i b - sacombank.com.vn tin kinh te... · trương hạn chế đô la hóa của chính phủ và...
TRANSCRIPT
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 21/11)
VN - Index 922,56 0,39%
HNX - Index 103,90 0,01%
D.JONES CK Mỹ 24.464,69 0,00%
STOXX CK C.Âu 3.153,91 1,21%
CSI 300 CK TQ 3.226,49 0,25%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 22/11)
SJC Ng.đ/L 36.590 - 0,00%
Quốc tế USD/Oz 1225.80 0,56%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.733 0,01%
EUR/USD 1,1388 0,16%
Dầu
WTI USD/th 54,66 2,00%
6
NHNN vừa công bố dự thảo thông tư quy
định cho vay bằng ngoại tệ của các tổ chức
tín dụng, trước thềm cơ chế hiện hành sẽ kết
thúc vào 31/12/2018. Dự thảo đưa ra nhằm
tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế
trong việc giảm chi phí vay vốn, từ đó hỗ trợ
tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại
quốc tế. NHNN tiếp tục nhấn mạnh định
hướng lâu dài, chuyển dần quan hệ vay - gửi
ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ,
giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín
dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để
chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục
tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
Tin nổi bật
Chuẩn bị nắn lại có lộ trình tín dụng ngoại tệ
Việt Nam vay qua kênh trái phiếu gần 53 tỷ
USD, xấp xỉ 23% GDP
NHNN bơm ròng hơn 107.000 tỷ đồng vào
thị trường kể từ đầu tháng 10
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước: Cần
vượt qua tư duy cũ
Kinh tế Internet: VN phát triển vượt bậc
OECD: Kinh tế toàn cầu năm 2019 sẽ chỉ
tăng 3,5%
Thứ Năm, ngày 22/11/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Chuẩn bị nắn lại có lộ trình tín
dụng ngoại tệ
NHNN vừa công bố dự thảo thông tư quy định cho vay bằng ngoại tệ
của các TCTD, trước thềm cơ chế hiện hành sẽ kết thúc vào
31/12/2018. Cụ thể, dự thảo này đưa ra những điểm mới dự kiến sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN ngày
08/12/2015 của Thống đốc NHNN quy định cho vay bằng ngoại tệ. Khi
cơ chế hiện hành sẽ kết thúc vào cuối năm nay, nhưng hoạt động cho
vay các loại sẽ được gối đầu, từng bước kết thúc một số loại theo lộ
trình để các thành viên chủ động thực hiện. Theo dự thảo, NHNN dự
kiến tách nội dung quy định cơ chế cho vay đối với các loại nhu cầu tín
dụng khác nhau, ứng với thời hạn kết thúc khác nhau trong năm 2019.
(i) Cho vay ngắn hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền NK hàng hóa,
DV để phục vụ trong nước được thực hiện đến hết ngày 31/03/2019. (ii)
Cho vay trung, dài hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền NK hàng hóa,
DV được thực hiện đến hết ngày 30/09/2019. (iii) Cho vay ngắn hạn để
thanh toán ra nước ngoài tiền NK hàng hóa, DV nhằm thực hiện
phương án SX, KD hàng hóa XK được thực hiện không giới hạn về thời
gian. Theo NHNN, quy định trên nhằm thực hiện lộ trình kiểm soát cho
vay ngoại tệ theo hướng thu hẹp các nhu cầu vay vốn. Tín dụng ngắn
hạn ngoại tệ liên tục tăng qua các tháng chủ yếu do tỷ giá ổn định dẫn
đến việc vay ngoại tệ ngắn hạn có lợi. Vì vậy, nhà điều hành cho rằng
tín dụng ngắn hạn ngoại tệ cần phải được kiểm soát chặt chẽ theo
hướng thu hẹp dần, nhất là trong bối cảnh tỷ giá và thị trường ngoại tệ
được NHNN điều hành tương đối ổn định. Dự thảo cũng đưa ra nhằm
tiếp tục hỗ trợ DN và nền KT trong việc giảm chi phí vay vốn, từ đó hỗ
trợ tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại quốc tế, trong bối cảnh
bị tác động bất lợi từ xu hướng bảo hộ thương mại toàn cầu tăng cao
(đặc biệt là tác động từ xung đột thương mại Mỹ - Trung). Bên cạnh đó,
chính sách cho vay đối với nhu cầu này hoàn toàn không trái với chủ
trương hạn chế đô la hóa của Chính phủ và NHNN do cấu trúc và cách
thức cho vay đối với nhu cầu này không tạo ra bất kỳ hiện tượng đô la
hóa nào đối với nền KT (ngoại tệ không được đưa vào lưu thông mà quay trở
lại ngay hệ thống NH).
Tài chính – Ngân hàng
3
Ngoài ra, dự thảo cũng nêu hướng quy định chi tiết hơn một số điểm
thực hiện trên thực tế, theo hướng giám sát chặt nguồn ngoại tệ vay và
trả, để quản lý và hạn chế "yếu tố ảo" cung - cầu liên quan đến tỷ giá,
cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho DN giao dịch mua - bán ngoại tệ…
NHNN tiếp tục nhấn mạnh định hướng lâu dài, chuyển dần quan hệ vay
- gửi ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ, giảm dần tỷ lệ tín dụng
ngoại tệ/tổng tín dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất
đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền KT.
Việt Nam vay qua kênh trái phiếu
gần 53 tỷ USD, xấp xỉ 23% GDP
Theo báo cáo Giám sát Trái phiếu Châu Á (Asia Bond Monitor), ADB
nhận định các rủi ro ngắn hạn tiếp tục sẽ phủ bóng đen lên thị trường
trái phiếu bằng đồng nội tệ của các quốc gia Đông Á. Tuy nhiên ADB
cũng cho rằng các quốc gia này có thể vượt qua các thử thách nếu các
nhà hoạch định chính sách tiếp tục cảnh giác và thận trọng. Báo cáo
của ADB cho thấy quy mô trái phiếu của các thị trường mới nổi KV
Đông Á trong Q.III 4,3% so với Q.II và đạt giá trị 12,8 tỷ USD vào cuối
tháng 9. Trong Q.II, KV này chỉ 3,2%. Sự tăng trưởng trong Q.III chủ
yếu đến từ khối lượng phát hành lớn của TQ, đặc biệt là chính quyền
địa phương để lấy nguồn vốn đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng. Tính đến
cuối tháng 9 vừa qua, TQ có thị trường trái phiếu lớn nhất Đông Á với
quy mô lưu hành 9.200 tỷ USD, #72% toàn KV. Tại VN, quy mô thị
trường trái phiếu cuối Q.III 5% so với Q.II và 15,7% so với cùng kỳ
2017. Trong đó, thị trường TPCP 5,2% so với quý trước và 14,7%
so với cùng kỳ, đóng góp chính cho tăng trưởng của thị trường chung.
Thị trường TPDN cuối Q.III 2,9% so với quý trước và 31,6% so với
cùng kỳ. Khác với đa số thị trường mới nổi khác tại Đông Á, lợi suất trái
phiếu của VN trong Q.III có xu hướng đi xuống cùng với đà giảm của LS
LNH và thanh khoản được cải thiện của các NH. NHNN VN được kì
vọng sẽ giữ ổn định LS trong những tháng cuối năm để hỗ trợ tăng
trưởng KT và sử dụng các công cụ khác để kiểm soát lạm phát. So với
quy mô nền KT, thị trường trái phiếu VN thời điểm 30/9 #23% GDP,
trong đó TPCP chiếm 21,5% GDP và TPDN 1,5%. Các trái phiếu kì hạn
dài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong danh mục TPCP VN. Năm 2013,
Chính phủ còn chưa phát hành trái phiếu kỳ hạn >10 năm thì đến tháng
3/2018, trái phiếu có kì hạn từ 10 năm trở lên đã chiếm >27% tổng giá
trị lưu hành. Lợi suất TPCP những năm gần đây ổn định ở mức thấp
hơn nhiều so với giai đoạn bất ổn 2008-2012. Chênh lệch LS giữa trái
4
phiếu bằng VND kì hạn 10 năm và 2 năm tính đến ngày 18/11 đang
dương ở mức thấp 80 điểm cơ bản. Thời kì lạm phát cao và vĩ mô bất ổn
năm 2008, chênh lệch LS này âm tới gần 600 điểm cơ bản (6%) cho
thấy đường cong lợi suất bị đảo ngược.
Nợ xấu ngân hàng: Đại hạ giá
vẫn khó bán, nguy cơ nợ phình to
Đến thời điểm này, hầu hết các NH đã công bố công khai báo cáo tài
chính Q.III/2018, trong đó 16 NH có nợ xấu gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu
0,4%-1,3%, tùy NH. Nếu tính cả lượng nợ xấu vẫn “nằm” tại VAMC,
nợ xấu nội bảng của các NHTM #145.000 tỷ đồng. Trước tình hình như
vậy, VAMC cùng nhiều NH đang ráo riết bắt tay xử lý nợ, thanh lý
TSBĐ, trong đó nhiều khoản nợ lớn được hạ giá hàng trăm tỷ đồng.
Thực tế này cho thấy, tiến trình xử lý nợ xấu đang gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc. Theo TS. Lê Đăng Doanh, với khối lượng nợ xấu lớn, giảm
được như hiện nay đã là bước tiến rất đáng kể. Tuy vậy, để giảm tiếp
nữa thì đây lại là “cục xương khó nhằn” bởi nó liên quan đến các dự án
của DNNN, nếu không có nguồn vốn nào khác hỗ trợ thì các DNNN vốn
dĩ đã khó khăn rồi thì rất khó để có thể tiếp tục xử lý được. Do đó, ông
Doanh cho rằng, vấn đề xử lý nợ xấu hiện nay không hề dễ dàng. Muốn
giải quyết thì phải có quỹ, nguồn vốn để hỗ trợ việc này. Theo chuyên
gia TC-NH Nguyễn Trí Hiếu, vấn đề xử lý nợ xấu đang khó khăn, vướng
ở nhiều điểm. Đó là, Nghị quyết 42 của Quốc hội ra đời để hỗ trợ xử lý
nợ xấu, thế nhưng đó chỉ là đưa ra cơ chế, thực tế việc xử lý nợ xấu
không chỉ dựa vào cơ chế mà thành phần xử lý nợ xấu bao gồm: NH,
con nợ và các bên liên quan như, tòa án, chính quyền địa phương, cơ
quan an ninh… tùy thuộc vào sự tương tác của những đối tác đó trong
việc bắt tay xử lý nợ xấu. TS. Hiếu băn khoăn, phần lớn nợ xấu có
TSBĐ bằng BĐS. Trong khi việc xử lý loại tài sản này ở VN phải qua rất
nhiều công đoạn phức tạp. Hiện, nhiều NH cố gắng xử lý nợ xấu nhưng
thời gian quá ngắn để có thể xử lý một cách hiệu quả. Chỉ còn 1 tháng
nữa năm 2018 sẽ kết thúc, nhiều NH dùng những biện pháp kỹ thuật xử
lý chỉ để “làm đẹp” con số trong sổ sách, về thực chất không giải quyết
được vấn đề. Do vậy, tình hình xử lý nợ xấu hiện nay không khả quan.
NHNN bơm ròng hơn 107.000 tỷ
đồng vào thị trường kể từ đầu
tháng 10
Theo số liệu của CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), trong tuần từ
12/11 - 16/11, NHNN đã bơm mới 58.066 tỷ đồng qua kênh OMO, trong
khi đó lượng vốn đáo hạn qua kênh này đạt 52.658 tỷ đồng. Trên kênh
tín phiếu, NHNN không có hoạt động phát hành tín phiếu mới trong khi
5
lượng vốn đáo hạn qua kênh này là 0 đồng. Tổng hợp hai kênh OMO và
tín phiếu, NHNN bơm ròng tổng cộng 5.408 tỷ đồng vào thị trường.
Cũng theo số liệu báo cáo thị trường hàng tuần của BVSC, lũy kế từ
đầu tháng 10 tới nay, NHNN đã bơm ròng >107.230 tỷ đồng. Trong đó,
nhà điều hành đã bơm ròng trong 6 tuần và chỉ hút ròng 1 tuần duy
nhất. Bất chấp hoạt động bơm ròng của NHNN, trên thị trường LNH, LS
trung bình tuần qua tiếp tục xu hướng tăng đối với các loại kỳ hạn qua
đêm, 1 tuần và 2 tuần. Cụ thể LS trung bình các loại kỳ hạn trên biên độ
0,034 - 0,08 điểm %. Riêng LS trung bình kỳ hạn qua đêm 0,06
điểm % đạt 4,86%/năm. LS trung bình kỳ hạn 1 tuần 0,08 điểm % đạt
4,896%/năm. LS trung bình kỳ hạn 2 tuần 0,034 điểm %, đạt
4,87%/năm. Xu hướng tăng của LS LNH đi kèm động thái bơm ròng của
NHNN tuần qua cho thấy thanh khoản toàn hệ thống vẫn tiếp tục ở
trong trạng thái eo hẹp. Trên thị trường ngoại tệ, tuần qua, tỷ giá giao
dịch trung bình tại các NHTM có xu hướng giảm nhẹ (9,4 đồng) so với
tuần trước đó, về 23.298,4 VND/USD. Trong khi đó, tỷ giá trung tâm có
bước 0,4 đồng, về 22.724,2 VND/USD. Trên thị trường TG, chỉ số
USD Index có diễn biến tăng mạnh (1,101%) so với các đồng tiền chủ
chốt khác (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF), đạt mức 97,28 điểm.
6
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước: Cần vượt qua tư duy cũ
Đánh giá về kết quả cổ phần hoá, thoái vốn thời gian qua, Phó Thủ
tướng Vương Đình Huệ cho biết có nhiều kết quả tích cực khi giá trị
thực hiện giai đoạn 2016-2018 gấp 2,5 lần thực hiện từ 2011-2015, hiệu
quả hoạt động của DNNN tiếp tục tăng lên, tổng tài sản 3%, vốn chủ
sở hữu 4%, LNTT 4%, nộp NSNN 219.469 tỷ đồng, 5% so với
2016... Trong 8th/2018, doanh thu, lợi nhuận của các DNNN đều đạt
>70% kế hoạch cả năm. 106 DNNN sau cổ phần hoá đã niêm yết. Tuy
nhiên, DNNN vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức
cần tập trung xử lý, giải quyết sớm. Đó là những bất cập trong cơ chế,
chính sách định giá quyền sử dụng đất trong xác định giá trị DN; lựa
chọn NĐT; hiệu quả SXKD; năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội
nhập và Cách mạng công nghiệp 4.0; tình trạng thất thoát, tham nhũng;
công tác cán bộ… Phó Thủ tướng đặt vấn đề cần đánh giá thực chất
kết quả cơ cấu lại DNNN khi Nhà nước vẫn còn nắm giữ #90% vốn điều
lệ tại gần 600 DNNN. Hiệu quả SXKD của DNNN còn thấp so với nguồn
lực đang nắm giữ. Mặc dù chủ trương, chính sách đã rõ, song Phó Thủ
tướng nhấn mạnh khâu thực hiện còn rất yếu, do trực tiếp liên quan đến
lãnh đạo DN và các bộ, ngành, địa phương. Thực tế cho thấy, cùng một
chủ trương, cơ chế, chính sách nhưng có nơi thực hiện tốt, có nơi chậm
trễ, làm mãi không xong, đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài. “Chúng ta phải
quyết tâm vượt qua tư duy cũ, quyết tâm nói không với tham nhũng,
lãng phí, lợi ích nhóm; đây cũng là một nguyên nhân chính cản trở quá
trình cơ cấu lại DNNN”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Kinh tế Internet: Việt Nam phát
triển vượt bậc
VN hiện có nền KT Internet phát triển nhất tính trên giá trị hàng hóa
mua bán trong 2018, #4% GDP quốc gia, theo một nghiên cứu mà 2
công ty Google và Temasek công bố ngày 19/11. Singapore đứng thứ 2
với 3,2% GDP. Tuy nhiên, Indonesia là nước có tốc độ phát triển nhanh
nhất và dự kiến đạt 100 tỷ USD vào 2025. Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapore, Thái Lan và VN là đối tượng chính của nghiên
cứu này. Theo đó, nền KT Internet tại Đông Nam Á dự kiến vượt 240 tỷ
USD và tạo 1,7 triệu việc làm toàn thời gian vào 2025, gấp 3 lần so với
Kinh tế Việt Nam
7
2018. Đông Nam Á cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào KT Internet, với
tổng nguồn vốn đã 24 tỷ USD trong 3 năm qua và ước tính thu hút
40-50 tỷ USD đầu tư vào 2025 để phát triển ngành KT tiềm năng này.
Thời gian qua, dòng đầu tư chủ yếu rót vào các DV gọi xe hay thương
mại điện tử, #20 tỷ USD. Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển
nhanh nhất của KT Internet với tốc độ 100%/năm, >120 triệu người
mua và dự kiến đạt 100 tỷ USD trong vài năm tới. Trong khi đó, lĩnh vực
gọi xe, bao gồm vận chuyển và giao hàng, sẽ đạt 7,7 tỷ USD vào cuối
2018 và 5 lần vào 2025. Ngoài ra, các công ty khởi nghiệp tại KV
cũng bắt đầu nhận được nhiều đầu tư hơn trong các giai đoạn ban đầu.
KV đã chứng kiến sự phát triển kinh ngạc của những công ty khởi
nghiệp như Grab, Go-Jek, Lazada. Đầu tư cũng rót vào các mảng khác
của KT Internet như kỹ thuật tài chính, giáo dục, chăm sóc y tế…
Chờ sóng đầu tư từ Ấn Độ
Tại Diễn đàn DN VN - Ấn Độ, Tổng thống Ấn Độ Ram Nath Kovind cho
biết, quốc gia này đang tập trung vào cải cách nền KT, cải cách mô
hình tăng trưởng để có thể khai thác hết tiềm năng của người dân. Ông
nhấn mạnh, đây chính là điểm tương đồng với tiến trình phát triển của
VN. DN hai nước đang đứng trước nhiều cơ hội lớn để hợp tác, đặc biệt
trong các lĩnh vực mới như công nghệ thông tin, KT số, năng lượng tái
tạo, y tế, hàng không dân dụng... Bên cạnh đó là các lĩnh vực mang
tính truyền thống như nông nghiệp, du lịch, dược phẩm… Cùng với đó,
Tổng thống khuyến nghị hai nước cần tạo môi trường thuận lợi để
khuyến khích sáng tạo, khởi nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng khẳng định, Ấn
Độ hiện là 1 trong 10 đối tác thương mại lớn nhất của VN. Trong vòng 8
năm qua, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa VN và Ấn Độ đã 4 lần.
Đây là bước tăng trưởng mạnh mẽ, tạo đà để 2 quốc gia hợp tác hiệu
quả hơn trong thời gian tới. Theo số liệu của VN, năm 2017, kim ngạch
thương mại hai chiều ước đạt 7,63 tỷ USD. Tính đến tháng 9/2018, kim
ngạch thương mại hai chiều đạt 8,3 tỷ USD (47,1% so với cùng kỳ). Hai
nước đang hướng tới mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương
đạt 15 tỷ USD thời gian tới. “Nhằm sớm đưa VN trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại hóa, chúng tôi đặt mục tiêu duy trì tốc độ
tăng trưởng GDP BQ 6,5 - 7%/năm tính đến 2020, quy mô GDP đạt
320 - 350 tỷ USD, GDP BQ/người đạt khoảng 3.200-3.500 USD, quy
mô thương mại đạt 600 tỷ USD”, Phó Thủ tướng cho biết.
8
OECD: Kinh tế toàn cầu năm
2019 sẽ chỉ tăng 3,5%
Theo báo cáo triển vọng KT mới nhất của OECD: (i) Toàn cầu - Tốc độ
tăng trưởng 2019 dự kiến 3,5%, 0,2% sv mức dự báo 3,7% trước
đó. Tăng trưởng KT 2018 ở mức 3,7% nhưng 2020 sẽ giảm về 3,5%; (ii)
TQ - Tốc độ tăng trưởng KT trong 2018, 2019 và 2020 giảm nhẹ lần
lượt xuống còn 6,6%, 6,3%, 6% do XK và đầu tư vào CSHT giảm; (iii)
Nhật - Tăng trưởng KT trong 2018 sẽ giảm từ mức 1,2% xuống 0,9% và
2019 từ mức 1,2% xuống còn 1% trong bối cảnh kế hoạch tăng thuế
tiêu dùng từ tháng 10/2019 có khả năng tác động mạnh đến nhu cầu
tiêu dùng, KT 2020 sẽ 0,7%; (iv) Mỹ - Tăng trưởng trong 2018, 2019
và 2020 giữ nguyên sv dự báo trước, lần lượt ở mức 2,9%, 2,7% và
2,1% khi chính sách cải cách thuế mới đây hỗ trợ tốt cho đầu tư của
DN; (v) Eurozone - Dự kiến 1,9% trong 2018, 1,8% trong 2019 và
1,6% vào 2020, giảm nhẹ sv các dự báo trước đó… Một số thách thức
đối với tăng trưởng KT toàn cầu do căng thẳng thương mại và bất ổn
chính trị gây ra. Căng thẳng thương mại đã kéo đà tăng trưởng GDP
toàn cầu 0,1-0,2 điểm % trong 2018. Nếu Mỹ tăng thuế bổ sung lên
mức 25% đối với tất cả các mặt hàng NK từ TQ như Tổng thống Trump
đe dọa, mức tăng trưởng KT thế giới sẽ giảm xuống #3% vào 2020.
Ngành ngân hàng Mỹ ghi nhận
kết quả tài chính khả quan
Ngành NH Mỹ đã ghi nhận kết quả tài chính khả quan trong Q.III. Cụ
thể, các NHTM và các tổ chức tiết kiệm đạt tổng thu nhập ròng 62 tỷ
USD, cao hơn 29,3% sv cùng kỳ 2017. Có hơn 70% trong số 5.477 tổ
chức tăng trưởng trong báo cáo LN hàng quý. Doanh thu hoạt động
tăng và thuế thấp là nguyên nhân giúp cải thiện thu nhập ròng của
ngành NH. Sv cùng kỳ 2017, tỷ lệ các NH làm ăn không có lãi cũng
giảm từ 4% xuống mức 3,5%; cán cân cho vay tăng, tỷ lệ thu nhập lãi
ròng (NIM) được cải thiện và số lượng “NH có vấn đề” tiếp tục giảm. Có
5.044 NH phục vụ cộng đồng có thu nhập ròng đạt 6,8 tỷ USD,
21,6%. Tuy nhiên, LS thấp trong thời gian dài và sự cạnh tranh trong
việc thu hút khách hàng vay vốn có thể dẫn đến rủi ro LS và rủi ro tín
dụng. Các NH cần phải duy trì sự quản lý thận trọng đối với những rủi
ro này để giữ vững hoạt động cho vay trong suốt chu kỳ KT.
Kinh tế Quốc tế
9
Goldman Sachs: Tăng trưởng 2
con số sẽ trở lại với các thị
trường mới nổi trong 2019
Theo Goldman Sachs, việc rơi vào thị trường gấu trong 2018 khiến
nhiều người tỏ ra lo ngại cho tương lai các thị trường mới nổi. Tuy nhiên,
nền KT Mỹ có thể tiếp tục tăng trưởng tới 2020 và TQ đang nỗ lực kiểm
soát việc giảm tốc KT bằng các biện pháp kích thích có thể giúp CK ở
các nền KT mới nổi tăng trưởng tới 12%. "LN có thể tốt hơn trong 6th tới
sv 6th tiếp theo, đặc biệt là khi những lo ngại về sự suy thoái của nền
KT Mỹ tăng lên vào thời gian đó", Cổ phiếu tại các thị trường mới nổi sẽ
có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất, đặc biệt là sau đợt giảm nghiêm trọng
của CK TQ. Tiền tệ tại các quốc gia đang phát triển cũng có thể tăng
trung bình 2% giá trị trong bối cảnh USD yếu hơn. Lợi tức trái phiếu địa
phương cũng trở lại mức 10% trong khi TPCP là 5,5%... Cái nhìn của
Goldman Sachs hoàn toàn trái ngược sv các dự báo cho thấy 2019 sẽ
là năm khó khăn với thị trường tài chính toàn cầu. Những ảnh hưởng từ
chiến tranh thương mại giữa Mỹ và TQ sẽ chỉ được cảm nhận vào 2019
dù Tổng thống Trump đã đánh thuế hàng hóa NK của TQ từ giữa 2018.
Những tín hiệu tích cực đằng sau
tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm
chạp của Trung Quốc
Nỗ lực của TQ trong việc kiềm chế những hoạt động cho vay mang
nhiều rủi ro, cải tổ ngành công nghiệp, hạn chế tăng giá nhà là những
mục tiêu được giữ vững ngay cả khi tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt
mức chậm nhất trong #30 năm cùng mối đe doạ từ chiến thương mại
với Mỹ… Thay vì tiếp cận với cách chi tiêu đầu tư đã cũ và CSTT đầy
hỗn loạn của 2009 hoặc 2015, TQ đang làm dịu sự căng thẳng của nền
KT với mục tiêu cắt giảm thuế, đưa ra những ưu đãi đầu tư và nỗ lực để
có thêm tín dụng cho DNTN có hoạt động hiệu quả. Theo các chuyên
gia KT: "Các nhà lãnh đạo TQ đã đạt được những thành công ấn tượng
trong việc tái cấu trúc một bộ phận có tính đầu cơ nhất của hệ thống tài
chính của nước này. Nhiều nhà phân tích lại không nhận ra những
thành tựu đáng kể này". TQ đã lớn mạnh hơn rất nhiều sv trước đây nên
mức tăng trưởng 6% có thể sẽ tạo ra nhu cầu toàn cầu tương đương với
thành tựu 02 con số trước đây. Một phần trong chính sách đó là kiềm
chế tình trạng vượt quá giới hạn là tăng trưởng năng suất (tăng từ mức
BQ #1,9%/năm trong 2014-2016 lên đến 2,4% trong 2018). Một trong những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy những cải tiến đó là loại bỏ tình trạng dư
thừa trong các ngành công nghiệp SX thép, xi măng. TQ ước tính tình
trạng nợ gia tăng sẽ ở "đi ngang" trong 2018, khiến tỷ lệ Tổng nợ/VCSH
#276% của GDP và con số này sẽ #3% vào 2019. Nhìn xa hơn, một
số chính sách ảnh hưởng đến NĐT và công ty có thể xem là một điều
Trái phiếu CNY trong nước nắm giữ
bởi khối ngoại (ngàn tỷ CNY)
Đầu tư CSHT chậm lại, nhưng đầu tư BĐS tăng
10
tích cực. Cụ thể, nhà hoạch địch chính sách có cuộc "càn quét" đối với
hệ thống NH "bóng tối"; không có dấu hiệu nào cho thấy chính sách sẽ
nới lỏng; đầu tư BĐS đã nằm trong tầm kiểm soát... "Mỗi khi TQ bị ảnh
hưởng bởi một cú sốc, họ bị hoảng loạn và khiến các đầu mối tín dụng
không thể duy trì mức tăng trưởng. Trái ngược với trước đây, người TQ
có vẻ như đang cố gắng đặt ra mức sàn cho tốc độ tăng trưởng, chứ
không phải là lên kế hoạch phục hồi TTTD". Khi xung đột thương mại
với Mỹ trở nên căng thẳng hơn, TQ đã nới lỏng một số sự điều chỉnh đối
với tiền tệ và giảm bớt y/c quy định đối với NH để khuyến khích cho
vay.…"Các nhà hoạch định chính sách đã thực sự thay đổi hướng đi
của họ đối với việc kích thích nền KT. Họ nhắc đi nhắc lại nhiều lần
rằng họ không muốn thực hiện một "cú nổ" kích thích như 2009 và tôi
nghĩ lần này họ thực sự đã thực hiện được”.
Indonesia thâm hụt thương mại
1,8 tỷ USD trong tháng 10/2018
Cán cân thương mại của Indonesia đã ghi nhận mức thâm hụt 1,82 tỷ
USD trong tháng 10/2018, qua đó nâng thâm hụt thương mại trong 10th
tính từ đầu năm lên 5,51 tỷ USD. Theo thống kê, trong tháng 10/2018
thâm hụt thương mại phi dầu khí được ghi nhận ở mức 0,39 tỷ USD, khi
mà tăng trưởng NK phi dầu và khí vượt mức tăng trong XK tương ứng.
Cụ thể, NK phi dầu mỏ và khí đốt 2,39 tỷ USD so với tháng 9, do kim
ngạch NK nguyên liệu thô và hàng hóa như máy móc và thiết bị cơ khí,
thiết bị điện, sắt thép, nhựa và các sản phẩm bằng nhựa, cũng như
ngành thực phẩm đã tăng lên. Trong khi đó, XK phi dầu mỏ và khí đốt
0,68 tỷ USD, dẫn đầu là các mặt hàng SX bao gồm cả xe cộ và linh
kiện, trang sức, đá quý, giày dép, cũng như hóa chất vô cơ. Trong giai
đoạn từ tháng 1-10/2018, thặng dư thương mại phi dầu khí của
Indonesia ở mức 5,22 tỷ USD. Ngoài ra, thâm hụt thương mại dầu khí
của nước này cũng tăng từ 1 tỷ USD trong tháng 9 lên 1,43 tỷ USD
trong tháng 10, trong đó đóng góp chính cho con số thâm hụt này là
kim ngạch NK dầu và khí đốt trị giá 0,62 tỷ USD. Tính chung từ tháng 1-
10/2018, thâm hụt thương mại dầu khí ở mức 10,74 tỷ USD. Theo phân
tích của BI, nhu cầu trong nước liên tục tăng mạnh, đặc biệt là nguồn
vốn đầu tư, dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai tăng lên trong tháng
10/2018. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư sôi nổi được kỳ vọng sẽ thúc đẩy
tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của Indonesia trong tương lai. Tính
đến tháng 10/2018, BI dự báo thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn thấp hơn
ngưỡng 3% GDP và vẫn trong tầm kiểm soát.
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://vietnambiz.vn/nhnn-bom-rong-hon-107-nghin-ti-dong-vao-thi-truong-ke-tu-dau-thang-10-
111057.html
https://vietnambiz.vn/viet-nam-vay-qua-kenh-trai-phieu-gan-53-ti-usd-xap-xi-23-gdp-110915.html
http://cafef.vn/chuan-bi-nan-lai-co-lo-trinh-tin-dung-ngoai-te-20181121215413376.chn
http://cafef.vn/no-xau-ngan-hang-dai-ha-gia-van-kho-ban-nguy-co-no-phinh-to-
20181122074409751.chn
Tin KT vĩ mô http://thoibaonganhang.vn/co-cau-lai-doanh-nghiep-nha-nuoc-can-vuot-qua-tu-duy-cu-82295.html
https://vietstock.vn/2018/11/kinh-te-internet-viet-nam-phat-trien-vuot-bac-768-640276.htm
http://thoibaonganhang.vn/cho-song-dau-tu-tu-an-do-82273.html
Tin KT Quốc tế https://vietnambiz.vn/oecd-kinh-te-toan-cau-nam-2019-se-chi-tang-35-111141.html
https://vietnambiz.vn/nganh-ngan-hang-my-ghi-nhan-ket-qua-tai-chinh-kha-quan-111069.html
http://cafef.vn/goldman-sachs-tang-truong-2-con-so-se-tro-lai-voi-cac-thi-truong-moi-noi-trong-
nam-2019-20181121110006451.chn
http://cafef.vn/nhung-tin-hieu-tich-cuc-dang-sau-toc-do-tang-truong-kinh-te-cham-chap-cua-trung-
quoc-20181121153726327.chn
https://vietnambiz.vn/indonesia-tham-hut-thuong-mai-hon-18-ty-usd-trong-thang-102018-
111146.html
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)