saomaidata.orgsaomaidata.org/library/268... · web viewcung cấp cho bạn đọc một cuốn...
TRANSCRIPT
NGHIÊN CỨU SO SÁNHTIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI & TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
Tác giả: TRẦN ÍCH NGUYÊN
PHẠM TỨ CHÂU, TRẦN BĂNG THANH, NGUYỄN THỊ NGÂN dịch
PHẠM TÚ CHÂU chỉnh lí và hiệu đính
LỜI GIỚI THIỆU
Vào giữa những năm 80, về thành quả nghiên cứu so sánh Truyền kỳ
mạn lục và Tiễn đăng tân thoại của học giả nước ngoài, chúng ta mới biết đến
K.I.Gônlưghina. Trong sách Tiểu thuyết đoản thiên Trung Quốc trung thế kỷ,
bà dành riêng một chương để nghiên cứu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại
đối với truyện truyền kỳ của Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và rút ra kết luận
chung: truyền kỳ của ba nước trên đều hình thành trên cơ sở thể tài này ở
Trung Quốc đã thuần thục; tuy trở thành thể tài văn học chung song nhà văn
ở ba nước này đều cố gắng dân tộc hóa đề tài mà mình vay mượn (chuyển
câu chuyện sang hoàn cảnh nước mình, cải biến tương ứng thuộc tính dân
tộc của nhân vật); một số đặc điểm thể tài truyền kỳ đã phát sinh biến hóa
dưới bút các nhà văn đó, đồng thời giữa những tác phẩm cải biên bằng Hán
văn này cũng có nhiều chỗ nhất trí về văn từ.
Bảy năm trước, chúng ta mới biết thêm học giả Đài Loan Trần Ích
Nguyên đã ra sách Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn
lục, trong đó cả bảy chương chỉ chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa hai tập
truyền kỳ nói trên. Đến nay, bản dịch toàn bộ sách ấy mới được đến tay bạn
đọc.
Trong bảy năm qua, tuy cũng có một vài bài viết và luận án tiến sĩ ngữ
văn khai thác thêm mặt này, mặt khác của Truyền kỳ mạn lục, song nghiên
cứu so sánh toàn diện về hai tác giả và tác phẩm thì chúng ta vẫn chưa có
công trình dành riêng. Mấy năm trước, chúng tôi cũng từng đặt kế hoạch
nghiên cứu tiếp về đề tài ấy, song đến nay, phần hoàn thành được mới chỉ là
cung cấp cho bạn đọc một cuốn Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục đối
chiếu, làm cơ sở cho những công trình nghiên cứu so sánh nối tiếp sau này.
Một nguyên nhân chủ yếu khiến các học giả Việt Nam lực bất tòng tâm
trong việc nghiên cứu so sánh hai tác phẩm nói trên, đó là thiếu rất nhiều tư
liệu cần đọc. Không kể số tư liệu hữu quan chỉ có thể tìm đọc ở thư viện nước
ngoài, ngay những sách mà các nhà nho tiền bối nước ta đã đọc và ghi chú rõ
trong hai tập sách bước đầu có xu hướng nghiên cứu so sánh là Cựu biên
Truyền kỳ mạn lục và Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú thì
bây giờ rất nhiều cuốn cũng chẳng biết tìm đâu ra. Chính vì vậy, sách Nghiên
cứu so sánh Tiễn đăng giai thoại và Truyền kỳ mạn lục được dịch ra sẽ rất bổ
ích cho giới nghiên cứu văn học cổ điển Việt Nam không chỉ trước mắt mà
còn lâu dài.
Sách Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục
gồm 225 trang chính văn thì tác giả phải tham khảo 292 cuốn sách, trong đó
sách Việt Nam là 23 cuốn và 77 bài viết hữu quan. Từ số sách và bài nghiên
cứu này, tác giả đã sử dụng và trích dẫn tới 447 lần, có chú thích trong cả bảy
chương sách. Cho nên, nghiên cứu chuyên sâu mối quan hệ giữa Tiễn đăng
tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, tác giả dường như chỉ làm một công việc
nhưng thực ra cùng lúc bắn trúng cả hai đích - đặt được hai mốc quan trọng,
cũng là hai bước tiến trong nghiên cứu văn học sử của hai nước Trung - Việt:
đánh giá Cù Hựu, Nguyễn Dữ và tác phẩm của hai ông đúng vị trí đáng có và
cần có. Về Cù Hựu, hai bài đọc sách ở phần Phụ lục sách này đã nói đủ,
chúng tôi thấy không cần dài lời. Về Nguyễn Dữ, tác giả đã làm rõ thêm
những điểm như sau:
Thời gian ra đời của tác phẩm bao giờ cũng liên quan mật thiết với nội
dung tư tưởng của tác phẩm vì vậy việc trước nhất cần làm là cố gắng xác
định rõ hơn năm khai sinh của tác phẩm. Tác giả xác định thời gian đó sớm
nhất là năm 1509 và muộn nhất là 1547. Mốc sau không khó xác định bởi đấy
là năm Hà Thiện Hán đề tựa cho Truyền kỳ mạn lục, còn mốc trước thì ở
ngay trong truyện Kim Hoa thi thoại ký mà ít ai để ý tới: truyện kể đến cuối
năm Đoan Khánh, niên hiệu của Lê Uy Mục gồm năm năm: 1505 - 1509, vậy
cuối năm Đoan Khánh là 1509. Thời gian tác phẩm ra đời được xác định này
phù hợp với dự đoán của nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, rằng Nguyễn Dữ
sống vào khoảng đầu và giữa thế kỷ XVI.
Tác giả cũng bỏ nhiều công sức để tìm hiểu nguồn gốc của Truyền kỳ
mạn lục. Ngoài ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại ra, tác giả đưa ra nhiêu
dẫn chứng để khẳng định Nguyễn Dữ đã vay mượn thần thoại, chí quái của
nước nhà, đưa cả truyền thuyết dân gian địa phương vào truyện của mình.
Chính vì đọc rộng cả kim cổ, trong ngoài, Nguyễn Dữ đã nhào nặn vốn của
người và của mình thành những truyện hay nhất trong lịch sử truyền kỳ nước
nhà và đóng góp cho cả lịch sử truyền kỳ thế giới. Nam Xương nữ tử truyện
là một tác phẩm như vậy.
Về mục đích sáng tác và nội hàm tư tưởng, tác giả đã khéo vận dụng
ngay lời bình mà ông xác định là của Nguyễn Dữ ở cuối mười chín truyện
trong sách, kết hợp với sự việc, nhân vật, lời thuật trong truyện để đi đến
nhận định: hai đối tượng mà Truyền kỳ mạn lục ra sức lên tiếng đánh dẹp là
giặc ngoài (quân Minh) và loạn trong (nhuận Hồ, ngụy Mạc), thể hiện rất rõ
tinh thần dân tộc và tư tưởng chính thống của Nguyễn Dữ. Kết luận như tác
giả rút ra là: Nguyễn Dữ mượn Truyền kỳ mạn lục để trữ phát niềm cô phẫn,
thổ lộ nỗi bất bình đau đớn đối với giới cầm quyền đương thời và với tình
hình xã hội loạn lạc; tác phẩm của ông không chỉ hạn hẹp ở chỗ khuyên răn
người đời mà còn ngụ nỗi đau đời.
Về kỹ xảo nghệ thuật, tác giả làm rõ thủ pháp sáng tác văn xuôi xen kẽ
văn vần của Cù Hựu chẳng những làm dấy lên lối viết mới cho các nhà văn
sau ông noi theo, mà cả nhà văn đương thời ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt
Nam cũng vậy. Mặc dù nhiều chỗ văn vần đan xen không giúp ích gì cho sự
phát triển tình tiết, tính cách nhân vật (một vài truyện trong Truyền kỳ mạn lục
cũng mắc lỗi này), song tác giả cho biết Nguyễn Dữ là người biết tiết chế hơn
cả so với các nhà văn Hàn Quốc, Nhật Bản và kể cả so với Cù Hựu, mở đầu
một phong cách mới mẻ cho các nhà văn Việt Nam viết truyền kỳ sau ông.
Hơn nữa, văn bút của Nguvễn Dữ cũng thanh tân điển nhã, sức truyền cảm
không kém gì Cù Hựu… Về cơ bản, bút điệu cả sách có thể gọi là hoạt bát,
còn hình tượng cũng rất sinh động. Đó là vì Nguyễn Dữ cũng đọc rất nhiều
thơ văn các đời chẳng kém gì Cù Hựu, cần đến đâu là có thể sử dụng đến
đấy vào truyện của mình. Số lượng chú thích rất phong phú trong Cựu biên,
mà nhất là Tân biên nói trên của các nhà nho Việt Nam đã chứng thực điều
này. Bạn đọc đương thời cùng lúc được thưởng thức cả tình tiết kỳ ảo lôi
cuốn lẫn thơ, ca, từ, phú trau chuốt trong truyện, đó là nguyên nhân cắt nghĩa
vì sao Truyền kỳ mạn lục có ảnh hưởng sâu rộng trong nước đến thế. Học giả
Việt Nam có lợi thế khai thác thêm khía cạnh này, nhưng chỉ bằng số tư liệu
Việt Nam có trong tay, tác giả Trần Ích Nguyên đã khái quát được ảnh hưởng
của Truyền kỳ mạn lục về ba phương diện: đối với thể loại truyền kỳ, đối với
diễn nghĩa lịch sử và đối với tín ngưỡng dân gian. Bằng những phát hiện này,
tác giả cho thấy lợi thế của phương pháp nghiên cứu so sánh mà ông đang
vận dụng.
Cuối cùng, trong kết luận chung, tác giả cuốn sách tuy không nêu hẳn
thành nguyên tắc, nhưng thực tế đã đề cập đến nguyên tắc lựa chọn, tiếp thu
và dân tộc hóa một tác phẩm vay mượn trong mối giao lưu giữa các nước
văn hóa Hán cùng khu vực. Ở Truyền kỳ mạn lục, tuy chủ đề là linh quái,
phấn son, tình tiết và phong cách có chỗ giống với Tiễn đăng tân thoại, song
quan hệ giữa hai sách không phải một với một, không thể coi là sự mô phỏng
sao chép đơn thuần. Cù Hựu và Nguyễn Dữ thực sự đều là những nhà sáng
tác tiểu thuyết khéo biết cắt xén. Tân thoại kế thừa cơ sở chí quái truyền kỳ
của đời trước, chọn lấy tư liệu có sẵn của thơ văn, bút ký; Mạn lục ngoài phần
mô phỏng Tân thoại, hấp thu chất dinh dưỡng, còn viết lại thần thoại, chí quái
bản địa của Việt Nam. Mỗi bên đều có con đường và phương pháp lựa chọn
đề tài riêng nhưng đồng thời cả hai đều đan xen truyền thuyết dân gian địa
phương hồi đó, thông qua tưởng tượng phong phú và tổ chức chặt chẽ, phát
huy tài tình cá nhân, biến hủ bại thành thần kỳ.
Bằng phương phát nghiên cứu so sánh nghiêm túc và khoa học, kết
luận xác đáng, công bằng trên đây của học giả Trần Ích Nguyên hầu như là
điều tất yếu.
Cuốn sách của ông gợi ý không ít cho đồng nghiệp Việt Nam về mặt
tìm đọc, thu thập và xử lý tư liệu, tuy nhiên cũng phải nói rằng trong thư mục
tham khảo của ông còn thiếu nhiều tư liệu hữu quan của Việt Nam mà trong
khi hoàn thành luận văn thạc sĩ và sau đó ra sách, ông chưa có dịp tiếp xúc.
Chúng tôi tin chắc sau khi đã sưu tầm đủ, hẳn ông sẽ không còn những nhận
định chưa được thỏa đáng lắm về mặt gìn giữ và phát huy di sản văn học ở
Việt Nam hiện nay.
PHẠM TÚ CHÂU
Chương I. DẪN LUẬN
Tiết thứ nhất
SỰ ĐÓN NHẬN TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI Ở HÀN QUỐC, NHẬT BẢN, VIỆT NAM
Giáo sư Hoàng Đắc Thời từng nói: “Nói chung, những tác phẩm nào do
người nước A sáng tác không được đánh giá cao ở nước mình, thì một khi
được truyền sang nước B lại thường được hoan nghênh. Đó là một vấn đề rất
lý thú khi xem xét về mặt văn học sử so sánh”. Vấn đề lý thú này là một hiện
tượng chung tồn tại phổ biến trong khu vực văn hóa Hán, tức là nhiều tác
phẩm thông tục ở Trung Quốc như mông thư, thiện thư, loại thư, tiểu thuyết,
hý khúc, vốn bị giới trí thức truyền thống xem khinh hoặc bỏ qua thì thường
lại được lưu truyền rộng rãi ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, được
hoan nghênh và xem trọng, thậm chí còn được đề cao hơn cả địa vị văn hóa
vốn có của nó mà lưu hành trong giới trí thức thượng lưu, thành đối tượng để
đọc, cất giữ và mô phỏng. Trong số đó Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đầu
đời Minh là một hiện tượng có ý nghĩa tiêu biểu.
Đứng về ngày nay mà nói, cách đối xử của Trung Quốc đối với Tiễn
đăng tân thoại so với các nước khác trong khu vực văn hóa Hán thì cách
nhau một trời một vực. Tác phẩm ra đời cuối thế kỷ XIV, giữa thế kỷ XV được
truyền vào Hàn Quốc, Kim Thời Tập ngay hồi đó đã phỏng tác thành Kim
Ngao tân thoại và tác phẩm này trở thành thủy tổ của thể loại tiểu thuyết ở
Hàn Quốc; đầu thế kỷ XVI, Yên Sơn Quân triều Lý còn đặc biệt chỉ đích danh
“sai tạ ơn sứ giả mua về”; đến giữa thế kỷ XVI thì Tiễn đăng tân thoại cú giải
do Tống Phấn in, Thương Châu (Doãn Xuân Niên) đính chính, Thùy Hồ Tử
(Lâm Khởi) chú thích, đã trở thành bộ sách chú giải đầu tiên từ khi có sử Hàn
Quốc; cho đến triều Lý Hiến Tông (1835-1849), Lý Khúc Cảnh trong Ngũ châu
diễn văn trường tiên tản cảo còn ghi rằng: “Nay bộ sách người nơi xóm ngõ
chuyên dùng để học là Tiễn đăng tân thoại vì thấy rằng đọc nó còn dễ hơn
loại lại văn”. Đến nay các học giả Hàn Quốc không những yêu thích Kim Ngao
tân thoại mà đối với Tiễn đăng tân thoại cũng vẫn ngợi khen, tán thưởng
không thôi.
Tiễn đăng tân thoại lại từng truyền sang Nhật Bản, các sách Kỳ dị tạp
đàm tập giữa thế kỷ XVI, Linh quái thảo giữa thế kỷ XVII đều có tuyển dịch,
các sách Ôtôghibôcô (Già tì tử) của Thiển Tỉnh Liễu Ý thời đầu Giang Hộ,
Ughêtsu Mônôgatari (Vũ nguyệt vật ngữ) của Thượng Điền Thu Thành thời
cuối Giang Hộ cũng đều có cải biên. Thời Đức Xuyên Mạc Phủ, văn bản Tiễn
đăng tân thoại “được khắc in càng nhiều, chẳng khác nào sách giáo khoa của
trường trung học”; hiện nay, nhiều bộ phim nổi tiếng đều có liên quan đến tập
sách này, do vậy nhiều học giả Nhật Bản rất mực tôn sùng, ví như lời Tựa
sách Toàn dịch Tiễn đăng tân thoại của Thôn Thượng Tri Hành in năm Chiêu
Hòa thứ 29 (1954):
Tiễn đăng tân thoại rạng rỡ trên bầu trời của thế giới cổ điển Đông
Dương. Nó là ngôi sao quái dị nhưng mỹ lệ, nó sáng ngời và óng ánh như
ngọc quý, nó diễm lệ như chân tay trắng nõn của mỹ nhân, nó có đường vân
hoa diệu xảo như gấm dệt, có sắc xanh quánh của xương cổ xưa. Ngoài ra,
nó còn có sự tĩnh lặng của đêm khuya, độ sâu thẳm của vực nước, lời than
thở cảm khái nghẹn ngào…
Từ xưa đến nay ở Nhật Bản và Hàn Quốc, Tiễn đăng tân thoại bao giờ
cũng được yêu mến nồng nhiệt, thế mà nhìn lại nước ta, đành rằng sau khi
sách viết xong, truyền đi bốn phương, lập tức tạo nên mốt thời thượng cho
các văn nhân đời Minh bắt chước, rồi tiểu thuyết bạch thoại, tạp kịch truyền
kỳ đều hấp thụ ở đấy không ít đề tài, nhưng dần dần sách lại bị lãng quên.
Ngày nay văn học sử (hoặc lịch sử tiểu thuyết) Trung Quốc thờ ơ với sự tồn
tại và rẻ rúng đối với giá trị của Tiễn đăng tân thoại, thì đâu đâu cũng thấy đó
thật là hiện tượng quái dị. Chẳng trách Giáo sư Hoàng Đắc Thời chủ trương
“cần tăng cường nghiên cứu Tiễn đăng tân thoại; ông Kiều Bính Nam cũng hô
hào: “Nghiên cứu Tiễn đăng tân thoại cùng nghiên cứu nguyên gốc và ảnh
hưởng phát sinh của nó, thực sự là việc cần đi sâu tìm tòi thêm nữa”.
Lâu nay về ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại ở ba nước Trung, Nhật,
Hàn tuy trong và ngoài Trung Quốc đã có không ít luận văn chuyên đề đề cập
đến, nhưng phải đến tháng 4 năm Dân Quốc 76 (1987) bộ Việt Nam Hán văn
tiểu thuyết tùng san do trường Viễn Đông bác cổ Pháp xuất bản, Đài Loan
học sinh thư cục in ra thì nhiều người trong giới học thuật mới biết rằng Tiễn
đăng tân thoại của Cù Hựu vốn đã rất được hoan nghênh ở Việt Nam, Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ở Tùng san phần I chính là tác phẩm được ra đời
do sự kích thích của Tiễn đăng.
Việt Nam cùng Hàn, Nhật là những nước ở trong khu vực văn hóa Hán
ngoài Trung Quốc chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc lâu năm, Tiễn
đăng tân thoại truyền xuống phía Nam đến nước này cũng là sự việc có thể
mường tượng ra được, chỉ có điều mọi người không lưu ý đó thôi! Trước đây
chúng tôi chỉ từ Thù vực chu tư lục được in lần đầu năm Vạn Lịch thứ hai
(1547) mà biết rằng, vào khoảng thập niên thứ 7, thứ 8 của thế kỷ XVI, ở Việt
Nam đã có dấu vết của Tân thoại; ngày nay chúng tôi tiến thêm một bước,
phát hiện ra rằng: đầu thế kỷ XVI, trước khi Truyền kỳ mạn lục thành sách,
Tân thoại đã được truyền vào Việt Nam, hơn nữa bản thân Mạn lục lại có một
loạt tác phẩm viết nối ra đời; điều đó càng chứng minh sức hấp dẫn của Tiễn
đăng tân thoại quả thực không phải tầm thường.
Tiết thứ hai
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU SO SÁNH TRUYỀN KỲ MẠN LỤC VÀ TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục là một
vấn đề không thể xem nhẹ trong nghiên cứu so sánh văn học Việt - Trung; mà
việc ấy lại là một khâu không thể thiếu trong nghiên cứu văn học Đông Á.
Cho đến nay, các chuyên gia văn học so sánh tin chắc rằng: “Nghiên
cứu so sánh thực tế văn học các nước trong khu vực châu Á sẽ giúp cho việc
xác lập một loạt tiêu chuẩn văn học có tính độc lập hơn nữa”. Các học giả Mỹ
cũng tán thành “tác phẩm của châu Á nên dùng làm phương thuốc uốn nắn lại
cách nghĩ hẹp hòi của chúng ta”, như vậy việc nghiên cứu đại loại như văn
học so sánh khu vực Đông Á có xu thế càng ngày càng mạnh mẽ. Có điều
việc nghiên cứu ấy hầu hết mới tập trung ở ba nước Trung - Nhật - Hàn. Việt
Nam cũng là một thành viên của khu vực văn hóa Hán nhưng thường bị bỏ
qua.
Kỳ thực, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc rất sâu sắc, không thua
kém gì Nhật Bản và Hàn Quốc. Giáo sư Lã Sĩ Bằng trong công trình Văn hóa
Trung Quốc và văn hóa Việt Nam đã chỉ ra rằng:
“Quan hệ Trung - Việt hơn hai nghìn năm qua do hai đại dân tộc Trung
- Việt có hơn một nửa thời gian sống chung dưới một tổ chức chính trị, có non
một nửa thời gian duy trì quan hệ phụ thuộc trên danh nghĩa, cho nên về
phương diện lịch sử, chính trị hơn một nghìn năm trước đã không có cách nào
tách rời, thì một nghìn năm sau quan hệ càng mật thiết. Còn như về lịch sử
văn hóa, bởi hai đại dân tộc Trung - Việt trước sau đều sinh hoạt trong cùng
một hệ thống văn hóa, hình thành chi gốc và chi nhánh của văn hoá nho gia,
truyền thống tinh thần xuất phát từ một nguồn, cho nên chúng ta có thể nói
“văn hóa Việt Nam có phần nào đấy là hình ảnh thu nhỏ của văn hóa Trung
Hoa”. Đến như sự dung hợp huyết thống, sự phát triển hay không của kinh tế,
sự tương ứng bề trong và bề ngoài về lịch sử, nỗi buồn vui vinh nhục giữa hai
đại dân tộc Trung-Việt đều nhất nhất quan hệ nhằng nhịt với nhau khó mà
phân chia, thực không thể nói hết được như ý muốn”.
Cân nhắc các nước trong khu vực văn hóa Hán thì “nước chịu ảnh
hưởng nồng đậm của Trung Quốc không nước nào bằng Việt Nam”, “nước
chịu ảnh hưởng tư tưởng nho gia sâu sắc nhất thì Việt Nam đứng đầu”, “Nhật
Bản, Hàn Quốc, Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của văn học cổ điển Trung
Quốc, trong đó Việt Nam càng nổi bật”, như vậy nếu chúng ta có định xác lập
tiêu chuẩn văn học của truyền thống văn hóa Hán khu vực Đông Á mà không
tính đến văn học Việt Nam thì không sao bao quát được đủ.
Theo đuổi việc nghiên cứu so sánh văn học Trung - Việt, một mặt có
thể giúp chúng ta nhìn rõ tình hình giao lưu văn hóa giữa hai nước (như thần
thoại Kim quy của Trung Quốc truyền vào Việt Nam”, truyền thuyết đầu bay
của Việt Nam lưu hành ở Trung Quốc; mặt khác cũng có thể giúp chúng ta
hiểu sâu các hiện tượng phát triển văn học ở hai nước (ví như Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Tử ở Trung Quốc im lìm không có tiếng tăm gì,
còn Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du ở Việt Nam thì mọi người mọi nhà
đều biết. So sánh thư tịch, chúng ta chẳng những có thể làm rõ một số đặc
trưng chung của văn học Đông Á, đi sâu nghiên cứu thêm một số quy luật tư
duy của nhân loại, mà còn có thể ngoảnh đầu nhận thức lại một số tác phẩm
bị lạnh nhạt và kỳ thị trong văn học sử Trung Quốc. Kết quả đó, không còn
nghi ngờ gì nữa, sẽ bổ sung cho phần thiếu hụt của văn học so sánh Trung -
Nhật, Trung - Hàn và ý nghĩa của nó rất nên được khẳng định.
Điều đáng quý là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết bằng chữ
Hán, thuộc bộ phận văn học Hán ngữ của văn học Việt Nam. Loại văn học
Hán ngữ Việt Nam có quan hệ máu thịt với văn học Trung Quốc này không
chỉ là tài sản quan trọng của dân tộc Việt Nam mà còn là tài sản chung của
khu vực văn hóa Hán, đủ để giúp chúng ta lý giải nền văn học Trung Quốc
của mình. Là người nghiên cứu văn học Trung Quốc, “tuyệt đối không thể tự
mãn với những tư liệu hạn hẹp của Trung Quốc, mà chúng ta phải đứng từ
góc độ khách quan, chiếm hữu đầy đủ tư liệu để lý giải xu hướng vận động
của văn hóa chủ lưu và đặc tính riêng thể hiện ở văn hóa chi lưu”, chúng ta
cần có nhận thức về văn học Hán ngoài Trung Quốc bởi chí ít cũng làm rõ
được quốc tịch của tác phẩm, tránh khỏi lầm lẫn; chúng ta cần vận dụng đầy
đủ văn học Hán ngoài Trung Quốc làm tư liệu nghiên cứu so sánh, tin rằng có
như thế “văn học so sánh trong nước từ nay về sau mới tìm được chỗ dựa
quý báu cho con đường tồn tại và hoạt động”.
Dựa trên cơ sở những quan niệm trên đây, luận văn của chúng tôi lấy
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục làm đề tài; hy
vọng dựa vào việc quan sát rộng nền văn hiến Hán để bổ sung cho chỗ thiếu
hụt của việc nghiên cứu Tiễn đăng tân thoại trước đây, và để nhận định tác
phẩm được sâu sắc và toàn diện hơn. Tuy nhiên điều đáng tiếc là giới học
thuật trong và ngoài nước thảo luận về Tiễn đăng tân thoại vốn nhiều nhưng
cơ sở nghiên cứu không đủ, khảo sát sai lầm, lại thêm sao chép nhiều lần,
dẫn đến hiểu sai đầy rẫy; còn như Truyền kỳ mạn lục thì rất nhiều người mới
nghe tên lần đầu, kể cả học giả Việt Nam cũng lạ nốt. Vì thế, chúng tôi đành
phải bắt đầu trình bày từ Tác giả, Tác phẩm ra đời và lưu truyền, Nội dung,
Nguồn gốc, Kỹ xảo, nội hàm và ảnh hưởng trở đi.
Chương II. TÁC GIẢ
Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại mà tên tuổi chiếu sáng văn đàn đời
Minh, là một trong những tác giả vô cùng quan trọng trong văn học sử Trung
Quốc, đáng tiếc là giới học thuật trong nước trước đây tịnh không xem trọng
sự tồn tại của ông, thậm chí còn không biết ông là người như thế nào. Lỗ Tấn
trong Tiểu thuyết cựu văn sao lần đầu tiên chú ý đến những ghi chép liên
quan tới Tiễn đăng tân thoại, Tiễn đăng dư thoại. Diệp Đức Quân tiếp tục thu
thập những sự kiện lịch sử có thật soạn thành Cù Hựu sử liệu tập, sau đó
cũng không có ai chuyên nghiên cứu về ông. Mãi đến năm 1980 mới có
Trương Tăng Nguyên viết Cù Hựu sự tích khảo lược nhưng kê cứu chưa tinh,
cả đến năm sinh năm mất cũng y theo sai lầm ngày trước. Từ trước đến nay,
về công phu khảo sát cuộc đời và trước tác của Cù Hựu, rất nên suy tôn các
học giả Nhật Bản, đặc biệt hai vị Cửu Bảo Đắc Nhị (hiệu là Thiên Tùy) và Thu
Cát Cửu Kỷ Phu đã dành nhiều tâm lực và đạt được kết quả khả quan. Sự
thực thì những ghi chép liên quan đến Cù Hựu trong loại sách bút ký, phương
chí, thư mục dưới hai triều đại Minh, Thanh còn nhiều hơn tưởng tượng của
chúng ta rất xa, thêm nữa trong sách của người đương thời tản mát tại các
thư viện nhiều nước trên thế giới cũng có không ít tư liệu quý báu về truyện
ký, chúng đều có thể giúp ích cho hậu thế nhìn nhận và lý giải tường tận và
toàn diện về Cù Hựu.
Tác giả Truyền kỳ mạn lục là Nguyễn Dữ. Người Việt Nam nghiên cứu
về ông không nhiều; các nhà nghiên cứu Nhật Bản Áo Dã Tín Thái Lang,
Xuyên Bản Bang Vệ tuy có ý định thử gợi mở những điều còn bí ẩn về thân
thế ông nhưng vì tác giả bài Tựa đầu sách Truyền kỳ mạn lục (Đại An Hà
Thiện Hán) và thời gian viết bài Tựa (ngày lành tháng 7 mùa thu, Vĩnh Định
năm đầu) trong các bản thường thấy đều bị tước bỏ, tạo nên nhiều suy đoán
thiếu chính xác. Sự liệu thiếu thốn, khiến người nghiên cứu muốn làm sáng rõ
thân thế sự nghiệp Nguyễn Dữ đều có nhiều khó khăn, song chúng tôi vẫn có
thể dựa vào một số ghi chép trong thư tịch Hán để tìm dấu vết, không đến nỗi
hoàn toàn mờ mịt không hiểu biết chút gì về ông.
Đồng thời với khảo sát cuộc đời của Cù Hựu và Nguyễn Dữ, chúng tôi
đặc biệt lưu ý đến động cơ sáng tác của hai tác giả. Trong quan niệm truyền
thống, tiểu thuyết hý khúc xưa nay vẫn bị kỳ thị, coi là những loại văn chương
tầm thường, “người quân tử không làm”, Trung Quốc là thế, Việt Nam cũng là
thế. Nhưng những văn nhân nho sĩ tài ba dồi dào như Cù Hựu và Nguyễn Dữ
vì sao lại chọn thể loại tiểu thuyết để sáng tác? Động cơ viết Tiễn đăng tân
thoại, Truyền kỳ mạn lục là gì? Giống nhau, khác nhau ở chỗ nào? Tình
huống xuất hiện các tác phẩm cùng loại của Hàn Quốc, Nhật Bản có giống
như thế hay không? Đây là phần việc nghiên cứu trước đây chưa đề cập đến
và cũng là trọng tâm nghiên cứu so sánh của chương này.
Tiết thứ nhất
CÙ HỰU
A. CUỘC ĐỜI
Cù Hựu tự Tông Cát, hiệu Tồn Trai, lại có hiệu là Ngâm Đường, về cuối
đời có điều cảm xúc nên lại tự xưng là Lạc Toàn Tẩu. Quê ở Sơn Dương
(Hoài An, Giang Tô), tổ tiên ở xã Tiến Kiều, Tiền Đường (Hàng Châu, thuộc
Chiết Giang). Cù Hựu sinh ngày 14 tháng 7, năm Chí Chính thứ 7 (20 tháng 8
năm 1347), từ nhỏ đã thông tuệ, tài hoa rất mực.
Cù Hựu sinh ra giữa buổi binh lửa loạn ly, từng lưu lạc ở các nơi như
Tứ Minh, Cô Tô. Mùa thu năm Chí Chính thứ 26, ông trở lại Cô Tô, lên lầu
làm bài từ Bát thanh Cam Châu để tự tiêu khiển. Sách Chử Sơn đường từ
thoại cho rằng ông không theo Trương Sĩ Thành mà vì Thái Thái nên trở lại
Cô Tô. Thái Thái là tên nữ nhân vật chính của Thu Hương đình ký, phụ lục
của Tiễn đăng tân thoại, rất nhiều người lầm tưởng đây là chuyện tình lãng
mạn của chính Cù Hựu.
Cù Hựu nắm vững kinh Xuân Thu, thông hiểu bách gia và mọi kinh sử.
Mùa hạ năm Hồng Vũ thứ 10 đời Minh Thái Tổ (1377), ông ngụ nhờ Dư
Thanh lâu của họ Phú ở Tây Hồ; cùng năm ông được tiến cử dự khoa Minh
kinh, rồi đến Nam Kinh theo lời triệu; năm thứ 11 vẫn giữ chức Huấn đạo
nhậm nội ở huyện Nhân Hòa, sau chuyển làm giáo dụ ở Lâm An; cuối thời
Hồng Vũ, giữ chức Huấn đạo ở Nghi Dương. Năm Kiến Văn thứ 2 đời Huệ
Đế (1400), từ Hà Nam đến Nam Kinh giữ chức Thái học trợ giáo kiêm Biên tu
quốc sử; năm thứ 4 thăng Hữu trưởng sử phủ Chu Túc của Chu Định Vương.
Năm Vĩnh Lạc thứ 6 đời Minh Thành Tổ (1408) vì thơ mà mang họa, bị bắt
sung vào cẩm y vệ, rồi bị đưa đi đồn thú ở Bảo An đến mười tám năm.
Cù Hựu rốt cuộc vì bài thơ nào mà mang họa, hiện không thể biết. Ban
đầu Hồ Tứ Ngang cũng vì thơ mà bị hạ ngục, không rõ nguyên cớ; người
cùng lúc bị biếm trích đến Bảo An có Đằng Thạc, Đặng Lâm, “Thiêm hiến họ
Yến, Giáo tập họ Viên”, trong đó chỉ có Thiêm hiến họ Yến (tức Yến Bích) biết
là vì “khắc ván truyền bài thơ Thất thập nhị tuyền, bị đồng liêu tâu vạch lỗi nên
bị tội sung quân đưa đi xa. Những người còn lại đều không thể khảo cứu
được, về việc Cù Hựu bị buộc tội đầy ra Bảo An, có thuyết nói ông mất chức
vì phụ tá Chu Vương, đó đúng là lời ngoa truyền, Chu Văn Tảo đời Thanh
trong bài Quỵ điền thi thoại bạt đã biện luận rất tường tận rồi. Năm Hồng Hy
nguyên niên đời Minh Nhân Tông (1425), Thái sư Anh quốc công Trương Phụ
tâu xin thả cho về, phục hồi nguyên chức, làm Nội các biện sự, cho ở Tây
phủ, chủ trì việc dạy học trong nhà ba năm, cũng được đối xử theo lễ; đến
năm Tuyên Đức thứ 3 đời Tuyên Tông, ông cáo lão về quê. Năm thứ 8 (1433)
ông ốm rồi mất, hưởng thọ 87 tuổi, mộ táng tại Cam Khê, Tiền Đường.
Cù Hựu có tất cả bốn con trai, con trưởng là Tiến ở Nam Kinh; con thứ
là Đạt (Đức Cao), từng đậu Hương tiến ở Hà Nam, về trí sĩ với chức Hiệu
quan, ở tại Hàng Châu; có bốn cháu là Địch (Đức Khải), Nghênh (Đức Cung),
Tiêm (Đức Tuyên), Tô (Đức Nhuận) con của người em tên là Tông Doãn.
Nói chung, Cù Hựu một đời lận đận, lúc trẻ quan nhỏ chức thấp, về già
lại bị lưu đầy, vì thế, chẳng trách mỗi khi ngâm nga các câu thơ của Lục
Phóng Ông:
“Vị đời quét sạch, nến tàn hết, Cuộc sống lênh đênh, tấc đất không”;
“Già ốm đã nhiều, duy chửa chết, Tham, sân tuy bỏ, vẫn còn si”, ông lại ngậm
ngùi buồn, cảm thấy “dường như những câu ấy vì ta mà đặt ra”.
B. TRỨ THUẬT:
Cù Hựu tuy số phận gian truân, nhưng “việc trứ thuật không phải vì
nhất thời khó khăn hay bình yên mà phế bỏ”, quả là một tác gia viết nhiều
đúng tiêu chuẩn.
Năm Vĩnh Lạc thứ 19 đời Minh Thành Tổ, Cù Hựu 75 tuổi ở Bảo An, khi
viết Trùng hiệu Tiễn đăng tân thoại hậu tự, ông hồi ức về mình: “Thuở thiếu
thời, những lúc rảnh rỗi việc học, tôi thích viết sách, song huỳnh án tuyết, bút
không rời tay. Thường được ông già trong thôn xóm là Giá Hiên Lăng Công
ngợi khen, còn người không hiểu thì chê ham chơi mà bỏ cả ý chí, nhưng tôi
quyết không đổi ý, đến nỗi quên cả ăn ngủ. Lâu rồi sách dầy quyển lớn, tích
chứa thành bộ thành tập. Các bộ đó gồm:
Nghiên cứu kinh điển thì có Xuân thu quán châu, Xuân thu tiệp âm,
Chính ba xuyết anh, Thành Ý trai khóa cảo; đọc sử thì có Quản kiến trích
biên, Tập lãm thuyên ngộ; làm thơ thì có Cổ súy tục âm, Phong mộc di âm,
Nhạc phủ nghĩ đề, Bình sơn giai thú, Hương đài tập, Thái cần cảo; viết văn thì
có Danh hiền văn túy, Tồn Trai loại biên; điền lời cho từ thì có Dự thanh khúc
phổ, Thiền Cử vân cẩm; soạn lời chép việc thi có Du nghệ lục, Tiễn đăng lục,
Đại tạng sưu kỳ, Học hải di châu” v.v…
Từ Bá Linh, người thời Thiên Thuận đời Minh Cảnh Đế trong Đàm tinh
tuấn có nhắc đến những trứ tác của Cù Hựu, người đồng hương tiền bối của
ông. Không kể số trùng với số sách trên đây ngoài ra còn thêm: Nhạc phủ di
âm, Quy điền thi thoại, Hưng quan thi, Thuận thừa cảo, Tồn Trai di cảo, Vịnh
vật thi, Lạc Toàn cảo, Bảo An tân lục, Bảo An tạp lục.
Điều đáng tiếc là vào năm Vĩnh Lạc thứ 6, Cù Hựu bị đầy đi Bảo An,
hầu hết số sách ấy “rơi rụng mất mát, gần như chẳng còn quyển nào”, sau khi
ông mất, có thể nói là “từ khi loạn lạc đến nay, số sách vở mất mát luôn luôn
khiến người ta phải tiếc”; đến khi Lang Anh soạn Thất tu loại cảo, số sách còn
lại chẳng được bao nhiêu, “hỏi con cháu thì đáp mười phần chỉ còn hai, ba,
các bài chí và minh cũng mất cả! Chính vì nguyên cớ sách vở mất mát, người
đời sau chỉ căn cứ vào thư mục rồi chép truyền đi nên thường một sách được
ghi bằng nhiều tên, thậm chí “râu ông cắm cằm bà”, tình trạng sai sót rất
nghiêm trọng.
Sách của Cù Hựu hiện còn, ngoài Tiễn đăng tân thoại được lưu truyền
rộng rãi, ảnh hưởng to lớn, còn có mấy loại sau đây:
1. Hương đài tập: tập thơ được sáng tác sớm nhất trong số tác phẩm
hiện còn; sách vốn gồm 300 bài luật tuyệt đề vịnh các chuyện về nữ giới, 100
bài đầu có tên là Hương đài bách vịnh, 100 bài tiếp theo là Tục vịnh, lại 100
bài nữa là Tân vịnh. Trương Thiên Tích, Từ Bá Linh từng chia nhau viết tựa
và chú thích, xin xem Đàm tinh tuấn, Thất tu loại cảo.Bách xuyên thư chí của
vị cao nho đời Minh, Tiều thị Bảo văn đường thư mục của Tiều Lật, Triệu Định
Vũ thư mục của Triệu Dụng Hiền, Thiên khoảnh đường thư mục của Hoàng
Ngu Tắc đời Thanh, Minh sử - Nghệ văn chí, Tĩnh chí cư thi thoại của Chu Di
Tôn, Minh thi kỷ sự của Trần Điền đều từng có ghi chép. Viện bảo tàng cố
cung Đài Bắc cất giữ một bản sao theo nguyên bản đời Minh gồm ba quyển,
nhưng bị rách nát chỉ còn 120 bài chữ viết non nớt, nhà xuất bản Vĩ văn đồ
thư từng căn cứ vào bản này để đưa vào cuốn Bí kíp tùng biên. Tiếc là hiệu
đính không tốt. Đến nay chỉ có cuốn Về Hương đài tập của Cù Hựu của
Cương Kỳ Do Mỹ người Nhật Bản là sách chuyên nghiên cứu.
2. Thông giám cương mục tập lãm thuyên ngộ gồm 3 quyển, đính-chính
những sai lầm trong Thông giám cương mục tập lãm của Vương Âu Học, xin
xem Đàm tinh tuấn và Huyện tứ tỏa thám. Bản in năm Vĩnh Lạc nhà Minh, có
lời tựa của Cù Hựu viết “ngày lành đầu tháng mười, mùa đông năm Canh
Dần, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 8” (1410) được đưa vào Ái nhật tinh lư toàn thư
chí của Trương Kim Ngô.
3. Nhạc phủ di âm: sách Tứ khố toàn thư tổng mục, bộ Từ khúc loại ghi
là 5 quyển “từ quyển 1 đến quyển 2 đều là cổ nhạc phủ, từ quyển 3 đến
quyển 5 đều là từ khúc”; Bát thiên quyển lâu thư mục của Đinh Trung Lập lại
có chép “ảnh sao Thiên Thuận bản” (sao đúng kiểu chữ bản thời Thiên
Thuận), gồm 1 quyển, Đinh Bính cũng căn cứ vào đấy mà viết lời đề, nói rằng
Quá nửa là do Tái Viên làm”. Nay “bát thiên quyển lâu thư” đều nhập vào Thư
viện Nam Kinh, bản 5 quyển đã có bản in năm 1926 của Thượng Hải Đại
đông thư cục.
4. Quy điền thi thoại: 3 quyển 120 điều, còn gọi là Tồn Trai thi thoại,
hoặc Ngâm đường thi thoại. Chu Văn Tảo viết: “Một sách ba tên, không có gì
lạ”. Lời tựa của chính tác giả ghi “Ngày Trung thu năm Ất Tị, niên hiệu Hồng
Hy” (1425), nội dung “ghi lại lời bàn luận của thầy và bạn; những điều nghe
được trên đường làm quan bốn phương mà có quan hệ đến đạo làm thơ”.
Sách này có nhiều bản, nhưng bản Lịch đại thi thoại tục biên lưu hành rộng
rãi nhất. Nhật Bản cũng có bản phê bình đính chính của Cận Đằng Nguyên
Tùy. Bài về Quy điền thi thoại của Cù Hựu của Điền Văn Hùng có giá trị tham
khảo phong phú hơn.
5. Vịnh vật thi: 1 quyển, tác giả nhớ lại những sáng tác cũ, bổ sung
thêm mà thành; quá trình làm sách có thể thấy rõ ở bài Tựa của tác giả viết
năm Tuyên Đức thứ 45. Hiện nay sách có nhiều bản, Viện bảo tàng Cố Cung
Đài Bắc giữ được bản Tam gia vịnh vật thi, 2 bộ, Chu Chi Phồn khắc chung
tác phẩm của mình với tác phẩm của Tạ Tông Khả đời Nguyên và Cù Hựu
đời Minh, bản in năm Thiên Khải thứ 2, đời Minh Hy Tông (1622); lại có bản
Tam gia vịnh vật thi do Hạ Quang Liệt gộp tác phẩm của Tạ Tông Khả, Cù
Hựu và Trương Thiệu đời Thanh in chung năm Gia Hưng đời Thanh.
6. Lạc Toàn thi tập gồm các tập: Lạc toàn thi (hoàn thành năm Tuyên
Đức thứ 3), Đông du thi (hoàn thành năm Tuyên Đức thứ 4), Lạc Toàn tục tập
(hoàn thành năm Tuyên Đức thứ 5, 1430) là tài liệu rất quý để khảo sát những
năm cuối đời của Cù Hựu, bản sao hiện có ở Nội các văn khố Nhật Bản. Các
tác phẩm trình bày trên đây được xác định đúng là của Cù Hựu, ngoài ra còn
một số sách tuy ghi tên Cù Hựu, nhưng lại có nhiều nghi vấn, ví như:
1. Đô huyền kính thi thoại: sách đã mất. Sách Từ thị Hồng vũ lâu thư
mục, loại thi thoại, của Từ Bột đời Minh có chép 2 quyển cùng Quy điền thi
thoại 3 quyển, đều ghi là của Cù Hựu, có lẽ nhầm chăng?
2. Cư gia nghi kỵ: Tứ thời nghi kỵ, Tục sự phương, Tuyên Hòa bài phổ:
sách hiện còn, hai sách dầu và cuối đều tuyển từ Tục thuyết phu; sách thứ hai
đưa vào Học hải loại biên, Bút ký tiểu thuyết đại quan; Tứ khố toàn thư tổng
mục đề yếu cũng thấy còn mục lục; sách thứ ba đưa vào Cư gia tất bị. Đầu
sách Cư gia tất bị còn có lời dẫn ghi “Cù Hựu Tông Cát mới soạn”, nhưng
trong 95 cuốn sách được đưa vào lại thấy xuất hiện sách Mô thế ngữ của
Trần Kế Nho (1558-1639), đó là tác phẩm mới ra đời sau khi Cù Hựu đã chết.
Hiển nhiên các lái buôn sách muốn loại bách khoa toàn thư kiểu cố vấn
thường ngày này bán chạy nên mượn danh tiếng Cù Hựu mà thôi.
3. Táng thuyết: sách đã mất. Thiên khoảnh đường thư mục quyển 13,
bộ Tý, loại Ngũ hành ghi: “Cù Hựu, Trần thị táng thuyết 1 quyển”. Minh sử -
Nghệ văn chí, Hàng Châu phủ chí năm Quang Tự cũng có ghi. Nhưng Táng
thư có chép trong Văn hiến vựng biên của Tư Mã Thái, quyển 48 lại ghi tác
giả là Triệu Phương, còn Quảng thuyết phu điều 51 ghi Cù Hựu có Trần thị
mộ thuyết và Triệu Phương có Táng thuyết. Cách nói ở hai sách khác nhau,
sách Thiên khoảnh đường thư mục của Hoàng Ngu Tắc đời Thanh rất có thể
đã căn cứ vào các loại sách thông tục này mà chép lại nên tỉ lệ làm giả rất
lớn.
Ngoài ra, chúng tôi còn phát hiện ở Quảng thuyết phu quyển 7 có chép
các truyện: Lão ni truyện, Yên hoa chủ nhân truyện, Tửu quỷ tự tự truyện,
Kinh Môn lão phụ truyện; quyển 43 chép các truyện truyền kỳ: Tuyết Nhai hoà
thượng đông du ký, Trúc đình thính địch ký, Từ Nhàn âm đức ký, Vọng giang
lâu kỷ, Đông hiên lệ tình kỷ, đều ghi của Cù Hựu. Những quyển này cùng với
Tiễn đăng tùng thoại (bản 12 quyển) Tây các ký mai ký trong Lục song nữ sử
đều ghi tên tác giả là “Cù Hựu người Tiền Đường” hẳn không đáng tin; trái lại
sách Đàm tinh tuấn ghi Cù Tông Cát viết Hoa trung cúc phổ truyện thì có thể
đúng sự thực.
Từ Bá Linh nói: “Trứ tác lúc sinh thời của Tồn Trai Cù tiên sinh Tông
Cát mất mát không phải ít”. Điền Nhữ Thành cũng nói: “Trứ tác lúc sinh thời
của Tông Cát tán lạc không ít”. Hai bộ Đàm tinh tuấn, Tây Hồ du lãm chí dư
đều sưu tập không ít bản thảo cũ của Cù Hựu; còn các sách muộn về sau
như cổ kim đồ thư tập thành của Trần Mộng Lôi đời Thanh thì không biết có
đúng đã giữ lại được những tác phẩm còn sót của Cù Hựu hay chăng? Điều
ấy phải phán đoán thận trọng mới được.
Bất luận thế nào, Cù Hựu quả là một người cần cù phấn đấu, câu cho
rằng “Tiên sinh sinh vào thời loạn lạc điêu linh, tuổi già lại gặp lúc nhiều hoạn
nạn, thế nhưng việc trứ thuật không hề giảm sút, học vấn ngày càng nâng
cao. Nhìn ông, những kẻ suốt ngày no bụng mà không chú tâm và một việc
gì, phải lấy làm thẹn lắm!” quả thật không sai.
C. TÀI TÌNH
Học rộng tài cao, phong cách khoáng đạt!
Đó là lời nhất trí khen Cù Hựu của các sách Tây Hồ du lãm chí dư,
quyển 12, Lưỡng Chiết danh hiền lục, quyển 47, Bản (Minh) triều nhân vật
khảo, quyển 42, Hàng Châu phủ chí quyển 85 thời Vạn Lịch, Tiền Đường
huyện chí - Kỷ hiến thời Vạn Lịch, Tiền Đường huyện chí - Nhân vật chí thời
Khang Hy, Lâm An huyện chí quyển 3 thời Càn Long, Chiết Giang thông chí
quyển 178 thời Quang Tư, Lâm An huyện chí quyển 7 thời Tuyên Thống…
Ngoài ra cũng có sách khen “tài tình cao vợi” “tài hoa xán lạn”, cũng khen cả
“phong tình cao đẹp” hoặc khen “cái tài bác nhã của ông không thể lường
được”. Có người còn nói “Xem những trứ tác lúc thiếu thời của ông như thế,
lẽ nào người đời không gọi là “kỳ tài” được ư?”. Những lời khen đó chứng tỏ
Tông Cát tài tình cao vọi.
Quá khước xuân quang độc yểm môn,
Nhiêu sầu mạn hữu tửu doanh tôn.
Cô đăng thính vũ tâm đa cảm,
Nhất kiếm hoành không khí thượng tồn.
Xạ hổ hà niên tùy Lý Quảng,
Văn kê trung dạ vũ Lưu Côn.
Bình sinh gia quốc oanh hoài bão,
Thấp tận thanh sam tổng lệ ngân.
(Cửa khép vèo qua ánh sáng xuân,
Đầy vơi bầu rượu giải lòng buồn.
Nghe mưa đèn lẻ tâm đa cảm,
Vung kiếm ngang trời khí vẫn còn.
Bắn hổ năm nào theo Lý Quảng,
Nghe gà đêm vắng múa Lưu Côn.
Nước nhà trọn kiếp tình vương vấn,
Vạt áo xanh đầm giọt lệ tuôn).
Đây là bài thơ duy nhất của Cù Hựu được tuyển vào tập Minh nhân
tuyển Minh thi. Xem thơ của ông, chúng ta có thể thấy được thấp thoáng nỗi
buồn của một người ôm tráng chí mà không thỏa nguyện. Do đó chúng ta
không thể không liên tưởng đến điều này: phải chăng Cù Hựu viết Tiễn đăng
tân thoại trong hoàn cảnh thời thế không thuận lợi cho ông, vì vậy ông tìm sự
tiêu khiển, an ủi đền bù trong tác phẩm bày tỏ phẫn nộ đó chăng?
Điều khiến chúng tôi vui mừng là sự liên tưởng như trên không phải là
ảo giác của người viết sách này. Chúng tôi rõ ràng đã phát hiện được ở Tây
Hồ nhị tập của Vũ Lâm Chu Thanh Nguyên thời cuối Minh đã từng có nhận
định tương tự, chỉ hiềm chưa được mọi người lưu tâm đó thôi! Đương nhiên,
lời của nhà tiểu thuyết chưa thể vội tin, vì thế dưới đây chúng tôi vừa dẫn văn
của họ Chu vừa khảo chứng xuất xứ của sự việc, một là để giới thiệu những
chuyện chưa biết về thời niên thiếu của Cù Hựu, một nữa để xem xét nguyên
do Cù Hựu sáng tác Tiễn đăng tân thoại.
Ngô Việt Vương tái thế giang sơn trong Tây Hồ nhị tập quyển 181 lời
nhập truyện viết:
Tiêu điều thư kiếm khôn ai trần,
Thập niên đa thiểu bi tân.
Tùng sinh hàn giản bôi dương xuân,
Miễn cưỡng tinh thần.
Thả khả phùng trường tác hí,
Ninh tu đối khách ngôn bần?
Hậu lai tri ngã khởi vô nhân?
Mạc mạn triêm cân!
(Tiêu điều thư kiếm bụi hồng trần,
Buồn đáu biết mấy, mười năm.
Thông xanh, suôi lạnh, ánh dương xuân,
Gắng gượng tinh thần.
Nếu gặp dịp vui cứ giỡn,
Dẫu nghèo, trước khách đừng than.
Đời sau không kẻ hiểu ta chăng?
Chớ để lệ đầm khăn!)
Bài từ này nhan đề là Họa đường xuân, là tác phẩm của Mã Hạo Lan,
tài tử Hàng Châu.
Bài từ Họa đường xuân này còn thấy trong Tây Hồ du lãm chí dư quyển
12, chữ nghĩa không khác. Mã Hạo Lan là em vợ Từ Bá Linh, tác giả Đàm
tinh tuấn.
Nhân vì lúc ấy huyện Tiền Đường có một nhân tài họ Cù, tên Hựu, tự
Tông Cát, tài cao học rộng, phong cách khoáng đạt, hạ bút là viết xong nghìn
lời, ngậm châu nhả ngọc, lỗi lạc khiến người phải nể sợ. Năm Tông Cát mười
bốn tuổi, cha còn chưa biết cậu tài hoa. Chợt có người bạn thân của cha tên
là Trương Ngạn Phục làm quan ở Phúc Kiến trở về ghé thăm, cha bày rượu
gà khoản đãi. Cù Tông Cát từ thư viện trở về, Trương Ngạn Phục chỉ con gà
làm đề, bảo cậu làm một bài thơ. Tông Cát ứng khẩu đọc:
Tống tông song hạ đối đàm cao,
Ngũ đức thanh danh ngũ thái mao
Tự thị Phạm Trương tình nghĩa trọng,
Cát phanh hà tất dụng ngưu đao.
(Cao đàm dưới cửa tiếng “tông tông”,
Năm đức vang danh, năm sắc lông.
Mổ thịt đâu cần dao thật lớn,
Phạm Trương từ đó nghĩa tình nồng).
Trương Ngạn Phục hết lời ngợi khen, tự tay vẽ một cành hoa quế, dưới
đề một bài thơ tặng:
Cù quân hữu tử tảo năng thi,
Phong thái anh anh lan ngọc ty (tư).
Thiên thượng kỳ lân nguyên hữu chủng,
Định ưng cao chiết Quảng Hàn chi.
(Mừng bạn con trai sớm giỏi thơ,
Ngời ngời lan ngọc đẹp phong tư.
Kỳ lân nguyên giống từ trời thẩm,
Bẻ quế cung Hàn hẳn sức dư).
Từ đó tiếng tăm lan rộng, những người có tên tuổi, đỗ đạt sớm đều kết
bạn vong niên với Cù Hựu.
So sánh giai thoại này với mục Chiết quế chi trong Quy điền thi thoại
quyển hạ, sự việc giống nhau, nhưng “Trương Ngạn Phục” thì viết thành
“Chương Ngạn Phục”. Mục Tài tình nhã chí trong Tây Hồ du lãm chí dư,
quyển 12, mục Túc tuệ trong Nghiêu sơn đường ngoại kỷ quyển 80 của
Tưởng Nhất Quỳ đời Minh, Thi thoại loại biên quyển 8 của Vương Xương Hội
đời Minh đều dẫn và đều có ghi: Cù Tông Cát “lúc nhỏ không được cha biết
tài”, “Cù ông bèn dựng Truyền quế đường”. Ngoài ra những điều chép về
cuộc đời Cù Hựu cũng giản lược. Riêng quyển Dư chí có nói đến Trương
Ngạn Phục, lại viết: “Còn Lăng Ngạn Sư (tức Lăng Vân Hàn), Khâu Ngạn
Năng, Ngô Kính Phu đều là bậc hương lão, làm bạn vong niên với ông”.
Những trích dẫn trên đây căn cứ vào hai mục Chung Quỳ đồ, Lô hoa bị trong
Quy điền thi thoại, quyển hạ.
Bấy giờ người tài danh bậc nhất là Dương Duy Trinh, tự Liêm Phu, hiệu
Thiết Nhai tiên sinh, nghe tiếng tài danh của Cù Hựu liền đến thăm. Nhân
muốn thử xem tài học thế nào mới đưa bài thơ Hương liêm bát vịnh của mình
bảo họa. Tông Cát cầm bút lên, viết một mạch là thành. Về Họa trần xuân
tích, thì viết: “Yến vĩ điểm ba vi hữu vựng, Phượng đầu đạp nguyệt tiếu vô
tranh” (Én chao chạm sóng tung vừng sáng, Phượng giẫm vầng trăng không
tiếng vang); về Đại mi tần sắc thì viết: “Hận tòng Trương Sưởng hào biên
khởi. Xuân hướng Lương Hồng án thượng sinh” (Giận theo ngòi bút cùng
Trương Sưởng, xuân đến trên bàn với Lương Hồng”; về Kim tiền bốc hoan, thì
viết: “Chức cẩm hiên song văn tiếu ngữ, Thái tần châu chủ thính sầu hu” (Bên
song dệt gấm nghe cười nói, Dưới bãi tìm rau lắng gọi sầu); về Hương giáp
đề ngân thì viết: “Ban ban Tương trúc phi nhân vũ, Điểm điểm dương hoa bất
thị xuân (Chẳng phải vì mưa Tương trúc đốm, Dẫu hoa dương nở cũng không
xuân). Tông Cát nhất nhất đều họa trôi chảy, Dương Liêm Phu thán phục
rằng: “Đó chính là con ngựa câu ngàn dặm của nhà họ Cù vậy”. Từ đó thanh
danh chấn động thiên hạ.
So giai thoại này với Hương liêm bát đề trong Quy điền thi thoại thì tình
tiết có khác: “Dương Liêm Phu lúc già ở Tùng Giang… mỗi khi qua Hàng
Châu đều đến thăm ông chú tôi (chỉ Cù Sĩ Hành), nghỉ ngơi uống rượu ở
Truyền quế đường, vui vẻ nhiều ngày, từng cho tôi xem tập Hương liêm bát
đề, tôi theo nguyên thể mà họa được. Liêm Phu ngợi khen; người lại bảo với
ông chú tôi: “Đây là con ngựa câu ngàn dặm của nhà bác đấy!”. Sau còn có
chuyện Liêm Phu lấy hài, chén làm đề bảo Cù Hựu làm thơ, Tông Cát làm
một bài từ theo điệu Tấm viên xuân, Liêm Phu rất thích, sai ca kỹ hát, hầu
rượu vui say mới thôi. Nghiêu sơn đường ngoại kỷ quyển 80, mục Túc huệ
trong Thi thoại loại biên quyển 8, Liệt triều thi tập tiểu truyện, tập Ất của Tiền
Khiêm Ích đời Thanh đều ghi chép như thế; chỉ có điều sách sau ghi: “Tông
Cát mười bốn tuổi” thời có thể bị lẫn làm một với đoạn dẫn trước. Ngoài ra
cuộc đời Cù Hựu cũng được kể giản lược. Duy mục Tài tình nhã trí trong Tây
Hồ du lãm chí dư có viết: “Một hôm Dương Liêm Phu đến thăm…” Bài từ Tấm
viên xuân thấy ở quyển 11.
Từ những điều trình bày ở trên có thể thấy, Cù Hựu lúc nhỏ đã sớm
được mọi người thích thú nhắc tới, nhưng vì sách này sách nọ trích dẫn qua
lại lẫn nhau, nên đều không thoát ra khỏi Quy điền thi thoại.
D. ĐỘNG CƠ SÁNG TÁC
Chu Thanh Nguyên sau khi giới thiệu “tài tình” của Cù Hựu lại viết tiếp
về động cơ sáng tác Tiễn đăng tân thoại của ông:
Nhưng tuy như vậy, mà “hữu tài vô mệnh”, dưới bút đã viết đến cả ngàn
bài thi phú mà tìm trong túi không có được một hai đồng thông bảo. Thật là
thời vậy! Vận vậy! Mệnh vậy! Cho nên trong lòng ông dậy lên niềm cảm khái
mà trước hết thể hiện ở một bài thơ:
Tự cổ văn chương ách mệnh cùng,
Thông minh vị tất thắng ngu mông.
Bút đoan hoa dữ hung trung gấm,
Khiểm đắc Tương Như tứ bích không.
(Tự cổ văn chương hãm mệnh cùng,
Hơn thua chưa hẳn bởi ngu, thông.
Gấm,hoa đầu bút cùng trong dạ,
Kiếm được Tương Như bốn vách không).
Bèn viết một bộ sách đặt tên là Tiễn đăng tân thoại, bỡn cợt nơi bút
mực, trào phúng một để khuyên răn một trăm, mượn việc đó để bộc lộ ý chí
và khí khái trong lòng.
Xét bài thơ này của Cù Tông Cát có chép trong mục Tài tình nhã trí ở
Tây Hồ du lãm chí dư quyển 12, đề là Mạn hứng. Điền Nhữ Thành nói: “Bởi
có điều phẫn khích trong lòng nên viết như thế”, rồi dẫn thêm bài Thư sinh
thán và nói “Niềm cảm thời thương sự có lẽ còn hơn nhiều”. Trong Tồn Trai
dật cảo ở Đàm tinh tuấn của Từ Bá Linh không thấy chép hai bài này, còn
trong Liệt triều thi tập tiểu truyện tập Ất của Tiền Khiêm Ích đời Thanh, ở cuối
truyện Cù trưởng sử Hựu có viết: “Khi ở Bảo An, đương lúc Hưng Hà thất thủ,
biên giới tiêu điều; năm Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Lạc, tuyển học trò hát Phật
khúc ở dưới ải, bấy giờ gặp tiết Nguyên tiêu, Cù Hựu viết năm bài từ Vọng
Giang Nam, người nghe ai cũng buồn rầu rơi lệ. Lại có các bài thơ Mạn hứng,
Thư sinh thán, đến nay những kẻ sĩ nghèo bị mất chức đều ngâm nga”. Xem
ý câu văn, người ta dễ dàng nghĩ rằng bài thơ Mạn hứng được Cù Tông Cát
viết vào lúc tuổi già, không phải như cách lý giải của Chu Thanh Nguyên
(sáng tác trước khi viết Tiễn đăng tân thoại); nhưng điều Tiền Khiêm Ích nói
thực ra xuất phát từ Chí dư, chỗ sai ấy cứ nhân tập lên mà chưa sửa được.
Chí dư khi xử lý các bài Vọng Giang Nam, Mạn hứng, Thư sinh thán của Cù
Công Cát đã cho rằng Mạn hứng chưa chắc đã không được sáng tác trước
Tiễn đăng tân thoại. Ngoài ra câu “Bỡn cợt nơi bút mực, trào phúng một để
khuyên răn một trăm” của Chu cũng có gốc từ mục Tài tình nhã trí trong Chí
dư quyển 12: “Tông Cát từng sáng tác một tập Tiễn đăng tân thoại… bỡn cợt
nơi bút mực, trào phúng một để khuyên răn một trăm, trong đó cũng có những
điều khả thủ”.
Sau Mã Hạo Lan đọc bài thơ này của ông, bất giác cảm thán ngậm
ngùi, bèn viết bài từ Họa đường xuân trên đây điếu Cù Tông Cát. Này khán
giả, các vị bảo làm thế nào với con tạo đây? Trời xanh mắt mờ, riêng đào
luyện ra một anh chàng nghèo xác xơ, áo không thành áo, cơm chẳng ra
cơm, bữa có bữa không, suốt ngày cầm mấy quyển sách nát, “Tử viết, Thi
vân, chi hồ giả dã” đọc mãi không thôi. Thật là khóc không ra, cười không
nên, kêu gào không được mà nhảy múa cũng không xong. Các vị bảo ông ta
có đáng thương hay không đáng thương? Cho nên chỉ đành gặp dịp thì giỡn,
chẳng gấp gáp quan trọng gì. Viết một bộ tiểu thuyết, mặc sức tưởng tượng
để truyền lại cho đời.
Xét đoạn văn trên cũng bắt nguồn từ ý tứ sau đây ở Tài tình nhã trí
trong Tây Hồ du lãm chí dư quyển 12: “Bài thơ Mạn hứng của Tông Cát viết:
… Mã Hạo Lan cảm ý thơ bèn làm bài từ Họa đường xuân:…'' Chu Thanh
Nguyên cho rằng văn sĩ đã “có cái tài của Tử Kiến bảy bước thành thơ,
Vương Xán lên lầu làm phú thì họ đáng quan cao cực phẩm, vị đến tam thai”
v.v… Sau đoạn cuối, ông còn đem việc Từ Vị sáng tác Tứ thanh viên với việc
Cù Hựu sáng tác Tiễn đăng tân thoại ra bình luận để làm rõ động cơ sáng tác
của hai người:
Một người thì thành tâm khuyên người đời làm người tốt để khỏi bị đời
sau phỉ nhổ. Một người thì bày tỏ hết cái khí trong tâm, đem cái ý bình sinh
muốn ca, muốn khóc, muốn cười, muốn nhảy viết hết ra trên giấy, mượn đó
mà làm vợi bớt khí bất bình đầy ắp trong lòng, uất kết không giải được. Đúng
là:
Thế sự đoản như xuân mộng,
Nhân tình bạc tự thu vân.
Phùng trường bất phương tác hý.
Thính ngã thiệt chiến phân phân.
(Sự thế ngắn như xuân mộng,
Tình người mỏng tựa mây thu.
Gặp dịp rỡn đùa chẳng hại,
Múa lưỡi ra trận, nghe ru?)
Lời dẫn truyện Ngô Việt Vương tái thế sách giang sơn trong Tây Hồ nhị
tập đến đây kết thúc. Từ những đoạn văn đã dẫn trên đây, chúng ta không
khó phát hiện ra rằng Chu Thanh Nguyên kể la liệt các sự tích của Cù Hựu
nhưng kỳ thực đều bê tư liệu sẵn có ở bộ Tây Hồ du lãm chí dư. Còn Chu
cảm khái cho Tông Cát không gặp thời, đại để đó là sự than tiếc của một
người “cùng bệnh thương nhau” đó chăng?
Cuộc đời Chu Thanh Nguyên rất khó khảo cứu, Hồ Hải Sĩ trong Tây Hồ
nhị tập tự nói ông là một “nhân tài khoáng thế bị bỏ quên, lòng dạ khảng khái,
mênh mông như nhà trăm gian”, vả lại “khí nhàn chung đúc, tài tình dạt dào,
học nhiều biết rộng, trên đời không hai”, đáng tiếc “có tài chẳng gặp, đạp lên
nghèo cùng, chỉ ước nguyện được làm kép hát, tay gảy tì bà để được đời biết
đến, lại nguyện đời đời kiếp kiếp làm người không biết một chữ đinh”. Thanh
Nguyên cũng tự kể: “Ta nghèo không thể đãi khách, khách đến khó tránh khỏi
chặt cột nhà nấu cơm, vì thế ẩn trong bóng nơi lều hẹp, không giao du với
bậc trưởng giả. Vách lở tường xiêu, trăng soi sao rọi, tuyết lọt sương bay, ghế
bàn ướt át. Cửa sài Nguyên Hiến, nồi rỗng Phạm Đan dồn cả vào một thân, ta
cũng cam lòng. Điều không thể cam tâm là: kẻ nắm vận mệnh chèn ép mình
quá đáng, bọn cáo cây vô cớ xem thường. Ta chỉ biết trông trời cao mà thở
than, vỗ kiếm Long Tuyền mà kêu to vậy!” Qua đây, cảnh nghèo khó, vất vả,
bị khinh nhờn, uất ức, buồn giận, cảm khái của ông có thể tưởng tượng ra mà
biết. Chúng ta đọc Tây Hồ nhị tập: “ca ngợi đức nhà vua, để lại lời giáo huấn,
lại nhiều lời uất giận”, có thể mường tượng thấy tác giả có tâm “mong muốn
giúp đời” nhưng cớ sao trọn đời bất đắc chí, chỉ có thể “mượn chén rượu của
người, tưới nỗi lòng chất chứa” viết thành tiểu thuyết dùng cho khúc nghệ mà
thôi. Như vậy chẳng trách khi viết về động cơ sáng tác Tiễn đăng tân thoại
của Cù Hựu, Chu Thanh Nguyên lại miêu tả được thật đến thế.
Khi viết xong Tiễn đăng tân thoại, Cù Hựu đang giữ chức Huấn đạo ở
Nhân Hòa, lẽ ra ông không đến nỗi nghèo xơ nghèo xác, chỉ vì đã quá tuổi
“nhi lập” mới được giữ một chức vụ nhỏ, tài cao chí lớn như ông hẳn là vô
cùng buồn tẻ thất ý, cho nên lời Tự đề tựa lúc ấy đã viết: “Khuyến thiện trừng
ác, ai cùng điếu khuất” (khuyên làm điều thiện, răn đừng làm điều ác, thương
xót kẻ cùng quẫn, oan khuất). Lời dẫn truyện của Tây Hồ nhị tập quyển 1 có
thể coi là chú thích hay nhất cho tám chữ này!
Tiết thứ hai
NGUYỄN DỮ
Nguyễn Dữ, tự và hiệu đều chưa rõ, năm sinh năm mất cũng không thể
khảo cứu được. Những tư liệu truyện ký liên quan đến ông còn lại trong sách
vở các đời không nhiều. Bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết
năm 1547 có thể là tài liệu ghi chép sớm nhất:
Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu.
Ông là con trưởng vị Tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất
chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương
truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường,
từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền. Mới được một năm, ông từ quan
về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị
thành, thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý…
Ngoài ra, trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (1726-1784) cũng có
một thiên tiểu truyện về ông:
Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng huyện Gia Phúc. Cha là Nguyễn Tường
Phiêu, Tiến sĩ khóa Bính Thìn, đời Hồng Đức (1496), làm quan đến Thượng
thư bộ Hộ. Dữ từ nhỏ đã nổi tiếng học rộng nhớ nhiều, có thể lấy văn chương
nối nghiệp nhà. Đỗ Hương tiến, nhiều lần thi Hội trúng tam trường, được bổ
chức Tri huyện Thanh Tuyền, mới được một năm, lấy cớ nơi làm việc xa xôi,
xin về phụng dưỡng (cha mẹ). Sau vì ngụy Mạc thoán đoạt, thề không đi làm
quan nữa; ở làng dạy học, không đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ
mạn lục bốn quyển, văn từ thanh lệ, người đương thời rất khen. Sau được
chết già.
Hai đoạn văn trên về đại thể rất giống nhau, người sau có thể tham
khảo người trước và bổ sung thêm. Các ông tuy chỉ ghi đôi lời ít ỏi nhưng
cũng là những bằng cứ thư tịch rất quý đối với việc khảo sát gia thế, cuộc đời
Nguyễn Dữ và cả động cơ viết Truyền kỳ mạn lục của ông.
A. GIA THẾ
Phụ thân Nguyễn Dữ là Nguyễn Tường Phiêu, trong bài Tựa Tân biên
truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán có lời chú: “Ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính
Thìn năm Hồng Đức 27, làm quan đến Thượng thư”. Tân biên truyền kỳ mạn
lục tăng bổ giải âm tập chú ghi: “Tường Phiêu người xã Gia Phúc, Hồng
Châu, Hải Dương, đậu Đồng tiến sĩ khoa Bính Thìn, năm Hồng Đức 27, làm
quan đến Thượng thư thừa sứ, nay thờ làm Thượng đẳng thần”. Nay tra Đại
Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 13, thì năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức
27 đời Lê Thánh Tông (1496) chỉ thấy ghi:
… Ngày 26 (tháng 3) dẫn các sĩ nhân vào sân điện Kim Loan. Vua tự
xem dung mạo mọi người, lấy đỗ ba mươi người. Ngày 27, vua ngự chính
điện, xướng danh, cho Nghiêm Viên, Nguyễn Huân, Đinh Lựu ba người đỗ
Tiến sĩ cập đệ, bọn Đinh Cương tám người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn
Đạo Diễn mười chín người đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân.
Trong số người đỗ tịnh không có tên Nguyễn Tường Phiêu, nhưng Lê
triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký thì ghi rõ ràng Nguyễn Tường Phiêu đứng
thứ 9 trong 19 Đồng tiến sĩ xuất thân đệ tam giáp. Phan Huy Chú (1782-1840)
trong Đăng khoa bị khảo lại ghi:
Nguyễn Tường Phiêu người xã Đoàn Tùng, đỗ Đồng tiến sĩ khoa Bính
Thìn năm Hồng Đức 27 đời Thánh Tông, làm quan đến Thừa tuyên sứ, tặng
Thượng thư, nay là phúc thần. Con ông là Nguyễn Dữ, học vấn hơn người,
viết Truyền kỳ lục.
Các đoạn dẫn trên đây đã ghi nhận Nguyễn Tường Phiêu từng đỗ Tiến
sĩ, làm quan cao, sau khi chết được phong “Thượng đẳng thần” (hoặc phúc
thần), lời Tựa của Hà Thiện Hán, ghi chép của Lê Quý Đôn là đáng tin cậy.
B. CUỘC ĐỜI
Căn cứ vào Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán mà xét thì
Nguyễn Dữ có anh em trai hoặc chị em gái. Từ nhỏ Nguyễn đã “thông minh
cẩn trọng”, quyết nỗ lực ở việc học, thêm nữa lại xuất thân trong gia đình
khoa hoạn, trong nhà tất có thư viện nhiều sách cung cấp cho ông đọc, vì thế
mới có thể “đọc rộng nhớ nhiều”, rèn luyện để có học vấn hơn người, ông hổ
thẹn là dòng dõi “văn chương thế gia”.
Sau khi ông đỗ Hương tiến, “nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường”, được
bổ chức Tri huyện Thanh Tuyền. Tuy nhiên chúng tôi tìm trong Đại Việt lịch
triều đăng khoa lục, không thấy tên Nguyễn Dữ trong hàng sĩ nhân trúng cách
khoa thi Hội, huyện Thanh Tuyền chính xác ở đâu cũng có nhiều thuyết khác
nhau, nhưng việc Nguyễn Dữ được trao chức Tri huyện Thanh Tuyền thì có
thể tin là chính xác, ví như trong Việt điện tùy văn hợp lục ghi: Truyện truyền
kỳ của lệnh doãn Thanh Tuyền họ Nguyễn”.
Nhưng Nguyễn Dữ làm quan huyện Thanh Tuyền chỉ một năm thì xin từ
chức về nhà. Bấy giờ chắc chắn phụ thân ông là Nguyễn Tường Phiêu đã
mất, nếu không trong lời Tựa Hà Thiện Hán đã không nói: “từ quan về nuôi
mẹ cho tròn đạo hiếu”. Nhưng tại sao Nguyễn Dữ lại từ quan vội vàng như
thế? Có phải vì cha đột ngột qua đời nên ông phải về gấp chịu tang? Hay là vì
làm quan quá xa, không yên tâm để mẹ ở nhà cô quạnh? Hoặc còn có
nguyên cớ nào khác nữa chăng? Thực là đủ cho người bỏ công suy nghĩ!
Sau khi từ quan, Nguyễn Dữ không trở lại quan trường nữa, thậm chí
“không đặt chân đến thành thị”, mà ở ẩn dài lâu tại quê nhà, mở trường dạy
học, vì thế Lịch triều hiến chương loại chí mới gọi ông là “ẩn sĩ”. Trong thời
gian dạy học, ông đã dành nhiều công phu trong vài năm chuyên viết Truyền
kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ trứ tác không ít, nhưng lưu truyền ngày nay chỉ còn
lại bộ sách này mà thôi!
C. THẦY VÀ BẠN
Đối với Nguyễn Dữ, có một thuyết phổ biến nói ông là học trò “cao túc”
của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Điều này liên quan đến tuổi tác Nguyễn Dữ và cả
niên đại sáng tác Truyền kỳ mạn lục, do đó không thể không bàn. Bạch Vân
am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký trong Công dư tiệp ký của Vũ Thuần
Phủ (1697-?) viết:
Dữ ở ẩn không làm quan, viết Truyền kỳ mạn lục, phần nhiều được ông
phủ chính nên trở thành một “thiên cổ kỳ bút”.
Những ghi chép như thế tương truyền cũng thấy ở Bạch Vân am tập
của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vì thế thuyết Nguyễn Dữ là học trò Nguyễn Bỉnh
Khiêm lâu nay được nhiều nhà nghiên cứu tin theo không nghi ngờ gì.
Nay khảo về Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ông người Trung Am
huyện Vĩnh Lại, bẩm sinh đĩnh ngộ khác người; lúc trẻ theo học Lương Đắc
Bằng, tinh thông Dịch lý, có thể biết trước mọi việc, nổi tiếng về tài văn thơ.
Mạc Đăng Dung cướp ngôi, ông không chịu đi thi; mãi đến năm 45 tuổi, vì nhà
nghèo phải nuôi mẹ, ông mới ứng thí, đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi niên hiệu
Đại Chính thứ 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan được tám năm,
Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ hạch tội 18 kẻ lộng thần, không được, bèn thác
cớ đau mắt xin hưu quan về ẩn cư ở am Bạch Vân huvện Chí Linh. Triều đình
nhà Mạc kính trọng ông, ở xã vẫn gia phong tước trật, tới tước Trình quốc
công; sứ nhà Thanh là Chu Xán từng khen rằng: “Về lý học, An Nam có Trình
Tuyền”. Ông thọ 95 tuổi, học giả suy tôn là Tuyết Giang phu tử. Truyện về ông
thấy ở các sách: Đại Việt sử ký toàn thư, Đăng khoa bị khảo, Khoa bảng tiêu
kỳ, Nam quốc vĩ nhân truyện. Ông có học trò là Phùng Khắc Khoan, Tiến sĩ
đệ nhị giáp khoa Canh Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ 3 (1580), đời Lê Thế
Tông; từng đi sứ Trung Quốc năm Quang Hưng thứ 20 (1597), tên tuổi vang
dội Yên Kinh, được coi là “Nam Bắc lưỡng triều Trạng nguyên”. Truyện về
ông thấy ở các sách: An Nam thông sử, Đại Nam hiệu ứng truyện, Bắc sứ giai
thoại.
Hồ Huyền Minh tham khảo Việt Nam văn học sử yếu của Dương
Quảng Hàm và Việt Nam đại quan của Lý Văn Hùng, nói Nguyễn Bỉnh Khiêm
có hai học trò: người giỏi nhất là Phùng Khắc Khoan, người thứ hai là Nguyễn
Dữ. Thuyết ấy minh chứng rằng những sự việc Nguyễn Dữ làm quan, từ quan
đều xảy ra trước khi nhà Mạc thoán ngôi nhà Lê (1527), như vậy ghi chép của
Thuần Phủ chỉ là hư cấu! Lại nói, trong Bạch Vân am tập của Nguyễn Bỉnh
Khiêm nếu quả có ghi chép điều gì tương tự như Công dư tiệp ký thì cũng có
khả năng chỉ là ngụy tác của người đời sau, bởi vì Nghệ văn chí trong Hoàng
Việt thông sử có ghi rằng:
Bạch Vân am tập… quyển, lại một bộ nữa… quyển, Nguyễn Bỉnh
Khiêm soạn, tự đề tựa, tổng số thơ gồm 1000 bài. Một trong hai bộ đó không
có lời tựa, số thơ còn lại chỉ độ một phần mười nguyên tác, chắc chắn do
người đời sau biên soạn, nhưng để khuyết tên họ.
Giáo sư Trần Khánh Hạo viết: “Căn cứ vào tiểu truyện họ Nguyễn, năm
Vĩnh Định sơ niên, Bỉnh Khiêm nghiễm nhiên đã là bậc thầy của vua, thanh
danh rất lớn, nếu như Nguyễn Dữ là học trò “cao túc” của ông thì e rằng Hà
Thiện Hán khi viết lời Tựa không thể bỏ sót tên ông. Vậy thì có thể Nguyễn
Dữ chỉ là người đồng thời và có khi còn lớn tuổi hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm chút
ít”. Đây là một luận đoán khá tin cậy.
D. ĐỘNG CƠ VIẾT SÁCH
Trong Tựa Truyền kỳ mạn lục, Hà Thiện Hán nói: tác giả “mấy năm
không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý”,
như thế có thể thấy Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục tuyệt không đơn thuần
“nghệ thuật vị nghệ thuật” mà có điều gửi gắm, ngụ ý. Vậy thì trong sách ông
đã “ngụ ý” gì? Nói một cách khác, động cơ sáng tác của Nguyễn Dữ là gì?
Thật là điều đáng suy đoán.
Rất tiếc là ngoài tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ không còn
để lại một câu chữ nào khiến cho hậu thế không thể hình dung rõ được hình
tượng, tính cách, tư tưởng, tình cảm của ông. May mắn trong 20 thiên truyện
của Truyền kỳ mạn lục, trừ truyện Kim Hoa thi thoại ký ở quyển 4 ra, sau
đoạn kết của 19 truyện còn lại đều có một lời bình ngắn gọn, đó chính là
Nguyễn Dữ đã từ sau cánh màn chạy ra sân khấu để hiện thân thuyết pháp”,
biểu đạt tình cảm yêu, ghét, khen, chê của mình. Đó chính là chỗ khác nhau
rõ rệt nhất giữa Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại, cũng là con đường
trực tiếp giúp chúng tôi khảo sát động cơ sáng tác của tác giả.
Ở Trung Quốc, từ sau cách làm của Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký: cuối
mỗi truyện đều có mục Thái sử viết, ghi lời bình luận của tác giả về điều hay
điều dở, công tích lỗi lầm của nhân vật lịch sử, thì các bộ sử sau đó, đều bắt
chước. Nhiều truyện truyền kỳ đời Đường và Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng
Linh đời Thanh đều vận dụng hình thức ấy. Truyền kỳ mạn lục cũng theo thể
lệ đó của sử truyện, cuối mỗi truyện đều mở đầu bằng lời cảm thán “Than ôi!”,
sau đó hoặc là nói thẳng, hoặc đặt câu hỏi để nói thêm ý kiến của mình đối
với mỗi truyện:
Than ôi, những truyện huyền hoặc Tề hài, những lời ngụ ngôn Trang
Chu, người quân tử vốn chẳng nên ham chuộng. Nhưng nếu là chuyện quan
hệ đến luân thường, là lời ký ngụ ý khuyến giới thì chép ra và truyền lại, có
hại gì đâu.
Nay như câu chuyện Tử Hư, có thể để khuyên cho những người ăn ở
trung hậu với thầy, lại có thể làm răn cho những người ăn ở bạc bẽo với thầy,
có quan hệ đến luân thường của người ta lớn lắm. Còn như việc lên chơi
Thiên tào, có hay không có, hà tất phải gạn gùng đến nơi đến chốn làm gì?
Lời nghị luận về truyện Phạm Tử Hư du thiên tào lục trên đây rất tiêu
biểu cho thái độ sáng tác của Nguyễn Dữ. “Chuyện quan hệ đến luân thường”
là điều Nguyễn Dữ thận trọng khi tuyển chọn đề tài; “lời ngụ ý khuyên răn” là
tinh thần sáng tác nhất quán của ông vì là truyền kỳ, nội dung đương nhiên
không tránh khỏi đề cập đến hoang đường quái đản, nhưng đó không phải là
bản ý sáng tác của tác giả, cho nên bất tất phải gắng gượng biện giải xem
các tình tiết trong truyện thật hay giả, có hay không, chỉ hy vọng độc giả hiểu
cho bản ý ban đầu của tác giả để khi đọc tự mình hiểu và phân biệt. Quan
niệm như thế tồn tại phổ biến trong các truyện, như nó được nhắc lại trong Dạ
Xoa bộ soái lục: “Chuyện ấy có hay không, không rỗi mà bàn”; được nhắc
nhở trong Xương Giang yêu quái lục: “Xem thấy yêu nữ mê hoặc người, sẽ
biết răn sợ trước sắc đẹp, xem thấy linh từ xử án, sẽ biết kính tránh thần
thiêng”; được chỉ rõ trong Từ Thức tiên hôn lục: “Những bậc quân tử sau này
khi để mắt đến sẽ liệu mà thêm bớt, bỏ chỗ quái đản mà để chỗ thường thì có
gì là hại?”; được yêu cầu trong Mộc miên thụ truyện: “Đời sau có ai theo luận
thuyết của Vương Sung thì hãy nên giữ lấy pháp độ. Không nên lấy cớ huyễn
thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị đoan mà dìm mất cái hay”.
Xem đến đây, không chừng có người cho rằng Nguyễn Dữ “chỉ cốt mở
lối thoát cho mình”. Ông mũ mãng đàng hoàng để nói những lời khuyên răn,
hoặc giả chỉ là lý do để bịt miệng những nho sĩ lắm lời trên đường phố? Sự
thực không phải như thế. Truyền kỳ mạn lục được viết ra không phải cốt cho
sách được lưu hành, ông có đối tượng để tố cáo, yêu cầu:
Than ôi, người con gái có ba đạo theo, theo chồng là một. Nàng Nhị
Khanh chết, có quả là đã theo chồng không? Thưa rằng không! Đời xưa bảo
theo, là theo chính nghĩa chứ không theo tà dục. Chết hợp với nghĩa, có hại gì
cho cái đạo theo? Theo nghĩa tức là theo chồng đó. Có người vợ như thế mà
để cho phải hàm oan, Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà,
phải trước tự sửa lấy chính mình, khiến cho không thẹn với vợ con, ấy là
không thẹn với trời đất.
Lời bình ở Khoái Châu nghĩa phu truyện trên đây được phát ra vì người
phụ nữ hàm oan chịu nhục; trong Nam Xương nữ tử lục, ông cũng khuyên:
“Làm người đàn ông, đừng để giai nhân phải oan uổng thế này”.
Than ôi, thanh lòng không bằng ít dục, dục nếu yên lặng thì lòng trống
rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến
quấy nhiễu làm sao được? Chàng họ Hà lòng trẻ có nhiều vật dục, cho nên
loài kia mới thừa cơ quyến rũ. Nếu không thì những giống nguyệt quái hoa
yêu, mê hoặc sao được mà chẳng phải thu hình nép bóng trước Lương Công
là một bậc chính nhân? Kẻ sĩ gánh cặp đến học ở Trường An, tưởng nên
chăm chỉ về học nghiệp, tuy không dám mong đến được chỗ vô dục nhưng
giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm!
Lời bình trong Tây viên kỳ ngộ ký trên đây là nói cho độc giả nghe;
trong Tản Viên từ Phán sự lục, ông cũng răn bảo: “Là kẻ sĩ không nên kiêng
sợ sự cứng cỏi”.
Nhìn chung toàn sách có thể thấy mục đích sáng tác Mạn lục của
Nguyễn Dữ chủ yếu là can ngăn nhân vật nắm quyền trong chính giới bằng
lời lẽ uyển chuyển, như Na Sơn tiều đối lục viết:
Than ôi! Có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, đó là
việc của thánh nhân; tiều phu tuy là bậc hiền nhưng đâu đã được đến hạng
ấy. Tuy nói việc táng bại của nhà Hồ, đúng như là bói cỏ bói rùa, nhưng
chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người, nói nhiều may ra thì tin,
đó là cái lẽ đời như vậy. Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm
cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, từng để cho kẻ xử
sĩ phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả.
Lại như trong Lý Tướng quân truyện viết:
Than ôi! Đạo trời chí công mà vô tư, lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, cho
nên hoặc có người lúc sống khỏi vạ mà lúc chết bị hình. Song, chịu họa ở lúc
sống, người đã không hiểu, phải tội ở lúc chết, người lại không hay; vì thế mà
đời thường có lắm loạn thần tặc tử. Ví thử họ hiểu, họ hay thì dù bảo làm ác
cũng không dám làm. Song Lý Mỗ đã trông thấy và biết rõ rồi lại còn làm tệ
hơn. Đó là người hư tồi bậc nhất không chuyển đổi được, không còn thể nói
bàn gì nữa!
Ngoài ra như Hạng Vương từ ký lục nói “Kẻ trị thiên hạ nên tiến lên đến
đạo thuần vương”; Trà đồng giáng đản lục nói: “Ta mong những người làm
quan nên biết cố gắng ở chỗ đáng cố gắng và nên biết soi gương ở những
điều đáng soi”; Đào Thị nghiệp oan ký thì nói: “Làm quan mà như thế, còn gì
gọi là chính gia được nữa?”… Tất cả đều là tiếng kêu bất bình phát ra do
Nguyễn Dữ bất mãn với hiện thực chính trị đương thời.
Bắt đầu từ cuối thời Trần, Việt Nam bước vào những năm tháng có
nhiều sự việc. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tự lập làm vua.
Tông thất nhà Trần sang Trung Quốc xin mang quân sang đánh Hồ Quý Ly;
Quý Ly vờ phục tòng, nhưng ngầm bài binh bố trận để cùng giao chiến và đã
giết chết Trần Thiêm Bình. Nhà Minh lấy cớ Hồ Quý Ly phản nghịch khi quân
nên đem đại binh sang đánh, đổi An Nam thành quận huyện của Trung Quốc,
đặt quan cai trị. Sau người Việt không phục, rầm rộ nổi lên ủng hộ con cháu
nhà Trần chống Minh, cuối cùng Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, lập nên
nhà Hậu Lê. Không ngờ truyền được chín đời, đến Cung đế thì lại giẫm lên
vết xe đổ trong lịch sử; năm 1527 quyền thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà
Lê tự lập làm vua, sau Cung đế được trở lại ngôi nhưng đất nước đã bị chia
cắt, rơi vào thảm họa chiến tranh liên miên.
Nguyễn Dữ sinh vào thời loạn, lúc làm quan có thể đã tận mắt nhìn thấy
cảnh loạn lạc, dân chúng điêu linh, mà mình chỉ là một chân Tri huyện nhỏ
nhoi, không có cách nào thực hiện hoài bão; lại gặp cảnh đại biến, xin nghỉ
quan về làng. Không bao lâu, họ Mạc cướp ngôi, ông lại càng thất vọng, thề
không ra làm quan nữa, mượn Truyền kỳ mạn lục để bày tỏ niềm cô phẫn, thổ
lộ hết những điều không vui trong lòng.
Suy luận như thế không phải hoàn toàn vô căn cứ. Xét bối cảnh thời đại
ra đời của 20 truyện trong Truyền kỳ mạn lục thì có đến tám chín phần mười
được đặt vào giai đoạn Trần mạt - Lê sơ, khi đó ma quỷ hoành hành, bi kịch
tình yêu nảy sinh đều do chiến tranh liên miên và nạn quan tham lại nhũng
gây ra. Nguyễn Dữ viết truyện chẳng phải cũng là một cách tố cáo hiện thực
trước mắt hay sao?
Truyện Na Sơn tiều đối lục, nửa đầu thoát thai từ Thiên Thai phỏng ẩn
lục nhưng nửa sau là sự khác biệt kỳ thú, trong đó có đoạn đối thoại như sau:
Tiều phu nói:
Ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không vào đến cung đình,
nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là người thế nào… Nay
ta đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn xắn
áo mà lội nữa ư? Xin ông vui lòng trở về, làm ơn từ chối hộ kẻ cư sĩ này. Ta
không thể đem hòn ngọc Côn Sơn cho nó cùng cháy trong ngọn lửa Côn Sơn
được.
Trương nói:
- Sự xuất xử của bậc người hiền lại cố chấp đến như thế ư?
Tiều phu nói:
- Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã
đắm mình vào trong triều đình vẩn đục, rối loạn lại còn toan kéo người khác
để cùng đắm với mình ư?
Người tiều phu “chân không bước đến thị thành” này không giống với vị
lão tăng “chân không đặt đến thị thành” trong truyện Đào thị nghiệp oan ký ở
quyển 2 mà lại giống với Nguyễn Dữ “chân không bước tới thị thành” dưới
ngòi bút của Hà Thiện Hán và Lê Quý Đôn.
Tổng hợp những quan sát từ các giác độ khác nhau ở trên, chúng tôi
phát hiện rằng Nguyễn Dữ đã rất dụng tâm khi viết Truyền kỳ mạn lục.
Tiết thứ ba
TIỂU KẾT
Nguyễn Dữ đã đọc bộ tiểu thuyết truyền kỳ Tiễn đăng tân thoại của Cù
Hựu, điều đó không có gì phải nghi vấn. Ngoài ra có thể ông còn đọc một bộ
thơ tự sự khác của họ Cù, đó là Hương đài tập, chứng cớ là trong truyện Kim
Hoa thi thoại ký ở Truyền kỳ mạn lục quyển 4 có đoạn đối thoại sau:
Xưa nay những người trinh liệt bị ngòi bút trào phúng làm cho bực mình
biết bao nhiêu mà kể. Xem như Hằng Nga là tiên trên Nguyệt điện, có kẻ vịnh
thơ như thế này:
Hằng Nga ưng hối thâu linh dược,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
(Hằng Nga hối trót ăn linh dược,
Tẻ lạnh trời cao đêm lại đêm).
Lộng Ngọc là gái phi thăng, có kẻ vịnh thơ như thế này:
Như hà hậu nhật Tần Đài mộng,
Bất kiến Tiêu lang kiến Thẩm lang.
(Tần Đài sau giấc mơ đêm đó
Không thấy Tiêu lang, thấy Thẩm lang).
Vào cửa hầu thì nói mượn Lục Châu, mỉa họ Vũ thì đặt chuyên Vũ Hậu
thổ. Toàn những giọng nói xằng buộc nhảm. Ước sao đem được dòng sông
Lô để vì người xưa gột rửa những bài thơ xú ác ấy đi.
Trong đoạn văn trên, câu Như hà hậu nhật Tần Đài mộng, Bất kiến Tiêu
lang, kiến Thẩm lang kỳ thực ở mục “Tần nữ xuy tiêu” trong Hương đài tập
quyển thượng, Cù Hựu sau khi dẫn điển cố ở Liệt tiên truyện đã sáng tác hai
câu thơ ấy. Đoạn đối thoại trên đây ở Kim Hoa thi thoại ký rõ ràng Nguyễn Dữ
phỏng theo đoạn Chức Nữ trách móc người hạ giới bày đặt nói xấu nàng,
nhưng Nguyễn Dữ lại mượn lời nhân vật bảo hai câu thơ của Cù Hựu là “thơ
xú ác”, như thế đúng là Nguyễn Dữ đã thâm nhập tác phẩm của Cù Hựu.
Có điều, nói về động cơ sáng tác thì Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục
cũng giống Cù Hựu viết Tiễn đăng tân thoại, cả hai đều rất nghiêm túc.
Động cơ sáng tác của Cù Hựu, đúng như lời Chu Thanh Nguyên đã
dẫn: ''một người thì thành tâm khuyên người đời làm người tốt để khỏi bị đời
sau phỉ nhổ. Một người thì bày tỏ hết cái khí trong tâm, đem cái bình sinh
muốn ca muốn khóc muốn cười muốn nhảy viết hết ra trên giấy, mượn cái đó
mà làm vợi bớt cái khí bất bình đầy ắp trong lòng, uất kết không giải được”.
Tiêu chuẩn chọn đề tài lấy “việc đều phải đáng vui đáng buồn, đáng sợ đáng
lạ” và mong muốn làm dấy lên tinh thần sáng tác có tác dụng “khuyến thiện
trừng ác”, “thương kẻ cùng quẫn, xót người oan khuất” quyết chẳng phải
“không ốm cũng rên”, mà là có cảm xúc thì phát ra tiếng kêu bất bình. Điều
này gần với điều mà Tư Mã Thiên viết ở trong Lời tự đề tựa của Thái sử công
sách Sử ký: “Phát phẫn mà viết sách”.
“Phát phẫn mà viết sách” là một khái niệm quan trọng trong sáng tác và
phê bình truyền thống của Trung Quốc. Từ sau khi Tư Mã Thiên bắt đầu lấy
đó để bàn chuyện về tài văn tự thì văn nhân, thi gia từ đời Hán về sau không
ai không thích thú nhắc lại. Mục Tài lược trong Văn tâm điêu long của Lưu
Hiệp, Cầu phụ trong Tân luận của Hoàn Đàm, Hán Đô úy Lý Lăng trong Thi
phẩm của Chung Vinh, Tống Mạnh Đông Dã tự của Hàn Dũ, Độc Lý, Đỗ thi
tập nhân đề quyển hậu của Bạch Cư Dị, Mai Thánh Du thi tập tự của Âu
Dương Tu…, tất cả đều kế thừa và phát huy tư tưởng trên.
Còn nhìn nhận của giới tiểu thuyết thì sau Tiễn đăng tân thoại tự của
Cù Hựu, hầu như có hai hướng phát triển. Có người tiếp tục ý “thương kẻ
cùng quẫn, xót người oan khuất” như Lý Chí nói trong Trung nghĩa thủy hử
truyện tự: “Không phẫn nộ thì không sáng tác”; như Nhạn Đãng Sơn Tiều nói
trong Thủy hử hậu truyện tự: “Sầu quẫn suy sụp, phiền muộn khắp nơi, trong
lòng uất ức, không rượu giải vơi, cho nên mượn cảnh điêu tàn ấy mà viết
thành sách”, như Thiên hoa tàng chủ nhân nói trong Thiên hoa tàng hợp khắc
thất tài tử thư tự. “Phàm những việc đáng buồn đáng sợ trên giấy đều là
những điều mụốn cười muốn khóc trong lòng”... Cũng có người thiên về cái
tâm “khuyên thiện trừng ác”, như Hân Hân Tử nói trong Kim Bình Mai từ thoại
tự: “Quan hệ đến phong hóa trên đời, răn đe thiện ác, tẩy rửa nỗi lòng, không
điều gì không có chút bổ ích”; như Băng Ngọc Chủ Nhân nói trong Bình Sơn
lãnh yến tự: ”Đem những chuyện tai mắt quen thuộc ngụ cái tầm khuyến thiện
trừng ác”...
Sự thực thì “khuyến thiện trừng ác” và “ai cùng liệu khuất” (thương kẻ
cùng quẫn, xót người oan khuất) không thể tách rời nhau, nếu không có ý
thương cùng điệu khuất” thi làm sao có tâm “khuyến thiện trừng ác”? Không
có ý nghĩ tích cực “khuyến thiện trừng ác” thì bất quá chỉ là loại tiểu thuyết
“trung bình” phát tiết niềm uất hận cho sướng mà thôi!. Chỉ khi có đủ “khuyến
thiện trừng ác” và “ai cùng điệu khuất” tức là đã có đầy đủ dũng khí đạo đức
của người trí thức, lại hăng hái gánh vác trách nhiệm đối với xã hội thời đại
thì mới thực sự “phát phẫn trứ thư” được. Chúng tôi quan sát chí hướng,
cuộc đời Cù Hựu và cả nhân vật chính trong các truyện của Tiễn đăng tân
thoại ắt thấy họ không phải là u hồn thời Nam Tông mất nước thì cũng là
những kẻ sĩ, thanh niên nam nữ số mệnh gập ghềnh thời Trương Sĩ Thành
làm loạn cuối triều Nguyên, đủ thấy động cơ sáng tác của tác giả đúng là
“phát phẫn viết sách” vậy.
Rất có thể Nguyễn Dữ đọc xong Tân thoại thì trong lòng cảm kích rồi
phát hiện ra rằng: có thể mượn hình thức này để bày tỏ tư tưởng tình cảm
của mình, để rồi nảy sinh động cơ phỏng tác! Tuy ông nói mình chỉ lựa chọn
những “sự việc liên quan đến luân thường” để “bút truyền” và “ngôn từ ngụ ý
khuyên răn”, nhưng chúng ta quan sát từ ý cố chấp “thề không trở lại làm
quan” đến sự dụng tâm thể hiện tình cảm xót thương, cảm thán lộ ra trong
Mạn lục thì không khó khăn gì không nhận ra tâm trạng “cô phẫn bất bình”
của ông trong đó.
Tiền Chung Thư trong Quản chùy biên từng nhiều lần dẫn có đến gần
trăm tư liệu cổ kim trong ngoài (như Tả Khâu Minh, Tôn Tử…, Schopenhauer,
Freud) để nghiên cứu so sánh câu của Tư Mã Thiên “Đại để thánh hiền phát
phẫn thì viết thành sách”. Trong bài Thi khả dĩ oán, ông lại thuyết giải tường
tận và thuyết phục hơn nữa thuyết “phát phẫn mà viết sách”. Lục Văn Hổ
cũng cho rằng “phát phẫn mà viết sách” quả thực là một hiện tượng lịch sử có
tính quy luật. Động cơ sáng tác của Cù Hựu, Nguyễn Dữ, Kim Thời Tập của
Hàn Quốc và Thượng Điền Thu Thành của Nhật Bản đều có thể xem là một
nhóm thuộc hiện tượng lịch sử mang tính quy luật đó.
Chương III. SỰ RA ĐỜI VÀ LƯU TRUYỀN CỦA TÁC PHẨM
Có người nói rằng: “Tác phẩm là cái thai của tác giả, tác giả là cái thai
của thời đại”; nói cách khác, giữa tác phẩm văn học và hoàn cảnh thời đại có
mối liên hệ khăng khít, không thể tách rời. Đặc biệt là tiểu thuyết, đúng như
Clare Reeve đã định nghĩa: “Tiểu thuyết là một bức tranh miêu tả đời sống
chân thực và nhân tình thế thái, hơn nữa còn là bức tranh miêu tả cái thời đại
mà tiểu thuyết ở vào”. Nhà phê bình văn học luôn dựa vào mức độ chân thực
của tác phẩm phản ánh về thời đại để đánh giá một bộ tiểu thuyết có thành
công hay không. Song ở đây cần phải nắm vững một tiền đề, chúng ta không
làm rõ thời gian ra đời của Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục thì làm
sao có thể biết được những tác phẩm ấy đã miêu tả về bức tranh thời đại
nào? Đặc biệt là khi chúng còn khoác chiếc áo ngoài “tô vẽ tình khuê các,
điểm xuyết lời đẹp đẽ” nữa. Trước kia giới học thuật còn chưa thể nhìn nhận
chính xác về Tiễn đăng, có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân
chăng?
Từ sự lưu truyền giữa các đời của tác phẩm, có thể thấy tình hình hậu
thế đã tiếp nhận tác phẩm ấy như thế nào? Số phận của Tiễn đăng tân thoại
và Truyền kỳ mạn lục sau khi đã thành sách rồi thì ra sao? Đây là những vấn
đề khá thú vị. Đáng tiếc là do nhiều nhân tố chủ quan cũng như khách quan
thường dẫn tới rất nhiều hiện tượng văn học hỗn độn không rõ ràng trong lịch
sử, Tiễn đăng tân thoại đã hoàn toàn bị thất truyền ở Trung Quốc thật sao?
Truyền kỳ mạn lục còn lại được những bản có giá trị nào? Rất nhiều vấn đề
đang đòi hỏi chúng ta quan tâm xem xét, chỉnh lý đầy đủ chính xác, có như
vậy thì việc bình phẩm văn học mới khỏi rơi vào ảo tưởng. Nhiều công việc có
ý nghĩa cần được chúng ta tích cực theo đuổi mới không để cho những tài
sản quí báu bị mất dần đi theo năm tháng, thêm nhiều đáng tiếc không sao kể
xiết.
Tiết thứ nhất
TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
A. THỜI GIAN RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tiễn đăng tân thoại do Cù Hựu sáng tác là một thực tế mà mọi người
đều biết, nhưng đã từng có người không cho là như vậy. Đô công đàm soạn
ghi rằng:
Ta thường nghe Chu Đỉnh tiên sinh ở Gia Hưng nói: “Tân thoại không
phải do Tông Cát viết. Vào cuối đời nhà Nguyên có người họ Phú, là hậu duệ
của thừa tướng đời Tống là Trịnh Công, nhà trên Ngô Sơn ở Hàng Châu.
Dương Liêm Phu ở Hàn Châu thường đến nhà ấy chơi; Phú sinh có việc phải
đi ra ngoài, gặp mưa tuyết lớn, Liêm Phu nán lại một tuần, đùa viết sách để lại
cho chủ nhân. Tông Cát lúc thiếu thời làm con nuôi nhà họ Phú, thường đứng
hầu bên Liêm Phu nên có được bản thảo, sau giấu đi của riêng mình, duy chỉ
có truyện Thu hương đình ký là do ông viết”.
Nếu quả đúng như vậy thì năm ra đời của Tiễn đăng tân thoại chẳng đã
sớm vào cuối triều nhà Nguyên sao? Về thuyết này của Chu Đỉnh, Đô Mục
nghi ngờ, lý do là “nay xem văn Tân thoại không giống với văn Liêm Phu”.
Sau đó Lang Anh trong sách Thất tu loại cảo cũng chủ trương: “Tiễn đăng tân
thoại do Dương Liêm Phu sáng tác, chỉ có Thu hương đình ký ở phần sau do
Cù Tông Cát viết”. Lý do lại là: “Khí khái lời văn không phải loại xem mà biết
được”. Hồ Ứng Lân đời Minh lúc đầu cũng cảm thấy thi từ của Cù Hựu khác
xa với Tân thoại nên cũng nghi ngờ Tiễn đăng tân thoại phải chăng là thủ bút
của Tông Cát? Đến khi đọc Tây Hồ du lãm chí dư mới thay đổi cách nhìn và
tiến thêm một bước phê bình rằng: “Thầy đồ nhà quê họ Lang không phân
biệt được diện mạo thơ văn, chẳng trách mới nói như vậy”. Kỳ thực, Lang
Anh không hẳn đã “không phân biệt được diện mạo thơ văn”, rất có thể ông
chỉ giải thích sai ý nghĩa lời nói của Đô Mục mà thôi! Dương Liêm Phu đã
không thể là tác giả của Tiễn đăng tân thoại, vậy đã biết không cần thiết phải
lãng phí công sức đi so sánh phong cách văn từ của họ Dương và họ Cù làm
gì, bởi vì trong Tiễn đăng tân thoại, nửa đầu truyện Liên Phương lâu ký kể
rằng hai người con gái họ Tiết bắt chước Tây Hồ trúc chi khúc do Dương
Thiết Nhai (tức Dương Liêm Phu) ở Cối Kê viết mà làm một loạt Tô Đài trúc
chi khúc gồm 10 chương. Truyện viết tiếp: “Ông Thiết Nhai đọc được bản
thảo liền tự tay đề hai bài thơ vào cuối tập rằng… Nhờ vậy tiếng tăm lan
truyền đi xa”. Nếu là Dương Liêm Phu viết sách thì rõ ràng không thể tự khoa
trương như vậy được. Vả lại Liêm Phu mất vào năm Hồng Vũ thứ 3, thì làm
sao ở truyện Thiên Thai phỏng ấn lục nói rõ ràng được là: “Đổi niên hiệu là
Hồng Vũ, nay đã là năm thứ bảy”, “nay triều Đại Minh nối ngôi, là năm thứ bảy
niên hiệu Hồng Vũ”. Huống hồ Liêm Phu văn chương xuất chúng, danh truyền
thiên hạ. Cù Hựu đứng hầu bên cạnh, nếu như có hành vi cả gan “giấu giếm
làm của riêng cho mình” thì sao các vị tiền bối trong thôn như Lăng Vân Hàn,
Ngô Thực, Quế Hành và bạn đồng môn Kim Miện Đại không xem xét mà viết
tựa, bạt cho sách? Chu Đỉnh nói như vậy là hoàn toàn vô căn cứ! Còn như vì
sao có người đem Tiễn đăng tân thoại gắn với tên của Dương Liêm Phu ư?
Sách Thiếu thất sơn phòng bút tùng nói rằng: “Đều vì thế đam mê thanh sắc
nên kẻ hiếu sư qui cho như vậy”.Đây là lời giải thích rất hợp tình. Người Nhật
là Phạn Chủng Lãng nói: “Có lẽ sau khi Tân thoại được xuất bản, thịnh hành
một thời, có người ghen ghét bèn đặt chuyện hai người”. Sự suy luận này
cũng khá là hợp lý.
Ngoài ra, Hân Hân Tử trong bài Kim Bình Mai từ thọai tựa nói: “Tao
nhân thời trước như Lô Cảnh Huy với sách Tiễn đăng tân thoại…” hẳn là sự
ngộ nhận nhất thời. Nhưng Triệu Cảnh Thâm đã tùy tiện tin theo, Đới Bất
phàm thì đưa Tiễn đăng (tùng thoại) ra để phụ họa, Đàm Chính Bích lại căn
cứ vào Tiễn đăng tùng thoại và cổ kim đồ thư tập thành để hô ứng, đều không
thể tin được.
Không nghi ngờ gì nữa, Cù Hựu là tác giả của Tiễn đăng tân thoại.
Hiện các bản Tiễn đăng tân thoại đều có một bài tựa của ông như sau:
Tôi đã biên tập những chuyện kỳ quái xưa nay thành sách Tiễn đăng
lục gồm 40 quyển. Những người hiếu sự thường kể những chuyện gần đây
cho nghe, xa không ngoài trăm năm, gần chỉ cách vài năm, tích tụ dần, ngày
tháng thêm mới thêm nhiều. Sa đà quen thói, muốn thôi mà chẳng được. Bèn
mượn bút viết lại để ghi nhớ… Khách cho lời nói của tôi là có lý, nên viết vào
đầu sách.
Ngày mồng 1 tháng 6 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Hồng Vũ thứ II. Cù Hựu
người Sơn Dương viết tại Đại ẩn đường trên Ngô Sơn.
Sách Tiễn đăng tân thoại cú giải còn có bản Trùng hiệu Tiễn đăng tân
thoại tự của ông như sau:
Gần đây gặp ông Hồ Tử Ngang, cho xem bốn quyển Tiễn đăng tân
thoại thì ông đã được thấy ở Bồ Giang thuộc Tứ Xuyên. Tập ấy được những
kẻ hiếu sự truyền đi tứ phương, sao đi chép lại không còn như thật nữa, sai
lầm khá nhiều, có bản in khắc lại thì càng rơi vãi nhiều hơn. Tập ấy có thể
hoàn thành năm Hồng Vũ Mậu Ngọ, cách đây đã 44 năm… Đêm Rằm tháng
Giêng năm Tân Sửu, niên hiệu Vĩnh Lạc 19, Cù Hựu Tông Cát Phủ người
Tiền Đường, 75 tuổi viết tại nơi ở phía nam thành Bảo An.
Ở cuối phụ lục bốn bài thơ tuyệt cú Đề sau sách Tiễn đăng lục và nói rõ
rằng:
Ngày trước ở quê nhà đã viết sách Tiễn đăng lục, gồm bốn tập: tiền,
hậu, tục, biệt; mỗi tập từ Giáp đến Quí, chia làm 10 quyển. Lại làm một bài
thơ đề ở cuối tập. Nay tập này không còn nữa nhưng thơ thì còn nhớ. Nhân
xem Tân thoại bèn viết phụ thêm vào cuối quyển. Tồn Trai.
Hai bài tựa nói rất rõ ràng: Tiễn đăng tân thoại gồm bốn quyển và vào
năm Hồng Vũ 11 (1378) đời Minh Thái Tổ được Cù Hựu viết xong. Khi ấy ông
32 tuổi; sách cùng với Tiễn đăng lục gồm 40 quyển được biên soạn từ trước
là hai sách khác nhau.
Điều rất khó hiểu là cùng căn cứ vào hai tài liệu trên, vậy mà có người
lại giải thích khác:
Từ đoạn trên đây có thể biết nguyên bản mà Cù Hựu đã viết có tên là
Tiễn đăng lục gồm 40 quyển; sách đã bị thất lạc, sau Điền Dĩ Hòa thu thập
được 4 quyển, chính là sách Tiễn đăng tân thoại gồm 4 quyển và 1 quyển phụ
lục. Do vậy Tiễn đăng tân thoại là một phần của Tiễn đăng lục, còn toàn bộ
chưa truyền lại đến nay, quả thật là đáng tiếc!
Kiểu sai lầm rành rành như vậy đã từ lâu trở thành phổ biến trong giới
học thuật ở trong và ngoài nước. Thực tế ấy rất cần được điều chỉnh.
B. QUÁ TRÌNH LƯU TRUYỀN:
Sách Tiễn đăng tân thoại sau khi được viết tựa và thành sách vào năm
Hồng Vũ 11 thì cũng chưa được in ngay. Thuyết cho rằng lần in đầu tiên vào
năm Hồng Vũ 14 (1381) là tương đối tin cậy. Bản này ra đời, đúng như Cù
Hựu đã nói, là “truyền đi bốn phương”. Lý Trinh vào năm 17 niên hiệu Vĩnh
Lạc đời Minh Thành Tổ (1419) trong lời tựa sách Tiễn đăng dư thoại nói:
… Sau đó 7 năm lại đi làm sai dịch ở Phùng Sơn. Có người khách cho
tôi xem sách Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu ở Tiền Đường, vô cùng yêu
thích, muốn bắt chước theo. Tuy là nay đây mai đó, tâm trí rối loạn nhưng
“ngứa nghề” nên không chịu thôi. Bèn nhàn lúc rảnh rỗi thu thập những điều
tai nghe được, viết lần lượt thành 20 thiên, gọi là “Tiễn đăng dư thoại”; rồi đưa
Hoàn hồn ký vào cuối tập.
Hồ Tử Ngang vào năm Vĩnh Lạc 18 trong sách Tiễn đăng tân thoại
quyển hậu kỷ nói:
Sách Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu sinh ở Sơn Dương gồm 4 quyển.
Trước đây tôi làm quan ở Bồ Giang đất Thục, lúc rảnh rỗi đến chơi ông Điền
Dĩ Hòa làm chân Quảng văn ở Ấp Dương, đưa cho xem tập này…
Họ Lý, họ Hồ nhìn thấy sách, một ở Hà Bắc, một ở Tứ Xuyên, đây là ví
dụ chứng minh rất rõ ràng. Hồ Tử Ngang được thấy Tiễn đăng tân thoại lập
tức sai người sao chép, rất tiếc là có nhiều sai lạc kiểu “chữ tác đánh chữ tộ,
chữ ngộ đánh chữ quá”. Mãi đến năm Vĩnh Lạc 18, thuộc hạ viên tướng vùng
biên đến Hưng Hòa, lúc rỗi rãi cùng với Thái thú Thụy Châu là Đường Nhạc
cùng đến thăm Cù Hựu bị đày làm lính thú ở Bảo An. Trong lúc uống rượu nói
đến việc này, mới biết Cù Hựu cũng không còn bản thảo. Sau đó, Đường
Nhạc nhân việc công đến Hưng Hòa, bèn đem bản sao chép về Bảo An xin
Cù Hựu hiệu đính. Đường Nhạc tự chép lấy một bản, còn nguyên bản đem trả
về cho Tử Ngang. Đây chính là nguyên do về bản Trùng hiệu Tiễn đăng tân
thoại. Tuy vậy, bản trùng hiệu này cũng không được đưa in ngay, sớm nhất
phải đến người cháu của Cù Hựu là Cù Tiêm mới đưa khắc in, phần đầu sách
có Tiễn đăng tân thoại tự của Cù Hựu và Lăng Vân Hàn, Tiễn đăng tân thoại
dẫn của Ngô Thực, Tiễn đăng tân thoại bạt của Kim Miện, Tiễn đăng tân thoại
thi tịnh tự của Quế Hoành; phần sau có Tiễn đăng tân thoại quyển hậu kỷ của
Hồ Tử Ngang, Thu hương đình ký bạt của Án Bích. Tiễn đăng tân thoại quyển
hậu chí của Đường Nhạc, Trùng hiệu Tiễn đăng tân thoại hậu tự của Cù Hựu;
do “Hàng Châu tại thành Quan Đình kiều kinh phường Khích gia ấn hành”.
Theo khảo chứng của ông Thu Cát Cửu Kỷ Phu, thời gian áng chừng vào
khoảng năm Thành Hóa 3 đến Thành Hóa 10 (1467-1474).
Vì sao Cù Tiêm lại để chậm trễ đến sau khi Cù Hựu chết hơn 40 năm
mới đem in bản Trùng hiệu Tiễn đăng tân thoại? Nguyên nhân có thể liên
quan đến việc triều đình công khai ra lệnh cấm trong thời gian đó. Sách Minh
Anh Tông thực lục tháng 3 năm Chính Thống 7 (1442) ghi:
Tế tửu Quốc tử giám, Lý Thời Miễn tâu năm việc.
… Một là, những năm gần đây có kẻ tục nho mượn chuyện quái dị, tô
điểm bằng những lời nói vô căn cứ như là loại Tiễn đăng tân thoại, không chỉ
có bọn lêu lổng đường chợ đua tranh nhau đọc mà đến cả nho sĩ học kinh
điển cũng sao nhãng việc học hành, ngày đêm không ngớt đàm luận. Nếu
như không nghiêm cấm thì e rằng những tà thuyết dị đoan ngày càng lan tràn,
làm cho nhân dân bị mê hoặc rối loạn, đó quả không phải là việc nhỏ mọn
không đáng kể. Xin sức cho Bộ Lễ ban hành công văn xuống khắp các Nha
môn cho đến Đề điệu, Học hiệu, Kiểm sự, Ngự sử cùng với quan ty Án sát,
kiểm tra khắp nơi, nếu gặp những sách vở loại này lập tức ra lệnh đốt hết. Ai
đem in bán và cất giấu thì xử tội theo luật, ngõ hầu khiến cho dân biết được
chính đạo và không bị tà thuyết mê hoặc. Chiếu thư ban xuống, bộ Lễ nghị
bàn cùng với Thượng thư Hồ Quýnh, cho rằng lời nói đó xác đáng, có thể thi
hành được…
Trên đây là những điều nghị bàn của ông ta.
Dựa vào lời tâu của Lý Thời Miễn, chúng ta có thể biết những bản cũ
của Tân thoại vẫn luôn thịnh hành nơi phố phường chợ búa.
Bản Trùng hiệu Tân thoại ra đời đã từng truyền đến Triều Tiên. Rất có
khả năng bản mà Kim Thời Tập (1435-1493) khi đang ở núi Kim Ngao đọc
được chính là bản này. Nếu không thì ở cuối truyện thứ 5 Long cung phó yến
lục trong Kim Ngao tân thoại, ông không thể làm hai bài thơ Thư giáp tập hậu.
Bài thứ nhất như sau:
Ải ốc thanh chiên, noãn hữu dư,
Mãn song mai ảnh nguyệt minh sơ.
Khiêu đăng vĩnh dạ phần hương tọa,
Nhàn trứ nhân gian bất kiến thư.
(Nhà thấp chăn xanh ấm có thừa,
Bóng mai đầy cửa, ánh trăng thưa.
Thâu đêm ngồi trước đèn, hương tỏa,
Viết sách nhân gian mắt chẳng ngờ).
Rõ ràng bài thơ trên giống với một trong bốn bài thơ tuyệt cú của Cù
Hựu Đề Tiễn đăng lục hậu như sau:
Ngọ gián sơ tinh xuyết minh dư,
Hương tiêu kim áp dạ song hư.
Tiễn đăng nhu bút thanh vô mị,
Lục đắc nhân gian vị kiến thư.
(Nửa đêm chợt tỉnh nhấp trà dư,
Khói nhạt lư hương song lặng tờ.
Cắt bấc, bút dầm, chong mắt sáng,
Chép đời chưa thấy sách bao giờ).
Bài thứ hai:
Ngọc đường huy hãn dĩ vô tăm,
Đoan tọa tùng song dạ chính thâm.
Hương quán đồng bình ô kỷ tịnh,
Phong lưu kỳ thoại tế sưu tầm.
(Bút vung nhà ngọc đã thanh lòng,
Ngồi giữa đêm khuya cạnh cửa tùng.
Bàn sạch, lọ đồng, hương đựng ống,
Phong lưu chuyện lạ chép khôn cùng).
Bài này tương tự như bài thứ ba trong số bốn bài của Cù Hựu như sau:
Hoa lạc ngãn cang ngọ dạ thâm,
Thủ thư tế tự khổ suy tầm.
Bất tri dị nhật đăng song hạ,
Hoàn hữu nhân năng thức thủ tâm
(Hoa rơi đèn bạc giữa đêm khuya,
Chữ nhỏ tay đưa khổ nghĩ suy.
Nào biết ngày sau bên cửa sáng,
Còn ai hiểu được tấm lòng si?)
Nhưng theo nghiên cứu của Trịnh Bính Dực người Hàn Quốc, hầu hết
đều đoán định rằng Kim Thời Tập đã hoàn thành Kim Ngao tân thoại vào
khoảng thời gian năm Thế Tổ 10 đến năm Thành Tông 2 (1465-1471), khi đó
ông khoảng 31-37 tuổi.
Thời gian này tuy không mâu thuẫn với thời gian khắc in bản Trùng
hiệu Tân thoại do Thu Cát Cửu Kỷ Phu khảo chứng, nhưng không tránh khỏi
cổ phần quá gần cận, sự huyền diệu sâu xa đó cần được nghiên cứu sâu sắc
thêm.
Vào năm Gia Tĩnh thứ 38 đời Minh Thế Tông (1559), Tống Phẫn người
Triều Tiên đã in Tiễn đăng tân thoại cú giải, là bộ chú giải đầu tiên từ sau khi
Tân thoại ra đời do Thương Châu (Doãn Xuân Niên) đính chính, Thuỳ Hồ Tử
(Lâm Kỷ) chú thích, sách dựa theo bản Trùng hiệu của Khích gia ấn hành.
Bản cú giải này sau lại qua tay Lâm Kỷ tước bớt những chỗ rườm rà làm tinh
giản đi; sách do Doãn Kế Diên khắc ván in rồi truyền đến Nhật Bản. Nhật Bản
lại dựa vào đó để in bằng con chữ rời. Sách Tiễn đăng tân thoại cú giải xuất
hiện vào niên hiệu Khánh Trường (1596-1615), Nguyên Hòa (1615-1623),
đến năm đầu niên hiệu Khánh An (1648) thì bản Tiễn đăng tân thoại in bằng
con chữ rời của Lầm Chính Ngũ Lang ra đời. về tình hình văn bản có thể
tham khảo phần nghiên cứu của Dã Khẩu Nhật Hùng.
Tiễn đăng tân thoại truyền đến Nhật Bản, ngoài việc gián tiếp thông qua
bản Cú giải của Triều Tiên ra, còn có một con đường khác là vận chuyển
bằng đường tàu biển, về năm Tân thoại được chuyển theo đường biển, có
nhiều ý kiến khác nhau. Thiền sư ở kinh đô là Chu Lân trong sách Hàn lâm hồ
lô tập quyển 3 có làm một bài thơ thất tuyệt Độc Giám Hồ dạ phiếm kí như
sau:
Ngân hà thích thướng Giám hồ chu,
Nguyệt lạc Thiên tôn thiết dạ du.
Hựu khủng hư danh mãn nhân khẩu,
Ngưu Lang kim hữu tị Dương hầu.
(Sông Ngân in xéo thuyền hồ Giám,
Chức Nữ đêm chơi lén bóng trăng.
Luống sợ hư danh truyền miệng lưỡi,
Dương hầu làm ngượng mặt Ngưu Lang)
Trạch Điền Thụy Huệ đoán bài thơ sáng tác vào năm Văn Minh 14
(1482); còn căn cứ theo đây suy đoán ngược lên đến năm Văn Minh 7, đúng
lúc có việc phải cử tàu thuyền sang nhà Minh thì thấy rằng sách Tân thoại
được mang về Nhật Bản khi đoàn thuyền này trở về nước.
Tiễn đăng tân thoại đương nhiên cũng truyền đến Việt Nam. Hiện ghi
chép có thể khảo được của Nghiêm Tòng Giản đời Minh trong sách Thù vực
chu tư lục quyển 6 đề cập đến nước An Nam thời đó như sau: “Sách nho học
thì có Thiếu vi sử, Tư trị thông giám sử… Thái công gia giáo, Minh tâm bảo
giám, Tiễn đăng tân, dư thoại… Thù vực chu tư lục ra đời giữa năm Vạn Lịch,
đủ biết những năm 70-80 thế kỉ 16 đã phải có sách Tiễn đăng ở Việt Nam rồi.
Có điều, Truyền kỳ mạn lục đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của Tân thoại, vậy
sách nhất định phải được truyền tới Việt Nam trước đầu thế kỉ 16.
Tiễn đăng tân thoại được lưu truyền đến các nước ngoài Trung Quốc
và phía Nam, còn ở trên lãnh thổ nước Trung Quốc chúng ta phải chăng do
sự ngăn chặn của các kẻ sĩ bảo vệ đạo, thậm chí tâu xin triều đình cho đốt
hủy; hoặc do nguyên nhân khác nữa mà dần dần mất tăm mất tích? Đây là
vấn đề cần được đi sâu nghiên cứu.
Vào năm Dân Quốc 6 (1917), Đổng Khang căn cứ theo bản Cú giải đã
dọn gọn in con chữ rời năm Khánh Trường và Nguyên Hòa của Nhật Bản,
đưa Tiễn đăng tân thoại gồm 4 quyển vào Tụng phần thất tùng san có ảnh
hưởng lâu dài về sau. Năm 1931 có bản in do Thượng Hải Hoa Thông thư
cục ấn hành; năm 1935, Trịnh Chấn Đạc đưa vào Thế giới văn khố của
Thượng Hải sinh hoạt thư cục; năm 1957 và 1981, nhà xuất bản Văn học cổ
điển và nhà xuất bản cổ tịch hai lần ấn hành Tiễn đăng tân thoại. Ngoại nhị
chủng, do Chu Di Cứ hiệu chú; năm 1961, Đài Loan Khải Minh thư cục xếp
tác phẩm vào Thế giới văn học đại hệ; năm 1974, Đài Loan thế giới thư cục
đưa vào sách Tiễn đăng tân thoại đẳng cửu chủng; Trung Quốc thời hiện đại
hầu như không một bản nào lại không liên quan đến bản Tụng phần thất tùng
san. Điều đáng tiếc là một số sai lầm trong nhận thức của Đổng Khang lúc
đầu vẫn còn truyền mãi về sau. Ông nói:
Hai sách Tiễn đăng tân thoại, Dư thoại được đưa vào phần Tiểu sử
sách Bách xuyên thư chí; Tân thoại chỉ có 11 đoạn, đã không còn là bản đầy
đủ… Duy chỉ có bản chữ in rời thời kỳ Khánh Trường và Nguyên Hòa ở Nhật
Bản là đẹp so với bản khắc in gỗ khi được in… Vì Trung Quốc mãi vẫn không
có được sách hoàn chỉnh nên in gộp cả hai loại. Tân thoại vốn có phụ thêm
chú thích song những điều dung tục tầm thường, từ ý hạn hẹp nông cạn nên
loại bỏ đi.
Bản Đổng Khang đưa về Trung Quốc “không chép các bài tựa, bạt ở
phần sau của bản Trùng hiệu, các bản sau đó cứ thế mà theo nhau, vì vậy
khiến cho các nhà nghiên cứu bị mất đi rất nhiều tài liệu quan trọng có liên
quan đến Cù Hựu và Tân thoại, thật vô cùng đáng tiếc!”. Còn cái mà ông ta
gọi là đưa vào phần tiểu sử sách Bách xuyên thư chí thì Tân thoại chỉ có 11
đoạn, tuy đúng là sự thực nhưng nguyên do vì bản lưu hành khắc sai mà nên.
Cù Phượng Khởi ở thư viện Thượng Hải dựa vào bản sao tàng trữ tại thư
viện ấy đã hiệu đính “tổng cộng chép 11 đoạn” thành “tổng cộng chép thành
21 đoạn”. Rõ ràng họ Đổng vội vàng dựa theo số quyển mà Thư chí ghi rồi
nói là “đã không còn bản đầy đủ”, đồng thời nói quả quyết là “Trung Quốc mãi
vẫn không có bộ sách hoàn chỉnh”, quả là không thỏa đáng chút nào! Nhưng
chính cách nói như vậy đã làm cho nhiều nhà bấy nay tin chắc mà không hề
nghi ngờ gì cả. Thực tế là, Trung Quốc hiện có ít nhất hai loại bản đầy đủ in
khắc từ đời Minh, gộp cả Tần thoại và Dư thoại là:
1. Tân tăng bổ tướng Tiễn đăng tân thoại đại toàn, 4 quyển và 1 quyển
phụ lục; Tân tăng toàn hứng hồ hải tân kỳ Tiễn đăng dư thoại đại toàn, 4
quyển (Dương thị Thanh Giang đường san, năm Chính Đức 6, 1511).
2. Tiễn đăng tân thoại 4 quyển, phụ lục 1 quyển, Tiễn đăng dư thoại 4
quyển (Bản in khắc đời Minh, 5 sách).
Ngoài ra còn hai loại “tàn bản” song Dư thoại khắc in đời Minh được
lưu giữ tại Nhật Bản không bao gồm trong đó.
Điều cần được nói là những bản Tân thoại khắc in đời Minh này chỉ là
được bảo tồn chứ chưa được lưu hành rộng rãi; điều này có nguyên nhân
của nó. Vốn lúc đầu triều đình nhà Minh cấm nhưng không thật tuyệt đối; Tân
thoại truyền đi theo mạch ngầm, được biến đổi sang diện mạo khác:
Có truyện chuyển thành bút kí, như mục Minh quả sách Tạc phi am
nhật toản của Trịnh Tuyên đời Minh quyển 20 chính là sao chép những mảnh
đoạn ở truyện Tam Sơn phúc địa chí sách Tiễn đăng tân thoại; mục Quy quái
sách Thi thoại loại biên, quyển 10 của Vương Xương Hội đời Minh cũng sao
chép chủ yếu từ truyện Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên ký trong Tiễn đăng tân
thoại…
Có truyện được đưa vào sách vỡ lòng. Sách Lan ngôn trưởng ngữ
quyển Thượng của Tào An đời Minh nói:
Tất cả những truyện ma trong Tiễn đăng tân, dư thoại, được đưa vào
loại truyện vỡ lòng kiến thức.
Quyển Hạ lại nói:
Năm Cảnh Thái, ta ăn cơm nhà. Bỗng có được quyển truyện vỡ lòng
kiến thức; đọc xem, phần lớn lấy từ Tiễn đăng tân thoại.
Rất nhiều trường hợp Tiễn đăng tân thoại được chọn đưa vào các loại
sách thông tục và tiểu thuyết văn ngôn, về vấn đề này, ông Đại Chủng Tú Cao
người Nhật Bản trong bài Về việc san hành tiểu thuyết văn ngôn cuối đời
Minh đã đi sâu bàn luận, Biểu III trong sách đã thống kê tình hình các loại
sách và bộ sách đã có chép Tiễn đăng tân thoại (tr. 92-93)
Gọi Tùng thoại là chỉ bộ Tiễn đăng tùng thoại in gộp các sách Tiễn
đăng tân thoại, Tiễn dăng dư thoại, Mịch đăng nhân thoại vào năm Vạn Lịch
21 cùng với cả hệ thống của nó. Gọi “Lâm bản” “Phùng bản” “Hà bản” là chỉ
ba loại văn bản sách Yên cư bút kí. Gọi Tiễn đăng tân thoại bản 12 quyển “là
chỉ sách Tiễn đăng tùng thoại ở quyển 8 phần Hạ trong Thư bách dung đàm
của Đổng Khang, chép 137 thiên tiểu thuyết văn ngôn; chữ số là chỉ thứ tự
quyển của sách ấy. Bản của họ Đại Chủng đã thu thập hầu hết, tuy vậy người
viết sách này còn phát hiện thêm nên trên cơ sở ấy làm một biểu mới (tr. 94-
95).
Điều khác nhau giữa hai biểu trước và sau ở chỗ: tôi lập riêng bản Vạn
Lịch và bản Càn Long trong hệ thống Tùng thoại và đưa Cổ kim đồ thư tập
thành - Khuê ái điển để thể hiện tình hình thực tế của Tân thoại được triều
Thanh bảo tồn, nhưng cũng không thể cầu toàn vì nếu đưa sách Hương diễm
tùng thư, trong đó có Song đầu mẫu đơn đăng ký vào thi các sách Nữ Liêu
trai, Toái trâm ký và các tuyển tập đoản thiên tiểu thuyết sau thời kỳ Dân
Quốc đều không cùng loại.
Ngoài ra, tôi cũng phụ ghi Tây Các ký mai ký mà tôi không cho là thuộc
nội dung của Tân thoại ở dòng cuối cùng để tiện cho việc thảo luận ở chương
sau.
Những chỗ biểu sau sửa đổi bổ sung biểu trước gồm:
1. Quốc sắc thiên hương quyển 6, phần trên Sơn phòng nhật lục có
chép u hồn cung trạng, Phù nữ cung trạng, Kim Liên cung trạng (thực ra là
nửa sau của Mẫu đơn đăng ký trong Tân thoại) mà ở biểu trước chưa thấy.
2. Tú cốc xuân dung: có thể do bản dựa theo không giống nhau nên có
khác biệt.
3. Nhất kiến thưởng tâm thiên quyển 10, phần Nghi duyên loại có
Phương Hoa truyện (thực ra là Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên ký trong Tân
thoại) là điều biểu trước không biết.
4. Diễm dị biên bổ sung cho bản gồm 12 quyển tạm thời gọi là bản
Giản, trong đó 3 thiên trùng với bản Chính; Tục diễm dị biên quyển 3, phần
Hồng tượng bộ có chép Linh quang dạ du lục (chính là Giám hồ dạ phiếm ký
trong Tân thoại) mà biểu trước bỏ sót, lại bổ sung bản Quảng diễm dị biên
gồm 35 quyển, trong đó truyện đưa vào giống như Tục diễm dị biên.
5. Tình sử quyển 9, mục Tình huyễn loại có chép Ngô Hưng nương
(vốn là Kim phượng thoa ký trong Tân thoại) mà bản trước thiếu; bản trước
còn nhầm quyển 10 thành quyển 40, hẳn là do lỗi in.
Hai biểu trên giống nhau về ý nghĩa, tức như ông Đại Chủng đã nói:
“Các tuyển bản này đều giúp ích cho việc rút ngắn khoảng cách giữa bình dân
bách tích với tiểu thuyết văn ngôn. Do sự im hơi lặng tiếng của những tập tiểu
thuyết truyền kỳ trường thiên và bản hoàn chỉnh của Tiễn đăng tân thoại (Tiễn
đăng dư thoại), thì qua đây có thể thấy được một vài phần. Vì thế nếu chỉ dựa
vào sự có tồn tại hay không bản hoàn chỉnh và bản in thành tập riêng tiểu
thuyết trường thiên để luận bàn về tình hình văn học của thời kỳ ấy thì không
tránh khỏi những đoán định sai lệch. Thí dụ về Tiễn đăng (nhị thoại) là một
minh chứng đầy đủ. Cho đến nay, các báo cáo nghiên cứu thường có khuynh
hướng là quá vội vàng giải thích bản hoàn chỉnh của Trung Quốc đã im hơi
bặt tiếng và sách này lại được tìm thấy ở Nhật Bản, mà hoàn toàn không nhìn
nhận đến các thiên chương được đưa vào các bản tuyển chọn nói trên. Tùng
thoại cũng bao gồm trong đó. Điểm này cần phải làm cho rõ đúng sai”.
Tiễn đăng tân thoại sau khi ra đời thì lưu truyền khắp bốn biển. Bản
dịch tiếng Nhật đến nay có đến 7 loại. Nhà Hán học người Đức là Herbert
Franke cũng đã từng dịch và giới thiệu rất nhiều thiên truyện trong đó với
phương Tây. Năm ngoái báo đăng học giả Trương Thác du lịch sang Mỹ cũng
đang tiến hành việc dịch Tân thoại sang tiếng Anh.
Cho đến nay, nhiều ý kiến công nhận sách Tiễn đăng tân thoại. Ngoại
nhị chủng là bản Trung văn hiệu đính chú thích tốt nhất, nhưng phần Tựa, Bạt
của sách này lại không đầy đủ và còn sai sót, đã không có ghi chú để hiệu
đính, lại một số vấn đề bản chú giải của Triều Tiên đã giải quyết rồi mà sách
này vẫn còn tồn nghi. Những chỗ chưa được hoàn thiện còn rất nhiều. Làm
thế nào để vượt lên được hiện trạng này là vấn đề đang đợi chúng ta cùng nỗ
lực.
Tiết thứ hai
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
A. THỜI GIAN RA ĐỜI
Về thời gian ra đời của Truyền kỳ mạn lục, do còn mơ hồ về năm sinh,
năm mất của Nguyễn Dữ mà trước đây vẫn còn là tình trạng phỏng đoán ước
chừng; điều này chúng tôi đã sơ lược bàn đến ở chương trước. Mọi người chỉ
có thể nói rằng sách được viết sau khi cha của Nguyễn Dữ đỗ cử nhân năm
Hồng Đức 27 (1496). Người Nhật Bản là Áo Dã Tín Thái Lang trong Truyền
kỳ mạn lục được nhìn như một ví dụ của văn học An Nam mới nhận định khá
rõ ràng rằng: “Đại khái là trong khoảng thời gian đời vua Thánh Tông (1460)
cho đến đời vua Chiêu Tông (1527); Xuyên Bản Bang Vệ trong sách Truyền
kỳ mạn lục tiểu khảo thì cho rằng “sách phải được viết xong vào giữa thế kỷ
16. Bây giờ chúng tôi đã có thể có kiến giải chính xác hơn.
Hà Thiện Hán người Đại An trong Truyền kỳ mạn lục tự, hoặc viết
“Ngày lành tháng 7 mùa thu năm Vĩnh Định sơ niên”, hoặc lại viết “Ngày lành
tháng 7, tháng mạnh thu năm Đinh Mùi, niên hiệu Nguyên Hòa 15”. Xét “Vĩnh
Định” là niên hiệu của Mạc Phúc Nguyên chỉ được một năm, năm sau lại đổi
niên hiệu thành Cảnh Lịch”. Gọi “Vĩnh Định sơ niên” tức là “Vĩnh Định nguyên
niên”, tương đương với năm Gia Tĩnh 26 triều Minh (1547). Còn “Nguyên Hòa
15” trên thực tế là “Vĩnh Định nguyên niên”, do Mạc Đăng Dung năm 1527
phế Lê Cung Đế, tiếm lập triều Mạc, rồi họ Lê lại khôi phục triều đại vào năm
1533, hình thành thời kỳ “Nam Bắc triều”, vì thế mà cùng một năm có hai niên
hiệu. Năm Hà Thiện Hán soạn bài tựa này (1547) có thể được xem là thời
gian muộn nhất để sách Truyền kỳ mạn lục ra đời.
Giáo sư Trần Khánh Hạo trong sách Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng
san ở phần “xuất bản thuyết minh” có nói: “Ở cuối thiên Từ Thức tiên hôn lục
trong Truyền kỳ mạn lục kể sự việc năm Lê Diên Ninh 5, tức là Mạn lục được
viết xong cũng phải sau năm 1458”. Lúc này chúng ta lại phát hiện ở quyển 4
truyện Kim Hoa thi thoại ký có đoạn viết: “Cuối năm Đoan Khánh, có người
học trò là Mao Tử Biên đến du học ở kinh thành”. Đoan Khánh là niên hiệu
của Lê Uy Mục, tất cả có 5 năm, tức 1500-1509. “Cuối năm Đoan Khánh là
chỉ Đoan Khánh 5, tức thời gian sớm nhất Truyền kỳ mạn lục có thể ra đời
phải là năm 1509.
Vì vậy nói Truyền kỳ mạn lục được Nguyễn Dữ viết xong trong khoảng
thời gian 1509-1547 là cách nói đáng tin cậy nhất. Tuy nhiên, nếu chúng ta
đọc thật kỹ bài tựa của Hà Thiện Hán và Kim Hoa thi thoại ký thì ít nhất có thể
rút ngắn mấy năm hạn thời gian sớm nhất và muộn nhất trên đây. Thêm vào
đó, gắn bài tựa của Hà Thiện Hán (ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu,
mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi viết ra tập sách này để
ngụ ý) với tiểu truyện Nguyễn Dữ của Lê Quý Đôn (lấy cớ nơi làm việc xa xôi,
xin về phụng dưỡng (cha mẹ). Sau vì ngụy Mạc thoán đoạt, thề không đi làm
quan nữa; ở làng dạy học, không đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ
mạn lục 4 quyển), có thể suy đoán Truyền kỳ mạn lục viết xong vào những
năm 30 của thế kỷ 16, tức là “mấy năm liền” sau khi “ngụy Mạc cướp ngôi”, tin
rằng sẽ không có sai lầm đáng kể lắm. Suy luận trước đây của các học giả
người Nhật Bản là Áo Dã Tín Thái Lang và Xuyên Bản Bang Vệ đều còn rất
chung chung.
B. QUÁ TRÌNH LƯU TRUYỀN:
Nguyễn Dữ sau khi hoàn thành Truyền kỳ mạn lục vào những năm 30
thế kỷ 16 thì phải chăng là ngay lập tức tác phẩm được sao chép hay khắc in
lưu truyền, đến nay cũng chưa biết được. Truyền kỳ mạn lục tự của Hà Thiện
Hán có thể được soạn ra để ấn hành sách ấy nhưng nay cũng không thấy còn
bản nào của thời ấy. Hiện nay bản sớm nhất còn lại là Cựu biên truyền kỳ
mạn lục “Loại Am hội chú bản” in năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) do Nguyễn Lập
Phu ở Tùng Châu biên tập, Nguyễn Tự Tín ở phường sách Hồng Liễu khắc
chữ. Bản này trên chỗ đường gạch chia cách có “mi phê”, giữa phần chính
văn có kèm theo chú thích hai dòng chữ Hán, phần chú thích xuất hiện với tần
số lớn, khoảng gần 200 mục hiệu đính như là “bản mỗ nói…”, “bản mỗ là…”,
“bản mỗ thêm…”, “bản mỗ có…, bản mỗ không có…”
Có thể thấy trước đó Truyền kỳ mạn lục phải có vài loại bản không
giống nhau, được Loại Am tập hiệu, tập chú nên đã bảo tồn được không ít dị
văn, giá trị đích thực của công việc là ở chỗ đó. Đồng thời bản này còn giúp
chúng ta biết kỹ thuật in ấn của Trung Quốc được truyền đến Việt Nam và lịch
sử khắc ván in sách của Việt Nam.
Cựu biên Truyền kỳ mạn lục hiện được lưu giữ tại Đông Dương văn
khố của Nhật Bản và thư viện Bắc Kinh. Ở chính Việt Nam thì trái lại không
còn nữa. Hiện nay thường thấy nhất là bản sách đề tên: Tân biên Truyền kỳ
mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, thống kê ra có:
- Năm Vĩnh Thịnh 10 (1714), Kế Thiện Đường san.
- Năm Vĩnh Hiệu 3 (1737) Cự Linh thư phường tái san.
- Năm Cảnh Hưng 24 (1763), Liễu Chàng xã Nguyễn Bích gia bản trùng
san.
- Năm Cảnh Hưng 35 (1774) Liễu Chàng xã Xã trưởng Nguyễn Đình
Lân gia bản trùng san.
Trong đó, bản trùng san năm Cảnh Hưng 24 được nhiều người biết đến
nhất, Truyền kỳ mạn lục được lưu truyền thiên cổ, có lẽ là do từ bản này;
người Nhật Bản là Trùng Bản Tín Quảng trước đây giữ một bản, sau bản này
trở về thư viện trường Đại học Khánh Ứng Nghĩa Thục; Viện Nghiên cứu Hán
Nôm Hà Nội lại có bản sao chép lại từ bản ấy. Kế Thiện Đường san bản
không có lời tựa, hiện do ông Sơn Bản Đạt Lang trân trọng cất giữ. Bản Cự
Linh thư phường tái san chỉ còn lại quyển 1, quyển 2, trước đây do Maspéro
lưu giữ, nay sách được lưu giữ ở Viện Hiệp hội châu Á tại Pháp. Bản in năm
Cảnh Hưng 35 hiện được lưu giữ tại thư viện Viện sử học Việt Nam, thư viện
Hiệp hội châu A tai Pháp có bản rút gọn do Ký lục Nguyễn Khắc Đinh thừa
sao gồm 4 quyển.
Ngoài ra ở Việt Nam và nước Pháp còn có nhiều loại bản sao chép
khác.
So sánh nội dung văn tự giữa bản Cựu biên và bản Tân biên, chúng ta
thấy giữa hai bản dường như không có quan hệ kế thừa trực tiếp. Ý nghĩa
của hai chữ “Cựu biên” cuối cùng là gì? Điều này khiến chúng ta thấy khó
hiểu. Tuy bản Tân biên không có việc tập trung hiệu đính như bản Cựu biên,
nhưng những câu như “Chướng đỗ hồi viên” (ngăn cản bánh xe ra về) ở
truyện Tây viên kỳ ngộ ký, “Giải sở phục bạch nguyên y” (cởi chiếc áo lụa
trắng đang mặc ra) ở truyện Từ Thức tiên hôn lục, thì bên dưới vẫn còn có
một số những lời hiệu đính chú thích. Như vậy có thể thấy nguyên bản không
phải có một loại. Điều đặc biệt là bản Tân biên tăng thêm “giải âm”, dịch từng
câu của chính văn sang “chữ nôm” của Việt Nam. Công việc này hẳn có tác
dụng không nhỏ đối với việc phổ cập Truyền kỳ mạn lục.
Ở phần chính văn của Cựu biên Truyền kỳ mạn lục và Tân biên Truyền
kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú đều có kèm theo một số lượng lớn những
chú thích bằng chữ Hán, giải thích âm nghĩa, điển cố. Phần dẫn văn của Cựu
biên tương đối ngắn gọn, chỉ có một số điều nói rõ xuất xứ; còn dẫn văn của
Tân biên khá phong phú, hầu như ghi rõ toàn bộ xuất xứ. Hai bản đều có dẫn
“Cựu chú” (chú thích cũ) như vậy có thể thấy hai bản ấy đã sớm có bản chú
giải rồi.
Điều đáng chú ý là những người Việt Nam này tận dụng chú thích có
sẵn ở loại thư, điển tích Trung Quốc và quốc sử Việt Nam, không những có
lợi cho việc lý giải Truyền kỳ mạn lục mà còn có thể nhờ đó mà khảo sát sự
lưu truyền sách chữ Hán của Trung Quốc ở Việt Nam, hơn nữa lại giàu giá trị
bổ sung tư liệu cho việc biên tập, hiệu đính. Ở đây chỉ nêu ra vài thí dụ ở Tân
biên để chứng minh.
1. Sách Hương đài tập của Cù Hựu ở trong nước chỉ có 3 quyển tàn
bản, được lưu giữ tại Viện bảo tàng Cố Cung, ngoài ra không thấy có ở nơi
nào khác. Còn ở Tân biên Truyền kỳ mạn lục, truyện Từ Thức tiên hôn lục có
chú giải câu “Thái Loan chi ngộ Văn Tiêu” (Thái Loan gặp Văn Tiêu), truyện
Xương Giang yêu quái lục có chú giải câu “Nhâm chi hồ, Thôi chi hồ, biến thái
dụ tư” (Cáo họ Nhâm, hồ họ Thôi, lắm trò biến ảo). Ba lần nói rõ xuất xứ từ
Hương đài, có thể thấy Hương đài tập cũng đã từng truyền đến Việt Nam.
2. Sách Tân biên Truyền kỳ mạn lục, truyện Tây viên kỳ ngộ ký có chú
giải câu: “Thâm thâm hề ế ngọc, uất uất hề mai hương” (Ngọc lấp thảm
thương, hương vùi não nuột), truyện Long đình đôi tụng lục có chú giải câu
“Thiện Văn hữu Long cung chi yến” (Thiện Văn có cuộc ăn yến ở Long cung);
truyện Đào thị nghiệp oan ký có chú giải các câu: “Đài đầu gian dĩ qui y Đâu
Suất chư thiên” (Nghển đầu đã tựa nương dưới trời Đâu Suất); “Ẩn ước Sào
Nam lữ” (Thấp thoáng người bạn ở Sào Nam); “Văn kinh hoán bạn lai” (Nghe
kinh gọi bạn đến); ở truyện Na Sơn tiều đối lục có chú giải câu “Thái Hòa dĩ
hạ bất túc luận dã” (Thái Hòa trở xuống đều không đáng kể); ở Thúy Tiêu
truyện có chú giải các câu “Côn Lôn Nô chi dĩ phi” (không còn là Côn Lôn Nô),
“Tiên nga hà nhật thị qui kỳ” (Ngày nào tiên nữ trở về); truyện Kim Hoa thi
thoại ký có chú giải câu “Như hà hậu nhật Tần Đài mộng, Bất kiến Tiêu Lang
kiến Thẩm Lang (Tần Đài sau giấc mơ đêm đó, Không thấy Tiêu Lang thấy
Thẩm Lang), tổng cộng trước sau chín lần dẫn từ sách Thiên hạ dị kỷ. Bản
loại thư tiểu thuyết không rõ quốc tịch, không rõ tên người biên soạn này lại
đưa vào trong đó các thiên truyện của Tiễn đăng tân thoại như Thuỷ cung
khánh hội lục (đổi tên thành Quảng Lợi hải thần truyện); Giám hồ dạ phiếm ký
(đổi tên thành Lệnh Ngôn truyện) và thiên Thính kinh viên truyện (Truyện
vượn nghe kinh) trong sách Tiễn đăng dư thoại của Lý Trinh (giữ nguyên tên).
Nếu như thu thập lại thì có thể góp một dẫn chứng có sức thuyết phục rằng
Tiễn đăng nhị thoại từng được hoan nghênh rộng rãi ở Việt Nam.
3. Thiên Du tử ngâm của Mạnh Giao người đời Đường:
Từ mẫu thủ trung tuyến,
Du tử thân thượng y.
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì qui.
Thùy ngôn thốn thảo tâm,
Báo đắc tam xuân huy.
(Sợi chỉ trong tay mẹ,
Tấm áo trên mình con.
Kịp đi khâu nhặt mũi,
Sợ về còn chậm chân.
Ai bảo lòng tấc cỏ,
Báo được ánh ba xuân).
Bài thơ đọc lên khoái chá lòng người, truyền tụng từ nghìn xưa đến
nay, vậy mà khi cần chú thích cho câu “Ngã bản thảo tâm du tử, hoa lệ viễn
nhân” (Tôi bước khách bơ vơ, lòng cỏ héo hon, lệ hoa thánh thót) trong truyện
Từ thức tiên hôn lục sách Tân biên Truyền kỳ mạn lục, người chú thích đã
không ngần ngại dẫn cả bài. Chữ “Thùy ngôn” đổi thành “Nan tương”, cũng có
ích về mặt hiệu đính.
Truyền kỳ mạn lục ngoài những bản in thành tập riêng liên tục được lưu
truyền, chép lại, ra sách còn được đưa vào những bộ tùng thư. Việt điện kỳ
văn hợp lục đưa tác phẩm này vào trong đó cùng với các sách khác như
Công dư tiệp ký, Tang thương ngẫu lục…, “hợp lại thành bộ và có hơi lạm
bình”. Xem xét hai tàn bản còn lại, người biên tập có khảo cứu bình luận rất
tường tận, đáng tiếc là một phần của Truyền kỳ mạn lục đã bị mất, nếu không
thì đó là tư liệu thực sự quí báu cho việc nghiên cứu tác phẩm.
Hiện nay, vô luận là Cựu biên Truyền kỳ mạn lục hay Tân biên Truyền
kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, người Việt Nam nói chung đều đã không
thể đọc được tác phẩm nữa, vì thế mà sinh ra bản dịch tiếng Việt và tiếng
Pháp. Chúng ta rất vui mừng được đọc đoạn sau đây:
Tác phẩm này (chỉ Truyền kỳ mạn lục) tuy viết bằng Hán ngữ, nhưng
sách vẫn được lưu truyền rộng rãi; năm 1954 sau khi được dịch thành tiếng
Việt La tinh hóa, thì người đọc càng nhiều. Vì thế người Việt Nam thường nói
đến những câu chuyện thú vị và làm cảm động lòng người trong tác phẩm
này.
Đến nay, Truyền kỳ mạn lục lại được xếp vào sách thứ nhất loại truyền
kỳ trong bộ Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san do hai giáo sư Trần Khánh
Hạo và Vương Tam Khánh chủ biên, sách do Trường Viễn đông bác cổ Pháp
xuất bản tháng 4 năm 1987, Đài Loan học sinh thư cục ấn hành. Thế là cuối
cùng sách đã ra khỏi thư viện, không bị mất đi diện mạo ban đầu mà lại được
xuất hiện giữa đời, công khai lưu hành, càng nhiều người được đọc và nghiên
cứu. Điều này quả là điều may mắn cho Nguyễn Dữ.
Bản hiệu đính mới nhất này hầu như thâu tóm hết những cựu bản quan
trọng như đã biết. Người viết sách này khi chỉnh lý đã không chỉ hiệu đính
phần chính văn mà phần chú thích cũng đồng thời hiệu đính và lần lượt tra
tìm xuất xứ, đối chiếu với điển cố vốn có, đính chính được không ít những sai
sót về lầm lẫn, thay đổi, rơi rụng, thừa ra và đảo ngược.
Tuy còn hạn hẹp về học vấn và in ấn còn sai không thể nói là thập toàn
thập mĩ nhưng cũng là quý rồi. Nếu như trong tương lai không xa, “có được
các Cựu biên và Tân biên hiện còn, tiến hành hiệu đính từng bản một rồi hiệu
đính gộp chung, chú thích gộp chung sau khi tìm ra điển cố vốn có, nhằm tạo
ra một bản định hình về hiệu đính và chú thích”, như vậy thì càng lí tưởng.
Tiết thứ ba
TIỂU KẾT
Sách Tiễn đăng tân thoại do Cù Hựu hoàn thành vào năm Hồng Vũ 11
(1378) là bộ tiểu thuyết truyền kỳ văn ngôn đầu tiên. Không nghi ngờ gì nữa,
sự ra đời của tác phẩm tiêu biểu cho sự thức tỉnh của thể văn truyền kỳ
Đường, Tống. Sự hồi sinh này có được là do hô ứng với tinh thần phục cổ,
bởi vì sau khi hoàn toàn thống nhất Trung Quốc, nhà Nguyên mưu toan huỷ
diệt truyền thống lễ giáo của Nho gia, lại cố ý kỳ thị kẻ sĩ, mọi hoạt động văn
hóa truyền thống của nho sinh cũng cáo chung theo khoa cử bị loại bỏ, đồng
thời những câu chuyện truyền kỳ được sản sinh ra nhờ vào kẻ sĩ quý tộc
cũng theo đó mà chết yểu. “Những cuốn tiểu thuyết đời Đường, đến đời Minh
thì đến chín phần mười bị thất tán; sách Thái bình quảng ký soạn xong từ đời
Tống nhưng lại xếp xó không ban bố, lưu truyền cực kỳ ít ỏi, vì thế bất ngờ
thấy bản sách ấy thì mô phỏng viết theo. Người đời lấy làm kinh ngạc, cho là
kỳ diệu khôn cùng!” Tiễn đăng tân thoại chính là sản phẩm của hoàn cảnh ấy.
Ông Trương Thác cho sự ra đời như vậy là một kiểu “phản ứng khi được giải
phóng bất ngờ trong lúc đang bị áp bức”.
Còn Nguyễn Dữ vào khoảng năm 30 thế kỷ 16 đã sáng tác Truyền kỳ
mạn lục, về mặt thời gian muộn hơn Tân thoại khoảng nửa thế kỷ, có điều đốì
với văn học Việt Nam mà nói thì đây là ông tổ khai phá nên tiểu thuyết truyền
kỳ của nước ấy.
Trước đó, văn học Việt Nam chủ yếu là thơ văn bằng chữ Hán. Thời Lý
Trần tuy có Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh tập xuất hiện nhưng tác
phẩm ấy cũng giống như chí quái thời Lục triều Trung Quốc: “Phần nhiều là
ghi chép những điều sai ngoa song không hẳn là những lời bịa đặt huyễn
hoặc”. Đến đầu thế kỉ 16, hiện thực xã hội biến động khiến cho văn học từ
không khí ủy mị tiêu nhàn trở lại với hiện thực. Nguyễn Dữ bèn “có chủ ý gây
hiếu kỳ, viết tiểu thuyết để gửi gắm vào ngọn bút” đưa văn học Việt Nam tiến
đến một đỉnh cao mới.
Tân thoại và Mạn lục ra đời có thể nói là sản phẩm của thời đại.
Về sự lưu truyền của hai sách thì thịnh hành một thời là đặc trưng
chung, về số phận của hai tác phẩm thì Tiễn đăng tân thoại quả là long đong
lận đận, việc Anh Tông nhà Minh hạ chiếu cấm sách, đốt sách, Hoàng Ngu
Tắc đời Thanh còn nhớ như in. Sách Thiên khoảnh đường thư mục quyển 20,
bộ Tí loại tiểu thuyết có ghi:
Tồn Trai loại biên và Hương đài tập 3 quyển của Cù Hựu (Hựu còn có
Tiễn đăng dư (tân) thoại năm Quý Dậu, niên hiệu Chính thống 17, Lý Thời
Miễn còn xin cấm, hủy sách ấy, vì thế cả Dư thoại của Lý Trinh cũng đều
không chép.
Ngoài ra, trong sách Lại cổ đường xích độc tân sao do Chu Lượng
Công đời Thanh biên soạn có chép bức thư Gửi bạn của Thẩm Quang Dụ:
Tiền nhân sáng tác sách Tiễn đăng dư thoại vì nó mà làm phương hại
đến việc thờ cúng tổ tông. Một triều thần đưa sách này ra nơi họp mặt chung
cũng bị đồng liên khinh bỉ; sách chẳng qua là loại tiểu thuyết đời Đường, vậy
mà những bậc thức giả còn tiếc đề phòng ước thúc đến như vậy. Nay sách
khắc in bừa bãi, nhiều đến trăm lần hơn những kẻ vẽ mây, hình tích của nó
như trò trẻ con, tầm nhìn của nó chỉ nhằm mưu lợi, tội của nó là làm hại đến
nhân tâm và phong hóa của kẻ sĩ, họa không thể nào mà nói hết được…
Tiễn đăng dư thoại trong thư nói trên, có chỗ viết là Tiễn đăng tân thoại
như thế là sai. Lý Trinh vì làm Dư thoại mà không được đưa vào miếu thờ các
bậc hiền sĩ trong làng, việc ấy thấy ở sách Cô thụ bao đằm của Lý Mặc, ở
sách Thiếu thất sơn phòng bút tùng, quyển 41 của Hồ Ứng Lân triều Minh, ở
sách Liệt triều thi tập tiểu truyện, tập Ất của Tiền Khiêm Ích đời Thanh…
Tuy nhiên vô luận là Tân thoại hay Dư thoại đều có thể cho thấy thái độ
thù địch đối với tác phẩm của các kẻ sĩ bảo vệ đạo Nho thời Minh Thanh,
thậm chí còn coi sách là “dâm thư”. Chẳng trách Tân thoại phải chuyển vào bí
mật, khiến cho người đời sau tưởng lầm “từ lâu Trung Quốc đã không còn
sách hoàn chỉnh!”
Số phận của Truyền kỳ mạn lục tuy không bi thảm như Tiễn đăng tân
thoại, nhưng do truyện Nôm ở Việt Nam được hình thành, do ảnh hưởng của
việc người Pháp thủ tiêu chữ Hán ở Việt Nam và thực hiện La tinh hóa chữ
viết vào cuối thế kỉ 19, cuối cùng sách đã không tránh khỏi mất đi một lượng
bạn đọc lớn.
Trong khi nghiên cứu quá trình lưu truyền của Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi còn phát hiện ra một điều là những văn bản
quan trọng của hai sách này đều được để tại Nhật Bản, cả Kim Ngao tân
thoại của Kim Thời Tập người Hàn Quốc cũng không ngoại lệ. Thật là điều
khiến người ta muôn phần cảm khái!
Chương IV. NỘI DUNG
Tiễn đăng tân thoại, 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện, phụ lục thêm Thu
hương đình ký, cộng là 21 truyện, đây là nội dung không thay đổi từ khi sách
hoàn thành đến nay. Nhưng sau khi người thời nay là Chu Di hiệu chú Tiễn
đăng tân thoại. Ngoại nhị chủng đem Ký mai ký thêm vào sau phụ lục cũ mà
mấy chục năm nay các nhà nghiên cứu cũng không ai có ý kiến gì, thì ảnh
hưởng của nó đã đến mức tạo ra một sự hiểu lầm: cho rằng nguyên bản Tiễn
đăng tân thoại vốn 22 truyện. Sự thực tuyệt không phải như thế, chúng tôi đã
khảo biện, xin nói rõ ở tiết thứ hai.
Tiễn đăng tân thoại tuy được lưu truyền rộng, ảnh hưởng lớn nhưng ở
trong nước cho đến nay mới chỉ có Thế giới thư cục ấn hành, mọi người chưa
thực sự hiểu rõ nội dung của tác phẩm, còn như Truyền kỳ mạn lục thì không
cần phải nói cũng rõ, càng ít người biết hơn. Để thuận tiện về mặt nghiên cứu
và trình bày, chúng tôi sẽ giới thiệu giản lược, khái quát các câu chuyện trên
hai điểm: một là xét kỹ cái kỳ của các tình tiết; hai là tìm hiểu quan hệ giữa hai
tác phẩm, chắc chắn đây là những công việc tất yếu.
Giới thiệu khái quát hết các truyện, phân tích và định vị từng thiên
truyện, sau đó quy nạp, như vậy tính chất của mỗi tác phẩm sẽ bộc lộ rõ ràng;
điều trở ngại là tiêu chuẩn chưa được xác định rành mạch, hệ thống chức
năng dùng để phân loại chẳng những chưa kiến lập được mà luôn còn gây
nên tranh cãi. Lấy tiểu thuyết đời Đường làm mẫu, Diêm Cốc Ôn chia làm bốn
loại: “biệt truyện”, “kiếm hiệp”, “diễm tình”, “thần quái”, Lưu Đại Kiệt cũng chia
làm bốn loại: “phúng thích”, '“ái tình”, “lịch sử”, “hiệp nghĩa”, tuy vậy mỗi vị lại
có một căn cứ riêng để khảo sát, đánh giá và không thể “tung ra bốn biển đều
đúng. Do vậy trong luận văn in sách, chúng tôi không tiến hành phân loại quá
chặt chẽ, tránh giẫm lên vết xe của người đi trước mà chỉ căn cứ vào phương
hướng lớn khi tuyển chọn đề tài của Tân thoại và Mạn lục, so sánh chỗ dị
đồng giữa hai tác phẩm để làm sáng tỏ khuynh hướng cảm hứng của mỗi
nước (kể cả Nhật Bản và Hàn Quốc).
Tiết thứ nhất
TÓM TẮT CÁC TRUYỆN CỦA TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu gồm 4 quyển, phụ lục 1 truyện cộng tất
cả 21 đoản thiên tiểu thuyết văn xuôi, chừng hơn 35000 từ. Dưới đây xin tóm
tắt nội dung các truyện:
QUYỂN I
Thủy cung khách hội lục (Tiệc mừng dưới thủy cung)
Sĩ nhân Dư Thiện Văn người Triều Châu theo lời mời của Quảng Lợi
Vương xuống Nam Hải làm bài Văn cất nóc đọc trong bữa tiệc khánh thành
ngôi điện mới ở Long cung. Quảng Lợi Vương rất ưng ý sai người đi mời ba
vị hải thần các biển Đông, Tây, Bắc cùng đến dự tiệc. Trong tiệc có mỹ nữ, ca
đồng đàn múa giúp vui, Thiện Văn lại dâng bài thơ Tiệc mừng dưới Thủy
cung để ghi lại một việc tốt đẹp, khen ngợi việc cất nóc điện. Cách hôm sau,
Quảng Lợi Vương tặng chàng rất hậu hĩ rồi sai sứ giả đưa chàng về. Thiện
Văn trở nên giàu có nhưng chàng không để tâm đến công danh, rồi bỏ nhà đi
tu tiên.
Tam Sơn phúc địa chí (Miền Phúc địa ở Tam Sơn)
Nguyên Tự Thực bị giặc cướp lấy hết tài sản, bất đắc dĩ phải dắt díu vợ
con đi tìm Liêu Quân để đòi nợ, chẳng ngờ Liêu Quân vong ơn bội nghĩa rắp
tâm không trả nợ. Nguyên cùng đường nảy ra ý định hành thích Liêu Quân.
Tuy hối lại kịp thời nhưng trong lòng Nguyên vẫn uất ức không vui, bèn nhảy
xuống giếng tự tử. May mắn Nguyên xuống được đất phúc Tam Sơn. Đến
đấy ông mới hiểu ra cảnh nghèo khổ phiêu bạt của mình kiếp này nguyên
nhân là ở sự tự cao tự đại từ kiếp trước. Được đạo sĩ chỉ cho thoát khỏi bến
mê, về sau quả nhiên tai qua nạn khỏi, trở nên giàu có; còn Liêu Quân cuối
cùng không tránh khỏi sự báo ứng của những việc làm độc ác.
Hoa Đình phùng cố nhân ký (Gặp người cũ ở Hoa Đình)
Hai chàng họ Toàn và họ Giả ở Tùng Giang đều có tài văn thơ, lại hào
phóng tự đắc, thường buông thả chơi bời. Cuối niên hiệu Chí Chính vì thất
bại trong việc binh nên nhảy xuống sông tự tử. Năm Hồng Vũ thứ tư, Thạch
Nhược Hư, người Hoa Đình, chợt lại gặp Toàn và Giả ở vùng ngoại ô, bèn
ngồi nghe hai người bàn về nỗi bi ai của kẻ sĩ trong thời loạn lạc, lại ngâm thơ
cảm khái về tai nạn trong những năm chiến tranh liên miên. Sau hai người
cáo biệt và chỉ một thoáng đã đi đâu mất. Bấy giờ Nhược Hư mới nhớ ra
Toàn và Giả chết đã lâu, từ đó không dám đi qua con đường ấy nữa.
Kim phượng thoa ký (Chiếc thoa vàng hình chim phượng)
Thôi Hưng Ca và Ngô Hưng Nương đã đính hôn từ nhỏ. Sau hai nhà xa
cách, Hưng Nương ốm tương tư rồi chết, người nhà chôn theo nàng cả vật
làm tin là chiếc thoa hình chim phượng. Không bao lâu Hưng Ca trở về,
Khánh Nương là em gái Hưng Nương đánh rơi thoa dưới kiệu, chủ động đến
tỏ lòng rồi ép chàng chăn gối, sau cùng nhau trốn đi. Được gần một năm
Hưng Ca về tạ tội, ông Ngô nói Khánh Nương đang ốm nằm trên giường, bấy
giờ Hưng Ca đưa thoa ra làm chứng. Cùng lúc ấy Khánh Nương đột nhiên
khỏi bệnh đứng dậy. Nguyên do là Hưng Nương mượn thân thể em gái mình
hoàn hồn để thỏa ước nguyện cũ.
Liên Phương lâu ký (Lầu Liên Phương)
Nhà giàu họ Tiết có hai con gái là Lan Anh và Huệ Anh đều thông minh
xinh đẹp lại giỏi thơ phú, chiều chiều thường ngồi ngâm thơ trong lầu Liên
Phương bên bờ sông cái phía sau nhà, tiếng tăm vang dội gần xa. Ngày nọ,
chàng họ Trịnh ở Côn Sơn đậu thuyền dưới lầu tắm gội, hai nàng ném quả
vải ghẹo cợt, lại thả thang dây xuống cho chàng trèo lên, tiếp đó dắt nhau
cùng nằm. Chàng Trịnh làm thơ cảm tạ, hai nàng cất thơ trong hộp, sau bị
cha phát hiện chuyện dan díu, nhưng rồi Tiết ông cũng bỏ qua, lại gọi chàng
đến cho làm rể, hai chị em cùng lấy chung một chồng.
QUYỂN II
Lệnh Hồ sinh minh mộng lục (Chàng Lệnh Hồ nằm mơ xuống âm phủ)
Lệnh Hồ Soạn là một kẻ sĩ cương trực. Gần nơi cha mẹ ở có lão già họ
Ô, giàu mà bất nhân, chết rồi sống lại, nói vì người nhà đã lễ phật khắp nơi lại
đốt nhiều tiền giấy nên được tha mạng. Lệnh Hồ nghe chuyện rất bất bình,
bèn ngâm thơ phúng thích. Đêm ấy chàng nằm mơ thấy hai tên quỷ đến lôi đi,
định giải đến ngục Lê Thiệt, bèn viết lời cung khai rõ nguyên ủy. Diêm Vương
xét rõ chàng vô tội liền thả về. Trên đường về chàng tham quan các hình
ngục dưới âm phủ, thấy các loại thầy thuốc gian tà, tăng ni phạm giới, kẻ làm
hại quốc gia chịu đủ mọi cực hình thảm khốc.
Thiên Thai phỏng ẩn lục (Thăm người ở ẩn chôn Thiên Thai)
Văn sĩ Từ Dật nhân tiết Đoan Ngọ vào núi Thiên Thái hái thuốc, lạc
đường đến một xóm của những người tránh nạn, cách biệt hẳn cõi đời. Có
một vị lão trượng tự xưng là quan Thái học Đường Thương Xá bảo với
chàng: “Ta ở đây từ đời Tống”, chỉ biết có nhà Tống mà không biết có nhà
Nguyên, càng không thể nói gì về nhà Đại Minh. Bèn cùng Dật bàn về các sự
việc đời nhà Tống, các bề tôi đương thời. Dật về, trên đường cứ 15 bước thì
cắm một cành trúc để đánh dấu. Mấy ngày sau chàng dắt gia đồng trở lại
thăm thì không thể nào tìm ra lối cũ được nữa.
Đằng Mục túy du Tụ cảnh viên ký (Đằng Mục rượu say chơi vườn Tụ cảnh)
Chàng văn sĩ Đằng Mục người ở Vĩnh Gia, một hôm say rượu lạc chơi
vườn Tụ Cảnh ở Hàng Châu, gặp cung nữ thời Tống Lý Tông là Vệ Phương
Hoa và thị nữ là Kiều Kiều. Đằng Mục biết rõ Phương Hoa là ma nhưng vẫn
cùng nàng ái ân, lại dắt về quê hương. Ba năm sau trần duyên đã hết, cô gái
theo chàng đến tỉnh Chiết Giang thi Hương, hai người trở lại vườn Tụ Cảnh
rồi chia tay, Đằng Mục rất đau thương, làm văn tế nàng, từ đó mới dứt hẳn.
Đằng Mục lạnh lòng với việc thi cử, ngậm ngùi quay về, chàng không lấy ai
nữa, vào núi hái thuốc rồi mất.
Mẫu đơn đăng ký (Chiếc đèn mẫu đơn)
Trong đêm Nguyên tiêu, chàng họ Kiều thấy một a hoàn tay cầm chiếc
đèn mẫu đơn dẫn đường cho một mỹ nhân đi trong đêm, bèn rủ vào cùng
ngủ. Ông lão hàng xóm biết chuyện đã cảnh báo với chàng. Sau quả nhiên
Kiều sinh phát hiện ra trong ngôi chùa ở giữa hồ có quàn thi hài Lệ Khanh,
trước cữu treo một chiếc đèn, đứng dưới đèn là đứa hầu gái bằng hàng mã,
sau lưng viết hai chữ Kim Liên. Chàng họ Kiều vội đến pháp sư họ Ngụy cầu
cứu, không may quên mất lời dặn lại đi qua ngôi chùa giữa hồ, liền bị ma bức
bách, chết trong quan tài. Sau đó chàng thành ma tác quái khắp nơi, cuối
cùng bị Thiết Quang đạo nhân hàng phục.
Vị Đường kỳ ngộ ký (Cuộc kỳ ngộ ở Vị Đường)
Chàng tài tử họ Vương đến Tùng Giang thu tô, khi trở về, thuyền đi qua
Vị Đường, chàng cùng cô con gái quý của ông chủ quán rượu mắt đi mày lại
quyến luyến. Về nhà đêm đêm chàng nằm mơ lại đến phòng khuê của nàng
gặp gỡ. Năm sau chàng lại ghé qua quán rượu, ông lão đon đả mời đón hồi
lâu mới nói con gái ông năm ngoái nhác thấy chàng rồi lâm bệnh, như say
như mê, mãi tối hôm qua mới nói “Chồng con sắp đến”. Thế rồi hai người gặp
mặt, cùng kể lại mọi điều trong mộng thì không sai xuyễn chút nào, hai người
mừng rỡ, cho là sự hòa hợp thần kỳ, bèn kết làm vợ chồng.
QUYỂN III
Phú quý phát tích ty chí (Ty cai quản việc phát giàu sang)
Kẻ sĩ Hà Hữu Nhân ở Thái Châu vì nghèo khó cùng quẫn không thể
sống nổi mới đến trước Ty coi việc phát giàu sang ở miếu Thành hoàng cầu
đảo, mong có thể biết trước tương lai. Đêm đó chính mắt chàng thấy các Ty
trong triều thuật lại các án đã xử, mọi việc thiện ác đều có báo ứng, lại nghe
Phán quan của Ty coi việc phát giàu sang cảnh báo thiên hạ sắp đại loạn,
chúng dân lầm than, thảm khốc. Hữu Nhân cuối cùng cũng được thần chỉ
bảo, về sau mọi họa phúc nhất nhất đều ứng nghiệm, sự hưng suy trị loạn
của quốc gia cũng vậy, khó có thể tránh khỏi số đã định.
Vĩnh Châu dã miếu ký (Ngôi miếu hoang ở Vĩnh Châu)
Vĩnh Châu có một ngôi miếu hoang, bị trăn tinh chiếm cứ. Người đi
đường đều phải đặt lễ cúng tế mới đi qua được, nếu không mưa gió sẽ nổi
lên, người và vật đều mất hút. Anh học trò nghèo Tất Ứng Tường đi qua dưới
miếu, nhưng không có tiền sắm lễ vật, chỉ nhờ tụng kinh Ngọc khu mà được
thoát hiểm. Nhưng chàng ta vẫn không chịu thôi bèn đến đền ở núi Nam Nhạc
viết tờ trạng tố cáo rồi đốt, muốn lấy pháp luật trị tội trăn tinh. Không ngờ trăn
tinh lại viết một tờ cáo trạng kiện Tường ở Địa phủ. Sau được Hành Sơn phủ
ở Nam Nhạc và Ty Thành hoàng ở Vĩnh Châu làm chứng, chàng được cho
thọ thêm một kỷ và tha về.
Thân Dương động ký (Động Thân Dương)
Lý Đức Phùng người Lũng Tây, giỏi bắn cung cưỡi ngựa. Trong khi đi
săn thấy tà ma ẩn hiện, chàng giương cung bắn trúng con chúa, sau đó lần
theo vết máu đi tìm; bất cẩn rơi xuống động Thân Dương. Bọn khỉ thành yêu
cho là trời giáng thần y xuống giúp, bèn xin chàng chữa vết thương cho vua
của chúng. Đức Phùng hiểu ra, dốc hết thuốc vẫn dùng tẩm tên độc trộn vào
linh đan giết sạch bọn khỉ đã thành yêu trong động. Được động chủ cũ là tinh
chuột bạch hướng dẫn chàng đưa ba cô gái đẹp bị yêu khỉ bắt cóc ra khỏi
động. Trong số họ có một cô là con gái phú ông, sau cả ba cô gái đều được
gả cho chàng.
Ái Khanh truyện (Nàng Ái Khanh)
Ở Gia Hưng có nàng ca kĩ La Ái Ái, nhan sắc tài mạo một thời không ai
sánh kịp, người ta gọi nàng là Ái Khanh. Từ sau khi được gả cho chàng họ
Triệu cùng làng, chuyện phấn son được giũ bỏ, nàng trông coi việc nhà rất có
phép tắc, lại cũng hiếu thuận với mẹ chồng. Không bao lâu chồng đi làm quan
xa, mẹ chồng cũng qua đời, Ái Khanh côi cút đau khổ. Có một viên Vạn hộ họ
Lưu ham mê nhan sắc nàng ép nàng lấy hắn. Ái Khanh giữ lòng trinh lấy khăn
là thắt cổ tự tử. Chàng Triệu về nghe hết mọi chuyện đau xót không cùng; Ái
Khanh từng hiện về dương thế cùng chồng nối lại niềm hoan ái cũ, cách ngày
sau, nàng đầu thai làm con trai.
Thúy Thúy truyện (Nàng Thúy Thúy)
Lưu Thúy Thúy con nhà dân thường ở Hoài An cùng bạn học là Kim
Định ngầm ước hẹn việc trăm năm. Tuy hai nhà giàu nghèo khác nhau nhưng
nhờ mối lái đi lại nên việc cũng thành. Không bao lâu, anh em Trương Sĩ
Thành khởi binh, Thúy Thúy bị bộ tướng của chúng là Lý Tướng quân bắt đi.
Kim Định tìm đến phủ Tướng quân họ Lý nói dối là anh em mong được gặp
mặt vợ một lần. Hai người bất đắc dĩ giấu thơ vào cổ áo rét để bày tỏ tình
cảm, thề lấy cái chết đền đáp tình nhau. Sau đó hai người kế tiếp nhau ốm
chết, mộ chôn cạnh nhau. Hồng Vũ năm đầu còn hiển linh báo tin cho cha
mẹ.
QUYỂN IV
Long đường linh hội lục (Cuộc hội ngộ kỳ lạ ở miếu Long vương)
Văn Tử Thuật khi đi qua đền Long Vương ở Ngô Giang bèn đề một bài
thơ cổ phong, được Long Vương ngợi khen, mời xuống chơi Thủy phủ. Cùng
họp mặt còn có ba vị cao sĩ ở đất Ngô Ngũ Tử Tư đến sau, thấy Phạm Lãi đã
ngồi ở vị trí cao nhất liền than người nước Ngô không biết gì cả, rồi trách
mắng Phạm Lãi về các tội mưu việc nước không giỏi, thờ vua bất trung, giữ
mình không liêm, nói đến nỗi Phạm Lãi không đáp lại được lời nào đành đứng
lên nhường chỗ. Long Vương mời khách trong tiệc làm thơ ca múa để góp
vui, tiệc xong tặng Tử Thuật nhiều châu báu rồi sai sứ giả đưa chàng về.
Thái Hư Tư pháp truyện (Chức Tư pháp ở điện Thái Hư)
Phùng Đại Dị, có tên là Kỳ cậy tài kiêu ngạo, bất kính quỷ thần. Một lần
trên đường về đi qua bãi chiến trường cổ, lỡ chân rơi xuống hang quỷ. Chúng
quỷ coi chàng là kẻ thù quan trọng, trăm cách làm nhục chàng, ngoài việc trói
giải, chúng còn “nhào nặn” chàng thành hình dạng các loại quỷ… Khi về nhà,
con chàng thấy bố thì khóc thét, vợ chàng cũng không dám nhận. Đại Dị phẫn
uất tuyệt thực, trước khi chết chàng bảo người nhà bỏ theo vào quan tài rất
nhiều giấy bút để chàng kiện lên thượng đế. Sau chàng thắng kiện, lại nhân vì
chính trực được cho làm chức Tư pháp ở điện Thái Hư.
Tu văn Xá nhân truyện (Chức Xá nhân tu văn)
Hạ Nhan học rộng nghe nhiều, sau khi chết được làm chức Xá nhân
điện Tu văn dưới Âm ty, hồn chàng từng hẹn gặp bạn để nói chuyện. Chàng
hết sức khen dưới Địa phủ thưởng phạt công minh, dùng người thận trọng,
không giống sự hủ bại dốt nát của nền chính trị ở nhân gian. Hạ Nhan lại
buồn rầu vì thơ văn cũ của mình tán lạc rơi rụng mất cả, chàng nhờ bạn giúp
sưu tập khắc in để chúng được lưu truyền rộng rãi. Bạn giúp chàng thực hiện
ước nguyện, từ đó qua lại thường xuyên. Ba năm sau Hạ Nhan lại tiến cử bạn
thay thế chức vụ của mình.
Giám Hồ dạ phiếm ký (Đêm chơi thuyền trên Giám Hồ)
Xử sĩ Thành Lệch Ngôn không cầu danh tiếng thành đạt, tính vốn thích
sơn thủy. Một đêm đầu thu từng thả thuyền đọc thơ trên hồ Giám. Trong lúc
mơ màng chàng được Chức Nữ triệu vời, cả thuyền và người đều bay lên
sông Ngân. Chức Nữ nghiêm trang khẳng định không có chuyện ngoa truyền
“hẹn kỳ đêm thu”, “Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau” và tỏ vẻ bất bình với
những “lời tà lẽ thô” của văn nhân hạ giới đùa cợt khinh nhờn thần linh.
Nhưng vì nàng ở tận cảnh tiên, xa xôi dẫu trăm miệng cũng không biện bạch
được, nhân thế nhờ chàng khi về hạ giới giúp nàng tẩy rửa tiếng oan đó.
Lục y nhân truyện (Cô gái áo xanh)
Triệu Nguyên ngụ cư ở Cát Lĩnh, trong ngôi nhà cũ của Giả Thu Hác,
Tể tướng triều Tống, gặp một cô gái ma mặc áo xanh. Cứ như lời nàng nói thì
kiếp trước hai người vốn cùng làm việc trong phủ họ Giả, cô gái là thị nữ,
Nguyên hầu trà; hai người có ý quyến luyến nhau, chuyện bị phát giác, cả hai
đều bị xử tội chết dưới cây cầu gãy, ngày nay tái hợp chính là nối lại nhân
duyên kiếp trước. Mỗi khi cùng ở với nhau, cô gái áo xanh thường kể lại
những hành động bạo ngược của Thu Hác ngày xưa. Ba năm sau tinh khí tan
hết mới vĩnh biệt cõi đời. Triệu Nguyên thương xót, xuất gia tu hành, không
lấy vợ khác nữa.
Thu Hương đình ký (Đình Thu Hương)
Thương sinh và Dương Thái Thái là anh em họ ngoại, gần gũi từ thuở
còn chơi cưỡi ngựa bằng roi tre; hai nhà cũng mặc nhiên công nhận mối
lương duyên đó. Sau lớn lên, tuy chịu sự ràng buộc của lễ nghĩa, không dám
sớm chiều gặp gỡ nhưng thỉnh thoảng cũng làm thơ xướng họa, bày tỏ tình
cảm. Không ngờ gặp lúc Trương Sĩ Thành khởi binh, mỗi người đều theo gia
đình đi lánh nạn, kẻ Nam người Bắc mười năm chẳng có tin tức gì. Đến khi
tìm lại được nhau, thì Thái Thái đã có chồng sinh con. Chàng họ Thương bất
đắc dĩ chấp nhận sự thực tàn khốc đó, nhưng đối với Thái Thái chàng mãi
mãi không thể quên.
Tiết thứ hai
KÝ MAI KÝ KHÔNG THUỘC NỘI DUNG TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
Cuối cùng thì vì sao Chu Di đem Ký mai ký nhập vào phần phụ lục của
Tiễn đăng tân thoại? Ông nói:
Trong phần phụ lục của Tiễn đăng tân thoại, ngoài Thu Hương đình ký
tôi còn đưa thêm vào thiên Ký mai ký. Thiên truyện truyền kỳ này căn cứ vào
ghi chép của Cổ kim đồ thư tập thành. Khuê viên điển, là của Cù Hựu; trong
cổ kim tình sử loại toản, do Chiêm Chiêm Ngoại Sử biên soạn cuối đời nhà
Minh lấy nhiều văn chương của hai loại Tiễn đăng, thiên này cũng được đưa
vào như vậy; Tây Hồ nhị tập cũng căn cứ vào tư liệu '‘mộc” này tăng thêm
tình tiết, cải biên “nhái” thoại bản, đặt tên là Ký mai hoa quỷ náo Tây các.
Đem truyện ấy phụ lục vào Tân thoại, tựa hồ cũng không sai lớn lắm, nhưng
bút điệu thì dường như có chỗ không giống họ Cù.
Do đó mà xem, Chu Di chỉ khảo cứu rút ra một thiên dật văn của Cù
Hựu từ cổ kim đồ thư tập thành, nhân vì là tác phẩm hiếm nên đưa thêm vào
sách, bản thân ông cũng không nói Ký mai ký nguyên thuộc Tân thoại, độc giả
nếu có hiểu lầm thì thực không thuộc phần trách nhiệm của ông. Nhưng
chúng tôi muốn hỏi: “Tác giả Ký mai ký có đúng là Cù Hựu không?” Nếu như
đem một tác phẩm không phải của tác giả ấy phụ lục vào đằng sau trước tác
của ông ta khiến độc giả vì không kịp tra xét dẫn đến hiểu nhầm, như thế
người làm sách có thể không có lỗi sao? Điều khiến người ta phấn chấn là
nhân việc làm rõ cách lý giải sai lầm đó cũng có thể giải quyết được một vấn
đề liên quan: phản bác lại kết luận của Đới Bất Phàm và Đàm Chính Bích cho
Cù Hựu không viết Tiễn đăng tân thoại.
Cổ kim đồ thư tập thành. Khuê viên điển quyển 332, mục Khuê thức bộ
kỷ sự đúng là từng dẫn: “Cù Hựu: Ký mai ký”. Đại ý truyện viết: “Chàng thư
sinh Chu Đoan Triều đời Nam Tống, đi học trường huyện, từng quen biết một
kỹ nữ là Mã Quỳnh Quỳnh; hai bên tình ý quyến luyến. Quỳnh Quỳnh giúp
Đoan Triều ăn học, đến khi được bổ làm quan, lại nguyện gửi gắm trọn đời
mình cho chàng. Vợ Chu lại hay ghen, Đoan Triều phải nói hết lời, lại đem cái
lợi dụ dỗ, vợ con chàng mới miễn cưỡng bằng lòng. Rồi đó xây dựng hai tòa
gác phía Đông và Tây; vợ con chàng ở gác Đông, Quỳnh Quỳnh ở gác Tây.
Trước khi đi nhậm chức, Đoan Triều dặn: “Thư từ về nhà sẽ gửi chung một
phong; nhà gửi thư trả lời cũng sẽ làm như thế”. Nhưng nửa năm trôi qua mà
chỉ thấy gác Đông có thư tới; thư chàng gửi về, gác Đông giấu kín không cho
gác Tây cùng xem. Gác Tây bất đắc dĩ đành bí mật sai người thân tín mang
đến cho chồng chiếc quạt có vẽ hình mai tuyết, mặt sau quạt viết một bài từ
theo điệu Giảm tự mộc lan hoa:
Tuyết mai ghen sắc
Tuyết nén hoa mai sao quá chặt.
Mai tính ôn nhu,
Tuyết ép mai hoa khó ngẩng đầu.
Lòng thơm muốn vỡ,
Ngóng đợi Đông quân về đứng chủ.
Nhắn với Đông quân,
Sớm đến cùng mai làm chủ nhân!
Đoan Triều xem xong, đứng ngồi không yên, ít lâu sau chàng từ quan
về nhà, làm khúc Cán khê sa để giải tỏa mối hiềm khích giữa hai vợ. Bài từ
như sau:
Mai đang nở rộ tuyết bay cuồng,
Hai vẻ u nhàn, ai kẻ hơn?
Mang rượu lại đây xét tỏ tường.
Mai so cùng tuyết thua màu trắng,
Tuyết sánh cùng mai nhị kém hương,
Hóa công đâu phải không suy lường.
Từ đó về sau, hai gác không tranh giành sự sủng ái của chồng nữa,
Đoan Triều cũng không trở lại quan trường.
Truyện này tình tiết khúc chiết, cách sử dụng nhân hóa trong thi từ
cũng xảo diệu, rất được người đời sau ưa chuộng. Cho nên vào thời cuối nhà
Minh, Vũ Lâm Chu Thanh Nguyên trong Tây hồ nhị tập đã sử dụng để cải
biên thành “nhái thoại bản”, lấy đầu đề là Kỵ mai hoa quỷ náo Tây các (Gửi
hoa mai, quỷ náo gác Tây). Trần Thụ Cơ triều Thanh chép vào Tây Hồ thập
di, đổi đầu đề là Tuyết áp mai hoa giả quỷ mạo Tây các. Dân quốc năm đầu,
cuốn Hồ sơn gia thoại làm giả nguyên tác của Lý Lạp Ông, viết đổi đi, sửa
đầu đề thành: Thích tật đố, thê thiếp liên hoan; Tuyết áp mai hoa giả quỷ mạo
Tây các (Giải mối ghen, thê thiếp cùng vui; tuyết áp hoa mai giả quỷ phạm
gác Tây) đều bắt đầu bằng vợ Chu họ Liễu, lại thêm tình tiết ma quấy rối, vốn
không có trong nguyên tác.
Sự thực thì trước khi được đưa vào cổ kim đồ thư tập thành, trong các
bộ tập hợp tiểu thuyết văn ngôn cuối thời nhà Minh cũng đã có truyện này,
như:
- Nhất kiến thưởng tâm biên, quyển 4 (Danh chu loại).
- Tiễn đăng tùng thoại (bản 12 quyển), quyển 6.
- Lục song nữ sử, quyển 4 (Duyên ngẫu thượng. Tài diễm).
- Thanh nê liên hoa ký, quyển 8 (Ký tòng 2).
- Tĩnh sử, quyển 6 (Tình ái loại).
- Diễm dị biên, quyển 27: Kỹ nữ bộ (sách vốn chỉ có phần văn viết,
không có đề mục).
Trong đó Tình sử đề là Mã Quỳnh Quỳnh, Nhất kiến thưởng tâm biên
đề là Quỳnh Quỳnh kỹ, ngoài ra đều đề là Tây các ký mai ký; các truyện văn
từ đại đồng tiểu dị, nhưng so với Tập thành đều dầy dặn hơn. Ngoại trừ Tùng
thoại, Nữ sử, đề tên tác giả là “Tiền Đường, Cù Hựu”, các sách khác đều
không ghi tác giả và cũng không ghi xuất xứ. Nói về Mai Đỉnh Tộ và Phùng
Mộng Long thì trong các sách như Tài quỷ ký, Thanh nê liên hoa ký (của Mai),
Tình sử (của Phùng) các ông chọn chép khá nhiều ở Tiễn đăng tân thoại,
cách làm của các ông cũng thận trọng nghiêm túc hơn nhiều các bộ sách
thông tục; nếu quả các ông biết chắc đó là tác phẩm của Cù Hựu thì hẳn
không đến nỗi để sót tên. Những điều đó cho phép chúng tôi nghĩ rằng căn cứ
để Tập thành dẫn Ký mai ký rồi nói rõ tác giả là Cù Hựu có phần rất lạ. Quan
sát biểu phụ lục ở tiết thứ nhất chương III thì số truyện, tên truyện Tiễn đăng
tân thoại được dẫn trong cổ kim đồ thư tập thành. Khuê viên điển hầu như
nhất trí với Tùng thoại bản 12 quyển và Nữ sử, điều đó đã đủ giải tỏa mối ngờ
của người ta rồi. Nay nếu như chúng tôi tiến thêm một bước kiểm tra ra tình
hình thực tế số tác phẩm quả thực của Cù Hựu được chép trong Khuê viên
điển thì sự thực sẽ rất sáng tỏ. Xin lập bảng kê dưới đây để độc giả tham
khảo:
Số
thứ
tự
quyể
n
332 336 347 347 360 360 360 363 368
Bộ
môn
Khu
ê
thức
bộ
kỷ
sự
Khuê
tảo bộ
liệt
truyện
Khuê
kỳ bộ
ngoại
biên 2
Khuê
kỳ bộ
ngoại
biên 2
Khuê
diễm
bộ
ngoại
biên
2
Khuê
diễm
bộ
ngoại
biên
2
Khuê
diễm
bộ
ngoại
biên
2
Khuê
hận
bộ
liệt
biên
3
Khuê
hận
bộ
ngoại
biên
Tác
giả
Cù
Hựu
Liễu
Quán
Cù
Hựu
Trần
Âm
Ngô
Diễn
Mục
lục
truyệ
n
Ký
mai
ký
Tiết thị
nhị nữ
Vị
Đườ
ng kỳ
ngộ
truyện
Kim
p
hượng
thoa ký
Tụ
Cảnh
viên
ký
U
quái
lục
Mẫu
đơn
đăng
ký
Lưu
Thuý
Thuý
Lục y
nhân
truyệ
n
Xuất Liên Tiễn
xứ p
hương
đăng
tân
thoại
Số
trang
3316 3345-
3430
3430 3429-
3430
3530
-
3531
3531
-
3532
3532
-
3533
3558
-
3559
3598-
3599
Điều hay ho là Nữ sử quyển 6, Minh cảm (thượng) mộng mỵ và Tùng
thoại quyển 6 đều viết Vị Đườg kỳ ngộ ký thành Vị Đường kỳ ngộ truyện, Nữ
sử quyển 7, Minh cảm (hạ), U hợp và Tùng thoại quyển 3 đều ghi lầm tác giả
Kim phượng thoa ký, Mẫu đơn đăng ký, Lục y nhân truyện là “Liễu Quán đời
Nguyên”, “Trần Âm đời Nguyên”, “Ngô Diễn đời Nguyên; Nữ sử quyển 8, mục
Yêu diễm. Quỷ linh và Tùng thoại quyển 3 đều lược bớt tên truyện Đằng Mục
túy du Tụ Cảnh viên ký thành Tụ Cảnh viên ký, tác giả là “Sơn Dương, Cù
Hựu”, ngoài ra Khuê viên điển còn dẫn “Phù dung bình ký của Lý Trinh”, “Liên
đường nhị cơ truyện của Từ Quan”, “Nam lâu mỹ nhân truyện của Dương
Duy Trinh”, “Vương Khôi truyện của Liễu Quán”, “Kiều Hồng ký của Lý Hủ”,
“Xuân mộng lục của Trịnh Hy”, đều không khác với Nữ sử, Tùng thoại. Như
thế đủ thấy Nữ sử hoặc Tùng thoại là nguyên điển mà sách ấy dựa theo,
không nghi ngờ gì nữa!
Cũng có người nêu câu hỏi: Nữ sử quyển 4, Duyên ngẫu (thượng). Tài
diễm và Tùng thoại quyển 3 rành rành dẫn Liên Phương lâu ký (đều đề
khuyết danh), vậy thì do đâu mà Khuê viên điển ghi là “Tiết thị nhị nữ”? Lại
nữa Thuý Thúy truyện không thấy ở Nữ sử, Tùng thoại, vậy thì Khuê viên
điển lấy từ đâu ra Lưu Thúy Thúy, thêm nữa lại có ghi Tiễn đăng tân thoại?
Lại còn dẫn nội dung U quái lục thực ra chính là Lục y nhân truyện lược bớt,
thế thì vì sao Khuê viên điển trùng lặp? Thì ra là hai thiên Tiết thị nhị nữ, Lưu
Thúy Thúy trong Khuê viên điển, tuy thấy ghi chú Liên Phương lâu ký trong
Tiễn đăng tân thoại, nhưng tìm nguồn gốc thì chính là chuyển dẫn từ Tình sử,
vì ở Tình sử quyển 3 trong Tình tự loại có Tiết thị nhị phương, cuối ghi: “Tiễn
đăng tân thoại có Liên Phương lâu ký”, quyển 14 Tình cừu loại có Lưu Thuý
Thuý, chú: “Việc chép từ Tiễn đăng tân thoại của Cù Tông Cát”; lại một thiên
U quái lục, nội dung nguyên thuộc Lục y nhân truyện, từng được Điền Nhữ
Thành đời Minh ghi tóm lược, đưa vào Tây Hồ du lãm chí dư quyển 26,
truyện U quái truyền nghi, tiết 19. Đào Đình đời Thanh trong Tục thuyết phu
quyển 46 lại lấy 11 tiết trong 23 tiết của U quái truyền nghi cải thành U quái
lục, còn tiết 19 vốn đề là Triệu Nguyên tái thế thì xếp vào tiết đó chính là xuất
xứ. Trần Mộng Lôi đời Thanh biên tập Tập thành tất lấy nguồn từ nhiều sách,
Tình sử, Tục thuyết phu đều ở trong số đó; điều này không ảnh hưởng mảy
may tới phán đoán đã trình bày ở trên.
Vì thế chúng tôi dám “cả gan” khẳng định rằng: “Ký mai ký của Cù Hựu”
mà cổ kim đồ thư tập thành, Khuê viên điển dẫn, chính là từ Lục song nữ sử
hoặc Tây các ký mai ký ghi tên tác giả là “Tiền Đường Cù Hựu” trong Tiễn
đăng tùng thoại bản 12 quyển. Trong đó khả năng lấy từ Lục song nữ sử
nhiều hơn, bởi vì Khuê viên điển đồng thời lại còn tập hợp cả “Nữ luận ngữ
của Thượng Cung đời Tống”, “Nữ hiếu kinh của Trịnh Thị đời Đường và “Á
Xướng chí của Dương Duy Trinh”v.v… Những tác phẩm này thấy trong Nữ
sử mà không thấy trong Tùng thoại.
Vấn đề là Lục song nữ sử là bộ sách cực không thể tin cậy được như
lời phê của Y Đằng Thấu Bình sau đây:
Trong Lục song nữ sử không thiếu những dẫn chứng lầm lẫn về tác giả
kiểu “mũ anh Trương anh Lý đội”, như truyện Kim phương thoa ký trong tập
tiểu thuyết truyền kỳ Tiễn đăng tân thoại do Cù Hựu người đầu nhà Minh soạn
lại nhầm là của Liễu Quán người thời cuối nhà Nguyên, tác giả Mẫu đơn đăng
ký thì nhầm là Trần Âm đời Nguyên. Hai thuyết trên đều là miễn cưỡng phụ
hội, đến như Kiều Hồng ký của Lý Hủ thì lại không có chứng minh chắc chắn.
Ông Y Đằng tuy chưa đề cập đến Tây các ký mai ký, nhưng Lục song
nữ sử đề là “Tiền Đường Cù Hựu”, điều này cũng cùng một dạng với các lầm
lẫn: Kim phương thoa ký cho là của Liễu Quán, Mẫu đơn đăng ký cho là của
Trần Âm, Kiều Hồng ký cho là của Lý Hủ, Lục y nhân truyện cho là của Ngô
Diễn, Vị Đường kỳ ngộ ký cho là của Mã Long, đến Giả Vân Hoa hoàn hồn ký
của Lý Xương Kỳ lại cho là của Trần Nhân Ngọc đời Tống… Đó chẳng rõ
ràng là “râu ông cắm cằm bà” hay sao?
Huống hồ, nếu căn cứ vào chính văn của Ký mai ký mà xét thì cũng khó
thuyết phục người đọc tin là tác phẩm của Cù Hựu. Chu Di cũng có cảm nhận
“bút điệu tựa hồ có chỗ không đúng giống họ Cù”, đó là một bằng cứ rất tốt.
Lại nữa Ký mai ký nói Quỳnh Quỳnh làm bài từ Giảm tự mộc lan hoa, điều
này cần được khảo cứu. Hồng Mại đời Tống trong Di kiên chi Ất quyển 6,
Hợp sinh thi từ có chép:
Tôi làm quan Thú ở Cối Kê có nghe nữ tử Hồng Huệ Anh ca điệu từ,
đang ca bỗng dừng trống nói: “Huệ Anh có một tiểu khúc thuật hoài, xin được
ca dâng”, nói rồi ca rằng:
Mai hoa như tuyết,
Vừa bị tuyết rơi bẻ chiết.
Trong tuyết, mai hoa,
Vô hạn tinh thần vẫn đó mà.
Mai hoa không nói,
Chỉ có chúa xuân về phân xử.
Nhắn gửi chúa xuân:
Mai đợi chúa xuân làm chủ nhân.
Ca xong lạy lần nữa, nói: “Mai ví với Huệ Anh, không dám lạm mượn
tên hoa, chỉ là để mượn ý. Tuyết là chỉ những thiếu niên vô lại ác xấu”.
Kẻ quan nô nhân đó kể người ấy đến phủ được một tháng, nhưng gặp
bón năm đứa ác quấy nhiễu khốn khổ, cho nên tình cảm hiện ra ở bài từ.
Trong hàng ca kỹ thật không dễ có được!
Mai Đỉnh Tộ đời Minh trong Thanh nê liên hoa ký quyển 12 dẫn lời chú
sau bài Hợp sinh thi từ trong Di kiên chí của Hồng Mại:
Bài từ Mộc lan hoa trong Tây các ký mai ký hoàn toàn giống bài từ này,
câu nói ”Tôi làm quan Thú cối Kê'' tức là lời của Mại, tự mình được nghe,
không thể sai”.
Tiểu khúc thuật hoài do Hồng Huệ Anh tự sáng tác và ca trên chiếu tiệc
mà Hồng Mại ghi, về câu chữ tuy không hoàn toàn giống với bài từ Giảm tự
mộc lan hoa của Mã Quỳnh Quỳnh trong Ký mai ký nhưng Đỉnh Tộ nói “Tự
mình (chỉ Hồng Mại) được nghe, không thể sai” thì đó là ý kiến đúng.
Chúng ta rất khó tin rằng Cù Hựu vốn “tự phụ nhớ nhiều giỏi thơ” mà lại
có thể hồ đồ đến mức mượn bài từ của người khác trong tác phẩm khác chép
vào tiểu thuyết của mình! Trong Tiễn đăng tân thoại, bất luận ở trường hợp
nào cũng không tìm được dẫn chứng tương tự.
Tóm lại Ký mai ký tuyệt không thuộc nội dung ban đầu của Tiễn đăng
tân thoại, con đường nó nhập vào tác phẩm này không rõ ràng, tác giả của nó
có đúng là Cù Hựu hay không cũng có nhiều nghi vấn. Trong phần nghiên
cứu so sánh dưới đây, chúng tôi vì thế sẽ không đưa Ký mai ký vào.
Liên đới trách nhiệm đến sai lẫn này là hai cuốn sách thông tục: Tùng
thoại bản 12 quyển và Nữ sử. Quyển nào có trước, quyển nào sau, tuy không
thật rõ ràng nhưng tác hại mà chúng gây ra đều không nhỏ! Đới Bất Phàm
cho rằng “Cù Tông Cát không thể coi là tác giả Tiễn đăng tân thoại'', ông nêu
các dẫn chứng: “Liên Phương lâu ký ghi khuyết danh”, “Tụ cảnh viên ký ghi
Sơn Dương Cù Hựu”, “Mẫu đơn đăng ký ghi Trần Âm đời Nguyên”, “Kim
phượng thoa ký ghi Liễu Quán đời Nguyên; các dẫn chứng này đều rút ra từ
bản khắc in tiểu thuyết đời Minh tàn khuyết Tiễn đăng tùng thoại, phụ hoạ
thêm cho điều Triệu Cảnh Thâm từng viết: “Kim Bình Mai từ thoại tự ghi Tiễn
đăng tân thoại là do Lư Cảnh Huy biên soạn, có lẽ là đúng”. Đàm Chính Bích
khi dẫn Kim phượng thoa ký của Tân thoại đã chú thêm: “Lại Cổ kim đồ thư
tập thành. Khuê viên điển… dẫn Kim phượng thoa ký của Liễu Quán, tức là
truyện này; căn cứ vào đó thì biết tác phẩm vốn là của Liễu Quán”; lại căn cứ
vào mục lục Tiễn đăng tân thoại, hô ứng với thuyết của Đới, xướng lên rằng:
“Trong đó hai vị Liễu Quán và Ngô Diễn đều là các văn học gia danh tiếng đời
Nguyên nên có thể các truyện trên trong Tân thoại đều tuyển chọn từ trứ tác
của hai ông mà ghi lại”. Kỳ thực đó đều là những sai lầm “đổi quả làm nhân”,
dẫn đến lầm lẫn biến hóa nhiều cách, tất cả đều có thể tìm thấy ở đây sự
thuyết minh rõ ràng.
Tiết thứ ba
TÓM TẮT CỐT TRUYỆN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có 4 quyển, không có phụ lục, gồm
20 thiên đoản văn tiểu tuyết văn ngôn Hán văn, khoảng trên dưới 37.000 từ.
Dưới đây thuật tóm tắt nội dung các truyện:
QUYỂN I
Hạng vương từ ký (Câu chuyện ở đền Hạng vương)
Hồ Tông Thốc giỏi thơ, cuối thời Tần vâng mệnh đi sứ phương Bắc, đề
thơ dưới đền Hạng vương, lời thơ phần nhiều châm biếm. Hạng vương bèn
triệu ông tới đối thoại, biện luận về những điều bị châm chích, lại biểu lộ ý bất
bình vì người đời đã lấy “thành bại luận anh hùng”. Nhưng Tông Thốc không
phục, dùng lời lẽ sắc nhọn cãi lại khiến Hạng vương nghẹn lời, sắc mặt như
tro nguội. May có lão thần họ Phạm nói lại, Hạng vương mới lấy lại được chút
thể diện. Tông Thốc thấy Phạm nói có lý, bằng lòng khi về cõi trần sẽ rửa
tiếng oan cho Hạng vương. Từ biệt xong, mới biết là một giấc mộng.
Khoái Châu nghĩa phụ truyện (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu)
Từ Nhị Khanh được gả làm vợ anh chàng Phùng Trọng Quỳ tính ham
chơi lêu lổng. Trọng Quỳ đi xa, sáu năm không có tin tức, Nhị Khanh không
nơi nương tựa phải trở về làng cũ Khoái Châu. Bà cô họ Lưu tham tiền ép
nàng cải giá với Bạch Tướng quân, may nhờ lão bộc tìm Trọng Quỳ về kịp
mới tránh khỏi thất tiết. Không ngờ Trọng Quỳ nết hư khó đổi, đem Nhị Khanh
gán nợ thua bạc cho tên lái buôn Đỗ Tam. Nhị Khanh đau lòng thắt cổ tự tử,
sau tuy hồn trở về cùng Trọng Quỳ ôn lại tình cảm xưa nhưng chỉ được một
đêm mà thôi.
Mộc miên thụ truyện (Chuyện cây gạo)
Anh chàng đi buôn Trình Thung Ngộ gặp cô gái đẹp Nhị Khanh có con
hầu mang cây hồ cầm đi theo. Nhị Khanh chủ tâm quyến rũ chàng, đêm đêm
tìm cuộc vui. Trung Ngộ nghe lời bè bạn khuyên, đến nơi nàng ở xem xét gia
cảnh, bất ngờ trông thấy chiếc quan tài đỏ trên đề “Linh cữu của Nhị Khanh”,
bên cạnh có một cô gái ôm cây hồ cầm bằng đất nặn, chàng cuống cuồng bỏ
chạy. Nhưng chàng không chống lại nổi sự mê hoặc của u hồn, cuối cùng ôm
áo quan mà chết, rồi cùng Nhị Khanh biến thành yêu quái nương tựa vào cây
gạo cổ thụ, sau bị đạo sĩ thu phục.
Trà đồng giáng đản lục (Chuyện trà đồng giáng sinh)
Dương Đức Công đã già mà chưa có con trai, nhưng vì hay làm việc
thiện nên chết rồi lại sống lại, còn được thiên đình cho một đứa con trai kỳ lạ.
Đứa bé được đặt tên là Thiên Tích, vốn là người hầu trà bên cạnh Thượng
đế. Sau khi giáng sinh xuống trần, Thiên Tích được tập ấm của Đức Công, có
một cuộc hôn nhân ly kỳ tốt đẹp, lại được làm quan cao. Sau có một đạo sĩ tự
xưng là bạn cũ của Thiên Tích đến thăm, giảng giải cho ông cái lý của thiện
ác, họa phúc, nhân quả báo ứng, lại giúp ông thoát khỏi hiểm nguy. Thiên
Tích tỉnh ngộ bèn vào núi rồi đắc đạo.
Tây viên kỳ ngộ ký (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây)
Chàng học trò Hà Nhân đi qua một ngôi nhà cũ của vị Thái sư triều
Trần; nơi mảnh tường đổ của trại Tây, chàng gặp hai cô gái đẹp, Liễu Nhu
Nương và Đào Hồng Nương nhiều lần ném hoa quả để dẫn dụ chàng và
chàng đã được hưởng cái phúc hưởng thú vui chăn gối của người nước Tề!
Có một hôm hai nàng rơi nước mắt cáo biệt, và đêm ấy quả hai nàng không
đến nữa. Trời sáng, Hà Nhân đến trại Tây dò xem, chỉ thấy mấy cành đào
cành liễu bị gió mưa đêm qua quật gẫy ngổn ngang trên đất. Nguyên các
nàng đều là hoa yêu cây quái biến hóa ra cả.
QUYỂN II
Long đình đối tụng lục (Chuyện đối tụng ở Long cung)
Có một vị huyện lệnh họ Trịnh, vợ họ Dương bị thủy quái ở miếu thần
thuồng luồng đất Hồng Châu cướp đi. Bạch Long hầu ở Thủy tinh cung tỏ ý
bất bình, sau khi giúp Trịnh huyện lệnh tìm hiểu rõ đầu đuôi vụ án đã đưa
Trịnh tới Long đình thưa kiện. Thần thuồng luồng ra sức biện bạch, phủ nhận
mọi tội lỗi, Long Vương phải sai triệu Dương thị đến đối chứng, bảo nàng
nhận chồng mình, cuối cùng sự thực được sáng tỏ. Long Vương phán thần
thuồng luồng có tội bị đầy lên phía Bắc, vợ chồng huyện lệnh gương vỡ lại
lành.
Đào thị nghiệp oan ký (Truyện nghiệp oan của Đào thị)
Nàng kỹ nữ danh tiếng ở Từ Sơn là Đào Hàn Than mưu hành thích vợ
quan Hành khiển Ngụy Nhược Chân không thành, sợ tội bỏ trốn đến chùa
Phật Tích cắt tóc đi tu. Không ngờ tung tích bị lộ bèn chạy trốn đến chùa núi
Lệ Kỳ ở Hải Dương. Hàn Than và sư chùa Lệ Kỳ có tình ý với nhau, sau đều
bị ốm, nối tiếp nhau qua đời, rồi lại đầu thai thành con trai Ngụy Nhược Chân.
Nhược Chân ngẫu nhiên nghe trộm được lời bàn vụng của hai con, mới biết
lai lịch của chúng. Ông vội đi tìm vị cao tăng Pháp Vân xin người trấn áp yêu
quái. Hai đứa bé tuy đã hóa thành hai con rắn nhưng cũng không tránh khỏi bị
nát vụn.
Tản Viên từ Phán sự lục (Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên)
Ngô Tử Văn tên là Soạn, là một kẻ sĩ cứng cỏi. Thấy ngôi đền cũ trong
thôn bị yêu ma hoành hành, ông tức giận đốt đi. Về nhà, thấy một người ăn
mặc trang phục Bắc quốc đến trách mắng; chiều tối lại có một ông già đến tự
xưng nguyên là thần của ngôi đền ấy bị hồn tên tiểu tướng họ Thôi, tước
Bạch hộ, dưới quyền tướng nhà Minh Mộc Thạnh, cướp mất đền, nhờ Tử
Văn thân oan giúp. Ban đêm Tử Văn xuống Minh ty hầu điện, làm sáng tỏ
được sự thực, bình yên trở về. Sau không bệnh mà mất, vì trừ hại có công
nên được bổ vào chức Phán sự ở đền Tản Viên lúc đó đang khuyết.
Từ Thức tiên hôn lục (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên)
Từ Thức người Hóa Châu, làm Tri huyện Tiên Du, từng cởi áo chuộc lỗi
cho người con gái bị bắt giữ vì lỡ tay làm gẫy hoa quý, người đời khen chàng
là bậc hiền nhân. Nhưng Từ Thức tính vốn thích nước non nên treo mũ từ
quan. Trong lúc du ngoạn những nơi danh thắng, chàng được Ngụy phu
nhân, tiên ở núi Nam Nhạc, mời đến sơn động Phù Lai gả con gái là Giáng
Hương cho. Giáng Hương chính là cô gái làm gẫy hoa năm trước. Một năm
sau Từ Thức nhớ nhà muốn về, Giáng Hương gạt nước mắt đưa tiễn chàng.
Từ Thức về đến nhà, cảnh vật thiên nhiên vẫn như cũ nhưng người đời và
việc đời đã hoàn toàn thay đổi, hạ giới đã trải qua hơn tám chục năm! Sau
chàng vào núi Hoành Sơn rồi không biết kết cục ra sao!
Phạm Tử Hư du Thiên tào lục (Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào)
Phạm Tử Hư người cẩm Giàng, theo học ẩn sĩ Dương Trạm. Sau khi
Trạm qua đời, học trò tứ tán hết cả, duy Tử Hư làm lều bên cạnh mộ thầy để
coi sóc phần mộ ba năm. Thời Trần Tử Hư du học ở Kinh thành, thầy đã đến
nói cho Tử Hư rõ nguyên cớ vì sau 40 tuổi còn chưa đỗ đạt, đó là “lúc trẻ cậy
mình giỏi văn từ mà kiêu ngạo với người”, cho nên “trời bắt anh thành đạt
muộn”. Tử Hư hỏi thầy những điều người đời đồn đại, như: họa phúc của
những kẻ làm quan đương thời, học trò cầu mộng, cửa trời treo bảng…,
Dương Trạm đều nhất nhất giải đáp, lại dẫn chàng lên chơi Thiên tào.
QUYỂN III
Xương Giang yêu quái lục (Chuyện yêu quái ở Xương Giang)
Vong hồn cô gái họ Hồ hưng yêu tác quái, người làng phải đem hài cốt
cô ta ném xuống sông mới tạm yên. Nhưng hồn ma lại lừa được viên quan họ
Hoàng thu nhặt hài cốt nàng trùng táng rồi lấy hồn ma nàng làm vợ. Sau bị
thần y phát hiện, cầm đạo bùa ném, nàng liền hóa thành một đống xương
trắng. Bấy giờ nàng lại xuống địa phủ kiện, vua Diêm Vương bắt Hoàng
xuống tra xét, Hoàng dâng tờ biểu kể rõ sự thực, Diêm Vương bèn viết tờ
phán quyết, sai áp giải yêu nữ vào ngục Lê Thiệt, giảm tuổi thọ của Hoàng
một kỷ rồi cho về.
Na Sơn tiều đốì lục (Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na)
Hồ Hán Thương đi săn, gặp người tiều phu ở núi Na vừa đi vừa ca, rồi
phất áo đi thẳng. Ngờ người ấy là một cao nhân dật sĩ mai danh ẩn tích, Hán
Thương sai thị thần là Trương Công đuổi theo mời. Trương Công ra sức
thuyết phục tiều phu ra làm quan phụ tá nhà Hồ, tiều phu cự tuyệt việc “nhập
chung dòng nước bẩn” với đám cầm quyền tàn bạo. Lý lẽ của tiều phu khiến
cho Trương Công không đối đáp được lời nào. Hán Thương không thất vọng,
lại sai Trương Công đi mời lần nữa, nhưng lối cũ không thể tìm lại được. Hán
Thương nổi giận sai phóng lửa đốt núi, chỉ thấy một con huyền hạc bay lượn
trên không trung, uyển chuyển như múa.
Đông Triều phế tự truyện (Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều)
Phong tục cũ nhà Trần chuộng chuyện quỷ thần, ở huyện Đông Triều
đền thờ thần, chùa thờ Phật nhiều hơn cả; sau vì liền năm binh lửa đền chùa
bị đốt cháy gần hết, mười phần chỉ còn được một. Năm ấy dân quanh vùng
huyện lỵ khốn khổ vì nạn trộm cắp, viên Huyện trưởng là Văn Tư Sĩ nhiều lần
vây bắt không được, nghĩ rằng đó là do ma quỷ quấy nhiễu, nhưng không có
cách nào khắc phục được. Đêm nọ, một người đi săn phát hiện ra bọn gian
đang hành động, liền giương cung lặng lẽ bắn, trúng liền hai tên. Người đó hô
hoán lên, dân làng theo vết máu đi tìm, đến ngôi chùa hoang quả nhiên thấy
hai hộ pháp lưng bị trúng tên, mọi người đều chắt lưỡi nói là kỳ lạ.
Thúy Tiêu truyện (Chuyện nàng Thúy Tiêu)
Dư Nhuận Chi người Kiến Hưng, nổi tiếng có tài làm thơ; Nguyễn
Trung Ngạn tặng cho nàng ca kỹ tên là Thúy Tiêu. Thúy Tiêu tính thông tuệ,
tình cảm vợ chồng thật nồng thắm. Ngày mồng một Tết, Thúy Tiêu đến tháp
Báo Thiên thắp hương lễ Phật, bị kẻ quyền quý là Thân Trụ Quốc bắt cóc
đem đi. Nhuận Chi không biết kêu kiện ở cửa nào đành chỉ nhờ chim yểng
qua lại chuyển thư. Thúy Tiêu nhớ chồng phát ốm, định tự tử, Thân Trụ Quốc
bất đắc dĩ phải gọi Nhuận Chi đến, nhưng lại không cho hai người gặp mặt.
Dằng dai đến một năm, cuối cùng nhờ lão bộc trong đêm Trung thu cướp lại
được nàng đem về, vợ chồng mới được đoàn tụ.
Đà Giang dạ ẩm ký (Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang)
Trần Phế Đế đi săn, ban đêm căng trướng uống rượu ở bờ Bắc sông
Đà. Có hai người tự xưng là tú tài họ Viên, xử sĩ họ Hồ, ban đêm gõ cửa hành
cung nói muốn dâng lời can gián. Đế sai thái sư Hồ Quý Ly mời vào, lại rót
rượu cho uống. Trong tiệc, hai người cùng Hồ Quý Ly tranh cãi về ý nghĩa
của việc săn bắn theo thể chế xưa và cuộc săn ngày nay của Phế Đế. Thật là
một cuộc đấu lời đấu lý kịch liệt, cuối cùng Hồ Quý Ly đuối lý chịu thua. Nói
xong hai người ngâm thơ từ biệt. Quý Ly sai người theo gót tìm hiểu tung tích
thì thấy một hóa làm vượn, một hóa làm cáo mà đi mất.
QUYỂN IV
Nam xương nữ tử lục (Chuyện người con gái Nam Xương)
Vũ Thị Thiết nhà ở Nam Xương, chồng là Trương Sinh, Sinh tính đa
nghi. Sau khi kết hôn không lâu, Trương nhập ngũ, Vũ Nương đã có thai.
Trương Sinh trở về thì con đã bập bẹ học nói, một lần vô tình bé nói mình có
người cha khác “ban đêm mới đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi”, chỉ
không nói và chưa từng bế bé. Trương Sinh tin là thực, bức bách Vũ Nương
đến phải chết. Sau mới biết rằng người cha đó là cái bóng Vũ Nương trên
tường, nàng thường chỉ để dỗ con, bấy giờ hối hận thì không kịp nữa!…
Lý Tướng quân truyện (Chuyện Lý Tướng quân)
Lý Hữu Chi, người Đông Thành, có sức khỏe và giỏi chiến trận, được
Quốc công Đặng Tất tiến cử làm tướng đánh giặc, sau đó làm nhiều điều sai
trái. Có một thuật sĩ đưa cho Lý chùm hạt châu khiến ông ta nhìn qua đó mà
biết được sự báo ứng sau khi mình đã chết. Lý chẳng những không tin mà
còn bạo ngược hơn. Con trai là Thúc Khoản hết sức khuyên răn nhưng Lý
vẫn không nghe. Năm 40 tuổi, Lý chết ở nhà, ngoài đường người ta bàn tán.
Sau, Thúc Khoản có người bạn đã chết là Nguyễn Quỳ dẫn xuống xem địa
phủ, Thúc Khoản tận mắt thấy cha bị xét xử và chịu mọi hình phạt khốc liệt.
Lệ Nương truyện (Chuyện Lệ Nương)
Nguyễn Lệ Nương và Lý Phật Sinh được hứa hôn từ trong bụng mẹ;
khi lớn lên, họ thường cùng ngâm vịnh, cả hai đều yêu mến nhau. Không ngờ
Lệ Nương gặp họa Khát Chân phải vào cung làm nữ tỳ, mấy năm sau lại bị
tướng nhà Minh là Lã Nghị bắt đi. Nàng không chịu nhục đã tự tận. Phật Sinh
mấy lần theo tìm vợ không gặp, chỉ thấy mộ nàng; chàng đã kể sự tình trước
mộ, đêm ấy quả thấy Lệ Nương lững thững đi đến, hai người được một đêm
hoan ái. Mấy hôm sau, Phật Sinh cải táng cho Lệ Nương rồi ngậm ngùi ra đi,
sau chàng không lấy ai nữa.
Kim Hoa thi thoại ký (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa)
Phu nhân của quan giáo thụ họ Phù là Ngô Chi Lan giỏi thơ từ, được
Hoàng đế rất khen và yêu tài văn mặc. Khi mất mộ táng ở gò phía Tây. Chàng
thư sinh Mao Tử Biên đi qua Kim Hoa, ngủ nhờ một ngôi nhà cỏ, chủ nhân
chính là u hồn vợ chồng quan Giáo thụ họ Phù. Đêm, có một ông già đến
thăm, rất khen ngợi mấy bài thơ bốn mùa của nữ chủ nhân, lại cảm thán vì
người đời khinh bạc, khiến cho phu nhân phải chịu những lời gièm chê, bị bọn
người nông cạn bày đặt chuyện nhảm đến nỗi phải rơi lệ bày tỏ nỗi oan. Tử
Biên tỉnh dậy thấy mình nằm giữa hai ngôi mộ, mới biết ông lão chính là nhà
thơ tên tuổi Thái Thuận.
Dạ Xoa bộ soái lục (Chuyện tướng Dạ Xoa)
Cuối đời Trần Trùng Quang, chiến tranh khốc liệt, người chết chóc
nhiều, cô hồn lang thang khắp nơi nhiễu hại. Kẻ kỳ sĩ ở hạt Quốc Oai là Văn
Dĩ Thành tính tình hào hiệp, hiểu dụ bằng đại nghĩa, chúng quỷ tin phục, xin
chàng làm thủ lĩnh, lại hết sức tiến cử chàng với Diêm Vương, xin cho chàng
chức Tướng Dạ Xoa. Sau Dĩ Thành hiển linh gặp bạn cũ là Lê Ngộ, thuyết
giảng lý lẽ “phú quý không thể cầu, nghèo cùng cũng có mệnh”, lại dự báo
hạn lớn sắp tới và giúp bạn “chuyển hung thành cát”. Lê Ngộ cảm kích, lập
đền thờ bạn.
Tiết thứ tư
TIỂU KẾT
Nói chung, tác phẩm mô phỏng thường thường tăng trội tác phẩm được
mô phỏng, ví như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu gồm hơn 35000 từ thì Tiễn
đăng dư thoại của Lý Trinh nhiều hơn, đến hơn 45000 từ (đấy là chưa kể
truyện Giả Vân Hoa hoàn hồn ký, Kim Ngao thi thoại của Kim Thời Tập Hàn
Quốc chỉ còn 5 thiên, đã tới hơn 16000 từ, như vậy nếu “toàn thư” chắc sẽ
nhiều gấp hai Tân thoại. Nhưng ở Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì thiên
dài nhất là Tây viên kỳ ngộ ký cũng không dài hơn Thúy Thúy truyện của Tân
thoại, thiên ngắn nhất là Đà Giang dạ ẩm ký cũng không ngắn hơn Hoa đình
phùng cố nhân ký của Tân thoại, độ dài các thiên gọn gàng, tổng cộng hơn
37000 từ, rất gần với Tân thoại, chứng tỏ Nguyễn Dữ rất dụng tâm và biết tiết
chế trong xây dựng kết cấu truyện.
Ở Truyền kỳ mạn lục, cuối mỗi thiên truyện đều có một đoạn nghị luận
ngắn, đây là nội dung không có trong Tiễn đăng tân thoại, tác phẩm mà nó
phỏng tác. Nhưng cả sách chia làm 4 quyển (không có phụ lục), mỗi quyển có
5 truyện, các truyện hoặc đề là lục, ký hoặc truyện, về hình thức, không ngoài
các phạm trù của Tân thoại.
* Xét về tính chất các thiên truyện trong hai tác phẩm.
Trước đây có người đã chia Tiễn đăng tân thoại làm 6 loại:
1. Loại diễm tình: Kim phượng thoa ký, Liên Phượng lâu ký, Đằng Mục
túy dụ Tụ Cảnh viên ký, Vị Đường kỳ ngộ ký, Ái Khanh truyện, Thúy Thúy
truyện, Lục y nhân truyện, Thu Hương đình ký.
2. Loại tiên gia: Tam Sơn phúc địa chí, Thiên Thai phỏng ẩn lục, Giám
Hồ dạ phiếm ký.
3. Loại phật gia: Phú quý phát tích ty chí, Lệnh Hồ sinh minh mộng lục,
Tu văn xá nhân truyện.
4. Loại yêu ma: Vĩnh Châu dã miếu ký, Thái Hư Tư pháp truyện, Mẫu
đơn đăng ký.
5. Loại Long cung: Thủy cung khánh hội lục, Long Đường linh hội lục.
6. Loại vật quái: Thân Dương động ký, Hoa Đường phùng cố nhân ký.
Cách phân chia này tuy có điều chưa thỏa đáng nhưng cũng có thể
cung cấp để tham khảo. Như sự biểu hiện của bảng trên thì nội dung của Tân
thoại không ngoài chuyện son phấn, linh quái, trong đó quá nửa số truyện chủ
yếu là chuyện tình ái, không có những loại thịnh hành trong truyền kỳ đời
Đường là hào hiệp (còn gọi là kiếm hiệp, hiệp nghĩa). Ở Truyền kỳ mạn lục,
truyện ái tình cũng chiếm phần lớn số thiên, nội dung ghi chép phần nhiều là
những chuyện u linh và chuyện minh phủ quen thuộc… không có gì khác với
tiểu thuyết Trung Quốc”.
* Xét về quan hệ giữa các tình tiết của hai tác phẩm.
Dựa vào giới thiệu tóm tắt các truyện ở đoạn trên, chúng tôi phát hiện
thấy Nam Xương nữ tử lục, ở Truyền kỳ mạn lục quyển 4, sinh động ly kỳ,
khiến người ta vỗ tay tán thưởng; kết thúc tuy đã để nữ nhân vật sau khi chết
hiện về báo tin cho chồng, một việc “vẽ rắn thêm chân” theo khuôn sáo thông
tục, song không vì thế mà mất đi chủ ý sáng tạo của mình, so với các truyện
của Tân thoại, tịnh không thua kém vẻ đẹp mảy may! Còn như các truyện
khác, đọc lên có cảm giác quen quen nhưng nếu muốn chỉ ra xem nó giống
truyện nào của Tân thoại thì thật không dễ, bởi vì hai tác phẩm không quan
hệ “một đối một”. Nguyễn Dữ mượn ở Tân thoại rất nhiều chỗ nhưng luôn
luôn biến hóa và xếp đặt lại rất khéo léo khiến người ta không thể nhìn ra
nguyên dạng của nó.
Duy có một ngoại lệ là Mộc miên thụ truyện ở quyển I, cả truyện rõ ràng
là sự tái hiện nguyên bản Mẫu đơn đăng ký trong quyển II ở Tiễn đăng tân
thoại:
Mẫu đơn đăng ký
Kiều Sinh nhà ở dưới núi Trấn Minh…
thấy một a hoàn cầm cây đèn lồng
hình hai bông hoa mẫu đơn đi trước,
cô gái đẹp đi sau, tuổi chừng mười
Mộc Miên thụ truyện
Trình Trung Ngộ… đậu thuyền dưới
cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam
Xang. Dọc đường hay gặp một người
con gái xinh đẹp, từ thôn Đông đi ra,
bảy mười tám, quần hồng áo biếc,
yểu điệu thướt tha, theo chân nhau đi
về phía Tây. Đứng ngắm dưới trăng,
chàng thấy nàng trẻ trung, thật là bậc
quốc sắc.
đằng sau có một ả thị nữ theo hầu.
Chàng liếc mắc trông, thấy là một giai
nhân tuyệt sắc.
Chàng hỏi tên tuổi và chỗ ở, cô gái
nói:
- Em họ Phù, tên là Lệ Khanh, tên
chính là Thấu Phường, con gái Phán
quan châu Phụng Hóa trước kia. Cha
mẹ em đều mất cả, gia cảnh sa sút,
đã không có anh em lại ít bà con, chỉ
có một thân, cùng Kim Liên ở tạm
phía Tây hồ.
Kiều Sinh giữ nàng lại qua đêm…
Trời sáng, nàng từ biệt ra về, tối lại
đến, cứ như thế gần nửa tháng.
Chàng hỏi họ tên và nhà cửa. Nàng
chau mày nói:
- Thiếp họ Nhị tên Khanh, là cháu gái
của ông cụ Hối, một nhà danh giá
trong làng. Hai thân mất sớm, cảnh
nhà đơn hàn. Mới đây bị người chồng
ruồng bỏ, thiếp phải dời ra ở bên
ngoài luỹ làng..
Hai người bèn đưa nhau xuống dưới
thuyền…
Trời gần sáng, nàng từ biệt ra về, tối
lại đến, trải hơn một tháng.
Ông lão hàng xóm bảo:.. Chàng nghe
lời chỉ bảo… thấy một gian buồng tối,
trong buồng đặt quan tài của khách
qua đường, giấy trắng trên nắp ván
thiên, viết: “Quan tài Lệ Khanh, con
gái Phán quan họ Phù châu Phụng
Hoá trước kia”. Trước linh cữu treo
một chiếc đèn lồng hình hai bông hoa
mẫu đơn, dưới đèn có con hầu bằng
đồ mã, sau lưng đề hai chữ “Kim
Liên”. Kiều sinh thấy thế râu tóc dựng
ngược chạy bổ ra khỏi chùa, không
Có người biết chuyện bảo với Trung
Ngộ rằng:… Trung Ngộ khen phải…
thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc
giường mây nhỏ, trên giường để một
cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ
một tấm the hồng, dùng ngân sa đề
vào mấy chữ “Linh cữu của Nhị
Khanh”. Cạnh cữu có người con gái
nặn bằng đất tay ôm cây hồ cầm
đứng hầu.
Trung Ngộ thấy vậy, sởn gai dựng
tóc, tất tả nhảy choàng ra khỏi ngôi
dám ngoái lại. nhà ấy.
Ông hàng xóm thấy chàng không về
lấy làm lạ, tìm hỏi khắp nơi xa gần, tới
khi tìm đến căn phòng quàn linh cữu
trong chùa thì thấy vạt áo của Kiều
Sinh thò một mẩu ngoài áo quan. Ông
bèn xin với sư trụ trì mở ra thì Kiều
Sinh chết đã lâu…
Sư bèn cho chôn quan tài của cô gái
cùng Kiều Sinh ở ngoài cửa Tây.
Một đêm người trong thuyền ngủ say,
đến sáng thức dậy thì thấy mất Trung
Ngộ. Họ vội đến phía ngoài thôn
Đông tìm, thấy chàng đã ôm quan tài
mà chết, bèn phải thu liệm chôn ngay
ở đấy.
Từ đấy trở đi, ngày nào mây âm u,
đêm nào trăng mờ tối, thường thấy
Kiều Sinh cùng cô gái dắt nhau đi,
con hầu cầm đèn mẫu đơn đi trước
dẫn đường, ai gặp phải đều ốm nặng,
hết nóng lại rét. Nếu biết mà làm việc
công đức, cúng rượu thịt thì có thể
khỏi, bằng không thì ốm liệt giường.
Dân chúng sợ hãi.
Từ đó về sau phàm những đêm tối
trời, người ta thường thấy hai người
dắt tay nhau đi dạo, khi thì hát, khi thì
khóc. Hai người thường bắt người ta
phải khấn cầu lễ bái, hễ hơi không
được ưng ý thì làm tai làm vạ. Người
làng ấy không thể chịu được mọi khổ
hại.
Đạo nhân Thiết Quan… kết đàn
phương trượng, ngồi xếp bằng ngay
ngắn trên chiếu rồi vẽ bùa đem đốt…
Tức thì ba người khóc lóc dùng dằng,
bị tướng nhà trời vừa xua vừa lôi đi.
Đạo nhân phất tay áo trở lại núi. Hôm
sau dân chúng lên tạ ơn thì không
thấy đạo nhân đâu nữa.
Đạo nhân… vời họp người làng, lập
một đàn tràng cúng tế, viết ba đạo
bùa…
Kế nghe thấy trong không có tiếng roi
vọt và tiếng kêu khóc. Mọi người
ngẩng lên trông có sáu bảy trăm lính
đầu trâu gông trói hai người mà dẫn
đi.
Người làng đem rất nhiều tiền của để
tạ ơn vị đạo nhân, nhưng đạo nhân
phất áo đi vào non sâu, không lấy một
tí gì cả.
Ở Trung Quốc trong các sách thông tục đời Minh Thanh và các tập
vựng biên tiểu thuyết văn ngôn đều thu thập không bỏ sót Mẫu đơn đăng ký,
nhưng so sánh với tình hình cải biên viết lại rôm rả thành tạp kịch truyền kỳ,
tiểu thuyết bạch thoại đối với Tam Sơn phúc địa chí, Kim phượng Hoa ký,
Liên Phượng lâu ký, Vị Đường kỳ ngộ ký, Thúy Thúy truyện, Lục y nhân
truyện thì rõ ràng chưa được chú ý bằng. Nhưng ở ngoại quốc lại khác, Mẫu
đơn đăng ký đều được mọi người cùng ưa thích. Ở Việt Nam, trong Truyền
kỳ mạn lục, không chỉ một thiên Mộc miên thụ truyện được chế tác theo đúng
cách mà các truyện Xương Giang yêu quái lục, Đào thị nghiệp oan ký, Tây
viên kỳ ngộ ký cũng đều có điểm phỏng theo; ở Hàn Quốc, Vạn Thọ tự hu bồ
ký trong Kim Ngao tân thoại cũng chịu ảnh hưởng, Thái bình thông tải cũng
chép toàn văn. Đặc biệt là Nhật Bản, không những Kì dị tạp đàm tập, Già tì
tử, Anh thảo chỉ, Vũ nguyệt vật ngữ… không ngừng phiên dịch, mô phỏng,
mà ảnh hưởng còn rộng hơn đến cả giới hý kịch, điện ảnh, hầu như nhà nào
người nào cũng hiểu, cũng thích, thật là một hiện tượng hết sức thú vị!
Chương V. NGUỒN GỐC
T.S.Eliot nói rất đúng: “Bất kỳ nhà thơ hay nhà nghệ thuật nào, tự họ
đều không thể có ý nghĩa hoàn chỉnh. Giá trị của họ và đánh giá của người
đời về giá trị đó được định ra sau khi xem xét mối quan hệ giữa các giá trị đó
và nhà thơ hoặc nhà nghệ thuật đã qua đời. Không thể đánh giá họ một cách
cô lập, phải đặt họ vào các nhà văn đã quá cố để mà so sánh. Đối với tác giả
là như thế, đối với tác phẩm có thể nào không như thế chăng?
Mỗi thế hệ có văn học của thế hệ mình, song không có văn học một
thời đại nào có thể đứng độc lập ngoài truyền thống. Nó vừa khó thoát khỏi
ảnh hưởng của truyền thống đối với nó, đồng thời cũng ảnh hưởng tới văn
học của đời sau. Đó là lẽ thường của quá trình diễn tiến văn học. Tiễn đăng
tân thoại và Truyền kỳ mạn tất nhiên cũng không ra khỏi quĩ đạo này.
Vấn đề là, sự vay mượn về văn học không nên có tính tất nhiên lịch sử;
càng là tác gia thành công càng có thể thu nhận tư liệu ban đầu và linh cảm
về nhiều mặt để thi triển tài năng điểm sắt thành vàng. Trước Tiễn đăng tân
thoại bị coi là nhặt nhạnh trí tuệ của người khác nên bị vứt bỏ như giày rách.
Trong Trung Quốc văn học phát triển sử, tác giả Lưu Đại Kiệt viết: ”tiểu thuyết
theo thể truyền kỳ đời Đường như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu… thì ngay
ở thời ấy (tức đời Minh) đã mất đi tính quan trọng nên chỉ đành lược qua”.
Nhưng chúng ta không tránh khỏi nghi ngờ: có nhất định tiểu thuyết truyền kỳ
đời Minh đều là phiên bản của truyền kỳ đời Đường cả hay không? Cũng như
thế, nguồn gốc của Truyền kỳ mạn lục lẽ nào ngoài Tiễn đăng tân thoại không
có gì khác nữa chăng? Chân tướng của sự thật e rằng chỉ có thể được giải
đáp một khi trước hết hãy vứt bỏ thành kiến, trực tiếp đi tìm chứng cớ ở tư
liệu chứ không nên chỉ dựa vào trực giác mà lập thuyết mù quáng.
“Xác định vị trí chính xác của một tác phẩm trong truyền thống, đó là
bước công tác thứ nhất của văn học sử” và cũng là cơ sở quan trọng để so
sánh một cách khách quan mốì quan hệ giữa các tác phẩm và xem xét giá trị
thực sự của chúng.
Tiết thứ nhất
TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
A. VỀ CÁCH NÓI CHO LÀ MÔ PHỎNG, CHÍ QUÁI, TRUYỀN KỲ
Trong Tiễn đăng tân thoại, truyện Kim phượng thoa ký có tình tiết hồn
rời khỏi xác, tương tự truyện Thạch thị nữ (Con gái họ Thạch) trong tập U
minh lục; truyện Mẫu đơn đăng ký có con ma nữ trong quan tài, tương tự
truyện Chung Dao trong tập Sưu thần ký của Can Bảo; truyện Thân Dủơng
động ký có tình tiết khỉ bắt đàn bà tương tự truyện Hầu quyết trong tập Bác
vật chí của Trương Hoa; truyện Thúy Thúy truyện có tình tiết hai ngôi mộ phía
Đông và Tây tương tự truyện Hàn Bằng phu phụ trong tập Sưu thần ký, vì thế
nhiều người cho rằng đó là dấu vết Tiễn đăng tân thoại kế thừa chí quái đời
Lục triều.
Truyện duy nhất gọi được là bản mẫu cho sáng tác của Cù Hựu là Đào
hoa nguyên ký cũng có chép trong sách Sưu thần hậu ký và Đào Uyên Minh
tập. Truyện Thiên Thai phỏng ẩn lục của Cù Hựu chẳng những tương tự về
đề tài, kết cấu mà câu chữ cũng vay mượn nhiều. Chúng ta có thể thấy rõ
điều này trong biểu đối chiếu sau đây:
Đào hoa nguyên ký
Theo suối mà đi… bèn đến một
quả núi. Núi có hang nhỏ… mới vào
rất hẹp chỉ vừa người chui lọt; đi
chừng mấy chục bước, thì rộng rãi
hẳn ra. Đất đai bằng phẳng, nhà cửa
nghiễm nhiên. Có ruộng tốt, ao đẹp,
những loại tre, dâu, bờ luống thông
nhau, tiếng gà chó cùng nghe. Những
người đi lại, trồng cấy trong đó, quần
áo đàn ông đàn bà, hết thảy như
người ngoài hang.
Thiên thai phỏng ẩn lục
Theo suối mà đi, chừng một
dặm đến một cửa hang, cửa làm
bằng phiến đá lớn. Đi chừng mấy
chục bước thì rộng rãi hẳn ra. Có
khoảng bốn, năm chục nóc nhà, mũ
áo người dân giản dị, cổ xưa, tính
tình đôn hậu. Nhà bằng tranh, ruộng
cạnh núi, cửa tre, cánh liếp, chó sủa
gà gáy, dâu gai thấp thoáng, nghiễm
nhiên thành một thôn làng.
Gặp người đánh cá, ông này
kinh ngạc, hỏi từ đâu đến.
Thấy Dật đến, đều ngạc nhiên
hỏi:
- Khách là ai? Sao biết mà vào
được chốn này?
Các cụ đời trước tránh loạn
triều Tần, đưa vợ con, người làng vào
chốn xa lánh hẳn với bên ngoài này
rồi không ra nữa.
Năm Đức Hựu thì mang gia
đình chạy nạn đến đây. Còn những
người khác cũng đều là người tị nạn
lúc ấy cả. Năm tháng qua lâu, bèn ở
yên đây.
Hỏi: Chẳng biết ngày nay là triều
- Nay là đời nào? Đã không biết
có Hán, kể gì đến Ngụy, Tấn nữa!
đại, năm nào nữa… Chỉ biết đến
Tống, chẳng biết có nhà Nguyên, sao
biết được ngày nay đã là triều Đại
Minh?
Lúc trở ra, tìm thấy thuyền, bèn
men theo đường, chỗ nào cũng đánh
dấu. Tới quận, vào gặp Thái thú, kể
lại như thế. Thái thú lập tức cho
người đi theo người ấy, tìm đến
những nơi đánh dấu nhưng mờ mịt
không tìm thấy đường vào.
Dật ra khỏi núi, vung tay áo từ
biệt. Trên đường về, cứ mỗi mười
lăm bước, Dật lại cắm một cành tre
làm dấu. Về nhà được ít ngày, Dật lại
đem rượu ngon, thức nhắm, dắt bọn
gia đồng, hầu nhỏ trong nhà vào núi
thăm lại, nhưng chỉ thấy núi giăng
trùng điệp, không sao tìm thấy; cỏ
rậm cây cao, tuyệt vô tung tích!
Lâu nay, những truyện thường được coi là đối tượng mô phỏng của
Tiễn đăng tân thoại, lại chẳng phải là chí quái đời Lục triều mà là truyền kỳ
đời Đường, Tống. Người đầu tiên nêu thuyết này trong Lời tựa Tiễn đăng tân
thoại viết năm Hồng Vũ thứ mười ba là Lăng Vân Hàn:
Xưa kia Trần Hồng viết Trường hận truyện và Đông Thành lão phụ
truyện, người thời đó đã cho là có tài viết sử, ai nấy đều ngợi khen. Đến khi
đọc U quái lục của Ngưu Tăng Nhụ, Thanh tỏa tập của Lưu Phủ thì thấy đều
kể chuyện kỳ, chép việc lạ. Những chuyện đó có hay không bất tất bàn luận,
chỉ riêng thể tài sáng tác ra cũng rất khéo rồi. Cuốn Tiễn đăng tân thoại của
ông bạn cùng quê Cù Tông Cát chẳng tương tự như thế hay sao?
Chúng ta hãy điểm từ triều Tống trở đi. Lời bạt của Ngư Dương Sơn
Nhân cho sách Thanh tỏa cao nghị của Lưu Phủ nói:
Ấy là cuốn sách đi trước của Tiễn đăng tân thoại vậy.
Hồ Sĩ Oánh cho rằng:
Nội dung của cuốn sách này còn bảo lưu một số truyền kỳ của đời
Đường, là một dạng kết hợp giữa sử tài, thi bút và nghị luận. Xét về phong
cách và ngôn ngữ, nó phản ánh một giai đoạn khác của sự phát triển văn học
truyền kỳ, cho nên ông Ngư Dương họ Vương cho là cuốn sách đi trước của
Tiễn đăng tân thoại. Đó là một kiến giải có tính văn học sử.
Tuy nhiên cả hai ông đều không nói rõ hơn một bước ảnh hưởng xác
thực của Thanh tỏa cao nghị đối với Tiễn đăng tân thoại mà chỉ lập luận từ
quan điểm lịch sử phát triển của văn học. Thực ra, ngoài truyện Đằng Mục túy
du Tụ cảnh viên ký có thể chịu ảnh hưởng của Việt Nương ký (Việt Nương
báo mộng nhờ Dương Thuấn Du cải táng) trong Thanh tỏa cao nghị và rõ
ràng, có dùng lại điển này qua câu: “Chàng há lại không thấy câu chuyện của
Việt Nương hay sao?”, còn những truyện khác trong Tiễn đăng tân thoại
không có can hệ là bao.
Còn như các sách thuộc loại Thanh tỏa cao nghị như cuốn Lục song
tân thoại do Hoàng Đô Phong Nguyệt Chủ Nhân đời Nam Tông biên soạn, thì
Chu Di có chỉ ra truyện Vương Tử Cao ngộ Phù Dung Tiên trong sách trên là
tích truyện gốc của truyện Vị Đường kỳ ngộ ký nhưng sau khi xem xét kỹ,
chúng tôi thấy hai truyện đó chẳng liên can gì với nhau, thực là không đáng
tin.
Tiếp theo là điểm tới đời Đường. Lỗ Tấn từng cho biết: “Đề văn, ý cảnh
của Tiễn đăng tân thoại đều noi theo người đời Đường”. Người nghiên cứu đi
sau đều dựa theo đó mà trình bày và viện dẫn thí dụ để chứng minh thêm,
nhiều không sao kể hết. Trong số đó, Cận Đằng Xuân Hùng người Nhật là
người viện dẫn nhiều hơn cả, có thể nói là tập đại thành. Trong bài Tiễn đăng
tân thoại và tiểu thuyết đời Đường, ông nêu ra những truyện trong Tiễn đăng
tân thoại chịu ảnh nưởng của tiểu thuyết đời Đường gồm:
- Thủy cung khánh hội lục chịu ảnh hưởng của Liễu Nghị truyện và Tần
mộng ký.
- Kim phượng thoa ký chịu ảnh hưởng của Ly hồn ký và Chẩm trung ký.
- Liên Phương lâu ký chịu ảnh hưởng của Bản sự thi (truyện Nhạc
Xương).
- Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên ký chịu ảnh hưởng của Chu Tần hành
ký, Tam thủy tiểu độc (truyện Bộ phi yên), Lý Chương Vũ truyện.
- Thiên thai phỏng ẩn lục chịu ảnh hưởng của Chẩm trung ký, Đông
thành lão phụ truyện.
- Mẫu đơn đăng ký chịu ảnh hưởng của Linh quỷ chí (truyện Vương
Nguyên Chi), Hoắc Tiểu Ngọc truyện, Nhậm thị truyện.
- Vị Đường kỳ ngộ ký chịu ảnh hưởng của Oanh Oanh truyện, Bản sự
thi (truyện Thôi Hộ), Tam mộng ký.
- Ái Khanh truyện chịu ảnh hưởng của Lý Oa truyện, Đỗ Tử Xuân
truyện, Vô Song truyện, Lý Chương Vũ truyện.
- Thân Dương động ký chịu ảnh hưởng của Bổ Giang tổng bạch viên
truyện.
- Thúy Thúy truyện chịu ảnh hưởng của Liễu thị truyện, Bản sự thi
(truyện Nhạc Xương), cầu tu khách truyện, Vô Song truyện.
- Vị Đường kỳ ngộ ký chịu ảnh hưởng của Liễu Nghị truyện.
- Thái Hư tư pháp truyện chịu ảnh hưởng của cầu tu khách truyện.
- Tu văn xá nhân truyện chịu ảnh hưởng của Nhân hổ truyện.
- Giám Hồ dạ phiếm ký chịu ảnh hưởng của Lý Chương Vũ truyện,
Truyền kỳ (truyện Phong Trắc, truyện Bùi Hàng).
- Lục y nhân truyện chịu ảnh hưởng của Linh quỉ chí (truyện Vương
Nguyên Chi), Vô Song truyện.
- Thu Hương đình ký chịu ảnh hưởng của Oanh Oanh truyện, Tục
huyền quái lục (truyện Định hôn điếm), truyền kỳ (truyện Bùi Hàng, Côn Lôn
Nô), Liễu thị truyện, Vô Song truyện.
Với danh sách phong phú trên đây, ông Cận Đằng đã từ cấu trúc tình
tiết (như giữa Kim phượng thoa ký và Ly hồn ký, giữa Thân Dương động ký
và Bổ Giang tổng bạch viên truyện), hoặc từ câu chữ vay mượn (như “hồn
phách bay bổng, chàng không sao kiềm chế nổi, bèn bước theo nàng, lúc đón
trước, lúc theo sau” trong Mẫu đơn đăng ký với “Trịnh Tử thấy nàng thì vui
mừng kinh ngạc, vụt roi cho lừa lúc đón trước, lúc theo sau” trong Nhậm thị
truyện; như “Trong mấy ngày tới, Thái Châu có chuyện lạ thì đấy là lúc tôi
thắng kiện, hãy tưới rượu mà chúc mừng cho tôi” trong Thái Hư tư pháp
truyện với “Mười năm về sau, khi mấy ngàn dặm ngoài phía Đông Nam có
việc lạ, ấy là lúc tôi nên việc vậy. Nhất Muội và Lý Lang hãy tưới rượu về
hướng Đông Nam chúc mừng cho tôi” trong cầu tu khách truyện), để chỉ ra
mối quan hệ giữa truyện này và truyện kia, không phải là không có lý. Nhưng
ở nhiều chỗ khác, ông chỉ dựa vào sự xuất hiện của điển cố giống nhau (như
“Tấm gương Lạc Xương sợ rằng từ đây phải chia lìa”, như “Mộng tỉnh kê
vàng chín” trong Thiên Thai phỏng ẩn lục, như “Thượng Nguyên xuống trần
lấy Phong Trắc, Vân Anh gặp Bùi Hàng” trong Giám Hồ dạ phiếm ký) mà đã
nói ngay rằng Tiễn đăng tân thoại chịu ảnh hưởng sâu sắc” tiểu thuyết của
người đời Đường thì không khỏi có phần quá đáng.
Sách Tây Hồ du lãm chí dư có viết:
Đàn ông, đàn bà bị mù ở Hàng Châu phần nhiều học đàn tì bà, bình
thoại để kiếm áo cơm, được gọi là “đào chân''. Đại để họ kể chuyện đời Tống,
đấy là phong tục còn sót lại của Biện Kinh vậy. Bài thơ Quá Biện Lương (Qua
Biện Lương) của Cù Tông Cát như sau:
Ca vũ lâu đài sự khả khoa,
Tích niên tằng thử thiện hào hoa.
Thượng dư Cấn Nhạc bài thương hạo,
Na đắc thần tiêu cách tử hà?
Phế uyển thảo hoang kham mục mã,
Trường câu liễu bão bất tàng nha.
Đầu đầu manh nữ vô sầu hận
Năng bát tì bà thuyết Triệu gia.
(Khoe chuyện lâu đài chốn múa ca,
Năm xưa từng tới trổ hào hoa.
Nếu còn Cấn Nhạc bày trời biếc,
Sao được mây thần cách ráng xa?
Cỏ rậm vườn hoang chăn được ngựa,
Liễu già ngòi hẹp quạ bay qua.
Gái mù ai nấy không sầu hận,
Đàn gảy cho nghe chuyện Triệu gia).
Phong tục ấy hầu như không khác gì Hàng Châu. Còn như những
truyện Hồng Liên, Liễu Thúy, Tế điên, Lôi Phong tháp, Song ngư phiến trụy
v.v… đều là chuyện lạ ở Hàng Châu hoặc là chuyện do người gần đây nghĩ
ra”.
Tư liệu trên cho thấy đương thời Cù Hựu đã có dịp nghe người kể
chuyện nơi mình ở hoặc trong những chuyến lữ du mà biết được rất nhiều
chuyện đời xưa như thoại bản đời Tống, Nguyên mà ngày nay còn giữ được.
Ông lại từng biên soạn “những truyện kỳ quái xưa nay” để thành tập Tiền
đăng lục dầy đến hơn bốn chục quyển, trong số đó hiện còn sót lại ba quyển
dưới đề Hương đài tập mà ngoài sử, truyện ra, còn thấy sách được trích dẫn
có Liệt tiên truyện, Thập di ký, Truyền kỳ, Thái bình quảng ký v.v… Với những
sách như thế, có thể suy đoán Cù Hựu đã hiểu biết tới trình độ đáng kể về chí
quái, truyền kỳ, cho nên khi sáng tác Tiễn đăng tân thoại, truyện của ông rất ít
khi mô phỏng cả thiên như Thiên Thai phỏng ẩn lục với Đào hoa nguyên ký,
mà phần nhiều hấp thụ “chất dinh dưỡng” từ tiểu thuyết Tấn, Đường rồi thoát
thai hoán cốt mà thành ra truyện. Những dẫn chứng phong phú của Cận
Đằng Xuân Hùng vừa hay là lời thuyết minh rất khéo cho hiện tượng này.
Văn học là do tiến hóa mà có. Tiễn đăng tân thoại với địa vị là cây cầu
“nối tiếp người trước, gợi mở người sau” trong tiểu thuyết văn ngôn Trung
Quốc, tất nhiên có việc kế thừa chí quái đời Ngụy, Tấn, truyền kỳ đời Tống,
Đường mà để lộ ra một số dấu vết mô phỏng nào đó, điểm này chúng ta có
cố ý che giấu cũng không được. Song, nếu không xét rõ nguồn gốc thực sự
những tư liệu ban đầu để sáng tác cùng khả năng tiêu hóa tư liệu của ông mà
chỉ từ góc độ na ná hoặc từ những chỗ không mấy liên quan để phê bình Tiễn
đăng tân thoại là “một mực mô phỏng người đời Đường thì đó là cách nói
không công bằng, đáng được trao đổi lại.
B. VỀ CHỨNG CỚ BẮT NGUỒN TỪ THƠ VĂN, TRUYỆN KÝ
Ở tiểu thuyết thời kỳ trước, bao giờ cũng có tình tiết để lại trong tiểu
thuyết thời kỳ sau, nhưng nếu chỉ tìm nguồn gốc Tiễn đăng tân thoại trong chí
quái đời triều và truyền kỳ đời Đường, Tống không thôi mà bỏ qua các thể
loại khác thì không tránh khỏi thiếu sót là thiên lệch và khiên cưỡng. Đặc biệt
là khi tác giả của tiểu thuyết văn ngôn đều xuất thân từ văn nhân, họ thường
đọc rất nhiều thi thư, kinh luân một bụng. Một khi họ có ý sáng tác tiểu thuyết,
những thơ văn đó sẽ kích thích linh cảm của họ, tuyệt đối không chỉ giới hạn
trong các truyện sẵn có. Có được nhận định như thế, lại trải qua quá trình thu
nhặt chứng cứ rộng rãi thì chúng ta hẳn có nhiều phát hiện mới mẻ.
Truyện Vị Đường kỳ ngộ ký trong Tiễn đăng tân thoại chẳng những cho
biết: “(Vương sinh) bắt chước thể thơ Nguyên Chẩn, làm bài Hội chân thi gồm
ba mươi vần”; trước đó cũng nói thơ của tác giả khuyết danh” bắt chước Bài
từ bốn mùa của Đông Pha”. Truyện Liên Phựơng lâu ký cũng nói hai chị em
họ Tiết vì không chịu kém Dương Duy Trinh với Khúc Trúc chi ở Tây Hồ, bèn
“phỏng theo thể đó làm mười chương Khúc Trúc chi ở Tô Đài”. Bất kể những
thơ, từ ấy có phải do chính Cù Hựu sáng tác hay không thì gốc gác từ thơ
văn đã đủ rõ rồi.
Tông Cát rất yêu thơ, hẳn ông đã đọc thi thoại các đời. Từ Hương đài
tập đến truyện Giạm Hồ dạ phiếm ký, rồi đến Quy điền thi thoại, ông đều có
lời biện giải lại về tác giả của Hậu Thổ truyện v.v…, mà ý kiến của ông thì
thực là lấy từ Hận thôn thi thoại của Lưu Khắc Trang, Hậu sơn thi thoại của
Trần Sư Đạo, Hậu sơn thi thoại biện giải về bài Cao Đường phú có nói:
Tôi bảo rằng các trời trong dục giới đương nhiên có đôi; nếu không có
đôi thì không có dục vọng nữa rồi.
Mấy câu trên tuy bị Thanh Hà Văn Hoán mắng là “Bậy quá!”, nhưng
Tông Cát lại lấy làm thú vị, dường như bê nguyên xi câu đó vào trong truyện
Giám Hồ dạ phiếm ký:
Phàm các trời trong dục giới đều có đôi cả; nếu không có đôi là do
không có dục vọng nữa.
Lại như truyện Thủy cung khánh hội lục mở đầu cho Tiễn đăng tân
thoại, nếu bảo truyện này mô phỏng Liễu Nghị truyện hoặc Tần mộng ký, thì
không bằng nói đó là phiên bản truyện Miết tướng công của Tô Đông Pha,
như thế xác đáng hơn. Niên hiệu Chiêu Hòa thứ năm (1930), Cửu Bảo Thiên
Tùy từng chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa hai truyện vừa nêu, song chưa
được coi trọng. Mà trước Cửu Bảo đến mấy trăm năm, khoảng năm Thiên
Thuận đời vua Anh Tông nhà Minh (1457-1464), mục Miết tướng công trong
tập Đàm tinh tuấn (Thịt con tinh mọt sách, vải), quyển 3 của Từ Bá Linh đã
viết:
Đông Pha nói… Thủy cung khánh hội lục trong Tiễn đăng tân thoại của
Cù Tồn Trai bắt nguồn từ đây.
Lời Đông Pha mà Bá Linh trích dẫn cũng thấy trong Thi thoại loại biên
của Vương Xương Hội đời Minh và Tống bái loại sao của Phan Vĩnh Nhân,
song cả ba sách đều không nói rõ điển này xuất xứ từ đâu. Hơn nữa, tình
trạng văn tự thêm bớt ngoa truyền nghiêm trọng, cuốn sách ghi chép sớm
nhất cái gọi là Miết tướng công và có nói rõ xuất xứ chính từ cuốn Thiều Khê
Ngư Ẩn tùng thoại do Tống Hồ Tử biên soạn:
Sách Cừu Trì bút ký ghi: “Một hôm ta say nằm, có kẻ đầu cá mình quỷ
từ biển đi lên, bảo: “Quảng Lợi vương có lời mời Đoan Minh”. Ta mặc áo vải,
mang dép cỏ, đội mũ vàng mà đi, cũng không biết mình đã đi xuống nước, chỉ
nghe có tiếng gió, tiếng sấm. Lát sau, thấy rộng rãi sáng bừng, thật đúng là
thủy tinh cung điện vậy. Bên dưới nào dạ quang như mặt trời đen, ngọc bích
dài hàng thước như sừng tê vân, nào châu báu vàng ròng phương Nam,
không sao ngửa trông cho hết. Còn như san hô, hổ phách thì không biết bao
nhiêu mà kể. Quảng Lợi vương đeo gươm, mặc áo đội mũ đi ra, theo sau có
hai người hầu mặc áo xanh. Ta nói: “Người khách bị đuổi khỏi biển này phiền
ngài cho mời đến”. Lát sau, Đông Hoa chân nhân, Nam Minh phu nhân cũng
tới, đưa lụa giao dài hơn trượng bảo ta đề thơ. Ta làm thơ rằng:
Đất trời mênh mông thật,
Chỉ biển là lớn thôi.
Thánh vương đều thờ cúng,
Hà Bá ngôi tót vời.
Chúc Dung là dị hiệu,
Trăm quái tụ một nơi.
Lưu quang do nhị khí,
Vạn dặm gió mây trôi.
Cờ thiêng vẫy cờ lớn,
Rồng đỏ phun sóng trồi.
Lầu ngọc hoàng ngay cạnh,
Thế giới ánh đỏ soi.
Nếu được nguyệt châu sáng.
Đền nợ đuổi khách tôi.
Thơ viết xong, dâng lên Quảng Lợi Vương. Các tiên đón lấy xem, ai
cũng khen hay. Chỉ riêng một kẻ đội mũ gài trâm đứng bên cạnh Quảng Lợi
Vương, gọi là Miết tướng công thì tiến lên thưa: “Tô Thức không tránh tên
húy, chữ Chúc Dung phạm húy của vương!”. Vương cả giận, ta lui ra than
rằng: “Đến đâu cũng bị tướng công này hãm hại”.
Thiều Khê Ngư Ẩn còn tỏ ý nghi ngờ về tác giả:
Việc này mơ hồ quái đản, đại loại như các chuyện chép trong truyền kỳ,
dị văn. Lời thơ lại nông cạn, không phải lời lẽ thường ngày của Đông Pha.
Ngờ là kẻ hiếu sự làm ra rồi gán tên Đông Pha vào.
Nay chúng tôi tra các bản Cừu Trì bút ký trong Tứ khố toàn thư, Thuyết
phu, Ngũ triều tiểu thuyết đại quan, Long uy bí thư, đều không thấy đoạn văn
này, nhưng từ Hương đài tập, chúng ta có thể xác định Cù Hựu đã từng đọc
Ngư Ẩn tùng thoại, cho nên chỉ cần đem Thủy cung khánh hội lục ra so sánh,
là có thể phát hiện: mặc dù Cù Hựu có ý đề cao địa vị của văn sĩ, sắp đặt một
kết cục tốt đẹp cho Dư Thiện Văn, mức thú vị khác hẳn nguyên tác nhưng
tình tiết “Quảng Lợi vương mời xuống thuỷ phủ”, rồi “ba vị thần biển Đông,
Tây, Bắc” cùng lúc tới dự tiệc, cách viết cho Dư Thiện Văn vâng mệnh làm bài
văn cất nóc có câu: “Cúi nghe, giữa chốn đất trời, biển là lớn nhất…”, rồi chi
tiết “có một người theo hầu đội mũ, râu dài, gọi là Xích Huy công nhảy ra
trước mặt Quảng Lợi vương” toan ngáng trở, đều cho thấy Cù Hựu quả có
vay mượn mô phỏng bút ký này. Lời Từ Bá Linh nói quả rất đúng.
Tuy nhiên thuyết của Từ Bá Linh vẫn cần bổ sung, bởi vì không những
Thuỷ cung khánh hội lục bắt nguồn từ Miết tướng công mà Long đường linh
hội lục (Q.4, Tiễn đăng tân thoại) cũng kể sau khi đề thơ miếu Long vương ở
Ngô Giang, văn nhân Tử Thuật trở về thuyền, nằm ngủ dưới mui bồng:
Bỗng có tên quỷ mình người đầu cá từ miếu đi ra, thi lễ trước mặt rồi
nói: - Long vương có lời mời ngài.
Tử Thuật nhận lời mời, nhắm mắt lại:
Chỉ nghe bên tai tiếng nước vỗ, một lúc sau thì im, mở mắt ra đã thấy
đền đài nguy nga, nghi vệ la liệt, ánh sáng lóa mắt, không thể nhìn thẳng, thật
đúng là Thủy tinh cung.
Long vương nói cho tân khách biết việc Tử Thuật đề thơ:
Ai nấy truyền tay nhau xem, khen không ngớt lời.
Cuối cùng Tử Thuật làm một thiên trường đoản cú dâng lên bàn tiệc,
cuối bài có câu:
Chỉ viết câu thơ trên lụa giao,
Lưu long cung chuyện lạ cùng cực.
Những chỗ vừa nêu chứng tỏ truyện Long đường linh hội lục có phỏng
theo Miết tướng công.
Từ Bá Linh cùng quê với Tông Cát, Đàm tinh tuấn gồm 16 quyển của
ông có đến 22, 23 chỗ ghi chép về Tồn Trai, có giá trị tham khảo rất cao cho
việc tìm hiểu về cuộc đời Cù Hựu, cũng như việc sưu tầm, biện chứng về tác
phẩm của họ Cù, tiếc rằng không có mấy người biết đến. Ở Đàn Phạm Lãi
văn, Từ Bá Linh có nhắc tới nguồn gốc của Long đường linh hội lục:
Người làm Đàn Phạm Lãi văn có nói rằng: “Oán hận bạn bè, Tả Khâu
Minh coi đó là điều sỉ nhục; không phải ma nhà mình mà tế lễ, thánh nhân ắt
khiển trách… Ba người nổi tiếng nhất ở Ngô Giang là Phạm Lãi nước Việt,
Trương Quy ưng đời Tấn, Lục Lỗ Vọng đời Đường. Khảo sát về niên đại thì
cách nhau rất xa; xét về danh tiết thì khác nhau rất lớn. Xét xem Phạm Lãi, ở
nước Việt là mưu thần, ở nước Ngô là kẻ địch; đem lợi dụ dỗ Thái tể Phỉ mà
đánh tháo được Câu Tiễn nước hắn, lại lấy lợi nhử Công Tôn Hàng mà diệt
được Phù Sai nước ta… “Cười bấy Ngô ngây quên hận Việt, Còn khen Phạm
Lãi đáng tam cao!”, lời cười chê trên đây của Lưu Thanh Hiên thật sâu sắc.
“Ngàn năm nhà, nước vô cùng hận, Chỉ đáng bên sông cúng Tử Tư”, lời chế
nhạo đó của Hoàng Đông Phố cũng không nông cạn. Đắc tội nơi danh thắng,
dù chỉ kém trăng thôi cũng khó sáng thêm. Chẳng những công luận được bày
tỏ rộng ra mà phong giáo cũng được giúp ích không nhỏ”. Thoại Du bình luận
rằng: “Lời lẽ ấy tuy gần như hà khắc nhưng vẫn giữ được điều nghị luận lớn”.
Long đường linh hội lục trong Tiễn đăng tân thoại bắt nguồn từ đây.
Tác giả của Đàn Phạm Lãi văn có thể là bạn của người bình Thoại Du,
còn câu “Long đường linh hội lục trong Tiễn đăng tân thoại bắt nguồn từ đây”
là cách nhìn nhận của một mình Từ Bá Linh. Nhưng sau khi so sánh kỹ
lưỡng, chúng tôi thấy mối liên hệ giữa Long đường linh hội và Đàn Phạm Lãi
văn chẳng có bao nhiêu, như vậy thuyết của Từ Bá Linh chưa đáng tin.
Mục Đình Tam Cao trong Quy điền thi thoại, tác phẩm cuối đời của Cù
Hựu có nói:
Đình Tam Cao ở Ngô Giang thờ Phạm Lãi nước Việt, Trương Luân đời
Tấn và Lục Quy Mông đời Đường. Có người đề một bài thơ trên đình rằng:
Nhân tiếu Ngô si tín bất nghi,
Truy sùng Việt tướng quả hà như?
Thiên niênn gia quốc vô cùng hận,
Chỉ hợp giang biên tự Tử Tư.
(Cười bấy Ngô ngây đúng chẳng ngờ,
Tôn thờ Việt tướng thật ngu ngơ.
Ngàn năm nhà, nước vô cùng hận,
Chỉ đáng bên sông cúng Tử Tư).
Từ đó người đi qua thẩy đều gác bút.
So với những điều ghi chép ở Đàn Phạm Lãi văn, nội dung trên đây có
chỗ kỹ càng, sơ lược khác nhau: câu thơ mà Đàn Phạm Lãi văn dẫn ra có ghi
tên họ tác giả hẳn hoi, còn Đình Tam Cao tuy dẫn ra cả bài thơ nhưng lại
không biết tác giả là ai. Do vậy, có nhiều khả năng Cù Hựu không đọc Đàn
Phạm Lãi văn và Long đường linh hội lục bắt nguồn từ một tư liệu khác
chăng?
Người viết sách này có tìm được thiên Quán Oa cung phú trong sách
Nam Tông văn phạm của Vương Nguyễn và tin rằng đó chính là một tư liệu
tham khảo khác về Long đường linh hội lục ngoài tư liệu Miết tướng công. Bài
phú này khá dài, chỉ trích ba đoạn để đối chứng như sau:
Quán Oa cung phú
Thả Phù Ngọc tới Bắc Đường,
đến nền cũ cung Quán Oa.
Long đường linh hội lục
Cưỡi Dư Hoàng thuyền dài chừ,
chơi Cối Kê đô cũ nước Ngô.
Chỉ tự rạch xương cốt mình, Nước Ngô bại vong không phải
buông thả lòng cho một nữ. Địch bèn
thừa cơ, không gì chống cự. Mất một
chén rượu, há đáng hỏi ư? Việc giết
kẻ sĩ nước này, riêng đáng tiếc chứ!
Kẻ sĩ không bị giết, Phù Sai không
đáng ngu. Cô gái Trữ La chỉ đủ làm
vui vua Ngô, há sáng vừa được, đã
trộm binh phù? Cột mái hoa lệ cho
nhà ta đủ điểm tô, sao đủ làm tan cả
kinh đô? Chỉ trung thần đem giết bỏ,
mới điên cuồng mà tha hồ.
Đài chừ Cô Tô, thuyền chừ
Ngũ Hồ… Không ai chừ khuyên nhủ.
Có thù chừ nhòm nhỏ. Chí Đức miếu
đền thành bãi lúa thử.
do Tây Thi được nạp vào cung; Nước
Việt trở thành bá chủ không phải nhờ
Văn Chủng. Phạm Lãi được dùng là
vì ta bị giết. Nếu ta không chết thì cô
gái Trữ La chỉ đủ làm vui cho hậu
cung; cột, mái hoa lệ chỉ đủ điểm tô
cho điện trước. Đài Cô Tô, hươu
hoẵng nào dám nhởn nhơ; miếu Chí
Đức, lúa má nào dám mọc tốt? Chỉ là
bởi tự bẻ xương cốt, tự hại chân tay.
Cho nên kẻ thù mới được dịp thừa
cơ, nước địch mới tìm được kẽ hở.
Trộm nghĩ Chủng, Lãi đều đáng
trách mắng! Câu Tiễn sáng suốt lại,
cả nước đã nghe theo. Mười năm tích
tụ, mười năm dạy dỗ, lấy số đông đó
mà đánh, trận nào không thắng? Sao
đến nỗi phải mượn con gái kẻ cõng
củi, làm cuộc thắng đáng nhục đó?
Xưa Câu Tiễn dốc chí phục thù,
nằm gai nếm mật; mười năm tích tụ,
mười năm dạy dỗ. Như thế mà ra trận
thì ai còn chống cự được? Làm sao
phải đến nỗi mượn con gái kẻ cõng
củi, làm cái chuyện dạy dâm? Nghĩ ra
kế thô bỉ đó mà không thấy ngượng
sao?
Những điều nêu trên đều là dẫn chứng rõ rệt cho thấy Cù Hựu lấy tư
liệu từ thơ văn để làm tư liệu ban đầu cho sáng tác. Nếu chúng ta thu thập
toàn diện hơn nữa thì không chừng còn có thu hoạch mới hơn.
C. VỀ GHI CHÉP TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN ĐỊA PHƯƠNG
“Tôi đã biên tập những chuyện quái dị cổ kim, lấy đề là Tiễn đăng lục
gồm 40 quyển, những kẻ hiếu sự thường đem những chuyện gần như thế kể
cho nghe, xa không quá trăm năm, gần chỉ cách vài năm… bèn cầm bút làm
văn mà ghi lại”. Đoạn bộc bạch mở đầu bài tựa của mình, Cù Hựu đã cho
chúng ta biết, nội dung Tiễn đăng tân thoại có nhiều phần là ghi chép từ
truyền thuyết dân gian địa phương giữa đời Nguyên và Minh.
Lục y nhân truyện ở quyển 4 là một chứng cớ rõ rệt nhất. Tác giả mượn
lời hồn ma cô gái áo xanh, thấp thoáng kể năm mẩu “chuyện cũ Thu Hác”;
năm mẩu này chỉ là truyền thuyết của thừa tướng nước Tống là Giả Tự Đạo,
truyện gốc không thấy chép nhưng truyền thuyết vẫn lưu truyền trong dân
gian:
Một hôm Thu Hác tựa lầu ngắm cảnh, các nàng thiếp đều đến hầu. Vừa
lúc đó có hai người áo trắng, khăn đen đi thuyền nhỏ từ hồ lên bờ. Một nàng
nói:
- Đẹp thay hai chàng trẻ tuổi!
Thu Hác hỏi:
- Người có muốn lấy hắn không? Ta sẽ bảo hắn nạp sính lễ!
Nàng thiếp kia cười không đáp. Lát sau, sai người mang một cái quả
đến, Thu Hác gọi các nàng thiếp khác đến trước mặt bảo:
- Ta vừa bảo nạp sính lễ cho nàng kia đấy!
Mở ra coi, hóa ra đầu lâu của nàng nọ, các nàng thiếp đều khiếp sợ lui
ra.
Chúng tôi cũng thấy sách Tiền Đường di sự quyển 5 của Lưu Nhất
Thanh đời Nguyên có chép Giả tướng chi ngược; Tây Hồ du lãm chí dư
quyển 5 của Điền Nhữ Thành đời Minh cũng chép Nịnh hãnh bàn hoang, chữ
nghĩa có khác đôi chút so với đoạn trích trên đây.
Mẩu chuyện thứ hai:
Thu Hác lại từng cho mấy trăm thuyền chở muối lên bán ở đô thị. Có
người học trong nhà Thái học làm thơ rằng:
Sóng xanh đêm trước nổi đầu sông,
Chở nặng đầy thuyền muối tướng công,
Vẫn biết nêm canh cần đến muối,
Muối nhiều đến thế hẳn không dùng.
Thu Hác nghe tin bèn bắt kẻ sĩ kia bỏ vào ngục, khép vào tội phỉ báng.
Mẩu chuyện này còn thấy ở Đông Nam kỷ văn, quyển 1, của khuyết
danh đời Nguyên. “Có người đọc trong nhà Thái học” thì ở đây là “có kẻ vô
danh”, còn bài thơ là:
Ngàn vạn thuyền ghe kín Vận Hà,
Khác nhau ấy muối tướng công ta.
Tướng công tuy chức điều canh đấy,
Đều nói dùng đâu lắm thế mà!
Chúng tôi cũng còn thấy chép trong Nịnh hãnh bàn hoang sách Tây Hồ
du lãm chí dư quyển 5 của Điền Nhữ Thành, trong Khôi hài sách Thi thoại loại
biên, quyển 27 của Vương Xương Hội đời Minh, trong Để hủy sách Tống bái
loại sao quyển 6 của Phan Vĩnh Nhân đời Thanh. Trong những bản này, chữ
đô thị được thay bằng Lâm An, chữ dũng (cuộn dâng) trong thơ được thay
bằng trưởng (nổi). Chúng tôi lại còn thấy chép trong Bắc song tỏa thoại của
Dư Vĩnh Lân đời Minh, trong đó có chữ đô thị được thay bằng Ngô Hạ, còn
bài thơ thì không khác.
Mẩu chuyện thứ ba:
Thu Hác còn thi hành phép công điền ở Chiết Tây, dân chịu bao nhiêu
nỗi khổ. Có người đề thơ ở bên trái đường đi rằng:
Tương Dương bị hãm đã bao xuân,
Tĩnh dưỡng sông hồ chẳng xuất quân.
Nào biết yết hầu hình thế đất,
Công điền chỉ tự hại muôn dân.
Thu Hác trông thấy, bắt được người đề thơ, sung quân đầy đi xa.
Mẩu chuyện này còn thấy trong Giả tướng chi ngược sách Tiền Đường
di sự quyển 5 của Lưu Nhất Thanh đời Nguyên, chữ tuế trong bài thơ được
thay bằng tải (năm), thương sinh thay bằng sinh linh.
Mẩu chuyện thứ tư:
Thu Hác từng đãi cơm chay 1000 đạo sĩ. Khi đã đủ số thì cuối hàng có
một đạo sĩ quần áo lam lũ đến xin cơm. Người coi cửa thấy đã đủ số, không
cho vào. Đạo sĩ cố nài, không chịu đi, bất đắc dĩ phải cho người ấy ăn cơm ở
cạnh cổng. Ăn xong, đạo sĩ úp bát lên bàn bỏ đi, nhiều người cố sức lật bát
lên mà không sao lật được. Báo cho Thu Hác, hắn tự ra lật lên, thấy dưới bát
có hai câu thơ:
Tới lúc thôi rồi chẳng mấy xa,
Chương Châu kết hạt lại thu hoa.
Bấy giờ mới biết chân tiên giáng lâm mà không nhận ra, nhưng rốt cuộc
không hiểu Chương Châu là ý làm sao. Than ôi, ai ngờ sau này hắn gặp tai
ách ngay ở am Mộc Miên tại Chương Châu.
Mẩu chuyện này còn thấy trong sách Tạc Phi am nhật soạn quyển 8
của Trịnh Viên đời Minh, Chương Châu trong thơ được đổi thành Miên Châu;
còn thấy trong Khôi hài, sách Thi thoại loại biên quyển 27, trong đó, đạo sĩ
được thay bằng người đàn bà, Chương Châu cũng được thay bằng Miên
Châu nhưng tình tiết ly kỳ thú vị hơn.
Mẩu chuyện thứ năm:
Lại từng có người lái đò đậu thuyền cạnh đê Tô Thức. Bấy giờ trời nóng
dữ, người ấy nằm ở cuối thuyền, suốt đêm không ngủ được, chợt thấy ba
người cao không quá một thước ta, họp nhau ở rìa bãi cát. Một người nói:
- Ông Trương đến đấy, biết làm sao bây giờ?
Một người nói:
- Quan Bình chương họ Giả chẳng phải người nhân, quyết không thể
tha được!
Một người nói:
- Tôi thì đã xong rồi, các ông còn kịp thấy ngày bại vong của hắn.
Rồi họ cùng khóc mà lặn xuống nước. Ngày hôm sau, người đánh cá
họ Trương bắt được một con ba ba, mai rộng đến hơn hai thước ta, nộp vào
trong phủ. Chưa đầy ba năm sau thì họ Giả gặp tai họa. Thế là giống vật cũng
đã biết trước, đã là số mệnh thì không thể thoát.
Mẩu chuyện này còn thấy trong Tây Hồ chí (Có dẫn ở quyển 441 bộ
Uyên giám loại hàm), câu chữ có hơi khác.
Năm mẩu chuyện xen kẽ nêu trên đây tuy đạt được hiệu quả tô đậm
hành vi bạo ngược và ra oai quá mức của Giả Tự Đạo nhưng thực không
phải chủ ý chính của toàn bộ Lục y nhân truyện. Tông Cát bỏ ra hơn nửa
truyện để phô trương điều đó, áng chừng vì sưu tập được bấy nhiêu truyền
thuyết dân gian nên không nỡ cắt bỏ, vì thế cố nhét tất cả vào. Không thể
không nói đây là “bại bút” của tác giả.
Ngoài ra, những truyện Liên Phương lâu ký quyển 1, Thuý Thuý truyện,
quyển 3, Giám Hồ dạ phiếm ký quyển 4 đều mang sắc thái văn học dân gian
rất đậm. Nếu chỉ chuyển chép từ Lịch triều thi tập, Bản sự thi, Cung vi văn
tuyển và Tình sử thì sẽ nhận định truyện Liên Phương lâu ký lấy tư liệu từ
“những chuyện ngõ xóm đương thời”, như thế cố nhiên có chút đảo lộn đầu
đuôi. Bởi cuối truyện có nói: “Lúc bấy giờ Trịnh sinh hai mươi hai, cô lớn hai
mươi, cô út mười tám. Người ở Ngô quận phần nhiều đều biết chuyện, truyền
cho nhau nghe và ghi chép lại” nên có thể coi là lời tự chứng minh của tác
giả.
Về Thúy Thúy truyện, tác giả từng nói rõ “Đến nay người đi qua còn chỉ
tay nói là mộ của chàng Kim và nàng Thúy Thúy”. Tế Nam Viên đời Thanh có
nói từng thu nhặt chuyện cùng đề tài để viết nên truyền kỳ Lĩnh đầu thư, lời tự
tựa cũng nói:
Đích thân đến núi Đạo Tràng, người địa phương còn chỉ được nơi chốn
chàng Kim và Thúy Thúy. Đến khi qua Hoài Âm, người già cả truyền nhau nói
cho nghe, lời họ kể kỹ lưỡng hơn.
Có thể thấy câu chuyện tình cảm động này từng từ Hồ Châu ở Chiết
Giang truyền trở lại quê Lưu Thuý Thuý ở Hoài An tỉnh Giang Tô. Cho nên
Khúc hải tổng mục đề yếu nói: “Quả có chuyện này thật, không còn phải ngờ”.
Giám Hồ dạ phiếm ký tuy là tác phẩm Cù Hựu để tâm “lật lại bản án”
cho Chức Nữ, phần hư cấu khá nhiều, có điều khi chúng ta thấy câu chuyện
Ngưu Lang, Chức Nữ mà ai ai cũng biết đến thời cận đại lại có biến điệu
“Chức nữ thay lòng đổi dạ” - Chức Nữ bị bôi xấu thành mụ đàn bà lười làm
háu ăn” lưu truyền ở bên hồ Hồng Trạch; ở Hắc Long Giang cũng có dị bản
“Ngưu Lang, Chức Nữ kết oán thù” - Chức Nữ “suốt ngày cãi nhau với
chồng”, thì mọi người làm sao có thể phủ định hoàn toàn rằng cuối đời
Nguyên đầu đời Minh không hề có truyền thuyết dân gian về việc Chức Nữ
kêu oan và bác những lời đồn đại? Trong sách cảnh thế tuyên ngôn đề là “Lý
Lạp Ông tiên sinh vựng tập”, ở truyện Linh Quang các Chức Nữ biểu vu từ cải
tác từ Giám Hồ dạ phiếm ký, cuối truyện viết:
Lệnh Ngôn cũng lên tiên. Mấy chục năm sau, có người ở Cối Kê gặp
Lệnh Ngôn dưới núi Ngọc Tứ, thấy mặt vẫn trẻ như con nít, hai mắt sáng
trong, không khăn không dây lưng, thấy người đó liền nói: “Chớ có phĩ báng
tiên linh, e rằng phạm tội lớn đấy!”. Ngoài ra không nói gì khác. Có người
muốn hỏi cặn kẽ hơn nhưng chợt đã biến đâu mất. Vì thế người đời sau mới
đổi Kính Hồ thành Ngộ Tinh Hồ, tới nay vẫn lưu truyền không dứt.
So những lời trên đây với phần kết của nguyên tác Giám Hồ dạ phiếm
ký: “Hai chục năm sau, có người gặp Lệnh Ngôn ở núi Ngọc Tứ, thấy sắc mặt
hồng hào, hai mắt sáng trong, đội mũ vàng mặc áo cầu bằng vải thì vái mà
hỏi nhưng đã cưỡi gió mà đi, nhanh như bay, đuổi theo không kịp”, thì rõ ràng
thấy đã có thêm bớt, thay đổi. Qua đây có thể thấy tình hình biến hóa của văn
học dân gian thật là ghê gớm.
Trong bài Mười bộ sách không được coi trọng ở Trung Quốc nhưng lại
được hoan nghênh ở Nhật Bản, tác giả Hoàng Đắc Thời có nhắc đến Tiễn
đăng tân thoại: “Hầu hết nội dung đều lấy từ vùng Tô Châu, Hàng Châu, thời
gian khoảng niên hiệu Chí Chính (1341-1367) đến niên hiệu Hồng Vũ (1368-
1398), mà trung tâm có thể là ghi chép những sự việc chính tác giả được mắt
thấy tai nghe.
Điều này hoàn toàn chính xác.
Tiết thứ hai
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
A. CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
Chỉ từ cách đặt tên cho sách là Truyền kỳ mạn lục mà xét, chúng ta đã
có thể liên tưởng cuốn sách hẳn phải có quan hệ ở mức độ nào đó với truyền
kỳ đời Đường của Trung Quốc. Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam đã được sáng
tác khởi đầu từ thời Lý Trần (thế kỷ XI-XIV), và phần nhiều chịu ảnh hưởng
của chí quái đời Lục triều và truyền kỳ đời Đường. Trong đó ảnh hưởng lớn
hơn là truyền kỳ đời Đường. Do đó còn có thể biết, tiểu thuyết điển nhã của
Trung Quốc truyền sang Việt Nam rất sớm.
Trong cách hành văn của mình, Nguyễn Dữ đã nhiều lần sử dụng chính
xác điển cố trong truyền kỳ đời Đường, chứng tỏ ông đọc kỹ tiểu thuyết đời
Đường. Còn các truyện được hoàn thành, có hay không vết tích mô phỏng
truyền kỳ? Ao Dã Tín Thái Lang cho rằng trong Truyền kỳ mạn lục, truyện Tản
Viên từ phán sự lục (quyển 2) và Dạ Xoa bộ soái lục (quyển 4) phỏng theo Tái
linh ký; Thúy Tiêu truyện (quyển 3) phỏng theo Chương Đài liễu truyện; Nam
Xương nữ tử lục (quyển 4) nửa trên phỏng theo Ảnh yêu đàm, nửa dưới
phỏng theo Trường hận ca truyện và Liễu Nghị truyện. Ông nói chắc nịch
rằng: “Đốì với những truyện trên, tôi dám nói là không khi nào nhìn lầm”. Giáo
sư Áo Dã Tín Thái Lang quả không nhìn lầm, chẳng hạn ở Thúy Tiêu truyện,
Thúy Tiêu bị Thân Trụ Quốc chiếm làm của riêng và Liễu Thị bị Sa Tra Lợi
cướp mang về phủ đệ trong Chương Đài liễu truyện quả có giống nhau thật.
Nhưng nếu đọc cả truyện, Thúy Tiêu do Nguyễn Trung Ngạn tặng cho Dư
Nhuận Chi lại tương tự Ngụy Giới bán tặng một a hoàn cho Phạm Trọng
Yêm, tương tự việc Đỗ Mục xin Lý Thông ban cho Tử Vân. Câu Thân Trụ
Quốc hỏi Thuý Tiêu: “Chừng nàng lại nhớ anh chàng bán thơ phải không?”
tương tự câu Đường Ninh vương hỏi người thiếp yêu: “Nàng lại nhớ anh
chàng bán bánh phải không?”. Người đầy tớ già cầm dùi sắt cứu Thúy Tiêu
tuy giống với Hứa ngu hầu trong Liễu Thị truyện, nhưng kỳ thực giống Côn
Lôn Nô cầm trùy xích cứu kỹ nữ Hồng Tiên hơn…
Những thí dụ trên cho thấy chúng có mối quan hệ mật thiết với Thuý
Tiêu truyện không kém gì Chương Đài liễu truyện. Có điều, những truyện
nhắc tới trên đây chỉ lưu lại toàn là những tình tiết nhỏ nhặt, vụn vặt, từng
mẩu một trong Thúy Tiêu truyện; cá biệt mà nói, có cũng như không. Vả
chăng trong chính văn, Nguyễn Dữ nhất nhất đều nói rõ điển cố vốn có, đủ
thấy ông không hề có ý đồ mô phỏng truyền kỳ đời Đường, cũng như chí quái
đời Lục triều và tiểu thuyết đời Tống. Nhìn nhận này được ấn chứng trong tất
cả các truyện của tập sách.
Ảnh hưởng thật sự lớn nhất đối với Truyền kỳ mạn lục chính là Tiễn
đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh!
Xin lại lấy Thúy Tiêu truyện làm ví dụ. Trọng điểm bút mực của truyện
này, một là mượn việc vợ chồng xa nhau vẫn lén thư từ qua lại để bày tỏ tình
lứa đôi sâu sắc và nỗi bất đắc dĩ; hai là miêu tả thần thái xác thực của nhân
vật nam si tình chờ đợi, hơi có chút tin tức, manh mối là dấy lên niềm hy vọng
khôn cùng. Mà hai trọng điểm lớn này rõ ràng có được do gợi ý của Thúy
Thúy truyện và Tam Sơn phúc địa chí trong Tiễn đăng tân thoại.
Thuý Tiêu truyện
Chim yểng kêu lên, nhảy nhót
như dáng muốn đi. Sinh bèn viết thư,
buộc vào chân nó…
Thuý Thuý truyện
Thơ làm xong, viết vào mảnh
giấy tháo cổ áo cầu bằng vải bỏ vào
khâu lại, cho thằng nhỏ một trăm
tiền…
Con yểng bay đi, đến đậu ở màn
Thúy Tiêu. Nàng được thư, bèn giở
giấy Tiết Đào, dấp bút Lâm Xuyên,
viết thư trả lời. Thư rằng… Thúy Tiêu
từ đó buồn rầu đâm ốm.
Thằng nhỏ theo lời mang vào.
Thuý Thuý hiểu ý, tháo áo ra thấy bài
thơ thì thương cảm quá đỗi, cố nuốt
tiếng khóc. Nàng cũng làm một bài
thơ, khâu lại vào áo để gửi cho
chàng. Thơ rằng… chàng Kim được
thơ,… đâm ốm nặng.
(Trụ Quốc)… bảo sinh rằng: Ta
làm quan đến chức Thượng công,
quyền cao lộc hậu…”. Bèn sai dọn
một cái buồng nhỏ làm nơi đọc sách
cho sinh, hàng ngày sai một tiểu hoàn
hầu hạ.
Lý tướng quân lúc này đang
được quí trọng tin dùng nên oai
nghiêm hách dịch…, lại cấp giường
màn chiếu chăn, cho chàng Kim ra ở
một phòng nhỏ về phía Tây cổng.
Thuý Tiêu truyện
Mỗi khi có tiệc mời sinh, Trụ
Quốc thường lấy lời ôn tồn khoản
tiếp. Nhưng về việc Thuý Tiêu, tuyệt
nhiên không nhắc tới.
Tam Sòn phúc đỉa chỉ
Nửa tháng sau, Tự Thực lại đến
nhà, Liêu Quân chỉ tiếp đón bằng lời
lẽ ôn tồn, rốt cuộc không trả cho đồng
nào.
Bấy giờ sắp đến ngày trừ tịch,
sinh thừa lúc rảnh rỗi nói với Trụ
Quốc… Trụ Quốc gật đầu. bảo: “Mấy
khắc trước trống canh, đấy là đêm tốt
lành… Nhà thầy hãy nán đợi, đừng lo
chậm muộn.
Đến đêm đã hẹn, sinh đốt đèn
Bấy giờ đã vào cuối đông, năm
hết tết đến, Tự Thực trong lúc nghèo
chẳng có việc gì, lại đến nhà Liêu
Quân lạy chào mà khóc rằng:… Liêu
Quân đỡ dậy, bấm ngón tay tính ngày
rồi bảo: “Còn mười ngày nữa là đến
ngày trừ tịch,…mong đừng lấy làm lạ
vì ít ỏi”. Lại căn dặn vài ba lần là cứ ở
nhà chờ, không phải đi đâu. Tự Thực
cảm tạ ra về.
Đến ngày hẹn, cả nhà ngỏng cổ
ngồi chờ, không ngủ. Chừng một
trống canh, bỗng nghe tiếng giầy lẹp
kẹp; mở cửa ra đón, té ra là một con
hầu áo xanh. Sinh hỏi nó đến làm gì
thì ra nó bưng trà đến. Một lúc lại thấy
ở trước hoa có tiếng sột soạt, xốc áo
ra xem, thấy một người đầy tớ tóc
muối tiêu, đi chân đất; hỏi đến làm gì
thì ra mang rượu tới. Chờ mãi đến
quá nửa đêm, vẫn bặt tăm hơi, rất là
thất vọng. Sáng hôm sau…
ngóng trông. Tự Thực ngồi ngay ngắn
trên giường, sai đứa con nhỏ trông
chừng ngoài ngõ. Lát sau đứa bé
chạy vào báo: “Có người vác gạo đến
đấy!” Tự Thực vội vàng ra đón thì
người ấy đi qua cửa chẳng ngoái
nhìn. Tự Thực tưởng người ấy không
biết nhà, chạy theo hỏi thì được trả
lờí: “Đây là của Trương Viên ngoại
đưa tặng thầy đồ”. Tự Thực nín lặng
quay trở lại. Lát sau, thằng bé lại vào
báo: “Có người mang tiền đến đấy!”.
Lại vội vàng ra đón thì nqườí ấy cũng
đi qua cửa mà không vào nhà. Tự
Thực lại chạy theo hỏi thì được biết:
“Đây là tiền của ông huyện họ Lý sai
biếu du khách”. Tự Thực vừa buồn
vừa xấu hổ. Như thế tới mấy lần nữa,
đến tối vẫn bật tăm hơi. Hôm sau…
Tất nhiên, Nguyễn Dữ không phải chỉ biết sao chép Cù Hựu. Chiếc áo
ấm đảm nhiệm vai trò bà mối đưa thơ trong Thúy Thúy truyện đã trở thành
con yểng đưa thư trong Thúy Tiêu truyện. Đó là suy tư khéo léo, tưởng tượng
diệu kỳ của tác giả. Ông còn đưa một truyện không liên can gì về tính chất là
Tam Sơn phúc địa chí hòa tan vào một truyện có gốc là tình yêu. Điều đó
cũng thể hiện công lực một mặt nào đó của ông. Nhưng không thể nói tránh
được là, đúng như bảng đối chiếu trên đây cho thấy, Nguyễn Dữ tuy thử tìm
cách thoát ra khỏi bóng râm của Tiễn đăng tân thoại, nhưng thỉnh thoảng bút
lực cũng chưa đạt tới, bởi vậy chẳng trách Hà Thiện Hán phải nói: “Xem văn
từ của sách, thấy không ra ngoài phên giậu của Tông Cát”.
Văn từ của Truyền kỳ mạn lục quả thực có quan hệ rất trực tiếp với
Tiễn đăng tân thoại. Long đình đối tụng lục có câu: “Thiện Văn có cuộc ăn yến
ở Long cung”, truyện Từ Thức tiên hôn lục có câu: “Rồi những trẻ nhỏ chia
từng nhóm mà múa điệu Lăng Ba”.
Thiện Văn chính là tên nhân vật chính trong truyện Thủy cung khánh
hội lục ở Tiễn đăng tân thoại. Truyện này viết:
Sau đó dâng rượu, tấu nhạc, hai mươi cô gái đẹp rung ngọc sáng, kéo
vạt xiêm, xếp hàng múa điệu Lăng Ba trước tiệc… Múa xong lại có đến bốn
chục đứa ca đồng… múa điệu hái sen dưới sân.
Lại như Từ Thức tiên hôn lục viết:
Thì ra tất cả các cõi trời dục giới đều có đôi cả. Cho nên… Thượng
Nguyên theo Phong Trắc mà xuống trần.
Câu này thực ra bắt nguồn từ Giám Hồ dạ phiếm ký trong Tiễn đăng
tân thoại:
Thượng Nguyên xuống trần lấy Phong Trắc… Vả các trời trong dục giới
đều đã có đôi, nếu không có đôi là do không có dục vọng đó.
Lại như trong Thúy Tiêu truyện, tác giả bình luận:
Thúy Tiêu là một ả ca xướng, chẳng phải người chính chuyên… Vì
nàng hiền chăng? Hết là vợ họ Trương lại là hầu họ Lý.
Câu bình luận này thực ra xuất xứ từ Ái Khanh truyện trong Tiễn đăng
tân thoại:
Thiếp vốn là dân xướng ca, không phải con gái nhà lành… Hết là vợ họ
Trương lại là hầu họ Lý, vốn không có nơi nhất định.
Những thí dụ nêu trên chỉ là những phát hiện của các nhà chú giải sách
Tân biên, Cựu biên và được dẫn ra chú giải cho điển cố vốn có trong phần
chú thích. Những xuất xứ khác chưa được dẫn ra gồm:
Truyền kỳ mạn lục Tiễn đăng tân thoại
Lệ Nương truyện
Nàng đã không may, vậy anh
đem linh cữu về, khỏi uổng một
chuyến đi không lại về rồi.
Thúy Thúy truyện
Nay con đã thế rồi, vậy cha đem
hài cốt con chuyển về nơi phần mộ tổ
tiên, cũng không uổng phí chuyến đi
này.
Thúy Tiêu truyện
Duyên tốt lành chuyển thành
duyên ác độc.
Mỗi khi đến ngày rằm tháng
Giêng, ở bến nước Đông Tân treo
đèn đốt pháo rất nhộn nhịp, trai gái cả
thành, đến xem đông đặc.
Nhân duvên tốt lành là nhân
duyên ác độc
Mẫu đơn đăng ký
Mỗi năm đến ngày rằm tháng
Giêng, Châu Minh treo đèn năm
ngày, Trai gái cả thành đều được
xem thỏa thích.
Xương Giang yêu quái lục
Hoàng hiểu ra ngay, liền cầm
bút khai rằng: …
Lệnh Hồ sinh minh mộng lục
Bấy giờ Soạn hiểu ra ngay, liền
cầm bút viết lời khai rằng: …
Đã làm chuyện dâm tà, lại còn
toan kiện bậy.
Vĩnh Châu dã miếu ký
Sống đã làm yêu, chết còn kiện
bậy.
Long đình đối tụng lục
Áp giải một người đàn ông,
thân thế vạm vỡ, mũ đỏ, mặt đen.
Trong lồng sắt có một người
đàn ông mặc áo trắng, khăn trùm tóc
màu đỏ, dáng rất cao to.
Chỉ có áo xiêm của Dương thị
ở đó… bèn chôn quan tài không ở
dưới chân núi Lại.
Lục y nhân truyện
Chỉ còn quần áo, thoa hột mà
thôi. Bèn chôn quan tài không ở sườn
núi Bắc.
Đào thị nghiệp oan ký
Đẹp thay hai cậu con trai! Đẹp thay hai chàng trẻ tuổi!
Đến tạ ơn sư cụ Pháp Vân.
Nhưng đến nơi chỉ thấy am cỏ rêu
phong, không tìm nhận ra dấu chân
nào cả, đành buồn bã quay về.
Thiên Thai phỏng ẩn lục
Dắt bọn gia đồng, hầu nhỏ trong
nhà vào núi thăm lại, nhưng chỉ thấy
núi giăng trùng điệp, không sao tìm
thấy.
Dẫn chứng còn nhiều, dẫn ra khôn xiết. Thậm chí Từ Thức tiên hôn lục
trong Truyền kỳ mạn lục có câu “Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên
tình cũ” giống hệt một câu như thế trong truyện Đằng Mục túy du Tụ cảnh
viên ký ở Tiễn đăng tân thoại; Lệ Nương truyện có câu: “Sinh vốn vì tìm vợ
mà đến đây” cũng giống hệt một câu như thế trong Thúy Thúy truyện của
Tiễn đăng tân thoại.
Điều cần nói rõ thêm là, những dẫn chứng đối chiếu trên đây chẳng
những chỉ vay mượn, mô phỏng về văn từ, mà cả kết cấu, tình tiết, phong
cách, tư tưởng cũng tương quan sít sao. Nhưng tuy nói như thế, chúng tôi
không hề có ý phủ nhận sách Truyền kỳ mạn lục do sáng tạo của cá nhân
Nguyên Dữ mà có, bởi vì sự thực là ông rất ít khi sao chép y dạng như Mộc
miên thụ truyện so với Mẫu đơn đăng ký, mà hầu hết là theo lốì hấp thụ tinh
hoa trong tác phẩm người trước như Cù Hựu đã làm. Điều này chứng tỏ tài
năng thoát thai hoán cốt của ông: Khi thì dồn nhiều truyện thành một truyện
(như dồn Lệnh Hồ sinh minh mộng lục, Vĩnh Châu dã miếu ký, Tu văn xá
nhân truyện ở Tiễn đăng tân thoại vào Tản Viên từ phán sự lục ở Truyền kỳ
mạn lục), hóa một truyện thành nhiều truyện (như hóa Mẫu đơn đăng ký ở
Tiễn đăng tân thoại thành Mộc miên thụ truyện, Tây viên kỳ ngộ ký, Đào thị
nghiệp oan ký, Xương Giang yêu quái lục trong Truyền kỳ mạn lục)…
Nói tóm lại, truy tìm gốc gác, tuy bề ngoài toàn bộ Truyền kỳ mạn lục
đầy những tên tuổi nhân vật hoặc tình tiết trong tiểu thuyết đời Đường, rất dễ
khiến người ta cảm thấy sách có quan hệ sâu sắc với truyền kỳ đời Đường,
nhưng khi xem xét tỉ mỉ, chúng ta không khó phát hiện hầu hết những chỗ
như thế chỉ là vận dụng điển cố đơn thuần mà thôi. Ảnh hưởng của Tiễn đăng
tân thoại mới thực sự rõ rệt và sâu đậm đối với Truyền kỳ mạn lục. Chính vì
thế mà phần truyện ký trong Nghệ văn chí sách Hoàng Việt thông sử của nhà
nho Việt Nam Lê Quí Đôn và phần truyện ký trong Văn tịch chí sách Lịch triều
hiến chương loại chí của Phan Huy Chú đều cùng ghi chú “Đại lược mô
phỏng Tiễn đăng tập của nhà nho đời Nguyên” dưới mục “Truyền kỳ mạn lục,
4 quyển”. Còn như chỗ dị, đồng giữa hai sách này thì tới chương sau, chúng
tôi sẽ nghiên cứu so sánh sâu thêm một bước nữa.
B. CẢI BIÊN TỪ THẦN THOẠI, CHÍ QUÁI VIỆT NAM
Ở phần trước, chúng tôi nói tiểu thuyết Hán văn Việt Nam bắt đầu sáng
tác ngay từ thời đại Lý Trần là muốn nói tới hai cuốn Lĩnh Nam chích quái và
Việt điện u linh tập.
Tác giả ban đầu của Lĩnh Nam chích quái chưa rõ là ai, người hiệu
đính là Vũ Quỳnh triều Lê đoán “người khởi thảo phải bậc đại nho thời Lý
Trần”, được “các bậc quân tử hiếu cổ học rộng” đời sau nhuận sắc mà thành
sách. Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú nói: “Tương truyền do Trần Thế Pháp” viết
nên. Việt điện u linh tập thì có thể “làm ra từ triều Lý, có trước ngòi bút của Lê
Văn Hưu”, do Lý Tế Xuyên chép nối và hoàn thành vào đầu niên hiệu Khai
Hựu (1329-1341) đời Hiến Tông nhà Trần. Tính chất hai sách giống nhau,
chuyên chép chuyện lạ của linh thần được thờ cúng ở các địa phương.
Những sách có sau như Thiên Nam vân lục, Mã lân dật sử, Nam quốc dị nhân
sự tích lục, An Nam cổ tích liệt truyện… hầu hết đều viết dựa theo hai sách
trên. Nhất là nhiều sự tích chép truyện các nhân vật trước khi có sử Việt Nam
trong hai sách này thì một phần đã được sử gia đưa vào chính sử để bổ sung
chỗ còn thiếu của văn hiến cổ, thậm chí trong truyện dân gian Việt Nam ngày
nay có không ít truyện kể lại nội dung những truyện đó. Như vậy, địa vị quan
trọng của hai sách này là điều không cần phải nói.
Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, ngoài truyện mở đầu Hạng
vương từ ký khá đặc biệt ra, còn ở các truyện còn lại, nhân vật đều là người
Việt Nam, nơi xảy ra truyện cũng ở trong lãnh thổ Việt Nam, phong vị nước
Nam rất nồng đậm; trong số đó, có nhiều chỗ nhắc tới truyện thần thoại và chí
quái đời xưa của Việt Nam được chép ở Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u
linh tập.
Khoái Châu nghĩa phụ truyện viết Nhụy Khanh ước hẹn với Trọng Quỳ:
Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ em ở cửa
đền Trưng Vương.
Trưng Vương, chị tên Trắc, em tên Nhị, hai chị em từng dấy quân đuổi
Thứ sử Giao Châu là Tô Định, định yên 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua,
xưng họ Trưng, sau khi chết rất linh ứng. Lĩnh Nam chích quái quyển 3 có
Truyện Trinh linh nhị Trưng phu nhân; truyện này cũng thấy chép trong bản cũ
Việt điện u linh tập.
Nam Xương nữ tử lục chép nàng Vũ Thị trước khi trẫm mình có khóc
lóc kể rằng:
Nếu thiếp đứng ngồi gìn giữ, thuần nhất một lòng, xuống nước xin làm
ngọc Mỵ Nương…
Mỵ Châu là con gái vua An Dương Vương, giúp chồng trộm lấy nỏ
thần, khiến cho quân lính nhà vua bại trận. Nhà vua đưa Mỵ Châu cùng ngồi
lên ngựa chạy về phương Nam, đến bờ biển, bỗng thấy thần kim quy nổi lên
mách chuyện. Mỵ Châu ôm hận chết dưới lưỡi gươm của cha, máu chảy
xuống nước, trai nuốt vào hóa thành minh châu. Lĩnh Nam chích quái quyển 2
có chép Truyện kim quy này.
Truyện Kim Hoa thi thoại ký viết về lời tự kể của Ngô Lan Chi:
Một hôm, tôi nhân đi chơi núi Vệ Linh là nơi đức Đổng Thiên Vương bay
lên trời, tôi có đề thơ rằng…
Đổng Thiên Vương là một đứa trẻ ở làng Phù Đổng thời Hùng Vương,
hơn ba tuổi không biết nói, cười. Khi đó quân giặc đến xâm phạm, đứa trẻ
bỗng nói được, nhảy lên ngựa cầm kiếm xông ra, đại phá quân địch; đuổi đến
núi Vệ Linh thì bay lên trời. Lĩnh Nam chích quái quyển 1 có Truyện Đổng
Thiên Vương này. Còn Việt điện u linh tập chép là Truyện Xung Thiên Uy Tín
đại vương.
Giữa các truyện trong Truyền kỳ mạn lục và Lĩnh Nam chích quái, Việt
điện u linh tập nếu có mối nhân duyên đặc thù nào đấy thì chỉ nhằm nhấn
mạnh sáng tác của Nguyễn Dữ đều có mối tương quan với thần thoại, chí
quái của nước nhà mà thôi.
Trong Truyền kỳ mạn lục, truyện có quan hệ thực sự với tác phẩm
trước đó là Phạm Tử Hư du thiên tào lục ở quyển 2. Truyện này thực ra cải
biên từ Truyện Phạm Tử Hư thờ thầy (Phạm Tử Hư sự sư truyện) trong Lĩnh
Nam chích quái mà thành.
Truyện Phạm Tử Hư thờ thầy chép rằng:
Thời vua Huệ Tông đời Lý có ngươi Tử Hư, người làng Nghĩa Lư huyện
cẩm Giàng. Nhà rất nghèo, rồi đến ở Hoa Phong. Tuổi trẻ mà đã mồ côi
nhưng biết vui với đạo và ham học. Theo thầy là ông Công Trạm, tên chữ là
Công Trực. Thường theo lời thầy dạy, góp nhặt ý viết thành chương. Đến khi
ông Công Trực mất, con còn nhỏ dại không biết thờ cúng…Tử Hư lo mua
sắm đủ thứ để góp tế lễ thầy. Lại làm nhà bên cạnh mộ thầy, ngày đêm đèn
nến, thờ cúng hết ba năm mới về… Tới khoa Đinh Mão lại đi thi, trúng trường
đệ tứ. Rồi tháng 11 năm ấy, Tử Hư rời nhà lên Kinh. Tới chùa Trấn Võ thì trời
quá nóng nực bèn vào nghỉ trong chùa. Bỗng thấy ông Công Trực ngồi trong
đó, Tử Hư kinh ngạc, đến khóc lạy rằng:
- Thầy về cõi âm đã được bảy, tám năm, không hiểu sao con lại được
gặp thầy ở đây?
Ông thầy đáp:
- Tử Hư có nghĩa với ta nên ta tới gặp để bảo cho biết.
Tử Hư hỏi:
- Thầy có biết số mệnh con ra sao không?
Ông thầy đáp:
- Hiện ta chưa biết, con hãy về đã. Ngày 28 tháng Chạp năm tới, con
đến chùa đợi ta, ta sẽ nói rõ cho con biết.
… Tới ngày hôm đó… Tử Hư đem rượu đến chùa, đã thấy thầy cùng
học trò ở đấy rồi. Tử Hư rập đầu vái lạy rồi dâng rượu thịt lên, thầy trò cùng
ăn uống. Thầy mới bảo rằng:
- Con hãy cởi quần áo của mình đưa cho tên học trò rồi lấy quần áo
của nó mặc vào.
Rồi thầy đưa tay vuốt đi vuốt lại, Tử Hư nhắm mắt theo thầy lên trời. Tới
phố Nam Tào Bắc Đẩu, thấy một viên quan mặc áo tía ngồi đó, còn Bắc Đẩu
và Nam Tào thì ngồi hai bên. Ông thầy cũng ngồi ở mé dưới, cùng bàn luận
về đức hạnh và văn chương dưới trần thế để đưa lên bảng vàng… Trước sau
xét được bốn mươi người nêu tên lên bảng. Phán quan tiến cử Tử Hư người ở
Hoa Phong là “đáng lấy đỗ về văn chương”. Nam Tào nói:
- Tử Hư cậy văn chương, kiêu căng với người, không thể được.
Phán Quan cãi:
- Tử Hư tuổi trẻ, tuy kiêu căng đấy nhưng chưa hề hại ai.
Viên quan mặc áo tía nói:
- Tử Hư mồ côi từ nhỏ, mẹ là người có tiết hạnh, lại có nghĩa với phán
quan, cũng tha thứ được, ghi tên vào cuối bảng.
Tức thì dán tên Tử Hư ở dưới bốn mươi người rồi treo bảng lên cổng
trời… Tới lúc này, lấy bài làm ra, quả nhiên là của Tử Hư bèn dán tên ở dưới
bốn mươi người. Thế mới biết ý trời linh nghiệm, vinh hoa tấn tới vốn đã định
trước, không thể sai được. Sau Tử Hư trải nhiều chức quan vinh hiển, làm
quan đến Tán trị dực vận công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, đai
ngọc cá vàng, chức Tham tụng thượng thư Bộ Lại vậy.
Sách chép tay Nam hải dị nhân sự tích lục đề “Lê Quý vâng mệnh viết”
có chép năm truyện, truyện đầu là Phạm Tử Hư sự nghiệp sư truyện không
khác bao nhiêu với truyện dẫn trên đây, hẳn là chép lại từ Lĩnh Nam chích
quái. Cuối truyện có ghi:
Tử Hư đến năm bốn mươi ba tuổi mới được hiển đạt. Kinh Dịch nói
“Tích thiện chi gia tất hữu dư khương” (nhà tích góp nhiều việc thiện ắt phúc
có thừa) há chẳng đáng tin sao?…
Cái gọi là “tích thiện chi gia tất hữu dư khương” chính là chủ đề mà
Phạm Tử Hư sự sư truyện muốn biểu đạt. Điều mà chúng ta có thể thấy tiêu
chuẩn Nam Tào bình chọn trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp là
Nguyễn Dữ đã dựa vào truyện này, cải biên thành Phạm Tử Hư du thiên tào
lục, lại có lời khuyên, lời răn; chủ đề không thay đổi, song chữ nghĩa ưu nhã
hơn nhiều, cách hành văn cũng lưu loát, tình tiết phong phú và biến hóa. So
với nguyên tác, thấy rõ ràng phần hơn.
Với những phát hiện như trên, chúng ta tin chắc Truyền kỳ mạn lục
ngoài phần chuyển hóa những chuyện trong Tiễn đăng tân thoại, còn bắt
nguồn từ truyện cổ nước mình.
C. GHI CHÉP LẠI TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN ĐỊA PHƯƠNG.
Cũng như Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục có rất nhiều truyện
lấy truyền thuyết địa phương làm tư liệu để sáng tác, được văn học dân gian
bồi bổ không ít.
Truyện Nam Xương nữ tử lục ở quyển 4, Vũ Nương chết rồi còn hiện
hồn để gặp mặt chồng là Trương Sinh lần cuối:
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào:
- Thiếp cảm ơn đức Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ
tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.
Cách kết truyện như thế này, Áo Dã Tín Thái Lang cảm thấy đó là “yếu
tố truyện dân gian Việt Nam”. Ông còn dựa vào Truyện kể và truyền thuyết An
nam (Contest et l’égende de l’Annam) của Smith Dampier, trong đó có chép
chuyện Kan Kong và Thi Nam ở bên bờ sông Lô, để chứng minh ở Việt Nam
có nơi cũng có truyện “nữ yêu quái hiện hình qua người con gái đẹp trầm
mình xuống nước” phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Mộc miên thụ truyện ở quyển 1, hồn Trình Trung Ngộ và Diệp Khanh
nhiều lần hiện lên tác quái:
Người làng đấy không thể chịu được mọi nỗi khổ hại, bèn đào mả phá
quan tài của chàng rồi cùng cả hài cốt của nàng, vứt cả xuống sông. Trên bờ
sông ấy có một ngôi chùa, chùa có cây gạo cổ thụ, tương truyền đã sống hơn
trăm năm, hồn hai người bèn nương tựa cây gạo ấy làm yêu làm quái.
Cách phát triển chuyện như thế, ông Áo Dã cũng cho rằng: “Đây là tác
giả lợi dụng truyện dân gian địa phương về “chùa cổ ma cây”, thêm thắt cho
hình thức của truyện Mẫu đơn đăng ký”.
Tình hình nhiều chi tiết trong Truyền kỳ mạn lục mang sắc thái truyện
dân gian là như vậy. Còn như trong bốn quyển của sách này, phải chăng có
nguyên vẹn một truyện nào trên thực tế nguyên bản của nó đã lưu hành trong
dân gian để Nguyễn Dữ căn cứ vào đó rồi nhuận sắc nên tác phẩm thành văn
hay không?
Khoái Châu nghĩa phụ truyện rất có thể là một truyện như vậy, bởi Cựu
biên Truyền kỳ mạn lục có chú ở phần mục lục truyện rằng:
Người xã Phấn Mục huyện Kim Động, miếu ở xã Phán Thủy.
Còn Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú có chú sau
bốn chữ “kiến lệ nghiêm từ” (được lệ thuộc vào tòa đền thiêng này):
Đền nay ở xã Phán Thủy.
Chính Nguyễn Dữ cũng nói: “Đến nay con cháu còn ở Khoái Châu”, thế
thì phải thực có truyện này mới đúng.
Có khi vì muốn người đọc tin, tác giả cố ý nói sao cho tình tiết do chính
tay mình dệt nên giống như có thật, điều này là có thể lý giải được. Có điều,
xét chung thói quen ghi chép truyện kể của Nguyễn Dữ, như Tản Viên từ
phán sự lục ở quyển 2, cuối truyện cũng viết: ''Đến nay con cháu vẫn còn,
người ta truyền là nhà quan Phán sự”, thì hẳn là thực sự có truyền thuyết như
vậy làm căn cứ chăng?
Bài Giới thiệu văn học Việt Nam do Lô Uý Thu, Triệu Ngọc Lan viết
chung, có nói: “Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ… phần nhiều lấy đề tài ở
truyền thuyết dân gian, trong đó một số truyện như Từ Thức thú tiên nữ, Tản
Viên miếu thần v.v… có thể đã lưu truyền từ thời Lý Trần, được tác giả sưu
tầm rồi gia công, nhuận sắc, thêm nhiều sắc thái mới cho truyện vốn có”.
Hai vị này chưa đọc nguyên bản Truyền kỳ mạn lục nên mới viết Từ
Thức thú tiên nữ (chữ Thức là công thức thành chữ Thức là kiến thức), Tản
Viên từ phán sự lục thành truyện Tản Viên miếu thần, nhưng suy đoán của
hai bà về hai truyện này là truyền thuyết địa phương thì lại rất phù hợp với
thực tế. Ở cuối Từ Thức tiên hôn lục, lời bàn của Nguyễn Dữ có phần mù mờ:
“Nhưng việc Từ Thức lấy vợ tiên, cho là thực không có ư? Chưa hẳn là không
có. Cho là thực có ư? Vị tất đã có”. Song bàn như thế không có nghĩa là tác
giả phủ nhận truyện là một truyền thuyết dân gian ở địa phương, chẳng qua
“huyễn tưởng là một trong những đặc trưng của truyện dân gian, không có
huyễn tưởng thì không thể có truyện dân gian vậy”.
Triều Trần, Phạm Sư Mạnh (?-1365) có thơ Du Phật Tích sơn ngẫu đề
(Ngẫu hứng đề thơ khi chơi núi Phật Tích), hai câu cuối có nói:
Từ thị quái kỳ hưu thuyết trước,
Bồi hồi ngâm bãi hựu suy tiêu
(Chuyện lạ họ Từ thôi gác bỏ,
Ngâm thơ xong lại thổi bài tiêu)
Họ Từ nói trên có phải Từ Thức hay không, chưa được rõ, nhưng thơ
Du Bích Đào đông (Chơi động Bích Đào) của Lê Quí Đôn có nói:
Hải ngoại quần tiên sự diểu mang,
Bích Đào động khẩu đại hoang lương,
Càn khôn nhất hạt cùng Từ Thức,
Vân thủy song Nga lão Giáng Hương.
Bất cố hữu thanh xao hiểu nguyệt,
Sa diêm vô vị niết thu sương.
Thế nhân nhược tác Thiên Thai mộng,
Thùy thức Thiên Thai diệc hý trường.
(Chuyện các tiên ngoài biển xa xôi, mù mờ,
Cửa động Bích Đào thật hoang vắng.
Một áo vải thô chốn càn khôn,
Từ Thức đường cùng,
Hai ngọn núi nơi mây nước,
Giáng Hương già nua.
Không trống mà có tiếng gõ mặt trăng buổi sớm,
Muối cát không có vị làm đen sương thu
Người đời nếu ôm mộng đến Thiên Thai,
Thì ai biết được Thiên Thai cũng là hý trường).
Bài thơ trên cho thấy tác giả biết rõ câu chuyện Từ Thức, Giáng
Hương, còn trước nhà thơ Lê Quý Đôn, nữ văn sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-
1748) trong sách Truyền kỳ tân phả cũng đã kể một điển cố tương đồng.
Sách Thính văn dị lục không ghi tên tác giả, ở bài tựa có viết:
Trước đây các bậc tiền bối đã có Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh,
Truyền kỳ mạn lục, Thiên Nam truyện ký, đều ghi chép những truyện quái lạ ở
nước ta. Nhưng đời nào cũng có chuyện kỳ lạ của đời ấy. Tôi nhân lúc nhàn
rỗi, bèn góp nhặt những truyện nghe được thành một tập…
Truyện thứ nhì đảo ngược từ cuối lên của sách này là Truyện Từ Thức,
kể truyện Từ Thức lấy vợ tiên tương tự như trong Truyền kỳ mạn lục, đủ để
chứng minh rằng truyện này lưu truyền phổ biến đã lâu. Những sách khác
như Hội chân biên, Bích Câu kỳ ngộ thực lục v.v… tuy có nói: “Sách Mạn lục
của Nguyễn công chép truyện lấy vợ tiên, ấy là đặt ra lời, không đáng tin vậy”,
nhưng lại nhất trí nhận định rằng Từ Thức là “người thật”, Giáng Hương là
“người tiên”... Xét việc nhiều sách đều có chép, chúng tôi ước đoán nguyên
mẫu truyện này có trong dân gian, vả đời này không ngừng truyền cho đời nọ.
Ngoài ra Kim Hoa thi thoại ký khi viết “nữ sĩ Kim Hoa tên Lan Chi”, liền
sau đó có chú: “Thuyết khác cho tên là Văn”. Chú thích này cũng có thể hiểu
là lời hiệu đính những bản khác nhau, song tên Lan Chi sang tới Tân biên
Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú thành ra “Chi Lan” và được chú
rằng: “Chi Lan là người xã Phù Lỗ”. Ý của lời chú này là điều đó có chứng cớ
hẳn hoi.
Lại ngoài ra, sách Kiến văn tiểu lục viết:
Truyền kỳ mạn lục phần nhiều là ngụ ngôn nên người ta ít tin. Nhưng
phu nhân họ Phù trong truyện Kim Hoa thi thoại ký thì thực có người như vậy.
Theo Trích diễm thi tập thì Nguyễn Hạ Huệ có thơ và chú rằng: “Tên chữ của
bà là Quỳnh Hương người ở Lựu Khê huyện An Lạc, là vợ ông giáo thụ Phù
Thúc Hoằng. Bà hiểu âm luật, có Mai Trang tập lưu hành ở đời… Nay ở Phù
Lỗ thuộc Kim Hoa có đền thờ học sĩ họ Phù.
Sách Toàn Việt thi lục cũng chép:
Nữ học sĩ Kim Hoa triều nước có thấy chép trong Truyền kỳ, quả là bậc
tài giỏi một thời, nhưng tập thơ của bà không được truyền lại.
Vì sao “nữ học sĩ nhà họ Phù” lại có nhiều tên như vậy, chúng tôi cũng
chưa tra khảo được. Song nếu nói truyện này của Nguyễn Dữ có gốc là
chuyện kể thì xem ra cũng không đến nỗi võ đoán chăng?
Tiết thứ ba
KẾT LUẬN
Qua việc tìm tòi nguồn gốc của Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn
lục như trên, có thể thấy Cù Hựu và Nguyễn Dữ đều là những sáng tác gia
giỏi cắt tỉa. Cả hai đều khai thác từ truyền thống, đồng thời phát huy tài tình
của cá nhân, biến những chuyện cũ nát thành truyền kỳ, viết nên trang này
đến trang khác những truyện làm cảm động lòng người.
Tiểu thuyết văn ngôn Trung Quốc phát triển đến đời Đường là nhờ kế
thừa cơ sở của chí quái đời Lục triều, các tác gia truyền kỳ bắt đầu có ý thức
sáng tác, rồi lại có ngọn bút nở hoa, vung lên làm thành nhiều giai tác lấp lánh
cổ kim, vừa nâng cao địa vị của tiểu thuyết, vừa dệt nên rất nhiều truyện
quanh co làm người đọc xúc động, góp thành kho tàng quí giá gồm vô cùng
vô tận những thoại bản đời Tống, hý khúc đời Nguyên, Minh cho chí tiểu
thuyết chương hồi đời thanh. Không nghi ngờ gì nữa, Cù Hựu là người được
lợi từ hàng loạt kho báu đó, nhưng sự thực còn chứng minh rằng tầm nhìn
của ông không chỉ loanh quanh với những đồ cổ đó mà ông còn biết tiếp thu
nhiều kinh nghiệm từ truyện ký và thơ văn, thử làm cho tác phẩm của mình
trở thành một khối ngọc quí hoàn toàn mới.
Nhà Hán học người Hà Lan W.L.Idema nói:
Tôi không biết có truyện văn ngôn nào do viết lại truyện văn ngôn khác
hoặc từ tư liệu đã viết trong sách khác mà thành hay không. Một truyện văn
ngôn khi đã viết xong hẳn không phải là được cải tác, mà chỉ là được sao
chép lại nhiều lần… Còn tiểu thuyết văn ngôn bất kể dù giống vay mượn đi
mấy chăng nữa, song truyện kể ra lại hoàn toàn mới…
Đoạn văn nói trên có thể được ấn chứng qua Tiễn đăng tân thoại. Còn
Truyền kỳ mạn lục chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thọai tuy đã rõ ràng
nhưng do tác giả dụng tâm nên hầu như đã đánh tan mọi hình hài của Tân
thoại để tổ chức lại không đơn giản chút nào rồi tái sinh, khiến cho mỗi truyện
đều là của mình, thuộc về Việt Nam. Điều này phù hợp với cách nhìn của
Idema, duy có một ngoại lệ, đó là Phạm Tử Hư du thiên tào lục. Gốc truyện
này lấy ở sách Lĩnh Nam chích quái, có điều Nguyễn Dữ đã cải tác thành
công và giàu ý nghĩa. Từ đây chúng tôi có thể thấy: nhờ cố gắng của tác giả,
giai đoạn thần thoại chí quái của Việt Nam đã được kết thúc để đường hoàng
bước sang lịch trình tiểu thuyết truyền kỳ. Sự ra đời của Truyền kỳ mạn lục
chứng tỏ tập truyện là một cột mốc quan trọng trong lịch sử văn học Việt
Nam.
Điều đáng chú ý là, các truyện trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ
mạn lục, ngoài văn học thành văn truyền thông ra, lại có thể tìm thấy nguồn
gốc ở truyền thuyết dân gian địa phương. Có truyền thuyết dân gian gần với
sự thực lịch sử, có truyền thuyết hoàn toàn hư cấu, lại có truyền thuyết nửa
thật nửa “giả”, nhưng đặc điểm chung của chúng vẫn là mang “tính truyền kỳ”
đậm đặc rất phố biến. Chúng thường thông qua tình tiết ngẫu nhiên trùng
hợp, khoa trương, siêu phàm để phản ánh nỗi bi hoan ly hợp hoặc hỷ, nộ, ai,
lạc trong đời sống hiện thực. “Trong những truyền thuyết giàu tính truyền kỳ,
tình cảnh chân thực và chuyện lạ việc kỳ đạt tới mức biện chứng và thống
nhất hữu cơ; chúng cho người ta có cảm giác chân thực đáng tin, lại khiến
cho người ta cảm thấy hồn lay phách động, không phải tầm thường”. Cho
nên, người có kiến thức thường khéo vận dụng những điều trong tác phẩm.
Trong lịch sử văn học Trung Quốc, từ Sưu thần ký đến Liêu trai chí dị đều
không ngừng có những ghi chép về truyện truyền kỳ trong dân gian.
Cù Hựu “sinh ra gặp thời binh hỏa, phải chạy đến Tứ Minh, Cô Tô”, lại
có “những kẻ hiếu sự thường kể cho nghe việc gần đây”. Còn Nguyễn Dữ “ở
quê dạy học, chân không bước tới thành thị”. Hai ông nhiều năm tháng tiếp
xúc với dân gian, nhất định có rất nhiều dịp nghe được những truyền thuyết
của địa phương. Đáng quí hơn nữa là họ đều nắm đươc đặc tính “kỳ lạ mà có
thể truyền cho thấy” trong số đó, rồi bằng tài hoa xuất chúng hun đúc thêm,
bằng trí tưởng tượng phong phú bày vẽ thêm, sáng tạo nên những giai tác
hoàn chỉnh, để lại danh tiếng của mình, và hoặc ít hoặc nhiều để lại minh
chứng cho cuộc sống của người dân hai nước Trung Việt. Chúng tôi tin rằng
đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến Tiễn đăng tân thoại và Truyền
kỳ mạn lục được đông đảo bạn đọc yêu thích.
Tóm lại, việc lấy tài liệu của bất kỳ một tác phẩm văn học nào đều có
thể là từ nhiều nguồn. Chỉ cần các tác giả không thỏa mãn với việc mô phỏng,
thì dù có tiếp thu ảnh hưởng của nước mình hay nước ngoài thì cũng chẳng
làm tổn hại gì đến tính sáng tạo độc đáo. Chẳng hạn cuốn Kim Ngao tân thoại
của Kim Thời Tập người Triều Tiên giống Tiễn đăng tân thoại hơn cả Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ người Việt Nam, nhưng “nếu quan sát tỉ mỉ, truyện
Vạn Phúc tự hu bồ ký có nhân vật trai chưa vợ xin với Phật cho gặp người
đẹp thành đôi; chàng thái học sinh trong truyện Lý sinh khuy tường truyện
loanh quanh trên đường gặp được mối lương duyên đều thuộc loại hình
truyền thuyết dân gian Hàn Quốc, đủ thấy ở Trung Quốc còn là da, lông thì
sang Triều Tiên đã là gân cốt, không phải là tác phẩm sao chép vậy”. Có
người lấy việc đi điền dã điều tra để chứng minh, còn học giả người Mỹ là
J.T.Shaw nói:
Nhà văn có tính sáng tạo độc đáo không nhất thiết là nhà phát minh
hoặc người nghĩ ra cái gì đó hoàn toàn mới, mà là người biết nhào thêm
những ý cảnh mới vào những gì vay mượn của người khác và đạt được thành
công trong quá trình tạo nên tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn thuộc về mình.
Cù Hựu, Nguyễn Dữ, Kim Thời Tập đều là những người như thế.
Chương VI. KỸ XẢO, NỘI HÀM VÀ ẢNH HƯỞNG
Tiễn đăng tân thoại “dùng phép truyền kỳ để ghi chuyện quái lạ”, lại
dùng tư liệu hiện có trong thơ, văn, bút ký; Truyền kỳ mạn lục được sự gợi ý
của Tân thoại và có cải tác phần nguyên tác, cả hai sách đồng thời cùng có
nhiều phần ghi chép thuộc “đầu đường xó chợ” đương thời. Những điều có
thực đó không thể bỏ qua. Đồng thời chúng ta cũng không thể coi nhẹ việc ra
đời của hai cuốn sách, bởi thành phần giả thiết, tưởng tượng của các tác giả
khá đậm. Từ cách đặt tên cho nhân vật chính trong truyện của Cù Hựu và
Nguyễn Dữ, như Hà Hữu Nhân (sao có người này) truyện Phú quý phát tích
ty chí, Phùng Đại Dị (gặp chuyện kỳ dị lớn) truyện Thái hư tư pháp chuyện…
trong Tân thoại; ngươi Hà Nhân (người nào vậy) truyện Tây viên kỳ ngộ ký,
Ngô Soạn (ta soạn) truyện Tản Viên từ phán sự lục… trong Mạn lục, ta có thể
nhận ra điều này. Bằng tưởng tượng kỳ diệu và việc vận dụng con tim người
thợ lớn, từng truyện của hai ông như thật như ảo, vừa thực vừa kỳ lạ đã bắt
ngay lấy mắt bạn đọc, cuốn chặt lấy vô số tơ lòng của họ, tạo nên tình hình
lưu hành hưng thịnh một thời.
Nhưng một tác gia nếu chỉ dựa vào tình tiết kỳ ảo để thu hút bạn đọc
không thôi thì nhất định cuối cùng cũng thất bại, bởi vì lạ mãi ắt không lấy làm
lạ nữa vốn là thường tình của con người. Khi câu đố đã được giải, nếu không
còn dư vị nào để nhấm nháp, thì lâu ngày đâm chán là chuyện liệu trước
được. Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục sở dĩ thịnh hành trong thời
gian dài, lại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học đời sau, nhất định phải có
kỹ xảo nghệ thuật và nội dung tư tưởng đặc thù nào đó tồn tại, đó là điều
khiến ai cũng phải coi trọng, về mặt này, ở phần trên chúng tôi đã nhiều lần
đề cập, chương này chúng tôi tiếp tục giới thiệu những điểm chính yếu và so
sánh phân tích bằng cái nhìn khách quan, chứ tuyệt không cố ý xuyên tạc
hoặc bênh vực.
Đúng như ông Triệu Cảnh Thâm đã nói: “Giá trị… của Tiễn đăng tân
thoại nếu chỉ có ở chỗ mô phỏng truyền kỳ đời Đường thì cũng chỉ trở thành
một thứ đồ cổ làm giả mà thôi. Điểm quan trọng của sách không phải ở chỗ
noi theo người đi trước mà là ở chỗ gợi mở cho người đi sau”.
Lại nếu như Tiễn đăng tân thoại chỉ gợi ý cho văn học các nước Nhật
Bản, Hàn Quốc, Việt Nam cùng nhau phỏng tác mà chưa từng có bất kỳ ảnh
hưởng nào đối với văn học Trung Quốc thì tầm quan trọng của nó cũng cần
bàn lại. Trên thực tế, Tân thoại vừa mới ra đời ở đầu triều Minh, lập tức đã
làm dấy lên nhiệt trào tìm đọc và phỏng tác; tiểu thuyết văn ngôn, tiểu thuyết
bạch thoại rồi cả tạp kịch truyền kì đều đua nhau phỏng theo, đến cuối đời
Minh, đầu đời Thanh cũng chưa suy giảm, về hiện tượng này, chúng ta cần
phải nhận thức. Cũng như vậy, Truyền kỳ mạn lục nếu như chỉ là phần nối
theo của Tiễn đăng tân thoại, không có bất kỳ công lao khai sáng nào thì tác
phẩm cũng không có địa vị nào đáng nói trong văn học sử Việt Nam. Vì thế,
chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của cả hai sách và chú trọng đến phần ảnh
hưởng của chúng đối với nước mình, như vậy hẳn là có ý nghĩa lớn lao.
Kỹ xảo thuần thục, nội hàm sâu sắc là chỗ dựa chủ yếu để tác phẩm
sản sinh ảnh hưởng. Chúng tôi bàn gộp cả ba điều đó, hẳn rằng cũng không
đến nỗi khiên cưỡng.
Tiết thứ nhất
TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
1. KỸ XẢO NGHỆ THUẬT
Phàm những loại văn ấy đều diễn ra bằng văn ngôn, lại xen nhiều thơ,
từ, có khi nhiều đến nỗi đầy cả trang, nhìn đâu cũng thấy, tưởng như thơ, từ
mới là cốt cán, chỉ dùng văn xuôi để nối chắp lại. Nhưng thơ, từ đã xoàng mà
văn cũng nông cạn, vụng về, xen kẽ nhiều lời thô tục, chỉ đáng để cho bọn hạ
sĩ đọc mà thôi. Cách viết như thế trước kia không có, mà tinh thần, mặt mũi
của chúng đều khác với truyền kỳ đời Đường. Còn như dùng văn để xâu thơ
lại, về hình thức giống với nhiều cung điệu và tiểu lệnh đời Tống, Kim vì loại
này lấy từ làm chủ, lời bạch chỉ phụ thêm vào. Những loại này lấy ca xướng
làm chính nên lời thuyết bạch không chiếm địa vị chủ yếu, vì vậy chỉ để xem
chơi, mà tính chất cũng không ngang nhau. Tôi từng khảo sát quy phạm của
loại này thì thấy đấy là do Cù Hựu và Lý Xương Kỳ gợi mở. Truyền kỳ đời
Đường như Đông dương dạ quái lục…, cả truyện phô diễn bằng thơ nhưng
trình bày quá nhiều chuyện linh dị, có ý nhằm phỉ báng khôi hài là thơ do bọn
trâu, ngựa, lạc đà làm ra, như vậy cũng là phù hợp. Còn nếu có dụng ý thì
truyện kể là chính. Đến khi Cù Hựu viết Tiễn đăng tân thoại, ông phụ thêm
thơ, từ ở ngoài chính văn, nhiều nhất có đến ba chục bài nhưng xét thực tế thì
có hay không đều được cả, dường như chỉ để tự khoe mà thôi… Từ đó về
sau, ai nấy bắt chước, thế là thành tiểu thuyết văn ngôn nhào nặn giữa thơ và
văn. Còn như bọn hạ sĩ, tục nho, hơi biết hiệp vần, ngẫu nhiên viết văn liền
muốn vung bút, giun quẫy, nhặng kêu, chồng chất không thôi, làm thành loại
tiểu thuyết thơ văn, chẳng thành văn cũng không ra nói.
Trên đây là kiến giải rất tinh của Tôn Giai Đệ khi ông viết lời bạt cho
Phong lưu thập truyện. Ông cho rằng Cù Hựu đã mở đầu phong khí sáng tác
“tiểu thuyết thi văn”, phù hợp với tình hình thực tế lúc đó. Sách Tục tu tứ khố
toàn thư tổng mục đề yếu cũng phê bình: “Truyện ghi lời xướng đáp, thi từ,
động một tí là đầy cả trang, khá là hỗn tạp, không phải đúng thể thức truyền
kỳ”.
Cái gọi là “tiểu thuyết thơ văn” trên đây, Patrick Hanan gọi là “tiểu
thuyết tài hoa”. Thủ pháp vẽ rắn thêm chân chỉ một lòng khoe mình phô tài,
không đếm xỉa gì đến sự hoàn chỉnh của kết cấu, nếu xét theo tiêu chuẩn phê
bình văn học ngày nay thì thật không đáng khen. Ba phần tư truyện trong
Tiễn đăng tân thoại đều có xen thơ, từ, ca, phú vào, rất đáng ngờ là tự khoe
khoang khiến cho bạn bè đổ xô mắt lại rồi cũng bắt chước nhăn mày, gây nên
phong khí không hay, thảo nào mà bị người chê trách. Chẳng hạn truyện Vị
Đường kỳ ngộ ký, chàng Vương nằm mơ thấy mình gặp mặt cô gái ở quán
rượu, tác giả cố xen cho được cái gọi là bài từ bốn mùa đề trên vách. Bốn bài
từ này tuy hào hoa, khiến cho Trương Thiên Tích, Từ Bá Linh nối nhau xướng
họa, nhưng về bố cục mà nói, nếu bảo chúng “thể hiện vẻ thanh nhã chốn
phòng khuê, nét cao thượng tu dưỡng văn chương của cô chủ” thì không
tránh khỏi quá khen. Thực ra những bài từ ấy không cần cho sự phát triển
của tình tiết, có thể xóa hết cũng được. Lỗ Tấn nói về Tân thoại như sau:
“Văn bút dài dòng nhưng yếu ớt không giúp được gì”, là loại chót bét của
truyền kỳ đời Đường, về điểm này mà nói, lời Lỗ Tấn quả có lý.
Có điều, nếu chúng ta đổi sang một góc độ khác để xem xét, phần văn
vần trong Tiễn đăng tân thoại cũng không đến nỗi chẳng có chút kỹ xảo và giá
trị nào đáng nói. Như ở truyện Lệnh Hồ sinh minh mộng lục, chàng Lệnh Hồ
làm thơ bị bắt lỗi, truyện Liên Phương lâu ký, hai cô gái họ Tiết giữ thơ lại để
đến nỗi tiết lộ tình gian, thì thơ từ đều liên quan tới sự phát triển của cốt
truyện. Ở những truyện khác, tác giả mượn thơ từ để tỏ niềm cảm khái (như
Hoa Đình phùng cố nhân ký, Tu văn xá nhân truyện), để truyền đạt tình ý
(như Ái Khanh truyện, Thúy Thúy truyện), để tỏ ý phê phán (như Lục y nhân
truyền), hoặc để giao tiếp, thù ứng (như Long đường linh hội lục), cũng là
những biểu hiện cho thấy tài vận dụng thơ từ của Cù Hựu. Nhất là bài Văn cất
nóc trong Thủy cung khánh hội lục là loại biền văn thực dụng để chúc tụng
nhà mới, mới bắt đầu có từ sau Ôn Tử Thăng đời Ngụy, cũng thấy có ở bảo
quyển Đôn Hoàng đời Đường; đời Tống, Nguyên cũng chưa dứt. Những văn
sĩ như Cao Khải, Tiêu Hoằng, Từ Vị đời Minh… đều đã từng làm, cả người
Hàn Quốc cũng bắt chước làm theo, đến nay ở miền Liêu Ninh, Liêu Trung
vẫn còn lưu truyền bài ca cất xà nóc… Truyện chép trong Tiễn đăng tân thoại
quả có công năng thực tế để khảo sát sự diễn biến của văn thể cùng phong
tục dân gian thời bấy giờ. Ngoài ra, Tô đài trúc chi khúc trong Liên Phương
lâu ký cũng có giá trị như thế. Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn đời
Đường cho đến Tô Thức, Hoàng Đình Kiên, Dương Thành Trai đời Tống, rồi
Dương Duy Trinh, Dương Doãn Phu đời Nguyên, Chu Hữu Đôn đời Minh,
Khổng Thượng Nhậm, Vưu Đồng, Trịnh Bản Kiều, Vương Sĩ Trinh đời
Thanh… cho chí đầu năm Dân Quốc, Trúc chi từ đều dược dùng để ngâm
vịnh tình quê, tục làng, phong cảnh quê hương, niềm vui dân chúng, là lịch sử
xã hội đáng quí và là tư liệu về lịch sử phong tục dân gian, chúng ta không
nên gạt bỏ sạch trơn.
Về phong cách văn bút của Tiễn đăng tân thoại, nếu chỉ bàn về cách
dùng chữ nghĩa thì quá nửa nhà nghiên cứu hẳn sẽ cho Cù Hựu là một vị cao
thủ về lối văn biền ngẫu, như đoạn Giám Hồ dạ phiếm ký kể việc xử sĩ Thành
Lệnh Ngôn được mời đến chơi chốn non nước như sau:
Thường cưỡi một lá thuyền con, không dùng mái chèo sào chống, nhờ
gió làm buồm, nhờ sóng làm lái, mặc thuyền tự trôi. Khi xem cá trên bờ nước,
khi bạn với âu trên bãi cát; hoặc đùa với cò trên đám bèo, hoặc nghe chim
oanh dưới rặng liễu. Suốt ba chục năm quanh hồ, bất kể giống bay, giống đi,
giống bơi, giông nhảy đều thuộc hình dáng ông ta, quên ông ta là giống khác,
để mặc tự đi tự đến, không hề nghi ngại sợ sệt… Lát sau tới một nơi khí lạnh
thấu người, sáng trong lóa mắt, chẳng khác nào ruộng ngọc rờ rỡ, hoa quỳnh
cỏ dao mọc ở bên trong; thật giống như biển bạc mênh mông, thú lạ cá thần
bơi trong chốn đó. Chim chóc hót ran, du trắng mọc đầy…
Đoạn tả cảnh trên đây có vẻ đẹp trong trẻo, thuần khiết, chả thé mà
Cận Đằng Xuân Hùng gọi đó là “mỹ văn”, chỉ có điều thể văn biền ngẫu đầy
những tu từ khó hiểu cùng những so sánh khoa trương, không ích lợi cho việc
khắc họa cá tính nhân vật trong tác phẩm; lại thêm tác giả mắc tật khoe tài
thơ, phô học rộng, thơ, từ, thư văn không cần thiết thường phá hỏng sự phát
triển trôi chảy của tình tiết, vì vậy việc xây dựng hình tượng nhân vật cũng
như sắp đặt kết cấu không có gì xuất sắc. Đó là điều không cần né tránh.
Lấy câu chuyện tình yêu làm ví dụ, nhân vật nam thường là những tài
tử tuấn nhã “diện mạo rạng ngọc băng, tinh thần ngưng thu thủy”, nhân vật nữ
đều là những giai nhân quốc sắc “tóc gió mai sương, thong dong nhiều vẻ”.
Bố cục cũng thường là:
a. Tài tử ắt sánh đôi với giai nhân. Thư sinh phong lưu phóng khoáng
thành đôi với khuê nữ, đa tài, xinh đẹp hoặc u hồn thì cũng là một đôi trời
sinh.
b. Nhân duyên vốn do trời định nhưng phương thức thành đôi lại là tự
do luyến ái mà không đi ngược lễ giáo.
c. Cuộc sống hôn nhân mĩ mãn, quyến luyến.
d. Chịu đựng mọi nỗi gian nan rồi tới số phận bi kịch.
Cách bố cục trên đây nếu đem so với các kiểu cơ bản của tiểu thuyết
giai nhân tài tử phổ biến quãng cuối đời Minh, ta thấy ngoài kết thúc hoặc bi
kịch hoặc sung sướng ra, đều là đôi bên ăn ý với nhau, bởi vậy Trịnh Chấn
Đạc cho rằng Tiễn đăng tân thoại “có ảnh hưởng rất lớn” đối với “tiểu thuyết
giai nhân tài tử cỡ nhỏ của hai đời Minh và Thanh” nhưng kỹ xảo nghệ thuật
thì chưa đạt thành tựu đáng kể.
2. NỘI HÀM TƯ TƯỞNG
Trong Tiễn đăng tân thoại, chỉ một truyện Liên Phương lâu ký là hoàn
toàn phù hợp với mô thức tiểu thuyết tài tử giai nhân thời kỳ sau và đó chính
là một truyện nông cạn sơ sài hơn cả trong toàn bộ cuốn sách. Những truyện
tình yêu linh dị hoặc có trong xã hội hiện thực hầu hết đều kết thúc bằng bi
kịch, không những đạt tới hiệu quả khiến người ta phải ngậm ngùi than thở
mà cũng khiến cho chúng ta thấy được “nét bút tả thực về xã hội giữa đời
Nguyên và Minh” qua cảnh ngộ bất hạnh của nam nữ thanh niên ở thời loạn
lạc.
Cuối đời Nguyên chính sự suy vi, vua Thuận đế hoang dâm bỏ bê triều
chính, dẫn tới quần hùng cát cứ, sau đó Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương
dấy lên trong dân gian dẹp hết quần hùng, lật đổ nhà Nguyên rồi lập lại chính
quyền ổn định. Nhưng trong thời kỳ quá độ của vương triều thay đổi cho nhau
thì chính sự thối nát, xã hội chao đảo, kinh tế tiêu điều, trăm dân chịu nạn. Đối
với một trí thức mẫn cảm mà nói, tâm linh người ấy bị vò xé như thế nào là
điều có thể biết được. Cù Hựu sống trong thời đại như vậy, trong nhiều năm
quê hương ông thương tích đầy mình dưới ách chiếm cứ của Trương Sĩ
Thành, vì thế năm 23 tuổi (năm đầu niên hiệu Hồng Vũ, 1368) ông đã chính
mắt thấy triều Minh được lập nên, song về tâm lý vẫn chưa có được niềm vui
do Hoa Hạ được phục hồi, rốt cục vẫn chưa xóa được hình ảnh loạn ly in dấu
từ hồi niên thiếu, thậm chí đến cuối đời, ông vẫn còn “thương Cô Tô”, “ghi
chép việc đất Ngô thất thủ”.
Cù Hựu miêu tả trong Tiễn đăng tân thoại những cảnh tượng loạn ly
chính ông từng trải qua và chính mắt ông trông thấy. Ở Thuý Thuý truyện,
Thuý Thúy vốn đang cùng Kim Định hưởng vị ngọt ngào của những ngày mới
cưới; nào ngờ “chưa được một năm, anh em Trương Sĩ Thành dấy binh ở
Cao Bưu, vây đánh hết thảy các quận ven sông Hoài, Thuý Thuý bị bộ tướng
của chúng là Lý tướng quân bắt đi”, khiến cho Kim Định phải lặn lội đường xa,
hỏi thăm hết nơi này đến nơi khác, vẫn không làm sao có cơ may gương vỡ
lại lành, cả hai đành ôm hận mà chết. Ở Ái Khanh truyện, “năm Chí Chính thứ
mười sáu, Trương Sĩ Thành vây hãm Bình Giang. Năm thứ mười bảy, thừa
tướng nhà Nguyên là Đạt Thức Thiếp Mục Nhĩ, cho quân sư người dân tộc
Miêu là Dương Hoàn làm tham chính miền Giang Chiết để chống nhau với
Trương ở Gia Hưng. Tham chính không ngăn cản quân lính để cho họ cướp
bóc của dân”, “thấy Ái Khanh có nhan sắc, Lưu Vạn hộ muốn ép nàng làm
vợ”, Ái Khanh lấy luôn khăn lụa thắt cổ tự tử, kiếp sau “đầu thai thành nam
giới”, để khỏi phải gặp chuyện không may. Còn ở Thu hương đình ký một đôi
trai gái là bạn từ thuở ấu thơ “vừa hay gặp lúc quân của họ Trương dấy lên ở
Cao Bưu, đất Tam Ngô loạn lạc” nên ngay trước mắt nhau mà phải chia lìa,
“mười năm không tin tức”, mong gặp lại nhau phỏng có ích gì? Nỗi đau buồn
khổ sở của con trai, con gái thời loạn lồ lộ tất cả trong truyện, chẳng trách một
người Nhật Bản là ông Nham Điền Bách Lang từng nói: “Tiễn đăng tân thoại
chẳng những là một tập tiểu thuyết truyền kỳ mà còn bao hàm tính chất của
văn học thời loạn”.
Chiến tranh chẳng những gây nên bi kịch tình yêu cá nhân mà còn phủ
một màu đen rộng khắp và lâu dài lên xã hội. Về mặt này, Tiễn đăng tân thoại
có những lời phê phán nghiêm khắc. Chẳng hạn, Lệnh Hồ sinh minh mộng lục
có chàng Lệnh Hồ Soạn thẳng thắn thấy “người nhà lễ Phật khắp nơi, đốt
nhiều tiền giấy” mà làm cho người chết sống lại được thì bất bình nổi giận,
nói:
Thoạt đầu ta chỉ bảo thế gian mới có quan tham lại nhũng nhận tiền
bạc rồi bẻ quẹo pháp luật, kẻ giàu có đưa hối lộ là được vẹn toàn, người
nghèo không có tiền thì bị khép tội, ngờ đâu dưới âm phủ mà lại quá quắt hơn
đến thế!
Thực ra đây là lời tác giả khiển trách nhằm vào xã hội hiện thực. Lại
như Tu văn xá nhân truyện, Hạ Nhan có tài nhưng không gặp vận, sau khi
chết được nhận một chức vụ dưới âm ty, có bảo với người bạn còn sống trên
trần rằng:
Niềm vui dưới âm phủ không khác gì trần thế… Âm ty dùng người lựa
chọn rất kỹ, đã chọn là phải đủ tài, đáng chức, sau đó mới được ở ngôi quan,
được hưởng bổng lộc, chẳng như trần thế có thể hối lộ là xong, nhờ con ông
cháu cha mà thăng tiến, nhờ diện mạo bề ngoài mà bổ nhiệm bừa, nhờ hư
danh mà vượt cấp. Xin thử bàn với bạn: ngày nay giữa chốn trần gian…
người hiền thì cổ gầy mặt nghệ, chết chẳng ai hay; người kém thì chen vai
thích cánh rạng rỡ với đời, bởi ngày yên bình ít, tháng loạn lạc nhiều, chính là
do vậỵ. Âm ty thì không như thế, cao thấp phân minh, thưởng phạt công
bằng.
Viết như thế chẳng phải vì Cù Hựu cố ý xây dựng một cõi âm lý tưởng
để biểu đạt nỗi bất mãn đối với chế độ chính trị trước mắt hay sao?
Thiên Thuật nhi trong sách Luận ngữ có câu: “Tử bất ngữ quái, lực,
loạn thần” (Khổng Tử không nói những chuyện về quái dị, bạo lực, phản loạn
và quỉ thần). Có điều, những chuyện quái dị, quỉ thần mà khéo biết vận dụng
thì cũng có thể phát huy ý nghĩa chính diện của chúng. Tiễn đăng tân thoại
thường thông qua quỉ thần, địa ngục để thực hiện ước muốn khuyến thiện
trừng ác của tác giả. Chẳng hạn Tam Sơn phúc địa chí có nhân vật Nguyên
Tự Thực bị bức bách, không có cách nào khác, mới nảy ra ý nghĩ đâm chết
kẻ vong ân phụ nghĩa là Liêu Quân; khi ra đi, có những tên quỉ kỳ hình dị
dạng theo sau, tới khi kịp thời tỉnh ngộ trở về thì có quân lính đội mũ vàng,
đeo ngọc bội đưa chân, tác giả bèn mượn lời Hiên Viên công để nói:
Ông nghĩ tới điều ác thì quỉ dữ kéo đến, còn nghĩ đến điều thiện thì
phúc thần theo sau, như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh. Thế
mới biết rằng dù trong buồng kín hay lúc vội vàng cấp bách cũng không thể
manh tâm làm điều ác, không thể gây tội làm tổn thương tới đức vậy.
Những câu trên tuy có vẻ như khẩu hiệu giáo điều nhưng được ẩn
trong cốt truyện nên thực ra cũng là một dịp để dạy cho bọn phàm phu tục tử.
Lại như những truyện Phú quí phát tích ty chí, Thái hư hỉ pháp truyện v.v…,
tác giả nhiều lần thiết kế những chuyến đi xuống âm phủ cho nhân vật chính
trong truyện, khiến họ “trải qua chốn ảo mà hoàn thành kiếp của mình, phát
hiện ra một tự ngã mới, đạt tới lập trường kiên định về luân lý và đạo đức,
cùng sự thuần thục về tâm, về trí”, do vậy cũng có tác dụng khai sáng để giáo
dục. Chẳng thế mà loại sách “vỡ lòng” lưu hành giữa niên hiệu Cảnh Thái
(1450-1456) cũng được Tân thoại đưa vào lời “quỉ nói”.
So sánh thì thấy, những lời đề cao đạo đức trong Tiễn đăng tân thoại
không nhiều hơn những lời thương văn sĩ. Lẽ ra đương thời thái bình thịnh trị,
người đọc sách chỉ cần chịu khó nấu sử sôi kinh bên cửa sổ lạnh vắng là có
thể qua đường khoa cử mà bước vào ngạch quan, phát huy lý tưởng kinh
bang tế thế của mình. Nhưng nho sĩ trong thời loạn, dù có đủ tài tình cao đến
mấy đi nữa, vị tất đã có cơ hội làm quan, Cù Hựu cảm khái việc này như
chính mình nếm trải, gửi gắm niềm xót thương khá đậm, cho nên mới cố ý để
cho xử sĩ Thành Lệnh Ngôn lên trời yết kiến Chức Nữ rồi đắc đạo thành tiên
(Giám Hồ dạ phiếm ký); để cho thư sinh Tất ứng Tường xuống địa phủ để trừ
yêu trừ quái, tuổi thọ được tăng thêm một kỷ (Vĩnh Châu dã miêu ký); để cho
Dư Thiện Văn “có tài hiếm có cùng mưu lược giúp đời” xuống thuỷ cung thi
triển tài hoa, “được hàng ức vạn tiền, trở thành người giàu có” (Thủy cung
khánh hội lục); để cho văn nhân Tử Thuật “nổi tiếng ở đất Ngô về thơ ca”
được tới Long cung, khi về được tặng “hạt minh châu soi sáng rất xa, sừng tê
rẽ được nước” (Long đường linh hội lục); hoặc trực tiếp cho kẻ thuộc nòi nho
sĩ là Vương sinh được gặp người thiếu nữ trong mộng rồi được “nên vợ nên
chồng, đưa nhau về quê, sống hòa thuận đến già” (Vị Đường kỳ ngộ ký)…
Những tình tiết trên đây đều chiết xạ từ tâm lý không được đắc ý, đều ngầm
cho thấy cảnh ngộ nghèo túng, cùng quẫn, buồn bã vô liêu của thư sinh
đương thời. Nội hàm tư tưởng như vậy ắt là xoa dịu nỗi đau cho không ít văn
nhân, được họ cùng hưởng ứng.
3. ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NƯỚC MÌNH
Ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Trung Quốc vừa rộng vừa
sâu. Ngoài phần kích thích tiểu thuyết tài tử giai nhân cuối đời Minh đầu đời
Thanh ra đời, sách còn có quan hệ gắn bó với tiểu thuyết truyền kỳ từ đầu đời
Minh trở về sau. Sách Thiên khoảnh đường thư mục của Hoàng Ngu Tắc đời
Thanh, phần Tiểu thuyết loại, bộ Tí, quyển 12 có chép những tập sách có tên
tương tự như Tiễn đăng kỳ lục của Khưu Toại, Khiêu đăng tập dị của Chu Bát
Long, Tiễn đăng kỷ huấn của Trần Chung Thịnh, Tiễn đăng tục lục của Vô
Danh thị v.v.., cho thấy mốt truyền kỳ kiểu Cù Hựu thời bấy giờ. Ngoài ra,
những cuốn Chung tình lệ tập, Hoài xuân nhã tập, Thiên duyên kỳ ngộ, Hoa
thần tam diệu truyện, Lưu sinh mịch liên ký, Lan hội long trì lục, Song khanh
bút ký… cũng là những truyện trung thiên được diễn dịch dần dần theo con
đường Tiễn đăng tân thoại mở ra. Những “tiểu thuyết thơ văn” này, “nếu nói
về mặt văn nghệ thì giá trị của chúng rất nhỏ bé, nhưng nếu quan sát bằng
ánh mắt văn học sử thì tiểu thuyết lọai này có được địa vị đáng kể đối với một
thời kỳ, một xã hội nào đó, bất tất phải phủ nhận”.
Ảnh hưởng của Tân thoại đối với tiểu thuyết truyền kỳ không phải chỉ
có vậy, mà vì tính cốt truyện của sách rất mạnh nên đồng thời cũng cung cấp
đề tài phong phú cho văn học đời sau. Sau đây là các bảng trình bày tóm
lược ảnh hưởng của Tân thoại đối với tiểu thuyết văn ngôn, tiểu thuyết bạch
thoại và truyền kỳ tạp kịch.
a. Tiểu thuyết văn ngôn
Tiễn đăng dư thoại của Lý Trinh (tên chữ Xương Kỳ, 1376-1452) viết
năm thứ 18 nên hiệu Vĩnh Lạc gồm 22 truyện, là tác phẩm trước tiên phỏng
theo Tân thoại, chỗ tương tự giữa nội dung hai sách rất nhiều.
Tiễn đăng tân thoại Tiễn đăng dư thoại
Thủy cung khánh hội lục
Kể Long vương mời văn sĩ trần
gian viết Bài văn cất xà nóc
Động thiên hoa chúc ký
Kể Thiên cung mời văn sĩ làm
Bài ca buông màn
Lệnh Hồ sinh minh mộng lục
Ghi chép muôn vẻ nơi địa ngục
Hà Tư Minh du Phong Đô lục
Ghi chép trăm hình nơi địa
ngục
Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên
ký
Kẻ việc Đằng Mục được ân ái
với cung nhân của vua Lý Tông đời
Tống
Thu tịch phỏng Tì Bà đình ký
Kể việc Thẩm Thiều hò hẹn với
tiệp dư của Trần Vương đời Hán.
Thân Dương động ký
Kể chuyện khỉ cướp vợ.
Thính kinh viên ký
Kể chuyện khỉ tham thiền.
Thuý Thuý truyện
Kể Thuý Thuý và Kim Định
Liên lý thụ ký
Kể Giả Bồng Lai và Thượng
chôn cùng một nơi. Quan Tuý chôn cạnh nhau.
Tu văn xá nhân truyện
Kể chuyện âm phủ mời văn sĩ
trần gian nhận chức.
Thái Sơn ngự sử truyện
Kể chuyện âm phủ mời văn sĩ
trần gian làm quan.
Giám Hồ dạ phiếm kỷ
Biện luận về lời vu oan cho
Ngưu Lang, Chức Nữ.
Trường An dạ hành lục
Biện luận về lời vu cáo chuyện
hợp tan của ông thầy làm bánh (Bính
sư).
Dấu vết noi theo của Dư thoại cố nhiên quá rõ song sách này không
phải không có điểm đáng quí, như Bài ca buông màn trong truyện Động thiên
hoa chúc ký có hình thức văn thể khá phù hợp tựa Bài văn cất xà nóc, là tư
liệu tuyệt hay để nghiên cứu phong tục hôn lễ, hơn nữa không ít cốt truyện
trong sách là nguồn gốc của bình thoại và ký khúc.
Sau Dư thoại, Hiệu tần tập 25 truyện của Triệu Bật (viết năm Tuyên
Đức), Hoa ảnh tập 20 truyện của Tịch Xuyên Lão Nhân (viết khoảng năm
Thành Hóa, Hoằng Trị), Mịch đăng nhân thoại, truyện của Thiệu Cảnh Chiêm
(viết năm Vạn Lịch) đều mô phỏng Tiễn đăng tân thoại. Đó là sự thật mà ai
cũng biết. Theo Đại Chủng Tú Cao, còn có Uyên chử chí dư tuyết song đàm
vị và u quái thi đàm cũng là truyện viết nối theo Tân thoại, song chưa thấy ai
nói tới. Ông còn cho rằng u quái thi đàm có mối liên hệ với hai tập Tiễn đăng
nói trên và cả với Liêu trai chí dị nữa. Đó là điều đáng chú ý.
Theo khảo chứng của Diệp Đức Quân, truyện Khảo thành hoàng Q. I,
truyện Song tiên (đăng), Quyển IV trong Liêu trai chí dị đều bắt nguồn từ Tu
văn xá nhân truyện và Mẫu đơn đăng ký trong Tân thoại. Thuyết này khi so
sánh tỉ mỉ tuy cảm thấy gượng ép, song phương pháp sáng tác bao gồm cả
hai thể chí quái và truyền kỳ của Cù Hựu quả thực đã mở đường cho Liêu trai
chí dị. Đó cũng là điều đươc mọi người thừa nhận.
b. Tiểu thuyết bạch thoại
Truyện Phong nguyệt tương tư trong sách Thanh bình sơn đường thoại
bản “tương tự như tiểu thuyết đầu đời Minh là Tiễn đăng tân thoại, Tiễn đăng
dư thoại” song không thuần túy là bạch thoại.
Tiểu thuyết bạch thoại thực sự chịu ảnh hưởng Tiễn đăng tân thoại là:
truyện Đại tỉ hồn du hoàn túc nguyện, Tiểu di bệnh khởi tục tiền duyên trong
Sơ khắc, nhị khắc phách án kinh kỳ, quyển 23, bắt nguồn từ Kim phượng
thoa ký; truyện Lý tướng quân thố nhận cữu, Lưu thị nữ ngụy tòng phu trong
Nhị khắc phách án kinh kỳ quyển 6, bắt nguồn từ Thúy Thúy truyện; truyện
Am nội khán ác quỉ thiện thần, Tỉnh trung đàm tiền nhân hậu quả trong Nhị
khắc phách án kinh kỳ, quyển 24, bắt nguồn từ Tam Sơn phúc địa chí.
Ba truyện trên đây thì các nhà nghiên cứu xưa nay đều rõ cả. Tiểu
Xuyên Dương Nhất lại chỉ ra một truyện nữa: truyện Du Phong Đô, Hồ mẫu
địch ngâm thi, trong Dụ thế minh ngôn, quyển 32 có kết cấu tương tự với
Lệnh Hồ sinh minh mộng lục trong Tiễn đăng tân thoại.
Ngoài ra, điều mọi người còn ít biết là trong thư viện trường đại học
Thiên lý có quyển cảnh thế tuyển ngôn, mục lục đề “Lý Lạp Ông tiên sinh
vựng tập”, chính văn đề “Trinh Tường Đường vựng soạn”, hồi thứ nhất Linh
Quang các Chức Nữ biểu vu từ thực bắt nguồn từ nội dung diễn biến của
Giám Hồ dạ phiếm ký, là cốt truyện vốn có trong Tiễn đăng tân thoại được
Phách án kinh kỳ cải biên, song kỹ xảo vụng về hơn, phong cách không được
mới mẻ tươi rói như Lăng Mông Sơ, chắc hẳn không phải ngọn bút Lý Lạp
Ông viết nên. Tuy vậy, truyện cũng có công thúc đẩy truyền kỳ văn ngôn bình
dân hóa.
c. Tạp kịch, truyền kỳ
Hý khúc cải biên từ Tân thoại còn nhiều hơn cả tiểu thuyết cải biên từ
Tân thoại, nay biết có mười loại:
1. Tạp kịch Nhân qui phu thê của Phó Nhất
Thần.
2. Trụy thoa ký (Nhất chủng tình), truyền kỳ
bắt nguồn từ Kim
phượng thoa ký.
của Thẩm Cảnh.
3. Truyền kỳ Kim Phương thoa của Phạm Văn
Nhược.
4. Hý văn Lan Huệ liên phương lâu, khuyết
danh
bắt nguồn từ Liên
Phương lâu ký.
5. Tạp kịch Vị Đường mộng của Diệp Hiến
Tô”.
6. Tạp kịch Vương Văn Tú Vị Đường kỳ ngộ
ký, khuyết danh.
7. Truyền kỳ Dị mộng ký của Vương Nguyên
Thọ.
bắt nguồn từ Vị Đường
kỳ ngộ ký.
8. Tạp kịch Kim, Thúy hàn y ký của Diệp Hiến
Tổ.
9. Truyền kỳ Lĩnh đầu thư của Viên Thanh.
Bắt nguồn từ Thúy
Thúy truyện.
10. Truyền kỳ Hồng mai ký của Chu Triều
Tuấn.
bắt nguồn từ Lục y
nhân truyện.
Trong số nói trên, vở Lan Huệ liên phương lâu chỉ còn sót lại có 4 khúc,
sách Cửu cung chính thủy có dẫn và chú: “truyền kỳ đời Nguyên”, còn mục kỳ
triều Minh trong sách Nam từ tự lục chú là “bản của giáo phường”. Truyền kỳ
Kim phượng thoa và Lĩnh đầu thư đã thất truyền, số khác nay vẫn còn.
Xét từ tư liệu hiện còn, hý khúc được cải biên thường thêm tên cho
nhân vật (như Vương sinh và cô thiếu nữ trong Vị Đường kỳ ngộ ký được viết
rõ là Vương Văn Tú và Lô Ngọc Hương, hoặc Cố Vân Dung), thêm tình tiết
(như truyền kỳ Nhất chủng tình thêm một đoạn Lô Nhị Cửu chỉ vẽ cách tu
luyện), điều chỉnh lại kết cấu (như đổi bi kịch ở đoạn kết Thúy Thúy truyện
thành kết thúc có hậu).
Còn về mặt chọn đề tài, hiển nhiên chủ yếu là truyện tình quanh co, day
dứt làm người đọc cảm động. Như vậy khuynh hướng chọn đề tài có khác với
nguyên tác, có thể do yêu thích và kỹ xảo của các kịch tác gia cải biên mà
khác đi, nhưng Tân thoại không nghi ngờ gì nữa, là kho báu chung cho họ.
Tiết thứ hai
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
A. KỸ XẢO NGHỆ THUẬT
Thủ pháp sáng tác xen khá nhiều văn vần vào giữa văn xuôi của Cù
Hựu có ảnh hưởng rất lớn, không chỉ gây nên hàng loạt “tiểu thuyết thơ văn”
ở Trung Quốc mà ở các nước ngoài Trung Quốc, cũng thường là trọng điểm
mô phỏng. Lấy thí dụ đoạn “trên tường treo bốn bức hoa tiên trang kim, trên
có đề thơ, thể thơ phỏng theo Bài từ bốn mùa của Tô Đông Pha, chữ thì học
lối viết của Triệu Tùng Tuyết, không rõ ai là người làm ra. Bức thứ nhất đề:…
thì ở truyện Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập người Hàn Quốc, trong
khuê phòng nhân vật chính là Thôi Nương cũng có tả:
Trên tường dán bốn bài thơ Cảnh bốn mùa, cũng không biết người nào
làm ra, nét bút phỏng theo chữ của Triệu Tùng Tuyết, hình nét cực tinh xảo.
Bức thứ nhất viết:…”
Còn Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng vậy, Kim Hoa thi thoại ký
viết:
Ông khách thấy phu nhân có làm bốn bài từ về bốn mùa đề vào bốn
bức bình bằng vân mẫu, bèn thử đọc xem. Bài thứ nhất Xuân từ:…
Bốn bài từ về bốn mùa trong Kim Hoa thi thoại ký không giúp ích gì mấy
cho sự phát triển tình tiết, nhìn theo góc độ bình luận văn học ngày nay thì đó
là thừa, song theo nhìn nhận của các nhà phê bình ngày trước với quan niệm
khác thì bốn bài này rất được hoan nghênh, chẳng hạn như lời phê ngay bên
cạnh bài từ trong sách Cựu biên Truyền kỳ mạn lục:
Trong bốn bài từ, lời trang điểm cực kỳ diễm lệ, thơm tho đáng yêu,
thực là Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị trong đám nữ lưu vậy.
Ngoài truyện Trà đồng giáng đản lục, Phạm Tử Hư du thiên tào lục,
Đông Triều phế tự truyện, Nam Xương nữ tử lục, Dạ Xoa bộ soái lục, cả bộ
Truyền kỳ mạn lục cũng có đến 3/4 văn xuôi xen với thơ, ca, từ, phú như Tiễn
đăng tân thoại, nhưng do bút văn trau chuốt, thanh nhã nên được không ít
người khen. Về điểm này, chúng ta hãy đọc thêm những lời phê ngay bên
cạnh số thơ, ca, từ, phú ấy xem họ nói thế nào.
Bài thơ Trọng Quì làm trên gối trong Khoái Châu nghĩa phụ truyện
được khen:
Lời thật là từ trời viết ra, tuyệt thanh nhã, tuyệt thanh nhã!
Bài văn Trọng Quì tế Nhị Khanh trong Khoái Châu nghĩa phụ truyện
được khen:
Lời tuyệt điệu nghìn xưa trong văn tế!
Hai bài ca của Liễu Nhu Nương, Đào Hồng Nương nâng chén tiễn biệt
Hà Nhân trong truyện Tây viên kỳ ngộ ký được khen:
Hai bài thu nhặt những sắc màn đẹp đẽ kết thành ngàn vạn đóa hoa
hàm tiếu, bông nào cũng xinh đẹp lạ thường!
Bức thư Dương thị để lại cho chồng là Thái thú họ Trịnh trong Long
đình đối tụng lục được khen là
Dòng dõi lời lẽ của Mạnh học sĩ!
Mười bài thơ liên cú của sư Vô Kỷ và danh kỹ họ Đào ngâm vịnh cảnh
vật trong núi ở truyện Đào thị nghiệp oan ký được khen là:
Núi lấy tên là Lệ Kỳ mà cảnh cũng kỳ, vật cũng kỳ, nước xuân kỳ, nhiều
thơ kỳ đều thu gom được hết, quả là vô song!
Miêu tả tuyệt kỳ, sắc màu sinh ra giữa núi!
Bài thơ đề của Từ Thức trong truyện Từ Thức tiên hôn ký được khen
là:
Một mình dạo bước Hoán Châu!
Mười bài thơ Từ Thức đề trên bức bình phong trắng trong phòng Giáng
Hương ở truyện Từ Thức tiên hôn ký được khen là:
Mười bài thơ tức sự bài nào cũng kỳ lạ, có phong cốt của Lý Trích Tiên!
Bài ca của người tiều phu trong truyện Na Sơn tiều đối lục được khen
là:
Thật là điệu nhàn dật của Nam phong!
Bài ca thích ngủ và Bài ca thích cờ của người tiều phu trong truyện Na
Sơn tiều đối lục được khen:
Bài ca thích ngủ của Trần Đồ Nam còn thua xa!
Cuộc cờ cao kỳ thay!
Bức thư Dư Nhuận Chi nhờ con vẹt chuyển cho Thúy Tiêu trong Thúy
Tiêu truyện được khen là:
Đọc thấy mà cay cả mũi!
Bài văn phán quan xướng lên để hỏi tội Lý Hữu Chi trong Lý tướn quân
truyện được khen là:
Có khẩu khí của Diêm La và Bao Công!
Bài sách của Lý Phật Sinh dâng lên Trần Giản Định trong Lệ Nương
truyện được khen là:
Có vẻ lạ đường đường chính chính!
Những trích dẫn trên đây đều là lời bình phần văn vần trong truyện
chép ở Cựu biên Truyền kỳ mạn lục và cũng là phần văn nghị luận quí giá có
sớm nhất về văn bút Nguyễn Dữ trong số tư liệu hiện còn. Tuy trong đó có
những lời khen quá mức nhưng nói theo lương tâm thì tài hoa của Nguyễn
Dữ quả có chỗ hơn người. Vả chăng trong sách có đủ mọi thể văn cũng phản
ánh trình độ Hán văn của văn nhân Việt Nam thời đó, cho thấy những thể văn
ấy có giá trị.
Nhìn chung, tình hình vận văn xen kẽ trong Truyền kỳ mạn lục có giảm
hơn so với sách gốc là Tiễn đăng tân thoại hay với sách mô phỏng cùng loại
là Tiễn đăng dư thoại và Kim Ngao tân thoại. Đáng quí hơn nữa là văn
Nguyễn Dữ trau chuốt, mặc dù trong sách có lái buôn không hiểu chữ nghĩa
mà nói được câu: “Văn tài của nàng không kém gì Dị An, ắt là có thể lấy văn
chương làm nổi tiếng cho gia đình” (Mộc miên thụ truyện), hoặc đứa trẻ còn
đang học nói mà cũng hỏi được mấy câu bằng văn ngôn: “Quân diệc phụ da?
Quân tự năng ngôn, thù bất nhược nãng thời phụ dẫn nhiên giàm mặc dã”
(“Ông cũng là cha ư? Ông lại biết nói chứ không như cha trước kia chỉ nín
thin thít”. (Nam xương nữ tử lục) song đó là hạn chế vốn có của ngôn ngữ
văn tự, không đáng bị trách cứ hà khắc. Về cơ bản, bút điệu cả cuốn sách
đáng gọi là linh hoạt mà hình tượng cũng rất sống động.
Trong truyện Na Sơn tiều đối lục, Hồ Hán Thương sai thị thần đuổi theo
mời người tiều phu làm quan thất bại, “lòng vẫn chưa nguôi, còn toan cho xe
bắt ép phải tới”, cuối cùng thẹn thành cả giận, “sai đốt cháy núi”; trong Kim
Hoa thi thoại ký, Mao Tử Biên “chợt gặp cơn mưa gió”, phải vào nhà tranh
ngủ lại nên mới có cuộc gặp gỡ lạ kỳ; trong Nam Xương nữ tử lục, trước hết
kể “Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa thái quá” để phục sẵn bút
cho chuyện thằng bé Đản… Việc xây dựng tất cả những nhân vật ấy cùng kết
cấu sắp đặt, không phải không có chỗ tuyệt hay. Tất nhiên thành tựu không
nổi bật bằng việc vận dụng ngôn ngữ, song đó lại là căn bệnh chung của tiểu
thuyết văn ngôn.
B. NỘI HÀM TƯ TƯỞNG.
Ông Hanan từng phân tích “tiểu thuyết tài hoa” (còn gọi là “tiểu thuyết
tỉa tót”) như sau:
Nhân vật chính của chúng thường là nhân vật được người coi trọng,
phần nhiều là văn nhân. Cái gọi là “quan hệ thân hòa xã hội” (social affinities)
trong loại tiểu thuyết này cũng thường lấy văn nhân làm chính… Quan hệ
thân hòa xã hội ấy chỉ giới hạn ở chỗ miêu tả phương thức sinh sống và quan
niệm về giá trị. Đứng về nhân vật trong truyện mà nói, nhân vật chính so với
nhân vật chính trong các truyện ngắn khác thường cao hơn về đẳng cấp mô
phỏng, bởi vì họ đều có một số đặc trưng về lý tưởng và có năng lực biểu đạt
khả quan.
Đối với số tiểu thuyết nhằm mục đích khoe tài, thậm chí lấy thơ làm
chính, văn làm phụ mà nói, ý kiến trên cũng khá xác đáng, song lại không
thích hợp khi dùng cho Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục. Bởi vì nội
hàm tư tưởng của Tân thoại và Mạn lục quyết không chỉ ở chỗ vẽ nên bối
cảnh của thơ từ mà nhân vật chính tùy hứng làm ra. Phương thức sinh sống
và quan niệm giá trị của văn nhân đương nhiên là trọng điểm miêu tả của hai
sách này, song hai sách đã không tiếc sức thừa để phản ánh thời đại của văn
sĩ hồi đó và phê phán xã hội.
Như tiết thứ hai, chương II của sách này đã nói, bối cảnh phát sinh của
hai mươi truyện trong Truyền kỳ mạn lục thì có đến tám, chín phần mười đều
được đặt ở thời Trần mạt, Lê sơ nhiễu nhương, loạn lạc. Trong bối cảnh đó,
yêu ma quỉ quái hoành hành và bi kịch tình yêu nảy sinh đều có quan hệ tất
nhiên với chiến tranh liên miên và chính trị thối nát. Nguyễn Dữ đã sử dụng
phương thức biểu hiện “ngụ tả thực ở lãng mạn” tương tự như Cù Hựu, thông
qua những truyện phấn son hay yêu quái mà tận tình thổ lộ mối thương cảm
và lòng bất mãn đối với cuộc đời trước mắt.
Trong Tản Viên từ phán sự lục, đền Tản Viên bị viên Bách hộ họ Thôi
“tướng bại trận của Bắc triều, hồn bơ vơ nơi Nam quốc” chiếm giữ, Ngô Tử
Văn hỏi ông thần đền cũ, tức là ông già áo vải mũ đen, làm sao không thưa
kiện với Diêm vương, tâu lên cùng Thượng đế, lại cam tâm vứt bỏ chức vị,
làm một người áo vải nhà quê, thì ông già chau mày đáp:
Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện nhưng có
nhiều phía ngăn trở. Những đền miếu quanh đây vì tham của đút, đều bênh
vực cho nó cả. Một chút lòng thành nhỏ nhoi, không làm thế nào thông đạt
được lên trên nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi nhàn một nơi vậy!
Đó chẳng chính là tệ đoan thường có ở thế giới hiện thực hay sao? Ở
Thuý Tiêu truyện, đôi người yêu Dư Nhuận Chi và Thúy Tiêu tình cảm sâu
nặng, ai ngờ bị Thân Trụ Quốc giàu sang quyền thế giơ dao đoạt mất người
mình yêu. Sinh làm đơn kiện tận triều đình, nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn,
các toà các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử!
Đó chính là lời khiển trách chính diện của tác giả đối với chính quyền
hồ đồ. Khi thì gửi gắm chốn u minh, khi thì nói thẳng không tránh né, bạn đọc
dễ dàng qua dó mà hiểu được nhân tình thế thái.
Ở Việt Nam, Phật giáo từng có không ít tác dụng đối với nền độc lập về
chính trị của nước này, nhưng địa vị chính trị của văn nhân dần dần được đề
cao, thế lực chính trị của Phật giáo suy yếu dần. Đặc biệt là sau khi triều Lê
độc tôn Nho học, Phật giáo càng yếu đi, những sư ni không theo luật pháp đã
khiến cho kinh tế xã hội không ổn định trong thời gian dài. Bởi thế cho nên,
trong Long đình đối tụng lục, sau khi thần thuồng luồng ở Hồng Châu bị tội
phải ra đi, tác giả vẫn còn thấy như thế là chưa đủ:
Tất phải làm như Hứa Tốn, Thứ Phi thì mới là việc làm khoái chá. Cho
nên Địch Nhân Kiệt khi làm tuần phủ Hà Nam, tâu xin phá hủy đến một nghìn
bảy trăm đền thờ không xứng đáng, thật là phải lắm!
Lại như ở Đào thị nghiệp oan ký, danh kỹ Hàn Than xuống tóc, mặc
quần áo nâu sồng, thế mà còn cùng Vô Kỷ buông thả tình dục, cuối cùng
không được chết già. Nguyễn Dữ cho rằng sắp xếp như thế thì mới phải lẽ:
Than ôi! Theo về dị đoan chỉ là có hại. Huống chi đã theo lại còn không
giữ cho đúng phép thì mối hại phỏng còn nói xiết được ư? Gã Vô Kỷ kia là
một kẻ gian dâm, buông thói tà dục, chẳng những dối người mà còn dối vị
Phật của hắn thờ nữa. Giá đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa môn
ngày xưa thì hẳn cũng không oan chút nào!
Thậm chí trong Đông Triều phế tự truyện, tác giả còn ngang nhiên công
kích:
Than ôi! Cái thuyết nhà Phật thật vô ích mà có hại quá lắm. Nghe lời
nói năng thì từ bi, quảng đại, tìm sự ứng báo thì bắt gió mơ hồ. Dân kính tin
theo đến nỗi có người phá sản để cúng cho nhà chùa. Nay xem cái dư nghiệt
ở trong một ngôi chùa nát mà còn gớm ghê như thế, huống ngày thường cúng
vái sầm uất, phỏng còn tai hại đến đâu!… Ước sao có hàng trăm ông Hàn
Xương Lê ra đời, xúm lại mà đánh, đốt hết sách và chiếm hết nơi họ ở thì mới
có thể được!
Lời bàn trên đây quyết không phải do tín ngưỡng cá nhân Nguyễn Dữ
có gì khác mà thành ra thế. Thực ra đó là dựa vào bối cảnh đặc thù mà nên.
Xã hội không công bằng và tác hại của tà thuyết dị đoan khiến Nguyễn
Dữ phẫn nộ không thôi, còn vợ con ly tán, cửa nát nhà tan do chiến tranh loạn
lạc càng khiến ông đau đớn khôn xiết. “Nước nhà từ ngày họ Hồ tiếm vị, ngày
tháng hoang chơi, triều chính đổ nát, họa hoạn sẽ xảy ra chỉ trong sớm tối…
Bây giờ binh lửa rối ren, đường xá gập ghềnh cách trở” trong Khoái Châu
nghĩa phụ truyện, “chẳng bao lâu, nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành,
bắt nhiều lính tráng… Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh đưa Trần Thiêm
Bình về nước, phạm vào ải Chi Lăng” trong Nam Xương nữ tử lục, “cuối đời
nhà Hồ, tướng Minh là Trương Phụ chia binh vào cướp, lấn chiếm kinh kì.
Tướng giặc là Lã Nghị bắt mấy trăm phụ nữ, đóng giữ ở phủ Thiên Trường”
trong Lệ Nương truyện, “Cuối đời Trùng Quang nhà Trần, người chết rất
nhiều, oan hồn không nơi kêu xin” trong Dạ Xoa bộ soái lục v.v… đem so với
sự thực lịch sử thì đều chính xác có thật. Đồng thời, những chuyện chia ly
đảo lộn đó đến thời Nguyễn Dữ sinh sống là cuối đời Lê, đầu đời Mạc lại diễn
ra lần nữa, thảo nào mà Nguyễn Dữ muốn lên tiếng đánh dẹp bằng bút mực.
Điều đáng chú ý là đối tượng bị hai mươi truyện trong Truyền kỳ mạn
lục đánh dẹp chủ yếu có hai: một là, quân Minh sang xâm chiếm thời đó bị
dân chúng căm ghét cực độ xuất phát từ ý thức dân tộc, cho nên trong Lệ
Nương truyện, người ta gọi Lã Nghị v.v… bằng “tặc tướng”. Phật Sinh sau khi
cải táng cho vợ xong xuôi, buồn bã trở về, “đến khi vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa
ở Lam Sơn, Phật Sinh vì mối hờn oán cũ chưa được giải, đem quân ứng mộ,
phàm gặp tướng sĩ nhà Minh đều chém giết dữ dội cho hả. Cho nên trong
việc dẹp yên giặc Ngô, chàng có dự nhiều công”; hai là, cha con Hồ Quí Ly,
Hồ Hán Thương thoán đoạt ngôi nhà Trần tự lập bị công kích, phê phán do
quan niệm chính thống. Cho nên tác giả gọi là “Nhuận Hồ” trong Khoái Châu
nghĩa phụ truyện; Nhị Khanh sau khi hoàn hồn cùng chồng chuyện trò thủ thỉ
đã không quên báo cho chồng biết trước: “Nhà Hồ hết lộc năm Bính Tuất,
binh cách nổi lớn… Bấy giờ có vị chân nhân họ Lê xuất hiện từ miền Tây
nam, chàng nên khuyên hai con bền chí đi theo, thiếp dù chết cũng không
nát”; ở Đà Giang dạ ẩm ký, tác giả mượn lời cao đàm khoát luận của Viên tú
tài, Hồ xử sĩ làm cho Hồ Quí Ly cứng họng, không nói lại được lời nào; lại ở
Na Sơn tiều đối lục, tác giả mượn lời người tiều phu đả kích mạnh vua tôi Hồ
Hán Thương bất tài, ham vui thú. Những lời trích trên đây, quả có thể coi là
một cách tác giả “nói đây chết cây trên rừng” trước việc cha con Mạc Đăng
Dung, Mạc Đăng Doanh tiếm ngôi nhà Lê, dựng nên triều “ngụy Mạc”. Có
điều, hiện thực rốt cuộc là hiện thực, Nguyễn Dữ không thể ngăn sóng dữ nên
vẫn đầy cảm giác bất lực trong lời gào thét lên án thời cuộc, thế thái của ông.
Cho nên ông chỉ có thể học tập Cù Hựu, để cho viên tướng họ Lý; coi lũ trộm
cướp như tâm phúc, còn người nho sĩ như cừu thù” xuống âm phủ chịu đủ
loại cực hình “lấy nước sôi rửa ruột”, “lấy lưỡi chủy thủ moi ruột”; hoặc cho
Văn Dĩ Thành xuống âm ty làm Dạ Xoa bộ soái, bởi “Diêm La tuyển người
không khác gì tuyển Phật, không thể đút lót mà được hay cầu may mà nên”
như ở dương gian; hoặc để cho dật sĩ Từ Thức “không vì số lượng năm đấu
gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh “được tới Nam Nhạc trải một đoạn
đời lấy vợ tiên; hoặc để cho Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào một chuyến,
tham quan các cửa Tích Đức, cửa Thuận Hạnh, cửa Nho Thần, gặp được
người hiền và mong được bằng họ…
C. ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NƯỚC MÌNH
Truyền kỳ mạn lục nhắc đến rất nhiều nhân vật, như Hồ Tông Thốc
(Hạng vương từ ký) Nguyễn ức Trai (Tây viên kỳ ngộ ký), Nguyễn Bằng Cử
(Na Sơn tiều dối lục), Nguyễn Trung Ngạn (Thúy Tiêu truyện), Sái Lã Đường
(Kim Hoa thi thoại ký) v.v… Họ đều là danh sĩ Việt Nam có thật ở cuối đời
Trần đầu đời Lê. Nguyễn Dữ đưa họ vào tiểu thuyết, tất nhiên chưa hẳn chỉ
dựa vào lịch sử, cho nên ở sách Toàn Việt thi lục, dưới tiểu truyện Hồ Tông
Thốc có chú: “Truyền kỳ mạn lục có chép bài thơ Đề đền Hạng vương nhưng
đấy là thơ do Nguyễn Dữ làm ra và mượn tên ông Hồ Tông Thốc, vì thế
không chọn. Nhưng sách Bắc sứ giai thoại lại tin chắc nên mới có đoạn viết
rằng: “Sau ông vâng mệnh đi sứ phương Bắc, qua đền Hạng vương, đề thơ
rằng… Đêm ấy, nằm mộng thấy Hạng Vũ cho sứ giả triệu đến nói chuyện. Vì
văn chương Truyền kỳ mạn lục điển nhã, tình tiết lạ kỳ, cho nên những thí dụ
về việc truyện được truyền tụng, ghi chép trong sách khác không chỉ có vậy
mà thôi.
Còn như ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục ở Việt Nam như thế nào,
cho đến nay chúng tôi chưa biết có ai nghiên cứu chuyên đề, lại thêm cách
trở về địa vực và về ngôn ngữ, nên khó có thể tiến hành nghiên cứu toàn
diện. Có điều, trong số tư liệu bằng chữ Hán của Việt Nam có được, chúng tôi
phát hiện ít nhất sách đã có ảnh hưởng về ba phương diện như sau:
a. Đối với tiểu thuyết truyền kỳ
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm truyền kỳ đầu tiên trong văn học sử của
Việt Nam; trước đó, tiểu thuyết dừng lại ở giai đoạn thần thoại, chí quái, sau
đó mới bắt đầu có phong khí sáng tác tiểu thuyết truyền kỳ, tác phẩm phỏng
theo cũng nhiều.
Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san phần I, tập 2, loại truyền kỳ gồm
ba cuốn: Truyền kỳ tân phả, Thánh Tông di thảo và Việt Nam kỳ phùng sự lục,
trong đó Truyền kỳ tân phả của nữ tác giả Đoàn Thị Điểm (còn gọi là Nguyễn
Thị Điểm, 1705-1748) là cuốn mô phỏng Truyền kỳ mạn lục sớm nhất hiện
còn.
Phan Huy Chú trong Văn nghệ chí sách Lịch triều hiến chương loại chí
viết:
Tục truyền kỳ, 7 quyển, nữ học sĩ Nguyễn Thị Điểm soạn, kể các việc
hội ngộ linh dị là Bích Câu kỳ ngộ, Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, Hoành
Sơn tiên cục, An Ấp liệt nữ, Nghĩa khuyển khuất miêu, cả thảy sáu truyện.
Văn từ hoa lệ, nhưng khí cách hơi yếu, kém hơn sách trước.
“Sách trước” ở đây chỉ Truyền kỳ mạn lục, còn Tục truyền kỳ nay không
còn. Truyền kỳ tân phả được chọn vào Tùng san trong đó có bốn truyện là
Hải khẩn linh từ lục, Vân Cát thần nữ truyện, An Ấp liệt nữ truyện, Bích Câu
kỳ ngộ ký và hai truyện phụ lục: Tùng bách thuyết thoại, Long hổ đấu kỳ ký,
có thể không phải đều của bà Thị Điểm. Nhưng nếu chúng ta quan sát kỹ thì
sẽ thấy ngay rằng truyện nào cũng có dấu vết mô phỏng Mạn lục cả.
Nay lập bảng đối chiếu lược kể những dấu vết đó:
Truyền kỳ tân phả
Hải khẩu linh từ lục
“Đa tạ quân vương, từ nay vĩnh
biệt, không thể ở bên để hầu hạ
nữa”… Thấy một cô gái trẻ tuổi từ
dưới nước đi lên, vái lạy khóc rằng…
Truyền kỳ mạn lục
Nam Xương nữ tử lục
Nàng vẫn ở giữa dòng mà nói
với vào: “Thiếp cảm ơn đức của Linh
Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ.
Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại
về nhân gian được nữa.
Vân Cát thần nữ truyện
Nay từ biệt kiếp trần, trở về hầu
hạ đế đình, thiếp chẳng thể lại về
nhân gian được nữa.
Vân Cát thần nữ truyện
Hoặc mượn hình thể cô gái đẹp
thổi tiêu ngọc dưới ánh trăng, hoặc
hoá thành bà già, tựa gậy trúc bên vệ
đường. Hễ kẻ nào dám buông lời
chọc ghẹo đều bị tai ương, còn dùng
tiền bạc để cầu xin thảy đều được
phù hộ.
Xương Giang yêu quái lục
Hoặc thác hình hài chị ả buôn
tương, hoặc mượn hình thể cô nàng
bán rượu; người có vai vế thì bị dâm
sát, người có tiền của thì bị lột lấy.
Vân Cát thần nữ truyện Hạng vương từ ký
Nếu các ông không sẻn vung
bút thì cũng giai thoại trong cuộc gặp
gỡ.
Phiền ông gột rửa giùm cho, thì
cũng là một việc thú trong cuộc gặp
gỡ.
An ấp liệt nữ truyện
Sinh thầm biết là đền liệt nữ…
bèn cầm bút đề một bài thơ luật trên
vách rằng… Đề xong, thừa tửu hứng
về nơi trọ… thấy một cô gái áo xanh
tới trước mặt thưa rằng: “Vâng chỉ
của phu nhân, có lời mời tiên sinh”.
Xin nói cho ông nghe… Có
người điếu rằng… Có người viếng
rằng…
Hạng Vương từ ký
Đi qua dưới đền Hạng vương,
đề thơ rằng… Đề xong, ruổi ngựa trở
về nhà trọ. Rượu say nằm ngủ, thấy
một người tới trước mặt thưa rằng:
“Vâng chỉ của đức vua tôi, mời ngài
đến nói chuyện”.
Xin nói để ông rõ… Có kẻ bảo…
có kẻ bảo…
Bích câu kỳ ngộ ký
Không ngờ ngu dân hạ giới,
khinh bạc gió Hán, thích bày chuyện
nói xằng… Lọai vu cáo phỉ báng đó
nói ra bừa bãi, khiến người đời truyền
đi thành bia miệng. Như là câu… Như
là câu… Kẻ sĩ quân tử cầm bút lập
ngôn, nếu muốn làm chuyện lạ truyền
cho đời, há không có chuyện gì khoái
trá hay sao, mà đến nỗi phỉ báng tới
cao minh, giễu cợt lên thượng giới?
Kim Hoa thi thoại ký
Không ngờ những kẻ thiển bạc,
bày chuyện nói xằng, thường làm
những câu thơ mỉa giễu. Như là
câu… Như là câu:… Sĩ quân tử ở
trong danh giáo, thiếu gì thú vui, hà
tất lại lấy không làm có, trổ phải ra
quấy, đem chữ nghĩa ra mà đùa cợt
như vậy sao?
Long hổ dấu kỳ ký
Ngài về giở ra mà xem, sẽ tha
hồ đọc.
Kim Hoa thi thoại ký
Cứ về giở ra mà xem, sẽ tha hồ
học.
Tùng bách thuyết thoại Na Sơn tiều đối lục
Hà nói: “Kẻ sĩ ai có chí của
người nấy…
Tiều phu nói: “Kẻ sĩ ai có chí
của người nấy…
Tùng bách thuyết thoại
“Bàn về tùng bách, sĩ nông đã
đủ gợi mở lòng, sao ngài không vung
bút làm mấy vần hay về tùng bách để
nhớ mãi?” Bèn làm một bài thơ tùng
rằng…
Đà Giang dạ ấm ký
“Chúng tôi vốn là người phóng
lãng, không chịu ở trong vòng ràng
buộc. Trước vẫn hay thơ, ngâm vang
cả hang núi, há lại không có lời nào
để ký thực ư?” Hồ bèn ngâm rằng…
Tùng bách thuyết thoại
Thiếp thành thật chia đỡ tiếng
cười ấy.
Từ Thức tiên hôn ký
Thì đã có những người trước
chia đỡ tiếng cười cho.
Tùng bách thuyết thoại
cố nhân tìm cố nhân, chẳng
ngờ cố nhân bạc bẽo với cố nhân
như thế!
Dạ Xoa bộ soái lục
Cố nhân biết ông, ông không
biết cô nhân là sao vậy?
Tùng bách thuyết thoại
Có biết đâu dắt dẫn rèn cập
đều là công sức của thầy bạn giúp
cho như thế.
Pham Tử Hư du thiên tào lục
Không biết rằng ngày thường
dắt dẫn rèn cặp phần nhiều đều là
công sức của thầy bạn.
Những chỗ nêu như trên, ngoài văn từ ra, tình tiết cũng khá giống nhau,
nhất là đoạn kể chàng Trần Uyên được lấy vợ tiên là Giáng Kiều trong Bích
Câu kỳ ngộ ký có quan hệ mật thiết nhất với Từ Thức tiên hồn lục trong
Truyền kỳ mạn lục. Điều thú vị là xem xét nửa sau Hải khẩu linh từ lục kể
chuyện Quảng Lợi vương, việc dùng điển “mấy chục năm sau, lại được nối
duyên cùng Hưng Nương” trong Vân Cát thần nữ truyện, việc nhờ kẻ tài tử ở
trần gian rửa nỗi oan trong Bích Câu kỳ ngộ ký, sẽ thấy tác giả Truyền kỳ tân
phả có thể đã trực tiếp tham khảo những truyện Thủy cung khánh hội lục, Kim
phượng thoa ký, Giám Hồ dạ phiếm ký trong Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu.
Phần nội dung Truyền kỳ tân phả có xen kẽ nhiều thơ phú rất dài như
Tứ tự từ trong Vân Cát thần nữ truyện, lại còn thường chơi chữ nên “khí
cách” so với Truyền kỳ mạn lục quả có “kém” hơn nhiều.
Thánh Tông di thảo là một cuốn tiểu thuyết Hán văn rất có giá trị, song
không có quan hệ với Truyền kỳ mạn lục bao nhiêu. Trái lại Việt Nam kỳ
phùng sự lục của tác giả vô danh nói rõ: “Người đẹp thời nay đâu lại dễ có
được? Thật quả là câu chuyện Giáng Hương lại thấy giữa hôm nay chăng?”,
“Giáng Hương gặp được Từ Thức”; truyện Ngọc thân huyễn hóa phụ lục cuối
sách này cũng viết: “Tới khi thuyền qua Nam Xương, ấy là nơi miếu cũ của
Vũ Nương, bèn ngâm rằng: Dòng thu trăng ngấn trăng dầm sương, Sông lạnh
trăng mờ nhớ Vũ Nương, Nghiệp báo thương thay sinh bé Đản, Bóng in đâu
nỡ trách chàng Trương…”. Đó đều là những điển vốn có trong Truyền kỳ mạn
lục.
Ngoài ra, tiểu thuyết truyền kỳ chịu nhiều ảnh hưởng của Truyền kỳ
mạn lục còn có Tân truyền kỳ mạn lục của Phạm Quý Thích. Sách hiện có ở
thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm tại Hà Nội, ký hiệu A. 2315. Đầu sách có
tựa như sau:
Sách này do chính tay ông Phạm Quí Thích viết nên. Ông người xã
Hoa Đường, huyện Đường An. Năm mười chín tuổi, ông đỗ tiến sĩ thịnh khoa.
Thuở nhỏ, cha mẹ đều mất sớm, ông đã nổi tiếng thần đồng. Ông từng nhận
chức Tri công phiên triều Lê. Cuối thời Lê Chiêu Thống, ngụy Tây Sơn lấy
nước, ông ở ẩn không ra làm quan, vui với nghề dạy trẻ. Ông lấy làm xấu hổ
khi thấy nhiều tiến sĩ cũ triều Lê thay lòng đổi dạ, bán nước mưu sinh, vì vậy
ông đặt ra truyện này để chế giễu. Vì là tác phẩm soạn riêng cho gia đình,
không muốn cho người ngoài biết nên sách này ít thấy.
Nay còn sót lại có Bần gia nghĩa khuyển truyện, Vũ trùng giác thắng ký
và nửa đầu truyện Miêu khuyển đối thoại. Có thể do liên quan với động cơ
sáng tác của tác giả nên kẻ sĩ trong các truyện ngụ ngôn đều “chuyện trần tục
không thèm để mắt tới, chuyện lo đời gác ngoài chốn thiên nhai, để tinh thần
rong chơi nơi nước trí non nhân, nói chuyện lòng nơi giàm danh khoá lợi”
(Miêu khuyển đối thoại), “chỉ say mê đánh cờ, làm thơ để tiêu khiển tháng
ngày” (Vũ trùng giác thắng ký), “qua những nơi danh lam, cổ miếu, quán tránh
rét, đài hóng mát, chỗ nào có thể ngâm vịnh được, đều có phẩm đề” (Bần gia
nghĩa khuyển truyện) như Từ Thức trong Truyền kỳ mạn lục.
Lại như quyển Truyền văn tân lục nghe nói do Nguyễn Diễn Tề soạn
cũng là phỏng theo Truyền kỳ mạn lục, còn cuốn Ngoại truyền kỳ lục, 100
trang ở Thư viện khoa học xã hội Việt Nam dường như cũng có liên quan với
Truyền kỳ mạn lục, song chưa được thấy sách nên tình hình tường tận còn
chờ khảo cứu sau.
b. Đối với diễn nghĩa lịch sử.
Đến nay được biết, diễn nghĩa lịch sử bằng chữ Hán của Việt Nam có
bốn bộ, theo thứ tự thời đại là Hoàng Việt xuân thu, Việt Nam khai quốc chí
truyện, Hoàng Lê Nhất thống chí và Hoàng Việt long hưng chí. Ba bộ đầu đã
đưa vào phần I, tiểu thuyết lịch sử của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san,
bộ cuối cùng sẽ đưa vào phần II sách trên. Đặc trưng chung của bốn bộ là
chưa qua giai đoạn “nói sách” (thuyết thư), chỉ do sử quan, văn sĩ thế gia
mượn hình thức tiểu thuyết viết với tâm tình, thái độ biên soạn lại lịch sử.
Trong bốn bộ nói trên, Hoàng Việt xuân thu chia làm ba tập Thượng,
Trung, Hạ, mỗi tập 20 hồi, tổng cộng 60 hồi. Họ tên, niên đại về tác giả tuy
chưa khảo sát nhưng về hình thức mà nói sách phải hoàn thành vào thế kỷ
XVII, thậm chí còn lui về sau hơn nữa.
Cả bộ kể những sự kiện lịch sử cùng mối xung đột giữa nước Nam và
triều Minh từ khi Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần (1400) cho tới khi Lê Thái Tổ
xưng đế (năm 1428). Do thời đại được diễn nghĩa nhất trí với bối cảnh lịch sử
của nhiều truyện trong Truyền kỳ mạn lục, không khí sử truyện trong sách khá
đậm nên không ít nội dung của Mạn lục được đưa vào Hoàng Việt xuân thu.
Sau đây là một đoạn trong nửa đầu hồi thứ sáu Tuần Nam hải Quý Ly
ngộ quỷ:
Bấy giờ ở Liêu Đông có người đàn bà họ Đinh vốn con nhà khuê các,
thông thạo chữ nghĩa. Trong lúc chồng đi xa, nàng ở nhà một mình chong
ngọn đèn khuya, chăm chí lo chức phận người khuê phụ. Nhìn lên bóng đèn
trên vách, lòng thấy bồi hồi, nàng chợt chạnh nhớ tới chồng, bèn ngâm bài
thơ như sau:
Vô ngôn hà sự lộng hình thần,
Ẩn ước đăng tiền dục não nhân.
Tọa ngọa vị năng ly chỉ xích,
Lương tiêu hạnh đắc cộng tương thân
(Không nói vì sao hiện bóng hình,
Đèn khuya thấp thoáng não tâm tình.
Nằm ngồi chẳng chịu xa gang tấc,
May được bên nhau đêm vắng thanh)
Ngâm xong, nàng nhìn bóng mình rồi viết luôn thơ lên vách.
Chồng nàng về, thấy bài thơ liền sinh nghi, mắng rằng:
- Tôi đi vắng chưa bao lâu mà nàng đã động lòng tư tình, dan díu với
người ngoài!
Nàng đáp:
- Thiếp đâu dám như vậy.
Chồng nói:
- Bút mực sờ sờ ra kia, còn chối gì nữa?
Nàng thưa:
- Thiếp từ thuở còn thơ đã nâng khăn sửa túi cho chàng, không hề thay
lòng đổi dạ, trước sau vẫn một niềm chung thủy, nào có dám manh tâm như
Tiểu Ngọc, hành động như Văn Quân? Bài thơ kia là vịnh cái bóng của thiếp
đó thôi.
Chồng không nghe, đánh liền ba bốn trận, anh em, họ hàng cố cãi cho
nàng nhưng chồng vẫn không nghe. Người vợ phẫn uất, đang đêm chạy ra
chỗ cây ngô đồng, nhảy xuống giếng tự tử.
Đoạn trên rõ ràng được cải biên từ Nam Xương nữ tử lục trong Mạn
lục. Đoạn tiếp theo viết:
Từ đấy về sau, vào những hôm mây mưa kéo đến tối trời, thường thấy
có người con gái thân hình kiều diễm, điểm trang lộng lẫy, hoặc hát hoặc
múa, hoặc cười hoặc nói, tựa mình dưới bóng râm cây cối. Người bấy giờ ai
cũng lấy làm lạ, bảo nhau: “Người như thế không phải Hằng Nga nơi điện
Quế thì ắt là tiên nữ chốn lầu Quỳnh”.
Một hôm có khách buôn Bắc quốc từ kinh thành về ngang qua đây,
thấy bên gốc cây có cô gái trẻ ngồi một mình ra chiều tư lự, mắt đăm chiêu
như có ý chờ ai. Người khách buộc thuyền lên bờ, buông lời trêu ghẹo. Cô gái
vui vẻ đi ra, ra đến bờ sông thì không thấy đâu nữa. Người khách thất kinh rồi
nhuốm bệnh, chết ngay dưới thuyền. Từ đó về sau, khi thì quyến rũ người
trong thôn, khi thì mời mọc khách qua đường. Người nào không may gặp
phải, tai họa chẳng bao lâu sẽ xảy ra, có đến cả trăm người, thiên hạ không
còn ai dám đến gần nữa.
Đoạn trên đây rõ ràng là sự pha trộn giữa Mộc miên thụ truyện và
Xương Giang yêu quái lục trong Mạn lục. Cô gái hàm oan phải nhảy xuống
giếng tự tử rồi biến thành yêu quái mà Hồ Quí Ly trong Hoàng Việt xuân thu
gặp phải chính là hóa thân của người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết, của
con ma cây gạo và yêu quái Xương Giang Hồ Thị Nghi.
Lại như nửa đầu hồi thứ hai mươi sáu Yến giang trung, Quí Khoáng
ngộ yêu:
Lại nói vua Trần hạ lệnh cho ba quân bày tiệc. Bấy giờ vua ngự thuyền
rồng neo ở giữa sông, còn Quí Khoáng qua đêm trên lâu thuyền buộc cạnh
bờ. Khoảng đầu canh hai, Khoáng thấy lính gác vào báo có hai vị đạo sĩ, một
người xưng là Viên tú tài, một người xưng là Hồ xử sĩ xin được yết kiến. Quí
Khoáng cho mời vào… Khoáng thấy lời lẽ là của nhà nho tuấn nhã bèn sai
mang rượu ra đãi, nói:
- Nay thiên tử nghe nói trong rừng có con cáo biến thành gái đẹp để hại
người nên xa giá đi tuần miền Tây để diệt trừ yêu quái, cứu mạng cho dân.
Xử sĩ họ Hồ nói:
- Sài lang đang ngăn giữa đường, sao lại hỏi đến chồn cáo? Kìa giặc
Bắc đang ngông nghênh, nước Nam dang rối loạn. Cá mập chó hoang cắn
hại người đã nhiều, chuột cống chồn thành, đào khoét cũng lắm. Nay thiên tử
trên thì có năm con rồng bay, dưới thì có ba con ngựa chạy, quân đều nhue
hùng, hổ, giương cờ Quang Vũ giữa Hán đô, lính thảy như cọp, beo, cờ Túc
Tông quay lại Đường kinh; ra khỏi Hàm Tử thì Lưu Dục rơi đầu, qua sông
Quyết Giang thì Lã Nghị bỏ mạng. Với oai hùm như thế, dường quét kiến bọn
kia. Giặc kia ô hợp, dân được yên vui. Nếu bỏ đây mà cầu đó thì khác nào
khinh gà nhà mà yêu cò trời vậy. Là tướng đứng đầu, sao không dâng lời ấy
lên trên?
Quý Khoáng thấy hai người lời hay lẽ phải, bèn đáp rằng:
- Lỗi của tôi to lắm, ngày tới xin tâu với thiên tử hồi loan.
Hai người từ tạ lui ra, nhìn theo thấy họ nhảy vào rừng, chợt hóa thành
một con cáo và một con vượn.
Đoạn này thoạt xem đã biết ngay là đoạn rút gọn truyện Đà Giang dạ
ẩm ký ở quyển 3 Truyền kỳ mạn lục, chỉ có khác đổi Quý Ly thành Quí
Khoáng mà thôi. Ở hồi 6 và hồi 26 sách Hoàng Việt xuân thu, tác giả chen
vào hai chuyện gặp ma và gặp yêu quái, khiến cho chuyến đi tuần của nhà
vua không thực hiện được. Đoạn trước đối chọi với đoạn sau, đủ thấy truyện
đã qua thiết kế có cân nhắc, song dù là sự phát triển của cốt truyện, sắp xếp
kết cấu, nội dung tư tưởng cho chí dùng chữ, đặt câu, đều không thể thoát ra
khỏi ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục.
c. Về phương diện tín ngưỡng dân gian.
Ở truyện Từ Thức tiên hôn lục trong Truyền kỳ mạn lục, Từ Thức dưới
bút Nguyễn Dữ sau khi lấy được tiên, thì “mặc áo cầu nhẹ, đội nón lá ngắn,
vào núi Hoành Sơn rồi không biết đi đâu mất, như thế chỉ là vị ẩn sĩ mà thôi.
Nay tìm trong dân gian, chúng ta phát hiện Từ Thức đã thăng cách lên là
thần, trở thành đối tượng được thờ cúng theo tín ngưỡng.
Trong thư tịch chữ Hán của Việt Nam có cuốn Hội chân biên, tác giả
Thanh Hòa Tử ở quyển Càn, mục Chân nhân núi Hoành Sơn viết:
Ở Hóa Châu có người họ Từ tên Thức, năm Quang Thái đời Trần
Thuận hoàng được bổ làm quan huyện Tiên Du. Bên cạnh huyện có một tòa
chùa danh tiếng mở hội xem hoa, ngựa xe kéo đến nhộn nhịp. Dưới gốc mẫu
đơn kia có người thiếu nữ đùa vin mấy cành hoa, đóa hoa bỗng rụng, thiếu nữ
bèn bị người trông hoa bắt lấy. Thức chợt đi ngang đó, bèn cởi áo cầu đang
mặc ra chuộc cho nàng đi. Từ Thức vốn thích du ngoạn núi sông, chẳng bao
lâu cởi trả mũ áo, tới chơi núi Tông Sơn. Đi ngang qua Nga Sơn, ngẫu nhiên
tới động Bích Đào, vách núi dựng đứng như tường. Thơ nghĩ xong, toan đề
lên vách thì động đột nhiên mở ra, thấy một tiểu đồng ra mời vào. Từ Thức
hỏi nguyên do, tiểu đồng thưa lại, bấy giờ mới biết thiếu nữ gặp độ trước là
tiên, tên Giáng Hương. Chẳng bao lâu đắc đạo, để lại dấu vết tới ngày nay, vì
thế động ấy gọi là động Từ Thức. Ít lâu sau, Từ Thức ra khỏi động, lên núi
Hoành Sơn ở huyện Nông Cống, rồi không biết cuối cùng đi đâu. Người đời
thường gọi ông là “Vũ khách Hoành Sơn”.
Tuy Thanh Hòa Tử ở mục Nàng tiên Giáng Hương quyển Khôn viết:
“Mạn lục của ông Nguyễn chép chuyện lấy vợ tiên, ấy là đặt ra, không đáng
tin”; lại “năm Đinh Dậu thời Cảnh Hưng nước Việt” đề ở “Bích Câu đạo quán”
rằng: “Chuyện Từ Thức lấy tiên, là do ông Nguyễn Dữ tô vẽ ra cho lạ kỳ vậy”,
song bất kể chúng ta xét từ tình tiết hay từ câu thơ: “Thanh Tuyền chuyện lạ
nghìn thu ấy” được phụ lục ở mục Đạo nhân Hoành Sơn, đều có thể xác định,
câu chuyện Từ Thức, Giáng Hương mà ông đã kể lấy từ Từ Thức tiên hôn lục
mà ra, chỉ có điều trên cơ sở lập trường tôn giáo, không tiếp thu tình hình lấy
tiên quá lãng mạn mà thôi! Ngoài ra ở sách Bích Câu kỳ ngộ thực lục do
Phạm Tử Trọng biên soạn vào “Thiệu Trị năm thứ 6” (1846), chúng ta cũng
thấy “chân nhân Từ Thức”, “Thanh nương Giáng Hương” được đưa vào lược
truyện các vị tiên nữ hoặc nam của Việt Nam.
Rất có thể Từ Thức, Giáng Hương là những nhân vật truyền thuyết vốn
đã tồn tại ở thời Nguyễn Dữ; sau khi được ông đưa vào truyện Từ Thức tiên
hôn lục thì càng được truyền bá rộng rãi, đến mức cuối cùng được nhân sĩ
Đạo giáo tôn làm thần tiên. Truyền kỳ mạn lục về mặt tín ngưỡng dân gian lại
có được ảnh hưởng xô sóng đẩy thuyền như thế, thật là điều khiến người ta
cảm thấy bất ngờ.
Tiết thứ ba
TIỂU KẾT
Trương Tăng Nguyên nói: “Cù Hựu bằng văn bút mới mẻ, tình tiết
quanh co cảm động lòng người đã thu hút không ít độc giả”. Câu này đề cập
đến một phần nguyên nhân khiến Tiễn đăng tân thoại lưu hành rộng rãi. Quả
vậy, bằng tài năng bác nhã và ngọn bút riêng có của nhà thơ, Cù Hựu đã cấu
trúc nên nhiều câu chuyện hay khiến người đọc say mê; đặc biệt là về kỹ xảo
vận dụng ngôn ngữ, những câu thơ, văn của ông rất “bắt mắt”, tạo nên phong
cách khác với truyền kỳ Đường, Tống. Về phương diện này, Nguyễn Dữ cũng
không khác Cù Hựu. Mặc dù “Xem văn từ của sách thấy không ra khỏi phên
giậu của Tông Cát”, song ông đã biết chọn lấy những tinh hoa của Tiễn đăng
tân thoại, chứng tỏ năng lực thưởng thức của ông không xoàng, hơn nữa
mức độ tu dưỡng về Hán văn của cá nhân ông rất cao, khiến Truyền kỳ mạn
lục mang hơi thở điển nhã, thanh lệ, thành tựu nghệ thuật cũng rất khả quan.
Tuy nhân vật của hai ông khắc họa chưa chi tiết, tỉ mỉ lắm, kết cấu sắp đặt
chưa thật mới mẻ, song chủ yếu đó là vì hạn chế vốn có của thể văn biền
ngẫu trong văn ngôn.
Văn bạch thoại nói tới điều gì cũng nói được hết, sở trường về miêu tả
sự vật. Văn của văn ngôn thì tinh giản, cô đọng, sở trường về tỏ ý, vì thế khi
đọc tiểu thuyết văn ngôn, chúng ta nên chú ý tới “âm điệu ngoài dây đàn”. Âm
điệu ngoài dây đàn của Tiễn đăng tân thoại thực ra là nội hàm sâu sắc được
ẩn giấu đằng sau những lời văn ưu nhã:
Trong những câu chuyện hoang đản không bình thường, chúng ta thấy
được cuộc sống của những văn nhân trong xã hội hỗn loạn khốn khổ gian
nan biết chừng nào, thậm chí cả đến một người vợ thôi cũng không bảo vệ
nổi; ở đấy, người với người tàn sát nhau chẳng khác nào dã thú, dù người
nào có một bụng thi thư thì cũng phải khuất phục làm kẻ dưới, thậm chí làm
nô lệ cho người. Đó quả thật là thời đại đen tối nhất cho kẻ sĩ.
Truyền kỳ mạn lục cũng là tác phẩm văn học của thời loạn. Thông qua
tác phẩm, chúng ta biết được Việt Nam cũng từng có một thời không yên ổn
và một xã hội loạn ly, đồng thời cũng biết tác giả một mặt có ý đồ mượn việc
thuật lại những câu chuyện tình yêu bi kịch, mượn những lời thuyết lý về nhân
quả báo ứng, hoặc bình luận những việc đã qua của triều cũ để thương kẻ
khốn cùng, xót người oan khuất, thổ lộ nỗi đau đớn, bất lực trong lòng; mặt
khác ra sức khuyến thiện trừng ác, nỗ lực biểu dương trinh tiết, ca ngợi hiếu
trung. Về mặt sáng tác, cả hai ông Nguyễn Dữ và Cù Hựu đều nhất trí sử
dụng bút pháp ngụ tả thực trong lãng mạn; về mặt tư tưởng, cả hai ông đều
noi theo tinh thần truyền thống của nhà nho Trung Quốc.
Chỗ khác nhau giữa hai ông là, Cù Hựu viết Tiễn đăng tân thoại vào
những năm đầu niên hiệu Hồng Vũ dưới chính thể của người Hán, song ông
không ca ngợi vương triều mới được dựng nên, cũng không nhấn mạnh phân
biệt Hoa, Di như những trí thức thời Minh, Thanh mà đi thẳng ngay vào việc
đánh dẹp “rợ Hồ”. Trong quan niệm của ông, dường như chỉ có niềm cảm
khái quan tâm đến trị, loạn, hưng, suy của đất nước, cho nên điều ông
nghiêm khắc phê phán tố cáo là việc làm loạn ở các địa phương của Trương
Sĩ Thành cùng nỗi cơ cực của trăm họ.
Còn Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì không như thế. Xưa nay,
thuyết chính thống của Trung Quốc vẫn ảnh hưởng tới các nước Nhật, Hàn,
Việt, “tạo nên tư tưởng tôn vương trên cơ sở của thuyết chính thống, nhấn
mạnh đến đại nghĩa của danh phận, khiến cho những phần tử có dã tâm ở
những nước này không thể không kiêng dè, do đó mà tăng cường lực hướng
tâm trong nội bộ những nước đó, ít nhiều giúp cho cục diện chính trị ở nước
họ được ổn định”, “tạo nên tư tưởng đánh dẹp rợ ngoài trên cơ sở của thuyết
chính thống, nhấn mạnh việc phân biệt trong ngoài, do đó mà thức tỉnh ý thức
dân tộc ở nước này, gợi mở tinh thần phấn phát đồ cường của nước họ”.
Trong bối cảnh như vậy, đối tượng mà Nguyễn Dữ đã mượn Mạn lục để đánh
dẹp tất nhiên được đặt ở nỗi lo bên trong (“nhuận Hồ”, “ngụy Mạc”) và hoạn
nạn bên ngoài (nhà Minh đưa quân sang); không nghi ngờ gì nữa, tinh thần
ẩn chứa càng tiếp cận hơn với nhà nho truyền thống, vả chăng đó cũng là
chứng cớ quan trọng về việc Mạn lục mô phỏng Tân thoại nhưng lại là văn
học của dân tộc Việt Nam.
Bất kể là kỹ xảo nghệ thuật thuần thục thu hút người đời sau học tập
hay là nội hàm tư tưởng sâu sắc nên được bạn đọc hưởng ứng, thì ảnh
hưởng do Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục tạo ra đều lâu dài, bền
vững. Chỉ kể ảnh hưởng đối với văn học bản quốc, thì Tiễn đăng tân thoại đã
đạt mức vừa hoàn thành đã phổ biến; tiểu thuyết văn ngôn, tiểu thuyết bạch
thoại và truyền kỳ hý khúc với số lượng đáng kể thời Minh Thanh, không loại
nào mà không bị nó trực tiếp hay gián tiếp cuốn hút vào vòng xoáy. Một hiện
tượng văn học như vậy khiến chúng ta không thể coi thường, vì thế “trong khi
khẳng định thành tựu của tiểu thuyết bạch thoại thời Minh Thanh và chê trách
loại truyền kỳ mạt hạng thì công và tội của truyền kỳ đời Minh vẫn còn đợi các
học giả xem xét, đính chính và làm rõ toàn bộ”. Còn như ảnh hưởng của
Truyền kỳ mạn lục đối với Việt Nam thì tiết thứ hai trong chương này đã nói
khá nhiều, nhưng như thế không có nghĩa ngầm cho rằng ảnh hưởng của
sách đối với bản quốc mạnh hơn Tiễn đăng tân thoại ở Trung Quốc. Xét theo
tư liệu hiện còn thì ít nhất tác phẩm được Mạn lục gợi mở cũng cách năm
sách ra đời một khoảng thời gian không ngắn. Chỉ có điều chúng ta không
nên coi Mạn lục là “ấu trùng” của Tân thoại ở nước ngoài, bởi vì Mạn lục quả
thực có cống hiến không thể xóa bỏ đối với văn học cũng như đối với tín
ngưỡng dân gian của nước này.
Chương VII. KẾT LUẬN
Tiết thứ nhất
NHỮNG ĐIỂM DỊ ĐỒNG GIỮA TRUYỀN KỲ MẠN LỤC VÀ TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI
Trong các chương, tiết trên đây, chúng tôi đã khảo chứng riêng về sinh
bình, sự tích và trứ tác của Cù Hựu đời Minh và Nguyễn Dữ của Việt Nam,
đặc biệt đã so sánh phân tích nhấn mạnh vào động cơ sáng tác Tiễn đăng
tân thoại và Truyền kỳ mạn lục của hai ông, biện luận rõ năm ra đời chính xác
của hai sách, trình bày tường tận về quá trình lưu truyền, sàng lọc nhiều điều
hỗn loạn về hiện tượng văn học này; tóm lược cốt truyện chính của hai sách,
nêu hết những nét kỳ lạ về tình tiết, cho thấy mối quan hệ giữa chúng, đồng
thời khẳng định Ký mai ký không phải là một nội dung của Tiễn đăng tân
thoại, bác bỏ những thuyết sai lầm về điều này; truy tìm nguồn gốc sáng tác
của hai sách để chứng minh mối quan hệ giữa hai sách với truyền thống,
nhằm so sánh để thấy được tài thay da đổi thịt, điểm sắt thành vàng từ truyền
thống của hai tác giả; bình luận về kỹ xảo nghệ thuật, nội hàm tư tưởng của
hai sách, tìm ra ảnh hưởng của hai sách đối với nước mình cùng nguyên
nhân lưu truyền trường cửu của hai sách. Đến đây, đã có thể gọi là gạt bỏ
nhiều tầng mây mù, tiến sát chân tướng của sự thật. Bây giờ tổng hợp phần
nghiên cứu so sánh ở phần trước thì chúng ta sẽ thấy được giữa hai sách có
mối quan hệ dị đồng như gần lại như xa.
Nguyễn Dữ sinh ra gặp thời loạn lạc, tráng chí không thi thố được,
tương tự như cảnh ngộ của Cù Hựu. Hai ông thế là thương kẻ nghèo khốn,
xót người oan khuất, đem nỗi bất lực đau khổ trong lòng chuyển hóa thành
từng truyện từng truyện thấm vào gan phổi người đời; mặt khác hai ông
khuyến thiện trừng ác, cố gắng đề cao chính nghĩa, theo đuổi công lý. Thời
gian họ viết Tân thoại và Mạn lục có cách nhau trước sau, nhưng động cơ thì
đi cùng một lối, sách của hai ông đều là tác phẩm tỏ nỗi cô phẫn bất bình.
Mạn lục và Tân thoại ra đời tuy vào hai thời đại cách nhau gần một thế
kỷ rưỡi, song ở hai nước Nam, Bắc khác nhau, cả hai sách đều ra đời do ứng
với thời thế. Có khác là, đối với hoàn cảnh văn học đương thời, Tân thoại sinh
ra do ứng với tinh thần phục cổ, tiêu biểu cho sự thức tỉnh của thể văn truyền
kỳ đời Đường Tống, còn Mạn lục thì mở đầu cho truyền kỳ của nước Nam và
đạt tới đỉnh cao. Về sự lưu truyền của hai sách thì cả hai đều có đặc trưng
như nhau là thịnh hành một thời.
Hai sách đều là truyền kỳ viết bằng văn ngôn, số trang cũng tương
đương, Mạn lục gồm 4 quyển, không có phụ lục; cuối mỗi truyện có thêm lời
nghị luận ngắn gọn làm phần nói thêm cho truyện; còn phần cuối Tân thoại có
phụ lục Thu hương đình ký, không có lời nghị luận khen chê của sử truyện.
Xét về nội dung, tính chất các truyện đều không lấy phấn son làm chính, có
đề cập đến linh dị, yêu quái; tình tiết trong truyện có chỗ giống nhau, phong
cách cũng nhiều phần tương tự song không phải là quan hệ một một, không
thể coi là sự sao chép mô phỏng đơn thuần.
Cù Hựu và Nguyễn Dữ thực ra đều là những nhà sáng tác tiểu thuyết
giỏi cắt xén. Tân thoại kế thừa cơ sở chí quái truyền kỳ của đời trước, chọn
lấy những tự liệu sẵn có trong thơ văn bút ký, Mạn lục ngoài việc mô phỏng
phần dinh dưỡng mà Tân thoại hấp thụ, còn viết lại thần thoại chí quái của đất
nước Việt Nam, nên mỗi bên có con đường và phương pháp riêng để lựa
chọn đề tài. Song cả hai đều đồng thời nhào nặn xen kẽ những truyền thuyết
dân gian ở địa phương thời đó, rồi thông qua trí tưởng tượng phong phú và
tài tổ chức chặt chẽ mà phát huy được tài năng của cá nhân, biến mục nát
thành thần kỳ.
Về kỹ xảo nghệ thuật, ngôn ngữ văn tự thanh tân, điển nhã của Mạn lục
có sức truyền cảm không kém gì Tân thoại, đó là một trong những nguyên
nhân khiến sách được lưu truyền. Mặc dù nhân vật của hai sách chưa khắc
hoạ được tỉ mỉ, hình tượng không mấy nổi bật, kết cấu sắp xếp cũng còn
thiếu mới mẻ, song cả hai đều không phải không có những điểm khả quan,
nhất là nhiều tình tiết biến hóa quanh co làm cảm động lòng người, quả thật
khiến người đọc phải vỗ bàn khen tuyệt. Về mặt này, hai ông Nguyễn và Cù
đều tỏ ra có công lực cao hẳn một đầu, nhưng cả hai lại có sở trường riêng,
khó phân biệt ai hơn ai kém.
Về nội hàm tư tưởng, Mạn lục và Tân thoại cùng nhất trí sử dụng thủ
pháp ngụ tả thực ở lãng mạn, bên ngoài khoác chiếc áo “tô vẽ tĩnh khuê các,
điểm xuyết lời nói đẹp”, mượn những nỗi uất ức vô liêu của kẻ sĩ, thư sinh,
cảnh bi hoan ly hợp của trai gái thời loạn cùng những lời thuyết lý theo kiểu
nhân quả báo ứng hoặc những lời nghị luận về chuyện cũ của nước xưa để
gợi mở, kích phát lời hưởng ứng mạnh mẽ từ đáy lòng của bạn đọc; như thế
là về cốt tủy, hai ông đều noi theo tinh thần truyền thống của nho gia Trung
Quốc. Chỗ khác nhau giữa họ là chủ đề Tân thoại thiên về nỗi cảm khái quan
hoài trước tình hình hưng suy trị loạn của xã hội địa phương, còn Mạn lục thì
trong lúc tỏ nỗi lo bên trong do phản ứng với nhuận Hồ, ngụy Mạc, còn kiêm
cả nghiêm khắc tố cáo mối họa bên ngoài là nhà Minh kéo quân sang. Tinh
thần chất chứa trong đó, không nghi ngờ gì nữa, càng tiếp cận với nhà nho
truyền thống.
Về ảnh hưởng đối với nước mình, đối tượng của hai bên không giống
nhau hẳn, tốc độ cũng bên nhanh, bên chậm. Mạn lục có ảnh hưởng về ba
phương diện: tiểu thuyết truyền kỳ, diễn nghĩa lịch sử và tín ngưỡng dân gian,
tuy rộng nhưng chậm hơn. Tân thoại có ảnh hưởng về ba phương diện: tiểu
thuyết văn ngôn, truyền kỳ tạp kịch và tiểu thuyết bạch thoại, phổ biến và
ngay tức khắc. Nhưng mức độ ảnh hưởng của cả hai lại đều sâu xa trường
cửu nên không có gì khác nhau lắm.
Kết quả đạt được sau khi nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục là chúng ta thấy cả hai bên đều có nhiều đặc trưng và quy
luật chung tương tự, chứng tỏ giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam
có mối quan hệ rất mật thiết. Đồng thời chúng ta còn thấy tuy Mạn lục chịu
ảnh hướng rõ rệt của Tân thoại song không phải là sự sao chép cứng nhắc
mà là kết tinh của việc Nguyễn Dữ vận dụng trí tuệ để gia công sáng tác.
Sách vừa tiếp thu thành phần ưu tú của dân tộc nước ngoài, vừa không quên
bắt rễ ở mảnh đất của nước mình, vì vậy mặc dù sáng tác bằng Hán văn
song sách vẫn không mất đi phần có giá trị là văn học của dân tộc Việt Nam.
Thậm chí, tuy ý thức dân tộc bao hàm trong Truyền kỳ mạn lục mặc dù chịu
ảnh hưởng của quan niệm chủ nghĩa yêu nước thì vẫn đáng được nhân dân
nước này trân trọng. Điều đáng tiếc là, một tiểu thuyết Hán văn thành công
như Truyền kỳ mạn lục thì Việt Nam hầu như lại chưa khẳng định vị trí đáng
có của nó, thậm chí toàn bộ văn học viết bằng Hán văn đều khó thoát khỏi
vận ách là bị đẩy vào lãnh cung. Tất nhiên cũng từng có người kêu gọi: “…
Mấy chục năm nay, văn học quốc ngữ (chỉ văn học viết bằng chữ Latinh theo
âm tiếng Việt) đứng ra thay thế, văn học Hán văn đã thành văn học chết…
Địa vị của nó tuy mất đi nhưng tiềm lực của nó vẫn còn, huống hồ nó chiếm vị
trí trong văn học sử nước ta đã hai ngàn năm, sao có thể bỏ mặc không bàn
đến? Tiếng kêu này quả là yếu ớt, hầu hết mới chỉ khẳng định “văn học quốc
ngữ” là văn học dân tộc nước mình, còn văn học cổ điển nhiều nhất cũng chỉ
hạn định trong văn Nôm.
Thực ra, “văn học quốc ngữ của Việt Nam, ngoài phần văn tự ra, nội
dung tư tưởng, thậm chí tình tiết cốt truyện của nó, rất ít khi thoát khỏi ảnh
hưởng của tác phẩm văn học Hán để tự mở ra lối đi cho mình”. Văn học chữ
Nôm cũng vậy. Bởi vì “không một loại văn học nào mà tự thân đã có đủ…
Đằng sau mỗi một loại văn học đều có một truyền thống lớn lao tuy ẩn mà
hiện: truyền thống này bằng cách gánh vác chung để cùng hưởng chung một
nền văn hóa”. Chỉ cần nhà văn Việt Nam vay mượn rồi hòa tan thủ pháp nghệ
thuật cùng tư tưởng tình cảm trong truyền thống văn hóa Hán, khiến chúng
trở thành cái của mình thì đó là một trang sáng rỡ trong lịch sử văn học Việt
Nam cũng như trong lịch sử giao lưu văn học giữa hai nước Trung Việt.
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục đủ ấn chứng
cho điều này, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta: văn học chữ Hán của Việt
Nam cũng như văn học chữ Hán của Nhật Bản, Hàn Quốc đều là tài sản văn
hóa chung trong khu vực văn hóa Hán, đều chung một mạch với văn học
Trung Quốc. Trên thực tế, những nền văn học đó đã cung cấp tư liệu phong
phú để mọi người cùng tham khảo so sánh. Từ nay về sau, giới văn học
Trung Quốc thực sự cần thay đổi thái độ không thèm đếm xỉa gì đến văn hóa
chi lưu như trước đây, đả phá chủ nghĩa đóng cửa, ra khỏi “bản thổ” về mặt
địa vực, vượt ra khỏi quan niệm “bản vị” để mở ra một kế hoạch mới cho việc
nghiên cứu Hán học truyền thống. Những nhà nghiên cứu tiểu thuyết cổ điển
cũng nên tăng cường “tìm tòi về tiểu thuyết Hán văn và văn hóa Hán” bởi xu
thế này trước mắt “có thể mở rộng tầm nhìn trong nghiên cứu tiểu thuyết”,
giúp chúng ta xác lập một nhận thức hoàn chỉnh hơn, tìm hiểu chính xác hơn
đối với văn học nước mình.
Tiết thứ hai
ĐÁNH GIÁ LẠI ĐỊA VỊ CỦA TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI TRONG VĂN HỌC SỬ TRUNG QUỐC
Từ trong truyền thống, Cù Hựu đã sáng tạo nên cái mới, viết Tiễn đăng
tân thoại “nỗi bi phẫn đầy tim, giọt lệ nóng đầy mắt”, thông qua lối văn cổ xưa
đẹp đẽ và lưu loát, truyền lại rất nhiều những câu chuyện tình yêu linh dị đáng
vui đáng buồn, đáng kinh đáng lạ. Trong đó có những lời phê phán trực tiếp
đối với bọn quan lại thối nát và cũng có nhân tình thế thái kể lại bằng thuyết
nhân quả báo ứng; xã hội mà truyện miêu tả, thời đại mà truyện phản ánh đều
có sắc thái hiện thực nồng đậm. Sự mô phỏng sao chép ở Thiên Thai phỏng
ẩn lục đối với Đào hoa nguyên ký cũng như sự chồng chất thêm ở Lục y nhân
truyện chỉ là những thiếu sót ngẫu nhiên của cả bộ sách. Không thấy rõ như
thế, cứ bảo Tân thoại mô phỏng toàn bộ truyện đời Đường, hoặc phê bình “về
nghệ thuật biểu hiện chủ nghĩa hình thức nghiêm trọng”, “chỉ thể hiện hầu hết
những tư tưởng mục nát, tầm thường”, chăm chăm đánh giá thấp giá trị văn
học của sách, như thế là không công bằng.
Huống hồ “giá trị văn học không phải là tiêu chuẩn lựa chọn duy nhất
một tác phẩm, bản thân sự diễn biến văn học cũng rất có sức gây ảnh
hưởng”. Ngày nay, mọi người đã nhất trí khẳng định Liêu trai chí dị chiếm một
vị trí đáng kể trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, nhưng thành tựu văn học
không thể một ngày mà nên, nếu không có tiểu thuyết văn ngôn triều trước
nối tiếp người trước, gợi mở người sau, thì chúng ta khó mà tin được rằng
truyện truyền kỳ có thể từ đời Đường Tống nhảy vọt qua mấy thế kỷ để đến
đời Thanh thì lên tới đỉnh cao. Không nghi ngờ gì nữa, Tiễn đăng tân thoại là
một cây cầu quan trọng cho sự phát triển của văn học Trung Quốc.
Cũng như thế, chẳng có ai hoài nghi địa vị của Tam ngôn, Nhị phách
trong lịch sử văn học bạch thoại. Song chúng ta cũng đừng quên một sự thực
là nhiệt trào sáng tác văn học truyền kỳ do Tân thoại đi trước dấy lên hồi đó
đã cùng tồn tại và hưởng vinh quang chung với thoại bản. Trong cách nghĩ
nói chung, dường như tác giả truyền kỳ và thoại bản đối lập với nhau, “nhưng
kiểm nghiệm lại quan hệ trước sau trong văn học của Tân thoại, Dư thoại và
tình hình chúng được tiếp thu, chúng ta sẽ không khó phát hiện ra rằng sự
thực thì cả hai đã cùng kiến lập những đia vị xã hội và văn hoá cho truyền kỳ
và thoại bản”, hơn nữa còn trở thành nguồn đề tài cho tiểu thuyết bạch thoại
và hý khúc. Chúng ta cần nhìn thẳng vào hiện tượng văn học như thế.
Điều đáng tiếc là cho đến nay, người trong nước vẫn còn bỏ qua sự tồn
tại của Tiễn đăng tân thoại, đâu đâu cũng thấy người coi thường giá trị của
sách, không được sáng suốt như những người đứng cạnh mà nhìn là những
học giả nước ngoài:
Tiễn đăng tân thoại tuy chỉ là một cuốn sách nhỏ, nhưng thành quả mà
nó để lại cho đời sau thì thật huy hoàng. Chẳng riêng ở bản thổ là Trung
Quốc mà còn truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, và bất kể ở nơi nào, sách
đều gây nên những cuộc đàm luận lớn, để lại ảnh hưởng rất lớn. Nói về
những nét lớn, sách là tác phẩm văn học có giá trị tầm thế giới, không gì có
thể so sánh được. Nếu nói thêm giản lược thôi, thì khi tác phẩm còn ở Trung
Quốc, đã có không ít truyện cải tác hoặc mô phỏng nối tiếp nhau ra đời. Một
khi sang tới Triều Tiên, nếu xét về ý nghĩa thực sự, thì sách là ông tổ mở đầu
chữ nền tiểu thuyết và thúc đẩy để tiểu thuyết phát triển. Cuối cùng tới Nhật
Bản, sách cũng được lưu hành. Sức mạnh đó đối với sự dấy lên và phát triển
của cái gọi là tiểu thuyết quái dị là điều không được phép phủ nhận.
Lời nói trên đây của một người Nhật Bản là Cửu Bảo Đắc Nhị, đến bây
giờ có thể bổ sung tiếp: Tiễn đăng tân thoại về phía Bắc không chỉ ảnh hưởng
tới Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập người Hàn Quốc, tới Otôghibôcô
(Già tỉ tử) của Thiển Tỉnh Liễu Ý và Ughếtsu Mônôgatari (Vũ nguyệt vật ngữ)
của Thượng Điền Thu Thành người Nhật Bản… mà về phía Nam còn truyền
sang Việt Nam, kích thích Nguyễn Dữ sáng tác phỏng theo thành Truyền kỳ
mạn lục, sau đó còn tiếp tục ra đời một loại tiểu thuyết truyền kỳ nữa như
Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm v.v… Từ đấy đưa mắt nhìn cả một
vùng văn hóa Hán, thì Tiễn đăng tân thoại quả thật đã mở ra một trào lưu văn
hoá chung cho Trung Quốc và các nước lân bang ở phía Bắc và phía Nam.
Nếu đã xét bất kể về giá trị văn học, diễn biến văn học, hiện tượng văn
học hay giao lưu văn hóa quốc tế, Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đều có
phần đóng góp quan trọng, vậy thì chúng ta có cần đánh giá lại địa vị của nó
trong lịch sử văn học Trung Quốc hay không? Đương nhiên, việc đánh giá lại
địa vị trong văn học sử của một tác gia hay tác phẩm, khiến cho họ “sống lại”,
không phải hễ muốn là được, cũng không phải có thể hoàn tất trong một lúc.
Như Tân thoại của Cù Tông Cát, thật sự “ngậm oan” quá lâu rồi.
THƯ MỤC THAM KHẢO
I. SÁCH CHUYÊN ĐỀ
A. Trung văn
1. Tiễn đăng tân thoại cú giải. Cù Hựu, đời Minh, Thương Châu đính
chính, Thùy Hồ Tử tập thích trong Minh Thanh thiện bản tiểu thuyết tùng san
sơ biên, Nxb Thiên nhất in ảnh bản in của Triều Tiên, tháng 10-1985.
2. Tiễn đăng tân thoại. Cù Hựu đời Minh. Như số 1, bản in năm Càn
Long 56 đời Thanh.
3. Tiễn đăng tân thoại (đẳng cửu chủng). Cù Hựu và nhiều người khác
đời Minh viết. Đài Bắc thế giới thư cục, bản in lần ba, tháng 11-1974.
4. Tiễn đăng tân thoại. Ngoại nhị chủng. Cù Hựu và nhiều người khác
đời Minh viết. Chu Lăng Già hiệu chú. Nxb Thượng Hải cổ tịch, bản in lần
đầu, tháng 11-1981.
5. Tiễn đăng tân thoại hiệu đính. Hội đọc sách Tiễn đăng tân thoại (Chu
Cát Cửu Kỷ Phu và nhiều người khác), Bắc Cửu châu Trung Quốc văn học
bình luận xã, in hạn chế 55 bản năm 1985.
6. Hương đài tập. Cù Hựu đời Minh. Bản sao trên giấy kẻ ô xanh đời
Minh, Thư viện Viện bảo tàng Cố Cung Đài Bắc.
7. Hương đài tập. Cù Hựu đời Minh, Nxb Vĩ văn đồ thư, tái bản tháng 3-
1978.
8. Quy điền thi thoại. Cù Hựu đời Minh, trong bản Tục biên thi thoại các
đời do Đinh Phúc Bảo đời Thanh biên tập. Nxb Mộc đạc, tháng 9-1983.
9. Quy điền thi thoại. Cù Hựu đời Minh, Cân Đằng Nguyên Túy người
Nhật Bản bình chú, đính chính; trong Thi thoại tùng san, Đài Bắc Hoằng đạo
văn hoá sự nghiệp hữu hạn công ty, tháng 3-1971.
10. Vịnh vật thi. Cù Hựu đời Minh, trong tác phẩm để lại của Vũ Lâm
Vãng Triết sách Tùng thư tập thành, Q. 3, Nghệ văn ấn thư quán.
11. Vịnh vật thi, Cù Hựu đời Minh viết. Bản Tam gia vịnh vật thi do Chu
Chi Phồn khắc năm Thiên Khải 2 đời Minh, Thư viện Viện bảo tàng Cố Cung
Đài Bắc.
12. Lạc Toàn thi tập. Đông du thi. Lạc Toàn tục tập, Cù Hựu đời Minh,
bản sao, Nội các văn khố Nhật Bản.
13. Lạc Toàn di âm, Cù Hựu đời Minh. Bản sao y nguyên kiểu chữ một
bản in năm Thuận Thiên 7 đời Minh, Thư viện Quốc học tỉnh lập tỉnh Giang
Tô.
14. Cựu biên truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ, bản in năm 1712, Đông
Dương văn khố, Nhật Bản.
15. Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, Nguyễn Dữ,
bản sao do Ký lục Nguyễn Khắc Định sao chép, Thư viện hiệp hội Á châu,
Pháp.
16. Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, Nguyễn Dữ,
bản sao một bản in năm 1763, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội.
17. Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, Nguyễn Dữ,
bản in năm 1737, chỉ còn hai quyển đầu, Thư viện hiệp hội Á châu, Pháp.
18. Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ, bản sao, Thư viện hiệp hội Á châu,
Pháp.
19. Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ, bản Trần Ích Nguyên hiệu điểm,
Trường Viễn đông bác cổ Pháp xuất bản, Học sinh thư cục in trong bộ Tùng
san tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, ra tháng 4 năm 1987.
20. Đào Uyên Minh tập, Đào Uyên Minh đời Tấn, Lục Khâm Lập hiệu
chú, Lý nhân thư cục, tháng 9-1982.
21. Ngụy Tấn Nam, Bắc triều tiểu thuyết, Lưu Diệp Thu, Nxb. Mộc đạc,
tháng 9-1983.
22. Đường tiền chí quái tiểu thuyết tập thích, Lý Chiêu Quốc, Nxb. Văn
sử triết, tái bản tháng 7-1987.
23. Đường nhân truyền kỳ tiểu thuyết tập, Đài Bắc Thế giới thư cục,
bản in lần thứ 8, tháng 11-1985.
24. Đường nhân tiểu thuyết nghiên cứu (1-4), Vương Mộng Âu, Nghệ
văn ấn thư quán, tháng 12-1971, tháng 3-1972, tháng 11-1974, tháng 10-
1978.
25. Thái bình quảng ký, Lý Phỏng… đời Tống, Nxb. Văn sử triết, tái bản
tháng 5-1987.
26. Tống sử, Đỉnh văn thư cục, bản in lần 3 tháng 11-1983.
27. Ngô quận chí, Phạm Thành Đại đời Tống, bản Tùng thư Thủ Sơn
các trong Bách bộ tùng thư tập thành, Nxb. Nghệ văn.
28. Tống bái loại sao, Phan Vĩnh Nhân biên tập, Quảng văn thư cục,
1963.
29. Tống nhân dật sự vựng biên, Đinh Phó Tịnh biên tập, Nxb. Nguyên
Lưu, tháng 9-1982.
30. Năng Cải trai mạn lục, Ngô Tằng đời Tống, Nxb Mộc đạc.
31. Nhược Khê ngư ẩn từng thoại (tập Tiền), Hồ Tử đời Tống, Nxb.
Mộc đạc, tháng 8-1982.
32. Di kiên chí, Hồng Mại đời Tống, Minh văn thư cục, tháng 4-1982.
33. Thanh tỏa cao nghị, Lưu Phủ đời Tống, trong Bút ký tiểu thuyết đại
quan, Q. 9, T. 5, Tân hưng thư cục.
34. Lục song tân thoại, Hoàng Đô Phong Nguyệt chủ nhân đời Nam
Tống biên soạn, Chu Di hiệu chú, Đài Bắc thế giới thư cục, bản in lần ba,
tháng 5-1975.
35. Tân biên Túy ông đàm lục, Kim Doanh Chi đời Tống, trong Bút ký
tiểu thuyết đại quan, Q. 19, T. 3, Tân hưng thư cục.
36. Đông Pha thất tập, Tô Thức đời Tống, bản phỏng chữ đời Tống,
khổ bỏ túi, Trung Hoa thư cục.
37. Cừu Trì bút ký, Tô Thức đời Tống, trong Cảnh ấn Văn Uyên các Tứ
khố toàn thư, T. 863, Đài Loan thương vụ ấn thư quán.
38. Nam Tống văn phạm, Trang Trọng Phương đời Thanh biên soạn,
Đỉnh văn thư cục, tháng 1-1975.
39. Hậu sơn thi thoại, Trần Sư Đạo đời Tống, trong Lịch đại thi thoại do
Hà Văn Hoán đời Thanh biên tập, Hán kinh văn hóa sự nghiệp hữu hạn công
ty.
40. Hậu sơn thi thoại, Lưu Khắc Trang đời Tống, cảnh ấn Văn Uyên
các Tứ khố toàn thư, T. 1481, Đài Loan thương vụ ấn thư quán.
41. Toàn Tống từ, Đường Khuê Chương biên soạn. Nxb. Minh luân,
tháng 3-1975.
42. Diên Hựu tứ minh chí, Viên Giác đời Nguyên, trong Tứ khố toàn thư
trân bản, T. 6, Đài Loan thương vụ ấn thư quán.
43. Nam thôn xuyết canh lục, Đào Tông Nghi đời Nguyên, Nxb. Mộc
đạc, tháng 5-1982.
44. Tiền Đường di sự, Lưu Nhất Thanh đời Nguyên, Vũ lâm chưởng cố
tùng thư, T. 6.
45. Đông Nam kỷ văn Vô danh thị đời Nguyên, trong Bút ký tiểu thuyết
đại quan, Q. 16, T. 1, Tân hưng thư cục.
46. Tây Hồ trúc chi tập, Dương Duy Trinh đời Minh, Vũ lâm chưởng cố
tùng thư, T. 3.
47. Nguyên thi tuyển, Cố Tự Lập đời Thanh biên soạn, Cảnh ấn Văn
Uyên các Tứ khố toàn thư, T. 1471, Đài Loan thương vụ ấn thư quán.
48. Minh bảo lục (phụ lục bài hiệu khám), bản in ảnh, Sở nghiên cứu
ngôn ngữ lịch sử Viện nghiên cứu Trung ương, tháng 9-1966.
49. Minh sử, Trương Đình Ngọc… đời Thanh biên soạn, Đỉnh văn thư
cục, bản in lần tư, tháng 11-1982.
50. Minh sử cảo, Vương Hồng Tự đời Thanh biên soạn, Nxb. Văn hải,
tháng 11-1962.
51. Minh sử ngoại quốc truyện, Vưu Đồng đời Thanh biên soạn, Đài
Loan học sinh thư cục, tháng 6-1977.
52. Minh đại quốc tế quan hệ, Vương Tích Xương… Đài Loan học sinh
thư cục, tháng 8-1968.
53. Minh triều sử lược, Trần Quang Bích, Nxb. Bạch thư.
54. Gia Tĩnh Nhân Hòa huyện chí, trong Trung Quốc phương chí tùng
thư, số 179, Nxb. Thành văn.
55. Hà Nam quận chí, bản in năm Hoằng Trị 20 đời Minh, Thư viện
Đông Kinh.
56. Vạn Lịch Hàng Châu phủ chí, Trần Thiện… đời Minh sửa chữa, bản
chụp lại bản in năm Vạn Lịch thứ 7, Nxb. Thành văn.
57. Tiền Đường huyện chí, sửa chữa năm Vạn Lịch 37, bản in năm
Quang Tự 19 đời Thanh. Như số 56.
58. Lưỡng Chiết danh hiền lục, Từ Tượng Mai đời Minh, bản in Quang
bích đường, Nội các văn khố Nhật Bản.
59. Bản (Minh) triều phân tính nhân vật khảo, Quá Đình Huấn đời Minh,
bản chụp ảnh bản in năm Thiên Khải 2 đời Minh, Nxb. Thành văn.
60. Đàm tinh tuấn, Từ Bá Linh đời Minh, Tứ khố toàn thư trân bản, T. 2,
Đài Loan thương vụ ấn thư quán.
61. Tây Hồ du lãm chí dư, Điền Nhữ Thành đời Minh, Nxb. Mộc đạc,
tháng 6-1982.
62. Nghiêu sơn đường ngoại kỷ, Tưởng Nhất Quì đời Minh, bản in của
họ Tưởng ở Tấn Lăng năm Vạn Lịch 33, Thư viện Quốc lập trung ương.
63. Thính vũ kỷ đàm, Đô Mục đời Minh, bản Tri bất túc trai tùng thư
trong Bách bộ tùng thư tập thành (tục biên) Nghệ văn ấn thư quán.
64. Đô công đầm soạn, Đô Mục đời Minh, học trò là Lục Thái biên soạn.
Như 63, tập Giáp Ất Nghiên vân.
65. Thủy đông nhật ký, Diệp Thịnh đời Minh, Hán Kinh văn hóa sự
nghiệp hữu hạn công ty, tháng 7-1984.
66. Thất tu loại cảo, Lang Anh đời Minh, Đài Bắc thế giới thư cục, tái
bản, tháng 10-1984.
67. Thiếu thất sơn phòng bút tùng, Hồ ứng Lân đời Minh, như 66, tái
bản tháng 5-1980.
68. Lạn ngôn trường ngữ, Tào An đời Minh, trong Bút ký tiểu thuyết đại
quan, Q, 5, T. 4, Tân hưng thư cục.
69. Thúc Viên tạp ký, Lục Dung đời Minh. Như 68, Q. 14, T 2.
70. Huyện duẩn tỏa thám, Lưu Xương đời Minh. Như 71,Q. 15, T 5.
71. Tạc phi am nhật soạn, Trịnh Viên đời Minh, Như 72,Q. 22, T. 4
72. Tây Ngô lý ngữ, Tống Lôi đời Minh. Như 71, Q. 25, T. 4.
73. Bắc sang tỏa ngữ, Dư Vĩnh Lân đời Minh, tập Giáp ất Nghiên vân,
trong Bách bộ tùng thư tập thành, Nghệ văn ấn thư quán.
74. Bái sử vựng biên, Vương Kỳ đời Minh, bản chụp lại bản in năm
Canh tuất Vạn Lịch, Tân hưng thư cục.
75. Bình Ngô lục, Ngô Khoan đời Minh, bản Kỷ lục tùng biên trong
Tống, Nguyên, Minh, thiện bản tùng thư thập chủng, Đài Loan thương vụ ấn
thư quán.
76. Thù vực chu tư lục, Nghiêm Tòng Giản đời Minh, chụp lại bản ở
Thư viện Đài Bắc, Hoa văn thư cục.
77. Từ Văn Trường tam tập, Từ Vị đời Minh, in lại bản in Nghệ thuật gia
tập vựng đời Minh, Thư viện Quốc lập trung ương.
78. Tiêu thị Đạm Viên tập, Tiêu Hoằng đời Minh, chụp lại bản ở Thư
viện Bắc Bình, Nxb. Vỉ văn đồ thư, tháng 9-1979.
79. Văn thể minh biện, Từ Sư Tằng đời Minh, chụp lại bản Hòa khắc,
Nxb. Trung văn.
80. Giá hiên tập, Lăng Vân Hàn đời Minh, bản Vũ Lâm vãng triết di trứ
trong Tùng thư tập hành, Q. 3, Nghệ văn ấn thư quán.
81. Minh nhân tuyển Minh thi (tên vốn là Minh thi tuyển tối), Hoa Thục
đời Minh biên soạn, bản in ảnh, Đại thông thư cục.
82. Minh thi bình, Vương Thế Trinh đời Minh, bản Kỷ lục vựng biên
trong Tông, Nguyên, Minh thiện bản tùng thư thập chủng, Đài Loan thương vụ
ấn thư quán.
83. Thi thoại loại biên, Vương Xương Hội đời Minh biên soạn, bản in
ảnh, Quảng văn thư cục, tháng 8-1972.
84. Hoa thảo tụy biên, Trần Diệu Văn đời Minh biên soạn, Cảnh ấn Văn
Uyên các Tứ khố toàn thư, T. 1490, Đài Loan thương vụ ấn thư quán.
85. Chử sơn đường từ thoại, Trần Đình đời Minh. Như 84, T. 1494.
86. Minh thi kỷ sự, Trần Điền đời Thanh, trong Lịch đại thi sử trường
biên, loại 14, Quảng văn thư cục, tháng 9-1971.
87. Từ tổng, Chu Di Tôn đời Thanh, in theo bản in khắc ván, Trung hoa
thư cục.
88. Minh từ tổng, Vương Sưởng đời Thanh. Như 87.
89. Từ lâm kỷ sự, Trương Tông Tiêu đời Thanh biên tập, Nxb. Mộc đạc,
tháng 4-1982.
90. Từ uyển tùng đàm, Từ Cửu đời Thanh. Như 89, tháng 2-1982.
91. Vận văn luận thuật vựng biên, Trần Mộng Lôi đời Thanh, trong Lịch
đại thi sử trường biên, loại 24, Quảng văn thư cục, tháng 9-1971.
92. Dung Am bút ký, Tiết Phúc Thành đời Thanh. Như 91, tháng 2-
1982.
93. Tùng nhai bút ký, Huệ Đống đời Thanh, bản sao cũ, Thư viện quốc
lập Trung ương.
94. Quy điền tỏa ký, Lương Chương Cự đời Thanh, Nxb. Mộc đạc,
tháng 4-1982.
95. Lưỡng ban thu vũ am tùy bút, Lương Thiệu Nhâm đời Thanh, trong
Bút ký tiểu thuyết đại quan, Q. 28, T. 7, Tân hưng thư cục.
96. Bất hạ đới biên, Kim Trực. Như 95, Q. 44, T. 10.
97. Quốc sơ quần hùng sự lược, Tiền Khiêm Ích đời Thanh. Như 96, Q.
33, T 9
98. Tội duy lục, Tra Kế Tá đời Thanh. Như 97, Q. 45, T. 2.
99. Lại cổ đường xích độc tân sao, Chu Lượng Công đời Thanh biên
tập, Đài Loan Trung Hoa thư cục, in lần đầu tháng 11-1972.
100. Tiễn đăng dư thoại, Lý Trinh đời Minh, Thiên bản tùng thư, bộ Hán
tịch, Q. 10, Bát mộc thư điếm, Thiên lý đồ thư quán, tháng 9-1980.
101. Tiễn đăng dư thoại, Lý Trinh đời Minh, chụp lại bản in của Song
quế đường, Thiên nhất xuất bản xã, tháng 10-1985.
102. Hiệu tần tập, Triệu Bật đời Minh, trong Bút ký tiểu thuyết đại quan,
Q. 10, T. 4, Tân hưng thư cục.
103. Mịch đăng nhân thoại, Thiệu Cảnh Chiêm đời Minh, chụp bản in
đời Thanh, Nxb. Thiên nhất, tháng 10-1985.
104. Lục song nữ sử, khuyết danh. Như 103, bản in đời Minh.
105. Toàn tượng tân thuyên Nhất kiến thưởng tâm thiên, Lạc Nguyên
Tử biên soạn. Như 104, bản in Tần Khánh đường đời Minh.
106. Diễm dị biên (12 quyển), Vương Thế Trinh đời Minh soạn, Thang
Hiển Tổ bình. Như 105, bản in đời Minh.
107. Diễm dị biên (40 quyển). Tục diễm dị biên (19 quyển), Vương Thế
Trinh đời Minh soạn, Thang Hiển Tổ bình. Như 106.
108. Quảng diễm dị biên (35 quyển), Ngô Đại Chân đời Minh soạn. Như
107.
109. Tài quỷ ký, Mai Đỉnh Tộ đời Minh biên tập, bản khắc in năm Vạn
Lịch, Thư viện Viện bảo tàng Cố Cung Đài Bắc.
110. Thanh nê liên hoa ký, Mai Đỉnh Tộ đời Minh soạn, Quảng văn thư
cục, tháng 3-1980,
111. Hội đồ tình sử, Chiêm Chiêm Ngoại Sử biên tập. Như 110, tháng
8-1982.
112. Hương diễm tùng thư, Trùng Thiên Tử đời Thanh, chụp in bản
Quốc học phù luân xã, cổ đình thư ốc.
113. Quốc sắc thiên hương, Tạ Hữu Khả soạn, Ngô Kính Sử biên.
Chụp in bản khắc ván năm Vạn Lịch 25, Thiên nhất xuất bản xã.
114. Tân khắc tăng bổ toàn tướng Yên cư bút ký, Lâm Cận Dương đời
Minh. Như 113, bản in Tân khánh đường.
115. Trùng khắc tăng bổ Yên cư bút ký, Hà Đại Luân đời Minh biên
soạn. Như 114, bản in… thịnh đường.
116. Tú Cốc xuân dung, Khởi bắc trai Xích Tâm Tử biên soạn. Như
115, bản in Kim Lăng Thế đức đường đời Minh.
117. Cổ kim tiểu thuyết (Dụ thế minh ngôn), Phùng Mộng Long đời
Minh, Đài Bắc Thế giới thư cục, tháng 5-1958.
118. Phách án kinh kỳ, Lăng Mông Sơ đời Minh, Nxb. Hà Lạc đồ thư,
tháng 6-1980.
119. Nhị khắc phách án kinh kỳ, Lăng Mông Sơ đời Minh. Như 118.
120. Tam ngôn lưỡng phách tư liệu, Đàm Gia Định, Duy Minh thư cục,
tháng 9-1983.
121. Thanh bình sơn đường thoại bản, Hồng Cánh đời Minh, chụp lại
bản in giữa năm Gia Tĩnh đời Minh, Đài Bắc thế giới thư cục, tái bản tháng 9
năm 1982.
122. Xuân đăng náo kỳ ngộ diễm sử, Yên Thủy Tản Nhân, Nhật Bản Tá
bá văn khố.
123. Tây Hồ nhị tập, Vũ Lâm Chu Thanh Tuyền, chụp lại bản in năm
Sùng Trinh. Nxb. Thiên Nhất, tháng 10-1985.
124. Hội đồ Tây Hồ thập di, Trần Thụ Cơ đời Thanh chụp lại bản Gia
Khánh bản nha, Quảng văn thư cục, tháng 1-1969.
125. Cảnh thế tuyển ngôn (Lý Lạp Ông vựng tập), bản vựng soạn của
Trinh tường đường, Thư viện Thiên Lý, Nhật Bản.
126. Nam hý thập di, Lục Khản Như, Phùng Quân, chụp lại bản Havớc
Yên Kinh học xã, cổ đình thư ốc, tháng 11-1967.
127. Cô bản Nguyên, Minh tạp kịch, không đề tên người soạn, Túy văn
đường.
128. Nguyên, Minh tạp kịch (còn lại năm loại), không đề tên người
soạn, bản sao, Thư viện Quốc lập trung ương.
129. Nam từ tự lục, Từ Vị đời Minh, trong Lịch đại thi sử trường biên,
Q. 2, T. 3, Quảng văn thư cục, tháng 2-1974.
130. Ca lâm thập thúy (hai tập), Vương Thu Quế chủ biên, trong Thiện
bản hý khúc tùng san, T. 2, Đài Loan học sinh thư cục, tháng 7-1984.
131. Toàn Minh tạp kịch, Trần Vạn Nại chủ biên, bản in ảnh, Đỉnh văn
thư cục.
132. Minh tạp kịch khảo, Phó Tích Hoa, Đài Bắc thế giới thư cục, in lần
ba, tháng 4-1982.
133. Khúc hải tổng mục đề yếu Hoàng Văn Dương đời Thanh, trong
Bút ký tiểu tuyết đại quan, Q. 25, T. 8, 9, 10. Tân hưng thư cục.
134. Cổ điển hý khúc tồn mục vựng khảo, Trang Nhất Phất, Nxb.
Thượng Hải cổ tịch, tháng 12-1982.
135. Cư gia tất bị (95 loại), không đề người soạn, bản in đời Minh, Thư
viện Quốc lập trung ương.
136. Học hải loại biên, Tào Thu Nhạc người Chiết Tây, bản in ảnh, Văn
Nguyên thư cục.
137. Tục thuyết phu, Đào Đình, chụp in bản in đời Thanh, Tân hưng thư
cục, tháng 6-1964.
138. Uyên giám loại hàm, soạn theo lệnh Khang Hy, Như 137, tháng 2-
1974.
139. Cổ kim đồ thư tập thành. Khuê viện điển, Trần Mộng Lôi đời
Thanh, bản chỉnh lý Trung Quốc học thuật loại biên, Đỉnh văn thư cục, tháng
4-1977.
140. Liệt triều thi tập tiểu truyện, Tiền Khiêm Ích đời Thanh, Đài Bắc thế
giới thư cục, in lần ba, tháng 2-1985.
141. Lịch đại nhân vật niên lý bi truyện tổng biểu, Khương Lượng Phu
soạn, Đào Thu Anh hiệu đính, Nxb. Văn sử triết, tái bản tháng 2-1985.
142. Minh đại danh nhân binh tốt niên biểu, Lương Đình Xán, Đài Loan
thương vụ ấn thư quán.
143. Trung Quốc lịch sử đại sự niên biểu, Nxb. Hoa thế, tháng 3-1986.
144. Hoạt dụng lịch sử thủ sách, Dương Bích Xuyên, Thạch Văn Kiệt,
Viễn Lưu xuất bản công ty, bản tăng đính lần 2, tháng 2-1987.
145. Quốc sử kinh tịch chí, Tiêu Hoàng đời Minh, bản Thư mục 5
quyển. Quảng văn thư cục, tháng 7-1972.
146. Bách xuyên thư chí, Cao Nho đời Minh, chụp lại bản in của Nxb.
cổ điển văn học, trong Thư mục loại biên, Nxb. Thành văn.
147. Tiền thị Bảo văn đường thư mục, Tiều Lật đời Minh. Như 146.
148. Thiên khoảnh đường thư mục, Hoàng Ngu Tắc đời Thanh, chụp lại
bản Thích viên tùng thư trong Thư mục tùng biên, Quảng văn thư cục.
149. Ái nhật tinh lư tàng thư chí, Trương Kim Ngô, Nxb. Văn sử triết
tháng 3-1982.
150. Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, soạn theo lệnh Càn Long, Nghệ
văn ấn thư quán, in lần năm tháng 12-1979.
151. Tục tu Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, Đông phương văn hóa
sự nghiệp ủy viên hội, Đài Loan thương vụ ấn thư quán, tháng 3-1972.
152. Thư bách dung đàm, Đổng Khang, chụp in bản trùng hiệu định của
Tụng phần thất, Đài Bắc thế giới thư cục, tháng 9-1971.
153. Tây đề thư thoại, Trịnh Chân Đạc, Sinh hoạt. Độc thư. Tân tri tam
liên thư điếm, tháng 10-1983.
154. Nhật Bản Đông Kinh sở kiến Trung Quốc tiểu thuyết thư mục, Tôn
Giai Đệ, Nxb. Phượng Hoàng, tháng 10-1974.
155. Trung Quốc thông tục tiểu thuyết thư mục (bản tân đính), Tôn Giai
Đệ, Nxb. Mộc đạc, tháng 7-1983.
156. Trung Quốc văn ngôn tiểu thuyết thư mục, Viên Hành Bái, Hầu
Trung Nghĩa, Nxb. Bắc Kinh đại học, tháng 11-1981
157. Trung Quốc lịch đại tiểu thuyết luận trứ tuyển, Hoàng Lâm, Hàn
Đồng Văn tuyển chú, Nxb. Giang Tây nhân dân, tháng 10-1982.
158. Minh Thanh tiểu thuyết tự bạt tuyển, Ban tham khảo nhà xuất bản
Đại Liên, Nxb. Xuân phong văn nghệ, tháng 5-1983.
159. Lịch đại tiểu thuyết tự bạt tuyển chú, Văn kính văn hóa sự nghiệp
hữu hạn công ty, tháng 6-1984,
160. Nguyên, Minh, Thanh tam đại cấm hủy tiểu thuyết hý khúc sử liệu
(bản tăng đính), Vương Lợi Khí, Nxb. Thượng Hải cổ tịch, tháng 2-1981.
161. Trung Quốc văn học trung đích tiểu thuyết truyền thông, Tây Đề,
Nxb. Mộc đạc, tháng 9-1985.
162. Liêu trai chí dị (bản hội hiệu, hội chú, hội bình), Bồ Tùng Linh đời
Thanh, Lý nhân thư cục, tháng 12-1980.
163. Liêu trai chí dị hân thưởng, Ngô Tổ Tương…, Nxb. Bắc Kinh đại
học, tháng 8-1986.
164. Bồ Tùng Linh dữ dân gian văn học, Uông Phần Linh, Nxb. Thượng
Hải văn nghệ, tháng 9-1985.
165. Hải dương dân gian cố sự, Vương Quyên, Tiểu Lâm, Lâm Uyên
biên dịch, bản in ảnh Tùng thư dân tục của Hội nghiên cứu dân tục Trung
Quốc, trường Đại học quốc lập Bắc Kinh, Q. 10, Đông phương văn hóa cung
ứng xã, 1970.
166. Dân gian văn học tùy bút, Đàm Đạt Tiên, Nxb. Quảng Tây nhân
dân, tháng 6-1983.
167. Dân gian văn nghệ tập san (tập 5), Phân hội Thượng Hải, Hội
nghiên cứu văn nghệ dân gian Trung Quốc biên soạn, Nxb. Thượng Hải văn
nghệ, tháng 2-1984.
168. Tri đường Ất Dậu văn tập, Chu Tác Nhân, Tam dục đồ thư văn cục
công ty, tháng 3-1962.
169. Văn nghệ nghiên cứu tùng biên, Nxb. Trang nghiêm, tháng 10-
1980.
170. Trung Quốc văn học khái luận, Diêm Dụ Ôn viết, Tôn Lương Công
dịch, Đài Loan khai minh thư điếm, in lần hai, tháng 3-1976.
171. Trung Quốc văn học phát triển sử (bản tu đính), Lưu Đại Kiệt, Hoa
nghiêm thư cục, tháng 5-1982.
172. Trung Quốc văn học đích phát triển khái thuật, Vương Mộng Âu…,
Trung ương văn vật cung ứng xã, tháng 9-1982.
173. Trung Quốc văn học giảng thoại, Minh đại văn học, Cự Lưu đồ thư
công ty, tháng 5-1987.
174. Trung Quốc tiểu thuyết sử lược (bản hiệu đính), Lỗ Tấn, Sùng văn
đường.
175. Trung Quốc tiểu thuyết phát đạt sử, Đàm Chính Bích, Khải nghiệp
thư cục, in lần tư tại Đài Loan, tháng 9-1978.
176. Trung Quốc tiểu thuyết sử, Quách Châm Nhất, Nxb. Minh luân, tái
bản, tháng 9-1975.
177. Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Mạnh Dao, Nxb. Truyện ký văn
học, tái bản, tháng 10-1980.
178. Lịch đại bút ký khái thuật, Lưu Diệp Thu, Nxb Mộc đạc.
179. Thoại bản tiểu thuyết khái hận, Hồ Sĩ Oánh, Đan thanh đồ thư
công ty, tháng 5-1987.
180. Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng (T. 3, 4), Nxb Xuân phong văn
nghệ, 1985,1986.
181. Tiểu thuyết cựu văn sao, Lỗ Tấn, Vạn niên thanh thư lang.
182. Bạch xuyên tập, Phó Vân Tử, Đỉnh văn thư cục tháng 7-1979.
183. Hý khúc tiểu thuyết tùng khảo, Diệp Đức Quân
184. Tiểu thuyết tùng khảo, Tiền Tĩnh Phương, Nxb Trường An, in lần
đầu tại Đài Loan, tháng 10-1979
185. Vựng ấn tiểu thuyết khảo chứng, Tưởng Thụy Tảo Đài Loan
thương vụ ấn thư quán, tháng 3-1975.
186. Tiểu thuyết khảo chứng tục biên thập di, Tưởng Thụy Tảo, Vạn
niên thanh thư lang, tháng 3-1971.
187. Tiểu thuyết nhàn đàm, A Anh, Thượng Hải Lương hữu đồ thư ấn
loát công ty, tháng 6-1936.
188. Tiểu thuyết tam đàm, A Anh, Nxb Thượng Hải cổ tịch, tháng 8-
1979.
189. Trung Quốc tiểu thuyết tùng khảo, Triệu Cảnh Thâm, Sơn Đông
Tề Lỗ thư xã, tháng 10-1980.
190. Cổ bản hy kiến tiểu thuyết hội khảo, Đàm Chính Bích, Đàm Tầm,
Nxb. Chiết Giang văn nghệ, 1982.
191. Tiểu thuyết kiến văn lục, Đới Bất Phàm, Nxb Mộc đạc, tháng 4-
1983.
192. Thuyết uyển trân văn, Trần Nhữ Hoành, Nxb Thượng Hải cổ tịch,
tháng 12-1981.
193. Trung Quốc cổ điển tiểu thuyết nghiên cứu, La Chấn Dân, Lê Minh
văn hóa sự nghiệp hữu hạn công ty, tháng 10-1973.
194. Trung Quốc cổ điển văn học nghiên cứu tùng san Tiểu thuyết chi
bộ, Kha Khánh Minh, Lâm Minh Đức chủ biên, Cự Lưu đồ thư công ty, in lần
ba bản in lần đầu, tháng 5-1985.
195. Trung Quốc cổ điển tiểu thuyết nghiên cứu chuyên nghiệp I, Liên
kinh xuất bản sự nghiệp công ty, in lần hai, tháng 8-1981.
196. Hanam Trung Quốc cổ điển tiểu thuyết luận tập, Vương Thu Quế.
Như 195, tháng 9-1979.
197. Trung Quốc tiểu thuyết tỉ giảo nghiên cứu, Hầu Kiện, Đông đại đồ
thư công ty, tháng 12-1983.
198. Quản chùy biền, Tiền Trung Thư, Hữu liên xuất bản xã.
199. Quản chùy biên nghiên cứu luận văn tập, Trịnh Triều Tông biên
soạn, Nxb. Phúc Kiến nhân dân, tháng 4-1984.
200. Văn học đích tín niệm, Thái Nguyên Hoàng, Thời báo văn hóa xuất
bản công ty, tháng 11-1983.
201. Trung Quốc cổ đại nghệ văn tư tưởng mạn đàm, Từ Thọ Khải,
Nxb. Mộc đạc, tháng 1-1986.
202. Văn học lý luận, René và Wellek, Lương Bá Kiệt dịch, Nxb. Thủy
Ngưu, tái bản, tháng 6-1987.
203. Văn học nghiên cứu pháp, Hoàn Sơn Học viết, Quách Hư Trung
dịch, Đài Loan thương vụ ấn thư quán, in lần tư tại Đài Loan, tháng 10-1981.
204. Tỉ giảo văn học sử, Lôriê (?),Phó Đông Hoa dịch. Như 203, Vạn
hữu văn khố hội yếu.
205. Tỉ giảo văn học nguyên lý, Đại Chủng Hạnh Nam viết, Trần Thu
Phong, Dương Quốc Hoa dịch, Nxb. Thiểm Tây nhân dân, in lần hai, tháng 4-
1978.
206. Tỉ giảo văn học lý luận tập, Henry H.H. Remark, Vương Nhuận
Hoa dịch, Nxb. Thành văn, tháng 4-1979; Nxb. Quốc gia, tháng 7-1983.
207. Tỉ giảo văn học, Henry Gifford, Lý Hữu Thành dịch, Nxb. Thành
văn, tháng 4-1980.
208. Tỉ giảo văn học, M.F. Ghiard (?), Nhan Bảo dịch, Nxb. Bắc Kinh
đại học, tháng 8-1983.
209. Tỉ giảo văn học, Kim Vinh Hoa, Phúc ký văn hóa đồ thư hữu hạn
công ty, tháng 8-1982.
210. Tỉ giảo văn học đích khẩn thác tại Dài Loan, cổ Thiêm Hồng, Trần
Tuệ Hoa, Đông Đại đồ thư hữu hạn công ty, tháng 6-1976.
211. Tỉ giảo văn học nghiên cứu chi tân phương hướng, Lý Đạt Tam,
Liên kinh xuất bản sự nghiệp công ty, bản tăng đính in lần ba, tháng 2-1984.
212. Tỉ giảo văn học lý luận dữ thực tiễn, Trương Hán Lương, Đông đại
đồ thư hữu hạn công ty, tháng 2-1986.
213. Tỉ giảo văn học luận văn tập, Trương Long Khê, Ôn Nho Mẫn
tuyển chọn. Nxb. Bắc Kinh đại học, tháng 5-1984.
214. Tỉ giảo văn học dịch văn tuyển, Lưu Giới Dân biên soạn, Nxb. Hồ
Nam nhân dân, tháng 12-1984.
215. Tỉ giảo văn học nghiên cứu tư liệu. Nxb. Bắc Kinh sư phạm đại
học, tháng 2-1986.
216. Tỉ giảo văn học giản biên, Trần Đĩnh, Nxb, Hoa Đông sư phạm đại
học, tháng 4-1986.
217. Tầm cầu khóa Trung Tây văn hóa đích cộng đồng văn học quy luật
- Diệp Duy Liềm (?) tỉ giảo văn học luận văn tuyển, Ôn Nho Mẫn, Lý Tế
Nghiêu biên soạn, Nxb. Bắc Kinh đại học, tháng 1-1987.
218. Trung Quốc văn hóa đối Nhật, Hàn, Việt đích ảnh hưởng, Chu Vân
Ảnh, Lê Minh văn hóa sự nghiệp hữu hạn công ty, tháng 4-1981.
219. Đệ nhất giới Trung Quốc vực ngoại Hán tịch quốc tế học thuật hội
nghị luận văn tập, Phòng văn hiến quốc học Hội bảo trợ văn hóa báo Liên
hợp chủ biên, Liên kinh xuất bản sự nghiệp công ty, tháng 12-1987.
220. Hán tự đôi Việt Nam văn học đích ảnh hưởng, Hồ Huyền Minh,
luận văn thạc sĩ Sở nghiên cứu quốc học Trường đại học Sư phạm, 1981.
221. Việt Nam Nôm truyện dữ Trung Quốc tiểu thuyết quan hệ chi
nghiên cứu, Trần Quang Huy, luận văn tiến sĩ Sở nghiên cứu Trung văn
trường Đại học Đài Loan, 1973.
222. Tiễn đăng tân thoại dữ Kim Ngao tân thoại chi tỉ giảo nghiên cứu,
Từ Bính Hằng, luận văn thạc sĩ, Sở nghiên cứu quốc học trường Đại học sư
phạm, 1981.
223. Tiễn đăng tam chủng khảo tích, Vương Thục Tranh, luận văn thạc
sĩ, Sở nghiên cứu Trung văn trường Đại học Đài Loan, 1982.
224. Trung Quốc văn hóa luận tập, Trương Kỳ Quân…, Trung Hoa văn
hoá xuất bản sự nghiệp ủy viên hội, tái bản tháng 1-1955.
225. Trung Nhật văn hóa luận tập tục biên (2), Trương Kỳ Quân.. Như
224, tái bản tháng 6-1958.
226. Nhật Bản văn học khái luận, Lưu Sùng Tắc, Nxb. Thủy Ngưu, tái
bản tháng 8-1982.
227. Nhật Bản văn học hân thưởng. Cổ điển thiên, Lưu Sùng Tắc, Liên
kinh xuất bản sự nghiệp công ty, in lần ba, tháng 10-1985.
228. Nhật Bản Hán học tiểu sử, Cát Xuyên Hạnh Thứ Lang soạn, Hầu
Tĩnh Viễn dịch, Đài Loan thư điếm, tháng 8-1970.
229. Nhật Bản Hán văn học sử, Chử Phương Duy Tinh soạn, Đinh
Sách dịch, Chính Trung thư cục, in lần ba tháng 4-1980.
230. Vũ nguyệt vật ngữ (Ughếtsu Mônôgatari), Tiễn Chi Kỳ Nhân viết,
Diệp Thục Trân dịch, Nxb. Tinh quang, tháng 7-1987.
231. Kim Ngao tân thoại, Kim Thời Tập, chụp lại bán Phúc Sâm binh tả
nha môn năm 1673 của Mai nguyệt đường ở Đông Kinh và ở Thư viện Thiên
Lý, Á Tế Á văn hóa xã, tháng 1-1973.
232. Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết toàn tập, Lâm Minh Đức chủ biên,
trường Đại học Văn hóa và Viện nghiên cứu văn hóa tinh thần Hàn Quốc
cùng phát hành, tháng 5-1980.
233. Ngũ châu diễn văn trường tiên tản cảo, Lý Khuê Cảnh người Hàn
Quốc, Minh văn đường Hàn Quốc cổ điển ảnh ấn đại bảo, 1982.
234. Mi Sơn tiên sinh văn tập, Hàn Chương Tích người Hàn Quốc, bản
ở thư viện Chính Đại.
235. Thái bình thông tải, sách chữ Hán của Hàn Quốc, bản của Kho
sách Hoa Sơn, trường Đại học Cao Ly.
236. Hàn Quốc văn học sử khái luận, Tổ tiếng Hàn Quốc, Học viện văn
hoá Trung Quốc biên soạn, Hoa cương xuất bản sự nghiệp công ty, tháng 12-
1969.
237. Triều Tiên văn học sử, Vi Húc Thăng, Nxb. Bắc Kinh đại học,
tháng 10-1986.
238. Trung Hàn văn hóa luận tập, Đổng Tác Bân… Trung Hoa văn hóa
xuất bản sự nghiệp ủy viên hội, tháng 11-1955.
239. Trung Hàn văn hóa luận tập (T.2, 3, 5), Vương Đại Nhậm, Lâm
Thu Sơn chủ biên, Sở nghiên cứu Hàn Quốc Viện học thuật Trung Hoa, tháng
8-1968, tháng 11-1975, tháng 12-1985.
240. Truyền kỳ tân phả, Đoàn Thị Điểm, T. 2, loại truyền kỳ trong Tùng
san tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, Đài Loan học sinh thư cục, tháng 4-1987.
241. Thánh Tông di thảo, Lê Thánh Tông (?). Như 240.
242. Việt Nam kỳ phùng sự lục, khuyết danh. Như 240 (Phụ lục: Ngọc
thân huyễn hóa).
243. Hoàng Việt xuân thu, T, 3, loại tiểu thuyết lịch sử. Như 240.
244. Nam ông mộng lục, Lê Trừng, T. 6, loại tiểu thuyết bút ký. Như
240.
245. Khoa bảng tiêu kỳ, Phan Huy Chú, T. 7, loại tiểu thuyết bút ký.
Như 240.
246. Lĩnh Nam chích quái Hệt truyện, Vũ Quỳnh hiệu đính, bản in.
247. Lĩnh Nam chích quái liệt truyện khảo chính, (Sơ biên, nhị biên),
bản sao cổ của Việt Nam.
248. Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập, Lý Tế Xuyên biên tập. Như
240.
249. Nam quốc dị nhân sự tích lục, Lê Quý vâng lệnh chép. Như 240.
250. Thính văn dị lục, khuyết danh. Như 240.
251. Việt điện kỳ văn hợp lục, Lê Khánh Vân chép. Như 240.
252. Tân truyền kỳ lục, Phạm Quý Thích, bản sao, Viện nghiên cứu
Hán Nôm, Hà Nội.
253. Bích câu kỳ ngộ thực lục, Phạm Tử Trọng biên tập. Như 252.
254. Hội chân biên, Thanh Hòa Tử, bản của đền Ngọc Sơn.
255. Bắc sứ giai thoại, khuyết danh, bản sao cổ.
256. Hoàng Việt thông sử, Lê Quý Đôn. Như 255,
257. Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn. Như 256.
258. Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn, Như 257.
259. Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú. Như 258.
260. Đăng khoa bị khảo, Phan Huy Chú. Như 259.
261. Hiệu hợp bản Đại Việt sử ký toàn thư (Thượng, Trung, Hạ), sách
chữ Hán Việt Nam, Trần Kinh Hòa biên hiệu, Ban xuất bản phụ thuộc văn
hiến học Đông Dương, Sở nghiên cứu văn hóa Đông Dương trường Đại học
Đông Kinh, tháng 3-1984, tháng 3-1985, tháng 3-1986.
262. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản in ảnh của Thư
viện quốc lập trung ương, tháng 1-1969.
263. Trung Việt văn hóa luận văn tập (1,2), Quách Đình Dĩ… Trung Hoa
văn hóa xuất bản sự nghiệp ủy viên hội, tháng 4-1956.
264. Tiểu phương hồ trai dư địa tùng sao (T. 10), Vương Tích Kỳ đời
Thanh soạn. Quảng văn thư cục, tháng 4-1962.
265. Sử địa tùng khảo, Bá Hy Hòa… soạn, Phùng Thừa Quân dịch
thuật, Đài Loan thương vụ ấn thư quán, in lần đầu, tháng 9-1962.
266. Bách Việt nguyên lưu dữ vãn hóa, La Hương Lâm, Ban biên thẩm
Trung Hoa tùng thư thuộc Quốc lập biên dịch quán, tái bản có tăng bổ, tháng
2-1978,
267. Việt Nam thông giám Quách Thọ Hoa, Âu sư thư điếm, in lần ba
có tăng đính, tháng 10-1978.
268. Việt Nam dữ Trung Quốc, Chu Vân Ảnh, Nxb. Hại ngoại văn khố,
tháng 6-1958.
269. Trung Quốc văn học dữ Việt Nam Lý triều văn học chi nghiên cứu,
Thích Đức Niệm (Hồ Huyền Minh), Hội in kinh tinh xá Đại Thừa, tháng 4-
1979.
270. Hán văn văn học tại An Nam đích hưng thế, Trịnh Vĩnh Thường,
Đài Loan thương vụ ấn thư quán, tháng 4-1987.
B. Nhật văn
1. Tiễn đăng tân thoại. Dư thoại. Tây Hồ giai thoại. Đường âm tỉ sự, Cù
Hựu… đời Minh, Phạn Chủng Lang… dịch và giải thích, Q. 39 trong Trung
Quốc cổ điển văn học đại hề, Bình phàm xã, 1969
2. Điểm nhìn đối với lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Đại Chủng Tú Cao,
Hội chấn hưng giáo dục trường Đại học Phóng Tống, tháng 4-1987.
3. Thế giới tiểu thuyết Trung Quốc, Nội Điền Đạo Phu, Bình luận xã,
1970.
4. Nghiên cứu tiểu thuyết đời Đường, Cận Đằng Xuân Hùng, Thư viện
Lạp gian, tháng 12-19/8.
5. Bàn chung về tiểu thuyết thoại bản, Nguyên Điền Quý Thanh, cổ đình
thư ốc, in lần đầu tại Đài Loan, tháng 3-1975.
6. Tống, Minh, Thanh tiểu thuyết tùng khảo, Trạch Điền Thụy Tuệ,
Nghiên cứu xuất bản (Ban xuất bản hiệu sách Sơn Mộc), tháng 2-1982.
7. Khảo luận tình tiết cốt truyện của Tam ngôn, Nhị phách Tiểu Xuyên
Dương Nhất, Tân điển xã, tháng 11-1981.
8. Bổ sung thư mục tiểu thuyết thông tục Trung Quốc, Đại Chủng Tú
Cao, Hấp cổ thư viện, tháng 5-1987.
9. Già tì tử (Ôtoghibôcô), Thiển Tỉnh Liễu Ý viết, Giang Bản Dụ dịch,
Giáo dục xã, bản mới, in lần đầu tháng 6-1986.
10. Bình chú Vũ nguyệt vật ngữ, Dã Điền Thọ Hùng, Thư viện Vũ tàng
dã, in lần mười một tháng 7-1979.
11. Văn học Giang Hộ và Trung Quốc, Trâu Phỏng Xuân Hùng và Nhật
Dã Long Phu, Mỗi nhật tân văn xã, tháng 2-1977.
12. Nghiên cứu so sánh Già tì tử và Tiễn đăng tân thoại, Lâm Ly Dung,
luận văn thạc sĩ Sở nghiên cứu Đông ngô Nhật, 1987.
C. Hàn văn
1. Hàn Quốc Hán văn học sử, Lý Gia Nguyên, Phổ thành văn hóa xã,
tháng 1-1979.
2. Triều Tiên tiểu thuyết sử, Kim Đài Tuấn, Học nghệ xã, tháng 7-1939.
3. Hàn Quốc tiểu thuyết nghiên cứu, Lý Tại Tú, Tuyên minh văn hóa xã,
1968.
4. Lý triều thời đại tiểu thuyết luận, Kim Khởi Đông, Nxb. Nhị hữu, in lần
ba tháng 3-1978.
5. Hàn Trung thuyết thoại tỉ giảo nghiên cứu, Kim Huyền Long, Nhất chí
xã, tháng 6-1976.
6. Hàn Trung tiểu thuyết chi tỉ giảo văn học đích nghiên cứu, Lý Tương
Dực, Tam anh xã, tháng 7-1983.
7. Hàn, Trung, Nhật văn học đích tỉ giảo nghiên cứu, Hàn Vinh Hoán,
Chính âm xã, tháng 4-1985.
8. Hàn Trung văn học tỉ giảo chi nghiên cứu, Đinh Khuê Phúc, Phòng
xuất bản trường Đại học Cao Ly, tháng 10-1987.
D. Anh văn
1. Dictionary of Ming Biography, Colombia University Press, New York
and London, 1976.
II. BÀI CHUYÊN LUẬN
A. Trung văn
1. Á Châu văn học, Arthur E. Kunst, Hồ Gia Loan dịch, trong sách Tỉ
giảo văn học dịch văn tập do Trương Long Khê tuyển dịch, Nxb. Bắc Kinh đại
học, tháng 6-1982.
2. Việt Nam đích Hán học nghiên cứu, Ô Tăng Hậu, trong sách Thế giới
các quốc Hán học nghiên cứu hận văn tập do Đào Chấn Dự… Viện nghiên
cứu quốc phòng viết, tháng 9-1962.
3. Trung Quốc thông tục tiểu thuyết tại Việt Nam, Lô Uý Thu, trong sách
Tập luận văn văn học so sánh phương Đông do Sở nghiên cứu văn học so
sánh trường Đại học Thâm Quyến chủ biên, Nxb. Văn nghệ Hồ Nam, tháng 2-
1987.
4. Tiễn đăng tân thoại, Mã Ấu Viên, Hồ Vạn Xuyên, Lưu Thiệu Minh
trong sách Đề yếu về tác giả và thư mục các tuyển tập đoản thiên tiểu thuyết
truyền thông của Trung Quốc, Liên kinh xuất bản sự nghiệp công ty, tháng 5-
1979.
5. Tiễn đăng tân thoại đối Nhật Bản Giang Hộ văn học đích ảnh hửởng,
Kiều Bính Nam, tập 7 sách Văn học cổ điển, Đài Loan học sinh thư cục, tháng
8-1985.
6. Cù Hựu sự tích khảo lược, Trương Tăng Nguyên, Văn học di sản
tăng san, tập 15, Bắc Kinh Trung Hoa thư cục, tháng 9-1983.
7. Quan ư Cù Hựu đích Hương đài tập - Tiễn đăng tân thoại thành thư
đích nhất cá trắc diện, Cương Kỳ Do Mỹ viết, Đổng Đức Lâm, Lô Yến Bình
dịch, bản khoa học xã hội, báo của trường Sư phạm chuyên nghiệp Hứa
Xương, tháng 1-1986.
8. Luận dân gian cố sự đích huyễn tưởng, Lưu Tích Bân, Học thuật
nghiên cứu, số 4-1980.
9. Chức Nữ biến tâm, Bôn Lưu SƯU tập, chỉnh lý, Dân gian văn học số
7-1985.
10. Ngưu Lang, Chức Nữ kết oan cừu, Đổng Chiếm Thuận sưu tập,
chỉnh lý. Như 9.
11. Thượng lương ca, Hầu Kim Lương sưu tập, chỉnh lý. Như 10, số 6-
1985.
12. Tán trướng dữ tán trướng ca, Đồ Thạch. Như 11, số 7-1985.
13. Hương thổ khí tức nùng úc đích trúc chi từ, Ngải Xương, Sở phong,
số 1-1984.
14. Kiều Hồng ký thành thư kinh vĩ: kỳ biến thiên cập lưu truyền quá
trình, Đằng Thấu Bình viết, Tạ Bích Hà dịch, Trung ngoại văn học, Q. 13, số
12, tháng 5-1985.
15. Minh đại hậu kỳ văn ngôn tiểu thuyết san hành khái huống,
(Thượng, Hạ), Đại Chủng Tú Cao, Tạ Bích Hà dịch, Thư mục quý san, Q.19,
số 2,3, tháng 9-1985, tháng 12-1985.
16. Quốc lập trung ương đồ thư quán thiện bản thư chí - Sứ chức văn
hiến thông biên, Thù vực chu tư lục, Kiều Diễn Quan, tập san của Thư viên
quốc lập trung ương, Q.I bộ mới, số 2, tháng 10-1967.
17. An Nam thư lục, Phùng Thừa Quân, tập san của Thư viện quốc lập
Bắc Bình, Q.6, số 1, tháng 2-1932.
18. Việt Nam đích văn học dữ nghệ thuật, Lâm Anh Cường, Đông Nam
Á nghiên cứu, Q.4, tháng 12-1968.
19. Trung Quốc tiểu thuyết đích diễn biến cập kỳ truyền nhập Việt Nam,
Trần Quang Huy, Trung Hoa văn hóa phục hưng nguyệt san, Q.9, số 6, tháng
6-1976.
20. Lý, Trần, Lê tam triều đích Việt Nam phật giáo dữ chính trị, Tào Sĩ
Bang, Tân Á học báo, Q.10, số 2, tháng 7-1973.
21. Việt Nam văn học đích phát triển, Hoài Thanh (Việt Nam), Hoàng
Bỉnh Mỹ dịch, Văn học bình luận, 1960.
22. Việt Nam cổ điển văn học danh rứ thành thư tố nguyên, Hoàng Dật
cầu, bản triết học, khoa học xã hội, Học báo Kỵ Nam, số 1-1982.
23. Việt Nam văn học dữ Trung Quốc văn hóa, Nhan Bảo, Quốc ngoại
văn học, số 1-1983.
24. Việt Nam văn học giới thiệu, Lô Uý Thu, Triệu Ngọc Lan. Như 23,
số 1-1984.
25. Minh đại Nam Ông mộng lục soạn trứ giả Lệ Trừng thân thế khảo,
Trịnh Vĩnh Thường, Đông phương tạp chí bản phụ san, Q. 20, số 6, tháng 12-
1986.
26. Việt Nam Hán văn bút ký tiểu thuyết, Vương Tam Khánh, Quốc văn
thiên địa, số 33, tháng 2-1988.
27. Cùng thiên lý mục, khán Hán văn học - phỏng Trần Khánh Hạo, Đới
Ngọc chỉnh lý. Như 26, số 9, tháng 2-1986.
28. Thiên lý chi hành, thủy ư túc hạ - phỏng Trần Khánh Hạo giản giới
Trung Quốc vực ngoại Hán tịch quốc tế học thuật hội nghị kỵ Biên soạn Trung
Quốc vực ngoại Hán tịch liên hợp thư mục tọa đàm hội, Trần Ích Nguyên
chỉnh lý. Như 27, số 18 tháng 11-1986.
29. Đương tiền cổ điển tiểu thuyết nghiên cứu xu thế tọa đàm hội, Trần
Ích Nguyên ghi chép, chỉnh lý, Thư mục quý san, Q. 21, số 2, tháng 9-1987.
30. Hán văn hóa chỉnh thể nghiên cứu đích khởi điểm - Việt Nam Hán
văn tiểu thuyết tùng san biên soạn quá trình, Trần Khánh Hạo, Quốc văn thiên
địa, số 29, tháng 10-1987.
31. Trần Khánh Hạo dữ Vực ngoại Hán văn tiểu thuyết tùng san, Trần
Ích Nguyên, Đại Hoa vãn báo, trang cổ điển văn học, ngày 16-11-1987.
32. Vực ngoại Hán văn học đích xuất bản dữ nghiên cứu tọa đàm hội,
Trần Ích Nguyên ghi chép, chỉnh lý, Thư mục quý san, Q. 21, số 3, tháng 12-
1987.
33. Ngã biên Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết toàn tập, Lâm Minh Đức,
Quốc văn thiên địa, số 26, tháng 7-1987.
34. Kim Ngao tân thoại nghiên cứu, Diệp Càn Khôn, báo của trường
Đại học chính trị quốc lập, số 17, tháng 5-1968.
35. Trung, Nhật, Hàn tam cá quỉ thê cố sự đích tỉ giảo nghiên cứu
Trương Thố, phụ trương Tự lập của Tự lập vãn báo số ra ngày 31-8 đến 3-9
năm 1983.
36. U minh dị thú - Trung, Nhật truyền kỳ nhân quỉ tương luyến đích khả
năng dữ bất khả năng, Trương Thố, phụ san Liên hợp của Liên hợp báo,
ngày 3-11-1984.
37. Trung Quốc văn hóa đối ư Nhật, Hàn, Việt đích ảnh hưởng - Bình
giới Chu Vân Hà trứ Trung Quốc văn hóa khuyên chi lịch sử đích nghiên cứu,
Hoàng Tú Chính, phụ san Trung ương của Trung Ương nhật báo, ngày 1-3
tháng 5-1957.
38. Cù Hựu phiên án, Chức Nữ tố oan, Trần Ích Nguyên. Như 37, trang
Trường hà ngày 22-2-1988.
39. Khảo thành hoàng khảo, Trần Ích Nguyên. Như 38, ngày 7-3-1988.
40. Cù Hựu như thị thuyết - “Vấn kim thị hà thế” cựu giải, Trần Ích
Nguyên. Như 39, ngày 16-4-1988.
41. Truyền thông dữ cá nhân tài cụ, T.S.Eliot viết, Ông Đình Khu dịch,
Trung ngoại văn học, Q. 2, số 9, tháng 2-1974.
42. Truyền kỳ tính dữ dân gian truyền thuyết, Khuất Dục Đức, tham
luận tại Hội thảo Hội nghiên cứu văn nghệ dân gian Trung Quốc, tháng 5-
1981.
43. Tại Trung Quốc bất bị trọng thị nhi tại Nhật Bản thụ hoan nghênh
chi thập bộ thư, Hoàng Đắc Thời, tham luận tại Hội thảo nghiên cứu mối quan
hệ về văn hóa giữa Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, thán 4-1983.
44. Cù Hựu hòa Tiễn đăng tân thoại, Trần Khánh Hạo, tham luận tại Hội
thảo quốc tế về tiểu thuyết hý khúc đời Minh, tháng 8-1987.
45. Việt Nam Hán văn lịch sử diễn nghĩa sơ thám, Trần Khánh Hạo,
tham luận tại Hội thảo quốc tế về sách chữ Hán ngoài Trung Quốc lần thứ hãi,
tháng 12-1987.
46. Trung Quốc văn hóa dữ Việt Nam văn hóa, Lã Sĩ Bằng. Như 45.
B. Nhật văn
1. Về Tiễn đăng tân thoại, Cửu Bảo Thiên Tùy, Ngôn ngữ và văn học số
4-1930.
2. Về Tiễn đăng tân thoại (bổ di), Cửu Bảo Thiên Tùy. Như 1, số 5.
3. Những liên quan đến Tiễn đăng tân thoại (1-6), Cửu Bảo Thiên Tuỳ,
Tư văn, Q. 15, số 1-4, 6, 12 năm 1934.
4. Tiễn đăng tân thoại và ảnh hưởng của nó đối với văn học cận đại
Trung Quốc, Cửu Bảo Đắc Nhị, Niên báo nghiên cứu khoa văn học, Văn
chính học bộ trường Đại học đế quốc Đài Bắc, tập 1, 1934.
5. Về niên đại Tiễn đăng tân thoại du nhập bằng thuyền, Trạch Điền
Thụy Tuệ, Trung Quốc văn học nguyệt báo, số 35, năm 1937.
6. Tiễn đăng tân thoại và tiểu thuyết đời Đường, Cận Đằng Xuân Hùng,
Thuyết Lâm số 23, tháng 12-1974.
7. Thế giới của Tiễn đăng tân thoại, Cận Đằng Xuân Hùng. Như 6, số
25, tháng 12-1976.
8. Khảo Tiễn đăng tân thoại - về tính nhiều tầng của văn mạch, Quật
Điền Văn Hùng, Tập san Trung Quốc học, số 39, tháng 6-1978.
9. Quy điền thi thoại của Cù Hựu, Quật Điền Văn Hùng. Như 8, số 43,
tháng 5-1980.
10. Về Hương đài tập của Cù Hựu - một trắc diện về việc thành sách
Tiễn đăng tân thoại, Cương Kỳ Do Mỹ, Trung Quốc văn học nghiên cứu, số 9,
tháng 12-1983.
11. Các dị bản Cú giải Tiễn đăng tân thoại, Dã Khẩu Nhất Hùng, trong
Tập luận văn Trung Quốc học kỉ niệm giáo sư Y Đằng Thấu Bình thôi chức tại
thư viện Hấp Cổ, 1986.
12. Truyện cưới dưới âm phủ của Tiễn đăng tân thoại, Nham Điền
Bách Lang, Nhật Bản văn học luận cứu, số 30.
13. Khảo về Cù Hựu, văn nhân đầu đời Minh, Thu Cát Cửu Kỉ Phu,
Hương chùy tích, số 33, tháng 10-1997
14. Về thời gian in lần đầu của Tiễn đăng tân thoại, Thu Cát Cửu Kỉ
Phu, Trung Quốc văn học luận tập, số 7, tháng 6-1978
15. Lại nói về Tiễn đăng tùng thoại - một nét động hướng của tư tưởng
văn nghệ thời Vạn Lịch, Thu Cát Cửu Kỉ Phu, Văn nghệ và tư tưởng, số 40,
tháng 1-1980.
16. Sự ra đời của Trùng hiệu Tiễn đăng tân thoại, Thu Cát Cửu Kỉ Phu,
Hương chùy tích, số 26, tháng 3/1982
17. Tiểu thuyết đời Minh và thiện thư, Tiểu Xuyên Dương Nhất, Tham
luận tại Hội thảo quốc tế về tiểu thuyết kí khúc đời Minh, tháng 8-1987
18. Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại, Già tì tử và Kim Ngao tân
thoại, Tá Điền Tuấn Ngạn, Triều Tiên học báo, tập 23, tháng 4-1962.
19. Về các dạng tiếp nhận Tiễn đăng tân thoại ở Kim Ngao tân thoại và
Già tì tử, Trịnh Kì Hạo. Như 18, T. 68, tháng 7-1973.
20. Tiễn đăng tân thoại và Kim Ngao tân thoại - trung tâm tạo nên Vạn
Phúc tự hu bồ kí, Thành Trạch Thắng, Trung Quốc văn học nghiên cứu, số 5,
tháng 12-1979.
21. Truyền kì mạn lục được coi là tác phẩm tiêu biểu của văn học An
Nam, Áo Dã Tín Thái Lang, Trung Quốc văn học, số 6767, năm 1941.
22. Khảo về Truyền kì mạn lục, Xuyên Bản Bang Vệ, Nghệ văn nghiên
cứu, số 27, tháng 3-1969.
23. Mục lục sách Hán Nôm có ở Thư viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Xuyên Bản Bang Vệ, Kỷ yếu Sở nghiên cứu văn hóa ngôn ngữ trường Đại
học nghĩa thục Khánh ứng, số 2, tháng 2-1971.
24. Nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục (2), Xuyên Bản Bang Vệ. Như 23, số
16, tháng 12-1984.
25. Nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục (3), Xuyên Bản Bang Vệ. Như 24, số
17, tháng 12-1985.
C. Hàn văn
1. Giải đề Kim Ngao tân thoại, Thôi Nam Thiện, Khải minh số 19, 1927.
2. Nghiên cứu Kim Thời Tập, Trịnh Bính Dục, Tập luận văn trường Đại
học Cao Ly, T. 7, 1958.
3. Khảo về bối cảnh thiên nhiên của Kim Ngao tân thoại - lập trường
nghiên cứu so sánh với Tiễn đăng tân thoại, Kim Tú Thành, Trung Quốc học
báo T. 9, tháng 10-1968.
4. Kim Ngao tân thoại và Tiễn đăng tân thoại nhìn dưới con mắt của
văn học so sánh, Phác Thạnh Nghĩa, Tập luận văn về lí luận văn học của
trường Đại học Cao Ly, tháng 2-1969.
5. Khảo về tiểu thuyết Trung Quốc mua theo lệnh của Yên Sơn Quân,
Liễu Đạc Nhất, tham luận tại Hội thảo quốc tế về sách chữ Hán các nước
ngoài Trung Quốc lần thứ ba, tháng 9-1988.
D. Anh văn
1. William H. Nienhauser Jr: Aspects of a Socio - Cultural of Ming Shor
Fiction - the Chien - teng hsin - hua and Its Sequels as Example, Tamkang
Review Vol. X, N 3 & 4, Spring & Summer 1980.
PHỤ LỤC
I. TIỂU THUYẾT HÁN VĂN CÁC NƯỚC NGOÀI TRUNG QUỐC TẠI
ĐÀI LOAN
Trần Ích Nguyên
II. HAI BÀI ĐỌC SÁCH:
1. Một bước đi vững chắc
Tiết Hồng Tích
2. Thành quả đầy đặn trong nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán
Mai Khánh Cát
TIỂU THUYẾT HÁN VĂN CÁC NƯỚC NGOÀI TRUNG QUỐC TẠI ĐÀI LOAN
Trần Ích Nguyên
I. ĐÔI LỜI MỞ ĐẦU
Khoảng cuối thế kỉ XIX và trước đầu thế kỉ XX, Hàn Quốc (hoặc gọi là
Triều Tiên), Nhật Bản (bao gồm cả Lưu Cầu), Việt Nam… đều vẫn còn dùng
Hán văn làm công cụ viết sách trong thời gian dài. Vì có nguồn gốc lịch sử
sâu sắc, dầy dặn với văn hoá Trung Quốc, nên cùng chung “khu vực văn hóa
Hán” với Trung Quốc. Trong đó văn hóa Hán của Trung Quốc là chủ lưu, sách
vở vô vàn, không cần phải nói; còn các nước ngoài Trung Quốc thì hàng ngàn
năm nay cũng để lại một số lượng lớn văn hiến Hán, kinh, sử, tử, tập, thứ gì
cũng có. Đó vừa là di sản văn hóa của dân tộc nước họ và cũng là của cải
của cả khu văn hóa Hán nói chung. Số “văn hiến Hán ngoài Trung Quốc” này
nếu được vận dụng đầy đủ, được nghiên cứu so sánh thì sẽ có thể mở rộng
tầm mắt về Hàn Quốc học, Nhật Bản học, Việt Nam học, giúp ích cho việc tìm
hiểu sự truyền bá và phát triển văn hóa Trung Quốc ở các nước này. Đáng
tiếc là do ảnh hưởng tăng tiến của ý thức dân tộc thời cận đại, học giả các
nước ngoài Trung quốc thường tẩy chay mạnh mẽ, đặt văn hiến Hán ra ngoài
phạm vi nghiên cứu văn hóa của nước mình, không bó những sách vở ấy gác
lên cao thì cũng để mặc cho chúng thất thoát, khiến chúng trở thành những
đứa trẻ bị bỏ rơi, thành con mồ côi không có quốc tịch. Còn văn nhân truyền
thống của Trung Quốc vốn dĩ đã không thèm để mắt đến các nền văn hóa chi
lưu, thậm chí không biết rằng có chúng, nói gì đến coi trọng nghiên cứu. “Chủ
nghĩa đóng cửa về mặt văn hóa này, quả thực cần thiết đả phá!”
Muốn đả phá tâm thái đóng cửa giữ mình này của người trong nước,
hoặc muốn uốn nắn ý thức dân tộc tăng tiến quá mức của các nước ngoài
Trung Quốc, để cho người trong khu văn hóa Hán không coi khinh cũng
không chống đối đối với “văn hiến Hán ngoài Trung Quốc”, coi chúng như con
đẻ của mình thì đâu có dễ dàng! Tuy vậy, chúng ta cũng không nên quá nản
lòng bởi vì bánh xe thời đại luôn tiến về phía trước, quan niệm và cách nghĩ
không phải nhất thành bất biến. Theo đà tiến bước của nghiên cứu học thuật,
mọi người bình tĩnh, khách quan đối mặt với sự thực thì cuối cùng rồi sẽ
không thể không thừa nhận sự tồn tại thực tế của văn hiến Hán ngoài Trung
Quốc.
Nói ngay về “văn học Hán ngoài Trung Quốc”, hiện nay học giả các
nước đó đang tất bật soạn sử. Về Nhật Bản, đã có Nhật Bản Hán văn học sử
của Phương Hạ Thỉ Nhất, Nhật Bản Hán văn học sử của Cương Điền Chính
Chi, Thượng đại Nhật Bản Hán văn học sử của Thị Thôn Trùng Tùng, Nhật
Bản Hán văn học thông sử của Hộ Điền Hạo Hiểu, Nhật Bản Hán văn học
giảng nghĩa của Tự Phương Duy Tinh… Về Hàn Quốc, có Triều Tiên Hán văn
học sử của Kim Đài Tuấn, có Hàn Quốc Hán văn học sử của các soạn giả
Văn Toàn Khuê, Lí Gia Nguyên, Kim Xuân Đông… Về Việt Nam, tuy chưa
được thấy những sách chuyên viết lấy tên là văn học sử Hán văn nhưng Việt
Hán văn chương trích diễm của Lí Văn Hùng, Việt Nam đại quan cũng đã có
cái nhìn chính diện. Có điều, đến đây thì nảy sinh vấn đề: văn học sử Hán văn
của Nhật Bản, Triều Tiên hoặc sách viết sử văn học của Việt Nam đã nói đến
trên đây, thì tác phẩm văn học Hán văn được bàn đến, hầu như tất cả chủ
yếu là thơ chữ Hán, văn chữ Hán, rất ít khi nói đến tiểu thuyết chữ Hán, có
sách còn không hề đả động đến một chữ. Nhân sĩ các nước ngoài Trung
Quốc là thế mà học giả Trung Quốc nghiên cứu văn học Hán ngoài Trung
Quốc cũng có khuynh hướng tương tự. Thiếu sót nghiêm trọng này cho đến
hiện nay vẫn còn rất phổ biến.
Học giả Trung Quốc và ngoài Trung Quốc phổ biến coi thường tiểu
thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc thì nguyên nhân chủ yếu có lẽ là do quan
niệm văn học truyền thống trong khu văn hóa Hán mà ra. Xưa nay đã cho tiểu
thuyết là sách tục không lên được ngôi nhà lớn, vậy thì phải chăng cũng có
nghĩa là các nước ngoài Trung Quốc không chú trọng phát triển sáng tác tiểu
thuyết bằng Hán văn? Đương nhiên không phải là như thế. Trên thực tế, nhiệt
tình sáng tác tiểu thuyết Hán văn của văn nhân các đời ở Nhật Bản, Hàn
Quốc, Việt Nam không kém gì các nhà tiểu thuyết ở Trung Quốc. Các tiểu
thuyết gia viết bằng Hán văn ngoài Trung Quốc đã hấp thụ chất dinh dưỡng ở
tiểu thuyết Trung Quốc, hoặc đổi da thay mặt, hoặc thay thịt đổi xương, viết
nên rất nhiều giai tác. Những tiểu thuyết Hán văn như thế, số trang hơn thơ
Hán, văn Hán rất nhiều, khiến cho tác giả đủ để mặc sức phô bày kỹ xảo
nghệ thuật, làm phong phú nội hàm tư tưởng, biểu hiện phong thổ dân tình và
đặc chất tinh thần của dân tộc mình, thật sự vô cùng đáng quý giá. Đáng tiếc
là, do quan niệm ''chính thống” coi thường tiểu thuyết, chính quyền các nước
cấm đoán, tiêu hủy sách vở mà lần nào tiểu thuyết cũng đứng hàng đầu; lại
thêm chiến tranh, giáo dục (bỏ chữ Hán), khí hậu… là những sức phá hoại
nhân vi và tự nhiên, tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc càng thất thoát
ghê gớm. Nếu không sưu tầm, chỉnh lý, xuất bản thì không thể lưu truyền
rộng rãi để sử dụng cho công việc nghiên cứu được.
Hơn mười năm nay, nhờ sự hợp sức xúc tiến của các học giả cùng
chung nhận thức, Đài Loan đã có nhiều cố gắng bắt đầu từ việc xuất bản và
nghiên cứu tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc, và có kế hoạch lâu dài, bỏ
nhiều thời gian, có triển vọng bổ sung những chỗ còn thiếu mà trước đây
từng thảo luận về văn học Hán ngoài Trung Quốc, đặt cơ sở cho việc nghiên
cứu chỉnh thể về văn hóa Hán sau này. Nhân Hội thảo khoa học quốc tế về
văn học Hoa văn Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao và hải ngoại lần thứ năm
(tháng 7 năm 1991 tại Trung Sơn, Quảng Đông), chúng tôi xin trình bày tình
hình như sau.
II. CHỈNH LÝ VÀ XUẤT BẢN TIỂU THUYẾT HÁN VĂN NGOÀI TRUNG QUỐC TẠI ĐÀI LOAN
Tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc là một khâu không thể thiếu của
văn học ngoài Trung Quốc. Cái gọi là “văn học Hán ngoài Trung Quốc” nhằm
chỉ những tác phẩm văn học viết bằng chữ Hán của nhân sĩ các nước ngoài
Trung Quốc, hơi có khác chút ít với định nghĩa về “văn học Hoa văn hải
ngoại” (mà tác giả hầu hết là nhà văn Hoa kiều hoặc hậu duệ người Hoa) lâu
nay quen dùng, vì thế “tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc” tất nhiên cũng
có khác về quốc tịch với tác giả, tác phẩm của “tiểu thuyết Hoa văn hải ngoại”
(đấy là chưa kể những tình hình đặc thù, không thật đơn thuần). Đó là điều
chúng tôi cần nói rõ trước tiên. Ngoài ra, cái gọi là “tiểu thuyết Hán văn ngoài
Trung Quốc” là được dùng với quan niệm về “tiểu thuyết” theo nghĩa rộng; tất
cả những truyền thuyết thần thoại, diễn nghĩa lịch sử, truyền kỳ, bút ký, ngụ
ngôn, tiếu thoại… mà có tình tiết, nhân vật và cá tính được miêu tả thì những
tác phẩm cổ điển này đều thuộc về tiểu thuyết. Tiêu chuẩn chọn hay không
chọn này có lẽ là điều không thể dung hòa với quan niệm tiểu thuyết hiện đại,
song vì chú ý tới nguồn gốc lịch sử, tránh chọn được một bỏ sót cả vạn nên
công việc buổi đầu cần thiết phải mở rộng phạm vi thu thập, đó cũng là điều
chúng tôi cần phải nói rõ.
Sau khi đã xác định đối tượng và phạm vi của “tiểu thuyết Hán văn
ngoài Trung Quốc”, chúng tôi xin giới thiệu ba nét lớn về tình hình chỉnh lý,
xuất bản tiểu thuyết Hán văn ở Hàn Quốc, Việt Nam và Nhật Bản của Đài
Loan.
1. Tiểu thuyết Hán văn Hàn Quốc
Hàn Quốc sáng tác tiểu thuyết Hán văn từ thời xa xưa, nhà văn rất
nhiều mà tác phẩm cũng vô số, đứng đầu các nước ngoài Trung Quốc. Sơ bộ
tính toán thì tổng số chữ không dưới cả triệu và phần nhiều lưu truyền dưới
hình thức bản sao nên văn bản hết sức phức tạp. Trong gần mấy chục năm,
một học giả khoa Văn ở Hàn Quốc biên chép, tuyển chọn và xuất bản, như
các tập Lý triền Hán văn đoản thiên tập của Lý Hựu Thành, Lâm Huỳnh Trạch
trường Đại học Thành Quân Quán, Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết tập,
Nguyên văn Hán văn tiểu thuyết tuyển của Kim Khởi Đông trường Đại học
Đông Quốc, Lý triều Hán văn tiểu thuyết tuyển của Lý Gia Nguyên, Đoản thiên
tiểu thuyết tuyển của Kim Đông Húc, Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết tuyển của
Lý Dân Thụ đều ở trường Đại học Diên Thế; hoặc chỉnh lý xuất bản riêng
từng truyện một như Kim Ngao tân thoại dịch chú (phụ lục nguyên bản) của
Lý Gia Nguyên, Cửu vân mộng của Trịnh Bính Dục trường Đại học Hán
Thành, cửu vân mộng nguyên điển đích nghiên cứu của Đinh Khuê Phúc
trường Đại học Cao Ly v.v… Có điều, những tuyển tập và sách riêng chọn
đăng mới chỉ là một phần nhỏ của tiểu thuyết Hán văn Hàn Quốc. Giới học
thuật Hàn Quốc vẫn chưa được thấy những bộ tùng thư thu thập số lượng
lớn in ra và lưu hành, thật là điều đáng tiếc.
Do cảm xúc về điều đó, giáo sư Lâm Minh Đức, khoa Hàn văn trường
Đại học văn hóa Trung Quốc ở Đài Bắc đã đơn độc phấn đấu trong bảy năm
trời, đến tháng 5 năm 1980, bộ Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết toàn tập gồm 9
tập lớn đã được trường Đại học văn hóa Trung Quốc và Viện nghiên cứu văn
hóa tinh thần Hàn Quốc cùng phát hành. Toàn tập tập 1 gồm loại mộng ảo và
gia đình, tập 2 gồm loại mộng ảo và lý tưởng, tập 3 là mộng ảo và mộng du,
tập 4, 5 là lịch sử, anh hùng, tập 6 là nhân hóa và châm biếm, tập 7 là tình
yêu, gia đình, tập 8, 9 là bút ký, dã đàm. Trong số đó, truyện trường thiên có
hơn 10 loại, đoản thiên có hơn 140 loại, tổng số chữ đã hơn 2.400.000. Ngoài
ra còn một quyển bỏ đi, đang tiếp tục soạn thêm. Bộ sách này vừa ra đời đã
khiến cho không ít học giả phải coi trọng tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung
Quốc, cả Nhật báo Hàn Quốc cũng thẳng thắn đưa tin: “Một học giả người
Trung Quốc là Lâm Minh Đức đã chỉnh lý, biên soạn tiểu thuyết Hán văn mà
lâu nay bị văn học sử Hàn Quốc lạnh nhạt, bỏ quên thành bộ Hàn Quốc Hán
văn tiểu thuyết toàn tập gồm mười tập. Vì người chỉnh lý, biên soạn, tiểu
thuyết Hán văn Hàn Quốc không phải là người Hàn Quốc mà là một học giả
Trung Quốc, điều đó khiến cho học giả nước chúng ta vừa cảm thấy phấn
khởi lại vừa cảm thấy ngượng ngùng”. Toàn tập rõ ràng có tác dụng uốn nắn
lại thiên kiến đối với truyền thống, công của giáo sư Lâm không thể xóa mờ.
Có điều, Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết toàn tập “dường như chỉ chú ý
đến việc thu thập tư liệu và lưu thông mà chưa chú ý chỉnh lý, hiệu đính”, “rất
có ích cho việc đọc nói chung, chứ khó mà trở thành chỗ dựa cho việc nghiên
cứu học thuật”; Vì thế, giáo sư Trần Khánh Hạo ở Trung tâm nghiên cứu khoa
học quốc gia Pháp ngỏ ý: “Chúng tôi dựa vào các dị bản tập hợp được rồi
hiệu đính kỹ lưỡng, đạt tới quan niệm “định bản” (bản đã qua hiệu đính hoàn
chỉnh. N.D.); để chỉnh lý toàn diện số tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên… sẽ mời
rộng học giả Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và các nơi trên thế giới cùng
tham gia công việc này. Mọi người sẽ phụ trách công việc hiệu đính, chấm
câu và soạn lời thuyết minh xuất bản cho một quyển hoặc vài ba quyển rồi
gộp lại mà thành một bộ sách”. Bộ Triền Tiên Hán văn tiểu thuyết tùng san do
hợp tác quốc tế này vẫn dự định phát hành tại Đài Loan, song công trình lớn
lao, không thể hoàn thành trong thời gian ngắn được.
2. Tiểu thuyết Hán văn Việt Nam
Mười năm nay, giáo sư Trần Khánh Hạo nhiệt tâm thúc đẩy việc
“nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán” nên đã không tiếc công sức. Vì quan
điểm mới mẻ, lại thiết thực tiến hành được nên rất được giới học thuật Đài
Loan ủng hộ. Tháng 4 năm 1987, bộ Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san
do Trường viễn đông bác cổ Pháp xuất bản, Học sinh thư cục Đài Loan ấn
hành là thành quả của sự hợp tác giữa giáo sư Trần Khánh Hạo với giáo sư
Vương Tam Khánh Khoa Trung văn trường Đại học văn hóa Trung Quốc ở
Đài Loan. Ông Trần cũng coi việc biên soạn bộ tùng thư này là khởi điểm việc
nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán của cá nhân mình.
Tình hình bảo tồn tiểu thuyết Hán văn Việt Nam tương đối kém, tư liệu
phân tán cất giữ tại một số thư viện ở Việt Nam, Pháp và Nhật Bản, người
nghiên cứu không dễ đã tiếp xúc được. Chẳng hạn cuốn Hán văn văn học tại
An Nam đích hưng thế có thể gọi được là một cuốn lịch sử văn học Hán văn
Việt Nam loại nhỏ, song chỉ có vài ba lời nói đến tiểu thuyết chữ Hán. Trên
thực tế, xưa kia Việt Nam Hán hóa đã rất sâu, ước tính tiểu thuyết Hán văn
Việt Nam hiện còn ít nhất cũng có chừng 3.000.000 chữ; phân chia theo tính
chất thì gồm truyền thuyết thần thoại, tiểu thuyết truyền kỳ, lịch sử diễn nghĩa,
tiểu thuyết bút ký và tiểu thuyết hiện đại, tất cả là năm loại.
Phần thứ nhất của Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san gồm 7
quyển. Quyển 1 là Truyền kỳ mạn lục, quyển 2 có Truyền kỳ tân phả, Thánh
Tông di thảo, Việt Nam kỳ phùng sự lục (trở lên là loại truyền kỳ); quyển 3 là
Hoàng Việt xuân thu; quyển 4 là Việt Nam khai quốc chí truyện; quyển 5 là
Hoàng Lê nhất thống chí (trở lên là loại tiểu thuyết lịch sử); quyển 6 có Nam
Ông mộng lục, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Nhân vật chí; quyển 7 gồm
Khoa bảng tiêu kỳ, Nam quốc vĩ nhân truyện, Đại Nam hành nghĩa liệt nữ
truyện, Nam quốc giai sự, Tang thương ngẫu lục, Kiến văn lục, Đại Nam hiển
ứng truyện (trở lên là loại tiểu thuyết bút ký), số sách thu thập gồm 17 cuốn
ước tính 150.000 chữ. Số tư liệu này có được không dễ dàng gì, càng đáng
quí hơn là chúng bao gồm các loại dị bản, được giao cho Tổ hiệu đính tiểu
thuyết Hán văn Việt Nam thuộc Sở nghiên cứu Trung văn trường Đại học văn
hóa hiệu đính, chấm câu kỹ lưỡng rồi do chủ biên viết lời “Thuyết minh xuất
bản” bao gồm về tác giả, về nguốc gốc văn bản, về nội dung… ở đầu mỗi
quyển, phù hợp với yêu cầu học thuật. Cho nên Tùng san vừa mới ra đời đã
được Cục báo chí Đài Loan trao giải Kim đỉnh (giải cho chủ biên sách). Các
học giả Việt Nam biết được tin này cũng chủ động cung cấp tư liệu và tham
gia kế hoạch xuất bản tiếp theo.
Tính đến hiện nay, đã có thêm Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh lục,
Nam hải tứ vị thánh nương phả lục (trở lên là truyền thuyết thần thoại), Đại
Nam kỳ truyện, Tân truyền kỳ lục, Hội chân biên (trở lên là tiểu thuyết truyền
kỳ), Hoàng Việt Long hưng chí, Hậu Trần dật sử, Trần triều thượng tướng sự
ký (trở lên là diễn nghĩa lịch sử), Mẫn Hiên thuyết loại, Vũ trung tùy bút, Thính
văn dị lục, Nam quốc dị nhân sự tích lục, Nam Thiên trân dị tập, Bản quốc dị
văn lục, An Nam cổ tích liệt truyện, Hát Đông thư dị, Hoan châu ký, Nam thiên
vân lục, Xuyết thập tạp ký (trở lên là tiểu thuyết bút ký), tất cả gồm 20 loại.
Sau khi việc chỉnh lý, hiệu đính hoàn thành, sẽ là phần thứ hai của Tùng san,
dự định sang năm sẽ công khai phát hành (chủ biên gồm Trần Khánh Hạo,
Trịnh A Tài, Trần Nghĩa, Học sinh thư cục Đài Loan ấn hành). Sau nữa còn có
phần thứ ba, thu thập những tài liệu mới phát hiện tiếp theo, chuẩn bị ra toàn
bộ tiểu thuyết Hán văn Việt Nam.
3. Tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản
Vì tiểu thuyết Hòa văn của Nhật Bản phát đạt khá sớm nên số lượng
tiểu thuyết Hán văn không phong phú bằng Việt Nam và Hàn Quốc, phần giới
thiệu về chúng ở các loại Nhật Bản Hán văn học sử hầu như còn để trống,
căn bản không chiếm một tỉ lệ nào so với thơ Hán, văn Hán. Nhưng tháng 4
năm 1987, giáo sư Vương Tam Khánh sang giảng dạy ở trường Đại học
Thiên Lý, Nhật Bản, đã tận dụng thời gian nhàn rỗi ra sức sưu tầm; trong
khoảng một năm, tìm được đến mấy chục loại, thời đại phân bố ở mấy triều
Nãi Lương, Bình An, Giang Hộ, Minh Trị và mấy triều về sau, đủ thấy Nhật
Bản không phải không có tiểu thuyết Hán văn. Chất lượng số tiểu thuyết Hán
văn này tuy không ngang bằng với tiểu thuyết Hòa văn, song cũng có lịch sử
và ý nghĩa sáng tác riêng.
Theo như ông Vương tiết lộ, tiểu thuyết Hán văn ông thu thập được
gồm: Nhật Bản thư ký, Nhật Bản thất phúc thần truyện, Dịch chuẩn khai khẩu
tân ngữ, Hàm đường kỷ sự, Tích tích xuân thu, Cảnh tỉnh thiết tiên (trở lên
thuộc loại truyền thuyết thần thọai); Bản triều tiểu thuyết, Dạ song quỉ đàm,
Hiền hồ kỷ, Thiên hạ cổ kim văn uyển kỳ quan, Kỳ văn hân thiêng, Nhật Bản
ngu sơ tân chí, Dịch chuẩn kỳ ngữ, Hàn đăng dạ thoại, Mãn ngu lạc tán vân
sử, Tinh thiện tị dực duyên, Đông Đô tiên dộng dư đàm, Đương thế tân thoại
(trở lên thuộc loại tiểu thuyết truyền kỳ); Hải thượng dị truyện, Tây Chinh
khoái tân biên, Tam sơn bí kí, Đại Đông khuê ngữ (trở lên thuộc diễn nghĩa
lịch sử); Cận thế tùng thoại, Mê lâu hầu sử, Ký ẩm, Kỳ đàm nhất tiếu, Kỳ đàm
tân biên, Như thị ngã văn, Sư hữu chí, Đại Đông thế ngữ, Tiên triết tùng đàm,
Tiên triết tùng đàm hậu biên, Cận thế tiên triết tùng đàm, Tục cận thế tùng
đàm, Áp Đông tân thoại, Tùng Bắc dạ đàm, Cận thế nhân kính lục (trở lên
thuộc loại tiểu thuyết bút ký). Bốn chục truyện (ở đây mới có 39. N.D) sẽ gộp
thành Nhật Bản Hán văn tiểu thuyết tùng san tập thứ nhất, xuất bản ở Đài
Loan, đưa vào một trong những loạt tùng san tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung
Quốc.
Có thể dự kiến nếu Nhật Bản Hán văn tiểu thuyết tùng san được phát
hành thì lúc đó sẽ bổ khuyết được khoảng trống vắng về tiểu thuyết Hán văn
Nhật Bản hiện nay. Để xóa bỏ điểm “mù” này của giới học thuật giáo sư
Vương đã liệt kê một bản Thư mục tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản chờ thu
thập hoặc tạm thời để trưng cầu ý kiến nhiều phía nhằm tiện tiếp tục tìm kiếm
cho thành toàn bích.
III. NGHIÊN CỨU THẢO LUẬN TlỂU THUYẾT HÁN VĂN NGOÀI TRUNG QUỐC TẠI ĐÀI LOAN
Ở Đài Loan, trong số những học giả chuyên tâm “nghiên cứu chỉnh thể
văn hóa Hán”, trước tiên phải kể đến giáo sư Chu Vân Ảnh trường Đại học
Sư phạm Đài Loan. Ông dốc sức lực trong mấy chục năm trời, viết bài đề
xướng nghiên cứu “vùng văn hóa Trung Quốc” và tập hợp thành sách Ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.
Bài Ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với Nhật, Hàn, Việt trong số đó
đã từng kêu gọi “hãy coi trọng những tác phẩm Hán văn trước đây của các
nước Nhật, Hàn, Việt.”. Nhưng trong bài văn lớn này lại không tìm thấy bất kỳ
tung tích nào của tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc. Điều này có lẽ liên
quan đến việc không dễ có được tư liệu, thêm nữa, ở Sở nghiên cứu Trung
văn các trường đại học ở Đài Bắc, lâu nay tuy có thanh niên gốc Nhật, Hàn,
Việt hoặc Hoa kiều du học, song khi họ hoàn thành luận án học vị các cấp về
mối nhân duyên văn học giữa Trung Quốc và các nước khác của họ, rất ít khi
họ có thể để mắt cả tới tiểu thuyết ở nước họ hoặc các nước khác ngoài
Trung Quốc. Chúng tôi nghĩ rằng điều này cũng có liên quan tới số tư liệu mà
ít người biết đến. Vì vậy, trước khi chỉnh lý xuất bản Hàn Quốc Hán văn tiểu
thuyết toàn tập, Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san (phần đầu), việc
nghiên cứu tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc ở Đài Loan có thể nói là
chưa có gì hay để trình bày. Còn như sau khi Toàn tập và Tùng san ra đời,
tình hình khảo luận nghiên cứu rồi sẽ ra sao? Sau đây chúng tôi giới thiệu sơ
bộ ba nét lớn về luận văn nghiên cứu, về hội thảo quốc tế và về các buổi tọa
đàm.
1. Luận văn nghiên cứu
Trong thời gian chỉnh lý Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết toàn tập, ông
Lâm Minh Đức đã viết bài Hàn Quốc mộng ảo tiểu thuyết nghiên cứu và Luận
Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết dữ Hán văn học chi nghiên cứu. Sau khi Toàn
tập được xuất bản, cá nhân ông lại cho đăng rất nhiều bài viết, như Hàn Quốc
Hán văn tiểu thuyết đích công danh tư tưởng dữ Trung Quốc chi quan hệ,
Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết đích vũ đài bối cảnh dữ Trung Quốc chi quan
hệ, Dĩ Trung Quốc vi bối cảnh đích Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết v.v… Bài
viết gần đây nhất là Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết chi hưng suy cập kỳ
nghiên cứu, trong đó ông đã bàn tới hình thức của tiểu thuyết Hán văn Hàn
Quốc, mối quan hệ giữa tiểu thuyết Hán văn Hàn Quốc và Trung Quốc, thất
truyền và nghiên cứu sự thất truyền của tiểu thuyết Hán văn Hàn Quốc. Nhiều
học giả khác đã tận dụng tư liệu của Toàn tập để viết bài nghiên cứu như
Vương Hy Nguyên với bài Ngọc lâu mộng dữ Trung Quốc văn hóa.v.v…
Trong thời gian chỉnh lý Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, ông
Trần Khánh Hạo đã nói đến “Cùng thiên lý mục, khán Hán văn học sử” trên
một tờ tạp chí và trong một cuộc hội nghị cũng đã “giới thiệu tóm tắt nội dung
của tiểu thuyết Hán văn Việt Nam và kế hoạch xuất bản”. Sau khi Tùng san ra
đời, mấy lần ông đã trình bày quan niệm “nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán”
và viết bài Việt Nam Hán văn lịch sử diễn nghĩa sơ thám, phân tích đặc điểm
của bốn bộ Hoàng Việt xuân thu, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long
hưng chí và Việt Nam khai quốc chí truyện. Sau đó, Trịnh A Tài tiếp tục phát
huy “diễn nghĩa lịch sử trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam”. Cả hai ông đều
nhất trí khẳng định những tác phẩm thuộc loại “diễn nghĩa lịch sử” trong Tùng
san, trình bày đủ tình hình giao lưu chính thức và dân gian giữa Trung Quốc,
Việt Nam, giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu của chúng ta về quan hệ giữa
hai nước.
Ngoài ra, về tiểu thuyết chữ Hán thuộc loại “tiểu thuyết bút ký” thì giáo
sư Vương Tam Khánh trong bài Việt Nam Hán văn bút ký tiểu thuyết đã giới
thiệu bốn giá trị văn học, đó là: tập hợp được tư liệu văn hiến Việt Nam với số
lượng lớn; có thể khai thác nguồn gốc hàng loạt thơ văn và truyền thuyết thần
thoại, có thể khai thác tài nguyên phong phú về văn học so sánh và phần lý
luận của văn học Hán văn Việt Nam. về giá trị sử học cũng có bốn điểm: bổ
sung mảng tùng thư bút ký hết sức quan trọng cho sử Việt Nam, tham khảo
đính chính những điểm quan trọng về lịch sử chế độ, tham khảo về sự chuyến
đổi địa danh xưa nay ở Việt Nam, làm phong phú thêm sử liệu ngoại giao
giữa hai nước Trung Việt.
Còn về tiểu thuyết Hán văn Việt Nam thuộc loại truyền kỳ, chúng tôi đã
viết luận án thạc sĩ, nghiên cứu so sánh Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
với Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, đồng thời còn đăng bài Việt Nam Hán
văn tiểu thuyết Truyền kỳ mạn lục đích uyên nguyên cập ảnh hưởng. Trước
đây, giới học thuật trong ngoài Trung Quốc đã viết nhiều bài bình luận về Tiễn
đăng tân thoại song rốt cuộc vẫrn còn đầy rẫy hiểu lầm, họ chỉ biết sách
truyền bá rộng ở Đông Á, trực tiếp giúp cho tiểu thuyết triều Lý ở Hàn Quốc
và văn học thời Giang Hộ của Nhật Bản phát triển mạnh mẽ mà biết rất ít rằng
sách đã truyền sang Việt Nam, ảnh hưởng nhiều đến Truyền kỳ mạn lục, thổi
bùng ngọn gió sáng tác tiểu thuyết truyền kỳ ở Việt Nam. Bây giờ những tác
phẩm truyền kỳ như Truyền kỳ mạn lục đã được tái hiện cùng lúc với sự xuất
bản Tùng san, cung cấp cho chúng ta những chứng cớ mới để phản tỉnh mà
đánh giá lại thành tựu và địa vị của Tiễn đăng tân thoại. Ngoài ra, Hoàng Vĩnh
Nghĩa với bài Tòng Hạng vương từ ký đích Lưu Hạng luận thuyết khởi, Hoàng
Khải Phương với bài Tòng Kim Hoa thi thoại ký khán An Nam Lê triều đích
Hán thi phát triển cũng đều vận dụng những truyện đơn lẻ trong Truyền kỳ
mạn lục để rút ra những lời giải thích xác đáng.
Tuy Nhật Bản Hán văn tiểu thuyết tùng san còn chưa in được, nhưng
ông Vương Tam Khánh đã có bài Nhật Bản Hán văn tiểu thuyết nghiên cứu
sơ cảo giới thiệu những tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản mà ông đã được đọc,
tìm hiểu những vấn đề đối ứng giữa Hán học và tiểu thuyết Hán văn của Nhật
Bản cùng lịch sử giao lưu Trung Nhật. Ông còn xét từ ba phương diện nội
dung, văn thể, tư tưởng mà phân tích hiện tượng tiểu thuyết Hán văn Nhật
Bản, quy nạp động cơ sáng tác của họ thành ba điểm: “chỉ sáng tác để chơi
bời, tiêu khiển”, “có ý thức cải tạo phong khí xã hội” và “sách giáo khoa làm
mẫu để học Hán văn”. Bài nghiên cứu này có công đột phá “điểm mù”, khai
thông “điểm điếc” cho giới nghiên cứu.
2. Hội nghị học thuật quốc tế
Do nhận thức ngày nay chúng ta cần đi sâu nghiên cứu văn hóa Hán
của Trung Quốc vì vậy không thể không tăng cường nghiên cứu văn hóa Hán
ở các nước ngoài Trung Quốc, mà văn hiến Hán ở các nước ngoài Trung
Quốc chính là căn cứ cần thiết để nghiên cứu văn hóa Hán ở các nước này,
vì vậy Phòng văn hiến quốc học Hội bảo trợ văn hóa của báo Liên hợp do
giáo sư Trần Tiệp Tiên đề xướng, từ ngày 27 đến 29 tháng 9 năm 1986 đã
mượn Hội quán trường Đại học Minh Trị ở Đông Kinh, Nhật Bản để tổ chức
Hội nghị học thuật quốc tế về sách chữ Hán ở các nước ngoài Trung Quốc.
Hội nghị đã đề ra nhiều đề tài thảo luận về sách chữ Hán ở các nước ngoài
Trung Quốc, như lịch sử lưu hành và xuất bản, tình hình bảo tồn trên thế giới,
tình hình nghiên cứu trên thế giới, giá trị sử liệu, nội dung đặc thù và đánh giá
văn bản, mối giao lưu với văn hóa châu Á v.v…
Hội nghị đã mời hơn 160 học giả các nước Trung, Nhật, Hàn, Mỹ,
Pháp, Úc tới dự, 59 bản tham luận đã được đọc trong hội nghị, sau đó lại đặc
biệt dành một buổi để tọa đàm về việc biên soạn thư mục liên hợp sách chữ
Hán ở các nước ngoài Trung Quốc. Buổi tọa đàm đã đi đến hai kết luận: một
là khẳng định giá trị của Hội nghị học thuật quốc tế về sách chữ Hán các
nước ngoài Trung Quốc, kiến nghị tiếp tục tổ chức; hai là ủng hộ việc biên
soạn thư mục liên hợp sách chữ Hán ở các nước ngoài Trung Quốc bởi thư
mục này có công năng lâu dài đối với việc nghiên cứu Hán học. Quả như dự
kiến, năm 1987 đến 1990, Hội thảo quốc tế về sách chữ Hán các nước ngoài
Trung Quốc lần 2 đến lần 5 đã liên tiếp đựợc tiến hành ở Đài Bắc, Hán
Thành, Hawai. Tháng 9 năm nay, Hội thảo lần 6 sắp được tổ chức tại Đài
Bắc. Ở Hội thảo lần 2, ông Xương Bỉ Đắc đã dự thảo biên tập thư mục liên
hợp sách chữ Hán các nước ngoài Trung Quốc được cơ sở công bảo tồn tại
Đài Loan và đầu năm nay đã bước đầu được thực hiện.
Hội thảo quốc tế được tổ chức liền năm này tuy không dành riêng cho
tiểu thuyết Hán văn các nước ngoài Trung Quốc song trong đó cũng không
thiếu tham luận về tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc. Chỉ nói về tập tham
luận lần thứ ba đã được xuất bản thì ngoài những bài đã nói như Dĩ Trung
Quốc vi bối cảnh đích Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết, Việt Nam Hán văn lịch
sử diễn nghĩa sơ thám, Tùng Hạng vương từ ký đích Lưu, Hạng luận tiểu
thuyết khởi… ra, phần Trung văn còn có bài Ngọc lâu mộng dữ Trung Quốc
văn học của Lâm Minh Đức (trường Đại học Phụ Nhân), bài Chương Thiện
cảm nghĩa lục trung Nho gia tư tưởng dữ tại tiểu thuyết sử thượng đích ý
nghĩa của Đinh Khuê Phúc và Luận Tiết Nhân Quý cố sự đích diễn biến -
kiêm đàm Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết Tiết Nhân Quý truyện của Vương
Quốc Lương v.v…
Hiện nay còn chưa có hội thảo quốc tế tổ chức riêng cho tiểu thuyết
Hán văn ngoài Trung Quốc, song từ ngày 8 đến ngày 9 tháng 10 năm 1988,
Hội thảo văn học cổ điển Trung Quốc lần 9 do Hội nghiên cứu văn học cổ
điển Trung Quốc tổ chức đã đặc biệt chọn “tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung
Quốc” làm một trong những chủ đề của hội thảo. Ngoài bốn bài Nhật Bản Hán
văn tiểu thuyết nghiên cứu sơ cảo, Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết chi hưng
suy cập kỳ nghiên cứu, Việt Nam Hán văn tiểu thuyết trung đích lịch sử diễn
nghĩa, Việt Nam Hán văn tiểu thuyết Truyền kỳ mạn lục đích uyên nguyên dữ
ảnh hưởng như nói trên được đọc ra, còn đọc thêm hai bài: Tiễn đăng tân
thoại đích khích đãng của Đinh Khuê Phúc và Hàn Quốc phiên bản Trung
Quốc tiểu thuyết đích nghiên cứu - kiêm dĩ Đỗ Thập Nương nộ trầm bách bảo
sương dữ Thanh lâu nghĩa nữ truyện đích tỉ giảo vi lệ của Du Quyên Bất. Sáu
bài này cùng với bản ghi chép cuộc tọa đàm về xuất bản và nghiên cứu văn
học ngoài Trung Quốc tập hợp thành sách Vực ngoại Hán văn tiểu thuyết
nghiên cứu do Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản tháng 2-1988.
Giáo sư Đinh Khuê Phúc sang Đài Loan tham gia Hội thảo văn học cổ
điển Trung Quốc hiện giảng dạy tại trường Đại học Cao Ly đã có mấy chục
năm nghiên cứu so sánh văn học Hàn Quốc và Trung Quốc. Thấy giới nghiên
cứu Trung văn Đài Bắc quan tâm tới tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc,
ông rất mừng. Sau hội nghị, khi được phỏng vấn, ông ngỏ ý hy vọng giới
nghiên cứu văn học Trung Quốc tại Đài Loan không nên giới hạn trong phạm
vi tư liệu Trung Quốc như trước mà nên hợp sức đẩy mạnh nghiên cứu so
sánh văn học phương Đông, phát huy văn hóa phương Đông tinh thâm, rộng
lớn.
3. Các cuộc tọa đàm
Cuộc tọa đàm về nghiên cứu, xuất bản tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung
Quốc do ông Cung Bằng Trình chủ trì được tiến hành ngày 19-9-1987 tại Đài
Bắc, có ông Trần Khánh Hạo… cùng 9 người khác tham gia. Cuộc tọa đàm
này nhằm thảo luận quan niệm chỉnh thể về nghiên cứu, xuất bản văn học
Hán văn ngoài Trung Quốc, thành tựu trước mắt và triển vọng mai sau. Người
tham gia đã phát biểu sôi nổi về những góc độ khác nhau và đi đến kết luận:
lâu nay, giới văn học so sánh Đài Loan chỉ lấy khoa ngoại văn làm chính,
khoa Trung văn chỉ đứng bên rìa, sắm vai nhân vật phụ không đáng chú ý;
ngày nay nếu muốn cho văn học Trung Quốc lên địa vị chính thì quan niệm
nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán và xuất bản văn học Hán ngoài Trung
Quốc quả thực là một cơ hội lớn để xoay chuyển tình thế hiện nay. Tin rằng
phương pháp, thể lệ, tập hợp, huấn luyện nhân lực,hiệu đính chấm câu văn
hiến trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, bất luận đối với việc ra
Triều Tiên Hán văn tiểu thuyết tùng san, Nhật Bản Hán văn tiểu thuyết tùng
san, chỉnh lý các loại văn khác trong văn học Hán văn ngoài Trung Quốc, hay
càng quan trọng hơn là chỉnh lý sách cổ Trung Quốc, thì đó đều là những kinh
nghiệm hết sức quý báu.
Trước đấy, ngày 6 tháng 8 cùng năm, trước ngày khai mạc Hội thảo
quốc tế tiểu thuyết hý khúc đời Minh, ông Cung Bằng Trình cũng chủ trì cuộc
tọa đàm về “Xu thế nghiên cứu tiểu thuyết cổ điển hiện nay”. Các giáo sư
được mời như Mã Âu Viên, Liễu Tồn Nhân, Mã Khắc Lâm, Trần Khánh Hạo,
Hồ Vạn Xuyên, Đại Chủng Tú Cao, Vương Quốc Lương đều nêu nhận xét về
tình hình nghiên cứu tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nói chung trên thế giới.
Khi đề cập đến tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc, mọi người đều cho
rằng “tìm tòi về tiểu thuyết Hán văn, văn học Hán văn đều có thể mở rộng tầm
mắt nghiên cứu tiểu thuyết”.
IV. KẾT LUẬN
Nhìn chung, đối với tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc từ việc chỉnh
lý, xuất bản, bao gồm tiểu thuyết Hán văn Hàn Quốc, Việt Nam và Nhật Bản,
Đài Loan đã có nhiều học giả nhiệt tâm ra sức thúc đẩy, bất kể số đã phát
hành, lưu truyền hay số đang tích cực trù hoạch; về nghiên cứu và thảo luận,
bao gồm luận văn nghiên cứu, hội thảo quôc tế và tọa đàm, đều không ngừng
tiến hành, dần dần đã hình thành nhận thức chung, đạt được thành tựu cụ
thể. Tuy trong quá trình xuất bản, nghiên cứu, không tránh khỏi phải đối mặt
với muôn vàn khó khăn, chẳng hạn áp lực của thị trường (giáo sư Lâm Minh
Đức chủ biên Hàn Quốc Hán văn tiểu thuyết toàn tập khiến bản thân “máu
chảy đi chứ không trở lại”, Học sinh thư cục Đài Loan in bộ Việt Nam tiểu
thuyết tùng san cũng “chỉ khen hay chứ không ai cần đến”), hoặc trở ngại về
tâm lý (ông Cung Bằng Trình từng phát biểu: “Trong phạm trù văn học hiện
đại, ông Bá Dương ở nguyệt san Văn tấn từng tuyển chọn biên soạn tác
phẩm Hoa văn khu vực Đông Nam Á nhưng chưa từng được hồi ầm sôi nổi,
bạn đọc không mấy thích thú, đốì với nhà văn người Hoa ở các nước lân cận
mà cảm thấy xa lạ hơn cả nhà văn Hoa văn Bắc Mỹ cách xa chúng ta. Điều
đó phải chăng có nghĩa là quan niệm “khu văn hóa Hán truyền thống vẫn khó
được mọi người tiếp thu?”. Nhưng việc tạo ra hoàn cảnh học thuật và không
khí văn hóa dù sao vẫn không thể một lúc mà đạt được. Chỉ cần mọi người
cùng đồng tâm hiệp lực, tin rằng tình hình hiện thực sẽ theo đó mà được cải
thiện, quan niệm rồi cũng có ngày được xoay chuyển.
Điều đáng mừng là, ngày nay Đài Loan xuất bản, nghiên cứu tiểu
thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc mà không cảm thấy mình đang phí công
may áo cưới cho người. Đó là vì hiện nay, các nước ngoài Trung Quốc không
còn sử dụng chữ Hán để viết sách, người nghiên cứu nói chung tu dưỡng về
Hán văn hạn hẹp, không dễ gì đi ngược lên tới văn hiến Hán cổ điển, vì vậy
việc chỉnh lý văn hiến Hán ngoài Trung Quốc vẫn cần có sự hiệp trợ của học
giả Trung Quốc mới có thể dốc sức ra cho nên việc. Sau khi văn hiến Hán
ngoài Trung Quốc được chỉnh lý và công bố thì học giả Trung Quốc vẫn là
người được lợi thực sự hơn cả, bởi văn hóa Hán ngoài Trung Quôc có liên hệ
máu thịt với văn hóa Hán Trung Quốc, có tính đồng chất và tính dị chất. Muốn
tìm hiểu sự truyền bá và phát triển của văn hóa Hán Trung Quốc ở các nước
ngoài Trung Quốc, muốn thực sự nhận thức về mức tinh thâm rộng lớn của
văn hóa Hán Trung Quốc mà lại không lưu tâm đến văn hóa Hán ngoài Trung
Quốc, không mở rộng tầm mắt để nghiên cứu so sánh chỉnh thể thì rất khó
nhận ra vị trí của mình. Chúng ta rất mừng khi thấy các học giả Đài Loan
nhận thức như sau: “Là người nghiên cứu văn hóa Hán, văn học Hán thì tuyệt
đối không thể thỏa mãn với việc bó hẹp trong tư liệu của tự thân Trung Quốc,
mà phải đứng ở góc độ của tầm nhìn rộng, chiếm hữu đầy đủ tư liệu, tìm hiểu
động hướng của văn hóa chủ lưu và tính độc đáo thể hiện ở văn hóa chi lưu”.
Chúng ta cũng hy vọng các nước trong khu văn hóa Hán, cùng nhau vứt bỏ
lòng tự tôn dân tộc trống rỗng để có được tấm lòng cởi mở nhìn thẳng vào sự
tồn tại của văn hiến Hán ngoài Trung Quốc, cống hiến tâm và lực để bảo tồn,
chỉnh lý và phát huy.
Đồng thời, chúng ta cũng mong đợi hơn nữa ở các học giả văn hóa
Hán ở Trung Quốc đại lục, cùng có những hành động như thế. Theo sự hiểu
biết nông cạn của chúng tôi, giới học thuật đại lục xưa nay vẫn coi trọng việc
nghiên cứu so sánh văn học Đông phương. Ông Quý Tiến Lâm nhiều lần kêu
gọi “phải tăng cường nghiên cứu văn học phương Đông”, “đánh giá đúng đắn
và đi sâu nghiên cứu văn học phương Đông”. Có điều, người có thể để ý đến
tác phẩm văn học Hán ngoài Trung Quốc thuộc văn học phương Đông (nhất
là tiểu thuyết Hán văn) chỉ bó hẹp trong rất ít chuyên gia văn học Nhật Bản,
Triều Tiên và Việt Nam. Trước kia còn xảy ra lầm lẫn coi những tiểu thuyết
Hán văn nổi tiếng của Hàn Quốc như Cửu vân mộng, Nam chỉnh ký để ở thư
viện Bắc Kinh là những thí dụ về tiểu thuyết cô bản, thiện bản của Trung
Quổc lẫn lộn quốc tịch một số tiểu thuyết Hán văn (những lầm lẫn tương tự có
lúc ở ngoài đại lục ra, chúng tôi cũng từng được nghe). Có điều, từ thí dụ này,
chúng ta lại có thể nghĩ rằng, ở các thư viện công, tư tại đại lục rất có thể có
không ít sách chữ Hán của các nước ngoài Trung Quốc, không chừng có thể
nghĩ cách chỉnh lý, cung cấp cho học giả các nơi tham khảo.
Nhìn lại việc nghiên cứu chỉnh thể văn hóa mười năm qua, ông Trần
Khánh Hạo có nói: “Sự hợp tác hòa bình của châu Âu là một tấm gương cho
chúng ta. Thông qua việc hợp tác về kinh tế và chính trị, phải chăng một “liên
bang Đông Á” cũng có thể ra đời ở thế kỷ sau?… Mà khu văn hóa Hán là cây
cột chống cho Đông Á, phương Đông họp nhau lại trong tương lai thì sẽ bắt
đầu từ khu văn hóa Hán. Dù sao có bối cảnh văn hóa chung, có quan niệm
giá trị nhân sinh cùng chất, các bên tìm hiểu và hợp tác là điều rất tự nhiên.
Nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán chính là nhằm tạo cơ sở ổn định cho Đông
Á hợp tác sau này. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với nghiên cứu học
thuật mà thôi”.
Lý tưởng như trên có lẽ còn xa vời đôi chút nhưng nếu chúng ta có thể
vượt ra ngoài “bản thổ” trong khu vực, về mặt quan niệm vượt lên trên “bản
vị” như sự phát triển của tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc ở Đài Loan,
thì tuần tự tiến dần, ổn định vững chắc, việc thực hiện lý tưởng nói trên vẫn là
điều có thể dự kiến.
MỘT BƯỚC ĐI VỮNG CHẮC
Tiết Hồng Tích
Là một người nghiên cứu tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc, tôi rất hứng
thú đọc một số tác phẩm trong bộ Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san do
hai ông Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh chủ biên và cuốn chuyên luận
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục (sau đây gọi tắt
là Nghiên cứu so sánh) của ông Trần Ích Nguyên, nhờ đó tầm mắt được mở
mang, thực là ích lợi không nhỏ.
Ngay từ đầu những năm 80, hai ông Trần và Vương đã nêu quan niệm
“nghiên cứu chỉnh thể Hán văn hóa” và vạch bước nghiên cứu bắt đầu từ việc
chỉnh lý văn hiến. Đó là một quy hoạch nghiên cứu rộng lớn rất có khí phách
và tầm nhìn xa, nếu thực hiện được ắt sẽ có ảnh hưởng sâu xa đối với nghiên
cứu và phát huy văn hóa (và văn học) Đông Á, vì thế mà được nhiều học giả
trong ngoài nước nhiệt liệt hưởng ứng. Công việc nghiên cứu của các ông lấy
tiểu thuyết Hán văn các nước Đông Á làm đột phá khẩu, trước mắt đã giới
thiệu được lượng lớn thành quả. Nghiêu cứu so sánh của ông Trần Ích
Nguyên là một thành quả gây chú ý nhất trong loạt thành quả nói trên. Theo
như tên sách thì cuốn sách này nghiên cứu so sánh hai tập tiểu thuyết truyền
kỳ tương tự nhau về tính chất là Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu và Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ Việt Nam. Đến đây, tôi muốn nói một vài cảm
tưởng sau khi đọc cuốn sách này.
Chiếm lĩnh được các loại tư liệu rộng rãi, đặt nền tảng vững vàng cho
nghiên cứu, đó là một nguyên nhân quan trọng không phải tầm thường khiến
cuốn sách có nội dung đầy đủ, chắc chắn. Ông Trần là một học giả trẻ tuổi hết
sức chuyên cần, ngay buổi đầu đã tích cực tham gia công tác chỉnh lý tiểu
thuyết Hán văn ngoài Trung Quốc, càng không ngại bôn ba, không quản mệt
nhọc sưu tầm tư liệu nghiên cứu. Phần cuối cuốn sách có phụ lục bản thư
mục tham khảo, liệt kê sách chuyên đề là 292 loại, chuyên luận là 77 bài, hầu
như cổ kim trong ngoài, kinh, sử, tử, tập, không tư liệu nào là không có. Trong
số đó, văn bản khác nhau của Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục là năm
loại trở lên, hầu hết là trân bản và thiện bản. Còn như bài, sách trong ngoài
Trung Quốc nghiên cứu về hai tác phẩm này ít nhất cũng có đến mấy chục.
Tìm đọc được số tư liệu như thế, quả là một việc rất không dễ dàng gì. Ngoài
ra, để giúp cho việc so sánh, còn có hơn ba mươi loại tiểu thuyết văn ngôn
của Trung Quốc như Thái bình quảng ký, Liêu trai chí dị…, tiểu thuyết văn
ngôn chữ Hán của Nhật, Hàn, Việt cũng đến hơn hai chục truyện. Để giúp ích
cho việc tham khảo, thư mục liệt kê hơn hai chục cuốn lịch sử tiểu thuyết của
Trung, Hàn, Nhật, hơn mười loại sách lý luận văn học so sánh v.v… Số sách
và tư liệu này, nói chung ông Trần đều nghiêm túc sưu tầm và đọc kỹ, thậm
chí còn hiệu đính đối với số tư liệu đó, không dễ dàng bỏ qua phần chú thích
và đánh giá về chúng. Phần chú thích trong sách Nghiên cứu so sánh nhiều
đến 447 mục, trong đó truyền đạt thông tin nghiên cứu với số lượng lớn, đủ
để tai mắt người đọc cũng được đổi mới. Điều này chứng tỏ tinh thần đi sâu
nghiên cứu, không hề cẩu thả của người viết sách. Chính nhờ vậy mà tác giả
mới phát hiện được những vấn đề mới, uốn nắn được những sai lầm trước
đây và nêu ra được những kiến giải của mình.
Nêu kiến giải của mình sau khi so sánh là đặc điểm nổi bật của cuốn
chuyên luận này. Vì tác giả đi một bước vững chắc về nghiên cứu cơ sở nên
khi so sánh với nhiều phương thức khác nhau, tất nhiên tác giả thuận lợi và
vững vàng. Đặc biệt là tác giả biết đặt đối tượng so sánh trong hệ thống với
nhiều tầng thứ khác nhau để khảo sát nên đã đánh giá xác đáng về giá trị, ý
nghĩa cùng địa vị lịch sử của chúng. Thông qua so sánh, tác giả đã trình bày ý
nghĩa lịch sử tiếp nối đời trước, gợi mở đời sau, tạo ra phong khí mới cho một
thế hệ của Tiễn đăng tân thoại; chỉ ra trong vài ba trăm năm sau khi ra đời,
Tiễn đăng tân thoại từng là một “kiểu mẫu” (hoặc gọi là điển hình) cho sáng
tác tiểu thuyết Hán văn ở Đông Á, đủ thấy ảnh hưởng của nó lớn lao biết
chừng nào. Đồng thời sách còn chỉ ra địa vị “ông tổ mở đầu” tiểu thuyết cổ
điển Hán văn Việt Nam, cũng là của Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm xuất
sắc trong tiểu thuyết cổ điển Hán văn Đông Á. Những so sánh có tính rộng
lớn đó chủ yếu thấy ở chương mở đầu, chương kết luận và những chương
tiết khác. So sánh vi mô là cơ sở của so sánh vĩ mô và phần này cũng có
nhiều điểm rất đáng khen. Chẳng hạn người viết sách cho rằng Truyền kỳ
mạn lục tuy là một tác phẩm thuộc hệ thống Tiễn đăng tân thoại song vẫn có
những nét đặc sắc riêng của mình. Nội hàm tư tưởng của truyện tuy gần gũi
với Tiễn đăng tân thoại song lại giàu sắc thái nho gia và biểu hiện ý thức dân
tộc rất rõ ràng. Lối vận dụng Hán ngữ của sách rất thuần thục, văn vẻ trau
chuốt; so với các tập truyện khác như Tiễn đăng dư thoại, Kim Ngao tân thoại
thì về mặt đan xen thơ, từ có chừng mực hơn, còn về mặt miêu tả nhân vật,
kết cấu tình tiết thì lại bỏ công sức nhiều hơn, do đó, những khía cạnh trên
gần gũi với Tiễn đăng tân thoại. Những quan sát tỉ mỉ như thế có thể thấy ở
nhiều chỗ trong sách, chứng tỏ người viết sách có năng lực thưởng thức
nghệ thuật khá cao.
Trên cơ sở phê phán và kế thừa thành quả nghiên cứu có sẵn, người
viết sách còn dám đề xuất ý kiến mới, nêu ra một số kiến giải độc dáo có giá
trị. Tác giả sách cho rằng Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục đều là tác
phẩm “phát phẫn” và khẳng định đầy đủ tính nghiêm túc của hai tập trên. Tôi
cho rằng, so với “tô điểm tình khuê”, “mô phỏng” nửa vời hoặc “viết văn mà
chơi” thì thuyết “phát phẫn” càng phù hợp với thực tế hai tác phẩm này hơn.
Còn ngược dòng tìm nguồn gốc của tác phẩm thì thế nào? Người viết sách
không tán thành cách làm chỉ dựa vào một vài câu chữ mà chủ trương truy
tìm dấu vết diễn tiến từ kết cấu tình tiết và hàng loạt hình tượng, về mặt này,
tác giả quả thực đã tốn nhiều tâm huyết, vùi đầu vào đống tư liệu chưa khai
thác để tìm tòi, phân tích và đã đạt được thành tích khả quan. Từ đống bút ký,
thơ văn tác giả tìm ra Thiên Thai phóng ẩn lục bắt nguồn từ Đào hoa nguyên
ký; Thủy cung khánh hội lục bắt nguồn từ Miết tướng công của Tô Đông Pha
(xem lời dẫn từ Thiền khê ngư ẩn tùng thoại), Long đường linh hội lục bắt
nguồn từ Quán Oa cung phú của Vương Nguyễn (xem Nam Tông văn uyển),
còn những miêu tả về việc làm độc ác của Giả Tự Đạo trong Lục y nhân
truyện thì bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian (xem các cuốn Tiền đường di
sự v.v…). Những kiến giải như thế đều gợi ý cho người về những điều chưa
từng phát hiện. Tác giả Nghiên cứu so sánh còn tìm ra những chứng cớ xác
đáng để phá bỏ một số sai lầm truyền đi đã lâu. Chẳng hạn, cuốn Tiễn đăng
tân thoại do ông Chu Di hiệu đính và chấm câu có phụ lục truyện Ký mai ký
mà ông cho là tác phẩm của Cù Hựu thì tác giả cho rằng đó là do sai lầm của
người làm sách Lục song nữ sử ghi tên bừa bãi mà ra, nên bỏ ra khỏi Tiễn
đăng tân thoại. Tôi cho rằng kiến giải này của tác giả có thể tin cậy được.
Tóm lại, sách Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ
mạn lục của ông Trần Ích Nguyên nội dung xác thực, kiến giải mới mẻ, là một
cuốn sách có giá trị học thuật cao. Dường như có thể nói rằng, sách đã đẩy
việc nghiên cứu Cù Hựu và Tiễn đăng tân thoại tiến một bước dài và cũng là
sải một bước hết sức vững chắc về mặt nghiên cứu chỉnh thể tiểu thuyết Hán
văn.
(Bài này nguyên đăng trên Trung Quốc thư
mục quí san Q. 25, số 4, tháng 3-1992 của Hạc sinh
thư cục Đài Loan. Tác giả hiện làm việc tại Sở
nghiên cứu văn học Viện Khoa học xã hội tỉnh Cát
Lâm).
THÀNH QUẢ ĐẦY ĐẶN TRONG NGHIÊN CỨU CHỈNH THỂ VĂN HÓA HÁN
Mai Khánh Cát
Khi tôi mở cuốn Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ
mạn lục mang hơi thở thơm nồng của đảo quý Đài Loan, tôi thật sự vui mừng
vì thành quả huy hoàng mà ông Trần Ích Nguyên đã đạt được. Nội dung sách
mở rộng tầm mắt cho tôi, lợi ích không nhỏ. Sách giúp chúng ta hiểu rằng cái
gọi là “văn hóa Hán” chẵng những là của cải quý báu của Trung Quốc mà còn
là của cải quý báu chung cho thế giới Đông Á. Làm rõ việc đề xuất quan niệm
“nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán” là công việc có ý nghĩa to lớn không thể
lường hết được.
Quan niệm “nghiên cứu chỉnh thể văn hóa Hán” được ông Trần Khánh
Hạo, học giả Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp nêu ra từ đầu
những năm 80. Nội dung cơ bản là: trước thế kỷ này, các nước xung quanh
như Nhật, Hàn, Việt… đều dùng Hán văn để viết; kinh, sử, tử, tập thứ gì cũng
có, hết sức phong phú. Sau đó Hán văn mới dần dần rút ra khỏi vũ đài lịch sử
của những nước này. Do nhiều nguyên nhân, sách chữ Hán của những nước
này bị đối xử lạnh nhạt, không ai quản lý, mất mát nghiêm trọng, rất cần cứu
vãn và chỉnh lý gấp, bởi vì đó là bộ phận hữu cơ không thể thiếu họp thành
văn hóa Hán. Quan niệm đó sau khi ông Trần nêu ra đã được các nước và
các nơi như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… nhiệt liệt hưởng ứng và ủng hộ.
Hơn mười năm nay, việc nghiên cứu này đã tiến triển một bước dài, triệu tập
nhiều cuộc hội thảo, đăng nhiều tham luận học thuật có sức nặng; bộ Việt
Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san phần I và II do Học sinh thư cục Đài Loan
ấn hành đã ra đời, sắp tới còn lần lượt xuất bản Nhật Bản Hán văn tiểu thuyết
tùng san và Triều Tiên Hán văn tiểu thuyết tùng san. Công việc nghiên cứu
đang ở vào cục diện sôi nổi, trong đó cuốn sách của ông Ích Nguyên là thành
quả đầy đặn đáng chú ý nhất.
Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đầu đời Minh rất ít được giới nghiên
cứu để ý đến, bởi vì giá trị của nó, trở về trước thì bị Truyền kỳ Đường Tông
che lấp, trở về sau thì bị Liêu trai chí dị đánh bạt, thật có thể gọi là sinh không
gặp thời. Nhưng khi truyện truyền sang các nước ngoài Trung Quốc thì lại
phát huy ảnh hưởng đáng kinh ngạc. Qua cuốn sách của ông Trần Ích
Nguyên, chúng ta hiểu được rằng, Kim Ngao tân thoại, thủy tể của tiểu thuyết
Triều Tiên là sản vật chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại và lần đầu tiên
Tiễn đăng tân thoại có bản chú giải cũng là ở Triều Tiên. Ảnh hưởng của Tiễn
đăng tân thoại đối với Nhật Bản càng mạnh mẽ, sâu xa hơn. Thế kỷ 16,17, Kỳ
dị tạp đầm tập, Linh quái thảo… đã được tuyển dịch. Già tì tử thời Giang Hộ
và Vũ nguyệt vật ngữ sau đó đều là viết lại Tiễn đăng tân thoại cả. Đến thời
Đức Xuyên Mạc Phủ, sách Tiễn đăng tân thoại nhiều như sách giáo khoa
trung học. Ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Triều Tiên và Nhật Bản
đã được người nghiên cứu chú ý, còn ảnh hưởng của nó đối với văn học Việt
Nam thì ít người biết đến. Sách của ông Ích Nguyên chính là tìm hiểu mối
quan hệ kế truyền giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ, tác phẩm đã đưa 'văn học Việt Nam lên một đỉnh cao mới”, khiến chúng
ta thấy được mối quan hệ máu thịt giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt
Nam.
Trong cuốn sách này, từ mấy phương diện “nội chứng”, “ngoại chứng”,
cuộc đời tác giả và khuynh hướng sáng tác, ông Ích Nguyên đã trình bày ảnh
hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Truyền kỳ mạn lục. Tác giả đã lật giở
một số lớn sử liệu, khảo sát và chứng minh thời gian Tiễn đăng tân thoại
truyền sang Việt Nam, tra tìm ghi chép của người Việt Nam hồi đó để chứng
thực đầy đủ rằng Truyền kỳ mạn lục xuất hiện do ảnh hưởng của Tiễn đăng
tân thoại. Nhưng tác giả không dừng lại ở đây mà căn cứ vào tình hình thực
tế của hai sách, từ những chứng cở bên trong như cách hành văn, phong
cách ngôn ngữ, nội dung tư tưởng… để tiến hành so sánh tỉ mỉ, chứng thực
thêm bước nữa ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Truyền kỳ mạn
lục. Tiếp đó lại từ cuộc đời và khuynh hướng sáng tác của Nguyễn Dữ, nêu
lên tính tất nhiên của việc Nguyễn Dữ tiếp thu phong cách của Cù Hựu. Sử
liệu chân thực, luận chứng đầy đủ khiến người đọc phải tin phục. Đồng thời
tác giả cũng cho thấy, tuy Truyền kỳ mạn lục chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng
tân thoại về nhiều phương diện song không phải sao chép nguyên xi như kiểu
học vẹt mà là “dường như tháo rời toàn bộ hình hài của Tân thoại rồi lắp ghép
không chút đơn giản cho nó tái sinh, khiến cho truyện nào cũng thuộc về ông,
thuộc về Việt Nam”; “sư nỗ lực của ông đã kết thúc giai đoạn thần thoại chí
quái của nước mình để đường hoàng bước vào lịch trình tiểu thuyết truyền
kỳ, chứng minh sự ra đời của Truyền kỳ mạn lục là cột mốc quan trọng trong
lịch sử văn học Việt Nam”. Nói như thế có nghĩa là Truyền kỳ mạn lục tuy chịu
ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại nhưng lại bắt rễ trên mảnh đất Việt Nam,
sáng tạo nên phong cách của mình, vì thế một mình dẫn đầu phong tao một
thế hệ trên văn đàn Việt Nam.
Nghiên cứu so sánh còn đi sâu khảo chứng những vấn đề về cuộc đời,
trứ tác, thời gian tác phẩm ra đời… để làm rõ nhiều vấn đề còn treo lơ lửng
chưa giải quyết hoặc còn mù mờ. Chẳng hạn Ký mai ký lâu nay vẫn lẫn trong
Tiễn đăng tân thoại, thông qua khảo chứng đầy đủ, ông Ích Nguyên đã chứng
minh truyện này không phải của Cù Hựu, đó là một cống hiến đáng nể. Nhất
là đối với gia thế bình sinh của Nguyễn Dữ, thời gian ra đời và lưu truyền của
Truyền kỳ mạn lục thì khảo chứng của ông Trần càng có ý nghĩa “khai sơn
phá thạch, mở lối đi đầu”. Tư liệu được nêu ra trong sách, có rất nhiều còn là
mới toanh đối với học giả Việt Nam.
Ở chương VII của sách, tác giả viết: “Tiễn đăng tân thoại về phía Bắc
không chỉ ảnh hưởng tới Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập người Hàn
Quốc, tới Ôtôghibôcô (Già tì tử) của Thiên Tỉnh Liễu Ý và Ughếtsu,Mônôgatari
(Vũ nguyệt vật ngữ) của Thượng Điền Thu Thành người Nhật Bản… mà về
phía Nam còn truyền sang Việt Nam, kích thích Nguyễn Dữ sáng tác phỏng
theo thành Truyền kỳ mạn lục, sau đó còn tiếp tục ra đời một loạt tiểu thuyết
truyền kỳ nữa như Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm v.v… Từ đây đưa
mắt nhìn cả một vùng văn hóa Hán thì Tiễn đăng tân thoại quả thật đã mở ra
một trào lưu văn hóa chung cho Trung Quốc và các nước lân bang ở phía
Bắc và phía Nam”. Sách Tiễn đăng tân thoại đã có ảnh hưởng lớn như thế ở
thế giới phương Đông, song người trong nước không quan tâm tới nó như
đáng có, bỏ qua sự tồn tại của nó, ngôn luận coi thường giá trị của nó đâu
đâu cũng thấy, thật là không sao so sánh được với sự coi trọng nó của các
nước xung quanh. Vì thế trong sách, ông Ích Nguyên kêu gọi “Cần phải đánh
giá lại địa vị của Tiễn đăng tân thoại trong văn học sử Trung Quốc”. Lời kêu
gọi này quả thực đáng được các nhà viết văn học sử Trung Quốc suy nghĩ
sâu sắc, cần phải xem xét lại giá trị của Tiễn đăng tân thoại. Thông qua
nghiên cứu so sánh hai sách Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, ông
Ích Nguyên đã khiến chúng ta thấy đầy đủ rằng giữa hai dân tộc lớn là Trung
Quốc và Việt Nam, quả thực “tinh thần truyền thống đều có chung một
nguồn”, “tầng tầng tương quan, khó giải khó chia”. Một thời quan hệ thân mật
không xa cách ấy, thật sự khiến người lưu luyến. Nhưng ý nghĩa cuốn sách
của ông Ích Nguyên không chỉ dừng ở đây mà ý nghĩa hiện thực của sách
còn bộc lộ ra dần dần. Cách đây không lâu, khi ông gửi sách cho tôi, trong
thư có nói đầu năm nay ông sang Việt Nam ba tuần, được biết sách của ông
được “đánh giá tốt” ở Việt Nam. Phải chăng có thể thông qua nghiên cứu
chỉnh thể văn hóa Hán, khiến cho các nước Đông Á đều có thể hồi tưởng lại
những việc đáng lưu luyến ngày xưa, nhờ đó mà chữa lành những vết
thương do nhiều nhân tố tạo nên để lại cùng nhau liên hợp trên cơ sở văn
hóa Hán? Tôi nghĩ có thể được. Đúng như ông Trần Khánh Hạo đã viết trong
lời tựa cho sách này là: “Khu văn hóa Hán là cây cột chống của Đông Á,
phương Đông họp nhau lại trong tương lai ắt bắt đầu từ khu văn hóa Hán. Dù
sao có bối cảnh văn hóa chung, có quan niệm giá trị nhân sinh cùng chất, các
bên tìm hiểu và hợp tác là điều rất tự nhiên. Nghiên cứu chỉnh thể văn hóa
Hán chính là nhằm tạo cơ sở ổn định cho Đông Á hợp tác sau này. Điều này
không chỉ có ý nghĩa đối với nghiên cứu học thuật mà thôi”.
(Bài viết nguyên đăng trên Long Giang xã hội
khoa học, số 2-1992, tr. 74-75; đăng lại trên Trung
Quốc thư mục quí san Q. 27, số 3 của Học sinh thư
cục Đài Loan. Tác giả hiện làm việc tại Sở nghiên
cứu văn học Viện khoa học xã hội tỉnh Hắc Long
Giang).
LỜI TÁC GIẢ
CHO BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT
Trần Ích Nguyên
Lần đầu tiên trong đời tôi đặt chân tới Việt Nam, một đất nước xinh đẹp
là ngày 11 tháng 1 năm 1992, cùng thầy tôi là giáo sư Trần Khánh Hạo tới Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trao đổi học thuật trong thời hạn hai tuần.
Trong chuyến đi đó, tôi đã quen biết rất nhiều người bạn Việt Nam.
Song, mối duyên giữa tôi và Việt Nam nên tính thuở ban đầu là năm
1985. Năm đó tôi nhận hiệu đính, chấm câu cuốn Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ trong bộ Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, sau đó đem đối
chiếu với cuốn Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh để tiến hành nghiên
cứu so sánh, hoàn thành cuốn Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục. Bấm đốt ngón tay, duyên phận ấy đã được hơn mười
năm.
Hơn mười năm ấy, tôi không chỉ quan tâm tới tiểu thuyết chữ Hán Việt
Nam là Truyền kỳ mạn lục mà tất cả tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, truyện
nôm Việt Nam như Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du… cùng tác phẩm
chữ Hán thời cận đại, hiện đại của Phan Bội Châu tiên sinh, của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cho chí nghệ thuật dân gian đương đại của Việt Nam như múa rối
nước v.v… đều hấp dẫn tôi sâu sắc.
Cho nên từ năm 1992, hầu như năm nào tôi cũng sắp xếp thời gian đến
thăm đất nước Việt Nam xinh đẹp cùng các bạn Việt Nam thân thiết, lần lượt
thực hiện kế hoạch nghiên cứu được Hội khoa học quốc gia nước tôi tài trợ là
Nghiên cứu so sánh truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam, Sưu tầm
tư liệu truyện Kim Vân Kiều truyền miệng trong dân gian ở vùng biên giới
Trung Việt, Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam có ở Viện nghiên cứu Hán Nôm và
mối quan hệ với tiểu thuyết Trung Quốc v.v… Tôi đã nhận được sự giúp đỡ
quý báu của các Viện trưởng Phan Văn Các, Trịnh Khắc Mạnh, Ngô Đức
Thịnh và các giáo sư, cán bộ nghiên cứu như Hoàng Văn Lâu, Ngô Đức Thọ,
Phạm Tú Châu, Nguyễn Thanh Vân, Phan Kỳ Nam, Nguyễn Nam, Kiều Thu
Hoạch, Nguyễn Thuý Loan…
Ở Đài Loan, nhờ có sự thúc đẩy mạnh mẽ của các giáo sư như Trần
Khánh Hạo…, việc nghiên cứu và xuất bản tiểu thuyết Hán văn ngoài Trung
Quốc kể từ tháng 4 năm 1987 sau khi ra được phần I Tùng san tiểu thuyết
Hán văn Việt Nam, dần dần đã hình thành niềm thích thú (xem thêm bài Tiểu
thuyết Hán văn các nước ngoài Trung Quốc tại Đài Loan ở phần Phụ lục sách
này); hai năm gần đây, còn có Hội thảo văn hoá Trung Quốc và văn học Hán
văn thế giới (tháng 8 năm 1998), Hội thảo quốc tế về tiểu thuyết Hán văn
ngoài Trung Quốc (tháng 6 năm 1999) đều tổ chức ở Đài Bắc, các giáo sư
Phan Văn Các, Hoàng Văn Lâu đã dược mời tham dự. Đầu năm 2001,
trường Đại học quốc lập Trung Chính nơi tôi dạy học cũng chuẩn bị tổ chức
hội nghị quốc tế tương tự, tiếp tục thúc đẩy việc nghiên cứu học thuật đối với
văn học Hán văn ở Đông Á, trong đó có Việt Nam.
Đối với Việt Nam, tôi luôn luôn có tình cảm thân thiết không sao nói hết,
bất kể tiếp đón các bạn đến từ Việt Nam tại Đài Loan hay tới Việt Nam làm
khách học thuật, lần nào cũng làm tôi ghi nhớ khôn nguôi.
Chẳng hạn như giáo sư Phạm Tú Châu, lâu nay bà đã giúp đỡ tôi rất
nhiều về mọi mặt, đã từng không ngại vất vả mấy lần đưa tôi đến tỉnh Hà Tây
và hợp sức cùng tôi, cuối cùng đã tác thành cho đoàn rối nước Bình Phú gồm
hơn mười người thuận lợi tham gia biểu diễn trong Hội rối quốc tế năm 1999
tổ chức tại Vân Lâm, khiến đông đảo khán giả Đài Loan đều trầm trồ khen
ngợi. Nhưng kết quả là khi “công thành” thì bà lại “thân thoái” không cùng
đoàn sang Đài Loan để nhận lời cảm ơn trực diện của chúng tôi bởi còn vì bà
đã mệt quá rồi, lại phải ở nhà chăm sóc người thân, đành từ bỏ chuyến viễn
du ấy. Việc này khiến tôi không sao quên được.
Bây giờ được giáo sư Phạm Tú Châu cùng với giáo sư Trần Thị Băng
Thanh và nữ nĩ Nguyễn Thị Ngân phiên dịch công phu, sách Nghiên cứu so
sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục dịch sang tiếng Việt được ra
mắt nhiều bạn đọc Việt Nam hơn nữa, khiến tôi cảm thấy vô cùng vinh hạnh.
Tôi xin chân thành cảm ơn các dịch giả đã vất vả vì tôi, cảm ơn sự tác thành
của Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, đặc
biệt là giáo sư Phạm Tú Châu vì bà là người chủ trì công việc dịch thuật, biên
tập và liên hệ xuất bản, hẳn bà lại phải tốn nhiều thời gian quý báu nhất. Điều
đó khiến tôi thực sự áy náy không yên.
Mặt khác, điều tôi áy náy còn bắt nguồn từ nội dung của sách Nghiên
cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, bởi mặc dù sách đã
được giải thưởng dành cho sách nghiên cứu của Bộ Giáo dục Đài Loan, cũng
đã được các học giả nghiên cứu tiểu thuyết Trung Quốc ở đại lục khẳng định
(xem thêm lời phê bình sách ở phần Phụ lục sách này), song khi viết sách tôi
còn chưa kịp đích thân trao đổi với đông đảo học giả chuyên gia Việt Nam,
chỗ thiếu sót hẳn là khó tránh, mong các bạn Việt Nam thân mến thể tất cho
hoàn cảnh cá nhân tôi, không ngại phê bình chỉ ra chỗ cần sửa chữa.
Để đông đảo bạn đọc Việt Nam hiểu thêm về tôi, hiểu thêm về mối
duyên khó gỡ giữa tôi và các bạn Việt Nam, tôi xin mượn dịp viết lời bạt này
để giới thiệu với các bạn bài viết của Giáo sư Thạch Gia Lân khoa Trung văn
Học viện Sư phạm An Khánh với đầu đề là Kết duyên, đăng trên Nhật báo An
Khánh của tỉnh An Huy Trung Quốc ngày 19 tháng 12 năm 1999:
Tiến sĩ Trần Ích Nguyên là giáo sư khoa Trung văn trường Đại học
quốc lập Trung Chính Đài Loan, một người bạn tương tri tâm đầu ý hợp đã
lâu mà tôi chưa từng gặp mặt.
Năm nay, ngày 21 tháng 9 năm 1999, tin động đất lớn ở Đài Loan phát
đi, cả nước đều giật mình kinh sợ. Trường đại học mà Trần tiên sinh nhậm
chức ở gần ngay huyện Nam Đầu trong vùng động đất. Ngày 25 tháng 9, tôi
viết ngắn gọn vài dòng thư thăm hỏi; cách đây ít hôm, tôi nhận được thư trả
lời của Trần tiên sinh, thư rất ngắn: “Gia Lân tiên sinh: Đa tạ tiên sinh quan
tâm tới tai hoạ động đất ở Đài Loan, nhà tôi và trường tôi quả là ở gần trung
tâm động đất, cô giáo và bạn học của con gái tôi có người gặp nạn, mạng
sống mất ngay trước mắt chúng tôi, không thể không đau đớn… Rất may là
người lớn người bé trong nhà chúng tôi đều được bình an, xin đừng lo lắng.
Sau cơn động đất, thượng tuần tháng 10 tôi lại sang Hà Nội một chuyến,
được giáo sư Nguyễn Tài Thư giới thiệu đến Viện thông tin đọc sách. Cuối
tháng 2 năm 2000 khi lại sang thăm Việt Nam, tôi sẽ chụp ảnh chung với
Nguyễn tiên sinh và sẽ gửi tặng tiên sinh một tấm ảnh. Đợi khi nào ba chúng
ta hội ngộ sẽ chụp chung một tấm nữa. Tiền bối Chu Nhất Huyền tiên sinh ở
Thiên Tân viết tựa cho cuốn cổ đại tiểu thuyết luận thuật của tôi, có dẫn việc
kết duyên của chúng ta làm thí dụ để chứng tỏ lòng “nhiệt tình” v.v… của tôi.
Khi nào sách ra, ắt gửi biếu tiên sinh để kỷ niệm và chỉ giáo cho”.
Nói đến chuyện “kết duyên'' giữa tôi và Trần Ích Nguyên, cũng như
giữa Trần ích Nguyền và Nguyễn Tài Thư, quả có chút sắc thái truyền kỳ.
Năm 1996, do tình cảm hoài cựu thúc giục, tôi viết bài Một khúc khôn quên
nhớ cố nhân - Nhớ các bạn học Việt Nam của tôi. Số là cuối những năm 50,
trong thời gian học ở trường Đại học Sơn Đông, tôi chơi rất thân với mấy bạn
lưu học sinh Việt Nam, họ là Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Phúc, Trần Nghĩa và
một bạn gái là Nguyễn Thị Thanh Vân, song nhiều năm sau ngày tốt nghiệp,
chúng tôi đã mất liên lạc và cũng không có dịp gặp lại. Bài của tôi được đăng
trên phụ san Văn nghệ của Nhân dân nhật báo, bản hải ngoại ngày 18 tháng
9 năm 1996. Chẳng ngờ bài viết ấy được tiến sĩ Trần Ích Nguyên lúc đó đang
viếng thăm trường Đại học Nam Khai ở đại lục đọc được, vừa hay ông lại rất
quen biết giáo sư Trần Nghĩa, Nguyễn Thị Thanh Vân trong số nói trên. Trở
về Đài Loan, tiến sĩ gửi bài viết đã được chép lại của tôi, nhờ học giả Việt
Nam Hoàng Văn Lâu đang thăm Đài Loan mang về Hà Nội. Hoàng Văn Lâu
tiên sinh quen Nguyễn Tài Thư tiên sinh lúc đó công tác tại Viện Triết học
thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia. Nguyễn tiên sinh biết
được tin này cũng rất xúc động nhưng ông không biết cơ quan công tác của
tôi, đành phải đợi chờ. Cuối năm 1997, hai cán bộ lãnh đạo Viện triết học
thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc là Trần Quân Tuyền, Lý cảnh
Nguyên sang thăm Việt Nam, Nguyễn Tài Thư tiên sinh nhờ hai ông ấy hỏi
giúp địa chỉ của tôi, nhanh chóng trả lời cho Nguyễn tiên sinh được biết.
Ngày 20 tháng 3 năm 1998 nhận được thư của bạn học cũ Nguyễn Tài
Thư, tôi khó mà nói hết niềm phấn khởi và xúc động. Nhờ thịnh tình của lãnh
đạo Viện Triết học Trung Quốc gửi giấy mời tới tham gia Hội thảo học thuật
văn hoá truyền thống và hiện đại hóa của hai nước Trung Việt tổ chức ở
Quảng Tây vào tháng 5 năm ấy, tôi đã có dịp gặp lại bạn cũ Nguyễn Tài Thư
sau 38 năm xa cách.
“Uống nước nhớ nguồn” là thường tình của con người; sau khi từ
Quảng Tây trở về, tôi lập tức viết một lá thư cho tiến sĩ Trần Ích Nguyên kể lại
tình hình lúc tôi và bạn Nguyễn Tài Thư gặp lại nhau và gửi một tấm ảnh tôi
chụp chung với Nguyễn Tài Thư để ông lưu niệm. Chẳng bao lâu, tôi nhận
được thư trả lời của ông, trong thư ông viết: “Sắp tới nếu có dịp đến An
Khánh, thế nào cũng đến thăm ông. Con người ta thật kỳ lạ, cùng có người
bạn chung mà hai bên lại không biết nhau; bây giờ quen nhau tuy không vì
bạn Việt Nam giới thiệu nhưng lại đều liên quan tới bạn Việt Nam cả”. Cùng
với thư, tiến sĩ còn gửi tặng tôi cuốn Từ Kiều hồng ký đến Hồng lâu mộng do
ông viết, sách do Nhà xuất bản cổ tịch Liêu Ninh ở đại lục xuất bản.
Nhìn ảnh ông chụp chung với bạn Tài Thư thì tiến sĩ họ Trần còn trẻ
lắm, chắc chưa quá bốn mươi tuổi mà đã có hơn mười cuốn sách chào đời.
Học thuật đạt thành tựu rõ rệt là điều tất nhiên, không cần phải nói; sau tai
họa lớn, chưa hết kinh hoàng đã lại ra nước ngoài thu thập tư liệu, tinh thần
kính yêu nghề nghiệp đó khiến người khác phải khâm phục; đọc được bài viết
của tôi là một người chưa hề quen biết trong đời đã bắt mối bắc cầu, cuối
cùng giúp cho hai bạn đồng song dị quốc được gặp lại sau bao năm xa cách!
Đúng như Chu Nhất Huyền tiên sinh ở trường Đại học Nam Khai đã nói, Trần
Ích Nguyên là một người “nhiệt tình”, một người nhiệt tâm. Là con cháu dòng
dõi Viêm Hoàng, máu trong huyết quản của ông luôn sôi sục!”
Cuối cùng, một lần nữa cho phép tôi cảm ơn lòng yêu mến của Giáo sư
Phạm Tú Châu và các dịch giả, cảm ơn cống hiến của Nhà xuất bản Văn học
và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây cho nền văn học cổ điển Việt
Nam và cho sự giao lưu học thuật quốc tế.
Xin cảm ơn tất cả!
Viết tại Đài Loan ngày 11-1-2000,
kỷ niệm tám năm tròn ngày đặt chân tới Việt Nam
PHẠM TÚ CHÂU dịch
MỤC LỤC
Lời giới thiệu (Phạm Tú Châu)
Chương I. DẪN LUẬN Tiết thứ nhất: Sự đón nhận Tiễn đăng tân thoại
Ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam
Tiết thứ hai: Ý nghĩa của việc nghiên cứu so sánh
Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại
Chương II. TÁC GIẢ
Tiết thứ nhất: Cù Hựu
Tiết thứ hai: Nguyễn Dữ
Tiết thứ ba: Tiểu kết
Chương III. SỰ RA ĐỜI VÀ LƯU TRUYỀN CỦA TÁC PHẨM
Tiết thứ nhất: Tiễn đăng tân thoại
Tiết thứ hai: Truyền kỳ mạn lục
Tiết thứ ba: Tiểu kết
Chương IV: NỘI DUNG
Tiết thứ nhất: Khái quát cốt truyện Tiễn đăng tân thoại
Tiết thứ hai: Ký mai ký, không thuộc nội dung
Tiễn đăng tân thoại
Tiết thứ ba: Tóm tắt cốt truyện Truyền kỳ mạn lục
Tiết thứ tư: Tiểu kết
Chương V. NGUỒN GỐC
Tiết thứ nhất: Tiễn đăng tân thoại
Tiết thứ hai: Truyền kỳ mạn lục
Tiết thứ ba: Kết luận
Chương VI. KỸ XẢO, NỘI HÀM VÀ ẢNH HƯỞNG
Tiết thứ nhất: Tiễn đăng tân thoại
Tiết thứ hai: Truyền kỳ mạn lục
Tiết thứ ba: Tiểu kết
Chương VII. KẾT LUẬN
Tiết thứ nhất: Những điểm dị đồng giữa
Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại
Tiết thứ hai: Đánh giá lại địa vị của Tiễn đăng tân thoại trong lịch sử văn
học Trung Quốc
THƯ MỤC THAM KHẢO
I. Sách chuyên đề
II. Bài chuyên luận
PHỤ LỤC
I. Tiểu thuyết Hán văn các nước ngoài Trung Quốc tại Đài Loan (Trần
Ích Nguyên)
II. Một bước đi vững chắc (Tiết Hồng Tích)
III. Thành quả đầy đặn trong nghiên cứu chỉnh thể văn hoá Hán (Mai
Khánh Cát)
Lời tác giả cho bản dịch tiếng Việt (Trần Ích Nguyên)
---//---
NGHIÊN CỨU SO SÁNHTIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI & TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
Tác giả: TRẦN ÍCH NGUYÊN
PHẠM TÚ CHÂU, TRẦN BĂNG THANH, NGUYỄN THỊ NGÂN dịch
PHẠM TÚ CHÂU chỉnh lí và hiệu đính
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
TRUNG TÂM VĂN HÓA NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY
18 Nguyễn Trường Tộ, Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN VĂN LƯU
Biên tập: TRUNG TÂM VHNN ĐÔNG TÂY
Trình bày: ANH TRÍ
Vẽ bìa: HOÀNG HÀ
Sửa bản in: TT ĐÔNG TÂY
Tổng đại lý phát hành: NHÀ SÁCH ĐÔNG TÂY
32 Bà Triệu, Hà Nội.
ĐT: 8251374 - Fax: (84-4) 8251374
NHÀ SÁCH ĐÔNG TÂY I
446 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.
ĐT: 7731436 - Fax: (84-4) 7731436
Cuốn khảo luận về giá trị văn học của Tiễn đăng tân thoại và ảnh hưởng của
nó đối với Truyền kỳ mạn lục và đối với các tác phẩm khác trong khu vực,
đồng thời nêu lên tính đặc thù của tác phẩm của nhà văn Việt Nam Nguyễn
Dữ.
In 800 cuốn. In tại: Xí nghiệp In 15 Bộ Công Nghiệp. Giấy phép xuất bản số:
134/1/CXB cấp ngày 17/2/2000. In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2000.