karma-yogafreephung.free.fr/cactacphamchuain/andophuchung/4)tacphamvivedaong… · tất cả...
TRANSCRIPT
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
KARMA-YOGA
NGHIỆP-BÁO
Tác-Giả : SWAMI - VIVEKANANDA
Dịch-Giả : Nguyễn-Đăng-Thục
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
" Vạn ban trường bất khứ
Duy hữu Nghiệp tùy thân
Nhất nhật vô thường đáo
Phương tri mộng lý nhân."
_ ( Thiền-sư Chân-Nguyên )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
MỤC - LỤC
I._ Ảnh-Hưởng Của Nghiệp-Báo Vào
Tính-Cách Người Ta................................1
II._ Mỗi Người Đều Có Giá-Trị
Ở Địa-Vị Của Mình...............................23
III._ Bí-Quyết Của Hành-Vi...........................55
IV._ Bổn-Phận Là Gì ?...................................77
V._ Chúng Ta Tự Giúp Mình
Không Phải Giúp Thế-Giới...................95
VI._ Vô-Cầu Và Khắc-Kỷ............................115
VII._ Tự-Do Hay Là Giải-Thoát..................133
VIII._ Thái-Độ Khách-Quan
Đối Với Thế-Giới................................145
IX._ Lý-Tưởng Của Đạo Nghiệp.................175
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
CHƯƠNG I
ẢNH-HƯỞNG CỦA NGHIỆP VÀO
TÍNH-CÁCH NGƯỜI TA.
Chữ Karma, ta dịch là Nghiệp do Phạn-
ngữ ( Sanscrit ), động-từ Kri = ( Động-cơ )
nghĩa là làm. Tất cả động-tác đều là Karma
( Nghiệp ). Ở quan-điểm chuyên-môn, danh-từ
này cũng có nghĩa là hậu-quả của những hành-
động, động-tác. Trong phạm-vi Siêu-hình-học,
có khi nó chỉ-thị những kết-quả mà những
hành-động quá-khứ của chúng ta là nguyên-
nhân. Nhưng ở trong Đạo-Nghiệp này chúng ta
chỉ xét danh-từ Nghiệp ( Karma ) trong ý-nghĩa
là làm việc .
Mục-đích của nhân-loại là hiểu-biết ( Tri
), lý-tưởng duy-nhất mà triết-học Đông-
phương đề ra cho chúng ta. Người ta không
VIVE -KARMA
2
nhằm mục-đích thích-thú mà là hiểu-biết.
Thích-thú và vui-sướng đều kết-thúc ; một điều
lầm cho rằng thích-thú là mục-đích. Nguyên-
nhân tất cả thống khổ của chúng ta ở thế-gian
là loài người điên-rồ, ngu-xuẩn, nhìn thích-thú
là lý-tưởng để tiến tới. Sau một thời-gian người
ta thấy rằng không phải tiến tới sung-sướng mà
là hiểu-biết. Và cả hai thích-thú và đau-khổ đều
là những ông thày học chính mà người ta học-
hỏi cả trong điều lành cũng như điều dữ, thiện
cũng như ác. Với thời-gian thích-thú và đau-
phiền diễn ra qua tâm-hồn, để lại những ấn-
tượng khác nhau, và chính kết-quả của sự tổng-
hợp những ấn-tượng ấy mà người ta gọi là
" Nhân cách ". Hãy lấy nhân-cách của bất cứ
người nào mà coi, anh sẽ thấy sự thực chỉ là
một mớ khuynh-hướng, tổng-thể tất cả những
rung-động, những su-hướng tinh-thần. Anh sẽ
thấy cả lạc-thú lẫn đau-khổ đều là yếu-tố như
nhau, tạo nên tính-cách kia. Trong sự tạo nên
tính-cách, điều thiện cũng như điều ác đều dự
phần tương-đương, và có nhiều trường-hợp
đau-khổ còn là một thày học lớn hơn là sung-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
sướng. Nghiên-cứu những nhân-cách vĩ-đại của
thế-giới đã từng sản-xuất, tôi dám quả-quyết
rằng trong hầu hết các trường-hợp đau-khổ dạy
người ta nhiều hơn là hạnh-phúc ; nghèo-khó
hơn là giầu-có, chính những đánh đập hơn là
vuốt-ve mới làm nẩy lửa nội-tâm. Nhưng cái
tri-thức, hiểu-biết thuộc về chính bản-tính
nhân-loại, không một tri-thức nào từ bên ngoài
đến cả, tất cả đều ở trong nơi ta, nội-tại .
" Vạn vật giai bị ư ngã giả "_ Mạnh-Tử
Nếu chúng ta diễn-tả bằng tâm-lý chính-
xác thì đáng lẽ bảo một người biết một vật gì là
y thực đã khám-phá ( discovers ) mở nắp đậy
chính tâm-hồn mình, vốn là một kho-tàng
" tạng thức " ( ) hiểu biết vô-tận bị che
phủ. Chúng ta biết rằng Newton, nhà khoa-học
Anh-Cát-Lợi, đã phát-minh, khám-phá định-
luật hấp-dẫn-lực. Phải chăng cái định-luật ấy ở
tại một chỗ nào trong góc thế-giới đợi chờ nhà
khoa-học Newton. Nó ở tại trong tinh-thần ông
ta rồi, ngày giờ đến, ông ta khám-phá ra nó. Tất
VIVE -KARMA
4
cả tri-thức hiểu biết mà thế-giới đã nhận được
từ trước đến nay đều xuất ra tự trong tinh-thần ;
cái tủ sách vô-tận của Vũ-trụ thì ở tại chính
nội-tâm ta. Ngoại-giới sự-vật chỉ là những ám-
thị, những cơ-hội cho chúng ta cứu-xét chính
tinh-thần mình ; nhưng đối-tượng của sự cứu
xét luôn luôn vẫn chính là tâm-hồn mình, " Dĩ
tâm quán tâm " ( ). Trái táo rơi
xuống đem lại cho Newton cơ-hội để cứu-xét
chính tinh-thần ông ta ; ông sắp đặt lại tất cả
những liên-tưởng sẵn có từ trước và đã khám-
phá ra một liên-tưởng mới mà chúng ta gọi nó
là định-luật hấp-dẫn-lực. Nó không có tại trong
trái táo hay là trong vật gì khác tại trung-tâm
địa-cầu. Bởi vậy nên tất cả tri-thức, tất cả hiểu
biết nhân-loại hay tâm-linh đều ở trong tinh-
thần nhân-loại. Trong nhiều trường-hợp, nó
không được khai mở, khám-phá những tiềm-
tàng bị che đậy và đến khi sự che đậy ấy dần
dần mở ra, chúng ta bảo là "chúng ta học-thức",
sự tiến-bộ về tri-thức ấy là do quá-trình tiến-
triển của sự mở nắp đậy, "chuyển mê khải ngộ"
( ). Người nào mà nắp đậy ấy được
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
cất đi, màn mê được chuyển đi dần, ấy là người
biết, đã sáng, ít vô-minh. Người nào cái nắp
đậy dầy đặc là người ngu-muội, u-mê và người
nào cái nắp đậy ấy hoàn-toàn cất đi hẳn, ấy là
bậc toàn-tri, Đại-giác ( Phật = Giác, Budhi,
Budh ). Đã từng có hạng người toàn-tri, và tôi
tin sẽ còn có nữa, sẽ có hàng triệu triệu ở tuần
hội tương-lai. Tri-thức có ở trong tinh-thần
người ta như lửa nằm trong đá-lửa, sự dẫn khởi
là do sự cọ sát làm cho nó biểu-lộ ra. Cũng thế
với tất cả cảm-xúc và động-tác của chúng ta, --
ta khóc, ta cười, ta vui, ta giận, tiếng than khóc
và cười vang, lời chúc tốt và xấu, khen hay chê
-- Nếu bình-tĩnh phản tỉnh chính ta, chúng ta có
thể thấy mỗi một yếu-tố kia đều do tự đắy lòng
chúng ta xuất ra sau một số đánh đập. Kết-quả
là cái ta hiện-tại. Tất cả những đánh đập, thử-
thách hợp lại thì gọi là Nghiệp ( Karma )
( hành-động, động-tác ). Mỗi một cái đập tinh-
thần hay vật-lý vào tâm-hồn, nhờ đấy, có thể
nói, mà tia lửa bật ra, và nhờ đấy mà năng-lực
và tri-thức của chính tâm-hồn ta được khai-
triển, mở nắp đậy, ấy là Nghiệp ( Karma ) theo
VIVE -KARMA
6
nghĩa phổ-thông nhất. Vậy thì chúng ta, tất cả
đang tạo Nghiệp ( Karma ). Tôi đang nói đây
với các ông : là Nghiệp ( Karma ). Các ông
đang nghe tôi nói : ấy là Nghiệp ( Karma ).
Chúng ta thở : ấy là Nghiệp ( Karma ). Tất cả
cái gì ta làm ở thân, ở khẩu, ở ý-nghĩ đều là
Nghiệp ( Karma ), và nó để lại dấu tích nơi
chúng ta .
Có một số công việc có thể nói là tổng-
kết, tổng-cộng một số lớn những công-việc nhỏ
hơn. Nếu chúng ta đứng tại bờ biển và nghe
tiếng sóng vỗ vào bờ, chúng ta tưởng như nghe
thấy tiếng lớn ào-ào. Tuy vậy chúng ta biết
rằng mỗi một làn sóng sự thực gồm hàng triệu
làn sóng nhỏ lăn-tăn, mỗi ngọn chỉ có tiếng rất
nhỏ, mà chúng ta không nghe thấy, chỉ đến khi
những tiếng nhỏ hợp lại thành một toàn-thể lớn
chúng ta mới nghe thấy ào-ào. Cũng thế mà
mỗi tiếng tim đập của ta là một công việc. Có
những loại công việc mà giác-quan ta thấy
được và chúng trở nên cụ-thể đối với ta, đồng
thời chúng là tổng-kết của một số công việc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
nhỏ. Nếu anh cần, thực sự muốn phán-đoán
tính-cách, nhân-cách của một người, anh chớ
nên nhìn vào sự thành-tựu lớn của y. Bất cứ
một thằng điên nào cũng có thể trở nên một
anh-hùng ở một lúc nào. Hãy xem một người
trong công việc tầm-thường nhất của y. Chính
những công việc tầm-thường ấy là sự-kiện nói
lên cho anh nhân-cách của một vĩ-nhân. Những
cơ-hội lớn tạo sự-nghiệp lớn cho cả những kẻ
hèn-hạ nhất của nhân-loại, nhưng thực là vĩ-
nhân chỉ người nào mà nhân-cách luôn luôn
bao giờ cũng cao-cả, bất cứ ở trường-hợp nào
cũng vẫn thế .
Nghiệp ( Karma ) ảnh-hưởng vào nhân-
cách là một năng-lực ghê-gớm nhất mà người
ta bị chi-phối. Có thể nói rằng người ta là một
trung-tâm thu-hút tất cả năng-lực của vũ-trụ về
nó và ở đấy nó hun-đúc lại tất cả để phóng ra
thành một luồng năng-lực vĩ-đại. Cái trung-tâm
ấy là con người chân-thật, toàn-năng, toàn-trí
và nó hấp-dẫn cả vũ-trụ về nó, tốt và xấu, khổ
và sướng, tất cả chạy xô về nó và bao-bọc
VIVE -KARMA
8
chung-quanh nó ; và với tất cả những yếu-tố ấy
nó tạo nên một luồng khuynh-hướng mạnh, gọi
là nhân-cách và phóng nó ra ngoài. Nó đã có
khả-năng hấp-dẫn tất cả, thì nó cũng có khả-
năng phóng ra ngoài vậy .
Tất cả động-tác chúng ta thấy ở thế-gian,
tất cả vận-động trong xã-hội loài người, tất cả
công việc chúng ta thấy quanh ta đều chỉ là
biểu-diễn của tư-tưởng biểu hiện của ý-chí
nhân-loại. Máy móc hay dụng cụ, đô-thị, tầu
tuyền hay quân-nhân, tất cả những cái ấy chỉ là
biểu-hiện của ý-chí nhân-loại ; và cái ý-chí ấy
do nhân-cách mà ra, và nhân-cách lại do
Nghiệp ( Karma ) đã sản-xuất ra cả. Nghiệp
( Karma ) thế nào thì ý-chí thế ấy, như hình với
bóng. Những bậc có ý-chí mãnh-liệt mà thế-
giới đã sản-xuất đều đã là những nhà hành-
động ghê-gớm -- tâm-hồn vĩ-đại với ý-chí hùng
mạnh đã làm đảo lộn thế-giới, ý-chí các ngài đã
có được bằng hành-động kiên-nhẫn bền-bỉ trải
qua đời nọ sang đời kia. Ý-chí vĩ-đại khổng-lồ
như ý-chí của một Đức Phật hay là của một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
Jésus không thể có được trong một đời, vì
chúng ta đều biết rằng thân-sinh các Ngài là ai.
Người ta không được biết các vị thân-sinh ra
các Ngài đã từng nói một lời tốt lành cho thế-
giới nhân-loại. Hàng triệu triệu người thợ mộc
như Joseph đã đi qua ; hàng triệu còn đang
sống. Hàng triệu triệu ông vua tầm-thường nhỏ
bé như thân-sinh của Phật Thích-Ca đã từng có
trong thế-giới. Nếu di-truyền là nhân-tố duy-
nhất thì làm sao giải-thích một ông chúa tầm-
thường, có lẽ không được thần dân mình phục-
tòng, lại sinh ra được người con mà nửa thế-
giới tôn-thờ ? Làm sao giải-thích được cái hố
sâu nhân-cách người thợ mộc với người con
ông ta mà hàng triệu người tôn-thờ như
Thượng-Đế ? Thuyết di-truyền không giải
quyết được điều ấy. Cái ý-chí vĩ-đại mà Đức
Phật, Chúa Jésus ném vào thế-giới thì tự đâu
ra ? Từ đâu đã có sự tích-lụy quyền-năng kia ?
Nó đã phải tích-lũy đời nọ sang đời kia, liên-
tiếp lớn lên mãi cho tới khi nó nổ tung vào xã-
hội là Phật, là Jésus, ngự-trị mãi đến tận ngày
nay .
VIVE -KARMA
10
Tất cả những điều này là do Nghiệp
( Karma ) hành-động, quy-định nên vậy. Không
ai gặt hái được gì nếu mà nó không gieo cây,
( Qui sème récolte ). Đấy là một định-luật vĩnh-
cửu ; có khi chúng ta không tin như thế, nhưng
với thời-gian chúng ta trở nên tín-đồ của nó.
Một người có thể suốt đời phấn-đấu với tiền-
tài, nó có thể lừa lọc hàng ngàn người, nhưng
rốt cục nó thấy mình không xứng-đáng giầu và
cuộc đời của nó trở nên phiền-muộn, nặng-nề.
Chúng ta có thể tiếp-tục thu-lượm những gì
thỏa-mãn dục-vọng vật-chất của chúng ta,
nhưng chúng ta chỉ có được thực sự cái gì
chúng ta làm ra được. Một thằng điên có thể
mua tất cả các sách trên thế-giới và những sách
ấy có thể ở cả trong tủ sách của y . Nhưng y chỉ
có khả-năng đọc sách gì y đáng được đọc. Sự
xứng-đáng ấy là do Nghiệp ( Karma ) sinh ra.
Nghiệp của chúng ta quyết-định điều chúng ta
xứng-đáng và cái gì có thể thâu-hóa được.
Chúng ta chịu trách-nhiệm về chúng ta là cái
gì, như thế nào, và chúng ta muốn là cái gì,
chúng ta có khả-năng tự tạo lấy mình. Nếu cái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
ta hiện-tại đã là kết-quả của những hành-vi
quá-khứ thì chắc-chắn theo đấy cái ta tương-lai
ta mong muốn sẽ do hành-vi hiện-tại tạo nên.
Vậy chúng ta phải biết hành-động như thế nào.
Các ông sẽ bảo : " Ích lợi gì mà học-hỏi hành-
động cách nào ? Mọi người đều hành-động
cách này hay cách kia ở đời này cả." Nhưng có
điều là chỉ phao-phí năng-lực của mình đi thôi !
Theo Đạo Nghiệp, Đạo Hành-động
( Karma - Yoga ) Thánh Kinh Gita dạy hành-
động sáng-suốt như một khoa-học : Hành-động
thế nào để người ta có thể đạt được kết-quả tối-
hảo, cao-cả. Nên nhớ rằng tất cả hành-động chỉ
là thi-thố năng-lực tinh-thần, luôn luôn có ở
đấy để gọi tỉnh tâm-hồn hướng lên. Năng-lực
có tại trong mọi người, tri-thức cũng thế.
Những hành-động giống như những cái đánh
đập để đem chúng ra, tạo điều-kiện cho hai ông
tướng : Tri và Năng tỉnh dậy ( Science và
Conscience ), ( Khoa-học và Đạo-đức ) .
VIVE -KARMA
12
Loài người hành-động với nhiều động-cơ
khác nhau, không thể có hành-động không
động-cơ. Có người muốn có danh-tiếng thì
hành-động vì danh, có người khác muốn có
tiền thì hành-động vì tiền, có người muốn có
quyền-thế thì hành-động vì quyền-thế. Có
người muốn lên Thiên-đường thì hành-động vì
Thiên-đường. Có người muốn để lại tiếng thơm
sau khi chết như tục lệ của người Trung-Hoa,
không ai được mang tên thụy trước khi chết, và
như thế là cách hành-động tốt hơn chúng ta.
Khi nào làm được điều gì thật tốt, thì đấy là
người ấy đã đem lại một chức-tước quý-phái
cho cha mình đã chết rồi hay cho ông-nội
mình. Có người hành-động vì thế. Có tín-đồ
Hồi-giáo suốt đời hành-động để có được một
cái mả lớn của con cháu xây cho khi họ chết.
Tôi có biết một giáo-phái mà tín-đồ hễ bắt đầu
sinh một đứa con là người ta xây cho nó một
ngôi mộ. Đối với họ đấy là một hành-động
trọng-đại nhất người ta có thể làm được, ngôi
mộ càng to càng đẹp bao nhiêu, người ấy càng
được coi là tốt bấy nhiêu. Có kẻ hành-động như
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
một hình phạt : làm tất cả các việc xấu, rồi xây
một ngôi chùa, phù-đồ hay cúng dâng cho nhà
Sư để mua chuộc nhà Sư lấy giấy thông-hành
lên Thiên-đường tĩnh-thổ. Họ tin rằng với cái
loại hào-phóng ấy họ sẽ sạch nợ và lên Thiên-
đường một cách an-toàn mặc dầu họ đã phạm
tội-lỗi. Đấy mới là một số động-cơ hành-động
khác nhau .
Chữ Vô Cầu Là Chữ Thiên Nhiên
Hành-động vì yêu hành-động. Có một
thiểu-số thật là tinh-hoa của mặt-đất ở các nước
đã hành-động vì yêu hành-động, không để ý
vào danh-lợi, tiếng-tăm, cả đến được lên Thiên-
đường. Họ hành-động chỉ vì việc ấy có hậu-quả
tốt. Có người khác làm việc thiện giúp nhân
loại vì những lý-do cao-cả hơn, họ tin vào việc
thiện và yêu điều thiện. Thông lệ khát-vọng
danh tiếng và vinh-quang làm động-cơ hành-
động ít khi đem lại hậu-quả tức thì. Chúng đến
với chúng ta khi tuổi già và không còn nghĩ
đến đời sống nữa, sắp sửa cáo-chung. Nếu một
VIVE -KARMA
14
người hành-động không động-cơ vị-kỷ, phải
chăng y không được gì cả sao ? Có chứ ! Y có
được phần-thưởng cao-quý nhất. Vô-tư, vị-tha
đền đáp ta nhiều, nhưng ta không đủ điều-kiện
để thực-hành. Nó cũng lợi lạc cho sức khoẻ
nữa kia. Tình-yêu, chân-lý và vô-tư không phải
chỉ là ngôn-ngữ luận-lý suông, nhưng chúng
làm lý-tưởng tối-cao của chúng ta, vì ở chúng
có sự biểu hiện quyền-năng. Trước hết, người
nào có thể hành-động vô-tư liền 5 ngày hay là
liền 5 phút, không chút động-cơ vị-kỷ gì cả,
không cả nghĩ cho tương-lai, Thiên-đường hay
Địa-ngục, thưởng hay phạt, có ở nơi mình một
khả-năng trở nên một Đại-thế-lực tinh-thần.
Điều ấy rất khó thực-hiện, nhưng ở trong đáy
lòng chúng ta biết giá-trị của nó và sự lành nó
đem lại. Chính cái năng-lực lớn nhất để tự chủ
được mình là sự biểu-hiện thế-lực lớn nhất ; sự
tự chủ được mình tỏ ra một sức mạnh lớn hơn
mà không một hành-động nào hướng ra ngoài
có thể biểu-lộ. _ ( Vì vô minh mà Linh-hồn
hay Tâm-linh đã bị liên-hệ vào thiên-nhiên.
Mục-tiêu của ta là giải-thoát sự chi-phối của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
thiên-nhiên. Đấy là đối-tượng của tất cả tôn-
giáo. Tất cả tâm-hồn tiềm-năng linh-thiêng.
Mục-đích là biểu-hiện cái linh-tính ấy tiềm-
tàng ở nơi chúng ta, bằng sự làm chủ tính
thiên-nhiên ở bên trong và ở bên ngoài. Bằng
hành-động phục-vụ, hoặc sùng-bái, hoặc sống
tâm-linh hay triết-lý, hay bằng tất cả, đồng thời
và hay là tự-do. Đấy là tất cả tôn-giáo. Nhà
Đạo-sĩ cố đạt mục-tiêu ấy bằng cách tự-chủ lấy
mình .)
Nếu một cỗ xe tứ mã chạy xuống giốc,
người đánh xe có thể để cho xe lăn hết tốc-độ
nhưng nó cũng có thể kìm ngựa lại. Đằng nào
tỏ ra năng-lực lớn hơn ? Buông cương ngựa
hay là kìm cương ngựa ? Một viên đạn đại-bác
chạy một đường dài qua không-trung trước khi
rơi xuống đất. Một viên đạn khác vấp vào bức
tường ngay lúc đầu, và sự đụng-chạm tỏa ra
một sức nóng dữ-dội. Tất cả năng-lực hướng ra
ngoài và là kết-quả của động-cơ vị-kỷ thì chỉ là
phung-phí, nó không phản-hồi năng-lực về ta.
Nếu trái lại, nó được chế-ngự, nó mới tăng
VIVE -KARMA
16
thêm sức mạnh. Sự tự-chế, tự-chủ mình có
khuynh-hướng tạo ra một ý-chí hùng-cường,
một tính-cách thuộc loại những nhân-cách của
một Đấng Cơ-Đốc ( Christ ) hay là một Đức
Phật ( Bouddha ). Bọn ngu-ngốc biết cái bí-
quyết ấy, vậy mà chúng muốn ngự-trị thế-giới
nhân-loại . Cả đến một kẻ điên dại cũng có thể
ngự-trị cả thế-giới nếu nó biết hành-động và
chờ-đợi ; ( Trường-hợp Hít-Le ). Y hãy đợi ít
năm kìm hãm ý-tưởng ngự-trị lại ; và đến khi
ý-tưởng ấy hết đi hoàn-toàn không còn nữa thì
y sẽ là một thế-lực trong thế-giới. Đa số chúng
ta không biết nhìn xa ngoài một ít năm, chẳng
khác gì những con thú không biết nhìn xa ngoài
mấy bước. Thế-giới của chúng ta chỉ là một
vòng chật hẹp bé nhỏ. Chúng ta không biết
nhẫn-nại để nhìn xa rộng, và vì thế mà trở nên
vô-luân và độc-ác. Đấy là sự hèn yếu, sự bất-
lực của chúng ta vậy .
Cả những hình-thức hành-động thấp nhất
cũng không được miệt-thị, việc làm hèn-hạ
nhất cũng không được khinh-thường. Kẻ không
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
biết gì hơn hãy cứ hành-động vì mục-tiêu vị-
kỷ, vì danh vọng, nhưng ai nấy phải luôn luôn
cố-gắng hướng lên những động-cơ cao hơn và
phải hiểu chúng. " Hành-động, chúng ta đều có
quyền, nhưng không được có quyền về kết-quả
của hành-động " _ ( Thế-Tôn-Ca ) . Hãy để kết-
quả đấy. Tại sao phải để ý đến kết-quả ? Nếu
anh muốn giúp-đỡ một người nào, chớ bao giờ
nghĩ đến thái-độ của y sẽ phải thế nào đối với
anh. Nếu anh muốn làm một việc thiện, một
hành-động lớn có giá-trị thì đừng bận tâm nghĩ
đến kết-quả sẽ thế nào .
Ở đây hiện ra một vấn-đề nan-giải trong
cái lý-tưởng hành-động ấy. Hoạt-động nhiệt-
thành là thiết-yếu ; chúng ta phải luôn luôn
hành-động, làm việc. Chúng ta không thể
không hành-động trong một giây phút. Vậy còn
nghỉ ngơi thì sao ? ( Xuất-thế nhập-thế ). Một
mặt là sinh-tồn phấn-đấu, làm việc trong đó
chúng ta quay-cuồng mau-lẹ tít mù, vì sống là
hành-động phấn-đấu. Một mặt khác là an-tĩnh,
bình-tĩnh thoái lui từ bỏ, chung-quanh mọi vật
VIVE -KARMA
18
đều an-tĩnh, không một tiếng động, không chút
biểu-hiện, chỉ có núi non, hoa cỏ, chim muông.
Cả hai mặt không mặt nào một mình là hoàn-
toàn cả. Một người quen với tịch-mịch, nếu
phải tiếp-xúc với xã-hội quay-cuồng, đời sống
vật-lộn sẽ bị tan nát, cũng như loài cá quen
sống dưới đáy biển nước sâu hễ đem lên mặt
nước sẽ bị tan-tành, vì thiếu áp-lực của nước
bảo-vệ chúng. Một người quen sống đời sống
vật-lộn ồn-ào làm sao có thể sống thoải mái
nơn tịch-mịch ? Y sẽ đau khổ và có thể mất
hồn .
Con người lý-tưởng là ở trong cảnh tịch-
mịch, hết sức yên-tĩnh, thấy được hoạt-động
náo-nhiệt và trong đời náo-nhiệt hết sức thấy
được sự tịch-tĩnh của sa-mạc. Y đã học biết bí-
quyết chế-ngự, y đã tự kiểm làm chủ được
mình. Y đi trên đường phố của đô-thị lớn nhộn-
nhịp mà tinh-thần bình-tĩnh như khi ở trong
hang-động, không một tiếng nào tới được đến
y ; vậy mà trong thời-gian ấy y rất hoạt-động
nhiệt-thành. Đấy là lý-tưởng của Đạo Nghiệp
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
( Karma Yoga ), và nếu anh đạt tới đấy là anh
thực sự hiểu biết bí-quyết của hành-động .
" Thành thị do lai ngụ tự triền
Tùy cơ ứng biến mỗi thời nhiên.
Song chiêu nguyệt đáo thiền sàng mật
Tùng tiếu phong suy tỉnh khách miên.
Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền chung cổ diễn thanh truyền.
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên ."
_ ( Hương-Hải Thiền Sư )
VIVE -KARMA
20
Nghĩa :
( Chơi nơi đô-thị tưởng chùa chiền
Ứng biến tùy thời lẽ tự nhiên.
Cửa đón trăng vào giường thiền kín
Thông reo trước gió khách triền miên.
Lâu đài sắc tướng tỏ biến sắc
Chiêng trống thanh âm diễn tiếng huyền.
Tam giáo về nguồn cùng một thể
Bao giờ thể dụng lại có thiên . )
Nhưng chúng ta phải đi từ đầu, bắt tay
vào việc làm trước mắt và dần dần mỗi ngày
một ít vị-kỷ đi. Chúng ta phải hành-động và
tìm hiểu cái năng-lực động-cơ thúc đẩy bên
trong. Và thường không ngoài lệ ở những năm
đầu chúng ta sẽ thấy động-cơ của chúng ta luôn
luôn vị-kỷ, nhưng rồi dần dà tính vị-kỷ tan biến
bởi sự kiên-nhẫn cho tới khi nào chúng ta có
thể hành-động thật vô-tư. Tất cả chúng ta có
thể hy-vọng một ngày kia sẽ đi đến trong cuộc
phấn-đấu sinh-tồn ở đời, chúng ta sẽ trở nên
hoàn-toàn vô cầu, vô-tư trong việc làm ; và đến
lúc chúng ta đạt tới đấy thì tất cả những năng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
lực sẽ tập-trung và tri-thức vốn có ở nơi ta sẽ
biểu-lộ .
VÔ CẦU :
Người ta ở trong phù thế
Chữ Vô-Cầu ( ) là chữ Thiên-nhiên .
Đem bẩm Trời, Trời cũng phải khuyên
Khuyên khuyên chữ " Anh hùng yên sở ngộ ".
Thơ rằng : " Tạo-Hóa có ghen chi mệnh số "
Giang-san nào oán với văn-chương .
Phận tài-hoa đành có lúc vẻ-vang
Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước .
Sóng vỗ lớp sau như lớp trước
Chữ vẫy vùng ai có kém ai đâu .
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu
Trần ai, ai biết cồng hầu là ai
Bao giờ rõ mặt mới hay .
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
********
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
CHƯƠNG I I
MỖI NGƯỜI ĐỀU CÓ
GIÁ-TRỊ Ở ĐỊA-VỊ CỦA MÌNH
Theo triết-học Số-luận ( Samkhya ) thì
vũ-trụ vật-lý do ba năng-lực hợp nên mà tiếng
Phạn ( Sanscrit ) gọi là Sattva, Rajas và Tamas
( Hòa ; Dương ; Âm ). Chúng
biểu hiện trong thế-giới vật-lý như là cái gọi là
Quân-bình. Hoạt-động và Nõa-tính ( Tamas )
tượng-trưng là đen tối hay là bất động. ( Rajas )
tượng-trưng là động tĩnh biểu diễn là hấp-dẫn-
lực và ( Sattva ) là quân-bình dung-hòa cả hai .
Ở mỗi cá-nhân có ba năng-lực ấy. Có
Nõa-tính chủ-động chúng ta ươn lười, không
buồn động-đậy, ta không hoạt-động vì bị một
VIVE -KARMA
24
số ý-tưởng hay chỉ là ươn lười chi-phối. Lúc
khác hoạt-động làm chủ, và lúc khác nữa thì có
sự quân-bình bình-tĩnh. Lại nữa, ở mỗi người
khác nhau, một trong những năng-lực ấy chi-
phối. Cá-tính của người này thì bất động, ươn
lười, ở người kia thì hiếu động, ham quyền,
biểu hiện năng-lực, và còn ở người khác nữa,
chúng ta thấy dịu-dàng, bình-tĩnh và hiền-lành
êm-ái, do sự quân-bình của cả hai khuynh-
hướng động, tĩnh. Vậy ở tất cả tạo-vật, động-
vật, thực-vật và nhân-loại, chúng ta thấy nhiều
ít biểu hiện đặc-trưng của tất cả những năng-
lực khác nhau ấy .
Đạo Nghiệp ( Karma Yoga ) đặc-biệt chú-
trọng vào ba yếu-tố ấy. Nó dạy cho ta biết
chúng là gì và sử-dụng chúng như thế nào để
giúp chúng ta hành-động tốt hơn. Xã-hội nhân-
loại là một tổ-chức có cấp bậc. Chúng ta đều
biết về đạo-đức, luân-thường đạo-lý, và chúng
ta ai cũng biết bổn-phận là gì, nhưng đồng thời
chúng ta thấy rằng ở các xứ khác nhau thì ý-
nghĩa luân-lý đạo-đức rất khác nhau. Ở xứ này
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
cái gì coi như là đạo-đức luân-lý, có thể ở xứ
khác nó bị coi như hoàn-toàn vô-luân, phi đạo -
đức. Ví dụ ở một nước anh, em họ có thể lấy
nhau, ở nước khác người ta nghĩ là vô-luân,
phản đạo-đức. Ở một xứ người con trai có thể
lấy chị hay em dâu, ở nước khác tục ấy coi như
phi luân-lý. Ở một xứ nọ người ta lấy nhau
nhiều lần, ở nước kia chỉ được lấy vợ lấy chồng
một lần thôi. Cũng thế ở trong các phạm-vi
luân-lý khác, chúng ta thấy tiêu-chuẩn giá-trị
rất khác nhau, vậy mà chúng ta đều tin-tưởng
phải có một tiêu-chuẩn giá-trị luân-lý đại-đồng
phổ-biến .
Về bổn-phận cũng thế. Ý-niệm bổn-phận
thay đổi nhiều ở các dân-tộc khác nhau : ở một
nước này, nếu một người làm một số việc gì
người ta sẽ chê y không phải đạo, nếu y làm
chính những việc ấy ở nước khác, người ta lại
khen y là phải đạo. Vậy mà chúng ta biết phải
có một ý-niệm phổ-quát đại-đồng về bổn-phận.
Cũng thế một giai-cấp xã-hội nghĩ một số điều
thuộc về bổn-phận của nó, mà một giai-cấp
VIVE -KARMA
26
khác nghĩ trái hẳn và sẽ rùng-rợn khi nó phải
làm điều ấy. Có hai đường mở ra cho chúng ta :
con đường của kẻ ngu nghĩ rằng chỉ có một con
đường đi đến chân-lý còn các đường khác là sai
lầm ; và con đường của hiền-triết nhận thấy
rằng tùy theo cơ-cấu tinh-thần hay là bình-diện
đời sống của chúng ta mà bổn-phận và đạo-đức
thay đổi. Điều cốt-yếu phải biết là có những
cấp bậc của bổn-phận và đạo-đức, rằng bổn-
phận của một bình-diện đời sống trong một
hoàn-cảnh sẽ không là bổn-phận và không có
thể là bổn-phận cho một bình-diện khác .
Để minh-giải : Tất cả đại giáo-chủ đã dạy
" Không chống kẻ ác ", rằng bất-bạo-động là
lý-tưởng đạo-đức tối-cao. Chúng ta đều biết
thế, nhưng nếu một số trong chúng ta thử thực-
hành đầy đủ châm-ngôn ấy, thì tất cả guồng
máy xã-hội sẽ sụp đổ tan-tành, kẻ ác sẽ chiếm
hữu của-cải và sinh-mệnh chúng ta, và chúng ta
sẽ làm tất cả điều chúng thích đối với chúng ta.
Nếu giáo-lý bất-bạo-động ấy được thực-hành
chỉ trong một ngày thôi, nó sẽ dẫn đến đổ vỡ.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
Vậy mà trực-giác của chúng ta cảm thấy trong
thâm-tâm chân-lý chính-xác của giáo-lý
" Không chống tội ác " nó có vẻ là một lý
tưởng tối-cao. Tuy nhiên, đem dạy giáo-lý ấy
thì có nghĩa là lên án một phần lớn nhân-loại.
Không những thế, nó sẽ làm cho người ta cảm
thấy luôn luôn là mình lầm lỗi, và tạo ra mặc-
cảm tôi-lỗi ở họ trong hành-vi. Nó làm cho họ
bạc-nhược, và sự bất-mãn về mình gây nên
nhiều tật xấu hơn là bất cứ sự nhu-nhược nào
khác. Đối với người nào bắt đầu tự ghét mình
thì con đường sa-đọa sẵn-sàng rộng mở, và đối
với cả một dân-tộc cũng thế .
Nghĩa-vụ đầu tiên của chúng ta là không
tự ghét mình, bởi vì muốn tiến thì chúng ta
phải tin trước vào mình kế đến vào Thượng-
Đế. Người nào không tự tín thì không bao giờ
có đức tin vào Thượng-Đế. Do đấy mà chúng
ta chỉ còn một biện-pháp là công-nhận bổn-
phận. Bổn-phận và đạo-đức thay đổi tùy theo
hoàn-cảnh ; ở trường-hợp người nào chống
điều ác, không luôn luôn làm một điều xấu tự
VIVE -KARMA
28
thân ; tùy theo trường-hợp của người ấy, đứng
ở trong, có thể lấy việc chống điều ác để trở
thành bổn-phận của y .
Đọc Kinh Thế-Tôn-Ca ( Bhagavad Gita )
nhiều độc-giả Âu-Tây ngạc-nhiên thấy Chúa
Krishna, ở chương hai, bảo đệ-tử Arjuna là giả-
dối và hèn-nhát khi y từ-chối chiến-đấu, kháng-
cự đối-phương, lấy cớ vì đối-phương là bằng-
hữu và bà con thân thích, và cho rằng bất-bạo-
động là lý-tưởng tối-cao của tình-yêu. Đấy là
bài học lớn cho chúng ta học-hỏi, cái cực-đoan
tích-cực và tiêu-cực luôn luôn tương-tự. Khi
những ba-động ánh-sáng quá chậm chúng ta
không nhìn thấy cũng như khi chúng quá mau.
Với âm-thanh cũng thế. Giữa bạo-động đề-
kháng và bất-bạo-động đề-kháng, tính-chất
khác nhau cũng thế. Một người không kháng-
cự vì nó yếu, lười và không có khả-năng chứ
không phải nó không muốn. Một người khác
biết rằng mình có thể đánh một đòn chí tử nếu
y muốn, nhưng không những nó không đánh
mà còn ban ơn cho kẻ thù. Người không
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
kháng-cự vì bất-lực là người phạm lỗi, và như
thế không lợi gì trong sự bất-bạo-động, còn
người kia sẽ phạm lỗi vì không kháng-cự. Đức
Phật từ bỏ ngôi vua và địa-vị của mình đấy là
cử-chỉ hy-sinh ; nhưng không có sự hy-sinh ở
trường-hợp một kẻ ăn mày, không có gì để hy-
sinh cả. Vậy chúng ta phải thận-trọng về ý-
nghĩa thực khi chúng ta nói sự bất-bạo-động là
lý-tưởng của tình-yêu. Trước hết chúng ta hãy
cẩn-thận để hiểu biết xem chúng ta có khả-
năng kháng-cự hay không. Bấy giờ, nếu có
khả-năng mà không sử-dụng và không đề-
kháng thì đấy là một hành-động của tình-yêu.
Nhưng nếu chúng ta không có khả-năng kháng-
cự, nhưng đồng thời tự dối mình mà bảo rằng
chúng ta không chống-đối vì động-cơ của tình-
yêu tối-cao. Arjuna trở nên hèn nhát khi thấy
trước mắt đội quân hùng mạnh chống với mình.
" Tình-yêu " của y làm cho y quên mất nghĩa-
vụ của mình đối với tổ-quốc và nhà vua. Bởi
vậy mà Chúa Krishna bảo y là dối-trá : " Con
nói như một hiền-nhân nhưng hành-vi của con
VIVE -KARMA
30
lừa dối con để trở nên một người hèn nhát, vậy
hãy đứng lên và chiến-đấu ! "
Đây là ý-nghĩa trọng-tâm của Đạo Nghiệp
( Karma Yogin ), là người hiểu rằng lý-tưởng
tối-cao là bất-bạo-động, và y cũng hiểu rằng cái
lý bất-bạo-động ấy là sự biểu hiện tối-cao về
quyền-lực thực có trong tay, và y cũng biết
rằng cái gọi là chống đối tội ác chỉ là bước đầu
trên đường dẫn đến sự biểu hiện của quyền-lực
tối-cao kia, nghĩa là bất-bạo-động. Trước khi
đạt tới cái lý-tưởng tối-cao ấy, phận-sự nhân-
loại là chống-đối tội ác, y hãy hành-động, y hãy
phấn-đấu, y hãy đánh thẳng vào mặt kẻ thù thật
mạnh. Chỉ đến bấy giờ, khi nào y có được khả-
năng kháng-cự thì bất-bạo-động mới là đạo-
đức. Có một lần, ở nước tôi, tôi gặp một người
mà trước đây tôi biết y hết sức đần-độn, ươn
lười, không biết gì cả và không muốn cầu biết,
sống một đời sống của con vật. Y hỏi tôi y phải
làm gì để biết Thượng-Đế, làm thế nào để được
giải-thoát. Tôi bèn hỏi lại y : " Anh có thể nói
dối được không ? _ Y đáp : " Không ! " _" Vậy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
thì tốt hơn hãy học điều ấy đi ! Nói dối còn tốt
hơn là vô-tri vô-giác, bất-động như là một cục
gỗ ; anh bất động quá, chắc-chắn anh chưa đạt
tới trình-độ tối-cao siêu lên trên tất cả hành-
động, bình-tĩnh và thản nhiên, anh ươn
lười quá, cả đến làm một điều ác." Dĩ nhiên,
đấy là một trường-hợp cực-đoan, và tôi đã trêu
trọc anh ta. Nhưng điều tôi muốn nói là một
người phải hoạt-động ngõ-hầu qua hoạt-động
đi đến bình-thản hoàn-toàn .
Bất động phải được tránh bằng tất cả các
cách. Hoạt-động luôn luôn có nghĩa là chống-
đối kháng-cự. Chống-đối tất cả điều ác, tinh-
thần hay vật-lý ; và khi nào anh đã kháng-cự
thành-công, bấy giờ bình-thản sẽ đến. Nói thì
dễ : " Không ghét ai, không kháng-cự điều ác ".
Nhưng ta biết rõ cái loại sự-kiện đó thường có
nghĩa gì ở thực-tế. Khi nào thiên-hạ chú-mục
vào ta, ta có thể biểu diễn sự bất-bạo-động
nhưng trong thâm-tâm mình luôn luôn có gì
cắn dứt. Chúng ta cảm thấy thiếu hẳn sự bất-
bình-thản của việc bất-bạo-động ; chúng ta cảm
VIVE -KARMA
32
thấy sẽ tốt hơn nếu chúng ta đề-kháng. Nếu anh
muốn giầu-có và đồng thời biết rằng thiên-hạ
nhìn người nhằm mục-tiêu tiền của như là loại
người ác, thì có lẽ anh sẽ không dám cắm đầu
phấn-đấu vì tiền-tài, tuy tinh-thần anh đêm
ngày chạy theo tiền của. Đấy là giả-dối và
không đi đến đâu cả. Hãy cắm đầu vào đời tục-
thế, bấy giờ sau một thời-gian, khi đã đau khổ
và hưởng-thụ tất cả ở đấy rồi, thì sự hỷ-sả sẽ
đến ; bấy giờ bình-thản sẽ đến với mình. Vậy
hãy thỏa-mãn khát-vọng quyền-thế và các vật
khác đến khi nào anh được mãn-nguyện, bấy
giờ sẽ đến lúc anh thấy chán-chường tất cả
những vật nhỏ-nhen. Nhưng chừng nào anh
chưa được thỏa-mãn, chừng nào anh chưa
từng-trải sự hoạt-động kia thì không thể nào
anh tới được trạng-thái bình-tĩnh, thản-nhiên và
hỷ-sả, tự hy-sinh và tự khắc-phục, tự mình làm
chủ được mình. Từ bao nhiêu ngàn năm người
ta truyền-bá những ý-tưởng bình-tĩnh và hỷ-sả ;
ai nấy đã nghe nói từ thuở còn thơ vậy mà rất
hiếm có người trong thế-giới thực sự đạt tới
trình-độ ấy. Tôi không biết đã thấy được vài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
chục người trong đời tôi thực sự bình-thản và
bất-bạo-động chưa, tuy rằng tôi đã đi qua gần
nửa địa-cầu rồi .
Mỗi người chúng ta phải giữ lấy lý-tưởng
riêng và phải hoàn-thành ; đấy là con đường
chắc-chắn nhất để tiến-bộ hơn là đi mượn lý-
tưởng của người khác mà mình không có hy-
vọng thực-hiện được. Hãy lấy thí-dụ một đứa
con-nít, nếu chúng ta muốn cho nó đi ngay hai
mươi cây-số thì một là đứa trẻ sẽ chết, hai là có
lẽ một phần ngàn lần nó lê được đến đích mệt
lả sắp chết. Đấy là đại-khái chúng ta thường
đối-xử với người đời. Không có một xã-hội nào
mà tất cả mọi người nam và nữ đều cùng một
tinh-thần, cùng một năng-khiếu, cùng một khả-
năng. Người ta phải có các lý-tưởng khác nhau,
và chúng ta không có quyền chê-bai một lý-
tưởng nào. Mỗi người ai nấy làm hết sức mình
để thực-hiện lý-tưởng của mình. Và cũng
chẳng chính-đáng đem tiêu-chuẩn của anh để
phán-đoán tôi hay lấy lý-tưởng của tôi để phán-
đoán anh. Không thể xét cây táo theo tiêu-
VIVE -KARMA
34
chuẩn của cây dừa, hay xét cây dừa theo cây
táo, mà phải xét cây táo với mực-thước của cây
táo và cây dừa với mực-thước của cây dừa .
Đồng qui nhi thù đồ, đồng nhất trong sai
biệt, đấy là quy-mô của tạo-hóa. Bất cứ cá-tính
nam, nữ có thể khác nhau đến mấy đi nữa, cơ-
bản bên trong vẫn có đồng-nhất-tính. Tính-cách
khác nhau, cá-nhân và giai-cấp xã-hội, nam và
nữ, là sự khác nhau tự-nhiên trong tạo-vật. Vậy
không nên xét đoán chúng theo một tiêu-chuẩn
giống nhau hay là đặt cho chúng một lý-tưởng
duy-nhất. Làm như thế chỉ tạo ra sự tranh-đấu
giả-tạo và kết-quả làm cho người ta bắt đầu tự
ghét mình, ác-cảm với chính mình, và cản-trở
người ta có tín-ngưỡng và trở nên thiện. Bổn-
phận của chúng ta là khuyến-khích mọi người
phấn-đấu để sống theo lý-tưởng tối-cao của
mình, và đống thời vươn lên cái lý-tưởng đó,
càng gần với chân-lý càng hay .
Trong hệ-thống luân-lý Ấn-Độ ta thấy sự
thực rất được công-nhận từ thời cổ xưa, và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
trong kinh-điển của họ về luân-lý đạo-đức có
nhiều nguyên-tắc đặt ra cho các giai-cấp xã-hội
nhân-loại -- tại gia, xuất gia, đạo sĩ và tu sĩ .
Theo Thánh Kinh Ấn-Độ, đời sống cá-
nhân gồm có bổn-phận, nghĩa-vụ riêng-tư
ngoài những gì thuộc chung cho cả nhân-loại
đại-đồng. Người Ấn-Độ bắt đầu đời sống là
một tu-sĩ, rồi lấy vợ và lập gia-đình, về già y
rút lui về ở ẩn-dật và sau cùng là đạo-sĩ xuất
thế-gian ( Sannyasin ). Ở mỗi giai-đoạn đời
sống có một số bổn-phận kèm theo. Không một
giai-đoạn nào cao quý hơn một giai-đoạn nào
cả. Đời sống của người có gia-thất cũng cao
quý như người xuất-gia tự hiến thân cho tôn-
giáo. Kẻ quét đường ở ngoài phố cũng có giá-
trị và vinh-dự như ông vua trên ngai vàng. Hãy
kéo nhà vua xuống ngai và bảo y làm việc quét
đường xem y làm ra sao. Đặt người quét đường
lên ngai vua mà xem y cai-trị thế nào. Thực là
hão-huyền bảo người xuất-gia tu hành cao quý
hơn người sống tại gia ; sống tại gia, nhập-thế
phụng-thờ Thượng-Đế còn khó hơn nhiều so
VIVE -KARMA
36
với kẻ xuất gia sống tự-do đời sống dễ dàng.
Bốn giai-đoạn đời sống Ấn-Độ sau này thu về
còn hai là tại-gia và xuất-gia. Người tại-gia lập
gia-đình và làm tròn bổn-phận công-dân, còn
người xuất-gia có phận-sự hiến tất cả năng-lực
cho tôn-giáo, truyền-giao và thờ phụng
Thượng-Đế. Tôi sẽ đọc vài đoạn Kinh Đại-Bát
Niết-Bàn ( Mahanirvana Tantra ) giải về vấn-đề
này để các anh sẽ thấy nhiệm-vụ của một người
tại-gia thật là khó-khăn biết bao để hoàn-thành
tất cả nhiệm-vụ của mình vậy .
Người tại-gia phải hiến thân cho Thượng-
Đế, mục-đích của đời y phải là biết Thượng-
Đế. Tuy nhiên y phải làm tròn tất cả bổn-phận
của mình ; Y phải cúng dâng kết-quả hành-vi
của mình cho Thượng-Đế .
Việc khó nhất trên đời này là hành-động
không để ý đến kết-quả, hành-động vô cầu,
giúp người mà không bao giờ nghĩ đến sự đền
ơn, biết ơn, làm việc từ-thiện mà không bao giờ
trông đợi hậu-quả có đem lại cho mình tiếng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
tăm danh-vọng hay là điều gì lợi không. Cả đứa
hèn nhất khi được thiên-hạ ca-tụng cũng trở
nên can-đảm. Một thằng điên có thể làm những
việc anh-hùng khi cả xã-hội khen-ngợi nó,
nhưng luôn luôn làm việc thiện không để ý
đến lời khen, chê của đồng bạn thì thực là sự
hy-sinh cao-cả nhất người ta có thể thành-tựu.
Phận-sự lớn của người tại-gia làm chủ gia-đình
là nuôi gia-đình, nhưng không được kiếm sống
bằng cách gian-trá, bóc-lột hay ăn-cắp của
người khác. Và nên nhớ kỹ đời mình là để
phụng-thờ Thượng-Đế và phục-vụ kẻ khó .
Biết rằng song thân là đại-diện của
Thượng-Đế, người chủ gia-đình phải luôn luôn
làm vui lòng song thân bằng mọi cách. Nếu cha
mẹ vui lòng thì Thượng-Đế cũng vừa lòng với
mình. Người con thực sự là người con tốt,
hiếu-thảo, thì không bao giờ nói nặng lời với
cha mẹ mình .
Trước mặt song thân, người con không
được nói đùa, không được nóng giận hay bất-
VIVE -KARMA
38
bình. Trước mặt cha mẹ người con phải cúi đầu
và phải đứng nghiêm-trang, không được ngồi
xuống trước khi cha mẹ cho phép .
Cũng tương-tự như thế về bổn-phận đối
với vợ hiền. Không được mắng chửi vợ mình
và luôn luôn phải cung-cấp như đối với mẹ. Cả
đến khi nào gặp sự khó-khăn và lo-lắng, người
chồng không được tỏ ra giận-dữ đối với vợ .
Kẻ nào nghĩ đến người phụ-nữ khác ngoài
vợ mình, dù chỉ có sơ trong ý-nghĩ, kẻ ấy cũng
phải đi vào ngục tối .
Trước mặt phụ-nữ, người chủ gia-đình
không được có luận-điệu bất-chính, không bao
giờ khoe-khoang quyền-thế. Không được nói :
" Tôi làm cái này hay tôi đã làm cái kia ".
Người tại-gia luôn luôn phải chiều vợ về
tiền-tài, tình-yêu, quần áo, tín-ngưỡng, lời
ngọt-ngào, êm-ái và không bao giờ làm điều gì
phật lòng, khiến cho vợ phải bối-rối. Người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
nào đã có được tình-yêu của người vợ hiền
trinh-tiết tức là đã thành-công về tôn-giáo và có
tất cả đức-tính .
Sau đây là phận-sự đối với con cái :
Con cái phải được nuôi-dưỡng thương
yêu cho đến khi chúng bốn tuổi, được giáo-dục
cho tới lúc mười sáu tuổi. Khi chúng hai-mươi
tuổi phải được dùng vào công việc gì, bấy giờ
cha chúng phải đối với chúng bình-đẳng với
tình phụ-tử. Đấy là đối với con trai. Còn con
gái cũng thế, nuôi dưỡng và giáo-dục cẩn-thận
hết sức. Và đến khi gả chồng, người cha phải
cấp cho nó nữ-trang và tiền-bạc làm của hồi-
môn .
Rồi đến bổn-phận của người chủ gia-đình
đối với anh chị em và các cháu. Nếu chúng
nghèo đói phải chu-cấp cũng như đối với họ-
hàng, bằng-hữu và tôi tớ của mình. Kế đến là
bổn-phận đối với dân làng, người nghèo khó và
bất cứ ai đến nhờ mình giúp-đỡ. Với đủ
phương-tiện, nếu người tại-gia chủ-nhà không
VIVE -KARMA
40
săn-sóc giúp-đỡ bà con thân-thích và người
nghèo khó, thì người ấy chỉ là kẻ bất-nhân, vô-
tình không còn là người nữa, mất nhân-tính .
Phải tránh sự quá lệ-thuộc vào ăn mặc,
chú-ý vào thân-thể và chải-chuốt. Người chủ-
nhà tại-gia phải có thân tâm thanh-khiết, hoạt-
động không ngừng và sẵn-sàng phục-vụ .
Đối với kẻ-thù, người chủ-nhà tại-gia
phải anh-dũng. Phải chống-đối chúng, đấy là
phận-sự. Y không được ngồi một xó khóc-lóc
và nói những điều bất-bạo-động vô-lý. Nếu y
không tự tỏ ra anh-dũng đối với kẻ-thù tức là y
không làm tròn phận-sự. Còn như đối với
bằng-hữu và bà con thì y phải hiền-lành như
con cừu non .
Bổn-phận của chủ gia-đình là không được
trọng-đãi kẻ ác, vì nếu y trọng-đãi kẻ ác ở thế-
gian là y che-chở tội ác. Và nếu y miệt-thị
những người đáng tôn-trọng, người lương-
thiện, ấy là một điều lầm lớn. Tình bằng-hữu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
không nên bồng-bột ; không được kết bạn bừa-
bãi bất cứ ở đâu. Y phải xem xét hành-vi của
những người mình muốn kết bạn, xem họ đối-
đãi với người khác thế nào, đắn đo trước khi
làm bạn với họ .
Ba điều không được nói khoe mình trước
công-chúng, khoe-khoang danh-giá hay thế-lực
của mình. Y không được khoe của hay điều gì
riêng tư liên-quan đến người khác .
Một người không được than nghèo hay
khoe giầu. Y không được khoe-khoang mình
giầu-có. Y hãy tự ý-thức trách-nhiệm của mình
đấy là bổn-phận tôn-giáo thiêng-liêng của y.
Đấy không phải chỉ là khôn-ngoan thế-tục, nếu
không làm thế thì y bị coi là vô-luân .
Người chủ gia-đình là cơ-bản, cột-trụ của
cả xã-hội. Y là người nuôi sống cả gia-đình.
Người nghèo, yếu, trẻ con, phụ-nữ là hạng
không lao-động -- tất cả đều sống vào lưng
người chủ gia-đình : vậy nên có một số phận-
VIVE -KARMA
42
sự mà y phải làm tròn, và những phận-sự ấy
phải khiến y cảm thấy cường-kiện để hoàn-
thành, và không khiến y nghĩ rằng y làm những
điều không tương-xứng với lý-tưởng của mình.
Bởi vậy, nếu y có làm điều gì nhu-nhược hay là
phạm điều gì lầm, y không được nói trước
công-chúng. Nếu y định tiến-hành công việc gì
và biết chắc mình thất-bại, y không được nói ra
miệng. Một sự thú tội công-khai như thế thì
không cần-thiết mà chỉ làm cho người ta nản
không còn khả-năng để làm tròn nhiệm-vụ
chính-đáng ở đời. Đồng thời y phải phấn-đấu
để có được những điều này : trước hết là trí-
thức hai là tài-hóa. Đấy là nhiệm-vụ của y và
nếu y không làm tròn thì đáng bị khinh-bỉ,
không phải là một nhân-cách. Người chủ gia-
đình không phấn-đấu để có tiền của là người
vô-luân. Nếu y lười-biếng, sống một đời ươn-
hèn thì y vô-luân vì hàng trăm người cậy trông
vào y. Nếu giầu có thì hàng trăm người khác
sẽ có phần được nhờ, được cưu-mang, giúp-đỡ.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
Nếu như trong đô-thị này không có hàng
trăm người nỗ-lực làm giầu và đã có được của-
cải thì có đâu tất cả nền văn-minh này và còn
đâu có các nhà cứu-tế xã-hội và các lầu cao
ngất trời kia ?
Ở trường-hợp này mà theo đuổi tài-hóa
thì không phải là xấu, vì tài-hóa là để phân-
phát. Người chủ gia-đình là trung-tâm đời sống
và xã-hội. Y phấn-đấu để thành giầu-có bằng
cách chính-đáng và vì mục-đích chính-đáng ấy
là một sự phụng-thờ của y khi y kiếm tiền-của
và tiêu đi chính-đáng. Y thực-hành cùng một
việc với nhà ẩn-dật trong hang-động cầu-
nguyện để giải-thoát, vì ở trong hang động,
Hành và Tàng chúng ta chỉ thấy có hai mặt
khác nhau của cùng một đức-tính : tự khắc
phục và tự-hỷ-sả hy-sinh -- Đó là tự hy-sinh
mình để hiến-dâng cái ngã riêng do những tư-
tưởng phụng-sự Thượng-Đế và cái gì thuộc
Thượng-Đế đã gợi lên .
VIVE -KARMA
44
Người chủ gia-đình phải nỗ-lực bằng mọi
cách để có được danh-tiếng tốt. Y không được
sống bằng nghề cờ-bạc, không được bè đảng
với kẻ ác, dối-trá và không gây phiền-não cho
người khác .
Nhiều khi người ta bắt tay vào những
công-việc mà không có phương-tiện để thành-
tựu, kết-quả là người ta phải dối-trá để đạt tới
đích, rồi ở tất cả các công việc người ta phải
xét đến yếu-tố thời-gian, điều gì thất-bại bây
giờ, có thể ở một lúc khác sẽ là một sự thành-
công lớn .
Người chủ gia-đình phải nói thành-thật và
nhu-hòa, dùng lời ngọt-ngào mà người ta ưa-
chuộng. Những lời nói có thể cải-thiện người
khác và không được nói đến công việc của
người khác .
Người chủ gia-đình phải đào giếng, trồng
cây bên vệ đường, làm cầu, làm quán cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
người và cho súc-vật, như thế cũng đi tới mục-
đích tối-cao như một đạo-sĩ .
Đấy là một phần của học-thuyết Nghiệp-
báo ( Karma Yoga ), hành-động là bổn-phận
của người chủ gia-đình .
Có một đoạn về sau nói rằng : Nếu người
chủ gia-đình chết trên bãi chiến-trường vì tổ-
quốc hay vì tôn-giáo của mình thì y cũng đi
đến đích như một đạo-sĩ ngồi thiền, như vậy
đủ tỏ rằng điều gì là bổn-phận của người này
mà không là của người khác. Đồng thời trong
Kinh không nói bổn-phận này thấp hèn, làm
cho người ta hèn đi, hoặc bổn-phận kia làm cho
người ta cao-quý lên. Mỗi bổn-phận có một vị-
trí riêng của nó và tùy theo với hoàn-cảnh mà
chúng ta phải thành-tựu bổn-phận của mình .
Có một ý-tưởng trong tất cả những điều
trên, ấy là ý-tưởng cấm-đoán tất cả sự nhu-
nhược. Đấy cũng là ý-tưởng đặc-biệt ở tất cả
những giáo-lý của chúng ta, mà tôi ưa nhất về
VIVE -KARMA
46
triết-học cũng như tôn-giáo hay hành-động.
Nếu các anh đọc Kinh Vệ-Đà, các anh sẽ thấy
luôn luôn danh-từ được nhắc đi nhắc lại là :
" Không nhu-nhược -- Vô-úy " .
Sợ-hãi là dấu hiệu của nhu-nhược. Một
người phải can-đảm chịu bổn-phận của mình,
không để ý tới lời dèm-pha phỉ-báng của người
đời .
Nếu một người xuất-gia rút lui khỏi xã-
hội để phụng-thờ Thượng-Đế, y không được
nghĩ rằng người tại-gia ở trong đời để làm điều
thiện cho thế-giới là vô-thần ; và người sống
trong đời tại-gia không được nghĩ rằng những
người xuất-gia là họ phiêu-lưu .
Mỗi người đều có giá-trị ở vị-trí của
mình, ý-tưởng đó sẽ được chứng-minh bằng
câu chuyện sau đây :
" Có một ông vua hay hỏi tất cả các
nhà đạo-sĩ tới nước mình rằng : “ Ai là sĩ-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
nhân, người xuất-gia để trở nên đạo-sĩ
hay là người tại-gia làm bổn-phận của
một người chủ gia-đình ? ”
" Có nhiều hiền-triết tìm-hiểu về
điều ấy và khẳng-định rằng đạo-sĩ là sĩ-
nhân, nhà vua bèn hỏi lấy gì làm bằng-
chứng. Khi họ không thể chứng-minh
được, nhà vua bèn bắt họ phải lập gia-
đình để trở thành chủ gia-đình. Rồi có
đạo-sĩ khác đến tâu với vua rằng : Chính
người chủ gia-đình làm tròn bổn-phận của
mình là sĩ-nhân, nhà vua cũng đòi bằng-
chứng. Đến khi họ không thể chứng-minh
được, họ cũng bị nhà vua bắt phải lập gia-
đình .
" Sau cùng có một đạo-sĩ trẻ tuổi
đến, và nhà vua cũng hỏi như thế. Đạo-sĩ
bèn trả lời : “ Ai nấy đều là sĩ-nhân ở vị-
trí của mình ”. Nhà vua bèn đòi phải
chứng-minh. Đạo-sĩ tâu : “ Tôi sẽ chứng-
minh, nhưng trước hết xin nhà vua hãy
đến và sống như tôi trong mấy ngày, bấy
VIVE -KARMA
48
giờ tôi mới có khả-năng chứng-minh cho
ngài điều tôi đã nói ” .
" Nhà vua bằng lòng đi theo đạo-sĩ.
Đi khỏi lãnh-thổ của mình rồi qua lãnh-
thổ của nhiều nước khác, cho tới khi hai
người cùng tới một đại-vương-quốc. Ở
kinh-đô vương-quốc này đang có một đại-
hội. Nhà vua và đạo-sĩ nghe thấy tiếng
trống, kèn và cả tiếng của người xướng-
ngôn-viên. Dân-chúng tụ-họp đầy đường
phố, mặc lễ-phục, và bấy giờ thì nghe
thấy lời tuyên-ngôn chính. Nhà vua và
đạo-sĩ đứng lẫn trong đám dân-chúng
xem sự việc diễn-tiến ra sao. Người phát
ngôn tuyên-bố : “ Công-chúa con vua của
nước này đang kén một người chồng
trong đám quần-chúng đang tụ-tập ở
đây ”.
" Ở Ấn-Độ vốn có một cựu-tục để
cho công-chúa kén chồng theo cách ấy.
Mỗi công-chúa đều có quan-niệm về
người chồng mà mình muốn kết-hôn. Một
số công-chúa muốn có một người chồng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
đẹp-trai, một số khác lại muốn kén người
bác-học, một số khác nữa lại muốn kén
người giầu-có v.v...
" Tất cả những hoàng-tử trong các
nước láng-giềng đều phô-trương bộ-diện
của mình và tự đến giới-thiệu với công-
chúa. Có khi họ còn mang theo người
phát-ngôn của họ để khoe-khoang ưu
điểm và lý-do mà hoàng-tử hy-vọng được
công-chúa kén chọn mình . .
" Công-chúa được rước trên kiệu
một cách hết sức huy-hoàng, vừa nhìn và
nghe về các hoàng-tử. Khi nào công-chúa
tỏ ra bất-mãn về sự nghe thấy của mình,
nàng sẽ giục những người khiêng kiệu đi
và không còn để ý tới vị hoàng-tử ấy nữa.
Tuy nhiên nếu công-chúa vừa ý về một
người nào trong đám hoàng-tử thì nàng sẽ
ném vòng hoa vào cổ người ấy và người
ấy sẽ được làm chồng của nàng .
" Nàng công-chúa ở nước mà nhà
vua và vị đạo-sĩ kia đi đến cũng đang
thiết-lập một buổi đại-lễ như thế. Nàng là
VIVE -KARMA
50
một công-chúa tuyệt đẹp và chồng nàng
sẽ là người kế-nghiệp ngôi vua của cha
nàng. Ý-niệm của nàng công-chúa này là
phải lấy một người chồng thật đẹp-trai,
nhưng nàng đã không thể tìm thấy người
nào vừa ý trong đám hoàng-tử. Vì thế nên
buổi lễ được thiết-lập liên-tiếp trong
nhiều ngày mà công-chúa vẫn chưa chọn
được một người chồng vừa ý. Buổi lễ này
là buổi lễ trịnh-trọng nhất, rất đông người
đến dự. Nàng công-chúa đi kiệu tới, và
người ta kiệu nàng hết chỗ này tới chỗ
khác trong đám hoàng-tử, nhưng nàng
không để ý tới một ai và các vị hoàng-tử
cũng thất-vọng, có lẽ buổi lễ này cũng đi
đến thất-bại. Chính lúc ấy có một vị đạo-
sĩ trẻ tuổi và rất đẹp trai như mặt-trời
giáng hạ, đang đứng ở một góc của đám
đông để xem hội. Kiệu của công-chúa
khiêng vừa tới gần đạo-sĩ này, nàng liền
nhìn thấy đạo-sĩ và lập tức nàng hạ lệnh
dừng kiệu lại, nàng từ từ quàng vòng hoa
lên cổ người đạo-sĩ .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
" Đạo-sĩ trẻ tuổi kia vội nắm vòng
hoa ném đi và kêu lên : “ Cái gì mà vô lý
thế này. Tôi là một đạo-sĩ, hôn-thú là cái
gì ? ” Nhà vua của nước này nghĩ rằng có
lẽ người kia nghèo nên không dám kết-
hôn cùng công-chúa, nên nói với đạo-sĩ :
“ Con ta sẽ có một nửa quốc-gia này ngay
bây giờ, và tất cả lãnh-thổ sau khi ta
chết ”. Nhà vua lại đặt vòng hoa lên cổ
đạo-sĩ. Đạo-sĩ lại ném vòng hoa đi lần thứ
hai, nói : “ Vô lý. Tôi không muốn lấy
vợ ”. Rồi bỏ chạy khỏi đám đông .
" Bấy giờ công-chúa đã thực sự cảm
phục vị đạo-sĩ trẻ tuôi kia, đến nỗi nàng
phải nói : “ Tôi phải lấy bằng được người
này, không thì tôi sẽ chết ”. Nàng chạy
theo đạo-sĩ để cố kéo lại. Chàng đạo-sĩ
chạy miết vào rừng-rậm hang sâu rồi biến
mất, công-chúa tìm mãi không thấy chàng
nữa, mỏi mệt ngồi xuống gốc cây khóc-
lóc vì nàng đã bị lạc không còn biết lối
về. Bấy giờ vị đạo-sĩ cùng đi với nhà vua
kể trên của chúng ta mới đến an-ủi công-
VIVE -KARMA
52
chúa : “ Đừng khóc nữa, chúng tôi sẽ dẫn
nàng ra khỏi rừng này, nhưng bây giờ tối
quá khó mà tìm ra lối đi. Đây có gốc cây,
chúng ta hãy nghỉ lại, sớm mai sẽ ra về ! ”
" Lúc ấy có một đôi chim và ba con
chim non đang nằm trên một tổ chim ở
trên ngọn cây. Con chim bố nhìn xuống
thấy có ba người khách trọ, mới nói với
con chim mẹ : “ Em ơi, chúng ta phải làm
gì đây ? Nay có ba người khách đến nhà
mình, trời lại rét, mà không có lửa sưởi !”
Thế rồi con chim bố bay đi, kiếm củi cầm
bằng mỏ đem về thả xuống cho khách. Ba
người khách thấy có củi bèn đốt lên đống
lửa sưởi. Nhưng con chim cha vẫn chưa
hài lòng, nó nói với con chim mẹ : “ Em
ơi, chúng ta phải làm gì nữa chứ ? Không
có gì cho họ ăn, và họ đang đói đấy.
Chúng ta là chủ-nhà, bổn-phận là phải đãi
khách đến nhà. Ta phải làm gì có thể
được, ta hiến thân ta cho họ ”. Nói rồi nó
liền đâm đầu xuống đống lửa để chết
thiêu. Khách thấy thế muốn cứu mà quá
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
muộn.
" Chim mẹ thấy chồng hy-sinh, nói :
“ Đây có những ba người mà chỉ có một
thân con chim thì làm sao đủ được. Bổn-
phận làm vợ ta không thể để cho chồng
hy-sinh uổng công. Hãy để cho khách có
thêm thân ta ! ” Rồi chim mẹ nhẩy vào
lửa mà chết .
" Bấy giờ ba con chim non thấy thế
mà vẫn chưa đủ cho khách ăn, nói với
nhau : “ Cha me chúng ta đã hiến thân
mà chưa đủ, bổn-phận làm con là phải nối
chí cha mẹ, hãy hiến cả thân chúng ta
nữa ! ” Rồi chúng lao cả vào lửa .
" Kinh-ngạc trước việc xẩy ra, ba
người khách dĩ-nhiên không nỡ ăn thịt
chim, đành nhịn cho đến sáng. Nhà vua
và đạo-sĩ của chúng ta chỉ đường cho
công-chúa về với vua cha. Bấy giờ đạo-sĩ
mới nói với nhà vua : “ Bệ-hạ ! Ngài đã
thấy ai nấy đều có giá-trị ở địa-vị của
mình. Nếu ngài muốn sống tại-gia, hãy
sống như những con chim kia, lúc nào
VIVE -KARMA
54
cũng sẵn-sàng tự mình hy-sinh cho người
khác .” "
"Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính_ Khổng-Tử"
Vũ-trụ giai ngô phận-sự .
Vũ-trụ chức phận nội .
Kinh luân khởi tâm thượng .
Binh giáp tàng hung trung .
Vũ-trụ chi gian giai phận-sự .
Nam nhi đáo thử thị hào hùng .
_( Nguyễn-Công-Trứ )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
CHƯƠNG I I I
BÍ - QUYẾT CỦA HÀNH - ĐỘNG
Giúp người về vật-chất bằng cách đỡ họ
về nhu-cầu vật-chất thì thực đã lớn. Nhưng có
sự giúp-đỡ lớn hơn, chừng nào nhu-cầu lớn
hơn và lâu dài. Nếu một người cần được giúp
trong một giờ, thì sự giúp-đỡ ấy thực có ích,
nhưng nếu y cần được giúp-đỡ trong một năm,
thì sự giúp-đỡ ấy còn ích lợi hơn, và nếu nhu-
cầu của y lâu dài mà được giúp-đỡ, thì đấy là
sự giúp-đỡ lớn-lao nhất .
Sự hiểu-biết tâm-linh, vật duy-nhất người
ta có thể nhờ đấy mà hết đau khổ, các hiểu-biết
khác chỉ thỏa-mãn người ta nhất thời. Chỉ có
hiểu-biết tâm-linh mới có thể tiêu-trừ mãi mãi
nhu-yếu của con người, bởi vậy mà giúp-đỡ
người ta về tâm-linh là sự giúp-đỡ cao-cả nhất.
VIVE -KARMA
56
Người nào đem lại cho người ta sự giúp-đỡ
hiểu-biết tâm-linh, ấy là đại ân-nhân của nhân
loại vậy, và bởi thế mà chúng ta thấy hạng
người thế-lực nhất của nhân-loại là người giúp-
đỡ nhu-cầu tâm-linh cho người ta, vì tâm-linh
là cơ-bản chân-thật chính-xác của tất cả hoạt-
động trên đời .
Một người có tâm-linh cao mạnh sẽ mạnh
về các phương-diện khác như ý muốn. Không
có sức-mạnh tâm-linh thì một người không thể
được thỏa-mãn cả về nhu-cầu vật-chất. Kế đến
là sự giúp-đỡ về trí-thức. Tặng-phẩm trí-thức là
tặng-phẩm cao hơn nhiều so với thực-phẩm và
quần áo, nó còn cao hơn cả sự hy-sinh đời sống
cho một người, vì sự sống chân-thật của người
ta là tri-thức : Sự vô-minh là chết, trí-thức hay
minh-đức là sống. Đời sống ít có giá-trị nếu là
một đời sống tối-tăm, lần mò trong đêm tối vô-
minh và đau khổ. Tiếp theo giúp-đỡ tri-thức là
cứu-tế về vật-chất. Bởi thế nên xét về vấn-đề
cứu-tế ta không nên lầm nghĩ rằng chỉ có cứu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
tế vật-chất là đủ. Nó chỉ là cứu-tế sau rốt và
kém nhất vì nó không giải-quyết được mãi mãi
nhu yếu của người ta. Sự đau khổ tôi cảm thấy
khi tôi đói khát sẽ mất khi tôi đã được ăn uống,
nhưng rồi chúng lại đến. Sự đau khổ chỉ hết khi
nào tất cả nhu-yếu của tôi được thỏa-mãn đầy
đủ. Bấy giờ tôi mới không bị đau khổ vì đói
khát nữa, không còn buồn phiền nào đến dầy
vò tôi nữa .
Bởi vậy, sự cứu-tế nào có thể làm cho tôi
mạnh về tâm-linh là sự cứu-tế cao-cả nhất ; kế
đến là cứu-tế tri-thức, sau cùng là cứu-tế vật-
chất .
Thế-giới chúng ta ngày nay không có thể
chữa khỏi thống khổ chỉ bằng cứu-tế vật-chất.
Cho tới khi nhân-tính có thay đổi, những nhu-
yếu vật-chất sẽ luôn luôn hiện lên và luôn luôn
chúng ta còn cảm thấy đau khổ, không một
cứu-tế vật-chất nào có thể chữa được hẳn. Giải-
pháp duy-nhất của vấn-đề là làm sao cho nhân-
loại tinh-khiết. Vô-minh ngu dốt là mẹ đẻ ra tất
VIVE -KARMA
58
cả các tội ác và tất cả đau-khổ mà chúng ta đã
thấy. Nhân-loại hãy có ánh-sáng, hãy trở nên
tinh-khiết và được giáo-hóa để có sức-mạnh
tâm-linh, chỉ đến bấy giờ thì thế-giới mới hết
đau-khổ. Chúng ta có thể biến tất cả các nhà
trong nước thành viện cứu-tế xã-hội, chúng ta
có thể dựng nhà-thương khắp mặt-đất, nhưng
đau-khổ của nhân-loại sẽ vẫn còn cho tới khi
nào nhân-tính biến-hóa khí-chất .
Đọc Kinh căn-bản Ấn-Độ-giáo Thế-Tôn-
Ca ( Bhagavad Gita ) có nhắc đi nhắc lại rằng
chúng ta phải làm việc, hành-động không
ngừng nghỉ. Tất cả công việc bản-thân nó gồm
có thiện và ác, tốt và xấu. Chúng ta không thể
làm một việc gì mà không tạo ra một điều thiện
ở một chỗ nào, không làm gì có việc nào không
tạo ra điều tai hại ở đâu. Mỗi công việc tất
nhiên là một sự trộn cả thiện lẫn ác. Vậy mà
chúng ta được mệnh-lệnh phải làm việc không
ngừng. Thiện và Ác cả hai đều có kết-quả sinh
ra Nghiệp. Hành-vi Thiện đưa đến hậu-quả tốt
cho ta, hành-vi xấu, quả xấu. Nhưng tốt và xấu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
đều là hệ-lụy của tâm-hồn. Giải-pháp của Kinh
Thế-Tôn-Ca cho sự hệ-lụy ấy là do bản-tính
của hành-vi sản sinh ra, là nếu chúng ta không
tự buộc vào hành-vi ta làm thì không có hậu-
quả hệ-lụy vào tâm-hồn. Chúng ta hãy thử hiểu
ý-nghĩa của sự " không lệ-thuộc " vào hành-vi
xem sao .
Đây là một ý-tưởng trọng-tâm trong Kinh
Thế-Tôn-Ca ( Gita ), làm việc không ngừng
nghỉ nhưng không hệ-lụy vào việc làm. Hành
( Samskara ) có thể dịch gần sát nghĩa là su-
hướng bẩm-sinh. Thí-dụ một hồ nước là tinh-
thần, mỗi làn sóng, mỗi lăn-tăn nổi lên trong
tinh-thần, khi lặn chìm không phải là mất hẳn,
nó để lại một vết-tích và khả-năng tái hiện.
Vết-tích ấy với khả-năng tái hiện của sóng thì
gọi là Hành. ( Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức )
( Rùpa ; Vedanà ; Sànjñà ;
Samskara ; Vijnàna ), Sắc thuộc vật-
lý ; Thụ, Tưởng, Hành thuộc tâm sở ; Thức
thuộc tâm vương .
VIVE -KARMA
60
Mỗi công việc ta làm, mỗi cử-động của
thân-thể, mỗi ý-nghĩ ta nghĩ ( Thân ; Khẩu ; Ý )
đều để lại ấn-tượng ở tinh-thần và cả khi những
ấn-tượng ấy không còn thấy rõ rệt ở trên mặt,
chúng vẫn đủ mạnh để hành-động bên dưới
mặt, trong tiềm-thức. Mỗi lúc ta là gì đều do
tổng-cộng những ấn-tượng tinh-thần quyết-
định. Ta là gì lúc này là hậu-quả của toàn-thể
những ấn-tượng đời sống đã qua. Chính cái ấy
gọi là nhân-cách, nhân-cách của mỗi người do
tổng-cộng những ấn-tượng ấy quyết-định. Nếu
ấn-tượng tốt trội hơn thì tính-cách trở nên tốt,
nếu xấu thì tính-cách xấu. Nếu một người luôn
luôn nghe lời xấu, nghĩ điều xấu, làm việc xấu,
tinh-thần y sẽ đầy ấn-tượng xấu, chúng ảnh-
hưởng vào ý-nghĩ cùng việc làm mà y không ý-
thức. Thực-tế thì những ấn-tượng xấu ấy luôn
luôn hành-động và kết-quả phải là xấu. Và
người ấy sẽ trở-thành người xấu, y không làm
sao khác được ; toàn-thể những ấn-tượng xấu
ấy ở y sẽ tạo ra một năng-lực động-cơ rất mạnh
để làm điều ác, y chẳng khác gì con người máy
trong tay những ấn-tượng xấu của y bắt y phải
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
làm ác. Cũng thế, nếu một người nghĩ những ý-
nghĩ tốt và làm điều tốt, toàn-thể những ấn-
tượng tốt ấy sẽ là tốt, và chúng cũng thế thúc-
đẩy y phải làm điều thiện và dù y không muốn
cũng không được. Khi một người đã làm được
nhiều việc thiện và nghĩ được nhiều ý-nghĩ
thiện đến mức có một khuynh-hướng ở y để
làm việc thiện không cưỡng lại được, tinh-thần
y cũng như toàn-thể khuynh-hướng của y sẽ
không cho phép y làm điều ác, những khuynh-
hướng thiện bắt y phải quay lại khi y tính làm
điều ác. Y hoàn-toàn chịu ảnh-hưởng của
những khuynh-hướng thiện. Khi nào trường-
hợp ấy xẩy đến thì nhân-tính thiện của một
người mới thật sự thiết-lập .
Cũng như con rùa thu chân và đầu vào
trong mai của nó, và ta có thể giết nó và đập nó
tan thành từng mảnh nó vẫn không thò đầu ra,
thì nhân-cách của một người đã chế-ngự làm
chủ được động-cơ và cơ-thể, cũng không thay-
đổi, thiết-lập bền vững rồi vậy. Nó khắc-phục
sức-mạnh nội-lực của y, và không gì có thể kéo
VIVE -KARMA
62
chúng ra trái với ý muốn của y được. Với sự
suy-tư liên-tục những ý-nghĩ tốt, những ý-nghĩ
chìm lặng trong tiềm-thức nổi hiện lên mặt
tinh-thần, khuynh-hướng làm thiện trở nên
mạnh, và kết-quả ta cảm thấy có khả-năng chế-
ngự được những căn ( indriyas ) ( giác-quan,
trung-khu thần-kinh ). Chỉ có như thế tính-cách
mới được thiết-lập ; chỉ đến lúc ấy một người
mới đạt đạo, chân-lý. Người ấy được độ vĩnh-
viễn, y không còn làm điều ác nữa, dù y đứng
trong bất cứ tập-thể nào, không còn tai-họa gì
đối với y .
Còn một trình-độ cao hơn nữa đối với
khuynh-hướng thiện ấy, đấy là ý muốn giải-
thoát. Ta nên nhớ rằng tự-do của tâm-hồn là
mục-tiêu của các đạo Yogas, và mỗi một đạo
Yogas ấy đều dẫn đến cùng một kết-quả. Chỉ
bằng hành-vi người ta có thể đạt đến bậc Phật
đã đạt được phần lớn bằng thiền-định. Christ
( Cơ-Đốc ) bằng cầu-nguyện. Phật là nhà Giác-
ngộ Hành-động. Christ là một nhà Sùng-bái
( Bhakta ) nhưng cả hai đều đạt tới cùng một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
đích. Đấy là vấn-đề nan-giải. Giải-thoát là
hoàn-toàn tự-do, giải-thoát khỏi hệ-lụy của
thiện cũng như của ác. Một giây xích bằng sắt
hay bằng vàng đều là xích cả. Ngón tay tôi có
một cái gai, tôi dùng một cái gai khác để nhể,
và khi đã nhể ra được rồi tôi liệng cả hai cái gai
đi, không cần giữ lại cái nào vì cả hai đều là gai
cả. Cũng như thế mà khuynh-hướng xấu do
phản-tác ở khuynh-hướng thiện và ấn-tượng
xấu ở tinh-thần phải được xóa đi bằng những
ba-động thiện cho đến khi nào tất cả điều ác
biến đi hầu hết hay là bị khuất-phục và chế-ngự
trong một xó tinh-thần. Nhưng sau cùng thì
khuynh-hướng thiện cũng phải được chinh-
phục. Vậy cái hệ-lụy trở nên vô-hệ-lụy. Hành-
động nhưng không để cho động-tác hay ý-nghĩ
sinh ra ấn-tượng xấu ở tinh-thần. Hãy để cho
những gợn sóng tới rồi lui, hãy để cho những
động-tác đồ-sộ xuất-hiện ở bắp thịt và não,
nhưng không để chúng tạo nên ấn-tượng sâu
vào tâm-hồn .
VIVE -KARMA
64
Sao có thể làm thế được ? Ta thấy rằng
ấn-tượng ở bất cứ động-tác nào ta lệ-thuộc vào
đấy đều còn lại. Tôi có thể gặp hàng trăm
người ban ngày và đến đêm tối về tôi thử nghĩ
ôn lại các bộ mặt tôi đã gặp, tôi thấy rằng chỉ
có bộ mặt nào tôi yêu là hiện lên tinh-thần, dù
có lẽ tôi chỉ mới gặp trong vài phút thôi, còn tất
cả bộ mặt khác biến mất. Sự lưu-luyến bộ mặt
đặc-biệt ấy đã in sâu ấn-tượng vào tinh-thần tôi
hơn các bộ mặt khác. Về sinh-lý thì những ấn-
tượng đã như nhau mỗi bộ mặt tôi thấy tự hiện
hình vào con người, rồi não-bộ thu lấy hình-
ảnh đó, vậy mà không có hiệu-quả ở tinh-thần.
Có lẽ phần nhiều bộ mặt đều hoàn-toàn mới
mẻ, mà tôi chưa hề nghĩ tới trước đây, nhưng
có một bộ mặt tôi chỉ thoáng thấy đã có liên-
tưởng trong tinh-thần. Có lẽ tôi đã hình-dung
bộ mặt ấy trong tinh-thần từ nhiều năm, biết về
nó hàng trăm điều, và sự nhìn thấy lần này làm
thức dậy hàng trăm ký-ức ngủ trong tiềm-thức.
Và một ấn-tượng này đã có lẽ nhắc lại hàng
trăm lần hơn là tất cả các bộ mặt khác, nó sinh
ra một hiệu-quả lớn ở tinh-thần .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
Bởi vậy, hãy không hệ-lụy, để mặc sự-vật
hành-động, hãy để cho não-bộ làm việc ; làm
việc không nghỉ nhưng chớ để cho một gợn
sóng chinh-phục tinh-thần. Hãy làm việc như
một lữ-khách trên trần-gian, một người tạm-trú.
Làm việc không dừng nhưng không để tự buộc
mình, hệ-lụy ghê-gớm lắm. Thế-gian này
không phải là nơi ở vĩnh-viễn của ta, nó chỉ là
một trong nhiều giai-đoạn ta phải trải qua. Hãy
nhớ câu này của Số-Luận ( Sankhya ) : “ Toàn
thể thiên-nhiên là để vì linh-hồn, không phải
linh-hồn vì thiên-nhiên .”
( )
" Nhân năng hoằng đạo phi đạo hoằng nhân "
Lý-do chính sự hiện-hữu của thiên-nhiên là để
giáo-hóa tâm-hồn, nó không có ý-nghĩa gì
khác ; nó hiện ra đấy vì tâm-hồn phải có hiểu-
biết, giác-ngộ và qua hiểu biết tự giải-thoát tự-
do. Nếu luôn luôn ta nhớ điều ấy thì chúng ta
sẽ không bao giờ lệ-thuộc thiên-nhiên, chúng ta
sẽ biết rằng tạo-vật thiên-nhiên là quyển-sách
để chúng ta đọc, và đến bao giờ chúng ta lượm
được tri-thức cần-thiết rồi thì quyển-sách
VIVE -KARMA
66
kia không còn giá-trị gì đối với ta nữa, " Tận
tín ư thư bất như vô thư _ Mạnh-Tử "
( )
Tuy nhiên, ngược lại chúng ta tự đồng-nhất-
hóa với thiên-nhiên mà nghĩ rằng tâm-hồn là vì
thiên-nhiên, tinh-thần là xác-thit, và như
phương-ngôn nói : " Người ta sống để ăn
không phải ăn để sống ". Chúng ta thường
thường phạm điều lỗi-lầm này và coi thiên-
nhiên như là mình rồi trở nên lệ-thuộc vào nó.
Và ngay lúc sự lệ-thuộc ấy bắt đầu liền có ấn-
tượng sâu vào tâm-hồn, nó kéo ta xuống, bắt
buộc ta không còn làm việc với tinh-thần tự-do,
" Vô vi nhi vi " ( ) mà làm việc như
nô-lệ .
Tất cả giá-trị của giáo-lý này là ta phải
làm việc như người chủ chứ không phải như
tôi-tớ. Luôn luôn làm việc nhưng không làm
việc một cách nô-lệ. Các ngươi chẳng thấy mọi
người làm việc thế nào ư ? Không một người
nào được hoàn-toàn thư-thả ; chín mươi phần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
trăm nhân-loại làm việc như nô-lệ và kết-quả là
sự khốn nạn, tất cả đấy là công việc vị-kỷ. Hãy
làm việc trong tinh-thần tự-do, trong tình yêu !
Danh-từ " Yêu " rất khó hiểu, không bao giờ
có tình-yêu trước khi có tự-do. Không có tình-
yêu chân-thật trong nô-lệ. Nếu ta mua một đứa
nô-lệ, trói buộc nó, bắt nó làm việc cho mình,
nó sẽ làm như tôi mọi, nhưng không làm gì có
tình-yêu ở nó cả. Vậy nên khi chính chúng ta
làm việc vì mục-tiêu trần-thế như nô-lệ thì
không có tình-yêu ở ta và công việc của chúng
ta không phải là việc làm chân-thật. Đấy thật là
hành-vi cho bạn-bè bà con và thật là hành-vi
cho chính mình. Hành-vi vị-kỷ là hành-vi nô-
lệ, và đấy là một tiêu-chuẩn : Mỗi hành-động
của tình-yêu đem lại hạnh-phúc ; không có
động-tác của tình-yêu nào không mang lại
phản-ứng bình-an và ân-huệ. Sinh-tồn chân-
thật, hiểu-biết chân-thật và tình-yêu chân-thật
vĩnh-viễn quan-hệ với nhau, tuy ba mà là một,
khi nào có một thứ thì hai thứ kia cũng phải có.
Chúng ta là ba mặt của Nhất bất nhị : Sinh-tồn;
Trí-thức ; Hoan-lạc ( Tri ; Hiếu ; Lạc ; ;
VIVE -KARMA
68
) ( Sat - Chit - Ananda ). Khi nào sinh-tồn
ấy tương-đối, chúng ta xem nó là thế-gian, cái
chân-tri ấy trở nên biến-đổi thành tri-thức về
sự-vật thế-gian, và cái hoan-lạc ấy làm cơ-bản
cho tất cả tình-yêu chân-thật mà tâm nhân-loại
biết. Bởi vậy mà tình-yêu chân-thật không bao
giờ có thể phản-tác để tạo nên đau buồn cho
người yêu cũng như người được yêu. Giả-thử
một người thanh-niên yêu một người phụ-nữ, y
muốn tư-hữu tất cả nàng riêng cho một mình
mình và cảm thấy hết sức ghen về nàng
thường-xuyên, y đòi nàng ngồi bên mình, đứng
cạnh mình, cử-động, ăn uống theo ý mình. Y là
một kẻ nô-lệ của nàng, và muốn nàng cũng là
nô-lệ của mình. Đấy không phải là tình-yêu,
đấy là một loại tình-cảm bệnh-hoạn của kẻ nô-
lệ, giả-trá làm tình-yêu. Nó không có thể là
tình-yêu vì nó chỉ là đau buồn ; nếu nàng
không làm theo ý muốn của y, y sẽ đau khổ.
Tình-yêu thật thì không có đau khổ phản-ứng
lại, nó chỉ đem lại phản-ứng hân-hoan. Nếu
không thế thì không phải là tình-yêu chân-thật,
đấy là lầm cái gì khác làm tình-yêu. Khi nào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
người ta đạt được sự yêu chồng, vợ, con, tất cả
thế-giới, vũ-trụ một cách không có phản-ứng
đau khổ hay ghen hờn, không có tình-cảm vị-
kỷ, bấy giờ người ta mới ở trong trạng-thái
tinh-thần không hệ-lụy ràng-buộc .
Chúa Krishna nói : " Hãy coi ta đây
Arjuna ! Nếu ta dừng hành-động một khoảnh-
khắc, tất cả vũ-trụ sẽ bị tiệu-diệt. Ta không cầu
gì trong việc làm, Ta là Chúa Tối-cao, nhưng
sao Ta phải làm việc ? Bởi vì Ta yêu thế-giới
tạo-vật ! " Thượng-Đế không lệ-thuộc vì Ngài
yêu thật, tình-yêu chân-thật làm chúng ta
không hệ-lụy. Ở đâu có hệ-lụy chấp-chước vào
tục-trần, ta phải biết rằng chỉ là vật-chất, sức
hấp-dẫn giữa hai cá-thể vật-chất ; cái gì nó làm
hai cá-thể hấp-dẫn càng ngày càng gần thêm,
và nếu không gần được nhau đầy đủ thì sinh ra
đau khổ. Nhưng ở đâu có tình-yêu thật thì nó
không giới-hạn cả vào vật-chất. Những người
tình-nhân ấy có thể xa cách nhau ngàn dặm mà
tình-yêu không thay-đổi, nó không mất đi và sẽ
không có phản-ứng đau buồn bao giờ hết .
VIVE -KARMA
70
Đạt được trình-độ vô-hệ-lụy ấy là cả một
cuộc đời làm việc, nhưng hễ đạt tới điểm ấy,
chúng ta đã tới đích của tình-yêu và được tự-do
giải-thoát. Hệ-lụy của thiên-nhiên rơi xuống và
chúng ta thấy được thiên-tính tự-nhiên, nó
không tạo ra xiềng-xích cho ta nữa. Chúng ta
được tự-do hoàn-toàn và không còn để ý vào
kết-quả của hành-vi .
" Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên ! "
Đạt tới đấy thì ai còn bận tâm về kết-quả
của hành-vi nữa .
Có bao giờ người ta cho con mình cái gì
mà mình đòi nó phải đền-đáp ? Phận-sự của ta
là phải làm cho con cái, thế là hết. Bất cứ điều
gì mình làm cho một ai, cho một quốc-gia, cho
một xã-hội, phải có thái-độ như đối với con
mình, chớ mong đợi có sự đáp lại. Nếu người
ta có thể giữ thái-độ của người bố-thí mà tất cả
vật bố-thí đều tự-do cho đi, hiến cho thế-giới
không chút nghĩ gì đến báo đáp trở lại thì bấy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
giờ hành-vi của ta mới không đem lại hệ-lụy.
Hệ-lụy chỉ sinh ra khi nào người ta mong đợi
có đền đáp báo lại .
Nếu làm việc như nô-lệ, kết-quả là sự vị-
kỷ và chấp-chước hệ-lụy. Làm việc như chủ
tinh-thần đem lại lạc-thú của tự-do vô-hệ-lụy.
Chúng ta thường nói về công-lý và chính-
nghĩa, nhưng chúng ta thấy trên đời công-lý và
chính-nghĩa chỉ là chuyện trẻ con, vô-nghĩa .
Có hai điều hướng-dẫn hành-vi nhân-loại,
quyền-năng và nhân-từ. Thi-hành quyền-năng
luôn luôn là thi-hành lòng vị-kỷ. Tất cả nam,
nữ cố khai-thác quyền-năng và lợi lộc mình có.
Nhân-từ là chính thiên-đường vậy. Tất cả
chúng ta muốn lương-thiện thì phải nhân-từ. Cả
đến công-lý và chính-nghĩa cũng phải căn-cứ
vào lòng nhân-từ. Tất cả ý-nghĩ thu-hoạch lợi-
lộc trong việc làm cản-trở tiến-bộ tinh-thần, và
cuối cùng đưa đến đau khổ. Có một cách khác
để thực-hành lý-tưởng nhân-từ và cứu-tế vô-tư,
ấy là coi việc làm như là hành-vi phụng-sự, ở
VIVE -KARMA
72
trường-hợp chúng ta tin vào một Thượng-Đế
nhân-cách-hóa. Ở đây người ta dâng tất cả kết-
quả của hành-vi mình làm lên Chúa, và thờ-
phụng Ngài, như thế người ta không có quyền
trông đợi gì ở nhân-loại về việc làm của mình.
Chính Chúa luôn luôn hành-động và không
từng hệ-lụy. Đúng như nước không từng làm
ướt lá sen thì việc làm cũng vậy, không buộc
người vô-cầu bằng hệ-lụy vào kết-quả của
hành-vi. Người vô-tư và không hệ-lụy có thể
sống giữa xã-hội ồn-ào và tội-lỗi mà không bị
nhiễm-ố bởi tội-lỗi .
Cái quan-niệm hoàn-toàn tự hy-sinh,
được câu chuyện sau đây minh-họa :
_ " Sau trận đại-chiến Kurukshetra,
năm anh em họ Bandava mở đại-lễ hiến
dâng và bố-thí quảng-đại cho người
nghèo. Nhân-dân ai nấy đều ca-tụng đại-
lễ và sự hiến dâng phong-phú, và đều tán-
dương cuộc lễ chưa từng có từ trước đến
giờ. Nhưng sau buổi hành lễ, có một con
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
vượn con ở đâu chạy đến, thân-thể nửa là
vàng ròng, nửa là lông nâu và nó bắt đầu
lăn mình trên sàn lễ-đường. Nó nói với
những người dự lễ chung-quanh : “ Các
ông giả-dối, đây không có gì là cúng dàng
cả ! ” _ Mọi người kêu lên : “ Sao, mày
bảo đây không phải là cúng dàng, mày
không biết bao nhiêu tiền-của châu-báu
đổ ra cho người nghèo, và ai nấy trở nên
giấu- có sung-sướng đấy ư ? Đây là một
lễ cúng dàng lạ lùng nhất từ xưa tới nay
mà người ta đã thành-tựu ! ” _ Nhưng con
vượn đáp : “ Có một làng kia, trong đó
có một nhà Bà-La-Môn nghèo sinh
sống với vợ, một con trai và một người
con dâu. Họ nghèo lắm, sống cả vào
công-quả của việc truyền-giáo và giảng
đạo. Chợt xẩy ra ba năm liền mất mùa,
nhà người Bà-la-môn này lại càng thiếu-
thốn hơn bao giờ hết. Sau cùng cả nhà
đều đói lả đã mấy ngày, người cha ra
ngoài vừa kiếm được chút bột ngô, chia
làm bốn phần cho cả nhà. Họ sửa-soạn
VIVE -KARMA
74
nấu ăn, khi sắp ăn thì chợt có người gõ
cửa. Người cha đứng ra mở cửa thì thấy
có một vị khách. Ở Ấn-Độ từ xưa có một
người khách là thiêng-liêng, ví như một
vị thần mà chủ nhà phải đối-đãi như vậy.
Thế nên người Bà-la-môn phải chào đón
khách vào nhà, mời ăn phần ăn của mình.
Ông khách liền ăn mau lẹ. Ăn xong còn
kêu là đói lả đã mười ngày, phần ăn này
chỉ càng làm đói thêm. Bấy giờ người vợ
nói với chồng : “ Ông hãy mời khách
phần ăn của tôi !” Và nàng nói : “ Đây là
một người nghèo đói, bổn-phận là vợ chủ
nhà là phải nhường nhịn để cho chồng
làm tròn nghĩa-vụ .” Ăn xong phần ăn
của người vợ chủ nhà, khách vẫn kêu đói.
Người con trai và con dâu theo gương mẹ
cũng nhường phần ăn của mình cho
khách. Ăn no rồi khách từ-giã ra đi sau
khi ban ơn phúc cho cả nhà. Hôm ấy cả
nhà, bốn người đều chết đói. Dưới sàn
nhà còn rơi ít hạt bột, và khi tôi lăn mình
lên trên thì nửa thân tôi biến thành vàng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
như các vị đã thấy đây. Từ đấy về sau tôi
đi khắp nước để tìm một sự hy-sinh như
thế, nhưng không còn thấy ở đâu có nữa,
không có ở đâu để một nửa thân còn lại
của tôi cũng biến nốt thành vàng. Bởi thế
nên tôi bảo ở đây không có gì là hy-sinh
cúng dàng cả ."
Cái quan-niệm bố-thí, cứu-tế ấy đã có ở
Ấn-Độ rất phổ-thông. Nhưng càng ngày những
đại tâm-hồn như thế càng hiếm có. Khi lần đầu
tôi học Anh-văn, tôi đọc được một quyển
truyện tiếng Anh, trong ấy có kể về một cậu
làm tròn bổn-phận mình vì cậu ta đi làm kiếm
được cho mẹ già một ít trợ-cấp, cử-chỉ ấy rất
được mọi người ca-tụng suốt mấy trang sách.
Thế là cái gì ? Không một đứa trẻ Ấn-Độ nào
hiểu nổi luân-lý đạo-đức của truyện ấy. Nay tôi
đã hiểu khi nghe nói quan-niệm của Tây-
phương là mỗi người vì mình, và một số thu
hết cho mình còn mặc cha, mẹ, vợ, con. Điều
ấy không bao giờ là lý-tưởng của người chủ
gia-đình Ấn-Độ .
VIVE -KARMA
76
Nay ta đã hiểu ý-nghĩa Đạo-Nghiệp là thế
nào. Dù cả đến chết để giúp mọi người, không
hỏi vì sao. Bị lừa hàng triệu lần mà không bao
giờ hỏi một câu, không bao giờ nghĩ mình đang
làm gì. Không bao giờ khoe mình đã bố-thí cho
người nghèo-khó hay mong đợi đền ơn, mà hãy
biết ơn người ta đã cho mình có cơ-hỗi để bố-
thí hay tế-độ. Vậy thì nhiệm-vụ người chủ gia-
đình khó-khăn gấp mấy nhiệm-vụ của nhà tu-sĩ
xuất-gia ( Sannyasin ). Cuộc đời hành-vi tại-
gia, làm việc đời thực ra cũng vất-vả gian-nan
bằng, nếu không là còn hơn cuộc đời ẩn-dật
chân-thật .
" Hàng tàng bất nhị kỳ quan "
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
*******************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
CHƯƠNG I V
BỔN-PHẬN LÀ GÌ ?
Nghiên-cứu Đạo Nghiệp ( Karma-Yoga )
thì cần phải biết ý-nghĩa bổn-phận là gì. Nếu
tôi phải làm việc gì thì trước hết tôi phải biết
đấy có phải là bổn-phận của tôi không rồi tôi
mới có thể làm được. Ý-tưởng hay quan-niệm
cũng tùy theo dân-tộc mà thay-đổi khác đi. Dân
Ả-Rập bảo cái gì có viết trong Kinh ( Koran )
của họ thì là bổn-phận đối với họ. Người Công-
giáo ( Gia-Tô-giáo ) bảo cái gì ở trong Thánh-
Kinh ( Bible ) là bổn-phận. Dân Ấn-Độ thì cho
cái gì ở Kinh Phệ-Đà ( Vedas ) là Bổn-phận.
Chúng ta dù thấy có nhiều quan-niệm khác
nhau rất phức-tạp về bổn-phận, khác nhau tùy
theo với điều-kiện sinh-hoạt khác nhau, thời-
đại lịch-sử khác nhau và dân-tộc khác nhau.
Cái danh-từ " bổn-phận " cũng như các danh-
từ trừu-tượng khác thì không thể giải-thích
được rõ-ràng, chúng ta chỉ có thể có một ý-
VIVE - KARMA
78
tưởng về nó, bằng cách nhận biết cách-thức
thực-hành và kết-quả của nó mà thôi. Khi nào
có một vật gì xẩy ra trước mắt chúng ta, thì
chúng ta đều cảm thấy xúc-động tự-nhiên hay
do thói quen để hành-động đối-phó với vật ấy
theo một cách nào. Tinh-thần bắt đầu suy-nghĩ
về vị-trí, có khi nó nghĩ rằng phải làm theo
một cách riêng-biệt nào trong những điều-kiện
định sẵn thì tốt, ở lúc khác, nó nghĩ rằng làm
như thế và cũng trong trường-hợp ấy là xấu.
Cái quan-niệm thông-thường về bổn-phận ở
các nơi là mỗi người lương-thiện tuân theo
lương-tâm của mình định-đoạt. Nhưng cái gì đã
làm cho một hành-động thành một bổn-phận ?
Nếu một người theo đạo Gia-Tô thấy miếng
thịt bò để trước mặt mà không ăn để cứu chính
mạng sống của mình, hay là không đem cho để
cứu sự sống của người khác, thì chắc-chắn nó
cảm thấy là nó không làm bổn-phận của nó.
Nhưng ngược lại, nếu một người Ấn-Độ dám
ăn miếng thịt bò ấy hay là đem cho một ngưòi
khác ăn thì chắc-chắn nó cảm thấy nó không
làm tròn bổn-phận của nó. Tập-quán và giáo-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
dục của người Ấn-Độ đã làm cho nó cảm thấy
như thế. Cách đây một thế-kỷ ở Ấn-Độ có một
bọn ăn-cướp có tiếng, gọi là bọn ( Thugs )
chúng nghĩ rằng những bổn-phận của chúng là
giết tất cả những người nào có thể giết để bóc-
lột ; cái số người chúng giết được càng nhiều
bao nhiêu thì chúng càng thấy tốt bấy nhiêu.
Thường thì nếu một người đi ra phố bắn chết
một người khác thi nó cảm thấy buồn-phiền
nghĩ là mình đã làm trái. Nhưng nếu người ấy
là một người lính trong đội-quân, thì không
những nó giết một người mà có thể nó còn giết
tới hai mươi người, nó chắc sẽ cảm thấy vui-vẻ
và tự nói rằng nó đã làm bổn-phận của nó trọn-
vẹn. Vậy chúng ta thấy rằng không phải lấy
việc làm mà định-nghĩa cho bổn-phận, định-
nghĩa bổn-phận một cách khách-quan thì hoàn-
toàn không thể được. Vậy mà đứng về phương-
diện chủ-quan vẫn có bổn-phận. Một hành-
động nào đưa chúng ta đến với Thượng-Đế là
một hành-động tốt và là bổn-phận của chúng ta,
một hành-động nào làm chúng ta đi trở xuống
là một tà ác và không phải là bổn-phận của
VIVE - KARMA
80
chúng ta. Đứng ở phương-diện chủ-quan chúng
ta có thể thấy rằng có những hành-động làm
cho chúng ta hăng-hái lên và cao-quý hơn, và
cũng có những hành-động có khuynh-hướng
làm cho ta trụy-lạc và đê-hèn. Nhưng không
thể vạch ra một cách chắc-chắn hành-động nào,
loại khuynh-hướng nào, đối với bất cứ ai, ở bất
cứ trường-hợp nào và bất cứ thuộc về chủng-
loại nào. Tuy-nhiên có một quan-niệm về bổn-
phận, được toàn-thể nhân-loại thừa-nhận ở các
thời, các môn-phái và các xứ, ấy là quan-niệm
tóm-tắt trong câu cách-ngôn tiếng Phạn này :
" Không nên làm hại một sinh-linh nào ;
Không làm hại đức tốt một sinh-linh nào ;
Làm hại một sinh-linh là phạm tội ."
" Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân "
_ ( Không-Tử )
Kinh Thế-Tôn-Ca ( Bhagavad Gita )
thường nói đến bổn-phận tùy theo với dòng-dõi
và địa-vị ở đời. Dòng-dõi và địa-vị ở xã-hội
quyết-định một phần lớn thái-độ, tinh-thần và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
luân-lý của những cá-nhân đối với những hoạt-
động phức-tạp. Vậy thì bổn-phận của chúng ta
là phải làm những công-việc gì, nó làm chúng
ta phấn-khởi và cao-thượng theo với những lý-
tưởng và hoạt-động của xã-hội chúng ta đã
sinh-trưởng. Nhưng ta phải nhớ riêng rằng
cũng vì những lý-tưởng và hoạt-động không
đều thích-đáng ở tất cả các xã-hội và xứ-sở đã
là nguyên-nhân chính để cho dân-tộc này thù
ghét dân-tộc kia là điều dở. Một người Mỹ nghĩ
rằng bất cứ cái gì, một người Mỹ làm theo
phong-tục ở xứ-sở mình là một việc tốt, nên
làm, và ai làm cái gì ở đâu không theo với
phong-tục ấy là một người tà ác nhất. Đó là cái
lầm hầu như tự-nhiên của tất cả chúng ta đều
có thể phạm vào. Nhưng đấy là một việc rất tai-
hại, và cũng là nguyên-nhân của một nửa sự
bất-nhân trên thế-giới. Khi tôi đến xứ này, đi
qua hội-chợ Chicago, một người từ đàng sau
kéo cái khăn của tôi. Tôi quay lại, thấy một
người có vẻ quý-phái, ăn mặc chải-chuốt, tôi
nói với y và khi y thấy tôi biết nói tiếng Anh
thì y ngượng chín. Một dịp khác, tôi lại đi qua
VIVE - KARMA
82
hội-chợ ấy, có người đẩy tôi một cái, khi tôi
hỏi y lý-do mà y đẩy tôi thì y cũng thẹn đỏ mặt,
lúng-túng nói câu xin lỗi : " Sao ông ăn mặc
ngộ như thế này ? " Những cảm-tình của những
người này chỉ giới-hạn ở trong ngôn-ngữ và
cách ăn mặc của mình mà thôi, bao nhiêu
những sự đè-nén đưa đến cho dân mạnh đối với
dân yếu duyên-do chỉ bởi sự ngộ-nhận như thế.
Nó làm khô cạn cả tình bằng-hữu giữa những
người bạn. Chính cái người hỏi tôi tại sao tôi
không ăn mặc như y và muốn xử tệ với tôi vì
cái áo của tôi có thể là một người rất lương-
thiện, một người cha tốt, một người dân tốt,
nhưng bao nhiêu tính tốt của y biến mất khi y
trông thấy một người ăn mặc khác với y. Ở các
xứ những người ngoại-quốc đều bị trục-lợi vì
không có cách để mà tự-vệ ; như thế đến khi về
nhà, họ có cảm-tưởng sai về các dân-tộc mà họ
đã gặp. Thủy-thủ, binh-lính, lái-buôn hành-
động ở những đất lạ một cách lố-lăng, mà họ
không bao giờ mơ-màng làm như thế ở chính
xứ họ, có lẽ thế mà người Trung-Hoa gọi
những người Âu, Mỹ là " Quỷ xứ lạ ". Họ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
không bảo như thế nếu họ từng được gặp cái
hay cái tốt của đời sống Âu-Tây .
Cho nên một điều chúng ta phải nhớ là
luôn luôn chúng ta phải cố nhìn bổn-phận của
người khác ở con mắt của họ, và không bao giờ
xét-đoán phong-tục của dân-tộc khác theo
mực-thước của mình. Ta không phải là mực-
thước của vũ-trụ. Ta phải thay-đổi ta để thích-
ứng với vũ-trụ, và không kéo vũ-trụ xuống
trình-độ của ta. Vậy ta thấy rằng hoàn-cảnh
thay-đổi tính-chất về bổn-phận của ta, và làm
bổn-phận ở thời nào của chúng ta là điều tốt
hơn cả mà chúng ta có thể làm được ở thế-gian
này. Chúng ta hãy làm bổn-phận, nó là bổn-
phận của chúng ta vì dòng-dõi, và khi nào
chúng ta đã làm xong bổn-phận ấy, chúng ta
làm bổn-phận vì địa-vị của chúng ta ở xã-hội.
Tuy nhiên ở bản-tính nhân-loại có một huyễn-
tưởng lớn, tức là người ta không bao giờ tự xét
mình. Nó nghĩ rằng nó hoàn-toàn xứng-đáng
làm một ông vua trị dân ; dù rằng nó có được
như thế thì trước hết nó phải tỏ rằng nó làm
VIVE - KARMA
84
bổn-phận ở địa-vị của nó đã, rồi thì bổn-phận
cao hơn sẽ đến. Khi chúng ta bắt đầu làm việc
một cách nhiệt-thành ở thế-gian, tạo-vật đem
lại cho ta sự nẩy-nở ở chung-quanh và giúp
chúng ta tìm thấy địa-vị của chúng ta, không
một người nào có thể chiếm một địa-vị lâu bền
và thỏa-mãn mà nó không xứng-đáng. Không
có ích-lợi gì mà càu-nhàu với sự xếp đặt của
tạo-hóa. Người ta làm những công việc thấp
hèn không phải vì thế mà là người hèn-mọn,
người ta không thể xét một người nào chỉ bằng
tính-chất phận-sự, nhưng phải xét tất cả người
ta bằng cách-thức và tinh-thần của họ khi họ
làm những phận-sự ấy .
Sau này chúng ta sẽ thấy cả đến quan-
niệm về bổn-phận cũng thay-đổi, và công-việc
làm có giá-trị nhất chỉ là khi nào không có
động-cơ vị-kỷ thúc-đẩy. Tuy nhiên chính công
việc làm với tinh-thần bổn-phận nó đưa ta đến
chỗ làm việc không có chút ý-nghĩa gì về bổn-
phận, đó là khi nào làm việc trở nên phụng-sự,
hơn nữa là trở nên cái gì cao-cả hơn, thì bấy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
giờ công việc làm mới là tự giải-thoát cho
mình. Chúng ta sẽ thấy triết-lý của bổn-phận ở
hình-thức luân-lý, hay ở hình-thức tình-yêu đều
giống nhau trong các đạo Yogas khác nhau --
Mục-đích là làm giảm cái " Ngã " thấp hèn để
cho cái " Ngã " chân-chính và cao-quý có thể
chiếu sáng ra được ; giảm bớt sự phao-phí
năng-lực ở trình-độ sinh-sống thấp thì tinh-thần
mới có thể phát-hiện ra ở trình-độ sinh sống
cao hơn. Người ta thành-tựu điều ấy bằng sự
luôn luôn từ bỏ dục-vọng thấp hèn đi, là điều
cần-thiết cho bổn-phận. Tất cả tổ-chức của xã-
hội đã phát-triển như thế một cách ý-thức hay
vô ý-thức, trong phạm-vi hành-động và kinh-
nghiệm, trong ấy chúng ta mở con đường phát-
triển của vô hạn chân-tính con người, bằng sự
giới-hạn cái tư-dục vị-kỷ .
Bổn-phận ít khi ngọt bùi. Chỉ khi nào tình
ái ví như đổ dầu vào bánh xe, thì bánh xe bổn-
phận mới chạy một cách êm dịu, nếu không thì
luôn luôn có sự gằn xiết. Làm thế nào mà cha
mẹ có thể làm tròn phận-sự với con một cách
VIVE - KARMA
86
khác như thế ; chồng làm trọn bổn-phận đối với
vợ, và vợ làm tròn bổn-phận đối với chồng, các
con làm tròn bổn-phận đối với cha mẹ một
cách khác thế được không ? Chúng ta chẳng
thường gặp những trường-hợp gằn xiết ấy hàng
ngày trong đời chúng ta ư ? Bổn-phận chỉ ngọt
bùi trong tình ái và tình ái chỉ sáng tỏ trong tự-
do. Vậy thì phải chăng là tự-do khi nào nô-lệ
cho vật-dục, cho giận-dữ, cho ghen-tỵ, và cho
hàng trăm những vật nhỏ-nhen khác xẩy ra
hàng ngày trong cuộc đời của ta ư ? Trong tất
cả những cái gai-góc nhỏ ấy mà chúng ta
thường gặp ở đời thì cái biểu-thị cao nhất của
tự-do là nhẫn-nại. Phụ-nữ làm nô-lệ cho máu
ghen-ghét và giận-dữ của mình, có thể trách lỗi
chồng và tuyên-bố cái " tự-do " của mình như
họ tưởng, không biết như thế là họ chỉ chứng-
tỏ họ là nô-lệ. Với những người chồng cũng
vậy, luôn luôn tìm thấy chỗ phàn-nàn của vợ
mình .
Trinh bạch là đức-tính hàng đầu ở người
đàn-ông hay ở người phụ-nữ, và một người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
đàn-ông dù sa ngã đến đâu đi nữa mà không có
thể đưa về con đường chính-đáng bởi tay một
người vợ hiền và chân-chính thì thực là hiếm.
Cuộc đời tuy-nhiên, không đến nỗi xấu đến thế.
Chúng ta nghe nói nhiều về những người chồng
vũ-phu trên thế-giới và về những người đàn-
ông ô-trọc, nhưng chẳng phải số người đàn-bà
ô-trọc và vũ-phụ cũng nhiều bằng đàn-ông hay
sao ? Nếu tất cả những người đàn-bà đều tốt và
trinh-bạch như họ đã tuyên-bố luôn miệng để
cho người ta có thể tin được, thì tôi dám chắc
sẽ không có một người đàn-ông nào ô-trọc trên
thế-giới. Còn có sự vũ-phu nào mà sự tinh-
khiết và trinh-bạch không thể thắng đoạt được?
Một người vợ hiền và trung-trinh nghĩ về
những người đàn-ông khác trừ chồng mình ra
đều coi như là con mình vậy, và có một thái-độ
như một người mẹ đối với tất cả những đứa con
thì sẽ có một năng-lực rất lớn về sự trong-sạch
của mình, đến nỗi không có một người đàn-ông
nào, dù vũ-phụ thô-tục mấy chăng nữa mà lại
không hấp-thụ không-khí cao-thượng ở trước
mặt người ấy. Những người chồng cũng phải
VIVE - KARMA
88
nhìn tất cả những người đàn-bà như thế, nghĩa
là trừ vợ mình ra còn đều coi như là mẹ mình,
chị mình hay em gái mình cả. Người ấy nếu lại
muốn là một sư-phụ về đạo-học, phải coi tất cả
những người đàn-bà như mẹ mình và luôn luôn
cư-xử với người ta như thế. Địa-vị của một
người mẹ là địa-vị cao-quý nhất trên thế-giới,
được coi là một địa-vị để học-tập và thực-hành
chủ-nghĩa vô-tư vĩ-đại. Tình-yêu Thượng-Đế
mới là tình-yêu cao hơn của người mẹ ; còn các
tình-yêu khác đều thấp hơn cả. Bổn-phận của
người mẹ là nghĩ đến con trước rồi mới nghĩ
đến mình sau. Nhưng đáng lẽ như thế, nếu cha
mẹ luôn luôn nghĩ đến mình trước thì kết-quả
là giữa cha mẹ và các con sẽ có sự tương-quan
giống như loài chim mẹ và chim con ; chim
con hễ đủ lông cách là không nhận cha mẹ nữa.
Phúc thay cho người nào có thể coi người đàn-
bà như là đại-biểu tình mẫu-tử của Thượng-Đế.
Phúc thay cho người nào có thể coi người đàn-
ông như là đại-biểu tình phụ-tử của Thượng-
Đế. Trời tựa những người con coi cha mẹ như
hiện-thân của Thượng-Đế ở trần-gian .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
Chỉ có một đường tiến lên là làm bổn-
phận gần mình, rồi cứ thế mà đi thu-thập sức-
mạnh cho đến khi đạt tới trình-độ tối-cao. Một
người đạo-sĩ trẻ đi vào rừng, ở đấy y mặc-
niệm, phụng-sự và thực-hành đạo Yoga một
thời-kỳ lâu. Sau ít năm khổ-hạnh và thực-hành,
một hôm y ngồi dưới gốc một cây kia, gặp lúc
có mấy chiếc là khô rơi xuống đầu, y nhìn lên
và thấy một con quạ và một con ngỗng trời
đang đánh nhau trên ngọn cây làm cho y buồn
rầu. Y nói : " Quái nhỉ, sao ngươi dám ném
những lá khô xuống đầu ta ?" Theo sau lời ấy,
y tức-giận phun lên chúng một tia lửa từ đỉnh
đầu y xuất ra -- đấy là năng-lực của nhà đạo-sĩ
-- và đốt hai con chim thành than. Y lấy làm
hài-lòng phần lớn về sự phát-triển năng-lực ấy
-- Y đã có thể đốt con ngỗng và con quạ bằng
một cái nhìn.-- Sau đấy y đi vào tỉnh để khất-
thực, đi tới trước một căn nhà, y nói to : " Mẹ
ơi ! cho con ăn " . Một tiếng từ trong nhà trả
lời ra : " Hãy chờ một chút con ạ ! " Người
đạo-sĩ trẻ nghĩ : " Con đàn-bà khốn-nạn, sao
dám bắt ta chờ, mi không biết bản-lãnh của ta
VIVE - KARMA
90
sao ? " Trong khi y nghĩ như vậy thì lại có
tiếng nói đưa ra : " Con ơi ! chớ nên tự-phụ
thái-quá. Ở đây không có ngỗng và quạ đâu ".
Y lấy làm ngạc-nhiên, rồi y đành đứng chờ.
Sau cùng người đàn-bà mở cổng bước ra, y liền
quỳ sụp xuống chân bà và nói : " Mẹ ơi ! Sao
mẹ lại biết được điều con nghĩ ? " Bà ta trả lời :
" Con ơi ! Ta không biết gì đến đạo Yoga và
những sự tu-hành của con.Ta chỉ là người đàn-
bà thông-thường của hàng ngày, ta để con chờ
vì chồng ta đang ốm và ta đang cho người ăn.
Suốt đời ta phấn-đấu để ta làm tròn bổn-phận
của ta. Khi ta chưa lấy chồng, ta làm bổn-phận
của ta đối với cha mẹ ; bây giờ ta có chồng, ta
làm bổn-phận của ta đối với chồng ; đấy là tất
cả đạo Yoga ta thực-hành. Nhưng trong khi ta
làm bổn-phận của ta thì ta được giác-ngộ, vì
thế mà ta có thể đọc được ý-nghĩ của con và
con đã làm gì ở trong rừng. Nếu con cần biết
hơn thế nữa, con đi đến một cái chợ ở tỉnh kia,
con sẽ thấy một người hạ-cấp Vyâdha, nó sẽ
bảo con những điều mà con sẽ vui lòng được
biết " . Người đạo-sĩ nghĩ : " Tại sao ta lại phải
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
đi đến cái tỉnh ấy và tới hỏi một người hạ-cấp
Vyâdha ? " Sau khi y đã thấy như vừa rồi, tinh-
thần y cũng đã mở ra đôi chút, vậy nên y cũng
đi, khi đi gần đến tỉnh kia, y thấy một cái chợ,
đứng từ đàng xa, y thấy một người hạ-cấp
Vyâdha to béo đang thái thịt với con dao phay,
y đang nói và mặc-cả với những người khách-
hàng. Nhà đạo-sĩ trẻ tự hỏi : " Trời ơi ! phải
chăng đây là một người mà tôi đang đến để
học ? Nó là hiện thân của một quỷ-sứ ". Ngay
lúc ấy người hàng thịt kia nhìn lên, nói : " Ôi,
đạo-sĩ đấy à ? Có phải người đàn-bà kia bảo
anh đến đây không ? Anh hãy ngồi chờ để tôi
làm xong công việc của tôi đã ". Nhà đạo-sĩ
nghĩ : " Lại cái gì xẩy ra cho tôi nữa đây ? " Y
bèn ngồi xuống ghế, còn người kia tiếp-tục
công việc của mình, sau khi xong việc, thu nhặt
tiền bạc, y bảo với đạo-sĩ : " Mời ngài về nhà
tôi ". Tới nhà, người hạ-cấp Vyâdha kéo ghế
cho đạo-sĩ ngồi và nói : " Chờ đấy ". Y bỏ mặc
cho đạo-sĩ ngồi và đi vào trong nhà tắm rửa
cho cha mẹ già của y, hầu cơm nước và làm tất
cả các công việc cho cha mẹ để cha mẹ y được
VIVE - KARMA
92
hài lòng. Xong đâu đấy, y trở ra với đạo-sĩ và
nói : " Thưa ông, ông đã đến đây thăm tôi, bây
giờ tôi có thể làm gì giúp ông được ? " Người
đạo-sĩ hỏi y ít câu hỏi về linh-hồn và Thượng-
Đế ; người hạ-cấp đã đọc cho đạo-sĩ một phần
của chuyện Mahaphâtata, gọi là Kinh Vyâdha
Gita . Ở đấy có một đoạn tối-cao của Kinh
Vedanta. Khi người hạ-cấp đọc xong, nhà đạo-
sĩ hết sức ngạc-nhiên. Đạo-sĩ nói : " Sao ngài
lại ở thân hình này ? Với cái tri-thức ấy sao
ngài lại hiện thân vào một người hạ-cấp
Vyâdha này và làm những công việc bẩn-thỉu
xấu-xa này ? " Người hạ-cấp trả lời : " Con ơi !
Không bổn-phận nào là xấu-xa , không bổn-
phận nào dơ-bẩn, dòng-dõi của ta đặt ta ở
trường-hợp và hoàn-cảnh này. Thời thiếu-niên
ta học buôn, ta không hệ-lụy và cố làm trọn-
vẹn công việc của ta. Ta chẳng biết đạo Yoga
của anh, và ta cũng chẳng phải là đạo-sĩ, ta
cũng chẳng xuất-thế đi vào rừng. Tuy vậy mà
tất cả những điều anh nghe và nhìn thấy đều
đến cho ta qua sự làm tròn bổn-phận một cách
vô-tư thuộc vào chức nghiệp của ta ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
Có một người hiền ở Ấn-Độ, một đạo-sĩ
nổi tiếng, một người lạ nhất mà tôi đã gặp ở đời
tôi. Ông ta là một người đặc-biệt, không muốn
dạy một ai ; nếu ai hỏi ông, ông không trả lời.
Giữ địa-vị một giáo-sư thì nặng-nề cho ông
quá, ông không muốn làm. Nếu anh hỏi ông
một câu và chờ mấy ngày, trong câu chuyện
liên-miên, ông sẽ đề-cập tới vấn-đề, và ông soi
chiếu những ánh-sáng lạ-lùng vào vấn-đề ấy.
Có một lần ông bảo tôi cái bí-quyết về hành-
động : " Hãy nối cái mục-đích và phương-tiện
vào làm một " . Khi nào làm việc gì đừng nên
suy-nghĩ vào cái gì xa hơn. Hãy làm công việc
ấy như là anh phụng-sự đấng thiêng-liêng và
tận-tụy tất cả cuộc đời anh vào đấy trong khi
làm, bởi thế ở câu chuyện người hạ-cấp
Vyâdha và người đàn-bà kia làm phận-sự của
mình một cách vui-vẻ, thành-tâm. Và kết-quả
là họ được giác-ngộ rõ-ràng như thế, tức là sự
thành-tựu ở các cảnh-ngộ sống, không bận tâm
vào kết-quả sẽ đưa chúng ta tới sự thực-hiện
tối-cao là sự thành-tựu tâm-linh .
VIVE - KARMA
94
Những người nào hành-động lệ-thuộc vào
kết-quả mới phàn-nàn tính-chất của bổn-phận
mình, đối với người không hệ-lụy thì phận-sự
nào cũng đều tốt cả và là khí-cụ linh-lợi để
tiêu-diệt lòng vị-kỷ và lòng vật-dục, bảo-đảm
sự giải-thoát của tâm-hồn. Tất cả chúng ta đều
nghĩ về mình một cách quá tự-phụ. Bổn-phận
của chúng ta là do phẩm-giá của chúng ta cho
một triển-vọng lớn lao hơn là cái mà chúng ta
muốn chờ. Sự cạnh-tranh gây nên ghen-tỵ và
diệt mất tính tốt ở tâm. Đối với người hay
phàn-nàn thì phận-sự nào cũng vô-vị. Không
có gì làm cho y được hài lòng, và cả đời y chỉ
để trưng-bày một sự thất-bại. Chúng ta hãy
hành-động, hành-động bất cứ phận-sự đến với
ta như thế nào, và bao giờ cũng sẵn-sàng kề vai
gánh-vác. Được như thế chắc-chắn chúng ta sẽ
nhìn thấy ánh-sáng .
" Có con phải khổ vì con ;
Có chồng gánh-vác giang-sơn nhà chồng"
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
CHƯƠNG V
CHÚNG TA TỰ GIÚP MÌNH
KHÔNG PHẢI GIÚP THẾ-GIAN
Trước khi tiếp-tục tìm hiểu vấn-đề xem
bổn-phận có thể giúp chúng ta về sự tiến-bộ
tâm-linh như thế nào, chúng ta hãy biết qua
một phương-diện khác về ý-nghĩa của chữ
" Karma " như Ấn-Độ đã hiểu. Bất cứ ở tôn-
giáo nào cũng có ba phần : Triết-lý ; Thần-
thoại và Lễ-nghi. Triết-lý là tinh-túy của đạo,
Thần-thoại giải-thích và tượng-trưng cái đạo ấy
bằng những tiểu-sử của các vĩ-nhân, điểm-
xuyết bằng những truyện và ngụ-ngôn thêm ít
nhiều huyền-bí về những sự thần-kỳ... Lễ-nghi
cụ-thể-hóa cái triết-lý ấy hơn nữa để cho ai nấy
cùng có thể hiểu được. Sự thực lễ-nghi là triết-
lý cụ-thể hóa. Hình-thức lễ-nghi ấy là Nghiệp
( Karma ). Ở mỗi tôn-giáo đều cần đến lễ-nghi,
bởi vì phần đông chúng ta không hiểu nổi tâm-
VIVE - KARMA
96
linh trừu-tượng nếu chúng ta chưa tiến-triển
khá về tâm-linh. Người ta hay nghĩ rằng, người
ta có thể hiểu bất cứ một điều gì, nhưng trên
thực-tế thì người ta thấy ngay những ý-tưởng
trừu-tượng là khó hiểu. Bởi thế cho nên những
tượng-trưng là trợ-lực lớn cho chúng ta và
chúng ta không thể bỏ qua được phương-pháp
tượng-trưng để đạt tới sự-vật trước mắt chúng
ta. Từ thời Thái-Cổ người ta đã dùng những
tượng-trưng cho tất cả các tôn-giáo. Ở một
phương-diện chúng ta chỉ có thể suy-nghĩ bằng
tượng-trưng ; ngôn-ngữ chính cũng chỉ là
những biểu-tượng của tư-tưởng. Ở một
phương-diện khác, các vật trong vũ-trụ có thể
coi là những tượng-trưng. Toàn-thể vũ-trụ là
một tượng-trưng và Thượng-Đế là tinh-túy ẩn
bên trong. Loại tượng-trưng ấy không phải là
sản-phẩm của loài người. Không phải rằng
những tín-đồ của một tôn-giáo nào hội-họp
nhau lại và đặt ra những tượng-trưng từ trong
tinh-thần của họ. Những tượng-trưng của tôn-
giáo đều có một sự sinh-tồn tự-nhiên, nếu
không thì tại sao một số tượng-trưng này lại
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
phù-hợp với những ý-tưởng kia ở tinh-thần của
phần lớn dân-chúng ? Có những tượng-trưng
thường được phổ-thông công-nhận. Chúng ta
phần đông có thể nghĩ rằng chữ Thập ( † ) có,
trước tiên là do đạo Cơ-Đốc lấy làm tượng-
trưng ; nhưng sự thực nó đã có trước khi có đạo
Cơ-Đốc, trước khi Chúa Jésus ra đời ; trước khi
Kinh Phệ-Đà ra đời. Trước khi có sử sách của
nhân-loại. Chữ Thập ( † ) đã thấy hiện ra ở dân
AZTEC và dân PHENICI, mỗi dân-tộc hình
như đã có một Thập-Giá. Rồi thì tượng-trưng
của đức Cứu-Thế bi giết trên cây Thập-Giá,
của một người bị đóng đinh trên chữ Thập thì
các dân-tộc mới biết đến. Cái vòng-tròn đã là
một tượng-trưng lớn của thế-giới. Rồi đến một
tượng-trưng phổ-biến nhất là chữ VẠN
( SWASTIKA ). Đã có một thời người ta nghĩ
rằng những dân theo đạo Phật mang chữ VẠN
theo với họ khắp thế-giới, nhưng sau người ta
thấy rằng, trước thời-kỳ Phật-giáo, các dân-tộc
khác đã dùng nó. Ở đất cổ Ba-Bi-Luân tại Ai-
Cập người ta đã thấy nó. Như thế thì tượng-
trưng có ý-nghĩa gì ? Tất cả những tượng-trưng
VIVE - KARMA
98
ấy không phải chỉ là một sự công-ước. Ở đấy
tất phải có một lý-do gì ! Một sự liên-lạc gì
giữa chúng và tinh-thần nhân-loại. Tiếng nói
" Ngôn-ngữ " không phải là kết-quả của sự
công-ước ; không phải rằng người ta đồng lòng
biểu-hiệu những ý-tưởng gì bằng những tiếng
nào ; không bao giờ có một ý-tưởng lại không
có một danh-từ tương-đương, hay là một danh-
từ lại không có một ý-tưởng tương-đương. Ý-
tưởng và danh-từ bản-nhiên không thể lià nhau,
những tượng-trưng đại-diện cho những ý-tưởng
là những tượng-trưng thanh-âm hay mầu sắc.
Những người câm, điếc phải suy-nghĩ bằng
những tượng-trưng khác với những tượng-
trưng thanh-âm. Mỗi một ý-nghĩ ở trong tinh-
thần lại có một hình-tượng đại-biểu cho nó. Ở
triết-lý Phạn người ta gọi cái ấy là " Nama
Rupa " ( Hình danh, Sắc tướng ). Người ta
không thể tạo bằng sự công-nhận cả một hệ-
thống biểu-tượng như là tạo ra một ngôn-ngữ.
Trong những biểu-tượng lễ-nghi của thế-giới
chúng ta thấy một sự diễn-tả tư-tưởng đạo-học
của nhân-loại. Bảo rằng những hình-thức lễ-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
nghi, những đền, chùa và tất cả những rườm-rà
ấy không ích-lợi gì là một điều dễ nói. Ở thời
này, đứa trẻ nào cũng có thể nói như thế được ;
một điều mà ai cũng nhận thấy là, những người
tin sùng trong một đền chùa thì có nhiều
phương-diện khác với những người không
sùng-bái. Vậy thì những hiện-tượng giữa
những đền chùa này của những lễ-nghi nào và
những hình-thức cụ-thể khác nào, cùng với
những tôn-giáo riêng biệt của chúng, lại có
khuynh-hướng mang đến cho tinh-thần những
người sùng-bái đó những tư-tưởng mà những
vật cụ-thể ấy được họ coi là những tượng-
trưng. Vậy không biết gì đến những lễ-nghi và
tượng-trưng là một điều không nên. Nghiên-
cứu sự thực-hành những yếu-tố ấy là một phần
của Karma _ ( Karma Yoga ) .
Còn có nhiều phương-diện khác của đạo
hành-động. Một trong những phương-diện ấy
là sự liên-quan giữa tư-tưởng và ngôn-ngữ
( Lời ), và xem có thể thực-hiện được khả-năng
của Lời. Ở các tôn-giáo người ta đều công-
VIVE - KARMA
100
nhận năng-lực của Lời, đến nỗi có một số tôn-
giáo cho rằng vạn-vật đều do Lời sáng-tạo ra
cả. Cái ngoại-diện của tư-tưởng Thượng-Đế là
Lời và trong khi Thượng-Đế nghĩ và định-đoạt
trước khi sáng-tạo thì vạn-vật đều do Lời mà
xuất-hiện. Trong sự-vật lộn-xộn của đời sống
vật-chất thì những cân não của chúng ta mất
dần, hết linh-động và trở nên dạn dầy khô
khan. Ta càng sống lâu bao nhiêu thì cuộc đời
càng vùi dập ta bấy nhiêu. Càng bị cuộc đời vùi
dập bao nhiêu thì lại càng dạn-dầy và có thể
coi-thường, làm-thinh với sự-vật khi xẩy đến
bao vây chúng ta. Tuy nhiên bản-tính nhân-loại
thường lại lên tiếng và chúng ta lại thắc-mắc,
muốn xem xét đến những việc thường xẩy ra
ấy. Ngạc-nhiên như thế là bước đầu để đi tới
ÁNH-SÁNG. Ngoài triết-lý cao-siêu và giá-trị
của " Lời nói " chúng ta còn thấy rằng những
thanh-âm biểu-tượng cho một phần lớn tấn trò
đời của nhân-loại. Tôi đang nói chuyện với một
số người ; tôi đang làm xúc-động một số thính-
giả ; những ba-động của không-khí theo tiếng
nói của tôi phát ra đi vào tai họ và rung-động
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
vào tinh-thần họ không sao tránh được. Còn gì
lạ-lùng hơn thế nữa ? Có một người gọi một
người khác là điên ; người bị gán cho cái tên là
điên ấy đứng lên nắm tay đấm vào mũi người
kia ngã lăn xuống đất. Xem đấy đủ thấy sức
mạnh của lời nói. Một người đàn-bà đang
khóc-lóc khổ-sở, một người đàn-bà khác đến
vỗ-về an-ủi bà này một vài lời ngọt-ngào. Cái
thân-hình đang gẫy gập vì đau khổ của người
kia bỗng được nâng-đỡ hẳn lên, sự đau buồn
cũng nguôi đi và bà ta bắt đầu tươi tỉnh trở lại.
Hãy nghĩ xem cái năng-lực của lời nói. Lời nói
có một địa-vị lớn trong triết-lý cao-siêu cũng
như ở cuộc đời hàng ngày. Ngày đêm chúng ta
vẫn dùng cái thế-lực ấy mà không tưởng đến,
không căn vặn gì đến nó. Tìm hiểu-biết cái
chân-tính của nó và tìm dùng nó cho thích-
đáng, đấy cũng là bộn-phận của đạo Nghiệp
( Karma ) .
Bổn-phận chúng ta đối với người khác là
giúp họ làm điều thiện cho đời. Tại sao chúng
ta lại phải làm thiện cho đời ? Bề ngoài là để
VIVE - KARMA
102
cứu-vớt đời, nhưng sự thực là để tự cứu lấy
mình vậy. Chúng ta luôn luôn cố-gắng cứu
giúp đời, đấy là một động-cơ tối-cao của chúng
ta, nhưng nếu chúng ta xét kỹ thì chúng ta thấy
rằng đời không cần đến sự giúp-đỡ ấy. Thế-
giới này bầy ra không phải để cho chúng ta
cứu-vớt. Một lần tôi đọc một bài thuyết-pháp
có câu : " Tất cả thế-giới này đẹp-đẽ lắm và
hay lắm, bởi vì nó cho ta cơ-hội để cứu giúp kẻ
khác ". Bề ngoài đấy là một tình-cảm có mỹ-ý,
nhưng chẳng phải là một sự phỉ-báng mà bảo
rằng đời cần đến sự giúp-đỡ của chúng ta ư ?
Chúng ta không thể không công-nhận ở đời có
nhiều đau khổ ; vậy đi ra để giúp những kẻ
khác, ấy là một điều hay, cao quý hơn cả ; tuy
nhiên đi lâu trên đường đời chúng ta thấy rằng
giúp-đỡ kẻ khác chỉ là tự cứu giúp mình đó
thôi. Khi tôi còn nhỏ, tôi có mấy con chuột
bạch. Chúng bị nhốt trong một cái hộp, trong
đó có đặt những cái vòng bánh xe nhỏ, và khi
con chuột cố bò qua những bánh-xe ấy, bánh-
xe cứ quay tít đi và con chuột không bao giờ
tiến tới được một bước. Đấy cũng ví như thế-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
gian với sự cứu-giúp của chúng ta ; kết-quả chỉ
là một sự thực-hành luân-lý cho chính mình mà
thôi .
Cuộc đời này chẳng xấu và cũng chẳng
tốt, chẳng thiện mà cũng chẳng ác, mỗi người
tự tạo lấy một cuộc đời cho mình. Nếu một
người mù bắt đầu suy-nghĩ về cuộc thế, thì thế
cuộc chẳng mềm và cũng chẳng cứng, chẳng
lạnh mà cũng chẳng nóng. Chúng ta là một mớ
hạnh-phúc hay đau-khổ ; chúng ta đã nhìn thấy
như thế hàng trăm lần trong đời chúng ta.
Thường lệ thì người trẻ tuổi lạc-quan với đời
và người già thì bi-quan. Người trẻ thì còn cả
một cuộc đời trước mắt ; người già phàn-nàn
ngày tháng đã đi mất. Hàng trăm ngàn dục-
vọng mà họ không thể thỏa-mãn, thúc-dục sôi
nổi trong lòng họ. Nhưng mà cả hai đàng đều
điên dại. Đời tốt hay xấu là tùy theo ở trạng-
thái tâm-hồn lúc chúng ta nhìn đời, còn tự nó
thì chẳng có tốt, xấu gì hết. Lửa tự nó chẳng
thiện, chẳng ác. Khi trời lạnh nó làm nóng ấm,
chúng ta thi nhau khen :"Lửa tốt đẹp làm sao!"
VIVE - KARMA
104
Khi nó đốt cháy tay ta thì ta phỉ-báng nó. Tuy
nhiên tự ở nó chẳng tốt và chẳng xấu, tùy theo
với cách chúng ta sử-dụng mà nó gây ra ở
chúng ta cảm-tưởng tốt hay xấu, cuộc đời cũng
thế. Nó hoàn-bị, hoàn-bị có nghĩa là nó hoàn-
toàn thích-hợp cho mục-đích của nó. Hết thảy
chúng ta có thể hoàn-toàn chắc-chắn rằng cuộc
đời cứ trôi chảy một cách đẹp-đẽ như thế, dù có
chúng ta hay không có cũng vậy, và chúng ta
không cần bận tâm rối trí với ý-tưởng cứu đời .
Tuy nhiên chúng ta vẫn phải làm nhiều
điều thiện, lòng ham làm điều thiện là động-cơ
cao-quý của chúng ta, nếu lúc nào chúng ta
cũng nghĩ rằng sự cứu giúp một người khác
thực ra là một đặc-ân đối với chúng ta vậy.
Đừng nên đứng ở trên cao mà chìa đồng xu ra
mà nói : " Này cho kẻ khó ", mà hãy nên biết
ơn vì sự có kẻ khó ở đấy để mà cho. Có như
thế thì làm ơn cho người khác mới có ích được
cho mình. Không phải người nhận ơn đã được
phúc đâu, mà chính người ban ơn mới là người
được phúc. Hãy nên biết ơn rằng mình được cái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
hân-hạnh thi-hành đức từ-thiện ở đời. Và như
thế thì hãy nên trong sạch và hoàn-toàn. Chúng
ta có thể làm thế nào hơn được ? Xây nhà-
thương, xây đường đi, dựng nhà cứu-tế ! chúng
ta có thể tổ-chức những cuộc hội-thiện và
quyên được vài ba triệu đồng, xây một nhà-
thương hết một triệu, còn một triệu thứ nhì mở
cuộc khiêu-vũ và mở rượu sâm-banh, còn triệu
thứ ba để cho những anh ăn xén hết một nửa và
còn lại sau cùng mới để cho kẻ khó. Nhưng
những cái ấy là cái gì ? Một cơn gió mạnh
trong năm phút có thể quét đổ tất cả những lâu-
đài của ta mới dựng. Bây giờ ta phải làm gì.
Một nạn động-đất sụt núi lửa có thể lôi sạch tất
cả đường xá và nhà-thương, thành-thị của ta !
Thôi chúng ta hãy vứt hết những câu chuyện
điên rồ về sự làm việc thiện cho đời của ta đi ;
đời không phải đứng chờ đợi sự giúp đỡ của
chúng ta. Tuy vậy, chúng ta vẫn cứ phải hành-
động và bền chí làm việc thiện, bởi vì đấy là
một sự cầu lợi-lạc cho mình. Chỉ có con đường
ấy chúng ta mới có thể trở nên hoàn-toàn.
Không một kẻ ăn-mày nào nợ chúng ta một
VIVE - KARMA
106
đồng xu nhỏ bao giờ, vì nó đã giúp chúng ta có
cơ-hội để thực-hành điều thiện. Nếu nghĩ rằng
chúng ta đã và có thể làm điều thiện cho đời,
hay nghĩ rằng chúng ta đã giúp được người này
hay người khác thì đó là điều sai-lầm, đó là ý-
tưởng rồ dại mà tất cả những ý-tưởng trong lúc
rồ dại đều đem lại đau-khổ. Chúng ta nghĩ rằng
chúng ta đã giúp được một người nào và trông
vào người ấy trả ơn ; khi người ấy không nghĩ
tới cái ơn ấy và không trả ơn ta thì ta không
được sung-sướng ! Tại sao chúng ta lại trông
mong được có một cái gì trở lại vì chúng ta đã
làm được việc gì ? Hãy nên biết ơn người mà ta
giúp đỡ, hãy nghĩ rằng người ấy là Thượng-Đế.
Chẳng phải một đặc-ân lớn cho những người
thờ-phụng Thượng-Đế bằng cách giúp đỡ đồng
loại hay sao ? Nếu chúng ta thực vô-cầu, chúng
ta sẽ thoát tất cả ưu-phiền về sự trông mong
hão-huyền kia, trái lại chúng ta sẽ rất vui-vẻ và
làm việc thiện suốt cuộc đời. Không bao giờ có
sự đau-khổ và không vui sướng ở trong công
việc làm một cách vô-tư vô-hệ-lụy. Cuộc đời sẽ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
cứ trôi chảy hoài hoài với những hạnh-phúc và
đau-khổ của nó cho đến vô cùng tận .
NGỤ-NGÔN ĐUÔI CHÓ._
Có một lần một kẻ khó kia cần một số
tiền, và không biết sao nó đã nghe thấy rằng
nếu có thể tìm thấy được một con ma thì nó có
thể sai con ma ấy kiếm tiền hay tìm một vật
khác mà nó muốn, thế rồi nó lo nghĩ luôn về
việc đi kiếm một con ma. Nó đi tìm kiếm khắp
mọi nơi để thấy được có một người tìm cho nó
một con ma, và sau cùng nó thấy một bậc đạo-
nhân có nhiều tài-năng, nó bèn đến cầu xin
người này giúp đỡ nó. Vị đạo-nhân hỏi nó làm
gì bằng con ma. Nó trả lời : " Tôi cần một con
ma để làm việc cho tôi. Đạo-sĩ hãy dạy cho tôi
biết cách làm thế nào có được một con ma để
sai-khiến, tôi cần lắm ". Đạo-sĩ nói : " Thôi đi
về đi, đừng tự làm rối trí anh nữa ". Ngày hôm
sau nó lại trở lại trước mặt đạo-sĩ, khóc lóc van
lơn : " Lạy ngài, cho con xin một con ma, con
phải có một con ma để nó giúp con ". Kết cục
nhà đạo-sĩ bực mình nói : " Này, cầm lấy chiếc
VIVE - KARMA
108
bùa này và đọc câu thần-chú này, con ma sẽ
đến, và bất cứ việc gì ngươi bảo nó, nó cũng
làm được. Nhưng mà coi chừng, con ma là
giống ghê-gớm, phải luôn luôn có công việc
cho nó làm, nếu khi không có việc gì làm thì nó
sẽ lấy đời ngươi ". Người kia trả lời : " Điều ấy
rất dễ, tôi có thể cho nó công việc suốt cả đời
nó ". Rồi thì người kia tới một khu rừng, sau
khi nhắc đi nhắc lại lời thần chú, con ma bỗng
xuất-hiện xừng-xững ngay trước mặt, con ma
nói : " Ta là một con ma, lời thần-chú của ông
đã thắng đoạt được ta, nhưng ông phải luôn
luôn sai bảo ta ; khi nào ông không có công
việc cho ta làm nữa thì ta sẽ giết ông ". Người
kia bèn nói : " Mi hãy xây cho ta một lâu-đài ".
Con ma nói : " Được rồi, lâu đài xây xong rồi
kia ". Người kia lại nói : " Mi đem tiền của lại
cho ta ". Con ma trả lời : " Này, đây tiền của ".
" Phá khu rừng này đi, xây cho ta một thành-thị
thay vào đây ". " Xong rồi ". Con ma trả lời và
nói tiếp : " Còn gì để cho tôi làm nữa không ? "
Bấy giờ thì người kia bắt đầu run sợ, nghĩ mình
không còn việc gì cho nó làm nữa, bất cứ cái gì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
nó cũng chỉ làm trong chớp mắt. Con ma nói :
" Còn sai ta việc gì nữa không, bằng không ta
sẽ ăn thịt ông đây ". Người kia không còn tìm
được việc gì cho nó làm nữa, sợ quá. Y bèn bỏ
chạy, chạy dài cho tới khi tới nhà đạo-sĩ và van
nài : " Ngài ơi, hãy cứu tính mạng cho con ".
Nhà đạo-sĩ hỏi y việc gì thì y trả lời : " Con
không còn việc gì cho con ma làm nữa, bất cứ
việc gì sai nó, nó cũng chỉ làm trong chớp mắt
là xong, và bây giờ nó không còn việc gì để
làm nữa nên nó đòi ăn thịt con ! " Vừa lúc ấy
thì con ma chạy tới, nó nói : " Ta ăn thịt ông
đây ". Nói xong nó há miệng tính nuốt chửng
người kia .
Người kia run lên cầm-cập, lạy van nhà
đạo-sĩ để được cứu mạng. Đạo-sĩ nói : " Ta sẽ
tìm cho ngươi một cách thoát. Ngươi hãy nhìn
con chó kia với cái đuôi cong vòng tròn của nó.
Rút kiếm của ngươi nhanh ra và cắt lấy cái
đuôi ấy. Ngươi hãy đưa ngay đuôi ấy cho con
ma và bảo nó vuốt thẳng ra ". Người kia bèn
cắt đuôi con chó và đưa cho con ma bảo nó làm
VIVE - KARMA
110
theo như lời đạo-sĩ căn dặn. Con ma cầm lấy
đuôi con chó thong thả, cẩn-thận vuốt ra cho
thẳng, nhưng hễ buông ra thì tự nhiên cái đuôi
con chó lại cuộn lại. Một lần nữa, nó lại vuốt
thẳng hơn, nhưng cái đuôi con chó vẫn cuộn lại
như cũ. Con ma lại kiên-nhẫn vuốt thẳng một
lần nữa, nhưng cái đuôi hễ buông tay ra thì lại
cuộn lại. Hết ngày ấy đến ngày khác con ma cứ
cố vuốt hoài cho đến khi mỏi mệt, nó bèn nói
với người kia : " Không bao giờ ta thấy có việc
gì khó-khăn ở đời ta cả. Ta là một con ma già,
nhưng từ trước đến nay không bao giờ ta lại
thấy có việc khó-khăn như lần này, thôi ta
muốn điều-đình với ông. Nếu ông tha ta ra, ta
bằng lòng cho hết tất cả những gì ta đã làm cho
ông và ta hứa là ta không làm gì thiệt-hại tới
ông cả ". Người kia bằng lòng làm và vui vẻ
nhận lời ngay .
Cuộc đời này cũng ví như cái đuôi con
chó cuộn tròn và người ta cứ cố vuốt ra cho
thẳng, kể đã bao nhiêu thế-kỷ ; nhưng khi họ
buông ra thì nó lại cuộn tròn trở lại. Làm thế
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
nào khác thế được ? Người ta trước hết phải
biết hành-động không hệ-lụy, rồi thì người ta
sẽ không làm một người cuồng-tín. Khi nào
chúng ta biết được rằng cuộc đời này cũng như
cái đuôi con chó cuộn tròn và không bao giờ
vuốt thẳng ra được, chúng ta sẽ không thành
hạng người " cuồng-tín ". Nếu không có sự
cuồng-tín ở đời thì nhân-loại sẽ tiến bộ hơn là
bây giờ. Trái lại, đấy là một nguyên-nhân làm
ngừng-trệ sự tiến-bộ, gây nên thù ghét và làm
cho người ta giết chết lẫn nhau, không có tình
nhân-loại với nhau nữa. Chúng ta nghĩ rằng bất
cứ cái gì ta làm hay là ta có đều hơn đời cả, và
cái gì chúng ta không làm và không có thì
không có giá-trị. Vậy chúng ta luôn luôn nên
nhớ đến thí-dụ về cái đuôi con chó cuộn tròn,
khi nào chúng ta có khuynh-hướng làm người
cuồng-tín. Chúng ta không cần phải băn-khoăn
lo lắng, không ăn không ngủ được về cuộc đời
thế-gian, nó cứ trôi chảy mãi mãi không cần
đến chúng ta .
VIVE - KARMA
112
Khi nào chúng ta tránh được lòng cuồng-
tín thì đến bấy giờ và chỉ đến lúc ấy thôi chúng
ta mới biết hành-động phải đường. Chỉ người
sáng-suốt, bình-tĩnh, có suy-xét, trầm-mặc,
giầu tình-cảm, có lòng thương yêu mới làm
được những việc thiện và như thế mới làm
được cho mình thanh-cao .
Người cuống-tín thì điên dại và không có
tính cảm-thông, không bao giờ họ có thể san
phẳng được khúc-mắc của cuộc đời, và chính
họ cũng không trở nên tinh-khiết và hoàn-toàn
được .
Tóm lại điểm chính của chương này là :
1/_ Chúng ta đều phải ghi vào tâm trí : Chúng
ta đều là kẻ có nợ với đời, chứ không phải đời
nợ chúng ta. Được phép làm việc gì cho đời, đó
là một đặc-ân lớn cho chúng ta. Giúp đỡ người
khác, sự thực là chúng ta tự giúp mình vậy .
2/_ Có một Thượng-Đế trong vũ-trụ. Sự thực
không phải vũ-trụ này vận-động và dừng lại
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
nhờ sự cứu giúp của chúng ta. Thượng-Đế bao
giờ cũng hiện-tại. Ngài bất-tử, luôn luôn linh-
hoạt và bao giờ cũng minh-mẫn và sẵn-sàng.
Khi cả vũ-trụ ngủ thì chỉ có Ngài thức-tỉnh mà
thôi, Ngài hành-động không ngừng, tất cả
những biến-dịch của thế-giới và hiện-tượng của
thế-giới là của Ngài .
3/_ Chúng ta không được ghét một ai. Cuộc đời
này mãi mãi là một mớ lẫn-lộn cả thiện lẫn ác.
Bổn-phận của chúng ta là phải có cảm-tình với
kẻ yếu và có lòng thương yêu với cả kẻ làm
bậy. Cuộc đời là một trường vận-động luân-lý,
mà chúng ta tất cả đều phải luyện-tập để trở
nên mỗi ngày mỗi tráng-kiện về tâm-linh .
4/_ Chúng ta không nên cuồng-tín bất cứ một
cách nào, bởi vì lòng cuồng-tín trái với lòng
thương yêu. Chúng ta thường nghe thấy những
kẻ cuồng-tín nói một cách trơn-tru rằng : " Ta
không ghét kẻ phạm tội-lỗi, ta ghét cái tội-lỗi ".
Nhưng có thể phân-biệt tội-lỗi với người phạm
tội chăng ? Nói như thế để mà nói. Nếu chúng
VIVE - KARMA
114
ta có thể phân-biệt rõ-ràng ( phẩm ) và ( chất )
với nhau thì chúng ta đã trở nên những người
hoàn-toàn. Điều ấy không phải dễ-dàng đâu.
Chúng ta càng bình-tĩnh bao nhiêu, cân não của
chúng ta càng ít vọng-động bấy nhiêu, lúc đó ta
mới an vui với đạo và những hành-động của
chúng ta mới có giá-trị .
*************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
115
CHƯƠNG VI
VÔ-CẦU VÀ KHẮC-KỶ
Mỗi một hành-động từ ở ta xuất ra thì lại
phản-ứng vào ta, những hành-động của chúng
ta ở thế-gian cũng thế, chúng ảnh-hưởng vào
người khác và những hành-động của kẻ khác
lại ảnh-hưởng vào ta, " Xuất ư ngã, phản hồ
ngã " .
ĐỊNH-LUẬT ỨNG CẦU._
Có lẽ chúng ta cũng nhận thấy một sự
thực này là khi người nào có những động-tác
xấu thì càng ngày càng trở nên xấu và khi nào
họ bắt đầu làm việc tốt thì càng ngày họ càng
trở nên mạnh-mẽ và tập làm những điều tốt mãi
mãi. Sự tăng tiến ảnh-hưởng của những hành-
động ấy thì không thể giải-thích bằng cách nào
hơn là cho rằng chúng ta có thể hành-động và
phản-ứng lại cho nhau. Hãy lấy một tỉ-dụ trong
khoa Vật-lý-học : Khi nào tôi làm một động-tác
VIVE - KARMA
116
tinh-thần thì có thể bảo rằng tôi đang ở trong
một trạng-thái ba-động nào ; tất cả những tinh-
thần nào ở trong trường-hợp ấy sẽ có khuynh-
hướng rung-động theo ảnh-hưởng của tinh-thần
tôi, ví thử có nhiều độ âm-nhạc khác nhau
rung-động cùng một lúc trong một gian buồng,
tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng khi một khí-
cụ nào rung-động lên thì các khí-cụ khác có
khuynh-hướng rung-động theo như gây lên một
đồng điệu âm-thanh giống nhau, " Đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu ". Tất cả tinh-
thần có một sức nặng giống nhau như thế thì sẽ
bị ảnh-hưởng bằng một tư-tưởng giống nhau.
Vậy thì ảnh-hưởng tư-tưởng vào tinh-thần sẽ
thay đổi khác nhau, tùy theo với sự xa cách và
những nguyên-nhân khác nhau, nhưng tinh-
thần thì luôn luôn có thể tiếp-thụ lấy ảnh-
hưởng, ví như tôi đang làm một việc xấu, tinh-
thần tôi đang ở trong một trạng-thái ba-động
nào và tất cả các tinh-thần nào trong vũ-trụ
cùng ở trạng-thái tương-tự ấy sẽ có thể chịu
ảnh-hưởng bởi ba-động ở tinh-thần tôi. Khi tôi
đang có một hành-động tốt cũng vậy, tinh-thần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
117
tôi cũng ở trong một trạng-thái nào khác và tất
cả những tinh-thần nào rung-động một cách
tương-tự cũng có thể bị ảnh-hưởng bởi tinh-
thần ; cái năng-lực ảnh-hưởng của tinh-thần, và
tinh-thần mạnh hay yếu là tùy theo sức rung-
động cao hay thấp, cái độ căng của nó thẳng
hay trùng .
Cứ theo đuổi sự tương-tự ấy mà nói thì có
thể hoàn-toàn cho rằng cũng như " quang-ba "
có thể vượt hàng triệu năm trước khi tới một
vật gì, thì ba-động của tư-tưởng cũng có thể
vượt hàng triệu năm trước khi gặp một tinh-
thần mà chúng có thể rung-động đồng điệu.
Vậy thì có thể nói rằng giữa không-trung mà
chúng ta đang sống đây, có những ba-động tư-
tưởng như thế, cả thiện lẫn ác. Mỗi một tư-
tưởng từ một bộ óc phát ra thì cứ lần đi cho đến
khi gặp một vật-thể thích-hợp, tự-nhiên nó sẽ
tiếp-thụ lấy. Một tinh-thần nào đã mở sẵn để
tiếp-thụ lấy những ba-động ấy tức khắc sẽ nhận
được vào ngay. Khi một người có một hành-
động xấu, nó đã đặt tinh-thần của nó vào một
VIVE - KARMA
118
trạng-thái ba-động nào và tất cả những ba-động
tương-tự với trạng-thái ba-động này và những
ba-động đã sẵn chứa ở không-trung, đến lúc ấy
sẽ xô đẩy vào tinh-thần của y. Bởi thế một
người làm ác sẽ theo đuổi mãi cái ác. Những
hành-động của y sẽ trở nên trầm-trọng và đối
với kẻ làm thiện cũng thế, y tự mở sẵn tinh-
thần để đón lấy những luồng ba-động thiện sẵn
chứa ở không-trung, và những hành-động thiện
của y cũng trở nên mãnh-liệt. Vậy thì chúng ta
phải chịu gấp bội lần nguy-hiểm khi chúng ta
làm ác :
_ Một là chúng ta tự mở tinh-thần đón lấy
tất cả những ảnh-hưởng ác chung quanh chúng
ta. _ Hai là chúng ta tạo những điều ác, nó ảnh-
hưởng vào những kẻ khác, có lẽ hàng trăm năm
sau. Làm ác chúng ta tự hại mình và hại đến kẻ
khác. Làm thiện chúng ta tự giúp được mình và
giúp được kẻ khác ; ví như các thế-lực khác ở
con người ta, những năng-lực thiện hay ác này
cũng thu-thập sức mạnh ở bên ngoài nữa .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
119
Theo như đạo " Nghiệp ", hành-động của
một người nào đã làm thì không thể tiêu-tan
được trước khi nó đẻ ra kết-quả của nó ; không
một năng-lực tạo-hóa nào cản-trở được kết-quả
của nó. Nếu tôi hành-động ác, tôi sẽ phải chịu
kết-quả ác, không một thế-lực nào trong vũ-trụ
này có thể ngăn-cản được hay phá tan nó được.
Trái lại nếu tôi hành-động tốt thì cũng thế,
không có một thế-lực nào trong vũ-trụ có thể
cản-trở không cho nó phát-sinh ra ảnh-hưởng
tốt được .
" Tích thiện chi gia tất hữu dư khương.
Tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương ."
THIỆN ÁC TƯƠNG-ĐỐI._
Nguyên-nhân nào phải có kết-quả ấy,
không có gì có thể cản-trở hay kiềm-chế được.
Nay thử hỏi ở đạo " Nghiệp " những hành-
động của chúng ta gồm cả thiện lẫn ác đều mật-
thiết tương-quan với nhau. Chúng ta không thể
tách một đường biên-giới nhất-định và nói
hành-động này hoàn-toàn tốt, hành-động kia
VIVE - KARMA
120
hoàn-toàn xấu. Không hành-động nào lại
không mang đồng thời cả kết-quả tốt lẫn xấu.
Hãy lấy một thí-dụ. Tôi đang nói chuyện với
mọi người, có lẽ trong số người nghe có người
nghĩ rằng tôi nói chuyện là một việc làm tốt ;
nhưng đồng thời có thể tôi đang giết hàng
nghìn con vi-trùng trong không-khí ; như thế
thì tôi đang làm ác cho các vật ấy. Khi nào gần
với chúng ta và ảnh-hưởng cho vật chúng ta
biết thì chúng ta cho là hành-động tốt, nếu nó
ảnh-hưởng tốt cho chúng ta. Như khi người
nghe có thể bảo việc tôi nói chuyện là tốt,
nhưng những con vi-trùng kia thì cho là không,
vì vi-trùng chúng ta không nhìn thấy, còn
người nghe thì tự nhìn thấy. Lời nói của tôi
ảnh-hưởng người nghe một cách rõ rệt, nhưng
đối với những vi-trùng thì ảnh-hưởng không rõ
rệt. Vậy nếu chúng ta phân-tích những hành-
động xấu của chúng ta, chúng ta sẽ thấy rằng
rất có thể có những kết-quả tốt ở một chỗ nào
đấy. Kẻ nào nhìn thấy trong hành-động tốt có
cái gì xấu và trong những cái xấu nhìn thấy có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
121
những cái tốt ấy là người đã biết rõ bí-quyết
của hành-động .
Ta phải xét tới điểm thứ hai :
CỨU-CÁNH CỦA HÀNH-ĐỘNG LÀ GÌ ?
Chúng ta thấy rằng đa số người ở các xứ tin
rằng có một thời-kỳ thế-giới sẽ trở nên hoàn-
toàn, khi nào không còn sự phiền-não hay sự
chết-chóc, khổ-sở hoặc gian-ác. Đấy là một
mẩu lý-tưởng, một năng-lực động-cơ rất tốt để
hứng-khởi và nâng-đỡ những kẻ ngu dốt, nếu
chúng ta suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy chân-tướng
của điều ấy là không thể thực-hiện được. Làm
sao lại có thể như thế được, nếu thiện và ác là
mặt phải, mặt trái của một đồng tiền ? Làm sao
có cái thiện mà đồng thời lại không có cái ác ?
Hoàn-toàn thì có ý-nghĩa gì ? Một đời hoàn-
toàn là một sự mâu-thuẫn ở ngay trong câu nói.
Chính đời sống cũng là một giai-đoạn luôn
luôn phấn-đấu giữa chúng ta với sự-vật bên
ngoài. Sự thực luôn luôn ta tranh-đấu với tạo-
vật bên ngoài và nếu ta thua thì ta cũng đi đời.
Ví như cuộc tranh-đấu vì miếng ăn và khí thở.
VIVE - KARMA
122
Nếu thức ăn và không-khí hết thì chúng ta cũng
chết. Cuộc đời không phải đơn-giản, dễ-dàng
và trơn-tru như một vật buông trôi, nhưng nó là
một hiện-tượng phức-tạp. Cuộc tranh-đấu
phức-tạp ấy giữa vật gì ở bên ngoài và thế-giới
bên ngoài, giữa chủ-thể và khách-thể mà chúng
ta gọi là cuộc đời vậy. Như thế thì rõ-ràng là
khi nào cuộc tranh-đấu kết-liễu thì cuộc đời
cũng hết theo .
Hạnh-phúc lý-tưởng nghĩa là khi nào hết
sự tranh-đấu kia. Nhưng bấy giờ thì cuộc đời sẽ
hết vì cuộc tranh-đấu kia chỉ có thể ngừng khi
nào ngừng cả đến cuộc đời. Chúng ta đã thấy,
giúp đời là tự giúp mình. Kết-quả chính của
hành-động vì người khác là để tự thanh-khiết-
hóa chúng ta bằng sự kiên-nhẫn gắng công,
bằng sự làm điều thiện cho kẻ khác, chúng ta
cố tự quên chúng ta đi. Sự tự quên mình đi là
một bài học quan-trọng cho chúng ta cần phải
học ở đời. Loài người nghĩ một cách rồ dại
rằng mình có thể tự làm cho mình có hạnh-
phúc, và sau bao nhiêu năm tranh-đấu mới
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
123
nhận thấy rằng cái chân hạnh-phúc ấy kết-cục
chỉ là diệt cái tư-ngã vị-kỷ, mà không một ai
khác có thể làm cho ta được, trừ phi là chính
mình. Mỗi một việc thiện, mỗi một ý-nghĩ
nhân-đạo, mỗi một hành-động tương-trợ, mỗi
một việc làm hay, lại lấy đi bấy nhiêu lòng tự-
tôn, tự-tại ở tiểu-ngã của chúng ta và làm cho
chúng ta tự cho mình là thấp mọn hơn cả. Ở
đây ta thấy con đường tri-thức, hành-động và
bác-ái đều đưa đến một mục-đích chung. Lý-
tưởng tối-cao là tự khắc-kỷ hoàn-toàn và mãi
mãi. Ở đâu không có cái Ta ( Ngã-nhân ),
nhưng tất cả chỉ là Người ( Tha-nhân ), dù là ý-
thức hay vô-ý-thức thì đạo Nghiệp đều đưa đến
chỗ ấy cả. Một nhà giảng đạo có thể kinh-hãi
với ý-tưởng một Thượng-Đế vô-ngã, y có thể
cố bám lấy một Thượng-Đế hữu-ngã và mong
bảo-tồn chính cái cá-nhân và cái đồng-nhất bất-
biến của y. Y muốn hiểu chữ " cá-nhân " và
" đồng-nhất " như thế nào mặc lòng. Nhưng
những ý-tưởng về luân-lý nếu thật là tốt và hay
thì chỉ có thể căn-cứ vào ý-tưởng khắc-kỷ tối-
cao kia mà thôi. Đấy là căn-bản của tất cả luân-
VIVE - KARMA
124
lý, chúng ta có thể suy rộng cho người hay cho
cả loài-vật, hoặc cho thần-tiên, đấy là ý-tưởng
căn-bản, cái nguyên-lý cơ-bản nó nằm ở trong
tất cả nền luân-thường đạo-lý .
Chúng ta thấy có nhiều hạng người trên
thế-gian. Trước hết là các bậc Thánh với lòng
hỷ-sả vô-tư hoàn-toàn và chỉ làm điều thiện
cho kẻ khác dù phải hy-sinh đến thân mạng
cũng làm. Đó là bậc cao-thượng nhất. Nếu một
nước nào có một trăm người như thế thì nước
ấy không bao giờ phải thất-vọng. Nhưng buồn
thay, những hạng người này hiếm quá. Thứ đến
có hạng người chỉ làm điều thiện cho kẻ khác
chừng nào không hại đến mình, còn có hạng
thứ ba chỉ làm lợi cho mình và tác hại đến kẻ
khác. Một nhà thi-sĩ tiếng Phạn bảo còn có
hạng thứ tư, hạng này không thể mệnh danh là
gì được, chúng tác hại kẻ khác chỉ vì mục-đích
thích làm ác .
Đúng như ở một cực-đoan của cuộc đời,
có những hạng chí-thiện tối-cao làm việc thiện
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
125
cho kẻ khác vì mục-đích thích làm thiện, thì ở
những cực-đoan khác lại có những kẻ tác hại
người khác chỉ vì mục-đích tác ác. Hạng này
làm như thế không được gì nhưng vì bản-tính
của họ là tác ác. Ở chữ Phạn có hai tiếng :
Pavritti nghĩa là vận-động xoáy trôn ốc trở vào,
và tiếng Nivritti nghĩa là vận-động xoáy trôn ốc
trở ra. Vận-động xoáy trôn ốc trở vào là cái mà
ta gọi là " Thế-gian " cái " Ta " và cái " Của
mình " ; nó bao gồm tất cả sự-vật, luôn luôn
làm giầu cho cái " Của mình " bằng của-cải,
tiền-tài, thế-lực và danh-tiếng, "Thủ tài chi lỗ".
Đối với một bản-tích thu-hoạch thì luôn luôn
nó có khuynh-hướng tích-tụ mọi vật vào một
trung-tâm, cái trung-tâm ấy trở nên " Của
mình ". Đấy là Pavritti, cái khuynh-hướng tự
nhiên của mọi người ; thu-thập mọi vật ở khắp
nơi rồi đem chồng-chất chung-quanh một
trung-tâm-điểm, trung-tâm-điểm ấy là cái
" Tư-Ngã " nâng-niu của con người. Khi nào
cái khuynh-hướng ấy bắt đầu tan vỡ, khi nào
nó là Nivritti hay là tự đẩy đi trở ra, thì bấy giờ
mới bắt đầu có luân-thường đạo-lý. Cả hai
VIVE - KARMA
126
Pavritti và Nivritti đều là bẩm-tính của hành-
động. Pavritti là hành-động ác, và Nivritti là
hành-động từ-thiện. Nivritti là nền-tảng cơ-bản
của tất cả luân-lý và đạo-lý, và sự hoàn-toàn
của nó là hỷ-sả hoàn-toàn, sự sẵn-sàng hy-sinh
tinh-thần và thân-thể cùng mọi vật cho người
khác. Khi nào một người đạt tới trình-độ ấy là
đạt tới chí-thiện của đạo Nghiệp. Đấy là kết-
quả tối-cao của công việc từ-thiện. Dù một
người chưa từng nghiên-cứu qua một triết-lý
nào, dù người ấy không tin vào một Thượng-
Đế nào và không bao giờ tin cả, chưa từng cầu-
nguyện một lần nào trong đời, nếu chỉ bằng
một năng-lực của hành-động thiện đã đưa
người ấy tới một trình-độ để sẵn-sàng hy-sinh
đời mình cho kẻ khác, thì người ấy đã đạt tới
đích chung mà những người khác đã tới bằng
sự cầu-nguyện, và các nhà triết-lý tới bằng
chân-tri. Như vậy để chúng ta thấy rằng nhà
hiền-triết, nhà hành-động, nhà sùng-bái, tất cả
đều gặp nhau ở một điểm chính là : VÔ-TƯ ;
KHẮC-KỶ ; VỊ-THA .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
Đứng trước một người tự hy-sinh mình
cho kẻ khác, tất cả mọi người đều nghiêng
mình kính-phục, dù tôn-giáo và triết-lý của họ
có khác nhau mấy đi nữa. Đây không còn là
vấn-đề tín-ngưỡng hay chủ-nghĩa nữa, dù
những người thật phản-đối những tư-tưởng về
tôn-giáo, khi chúng nhìn thấy người có hành-
động hoàn-toàn tự hy-sinh ấy, chúng cũng cảm
thấy kính-phục .
Các anh chẳng thấy một người tín-đồ Cơ-
Đốc ngoan đạo nhất. Khi đọc đến cuốn sách
" Ánh Sáng Của Á-Đông " ( Light of Asia ) do
ông Edwin Arnold viết cũng phải cúi đầu kính-
phục Đức Phật, Ngài không truyền-bá một
Thượng-Đế nào mà chỉ truyền-bá một lòng từ-
bi hỷ-xả ; Chỉ có một điều là người ngoan đạo
kia không biết rằng chính cái chung-cục và
mục-đích của y ở đời lại đúng là cái chung-cục
và mục-đích của những kẻ mà y thấy khác với
y. Nhà tín-đồ với sự chuyên tâm nhìn cái ý-
tưởng Thượng-Đế và sống trong một không-
khí lương-thiện kết-quả cùng đi tới một mục-
VIVE - KARMA
128
đích giống nhau và nói : " Con xin dâng cả cho
Chúa ", và không thu về một cái gì cho mình
cả. Đấy là lòng tự hỷ-xả. Nhà hiền-triết với sự
nhận-thức của y, nhìn thấy cái Tư-ngã là ảo và
vứt nó đi một cách dễ-dàng. Đấy cũng là tự hỷ-
xả. Vậy thì đạo Hành-động ; đạo Chân-tri và
đạo Sùng-bái đều gặp nhau cả ở đấy, và đấy là
ý-nghĩa mà các nhà đại Giáo-chủ của thời xưa,
khi dạy rằng : " Thượng-Đế không phải là thế-
gian " . Thế-gian là một việc, còn Thượng-Đế
là một việc khác, sự biết ấy thì rất xác-thực vì
các ngài ngụ-ý thế-gian là Tư-ngã, còn
Thượng-Đế là Vô-tư-ngã ( Đại-Ngã ). Một
người có thể ngồi trên ngai trong một lầu vàng
và hoàn-toàn Vô-tư-ngã, bấy giờ thì y đã có thể
trở thành một Thượng-Đế, kẻ khác có thể sống
ở lều tranh, mặc áo rách, chẳng có chút mảy-
may gì ở thế-gian, nhưng nếu y vị-kỷ thì y còn
chìm đắm sâu trong trần-tục hệ-lụy .
" Chữ vô cầu là chữ thiên-nhiên ".
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
129
HÀNH-VI VÔ-CẦU ._
Trở lại một trong các điểm chính của
chúng ta là chúng ta không thể làm một việc
thiện mà đồng thời không kèm theo việc ác ;
hay là một việc ác mà đồng thời không kèm
theo việc thiện. Đã biết như vậy thì làm sao
chúng ta có thể hành-động được. Bởi thế cho
nên cũng có những môn-phái ở thế-giới chủ-
trương một cách vô-lý lạ lùng, họ truyền-bá
cho người ta cách tự-tử dần dần, cho thế là một
phương-pháp duy-nhất để ra khỏi vùng thiện,
ác, bởi vì nếu một người muốn sống tất phải
giết nhiều con vật nhỏ khốn-nạn và thảo-mộc
hay phải làm hại một vật gì hoặc một người
nào. Vậy thì, theo như họ nghĩ chỉ có một
đường duy-nhất để ra khỏi đời này là chết đi
mà thôi. Đạo Jainas ở Ấn-Độ truyền-bá chủ-
trương ấy, coi là một lý-tưởng tối-cao. Giáo-lý
ấy có vẻ hợp-lý, nhưng chính cách giải-quyết
chân-chính thì phải tìm ở Kinh Gita, đấy là
chủ-nghĩa Hành-động Vô-lụy, Vô-cầu, không
để lụy vào một vật gì khi chúng ta làm việc
đời. Hãy biết rằng chúng ta hoàn-toàn cách-biệt
VIVE - KARMA
130
thế-gian, tuy rằng chúng ta ở tại thế-gian và bất
cứ cái gì chúng ta làm ở đấy, chúng ta không
làm cho chính cái hạnh-phúc của chúng ta. Bất
cứ một hành-động nào, các anh làm cho riêng
các anh, sẽ đem lại kết-quả các anh phải mang
lấy. Nếu là hành-động tốt, các anh sẽ được kết-
quả tốt, nếu là hành-động xấu, các anh sẽ nhận
lấy kết-quả xấu, nhưng hành-động nào các anh
không làm vì mình, thì mặc dầu nó như thế nào
các anh cũng không phải mang lấy kết-quả.
Một câu Kinh rất đáng chú-ý, nói lên ý-tưởng
ấy như sau : " Nếu y giết cả vũ-trụ đi, hay là bị
vũ-trụ giết, y cũng chẳng là người giết hay là
người bị giết, khi nào y biết rằng y không
hành-động vị-kỷ một chút nào hết ". Vậy nên
đạo Nghiệp dạy : " Đừng nên bỏ đời đi, hãy
sống ở đời, cứ tắm gội trầm-luân với ảnh-
hưởng của nó được bao nhiêu mặc sức, nhưng
nếu là vì sự hưởng-thụ riêng của mình thì đừng
hành-động chút nào hết ". Hưởng-thụ không
phải là mục-đích. Trước hết hãy giết cái tư-kỷ
( tiểu-ngã ) của mình đi, rối coi toàn-thể thế-
gian như là mình vậy, cũng như tín-đồ ngày
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
131
xưa của đạo Cơ-Đốc hay nói rằng : " Con
người cũ phải chết đi ". Con người già cũ ấy
chính là cái tư-kỷ, cho rằng cả thế-gian này tạo
ra để cho mình hưởng-lạc. Có những cha mẹ
điên dại dạy con mình cầu-nguyện : " Hỡi
Thượng-Đế, Ngài đã tạo ra mặt-trời này và
mặt-trăng này cho ta ". Làm như là Thượng-Đế
không còn việc gì làm khác nữa để chỉ là sáng-
tạo mọi vật cho lũ trẻ con chơi. Đừng nên dạy
con những điều vô-lý ấy. Lại còn có những
người điên dại một cách khác. Họ dạy chúng ta
rằng tất cả những động-vật là Thượng-Đế tạo
ra cho chúng ta để giết mà ăn thịt và vũ-trụ này
là để cho loài người. Để tạo ra loài người để
cho ta ăn thịt ". Và nói : " Hỡi Thượng-Đế, sao
loài người ác thế, không đến tận miệng cho ta
ăn thịt ; chúng đã phá cái luật-pháp của Ngài ".
Nếu thế-gian được sáng-tạo ra cho chúng ta, thì
chúng ta cũng bị sáng-tạo ra cho thế-gian. Nói
rằng thế-gian tạo ra sự khoái-lạc của chúng ta
là một ý-tưởng tà nhất, nó dìm chúng ta xuống.
Thế-gian này không phải sinh ra vì chúng ta,
mỗi năm hàng triệu người khuất đi, thế-gian
VIVE - KARMA
132
không cảm thấy gì hết, lại hàng triệu kẻ khác
lên thay vào. Thế-gian đối với chúng ta thế nào
thì cũng như chúng ta đối với thế-gian thế ấy .
_ Trên đây là hành-động không vị-kỷ,
hoàn-toàn vô tâm, vô cầu, hỷ-xả .
_ Dưới đây là hành-động không ràng-
buộc vào kết-quả của hành-động .
"Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi!"
_ ( Luận-Ngữ )
" Hà tất viết lợi, Nhân Nghĩa nhi di hỹ ! "
_ ( Mạnh-Tử )
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
133
CHƯƠNG VII
THÁI-ĐỘ KHÁCH-QUAN
ĐỐI VỚI THẾ-GIỚI
( TỰ-CHỦ BẤT ĐỘNG TÂM )
Vậy thì muốn hành-động cho hợp cách,
trước hết các anh phải trừ bỏ tư-tưởng hệ-lụy.
Hai là đừng nên chìm đắm trong trần-tục lẫn
lộn với thế-gian, giữ mình ở địa-vị một người
khách mà hành-động. Sư-phụ tôi là
Ramkrishna nói rằng : " Hãy đối với con anh
như là một người vú-em đối với chúng ".
Người vú-em coi con anh, nâng-niu nó, vui đùa
với nó, xử-sự với nó cũng âu-yếm như là với
chính con họ vậy ; nhưng hễ đến khi anh cho y
nghỉ việc thì y cũng sẵn-sàng đi ra khỏi nhà
anh ngay. Các vật mà y thường lưu-luyến, y
đều quên hết ; người vú-em thường không thấy
đau khổ khi phải từ-giã con anh và bồng bế con
VIVE - KARMA
134
người khác. Vậy thì anh đối với tất cả cái gì
anh coi là của anh cũng phải như thế. Anh là
người vú-em, và nếu anh tin vào Thượng-Đế
thì anh hãy tin rằng tất cả cái gì anh có đều
chính là của Ngài. Sự hèn yếu nhất ở đời
thường biến hóa ra cái hay và cái mạnh nhất.
Tưởng rằng có người phải lệ-thuộc vào mình,
ấy là một sự nhu hèn. Cả đến sự tin rằng có thể
làm điều thiện cho người khác. Sự tin-tưởng ấy
là mẹ tất cả những hệ-lụy cho chúng ta, và do
sự hệ-lụy ấy xuất ra tất cả sự đau khổ của
chúng ta. Chúng ta phải tự nhủ tinh-thần chúng
ta rằng, không một kẻ nào phải nương-tựa vào
chúng ta cả ; không một kẻ ăn mày nào phải
dựa vào lòng tốt của chúng ta ; không một sinh
linh nào phải dựa vào sự giúp-đỡ của chúng ta.
Tất cả đều được nâng-đỡ do bản-tính từ-thiện,
và sẽ được nâng-đỡ như thế mãi, dù hàng ức
triệu năm chúng ta không có mặt ở đây. Cuộc
tiến-hóa của tạo-vật sẽ không ngừng vì các anh
hay vì tôi có mặt hay không có mặt ở đấy ; như
đã vạch ở trên, đó là một hạnh-phúc ưu-đãi của
các anh và của tôi, được phép tự huấn-luyện
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
135
lấy mình bằng cách giúp-đỡ người khác. Đấy là
một bài học quan-trọng để tập học ở đời, và khi
nào chúng ta đã hiểu rõ đầy đủ, chúng ta sẽ
không bao giờ đau-khổ, chúng ta có thể vào đời
và lẫn-lộn với xã-hội, bất cứ ở chỗ nào cũng
không thể làm thương-tổn đến chúng ta được.
Các anh chỉ có thể có vợ có chồng, quân hầu
đầy-tớ, quận, châu để cai-trị, nếu anh chỉ hành-
động với nguyên-tắc này : " Thế-gian không
phải có vì ta và không tất nhiên cần đến ta ", thì
những vật trên kia không hại anh được. Năm
nay trong số bạn-bè của anh có người đã chết.
Thế-gian có ngừng lại để chờ người ấy trở lại
rồi mới đi không ? Cuộc đời có ngừng trôi chảy
không ? Không ! Nó vẫn trôi chảy như thường.
Vậy thì hãy xóa ở tinh-thần cái ý-tưởng rằng
chúng ta phải làm cái gì cho đời. Đời không
cần đến sự giúp-đỡ mảy-may của chúng ta đâu.
Người nào nghĩ rằng mình sinh ra để giúp đời
đó là một sự vô-lý, nó chỉ là một sự tự-phụ,
lòng tự-ái biến-trá vào hình-thức đạo-đức. Khi
nào anh đã luyện được tinh-thần và cân não của
anh để thực-hiện ý-tưởng này là thế-gian không
VIVE - KARMA
136
dựa vào anh hay một người nào khác, thì đến
bấy giờ kết-quả của hành-động mới không
phản-động lại thành đau-khổ nữa. Khi nào anh
cho người khác được vật gì mà không mong
đợi ở người ấy vật gì -- không mong đợi người
ấy cả đến sự biết-ơn -- sự biết-ơn của y sẽ
không ảnh-hưởng vào anh gì cả, bởi vì anh
không mong đợi một vật gì hết. Không bao giờ
anh nghĩ anh có quyền được thu về một vật gì,
dù bằng cách nào, anh cho người ta cái gì mà
người ta được lấy, chính cái Nghiệp của người
ta được thu cái ấy cho mình -- còn cái Nghiệp
của anh là đem lại cái ấy cho người ta. Tại sao
anh được tự-hào là anh đã cho ai một vật gì ?
Anh là người phải mang tiền-tài hay một thứ
vật gì khác của anh cho đời và đời được hưởng
bởi cái Nghiệp của nó. Vậy thì đâu là lý-do để
anh tự-hào, tự-phụ ? Không có cái gì đáng giá
ở vật mà anh đem cho đời. Khi nào anh đạt tới
chỗ cảm thấy vô-hệ-lụy thì lúc ấy đối với anh
không có tốt và xấu nữa. Chỉ là cái tư-ngã sinh
ra sự phân-biệt tốt và xấu. Điều đó rất khó
hiểu, nhưng với thời-gian anh sẽ học hiểu rằng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
137
trong vũ-trụ không gì có quyền-thế với anh
trước khi anh cho phép nó được thực-hành
quyền-lực ấy, không có gì có quyền đối với cái
" Bản-ngã " của con người, trừ khi nào cái Tư-
ngã ấy trở nên điên dại và bỏ mất sự độc-lập
của mình. Vậy thì với lòng vô-hệ-lụy, anh vượt
lên trên và phủ-nhận quyền-lực của bất cứ vật
gì thi-hành với anh. Một điều dễ nói là không
có cái gì có ảnh-hưởng vào mình trước khi
mình cho phép nó ảnh-hưởng. Nhưng cái dấu-
hiệu thực của con người không cho phép một
vật gì hành-động vào mình và bị một thế-lực
của ngoại-giới hành-động vào mình mà không
thấy sướng hay khổ là thế nào ? Cái dấu-hiệu
ấy là thời-vận xấu, tốt không làm thay-đổi được
thái-độ tinh-thần ; bất cứ ở cảnh-ngộ nào nó
vẫn giữ được nó là nó . " Phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất ."
Xưa kia có một nhà đại hiền ở Ấn-Độ tên
là Vyasa. Người ta nhận Vyasa là tác-giả của
những ngụ-ngôn ở đạo Védanta và là một bậc
VIVE - KARMA
138
Thánh, thân-phụ ông cố trở nên một người
hoàn-toàn, nhưng thất-bại. Ông cũng đã cố và
cũng thất-bại. Tổ-phụ ông cũng đã cố và cũng
đã thất-bại như vậy. Chính ông cũng không
thành-công, nhưng con ông là Shuka lúc mới
sinh ra đã hoàn-toàn. Vyasa dạy con đạo hiền-
triết, và sau khi đã dạy con sự nhận-thức chân-
lý, ông bèn gửi con đến triều-đình vua Janaka
Videha. Videha có nghĩa là " không còn thân-
thể ". Tuy là một ông vua, Ngài quên hẳn Ngài
là một thân-thể, bao giờ Ngài cũng cảm thấy
Ngài là một tâm-linh. Người thanh-niên Shuka
được gửi đến để cho Ngài dạy bảo. Nhà vua
biết rằng con trai Vyasa đến để học đạo hiền-
triết, vì thế mà Ngài có sửa-soạn trước một vài
cách xử-trí. Khi người thanh-niên đến cửa
kinh-thành trước lâu-đài nhà vua, thì người
canh gác không thèm để ý gì đến hắn cả.
Chúng cho y một cái ghế, y ngồi đấy ba ngày
ba đêm, không một người nào nói với y, không
một ai hỏi y là ai và ở đâu đến. Y là con trai
một nhà đại hiền triết, cha y đương thời được
trọng-vọng trong toàn-quốc và chính y cũng là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
139
một người đạo-mạo nhất ; vậy mà những kẻ
gác thành thấp hèn tầm-thường dám không
thèm để y đến y. Sau đấy bỗng có những quan
Thượng-Thư của nhà vua và tất cả những kẻ có
danh-vọng tại triều tới nơi và tiếp rước y với tất
cả sự tôn-trọng. Họ dẫn y và chỉ cho y những
căn phòng trang-hoàng lộng-lẫy, mời y tắm rửa
bằng nước hoa thơm ngát và những quần áo kỳ
lạ, suốt trong tám ngày liền họ tiếp đãi y bằng
hết cả những cách xa-hoa. Cái diện mạo bình-
thản của Shuka cũng không thay-đổi một chút
nào bởi sự thay-đổi trong cách xử-sự đối với y
như thế, y vẫn giữ thái-độ của y trong bầu
không-khí sang-trọng cũng như khi y đứng chờ
ngoài cổng. Rồi thì y được đem vào bệ-kiến
nhà vua. Nhà vua ngự trên ngai, kèn trống vang
lừng, nhẩy múa, ca hát đang tấp-nập. Nhà vua
đưa cho y một cốc sữa đầy đến miệng và bảo y
phải bưng đi chung quanh gian điện bẩy lần mà
không được đánh rớt ra một giọt ; người thanh-
niên cầm cốc sữa đi trong đám ca múa vang-
lừng giữa bầy tiên lộng-lẫy như ý nhà vua
muốn. Y đi vòng quanh bẩy lần mà không đánh
VIVE - KARMA
140
rớt một giọt sữa nào. Tinh-thần của y đã không
bị đãng-trí bởi một vật gì ở thế-gian, trừ cái gì
y cho phép nó xúc-động đến y. Khi y bưng cốc
sữa trở về chỗ nhà vua, nhà vua nói : " Cái gì
mà thân-phụ anh đã dạy anh, và cái gì mà anh
đã tự học lấy được, ta đây chỉ có thể nhắc lại
mà thôi ; anh đã biết đến chân-lý, thôi anh về
đi ".
Ấy đấy, một người đã nội-quán được thì
không thể bị ngoại-vật quyến-rũ ; không còn
làm nô-lệ cho bất cứ một vật gì. Tinh-thần của
y trở nên tự-do, tự-do giải-thoát, con người như
thế mới đáng sống ở trần-gian. Thường thường
chúng ta thấy nhân-loại quan-niệm thế-gian ở
hai phương-diện. Hạng bi-quan thì nói rằng :
" Thế-gian ghê-sợ lắm thay, độc ác lắm thay ! "
Hạng lạc-quan thì bảo : " Cuộc đời mới đẹp
làm sao !" Đối với kẻ không làm chủ được
tinh-thần mình thì thế-gian hoặc là còn đầy tội-
lỗi tà ác, hoặc ít nhất lẫn-lộn cả một mớ thiện,
ác. Chính cái thế-gian cho ta một mớ lạc-quan
khi nào chúng ta có thể làm chủ được tinh-thần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
141
mình, không còn gì ảnh-hưởng vào ta một cách
tốt hay xấu nữa, chúng ta sẽ thấy mọi vật, vật
nào ở vị-trí của vật nấy ; vạn-vật điều-hòa.
Nhiều người lúc đầu cho thế-gian là nơi âm-
phủ, nhưng sau khi họ đã thực-hành có hiệu-
quả phép nội-quán để tự-chủ thì lại bảo thế-
gian là Thiên-đường. Nếu chúng ta có khuynh-
hướng làm tín-đồ của đạo Nghiệp, và muốn
luyện-tập để đạt tới trình-độ ấy thì dù chúng ta
bắt đầu từ đâu, chúng ta cũng đạt tới hoàn-toàn
sự hỷ-xả, và khi cái Giả-ngã này đã trở nên
Chân-ngã thì tất cả thế-gian lúc đầu là tà ác, là
khổ đau sẽ biến thành Thiên-đường hạnh-phúc.
Đấy là cứu-cánh của đạo Nghiệp và cũng là sự
thành-tựu của cuộc đời thực tế .
Các con đường Yoga khác nhau đều
không mâu-thuẫn với nhau ; mỗi một đường
đều đưa chúng ta tới mục-đích chung và làm
cho chúng ta trở nên hoàn-toàn, duy chỉ phải
thực-hành mỗi đường với tất cả nghị-lực của
mình .
VIVE - KARMA
142
Tất cả những bí-quyết đều ở trong thực-
hành. Trước hết chúng ta phải nghe ( vấn ),
suy-nghĩ ( tư ), rồi thực-hành ( tu ). Điều ấy áp-
dụng cho tất cả các đường Yoga. Trước hết ta
cần phải nghe, rồi thấu-hiểu lấy, nhiều điều
chưa hiểu thì được sáng-tỏ bằng sự luôn luôn
nghe và suy-nghĩ. Hiểu cả một lúc là một
chuyện khó-khăn. Vả lại, ý-nghĩa của mọi điều
đều ở tại mình cả. Không ai bao giờ thực hiểu-
biết do người khác dạy ! Mỗi người chúng ta
đều phải tự mình thắp đuốc mà đi. Ông thày
bên ngoài ( Sư-phụ ngoại tại ) chỉ đem lại cơ-
hội để thức tỉnh ông thày bên trong. Hành-động
để hiểu lấy sự-vật. Vậy thì chính năng-lực thấu
cảm và suy-nghĩ của chúng ta nó làm cho sự-
vật minh-bạch mãi ra, và chúng ta phải thực-
hiện nó ở trong chính tâm-hồn mình ; sự thực-
hiện ấy sẽ tiến-triển thành sức mạnh hùng-hậu
của ý-chí. Trước hết là cảm-giác, rồi nó biến
thành ý-muốn, và từ ý muốn ấy xuất ra sức
mạnh lạ lùng để hành-động. Nó thấm-nhuần
trong mạch máu, thớ thịt và tủy não cho đến
khi nào toàn khối thân-thể của ta biến thành
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
143
khí-cụ của hành-động vô-tư và đạt tới sự tự hỷ-
xả hoàn-toàn và vô-ngã cùng-tột là kết-quả ước
mong vậy. Cái sở-đắc ấy, sự thành-tựu ấy
không dựa vào một giáo-lý nào, một kinh điển
nào, hay tín-điều nào. Dù người ấy là tín-đồ
của Cơ-Đốc hay Do-Thái, hoặc là một người
ngoại đạo thì cũng vậy thôi. Vấn-đề ở đây
chính là có vô-tư vô-kỷ hay không. Nếu thực
anh vô-tư thì anh sẽ thành-tựu hoàn-toàn,
chẳng cần phải đọc một cuốn sách nào, chẳng
cần phải vào một nhà-thờ hay một ngôi chùa
nào. Mỗi một đạo Yoga của chúng ta đủ để
thành một người hoàn-toàn, không cần phải
nhờ vào một Yoga nào khác, bởi tất cả đều có
một mục-đích chung .
Đạo Yoga Hành-động, hay Triết-lý, hay
Sùng-bái đều có thể là cả một phương-lược
độc-lập và thẳng-thắn để đi tới Thành-tựu Giải-
thoát. ( Chân, Thiện, Mỹ ). Chỉ có người điên
rồ mới nói rằng Hành-động và Triết-lý khác
nhau, chứ người Giác-ngộ không bao giờ cho
là như thế. Người hiểu-biết, biết rằng dù bề
VIVE - KARMA
144
ngoài cái nọ có khác cái kia chăng nữa, nhưng
kết-cục đều đưa đến mục-đích chung là sự
thành-tựu con người : THÁNH .
**********
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
145
CHƯƠNG VIII
TỰ-DO HAY LÀ GIẢI-THOÁT
Để cố đi vào ý-nghĩa của Hành-động,
chúng ta phải nhận-xét rằng chữ Karma Nghiệp
về phương-diện tâm-lý-học cũng có nghĩa là
" Nhân-quả " ; " Duyên-nghiệp ". Bất cứ một
công việc gì, một hành-động nào hay một ý-
nghĩ nào nó đẻ ra một kết-quả nào đều gọi là
Nghiệp ( Karma ). Vậy thì cái luật Nghiệp có
nghĩa là luật Nhân-quả, cái nhân-duyên tất
nhiên. Bất cứ ở đâu có một cái nguyên-nhân gì
đều phải sinh ra một kết-quả, cái lý tất nhiên ấy
người ta không thể chống lại được, và cái luật
Nghiệp ấy theo triết-học của Ấn-Độ thì chân-
thực khắp trong vũ-trụ. Bất cứ vật gì ta nhìn
thấy, ta cảm thấy hay làm ra, bất cứ hành-động
gì xẩy ra ở chỗ nào trong vũ-trụ, thì một đàng
vừa là kết-quả của động-tác trước, một đàng
khác lại trở nên một nguyên-nhân và tạo ra kết-
quả cho chính nó. Đi đôi với điều ấy, chúng ta
VIVE - KARMA
146
cần phải xét ý-nghĩa của chữ " luật pháp ". Ta
nói " Luật " là chỉ một liên-hệ, kế-tục có
khuynh-hướng tự nhắc lại ; khi nào ta nhìn thấy
một sự gì đi theo một sự gì khác hay là đồng
thời cùng xẩy ra một lúc thì chúng ta chờ có sự
tái diễn của sự kế-tiếp hay sự đồng thời ấy.
Những nhà luân-lý-học và triết-học cổ-điển
trong phái Nyaya ( Nhân Minh ) mệnh danh
cho cái luật ấy là Vyapti. Theo họ thì tất cả
những ý-tưởng về định-luật của chúng ta đều
do sự liên-hợp mà ra. Một hàng kế-tục liên-tiếp
của hiện-tượng liên-hợp trong tinh-thần chúng
ta với những sự-vật theo một thứ-tự bất-di bất-
dịch, cho nên bất cứ lúc nào chúng ta cảm thấy
cái gì thì chúng ta so ngay với sự-kiện khác
trong tinh-thần chúng ta. Bất cứ một lý-tưởng
gì, hay theo tâm-lý-học Ấn-Độ mà nói, thì bất
cứ làn sóng nào đã nổi dậy trên bản-chất của
tinh-thần là Chitta ( Bản-chất Tinh-thần ) thì
bao giờ cũng gợi dậy nhiều những làn sóng
khác nhau. Đấy là quan-niệm tâm-lý về sự liên-
hợp ( association ) và nguyên-lý nhân-quả chỉ
là một phương-diện của đại nguyên-lý liên-hợp
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
147
phổ-biến trong vũ-trụ. Sự liên-hợp tương-quan
phổ-biến ấy tiếng Phạn gọi là Vyapti ( liên-
hợp ). Ở ngoại-giới thì quan-niệm về định-luật
cũng giống như ở nội-giới, ấy là sự đợi chờ
một hiện-tượng riêng-biệt nào kế theo một
hiện-tượng nào khác và những hàng kế-tục ấy
cứ như thế tiếp-diễn. Vậy thực sự mà nói thì ở
tạo-vật không có định-luật. Về phương-diện
thực-tế thì bảo rằng định-luật hấp-dẫn-lực có ở
trên mặt đất, hay là bảo một định-luật nào có
một cách tuyệt-đối, khách-quan ở một nơi nào
trong tạo-vật là một điều sai lầm. Định-luật là
phương-pháp, là cách-thức để cho tinh-thần
chúng ta nhận-thức một hàng kế-tục của hiện-
tượng ; tất cả đều ở trong tinh-thần. ( Định-luật
ở trong tinh-thần, không phải ở bên ngoài sự-
vật ). Một số hiện-tượng xẩy ra cái nọ kế theo
cái kia hay là đồng thời cùng xẩy ra một lúc,
gây nên tin-tưởng về sự đều đều lần lượt tái
diễn một cách chắc-chắn, nhờ có thế tinh-thần
chúng ta mới có thể tìm được phương-pháp của
toàn-thể, một tràng kế-tiếp, ấy là cái mà chúng
ta gọi là định-luật .
VIVE - KARMA
148
Lại còn phải xét đến vấn-đề thứ hai :
Chúng ta hiểu định-luật phổ-biến đại-đồng là
thế nào ? Vũ-trụ của chúng ta là cái phần của
hiện-tại. Mà các nhà tâm-lý-học tiếng Phạn
phân-tích tính-chất gọi là Déha - Kala -
Nimitta, hay là tâm-lý-học Âu-Tây nhận-định
là Không-gian, Thời-gian và Nhân-quả. Vũ-trụ
này chỉ là phần nhỏ của thực-tại vô cùng, đúc
vào một khuôn đặc-biệt do không-gian, thời-
gian và nhân-quả hợp thành. Theo đó thì tất
nhiên định-luật chỉ có thể có được bên trong
vũ-trụ hữu-hạn, ngoài vũ-trụ ấy thì không thể
có định-luật được. Khi chúng ta nói đến vũ-trụ
thì chúng ta chỉ ngụ-ý cái phần của thực-tại
giới-hạn trong tinh-thần của chúng ta. Vũ-trụ
của những cảm-giác mà chúng ta có thể nhìn
thấy, nghĩ được và tưởng-tượng được ; chỉ có
cái vũ-trụ ấy mới ở trong vòng định-luật.
Nhưng ngoài vũ-trụ ấy thì thực-hữu không có
định-luật chi-phối, vì luật nhân-quả không thể
vượt ra ngoài cái thế-giới của tinh-thần chúng
ta. Cái gì ở ngoài biên-giới của tinh-thần và
cảm-quan của chúng ta thì không bị ràng buộc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
149
bởi luật nhân-quả, vì không có sự liên-hợp ý-
tưởng để liên-hệ sự-vật ở khu-vực ngoài cảm-
giác, và nếu đã không có sự liên-hợp của tư-
tưởng thì cũng không có nhân-quả. Chỉ khi nào
hiện-hữu hay là thực-hữu chịu khuôn đúc trong
vòng hình-danh sắc-tướng thì mới tuân theo
định-luật nhân-quả và mới gọi là có định-luật.
Bởi vì bản-tính của tất cả định-luật nằm ở tại lý
nhân-quả. Vậy thì chúng ta thấy rằng không thể
có vật gì gọi là Ý-chí tự-do, ngay chữ Ý-chí tự-
do cũng đã là một sự mâu-thuẫn, bởi vì Ý-chí
là cái gì chúng ta biết và phàm vật chúng ta biết
thì ở tại trong vũ-trụ, và đã ở trong vũ-trụ thì
đều bị quy-định bởi khuôn hữu-hạn của không-
gian, thời-gian và nhân-quả. Bất cứ vật gì
chúng ta biết hay là có thể biết được đều bị
khuôn định trong vòng nhân-quả tất nhiên, và
cái gì đã tuân theo luật nhân-quả thì không thể
tự-do được. Nó hành-động bởi những động-cơ
khác để nó trở nên nhân-quả đến lượt của nó.
Nhưng cái gì đã biến thành Ý-chí, cái gì ở đâu
rơi vào không-gian, thời-gian và nhân-quả và
biến thành ý-chí của nhân-loại thì không có tự-
VIVE - KARMA
150
do, và khi nào cái ý-chí ấy thoát ra ngoài cái
khuôn không-gian, thời-gian và nhân-quả kia
thì mới lại trở nên tự-do. Từ cái tự-do mà nó đi
đến nhập vào cái khuôn ràng buộc và xuất ra
khỏi khuôn ấy để lại trở về tự-do .
Người ta đã nêu lên câu hỏi : " Vũ-trụ tự
đâu mà đến, tồn tại ở đâu, rồi đi về đâu ? "
Người ta đã trả lời rằng : " Vũ-trụ từ tự-
do xuất ra, tồn-tại trong hệ-lụy và trở về tự-do.
Như thế thì khi ta nói một người không là cái
gì khác hơn là cái tự-tính vô-biên tự biểu-hiện
ra, thì chúng ta chỉ mới ngụ-ý một phần tối-
thiểu của cái gì là con người, thân-thể này và
tinh-thần này mà chúng ta trông thấy chỉ là một
phần của toàn-thể, chỉ là một điểm trong vô-
biên. Toàn-thể vũ-trụ này cũng chỉ là một điểm
của cái vô-biên ấy, và tất cả những định-luật
của chúng ta, những hệ-lụy, những sự vui
buồn, sung-sướng, mong-mỏi của chúng ta thì
chỉ ở trong vòng vũ-trụ nhỏ này, tất cả sự tiến
thoái dọc ngang đều ở trong khu-vực nhỏ. Như
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
151
thế đủ thấy thực là trẻ con mà mong đợi vũ-trụ
này có mãi. --- Sự sáng-tạo ra tinh-thần của
chúng ta có mãi. --- Và sự hy-vọng lên Thiên-
đường, kết-quả cũng chỉ có ý-nghĩa nhắc lại
thế-giới này mà chúng ta đã biết. Các anh xem
đấy thì biết rằng bất cứ toàn-thể thực-tại vô-
biên phải thu gọn vào trong sự sinh-tồn hữu-
hạn, và quy-định của chúng ta biết thì không
thể được, và là một sự mong muốn trẻ con. Khi
một người bảo muốn có một vật mà chỉ y hiện
đang có, hay là như tôi thường nói, khi y đòi
hỏi một tôn-giáo " an ủi ", các anh có thể biết
là y đã thoái-hóa đến mực y không còn nghĩ tới
cái gì cao quý hơn là cái mà y đang có, giống
hệt như hoàn-cảnh nhỏ hẹp hiện-tại của y chứ
không còn gì khác nữa. Y đã quên đi mất bẩm-
tính vô-biên của y và tất cả tư-tưởng của y thu
hẹp vào những cái vui buồn hèn mọn và sự
ghen-ghét nhất thời. Y nghĩ rằng vật hữu-hạn
này là cái vô-biên, không những thế, y không
muốn rời bỏ cả điều điên rồ ấy. Y cố bám một
cách tuyệt-vọng vào cái Trishna " Tham sinh "
mà nhà Phật gọi là " khát ái " ( Tanha ). Có
VIVE - KARMA
152
hàng triệu thứ hạnh-phúc và sinh-linh, định-
luật tiến-hóa và nhân-quả, tất cả hành-động bên
ngoài vũ-trụ nhỏ này mà chúng ta biết, kết cục
thì toàn-thể những cái ấy cũng chỉ giới-hạn
trong một khu-vực nhỏ ở bản-tính vô-biên của
chúng ta mà thôi .
Muốn đạt tới tự-do, muốn hoàn-toàn giải-
thoát, chúng ta phải vượt ra ngoài vũ-trụ, cái
tự-do ấy không thể tìm thấy ở đây. Hoàn-toàn
quân-bình hay là " An-lạc hòa-bình siêu-xuất
cả nhận-thức " thì không thể có trong vũ-trụ
này được, hay là ở bất cứ chỗ nào mà tinh-thần
và tư-tưởng chúng ta có thể tới được, hoặc
cảm-quan chúng ta có thể thấy được, hay trí
tưởng-tượng có thể hình-dung được. Không
một nơi nào như thế có thể đem lại cho ta tự-
do, bởi vì tất cả nơi ấy đều ở bên trong vũ-trụ
do những phạm-trù không-gian, thời-gian và lý
nhân-quả tạo ra. Có lẽ trong những nơi ấy có
nơi thanh-cao hơn là ở mặt đất này của chúng
ta. Ở đấy có lẽ có những sự khoái-lạc cao-
thượng hơn, nhưng tất cả những nơi ấy cũng ở
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
153
trong vũ-trụ, bởi thế cho nên còn ở trong vòng
hệ-lụy của định-luật. Vậy chúng ta phải vượt ra
ngoài cái đạo-lý chân-chính, bắt đầu từ chỗ tận
cùng của vũ-trụ nhỏ này. Những nỗi vui, buồn,
tri-thức về sự-vật cũng kết-liễu ở đấy. Khi
chúng ta bỏ hết được sự tham sống sợ chết, sự
níu chặt vào cuộc đời phù-sinh và hữu-hạn thì
chúng ta mới có hy-vọng nhìn thấy, dù chỉ là
một tia sáng nhỏ tự-do vô-biên siêu-việt ấy.
Như thế, suy lý ra thì chỉ có một đường để đạt
tới thứ tự-do siêu-việt ấy, nó là cứu-cánh của
tất cả cao-vọng của nhân-loại, ấy là vứt bỏ
cuộc đời nhỏ mọn này đi, vứt bỏ cái vũ-trụ nhỏ
bé này đi, vứt bỏ cả trái đất này, vứt bỏ cả
thiên-đường, vứt bỏ cả thân-thể, cả tinh-thần và
tất cả những gì thuộc về hữu-hạn. Nếu chúng ta
đã vứt bỏ được tất cả những hệ-lụy trên, tức là
chúng ta đã hoàn-toàn giải-thoát, hoàn-toàn tự-
do. Chỉ có một con đường duy-nhất ra khỏi hệ-
lụy là vượt qua giới-hạn của định-luật, vượt
khỏi luật nhân-quả .
VIVE - KARMA
154
Nhưng vứt bỏ sự bám víu vào vũ-trụ này
là một việc rất khó-khăn, hiếm có người đạt
được. Trong các kinh-điển Ấn-Độ chúng tôi có
ghi lại hai đường :
1/ _ Gọi là Neti Neti ( Phi-thử, Phi thử )
( Không phải cái này ) ;
2/ _ Gọi là Iti ( Thử ) ( Cái này ) .
Con đường trên là phủ-định, " Vô-vi xuất-
thế " và con đường sau là khẳng-định " Hữu-vi
nhập-thế ". Con đường phủ-định vô-vi thì khó
hơn hết. Phương-pháp này chỉ dành riêng cho
những người có một trình-độ cao về tâm-linh,
những tinh-thần hãn-hữu, những ý-chí mãnh-
liệt. Họ chỉ đứng lên nói : " Không, ta không là
cái này " và tức thì tinh-thần và thân-thể của họ
đều tuân theo ý-chí mà họ xuất ra là thành-
công. Nhưng những người như thế hiếm lắm.
Hầu hết nhân-loại chọn con đường nhập-thế
hữu-vi, con đường nhập-thế dùng tất cả những
hệ-lụy để lấy nó mà phá nó, đấy cũng là một
thứ hỷ-xả, nhưng hỷ-xả một cách dần dần bằng
cách nhận-biết sự-vật. Hưởng-thụ sự-vật và rút
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
155
lấy kinh-nghiệm, nhận-thức lấy tính-chất của
sự-vật cho đến khi nào tinh-thần thuận cho nó
đi hết, và sau cùng trở nên vô-hệ-lụy. Con
đường thứ nhất để ra khỏi hệ-lụy là dùng lý-
luận, và con đường thứ hai là nhờ vào hành-
động và kinh-nghiệm. Con đường thứ nhất là
Jana-Yoga, và tính-chất riêng của nó là từ-chối
mọi hành-động. Con đường thứ hai là Karma-
Yoga " Đạo Nghiệp " trong đó thì không có lúc
nào người ta thôi hành-động. Trong vũ-trụ, cái
gì cũng hành-động, chỉ có kẻ nào đã mãn-
nguyện hoàn-toàn với " Tự-Tính ", lòng ham-
muốn không ra ngoài Tự-Tính, tinh-thần không
đi sai Tự-Tính, đối với y thì ở đâu cũng là Tự-
Tính, chỉ có hạng người ấy mới không hành-
động. Còn ngoài ra đều phải hành-động. Một
giòng nước, tự bản-tính của nó từ trên cao đổ
như thác xuống vực sâu và lộn nhào dưới núi,
sau khi đã chảy theo vòng quanh ấy, nó lại xuất
ra là một giòng nước tự-do chảy xuôi không bị
kiềm-chế. Mỗi một cuộc đời của người ta cũng
như giòng nước kia vậy. Nó chảy vào vòng
vận-động, tiến-hóa trong cái thế-gian của
VIVE - KARMA
156
không-gian, thời-gian và nhân-quả, vận-chuyển
vòng quanh một lúc, kêu gọi : " Cha ơi ; Mẹ ơi;
Tên tuổi tôi ơi ; Danh tiếng tôi ơi ! " và cứ như
thế, sau cùng nó xuất ra khỏi thế-gian, trở về
với tự-do nguyên-thủy của nó. Cả vũ-trụ đều
làm như thế cả. Dù ta có biết hay không, dù ta
có ý-thức hay vô-ý-thức, chúng ta đều, hết
thảy, đang hành-động để ra khỏi giấc mộng
thế-gian. Sự kinh-nghiệm của nhân-loại ở thế-
gian là để rèn đúc nó, để nó có thể ra khỏi cuộc
vận-động tuần-hoàn .
ĐẠO NGHIỆP LÀ GÌ ?
Là sự hiểu-biết về bí-quyết của hành-
động .
Chúng ta thấy rằng toàn-thể vũ-trụ đều
hành-động. Để làm gì ? Để tự giải-thoát, để
được tự-do, từ cái đơn-tử nhỏ cho đến bậc cao-
siêu đều hành-động vì một cứu-cánh chung là
tự-do của tinh-thần, của thân-thể, của tâm-linh.
Mọi vật luôn luôn cố tìm tự-do, bay nhảy khỏi
vòng hệ-lụy. Kìa mặt-trời, mặt-trăng, quả đất,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
157
tinh-tú, hết thảy đều cố bay khỏi vòng câu-
thúc, thế-lực ly-tâm và quy-tâm của tạo-vật,
thực là đặc-biệt của vũ-trụ này vậy. Thay vì để
cho vũ-trụ này vùi dập và sau một thời-kỳ lâu
bị dầy xéo vật lộn, chúng ta nhờ có đạo mà học
biết được bí-quyết của hành-động. Phương-
pháp hành-động, năng-lực hành-động có tổ-
chức. Nếu chúng ta không biết phương-pháp
sử-dụng thì chúng ta phao-phí mất một khối
năng-lực lớn vậy. Đạo Nghiệp là một khoa-học
hành-động, nhờ nó chúng ta học biết được cách
sử-dụng thế nào là những hành-động tốt hơn
hết ở thế-gian này. Hành-động thì không ai
tránh được, nên tất là phải như thế, nhưng
chúng ta phải hành-động cho một mục-đích tối-
cao. Đạo Nghiệp giúp chúng ta nhận-định thế-
gian này chỉ là ảo-hóa bể dâu chúng ta phải trải
qua, và cái tự-do kia không phải ở tại đấy,
chúng ta phải tìm nó chỉ ở bên ngoài mà thôi.
Muốn tìm ra con đường để thoát khỏi ràng
buộc của thế-gian, chúng ta phải trải qua một
cách từ từ và chắc-chắn. Cũng có những bậc
hãn-hữu, những bậc đứng dậy ném thế-gian đi,
VIVE - KARMA
158
ví như con rắn vứt tuột cái xác ngoài của nó,
rồi đứng sang một bên mà nhìn lại cái đống xác
da vô-dụng. Hẳn rằng có những bậc hãn-hữu ấy
thật, nhưng hầu hết nhân-loại phải trải qua một
cuộc đời hành-động. Đạo Nghiệp chỉ dẫn sự
tiến hóa của bí-quyết và phương-pháp để hành-
động, như thế nào cho có hiệu-quả tốt hơn hết .
Đạo Nghiệp nói gì ? : " Hành-động không
ngừng nhưng vứt hết hệ-lụy của hành-động đi".
Không nên đồng-nhất mình với một vật gì cả.
Giữ tinh-thần mình tự-do. Tất cả những gì mà
anh nhìn thấy, những phiền-não và đau khổ chỉ
là những điều-kiện cần-thiết cho thế-giới này,
nghèo-nàn, giầu-sang và hạnh-phúc chỉ là nhất
thời ; chúng không thuộc vào Chân-tính của
chúng ta một chút nào. Chân-tính của chúng ta
thì ở xa, ngoài đau-khổ và hạnh-phúc, ngoài
sự-vật của giác-quan, ngoài trí tưởng-tượng,
vậy mà chúng ta phải tiếp-tục làm việc luôn
luôn mãi mãi. Đau-khổ là do hệ-lụy mà đến
chứ không phải vì hành-động sinh ra. " Khi nào
chúng ta tự đồng-nhất mình với công việc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
159
chúng ta làm thì chúng ta cảm thấy đau-khổ.
Nếu một bức-tranh đẹp thuộc về người khác
mà bị cháy thì chúng ta thường không thấy đau
khổ. Nhưng khi nào bức-tranh ấy là của mình
mà bị cháy thì mình cảm thấy đau-khổ là
nhường nào ! Tại sao vậy ? Cả hai bức-tranh
đều đẹp cả, có lẽ cùng là một bức phóng của
một bức chính nào, nhưng ở một trường-hợp
này người ta cảm thấy đau-khổ hơn là ở một
trường-hợp khác, chỉ vì một đàng người ta tự
đồng-nhất với bức-tranh, còn một đàng thì
không. Vậy cái " Tôi " và cái " Của tôi " là
nguyên-nhân của tất cả khổ đau. Với cảm-giác
của sự tư-hữu thì sự tư-kỷ sẽ đến, và sự tư-kỷ
đem lại đau khổ. Mỗi một hành-động tư-kỷ hay
là mỗi một ý-nghĩ của tư-kỷ làm cho chúng ta
hệ-lụy vào vật gì, tức thì chúng ta bị nô-lệ-
hóa....
Mỗi một làn sóng trên nền-tảng tinh-thần
( Chitta ) gọi là " tôi " và " của tôi " tức thì nó
buộc ta vào một vòng xích và làm cho chúng ta
thành nô-lệ, chúng ta càng nói đến " tôi " và
VIVE - KARMA
160
" của tôi " bao nhiêu, chúng ta càng trở nên nô-
lệ bấy nhiêu. Bởi vậy, đạo Nghiệp dạy ta phải
hưởng-thụ cái đẹp của tất cả mọi bức-tranh
trong thế-gian, nhưng không được tự mình
đồng-nhất mình với một cái nào cả. Không bao
giờ được nói " của tôi ". Hễ khi nào chúng ta
nói một vật gì của mình thì đau khổ sẽ đến
ngay lập-tức. Cũng đừng nói đến " Con của
tôi " trong tinh-thần anh, hãy có con nhưng
đừng nói nó là của mình. Nếu anh không làm
như thế đau khổ sẽ đến ngay. Chớ nói nhà
" của tôi " ; chớ nói thân-thể " của tôi ". Tất cả
cái gì khó-khăn là ở đấy hết. Thân-thể chẳng
phải là của anh, chẳng phải là của tôi, chẳng
phải là của người nào cả. Những thân-thể đến
và đi, còn và mất, đều bởi định-luật tự-nhiên,
nhưng chúng ta thì tự-do, đứng như người
khách bàng quan. Cái thân-thể này không tự-do
hơn là một bức-tranh, hơn là một bức tường.
Sao chúng ta lại hệ-lụy quá vào cái thân-thể
đến như thế ? Nếu có một người nào vẽ một
bức-tranh, y vẽ xong rồi y đi, không để cho
lòng tham vươn cái tay tư-kỷ, như là " tôi phải
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
161
có cái này ". Hễ cái tay ấy vươn ra là bắt đầu
có đau khổ .
Bởi thế mà đạo Nghiệp bảo trước hết hãy
phá cái khuynh-hướng muốn vươn cái tay của
tự-kỷ ra, và khi nào anh đã có thể kiềm-chế
được nó, thì hãy giữ lấy nó, đừng cho tinh-thần
anh đi theo làn sóng của Tư-kỷ. Bấy giờ anh có
thể đi ra thế-gian và tha-hồ hành-động tùy sức
của mình. Chỗ nào cũng tham-gia vào, đi đâu
tùy ý, các anh sẽ không bao giờ bị tiêm-nhiễm
tà ác. Ví như tầu lá sen trên mặt nước, nước
không làm ướt nó được, đối với thế-gian của
anh cũng nên như thế. Thế gọi là " hỷ-xả "
( Vairagya ) thản-nhiên hay là vô-hệ-lụy. Hình
như tôi đã nói với các anh : " Nếu không có vô-
hệ-lụy thì không thể có một thứ Yoga nào cả,
vô-hệ-lụy là cơ-bản của tất cả các Yoga ". Một
người có thể ném đời tại-gia đi, bỏ áo đẹp và
ăn ngon để đi vào sa-mạc, vẫn có thể còn là
người bị hệ-lụy nhất. Tất cả của cải của y,
chính thân-thể y cũng có thể thành một vật gì
tư-hữu cho y được, và y chỉ sống để bảo-vệ
VIVE - KARMA
162
thân-thể của y thôi. Vô-hệ-lụy không có liên-
quan gì đến thân-thể của chúng ta. Tất cả đều ở
tại trong tinh-thần chúng ta. Cái giây xích
" tôi " và "của tôi " là ở trong tinh-thần. Nếu
chúng ta không còn giây xích với thân-thể và
các sự-vật của giác-quan thì chúng ta sẽ vô-hệ-
lụy, bất cứ chúng ta ở đâu và chúng ta là cái gì.
Một người có thể ngồi trên ngai vàng mà hoàn-
toàn vô-hệ-lụy, kẻ khác có thể nghèo-khó đến
cái áo cũng không mà lại là người hệ-lụy nhất.
Trước hết chúng ta phải đạt tới trạng-thái vô-tư
ấy, rồi thì phải hành-động luôn luôn không
nghỉ. Đạo Nghiệp đem cho ta phương-pháp để
chúng ta cởi bỏ tất cả hệ-lụy đi, tuy rằng sự
thực là một việc khó-khắn lắm .
Có hai cách để cởi bỏ tất cả hệ-lụy :
I._ Một là để cho những người không tin
vào Thiên-mệnh ( ) hay là một tha-lực nào
giúp cả. Hạng này chỉ trông vào tự-lực, họ chỉ
hành-động với ý muốn của họ, với những năng-
lực của tinh-thần và sự thanh-tạo-hóa tinh-thần
dần dần, họ nói : " Ta phải vô-hệ-lụy ". Đối với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
163
người tin có Thượng-Đế thì có một cách dễ
hơn là họ dâng mọi kết-quả của công việc cho
Thượng-Đế, họ hành-động không bao giờ để
hệ-lụy vào kết-quả. Bất cứ cái gì họ cảm, nghe,
nhìn hay làm đều là vì Thượng-Đế. Bất cứ một
hành-động tốt nào mà chúng ta làm, chúng ta
đừng đòi công thưởng. Đấy là của Trời, Phật,
dâng những kết-quả lên cho Trời, Phật. Chúng
ta hãy đứng ra ngoài mà tưởng rằng, chúng ta
chỉ là tôi-tớ, con-cái phục-tòng Trời, Phật.
Trời, Phật là Sư-phụ tối-cao của chúng ta, và
mỗi một động-cơ để hành-động luôn luôn đều
do tự Ngài đến cả . : " Bất cứ cái gì ta làm hãy
dâng lên cho Ngài và nên yên-tâm. Chúng ta
hãy an tâm và hoàn-toàn an tâm nơi chúng ta,
dâng hết thân-thể lẫn tinh-thần và tất cả mọi vật
như là một lễ cúng-dàng vĩnh-viễn cho
Thượng-Đế. Đáng lẽ làm một lễ cúng-dàng rót
rượu vào lửa, thì hãy tu sửa phần đại-lễ cúng-
dàng kia, ngày đêm hiến-dâng cái tiểu-ngã nhỏ
bé của ta đi. Trong sự tìm kiếm của cải ở thế-
gian này thì Ngài là của-báu độc-nhất mà ta đã
thấy. Ta tự dâng lên Ngài. Trong sự tìm kiếm
VIVE - KARMA
164
một người để yêu, Ngài là người yêu độc-nhất
mà ta đã thấy. Ta tự hy-sinh ta lên Ngài. Chúng
ta hãy nhắc đi, nhắc lại ngày đêm như thế và
không có cái gì để cho ta cả, không có điều gì
là vật tốt, xấu có thể cám-dỗ ta được ".
Ta dâng tất cả lên cho Ngài. Ngày đêm
chúng ta hãy bỏ cái ngã giả cho đến khi nào
thành ra thói quen, làm như thế cho đến khi nào
sự hỷ-xả ấy thấm-nhuần vào huyết-mạch, cân
não và toàn khắp thân-thể, bất cứ lúc nào cũng
tuân theo cái ý-tưởng xả-kỷ ấy. Thế rồi anh đi
ra mặt-trận, bom gầm, đạn nổ trong chiến-trận,
anh sẽ thấy anh vẫn tự-do và bình-tĩnh, an tâm .
Đạo Nghiệp dạy chúng ta rằng ý-tưởng
thông-thường về bổn-phận là ở trình-độ thấp
nhất, tuy vậy chúng ta ai ai cũng phải làm bổn-
phận của mình, tuy nhiên chúng ta có thể thấy
rằng cái ý-nghĩa đặc-biệt về bổn-phận luôn
luôn là một nguyên-nhân lớn của đau-khổ.
Bổn-phận trở nên một thông bệnh, nó xô đẩy
chúng ta đi, nó trói buộc chúng ta và làm cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
165
cuộc đời chúng ta đau-khổ. Nó là bệnh dịch của
xã-hội, cái bổn-phận ấy, cái ý-tưởng về bổn-
phận ấy ví như mặt-trời mùa hạ giữa trưa, nó
thiêu đốt tâm-hồn của nhân-loại. Hãy nhìn
những kẻ làm nô-lệ cho bổn-phận, bổn-phận
không còn để cho nó lúc nào mà cầu-nguyện,
phút nào tắm rửa. Lúc nào bổn-phận cũng đè
lên đầu chúng. Chúng đi làm việc gì bổn-phận
cũng theo sau, chúng trở về nghĩ tới công việc
ngày mai, bổn-phận cũng theo dõi. Chúng sống
một cuộc đời nô-lệ, kết-cục ngã gục giữa
đường, và chết như con ngựa dưới yên-cương.
Đấy là bổn-phận mà người ta hiểu. Sự thực chỉ
có bổn-phận chân-chính là vô-hệ-lụy và làm
việc như một kẻ tự-do, ấy là đem dâng hết
công-việc cho Thượng-Đế. Tất cả bổn-phận là
của Ngài, chúng ta hãy biết ơn là chúng ta được
hiện-sinh nơi đây, chúng ta hãy phụng-sự Ngài
hết thì giờ của chúng ta, dù là làm tốt hay làm
xấu, ai có biết đâu ? Nếu chúng ta làm tốt thì
chúng ta được hái quả tốt. Chúng ta làm bậy
chúng ta cũng chẳng nghĩ tới. Hãy bình-tĩnh tự-
do và hành-động. Thứ tự-do ấy là một việc khó
VIVE - KARMA
166
đạt tới. Dễ-dàng thay lấy sự nô-lệ làm bổn-
phận. __ Cái thông bệnh hệ-lụy vào da thịt vì
da thịt.__ Người ta đi vào thế-gian phấn-đấu
và tranh-đấu lấy tiền-của hay là một vật gì khác
mà họ tham-vọng. Thử hỏi xem tại sao mà họ
lại làm việc như vậy ? Họ trả lời : " Ấy là bổn-
phận ". Đấy là một sự tham-vọng vô-lý về
vàng, về lợi mà họ cố tô-điểm bằng một vài
cánh hoa .
Tóm lại, bổn-phận là gì ? Thực ra chỉ là
sự khích-động của xác-thịt, sự hệ-lụy của
chúng ta, và khi nào hệ-lụy đã được mọc rễ ăn
sâu thì chúng ta gọi là bổn-phận. Thí-dụ ở các
xứ không có tục lấy vợ lấy chồng, thì không có
bổn-phận giữa vợ chồng, và một khi đã có vợ
chồng thì vợ chồng cùng sống với nhau, đều
công-nhận cái hệ-lụy ấy và cách sống chung
đụng với nhau ấy đã được thiết-lập qua các thế-
hệ ; và khi nào nó được thiết-lập như thế thì nó
trở nên một bổn-phận. Có thể nói rằng đấy là
một thứ thời bệnh. Khi nào nó trầm-trọng thì
chúng ta gọi nó là một thứ bệnh, và khi nào nó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
167
thành tục-lệ thì người ta gọi nó là bản-tính, đấy
vẫn là một bệnh. Khi nào hệ-lụy trở nên tục-lệ
như thế thì chúng ta tặng nó một danh-từ là
" bổn-phận ". Chúng ta phủ hoa lên nó, kèn
trống rước nó, tuyên chúc kính tụng nó, và rồi
khi cả thế-gian tranh cạnh nhau, người nọ ăn
cướp của người kia thì vì bổn-phận. Bổn-phận
chỉ có khi nào nó kiềm-chế sự hung-hãn. Đối
với hạng người thấp hèn không thể có một lý-
tưởng gì khác thì bổn-phận cũng có ít nhiều sự
tốt, nhưng đối với người nào cần trở nên tín-đồ
đạo " Nghiệp " thì phải ném tuột cái tư-tưởng
bổn-phận ấy đi. Không làm gì có bổn-phận đối
với anh và với tôi. Bất cứ cái gì anh đã đem
cho đời, thì anh hãy đem cho bằng các cách,
nhưng chớ vì bổn-phận. Đừng nên có một ý-
nghĩ gì về bổn-phận. Đừng nên để bị bắt buộc.
Tại sao anh lại bị bắt buộc ? Cái gì anh đã làm
vì bắt buộc chỉ tạo nên hệ-lụy cho anh thôi. Tại
sao anh có bổn-phận ? Hãy dâng tất cả lên cho
Thưọng-Đế. Trong cái lò nung nấu lạ lùng này
mà lửa bổn-phận đốt cháy thịt mọi người,
chúng ta hãy uống cốc nước cam-lồ ấy và nên
VIVE - KARMA
168
sung sướng. Chúng ta hết thảy chỉ hành-động
cho đấng Tối-Cao và chẳng nên làm việc gì vì
thưởng hay vì phạt. Nếu chúng ta cần thưởng
thì chúng ta phải chịu phạt, chỉ có một đường
tránh khỏi phạt là phải bỏ thưởng đi. Chỉ có
một đường để thoát khỏi đau-khổ là bỏ ý-tưởng
hạnh-phúc đi. Bởi vì cả hai cái ấy vẫn giằng co
với nhau. Ở một đầu này thì là hạnh-phúc, ở
đầu kia là đau-khổ ; ở một đầu là sự sống, ở
đầu kia là sự chết. Có một đường để tránh cái
chết là khử bỏ cái tham sinh đi, sống và chết là
một vậy, nó chỉ ở quan-điểm khác nhau. Vậy
thì cái ý-tưởng về hạnh-phúc không có đau-
khổ, hay là sự sống không có sự chết thì chỉ
thực và đẹp cho lũ học-trò và con nít, những
người có suy-nghĩ nhìn thấy rằng tất cả đều là
một sự mâu-thuẫn của danh-từ và ném bỏ cả
hai đi. Đừng tìm danh lợi trong việc gì anh
làm .
Chúng ta chưa hoàn-thành một công việc
thiện nào, chúng ta đã bắt đầu đòi tín-nhiệm về
việc ấy. Chúng ta chưa ứng tiền cho một việc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
169
từ-thiện nào, chúng ta đã cần nhìn thấy tên tuổi
phô-trương trên trang giấy. _ Đau khổ tất phải
là kết-quả của những tham-vọng như thế. Bao
nhiêu những bậc vĩ-nhân nhất thế-giới đã đi
không ai biết đến tên tuổi. Những Đức Phật và
những Đấng Cơ-Đốc chỉ là những bậc anh-
hùng hạng thứ so với những bậc vĩ-nhân hạng
nhất kia mà thế-giới không ai biết đến. Hàng
trăm những anh-hùng vô-danh đã sống ở khắp
nơi, hành-động một cách âm-thầm. Âm-thầm
họ sống và âm-thầm họ đi, và với thời-gian
những tư-tưởng của các Ngài đã biểu-hiện ra
tại những Đức Phật hay Cơ-Đốc, và chỉ những
bậc thứ này là chúng ta biết thôi. Những bậc vĩ-
nhân bậc nhất thì không cầu tìm người ta biết
danh-tiếng mình. Các Ngài đã để lại những tư-
tưởng cho đời. Các Ngài không thốt ra một lời
đòi hỏi nào cho mình cả và cũng không lập
thành môn-phái mang tên tuổi mình. Tất cả
bản-tính của các Ngài đều từ-chối những vật
như thế. Các Ngài là bậc " Sattvikas " ( Vô-Vi )
thuần-túy, không bao giờ gây nên tiếng động,
nhưng chỉ hòa vào tình-yêu. Tôi đã được mục-
VIVE - KARMA
170
kích một bậc đạo-sĩ như thế " Pâvhâri - Bâba ",
sống ở trong một cái hang bên Ấn-Độ. Ngài là
một trong những người lạ-lùng nhất mà tôi đã
thấy. Ngài đã mất hoàn-toàn cái ý-tưởng về
chính cá-nhân mình, đến nỗi tôi có thể nói rằng
con người ở Ngài đã mất hẳn, chỉ để lại cái ý-
thức đại-đồng về thần-linh. Nếu một con vật
cắn vào tay của Ngài, Ngài sẵn-sàng cho nó nốt
tay kia và bảo rằng đấy là ý muốn của Bề-Trên.
Mọi vật xẩy đến cho Ngài là do tự Bề-Trên.
Ngài không tỏ cho người ta biết, vậy mà Ngài
là một kho-tàng của tình yêu thương và của
những tư-tưởng chân-thật, tốt đẹp .
II._ Thứ đến là những bậc có nhiều năng-
động, hay là bản-tính hoạt-động, đem tư-tưởng
của những bậc hoàn-toàn mà truyền-bá cho đời.
Bậc người cao nhất kia lặng-lẽ thâm-nhập
những tư-tưởng chân-thực và cao-thượng, còn
bậc khác __ như Đức Phật thì đi khắp thế-giới
truyền-bá và thực-hành những tư-tưởng ấy.__
Trong đời Đức Gautama-Bouddha chúng ta
nhận thấy Ngài luôn luôn nói rằng Ngài là Đức
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
171
Phật thứ 25, còn 24 Đức Phật trước kia thì
lịch-sử không biết. Tuy nhiên lịch-sử Đức Phật
mà ta biết đã phải xây-dựng trên những nền-
tảng do các Đức Phật trước kia đã đặt và để lại.
Những bậc siêu-nhân tuyệt-đối thì an-nhiên
lặng-lẽ và vô-danh. Các Ngài là những người
thực đã thấu hiểu thế nào là năng-lực của tư-
tưởng. Các Ngài cầm chắc rằng dù các Ngài có
ở trong hang động đóng cửa lại trầm-tư nắm tư-
tưởng chân-thật, tới khi các Ngài có tịch diệt
thì những tư-tưởng ấy sẽ còn sống mãi mãi.
Thực vậy, những tư-tưởng như thế sẽ xuyên
sơn, quá hải mà tràn ngập ra khắp thế-giới.
Chúng sẽ nhập vào tâm và trí não của nhân-
loại, gọi lên những bậc thánh-trí nam, nữ để
thực-hiện một cách thực-tế trong tất cả hành-vi
của nhân-loại .
Những bậc siêu-nhân tuyệt-đối " Satt-
vikas " kia thì gần sát với Thượng-Đế đến nỗi
không còn hoạt-động và tranh-đấu, cạnh-tranh
để truyền-bá và hành thiện ở trên mặt đất này
cho nhân-loại được. Còn những bậc hành-động
VIVE - KARMA
172
nhiệt-liệt, dù có quên thân mấy đi nữa nhưng
cũng còn vướng bận ít nhiều tư-ngã. Khi nào
bản-tính của chúng ta còn lại đôi chút tư-ngã
trọc phược thì bấy giờ chúng ta mới có thể
hành-động được. Bởi tính-chất tự-nhiên của
hành-động thường là do những động-cơ và hệ-
lụy kích-thích. Đứng trên một định-mệnh luôn
luôn hoạt-động, để ý cả tới sự rơi ngã của một
con chim sẻ, thì làm sao người ta còn có thể trụ
tâm vào chính công việc của mình ?
Khi chúng ta biết rằng Định-mệnh chăm-
chú cả đến những vật nhỏ nhất ở thế-gian, thì
chẳng phải là việc phạm-thượng mà chúng ta
còn để ý một cách quá-đáng vào công việc của
chúng ta như thế ư ? Chúng ta chỉ phải đứng
khoanh tay mà kính-phục trước Định-mệnh và
nói : " Tuân theo Thiên-mệnh ". Những việc
siêu nhân tuyệt-đối không thể hành-động được
nữa vì ở mình không còn chút hệ-lụy nào nữa .
Đối với những bậc mà tất cả tâm-hồn đã
thâm-nhập vào Tự-Tính, tất cả mong muốn đều
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
173
tập-trung nơi Tự-Tính, luôn luôn hợp-nhất với
Tự-Tính, thì không còn một hành-động gì hết.
Thật đấy là tuyệt-đối của nhân-loại, nhưng
ngoài những bậc ấy ra, ai ai cũng phải hành-
động. Hành-động như thế, chúng ta không bao
giờ được nghĩ rằng chúng ta có thể giúp một
vật nhỏ nào trong vũ-trụ. Chúng ta chỉ tự giúp
mình trong cái trường đào-luyện này của thế-
gian. Đấy là thái-độ xác-đáng để hành-động.
Nếu chúng ta hành-động theo cách ấy, nếu
chúng ta luôn luôn nhớ rằng : cơ-hội hiện-tại
của chúng ta để hành-động như thế là một đặc-
ân cho chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ hệ-
lụy vào cái gì cả. Hàng triệu người như chúng
ta nghĩ rằng mình là những vĩ-nhân ở thế-giới,
nhưng chúng ta đều chết, và sau đó năm phút
thế-gian sẽ quên mất chúng ta. Nhưng cuộc đời
của Thiên-Mệnh thì vô cùng. Ai có thể sống
được một lúc, thở được một giây phút, nếu
quyền-lực toàn-thể kia không định-đoạt ? Ngài
là Định-Mệnh, bao giờ cũng linh-hoạt. Tất cả
quyền-năng đều là của Ngài và do Ngài điều-
khiển. Có lệnh của Ngài gió mới thổi, mặt-trời
VIVE - KARMA
174
mới chiếu, quả đất mới quay, cái chết mới có
trên mặt đất. Ngài là toàn-thể trong toàn-thể.
Ngài là tất cả và ở tại tất cả. Chúng ta chỉ có
thể phụng-thờ Ngài. Bỏ tất cả những kết-quả
của hành-động đi : Hành Thiện Vì Mục-Đích
Làm Thiện : chỉ đến bấy giờ mới có sự giải-
thoát, vô hệ-lụy hoàn-toàn. Những giây xích
của con tim sẽ đứt tung ra, và chúng ta sẽ thực-
hiện được tự-do hoàn-toàn. Cái tự-do ấy chính
thực là mục-đích của " ĐẠO NGHIỆP " vậy .
********
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
175
CHƯƠNG IX
LÝ - TƯỞNG CỦA ĐẠO NGHIỆP
Cái tư-tưởng đẹp-đẽ nhất trong đạo Vê-
Đa ( Vedanta ) là chúng ta có thể đạt được tới
mục-đích chung bằng nhiều đường lối khác
nhau, khái-quát có bốn đường : Hành-động ;
Đức ái ; Tâm-lý và Triết-lý. Nhưng phải đồng
thời nhớ rằng sự phân chia ấy không phải rõ-rệt
hiển-nhiên lắm đâu, và cái nọ biệt-lập hẳn với
cái kia đâu, chúng lẫn-lộn với nhau. Nhưng tùy
theo tính-cách nào ưu thắng mà chúng ta phân
chia. Không phải rằng anh thấy có hạng người
không còn năng-khiếu gì khác hơn là phục-vụ
Sùng-bái, hay là có hạng người không có gì
khác ngoài triết-lý ra. Những sự phân chia lập
ra với cá-tính đặc-biệt hay là khuynh-hướng mà
người ta có thể thấy ưu thắng ở một người.
Chúng ta đã thấy rằng chung-cục bốn con
đường ấy đều tập-trung vào một. Tất cả các đạo
VIVE - KARMA
176
và tất cả các phương-pháp hành-động và sùng-
bái đều đưa chúng ta đến một mục-đích chung .
Tôi đã cố phân-tách cái mục-đích ấy ra.
Nó là Tự-do như tôi đã hiểu. Mọi vật chúng ta
cảm thấy chung-quanh chúng ta đều tranh-đấu
để đi tới tự-do, kể từ những đan-tử nhỏ cho tới
loài người, kể từ những loài vô-tri và vô-sinh
cho tới những sinh-linh tối-cao trên mặt đất, là
linh-hồn của nhân-loại. Tất cả vũ-trụ thực ra là
kết-quả của sự tranh-đấu cho tự-do. Ở hết thảy
những hóa-hợp chất, mỗi một phần-tử cố theo
đuổi một đường đi riêng của nó, cố bay xa
những phần-tử khác, nhưng những phần-tử
khác kia cầm giữ nó trong vòng cương-tỏa.
Trái đất của chúng ta đang cố bay xa mặt-trời,
và mặt-trăng muốn xa trái đất. Mọi vật đều có
khuynh-hướng tản-mát ra vô cùng. Tất cả cái
mà chúng ta nhìn thấy trong vũ-trụ đều lập-
cước trên căn-bản phấn-đấu cho tự-do, chính
cái khuynh-hướng ấy nó khích-động nhà đạo-sĩ
trong sự cầu-nguyện và đứa kẻ-trộm trong sự đi
lấy của không được cho. Khi nào đường hành-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
177
động không chân-chính thì chúng ta gọi là gian
ác và khi nào sự biểu-hiện của nó chân-chính
và cao-thượng thì chúng ta bảo là thiện. Nhưng
động-cơ thì giống nhau, ấy là sự phấn-đấu cho
tự-do. Nhà đạo-sĩ bị áp-bức vì nhận-thức về
thân-phận lệ-thuộc của mình và cầu-nguyện để
thoát ra khỏi, cho nên tin thờ Thượng-Đế. Kẻ
ăn-trộm bị áp bức vì cái ý-tưởng không có
những vật gì và y cố giải-thoát sự nhu-cầu ấy
để đạt tới tự-do của nó, cho nên nó đi ăn-trộm.
Tự-Do là mục-tiêu độc-nhất của tất cả bản-tính
linh-động hay vô-tri, và mọi vật đều đang
phấn-đấu để đi tới cái mục-tiêu ấy một cách ý-
thức hay vô-ý-thức. Tự-do mà nhà đạo-sĩ tìm
thì khác với thứ tự-do của kẻ ăn-trộm, thứ tự-
do mà nhà đạo-sĩ yêu quý đến khoái-lạc vô-
biên, đến hạnh-phúc vô-tả, còn như cái tự-do
của kẻ ăn-trộm thì khắc-khoải trong lòng, chỉ là
rèn thêm cho y một cái vòng xích nữa cho
chính linh-hồn y .
Ở các đạo người ta đều nhận thấy biểu-
hiện sự phấn-đấu cho tự-do cả. Nó là cơ-bản
VIVE - KARMA
178
của luân-lý, của các tư-tưởng vị-tha, ngụ-ý
giải-thoát khỏi ý-tưởng cho mình cũng như cho
thân-thể nhỏ-mọi của mình. Khi chúng ta trông
thấy một người làm việc thiện, cứu giúp kẻ
khác, như thế có ngụ-ý rằng y không thể tự
giam-hãm mình trong vòng nhỏ hẹp của cái
" Tôi " " Cái mình ". Không còn một giới-hạn
nào cho sự giải-thoát khỏi vòng tư-kỷ. Hết thảy
các đại tôn-chỉ của luân-lý đều truyền-bá ý-
tưởng vị-tha làm mục-đích. Ví thử một khi ý-
tưởng vị-tha tuyệt-đối kia có thể đạt được rồi,
thì người ta thành cái gì ? Y không còn là ông
này, ông nọ nhỏ-mọn, y đã bành-trướng ra cõi
vô-biên, cái cá-nhân nhỏ-mọn mà y có trước
kia thì nay đã mất hẳn, y đã trở nên vô-biên, và
sự đạt tới vô-biên ấy thật là mục-đích của các
đạo, của các luân-lý và của các triết-lý .
Chủ-nghĩa vị-ngã khi nghe thấy cái ý-
tưởng ấy lấy làm trọng-tâm triết-lý thì rùng-
rợn. Đồng thời, nếu y truyền-bá luân-lý thì rút
cục y cũng lại dạy một cái tư-tưởng tương-tự
mà thôi. Y không đạt được một giới-hạn nào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
179
cho ý-nghĩa vô-tư-kỷ của loài người. Ví thử
một người trở nên hoàn-toàn vô-tư-kỷ trong
chủ-nghĩa cá-nhân thì làm thế nào chúng ta có
thể phân-biệt người ấy với những người trở nên
hoàn-toàn ở các chủ-nghĩa khác. Y đã trở nên
đồng-nhất với vũ-trụ và đến đấy là mục-đích
của tất cả, duy chỉ có anh vị-ngã khổ-sở kia
không có can-đảm theo đuổi cái lý-luận của
mình cho đến kết-luận chính-đáng .
Đạo Nghiệp là để đạt tới cái tự-do kia, là
cứu-cánh của tất cả bản-tính nhân-loại bằng
hành-động vô-tư. Vậy thì mỗi một hành-động
vị-kỷ làm chậm sự tới đích ; và mỗi hành-động
vô-tư đẩy chúng ta mau tới đích. Bởi thế cho
nên cái định-nghĩa duy-nhất mà người ta có thể
định-nghĩa cho luân-lý là : Cái gì vị-kỷ là trái
luân-lý, cái gì vô-tư là luân-lý .
GIÁ-TRỊ HÀNH-VI._
Nhưng nếu đi vào chỗ chi-tiết, thì vấn-đề
này không nhìn thấy một cách giản-dị như thế
VIVE - KARMA
180
đâu. Ví-dụ hoàn-cảnh thường làm cho những
chi-tiết khác đi. Cùng một hành-động ở trong
những trường-hợp này có thể là vô-tư, mà ở
những trường-hợp khác có thể là hoàn-toàn vị-
lợi. Bởi thế chúng ta chỉ có thể định-nghĩa một
cách đại-khái, còn những chi-tiết phải, nên, thế
nào thì tùy theo thời-thế và hoàn-cảnh khác
nhau mà thay-đổi. Ở xứ này, cư-xử như thế này
được coi là luân-lý, ở xứ khác cũng một cử-chỉ
như thế thì lại là vô-luân, bởi vì hoàn-cảnh
khác đi. Mục-đích của tất cả là tự-do, và tự-do
chỉ có thể đạt được bằng sự vô-tư hoàn-toàn,
mỗi một ý-nghĩ, một lời nói, một hành-động
vô-tư đều đưa chúng ta đến mục-đích và do đấy
gọi là có luân-lý. Cái định-nghĩa ấy như chúng
ta sẽ thấy đều có giá-trị ở các tôn-giáo và các
hệ-thống luân-lý .
Ở một vài chủ-nghĩa, luân-lý lập cước ở
một đấng Tối-cao gọi là Thượng-Đế. Nếu anh
hỏi tại sao người này phải làm việc này mà lại
không làm được việc kia, thì họ trả lời : " Đấy
là Thiên ý ". Nhưng dù nguyên-lai như thế nào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
181
đi nữa, thì cái giới-điều luân-lý cũng chỉ có một
ý-tưởng trọng-tâm giống nhau là : chớ nên nghĩ
về mình và phải bỏ cái mình đi. Tuy vậy, có
những người dù có biết cái ý-tưởng luân-lý cao
ấy nhưng vẫn rùng-rợn khi nghĩ phải ném bỏ
cái cá-nhân của mình đi. Chúng ta thử xét
trường-hợp một người đã trở nên hoàn-toàn vô-
tư, không có một ý-nghĩ gì vì mình, không có
một hành-động gì vì mình, không nói một lời
nào vì mình, thử hỏi cái " mình " của người ấy
ở đâu. Cái mình ấy, y chỉ có thể thấy được khi
nào y còn nghĩ, còn làm và còn nói cho chính
mình y mà thôi. Nếu y chỉ ý-thức về những
người khác, về vũ-trụ và về tất cả sự-vật, thì cái
" mình " của y ở đâu ? Nó đã đi mất hẳn và nó
đã tự quên mất mình đi rồi. Chính khi ta làm
việc hy-sinh cho kẻ khác, lúc ấy ta đã không
nghĩ đến mình nữa vậy. Đạo Nghiệp là một hệ-
thống luân-lý và đạo-lý, có mục-đích làm cho
ta đạt tới tự-do bằng tư-tưởng vô-tư, vị-tha và
bằng những việc thiện. Đạo-sĩ ở Đạo Nghiệp
không tin vào một giáo-lý nào cả. Họ có thể
không tin vào Thượng-Đế, không cần hỏi linh-
VIVE - KARMA
182
hồn của họ là gì, và không cần nghĩ tới một tư-
tưởng siêu-hình nào cả. Họ đã có mục-đích
riêng của họ là sự thực-hiện lý vô-tư, khử bỏ
tư-ngã và họ phải hành-động bằng tự-lực. Mỗi
một khoảnh-khắc trong đời họ phải là một sự
thực-hiện, bởi vì họ chỉ phải giải-quyết bằng
hành-động mà thôi, không trông vào sự giúp-
đỡ của một học-thuyết hay lý-thuyết nào hết.
Chính cũng là vấn-đề mà Triết-lý Duy-thức
dùng lý-trí và linh-cảm, còn đạo Sùng-bái ứng-
dụng tình-yêu .
Đến vấn-đề thứ hai : Hành-động là gì ?
Sự làm thiện cho đời là gì ? Chúng ta có thể
làm thiện cho đời được không ? Đứng về
nghĩa tuyệt-đối mà nói thì không, nhưng nói về
nghĩa tương-đối thì có. Không có điều thiện gì
vĩnh-viễn và bất-tuyệt có thể làm được cho đời
cả ; nếu có thể làm thiện được cho đời thì cuộc
đời đã chả là cuộc đời này. Chúng ta chỉ có thể
làm thỏa-mãn sự đòi-hỏi của một người trong
năm phút, nhưng rồi y lại đòi-hỏi. Mỗi một sự
khoái-lạc chúng ta có thể đem lại được cho một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
183
người nào thì chỉ nên coi nó có tính-cách tạm
thời. Không một ai có thể chữa được cái bệnh
đau-khổ và khoái-lạc này, liên-miên bất-tuyệt,
hết đi lại lại. Có cái hạnh-phúc nào vĩnh-viễn
có thể đem lại cho đời được không ? Trên mặt
biển đời, chúng ta không thể làm nổi lên một
đợt sóng, đồng thời lại không tạo ra một cái
vực ở chỗ nào khác. Tổng-cộng những điều tốt
ở thế-gian đối với những nhu-cầu và tham-
vọng của nhân-loại thì bao giờ cũng vẫn thế.
Nó không thể tăng lên hay giảm xuống. Hãy
lấy lịch-sử của loài người mà chúng ta biết cho
tới ngày nay mà nói, chúng ta chẳng thấy cùng
một số đau-khổ và hạnh-phúc, cùng một số
khoái-lạc và buồn-phiền, cùng những sự khác
nhau về địa-vị đấy ư ?
Có bao nhiều người giầu, bao nhiêu kẻ
nghèo, bao nhiều người cao-quý, bao nhiêu
người hèn-hạ, bao nhiêu người khỏe-mạnh, bao
nhiêu người yếu-đuối ? Tất cả đều y-nguyên,
kể từ giống Ai-Cập, giống Hy-Lạp và giống
La-Mã ở cổ-thời so với giống người Mỹ ngày
VIVE - KARMA
184
nay. Kể từ khi có lịch-sử, điều ấy luôn luôn vẫn
như thế, vậy mà đồng thời chúng ta thấy rằng
với tất cả sự chênh-lệch giữa sung-sướng và
đau-khổ không thể chữa được ấy, vẫn có mãi
sự phấn-đấu để làm giảm đi. Mỗi một thế-hệ
của lịch-sử lại đẻ ra hàng ngàn nam, nữ hành-
động kỳ-khu để san phẳng đường đời cho kẻ
khác. Và họ đã thành-công đến đâu ? Chúng ta
chỉ có thể làm quả bóng tròn từ chỗ này ra chỗ
kia. Chúng ta làm nhẹ được đau-khổ ở trình-độ
vật-chất thì nó lại chạy vào khu-vực tinh-thần,
vì cũng như bức-tranh địa-ngục của Dante,
trong đó người ta cho một khối vàng cho một
bọn biển-lận để lăn trên một ngọn đồi, mỗi khi
chúng lăn lên được một chút thì nó lại lăn
xuống một chút. Tất cả những câu chuyện về
thời-đại Long-Hoa thì chỉ đẹp-đẽ như một câu-
chuyện học-trò không có giá-trị gì hơn. Các
dân-tộc đều mộng một thời-đại hoàng-kim ấy
và cũng nghĩ rằng mình sẽ có một thế-giới
hoàng-kim đẹp-đẽ hơn là của tất cả các dân-tộc
khác trên thế-giới. Đấy là một quan-niệm " vị-
tha " kỳ lạ làm sao !
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
185
Chúng ta không thể làm tăng thêm hạnh-
phúc cho thế-giới này được ; và đau-khổ cũng
thế, chúng ta không thể làm tăng thêm ở thế-
gian .
Cái số tổng cộng năng-lực của khoái-lạc
và đau-khổ quân phân trên mặt đất này thì bao
giờ cũng như bao giờ. Chúng ta chỉ đẩy nó từ
chỗ này ra chỗ kia, rồi lại từ chỗ kia ra chỗ này,
nhưng nó sẽ vẫn thế, bởi vì có như thế mới thật
là tính-chất của nó. Sự dâng lên và rút xuống,
nhô ra và nhập vào của trào-lưu thì ở trong
bản-tính của thế-gian, quan-niệm một cách
khác thì cũng chẳng hợp lý gì hơn là nói rằng
chúng ta có sống mà không có chết. Như thế là
một sự vô-nghĩa-lý hoàn-toàn bởi vì cái ý-
nghĩa chính của sự sống bao-hàm cả sự chết, và
ý-tưởng chính của khoái-lạc bao-hàm cả đau-
khổ, ngọn đèn luôn luôn tàn và đấy là đời sống
của nó. Nếu anh muốn sống thì anh phải chết
luôn luôn. Sống và chết chỉ là hai phương-diện
khác nhau, chúng là một sự lên xuống nhấp
nhô của một làn sóng, và cả hai trạng-thái ấy
VIVE - KARMA
186
hợp thành một toàn-thể. Kẻ nhìn về phương-
diện xuống của làn sóng thì trở nên người bi-
quan ; kẻ nào nhìn về phương-diện nhô lên thì
trở nên lạc-quan. Khi một thiếu-niên còn đang
đi học ở nhà-trường được cha mẹ trông-nom
săn-sóc, thì mọi vật đối với nó đều là hạnh-
phúc cả. Nhu-cầu của nó giản-dị lắm, nó là một
kẻ đại lạc-quan ; nhưng một người đã đứng tuổi
với nhiều kinh-nghiệm ở đời thì trở nên bình-
tĩnh và lòng bồng-bột hăng-hái của y đã bị nhụt
đi nhiều. Những dân-tộc già cũng thế, với
những dấu-hiệu suy-đồi chung-quanh chúng,
chúng có thể ít hoài-bão hơn là những dân-tộc
trẻ-trung. Ngạn-ngữ Ấn-Độ có câu : " Một
ngàn năm một thành-thị và một ngàn năm một
khu rừng ". Sự biến-đổi một thành-thị sang một
rừng-rậm, bãi-bể thành nương-dâu và trái lại
thì ở đâu cũng xẩy ra và nó làm cho người ta
lạc-quan hay bi-quan tùy theo với phương-diện
mà người ta nhìn .
Tiếp theo chúng ta xét đến cái ý-tưởng
bình-đẳng. Sự bình-đẳng thật không bao giờ đã
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
187
có và không bao giờ sẽ có trên mặt đất. Làm
thế nào chúng ta tất cả có thể bình-đảng ở đấy
được ? Cái thứ bình-đẳng không thể có được ấy
ngụ-ý cái chết của toàn-thể. Cái gì làm cho thế-
gian này thành ra thế-gian ? Sự mất quân-bình
ở trạng-thái nguyên-thủy. Ở thời-kỳ hôn-mang
thì có sự hoàn-toàn quân-bình. Tất cả những
thế-lực cấu thành của vũ-trụ hiện ra như thế
nào ? Qua sự phấn-đấu, cạnh-tranh, xung-đột.
Ví thử tất cả những phần-tử vật-chất đều ở vào
thế quân-bình, thì có thể có được quá-trình tạo-
hóa nào được không ? Theo khoa-học chúng ta
biết rằng, như thế chúng ta không thể có được.
Thử khuấy một làn nước, anh sẽ thấy mỗi một
phần-tử nhỏ của nước cố trở lại bình-tĩnh, cái
nọ dồn cái kia. Và tất cả những hiện-tượng mà
chúng ta gọi là vũ-trụ, tất cả những vật ở bên
trong đó cũng phấn-đấu như thế để trở về cái
thể hoàn-toàn quân-bình. Rồi lại có một sự
náo-động xẩy ra và chúng ta lại có một sự hòa-
hợp và sáng-tạo. Không quân-bình là căn-bản
chính của tạo-hóa. Đồng thời những thế-lực
tranh-đấu để được quân-bình thì cũng có một
VIVE - KARMA
188
sự cần-thiết cho tạo-hóa, cần-thiết không kém
gì sự cần-thiết của những thế-lực nó phá-hủy
sự quân-bình ấy .
Tuyệt-đối quân-bình ngụ-ý một sự thăng-
bằng hoàn-toàn của những thế-lực phân-tranh ở
các trình-độ, thì không thể bao-giờ có ở thế-
gian này được. Trước khi anh đạt tới trạng-thái
ấy thì thế-gian sẽ trở nên hoàn-toàn không
thích-hợp cho sự sinh sống nào cả, và không
một người nào còn thấy có ở đấy nữa. Vậy
chúng ta thấy rằng tất cả những ý-tưởng về
hoàng-kim thế-giới và về bình-đẳng hoàn-toàn
thì chỉ là không tưởng, và nếu chúng ta cố đem
nó ra thi-hành thì chắc-chắn nó đưa chúng ta
tới ngày tuyệt diệt. Cái gì sinh ra sự chênh-lệch
giữa người nọ với người kia ? Phần lớn là sự
chênh-lệch trong trí-não. Ngày nay chỉ có kẻ
ngẩn-ngơ mới bảo rằng chúng ta sinh ra với
một năng-lực trí-não giống nhau. Chúng ta
nhập vào thế-gian với những năng-khiếu khác
nhau, chúng ta nhập vào là hạng người cao-quý
hơn hay thấp hèn hơn và có cách gì tránh khỏi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
189
cái số-phận định trước ấy ? Những thổ-dân
Mỹ-châu hiện ra ở xứ này kể từ hàng ngàn năm
trước khi một nhóm người Tây-Âu bỗng di-cư
tới đấy. Các người đã làm diện-mục ở nước
này khác đi là bao ! Nếu hết thảy đều bình-
đẳng thì tại sao những thổ-dân kia không sáng-
tác và xây-dựng những đô-thị ? Đồng thời với
tổ-tiên các người khi nhập vào đất này lại có
một thứ khả-năng trí-não khác cùng đến, một
khối những ấn-tượng và ký-ức đã biểu-thị và
hành-động. Sự đồng-nhất tuyệt-đối là cảnh
chết. Thế-giới này còn thì còn phải có sự
chênh-lệnh khác nhau, và cái mộng hoàng-kim
về sự hoàn-toàn bình-đẳng chỉ sẽ có khi nào
một vòng tạo-hóa đi đến chỗ kết-chung. Trước
khi ấy thì không thể có bình-đẳng được. Tuy
vậy mà cái ý-tưởng thực-hiện hoàng-kim thế-
giới vẫn là một động-lực lớn. Đúng như sự bất-
bình-đẳng là cần-thiết cho chính tạo-hóa bao
nhiêu thì sự phấn-đấu để hạn-chế nó cũng cần-
thiết bấy nhiêu .
VIVE - KARMA
190
Nếu không có sự phấn-đấu để giải-thoát
và trở về với Thượng-Đế thì sẽ không có tạo-
vật gì hết. Đấy là sự khác nhau của hai thế-lực
nó định-đoạt tính-chất ở những động-cơ của
nhân-loại. Bao giờ cũng có những động-cơ để
hành-động, cái thì đi theo vòng hệ-lụy, cái thì
hướng ra tự-do .
Cái bánh xe thế-gian này, cái nọ ăn khớp
với cái kia thành ra một bộ máy ghê-gớm. Nếu
chúng ta đặt tay vào để cho nó nghiến, hẳn là
chúng ta phải đi đời. Hết thảy chúng ta đều
nghĩ rằng khi chúng ta làm tròn được một bổn-
phận nào, thì chúng ta sẽ được yên rảnh, nhưng
trước khi chúng ta làm xong bổn-phận ấy thì
bổn-phận khác lại đang chờ đợi, chúng ta đều
bị lôi-cuốn theo cái bộ máy thế-gian phức-tạp
và mãnh-liệt. Chỉ có hai đường để giải-quyết,
một đường là vứt hết tất cả cái gì liên-quan đến
bộ máy để nó đi qua và đứng sang bên đường,
bỏ hết mảy-may dục-vọng. Nói thế rất dễ đấy,
nhưng sự thực là không thể làm được. Tôi
không biết được một trong hàng vài chục triệu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
191
người có thể làm nổi hay không ? Một đường
khác là lăn vào trong thế-gian và học hỏi cái bí-
quyết của hành-động, ấy là con đường của Đạo
Nghiệp. Đừng hòng bay thoát những bánh xe
của bộ máy thế-gian, nhưng nếu vào ngay bên
trong của bộ máy mà học-hỏi lấy cái bí-quyết
của vận-động. Nhờ hành-động thích-hợp trong
bộ máy, thì cũng có thể thoát ra được. Chính
trong bộ máy có đường lối để giải-thoát .
Nay chúng ta đã biết hành-động là gì, nó
là một phần trong cơ-bản của tạo-hóa, và nó cứ
thế mãi. Những kẻ tin vào Thượng-Đế thì hiểu
điều ấy hơn, bởi vì họ biết rằng Thượng-Đế
không phải là một sự bất-lực đến nỗi phải cần
đến sự giúp-đỡ của chúng ta. Dù rằng cái vũ-
trụ này vẫn còn mãi mãi, mục-đích của chúng
ta cũng vẫn là sự tự-do ; cũng vẫn là vô-tư-kỷ
và theo như Đạo Nghiệp thì mục-đích ấy phải
đạt tới bằng hành-động. Hết thảy những ý-
tưởng muốn làm cho thế-gian hoàn-toàn sung-
sướng có thể là những động-lực tốt cho những
tín-đồ cuồng-tín, nhưng chúng ta phải biết rằng
VIVE - KARMA
192
sự tin-tưởng cuồng-tín đem lại điều ác ngang
với điều thiện. Nhà đạo-sĩ của Đạo Nghiệp hỏi
tại sao anh cần một động-cơ khác để hành-động
hơn là lòng yêu tự-do bẩm-sinh. Hãy vượt ra
ngoài những động-cơ thế-tục. " Hành-động thì
chúng ta đều có quyền, nhưng không có quyền
thu kết-quả ". Nhà đạo-sĩ của Đạo Nghiệp nói
rằng người ta có thể tu-luyện để Giác-Ngộ và
thực-hành điều ấy. Khi nào cái ý-tưởng làm
điều tốt trở nên một phần ở chính sự sống của
mình, bấy giờ nó sẽ không tìm động-cơ ở ngoài
nữa. Chúng ta hãy làm điều tốt vì làm điều tốt
thì tốt. Kẻ nào làm một việc thiện, dù là có
mục-đích lên Thiên-đường đi chăng nữa, cũng
là tự trói buộc vào vòng hệ-lụy, theo Đạo
Nghiệp. Công việc nào dù làm với một động-
cơ vị-kỷ nhỏ, đáng lẽ là để giải-thoát cho chúng
ta mà lại là rèn thêm một vòng xích vào chân
chúng ta nữa .
Vậy thì chỉ có một đường là xa tất cả kết-
quả của những công việc làm, và ra ngoài vòng
hệ-lụy của nó. Nên biết rằng cái thế-gian này
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
193
không phải là chúng ta, và chúng ta không phải
là thế-gian này, sự thực chúng ta không phải là
thân-thể này, và không phải chính chúng ta
hành-động. Chúng ta là Tự-Tính vĩnh-cửu, an-
nhiên. Tại sao lại có cái gì ràng buộc được
chúng ta ? Bảo rằng chúng ta vô-tư vô-lụy thì
hay lắm, tốt thực, nhưng làm thế nào được như
thế ? Mỗi một hành-động mà chúng ta làm
không có một tư-lợi làm động-cơ, thì không
những không rèn thêm một vòng xích mới mà
lại phá vỡ được một vòng xích sẵn có. Mỗi một
ý-nghĩ tốt mà chúng ta ném ra cho đời mà
không mong có cái gì trả lại, sẽ tập-trung lại và
làm đứt một vòng xích, và càng ngày chúng ta
càng trở nên tinh-khiết hơn cho đến khi chúng
ta trở nên một người rất thảnh-thơi. Nhưng tất
cả những điều ấy có vẻ như lập-dị và triết-lý
quá, thuộc về lý-thuyết hơn là thực-tế. Tôi có
được đọc nhiều biện-chứng phản-đối lời Kinh
Bhagavad-Gita, và có nhiều biện-chứng cho
rằng không có động-cơ kích-thích thì người ta
không có thể làm việc được. Họ không bao giờ
VIVE - KARMA
194
mục-kích sự hành-động vô-tư, trừ phi bởi ảnh-
hưởng của lòng cuồng-tín, nên họ nói thế .
Để kết-luận, tôi xin nói về con người đã
thực-hiện giáo-lý của Đạo Nghiệp, người ấy là
Đức Phật, Ngài là người duy-nhất đã từng đem
thực-hành hoàn-toàn đạo Nghiệp. Các nhà
giáo-chủ trên thế-giới, ngoài Đức Phật, đều
mượn động-cơ bên ngoài để khích-động tín-đồ
vào hành-động vô-tư, và đều có thể chia ra làm
hai hạng : một hạng tin rằng họ là hiện-thân
của Thượng-Đế xuống mặt đất ; còn hạng khác
tin rằng họ chỉ mang sứ-mệnh của Thượng-Đế,
và cả hai đều lấy cái năng-lực hành-động tự
bên ngoài, cầu mong ân-thưởng ở bên ngoài ;
mặc dù họ dùng những lời nói có tính-cách
tâm-linh mấy đi nữa. Nhưng chỉ có Đức Phật là
một giáo-chủ độc-nhất nói : " Ta không cần nói
đến những lý-thuyết phức-tạp của các anh về
Thượng-Đế ! Giảng thuyết cãi nhau về tất cả
các chủ-nghĩa tế-nhị tinh-vi về linh-hồn thì có
ích-lợi gì ? Làm việc thiện và hãy là lời thiện,
và như thế nó sẽ đưa anh đến tự-do, giải-thoát
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
195
và chân-lý. Suốt trong đời xử-thế của Ngài,
Ngài đã hoàn-toàn không bợn chút nào lòng cá-
nhân, vị-kỷ, và ai đã là người hành-động hơn
Ngài ? Các anh hãy chỉ cho tôi trong lịch-sử
thế-giới một nhân-cách nào đã vượt cao lên
trên tất cả như thế, tất cả nhân-loại cũng chỉ
sản-xuất ra được một nhân-cách đặc-biệt như
thế với một triết-lý cao-thâm và một tình-yêu
vô-lượng, vô-biên như thế mà thôi. Bậc đại
hiền-triết ấy, truyền-bá các triết-lý tuyệt cao và
đồng thời có một lòng vị-tha với tất cả muôn
loài hữu-tình, vô-tình mà không hề đòi-hỏi gì
cho riêng mình. Ngài là một đạo-sĩ lý-tưởng
của Đạo Nghiệp, hành-động hoàn-toàn vô-tư
không có gì khích-động, và lịch-sử nhân-loại
đã chứng-tỏ Ngài là một bậc vĩ-đại nhất từng
xuất-hiện. Thực là một sự hòa-hợp to-tát nhất
ngoài sự so-sánh giữa con tim và bộ não, với
một năng-lực tâm-hồn vĩ-đại nhất từng biểu-
hiện ra vậy. Ngài là một bậc đại cách-mệnh đầu
tiên mà thế-giới được mục-kích, Ngài là người
trước tiên dám nói : " Đừng tin vào một vài
quyển sách cổ đã sản-xuất ; đừng tin vì là tín-
VIVE - KARMA
196
ngưỡng quốc-gia hay là vì anh đã được nuôi-
nấng từ nhỏ trong niềm tin-tưởng ấy ; nhưng
hãy suy-nghĩ tất cả, và sau khi đã phân-tích,
bấy giờ nếu anh thấy nó tốt cho tất cả mọi
người, thì anh hãy tin, hãy làm sống nó và giúp
kẻ khác làm sống nó ".
Kẻ nào hành-động tốt hơn hết ấy là kẻ
hành-động không có khích-động, không vì
tiền-tài, không vì tiếng thơm hay là cái gì khác;
và khi nào một người làm được như thế tức thì
người ấy là một Đức Phật và ở người ấy sẽ xuất
ra cái năng-lực hành-động có thể biến-đổi được
thế-giới ; người ấy là đại-diện cho chính cái lý-
tưởng tối-cao của Đạo Nghiệp vậy .
%%%%%%%%%%%%%%
NGHIỆP - BÁO
VÀ
TÁI - SINH
Tác-Giả :
CHRISTMAS - HUMPHREYS
Dịch-Giả :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
" Vạn ban tương bất khứ
Duy hữu nghiệp tùy thân
Nhất nhật vô thường đáo
Phương tri mộng lý nhân ."
_ ( Chân-Nguyên Thiền-sư )
Của cải đem chẳng đi
Chỉ có nghiệp không ly
Ngày kia hết kiếp số
Mới hay tỉnh giấc kê .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
NGHIỆP - BÁO
VÀ
TÁI - SINH
NHẬP-ĐỀ :
Có nhiều sách nói về học-thuyết sinh-đôi:
Nghiệp và Tái-sinh. Nhưng khuynh-hướng của
mỗi tác-phẩm mới đã trình-bày đề-tài càng
ngày càng máy móc hơn, thậm chí cái pháp
đại-đồng, vô-thủy vô-chung ấy trở nên gần
biến thành một Định-mệnh vô-hồn, một thể-
chế có luật-pháp thực-tế thành một thời-đại
khủng-bố. Và Từ-bi được mô-tả trong " Tiếng
nói của Tịch-tĩnh " ( The Voice of the Silence )
như Pháp của Pháp, Hòa-điệu Vĩnh-cửu thì
công-nhiên không biết nữa. Lý do của sự thoái-
hóa ấy có lẽ gấp đôi : Trước hết là khuynh-
hướng chung của tư-tuởng Tây-phương là vật-
chất-hóa bất cứ nguyên-lý tinh-thần gì rơi vào
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
2
trong tầm mắt của nó, sau nữa là sự xa rời mãi
nguồn hiểu-biết đáng tin-cậy của chúng ta về
học-thuyết, đi đôi với mỗi căn-cứ của mỗi tác-
giả vào văn-bản trước, cùng chính ý-kiến riêng
của mình .
Kết quả, phần nhiều tác-giả Tây-phương
tự giới-hạn vấn-đề vào cái " trí-thức thấp " của
các triết-gia Vedanta đã trình-bày, đủ cho
những ai quá ươn hèn để thức tỉnh ở nơi mình
cái trung-tâm cao hơn để có thể thấy được
" cái biết cao-siêu ". Nhưng dù Pháp Nghiệp
( Karma ) trên chính bình-diện của nó, đối với
chúng ta thì bất-khả-tri, một sự nghiên-cứu có
suy-tư về nguồn-gốc xuất-phát của tri-thức
chúng ta sẽ đem lại cho nhà học-giả thành-thật
một thị-giác về những nguyên-lý cốt-yếu, nếu
chẳng phải của cái " biết cao-siêu " dành cho
thiểu-số, có thể dùng để thức tỉnh những trung-
tâm cao hơn qua đấy chân-lý sau cùng có thể
biết được, khác nào những cửa-sổ mở lên
Tuyệt-đối vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
Quyển sách này bởi vậy là một cố-gắng
xét lại vấn-đề trong ánh-sáng của các uy-tín
đáng giá và theo quan-điểm tâm-linh hơn và ít
máy-móc. Học-thuyết xưa quá và phổ-quát quá
để coi là của riêng một tôn-giáo nào, những
Kinh-điển Ấn-Độ-giáo và Phật-giáo cho ta
nguồn-gốc giá-trị cổ xưa nhất. Khi thêm vào
như bình-luận những lời của bà H.P. Blavatsky
từng đã tu-tập ở chùa Tây-Tạng, thì uy-tín gấp
ba mà toàn bộ cho ta một cơ-sở của Pháp toàn-
diện, dài dòng, nó hướng-dẫn và điều-khiển sự
tiến-hóa của nhân-loại .
Tuy nhiên uy-tín cuối cùng của bất cứ
một học-thuyết nào thì không ở trong văn-tự
hay lời nói, mà là ở tại chính trong lý-luận hợp
lý và ở trong thực-kiện được trực-giác chứng-
nhận và hầu như thi-hành ở kinh-nghiệm ngày
thường. Chẳng phải Thượng-Đế hay loài người
có thể chứng-minh cho người khác rằng một
Chân-lý là chân thật. Như Đức Phật nói với
Kamalas :
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
4
" Đừng tin theo tai nghe, hay là cái
gì người khác đã truyền lại, hay là cái gì
dân-chúng đồn, hay là cái gì căn-cứ vào
uy-tín của giáo-lý truyền-thống của
mình...
" ... Này Kamalas, khi nào con tự
mình biết rằng : Điều này hay, lời dạy này
khi đem ra thi-hành đưa đến hết đau khổ,
tâm an, Niết-bàn, bấy giờ con hãy nhận
lấy ."
Theo quan-điểm có uy-tín ấy thì không
một uy-tín nào gọi đến cho chúng ta các tác-giả
trích-dẫn trong khảo-luận này và bởi vậy không
có tham-khảo. Vả chăng ở đâu mà lời nói của
người khác diễn-tả tư-tưởng của tôi hay hơn
hay là mạnh hơn là chính lời của tôi mà tôi đã
dùng để giúp ích độc-giả. Ngoài ra thì không
có uy-tín cho một ai, trừ phi là cái " tiếng thì-
thầm " nội-tâm. Có một cách-ngôn mà tất cả
kinh-nghiệm thừa-nhận là một học-thuyết càng
tâm-linh bao nhiêu thì càng ứng-dụng ngay vào
đời sống hàng ngày bấy nhiêu. Và trong khi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
trình-bày Nghiệp-báo và Tái-sinh với bối cảnh
tâm-linh thì chúng tỏ ra ứng-dụng ngay hơn là
khi coi như chỉ là phiếu vay và tín-dụng trong
tổng-trương của một Thượng-Đế ở ngoài thế-
giới. Bởi vậy tôi không viết theo lối một nhà
học-giả, hay là trình-bày một tín-ngưỡng
Đông-phương trọng-yếu. Tôi đã viết như một
người tin học-thuyết là chân-thật, và tôi tin
rằng một phục-hưng văn-minh Tây-phương tất
bị thất-bại nếu không căn-cứ vào sự cộng-tác
có ý-thức với cái Pháp đại-đồng tối-cao ấy.
Như Loftius Hare viết : " Một người trở nên cái
gì nó làm ". Học-thuyết ấy có thể phản-thuyết
được không ? Nếu nó chân-thật thì nó là Chân-
lý tối quan-trọng và bị bỏ qua nhất ở thế-giới.
Người ta có thể thêm rằng, nếu nó sai-lầm thì
điều kỳ lạ là không ai thử chứng-minh sự sai
lầm của nó, hay là đưa ra một biện-pháp tốt
hơn cho " Thách đố của đời sống " .
Nhưng vì chân thật, học-thuyết càng khó-
khăn. Những ai tưởng rằng Chân-lý căn-bản
của sinh-tồn có thể diễn-tả trên bình-diện của
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
6
trí-thức thì còn phải khám-phá, những nguyên-
lý kỳ lạ ấy không phải là những viên đá cuội
trên bãi cát, mà là những năng-lực vũ-trụ mà
sức mạnh lớn-lao của thác Niagara còn là vô-
nghĩa đối với nó. Trong Brihad Upanisad, một
Kinh-điển Ấn-Độ cổ nhất, Nghiệp ( Karma )
được đề-cập như là một " bí-quyết mãnh-liệt "
mà chỉ ai được khải-ngộ mới hiểu biết. Trong
Sutra Nipata, một Kinh Phật xưa nhất, Ananda
nói với Đức Phật về Karma : " Sâu thay cái
Pháp Nhân-quả, và nó có vẻ thâm-trầm thay !
Vậy mà tôi coi nó như đơn-giản dễ hiểu." Đức
Phật đáp lại : " Chớ nói thế, Ananda, chớ nói
thế ! Thực vậy, Pháp Nhân-quả thâm-trầm và
nó hiện ra thâm sâu. Vì không biết, không hiểu
thấu-triệt cái học-thuyết ấy mà người đời vấn-
vít như một cuộn chỉ se... không có khả-năng
vượt qua bể khổ và vòng Sinh-tử bất tận." Cả
đối với trí-tuệ chúng ta, những chi-nhánh và
hỗ-tương quan-hệ của Nhân-quả trong tất cả
các khu-vực vũ-trụ đều phức-tạp vô cùng đến
nỗi không một ai có thể tự-phụ hiểu biết chúng.
Vô cùng sáng-suốt hơn hết phải là bậc có sự
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
hiểu biết để có thể bao-hàm cái Pháp ấy tại
nguồn suối trang-nghiêm vĩnh-cửu của nó .
Chỉ bằng học hỏi, và đến mức nào nắm
đưọc lấy mà một đại-quan của đạo-học gồm
thành-phần Nghiệp ( Karma ) và Tái-Sinh có
thể đạt được, thì thị-hiện nhỏ nhất của học-
thuyết mới đạt tới, và cả đến lúc ấy cũng còn
khó cho người ta quan-sát nó ngoài Đạo-học
mà nó không có thể ly-khai, ví như tia nắng
trong không-trung không dời khỏi mặt-trời.
Vậy mà sự khó-khăn ấy phần lớn là chính
chúng ta tạo ra. Từ mấy thế-kỷ, tinh-thần Tây-
phương đã xây-dựng lên một ý-niệm sai lầm về
một cái Ngã biệt-lập và khó cho chúng ta nắm
được một quan-điểm sinh-tồn trong đó cái Tự-
Tính biệt-lập bị coi như một ảo-tưởng và cha
đẻ ra tất cả đau khổ. Theo đấy, mặc dầu ý-
tưởng có làm vừa lòng học-giả hay không, rằng
chỉ có ai đi trên con đường Đạo-lý dẫn đến
chung-cục của Tự-Tính biệt-lập, mới đạt tới sự
thông hiểu Đạo-học, trong đó không có đất
đứng cho cái gì biệt-lập .
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
8
Học hỏi, học hỏi sâu rộng, thiền-định an-
tĩnh về các nguyên-lý sống-động do cái học ấy
biểu-lộ và sự ứng-dụng chuyên-cần vô-tư
những nguyên-lý ấy vào đời sống hàng ngày,
chỉ có thế mới đem lại " thực chứng " cuối
cùng của luật-pháp Nghiệp-Báo ( Karma ) và
Tái-Sinh. Và chỉ có ai hiểu biết chúng như thế
sẽ ở vị-thế hiến cho Tây-phương bằng văn-từ,
ngôn-ngữ và bằng sức mạnh của nhân-cách, cái
Đạo-học mà Tây-phương cần rất gấp và lắm,
lắm vậy .
******
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
NGHIỆP KARMA
HÀNH - ĐỘNG
Nghiệp ( Karma ) không tạo-tác hay là
quyết-định gì cả. Chính người ta dự-định và tạo
ra Nguyên-nhân và luật-pháp Nghiệp-báo,
điều-chỉnh hậu-quả. Sự điều-chỉnh ấy không
phải một động-tác, mà là hòa-điệu đại-đồng, có
khuynh-hướng luôn luôn trở về vị-trí nguyên-
thủy, ví như cành cây vin xuống quá mức lại
bật lên với sức mạnh tương-đương .
_ ( Học-thuyết Bi-truyền _ H. P. Blavatsky )
Chính người ta tạo ra Nghiệp ( Karma )
của mình, vì nó là sản-phẩm tư-tưởng của
mình. Như đã viết ở câu thơ trong Pháp-Cú
Kinh : " Tất cả cái gì chúng ta là, ấy là kết-quả
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
10
của cái gì chúng ta đã nghĩ ; nó được lập-cước
trên tư-tưởng của chúng ta, tạo nên với tư-
tưởng của chúng ta ". Hệ-luận theo sau khi nào
hòa-điệu đòi hậu-quả tương-đương .
Nếu một ai đã nói hay làm với ý-nghĩ
xấu, thì đau buồn theo nó liền, khác nào bánh-
xe theo chân người kéo-xe. Nhưng nếu y nói
hay làm với ý-nghĩ tinh-khiết trong-sạch thì
hạnh-phúc theo y như bóng với hình .
Điều cốt-yếu nhất là nắm được cái thực-
kiện cơ-bản như W. Q. Judge trong " Ocean
Of Theosophy " mô-tả :
" Không một hành-động nào thành-
tựu mà không bắt nguồn ở một ý-nghĩ
trong lúc thành-tựu hay là dẫn đến đấy."
Theo triết-học Ấn-Độ thì quá-trình diễn-
tiến là vô-minh, dục-vọng, tự ý, ý-chí, ý-
nghĩ và hành-động. Trước tiên là Vô-
minh, vì tất cả biểu-hiện và tất cả điều
tiến-hành từ trong ra thì đều mê-vọng.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
Trong Vô-minh người ta dục-cầu sự-vật
cho chính mình, tin-tưởng rằng mình có
một cái " Ngã " Tự-Tính nó chú-ý vào
chính nó. " Con người tất cả hình-thành
của dục-vọng, dục-vọng thế nào thì ý-chí
như thế, tùy theo ý-chí của y thế nào thì
hành-động của y như vậy ; tùy theo hành-
động của y ra sao, sẽ xẩy ra cho y thế ấy."
_(Kinh Ảo-Nghĩa-Thư_Brihad Upanisad )
Nhưng giữa ý-chí hành-động và hành-vi
thì có tư-tưởng, quan-niệm bên trong tinh-thần
mà hành-vi là biểu-thị cụ-thể. Theo đấy thì chế-
ngự tư-tưởng, gồm cả tình-cảm, là thiết-yếu
cho sự bắt đầu chế-ngự hành-động vì một
người nghĩ thế nào thì nó trở nên thế ấy.
( Người làm sao chiêm bao làm vậy ).
Vậy người, như tinh-thần, như là phương-
diện tự-giác tối-cao của Một Sinh-lực, Nguồn
Sống Duy-nhất, điều-động Vũ-trụ với trợ-lực
Nghiệp ( Karma ). Nhưng một khi nó đã tạo ra
Nghiệp ( Karma ) thì mỗi cử-động của nó tất
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
12
nhiên nó phải phục-tòng Nữ-Thần Nhân-quả
( Nemesis ) do nó sáng-tạo, và không phải để
cho nó than-phiền về Định-mệnh trái ý muốn
của nó đã trói buộc hành-động của nó hay là
phản quyết một số-phận bất-công. Nữ Thần
Nghiệp-báo ( Karma ) không là gì hơn là hậu-
quả tinh-thần năng-động của những nguyên-
nhân sinh ra và năng-lực tỉnh dậy trong hoạt-
động ở chính hành-vi của mình. Hòa-điệu
thiên-nhiên bị rối loạn ở trên bình-diện càng
cao bao nhiêu thì sức phản-ứng đối với hành-vi
càng mạnh bấy nhiêu .
Một định-luật của Động-học Bí-truyền
cho rằng một năng-lực tác-dụng trên bình-diện
tâm-linh hay thể-phách sinh-sản kết-quả lớn
hơn nhiều so với cùng năng-lượng ấy tác-dụng
trên bình-diện vật-lý, hay là bình-diện khách-
quan của sinh-tồn .
Luật Nghiệp-báo ( Karma ) bởi thế tỏ rõ
rằng nó là khách-quan, phục-vụ người sáng-tạo
ra nó, do người, và chẳng phải đồ chơi của một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
Thượng-Đế hiền-từ hay báo-thù. Do đấy mà cố
tìm hòa-giải nó, tranh-biện về nó hay thách-đố
nó đều vô ích vì một người nghĩ thế nào trở nên
thế ấy .
***
ĐẠI-BIỂU CỦA NGHIỆP ( KARMA )
Tuy nhiên phải nên nhấn mạnh là nó cực
thông-minh ; và bởi vậy nó hành-động qua
trung-gian đại-biểu thông-minh. Những đại-
biểu ấy có rất nhiều loại .
Toàn thể Vũ-trụ được hướng-dẫn kiểm-
soát và điều-động bởi những hàng bất-tận
những hệ-thống Đấng hữu-tình, mỗi vị có sứ-
mệnh để hoàn-thành, dù gọi là Thần Tiên hay
là Sứ-giả nhà Trời, chỉ theo nghĩa họ là Đại-
biểu Vũ-trụ hay là Luật-pháp của Nghiệp
( Karma ). Họ rất khác biệt về trình-độ ý-thức
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
14
và thông-tuệ ... Mỗi vị ấy đã, hay là đang dự bị
xuống làm một người .
Đấy là QUAN-THẾ-ÂM ( Avalokitesh-
vara ) và A-DI-ĐÀ ( Amitabha ) của Phật-giáo
và bốn nhà " Nhiếp chính của Địa-cầu " xuất-
hiện trong nhiều Thần-thoại, và " Ngai Vua
Lãnh-thổ và Quyền-thế " của Cơ-Đốc-giáo.
Nhưng có một truyền-thống cổ xưa cho rằng vì
lý cố Nghiệp quá-khứ của chính mình mà một
số nhân-vật hành-động trong đời như trung-
tâm-điểm cho sự-kiện thế-lực, lãnh-đạo sấm sét
chớp nhoáng làm môi-trường cho sức Nghiệp
( Karma ) " giáng-thế ". Đấy là những người
mà những việc trọng-đại xẩy đến cho họ và về
họ, hoặc họ là lãnh-đạo một dân-tộc hay là
đứng đầu một nhà-máy, nhưng họ hầu như
không ý-thức về chức-vụ đặc-biệt tự hấp-dẫn
của mình. Chỉ có một bậc thật Tinh-thông, từng
đạt tới Giác-ngộ mới có thể ý-thức kiểm-soát
được năng-lực của Nghiệp ( Karma ) đại-
chúng, và như thế Ngài là đại-biểu ý-thức của
Pháp-luật Nghiệp ( Karma ) .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
TRÁCH-NHIỆM NGHIỆP-BÁO
Có vẻ người ta chỉ chịu trách-nhiệm
những hành-động tự trong tâm sản xuất ra. Nói
cách khác, nó không có trách-nhiệm về những
hành-vi mà ý-nghĩ hay dụng-ý không đi liền
với việc làm. Tỷ dụ trong khi quay mau cái bàn
quay ở nhà ga xe-lửa người ta xô vào một
người đứng đàng sau y và đẩy người này vào
đường xe đang tới, thì người ta sẽ không chịu
trách-nhiệm về cái chết mà y không cố ý. Ở
đây Luật-pháp có vẻ ở bên trên cái mà Luật
nước Anh phản-chiếu, tuy rằng phản-chiếu một
cách vô-ý-thức, bên dưới ý-thức. Đối với Luật-
pháp ở nước Anh để có trách-nhiệm, không
phải chỉ có một " hành-vi xấu " ( acts rudes )
mà còn là một " tinh-thần xấu " (minds rudes).
Một người không có trách-nhiệm về một việc
ngẫu-nhiên, trừ phi do vô ý lớn gây nên mà
người ta phải chịu là đã có dự-tính " những
hậu-quả tự-nhiên và có lẽ có " về hành-động
của mình. Cũng thế mà kẻ điên, con nít và
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
16
những người say rượu có thể không có khả
năng về ( minds rudes ) lòng xấu, ý xấu, là
yếu-tố tất yếu về trách-nhiệm của chúng .
Tuy vậy, điều này là một sự giản-đơn-hóa
quá độ của một vấn-đề cực khó-khăn, vì những
khám-phá tối-tân về tâm-lý-học mở rộng nhiều
phạm-vi của chữ " intend " chủ-định. Thí-dụ
người ta có thể " chủ-định " những hành-động
chúng có vẻ rất trái hẳn với những hành-động
bề ngoài chủ-định, và một sự " xẩy ra " cực kỳ
lạ có thể là một hành-động có tính-toán bởi vô-
thức, tuy bị tinh-thần ý-thức phản-đối kịch-liệt.
Có nhiều cái chết bề ngoài là ngẫu-nhiên mà là
tự-tử vô-thức, và có nhiều việc làm hại kẻ khác
có thể là tính-toán trên bình-diện vô-thức, tuy
là vô ý ở ý-thức bình-thường. Tinh-thần nhân-
loại là một thế-giới mà mới được khám-phá
thám-hiểm, nhưng chỉ là bề mặt phù-phiếm, và
tiếng gào thường xuất-phát từ xưởng chữa tầu
" Tôi không biết cái gì giáng xuống tôi ", biểu-
lộ cho nhà tâm-lý-học lão-luyện một động-cơ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
náu-ẩn mà chính nạn-nhân của chính vô-thức
mình phủ-nhận một cách chân-thật .
Một khúc-mắc cho bí-quyết có thể nằm
trong thực-kiện là một hành-động có hiệu-quả
riêng-biệt và thường khác nhau trên bình-diện
khác nhau của một ý-thức. Ví dụ một triệu-phú
có thể xây một nhà-thương địa-phương với phí-
tổn lớn để cúng cho đô-thành. Hiệu-quả của
lòng hào-hiệp của ông ta sẽ hiện ra trên các
bình-diện khác nhau của các thể-tính. Việc làm
bề ngoài là thiện, và sẽ sinh ra Nghiệp thiện,
bất cứ động-cơ thế nào, nhưng hiệu-quả tinh-
thần thay đồi tùy theo động-cơ. Nếu lý do của
công-quả là một ý muốn chân thật để dùng cho
phương-tiện thế-tục vì lợi ích của đồng-bào
mình, thì tinh-thần y sẽ được cao quý hơn lên
với hành-vi. Nếu về mặt khác động-cơ thầm
kín của y là ham ca-ngợi hay tệ hơn là cầu-
cạnh ân-nghĩa địa-phương trước khi được bầu
làm đại-biểu của đô-thành ở Quốc-hội, bấy giờ
thì hậu-quả vào tinh-thần sẽ là dùng sai quyền-
năng cho mục-đích vị-kỷ. Thí-dụ thô kệch ấy
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
18
sẽ giải-thích sự sai khác giữa " công đức " và
" phúc đức " như chỉ rõ trong Kinh Pháp-Bảo-
Đàn của Lục-Tổ Huệ-Năng :
" Tạo tự, độ tăng, bố thí, thiết trai
danh vi cầu phúc bất khả tương phúc tiện
vi công đức. Công đức tại Pháp thân
trung, bất tại tu phúc " .
_ ( Nghi vấn )
( Làm chùa, độ sãi, bố-thí, làm chay
gọi là để cầu phúc chẳng có thể đem phúc
mà đổi làm công-đức. Công-đức ở trong
Pháp-thân, chứ chẳng phải ở sự tu phúc ) .
Phúc lợi, nói cách khác là Nghiệp thích-
thú ở bình-diện vật-lý, nhưng không tất nhiên
dẫn đến thành-đạt Giác-ngộ. Công-đức mặt
khác là phản-ứng vào tinh-thần của đức-hạnh
hay là động-cơ chính-nghĩa dẫn đến minh-tâm .
Soi sáng thêm hơn vào những trách-
nhiệm của chúng ta, đối với tai-nạn ngẫu-nhiên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
thì một lần nữa quay về những nguyên-lý cơ-
bản của cấu-trúc Vũ-trụ. Sự sống thì thuần-
nhất, và tất cả hình-thức của nó đều hỗ-tương
liên-hệ trong một toàn-thể vĩ-đại phức-tạp
nhưng bất-phân. Theo đấy chỉ mỗi động-tác
của bất cứ hình-thức nào của sự sống từ tối-cao
đến thấp nhất phải phản-tác lại mỗi hình-thức
khác. Năng-lực của tư-tưởng thật ghê-gớm vì
những tư-tưởng là vật thật và một khi đã tạo ra
chúng có một đời sống độc-lập của riêng
chúng. Phạm-vi và thế-lực của đời sống ấy thì
tùy theo nhiệt-độ và trong sáng của tinh-thần
người tư-duy, nhưng tốt hay xấu, mỗi tư-tưởng
là một năng-lực sống-động cho thiện hay ác.
Như thế nó không những ảnh-hưởng vào tác-
giả, nâng cao hay hạ thấp tinh-thần y trong ý-
nghĩ sau, mà còn ảnh-hưởng vào tất cả đời
sống khác trong vũ-trụ. Như A. P. Simett viết
trong tác-phẩm " The Occult World " ( Thế-
Giới Bí-Truyền ) .
" Con người luôn luôn lưu-hành
trong không-gian với một thế-giới của nó
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
20
đầy những sản-phẩm của tư-tưởng, dục-
vọng, xúc-động và đam-mê. Một trào-lưu
nào nó phản-tác vào cơ-thể thần-kinh hay
nhậy-cảm tiếp-xúc với thế-giới ấy theo tỉ-
lệ năng-động ở nhiệt-độ của nó ."
Thường tinh-thần trung-bình còn quá lạc-
hậu để giới-hạn những phát-sinh động-tác chỉ
vào tư-tưởng riêng, đa số người ta đều là trò
chơi của hàng triệu triệu tư-tưởng, chúng áp-
bức vào đầu não như các thân-thể ép vào một
người trong một đám đông lôi cuốn, và hành-
động của mỗi người đến mức-độ mà hiệu-quả
không chỉ còn là của ý-chí riêng mình, nhưng
là ý-chí quần-chúng của đám đông. Do đấy mà
có cái hiện-tượng quen-thuộc là " Tâm-lý quần-
chúng ", thế-lực của khẩu-hiệu, phong-trào,
phao đồn mau lẹ và phổ-thông là sự ám-thị của
tinh-thần yếu bởi tinh-thần mạnh .
Bởi vậy, động-cơ là yếu-tố ngự-trị trong
mỗi hành-vi, vì hành-động xuất ra từ " ngẫu
nhiên ", " vô ý " nếu thực vô ý sẽ có hiệu-quả
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
kém hơn đến mức nào so với hành-động có
chủ-ý cẩn-thận. Hành-động từ bình-diện tối-
cao của bản-thể mình, con người là năng-lực
sáng-tạo và điều-ngự trong Vũ-trụ ; hành-động
ở trình-độ thấp vì Nhất Sinh Ý ( )
cho nên là thù-nghịch của chính mình. Nếu thật
biết thế, nó có thể chế-ngự năng-lực thiên-
nhiên một cách ý-thức, cũng như hiện này nó
sử-dụng chúng một cách vô ý-thức để tạo ra
một hiệu-quả tất nhiên. Hoặc người sử-dụng
những năng-lực ấy là " bạch ma thuật " Thần
thiện, hay là " hắc ma thuật " Thần ác đều chỉ
do động-cơ mà thôi. Tất cả hành-vi đều thích-
ứng với hay là chống với trào-lưu tiến-bộ. Kẻ
nào bơi thuận giòng sẽ sớm nhập vào biển, kẻ
nào bơi ngược giòng sớm muộn sẽ đau khổ vì
cuồng-tín nhất định của nó và cuối cùng sẽ bị
bẻ gẫy và kiệt sức, bất đắc dĩ đi xuống cái biển
đông nhất .
Từ giờ ấy đến giờ khác chúng ta đang
chọn hướng đi của Ta, và Pháp Hành-động tùy
theo với công-lý hoàn-toàn. Sự lựa chọn giữa
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
22
chính và tà đủ khó làm được đúng lúc, nhưng
lựa chọn còn khó hơn giữa chính và chính. Mỗi
người có nhiều phận-sự và nhiều tín-nghĩa, và
khi xung-đột thì khó lòng quyết-định cái nào
chính hơn giữa hai đàng cùng chính. Vậy mà
phải lựa chọn về nguyên-tắc và nếu đủ can đảm
trong sự " bất chấp hậu quả ". Sau đấy hậu-quả
trên bình-diện khác nhau sẽ phản-ảnh đạo-đức
hay vô tư của quyết-định đã làm. Đạo-đức hầu
như có một quyết-định cứng dắn, khi thấy sai
lầm, cũng thấy quyết thay đổi thì tốt hơn, và
vui lòng chịu hành phạt vì sai lầm còn hơn là
lưỡng-lự, nếu không thì sẽ nuôi sai lầm, không
sản sinh chính-nghĩa, và đem tinh-thần bạc-
nhược không tiến xa trên đường Giác-ngộ .
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
CON NGƯỜI COI NHƯ
NGHIỆP ( KARMA )
" Đời sống là cái gì nó trở nên " ( Life
becomes what it does ). Ở đây trong mấy chữ là
cả tinh-túy của Pháp. Theo đấy thì lịch-sử
nhân-loại, theo một quan-điểm, không là chi
khác hơn là một kỷ-lực Nghiệp của Hòa-điệu,
tự hành-động ra tùy theo hành-vi thiện hay ác
của chủng-tộc, dân-tộc và cá-nhân .
_ ( Mysticism of East and West _ Loftus Hare )
Con người là Nghiệp ( Karma ) của nó, và
hành-vi của nó là thành-phần nó. Do đấy mà có
lời nói trứ-danh của Macterlick :
" Luôn luôn chúng ta nhớ rằng
không có gì rơi vào ta mà không là chính
bản-tính của ta ".
Hay là hãy trích-dẫn ở " Light of Asia "
( Ánh-Sáng Á-châu ) của Edwin Arnold :
" Nghiệp Karma _ tất cả toàn-thể
của một tâm-hồn,
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
24
Là vật nó làm, tư-tưởng nó có,
Tự-Tính nó dệt _ đường dọc của vô-
thủy vô-chung,
đường ngang của hành-động vô-
hình _ ...
" Hợp nên bởi cả thiện lẫn ác, con người
như ta biết thì thiện theo tỷ-lệ nó đã thấy Ánh-
sáng bên trong, và học để cho " Ánh-sáng soi
chiếu " ; và nó là ác đến mức nó còn trong
vòng chi-phối của ảo-hóa Maya, và tự để cho
dục-vọng thấp hèn hướng-dẫn .
" Ái, khao-khát khiến chúng sinh sống .
Vào sâu, sâu hơn trong làn nước mặn giả-
dối,
Nào tài-hoa, danh-vọng, lạc-thú, khen-
ngợi .
Hay là thống-trị, chinh-phục, luyến-ái ;
Ăn ngon, mặc đẹp, cửa cao nhà rộng và
đắc ý .
Với thói xưa và những ngày sa-đọa đam-
mê,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
Vật lộn với sự sống, và tội lỗi cuồn cuộn .
Có ngọt, có cay . "
Vậy một lần nữa người ta phải nhấn mạnh
rằng linh-hồn trong đó, ánh-sáng và tối đêm,
phải và trái không dừng tranh-đấu thì không
phải bất-tử hay chẳng vĩnh-cửu. Nó trôi chảy
như giòng sông với mỗi tư-tưởng mới và phản-
ứng trả lại, hay là nhập vào cơn gió lốc của
linh-hồn .
" Một phật-tử, H. J. Jackson đã viết,
sẽ nhìn của-cải của nó là của-cải nhưng
không phải là của mình, những cảm-giác
và ý-tưởng của nó như là cảm-giác và ý-
tưởng nhưng không phải của mình ...
Không có sự chân-thật trong ý-tưởng cho
rằng : cái này của tôi và tôi có tất cả vật
kia. Nếu có cái gì một người có thể thật
gọi là của riêng mình, ấy là không phải
những cái gì nó có, mà là cái gì nó làm ."
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
26
Cái Linh-hồn hay là Tự-Tính có thật, một
tia của Tự-Tính và tinh-thần nó quyết-định
động-tác và động-cơ của nó chỉ là những đứa
con của Thực-Thể của Tâm nó, thuần-túy trong
sáng .
***
THƯỞNG VÀ PHẠT
Người ta bị phạt vì tội-lỗi của mình chứ
không phải cho tội-lỗi ấy. Nghiệp Karma chẳng
thưởng và chẳng phạt, nó chỉ phục-hồi lại cái
hòa-điệu cân-bình mất đi thôi. Kẻ nào đau khổ
thì xứng-đáng với sự đau khổ, và kẻ nào có lý
để vui hưởng được gặt hái cái gì nó đã gây
gieo. Nhưng nếu tất cả xứng-đáng với đau khổ
của chúng vì chúng đã gây nên đau khổ ấy,
chúng ta cũng không thể tha-thứ cho sự lạnh-
lùng gỗ đá đối với đau khổ của chúng vì chúng
ta được may-mắn hơn. Trong lịch-trình dài hạn
thì không có gì là Nghiệp Karma cá-nhân nữa,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
vì hành-động của một cá-thể là hành-động của
toán-thể và hành-động của toán-thể phản-tác lại
vào phần-tử nhỏ nhất. Cái " lò cừ nung nấu sự
đời " vĩ-đại và bao-hàm của vô số Nghiệp
Karma là cơ sở và nền-móng đá tảng của cái
Chân-lý Vũ-trụ " Anh em đồng-bào bốn bể "
( Tứ hải giai huynh đệ ). Tất cả tạo-vật thì thiện
ở bản-thể và đau khổ là để phục-vụ cho cái
Chí-thiện ấy. Nhờ đấy chúng ta học-hỏi và vận-
động, và trong đau khổ chúng bước từng bước
chậm-chạp hướng lên " sự kiện thần-linh xa vời
mà toàn-thể tạo-hóa quy về " .
***
THUYẾT VỀ
CÔNG - TỘI THƯỞNG PHẠT
Tuy nhiên, mặc dầu nhân-loại là Một
đồng-nhất-thể, ở trình-độ xa-cách hiện-tại với
sự Giác-ngộ, những cá-thể riêng biệt, và dù
Nghiệp Karma phản-ứng vào tất cả hành-động
của từng người, nhưng người trung-bình là một
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
28
đơn-vị Nghiệp Karma chịu-đựng hậu-quả của
hành-vi tốt xấu của chính mình. Thực-kiện ấy
là cơ bản của lý-thuyết Công - Tội Thưởng -
Phạt thường thấy trong văn-học Phật-giáo. Tất
cả hành-vi thiện thu công về cho tác-giả ở một
kỳ-hạn nào trong tương-lai, tại đời này hay đời
sau, nguyên-nhân sẽ mang lại kết-quả. Đấy là
một sự thật, nhưng nó là một động-cơ thấp
không đáng cho hành-vi thiện. Như Đạo-gia
Tầu tuyên-bố : " Thưởng phạt là hình-thức
giáo-hóa thấp nhất ". Lý do là vì đàng sau
động-cơ như thế có sự thúc-đẩy của sợ-hãi hay
cái gì khác của dục-vọng thấp hèn về thích-thú,
tưởng rằng hành-vi cao-thượng đem lại. Sự
giới-hạn của tư-tưởng có thể dùng như đèn
báo-hiệu để giữ tư-tưởng-gia vào luật-lệ đạo-
đức giản-dị, nhưng sẽ không tạo ra Giác-ngộ.
Trong một bài nói với thính-giả Mỹ. Krishna-
murti nói rằng : " Tư-tưởng như thế không có
thể vượt qua giới-hạn của động-tác phản-ứng,
cho đến chừng nào nó thấu hiểu sâu xa và đầy
đủ nguyên-nhân và quá-trình về chính sự trói
buộc của mình " . Khi cái tư-tưởng giới-hạn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
như thế tự biểu-diễn ra hành-vi, người ấy tiếp-
tục, những hành-vi ấy tạo ra giới-hạn xa hơn
của tư-tưởng .
Tuy nhiên, thuyết Công - Tội Thưởng -
Phạt là một ứng-dụng hữu ích pháp-luật
Nghiệp Karma cho nếp sống hàng ngày, vì bất
cứ động-cơ là gì, thói quen làm thiện sẽ tinh-
khiết tinh-thần, và sửa-soạn cho sự mở rộng
phạm-vi. Một động-cơ tốt hơn cho đời sống
chân-chính là một nhận-thức sâu rộng hơn về
pháp Karma cùng sự quan-hệ của nó với Vũ-trụ
coi như một toàn-thể. Với một hiểu biết tuy lờ-
mờ về đồng-nhất-tính cơ-bản của sự sống và sự
tương-quan hỗ-hệ của tất cả bộ-phận của nó
hiện đến giúp đỡ cho tất cả sự sống đạt tới
Giác-ngộ. Điều này trau-giồi, hơn nữa cuối
cùng đánh thức dậy động-cơ tối-cao của hành-
động " Sống bởi Pháp, hành cái Pháp, ta sống
không sợ-hãi ". Vậy thì đã thấy và biết Tâm-
thể, không còn gì được cảm thấy là chính, trừ
phi có cái gì phục-vụ cho nó hoàn-toàn. Chừng
nào thưởng-phạt, công-tội còn là năng-lực
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
30
động-cơ của hành-động thì còn có nguy-hiểm
của tư-tưởng vô-tình hợm-hĩnh, mục-đích sự
đau khổ cho rằng đấy là Nghiệp của nạn-nhân
phải chịu, không có gì quan-hệ với tôi. Tư-
tưởng loại ấy sẽ mang lại hậu-quả của nó, làm
cho Tâm-hồn thêm bất-động bị che lấp bởi ảo-
huyền của nó và tiếp-tục cảm thấy xa-cách với
đồng-loại, và như nhà-tu Do-Thái lánh sang
bên kia đường. Chỉ có ánh-sáng từ-bi và tình
thương hiểu biết đối với tất cả chúng-sinh mới
có thể thấy Nghiệp Karma là Pháp thương yêu ;
nếu nó chí-công thì nó cũng chí-thiện. Chúng
ta trên mặt đất chế ra pháp-luật để phán xử
đồng-loại đều biết rằng công-lý của chúng ta
thêm cái tình từ-thiện ấm-áp hơn vào cái máy
công-lý lạnh-lùng, không phải như hạt sương
êm-dịu từ trên Trời rơi xuống mà là cái đức
tiềm-tàng của tình người .
" Ngoài thì là lý nhưng trong là tình "
_ ( Kiều )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
" Bởi vì Từ-thiện không có thuộc-
tính. Nó là Pháp của Pháp-luật, Hoà-điệu
Vĩnh-cửu, Tự-Tính Alaya, Bản-thể đại-
đồng vô-biên, Ánh-sáng chính-nghĩa
vĩnh-cữu, và sự thích-ứng cho tất cả mọi
vật, Pháp-luật của tình-yêu vĩnh-cửu ."
_ ( Voice of the Silence )
Chỉ người nào thấy rằng luật-pháp là
công-lý, từ-thiện và tình-thương đều là nhiều
mặt của Pháp Thái-hòa, sẽ hiểu được rằng
Nghiệp Karma chỉ là một tên chúng ta gọi cái
Pháp ấy .
***
XẾP LOẠI
CÁC NGHIỆP KARMA
Trường biểu-hiện lệ-thuộc vào huyễn-
tượng của thời-gian vì tuy trong Thực-thể tất cả
là Hiện-tại Vĩnh-cửu vậy mà thời-gian có thật
đối với cảm-giác của ta. Trước mắt chúng ta có
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
32
quá-khứ, hiện-tại và tương-lai, và một nguyên-
nhân với những hậu-quả của nó đều xa-cách
một khoảng thời-gian. Ở bản-thể nhân-quả như
là hai mặt của một đồng tiền, bất phân và đồng
thời, nhưng chúng ta nhìn chúng phân-biệt.
Theo đấy thì ta có thể vì mục-đích hiểu-biết,
phân-tích và xếp loại nhân-quả của Nghiệp
Karma. Và có thể ghi nhận bốn loại như thế .
Nghiệp Karma thường được phân-tích
theo Thập nhị Nhân duyên, thường được xếp
vào ba loại :
Kiếp trước | Vô-minh = Avidya ( Ignorance )
Quá-khứ | Hành = Sanskara (Confection
mentale volitions )
| Thức = Vijnana (Conscience
- connaissance )
| Danh Sắc = Nàma-Rùpa ( Corpo-
réité et mental )
Hiện-tại | Lục nhập = Sadàyatana (Organes
des sens et objets )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
Kiếp này | Xúc = Sparsa ( Contact )
| Thụ = Vedana ( Sensation )
| Ái = Trànà ( Soif ‹ Désir › )
| Thủ = Upadana ( Attachement,
attirer à soi )
| Hữu = Bhava ( Devenir
‹ Existence ›)
Kiếp sau | Sinh = Jati ( Renaissance )
Vị-lai | Lão, Tử = Jaransarana ( Décrépi-
tude, Mort )
Nhưng dù " hành động bây giờ ", " đang
tạo-tác " hay là " cầm giữ về sau " quá-trình
thực sự thì bất-phân. Nói về thời-gian, tuy vậy,
rõ ràng cái phúc-thể nguyên-nhân của một đời
bận-rộn không thể trả hết trong đời này hay đời
tiếp theo, và bất cứ trong một đời sống nào,
một người chỉ tiếp nhận kết-quả ở một phần
nhỏ của những nguyên-nhân của chính nó,
thiện hay ác, tốt hay xấu .
Nghiệp phản-tác trên cả ba bình-diện
tâm-thức, từ đấy nguyên-lai nó xuất ra ở bình-
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
34
diện tâm-lý và bình-diện vật-lý, và sự tạo nên
của một người ở đời sống nào sẽ thích-ứng với
các Nghiệp khác nhau mà nó đã sản-sinh trên
các bình-diện ý-thức. Một tinh-thần vĩ-đại có
thể lạm-dụng thân-thể mình và để tái-sinh vào
một thân-thể nghèo-nàn ; một thân-thể vinh-
quang được săn-sóc đặc-biệt có thể chứa-đựng
một tinh-thần kém mở mang hay là cả đến xấu
xa. Vậy mà sự phản-ứng hỗ-tương rất gần. Như
" Ta nghĩ thế nào ta thành ra thế ". Và ý-nghĩ
xấu xa sẽ làm xấu thân-thể đến cả tỏ ra mặt.
Lại nữa, điều ác trong tinh-thần có thể được
sửa-chữa bằng một sự hiểu-biết hơn, trước khi
hiệu-quả của sự độc ác thi-hành trên thân-thể,
tự nó đã hết hiệu-lực ở bình-diện vật-lý. Do
đấy mà có người gù với tinh-thần đáng yếu .
Trong thiên sách về Nghiệp Karma ở tác-
phẩm " Buddhisme-Doctrine et Méthodes " Bà
David Neel diễn-tả cách xếp loại theo Tây-
Tạng. Nghiệp Karma đại-cương duy-trì vòng
luân-hồi sinh-tử như đề ra trong " Thập-Nhị
Nhân-Duyên " ( Nidanas ) nó có thể áp-dụng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
cho tất cả biểu-hiện. Rồi đến Nghiệp-giới hữu-
cơ và vô-cơ, hữu-tình và vô-tình. Nghiệp của
vật vô-cơ diễn ra trong vòng luật : sinh ; thành ;
bại ; vong ( ) .
Chúng-sinh hữu-cơ đều lệ-thuộc ngoài
Nghiệp Karma luân-lý, cái Nghiệp khởi sinh
trong tinh-thần mà cá-nhân chịu trách-nhiệm.
Sau hết, với nhân-loại còn có Nghiệp đặc-biệt
hơn nữa, trong đó là Nghiệp của nó, như thế và
chỉ có như thế nó mới động biến từ kiếp nọ
sang đến kiếp kia cho đến Giác-ngộ .
Cuối cùng đối với mục-tiêu hiện-tại,
Nghiệp Karma có thể xếp theo kích thước của
đơn vị tham gia. Một nhóm hay đoàn, hay xã-
hội có thể có Nghiệp tập-thể, cũng như " một
nhóm phẩm-tính " nhỏ hơn gọi là một người.
Cũng theo cách ấy mà một dân-tộc không
những chỉ gặt được lợi lộc và ác báo của hành-
vi tập-thể, mà còn tái hiện vào vòng định-mệnh
lớn hơn. La-Mã và Hy-Lạp đã là đơn vị tái-
sinh, và chiến-tranh Punie lại có với chúng ta
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
36
ngày nay. Dân da đỏ sẽ hiện ra vào chủng-tộc
đã giết chúng một lượng-số như thế, và có
nhiều vận-động thiểu-số trong một xứ, đại-biểu
cho kẻ-thù ngày xưa, tái hồi lần này ở ngay
trong nhà để tiếp-tục cuộc chiến truyền kiếp. Ai
muốn hiểu tiêu-chuẩn của lịch-sử không có thể
không biết học-thuyết Nghiệp Karma với
thuyết Tái-sinh vậy .
Tóm lại, Nghiệp Karma là luật Pháp cơ-
bản cai-quản tất cả thế-giới biểu-hiện, vật và
người, ý-thức sử-dụng nó nhưng là phương-
diện khác của cái Vô-danh. Pháp luật sinh ra
thì loài người sinh và sẽ mất " khi mỗi lá cỏ đi
vào cõi ngộ ". Nó hoàn-toàn khách-quan và
tuyệt-đối công-chính. Nó phấn-đấu vì hòa-điệu,
và cái gì, kẻ nào phá hoà-điệu thì phải chịu-
đựng sự điều-chỉnh. Pháp luật có chủ-động
nhân-loại hay " Thần-linh ". Tuy vậy, những
Á-Thần, Á-Thánh cũng lệ-thuộc vào sự chỉ-huy
của nó. Loài người bị phạt bởi tội-lỗi của mình,
không phải cho tội lỗi ; theo đấy thì không làm
gì có sự tha tội, và bởi thế mà không có người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
nào có khả-năng tha thứ. Vậy là Pháp thì từ-
thiện, vì Pháp là Tình-yêu .
***
HỌC-THUYẾT NGHIỆP
LUẬT PHÁP NGHIỆP ( KARMA )
" Đã mang lấy Nghiệp vào thân ;
Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa."
_ ( Nguyễn-Du )
Danh-từ Nghiệp, tiếng Phạn Karma, gốc
ở chữ Kri có nghĩa là làm hay là tác. Bởi vậy
Karma là hành-động hay là tác-vi, nhưng với
thời-gian, danh-từ đã được ứng-dụng vào cái
mà triết-gia Đức Lessing đã mô-tả như là học-
thuyết cổ nhất thế-giới. Nó có thể được nhìn
theo thế-tục từ quan-điểm vật-chất thì nó chỉ là
luật nhân-quả, cân thăng-bằng giữa nhân và
quả, thực kiện trong phòng thí-nghiệm của tất
cả khoa-học đã biết về động-tác phản-ứng
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
38
thăng-bằng và trái-nghịch. Theo quan-điểm
tâm-linh bí-truyền, Karma là Pháp luật thưởng
phạt, do đấy mà không những mỗi nguyên-
nhân đều có hiệu-quả, mà hễ ai tạo ra nguyên-
nhân thì phải chịu hậu-quả của nó. Giáo-sư
Radakrishnan gọi Karma là " Luật bảo-tồn
năng-lực tinh-thần ". Nó được diễn-tả một cách
hoa mỹ trong " Light of Asia " (Á-sáng Á-
châu ) Với bài thơ :
Yếu tri tiền thế nhân Kim sinh thọ giả thị
Yếu tri hậu thế quả Kim sinh tác giả thị
_ ( Chân-Nguyên Thiền-sư )
( Muốn biết nguyên-nhân đời trước,
Đời nay phải chịu quả thế ;
Muốn biết hậu-quả đời sau,
Đời nay làm ra như thế . )
Cái chi ta gieo ta lại gặt lấy, nhìn ruộng
kìa :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
Mè gặt mè, lúa gặt lúa .
Yên-lặng và Đen Tối hãy biết !
Như thế là định-mệnh một người !
Cái định-luật thưởng phạt ấy, cái luật
Nghiệp Karma ấy, có nghĩa là sự ngự-trị của
luật pháp tinh-thần thì chẳng phải thuộc riêng
Ấn-Độ-giáo, Phật-giáo hay Thần-học, mà là
cơ-bản của tất cả Đạo-học Đông-phương. Nó
đã được Thánh Phao-Lồ ( Saint Paul ) truyền-
bá :
" Đạo-hữu ơi ! Chớ thất-vọng, Chúa
không lừa-dối vì kẻ nào gieo cái gì nó sẽ
gặt lấy cái ấy ! "
Vào những thế-kỷ đầu, Cơ-Đốc-giáo còn
là tín-ngưỡng chính-thống ở Tây-phương.
Nhưng tại Hội-nghị Constantinople năm 551 ,
Giáo-thụ Cơ-Đốc thấy học-thuyết Tái-sinh
không hợp với hệ-thống tư-tưởng kỳ-quặc mà
họ đang tạo dần nên, họ quyết-định rằng từ nay
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
40
phải bài-xích tín-ngưỡng Tái-sinh đi như là
ngoại đạo .
Vũ-trụ hoặc có điều-lý, hoặc là hỗn-độn,
vì nó không thể một phần được luật pháp điều
động, một phần do ngẫu-nhiên vô lý mù quáng
chỉ-huy. Nghiệp Karma không phải một luật
pháp để có thể bảo : " Có thể có chút gì hay ở
đấy ". Luật pháp hoặc có hoặc không. Nếu có
thì chỉ kẻ điên-rồ mới không sử-dụng, và chỉ có
người Hiền học hỏi, quảng-bá sâu rộng và ứng-
dụng vào chi-tiết nhỏ-nhặt trong đời sống hàng
ngày của mình. Nếu nó không thật thì là một
điều sai lầm để được tôn-sùng lạ lùng, và đã
được thấy dạy như là nền-tảng của hiền-học
tích-lũy thế-giới kể từ khi bắt đầu cầu tìm
Chân-lý. Điều lạ là không có luật pháp nào
khác được đề ra để giải-thích hiện-tượng sinh-
tồn này. Nhưng luật pháp ấy chỉ có thể hiểu
được ở quan-điểm tinh-thần thôi. Gọi nó như là
định-luật vay, trả máy móc cho hành-vi thiện,
ác, thì đấy là lấy mất hiệu-năng của học-thuyết.
Nếu nó bao-quát tất cả đồng thời với Vũ-trụ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
đại-đồng thì nó chỉ có thể hiểu được ở quan-
điểm đại-đồng, nghĩa là quan-điểm tâm-linh.
Người ta có nhiều bình-diện nhận-thức những
cửa-sổ cao trên cầu-thang xoáy chôn ốc của
hiểu-biết, và cả đến như người canh hải-đăng
mà nền lầu là đá sống, nó cũng phải leo lên
bình-diện cái đèn nó trông coi ánh-sáng không
phải của nó. Cũng thế, ý-thức người ta phải
vươn lên bình-diện nọ sang bình-diện kia cho
tới khi nó thấy và học để nuôi Ánh-sáng nội-
tâm vĩnh-viễn chiếu sáng. Trên trí-thức, vốn là
máy-móc tư-duy, còn có bình-diện trực-giác,
năng-khiếu nhận-thức thẳng trực-tiếp Thực-tại.
Ở phần lớn chúng ta nó ngủ hay là tác-dụng
sâu trong một suy-tư thấp như là " bản-năng "
hay là trên bình-diện tâm-lý. Vậy mà mỗi
người đều có thể khai-triển nó, và chỉ ai tới
mức nào có được nó như công-cụ hoạt-bát thì
mới biết được Pháp. Trước hết, nó dùng để soi
sáng cho trí-thức với tia hiểu biết chớp-nhoáng;
thứ đến là ý-thức triển-khai bắt đầu sử-dụng nó
trên bình-diện của nó. Và kẻ nào từng thực-
nghiệm những lóe sáng của " tim tạo vật " sẽ
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
42
biết và biết thật biết rằng Pháp là thật. Đồng
thời ở bình-diện trí-thức thường nổi lên nghi-
ngờ và mây mù che lấp hiểu-biết, Pháp chỉ
được hiểu như một học-thuyết hợp-lý ngọt-
ngào trong kho kinh-nghiệm, được chứng và
thấy chân-thật. Nghiệp Karma là một Pháp, nó
chi-phối tất cả định-luật thiên-nhiên khác, từ
định-luật hấp-dẫn-lực đến luật bình-quân,
nhưng nó không phải định-luật mù-quáng. Nó
là sinh-động và thông-minh như tất cả cái gì
khác trong vũ-trụ. " Chẳng làm gì có vật chết
hay mù, cũng như không có Pháp luật mù hay
vô-ý-thức, vì Vũ-trụ được hành-động và
hướng-dẫn từ bên trong ra ngoài. Cũng như bên
trên thế nào, bên dưới thế ấy, cũng như trên
trời thế nào, dưới đất thế ấy ; và con người
" tiểu thiên địa ", là tiểu vũ-trụ phỏng theo đại
vũ-trụ, là chứng-nhân sống cho Pháp Đại-đồng,
và cho cách-thức ở động-tác của nó ."
_ ( H. P. Blavatsky )
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
TÔN - GIÁO HIỀN - TRIẾT
Do đấy mà thấy điều dĩ-nhiên rằng để
hiểu Nghiệp Karma cần phải hiểu biết ít nhiều
về Đạo-học mà nó là luật pháp cơ-bản. Chỉ bấy
giờ Nghiệp được xem như một phần tất-yếu
của toàn-thể vũ-trụ, và địa-vị của người lập
pháp lại cũng là người bị luật pháp chi-phối,
được bày-tỏ rõ-rệt. Các tôn-giáo Đạo-học ấy
xưa hơn tất cả các tôn-giáo được biết, sẽ thấy
lập cước trên ba nguyên-lý cơ-bản. Những
nguyên-lý ấy tất nhiên khó diễn-tả được hết vì
chúng nói về sự-vật ở ngoài phạm-vi của sức
thông-minh có giới-hạn của chúng ta ; hai là
bất cứ sự diễn-tả nào dùng đến ngôn-ngữ và
danh-từ đều khác nhau xa trong cách miêu-tả
nguyên-lý, và ba là vì bất cứ sự gắng sức giới-
định và diễn-tả những pháp luật vũ-trụ như thế
thì đều ví như vốc giòng nước chảy hay là ngăn
nước thủy-triều vậy .
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
44
Nguyên-lý cùng-cực Tuyệt-đối thì không
có thể diễn-tả, chính nó là Parabrahman của
Ấn-Độ-giáo, A-Di-Đà của Phật-giáo Đại-Thừa
và Đạo Tối-cao của Đạo-giáo. Theo luận-điệu
của Học-thuyết Tâm-truyền, nó là Nguyên-lý
Vô-sở bất-tại, Vĩnh-cửu, Vô-biên và Bất-dịch
mà tất cả suy-luận đều bất-lực vì nó vượt khả-
năng của nhân-loại quan-niệm và bị tất cả biểu-
thị hay tự-loại làm cho cằn-cỗi. Nó vượt quá
phạm-vi và giới-hạn của tư-tưởng, " Bất khả tư
nghị " .
Đạo khả đạo phi thường đạo
Danh khả danh phi thường danh
Vô danh thiên địa chi thủy .
_ ( Lão-Tử )
( Đạo-lý có thể nói ra được thì không
phải đạo-lý vĩnh-cửu ;
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
Lời có thể gọi tên thì không phải Chúa
Lời Vĩnh-cửu .)
( Nguyên-lý đầu tiên của Vũ-trụ thì không
có tên gọi ) .
_ ( Lão - Tử )
Nó là Tự-Tại ( Be - ness ) hơn là Tồn-Tại
( Being ) và có nhiều người coi nó như cái vô-
danh cùng-tột. Điều trọng-yếu để ghi nhớ thêm
là " cái vô-ngã tính của nó là quan-niệm cơ-
bản của hệ-thống và bởi thế cho nên nó hoàn-
toàn vượt quá tín-ngưỡng hạn-hẹp và hạn-chế
vào một Thượng-Đế hữu-ngã. Nó tiềm-tàng ở
mỗi nguyên-tử của Vũ-trụ, và nó là Tự thân
Đại-đồng " .
Nhưng Tự-Tại để có thể nhận-thức được
đối với nó thì phải biểu-hiện, và Vũ-trụ biểu-
hiện là Trường Sinh-thành để cho cái Một mở
thành Nhiều và cuộn lại thành Một. Chu-kỳ
mở, đóng ấy như Kinh Phật nói chiếm khoảng
cực lớn chu-kỳ thời-gian, nhưng không phải
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
46
không tính được. Nó chứng minh " đại-đồng
tính của pháp-luật lên xuống tuần-hoàn như
ba-động mà khoa vật-lý-học đã quan-sát thấy
và ghi-nhận ở tất cả khu-vực thiên-nhiên " và ở
trong học-thuyết Vô-thường ( Anicca ) của nhà
Phật. Vũ-trụ biểu-hiện chỉ là Thực-tại tương-
đối hay là Maya (Ảo-hóa ) vậy mà ở trong tâm
của mỗi cá-thể Đa-thù có một mảnh, một tia
của Nhất-thể, và mỗi tinh-thần cá-nhân nhân-
loại là một phương-tiện, hay là tia sáng của
Tinh-thần Đại-đồng -- Bản-thể của Tâm theo
Pháp-Bảo-Đàn Kinh của Huệ-Năng -- nó là ảo-
ảnh của cái Vô-danh. Bên trong Trường Sinh-
thành ấy, cái Một đã Sinh-thành là Hai. Nhưng
không có hai vật nào có thể khả-tri được mà
không liên-hệ với nhau, và Hai với liên-hệ là
thành Ba .
" Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam,
tam sinh vạn-vật " _ ( Lão-Tử )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
Từ Ba với Bốn thành Bẩy, và từ Bẩy
thành Vạn-vật tức là Vũ-trụ thiên-biến vạn-hóa
hiện-tượng vậy. Cặp đối-nghịch Âm-Dương
cơ-bản là Tinh-thần Vật-chất, Năng Sở, Chủ
Khách, cặp Purusha-Prakriti ( Thân-ngã Tự-
nhiên ) trong triết-học Ấn và từ sự hỗ-tương
tác-dụng của lưỡng-tính nguyên-thủy Nghiệp
( Karma ) được dệt ra, sợi dọc động-cơ, sợi
ngang động-tác, mà chúng ta tạo ra và chịu
khổ, làm và chịu như bánh xe Sinh-thành quay
không ngừng vô-tận .
Nguyên-lý Cơ-bản thứ ba có khi gọi là
Vòng Định-mệnh, hành-trình tất-nhiên của
linh-hồn cá-nhân ( ví như ngọn lửa ở mỗi
người ) để tự Tinh-thần tinh-khiết nhất vào
Vật-chất đen tối nhất để rồi mãn kỳ quy ra. Nên
trong cái vòng lớn tuần-hoàn mở đóng đầy đủ
của Vũ-trụ, dĩ-nhiên có vô số vòng nhỏ hơn. Cả
trên địa-cầu tự nó cũng bị cái Vòng Sinh Tử
Vũ-trụ chi phối, còn có những vòng kỳ lạ kể từ
vòng thuộc phạm-vi địa-chất-học cho đến vòng
ảnh-hưởng vào khối di-chuyển và vòng chủng-
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
48
tộc nhân-loại. Mãi mãi cái vòng ấy vần xoay
" Sắc Sắc, Không Không " hay là đầy đủ hơn :
Sinh, trưởng, dị, diệt ; Sinh, trưởng, dị, diệt .
Trong Kinh Phật cái vòng ấy còn phân-
tích sâu xa hơn trong " Thập-nhị nhân duyên "
( Nidanas ) mà Bà Blavasky mô-tả như là một
phô-diễn chi-tiết cái luật-pháp Nghiệp Karma ở
12 phương-diện. Đề-tài còn được Bà David
Neel giải-thích đầy đủ hơn trong tác-phẩm
" Phật-Học, Phương-Pháp và Học-Thuyết "
( Bouddhisme ses Doctrines et ses Méthodes ) .
Mười hai tay hoa của " Bánh xe Nhân
quả " tuy vậy đã chiếu sáng cái quá-trình tiến
thoái, tùy theo suôi hay ngược và nó rất cốt-yếu
cho ai muốn học hỏi về sự " mở đóng " của
Máy Huyền-vi Vũ-trụ. Điều trọng-yếu để ghi-
nhận là những tay hoa ấy không phải chỉ là
nhân quả, nghĩa là cái nọ tiếp nối cái kia một
chiều, mà nó làm thành một liên-hệ hỗ-tương
của yếu-tố nhân-quả trên tất cả bình-diện .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
Tay hoa đầu tiên của Bánh xe Thập nhi-
nhân duyên là :
1/ _ Lão, Tử ( Jaramarana ) vì chết làm mồi
cho sống ; mỗi nguyên-tử thoạt sinh ra bắt đầu
chết. Bởi vậy, già chết lấy Sinh làm nguyên-
nhân .
2/ _ Sinh ( Jati ) " nhân của tử ". Sinh là quả
của Hiện-Hữu .
3/ _ Hữu ( Bhava ) " Sinh-thành ", nó là động-
cơ Nghiệp của tái-sinh, và Hữu là quả của Thủ.
4/ _ Thủ ( Upàdàna ) chấp mạnh vào sự sống
và sự-vật của đời sống mà người ta ngu mê
cuồng-tín khát-vọng sinh-thành ra chúng-sinh;
5/ _ Khát ( Trisna, Tanha ) tham muốn là quả
của Thụ.
6/ _ Thụ ( Vedana ) là cảm-thụ, tri-giác do
nguyên-nhân.
7/ _ Xúc ( Sparsa, Phassa ) là tiếp-xúc, đụng
chạm giữa quan-năng và đối-tượng người ta
biết nhận-thức. Xúc do sáu đường đi vào năm
giác-quan và giác-quan thứ sáu mà đối-tượng
sở-tri là những ý-tưởng, đấy là :
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
50
8/ _ Lục nhập ( Sad - àyatana ). Cái gì phải có
để cho nó giác-quan.
9/ _ Hình danh, Sắc tướng hay là Danh Sắc
( Mana Rupa ). Nguyên-nhân của vật-thể hay
ý-tưởng .
10/ _ Lục thức ( Vjnãna ) nó cần một phương-
tiện để tự biểu-diễn, tạo ra cho mình một " ý-
nghĩa và hình-thức " để biểu-hiện vào đấy. Cái
gì phải có để cho được cái ý-thức hiểu-biết, ấy
là tác-động của tâm như là (ý muốn, tác-dụng
tâm-lý như tri-giác, biện-biệt ... ) nghĩa là :
11/ _ Hành ( Samkara ). Những phức-thể tư-
tưởng tín-ngưỡng, lý-tưởng và thường-tồn hợp
lại thành mầm các khuynh-hướng và rung-động
từ những tiền-kiếp để triển-khai ở kiếp này, và
như thế chúng là một phương-diện của chính
Nghiệp ( Karma ) tự-thân. Nhưng Nghiệp
( Karma ) theo nghĩa ấy lại là sản-phẩm của
Vô-minh, mê-vọng đen tối, là bào-thai của đau-
khổ và là cơ-bản nhân-duyên với nòi-giống
bất-tận của nhân quả .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
KIẾP TRƯỚC
1._Vô-minh__Quá trình hành động
2._ Hành_________Nghiệp
3._ Thức _______Quá trình tái-sinh
4._ Danh Sắc
5._ Lục nhập
6._ Xúc
7._ Thụ
HIỆN-SINH
8._ Ái ______Quá trình hành động
9._ Thủ __________Nghiệp
10._ Hữu
KIẾP VỊ LAI
11._ Tái sinh____ Quá trình tái sinh
12._ Lão ; Tử
_( Theo David Neel )
NHÂN TÍNH. Như vậy thì địa-vị của người thế
nào trong cái đại kế-hoạch sự-vật trên đây ?
Con người là một phức-thể và hoặc nó
được coi như tinh-thần, linh-hồn và thân-thể
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
52
theo Saint Paul ( Thánh Phao-Lồ ) hay là như
cá-thể phức-tạp hơn theo triết-học Ấn-Độ,
không nhận thân-thể vật-chất và tinh-thần vậy
mà để lại năm bình-diện ý-thức, hoặc con số
tăng lên bẩy thức như trong chính Đạo-học
xưa, đấy chỉ là vấn-đề danh-từ lựa-chọn. Về
mục-tiêu tìm-hiểu Nghiệp ( Karma ) và Tái-
sinh thì phân-tích của St Paul đủ rồi. Người là
tinh-thần, nghĩa là chính thuộc về thực-thể của
Tự-tại ( Be-ness ) nó vượt tầm của tư-tưởng trí-
thức và các hình-thức nó khoác là những
phương-tiện để nó liên-hệ với các bình-diện đi
xuống của ý-thức. Những phương-tiện cụ-thể
ấy đều thuộc " vật-chất " nhưng vật-chất ở thể
tối-cao thì vi-tế đến độ tất cả chỉ như không có,
và ở mức thấp nhất là đất-thó thông-thường của
ta. Tất cả đều " Vô-Ngã " ( Anatta ). Không tự-
tính thường-tồn, và tất cả đều vô-thường, luôn
luôn biến-đổi ( anicca ). Chúng biến-đổi ở mỗi
động-tác của bất cứ bình-diện ý-thức nào, vì
mỗi nguyên-nhân mới phải biến-đổi đến mức
nào tổng-thể kết-quả là phương-tiện kia. Do
đấy mà tà thuyết cùng tột, sai lầm sâu xa nhất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
trong tín-ngưỡng nhân-loại là thuyết Hữu-Ngã
( Attavada ) tin-tưởng vào sự phân-biệt ở bất-
cứ mỗi một của những phương-tiện công-cụ ấy,
dù là tinh-thần, linh-hồn hay chính tâm-linh
trong cái Vô-danh hay Tự-tính vô-hạn mà tất
cả biểu-hiện là thành-phần. Cái nguyên-lý cơ-
bản ấy là chính nền-tảng cho sự đoàn-kết và do
đấy cho tình đồng-bào của loài người, và nó
phải được nắm giữ và đồng-hóa trước khi định-
luật Karma được hiểu .
" Chúng ta không quên cái thực-
kiện là mỗi nguyên-tử đều lệ-thuộc vào
định-luật cai-quản toàn-thể cái thân-thể
mà nó là thành-phần... Cái mớ Nghiệp
( Karma ) cá-nhân trở nên cái Nghiệp của
dân-tộc mà cá-nhân là phụ-thuộc, và
tổng-cộng Nghiệp Dân-tộc là Nghiệp
Thế-giới Đại-đồng. Điều ác, dữ mà một
người phải chịu-đựng, không phải riêng-
biệt cho cá-nhân hay cho cả dân-tộc nữa
mà chúng còn ít nhiều cho cả đại-đồng.
Và chính trên bình-diện rộng lớn của
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
54
quan-hệ hỗ-tương nhân-loại ấy mà luật-
pháp Nghiệp ( Karma ) thấy được sự
chính-đáng và bất-biến của nó . "
Từ đấy tác-giả đi đến một trong những
hạn-hẹp nhất của tất cả tác-phẩm :
" Hơn nữa có một luật-pháp bí-
truyền rằng không ai vươn lên trên thất-
bại cá-nhân mà không cất lên được, dù
nhỏ-mọn mấy đi nữa, toan-thể thân-thể
mà nó là thành-phần. Cũng như thế mà
không ai có thể phạm tội hay là chịu-
đựng hậu-quả của tội-lỗi một mình cả. Sự
thực không có vật gì là biệt-lập, và sự
tiếp-cận gần nhất của trạng-thái Vị-Ngã
ấy là luật-pháp của sự sống cho phép, đó
là dự-định hay động-cơ ."
_ ( H. P. Blavatsky )
Nhưng nếu không một tâm-hồn nào độc-
lập, trong tồn-tại đồng-nhất với cái Vô-danh
ấy, nó cũng không phải của nó, linh-hồn cũng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
không bất tử vì nó biến-đổi mỗi lúc trong một
ngày. Nó tương-đương với tính-cách như sẽ
giải-thích sau, cái tính-cách là một mớ những
thuộc tính tốt và xấu, nó làm nên con người,
một nhân-cách. Còn vô-thuờng hơn cả thân-thể
theo nghĩa mặt-nạ hay là nhân-cách nhờ nó mà
linh-hồn và tâm-linh biểu-hiện cụ-thể. Cái
phương-diện ngoại-biểu cụ-thể ấy của con
người là phương-tiện độc-nhất của nó, qua đó
nó tiếp-xúc với các bình-diện thấp nhất của vật-
chất. Tuy vậy Phật nói : " Trong chính thân-thể
này bẩy thước cao với ấn-tượng cảm-giác cùng
tư-tưởng và ý-niệm. Ta bảo các con là thế-giới,
nguyên-lai của thế-giới và tận-trung của thế-
giới và cũng như con Đường dẫn đến tận-
chung khỏi đấy ." ( Anguttara Nikaya ). Theo
đấy thì kẻ nào đợi lên Thiên-đường để bắt đầu
ở đấy phát-triển nội-tâm của mình thì sẽ là đợi
hão-huyền .
Con người là một toàn-thể bất-phân như
chúng ta được biết. Hoặc cái " lớp vỏ " nó
được ví như củ hành liên-tiếp bóc ra, hay là ý-
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
56
thức nó được với cái ý-thức của người giữ hải-
đăng, hay là các phương-diện khác nhau của nó
được tượng hình hay đồ-biểu, cái Tự-tính và tất
cả phương-diện của nó là Một, cả như Nghiệp
Karma là Một, vì cả hai đều lệ-thuộc và là
phương-diện của Tồn-tại ( Be - ness ) Vô-danh,
( Vô danh thiên địa chi thủy _ Lão-Tử ) .
QUÂN-BÌNH .
Để nghiên-cứu về thuyết Nghiệp, tốt hơn
hết là xét con người ở bình-diện cá-tính hay
" linh-hồn " nó. Ở đây Tự-tính sáng-tạo, sử-
dụng, chịu khổ và ở tại một ý-nghĩa chân-thật
là Nghiệp ( Karma ), và ai nghiên-cứu đồ-biểu
của Jung sẽ nhận thấy thú-vị là cái Tự-tính ấy
hợp-nhất mặt ngoại-biểu nhất với mặt nội-
hướng nhất, phần vật-chất nhất với phần tinh-
thần nhất của toàn-thể. Vì then-chốt của luật
Nghiệp là quân-bình và thiên-nhiên luôn luôn
hành-động để phục-hồi cái thế quân-bình ấy
mỗi khi trong hành-vi nhân-sự nó bị mất. _
Như Bergson đã viết :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
" Nếu anh yêu-thương và phục-vụ
loài người, anh không có thể tránh công-
thưởng bằng cách giấu diếm hay mưu-
mẹo. Những thưởng công bí-mật luôn
luôn dừng lại thăng-bằng của công-lý
thiêng-liêng khi nó bị điên đảo. Không
khả-năng bẻ cong tia sáng. Tất cả những
kẻ độc-tài, tư-hữu và độc-quyền trên thế-
giới nghiêng vai hoài công để nâng vành
móng ngựa của tòa-án. Xích-đạo nặng-nề
thiết-định vĩnh-viễn vào đường hướng
của nó, loài người là sâu mọt, tinh-tú mặt-
trời phải xếp vào hàng với nó hay là lùi
bước để tiêu tan thành cát bụi ."
Bà H. P. Blavatsky cũng viết về hậu-quả
ấy rằng :
" Cái mệnh-lệnh duy-nhất của
Nghiệp ( Karma ), mệnh-lệnh vĩnh hằng
và bất-di bất dịch thì tuyệt-đối. Quân-
bình, hòa-điệu trong thế-giới vật-chất
cũng như trong thế-giới Tinh-thần. Bởi
vậy, không phải Nghiệp nó thưởng hay
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
58
phạt mà chính ta thưởng, phạt ta, tùy theo
chúng ta hành-động với, và qua thiên-
nhiên, an-định vào luật-pháp mà hòa-điệu
căn-cứ hay là phá-hủy luật-pháp ấy."
" Tòng thiên giả tồn, nghịch thiên giả
vong " .
Và đệ-tử của Bà còn phụ-họa trong
" Karmic Aphorisms _ W.Q. Judge " ( Cách-
ngôn về Nghiệp ) :
" Nghiệp ( Karma ) là một su-hướng
bất thiên và không sai lầm trong Vũ-trụ
để phục-hồi quân-bình hòa-điệu và nó
hành-động không ngừng."
Vì phải có thời-gian cho sự nỗ-lực ấy để
tu-chỉnh cái hòa-điệu bị phá rối, mà thuyết Tái-
sinh là một hệ-luận tất-yếu của Thuyết Nghiệp,
vì một đời dài sẽ không đủ để chỉnh-đốn một
hòa-điệu bị rối loạn bởi lịch-trình hành-động
vị-kỷ hàng ngày. Đời này đến đời sau nối tiếp
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
trước khi bài học sau cùng được học, và ba lửa
" tam độc " tham, sân, si tắt đi vì hết dầu .
Nghiệp ( Karma ) là luật-pháp chi-phối
Vũ-trụ, nhưng không có Nhà Lập-Pháp.
Nguyên-nhân Cùng-cực, như nguyên-nhân cuối
cùng của mọi vật dĩ-nhiên là không được biết
và bất-khả-tri đối với sức thông-minh của
chúng ta, nhưng chắc-chắn nó không phải
" Chúa " như Nhà-Thờ nhân-danh Cơ-Đốc-giáo
quan-niệm. Ý-thức Tuyệt-đối, hay là A-Di-Đà
Phật, bất cứ người ta đặt tên cho cái Vô-danh
ấy thế nào, đều xa ngoài quan-niệm một
Thượng-Đế hữu-ngã nhân-cách-hóa, ví như bể
với một giòng sông. Thượng-Đế nhân-cách-hóa
như Colonel Olcott viết : " Chỉ là một cái bóng
râm vĩ-đại phủ lên không-gian hư-không của kẻ
ngu dốt " _ ( A Buddhist Catechism -- Một
Phật-học ( bổn ). Vì cả như " Đạo khả đạo phi
thường đạo " ( ) cho nên :
" Một người có thể không có
Thượng-Đế, không bị chính quan-niệm
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
60
nhân-văn hạn-chế. Cái tâm hiện-thị tinh-
thần của nó càng rộng thì thần-linh của nó
sẽ càng cao. Nhưng ở đâu chúng ta có thể
tìm thấy một bằng-chứng ở Ngài hơn là ở
chính con người -- trong những quyền-
năng thần-thông và tinh-thần tiềm-tàng ở
mỗi cá-thể nhân-loại ."
_ ( " Isis Unveiled " H. P. Blavatsky )
Luật-pháp bao-hàm tất cả. Cũng như nói
ở đoạn hay nhất trong Kinh Pháp-Cú
( Dhammapada ) : " Chẳng ở trên trời hay dưới
đáy biển, hay là trong hang núi, có chỗ nào ở
trong toàn-thể thế-giới để có một người nào
thoát khỏi hậu-quả của một hành-vi xấu."
Không ai vượt khỏi Pháp của Nghiệp Karma,
trừ phi người nào đã đạt tới giác-ngộ tối-cao
bằng sử-dụng Pháp Nghiệp của mình. Và chỉ
bấy giờ với sự tan hòa của cái Tự-Tính nó tạo
và vận-động của Pháp vì hết đối-tượng để cho
Pháp có thể hành-động .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
Vậy nên Pháp thì phi thời-gian ở chỗ nó
tồn-tại cho đến chừng nào còn một chúng-sinh,
một cá-thể trong ấy nó có thể và phải tồn-tại.
Sự kiên-nhẫn của nó không bờ-bến .
-- Thời-gian như không, ngày mai nó sẽ
xét xử. Hay là sau nhiều ngày .
Đấy là Pháp như thế, và nó là nền-tảng
của tất cả chân-lý. Như Paracelse viết :
" Triết-học chỉ là tri-giác chân-thật và thông
hiểu Nhân-quả " .
*********
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
THUYẾT TÁI-SINH
" Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai ."
( Nguyễn-Du )
Danh-từ Tái-sinh bao-hàm học-thuyết
sinh đôi với Nghiệp ( Karma ) theo quan-điểm
nhân-loại. Theo nghĩa này chính cũng như sự
tiến-hóa sinh-lý thể-hiện trong di-truyền, sự
tiến-bộ tinh-thần cũng thành-tựu bằng quá-trình
tái-sinh. Nhân-quả là một nhất-tính bất-phân
nhưng trong mê-vọng của thời-gian thì cái nọ
theo sau cái kia. Theo quan-điểm của Tì-kheo
Silacara : " Người ta có thể nói rằng chúng là
một học-thuyết, nhìn một đàng chủ-quan và
đàng kia khách-quan. Nói cách khác thì Nghiệp
là Tái-sinh tiềm-tàng và chưa biểu-hiện, còn
Tái-sinh là Nghiệp hoạt-động và biểu-hiện .
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
64
Theo một quan-điểm khác, những bài-học
của Nghiệp đòi có một trường để học. Tái-sinh
đem lại cho cái trường ấy mà kỳ giảng khóa và
ngày nghỉ nối tiếp nhau cho đến bài học cuối
cùng .
CÁ-THỂ TÁI-SINH ._
Cái Tái-sinh không phải một linh-hồn
bất-tử mà là sản-phẩm vô kể của các đời trước,
một bộ thuộc-tính gọi là Tính-Cách, nó biến-
đổi từng lúc và thiếu yếu-tố bất-tử thật của
riêng nó. Mặt khác, mỗi một đơn-vị đời sống
trở lại là một cái tia phóng-xạ hay là một
phương-diện của Toàn-thể mà trải qua kinh-
nghiệm chậm-chạp của ức triệu điểm ý-thức
tập-thể đạt tới cái Tự-Tính ý-thức, hay là nói
theo danh-từ Tâm-linh-học, thấy Tự-Tính
( Bản-lai diện-mục ). Triết-học Bà-La-Môn
Hữu-Ngã Atman ( Pali Atta ) cái Tinh-thần
nhân-loại là phần bẩm-thụ của Tuyệt-đối. Ở
thời Đức Phật thì quan-niệm tâm-linh ấy bị
suy-đồi cũng ví như linh-hồn bất-tử của Cơ-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
Đốc-giáo. Chống với sự suy-đồi của một chân-
lý vững mạnh, Đức Phật dạy cho thuyết-lý Vô-
Ngã ( Anatta ) -- Linh-hồn không ( bất-tử ),
phá-hủy quan-niệm khẳng-định sai lầm bằng sự
nhấn mạnh vào mặt chủ-định. Đấy là ý-nghĩa
của ngụ-ngôn Vacchagotta. Du-Sinh hỏi Đức
Phật xem Ngài dạy gì về Tự-Tính ( Ngã )
nhưng Phật không trả lời. Sau khi Vacchagotta
thất-vọng bỏ đi. Cao đệ Annada hỏi tại sao
Ngài yên-lặng ? Đức Phật giải đáp : " Nếu Ta
bảo y rằng ‹ có Tự-Tính › thì có phải là cùng
với phái chủ-trương vĩnh-cửu. Nhưng này
Annanda nếu Ta trả lời rằng cái ‹ Tự-Tính
không có › thì sẽ cùng với phái chủ-trương
‹ linh-hồn tịch diệt › ". Rõ ràng đấy là chủ-
trương Tự-Tính vừa Có vừa Không ( Tuyệt Sắc
Không ) .
" Đáy nước in hoa một bóng hồng .
Vết nhơ chẳng bén Bụt làm lòng .
Chiều mai nở chiều hôm rụng .
Sự lạ cho hay tuyệt Sắc Không ."
_ ( Nguyễn-Trãi )
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
66
Cái gì Tái-sinh, ấy là con người vừa cũ
vừa mới. Linh-hồn thì bất-tử nhưng luôn luôn
biến-đổi. Coi như một cá-thể bất-tử thì không
có linh-hồn, cả đến coi như là một thần-linh
hữu-ngã nhân-cách-hóa thì không có Thượng-
Đế. Giải-thích của Phật-giáo ưa-chuộng là
luận-lý ngoại-tự của ngọn lửa truyền :
" Đời sống như ngọn lửa truyền
kiếp, trở nên mới là sự truyền đi của ngọn
lửa từ một đống củi này sang một đống
củi khác. Đúng như thế không hơn không
kém. Nếu ta thắp ngọn nến từ ngọn này
sang ngọn khác, ngọn lửa truyền đi vẫn là
một ngọn lửa giống nhau, theo nghĩa liên-
tục được thấy, nhưng cây nến thì khác .
" Hãy nhớ rằng mỗi ngọn nến tắt,
nhưng lửa tiếp-tục còn và ngọn lửa tuy là
ngọn lửa đặc-thù, nhưng bản-thể lửa là
Sáng thì vẫn chung cho tất cả ."
Cái năng-lực gần nhất hay năng-khí từ
chất-liệu quá-khứ tái-sinh ra một " hữu-thể "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
mới ấy là Tham-Ái ( Trishana ) Nhát sống,
tham sinh ( Tính-dục Libido ), Nghiệp là năng-
lực hướng-dẫn bên trong. Ba độc Tham, Sân,
Si, là lửa luôn luôn đòi nhiên-liệu. Sân-hận là
sức mạnh luôn luôn xô người ta đến kẻ thù cho
đến khi nào giác-ngộ rằng hận-thù không giải
được bởi hận-thù mà bởi tình-yêu. Tham-dục là
nguyên-nhân của đời sống luân-hồi sinh-tử,
nhưng sức mạnh nhất là huyễn-tưởng, ảo-hóa
của vô-minh, si-mê về chân-lý Vô-Ngã
( Anatta ). Vì tinh-thần nhân-loại tự biện-biệt
mình với vật hiện ra ở ngoài chính nó, không
thực-hiện được rằng đầu tiên nó đã tạo ra chính
những vật ấy bên trong tinh-thần nó, và một
trong những vật tự nó tạo ra là sự ly-khai giữa
Tự-Tính với Tự-Tính. Do đấy có cái chủ-
trương Phản Chính-thống lớn là Hữu-Ngã
( Attavada ) tin vào Tự-Tính biệt-lập .
Tóm lại, về vấn-đề trọng-đại này của bản-
tính vật tái-sinh thì có ba tính ở con người, hay
đúng hơn là tác-dụng của ý-thức ở ba bình-diện
chính : bình-diện thấp nhất là tinh-thần biện-
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
68
biệt : khả-năng nhìn, nghe, nếm, ngửi ; chạm
với sự hợp-hóa những tri-giác ấy, biện-biệt
chúng và quan-sát liên-hệ của chúng .
Ở bình-diện cao hơn là tinh-thần tri-thức
có khả-năng điều-chỉnh bên trong, cần-thiết để
điều-hòa những phản-ứng của tinh-thần biện-
biệt, và để liên-hệ chúng với nhau và với quan-
niệm Ngã toàn-thể .
Trên bình-diện tối-cao Tinh-thần ấy là
Tinh-thần đại-đồng, Ý-thức Vũ-trụ, Thiên Địa
Tâm .
Các bình-diện Ý-thức ấy phù-hợp với
" Thân-thể, Linh-hồn và Tâm-linh " của Thánh
Phao-Lồ ( St. Paul ). Và chính nó ở tại giữa,
bình-diện trung-tâm mà linh-hồn con người,
Bản-thể tiềm-năng bất-tử của Tinh-thần thuần-
túy, tái-sinh không ngừng cho đến khi tiềm-
năng đã trở nên hiện-thực và " giọt sương " đã
thành " Bể Sáng " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
THÂN-THỂ MỚI ._
Đời sống mới tùy theo những quả hay
một phần quả của kiếp trước. Bởi định-luật
hấp-dẫn của con người đầu-tư bị cuốn vào
dòng hấp-dẫn nó đến một hoàn-cảnh thích-hợp
nhất cho nhu-cầu tinh-thần của nó. Dù linh-hồn
mới có thích hay không hoàn-cảnh của nó, thì
không quan-trọng. Nó dọn nhà của nó và bấy
giờ phải ở tại đấy. Trong đời sống mới có thể
nó còn theo đuổi xa hơn con đường phát-triển
đã bắt đầu. Do đấy có những khuynh-hướng
vào một chiều và ý muốn theo đuổi chúng.
Hoặc là nó có thể tạo ra một hướng mới có thể
theo đường bổ-túc cho tiến-bộ. Hoặc nó có thể
bởi lý-do " thiện " hay " ác " của hành-vi quá-
khứ, tự tìm thấy hoàn-toàn mới và cơ-hội khác
cho sự tự biểu-thị .
Theo luận-điệu của " Ánh-Sáng Á-Châu "
_ ( Edwin Arnold ) :
"Kẻ nô-lệ lao-công tái-sinh một Hoàng-tử
Vì công quả từ thiện và xứng đáng đền bù
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
70
Một ông Vua trị-vì có thể trở nên tội-đồ
Vì việc thành-tựu hay không thành-tựu ."
Nhưng biến-chuyển ấy không tất-nhiên
mất đi vì cực xấu. Đức Cơ-Đốc nhắc lại cho
tín-đồ rằng : " Số phận của người giầu là một
số-phận khó-khăn về tâm-linh, vì của-cải có thể
trói buộc tinh-thần giác-ngộ, và kẻ nào bám
vào giầu có túi tiền, thì giầu có tinh-thần sẽ mất
đi, chỉ kẻ nào hy-sinh chính tính-mệnh mới tìm
thấy số-phận tâm-linh " .
Nên để ý rằng tinh-thần chọn lấy thân-thể
và không phải là con đẻ của thân-thể như duy-
vật Âu-Tây vẫn tin. Linh-hồn chọn lấy thân-thể
thích-hợp cho nhu-yếu của nó và bởi vậy nó
nhập vào gia-đình nào sẽ dành sẵn cho thân-thể
ấy. Nếu một luật-gia muốn theo đuổi thực-
nghiệm nữa là một luật-gia, có nhiều may mắn
sẽ nhập vào một gia-đình luật-gia. Nếu thế y sẽ
là một luật-gia không phải vì cha là một luật-
gia mà vì đã từng là luật-gia. Một bộ óc luật
trong một thân-thể mới sẽ làm cho chức-vụ dễ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
hơn. Những yếu-tố khác là nhịp-điệu nam, nữ,
âm, dương, nội-hướng và ngoại-hướng của
tinh-thần, và hàng ngàn tính-cách mô-thức bổ-
túc khác đương khi người ta có thể thay đổi
mẫu-mực của đời mình với năm tháng trôi qua
và đi đôi với loại kinh-nghiệm họ thu-hoạch.
Trong tất cả có sự sai khác vô cùng, không cả
đến yếu-tố tiến-bộ thì bền vững, vì một người
mù vì ảo-tưởng có thể chỉ trong một đời phá
mất công-trình tích-tụ trong nhiều kiếp trước,
và mỗi sự chinh-phục thì đau-đớn đối với con
đường xa-cách phải đi qua .
" Từng lớp sẽ lột đi -- nhưng phải
còn lớp lớp bên trong nữa ."
BIẾN-ĐỔI GIÁ-TRỊ ._
Những ai thừa-nhận và tái-nhận Định-luật
Nghiệp ( Law of Karma ) sẽ thấy rằng quan-
niệm mới thay-đổi hẳn quan-niệm đang thịnh-
hành. Ví-dụ cha mẹ được nhìn với con mắt
mới, bạn-bè có lẽ là bạn cũ, và thù-địch là kẻ-
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
72
thù cũ. Vị-trí và nhân-dân và cả đến vật đều
được nhớ lại. Thân-thể được coi như trở nên
dụng-cụ, như một con chó hay con ngựa, được
chăm-chút nhưng bị bắt theo rất kỷ-luật. Các
phần-bộ phức-tạp của một bản bi, hý kịch của
đời sống được nhìn như thật là gì, bao nhiêu
mặt-nạ được mang vì vai-trò, bấy giờ thì vai-
trò được kết-thúc đều bị lột bỏ. Mắt tinh-thần
bị thu hẹp và nhỡn giới lại xa rộng. Một mặt,
bấy giờ thì thời-gian hệ-trọng, bấy giờ khi một
động-tác nhỏ nhất xây-dựng những ngày chưa
sinh, ở đây mà hiệu-quả của mỗi động-tác phải
được tiêu-hóa, không phải trên thiên-đường
hay dưới địa-ngục về sau. Một mặt khác sự
chết không phải là cuộc phiêu-lưu. Thời-gian
vô-tận là của chúng ta để sử-dụng, và không-
gian hữu-dụng thì tương-đương với Vũ-trụ đại-
đồng. Và cuộc phấn-đấu thì đáng giá .
" Phải ! Ai rũ khỏi kìm kẹp xác-thịt,
Sống làm chúa, không nô-lệ cho dâm-
dục, giải-thoát.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
Khỏi kiêu-căng, đam-mê, tội-lỗi của
" Tự-Tính ".
Nắm được bình-an !... Sống ở đâu tùy ý,
Chết thì có thể, như thế vượt qua tất cả
phiền-muộn,
Để hưởng phúc với Thần-linh, đạt tới
Niết-bàn ."
Và Niết-bàn chỉ là tận-diệt Tự-Ngã, cái
Tự-Ngã với lòng kiêu-hãnh đáng thương,
không ý-thức rằng Bản-thể là Tinh-thần Thuần-
Nhất .
Tuy vậy, sớm hay chầy mỗi hóa-thân đều
đi đến chung-cục. Mặt-nạ bắt đầu biến đi và
diễn-giả mang kinh-nghiệm mới tiếp-nhận
được qua giác-quan và não-bộ tử diệt, khát-
vọng một thời-kỳ nghỉ-ngơi để tiêu-hóa những
bài-học của đời sống này. Và như thế thân-thể
chết đi thì không phải chết cho sự chết mà là
cho quá nhiều sự sống. Áp-lực của luồng điện
trong thời-gian làm cho bóng hư hỏng, và nó
phải đổi mới. Sự sống không bao giờ mỏi mệt
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
74
hay già nua, chỉ có hình-tướng trở nên già cũ.
Ở lúc thân-thể chết thì không phải dịp để đau
buồn là vì Tự-Ngã điên dại của chúng ta mà
chúng ta đau buồn .
Khi ngày làm việc hết, đêm đến mang lại
giấc ngủ tốt lành. Chết cũng thế, là kết-thúc
một ngày dài hơn, và theo sau là ban đêm để
mọi người tìm thấy nghỉ-ngơi, cho đến khi vì ý
muốn của chính mình, mình trở lại với phận-sự
mới và làm việc mới. Chính là thế đối với anh
em ta, chính như thế đối với tất cả chúng ta,
cho đến khi ảo-tưởng về một Tự-Tính riêng-
biệt cuối cùng được vượt qua, và trong cái chết
của Tự-Tính, Tự-Ngã cá-nhân, chúng ta đạt tới
Giác-Ngộ .
Khi thân-thể đã thiêu trong lửa, và như
thế càng mau lẹ quy về nguyên-tố thiên-nhiên
thì nó bị sớm quên đi. Chúng ta còn, và nhờ
định-luật không có gì phá được, sẽ tái-ngộ ở
kiếp sống sắp tới, sau khi chết .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
THUYẾT NGHIỆP KARMA VÀ
TÁI-SINH ỨNG-DỤNG ._
Người ta nói rằng một người tin một học-
thuyết khi nào y hành-động như là nó chân-
thật. Nay hãy giả-thiết một người hành-vi như
luật-pháp Karma là Định-luật tổng-quát và đời
sống đáng lẽ là ngắn-ngủi từ mấy phút đến
ngoài 70 năm mà là chuỗi vô-tận ngày đêm,
ngày làm đêm nghỉ, trong ấy mảnh tâm-thể
chậm-chạp học có một bài-học để tìm biết tự
nó là gì, Bản-lai Diện-mục, mình là gì, hãy giả-
thiết như thế một lúc để xem kết-quả vào tính-
cách ra sao .
" Tự-Tính thuần-nhất ; nó tồn-tại ; và
Nghiệp là pháp-luật của nó ;
Tinh-thần không từng sinh, tinh-thần sẽ
bất-diệt .
Không bao giờ nó không có. Chung thủy
là mộng !
Bất sinh, bất diệt và bất định, tinh-thần
còn mãi .
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
76
Sự chết không đụng-chạm vào nó chút
nào, tuy rằng chết có vẻ là nhà của nó ! "
Đấy là giải-đáp của Thế-Tôn-Ca ( Bhaga-
vad Gita ) cho những kẻ tin đời sống có thể
chết. Không có sự chết .
Nếu điều ấy là chân-thật thì hiệu-quả tức-
khắc và rất trọng-đại. Mỗi người học biết rằng
nó là và luôn luôn đã là chủ tương-lai của
mình. Người lãnh-đạo của linh-hồn. Y biết,
theo Pháp-Cú Kinh ( Dhammapada ) :
" Tự mình làm ác, tự mình chịu khổ,
tự mình thôi làm ác, tự mình thanh-khiết
mình. Tinh-khiết hay nhiễm-ố ở tự mình,
không ai có thể làm cho người ta tinh-
khiết. Nhưng y cũng biết rằng : ‹ Tự-Tính
là chúa của Tự-Tính cá-nhân ›, và bởi thế
nó phải tự chế-ngự như người lái ngựa
kiềm-chế ngựa chạy. Từ đấy nó làm chủ
nó cũng như định-mệnh của nó. Đối với y
không còn trôi-nổi như thuyền không lái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
nữa. Y biết rằng tất cả cái gì thuộc về Tự-
Tính cá-nhân biệt-lập đều là ác và tất cả
thì thuộc về Tự-Tính tối-cao, chân-tính
thì tương-đối là thiện. Y phải lựa chọn vì
‹ vòng tất nhiên › không phải một vòng
tròn mà là xoáy-ốc, con đường đi lên hay
đi xuống. Từ đấy người lữ-hành chọn lấy
hành-trình của mình và tuy vẫn luôn luôn
có người chỉ-đạo đáng tin, nó phải học
lấy một mình. Pháp-Cú Kinh nói :
“ Chính anh phải tự nỗ-lực. Chư Phật chỉ
vạch đường đi, Đạo ”. Và lại theo
“ Tiếng Nói của Yên-Lặng ” ( The Voice
of the Silence ) : “ Anh tự sửa-soạn đi vì
anh hành-trình một mình anh. Sư-phụ chỉ
có thể chỉ đường thôi. Con đường là con
đường chung cho tất cả. Phương-tiện để
đạt tới đích thay-đổi tùy theo người lữ-
hành ”. Vậy mà có một ý-nghĩa vui-vẻ về
cộng-đồng linh-hồn, cái Nhất-thể của tất
cả hình-thức sinh-tồn, đó là cuộc lữ-hành
của kẻ không nhà tuần-tự chậm-chạp về
nhà .
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
78
XÂY-DỰNG TÍNH-CÁCH ._
Lần đầu tiên có sự khuyến-khích để suy-
nghĩ xây-dựng tính-cách, một kế-hoạch có suy-
tư về tương-lai mà không kể thời-gian. " Gieo
một tư-tưởng và gặt một động-tác ; Gieo một
Động-tác, gặt một Thói-quen ; Gieo Thói-quen
gặt Tính-cách ; Gieo Tính-cách gặt Định-
mệnh." Anh chán mỏi về một thói cáu-kỉnh
chăng ? Hãy tìm ra nguyên-nhân của nó và sửa
đổi nguyên-nhân đi. Anh muốn có tinh-thần
tập-trung hơn nữa chăng ? Chẳng có gì cản
được nếu anh nhất-định muốn tự sửa và thi-
hành đến cùng . " Ngô nhật tam tỉnh ngô thân "
_ ( Luận-Ngữ ) .
Khi một người công-nhận và hiểu một
phần của Nghiệp, y có thể tức thì bắt đầu công-
việc xây-dựng tính-cách, cẩn thận đặt từng viên
đá, biết rằng mình đang xây-dựng cho Vĩnh-
cửu. Không còn chạy ngược chạy xuôi, làm
một chương-trình bữa nay, mai làm chương-
trình khác, bữa sau chẳng còn làm chi nữa.
Nhưng là sự phác-họa chín-chắn về nhân-cách
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
và rồi xây-dựng theo kế-hoạch, vì Linh-hồn trở
nên vừa là kiến-trúc-sư vừa là người thợ xây,
không còn phoa-phí thì-giờ vào những việc bắt
đầu vô-hiệu .
Tất cả điều ấy phải mất thời-gian, nhưng
là thời-gian kiên-nhẫn, vừa vì toàn-thể công
việc phải làm và vừa vì chờ đúng lúc đáng làm
cho mỗi động-tác. Một mặt thì " bình nước
chảy từng giọt " dù với điều thiện hay điều ác.
Mặt khác có thời-vận của sự việc " triều lên
xuống trong nhân-sự " mà tất cả đều phải học
hỏi và sử-dụng .
Hành-động và hành-động không khéo khi
thời-cơ tới, chờ và kiên-nhẫn chờ khi nào là
thời nghỉ-ngơi, hãy để người thích-ứng với
triều lên xuống của mực nước, ngõ hầu với
thiên-nhiên và định-luật bên trong cùng chân-lý
và từ-thiện như hiệu lửa báo của nó, nó có thể
thành-tựu những kỳ-tích .
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
80
Hãy ghi-nhận rằng hiệu lửa báo của nó
gồm có chân và thiện, hiểu-biết và từ-bi. Đức
Phật được biết là Một Toàn-Giác mà cũng là
Một Toàn-Bi. Không thể có tình-yêu chân-thật
thiếu hiểu-biết vì hiểu-biết nhân-bản toàn-diện
tạo ra từ-thiện và từ-thiện đến với một thị-hiện
Cái Ấy, Đấng Tồi-Cao. Mặt khác không thể có
hiểu-biết chân-chính thiếu tình-yêu. Tinh-thần
càng biết hơn nữa về đối-tượng quan-sát của
nó. Tình-yêu biết. Theo đấy thì đời sống là
thiêng-liêng và người anh em mình là chính
mình .
" Ai nhìn vào con người em mình
thì nhìn thấy chính mình. Ai đã nhìn thấy
Tự-Tính ở tất cả và tất cả ở Tự-Tính,
người ấy sẽ không hủy-hoại Tự-Tính vì
Tự-Tính ". Và để trở lại một lần nữa về
" Tiếng nói của im-lặng " ( The Voice of
the Silence ) :
" Con sẽ không phân-biệt hữu-thể
của con với Bản-thể Vũ-trụ và với gì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
khác, nhưng hãy lặn vào Biển-cả như giọt
nước, giọt nước rơi vào Biển-cả. Con sẽ
như thế, hòa hợp với tất cả chúng-sinh,
nuôi tình-yêu đối với người như anh em
đạo-hữu, đệ-tử của một Sư-phụ, con đẻ
của một từ-mẫu ."
Tóm lại, người nào áp-dụng Pháp vào đời
sống hàng ngày, sẽ thấy xa cách lãnh-đạm hay
là dẫn đến vô-tình. Phật-Pháp hay Định-Luật
Thái-Hòa và Chí-Công cũng lại là Định-Luật
của Tình-Yêu .
SỰ KẾT-THÚC CỦA NGHIỆP ( KARMA )
VÀ TÁI-SINH ._
Dù khi khoa-học cận-đại với Cơ-Đốc-
giáo cận-đại chống-đối nhau kịch-liệt, các nhà
khoa-học hàng đầu ngày nay đang tái khám-
phá những chân-lý của Hiền-triết xưa hơn bất
cứ tôn-giáo nào. Ngài James Jeans ở trong
" The Mysterious Universe " đã viết : " Vũ-trụ
có thể mô-tả đúng hơn... như là thuần tư-tưởng
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
82
hợp thành ". Và rằng : " Sự sáng-tạo của nó
phải đã là một động-tác của tư-tưởng ". Đấy là
thuần-túy triết-học Vệ-Đà và thuần-túy Phật-
học và nó là cơ-bản của Thần-học. Bản-thể của
Tâm như Lục-tổ Huệ-Năng mô-tả. Tinh-thần
Đại-đồng của triết-học cận-đại thì "thực thuần-
nhất " và mỗi tinh-thần nhân-loại của chúng ta
là một tiền-đồn của cái " Ý-thức vũ-trụ ".
Quan-hệ giữa hai đàng thế nào ? " Người là
Cái Ấy " theo Hiền-học Ấn. " Minh tâm kiến
tính Ngươi là Phật " tôn-giáo lớn nhất ở thế-
giới khẳng-định thế. Người là Giác mà không
biết. " Tôi và Cha tôi là Một ", Cơ-Đốc nói :
" Chúa nội-tại " của mọi người. Lục-tổ Huệ-
Năng nói : " Chỉ có khác nhau giữa người giác-
ngộ và không giác-ngộ mà thôi, người biết với
người không biết ". Nhưng giữa hai trạng-thái
ý-thức là Đạo, một con đường dài chạy từ khả
thành đến đa thành, một con đường Sinh-thành
từ lá cỏ nhỏ-mọn đến cõi Phật, tự mỗi chúng-
sinh đến tái-sinh thành cái gì là tiềm-năng của
nó, cái Toàn-thể Viên-mãn .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
Tiềm-năng chúng ta là một thể với Tuyệt-
đối .
" Nhưng đã rơi vào một vòng mê-
vọng, chúng ta thực-nghiệm một đời sống
cá-biệt nó không cáo-chung với cái chết.
Chúng ta còn lại trong mê-vọng cho đến
khi chúng ta đã tận-dụng nó, chừng nào
chúng ta đã học đủ kinh-nghiệm về hành-
vi của mình, và uốn-nắn chúng ngõ hầu
có được khả-năng trở về cái ý-thức đồng-
nhất. Bởi vì hành-động là một phuơng-
diện cho tri-thức, và tri-thức là phương-
diện giải-thoát. Như vậy thì Nghiệp Tái-
sinh giống như bộ máy mê-vọng và vượt
qua mê-vọng ."
_ ( Lofts Hare " Mysticism of East and
West " )
Nhưng nếu bản-tính nhân-loại bị quyết-
định bởi người dùng Đạo-pháp, thành-thử ở
một nghĩa thật nó là Nghiệp của nó, và nếu mỗi
động-tác và ý-nghĩ cộng thêm vào tổng-số
nhân-quả, nó sẽ kết-thúc như thế nào ? Theo
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
84
hiền-học thì giải-đáp cho vấn-đề ấy cũng như
cho đa số vấn-đề loại ấy, là một nghịch-lý rằng
không ai có thể biết chung-cục cho đến chừng
nào nó đạt đến chung-cục. Chỉ có ai đã giải hết
Nghiệp của mình mới hoàn-toàn hiểu Pháp
Vĩnh-cửu. Vậy thời chúng-sinh chưa giác-ngộ
phải xử-trí thế nào ? Hình như giải-đáp của Cơ-
Đốc-giáo là hành-động và đức tin. Phải có đức
tin vào Pháp Vĩnh-cửu mà sự thành-tựu chính-
đáng tất cả phận-sự sẽ cất đi một cách huyền-bí
cho người ta khỏi ảnh-hưởng vào Nghiệp, và
đức tin không phải như một nhà trào-phúng nói
là tin cái gì mà anh biết là không thật nhưng mà
là biết với trực-giác bán-thức-tỉnh cái chân-lý
của một định-luật mà tri-thức chưa có khả-năng
nắm được. Theo ý-nghĩa ấy chỉ có đức tin của
giá-trị coi như là một tin-tưởng nội-tâm rằng
ngón tay của người chỉ Đạo, chỏ có một con
đường. Con đường chính về mục-tiêu mong
muốn. Nhưng đức tin không có giá-trị trừ phi
nó được diễn ra hành-động. Chúng ta ở Tây-
phương đều là dân yêu hành-động, và cả trong
tinh-thấn Ấn nội-hướng nhất cũng có thiết-yếu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
tương-đương về tri-thức bên trong để biểu-hiện
ra hành-động bên ngoài, cả đến chính vũ-trụ tự-
thân " trở nên tự-thân " bằng sự biểu-hiện ra
ngoài .
Nhưng hành-động chính hay tà, phải hay
sai đều sản sinh hậu-quả mới. Vậy đâu là
chung-cục, nếu cả đến sự thành-tựu chính-đáng
tất cả phận-sự lại dẫn ta về mặt hái trái đã gieo,
còn là nạn-nhân của chính công-phu và nỗ-lực
của mình, vẫn còn trong vòng Bánh xe Sinh Tử
Tái-sinh, lệ-thuộc vào vòng của chính tất-yếu
của mình ? Giải đáp thì sinh đôi và tuy là một.
Bằng cách biến-hóa cái Tự-Ngã Tự-Tính cá-
nhân, nó là nguyên-nhân và là Nghiệp của nó,
và bằng cách hành-động và hoàn-toàn thản-
nhiên, hoàn-toàn vô-cầu hiệu-quả ngõ hầu mỗi
hành-động không còn phản-ứng, và bởi vậy
không cần có chủ-động để chịu-đựng hậu-quả
của hành-động tốt hay xấu .
Có hai đường tới đích, giảm bớt Tiểu-Ngã
Tự-Tính, thế-lực của nhân-cách, cho đến chừng
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
86
nào trở nên nô-lệ cho Đại-ngã Tự-Tính, và rồi
để giảm thiểu Tự-Tính, " Linh-hồn " hay tính-
cách cho tới chừng nào nó hết cả ý-chí hay dự-
định khác ngoài Đại-ngã Chân-tính, hay là
đường Vê-Đa hơn là Phật-Đà để tăng-gia
quyền-năng của Tự-Tính trong Tự-Tính, và rồi
trong Tự-Tính cá-nhân đến hết cả động-cơ
riêng-biệt và toàn-thể nhân-loại là Một. Trong
quan-hệ người ta nói rằng tất cả mọi người
phụng-sự một Tự-Tính, Tự-Ngã cá-nhân,
nhưng sự giác-ngộ của họ thì tùy theo kích-
thước của Tự-Tính chúng phụng-sự. Phải
chăng thuần dục-tính của kẻ vị-kỷ, tình-yêu
giác-ngộ hơn là tình của gia-đình, làng nước và
hạnh-phúc trực-tiếp chung hay là một tình-yêu
giác-ngộ sáng-lạn cho tất cả nhân-loại ? Tùy
theo đáp-ứng mà cá-nhân thành-đạt trên quá-
trình sinh-thành .
Vậy thì giải-đáp trước nhất cho vấn-đề
kết-thúc Nghiệp là Tự-Tính hay Ngã cá-nhân là
nguyên-nhân và phải chịu-đựng Nghiệp báo,
phải để cho chết đi. Khi nào ba Lửa Tham, Sân,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
Si tắt đi vì hết nhiên-liệu, thì nhân-cách mất ý-
chí độc-lập, trở nên phục-tòng linh hồn và cũng
như linh-hồn bỏ đời sống đi để nó học sống.
Bởi vì chỉ có nô-lệ là dục-tính, và ai học đường
đi để leo lên ngọn đồi gió cuốn của sự sinh-
thành, lột sạch tư-hữu và dục-tính, sẽ thở hít
khí núi tự-do, và tìm thấy bình-an, không tại sự
thỏa-mãn dục-tính mà là không còn có dục-tính
nữa .
Giải đáp thứ hai trước hết là sinh-đôi :
" Vô hệ-lụy, bền chí làm công việc là bổn-phận
vì làm tròn công việc không hệ-lụy thì người ta
thực sự đạt tới Tối-cao. Đấy là giáo-lý của
Kinh Thế-Tôn-Ca ( Bhagavad Gita ) mà nội-
dung là hành-động tự-do không hệ-lụy. Không
có hành-động trong ấy cái " Tôi " gắng cầu kết-
quả. Nhưng nếu hành-vi có vẻ thiện thì do bổn-
phận không hơn không kém, hãy thành-tựu
hành-vi ấy đi, không để ý đến hậu-quả .
Người nào mà hành-vi không khuôn theo
dục-vọng, hành-vi đã được lửa Đạo thiêu đốt,
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
88
người ấy đã được Hiền-nhân gọi là Bậc Hiền.
Một khi bỏ hết hệ-lụy vào kết-quả của hành-
động, luôn luôn vui lòng, không nhờ vào gì cả,
trong khi làm việc mà như không làm việc gì.
Giải-phóng khỏi dục-vọng, tư-tưởng do Tự-
Tính điều-khiển, từ bỏ hết hệ-lụy, chỉ có thân-
thể làm tròn hành-vi, người ấy không tội-lỗi.
Vui lòng với cái gì nhận được, thoát khỏi các
chống-đối, không thèm muốn, quân-bình giữa
thành-công và thất-bại, dù y có hành-động mà
không ràng buộc với hệ-lụy. Bởi vì tất cả hệ-
lụy tiêu-diệt hoà-điệu, tư-tưởng của y đặt trong
đạo-lý, hành-động của y là cúng hiến, tất cả
hành-vi của y tan biến đi như mây khói .
Vậy thì bí-quyết là động-cơ. Hành-động
tiếp-tục vì chỉ có hành-động chân-chính thì
Đạo-pháp Vĩnh-cửu mới được dùng cho chính
cứu-cánh của nó. Nhưng động-cơ cho mỗi
động-tác phải tăng-tiến vô-tư cho đến chừng
nào tất cả điều chúng ta có được một lần nghĩ
về Ta, cái Ta rực-rỡ được nhìn thấy bị ô-nhiễm
và tẩy sạch được nó đi. Sau đấy có một việc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
làm của hành-vi phải được làm. Phải nên để ý
rằng hành-động như thế đã trở nên " Chính "
theo nghĩa tối-cao, bởi nó trở nên việc phải
được thành-tựu. Chừng nào ý-nghĩ Tự-Ngã còn
thì một hành-vi tốt buộc người chủ-động cũng
như hành-vi xấu. Nếu tôi bao-dung với ý-nghĩ
là tôi bao-dung biết bao, kết-quả sẽ tốt lành mà
tôi phải trở lại thu-nhận lấy. Chỉ khi nào mỗi
động-tác là một động-tác vui-vẻ, thành-tựu
không hệ-lụy của " hành-động chính-nghĩa " thì
chủ-động mới được giải-thoát. Cũng như nói
trong " Light of the Path " (Ánh-Sáng Soi Vào
Đường ) : " Dục-cầu gieo hạt không phải để
thu-hoạch ; chỉ muốn gieo cái hạt ấy mà trái
của nó là để cho thế-giới ăn ". Nói cách khác :
" Này thực đấy, hỡi đạo-hữu, không bao giờ hết
đau khổ của chúng-sinh, chúng-sinh vùi trong
mù-quáng, tham-vọng tư-hữu, bị dẫn đến hoài-
vọng sinh tử bất đoạn ". _ ( Samyutta Nikya )
Phật-học Đại-thừa Bắc-phái đã phát-triển
một học-thuyết Bồ-tát hữu-tình, ai đã giác-ngộ
tiếp-tục hành-động vì nhân-loại, sẽ bảo-vệ y
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
90
chừng nào Pháp cho phép khỏi lạc đường,
hướng-dẫn y với ngón tay chỉ Đạo. Các vĩ-nhân
của tất cả tôn-giáo được biết với danh-hiệu A-
La-Hán ( Arhats ), Bồ-tát ( Bodhisattvas ),
Tiên-tri ( Rishis ), Thánh ( Mahatmas ), Sư-phụ
( Gurus ), Thánh-nhân và Đạo Thày ( Saints
Frères ) hợp thành tập-đoàn, truyền Giáo như
một bức-tường bao-quanh nhân-loại. Trông
nom sự tiến-bộ của chúng-sinh với con mắt lo-
âu. Vì rằng dù mỗi người phải đạt tới đích cuộc
hành-trình của chính mình và đến được sự giải-
thoát riêng, đồng thời y không được can-thiệp
vào Nghiệp của người khác hay là trợ giúp nếu
có khả-năng. Kể từ đầu đến cuối cuộc hành-
trình người ta phải đi một mình, nhưng nó được
bảo-vệ, hướng-dẫn và với một cách nào để
được che-chở khỏi lầm lạc, và đấy là mục-tiêu
của hạng cao-thượng nhất của nhân-loại để phụ
thêm vào Bệ-thành. Khi nào khách lữ-hành mệt
mỏi nhưng thành-công gần tới đích của hành-
trình, và cửa Giác-Ngộ để đón y vào nhận
thưởng tương-xứng. Lòng Từ bèn cất tiếng nói:
" Có thể nào hưởng lạc trong khi tất cả thế-giới
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
đau khổ ? Người được cứu-độ để thế-gian
khóc sao ? " _ ( Voice of the Silence ). Và y,
sau ngàn kiếp hùng-dũng nỗ-lực đã thành-tựu
sự tự-chủ của mình, từ bỏ tất cả công-phu thu-
hoạch, từ bỏ phần thưởng của nỗ-lực mình và
trở về với lòng Đại-Xả làm mẫu giải-thoát tất
cả nhân-loại chúng-sinh. Nhưng đấy cũng là
Pháp vì Pháp là Công-lý và Pháp cũng là Tình-
yêu .
Có người cầu tìm Tự-Tính bằng Học-
thức, có kẻ cầu tìm bằng Sùng-bái Lý-tưởng
của Tình-yêu, có kẻ bằng con đường Hành-
động. Có con đường Tâm-linh Thần-bí của
khoa-học về năng-lực tinh-thần điều-khiển
nhân-loại. Có Thần-bí-học của sự thị-hiện mục-
tiêu, cho tất cả cái gì khác là vô-ý-nghĩa. Có
con đường Thiền, gạt tất cả chướng-ngại và cấp
bậc không tiệm tiến, dịu-dàng chậm-chạp mà là
đốn-ngộ đi thẳng lên ngọn núi. Tất cả đường
lối ấy đều ở trong Đạo, vì các " đường dẫn đến
thì có nhiều như loài người ", và mỗi người,
trước khi đặt chân vào đạo, thực ra phải thành
NGHIỆP-BÁO & TÁI-SINH
92
Đạo, vì sự Sống, sự Thật và Đạo là Một. Cả
đến Nghiệp sử-dụng và được tất cả sử-dụng
một cách công-bằng. Nghiệp ( Karma ) là
Chân-lý và đường dẫn tới Chân-lý. Karma là
Công-lý và bởi vậy sử-dụng ảo-huyền của thời-
gian. Nhưng Karma Nghiệp cũng là Yêu-
thương, vì " Yêu-thương là làm đầy đủ, hoàn-
bị của Pháp " .
%%%%%%%%%%%%%
%%%%
%