i b...thanh khoản vẫn tương đối ổn định nên diễn biến của ls lnh được dự...
TRANSCRIPT
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 20/8)
VN - Index 984,67 0,37%
HNX - Index 102,98 0,38%
D.JONES CK Mỹ 25.962,44 0,66%
STOXX CK C.Âu 3.350,23 0,56%
CSI 300 CK TQ 3.787,73 0,09%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 21/8)
SJC Ng.đ/L 41.800 0,36%
Quốc tế USD/Oz 1.504,60 0,28%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.120 - 0,00%
EUR/USD 1,1095 0,09%
Dầu
WTI USD/th 56,34 0,43%
6
Cho vay là hoạt động cốt lõi nhưng mức độ
phụ thuộc vào hoạt động này của mỗi ngân
hàng khác nhau, thể hiện qua sự khác biệt về
tỷ trọng dư nợ cho vay trong tổng tài sản. Mặc
dù, việc ít phụ thuộc vào hoạt động cho vay
giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro tập
trung nhưng điều này không đồng nghĩa rằng
càng ít phụ thuộc vào hoạt động cho vay thì
càng tốt. Bởi vì, nếu tỷ trọng dư nợ cho vay
trong tổng tài sản thấp nhưng các tài sản còn
lại phần lớn là tài sản xấu, tài sản có rủi ro
cao, sinh lời kém thì việc ít phụ thuộc không
có nhiều ý nghĩa. Ngoài ra, việc phụ thuộc
nhiều hay ít vào hoạt động cho vay còn phụ
thuộc vào "khẩu vị rủi ro" của mỗi ngân hàng.
Tin nổi bật
'Đo' mức độ phụ thuộc của ngân hàng vào
hoạt động cho vay
Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng hơn 98.000
tỷ đồng từ đầu năm
Thị trường có 27 ví điện tử nhưng 5 "ông lớn"
nắm thị phần tới 90%
Nợ công 3,2 triệu tỷ, dự án ODA đi gọi vốn đã
có vấn đề
Thương chiến không chỉ toàn 'màu hồng' với
ASEAN
Thứ Tư, ngày 21/8/2019
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
'Đo' mức độ phụ thuộc của ngân
hàng vào hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động cốt lõi của NH nhưng mức độ phụ thuộc vào hoạt
động này của mỗi NH khác nhau, thể hiện qua sự khác biệt trong tỷ trọng
dư nợ cho vay trong tổng tài sản. Thống kê 28 NHTM VN cho thấy, có
thể phân chia tỷ trọng dư nợ cho vay trong TTSa làm 3 nhóm: (i) Nhóm
có tỷ trọng cho vay >70%, gồm: PGBank (79%), BIDV (76%), VietinBank
(75%), NamABank (72%), ACB (71%), VPBank (71%), SHB (70%) và VIB
(70%). Nhóm này hầu hết là các NH top trên về quy mô, cho thấy về cơ
bản, NH quy mô càng lớn càng phụ thuộc vào hoạt động cho vay; (ii)
Nhóm có tỷ trọng cho vay 60-<70%, gồm: LienVietPostBank (68%),
BacABank (68%), VietCapitalBank (67%), Saigonbank (67%), Eximbank
(66%), VietBank (66%), HDBank (66%), Kienlongbank (65%), Sacombank
(64%), OCB (63%), Vietcombank (62%), TPBank (61%) và VietABank
(60%); (iii) Nhóm có tỷ trọng cho vay <60%, gồm: MB (59%), SCB (59%),
SeABank (59%), ABBank (54%), Techcombank (51%), NCB (51%), MSB
(38%). Một số NH top trên về quy mô có tỷ trọng cho vay khá thấp có thể
kể đến Vietcombank, MB, Techcombank và SCB. Tuy nhiên, SCB và
Techcombank là 2 trường hợp đặc biệt. Techcombank vài năm trở lại đây
dồn nguồn lực lớn vào tăng trưởng TPDN. Đây là nguyên nhân quan
trọng khiến tỷ trọng cho vay của Techcombank thuộc hàng thấp nhất hệ
thống. Với SCB, TTS chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các khoản phải thu và
lãi dự thu khổng lồ, lên đến trên 100.000 tỷ đồng (bằng 1/5 TTS). Trong
khi đó, về bản chất, đa phần các khoản phải thu và lãi dự thu này xuất
phát từ hoạt động cho vay. Vậy nên tỷ trong cho vay trong TTS của SCB
bị "méo mó" nặng nề, không đủ tin cậy để xem xét trong tương quan với
NH khác. Mặc dù việc ít phụ thuộc vào hoạt động cho vay giúp DN giảm
thiểu được rủi ro tập trung nhưng điều này không đồng nghĩa rằng càng
ít phụ thuộc vào hoạt động cho vay càng tốt. Nếu tỷ trọng dư nợ cho vay
trong TTS thấp nhưng các tài sản còn lại phần lớn lại là tài sản xấu, tài
sản có rủi ro cao nhưng sinh lời kém thì việc ít phụ thuộc cũng không có
nhiều ý nghĩa. Ngoài ra, việc phụ thuộc nhiều hay ít vào hoạt động cho
vay cũng phụ thuộc vào "khẩu vị rủi ro" của mỗi NH.
Tài chính – Ngân hàng
3
Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng
hơn 98.000 tỷ đồng từ đầu năm
Theo BC trái phiếu tuần của CTCK Bảo Việt, tuần qua, NHNN thực hiện
hút ròng 2.980 tỷ đồng qua kênh tín phiếu. Cụ thể, NHNN phát hành mới
41.999 tỷ đồng (kỳ hạn 7 ngày với mức LS 2,75%/năm) trong khi có 38.999
tỷ đồng đáo hạn. Trên kênh OMO, NHNN phát hành mới 20,4 tỷ đồng
với LS ở mức 4,75%. Bốn tuần gần đây, lượng bơm/hút ròng của NHNN
qua kênh OMO và tín phiếu ở mức tương đối thấp. Diễn biến này cho
thấy thanh khoản hệ thống NH tương đối ổn định. LK từ đầu năm tới nay,
NHNN đã hút ròng 98.487 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở. Trong
khi đó, LS LNH trong tuần qua tiếp tục duy trì ở mức thấp quanh 3%/năm.
Cụ thể, kỳ hạn qua đêm, 1&2 tuần giảm nhẹ, lần lượt từ mức 2,9%/năm;
3,1%/năm và 3,2%/năm xuống mức 2,65%/năm; 3,05%/năm và
3%/năm. Thanh khoản vẫn tương đối ổn định nên diễn biến của LS LNH
được dự báo sẽ không có biến động quá lớn trong thời gian tới.
Thị trường có 27 ví điện tử nhưng
5 "ông lớn" nắm thị phần tới 90%
Vụ Thanh toán NHNN cho biết, lĩnh vực Fintech tại VN đang có sự tăng
trưởng mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Trong Q.II2019, tốc độ tăng
trưởng thanh toán DV mobile banking đạt trên 160%. Trong khi đó, tỷ lệ
này trong KV chỉ đạt 60-80% (Thái Lan 80% đã được xem là mức tăng
trưởng cao). Số lượng các công ty Fintech tham gia cung ứng DV trên thị
trường VN đã tăng hơn 2 lần từ con số khoảng 40 công ty cuối năm 2016
lên tới gần 100 công ty ở thời điểm hiện tại, trải rộng trên nhiều lĩnh vực
khác nhau. Trong đó lĩnh vực thanh toán đóng vai trò chủ đạo với 27
công ty đã được NHNN cấp giấy phép cung ứng DV trung gian thanh
toán đang hoạt động. Sv các nước, VN có nhiều lợi thế để DN Fintech
phát triển nhanh hơn nữa. Quy mô dân số khá lớn sv các nước trong KV,
khoảng hơn 96 triệu dân ở thời điểm hiện tại. Trong đó, trên 65% dân số
sinh sống ở nông thôn, nơi mà mạng lưới NH còn ít. Tỷ lệ người trưởng
thành có tài khoản NH mới chỉ 45,8 triệu người, chiếm 63% năm 2018.
CSHT viễn thông có nhiều thuận lợi khi VN nằm trong top 20 nước có
người dân sử dụng Internet nhiều nhất, số người dùng Internet chiếm
khoảng 52% dân số. 51 triệu người sử dụng điện thoại thông minh, chiếm
tới 55% dân số. Dư địa cho DN Fintech còn nhiều nhưng khung pháp lý,
quy định cho lĩnh vực này còn nhiều tranh cãi. Một số chuyên gia cho
rằng, sự phát triển của Fintechs có thể bị hạn chế bởi quy định tỷ lệ sở
hữu của NĐTNN… Dự kiến ban đầu room ngoại tham gia vào DN
Fintech là 30% nhưng NHNN vẫn đang dự thảo, xin ý kiến cộng đồng,
có thể là 30% nhưng cũng có thể là 49%,…. Trên thị trường hiện nay có
4
27 ví điện tử nhưng có sự phân hóa mạnh, thị phần 90% (cả số lượng giao
dịch, giá trị giao dịch) chỉ nằm trong tay của 5 công ty trung gian thanh
toán. Đáng lưu ý, những công ty này đều có sở hữu của nước ngoài, mức
sở hữu từ 30%, thậm chí đến hơn 90%. Điều này đặt ra quan ngại lớn
rằng lĩnh vực thanh toán, thị trường tiền tệ có thể bị thao túng từ NĐTNN,
ảnh hưởng tới CSTT, an ninh dữ liệu quốc gia. Mục tiêu cuối cùng của
CQQL đối với thị trường Fintech suy cho cùng là đảm bảo lợi ích của
người dùng. Nhưng đi cùng với đó, NHNN sẽ tạo hành lang pháp lý sao
cho vẫn thúc đẩy DN được đổi mới sáng tạo. Trong đó, Sandbox là 1
trong những giải pháp hàng đầu, NHNN đang là đơn vị đi đầu trong các
bộ ngành về cơ chế này.
5
Việt Nam đứng thứ 9 châu Á -
Thái Bình Dương về cạnh tranh
phát triển trung tâm dữ liệu
Theo BC Chỉ số cạnh tranh của Trung tâm dữ liệu (TTDL) 2019 của
Cushman & Wakefield, ASEAN sẽ là KV phát triển nhanh nhất về các
TTDL trong 5 năm tới, với tốc độ tăng trưởng gộp hàng năm dự kiến
(CAGR) là 13% trong 2019-2024. Các công ty công nghệ lớn như Google,
Alibaba và Amazon Web Service đã mở rộng hệ thống CSHT điện toán
đám mây tại ASEAN trong những năm gần đây. Toàn bộ KV châu Á -
Thái Bình Dương dự kiến sẽ có CAGR khoảng 12% sv cùng kỳ, nhanh
hơn 6,4% của Bắc Mỹ và Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi là 11,1%.
Đến đầu năm 2021, châu Á-Thái Bình Dương dự báo sẽ vượt qua Bắc
Mỹ trở thành KV TTDL lớn nhất theo quy mô thị trường. Tổng thị trường
cho các TTDL đồng vị trí châu Á-Thái Bình Dương dự báo ở mức 28 tỷ
USD vào 2024, sv 23,4 tỷ USD của Bắc Mỹ. Đặc biệt, Singapore được
xếp hạng thị trường TTDL mạnh thứ 3 trên thế giới. Trong KV châu Á-
Thái Bình Dương, Malaysia đứng thứ 4, với các quốc gia ASEAN khác
là Thái Lan, ở vị trí thứ 7, VN đứng thứ 9 và Indonesia đứng thứ 11. "Lực
lượng lao động trẻ và năng động của Indonesia và VN sẽ thúc đẩy CNTT,
bùng nổ thương mại điện tử và NH số. Nhu cầu lưu trữ dữ liệu trên khắp
ASEAN chính là tiềm năng to lớn cho các TTDL… Cho đến khi hệ thống
CSHT ở Thái Lan, Indonesia và VN đủ hoàn thiện để hỗ trợ các TTDL
liệu hoạt động một cách trơn tru, các nhà khai thác TTDL sẽ tiếp tục tập
trung vào Singapore và các thị trường mới nổi này".
Kinh tế Việt Nam sẽ phụ thuộc
khá lớn vào cầu nội địa trong
những năm tới, ngay cả khi không
có cải cách kinh tế đặc biệt thì vẫn
tăng trưởng 6,5%
BC KT VN: Điểm sáng của châu Á giữa bối cảnh căng thẳng thương mại
của bộ phận Nghiên cứu KT và Thị trường toàn cầu UOB dự đoán tăng
trưởng của KT VN sẽ đạt 6,7% và mức lạm phát ở khoảng 3,4%. Theo
đó, VN sẽ trở thành 1 trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng KT
nhanh nhất thế giới. Dữ liệu từ McKinsey Global Institue City Cope Data
Base ước tính, đến 2030, VN sẽ có 21 triệu hộ gia đình có thu nhập hơn
7.500 USD/năm. Tầng lớp trung lưu mở rộng nhanh chóng chính là động
lực thúc đẩy nền KT. TS.Manop Udomkerdmongkol - chuyên gia KT
UOB Thái Lan nhận định:"Triển vọng KT VN là tương đối tươi sáng. Tăng
trưởng KT VN sẽ dựa vào cầu nội địa khá lớn trong những năm tới.
Chúng tôi cho rằng ngay cả khi không có cải cách KT đặc biệt thì VN
Kinh tế Việt Nam
6
cũng sẽ đạt được mức tăng trưởng KT 6,5%". VN đã trở thành 1 thị
trường trọng điểm tại châu Á cho nhà SX nước ngoài di dời cơ sở SX
trong tình thế căng thẳng của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Với
những thế mạnh như địa lý gần với TQ, lao động trẻ, mức lương cạnh
tranh, đặc quyền thương mại đến từ nhiều phía và chính sách khuyến
khích đầu tư nước ngoài, VN được đánh giá là một thị trường đầu tư hấp
dẫn ở Châu Á, tạo nên hướng tăng trưởng tích cực cho nền KT của quốc
gia trong những năm tới. Trong thời gian trung đến dài hạn, 1 động lực
chính thúc đẩy tiềm năng tăng trưởng của VN sẽ là cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 (Intrustry 4.0). Điều này có tiềm năng giúp mở rộng
quy mô nền KT VN ở mức từ 28,5 tỷ USD đến 62,1 tỷ USD, tương đương
với tốc độ tăng trưởng KT 7-16%/năm, cho đến 2030. Dự đoán NHNN
VN sẽ duy trì LS tái cấp vốn ở mức 6,25% trong 2019. Với mức LS huy
động hiện tại, CSTT tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi giúp GDP tăng trưởng
đều đặn và giữ được sự ổn định về giá. Để chuẩn bị cho những thay đổi
đến từ các yếu tố bên ngoài, việc duy trì chính sách là rất quan trọng,
đặc biệt là giữa bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ-Trung.
Nợ công 3,2 triệu tỷ, dự án ODA
đi gọi vốn đã có vấn đề
Ủy ban Tài chính ngân sách cho rằng, vẫn tồn tại những dự án sử dụng
vốn vay ODA chưa hiệu quả từ khâu huy động, dẫn đến việc thực hiện,
sử dụng vốn kém hiệu quả, tạo ra nhiều hệ luỵ cho nền KT. Công tác
phân bổ, giao kế hoạch cho từng dự án cụ thể chưa thực hiện kịp thời,
ảnh hưởng đến tiến độ triển khai và giải ngân. Cụ thể, trong 2018, mức
giải ngân vốn ODA , vốn vay ưu đãi cấp phát từ NSTW chỉ đạt 53,65 kế
hoạch, 5th đầu năm 2019, nguồn vốn này mới giải ngân #2.000 tỷ đồng,
đạt 7%. “Đây là số liệu giải ngân rất thấp, cần sớm có giải pháp quyết
liệt để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc”. Công tác quản lý sử dụng
nguồn vốn vay nước ngoài còn tồn tại nhiều vấn đề, đặc biệt tỷ lệ giải
ngân còn thấp so với kế hoach giao. Một số dự án đã ký kết nhưng chưa
được các Bộ, ngành tổng hợp BC cơ quan có thẩm quyền đưa vào Kế
hoạch đầu tư công trung hạn, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai và giải
ngân cam kết với nhà tài trợ. Năm 2018, tổng số Hiệp định vay đã ký kết
là 18 Hiệp định vay với tổng trị giá 1,5 tỷ USD. Nợ công ở ngưỡng 3,2
triệu tỷ đồng, BQ mỗi người dân gánh 32 triệu đồng. Về mặt số liệu, nợ
công sv GDP đã giảm. Các chỉ tiêu nợ đến ngày 31/12/2018 đều đạt và
thấp hơn rất nhiều sv chỉ tiêu nợ công đã được Quốc hội cho phép. Cụ
thể, nợ công chỉ còn 58,4% GDP (mức trần Quốc hội cho phép là 65% GDP).
7
Cái giá phải trả cho thương chiến
toàn cầu là bao nhiêu?
Theo BC của Bloomberg Economics, các yếu tố bất ổn trong lĩnh vực
thương mại có thể khiến GDP thế giới 0,6% trong năm 2021 sv kịch
bản không có chiến tranh thương mại. Con số này gấp đôi mức thiệt hại
mà chính sách thuế quan của Mỹ với TQ gây ra cho KT thế giới. Nếu
dựa trên ước tính GDP toàn cầu đạt 97.000 tỷ USD vào 2021 của IMF,
thế giới sẽ mất 585 tỷ USD. TQ bị ảnh hưởng lớn nhất với GDP 1%.
“Các dòng tweet (của ông Trump) có sức mạnh lớn hơn cả chính sách
thuế quan”. Sự mâu thuẫn giữa các dòng tweet về đàm phán thương
mại với TQ khiến DN gặp khó đưa ra quyết định đầu tư và tuyển dụng.
Để đối phó với những “cơn gió ngược”, FED đa hạ LS 0,25% trong tháng
7. Tuy nhiên, CSTT có thể được sử dụng để giảm thiểu tác động của
các cú sốc KT nhưng không thể ngăn chặn hoàn toàn thiệt hại.
Thương chiến không chỉ toàn
'màu hồng' với ASEAN
Trong những tháng cuối năm 2019, các nền KT ASEAN có thể phải đối
mặt với những “cơn gió ngược” liên tiếp đến từ bên ngoài do căng thẳng
thương mại Mỹ-Trung leo thang. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đã
bắt đầu ảnh hưởng tới ASEAN từ cuối năm 2018. Theo số liệu do Nikkei
Asian Review thu thập, tăng trưởng GDP Q.II của 5/6 nền KT lớn của
KV này (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và VN) đều
giảm tốc sv Q.I. Trong đó, Thái Lan và Singapore chịu thiệt hại lớn nhất
vì nhu cầu XK các mặt hàng SX chính, như đồ điện tử, suy yếu. Ngày
19/8, Thái Lan hạ dự báo tăng trưởng 2019 từ 3,3-3,8% xuống 2,7-3,2%
do XK suy yếu. Singapore cũng hạ dự báo tăng trưởng KT 2019 xuống
0-1%, từ mức 1,5-2,5%. Được cho là hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển
SX ra khỏi TQ nhưng VN và Philippine lại đang chật vật vì các vấn đề
nội tại… Các chính phủ và NHTW tại ASEAN đang chịu áp lực lớn với
nhiệm vụ phải phục hồi nền KT thông qua các biện pháp tiền tệ và tài
chính trong những tháng tới. Theo chuyên gia phân tích CMC Markets:
“Các quốc gia ASEAN sẽ phải đối mặt với tình trạng suy giảm trong lĩnh
vực SX, các rủi ro thương mại cũng như xu hướng dịch chuyển chuỗi
cung ứng trong vài quý tiếp theo. Ngoài biện pháp hạ LS, các nhà hoạch
định chính sách có thể phải triển khai các biện pháp kích thích tài chính,
giảm thuế và trợ cấp lao động nếu KT rơi vào suy thoái nghiêm trọng”.
Kinh tế Quốc tế
8
Tuần trước, Thái Lan công bố gói kích thích trị giá 316 tỷ Baht (10,2 tỷ
USD) để hỗ trợ nông dân và những người có thu nhập thấp để kích thích
tiêu thụ trong nước và giảm bớt tác động từ bên ngoài. Thủ tướng
Singapore cho biết tình hình hiện nay không đảm bảo để chính phủ
ngay lập tức kích thích KT. Tuy nhiên, nếu tình hình tồi tệ hơn, chính
phủ sẽ can thiệp kịp thời. Đầu tháng 8, NHTW Thái Lan và Philippines
đồng loạt hạ LS 0,25% xuống lần lượt 1,5% và 4,25%. Trước đó, NHTW
Indonesia tháng 7 cũng hạ LS lần đầu tiên trong gần 2 năm qua.
9
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=20457854754928
577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH https://bizlive.vn/tai-chinh/ngan-hang-nha-nuoc-da-hut-rong-hon-98-nghin-ty-dong-tu-dau-nam-
3517699.html
https://vietnamfinance.vn/do-muc-do-phu-thuoc-cua-ngan-hang-vao-hoat-dong-cho-vay-
20180504224227425.htm
http://cafef.vn/thi-truong-co-27-vi-dien-tu-nhung-5-ong-lon-nam-thi-phan-toi-90-
20190820140741197.chn
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/viet-nam-dung-thu-9-chau-a-thai-binh-duong-ve-canh-tranh-phat-trien-trung-tam-du-
lieu-20190820110502344.chn
http://cafef.vn/chuyen-gia-thai-lan-kinh-te-viet-nam-se-phu-thuoc-kha-lon-vao-cau-noi-dia-trong-
nhung-nam-toi-ngay-ca-khi-khong-co-cai-cach-kinh-te-dac-biet-thi-van-tang-truong-65-
20190820191607621.chn
http://cafef.vn/no-cong-32-trieu-ty-du-an-oda-di-goi-von-da-co-van-de-20190821071046488.chn
Tin KT Quốc tế https://ndh.vn/quoc-te/cai-gia-phai-tra-cho-thuong-chien-toan-cau-la-bao-nhieu-1254202.html
https://ndh.vn/quoc-te/thuong-chien-khong-chi-toan-mau-hong-voi-dong-nam-a-1254220.html
10
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân/ Doanh nghiệp DNTN/ DN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng TD TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức TD TCTD
Nhả đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)