ky yeu 40 nam ngay ra truong

27
Chân Thành Cảm Tạ Quý Thy Cô Anh Chị Đồng Môn Khóa 8 – Quý Đại Biu Khách Mi Đã Tham Dự và Ủng Hộ Tài Chánh Thc Hin Kỷ Yếu Kỷ Nim 40 mNgày Ra Trường Ca Khóa 8 Sư Phạm Saigon “

Upload: xuan-loc

Post on 10-Mar-2016

225 views

Category:

Documents


3 download

DESCRIPTION

Khoa 8 Su Pham Saigon

TRANSCRIPT

Chân Thành Cảm Tạ Quý Thầy Cô

Anh Chị Đồng Môn Khóa 8 – Quý Đại Biểu Khách Mời Đã Tham Dự và Ủng Hộ Tài Chánh Thực Hiện Kỷ Yếu

“ Kỷ Niệm 40 NămNgày Ra Trường Của Khóa 8 Sư Phạm Saigon “

Mùa Thu Sài Gòn 2010.

Lời ngỏ cùng toàn thể các bạn Khóa 8 Sư Phạm Sài Gòn. (1969 – 1971). Vào những ngày này 40 năm về trước, chúng ta vừa bước vào Trường Sư Phạm Sài Gòn với biết bao bỡ ngỡ, xa lạ, tất cả đều mới, từ trường, lớp, Thầy Cô đến bạn bè cùng lớp, cùng khóa. Thế mà đã qua 40 năm rồi, một thời gian khá dài đủ để sửa soạn chấm dứt thời son trẻ của chúng mình. Có bao giờ những kỷ niệm của thời cắp sách đến trường vụt thoáng qua trong trí nhớ của bạn không? Những kỷ niệm dù chỉ xuất hiện thoáng trong một vài giây nhung đủ để lòng mình se thắt lai. Vâng ngày hôm nay chúng tôi muốn đưa các bạn trở về lại 40 năm trước, để cùng quay chậm lại những

thước phim của thời học tập làm Thầy Cô giáo. Xin mời các bạn cùng xem lại những hình ảnh vui chơi hoặc cùng nhau làm việc dưới mái trường Sư phạm. Rồi sau 2 năm dùi mài kinh sử, cuộc thi tốt nghiệp mau chóng qua đi để tới ngày nhận nhiệm sở. Lúc ấy tất cả đều mang trong mình bầu nhiệt huyết, ra đi để mang tài sức ra giúp bọn trẻ mở mang kiến thức, háo hức ra đi đến nỗi chẳng còn ai nhớ mà ghi lấy địa chỉ của những người bạn cùng chí hướng với mình. Thế rồi chiến tranh và những cuộc đổi thay của đất nước làm chúng ta càng xa nhau nhiều hơn nữa. Rồi một ngày nọ, nhận được thông báo từ bạn bè, là quý Thầy trường SP tổ chức gặp mặt gia đình sp vào ngày 1/1 hàng năm, thế là chúng tôi hăng hái tham gia. Sau đó chúng tôi được khuyến khích tổ chức họp mặt lớp và họp mặt khóa.

Khóa 8 chúng mình đã tổ chức được “Kỷ Niệm 30 Năm Ngày Ra Trường” vào năm 2001 tại Trường Trung Hoc cơ sở Ngô Sĩ Liên Quận Tân Bình, “Kỷ Niệm 35 Năm Ngày Ra Trường” vào năm 2006 tại Trường Trung học cơ sở Trường Chinh và Để đánh dấu 40 năm ngày chúng ta rời xa mái Trường Sư Phạm thân yêu, chọn nhiệm sở để rồi ra đi mỗi người một phương làm Thầy Cô theo sự lựa chọn riêng của mình, và cũng để tụ họp cùng nhau ôn nhắc lại những kỷ niệm của một thời cắp sách đến trường, của thời bảng đen, phấn trắng. Chúng tôi đã thành lập ban trù bị để chuẩn bị tổ chức “KHÓA 8 HỌP MẶT KỶ NIỆM 40

NĂM NGÀY TỐT NGHIỆP” dự kiến tổ chức vào tháng 8 / 2010. Và sau bao nỗ lực của các thành viên ban trù bị và sự đóng góp các bài viết, thơ, truyện..và tiền bạc của tất cả các bạn cùng khóa, chúng tôi đã chọn ngày 8/8/2010 để tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm ngày Tốt nghiệp của Khóa 8 chúng mình. Và ngày hôm nay các bạn đang về dự đông đảo trong ngày vui họp mặt sau 40 năm rời xa mái trường Sư phạm và quyển kỷ yếu các bạn đang cầm đọc đây là tâm huyết của chúng tôi, chúng tôi chỉ là những đồng nghiệp của các bạn nên quyển kỷ yếu này chẳng thể nào như ý muốn của các bạn, nhưng nó mang tất cả tấm lòng của chúng tôi mong muốn các bạn được ôn lại những kỷ niệm xưa và gặp gỡ lại cố nhân trong khung cảnh và môi trường mới. Chúng tôi cố gắng thực hiện bằng hình ảnh để các bạn có

thể nhận ra những người bạn năm xưa. Và ngay bây giờ các bạn có thể “cụng ly” cùng những người thân, quen năm xưa. Hoặc nếu vì lý do nào đó mà có bạn vắng mặt, xin các bạn hãy nhấc điện thoại để hỏi thăm nhau vì đã 40 năm rồi còn gì!!!! Chúng tôi xin chân thành cám ơn quý Thầy đã động viên, các bạn đồng môn đã khuyến khích và đóng góp nhân lực và tài lực cho việc thực hiện buổi kỷ niệm và quyển kỷ yếu này. Xin chúc quý Thầy, các bạn đồng môn nhiều sức khỏe, hạnh phúc và luôn gặp may mắn, thành công trên đường đời. Ban Tổ Chức.

Sơ Lược Về Trường Sư Phạm Sài Gòn Tiền thân của Trường Sư Phạm Sài Gòn khi xưa chính là Trường Sư Phạm Nam Việt, được thành lập năm 1950. Lúc đầu nằm trong khuôn viên Trường Đổ Hữu Vị, gần Chợ Bến Thành, phía sau Bệnh Viện Saigon trên đường Huỳnh Thúc Kháng ( Ngày nay là Trường Kỷ Thuật Cao Thắng ). Năm 1955 Trường Sư Phạm Nam Việt di chuyễn về Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần Thảo Cầm Viên, sau nầy là Trường Trung học Võ Trường Toản. Năm 1956 Trường được dời về và sát nhập vào Trường Quốc Gia Sư Phạm, trước khi trường nầy được xây dựng mới tọa lạc tại góc đường Thành Thái-Cộng Hòa ( nay là An Dương Vương-Nguyễn Văn Cừ ). Trường Quốc Gia Sư Phạm có một cơ sở trực thuộc là Trường Sư Phạm Thực Hành-nằm trên đường Trần Bình Trọng. Trường Sư Phạm Nam Việt lúc bấy giờ tuyễn Giáo Sinh có bằng Tiểu Học-Đào tạo trong thời gian 4 năm. Trong 2 năm đầu học tập dưới dạng tổng quát như bậc trung học. 2 năm kế tiếp học thêm các môn nghiệp vụ như : Sư Phạm Lý Thuyết, Sư Phạm Thực Hành, Tâm Lý Giáo Dục, Quản Trị Học Đường…và thực tập. Cuối năm thứ 4, giáo sinh thi tốt nghiệp lấy Chứng Chỉ Khả Năng Sư Phạm CAP ( Certificate d’ Aptitude Pédagogique ) và thi lấy Bằng Trung Học DEPSI ( Diplôma d’ Éudes Primaire Supénieures Indochinoise ) Tương đương Bằng Trung Học Đệ Nhất cấp sau nầy. Trường Quốc Gia Sư Phạm sau nầy đổi tên là Trường Sư Phạm Sài Gòn bắt đầu tuyễn sinh năm 1955. Giáo sinh phải có Bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và được đào tạo phân ra 2 hệ : học 1 năm ngạch Giáo viên Tiểu Học, học 3 năm ngạch Giáo học Bổ Túc ( Ra trường có thể được bổ nhiệm dạy những lớp đầu cấp của bậc Trung học ). Từ năm 1962 trình độ dự tuyễn vào trường của Giáo Sinh được nâng lên cao, phải có Bằng Tú Tài Phần I, học trong 2 năm. Chương trình đào tạo được cải tiến, học thêm nhiều môn học mới, cụ thể và chuyên sâu hơn trong

nghiệp vụ giãng dạy trong lớp, quản trị học đường, giao tiếp cộng đồng… Trong nổ lực nâng cao chất lượng đào tạo Giáo Viên như nhiều nước phát triễn khác, dạy bậc Tiểu Học cũng phải là người tốt nghiệp ngành Sư Phạm bậc Đại học, kể từ năm 1973, trình độ dự tuyễn của Giáo sinh cũng được nâng lên là phải có Bằng Tú Tài Phần II, học 2 năm chuẩn bị cho bước đầu đổi tên trường là Cao Đẳng Sư Phạm. Không chỉ cung cấp cho bậc Tiểu Học toàn Miền Nam nhiều Giáo Viên giỏi, Trường Sư Phạm Sài Gòn còn cung cấp cho bậc Trung học nhiều Giáo Viên ưu tú, vì đa số Giáo Sinh sau khi tốt nghiệp đi dạy học vẫn phấn đấu học thêm ở các Trường Đại Học Luật Khoa, Văn Khoa, Khoa Học… Tính chung từ năm 1962 đến năm 1975 Trường Sư Phạm Saigon đào tạo tất cả 13 Khóa. Sau Tháng 4-1975 Giáo Sinh tốt nghiệp vẫn được tiếp tục nhiệm vụ giãng dạy sau khi đã qua khóa bồi dưỡng nghiệp vụ và chính trị. Kinh qua những năm học dưới mái Trường Sư Phạm Sài Gòn, cùng với những khóa bồi dưỡng ngắn hạn về chính trị, nghiệp vụ…Các Giáo Viên giờ đây đã trưởng thành trong vai trò chủ chốt của ngành giáo dục là Giáo Viên dạy gỏi, Nhà Giáo ưu tú…và thành công trong vai trò cấp lảnh đạo của nganh Giáo Dục Quận, Huyện, Tỉnh, Thành… ( Nguồn : Thầy Nguyễn Duy Linh.)

Về Khóa 8 Sư Phạm Sài Gòn. Khóa 8 nhập học vào khoảng tháng 9 năm 1969 và ra trường khoảng tháng 9 năm 1971. Khóa 8 có hơn 500 giáo sinh, được chia thành 11 lớp mà tên gọi đặc thù là Nhất và Nhị niên. Ngày 9 tháng 6 năm 1971 tất cả đã dự thi tốt nghiệp. Sau đó kết qua công bố là có 477 giáo sinh được tốt nghiệp. Trung tuần tháng 9 năm 1971, các bạn đã dự lễ tốt nghiệp và chọn nhiệm sở. Từ đó đến nay, 40 năm trôi qua, có bạn đã sớm rời xa bục giảng nhưng cũng có nhiều bạn vẫn còn gắn bó với nghiệp “BẢNG ĐEN và PHẤN TRẮNG” cho tới ngày hôm nay. Nói đến Khóa 8 Sư Phạm Sài Gòn, chúng ta phải nhắc tới một điều rất đặc biệt là: “ KHÓA ĐẦU TIÊN NAM VÀ NỮ HỌC CHUNG LỚP ”. Vì lý do đó khóa 8 Sư Phạm Sài Gòn của chúng ta đã lập kỷ lục về “ CỘNG CHỈ SỐ ”, hơn 30 CẶP. Và Khóa 9 Sư Phạm Sài Gòn là khóa duy nhất “ ĐƯỢC CHỌN NHIỆM SỞ TRƯỚC KHI VÀO HỌC ”, nghĩa là bạn nào muốn dạy tại Tỉnh nào thì nộp đơn tại Ty Tiểu Học Tỉnh đó, sau khi được chọn, các bạn được gửi về học tại Trường Sư Phạm Sài Gòn, và sau 2 năm học tập rồi tốt nghiệp thì các bạn sẽ trở về đơn vị gốc là Ty Tiểu Học Tỉnh mà các bạn đã chọn và được chấp thuận. Sau Ngày 30-4-1975 toàn bộ Giáo Sinh Khóa 12 và Khóa 13 đựoc tập trung bồi dưỡng

chính trị đến tháng 9-1975 đựoc phân bổ nhiệm sở về các tỉnh từ Thuận Hải đến Cà Mau. Kể từ đó tên gọi “ TRƯỜNGSƯ PHẠM SAIGON “ chỉ còn là kỷ niệm trong ký ức của nhiều thế hệ thầy cô giáo Đào Văn Đắc. Nhị 3 – Khóa 8

CẢM NGHĨ CỦA CÁC THẦY NHÂN DỊP KHÓA 8 (1969 – 1971) PHÁT HÀNH KỶ YẾU KỶ NIỆM “40 NĂM TỐT NGHIỆP”.

VỀ KHÓA 8.

Nói đến Khóa 8 là nói đến tinh thần đoàn kết nhất hô bá ứng, sự khắng khít hòa đồng không tính toán so đo, sẵn sàng chia sẻ khó khăn không phải chỉ

riêng trong một lớp, cũng không chỉ đóng khung trong Khóa của mình mà còn chan hòa tới tất cả các bạn đồng môn và lan tỏa tới các đồng nghiệp cùng công tác trong một địa phương. Tôi không hề nhìn thấy dấu hiệu nào của sự phân hóa hay cục bộ nơi Khóa 8. Khóa 8 có các cuộc họp mặt hàng năm cũng tấp nập đông vui không thua gì các Khóa đàn anh giàu truyền thống. Họ cũng là hạt nhân trong các kỳ họp mặt của các Giáo chức tại Tỉnh Bình Long mà chính họ đề xướng và cố

gắng duy trì. Từ khi các cuộc họp mặt truyền thống hàng năm của Gia Đình Sư Phạm do các Khóa đăng cai đảm nhiệm thì Khóa 8 luôn là nồng cốt trong các tập thể gắn kết góp phần quan trọng nhất cho việc tổ chức được thành công. Họ cũng đóng góp cho Ban Đại Diện những thành viên ưu tú, luôn quan tâm giúp đỡ mọi người trong hoàn cảnh khó khăn, neo đơn, bệnh hoạn…Kỷ niệm của tôi với Khóa 8 khá nhiều. Có thể thuật lại đây một câu nói, mà tôi cho là rất thú vị không thể nào quên của một bạn thuộc Khóa này, cũng là một giáo viên dạy giỏi của thành phố. “Trường Sư Phạm Sài Gòn, với chúng em, cũng giống như thánh đường của người hồi giáo”. Câu nói cho thấy vừa là tình cảm, vừa là mối tự hào. Các Thầy Cô từng làm việc và gắn bó với trường này hẳn sẽ rất vui và cảm động vì cách đánh giá của học trò mình như thế.

Thầy NGUYỄN DUY LINH.

VỀ TRƯỜNG SƯ PHẠM SÀIGÒN. Sau khi tốt nghiệp lớp đào tạo “ Giáo sư Sư Phạm” vào năm 1968 (sau Đại học) tại Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, do Đại học Ohio (Hoa Kỳ) tài trợ tổ chức, tôi được bổ nhiệm về Trường Sư Phạm Sài Gòn. Trường SPSG tọa lạc tại đường Thành Thái (hiện nay là đường An Dương Vương). Sau năm 1975, Trường Sư Phạm Sài Gòn đã trở thành cơ sở của Trường Đại Học Sư Phạm TP HCM. Trường Sư Phạm Sài Gòn chuyên đào tạo giáo viên Tiểu học. Những năm đầu thành lập, Trường thi tuyển học sinh có bằng Trung học đệ nhất cấp, thời gian học là 3 năm. Khoảng năm 1961,1962, Trường thi tuyển học sinh có bằng Tú tài 1 trở lên, thời gian đào tạo là 2 năm. Đa số giáo sinh Sư Phạm Sài Gòn đều có bằng Tú tài 2 và đang theo học các Trường Đại học Văn Khoa, Đại học Luật, Đại hoc Khoa Học. Sở dĩ các em chọn thi vào các Trường Sư Phạm vì đồng lương tương đối cao so với

Trường cùng cấp, nhưng mục đích chính là để trốn quân dịch. Dĩ nhiên cũng có nhiều em chọn Trường Sư phạm vì yêu thích nghề “gõ đầu trẻ”, vì ảnh hưởng nghề nghiệp của gia đình. Tuy nhiên vì bất cứ lý do gì, sau thời gian tiếp cận với giáo sinh, tôi nhận thấy các em hòa nhập nhanh chóng môi trường sư phạm, tỏ ra yêu thích gắn bó với nghề Thầy và tác phong, ngôn ngữ mẫu mực của một Nhà giáo tương lai. Trường Sư Phạm Sài Gòn có những môn học phù hợp với nhiệm vụ chức năng của Nhà giáo vừa là người Thầy đối với học sinh, vừa là Người tư vấn đáng tin cậy đối với người dân trong cộng đồng nơi Trường tọa lạc vì Trường là Trung tâm văn hóa của cộng đồng. Đó là các môn Quản trị học đường, Giáo dục cộng đồng, Giáo dục y tế, Luân lý chức nghiệp, Canh nông, Mộc, Thủ công, Điện, Nhiếp ảnh, Họa…ngoài

các bộ môn văn hóa để giảng dạy các học sinh Tiểu học trên lớp. Do đó, giáo viên xuất thân từ Trường Sư Phạm Sài Gòn tháo vát trong công việc, vững tay nghề, giao tế tốt với cộng đồng. Khi ra trường các em có thể nhận nhiệm vụ từ Giáo viên đứng lớp đến chức vụ Hiệu Trưởng mà không phải qua Trường đào tạo cán bộ quản lý như hiện nay. Có lẽ các em Cựu Giáo sinh Khóa 8 và các Khóa khác không thể quên được quý Thầy Cô đã tận tụy truyền nghề cho các em, có thể vinh danh các vị là những Lương sư như Thầy Trần Văn Quế, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Gia Tường, Hồ Văn Huyên, Hoàng Trần Hoạch, Doãn Quốc Sĩ, Phan Hữu Niệm, Bùi Quang Kim, Nguyễn Duy Linh, Đoàn Viết Bửu, Trần Thế Uy, Nguyễn Văn Thương, Tôn Thất Trung Nghĩa, Trần Thanh Thanh, Nguyễn Văn Lượm, Lê Thị Thu Thủy, Lưu Thị Kim Vân v…v…Nhiều Giáo sư đã tạ thế do tuổi cao nhưng đã để lại cho đời nhiều lớp giáo viên giỏi có tâm, có đức tiếp bước các Thầy. Sau ngày thống nhất đất nước, nhiều Giáo sinh Sư Phạm Sài Gòn đã có nhiều đóng góp cho Gia Đình Sư Phạm nói chung và Khóa 8 nói riêng như Vũ Cao Biền, Vũ Khắc Long, Trần

Quang Dũng, Đào Văn Đắc…và nhiều Giáo sinh có địa vị trong lãnh vực giáo dục, hành chính v…v…, như Nguyễn Văn Hiến (Giám đốc Sở Giáo Dục Bình Thuận), Phan Châu Phi (Giám Đốc Sở Giáo Dục Bà Rịa-Vũng Tàu), Võ Hiền Phương (Giám Đốc Sở Giáo Dục Tây Ninh), Hồ Hoàng Minh (Hiệu trưởng Trường Trung Học Phổ Thông chuyên Thể Dục Thể Thao Nguyễn Thi Định Thành phố Hồ Chí Minh.), Nguyễn Tá Quốc (Hiệu Trưởng Trường Trung Học Thực Hành Sài Gòn),Phan Hiếu Sinh ( Hiệu Trưởng Trường THPT Phú Hòa, Củ Chi, Tp.HCM), Nguyễn Khải Hoàn (Trưởng Ban Tôn Giáo Tỉnh Bình Dương), Phan Văn Cheo (Trưởng phòng Công chứng số 1), Hồ Minh Đức ( Nghệ sĩ ưu tú, Phó phòng Thời sự Đài TH Tp HCM) v…v… Do hoàn cảnh, nhiều bạn cựu giáo sinh Sư Phạm Sài Gòn định cư ờ nước ngoài đều đã thành đạt trong cuộc sống, vẫn luôn nhớ bạn đồng học, Thầy Cô của Trường xưa. Các em có dịp thỉnh thoảng quay về mái nhà xưa, quây quần bên Thầy Cô và bạn cũ. Nhìn lại Thầy tóc nay đã bạc cả mái đầu, còn trò thì muối nhiều hơn tiêu nhưng chúng ta ai cũng thấy như trẻ lại, cảm thấy hạnh phúc vì nhiều thế hệ cùng qui tụ về một đại gia đình : “Gia đình Sư Phạm Sài gòn”.

Huỳnh Văn Ngôn. ( Giảng dạy môn GDCĐ và GDYT ).

VỀ ĐẶC SAN KHÓA 8 SPSG. KỶ NIỆM “40 NĂM TUỔI NGHỀ”. “Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh” ( Thiền sư VÔ NGÔN THÔNG ) “tất cả các pháp đều tứ cái tâm”

Bén duyên với Gia Đình Sư Phạm Sài Gòn một thời gian tuy ngắn ngủi cũng đủ để hiểu đuợc rằng duy trì các hoạt động thuờng xuyên của Gia Đình Sư Phạm đòi hỏi một khối lượng công sức không nhỏ. Qua 14 lần họp mặt hàng năm, ban điều hành Gia Đình Sư Phạm Sài Gòn gồm đủ đại diện của 13 khóa Sư Phạm hiện do Khóa 8 làm Truởng ban – đã hoàn thành công việc của mình một cách tuyệt vời. Anh chị em đã bỏ nhiều tâm trí, nhất là cái tâm - vào công việc chung, dù tuổi tác và sức lực - ở cái tuổi trên

dưới 60 – đã không còn “phơi phới” như những ngày xưa cũ nữa… Xin đuợc chúc mừng toàn ban điều hành và hy vọng cái “ Tâm trong sáng “ đối với Sư Phạm của Anh Chị Em mãi mãi “sáng trong” trong tim mỗi thành viên của Gia Đình Sư Phạm Sài Gòn chúng ta. Thầy Tô Minh Tín ( Cựu Gs Sư Phạm Saigon )

RỒI SẼ CÓ MỘT NGÀY. Trích từ tuyển tập “Những thơ tình trong ngăn cặp” Đinh Thị Thu Vân. Rồi sẽ có một ngày cùng nhau ta ngoái lại, Bạn bè ơi khi đó có còn nhau? Cơn lốc đời đưa đẩy bạn về đâu? Ta ngoái lại tìm nhau e mất dấu. Ta ngoái lại tìm nhau mong ẩn náu, Góc bạn bè êm ấm cảm thông ơi Ta ngoái lại rụng rời đôi cánh mỏi Góc bạn bè tin cậy bớt chơi vơi. Ta ngoái lại tìm nhau đừng sòi đá, Đừng dập vùi chi nữa trái tim hoang Thôi đừng nhớ, đừng quên, đừng xa vắng Xin một lần tha thứ thưở đi hoang. Tha thứ nhé bạn ơi ngày càng đắng Ta quẩn quanh nuôi giữ xót xa mình Tha thứ nhé những niềm vui không vóc dáng Thuở yêu mê bè bạn khuất xa dần. Rồi sẽ có ngày, sau những tháng ngày dâu bể, Chúng mình cùng ngoái lại tìm nhau Ta nói yêu thương khi tóc đã đổi thay màu Bàn tay héo cầm lâu cho ấm mãi. Trái tim héo, nụ cười xưa dẫu héo, Chỉ xin đừng tàn lụi chút niềm tin Dẫu mong manh vụn vỡ chẳng nguyên lành Xin hãy có một ngày nhen nhúm lại. Đinh Thị Thu Vân

CẦN MỘT NỀN GIÁO DỤC NHÂN BẢN.

Tôi bước vào nghề khi tuổi đời vừa tròn đôi mươi. So với thế hệ hôm nay, có lẽ ngày ấy tôi đã qúa già so với tuổi? Mới hôm qua còn là cậu giáo sinh, sau một đêm sau ngày ra trường, tôi đã trở thành “Thầy “. Tự nhiên tôi thấy mình lớn lên hẳn. Về địa phương, nghe tin có Thầy giáo mới, ông Xã trưởng, ông Ấp trưởng một điều “Thầy “ hai điều “Thầy “ với lòng tôn trọng thật sự. Chưa nói đến học trò, phụ huynh thưa “Thầy” xưng “con” ngọt sớt khiến tôi tự ngượng với chính mình. Một chàng trai 20 mà lại là Thầy ư !

Thì ra đó là thiên chức của nhà giáo. Nhà giáo trong xã hội Á Đông vốn có truyền thống “Tôn sư trọng đạo”. Câu nói ấy hơn chục năm nay mới lại xuất hiện sau một thời gian bị coi là sản phẩm của nền giáo dục phong kiến lạc hậu. Đã có lúc người ta muốn lọai bỏ “Vạn thế sư biểu Khổng Tử” vì cho là ông cổ võ cho một xã hội chống lại nền dân chủ nhân dân khi ông đề ra chủ trương “Trung với vua” và thứ bậc trong xã hội thời của ông là “Quân, Sư, Phụ”, nghĩa là coi trọng Vua Quan triều đình hơn Thầy giáo, Cha Mẹ, trái với thời đại hôm nay. Nhưng của đáng tội , thời của ông như vậy là tiến bộ lắm rồi. Nói dài dòng để trở lại vấn đề ở đây là cần xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hôm nay Nhân bản, Hiện đại, cho mọi người và vì mọi người. Một nền giáo dục nhân bản nhất thiết phải có mối quan hệ con người hài hòa, có tình thương yêu bình đẳng lẫn nhau giữa các chủ thể tham dự (Thầy, trò và những bạn đồng học )và mỗi người đều được trang bị cả về kiến thức lẫn tinh thần để có thể tự giải phóng mình ra khỏi những mối ràng buộc do thực tế của đời sống đưa lại, khiến đôi khi “mình không còn là mình” nữa và mất hoàn toàn các khả năng lựa chọn. Một nền giáo dục nhân bản cũng có nghĩa là dạy cho học sinh ngay từ tuổi mẫu giáo lòng bao dung và ý thức muốn giúp đỡ người khác, thông cảm với những hòan cảnh bất hạnh, biết yêu thiên nhiên cây cỏ, cầm thú. Biết lấy niềm vui của người khác làm niềm vui của mình, nỗi đau của người là nỗi đau của mình, từ đó mà có cách ứng xử thích hợp trong mỗi hoàn cảnh sống và làm việc, hướng tới tinh thần phục vụ vì

nhân quyền xã hội chứ không chỉ bo bo ích kỉ muốn lợi cho mình mà hại người . Muốn được như vậy thì người Thầy phải được giáo dục nhân bản để truyền lại cho học sinh của mình. Chương trình, sách giáo khoa phải “Văn dĩ tải đạo” (Đạo ở đây là đạo làm người), ngòai việc cung cấp các tri thức khoa học, những thành tựu của nền văn minh nhân loại và ứng dụng được vào đời sống hầu phát triển con người toàn diện. Nhớ những ngày còn học dưới mái trường Sư Phạm Saigon, chúng ta có môn “Luân lý chức nghiệp”, tôi được thầy Bùi Quang Kim giảng dạy. Vào lớp, những ngày cuối thu, thầy luôn luôn mặc áo vest , chân đi giày đen. Những ngày nắng nóng, áo sơ mi dài tay, thắt Cravate, tay xách cặp, dáng đi khoan thai, nghiêm nghị. Thầy dạy chúng tôi cách ăn nói, cách trình bày với người trên, cách xưng hô với học sinh, phụ huynh. Thầy dạy phải tôn trọng, thân mật gần gũi với đồng nghiệp. Thầy chỉ cho cách giao tiếp khi về trường, tạo mối quan hệ với địa phương, với nhân dân nơi mình giàng dạy, sinh sống. Thầy còn dạy phải ăn mặc thế nào cho “Y phục xứng kỳ đức”, tùy hòan cảnh, tùy nơi ở mà xừ trí nhưng nhất thiết không được bê bối, lè phè như áo bỏ ngoài quần đi dép lê với Thầy giào hay đầu tóc không chải, áo quần không ủi, mặc đồ bộ vào trường đối với Cô gíáo. Những điều tưởng rất tầm thường cỏn con ấy đã tạo ra một lớp nhà giáo mẫu mực. Nền giáo dục nhân bản hình thành trong con người giáo sinh từ đó. Rồi cách trao đổi, dăn dò học trò, dạy học trò chào hỏi : đứng dậy khi Thầy Cô vào lớp, đứng nghiêm chào Thầy Cô khi hết giờ học, đợi Thầy Cô ra khỏi lớp mới tuần tự ra về. Gặp người trên phải cúi đầu chào, Thầy Cô hỏi phải dạ thưa. Đi học phải thưa Cha Mẹ hay người lớn , về đến nhà phải trình . . . Những điều ấy có lạc hậu so với thời đại hôm nay? không rõ có còn môn học ấy hay những nội dung ấy ở các Trường Sư phạm hôm nay? Chúng ta còn được học môn “Quản trị học đường” , “Quản trị thanh tra” , “Giáo dục cộng đồng” . Học về vai trò vị trí người Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng, Tổ trưởng dù không phài để trở thành Hiệu trưởng mà học để biết vị trí của mình sau này khi ra trường phải làm

việc ra sao … Được hiểu thế nào là tập sự, lên hạng, nâng ngạch, nâng bậc mả phấn đấu. Ngoài việc giáo dục tại nhà trường thì người giáo viên còn phải biết mối quan hệ giữa nhà trường với nhân dân trong vùng, với địa phương như thế nào để “Trường ra trường - Lớp ra lớp”, “Thầy ra Thầy – Trò ra trò”, chính vì thế người giáo viên tương lai thấm đẫm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào khi thực thi nhiệm vụ của mình . . .Cộng với chương trình giáo dục về văn chương Việt Nam, lịch sử, địa lý nước nhà, các môn vệ sinh, công dân, đức dục mà nội dung từ những điều các em gặp ngay trong gia đình, thôn xóm, làng xã rộng ra là cả xã hội để học sinh từ lớp 1 đến lớp 5, từ lớp 6 đến hết trung học được rèn luyện theo trình độ lứa tuổi của mình . Có như thế nền giáo dục của chúng ta mới đào tạo ra những con người có lòng nhân. Nhân là người mà Nhân cũng là lòng nhân ái. Nền giáo dục nhân bản không coi nhẹ tri thức nhưng không coi tri thức là mục tiêu hay cứu cánh tối hậu mà chỉ coi đó là phương tiện bắt buộc. Sự truyền thụ tri thức cũng phải nhắm tới nâng cao cuộc sống của con người, phục vụ cho con người cả tinh thần lẫn vật chất. Mạnh Tử đã từng nói : “Cái đạo của học vấn không có gì khác, chỉ là để tìm lại cái lòng của con người đã bị đánh mất, bị tha hóa đi mà thôi”. Cái “LÒNG” ấy chính là “Nhân bản” vậy . Đỗ Công Minh-Nhị 2

MỞ. Nói đến Khóa 8 là nói đến tinh thần đoàn kết nhất hô bá ứng, sự khắng khít hòa đồng không tính toán so đo, sẵn sàng chia xẻ khó khăn không phải chỉ riêng trong một lớp, cũng không chỉ đóng khung trong Khóa của mình mà còn chan hòa tới tất cả các bạn đồng môn và lan tỏa tới các đồng nghiệp cùng công tác trong một địa phương. Tôi không hề nhìn thấy dấu hiệu nào của sự phân hóa hay cục bộ nơi Khóa 8. Khóa 8 có các cuộc họp mặt hàng năm cũng tấp nập đông vui không thua gì các Khóa đàn anh giàu truyền thống. Họ cũng là hạt nhân trong các kỳ họp mặt của các Giáo chức tại Tỉnh Bình Long mà chính họ đề xướng và cố gắng duy trì. Từ khi các cuộc họp mặt truyền thống hàng năm của GĐSP cho các Khóa đăng cai đảm nhiệm thì Khóa 8 luôn là nồng cốt trong các tập thể gắn kết góp phần quan trọng nhất cho việc

tổ chức được thành công. Họ cũng đóng góp cho Ban Đại Diện những thành viên ưu tú, luôn quan tâm giúp đỡ mọi người trong hoàn cảnh khó khăn, neo đơn, bệnh hoạn…Kỷ niệm của tôi với Khóa 8 khá nhiều. Có thể thuật lại đây một câu nói, mà tôi cho là rất thú vị không thể nào quên của một bạn thuộc Khóa này, cũng là

một giáo viên dạy giỏi của thành phố. “Trường Sư Phạm Sài Gòn, với chúng em, cũng giống như thánh đường của người hồi giáo”. Câu nói cho thấy vừa là tình cảm, vừa là mối tự hào. Nhân dịp Khóa 8 in Kỷ yếu kỷ niệm 40 năm ngày ra Trường của mình, tôi xin gửi bài này tôi viết cách đây đã 8 năm để cùng các bạn ôn lại nhưng kỷ niệm vui vui về một Ông Thầy cũ, một trong những cây đại thụ của Trường Sư Phạm Sài Gòn nay sắp bước chân vào lớp tuổi 90, mà nhiều người trong chúng ta đều yêu mến và kính trọng : ÔNG VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG. Chúng tôi thường thân mật gọi Anh như thế vì đây chính là bộ môn giảng dạy mà Anh phụ trách và được nhiều giáo sinh yêu thích ở Trường Sư Phạm Sài Gòn. Tôi được gặp Anh lần đầu khoảng đầu thập niên 1960 trong lễ khai giảng năm học khi cùng được giới thiệu với các giáo sinh trong thành phần Ban Giảng Huấn. Trước đó Anh làm việc tại Hà Tiên và đã thành danh với những truyện ngắn đăng trong tạp chí “Sáng Tạo” trong đó có truyện “Chiếc chiếu hoa cạp điều” được rất nhiều người hâm mộ. Cảm nghĩ ban đầu của tôi về Anh là : “Ông này có vẻ nhà giáo hơn nhà văn”, từ y phục đến cử chỉ hay lời nói tuyệt nhiên không một chút kiêu mạn hay kiểu cách, cố làm ra vẻ khác người ở những vị đã có đôi chút tiếng tăm. Sau này dự các buổi nói chuyện về văn học của Anh tại giảng đường Trường Sư Phạm hay tình cờ đi qua lớp Anh đang dạy, trong tôi lại nảy ra ý nghĩ:” Ông này nhà văn hơn nhà giáo “. Anh không có lối diễn tả hùng hồn hay tỏ ra uyên bác song có một sức cuốn hút riêng bằng một phong thái khoan thai, chậm rãi, nhẹ nhàng, thân mật và dí dỏm tựa hồ như đang kể chuyện, dẫn dắt cử tọa đi vào chiều sâu của vấn đề. Cặp mắt lim dim sau làn kính trắng, ngó đăm đăm vào khoảng không trước mặt như đang đắm chìm trong một cõi hư vô nào đó, như thể Anh đangnói cho chính mình nghe, không để ý đến ai. Với các giáo sinh thì không lúc nào thuận tiện hơn để chuồn ra khỏi lớp, để quần thảo trên sân bóng, nhâm nhi một tách cà phê hay vù tới một phân khoa đại học nào đó lấy “cours”. Song trong thực tế, chỉ rất ít em làm vậy. Anh thường trầm ngâm, ít nói, chỉ đưa ý kiến khi có người hỏi đến, có lẽ là để tránh những cuộc bàn luận dông dài vô bổ. Tuy nhiên Anh không phải dạng người lạnh lùng khép kín. Anh dung hòa được các ưu điểm của cả nhà giáo lẫn nhà văn : thận trọng mà tinh tế, nghiêm túc nhưng khoáng đạt. Từ ngày quen Anh tới

bây giờ, trên dưới 40 năm, tôi chưa từng thấy Anh to tiếng hay giận dữ với ai cũng như bình phẩm một người không có mặt. Với Anh, vật chất dường như chỉ là phương tiện, có cũng tốt, mà không có cũng chẳng sao. Còn thì dùng, mất thì thôi, có tiếc cũng chẳng tìm lại được. Anh thường đến Trường bằng chiếc DAIHATSU, loại gia dụng chở được nhiều người. khi cả nhà cùng đi, Anh Chị ngồi phía trước, các con (4 trai, 4 gái) chia nhau hai băng phía đằng sau. Một hôm, thấy Anh đi bộ tới, tôi buột miệng hỏi: “ xe của Anh đâu?” “Mất rồi!” không tin ở tai mình, tôi hỏi lại : “ Mất!!!” Anh trả lời giọng hững hờ cứ như để quên đâu đó một đồ vật rẻ tiền : “Vâng mất rồi anh ạ!” ít ngày sau anh đi lại bằng một chiếc xe Vespa kiểu cũ. “ Chú em họ cho”, anh nói với tôi. Chiếc xe này, nực cười thay, chỉ ít lâu sau cũng bị lấy đi song không mất. Lúc không thấy xe đâu, anh lững thững ra đường kiếm taxi thì thấy xe mình ở ngã tư gần đó, chìa khóa contact vẫn còn nguyễn trong ổ, thì ra người quên không đổ xăng thêm khi đã chạy bằng bình xăng reserve. Nếu lấy đãng trí làm tiêu chuẩn xếp hạng ở trường thì ngôi quán quân dứt khoát phải về anh. Nhà tôi, anh có lạ gì, thỉnh thoảng cũng tạt vô mỗi khi anh ghé chơi nhà anh Phạm Xuân Ninh ( tức Hà Thượng Nhân) cùng ngõ và cách đó không xa. Vậy mà có lần anh kể lại là đã loanh quanh suốt buổi sáng mà tìm không thấy. Khi biết chuyện các con anh bảo :” chắc ở Trường không Bác nào biết biệt danh của Bố cháu là : LÃNG ĐÃNG THIỀN SƯ”

Con đường văn chương anh theo đuổi đem

lại cho anh không chỉ có vinh quang. Anh đã trả giá bằng 1 lần cải tạo tập trung và 1 án tù, cộng chung lại khoảng 10-12 năm gì đó. Dấn thân vào con đường này khác gì ngồi trên 1 chiếc thuyền thả trôi theo

“Dòng sông định mệnh” sớm muộn gì cũng phải đối mặt với thác ghềnh, giông gió. Anh

bình thản đón nhận những bão tố của cuộc đời mình, không hề run sợ hay khiếp nhược. Anh luôn giữ được vẻ an nhiên tự tại, không để mất thói quen thiền định hàng ngày. Nhờ vậy mà anh không suy sụp cả về tinh thần cũng như thể chất. Đây quả là 1 cách “gìn vàng giữ ngọc” cho nhân cách của mình. Trái với nhiều người tôi gặp thường cao giọng khoe thời gian phải ngồi tù hay cải tạo, Anh không bao giờ đả động đến chuỗi ngày đen tối đã trải qua mà theo tôi có lẽ Anh đã coi như hệ quả tất nhiên của những điều Anh đã viết. Mùa xuân 1995, Anh cùng Chị ra đi, định cư ở nước ngoài với sự bảo lãnh của người con trai cả. Anh Nguyễn Hải Phương đã viết thật chí lý lúc chúng tôi sắp chia tay :

Đường đời thì bể thì dâu Nghiệp văn chương lắm cơ cầu văn chương

Lọt lòng như đã tha hương Thì đi thêm một bước đường có sao…

Và cảnh ngộ lúc sắp ra đi của anh: Phong trần đến trắng đôi tay

Bảy ba lấy vạn dặm mây làm nhà…

Tôi ngậm ngùi mường tượng ra cái cảnh lúc ban đầu sẽ có rất nhiều người ồn ào đón rước mong chụp ảnh với Anh, để quảng bá cho tất cả mọi người cùng biết trong hàng ngũ họ đã có Anh sát cánh để rồi cũng chính những người này sẽ mau chóng lãng quên hoặc lên án Anh khi không thấy Anh sẵn sàng đáp ứng những điều họ mong đợi. Tôi được tái ngộ cùng Anh Chị lần đầu trên đất Mỹ ngày 2/12/2000 (nghĩa là gần 6 năm sau khi Anh Chị ra đi) lần sau cùng tại đây ngày 29/1/2001 ( mùng 6 Tết Tân Tỵ) trước khi tôi trở lại VN. Lại nhớ tới câu thơ Anh đọc:

Gặp nhau tay bắt mặt mừng Vui thì vui vậy biết chừng nào xa.

Anh vẫn vậy, không thay đổi chút nào. Vẫn cặp mắt lim dim, cái nhìn ấm áp, nụ cười cởi mở và trái tim nhân hậu, vẫn vững tin ở tương lai tươi sáng của dân tộc và kỳ vọng giới trẻ sẽ cố gắng vươn lên trong học tập để bằng người. Có điều Anh quên nhiều. Có gì lạ đâu khi đã 80 mùa xuân trôi qua trên mái tóc. Liệu có ích gì khi cứ giữ mãi trong đầu những điều cay nghiệt. Phải quên đi, để chỉ nhớ lấy những điều tốt đẹp. Trong ý nghĩ đó thì quên chính là một thứ hương thơm bắt được của Trời. “forgive and forget”, quên được tức là đã hoàn toàn tha thứ. Cho tới một lúc nào đó quên luôn chính bản thân mình, đạt tới chỗ “vong ngã” thì Anh thành Phật.

Mùa xuân này, Nhâm Ngọ, Anh vừa chẵn 80. Nếu còn ở Việt Nam, Gia đình Sư Phạm thế nào cũng có mặt ở nhà Anh hôm mùng 2 Tết, ngày sinh nhật của Anh. Lại được xem các cháu nội, ngoại của Anh tưng bừng múa hát dưới sự điều khiển duyên dáng của Út Hương, một nét văn hóa rất đặc trưng và nhiều ấn tượng của Dzoãn gia. Nhìn những số báo Xuân bày bán khắp nơi trong thành phố tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ tới những số Xuân Sư Phạm ngày nào tôi có vinh dự được cùng Anh hướng dẫn khối báo chí của trường từ Khóa 3 (1964 – 1966) trở đi. Cả trường hân hoan đón nhận những đứa con tinh thần còn thơm mùi giấy mới và tươi rói mực in được trình bày trang trọng với một nội dung lành mạnh và phong phú xung quanh 3 chủ điểm : văn hóa, giáo dục và sư phạm quy tụ những cây bút có triển vọng trong giới giáo sinh. Sau này, có em theo hẳn con đường văn chương và đã thành danh. Ở tuổi 80 người ta có quyền sống thanh thản với lòng mình, không cần phải bận tâm biện biệt đúng sai, hay dở, tốt xấu hay thiện ác. Kém Anh 10 tuổi, tôi còn trẻ chán nên cũng còn rất dài lời, những điều viết ra đây không tránh khỏi những chỗ chủ quan, phiến diện hay võ đoán, chưa đủ công phu hàm dưỡng để tới chỗ “vô ngôn” và còn luẩn quẩn với cái tôi, không dứt bỏ nổi nhiều điều ham muốn thì “vong ngã” làm sao được. Song có một điều tôi chắc chắn không lầm: với rất nhiều cựu Giáo sư và cựu Giáo sinh của Trường Sư Phạm Sài Gòn, Anh là một mối tự hào. Mãi mãi với riêng tôi, trong bất cứ cảnh ngộ nào, Anh vẫn là một người Anh lớn mà tôi kính trọng và yêu quý. Mong Anh Chị giữ vững sức khỏe như ngày ta tái ngộ trên đất Mỹ. ta còn luôn nhớ tới nhau, luôn nghĩ tốt về nhau thì ta sẽ có đủ túc duyên để còn được nhiều lần gặp lại. tôi tin thế. Saigon ngày 25 tháng 2 năm Nhâm Ngọ. Nguyễn Duy Linh Cựu Giáo Sư SPSG

Đâu phải là thi sĩ, Sợ không đủ ngôn từ để viết một bài thơ Nhưng tôi vẫn viết Một bài thơ Nhớ về kỷ niệm Trường Sư Phạm Sài Gòn Huy hiệu tròn em cài trên ngực áo Bên trái tim rạo rực tuổi đôi mươi

Thương nét chữ nghiêng nghiêng màu mực tím mồng tơi Em viết Trên trang vở trắng Nhớ có lúc sân trường còn vương nắng Chân em bước nhẹ,lối qua Có hàng cây lá me che mát Bốn mươi năm qua bởi nhớ câu ca ngày xưa em hát “ Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc” Mà anh vẫn mãi đi tìm “ Gió độc Gò Công “ Giờ trở lại trường xưa Hàng me lưa thưa lá Lớp lớp mái tường cao Che khuất nẻo em về. Long Thành ngày 7 tháng 5 năm 2010. BT. Lớp N.4

THẦY TÔI . Kính nhớ Hương Hồn Thầy Đặng Phúc Xuân. Tôi còn nhớ rất rõ, cách đây 40 năm đó là năm thứ 2 niên khóa 1970 – 1971 Trường Sư Phạm Sài Gòn. Giáo sư Hướng Dẫn Lớp Nhị 4 chúng tôi là Thầy Đặng Phúc Xuân. Tôi nhận ra Thầy ngay vì Thầy là một trong hai vị Giáo Sư chấm thi môn vấn đáp khi tôi thi vào trường Sư Phạm. Thầy đã cho tôi điểm số rất cao nên tôi đậu hạng 4 trên 600 giáo sinh trúng tuyển. Nhưng thời đó tôi thi vào trường Sư Phạm chẳng qua là do sự thúc ép của Cha tôi. Vì Cha tôi rất quý trọng nghề Sư Phạm và coi nghề dạy học là nghề : “trồng cây trên bàn” và đối với xã hội thì được mọi người yêu quý kính trọng. Riêng bản thân tôi vì sống trong thời buổi chiến tranh nên tuổi trẻ có ước vọng là xếp bút nghiên theo việc đao binh chứ đâu thích làm Ông Giáo “gõ đầu trẻ”. Chính vì mang trong mình mặc cảm như thế nên tôi chẳng thiết tha học hành trong suốt hai năm tại Trường Sư Phạm. Ngược lại tôi còn quậy phá vì mình không thể nào rớt tốt nghiệp được, hơn nữa tôi đã chọn nhiệm sở trước cho mình là Tỉnh Bình Long, nơi dành cho những Gíaó sinh có thứ hạng thấp nhất. Khi Thầy Xuân làm Giáo Sư Hướng Dẫn lớp tôi Thầy rất chú ý đến tôi, vì tôi là một giáo sinh khá nổi tiếng trong năm đệ nhất niên, tôi suýt bị một Giáo Sư đuổi ra khỏi trường vì những lời nói đùa cợt khiếm nhã. Tôi còn đánh một bạn giáo sinh cùng lớp ngay tại lớp hoc. Tuy thế, Thầy Xuân vẫn vui vẻ và không có thái độ phân biệt đối xử nào với tôi. Năm đó, tôi cũng trúng cử vào Ban Đại diện của Trường với chức danh Trưởng Khối Học tập. Đáng lẽ ra với chức danh này tôi phải là một người gương mẫu, nhưng tôi càng lợi dụng chức vụ này để ra khỏi lớp mà không bị điểm danh là vắng mặt vì nếu vắng mặt không phép sẽ bị trừ điểm hạnh kiểm, và vì tôi nghĩ rằng nhà trường sẽ không bao giờ đánh rớt một Trưởng Khối Học tập. Về phần Thầy Xuân, Thầy không trách cứ tôi một điều gì, Thầy còn tìm cách nhờ một bạn gái trong lớp kèm cặp tôi vào những tháng cuối trước ngày thi ra trường. Nhờ thế khi ra trường tôi cũng đạt thứ hạng khá nên đã được bổ nhiệm dạy tại Long Khánh. Tất cả những việc này, mười năm sau ngày ra trường tôi biết được lòng yêu thương của Thầy do người bạn nữ được Thầy yêu thương trong lớp kể lại. Cũng qua người bạn này tôi mới biết được những hành động nông nổi của mình đã ảnh hưởng rất nhiều đến uy tín của Thầy và Thầy rất buồn tôi, nhưng Thầy không bao giờ phiền giận tôi. Thầy dạy chúng tôi môn Sư Phạm Thực Hành đồng thời là Gíao Sư Hướng Dẫn của lớp nên Thầy rất tận tâm trong việc giảng

dạy, Thầy hướng dẫn từng ly từng tí cho các giáo sinh trong những buổi thao giảng. Năm 1985, gia đình Thầy được đi định cư ở nước ngoài, lớp chúng tôi có làm buổi lễ chia tay Thầy, trong đó có tôi, nhân dịp này tôi đã thành thật xin lỗi thầy về những lỗi lầm ngày xưa của tôi và thầy đã rộng lượng tha thứ cho tôi. Hai thầy trò chúng tôi đã ôm nhau khóc, trước khi chia tay Thầy nói với chúng tôi: “Ngày hôm nay các Anh Chị đến đây tiễn Thầy, Thầy coi đây là một thành quả tốt đẹp của bao nhiêu năm dạy dỗ. Thầy sẽ khoe với các con của Thầy những bức ảnh ngày hôm nay khi Thầy bước xuống phi trường”. Kể từ đó tôi không được gặp lại Thầy nữa. Năm 2006, được tin Thầy qua đời tại Canada. Tôi là đứa học trò đầu tiên nhận được tin buồn và tôi là người đại diện gia đình Sư Phạm đăng lời chia buồn trên đài truyền hình. Như có một linh cảm ngay hôm đó, con trai Thầy cũng đăng cáo phó nhờ thế chúng tôi mới biết được buổi lễ cầu siêu tại một ngôi Chùa trên đường Lê Văn Sỹ. Hôm đó có rất nhiều Thầy Cô và môn sinh của Thầy ở trường Sư Phạm đã đến tham dự. Đứng trước hình ảnh của Thầy một lần nữa tôi xin Thầy tha thứ. Dường như Thầy mỉm cười với tôi. Rồi lễ giỗ 100 ngày và giáp năm của Thầy, tôi cũng được gia đình của Thầy mời tham dự. Trong những học trò dự lễ đều là những học trò ngoan của Thầy ngày xưa, có lẽ riêng tôi là học trò cá biệt. Thầy ơi ! Giờ Thầy đã đi đến một nơi rất xa có lẽ nơi đó Thầy sẽ không gặp những người học trò cá biệt quậy phá ngày xưa đã làm cho Thầy buồn lòng. Con xin hứa với Thầy những tháng ngày còn lại của đời con, sẽ sống xứng đáng là người học trò mà Thầy hằng mong mỏi. Con xin mượn mấy câu thơ của Anh Bùi Đăng Khuê như là một nén hương dâng lên hương hồn Thầy đồng thời nói lên phần nào công lao của Thầy dạy dỗ mà ngày nay đã thấm sâu vào máu thịt con.

CHO VÀ NHẬN.

Thầy chẳng cho gì ngoài ánh mắt Lúc muộn phiền con chỉ thấy mây bay

Thầy chẳng cho gì ngoài giọng nói Đượm tình người thành phấn trắng trên tay.

Khi Thầy cho Thầy cũng không hề biết Con vô tình lúc nhận cũng chẳng hay Nhưng con hiểu Thầy đã cho tất cả Bởi lòng con bát ngát núi sông này.

VŨ CAO BIỀN. Lớp N. 4

KỶ NIỆM KHÓ QUÊN. Có bao giờ bạn tự hỏi mình đã có

được bao nhiêu ngày hạnh phúc? Và có bao giờ bạn hình dung lại chuỗi ngày đó với niềm sung sướng lâng lâng. Mấy mươi năm trôi qua trong cuộc đời tôi là mấy mươi năm mơ ước và hạnh phúc, dù cuộc đời tôi cũng có nhiều thăng trầm, gian nan vất vả nhưng trong lúc ấy tôi lại tìm được niềm vui mà tôi hằng mong đợi. Tôi đã có những năm tuổi thơ tươi đẹp trong gia đình tràn ngập tiếng cười. Tôi vẫn nghe xao động khi nhớ đến mỗi tối sau bữa cơm sum vầy, chị em tôi ngồi quây quần bên Ba tôi nghe đọc truyện hoặc lắng nghe âm thanh ngọt ngào réo rắt từ tiếng đàn của Ba tôi. Thỉnh thoảng chị em chúng tôi lại hát phụ họa theo điệu nhạc mà đến nay dư âm của nó vẫn làm tôi xao xuyến. Ba tôi, một người tài hoa, Ba vừa là Cha vừa là người Thầy của tôi. Tôi học được từ Ba sự nỗ lực không mệt mỏi. Ba tôi vẫn thường nói:”hãy vừa lòng với cái mình có, thoải mái với điều mình vừa đạt được và hạnh phúc khi đem lại niềm vui cho mọi người”. có lẽ Ba tôi hài lòng với cuộc sống của chính mình, một cuộc sống không dễ dàng với đứa trẻ mồ côi cha từ năm lên chín. Năm mười tuổi, Ba tôi đã phải đi bộ vượt hai mươi cây số lên tỉnh xin khai sanh để đi học. Có ai ngờ rằng cậu bé ốm yếu gầy gò đó đã đeo đuổi việc học tập đến cả cuộc đời mình. Ba tôi không kể cho chúng tôi thời niên thiếu của Ông. Chỉ khi về quê thăm Cô tôi, nghe Cô kể lại, tôi mới hiểu Ba tôi có ý chí và nghị lực phi thường đến nhường nào. Bà tôi chỉ có thể lo cho Ba tôi học hết tiểu học, còn lại là chuỗi ngày tự học qua sách vở. Thế mà Ba tôi đã đậu Diplôme rồi tú tài 1, tú tài 2 trước con mắt kinh ngạc của họ hàng, làng xóm. Chị em tôi suốt những năm học cấp 1, cấp 2, cấp 3 lúc nào cũng có Ba tôi bên cạnh chỉ bảo. Ngay cả năm tôi ghi danh học đại học Văn khoa, tôi vượt qua được môn Hán văn cũng là nhờ Ba tôi dạy cho. Ngày đó. Mỗi chiều tôi thường ngồi cạnh Ba tôi để kể cho Người nghe chuyện trường lớp, học hành. Chính Ba tôi đã truyền cho tôi tình yêu nghề nghiệp, lòng

yêu trẻ. Vì thế mà tôi không ngần ngại khi nộp đơn thi vào trường Sư phạm Sài gòn sau khi tốt nghiệp tú tài Ba tôi đã bảo đây là nghề cao quý rất hợp với tôi vì tôi vốn thích sự tĩnh lặng và bình dị, lại biết khoan dung và chia sẻ. Quả thật, trải qua 35 năm dạy học, chưa bao giờ tôi nghĩ tới việc phải từ giã trường lớp. Những ngày đầu về hưu được nghỉ trước 6 tháng thật sự là những ngày khó khăn với tôi. Cái cảm giác mất mát, hụt hẫng thường xuyên làm tim tôi nhức nhối. Thỉnh thoảng tôi vẫn khát khao được đứng trên bục giảng, được trò chuyện với học trò. Thế giới học trò đã làm phong phú tâm hồn tôi. Tôi đã tìm được niềm vui và hạnh phúc từ nghề gõ đầu trẻ. Còn gì hạnh phúc hơn khi tình cờ gặp lại học trò cũ. Một chàng trai trẻ đã chạy xe theo tôi một đoạn đường từ trường đến tận nhà chỉ để gọi:”Cô ơi! Phải Cô không?” cũng có lúc tôi không cầm được nước mắt khi cô học trò ngày nào đề nghị cho Cô mượn tiền mua nhà, khi thấy gia đình tôi sống chật vật trong một gian phòng tập thể ở tầng cao của một ngôi trường. Tôi cũng không quên, những ngày dạy ở Long Thành, có những đồng nghiệp yêu thương, học trò quý mến. Có lần tôi bị sốt rét đúng vào ngày cuối tuần, chỉ còn mỗi mình tôi ở lại trực trường, các học trò tôi đã tới chăm sóc cho tôi tận tình không kém gì người thân. Điều đó làm tôi cảm thấy ngọt ngào và xúc động. Cơn bệnh như một thử thách gắn bó tôi với ngôi trường nơi đây. Ngôi trường mà mỗi khi nghĩ đến đã thấy ấm lòng. Tất cả đều là kỷ niệm khó quên trong đời tôi. Giờ đây, tuổi đã về chiều nhưng tim tôi vẫn rộn rã tình yêu nồng ấm niềm vui, đậm đà nghĩa thầy trò. Và nhất là từng kỷ niệm nhỏ với học trò, mái trường mãi mãi là sức sống mạnh mẽ trong tâm hồn tôi. Việt Trâm

TÌNH THẦY TRÒ. Hôm nay con được gặp Thầy, Gia đình Sư Phạm tràn đầy tình thương Tóc trò đã ngả màu sương Tóc Thầy bạc trắng vẫn luôn tình nồng Nhìn nhau cởi mở tấm lòng Đôi tay gầy guộc già trong tay già Trái tim thổn thức chan hòa Mắt Thầy ngấn lệ mắt tró rưng rưng Đầu Xuân năm mới chúc mừng Mong Thầy tuổi thọ an khương tràn đầy. PHAN HUYỀN LINH KHƯƠNG. LỚP NHỊ 8 KHÓA 8 SPSG.

TẾU. Kết thúc bài giảng : “Tiếng Việt ta giàu đẹp” trong đó có giới thiệu các biện pháp tu từ như : so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, ẩn dụ, nói giảm, nói quá, nói ngược…, Thầy Dzoãn Quốc Sỹ yêu cầu các giáo sinh Nhị 4: “ Hãy viết một đoạn văn có sử dụng nghệ thuật tu từ.” Thầy nhận được nhiều bài làm. Trong đó, có bài tựa đề : “Tỷ lệ nghịch với thời gian”

- khi người phụ nữ ở tuổi trăng tròn lẻ, họ là quả bóng tròn. Có đến 22 chàng cầu thủ ra sức tranh giành…họ đoan trang lẫn kênh kiệu hoặc khiêm tốn chẳng nhìn ai.

- ở tuổi 30, họ như quả bóng chuyền…12 chàng tranh chấp qua lại. họ phân vân, cân nhắc : “không biết ai hơn?”

- sang tuổi 40, họ giống như quả bóng quần vợt…2 người, gồm chàng rể và Bố vợ, cứ đùn qua, đẩy lại.

- qua tuổi 50,họ tựa như quả bóng Golf…chỉ còn 1 người. chồng họ, cố gắng đẩy họ ra xa, càng xa càng tốt…nhưng vẫn phải đi theo họ…cho đến hơi thở cuối cùng.

- TẾU NHỊ 4. (phóng tác)

NHỮNG NGƯỜI THẦY ĐÁNG NHỚ CỦA TÔI.

Người Thầy đầu tiên của tôi là Mẹ tôi. Ba năm đầu đời học sinh, tôi học ở nhà với Mẹ, trong lúc Ba tôi bận dậy công rồi dậy tư ở trường. Thỉnh thoảng Ba tôi cũng đưa tôi đến dự lớp do Ba tôi phụ trách. Năm 1960, Trường tiểu học Bình An (Quận 8) xây xong. Ngôi trường mới khang trang rất đẹp. tôi vào học lớp 4 của Thầy Quyền. Thầy Triều là Hiệu trưởng. suốt một tuần làm việc, sáng chủ nhật, thầy hiệu trưởng lại chở vợ đến dậy cho con bọn con gái lớp 4 và 5 thêu thùa may vá, dù nhà Thầy rất xa trường. lúc ấy tâm hồn non nớt của tôi đã cảm nhận được sự hy sinh to lớn của các Thầy cô nên tôi rất yêu thích môn nữ công. Thầy Hiệu trưởng thứ nhì của Trường Bình an là Thầy Phan thúc Ngô cũng chính là giáo sư dạy chúng ta môn giáo dục cộng đồng ở trường Sư Phạm. 1961 -1962, buổi tối và mùa hè tôi được dự lớp chuyên Toán do Thầy Luân, Thầy Thụ là bạn đồng nghiệp của Ba tôi giảng dạy. 1962 tôi thi đậu vào trường Nữ trung học Trưng Vương. Từ trên lầu cao nhìn sang bên kia là vườn bách thảo ( sở thú ), những bông sen, bông súng nở hoa trong tâm hồn mơ mộng của tôi. Đa số các giáo sư của trường là nữ. Ba tôi là giáo viên nên hay được các tác giả và nhà xuất bản tặng sách. Nhờ vậy tôi có nhiều sách để đọc. Tôi thường đọc cả những quyển “ Nguyệt san Giáo dục”. nội dung của Nguyệt san là những bài luân lý chức nghiệp, lý luận giáo dục, sư phạm lý thuyết, sư phạm thực hành, các bài soạn giảng mẫu…để bồi dưỡng khả năng sư phạm cho các giáo viên. Do đó, tôi không bị bỡ ngỡ khi vào trường Sư Phạm Sài

Gòn (1969). Cô Vân dạy Sư Phạm lý thuyết, Giáo sư hướng dẫn lơp Nhị 4, Thầy Đặng Phúc Xuân dạy Sư Phạm Thực hành, rất thương tôi. Những bài soạn, giảng thực tập đầu tiên của tôi ở trường Sư Phạm thực hành đều làm Thầy hài lòng. Thầy Xuân rất thương quý tôi, nhiều lần Thầy gọi tôi là “con gái”. Tiếng gọi thân thương trìu mến ấy đến nay vẫn vang vọng trong tâm hồn tôi. Phần tôi ngoài học Thầy về chuyên môn Sư Phạm, tôi còn học ở Thầy tinh thần phấn đấu không ngừng để thăng tiến. vẻ cần mẫn, nghiêm túc đến khắc khổ của Thầy đã in đậm trong lòng tôi, ảnh hưởng nhiều đến cách sống và làm việc của tôi cho đến tận bây giờ. Ngày dự Lễ Cầu siêu cho Thầy ở Chùa, bên ngoài tôi không khóc, nhưng trong lòng cứ rưng rưng thầm gọi : “Thầy ơi! Thầy ơi!”.

TRẦN VĂN HÙNG LỚP N.11 (CHU NGẠN THƯ) Khi ngậm hoa độc dược bờm đã dựng xác xơ vó mỏi khua rời rạc thảm thương tuổi măng tơ hý buồn theo tiếng nhạc luống kiếp như ngựa già khi ngậm hoa độc dược máu ngược dòng xót xa mắt mờ theo nhịp bước luống kiếp như ngựa già khi ngậm hoa độc dược đứng giữa đồng loại ta nỗi buồn không nói được khi chung quanh bày ra đầy đá chông chĩa ngược

dẫu đá chông chĩa ngược đâm suốt vào hồn ta chẳng thể nào tước đoạt niềm kiêu hãnh đời ta hãnh diện mang đời mình mặc đường cao dốc đá đẩy đời về kiếp sau ta cũng cam rướm máu trên từng dấu chân ta mặc nỗi đau đớn riêng khi chọn hơi thở khác chờ một giờ đổi khác yên cương buồn tháo ra mắt gỡ che sự thật đời chờ ở phía xa có rừng cao núi lạ đời hồi sinh phía xa sau phút nào tơi tả ta sống đời sống ta riêng vốn đời còn lại ( 1974 ) Cao Bá Quát rét căm bàng dân điên đảo ngất một ngọn cờ ngâm một câu thơ cuồng phong bạt hồn gian trá chẳng dụng thủ pháp tồn sinh kẻ tiên tri thi sĩ kẻ đối diện chính mình thấy ra lòng của hoa tâm của đá thấy mơ ước của đám đông và nỗi cô đơn phù thế thi sĩ những điều không tưởng sự thật kẻ kiến giải thi sĩ.

Chu Mạnh Trinh tài cũng vượt mặc khách tao nhân chiếu riêng ngang dọc hoa một khóm tiếc chi chút mùi hương chát vị trà đắc lão . Hàn Mặc Tử ghi đời ai bẻ ngày mưa đuối tàu rẽ hoàng hôn khói trĩu lòng Mộng đâu người cuối đường ga xép trắng hạ vườn trăng nuối đông mưa đọng giọt Cầm Mũi Né ngày xa hay sẽ đến cát đồi chao gió chân vô định cảm nỗi tài hoa trượt phiến tình đâu gợn sóng đùa gót cố nhân ? cuối năm ghé về chốn cũ khi trở lại hàng hoa quỳ đã héo túi manteau không ấm nỗi vai gầy bay theo gió phu la vàng vẫy gọi ngọn thông xanh mùa rét trở về khi trở lại qua một con lộ nhỏ đám sỏi buồn thức giấc dưới chân nhắc nhớ những đêm xưa

nụ hôn nồng nàn trao nhau dưới con dốc tối tình tôi có ngày nắng lụa có đêm sương trầm hạnh phúc thay tháng ngày tôi chưa lưu biệt đường gươm nào xẻ ngọt chém tưa đôi mảnh đời ? khi trở lại mắt vẫn ráo nhưng hồn đà mềm sũng sương đã chùng tóc khép vạt cỏ đêm và chỉ có những dấu chân tôi bơ vơ trên thềm đá cũ tàn tro nào đã ngấm thắp lên có đỏ loè ? Tân chinh phụ người đi , kẻ cuống chân , trông màn buông, cửa khép , ngồi mong dáng , rời bụi mòn mỏi đợi ,bụi rơi nửa vuông chiếu mốc hơi người , cuộn không buồn soi từng mảng tường long khép chân , dạng thú hiện trong bóng người già đời , binh lửa chưa lơi khuya , mơ xe đổ, ngực phơi , bấc lùa . ( 1974 ) ***** Ở Việt Nam nước tôi có lâu đài rộng thênh thang khổ ải chứa đủ đau đớn người gồm thâu trong vạn đại ( 1972 ) Chu Ngạn Thư

BÀI PHÁT BIỂU CUỐI CÙNG

Ngày ấy, tôi ra trường chưa đầy 20 tuổi, được bổ nhiệm công tác ở một trường Xã. Tuy nghèo nhưng họ rất tôn trọng lễ nghĩa, quí mến người thầy. Những ngày lễ cúng đình, làng, xã họ không bao giờ quên mời các thầy cô giáo, và tôi dù là cô giáo còn rất trẻ vẫn được mời lên ngồi tham dự cùng bàn với các vị chức sắc, bô lão của Xã, trước mặt không bao giờ thiếu chung rượu cúng. Đó là những năm 1971, 1972 …. ngày ấy đã xa rồi. Và hôm nay, trong các cuộc trò chuyện của các ông bố, bà mẹ chỉ nghe hỏi: “Cháu anh làm ở công ty nào ? Đã lên chức trưởng phòng chưa ? …..”. Không hề nghe : “ Con anh dạy ở đâu , trường nào ?” …. , …..

Rất chua xót, mới rồi lại có cả tin trường Bùi Thị Xuân cho học sinh được phép bỏ phiếu tín nhiệm thầy cô giáo. Những lá phiếu của các em, dù là Cấp 3 vẫn còn nông nổi, non nớt đã khiến một số thầy cô tâm huyết với nghề, tận tình với học sinh phải ngậm ngùi rời bục giảng. Chưa bao giờ viết báo, đêm đó tôi đã thức trắng để viết bài tham gia mục “ Ý kiến bạn đọc” cho kịp số báo sớm nhất. Thật ấm lòng, khi có rất nhiều bạn đọc cùng quan điểm với tôi. Và rồi cũng rất xót xa khi một số đồng nghiệp của chúng ta đã phải vừa dạy vừa làm thêm một nghề tay trái, đôi khi những nghề phụ này không phù hợp với bục giảng. Thầy Cô càng yêu nghề, càng hết lòng vì thế hệ tương lai, gia cảnh càng thanh bần. Đành thế thôi, vì rằng chúng ta đang sống trong một xã hội còn nhiều bất công và bất hợp lý, nhưng tôi tin rằng tất cả rồi sẽ thay đổi và tốt đẹp ! Các bạn thân mến ! Khi Tốt nghiệp, chúng ta không như các bạn ngành Y có lời thề Hypocrates mà chỉ có hàng chữ: “ LƯƠNG SƯ HƯNG QUỐC” treo thật trang trọng giữa hội trường. Thế nhưng, khi rời bỏ nghề giáo giữa chừng, tôi có cảm tưởng rất rõ, mình là một kẻ hèn nhát, một tên đào ngũ, một người đã mất sức đề kháng với áp lực của cuộc sống, vì rằng tôi vẫn còn rất yêu nghề dù đó là nghề mà Bố đã chọn cho, khi tôi vừa đậu xong Tú tài .

Tự trong thâm tâm và mãi mãi, với tôi không một tập thể nào ấm áp và chan hòa tình thân như tập thể Giáo viên. Thế nhưng, dù rất nhớ bạn bè, nhiều đêm thao thức bởi những ánh mắt thơ ngây, những bàn tay trắng hồng bé xinh, những điểm 10 đỏ chói đầy trang giấy trước mặt, tôi vẫn không trở lại nghề giáo.

Hôm nay, khi nêu lên vấn đề này, tôi biết sẽ làm cho tâm hồn các bạn chùng xuống. Chỉ mong ước sao, dẫu không giúp được gì nhưng vẫn làm các bạn ấm lòng hơn..……… Có thể nói, đó là bài phát biểu cuối cùng và cũng là buổi gặp mặt cuối cùng trong Ngày Nhà Giáo tại trường cũ mà hàng năm tôi vẫn nhận được thiệp mời. Tận bây giờ, hơn 20 năm trôi qua tôi vẫn không quên được những ánh mắt mở to, sự im lặng đến tuyệt đối dưới hội trường và trên bục tôi vẫn cứ thao thao phát biểu. Tôi đã không để ý là ngay hàng ghế trước mặt tôi là Đại biểu của Quận, Bí thư của Phường, một Đại biểu Phụ huynh là cựu Giáo viên của Trường Trung học Sư phạm. Nhưng điều làm tôi bức xúc mãi khi một bạn giáo viên trẻ đến nắm tay và nói: “ Bài phát biểu của chị Vân hay quá , em nghe mà muốn khóc.” .Câu này đã ám ảnh, theo tôi suốt một thời gian dài. Tuy không trở lại trường cũ, chưa gặp lại các bạn Giáo viên trẻ ngày đó nhưng được biết các bạn vẫn bám trường, bám lớp và cuộc sống của Giáo viên ngày nay đã được cải thiện tốt đẹp đúng như lòng tôi mong ước. Tôi vui lắm! Bây giờ, tôi rất thanh thản và trong giấc mơ vẫn không thiếu những buổi đứng lớp thật vui nhộn với một bầy học trò lí lắc chạy quanh lớp mà cô giáo không thể nào giữ trật tự được. Những buổi lớp được dự giờ mà cô giáo giảng bài quên đầu, quên cuối và đứng chào cờ luôn rồi cười vui vẻ với người dự giờ,……. Mãi mãi, thời gian làm cô giáo với tôi vẫn là thời gian tuyệt vời nhất, êm đềm nhất trong cuộc sống 59 năm và không một tập thể nào ấm áp, trẻ trung, chân tình sánh bằng tập thể Gia đình Sư Phạm./. Hè tháng 5/ 2010. P4.V Lớp N.3.

NGÀY GIÃ TỪ BỤC GIẢNG.

Tôi xin được nghiêng mình đón nhận, Tấm chân tình các bạn dành cho Bao nhiêu năm làm kiếp đưa đò Đây mới thật gia tài có được. Vốn đã thân quen ngày hai lượt Đi, về cùng các bạn ngược xuôi Nay ngẩn ngơ, bước lẻ một mình tôi Sao nén được ngậm ngùi luyến tiếc. Thiếu các bạn, tôi như mất bầu trời xanh biếc Vắng tôi rồi, các bạn nhớ hay quên ? Tôi muốn trở về những buồn giận không tên Và nghìn lẻ chuyện muôn đời nhớ mãi Chỉ muốn để lại đây những nụ cười Chỉ muốn để lại đây những tin yêu Và tâm nhà giáo luôn ngời sáng Mong bạn tròn vui với nghiệp Thầy. NHÀN – CHIẾN. (Củ Chi) Lớp N.1

VIẾT CHO KỶ YẾU KHÓA 8 SƯ PHẠM SÀI GÒN.

Tôi là người có thân hình lùn thấp, bắp chân to, khỏe. Có lẽ thời tiểu học tôi luôn đi bộ đến trường. Trường cách xa nhà khoảng 9 km đường ruộng và đường đá đỏ. Thuở ấy, đường đá đỏ nơi đây chỉ có xe ngựa, chưa có xe lam nhưng tôi chọn cách đi bộ vì đi xe ngựa học sinh cũng phải trả tiền. Buổi sáng thức dậy đi học khi trời chưa sáng, trên trời vẫn còn trăng, sao. Mặc trời mưa lạnh, nắng nóng, gió sương tôi vẫn khỏe mạnh như măng non khi đã nhú lên rồi thì sẽ lớn lên thôi ít khi ốm đau bệnh hoạn. Lớn lên thời trung học, tôi vẫn là người có thân hình lùn thấp, bắp chân to, khỏe. Cũng có lẽ thời học sinh 15-18 tuổi tôi làm nghề vác mướn ở Bến Bình Đông, có khi vác cả ngày lẫn đêm, ban đêm được tăng tiền. Vác mướn, cái nghề buộc tôi phải làm thêm trong thời học sinh thật là nặng nhọc, vất vả. Tôi mồ côi Mẹ khi vừa 5 tuổi, còn 2 em nhỏ, Cha không nghề nghiệp ổn định, nhà bị cháy 2 lần : lần thứ nhất vào năm 1965 ở Cần Đước, và lần thứ hai vào năm 1968 ở Bình Tiên Quận 6, cả năm trời tôi phải ở trại tạm cư. Thuở nhỏ ít khi tôi có tiền. Năm 1969 tôi thi vào trường Sư Phạm Sài Gòn. Sau khi đậu vòng 1, vào vòng 2 thi vấn đáp, tôi gặp Thầy Nguyễn Duy Linh. Sau khi nhìn tướng cách của tôi Thầy chỉ hỏi một câu

về người Anh hùng Nguyễn Trung Trực, trả lời được câu đó tôi chính thức có tên trong danh sách trúng tuyển vào trường Sư Phạm Sài Gòn niên khóa 1969 – 1971 với thứ hạng trên 100. Từ đó tôi là Giáo sinh Sư Phạm Sài Gòn, ngày 2 buổi đến trường, nơi đây từng ngày tôi được lớn lên, lớn lên trong tư tưởng, trong nhận thức, trong cuộc đời. Học sư phạm ngày 2 buổi nên tôi không vác mướn nữa vì thế nên khi học sư phạm tôi vẫn ít khi có tiền, đang sức lớn nên tôi luôn thèm ăn và ăn khỏe. Lớp tôi có 24 nữ và 19 nam, bao niêu năm xa rồi tôi vẫn nhớ, nhớ như in từng khuôn mặt bạn bè. Tôi nghĩ, lớp tôi ai cũng vậy vẫn nhớ nhau hoài vì ngày xưa chúng tôi vừa mới lớn không ai nghĩ nhiều đến chuyện ngày sau. Trong khóa học, trường có tổ chức đi cắm trại tham quan nghỉ mát ở Vũng Tàu tại khu nhà nghỉ Giáo chức, tôi cũng kịp nhảy theo khi xe vừa lăn bánh ( vì lúc ấy tôi không có đóng tiền mà rất thích đi ). Tuổi 20 lần đầu tiên tôi thấy biển. Cũng nhờ các bạn nữ chăm sóc chu đáo ( không có sự phân biệt ), tôi rất vui, được ăn ngon, no, thật là một kỳ nghỉ biển ấn tượng khó quên. Bây giờ quá tuổi tri thiên mệnh rồi mà tôi vẫn ít khi có nhiều tiền. Đã làm nghề dạy học, tôi nhớ lời Thầy dạy năm xưa: “nghề dạy học không phải là một nghề kiếm sống” và tôi cũng không kiếm sống bằng nghề dạy học. Vả lại trong lớp học, phía trên trước mặt chúng tôi có hàng chữ : “ Đất nước tương lai trong tay giới trẻ hôm nay, giới trẻ hôm nay trong tay nhà giáo”. Yêu ngành, yêu nghề, tôi không lo nhiều đến chuyện kinh tế, rảnh rỗi tôi thường nhớ lại chuyện ngày xưa, ngày còn đi học rồi nhớ trường, nhớ lớp, nhớ Thầy Cô, nhớ bạn bè… Khi viết những dòng chữ này tôi không thể không nhớ đến những Thầy Cô Trường Sư Phạm Sài Gòn đã có công dạy dỗ tôi, nhất là Thầy Nguyễn Duy Linh dìu dắt tôi bước vào con đường Sư Phạm, Thầy Đoàn Viết Bửu là Thầy tôi mà cũng là Thầy của con tôi ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Bây giờ ở tuổi 60 năm cuộc đời, vẫn mãi trong tôi.: “Có những người Thầy, tôi có thể gặp và cũng có thể sẽ không bao giờ gặp lại, nhưng mãi là người tôi ấp ủ trong tim.” ĐỖ VĂN BÊ. Lớp Nhị 4

Phạm Đình Trân

KIẾP PHÙ DU

Bởi nghiệp trần gian nặng nợ tình Trả vay vay trả chốn ba sinh Túi thơ ấp ủ suy vinh nhục Bầu rượu nhâm nhỉ ngẫm nhục vinh Xuống biển ngậm ngùi cho thế tục Trèo non ngao ngán cuộc nhân sinh Chiều tàn đứng đợi chờ đêm đến Vay trả cho xong kiếp bóng hình

CHE MẮT

Dăm chục bài thơ để nhớ đời Đời không thương tớ, tớ thương người Mặc ai rao đón, ai cay đắng Kệ đứa gọi mời, đứa ngọt môi Nép xác trong nhà cho ấm áp Chui thân vỏ ốc để yên vui Trước sau sau trước không cần biết Che mắt nhìn đời, được thảnh thơi

THĂM TRƯỜNG CŨ

Dừng chân trường cũ thấy xa xôi Cảnh cũ người xưa đã mất rồi Mái ngói thay tầng yên trí trẻ Sân trường đổi cảnh thỏa lòng người Trò mới xôn xao vui áo mới Thày tân nao nức trẻ tân thời Trường đã thay tên thay đổi khác Bước chân đi lặng lẽ bồi hồi.

BÌNH LONG

Niềm thương nỗi nhớ… Ta đã gọi tên em Bằng muôn ngàn nỗi nhớ Bằng niềm thương vô tận kéo dài Đắng cay trong mắt Ngọt ngào bờ môi Bình Long ơi! Thuở vào đời Vòng tay rộng mở ôm trời đất thênh thang Tuổi thanh xuân ta mỏi gối đường mây Và chôn chặt đời ta ở đó Tay giang rộng Tâm hồn mở cửa Để niềm vui trong giấy trắng học trờ Tình yêu ngày ấy tôn thờ Giờ tan tác vỡ mịt mờ chân mây Chiều tàn nắng ngủ trên cây Mà ai gõ nhịp đong đầy thời gian.

CÁT BỤI VỚI NGƯỜI ( Nói Với Nguyễn Đức Thuần-Nhị 4 ) Hồn người nay ở nơi đâu? Sao không thức dậy nối câu chuyện đời Hay còn ở chốn chơi vơi? Chân mây đầu nắng mù khơi chốn nào Tuổi đời thân lá xanh xao Sớm bay theo gió bay vào thiên thu Gấp chi giũ áo ngục tù Thoát thân vội vã giã từ trần ai Bạn thân mấy đứa còn đây Nhắc bao kỷ niệm tháng ngày yên vui Ngày đi đường nở hoa cười Ngày về nguồn cội không người tiễn đưa

BẠN TÔI. Ngày xưa mài gót sân trường Giờ đây mỗi đứa mỗi đường mỗi nơi Đứa đi vùng núi xa xôi Đứa về biển rộng đứa xuôi đồng bằng Vài thằng yên đất vĩnh hằng Xa quê mấy đứa dăm thằng còn đây! Chim non vỗ cánh rã bầy Bôn ba vào cuộc sinh nhai sống còn Biển dâu nhưng giữ lòng son Gian nan thời cuộc chẳng còn ước mơ Thành công thất bại vẫn chờ Bao nhiêu bến nước bến bờ nào yên Thuở xưa nặng nợ sách đèn Thời nay vai gánh nợ duyên cuộc đời Bạn ơi son sắt một lời Dù sông có cạn, tình người biển dâng Ta đã về bên em! Miền đất đỏ hằn lên màu kỷ niệm Ở trong ta Cuộc đời được chia làm hai ngả Nửa bên thương nhớ Nửa bên sống còn Ta đi nữa và ta đi mãi Mặt trời nào đứng lại bóng bình minh Để hoàng hôn không còn nữa Vội chết non khi thế kỉ chưa tròn Để ta chong mắt mỏi mòn Để ta hấp hối lòng son nhạt nhòa Bình Long ơi! Hãy cuộn mình đứng dậy, Quên niềm đâu nỗi mất mát ngày qua Tô xanh thêm trên màu đất đỏ Cho cao su sữa mẹ ngút ngàn Nuôi con mau lớn Dẫn con vào đời Phố vui rộn rã chân người Mùa xuân áo mới ươm chồi hoa tươi Thắp lên ngọn mắt sáng ngời Niềm vui giang cánh vút trời mênh mang.

Thứ ơi ! Côn ơi ! Viết những dòng này cho hai đứa , xin phép dùng cách xưng hô ngày xưa cho thân mật nhé ! và cả các bạn nhị 2 ngày ấy nữa . Chúng mình đã có 2 năm ngồi bên nhau theo nghĩa đen , tao , Thứ rồi đến Côn , trong cùng là Điêu văn Thiên . Vào đầu năm nhất niên , tình cờ gặp nhau nhưng thực ra đã đôi lần biết nhau qua sinh hoạt đoàn thể xã hội trước đó . Ba thằng chọn bàn cuối làm chỗ trụ . Học không đến nỗi nào phải không . Riêng Thứ còn được bầu làm trưởng ban văn nghệ , năm nhị niên Thầy Bính dạy Anh văn bắt tập cho lớp bài Jingle Bells mà y phát âm tiếng Anh như tiếng . . .Em . Còn Côn , trước khi vào học đã có vợ , vào lớp học nhiều hôm ngáp là chính . Lúc ấy tao nhỏ tuồi nhất nhưng “láu “ nhất cũng chưa hiểu gì về cuộc sống vợ chồng nên chê bai mày suốt . Nào là tối không chịu ngủ chỉ mê đánh cờ , mày là tay mê cờ tướng số một . Sau này mới biết , mày còn mê đánh cờ người với vợ nên vài tháng sau khi nhập học đã vất vã vì con khóc đêm , vợ thì gếch con Xe chờ con Mã vào chuồng là đớp .Kể lại chuyện cũ để bạn bè thấy tụi mình thân nhau biết bao. Ra trường , ba đứa cùng chọn về Định Quán, trọ chung nhau một nhà , bà chủ là người quen của Côn . Cả ba cùng xin dạy buổi sáng để chờ đến thứ bảy thay nhau về Saigon cho sớm , sáng thứ hai vọt lên đi chuyến xe 5 giờ . Hẳn tụi mày còn nhớ những ngày đầu tiên mới về , Ông Chánh Năng ở cạnh bên cho dân vệ mời đến trụ sở Xã . Sợ hết vía , ai ngờ các cụ bắt tụi mình ra mắt bằng một chầu nhậu với rượu đế , mỗi tua phải uống đủ một ly cao hơn ly cà phê bây giờ,. Tao yếu cơ nhất tìm cách qua tua , bị phát hiện và bị phê phán :

Thà đui mà uống thiệt tình Còn hơn có mắt rình rình qua tua

Sống với nhau hơn một niên học thì Côn về Cẩm Tân , tao về Gia Kiệm , còn lại một mình Thứ . Khóa 8 mình khi ấy còn có Nhật cũng về Định Quán nhưng vì học khác lớp nên không biết . Sau nghe kể lại , vào một đêm vừa gió lại vừa mưa , chàng Thứ bị lên cơn sốt rét , chẳng biết nhờ ai , bà hàng xóm chạy sang báo tin các cô giáo cũng ở gần đó sang giúp . Nhật chạy qua xức dầu , đánh cảm .. chàng vẫn không hết lạnh bèn phải ủ ấm cho chàng . Hai đứa cộng chỉ số từ đó . Bạn bè

ai nghe cũng mừng vì thằng bạn đào hoa , tình tứ nay đã có bến đậu .Hai năm sau , Thứ cũng xin chuyển về Gia Kiệm và chính thức lấy Nhật . Sau năm 1975 , tao về Saigon , Thứ chuyển về Bàu Cá , còn Côn chuyển sang Trung học Long Khánh làm Giám thị . Những ngày đầu giải phóng , không biết nghe thế nào về thông báo , Côn đi đăng ký học tập với chức danh Giám thị , mà thực ra chỉ có giám thị trại cải huấn , trại tạm giam là phải đi học tập, nhưng đã trót có danh sách , Côn cũng phải xa nhà cả năm trời . Ra trại , Côn như người thất thần , một lần đánh cờ ( lại đánh cờ ) bị chiếu bí , Côn thất chí chuyển thành bị tâm thần . Ít năm sau thì mất vì yếu sức . Thứ về Bàu cá , đã có lúc được cử làm Hiệu Trưởng , sau vì bệnh sạn thận xin thôi chức về dạy lớp , năm 2005 bệnh năng rồi qua đời . Nhị 2 mình như vậy là mất đi 2 đứa mà tao biết , Năm 2001 , khóa 8 kỷ niệm 30 năm ngày ra trường . Biền, Long rồi sau này Đắc , Môn, Hoàng Minh kéo tao vào nhóm tổ chức , tao liên lạc với anh em Nhị 2 kéo thêm được Hiếu Sinh ,Thiên , Thiên , Chúng (đi nước ngoài ), Gấm là nam, còn nữ chỉ gặp Phong , Khiên (Đã đi Mỹ ) còn lại và còn nhiều nữa không liên lạc được ai . Nhớ lắm Dương ánh Tuyết , Trần thị Khứng , Chị Tư , Tuyết (Củ Chi ), Ngọc Yến , Tâm (Trước dạy ở Tân Bình ). Riêng thằng Nguyễn Phụng Tiên , đã một lần điện thoại nhưng không thấy đến . Võ Hảo Nghĩa có gặp 1 lần sau Giải phóng bây giờ ở đâu . Đẹp nữa . . . Thứ à ! Côn à ! Nếu chúng mày sống khôn thác thiêng thì nhắc các bạn Nhị 2 mình gặp lại nhau , Thằng Biền nó chửi tao với thằng Hoàng Minh hoài là không còn chơi với ai sao ? Tao biết cách nào . Qua bài viết này , tao gióng tiếng nói : NHỊ 2 ơi ! có còn nnớ ? Đỗ công Minh. N.2

HÈ NHỚ

Tiếng ve nức nở gọi hè sang Phượng vỹ khoe thân dưới nắng vàng In đỏ sân trường màu phượng thắm Điểm vàng quanh lớp vết tường loang Đầu niên mắt sáng niềm nao nức Cuối khóa loang bao nỗi ngỡ ngàng Áo trắng quần xanh màu mực tím Thời gian nhòa nhoạt với thời gian

NHẤT 4 DẤU YÊU Tôi vào sư phạm Sài Gòn khi con gái đầu đi lẫm chẫm. Do đã có chồng con, nên tôi cứ nghĩ mình là người già nhất trong lớp và cứ gọi các bạn bè bằng em, xưng chị ngọt sớt. Ngọc Điệp ngồi kế bên, hay cự nự chuyện tôi xưng chị. Nhưng rồi sau đó chúng tôi thân nhau (cho tới bây giờ), các bạn hồi đó rất hồn nhiên đủ trò nghịch phá (riêng tôi cứ điềm nhiên ngồi yên hưởng thụ niềm vui đó). Vì tôi còn phải đi làm thêm nên chuông reo hết giờ là tôi biến, hay có giờ trống là tôi cũng biến luôn. Nên tôi không tham gia được nhiều những sinh hoạt của lớp. Qua năm sau, do phải đi làm ngày thứ bảy (bán vé cá ngựa ở trường đua Phú Thọ) nên tôi đành phải chuyển qua lớp Nhị 2 cho tiện. Rồi tôi lại có bầu đứa thứ hai. Do công việc làm thêm, tôi thường đến trường sát giờ vào lớp, không kịp gửi xe, nên hay tấp vào trước cửa lớp chờ giờ ra chơi sẽ gửi sau. Thương nhất là cô Quan giám thị ! Cô ngó lơ khi thấy bà bầu đi xe Honda SS 67 lật đật vào lớp. Những tiết học ở Sư Phạm thật là vui và đầm ấm. Khoảng cách Thầy trò thật gần gũi. Thầy Cô rất dịu dàng, nhiệt tình giảng dạy, tôn trọng giáo sinh, bao dung với những trò nghịch

phá. Ngôi trường Sư Phạm như mái nhà thứ hai của tôi. Thời gian qua nhanh. Rồi cũng tới ngày ra trường. Ngày 5 tháng 6 chúng tôi nghỉ hè thì đến ngày 9 tháng 6 thi trốt nghiệp. Nhưng ngày 7 tháng 6 tôi “bể bầu”! Tôi năn nỉ cô nữ hộ sinh cố giúp tôi “mẹ tròn con vuông” để tôi còn kịp dự thi tốt nghiệp. Ngày đó đâu có siêu âm như bây giờ để biết trai hay gái. Tôi sinh được 1 hoàng tử lúc hơn 4 giờ khuya, thì 6 - 7 giờ sáng, trên giường đẻ đầy sách giáo dục cộng đồng, tâm lý giáo dục…3 ngày sau, tôi bị căng sữa, ngực sưng thật to rất đau đớn. nhưng bà giáo sinh vẫn đội khăn mang vớ, mặc áo lạnh, đi so từng bước một, từ chiếc xích lô bước xuống thềm vào phòng thi.trước những đôi mắt ngỡ ngàng của bạn bè. Trưa hôm đó, Thụy lấy xe honda đưa tôi về nhà bảo sanh, c hiều tôi lại ngồi xích lô đi thi tiếp. nhưng rồi tôi cũng đậu hạng 68 trên 477 giáo sinh tốt nghiệp. tôi được chọn nhiệm sở tại Gia Định. Rồi bạn bè chia tay nhau, tan tác mỗi người mỗi nơi. Sau này, chúng tôi có cơ hội, mới tập họp lại ( tôi lại là người trở lại sau cùng .giờ đây, mỗi năm lớp nhất 4 chúng tôi họp mặt 3 lần trong một năm: ngày Tết Dương lịch 1/1 họp chung toàn Trường SP, ngày mùng 4 Tết Âm lịch và ngày Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5). Những gương mặt trẻ thơ ngày xưa đã là những Ông Bà Nội Ngoại cả rồi. Thắng lớp trưởng, Xuân Yến lớp phó, Cao Biền trưởng ban học tập, Bác Ái phó nháy, các bạn Thụy, Điệp, Năm. Phi, Huỳnh, Bê Vàng Thủy, Dũng, Huỳnh Mai, Băng Thinh, Hồ Nhỏ, dương Mai, Trân, và rất nhiều bạn nữa mà tôi khôn nhớ hết được…Vân Hồng luôn yêu các bạn. Mai sau nếu nhó về trường cũ Trái tim băng giá sẽ ấm lòng Một làn gió mát đời giông nực Trái ngọt đỡ lòng cơn khát khao Ơn thầy dạy dỗ trò siêu quậy Lèo lái qua sông tới bến bờ Bảng đen, phấn trắng tình đã gởi Nhớ mãi mai sau một mái trường Viết thêm: ngày 16 tháng 4 âm lịch vừa qua, chúng tôi có một chuyến đi dự đám cưới con bạn Vàng ở Gò Công Đông – Tiền Giang. Trên xe, Biền đã ngâm mấy bài thơ. Tôi nghe xong, cứ suýt soa, cảm thấy không thể nào viết được như thế! Nhưng tôi cũng cố viết ( ở cái tuổi 64 ) vì phải có người hay người dở. Bạn hay thì ta khen, nhưng bạn có chê ta viết dở đâu vì chân tình thì như nhau, Bạn nhỉ! NGUYỄN VÂN HỒNG.

Xuân vịnh “ xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu” Vương Xương Linh ( TQ ) chẳng thượng cao lâu , ra quán cóc uống rượu chờ say , chắc ngồi lâu ! quán tưởng ngồi lâu tay hào sảng ta rầu tàn rượu , bước về đâu ? đâu biết về đâu , ngày xuân nhạt ! đành ngồi quán cóc trước cao lâu có phải mềm môi nghe rượu lạt hay đôi môi ngậm lệ ai trào ? bạn bè đôi đứa nơi viễn mộng cách mặt , ta ‘ trừng ‘ cả chiêm bao những muốn nhắn nhe thằng xa xứ với ta thà mạt với quê nghèo chợt bàn tay nhón râu con mực ngẫm cuộc đời ta vướng lưỡi câu tuổi trời cho đã ngoài bốn chục dòm thấy trong gương , mặt dàu dàu ! kiếm cơm sao phải thân điên đảo chữ nghĩa nổi cơn quậy – xé – rào thường mặc vợ lo đường cơm áo thương em chưa nếm vị ngọt ngào ngày xuân con chẳng thêm tấm áo cơm nhìn chỉ thấy muối độn rau ! ngày xuân thèm một thằng bạn cũ ra quán cóc ngồi nhắm – tào – lao chẳng thấy liễu xanh và áo đỏ ngó chừng chai rượu , sợ cạn mau !

THẦN TƯỢNG . Bắt đầu viết, làm sao đặt một cái tựa thật là khó ! Có người đặt là “ Bài không tên số …” À ! Thì ra người ta đặt cho bài cái tựa là một con số rồi tới bài cuối cùng ….Thôi thì cứ viết đi đã rồi đặt tên bài vậy . Nhắc đến số lại nghĩ về số mệnh . Trái đất có 6 tỷ người thì có 6 tỷ cái số . Tỳ lệ một phần sáu tỷ sẽ bằng không . Cái số không kia có đang gì mà phải bàn ? Nhưng cái số không tồn tại hay không lại là vấn đề lớn, không có lời giải . Dù bình thường thôi nhưng mình vẫn là một cái số nhỏ bé . Một ngày nọ , bởi cái số , chẳng biết có phải đường cùng hay con đường ước mơ , hắn được gọi là “Giáo sinh “ , một cái tên gọi lạ lẫm , mang tính gò bó , bắt buộc . Sau hai năm , hắn bắt đầu mang nghiệp vào thân , bám chặt không dứt ra được cho đến thế kỷ 21 . Bây giờ kỷ niệm như đồ trang sức quý giá được cất giữ vẫn sáng lên trong ký ức . Mùa Thu , mùa có thời tiết ôn hoà, nắng nhẹ , còn mưa , là mùa khai trường , đẹp và nên thơ như “ Tôi đi học “ của Thanh Tịnh . Mùa Thu ấy và nhiều năm sau , một chàng hiệp sĩ tay cầm thanh kiếm gỗ , cưỡi ngựa sắt , khoác chiến bào trên xa lộ , lòng tràn đầy tự tin , hy vọng xây dựng tương lai tốt đẹp , hăm hở vào trận chiến cam go . Chiến đấu với một tên gian ác đang cầm giữ nàng tiên Kiến thức , Văn minh , Tự do trong chiếc cối xay gió khổng lồ . Lúc ấy ngoại ô Thành phố còn những đồng lúa xanh tươi rập rờn trong gió . Vào mùa Đông , suơng mù che kín lối đi , không thấy cánh đồng lúa vẫy chào lúc sáng tinh mơ , Thành phố đang ngái ngủ . Một trường tiểu học cộng đồng trên đồi cao , chỉ có bóng mát của một cây điều , lợp ngói có , lợp tôn có , “ gió thổi bốn mùa “. Lũ học trò vùng ngoại ô chưa bị “ đô thị hóa “ , ngoan ngoãn kính trọng Thầy Cô . Mỗi lần tan học , thấy Thầy trên đường về , chúng dạt ra hai bên đường cúi chào như thần dân đón chào Đại Đế ! Chẳng bao lâu sau , chàng Don Quixote có một ngày “ Thần tiên gẫy cánh đêm xuân bước lạc rơi xuống trần “ chàng không còn trên mây nữa . Chàng phải đổi ngựa sắt Phù Đổng lấy con lừa chậm chạp cả đời không biết hí lại hay trở chứng được các lương y dao phay tài

hoa chữa trị vẫn tung vó đường xa tuy châm chạp một chút nhưng có lợi cho sức khoẻ chàng hiêp sĩ qua đoạn đường khoảng bốn mươi cây số mỗi ngày . Thêm vào đó , chàng hiệp sĩ phải chiến đấu để thích ứng với cái mới : cơm hỗn hợp bột mì – khoai - bo bo , hút thuốc lào , giấy quyến , thuốc rê mốc, thuốc rê trộn lá khoai mì , rượu đế nhúng thuốc trừ sâu ( rượu ) cho tăng nống độ , thuốc xuyên tâm liên trị viêm họng mãn tính , ăn rau càng cua với mắm ba khía , mắm dưa chuột mặn chát , … những thứ mà cái dạ dày chưa được làm quen bao giờ . Chàng tự cứu mình trước khi Trời cứu bằng cách tập buôn lậu, không xong phải làm nghề đan sọt , tôn Phạm Ngũ Lão làm tổ sư , nhưng khác danh tướng ở chỗ không làm quốc sự , không làm tướng vì tài hèn sức yếu . Yếu đến nỗi được xếp vào bậc thang cuối cùng trong xã hội : Nông – Công - Thương - Binh – Sĩ . Lũ gian thương biết chàng suy yếu lắm nên cũng ra tay bóc lột chàng , lừa chàng nhiều cú ngoạn mục . Nhiều chàng Don Quixote đồng nghiệp chịu không xiết , hạ khí giới, ra đường chiến đấu trực diện với kẻ thù . Cũng có trường hợp giác ngộ , dứt bỏ con đường kiếm hiệp . Chuyện đến đây , chàng Don Quixote thương tích tơi tả thương tâm , mắt đã hoa , không nhìn thấy chiếc cối xay gió đâu nữa , chỉ còn mấy đứa nhãi nhép ! Chàng nhặt thanh kiếm gỗ gãy một nửa lên , vừa leo vừa tự động viên mới lên được yên ngựa. Kẻ thù biết chàng mang kiếm gỗ, không có khả năng sát thương nên chúng ngày càng hung hăng. Chúng lên án, chửi mắng, vu oan chỉ vì mang thanh kiếm gỗ không dọa được ai dù là trẻ nít. Không ai coi chàng là thần tượng, chẳng phải hiệp sĩ, chẳng trừng phạt được ai lại còn nghèo xác xơ , “Giậu đổ bìm leo”. Mùa hè nóng nực đang đến, theo thói quen, Don Quixote nắm chắc thanh kiếm gỗ chỉ còn cái chuôi , đâm qua trái qua phải vu vơ không tác dụng gì. Cuộc chiến chưa kết thúc, Don Quixote không huy chương, không thành tích, mang ít nhiều thương tích, ra khỏi cuộc chiến không tiếc nuối, chỉ lắc đầu nhè nhẹ. Chợt nhớ đến Tam Nguyên Yên Đổ muốn làm cây thông già đứng giữa trời, chột dạ, sợ lâm tặc mừng rỡ tìm được cây thông già đem cưa máy đến hạ . Mọi thứ đang thay đổi , môi trường ô nhiễm , dường như đang “ Sa mạc hoá “. VŨ OANH TÔN. Lớp N.6

Ca Dao Đắc đạo vong sư Đắc ngư vong thuyền Biết nhau từ thuở hàn vi Dù phải lận đận khi đi khi về Nhớ xưa cùng học một nghề Cùng thầy cùng bạn chớ hề quên nhau! Bồng bồng mẹ bế con sang Đò dọc quan cấm đò ngang không chèo Muốn sang thì bắt cầu kiều Muốn con hay chữ, thì yêu lấy thầy! Con ơi ghi nhớ lời này Công cha, nghĩa mẹ, công thầy chớ quên

CẬU BÉ VÀ CON BÒ. Ngày tôi bước chân vào trường Sư Phạm, tôi chưa hề có một ý niệm nào về nghề giáo, hay một đam mê nào cho tương lai. Bởi vì thi vào trường Sư Phạm với một mục đích duy nhất: để được hoãn dịch. Hai năm học tôi cảm thấy chán nản, học để thi tốt nghiệp thôi. Tôi chưa hề siêng năng hay tha thiết học tập. cũng may trong số gần bốn trăm rưởi giáo sinh tốt nghiệp tôi có thứ hạng cao hơn ba mươi lăm đồng nghiệp. Cùng nhận nhiệm sở có hơn ba mươi lăm đồng nghiệp cùng khóa. Chúng tôi trình diện tại Ty Tiểu học Bình Long. Với tôi như là một chuyến du lịch dài hạn. Bình Long là một tỉnh lỵ rất đẹp, khí hậu se lạnh như Đà lạt, tỉnh lỵ nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống chung quanh là các thung lũng xanh rì của những đồn điền cao su ngút ngàn.

Buổi sáng sương mù đến chín mười giờ. Buổi chiều bầu trời tim tím thả nhẹ trên những ngọn cây cao su đong đưa theo làn gió hiu hiu. Những con đường thật thơ mộng, hai bên lề trồng toàn những cây Anh đào Nhật bản, nở hoa trắng vào cuối mùa đông, và tên các con đường còn thơ mộng hơn nữa, nào là “đường chân trời tím”, nào là “đại lộ hoàng hôn”… Trường tôi dạy cách tỉnh lỵ hơn năm cây số, mỗi buổi sáng chúng tôi đi uống cà phê tại góc ngã tư “Tứ Hải”, mùi cà phê Lộc Ninh thơm ngát, uống vào là ghiền. Ông chủ quán cà phê có 2 cô con gái gọi chúng tôi là Thầy, bởi tỉnh lỵ quá nhỏ, nên những người như chúng tôi ai cũng biết. Tôi chợt nhớ bản nhạc “phố núi cao” của Phạm Duy phổ nhạc từ thơ của Nguyễn Tất Nhiên “ phố núi thật gần nên phố tình thân, đi dăm phút đã về chốn cũ. Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng…” Xong cà phê sáng, chúng tôi phóng xe máy xuống một thung lũng, lên một ngọn đồi. con đường ngoằn ngoèo chui dưới rừng cao su xanh ngắt, trời thật lạnh, chiếc áo ấm không đủ che chắn. Trường Xã Phú Miêng nằm trong khu đồn điền, trước trường là một khoảng sân rộng như sân đá bóng, cỏ xanh rì ướt đẫm giọt sương. Ngôi trường chỉ vỏn vẹn có 2 phòng học được xây bằng gạch lợp tôn đàng hoàng, nhưng tường thì bị bong vữa, vài nơi trơ gạch, toàn bộ màu hồng đỏ lem luốc. Bàn ghế cũ kỹ cũng bị ám một màu hồng, màu của đất bụi. Phía sau trường là một hàng mít sum xuê trái che cách dãy nhà lô từng căn nhỏ nhắn dành cho các gia đình phu cạo mủ cao su. Khung cảnh chỉ hai màu: xanh của cỏ lá và hồng của tường nhà. Ngôi trường thật yên tĩnh khi học sinh vào lớp, thỉnh thoảng một cơn gió lùa làm rung hàng lá mít. Hình ảnh mà tôi còn nhớ rõ đến ngày hôm nay là cậu học trò lớp kế bên. Mỗi sáng cậu ta cưỡi một con bò, vai mang túi đệm, đến khoảng sân trường cậu bé cẩn thận cột bò vào cái cọc tre mà cậu vừa đóng, thả dây dài cho bò tự do ăn cỏ. Xong xuôi cậu vào lớp đúng lúc kẻng xếp hàng vào lớp. Tôi quan sát nhiều ngày thấy cậu bé ngày nào cũng đúng giờ. Đôi lần tôi bước sang lớp bên nhìn qua cửa sổ, trông cậu ngồi nghiêm chỉnh, nghe thầy giảng bài dáng dấp nhỏ nhắn, nước da trắng tái, xanh xanh, áo quần lem nhem màu đất đỏ. Giờ ra chơi tôi thấy cậu ta mang một cái thùng ra múc nước ở bể nước bên cạnh trường gần nhà vệ sinh cho bò uống. Xong xuôi cậu ta mới nô đùa cùng các bạn.

Gần một tuần lễ lúc nào trước khi ngủ tôi đều bị hình ảnh cậu bé như đứng trước tôi nói điều gì đó. Tôi chợt nhận ra rằng tôi chưa xứng đáng với tiếng “Thầy”. Lương tâm tôi bị giằng xéo. Hai năm học Sư Phạm tôi đã bỏ phí một quãng thời gian vô ích. Tấm gương hiếu học của cậu học trò nghèo và con bò đã làm tôi hổ thẹn. Cũng từ đó trong tôi một lòng yêu nghề lớn dần, tôi đam mê công việc lúc nào không biết. Tôi đã trở thành một Thầy giáo nhiệt tình, gương mẫu. Sau mùa hè đỏ lửa 1972, tôi không bao giờ gặp cậu bé đó nữa. Chiến tranh đã chia cắt chúng tôi, nhưng không thể nào làm tôi quên hình ảnh cậu học trò cưỡi con bò được. Mãi gần 40 năm sau, có rất nhiều gương học trò chăm học, đủ mọi hoàn cảnh đã đi qua đời tôi nhưng chưa có điều gì có thể làm phai đi hình ảnh thật đẹp rạng ngời của buổi sáng nhiều sương mù, cậu bé hiện ra như một thiên thần ngồi ung dung trên lưng con bò tiến từ từ vào tâm hồn một người Thầy giáo giác ngộ muộn màng. Tôi thấy mình đang sống cuộc sống thực sự bình an, nhẹ nhàng và ý nghĩa. Saigon-tháng 3 năm 2010. TRẦN NGỌC SAN LỚP N. 11 KHÓA 8.

Melbourne ngày 12/3/2010. Các bạn Khóa 8 SPSG thân mến, Tôi rất vui vì anh chị em mình vẫn còn nhớ đến nhau mặc dầu đã qua nhiều năm không gặp. Nay nghe tin anh chị em mình bên nhà tổ chức kỷ niệm “40 năm tốt nghiệp”, thì tôi có bổn phận phải tiếp tay vào, đừng phải nói lời cám ơn. Thấy anh chị em mình tổ chức trong lòng tôi cũng nôn nao, nóng ruột muốn về để có cơ hội gặp nhau. Như các bạn biết ở bên này xin nghỉ phép cũng nhiêu khê lắm. đáng lý đến tuổi trên 60 rồi thì cũng là lúc nghỉ hưu nhưng hoàn cảnh chưa cho phép, thôi thì ràng “CÀY” vậy. Biết ngày giờ chính xác anh chị em bên quê nhà tổ chứchọp mặt kỷ niệm “40 năm tốt nghiệp” là ngày 8/8/2010. Ngày mai đi làm tôi thử xin phép nếu ông Tổng Giám Đốc đồng ý

thì tôi cũng cố gắng gom góp thêm ít tiền mua vé máy bay về chung vui với anh chị em, có cơ hội gặp lại nhau tôi nghĩ chắc thật là vui…Cho tôi biết anh chị em Khóa 8 của tụi mình còn đuợc bao nhiêu vậy ? hy vọng buổi họp mặt sẽ đến đuợc bao nhiêu? Dự định tổ chức tại đâu? Cầu chúc anh chị em ban tổ chức buổi họp mặt luôn mạnh khỏe và nhiều an lành. Cầu chúc buổi họp mặt THÀNH CÔNG. Thân ái, Nguyễn Mạnh Hà. N. 6 Tổng thư ký NK. 1970 – 1971.

Tái bút: tôi gửi 4.000.000$ ủng hộ cuốn kỷ yế. Thân gởi các bạn Khóa 8. Thật tình cho mình xin lỗi các bạn nhé ! Mình ở Dĩ An chỉ cách Thành phố 25 Km mà trong thời gian qua không đến dự họp mặt được, thật đáng buồn. Chúng mình ra trường đã gần 40 năm, khoảng thời gian khá dài nhưng chắc chắn tình cảm lúc nào cũng tràn đầy không bao giờ vơi. Bây giờ bước vào lứa tuổi 60, nghĩ cũng nhanh thật, mỗi người đã có thể làm “Ông, Bà” với những đứa cháu nội, cháu ngoại. ở Dĩ An, mình là nhóm trưởng của nhóm bạn học từ thời tiểu học ( đã hơn 50 năm ) và tổ chức họp mặt vào đầu năm mới Dương lịch, duy trì được 37 năm ( từ 1973 đến nay ) mỗi lần họp được khoảng 40 người, bên cạnh đó mình duy trì được mối quan hệ gắn bó ( phúng điếu Tứ thân Phụ Mẫu, khi có hữu sự, đám cưới, đám giỗ đều mời gọi nhau.) nên tình cảm ngày càng gắn bó hơn. Mong rằng trong lần họp mặt tới đây của cựu giáo sinh Khóa 8 (1969 – 1971), tôi nghĩ sẽ đạt thắng lợi. mà nhó đừng tổ chức ngày 1/1 nhé. Vài hàng thăm các bạn. cho mình gửi lời thăm hỏi gia đình, quý quyến các bạn luôn dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, con cháu thành đạt. Thân ái, Văn Văn Phê. N.11 Trường THPT Dĩ An, Bình Dương.

TƯỞNG NHỚ. Chúng tôi xin thắp lên 3 nén tâm hương:

ĐỂ TƯỞNG NHỚ QUÝ THẦY CÔ-CÁC ANH CHỊ ĐỒNG MÔN ĐÃ RA ĐI VỀ CÕI VĨNH HẰNG.

*Nén tâm hương thứ nhất xin Chân thành Kính Dâng: Quý Thầy Cô cựu giáo sư Trường Sư Phạm SaiGon.

*Nén tâm hương thứ hai xin Kính Dâng: Quý Anh Chị đồng nghiệp cựu giáo sinh Trường Sư Phạm SaiGon.

*Nén tâm hương thứ ba xin dành cho những đồng nghiệp cựu giáo sinh Khóa 8 Sư Phạm SaiGon.

DANH SÁCH QUÝ THẦY CÔ DẠY KHÓA 8 ĐÃ QUÁ VÃNG.

STT TÊN THẦY CÔ NGÀY MẤT

NƠI MẤT

01/- 02/- 03/- 04/- 05/- 06/- 07/- 08/- 09/- 10/- 11/- 12/- 13/- 14/-

THẦY TÔN THẤT TRUNG NGHĨA. THẦY VŨ VĂN TỊCH. THẦY PHẠM VĂN PHÚC. THẦY HOÀNG TRẦN HOẠCH. THẦY NGUYỄN NGỌC QUANG. THẦY TRẦN HỮU VĂNG. THẦY TRẦN HỮU ĐỨC. CÔ LƯU THỊ KIM VÂN. THẦY TRẦN QUANG MINH. THẦY HUỲNH HỮU THANH. THẦY PHẠM HỮU NIỆM. THẦY ĐẶNG PHÚC XUÂN. THẦY LÊ TRÙNG KHÁNH. THẦY BÙI QUANG KIM.

23/09/1991 23/12/1991 23/05/1992 12/08/1993 19/10/1993 06/07/1996 23/09/1996 04/02/2001 15/02/2004 11/06/2005 04/11/2005 12/12/2006 07/10/2007

?

Tại Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ.

Tại Việt Nam. Tại Hoa Kỳ. Tại Canada.

Tại Việt Nam. Tại Bỉ.

Tại Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ

Tại Việt Nam. Tại Hoa Kỳ. Tại Canada.

Tại Việt Nam. Tại Hoa Kỳ.

DANH SÁCH ĐỒNG NGHIỆP KHÓA 8 ĐÃ QUÁ VÃNG.

STT TÊN THẦY CÔ LỚP NGÀY MẤT 01/- 02/- 03/- 04/- 05/- 06/- 07/- 08/- 09/- 10/- 11/- 12/- 13/-

NGUYỄN PHAN PHÚ NGUYỄN VĂN THỨ NGUYỄN QUANG CÔN NGUYỄN VĂN TẤU LÝ THỊ KHÁNH THÁI THỊ XIÊNG NGUYỄN ĐỨC THUẤN NGUYỄN THỊ LỆ NƯƠNG HÙYNH PHI BẰNG PHAN MINH TUẤN NGUYỄN VĂN LÝ LÊ NGỌC PHƯỚC TRẦN QUANG ĐÔNG

N.1 N.2 N.2 N.3 N.3 N.3 N.4 N.5 N.5 N.7 N.8 N.9

N.10

29/04/1975. 29/09/2005.

? 1972. 1979.

? 09/04/1993.

? Năm 2000.

? ? ?

2004.

Và những đồng nghiệp khác mà chúng tôi chưa được biết.

DANH SÁCH QUÝ THẦY CÔ NGUYÊN CỰU GIÁO SINH KHÓA 8 ỦNG HỘ KINH PHÍ THỰC HIỆN

KỶ YẾU KỶ NIỆM 40 NĂM NGÀY TỐT NGHIỆP

HỌ TÊN LỚP SỐ TIỀN NGUYỄN VĂN AN N. 11 200.000$ HỨA TƯ NGỌC ẨN N. 6 USA. USD 100$ NGUYỄN THỊ BA N. 3 1.000.000$ VŨ CAO BIỀN N. 4 1.000.000$ NGUYỄN KIM CÚC N. 3 100.000$ ĐÀO VĂN ĐẮC N. 3 1.000.000$ NGUYỄN MỸ DANH N. 8 100.000$ HUỲNH THỊ NGỌC ĐIỆP N. 4 100.000$ LƯƠNG NGỌC GIÁO N. 9 200.000$ NGUYỄN MẠNH HÀ N. 6 AUS. 4.000.000$ NGUYỄN KHẢI HOÀN N. 8 2.000.000$ ĐỖ HUY HOÀNG N. 3 USA. USD 100$ ĐỖ KIM LANG N. 8 100.000$ VÕ THỊ KIM LIÊN N.11 200.000$ VŨ THỊ MỸ LINH N. 1 USD 100$ PHẠM THỊ LOAN N.11 100.000$ VŨ KHẮC LONG N. 1 1.000.000$ DƯƠNG THỊ MAI N. 4 100.000$ HUỲNH THỊ MAI N. 4 100.000$ TRẦN VĂN MẠNH N. 9 1.000.000$ NGUYỄN HÒA NAM N. 7 500.000$ NGUYỄN THỊ NĂM N. 4 100.000$ ĐOÀN THANH NGA N. 7 100.000$ TRẦN THỊ NGA N. 1 100.000$ PHAN VĂN NHÀN N. 1 300.000$ PHẠM QUANG PHỐ N.10 USA. 200.000$ ĐINH CAO PHÚC N. 1 500.000$ ĐINH TẤN QUỐC N. 9 200.000$ TRẦN NGỌC SAN N.11 100.000$ NGUYỄN VĂN TA N. 11 USA. 2.000.000$ PHẠM VĂN TÂN N. 9 1.000.000$ TRẦN THỊ THÁI N. 1 200.000$ HUỲNH LỆ THU N. 8 100.000$ NGUYỄN THỊ THỦY N. 4 100.000$ TRANG ANH TÔ N. 7 100.000$ NGÔ VĂN TÔN N. 9 100.000$ NGUYỄN NGỌC ƯỚC N. 1 USA. USD 100$ ĐỖ NGỌC VIỆN N. 3 1.000.000$ PHẠM MẠNH VỌNG N. 1 200.000$ LƯƠNG NGỌC YẾN N. 5 100.000$ VŨ THỊ XUÂN YẾN N. 4 500.000$

Tổng Cộng : 19.600.000 đồng và 400 USD