục. Cây quạt bảo dành cho thiện nam tín nữ, chổi nát kia trừ đi kẻ không còn tính người,

chuyên làm việc ác. Lên Thiên-đàng hay xuống địa-ngục do ai phân chia đây? Như vậy mà còn

không biết tu sao cho được trở về Thiên-đàng. Chỉ cho mình là kẻ thông minh, dành được cái

danh, tìm được cái lợi cho mình là cảm thấy rất đắc ý, không biết rằng do cái thông minh đó, mà

làm cản trở một con đường sáng lạn quý báu không gì sánh bằng. Cho nên rất là thảm thương!

Thầy vốn có cái danh là Tế-Điên, được Mẫu ban cho cái quyền chưởng quản tam-tào (Thiên-tào,

Địa-tào, Nhân-tào). Được lệnh này nên Thầy lại giáng thế, để cứu độ chúng-sanh, nay Thầy đã

trở về cõi trên, lòng Thầy luôn luôn tưởng nhớ các con, nhưng có mấy con hiểu được tâm trạng

của Thầy đây?”

Page 81: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 81

“Thị thị phi phi bất tất biện, trường trường đoản đoản hà tuy đàm? Thiên bất oán lai vạn bất oán, tự oán tài đức lưỡng bạc hàn, đầu thang phó hỏa liễu tâm nguyện, vạn ma bất cải tố tâm điền; nhiệm tha hổ lang thiên thiên vạn, tha nhân khước bộ ngã độc tiền, nhạc phi phong Ba-Đình ngộ nạn, quan đế đông ngô thụ hương yên; bán bích tam phân vi liễu nguyện, nhứt điểm trung tâm tạo Thánh Hiền. Huống ta thế Mẫu bả Đạo biện, Thiên chân vạn Thánh khốn trần phàm. Ngã đẳng giai thị bồng thảo sĩ, hàn môn thảo xá chưởng Đạo quyền. Thiên-Đạo u thâm canh huyền viễn, trung hạ ư năng khán đắc xuyên? Đại nhân bất kiến tiểu nhân quá, tể tướng đỗ nội ngọa hải thuyền. Phân kim lô nội tẩu nhứt biến, tài tri thiên ngoại hoàn hữu thiên, hải nội hải ngoại Đạo vi Tổ, Thiên thượng Thiên hạ Đạo vi tiên, tài yếu minh lai sắc yếu viễn, Thiên khổ thụ tận hữu vạn điềm, quả nhiên chân tâm trì kinh sám, phùng hung hóa kiết bảo bình an. Đại-Đạo bổn thị thượng Thiên sự, yếm đại Thiên hành Thiên trợ ta, nhân kêu nhân tử Thiên bất khẳng, Thiên kêu nhân tử hửu hà nan, cuồng phong hữu khởi hoàn hữu tức, khởi cho thiên lai tức cho thiên, đại chúng mạt vi Bồ-đề nguyện, chỉnh lý tâm thân tái hướng tiền”. Ngày 21 tháng 03 năm Quý-Mẹo.

Những lời huấn trên do Lão-Tiền-nhân ghi chép để cảnh tỉnh chúng ta rất là cảm động!

Chúng ta là người hậu-học, làm sao có thể không suy nhớ tới khổ tâm của Tiền-nhân? Xưa kia chúa Jesus tại sao tuẩn-đạo nơi Thập-tự Thánh-giá? Khổng-Tử tại sao hết lương thực vào đất Trần-Thái? Tất cả những thứ này, chẳng lẽ không phải vì cứu tánh-mạng sanh-tử của chúng-sanh mà bị gặp nạn sao? Thế này chính là “tiên Thánh hậu Thánh, Đạo-lý như nhau”.

Cho nên chúng ta hãy lấy lương tâm ra, chỉnh ngay lại bản thân mình một cách chân thật và tuyệt đối, xả thân vì đại chúng, lập nguyện và liễu nguyện, để đền báo Thiên-ân Sư-đức được phần nào, mới không hổ thẹn với Thiên-lý lương-tâm của chúng ta, cũng là tánh-mạng thật sự được cứu, cửu-huyền thất-tổ được Bề-trên ban chiếu điển quang.

Thiên-Ân Sư-Đức báo bất hoàn

Vô địa tự dung quý ban ban

Tiền-nhân thành toàn tâm điền phí

Phấn thân toái cốt biểu bạch kiền.

ooo0ooo

Page 82: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 82

Bài thứ mười lăm

TÍN NGUYỆN HÀNH CHỨNG

Khổng-Tử nói: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”(1); lại nói: “Dân vô tín bất lập”; Tử-Trương nói: “Cổ thủ đạo-đức nhưng không thể nào huyền dương nó, đối với Đạo không nhận thức lắm, lại lòng tin không đủ, và không thật lòng mà tu cái Đạo này, con người này sống trong thế gian cũng như không, cho nên không gì quan trọng cả?” Phật nói: “Tín vi công đức chi Mẫu” (2); lại nói: “Tín là nền tảng của Bồ-đề”.

Có thể thấy chữ “Tín” giữa con người quan trọng như thế nào, chúng ta lần này gặp phải kỳ duyên giai hội sáu vạn năm mới có một lần, gặp được chân Đạo phổ truyền, không ngờ đã đem được “Đạo” về với thân mình, nhưng với điều kiện tối thiểu là phải có một chữ “Tín”, tức là tin về Đạo chánh, Lý chánh, Thiên-mệnh chánh của Minh-Sư, tam-kỳ mạt-kiếp và chuyển biến của Thiên-bàn cũng là thật, luôn cả “Thiên-cơ diệu huấn” do Tiên Phật mượn đàn, tất cả những cái đó cũng không phải là thật hay sao? Sau khi có lòng tin, mới có thể có hứng thú đối với Đạo, mới có thể từng bước tiến lên phía trước, sau này mới có thể thành tựu, không uổng mất đã sống kiếp này. Nhưng muốn tiến lên phía trước, thực tế phải làm như thế nào? Đó là “lập nguyện” đấy! Tại vì lời thệ nguyện chính là cái biểu chỉ đường để người tu Đạo tiến lên, nếu như không có cái biểu chỉ đường này, thì cũng giống như là nhắm mắt tu, nhắm mắt luyện, hoàn toàn không có mục tiêu mà cứ đi, thật là khó hi vọng có thể thành Đạo, cho nên người cổ xưa có nói:

“Tu Đạo khi nhập môn, phát tâm là điều đầu tiên nhất, việc tu hành có điều gì gấp rút phải làm, đó là trước tiên phải lập nguyện. Có phát tâm thì có thể độ chúng-sanh, có lập nguyện thì có thể thành Phật Đạo”; lại nói: “Nếu không phát tâm quảng đại, lập nguyện kiên cường, thì khi trải qua trần kiếp này rồi, cũng ở lại trong vòng luân-hồi, tuy có tu hành, cũng là uổng công khổ cực”. Cho nên kinh Hoa-Nghiêm có nói: “Vong thất Bồ-đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp”. Cho nên phải biết rằng muốn học thượng thừa Như-Lai, điều đầu tiên là phải phát Bồ-đề tâm, không được trì trệ đấy!”

Căn cứ theo những lời trên, đủ chứng minh rằng việc phát tâm lập nguyện, là quá trình chắc phải trải qua của một người tu Đạo. Thử xem từ xưa tới nay các vị Tiên chân Bồ-Tát, chư Phật chư Tổ, có vị nào không phải lập hồng-thệ

(1) “Người không có Tín thì không có chỗ đứng chân.”

(2) “Tín là mẹ của vạn công đức.”

Page 83: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 83

đại-nguyện mà thành tựu đâu? Sau khi lập thệ nguyện, có tấm “biểu-chỉ-đường” rồi, mới có thể theo con đường này, tiếp tục không ngừng tiến lên phía trước, mới có thể đạt đến mục đích; cũng tức là nói, sau khi lập nguyện, phải thật lòng chiếu theo nguyện mà hành, mới có thể chứng đắc liên-đài. Kinh Phật có nói: “Chúng-sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Có thể thấy rằng việc lập nguyện có vai trò quan trọng như thế nào đối với người tu Đạo chúng ta.

Ngoài ra, còn có điểm quan trọng nữa là trong khi chúng ta lập nguyện, được Vô-Sanh Lão-Mẫu ban sắc lệnh cho Tam-Quan Đại-Đế ghi tên vào Phật-bàn, trong lúc thực hành vấn đề liễu nguyện, được các Tiên Phật âm thầm trợ giúp, do vậy mà sức lực hành Đạo được mạnh lên, những việc mình muốn làm, đều do lập nguyện mà thành đạt, hai chữ “nguyện lực” có hàm ý như thế đấy! Có nguyện mới có sức, nguyện lập được lớn, thì sức lực được nảy sinh cũng lớn, là do có Tiên Phật âm thầm trợ giúp đấy; lại còn có điều là, “lập nguyện” cũng là một sự bảo đảm cho việc tu Đạo, vì chân Đạo có chân-khảo, có câu: “Chân Đạo chân khảo nghiệm chân tâm”, Bề-trên mượn người mượn việc để khảo nghiệm người tu Đạo, nếu không có “hồng-thệ đại-nguyện” để ràng buộc các vị, e rằng khó tránh khỏi tình trạng gặp ma thối chí, gặp khảo là biến tâm, rốt cuộc uổng công tu một phen, sau cùng được cái trụy lạc, đáng tiếc biết bao! nguy hiểm biết bao! Ngược lại, sau khi chúng ta đã lập đại nguyện, hiểu rõ sự nghiêm khắc của thệ nguyện, sự vô tình của Phật pháp, trong lòng tự nhiên giữ lấy cái tâm cảnh giác e dè, cho dù gặp ma khảo nào, cũng chắc không dám có ý niệm vọng động, không dám có tâm chí lung lay. Cho nên nói, nguyện của các vị nếu càng lớn, thì sự bảo đảm cũng càng lớn, rồi sau này quả-vị của các vị càng lớn hơn, nhưng phải theo nguyện mà thực hành mới có thể đặng; nếu ngược lại, lập nguyện càng lớn, bị trụy lạc cũng càng lớn. Do đó có thể biết rằng nguyện là “biểu-chỉ-đường” để làm việc Đạo, là “nguyên động lực” của Đại-Đạo, cũng là “thuốc định tâm” cho việc tu Đạo. Cho nên người tu Đạo, nếu muốn có một phần thành quả lại không chịu lập hồng thệ đại nguyện, thì làm sao có đặng? Hơn nữa, người xưa có cho rằng “tín-nguyện-hành” là ba thứ lương thực để đi tới Tây-phương, có giải thích rằng “không có tin thì không có gì để lập nguyện, không có nguyện thì không có gì để dẫn đường mà đi, không có hành thì không thể nào chứng cái tín để liễu cái nguyện, nên tín phải là chân tín, nguyện phải là thiết nguyện, hành phải là thực hành”. Căn cứ theo đoạn lý luận trên đây, đủ chứng minh cho ta thấy ba chữ “tín-nguyện-hành” không thể thiếu một.

Tóm lại, chúng ta đã đem cái Đại-Đạo chí-tôn chí-quý này về với thân mình thì trước tiên phải cho lòng tin được vững chắc, lập phát hồng-nguyện.

Page 84: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 84

Sau khi lập nguyện, theo nguyện mà hành, dù có thiên ma vạn khảo, tới chết không biến tâm, dốc thân cung kính hết lòng tận tụy, cho tới khi chết mà thôi, bất kể làm cái gì hoặc gặp việc điên đảo như thế nào, cũng luôn nhớ trong lòng không thay đổi, cứ như thế trước sau như một không ngừng tiến tới, thì nào có lý lẽ không thành Đạo? không chứng quả? Sau cùng, chúc các vị được hoàn thành Thánh-nghiệp!

Page 85: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 85

Bài thứ mười sáu

ĐẠO LÀM NG ƯỜI - NHÂN CÁCH PH ẢI ĐƯỢC VẸN TOÀN

TU THIÊN ĐẠO - PHẢI BẮT ĐẦU TỪ NHÂN ĐẠO

Con người sống trên thế gian, trước tiên là phải hiểu rõ thiên thời, hiểu rõ thân phân của mình, mới có thể lập thân trên thế gian. Con người thời nay không hỏi thiên thời, một lòng hướng về chủ nghĩa công-lợi, không hỏi xã hội có yên không, chỉ lo cho mình được an nhàn, dốc tâm trên đường danh lợi, nào có nghĩ tới nhân-cách bị tổn thương ra sao; cứ mày tranh tao giành, tạo ra nguy cơ thế giới bị hủy diệt. Cả thế giới đều lung lay, ai nấy đều thấy cả, nếu khoa học đã đi tới cao siêu tột đỉnh, cũng tìm không ra cách cứu vãng. Các thứ vũ khí được phát minh ra có thể hủy diệt cả thế giới, con người chỉ biết lợi ích của khoa học mà không biết tai hại của nó, không biết rằng sinh mạng của vạn linh dưới ngầm trời trong sớm chiều nay mai sẽ gặp phải nguy cơ bị hủy diệt!

Mạnh-Tử có nói: “Lúc thiên-hạ bị đắm chìm trong khổ hải, lấy Đạo mà vãng cứu”. Người trẻ tuổi khi đã trải qua giáo dục cao đẳng, đã là thân phận của người sĩ-tử, nên biết bản thân mình đóng vai trò gì trong xã hội. Người sĩ-tử có thể dẫn dắt bá-tánh, sĩ khí nếu được hưng thịnh thì nước nhà được mạnh cường; sĩ khí nếu bị suy tồi thì nước nhà bị suy yếu. Tăng-Tử có nói: “Sĩ-tử cần được thể hiện lòng nhân, sẽ chịu cái trách nhiệm nặng trên đường Đạo rất xa, lấy nhân đạo làm bản thân, trách nhiệm không phải nặng lắm sao? Hành nhân đạo, thay Trời tuyên hóa, tu mình để cảm hóa người khác, cho tới chết mà thôi, con đường này không phải rất là xa chăng?”; Khổng-Tử có nói: “Sĩ-tử chỉ biết lo mình thôi thì không đủ tư cách được gọi là sĩ-tử”.

Hiện nay chúng ta đã cầu Đạo, càng phải gánh lấy nhiệm vụ cấp bách này, lo cứu thế cứu dân, lo cái nỗi lo của thế gian, để cứu vãn thời vận. Tục-ngữ rằng: “Loạn thế tạo Thánh Hiền”. Người đi học là cái chí phải học theo Thánh học theo Hiền, lúc này chính là cơ may thành tựu Thánh-nghiệp. Thời xưa, khi Thánh Hiền Tiên Phật còn tại thế, đã xá bỏ vinh hoa phú quý của mình, một lòng chỉ muốn cứu thế cứu dân, do đó chúng-sanh mới tạ ơn, xây chùa lập miếu, thành tâm kính ngưỡng. Hiện nay người đi học rất nhiều, nhưng không có một người thành Thánh-Nhân, không có ai được người ta tưởng niệm, vì ai nấy đều tính toán lợi ích cho bản thân mình, không nghĩ đến lợi ích cho người khác, cho nên về sau đều không ai nhắc đến. Khổng-Tử có nói: “Quân-tử tật

Page 86: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 86

một thế dĩ danh bất xưng”(1). Mọi sự việc trên thế gian, không có thứ nào là chân thật cả, vĩnh viễn tồn tại đó là tam-bất-hủ của Thánh-nhân thường dạy: lập đức, lập ngôn, lập công, thì mới có thể vạn cổ lưu danh. Đối với thế gian không có cống hiến cho người đời gì cả, thì khi mất đi cũng không ai nhắc tới tên của ta, vì vậy nên nghiên cứu cho tỉ mỉ đạo-lý làm người.

Đạo-lý làm người, điều cần thiết nhất là bồi dưỡng nhân-cách cho vẹn toàn. Người có nhân-cách vẹn toàn mới có sự nghiệp vẹn toàn. Nếu như nhân-cách không vẹn toàn, bất cứ lúc nào cũng có thể bị thân bại danh liệt. Làm con người, trước tiên là chú trọng về căn bản, rồi sau đó phát triển như thế nào cho được hữu dụng, mới có thể là một người hoàn chỉnh. Mạnh-Tử có nói: “Nhơn là nhân đấy, gom lại mà nói là Đạo đấy!” Chữ “nhơn” trong tiếng Hoa là do

chữ “nhân” 人 và số hai 二 ghép thành; nghĩa là hai người:

1. Chân nhân - linh-tánh - tam ngũ thành tánh - cái thể.

2. Giả nhân - nhục thể - nhị ngũ thành hình - cái dụng.

Hai cái nhân hợp nhất thì con người mới được sanh ra. Cho nên nói: “Tánh tại nhân tại, tánh khứ nhân vong”(2). Con người có thể mượn cái giả để tu cái chân, làm việc gì cũng hợp tình hợp lý, đó là Đạo đấy!

Tư tưởng về nhân-cách của Khổng-Tử, lấy nhân-đạo làm mục tiêu cho người ta phấn đấu suốt đời, để chữ nhân được trở thành hiện thực. Trong sách Luân-ngữ có ghi rất nhiều về việc cầu cái “nhân” của đệ-tử Khổng môn.

Thí dụ: Nhan-Uyên hỏi: “Nhân là gì?”, Khổng-Tử nói: “Khắc kỉ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỉ phục lễ, thiên-hạ quy nhân”. “Nhất nhật” không phải nói là một ngày (có 24 tiếng đồng hồ), nghĩa là vũ trụ không thể có hai nhật (mặt trời) mà là thiên-hạ người người đều dưới một nhật chiếu sáng, cho nên “nhất nhật” tức là chỉ người người trong thiên-hạ đấy! Khổng-Tử nói: “Thương người, công phu này là một đạo-đức cần phải được thực tiễn, biết thương người ta thì thường được người ta thương”. Về đạo-đức thực tiễn như thế này, trong sách Luân-ngữ viết rất nhiều, xin tạm kể một vài điều như sau:

1) Về mặt ý chí:

Phải kiên cường bất động. Khổng-Tử có nói: “Tâm ta được cang thì không bị lay chuyển năng lực hành Đại-Đạo; ý chí kiên định, tấn đạo bất thối; tánh tình nồng hậu, tôn trọng cái Đạo; lời nói hiền hòa, không nói vọng ngữ, phát (1) “Người Quân-tử vì bệnh tật mà chết thì không người đời xưng danh.”

(2) Tánh còn thì nhân (người) còn, nếu như hai nhân bị tách ra, thì tánh đi là nhân (người) chết.

Page 87: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 87

ngôn đúng lý, có thể huyền dương Đại-Đạo, có đủ bốn điều này, nhất định không xa nhân đạo”; lại nói: “Chí y đạo, cứ y đức”, là mục tiêu làm người phải hợp với Đạo, tu Thiên-đạo cứ y đức, làm việc phải căn cứ với đức hạnh.

2) Về mặt lý trí:

Việc làm hướng thiện, phải trung thực thật thà, suy nghĩ phải sâu sắc thận trọng, phải biết xét hỏi, phải biết phân biệt rõ ràng, phải thực hành một cách thành khẩn, không thể cứ nghe người ta nói sao là đều làm theo, không thể hễ nghe là hò theo. Khổng-Tử nói: “Người ta cho là người đó xấu, hoặc là việc đó không đúng thì chúng ta cần phải suy xét xem; những cái người ta ưa thích hoặc dã việc đó là tốt, thì ta cũng phải nghĩ lại một cái”. Những lời tà thuyết, tiếng đồn, được ngưng lại ở nơi người có trí tuệ. Nói chuyện thị phi đó là người thị phi.

3) Về mặt tình cảm:

Phải biết thương người. Khổng-Tử có nói: “Hễ người ta có lòng nhân là biết thương người”; Tử-Lộ nói: “Người có nhân là được người ta thương mình”; Tử-Cống nói: “Người có nhân là thương người ta”; Nhan-Uyên nói: “Người có nhân là biết tự thương mình”, biết tự thương mình thì chắc có thể thương người ta, biết thương người ta thì thường được người ta thương. Quân-tử lo cái nỗi lo âu của người ta, được vui lên nhờ cái vui vẻ của người ta.

4) Về mặt tu thân:

Phải khôi phục lại cái lễ, phải biết kính nhường. Khổng-Tử có nói: “Nhất nhật khắc kỉ phục lễ, thiên-hạ quy nhân ư”; Trọng-Cung hỏi: “Nhân là gì?”, Khổng-Tử nói: “Xuất môn như kiến đại bính, sư dân như đại tế; kỉ sở bất dục, vật thi y nhân”; sách Đại-học có nói: “Quân vương với bá-tánh là có thân phận và giai cấp khác nhau, nhưng tánh-linh đều là từ tiên-thiên đến, đều là như nhau, cho nên cần phải hạ công phu”.

5) Về mặt cầu học:

Phải siêng năng học tập, phải học cho rộng cho nhiều, cần thiết nhất là phải minh lý. Khổng-Tử nói: “Tôi không phải sanh ra là việc gì cũng biết, do nỗ lực học tập mà biết được đấy”; l ại nói: “Học Đạo, tu Đạo, tự cường không ngừng mà luyện tập nó, không phải cũng được vui sao?”; lại nói: “Bác học y văn, ước chi dĩ lễ”, cho chúng ta nghiên cứu rộng rãi về đạo-lý, phải lấy lễ tiết mà ràng buộc chúng ta, nếu như học rộng mà không được ràng buộc, chẳng khác gì như con dê lạc đàn.

Page 88: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 88

6) Về mặt kỉ nghệ:

Phải phong phú. Khổng-Tử nói: “Con người cần tuân theo nhân ái mà làm, bàn Thiên-đạo, tận nhân-đạo, đem cái tánh của mình quy về nơi nghệ thuật, đó là tận nhân-đạo”.

7) Về mặt đối đãi với người:

Phải cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Tử-Trương hỏi Khổng-Tử: “Nhân là gì?” Khổng-Tử nói: “Có thể thực hiện năm điều trên đời, đó là nhân đấy!” Tử-Trương hỏi tiếp ý nghĩa năm điều trên, Khổng-Tử nói: “Đó là cung kính, khoan hồng, tin nhau, cần mẫn, ân huệ; năm điều này là cung kỉ kính nhân, không bị kẻ khác ăn hiếp; đối người khoan hồng, được người ta tâm phục; lời nói uy tín, người ta có thể tín nhiệm mình; làm việc cần mẫn, thì dễ thành công; đối người có ân huệ thì người ta sẽ giúp đỡ cho mình”.

Mạnh-Tử nói: “Mình kính mến người đó, nhưng người đó không kính nể mình, ngược lại mình đối họ nhân-từ; quản lý bá-tánh nhưng bá-tánh lại không phục tùng, như vậy thì dùng trí huệ mà quản lý; tôn kính người đó, nhưng người đó lại không tôn kính mình, ngược lại ta phải tôn kính họ; hành vi chỗ nào không được đứng đắn, ngược lại ta phải yêu cầu ở chính mình, bản thân đã được ngay chánh thì thiên-hạ tự nhiên sẽ quy thuận”.

8) Về mặt phụng sự cha mẹ:

Có người nói: “Hiếu thảo cha mẹ, thương yêu anh em là bản tánh của con người”, phải chí thành phụng sự cha mẹ, phải biết kính cha mẹ, thuận theo chí của cha mẹ.

Tử-Du hỏi: “Hi ếu là gì?”, Khổng-Tử trả lời rằng: “Trong thời đại này, nhiều người cho rằng nuôi dưỡng cha mẹ chỉ cần ăn no mặc ấm là Hiếu; đối với chó ngựa, ta đều có thể nuôi lấy; nếu không có lòng tôn kính, thì cũng như nuôi những động vật có khác biệt gì đâu?”, Khổng-Tử lại nói: “Khi cha còn sống, hãy xerm cái chí của cha. Khi cha không còn nữa, thì xem hành vi và việc làm của cha trong thời sinh tiền, trong vòng ba năm mà không thay đổi chí hướng của cha, như vậy là hiếu-đạo, có thể an ủi thiên linh của cha, mới có thể gọi là hiếu!” (1).

(1) Đó là lời Đức Khổng Thánh nói với môn đệ mà thân phụ là một người mô-phạm nên dạy phải

theo chí của cha. Cũng như học trò hỏi về đức Nhân, Đức Khổng-Tử tùy căn của mỗi người mà

trả lời khác nhau. Phật nói: “Pháp vô định pháp” là vậy. Người sau không hiểu Thánh-nhân vì

người thuyết pháp, hiểu lầm ý nghĩa của Đức Khổng-Tử, đó là một điều sai lầm.

Page 89: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 89

Tử-Hạ hỏi: “Hi ếu là gì?”, Khổng-Tử nói: “Điều cần thiết và khả quý nhất là phải thuận theo tấm lòng của cha mẹ, và sắc mặt phải vui tươi. Nếu như chỉ giúp việc cho cha mẹ, hoặc là cho ăn uống mà thôi, thì không thể gọi là hiếu được”.

Mạnh-Võ-Bá hỏi: “Hi ếu là gì?”, Khổng-Tử biết người này đấu khí háo thắng, không biết thương tiếc bản thân, cho nên nói rằng: “Cha mẹ thương con không sơ sót, bất cứ lúc nào cũng sợ con cái bệnh cả, ngày đêm lo âu”. Mạnh-Tử rằng: “Phụng sự ai là lớn nhất? - Phụng sự cha mẹ là lớn nhất. - Giữ lấy cái nào là lớn nhất? - Giữ lấy thân mình là lớn nhất.” Kinh Hiếu có rằng: “Thân thể tóc da, đều là nhận của cha mẹ, không dám làm bị thương, đó là sự khởi đầu của cái Hiếu; lập thân hành Đạo, dương danh hậu thế để cha mẹ được siêu thăng, là điểm sau cùng trong việc hiếu thảo đấy!”.

Những điều vừa kể trên, tuy ngắn ngủi đơn giản nhưng bao quát rất rộng, đủ cho thấy cách dạy dỗ của Khổng-Tử thật quảng đại mà hết mực tinh vi, không thiếu bề gì. Khổng-Tử cho rằng một người nếu muốn đạt tới cảnh giới “nhân”, hãy nên tu dưỡng đủ bề, mới có thể thực hiện đạo-đức đủ mọi phương diện. Nếu như chỉ có một mặt tu dưỡng rất khá, những mặt khác lại chưa được tốt, thì không thể nói là đã đạt tới cảnh giới “nhân” vì nhân-cách của người đó còn chưa được vẹn toàn đấy!

Về mặt đạo-đức, không phải chỉ có những hành vi đối xử với người mới gọi là đạo-đức, mà là những hành vi thực hiện cái “nhân”, đều có thể gọi là “đạo-đức”. Cho nên người có ý chí kiên cường tu dưỡng là người có đạo-đức, vì người này có thể thành nhân. Đồng thời đạo-đức chỉ là một hành vi để cầu nhân, không thể coi đó chính là cái nhân. Có rất nhiều người vì thấy Khổng-Tử trả lời cho đệ-tử về chữ “nhân”, thấy câu trả lời cho từng đệ-tử có vẻ khác nhau, thì cho rằng ý nghĩa của nhân có nhiều phương diện. Do đó cho rằng chữ “nhơn” với các thứ đạo-đức vốn là một, như vậy thật là không hiểu bổn ý của Khổng-Tử. Khổng-Tử dạy người, vốn chủ trương tùy người mà dạy, tức là tùy công phu tu dưỡng của đệ-tử như thế nào, rồi dựa vào trình độ công phu cao thấp ra sao, chỉ điểm cho các đường lối cầu nhân. Do công phu tu dưỡng trình độ cao thấp khác nhau, cho nên câu trả lời của Khổng-Tử cũng khác nhau. Các thứ công phu đó, tuy rằng đều có thể đạt tới chữ “nhân”, nhưng công phu là công phu, không thể lẫn lộn với cái “nhân”.

Vài cách tu dưỡng vừa kể trên là công phu tích cực để cầu “nhân”, Khổng-Tử còn chủ trương một thứ công phu tiêu cực nữa để thực hiện chữ “nhân”, công phu thứ này chính là “an bần lạc đạo”, Khổng-Tử rằng: “Sớm nghe Đạo tối chết cũng được”. Người có nhân đức, không vì cái mạng sống của mình mà hại đến cái nhân, thà hy sinh thân mình để giữ lấy cái nhân.

Page 90: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 90

Tóm lại, xưa nay Thánh Hiền Tiên Phật đều là do người phàm tu thành, chúng ta cung phụng, sùng bái kính lạy, vì muốn làm gương cho mọi người, để cùng chúng ta học theo họ; Thánh Hiền cũng là người, chúng ta cũng là người, vì vậy phải biết sanh tâm hổ thẹn! Phật Thánh không phải trong chùa trong miếu. Vậy Phật ở đâu? Phật ở nơi tâm đầu của mình đấy! Kinh Phật có nói:

Phật tại Linh-Sơn mạc viễn cầu

Linh-Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

Nhân nhân hữu cá Linh-Sơn-Tháp

Hảo hướng Linh-Sơn-Tháp hạ tu(1).

Lại nói: “Ngã tâm tự hữu Phật, ngã Phật thị chân Phật; ngã nhược vô Phật tâm, hà xứ tầm chân Phật?”. Chúng ta đã được nhận “nhất chỉ” phải biết phản-bổn hoàn-nguyên, xem ngang hàng với Thánh Hiền Tiên Phật. Chúng ta tuy rằng được điểm đạo rồi, nhưng còn rất nhiều điều không được như Thánh Hiền, sai lầm lung tung, nếu như không biết tu dưỡng thì cũng không thể thành Đạo, vì nhân-cách của chúng ta còn chưa được tốt, nào có ai khen chúng ta là Thánh Hiền đâu! Thánh Hiền là đã làm tròn Thiên-đạo, mà chúng ta nhân-đạo còn chưa được trọn vẹn. Do đó, nếu như chúng ta lập chí làm Thánh làm Hiền, thì trước tiên phải tiến hành công phu từ nhân-đạo. Nhân-đạo là đạo-lý làm người, đạo-lý làm người đòi hỏi phải có nhân-cách vẹn toàn.

Những lời nói của Thánh Hiền vừa kể trên đây, là đều phải tu sửa và thực sự mà làm. Khổng-Tử nói: “Có nỗ lực đi làm mới có thể gần với cái nhân”, thế thì để xem ý chí các vị như thế nào!

Khổng-Tử nói: “Con người có ngũ nghi: Dung-nhân, Sĩ-nhân, Quân-tử, Hiền-nhân, Thánh-nhân”.

− Dung-nhân: Là tâm không chung thủy, miệng không nói lời dạy đạo làm người, không chọn người hiền để đỡ lấy thân mình, không chịu gắng sức mà đi để tự mình được vững chắc; gặp việc không được rõ ràng, cũng không biết phân biệt được sai trái, cứ theo mà đi làm, không biết sự việc có đúng hay

(1) Phật tại Linh-Sơn chớ kiếm xa.

Linh-Sơn ở tại đáy tim ta.

Linh-Sơn tháp báu người người có.

Mau hướng Linh-Sơn tháp hạ tu.

Page 91: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 91

không? Thế này là “dung-nhân” đấy!

− Sĩ-nhân: Là “tâm hữu sở định, kế hữu sở thủ” (1). Tuy không thể trọn vẹn cái căn bản của Đạo-thuật, nhưng chắc có học theo Đạo-thuật; tuy không thể làm đầy đủ việc thiện, nhưng chắc có làm việc thiện nào đó. Cho nên về sự hiểu biết không ham nhiều, nhưng chắc phải suy xét mình đã nói cái gì; cái hành không ham nhiều, nhưng phải suy xét nó từ đâu mà có. Trí tức là sự hiểu biết, ngôn tức là lời nói, thì cái hình hài như cái tánh là điều không thể có thay đổi đấy! Phú quý không lay động được cái tâm, bần tiện cũng không làm cho tâm thay đổi, thế này gọi là “Sĩ-tử” đấy!

− Quân-tử: Là hễ nói thì chắc chắn phải trung tín, mà tâm không oán than. Trong tâm có nhân nghĩa thì những thứ mĩ sắc không làm cho bị đắm mê; suy nghĩ đắn đo rất thông minh chu đáo; làm việc không chỉ lo cho mình; tin Đạo thành khẩn mà hành, tự cường không ngừng, con người mà xem chừng như sắp có thể vượt qua nhưng sau cùng không thể đi kịp, đó là “Quân-tử” đấy!

− Hiền-nhân: Là cái đức không lúc nào rời khỏi thân mình, cái hành luôn luôn theo luật theo phép; lời nói có thể làm được phép tắc cho thiên-hạ mà không tổn tới thân, không làm tổn thương tới mình; cái “đạo” đủ để hóa độ bá-tánh, mà không làm tổn thương tới cái căn bản; nếu giàu sang thì chắc thiên-hạ không có những đồng tiền không chính đáng; nếu đi bố-thí thì chắc thiên-hạ không có ai bị nghèo nàn, như thế là “Hiền-nhân” đấy!

− Thánh-hiền: Đức hợp với Trời Đất, biến thông vô phương, nghèo nàn là cái khởi đầu của vạn sự vạn vật với kết quả, trợ lực nhân dân kiến lập phẩm cách, đạt tới trọn vẹn. Tu đạo được lâu, thì tánh tình giống như người tu đạo, được sáng suốt như nhật-nguyệt vậy; chịu đi độ hóa chúng-sanh như là Thần Tiên chiếu cố người đời vậy; có một số người không biết người này có đức hạnh, người láng giềng trông thấy cũng không biết người này có đạo, thế này là “Thánh-nhân” đấy!

Xem qua Khổng-Tử giảng thuyết năm thứ nhân-cách, chúng ta có thể nghĩ xem loại nào là cao thượng nhất, ai ai cũng có thể thành Thánh Hiền, chỉ xem mình có ý chí hay không có ý chí mà thôi!

* * *

(1) Tâm định kế hoạch đó thì nhất định giữ lấy.

Page 92: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 92

Bài thứ mười bảy

PHẬT QUY LỄ TIẾT

A). Khi tới Phật đường:

1. Các đạo-thân khi tới Phật-đường, trước tiên phải tham-giá; khi đi về phải từ-giá; khi gặp trường hợp bất đắc dĩ, phải biết linh hoạt theo từng hoàn cảnh, không nên cố chấp.

2. Không được tự ý sử dụng các đồ vật trong Phật-đường, nếu như muốn xem cuốn sách nào đó, phải trình bày rõ ràng với người chuyên trách, không được tự tay lấy xem.

3. Tờ giấy có chữ hay không có chữ đều không được lãng phí, không được tùy ý vất liệng, khi nhìn thấy phải nhặt lên hỏi qua Đàn-chủ rồi bỏ vào thùng giấy vụn.

4. Đối với những đồ vật mình đã lấy, khi sử dụng xong phải để lại chỗ cũ để giữ gìn ngăn nắp trật tự.

5. Nếu có đàm, phải nhổ trong bô, hoặc nhổ vào giấy vệ sinh gói lại bỏ vào thùng rác để giữ gìn vệ sinh nơi Phật-đường.

6. Khi ra vào Phật-đường phải nhẹ chân, không được gây tiếng ồn và tùy tiện cả nhóm người đi nối thành hàng.

7. Bất kể là người nào, khi gặp đạo-thân, chào hỏi nhau phải nhẹ hơi êm tiếng, tuyệt đối không được lớn tiếng; trong khi giảng huấn hoặc mở đàn, càng nên trang nghiêm im lặng, tuyệt đối không bàn chuyện riêng với nhau để giữ gìn trật tự trang nghiêm.

8. Bất kể là tham-giá, từ-giá, tiếp-giá, tiễn-giá, luôn cả lúc hành lễ mở đàn, lễ tưởng niệm, đại-điển đều phải phân ban nam trước nữ sau cho ra từng lớp. Khi đứng: bên trái nam bên phải nữ; đừng bao giờ làm rối loạn trật tự; khi ở ngoài Phật-đường cũng nên tôn trọng như thế!

9. Trong lúc hành lễ phải chỉnh tề im lặng, không được đẩy đưa nhường nhau quá mức, nhờ Tiền-nhân dẫn dắt cả lớp, phải tự suy xét cân đo tư cách của bản thân, rồi đứng chỗ thích hợp nhất, cùng nhau hành lễ, những người mới cầu Đạo và những người không phải là bàn sự nhân viên, phải ở vị trí sau cùng mới thích hợp với cái lễ.

10. Lúc càn-đạo làm lễ chưa xong, khôn-đạo tuyệt đối không được xen vào;

Page 93: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 93

lúc khôn-đạo làm lễ, càn-đạo cũng không được tham gia, thế mới gọi là “nam nữ hữu biệt”.

11. Trong lúc mở đàn tiếp-giá, nếu có mặt Điểm-Truyền-Sư, trước tiên phải mời Điểm-Truyền-Sư tiếp-giá, xong rồi mới tới càn-khôn hai đạo phân ra từng lớp hành lễ theo thứ tự; nếu số người đông đúc quá, phải nhờ Điểm-Truyền-Sư hoặc đàn chủ tạm chỉ định càn-đạo khôn-đạo vài người, phân ban từng lớp thay mặt toàn thể, để khỏi phải ồn ào. Tới lúc tiễn-giá, Điểm-Truyền-Sư hành lễ xong, phải đợi tới tam-tài hành lễ xong, đạo-thân mới có thể hành lễ theo thứ tự; khi được xin “lời huấn” tiếp, theo lệ phải đợi tiễn thần tạ ân xong, mới cùng tam-tài đội lễ một lạy.

B) Khi đến nghe giảng kinh hoặc huấn ngữ:

( Quan Thánh Đế Quân, Lữ Động Binh, hai trong bốn vị Pháp Luật Chủ )

1. Bất kể người nào, khi đăng đài thuyết giảng, mọi người phải nghe theo khẩu lệnh: 1/ Đứng nghiêm; 2/ Cúi chào; 3/ Ngồi xuống, để tỏ lòng kính (khi nói xong xuống đài cũng thế).

2. Trong lúc thuyết giảng, mọi người phải im lặng, đừng bao giờ nói chuyện nhỏ với nhau, để không làm trái với Phật-quy.

3. Người đến nghe giảng thuyết, nếu có thể viết chữ, tốt nhât là chuẩn bị sẵn tập viết, khi nghe điều chi quan trọng thì có thể tạm ghi sơ để lúc rãnh rỗi xem xét lại cho hiểu thêm, thời gian lâu tự nhiên được tăng thêm tri thức.

Page 94: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 94

4. Trong lúc nghe thuyết giảng, nếu như không phải bất đắc dĩ, đừng bao giờ tùy tiện rời chỗ đi uống nước hoặc đi tollet, để khỏi gây mất trật tự.

5. Người nghe thuyết giảng, đừng bao giờ có thái độ tùy ý muốn, không để tinh thần suy sụp, phải tập trung tâm chí, mới có bổ ích; nếu như có phát hiện điều gì tâm đắc, muốn phát huy kiến giải, có thể đợi lúc thuyết giảng xong nêu ra, sau khi được chấp thuận, giảng giải tại chỗ, để tập hợp những điều hay mỗi người mà tăng bổ ích cho tất cả.

6. Trong khi nghe thuyết giảng, nếu có đạo-thân đến sau, tuy có quan hệ bà con thân mật, cũng đừng chào hỏi nhau, luôn cả có Điểm-Truyền-Sư đi ra hoặc đi vào, cũng không cần tiếp giá tiễn giá hoặc đứng nghiêm, để khỏi làm mât trật tự, làm cho người khác khi đang nghe bị gián đoạn.

7. Người nghe giảng thuyết, nếu có điểm nào thắc mắc chưa được rõ, có thể tạm nhớ lấy, đợi người thuyết giảng xuống đài rồi, mới tìm tới thảo luận nghiên cứu, đừng bao giờ nêu ra câu hỏi chất vấn tại chỗ, làm phí thời gian giảng thuyết, gây ác cảm người khác.

8. Nếu có dẫn người tới tham quan, nên sắp xếp chỗ ngồi riêng (ghế dự thính), báo cáo tường tận tình hình người ấy cho Điểm-Truyền-Sư hoặc đàn chủ hay biết trước để được sắp xếp chu đáo thêm, nếu như là người thuộc dạng không chính đáng, đừng bao giờ dẫn dắt tới để khỏi phải chuốc lấy họa.

9. Khi giảng thuyết xong, đạo càn và đạo khôn phải phân ra từng lớp để từ-giá, lần lượt đi ra, không được ở bên ngoài tùy tiện bàn luận tùy ý, để khỏi bị người ngoài đánh giá.

C) Khuyến đạo hành công:

1. Hễ là đạo-thân, phải dùng thời gian rãnh rỗi, tới nhà bà con bạn bè của mình, khuyến hóa lương thiện, hầu giúp họ sớm được bước chân trên đường Đạo, tại vì “thành nhân” tức là “thành kỉ”, hành công mới có thể liễu nguyện đấy!

2. Trong các đạo-thân mới, chắc chắn có người thành tâm tín phụng, nhưng đại đa số thuộc dạng người chưa rõ chân nghĩa nên nửa tin nửa không tin, Dẫn-bảo-sư phải thường gặp họ thuyết giảng cho đặng kết quả, để họ biết được Đạo không dễ dàng gặp phải, làm cho lòng tin họ được vững chắc, thúc đẩy họ hành công, Khổng-Phu-tử thường nói: “Tuần tuần thiện dụ” là ý nghĩa như thế đấy!

3. Trong số các đạo-thân chúng ta, có người hoàn cảnh kinh tế rất khá, gặp phải lúc này thiên-thời đang khẩn cấp, là lúc có đại kiếp giáng lâm, hãy nên kịp

Page 95: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

Minh ��c Tân Dân ti n tu l�c

www.nhatquantungthu.com 95

thời tiết kiệm, hành công theo sức lực của mình, trợ giúp Đạo-tràng được triển khai việc khuyến hóa, cứu thêm nhiều thiện tín, nhờ thế mà hóa giải oan-trái lũy kiếp của bản thân; hơn nữa nhờ vậy mà có thể vớt lấy những suy phong bại tục, không những có công đối với xã hội, mà còn được tạo phước trong tương lai, có những huy hoàng không thể đo lường được.

4. Các đạo-thân chúng ta, hãy nên từng giây từng phút kiểm điểm lại thân tâm của mình, đừng bao giờ dấy lên những tư tưởng không chính đáng; đối với mọi thói hư tật xấu, nếu như đã nhiễm phải hãy nên mau nghĩ cách sửa đổi dần dần, nếu như chưa thì nên lúc nào cũng cảnh giác, không được nhiễm lấy để làm gương cho hậu-học.

5. Các vị đạo-thân trong lúc rãnh rỗi nên tới Phật-đường thường xuyên để nghe “Thánh-âm”, nhờ như thế mà tăng thêm trí huệ, tu dưỡng đạo-tâm, nếu như có chỗ nào chưa được rõ, cũng có thể thảo luận với nhau ngay lúc đó; có điều phải nói là người tài năng có thể làm việc nhiều chút, đừng bao giờ có quan niệm nhìn ngó, vì chính là dịp cho nhiều người được lập công lớn và được thành nhân.

6. Trong các đạo-thân, người nào có thể nói giảng sách Đạo, các bài “huấn-từ”, đối với đạo-thân không biết chữ, cần phải tiến hành lập công trong mọi lúc mọi nơi, giảng giải cho nghe để họ hiểu rõ Đạo-nghĩa.

7. Trong đạo-thân chúng ta, hãy nên thành ý chánh tâm, cẩn thận về tiếng nói và hành động, khuyến thiện sửa đổi lẫn nhau, khích lệ nhau để cùng tiến bộ, học theo các vị Cổ Thánh Tiên Hiền, để không uổng mất dịp may tu đạo trong lúc này.

8. Các vị đạo-thân chúng ta, đều phải thật lòng tuân theo Phật-quy, luôn “khắc kỉ tu thân” theo Đạo phụng hành đặng hầu mong có thành tựu lớn.

9. Các điều quy tắc trên đây, nếu như có bề chi chưa được vẹn toàn, được chỉnh ngay lại tức khắc.

ooo0ooo

Page 96: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

www.nhatquantungthu.com 96

Bài thứ mười tám

MƯỜI ĐIỀU ĐẠI NGUYỆN

Đã từng nghe nói Phật có ba thứ không độ, tức là không độ người vô duyên, không độ người vô tín, không độ người vô nguyện. Phật đã lấy từ-bi làm gốc, độ thế là cái nguyện, sao lại còn ba thứ không độ? Nếu chúng ta khảo sát tỉ mỉ thì biết rõ ba thứ người này không biện pháp nào độ được.

Sao lại nói không độ người vô duyên? Hiện nay chúng ta được cầu Đạo, các vị hãy nghĩ xem, nếu như chúng ta không có lũy kiếp tu tích thì làm sao có thể được sống trong thời tam-kỳ, gặp phải Minh-Sư giáng thế, và theo kịp cơ duyên Sư-Tôn Sư-Mẫu ứng-vận phổ-độ. Khi xưa nhà Phật thường nói: “Trời mưa tuy lớn, nhưng không thấm nhuần cỏ không gốc; cửa Phật tuy rộng, nhưng khó độ người vô duyên”; lại nói: “Hữu duyên ngộ thượng Phật xuất-thế, vô duyên ngộ chước Phật niết-bàn”; các vị tiền-hiền cũng đã từng nói: “Năm mươi năm về trước, Đại-Đạo còn chưa được đại khai phổ-độ, năm mươi năm sau muốn đắc Đạo e rằng cũng rất khó khăn”. Cho nên có thể chứng minh được Phật duyên là quan trọng biết bao!

Tại sao nói không độ người vô tín? Thí dụ: tuy là có Phật duyên, gặp được chân Đạo giáng thế, Minh-Sư giáng phàm, nhưng không có lòng tin, nghi ngờ thế này nghi ngờ thế kia, ngắm nhìn không chịu tiến tới, mặc kệ người ta nói tới ba tấc lưỡi bị rách, tiếc thay trầm mê quá mức khó điểm hóa, thật chẳng có một tí lòng tin nào cả, hạng người như thế đương nhiên là không thể đắc Đạo. Có câu tục-ngữ rằng: “Đương diện bất thức Hàn-Tương-Tử, quá hậu nan phùng Lữ-Động-Binh”(1), cũng tức là nói dù cho có duyên nhưng không có lòng tin, bỏ lỡ cơ hội, muốn tìm nữa thì khó rồi đấy! Như thế chính là nguyên nhân không độ người vô tín.

Một điều nữa càng quan trọng hơn, là người vô nguyện không độ, nói về nguyện tức là hồng-nguyện của người tu hành đấy! Nhưng hồng-nguyện của mỗi người khác nhau, có người nguyện làm người tốt, có người nguyện tu Phật Đạo, có người nguyện làm phàm phu, có người nguyện lên Thiên-đàng, cũng có người tha hồ làm việc ác nguyện vào Địa-ngục. Thiên-Đạo là con đường đi tới Thiên-đàng, nếu không chịu xá bỏ trần duyên, không chịu học Phật tu hành, không chịu bô thí độ chúng-sanh, thậm chí không chịu thành Tiên thành Phật thì dù cho gặp Minh-Sư chỉ điểm cũng bằng thừa. Cho nên nói phát hồng-nguyện là một yếu tố quan trọng nhất giúp chúng ta tu Đạo đắc Đạo thành Tiên

(1) “Tr ước mặt mà lại không biết, qua rồi thì khó gặp lại được”.

Page 97: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

www.nhatquantungthu.com 97

thành Phật. Xem qua lời nói trên đây, đủ cho ta thấy nếu không có hồng-nguyện thì thật khó chứng đắc chân Đạo, nhưng chúng ta vì Phật duyên thâm hậu, gặp được Minh-Sư, được truyền dạy chân truyền. Ngoài việc Dẫn-Bảo-Sư vì lo cho chúng ta mà lập nguyện trước Phật-bàn đảm bảo Đạo chân, Thiên-mệnh chân, không phải tà-giáo bạch-liên, còn bảo chứng cho các vị là người thân gia thanh bạch, và các vị phải chính mình quỳ trước Phật lập hồng-nguyện, Điểm-Truyền-Sư mới có thể truyền dạy các vị “Tánh-lý chân truyền”, nếu không thì dù cho trong tay có vàng ngàn lượng, muốn cầu đắc chân Đạo, cũng chỉ từ khó tới khó!

Nhưng các vị tuy rằng đã lập mười điều đại nguyện, chỉ vì lúc cầu Đạo do tùy miệng lập ra trong buổi đó, chưa biết các vị có còn nhớ không? Có hiểu nội dung ý nghĩa trong đó không? Có thực tế đi hành hay không? Cho nên tạm nơi đây cùng các vị ôn lại mười điều đại nguyện.

Trước hết chúng ta đọc lại lời nguyện trong lúc cầu Đạo:

“Ki ền tâm quỳ tại Minh Minh Th ượng-Đế liên hạ. Hôm nay, nguyện cầu Phát-Nhất Đại-Đạo, Tánh-Lý chân-truyền. Sau khi cầu Đạo, thành tâm bảo-thủ, (càn) thật tâm sám-hối, (khôn) thật tâm tu luyện. Nếu như, hư tâm giả ý, thối rút bất tiền, khi Sư diệt Tổ, miểu thị tiền-nhân, bất tuân Phật-quy, tiết lộ thiên-cơ, nặc Đạo bất hiện, (càn) bất lượng lực nhi vi giả, (khôn) bất thành tâm tu luyện giả, nguyện thụ Thiên khiển lôi chu(1)” .

Hiện giờ đại khái thuyết minh mười điều dưới đây, các vị có thể tham khảo:

1. Thành tâm bảo thủ:

Nói tóm lược là dựa vào cái tâm chân thật vô vọng, theo Đạo phụng hành, học theo Nhan-tử: “Đắc nhất thiện tắc, quyền quyền phục ưng, nhi vật thất chi”(2). Sách Trung-Dung có nói: “Thành giả tự thành dã, nhi Đạo tự Đạo dã”. Con người chúng ta may mắn gặp phải tam-kỳ phổ-độ, được nghe Chí-Đạo, nếu không thành tâm giữ lấy đạo-tâm, giữ vững tôn chỉ, gặp ma nan là biến chí, nghe lời phỉ báng là lung lay lòng tin, thì khó mà được kết quả! Cho nên mới nói lên Thiên-đàng hay xuống Địa-ngục đều là trong khoảnh khắc nhất niệm, chỉ do sai lầm trong nhất niệm là phân biệt ra Thiên-đàng, Địa-ngục. (1) “Thiên khiển lôi chu”: Nếu như con người làm việc trái với Đạo-lý lương-tâm, trái ngược lẽ

Trời, thì thân tâm luôn cảm thấy bất an.

(2) “ Đắc Đạo này không dám bỏ, một lòng một dạ phụng trì Đại-Đạo, lúc nào cũng lo sợ bị mất

đi”.

Page 98: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

www.nhatquantungthu.com 98

2. (Càn) Thật tâm sám hối:

Hối cải những lỗi lầm trước kia đã làm, cũng tức là quyết tâm sửa lỗi, làm lại một người mới. Tục-ngữ có câu: “Nhân phi Thánh Hiền, thùy năng vô quá”(1); lại có câu: “Quá nhi năng cải, thiện mạc đại ư” (2). Hồi xưa Tử-Lộ hễ nghe được có lỗi là mừng; Đại-Vũ nghe được lời thiện là bái lạy. Chúng ta tu Đạo là học theo Thánh Hiền, phải chân tâm sám-hối sửa lỗi, không được có lỗi mà không sửa, cố ngụy trang để che dấu, đó là khinh người và khinh Trời, phải biết Thiên-ý rành rành, báo ứng rất linh, thiện ác báo ứng như bóng theo hình. Có câu nói: “Đại tội đầy trời, khó được một chữ hối”. Nếu như có thể chân tâm sám-hối, Bề-trên chắc chắn không giết người biết hối cải.

(Khôn) Thật tâm tu luyện:

Kinh Phật nói: “Tiền kiếp tội nghiệt thâm trọng, thỉ kiếp nhi nữ thân”(3), cho nên con gái là “ngũ lậu chi thể”, có đủ thứ không được tự do, nay may mắn gặp được tam-kỳ mạt-kiếp này, Thiên khai hồng-ân, Khôn-đạo (phái nữ) đã có “xuất đầu chi nhật”. Nếu Khôn-đạo sau khi đắc Đạo, không biết gắng sức tu luyện, bỏ lỡ dịp may, e rằng một khi bỏ mất nhân thân này, vạn kiếp khó gặp lại. Hơn nữa, gặp lúc cơ duyên mạt-vận này, Tiên Phật Bồ-Tát tại Lý-Thiên đều giáng xuống phàm trần, phần đông là đội lốt nữ thân đầu thai làm người, nhưng dù cho các vị Thần Tiên giáng phàm, nếu không biết tu luyện, e rằng sau này bị hủy hoại Phật-tánh, cũng không thể trở về ngôi vị khi xưa trên cõi trời, như thế có phải là rất đáng tiếc không?

3. Hư tâm giả ý:

Hư là không thạt, giả là không chân, bề ngoài đắc Đạo cho là quý báu, nhưng tâm không thật lòng, “dương phụng âm vi”(4), mượn danh nghĩa của Đạo để được lợi ích cho mình; chỉ chau chuốt bề ngoài, miệng nói nhưng lòng không phải, khéo lời làm bộ, không thể chân đạp đất thực tế đi làm, con người như thế gọi là tự khinh, khinh người, thật là đáng thương! Cho nên người tu Đạo, tâm phải giống như hư không, chân tâm cầu tiến, mới không uổng cái tiếng là người tu Đạo đấy!

(1) “Người không phải là Thánh Hiền, ai mà không có lỗi”.

(2) “Có lỗi biết sửa, vẫn là người tốt”.

(3) “Ki ếp trước tạo tội quá nhiều, kiếp này đầu thai vào thân nữ”.

(4) “B ề ngoài thành tâm, cung phụng, bên trong làm việc trái với đạo-lý”.

Page 99: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

www.nhatquantungthu.com 99

4. Thối rút bất tiền:

Nghĩa là tâm sanh thối chí, đều do nhận lý bất chân, lòng tin không vững, tự mình bị đắm mê quá nặng. Tuy rằng được cầu chân Đạo, nhưng bị người phỉ báng, là tâm sanh thối chí, loại người này gọi là đắc duyên mà lại thất duyên. Tự mình thối lui còn là việc nhỏ, liên lụy tới tổ tiên phải chịu khổ dưới Quỷ-Môn-Quan mới là việc trọng hệ. Người đời với tầm nhìn thấp, chỉ biết việc trước mắt không biết tương lai, thật đáng than ôi! Đạo này là “thượng đạt chi lộ” (1), việc học Đạo như “nghịch thủy hành châu”(2), không tiến tức là lui! Người tu Đạo phải lập chí hướng tiến lên, qua trăm lần trắc trở cũng không lung lay, Thiên-đàng tuy rằng xa thật nhưng cũng có một ngày đi tới!

5. Khi Sư diệt Tổ:

Không tuân theo Phật-quy, không tuân theo lời dạy của Sư, không học theo đức hạnh của Sư, lề mề vô lễ, tự cho là giỏi mà vọng vị đều là khi Sư diệt Tổ. Người nào phạm phải điều này đều do tham tâm vọng tưởng, dạ gan lớn đến đâu nào nghĩ tới Bề-trên. Cho nên uống nước mà không nhớ nguồn. Chúng ta thử nghĩ xem: Nếu như không có Minh-Sư giáng thế, chúng ta dựa vào cái gì mà có thể lên pháp-thuyền để thoát khỏi khổ hải? Phải biết rằng Ân-sư vì muốn thực hiện Đại-Đạo trong nhân gian, lái thuyền tới cứu vớt, thật là hết lòng khổ tâm, nếm đủ mùi đắng cay. Chúng ta đã đắc Đạo mà không biết đến tâm của Sư, còn có ý nghĩ lề mề thì tội lỗi nào hơn thế nữa? Từ xưa có câu rằng: “Nhất chỉ chi Sư chung bắc diện, nhất thế Sư sinh vạn vạn niên”. Nay đã nhận cái ơn của Sư mà không nghĩ tới đền đáp, dù cho các vị công đức vô biên, e rằng sau này do tội khi Sư, tánh-mạng cũng khó bảo toàn, hỏi có đáng thận trọng không?

6. Miểu thị (3) tiền-nhân:

Sư có nói:

Tiền-Nhân thành toàn nhật bôn ba

Vi cứu thiện tín phản Thiên-Dàng

Chỉ khủng hiền đồ trầm nghiệp hải

Đồng phó Long-Hoa chứng liên bang.

(1) “Con đường đi đến đỉnh cao nhất”.

(2) “Thuyền đi ngược dòng nước”.

(3) Miểu thị: xem thường

Page 100: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

www.nhatquantungthu.com 100

Chúng ta được cầu Thiên-Đạo, được siêu-sanh liễu-tử, thoát kiếp khỏi nạn trở về nguồn cội, được miễn luân-hồi, chẳng lẽ không phải do sự cứu độ tế hóa của Thiên-ân Sư-đức và Tiền-nhân tiên giác hay sao? Tiền-nhân cứu các vị lên thuyền, lại sợ các vị tâm chí chưa vững, nhận Lý chưa được rõ, nên không ngần ngại chịu cực khổ vì gió bão, thời tiết nóng lạnh. “Khổ khẩu bà tâm, thiện ngữ uyển khuyên” là tại sao vậy? Là vì sợ rằng các vị hậu-học khi đắc rồi lại để mất đi. Tiền-nhân quan tâm đến hậu-học từng li từng tí, nhưng các vị hậu-học có bao nhiêu người biết nghĩ lại tới Tiền-nhân? Tiền-nhân vì muốn dẫn dắt chúng ta, giúp chúng ta được thành đạt, đã tốn bao nhiêu tâm huyết, nếu như các vị hậu-học vong ơn bội nghĩa, không nghĩ tới đền đáp, ngược lại còn có ý khinh thường là gánh tội nặng lắm đấy!

7. Bất tuân Phật-quy:

Phật-quy là các điều giới cấm của người tu Đạo, nếu như không chịu giữ giới luật, như là xe chạy không theo đường ray, tàu bè không tay chèo, người lái chắc chắn gặp nguy hiểm. Luật trời nghiêm khắc, người tu Đạo về thân, khẩu, ý đều phải theo giới điều thật thận trọng, không được sơ hở, nếu không sẽ phạm Phật-quy, mất đi phép tắc tiêu chuẩn, như thế làm sao có thể thoát khỏi luân-hồi sanh-tử?

8. Tiết lộ Thiên-cơ:

Đại-đạo vốn là huyền bí của Trời Đất, chân-cơ ảo diệu, cổ bất khinh truyền, nếu như không phải gặp lúc tam-kỳ, Thiên khai hồng-ân, Đại-Đạo làm sao có thể phổ truyền? Nhưng truyền bí-bửu cũng phải có Minh-Sư phụng Thiên thừa vận, mới có thể truyền được. Từ xưa tới nay, tam-giáo Thánh-nhân pháp bất truyền lục nhĩ(1), cho nên càng phải nghiêm khắc giữ gìn. Hiện nay chúng ta là phàm phu tục tử, may mắn được bí-bửu thì sao lại có thể nói bừa? Nếu như không thận trọng, chắc chắn sẽ bị Trời phạt. Cho nên nói “Thiên-cơ bất khả lậu”.

9. Nặc Đạo bất hiện:

Đại-đạo phổ truyền, quảng độ quần mê, đó là Thiên-ý đấy! Nếu như sau khi đắc Đạo, tuy biết Thiên-Đạo quý báu mà không độ người khác, thậm chí sợ người ta biết tới, chỉ có vẹn toàn cho bản thân mình, không thể vẹn toàn cho thiên-hạ, như thế thì sao có thể gọi là “hiền-anh”? Thánh-nhân dạy người rằng: “K ỷ lập lập nhân” “kỷ đạt đạt nhân” “thôi kỷ cập nhân”(2), đều là dạy người ta

(1) Không truyền cho sáu lỗ tai, tức là không truyền khi có người thứ ba.

(2) “Bản thân phải tốt mới giúp cho người ta tốt”, “mình đạt được thì phải giúp cho người ta đạt

Page 101: Minh Đức Tân Dân Tiến Tu Lục

www.nhatquantungthu.com 101

lập thân hành Đạo, cùng dắt kẻ tri âm. Nếu như “nặc Đạo bất hiện”, thì là nghịch với Thiên-tâm, thì sao trọn được chữ “hiếu-đệ” (cung kính)? Tiền-hiền có nói: “Dân ngộ đồng bào, vật ngộ dĩ dã”(1), chúng ta nào có nhẫn tâm nhìn đồng bào anh em ngụp lặn mãi trong khổ hải?

10. (Càn) Bất lượng lực nhi vi :

Tu Đạo không phân biệt giàu hay nghèo, tùy theo hoàn cảnh mỗi người tự làm theo sức của mình. Sách Trung-Dung có nói: “Quân-tử giữ bổn vị của mình mà đi làm, không yêu cầu ngoài địa vị của mình, ở địa vị phú quý thì dùng tiền tài và thế lực để cứu tế bần khổ, ở địa vị bần tiện thì tự tu bản thân mình, với hoàn cảnh hoạn nạn cũng có thể chịu đựng được; nếu như vào nơi chưa được khai hóa, cũng có thể an nhàn qua cuộc sống”. Chúng ta tu Đạo, phải lượng sức mình mà hành tam thí: tài thí, pháp thí, vô-úy thí thì sẽ có lúc thành công. Nếu như không tự lượng sức mình, ngồi chờ bỏ lỡ dịp may, hối hận không kịp đấy!

(Khôn) Bất thành tâm tu luyện:

Thanh, sắc, hóa, lợi, tình gia, ái tỏa đều là nguồn gốc chướng ngại Đạo, nếu như nhìn không xuyên thấu, không dứt khoát được, không biết thành tâm tu luyện, uổng mất cái tiếng gọi là tu Đạo, một khi dịp may bị bỏ lỡ, chừa lại mối hận thiên cổ mà thôi! Có điều đặc biệt phải nói là Khôn-đạo từ lúc sanh ra, âm thăng dương giáng, nên mới đầu thai Khôn-đạo, nếu như có thể lúc nào cũng hồi quan phản chiếu, nội ngoại kiêm tu, để được thăng bằng, tự nhiên là được đại trung hòa đấy!

“L ượng lực nhi vi” và “thành tâm tu luyện” đều có điểm liên quan với nhau, Càn-Khôn hai đạo hãy nên tham chiếu với nhau mà thực hiện, nếu không thì việc phản-bổn hoàn-nguyên là sẽ vĩnh viễn không đặng đấy!

Những gì vừa kể trên đây là mười điều đại nguyện mà các vị đạo-thân chúng ta trong lúc cầu Đạo mỗi người đều có lập nguyện. Chúng ta lúc cầu Đạo, Điểm-Truyền-Sư lễ chúc nói rằng: “Nếu như các vị nguyện mà không liễu thì khó mà phản-hồi cố hương”. Hôm nay các vị đã hiểu rõ tầm quan trọng của tu Đạo, về sau phải theo lời nguyện mà thực hiện, một lòng thủy chung mới có thể phản-bổn hoàn-nguyên, thành Đạo chứng quả!

được”, “t ự thúc giục mình tu Đạo thì cũng phải thúc giục người ta tu Đạo”.

(1) đồng: cùng ; bào: bào thai. Nghĩa là: Mọi người với mình cùng là con của Lão-Mẫu; mọi vật

với mình cũng cùng một thể.