đề tài - bùi văn lương | bùi văn lương · web viewtrung quốc là một nước có...
TRANSCRIPT
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
A . MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài: Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc, đời Đường có vị trí khá
đặc biệt. Nếu đời Hán là một triều đại có chế độ phong kiến trung ương tập
quyền vững mạnh đầu tiên của Trung Quốc thì đời Đường là thời kỳ cực thịnh
của xã hội phong kiến đó. Ở đời Đường, Trung Quốc là một quốc gia phát
triển, phồn vinh trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội văn hoá.
Thời đó các nghành nghệ thuật đều phát triển (hội hoạ, âm nhạc, kiến
trúc, điêu khắc, văn học……) trong đó phát triển nhất là hội hoạ và văn học.
Trong văn học thì thơ là bộ phận có thành tựu cao nhất.
Trung Quốc là một nước có truyền thống về thơ, từ kinh thi đến thơ hiện
đại, thơ đều có những đặc sắc riêng. Những người Trung Quốc cũng như thế
giới đều công nhận thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca nhân loại.
Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện
quan niệm, nhận thức, tâm tư...của con người đời Đường một cách sâu sắc,
nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức hoàn mỹ. Thành tựu trên
các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao.
Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ của thơ cổ điển Trung
Quốc. Nó là Tập Đại Thành cho nên những phương diện của thi pháp thơ cổ
điển Trung Quốc đều tiêu biểu.
Thi pháp thơ Đường mà chúng ta đề cập đến ở đây thuộc về thi pháp
miêu tả nghiên cứu thi pháp thơ của một thời đại một giai đoạn trong tiến
trình lịch sử thơ Trung Quốc, thi pháp là hệ thống hình thức, hệ thống phương
tiện nghệ thuật của thơ. hệ thống hình thức này bản thân nó là một mắt xích
trên tiến trình thi pháp thơ Trung Quốc. Nó chịu ảnh hưởng của thời đại, của
quan niệm triết học, của các loại hình nghệ thuật khác và của các giai đoạn
thơ ca, nó là kiểu tư duy nghệ thuật hoàn chỉnh và độc đáo. Cái mà Lỗ Tấn
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 1
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
nói : ….thơ Trung Quốc đến Đường có một sự biến đổi lớn chính là ở việc
hình thành một kiểu tư duy nghệ thuật, một hệ thống thi pháp mới.
Trong hệ thống thi pháp này có một nhân tố rất quan trọng không thể
thiếu được đó là không gian nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong thơ
Đường rất rộng lớn mà ta có thể bắt gặp với nhiều loại không gian nghệ thuật
khác nhau, đó là không gian đời thường, không gian vũ trụ rộng lớn được thể
hiện trong các tác phẩm của nhiều tác giả khác nhau. Song ở đề tài nghiên cứu
khoa học này tôi chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu không gian nghệ thuật
trong thơ Lý Bạch.
Bởi rằng, Lý Bạch là một trong ba nhà thơ lớn nổi tiếng ở thời thịnh
Đường. Ông đã đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển nền thơ ca Trung
Quốc bên cạnh đó tìm hiểu về không gian nghệ thuật trong thơ ông còn giúp
chúng ta tiếp cận và cảm nhận sâu sắc, thấu đáo hơn về nội dung và nghệ
thuật trong thơ Đường, để từ đó có cái nhìn sâu sắc thấu đáo, kỹ lưỡng, toàn
diện cho việc giảng dạy các tác phẩm thơ đường trong chương trình ngữ văn
THCS. Mặt khác thơ Lý Bạch đã ảnh hưởng sâu sắc tới các nhà thơ lớn của
Trung Hoa sau này như Tô Đông Pha, Lục Du đời Tống, Cao Khải Minh đời
Minh, Củng Tự Thân đời Thanh đều ảnh hưởng thơ ông với mức độ khác
nhau. Còn ở Việt Nam, người ảnh hưởng nhiều nhất và rõ nhất là thi sỹ Tản
Đà. Tản Đà cũng thích múa kiếm, thơ cũng ngông, và cũng có nhiều bài thơ
về núi sông đất nước, trăng rượu khá hay……
Hy vọng rằng, với đề tài nghiên cứu khoa học này chúng ta sẽ biết rõ
hơn về cuộc đời sự nghệp của nhà thơ Lý Bạch đặc biệt là sẽ cảm nhận rõ hơn
, đầy đủ hơn về không gian nghệ thuật trong thơ ông từ giúp chúng ta khai
thác đầy đủ, toàn diện về vẻ đẹp nghệ thuật cũng như nội dung trong thơ Lý
Bạch nói riêng và trong thơ đường nói chung.
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 2
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề :
Lý Bạch là một nhà thơ có ảnh hưởng lớn đối với thi đàn đời Đường và
thơ ca nhiều thế hệ sau. đọc thơ Lý Bạch ai cũng thấy rõ nét ngang tàng khí
phách phóng khoáng, ý chí mạnh mẽ, lời hay…ông có một phong cách riêng
mà không có một nhà thơ nào có. Lý Bạch được gọi là thi tiên bởi chất lãng
mạn trữ tình trong thơ ông phóng khoáng, hoành tráng đa dạng ở trong các đề
tài quen thuộc người khác đã viết. Sau Khuất Nguyên thơ Lý Bạch đã khắc
hoạ thêm đươc những cảm hứng thi ca, những ngôn từ điêu luyện, tự nhiên
với sắc thái lãng mạn nên dễ chinh phục mọi người. Đặc biệt tác phẩm của
ông có đề tài và chủ đề phong phú và có giá trị. Mọi tác phẩm của ông cũng
như phong cách thơ đều được giới nghiên cứu phê bình chú ý. Đặc biệt là vấn
đề không gian nghệ thuật.
Đã có rất nhiều tác giả say sưa nghiên cứu về vấn đề này nhưng mỗi
người lại tìm hiểu khai thác ở những cái nhìn, khía cạnh khác nhau về không
gian nghệ thuật trong thơ ông.
Ta đã từng biết đến cuốn Thi Pháp Thơ Đường của tác giả Nguyễn Thị
Bích Hải (NXB Thuận Hoá_Huế 1995) đã nghiên cứu một cách tổng thể về
con người trong thơ đường, không gian, thời gian nghệ thuật, thể loại và kết
cấu, ngôn ngữ thơ Đường đã góp phần làm rõ không gian nghệ thuật đặc
trưng trong thơ Lý Bạch đó là kiểu không gian thiên nhiên, có một sự thống
nhất cao độ, giữa cái cao cả và cái đẹp
Hồ Sỹ Hiệp với cuốn Lý Bạch được dùng trong tủ sách văn học nhà
trường ( NXB Bến Tre - 2002 ) giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về cuộc đời, thân
thế, sự nghiệp, quá trình sáng tác thơ ca đồng thời giới thiệu một số tác phẩm
tiêu biểu đưa ra ý kiến bình luận. tuy ở mức độ khái quát nhưng vấn đề không
gian nghệ thuật cũng được thế giới nhắc đến, bút pháp khoa trương và nhân
cách hoá của Lý Bạch đã đem lại cho thơ ca của ông nhiều hình tượng sinh
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 3
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
động có màu sắc tươi vui và tình cảm nồng nàn thấm thía. Bất cứ là cảnh vật
thiên nhiên hay tư thế con người đều được thể hiện bằng hình tượng đột xuất,
qua những lời thơ bóng bẩy tạo nên một cảm giác lung linh đẹp đẽ vô cùng.
lắm khi thời gian và không gian mất cả sức hạn chế.
Trong cuốn Để học tốt văn học nước ngoài trung học cơ sở do Đoàn
Thị Kim Nhung và Tạ Thị Thanh Hà viết (NXB Đại Học Quốc Gia TPHCM -
2006) cũng đã từng đề cập đến không gian nghệ thuật. Hình tượng thơ Lý
Bạch bay bổng kỳ vĩ nhưng vẫn còn bó hẹp ở một số bài nhất định. Ngoài ra,
còn có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị mỗi công trình đề cập đến
những khía cạnh nổi bật tiêu biểu trong thơ Lý Bạch với đề tài nghiên cứu
khoa học này chúng tôi sẽ đi sâu vào khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu về
không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch để có cái nhìn tổng thể khái quát
nhất về một trong những yếu tố thi pháp nghệ thuật trong thơ Lý Bạch đồng
thời giúp bạn đọc hiểu hơn về các kiểu không gian nghệ thuật khác nhau
trong thơ ông. Mong rằng, đề tài hoàn thành sẽ giúp các bạn học sinh, sinh
viên dễ dàng tiếp cận được các tác phẩm của ông hơn đồng thời có cách nhìn
đúng đắn hơn và toàn diện hơn về thi pháp thơ ca thời Đường nói chung và Lý
Bạch nói riêng.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài. 1. Đối tượng của đề tài :
Đối tượng của đề tài mà chúng tôi nghiên cứu ở đây là một vấn đề thuộc
thi pháp nghệ thuật đó chính là không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm của Lý Bạch xuất hiện với một
tần số lớn, đậm nét với các kiểu không gian khác nhau, có khi là không gian
bình thường nhỏ hẹp làng quê, không gian triều đình… nhưng cũng có khi là
không gian vũ trụ rộng lớn bao la những không gian ấy cứ lặp đi lặp lại như
một nét nghệ thuật, một mô típ nghệ thuật trong thơ Lý Bạch vì vậy mà
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 4
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
nghiên cứu về không gian nghệ thuật chính là một cách giúp chúng ta cảm
nhận về thơ Lý Bạch.
2. Phạm vi nghiên cứu :
Ở bài tập lớn này chúng tôi đã đi vào nghiên cứu các vấn đề sau : Trước
hết giúp người đọc hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Lý Bạch.
Sau đó là giới thiệu chung về một số khái niệm về không gian và thời gian
nghệ thuật, các kiểu không gian trong thơ Đường. Đặc biệt là sẽ đi sâu nghiên
cứu kỹ, cụ thể về không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch. Để bài nghiên
cứu được sâu sắc thì ngoài ra chúng tôi còn điểm qua phần so sánh không
gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch và thơ Đỗ Phủ để thấy được sự giống nhau
và khác nhau về cách nhìn nhận của hai nhà thơ lớn cùng thời về một vấn đề
không gian nghệ thuật.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
1. Tìm đọc các tài liệu nói về tác giả Lý Bạch.
2. Phân tích - chứng minh.
3. Thống kê - phân loại.
4. Diễn dịch - quy nạp.
5. So sánh - đối chiếu.
6. Trao đổi - đàm thoại
V. Đóng góp của đề tàiTừ xưa cho tới nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu
thơ Đường nói chung và nhà thơ Lý Bạch nói riêng. Song mỗi người lại đi tìm
hiểu ở những vấn đề khác nhau với nhiều khía cạnh và góc độ nào đó. Trong
đó không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch cũng được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm và đã khám phá về nó. Tuy vậy ở đề tài này chúng tôi cũng muốn
một lần nữa tìm hiểu về không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch để có thể
hiểu rõ cảm nhận thật sâu sắc và toàn diện về không gian nghệ thuật một vấn
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 5
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
đề thuộc thi pháp nghệ thuật trong thơ Đường. Để từ đó giúp bạn đọc có thể
dễ dàng tiếp nhận thơ Lý Bạch nói riêng cũng như thơ Đường nói chung.
VI. Cấu trúc đề tài: A. Mở đầu
B. Nội dung
Chương I: Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lý Bạch
I. Cuộc đời
II. Sự nghiệp thi ca của Lý Bạch
Chương II: Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
I. Giới thiệu một số khái niệm
II. Những không gian nghệ thuật trong thơ Đường
III.Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
IV. Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong một số tác phẩm của Lý
Bạch ở chương trình Ngữ Văn THCS
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 6
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
B. NỘI DUNG
Chương I: Cuộc đời và sự nghiệp của Lý BạchI. Cuộc đời
Lý Bạch (701- 762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê quán
ở Thành Kỷ, Lũng Tây (nay thuộc tỉnh Nam Túc). Song sinh ra và lớn lên ở
làng Thanh Liên, huyện Chương Minh (còn gọi là Long Xương hoặc Xưởng
Minh) thuộc Miên Châu (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên).
Tứ Xuyên là vùng đất địa linh nhân kiệt. Tứ Xuyên là đất Thục xưa có
núi hiểm trở, là quê hương của nhiều nhân tài, nơi đây sông nước cheo leo
gập gềnh có eo Tam Hiệp nổi tiếng, có núi Nga Mi, không phải ai cũng dễ
qua… Núi sông hùng vĩ là một trong những nhân tố tạo ra thiên tài Lý Bạch
Thiếu thời Lý Bạch rất tài hoa. Từ nhỏ ông đã giỏi thơ phú, trọng
nghĩa khinh tài, thích múa kiếm, thích làm hiệp sách. Lúc nhỏ ông được học
nhiều, tư chất thông minh. Chính Lý Bạch cho ta biết: Ngũ tuế tụng lục giáp,
Thập tuế quan bách gia (5 tuổi đã đọc sách dạy can chi, 10 tuổi đã xem sách
bách gia chi tử), Thập ngũ quan kỳ thư, Tác phú lăng Tương Như (15 tuổi đã
xem những sách lạ, làm phú lấn át cả Tư Mã Tương Như). Ngoài ra còn học
đấu kiếm. Kiếm là người bạn thân suốt đời,cũng là vật ký thác lý tưởng của
nhà thơ. Năm 18 tuổi ông lên Đái Thiên Sơn đọc sách và giao du với một số
đạo sĩ. Từ 20 tuổi, ông đi chơi nhiều nơi danh lam thắng cảnh ở đất Thục, 25
tuổi nhà thơ xuống núi Nga Mi, Từ giã cha mẹ, quê hương, chống kiếm viễn
du.
Năm 26 tuổi Lý Bạch rời Ba Thục. Vốn là người say cảnh thiên nhiên
hùng vĩ, non xanh nước biếc, trước khi lên kinh thành, Lý Bạch du ngoạn hồ
Động Đình, đến vùng sông Tương, qua Giang Hạ, Kim Lăng, Dương Châu,
vào Ngô Việt lại quay về Giang Hạ, rồi đến An Lục. Ở An Lục ông lấy vợ.
Vợ ông là cháu gái quan tể tướng nhà Đường hồi hưu là Hứa Ngữ Sử, ở đây
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 7
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
ông quen Mạnh Hạo Nhiên hai người gắn bó mãi sau này và đã có nhiều bài
thơ viết về mạnh Hạo Nhiên.
Khát vọng tham gia chính trường của Lý Bạch lúc này thật mạnh. Theo
ông đi thưởng ngoạn phong cảnh chủ yếu là để mở rộng giao du, tạo điều kiện
cho việc tham dự vào trường chính trị lập nên công danh sự nghiệp. Lý Bạch
cho rằng kẻ sĩ, kẻ đại trượng phu phải có chí tang bồng hồ thỉ, phải có chí bốn
phương (Thư gửi Bùi Trưởng Sử). Ông cho mình là kẻ hùng tài, với tài năng
kiệt xuất một ngày kia có thể từ địa vị khách áo vải nhảy lên hàng khanh
tướng, làm rõ lời bàn của Quản Trọng, Án Anh, tính mưu chước của đế
vương, đem tài năng, trí tuệ nguyện giúp nhà vua để cho thiên hạ yên ổn, bốn
biển thanh bình (Thư để lại thay Thọ Sơn đáp Mạnh Thiếu Phủ).
Năm 742 Lý Bạch được một đạo sĩ cũng là một nhà thơ là Ngô Quân
tiến cử lên vua Đường, sau đó ông về Tràng An kinh đô nhà Đường. Ở đây
ông được Hạ Tri Chương rất phục tài, khen ông là tiên trên trời xuống trần
(trích tiên). Lý Bạch nổi tiếng ngay, giữa kinh thành, bởi tiếng tăm của Hạ Tri
Chương rất lớn hồi này.
Lý Bạch được mời vào cung, Huyền Tông ban cho ông chức Hàn Lâm
cung phụng. Thực chất chức này chỉ là người ở bên vua giúp vui trong các
cuộc yến tiệc,… Đường Huyền Tông lúc này đã say mê hưởng lạc, cầu tiên,
cầu thuốc trường sinh và bên mình lại có Dương Quý Phi. Lý Bạch thường chỉ
được hầu hạ bên vua, mà thơ phú giữa bữa tiệc, tô thêm chất hào hoa cho vua,
mà mình chẳng qua cũng chẳng hơn đám cô nhi, vũ nữ,… Có thể nói phần
nào Lý Bạch đã vỡ mộng, tâm tình bi phẫn bao nhiêu khát vọng, hăm hở vụt
tắt. Ba năm ở kinh thành Lý Bạch rõ hở mặt xa hoa thối nát của đám quyền
quý và mộng trở thành người kinh bang tế thế của ông đã không còn như xưa,
…
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 8
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Ông chỉ còn thú vui, uống rượi, làm thơ vui chơi với bè bạn, sau đó
dâng sớ xin rút khỏi triều đình,… Rời Tường An sang Lạc Dương, ông gặp
Đỗ Phủ, hai người kết bạn, rồi cùng nhau cao thích sang vùng Sơn Đông săn
bắn ngao du sơn thuỷ. Chia tay nhau, Đỗ Phủ về Trường An, Lý Bạch lại tiếp
tục du lịch khắp lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang. Tin ở tài sức mình và
phần nào thấy trách nhiệm của kẻ đại trượng phu trước tình hình xã hội đã bắt
đầu rối ren, thế nước suy yếu, Lý Bạch vẫn muốn gặp lại dịp lập nên sự
nghiệp, mặt khác ông bất đắc chí, mầm mống tư tưởng tiêu cực bắt đầu xuất
hiện . Rất nhiều lần ông muốn thổ lộ ý muốn ở ẩn. Song ông phải là nhà thơ
xuất thế nên khi sự biến An Lộc Sơn xẩy ra ông hăm hở xông vào trường
chính trị.
Khi An Lộc Sơn chiếm Tường An. Huyền Tông chạy vào đất Thục ra
lệnh cho con là Vương Lĩnh, Lý Lân bảo vệ miền trung hạ du Trường Giang.
Lý Lân mời Lý Bạch ra giúp ông nhận lời, nhưng khi Lý Lân bị giết Lý Bạch
bị kết tội mưu phản, phải đi đày Quý Châu, đi được nửa đường thì được ân
xá. Năm 761, ông còn xin gia nhập ngũ để truy kích tàn quân Sử Triều Nghĩa
nhưng giữa đường thì bị bệnh phải trở về và năm sau đó thì mất, để lại cho
đời gần 1000 bài thơ và một số bài văn xuôi khác.
II. Sự nghiệp thi ca của Lý BạchLý Bạch là một nhà thơ nổi danh thời thịnh Đường. Cùng với Đỗ Phủ
và Bạch Cư Dị, ông là một trong 3 nhà thơ lớn của Đường thi Trung Quốc. Sự
nghiệp sáng tác thơ ca của ông được kéo dài mãi cho đến tận những năm cuối
đời. Tuyệt đại bộ phận thơ Lý Bạch là trữ tình, trong đó có bộ phận không
nhỏ mang đậm màu sắc lãng mạn. Qua thơ văn ông, trước hết có thể dựng lại
tâm tư, hình ảnh một kẻ sĩ hoài bão, có tài năng có tâm hồn lạc quan, hào
phóng.
1. Nội dung tư tưởng trong thơ Lý Bạch
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 9
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Lý Bạch vốn là người tự do, ông đọc sách nhiều. Tuy tam giáo bao trùm
đời sống tư tưởng, nhưng thâm tâm Lý Bạch, đã hình thành một lối sống tự do
cho riêng mình, lấy tài mình để, ngang dọc với đời ,với ý nghĩ không chịu
khuất mình, không cầu cạnh ai, giao thiệp ngang hàng với các bậc vương
hầu,… Ý chí lớn như thế nên Khổng Tử, người được thiên hạ coi là bậc thánh
ông cũng chẳng coi ra gì. Đã có lần ông diễu Khổng Tử:
Sở Cuồng chính là ta
Hát rong cười Khổng Tử…
Yêu thiên nhiên, thích bản chất trời cho của vũ trụ tư tưởng của Lý
Bạch thiên về đạo Lão… Có lẽ ông đọc nhiều Lão -Trang nên trong sáng tác
của ông người ta còn thấy những dấu ấn của những tư tưởng của Trang Tử.
Lý Bạch còn mang trong mình tư tưởng kiếm khách, hiệp khách. Trong
thơ ông thường hay nhắc đến Kịch Mạnh, một nghĩa hiệp nổi tiếng thời Chiến
Quốc. Ông có cả một bài thơ ca ngợi các bậc vung kiếm dẹp những chuyện
bất bằng, sẵn sàng làm những việc phi thường để trả nghĩa lớn đó là bài, Hiệp
khách hành:
Khách Triệu mũ giải thô
Loáng sương tuyết gươm Ngô
Yên bạc ngời ngựa trắng
Như sao bay vù vù…
Một mạng người, mươi bước
Ngàn dặm chẳng ai đâu…
Nghiêng về chí hướng này,cũng phù hợp với tính tình phóng khoáng
của Lý Bạch… Hiệp khách thường ở nơi núi non, như một loại bán tiên (một
nửa là tiên). Bởi cõi tiên toàn là người trong sạch:
Người trời hiền, chuộng yên
Trăng vốn thường đa cảm
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 10
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
( Cổ lãng nguyệt hành)
Ông từng tự hào Tài tôi có thể giúp nước, cứu đời, khí tiết tôi có thể
sánh với Sào Phủ, Hứa Do, văn tôi có thể biến đổi phong tục, trí tội có thể
hiểu mọi lẽ của trời đất và con người. Trong bài phú Đại bàng, ông đã đối lập
tư thế hùng dũng hiên ngang của đại bàng với vẻ dung tục tầm thường của
chim hộc. Hình ảnh chim đại bàng xuất hiện không ít lần trong thơ văn ông:
Đại bàng một lúc theo gió
Chín vạn dặm cao vút tận trời
Dẩu khi gió ngừng, sa xuống đất
Chân còn lê tới tận biển khơi
(Tăng Lý Ung)
Hình ảnh chim đại bàng bay cao chín vạn dặm rõ ràng là thoát thai từ
Tiêu dao du của Trang Tử, song ở đây không hề mang ý vị tiêu cực, thoát tục.
Cho đến giờ phút cuối, con chim đại bàng ấy:
Giữa trời cánh gãy sức kiệt dần
Hơi gió còn chuyển lay vạn thế.
(Lâm chung Ca)
Cho đến năm cuối đời ông vẫn cất lên tiếng nói hào sảng
Ra cửa vợ con níu áo hỏi
Chinh Tây bao độ trở về ông
Trở về nếu đeo hoàng Kim ấn
Chớ thấy Tô Tần chẳng xuống khung!
(Từ biệt vợ lên đường tòng quân)
Tư tưởng hăm hở tiến thủ giúp nước cứu đời nói trên có bắt nguồn từ
phần tích cực nhập thế của nho gia, song trong thơ ông lại thường xuất hiện
những vần thơ phê phán nho giáo khá sắc sảo:
Ông đồ nước lỗ học ngũ kinh
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 11
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Bạc đầu nhai hết từng chương cú
Hỏi ông giúp đời thế nào đây
Lơ mơ như người mây khói phủ
… Việc đời đã chẳng hiểu chi chi
(Giễu ông đồ nước Lỗ)
Tinh thần lạc quan phong khoáng của ông in đậm nét trong hàng loạt
bài thơ miêu tả cảnh non sông hùng vĩ của đất nước trung hoa, từ sông Hoàng
Hà, Trường Giang cho đến hồ Động Đình, từ núi Thái Sơn, núi Thái Hoàng
cho đến con đường đi lên đất Thục khó, khó hơn đường đi lên trời xanh (Thục
đạo chi nan, nan cư thướng thanh thiên).
Tinh thần lạc quan, hào phóng, yêu đời của ông in đậm trong hình ảnh
những người phụ nữ hái sen (Thái liên khúc) trong tiếng ca điệu múa của
người nông dân thuần hậu (Tặng Uông Lân), trong hình bóng lộng lẫy của
người thợ rèn giữa đêm khuya thanh vắng :
Cửa lò rực trời đất
Khói tím nhảy tia hồng
Chàng ca, trăng rực sáng
Xao động cả dòng sông
( Thu Phố ca )
Song như ta biết, Lý Bạch cũng đã từng nếm mùi thất bại trên con
đường công danh, sự nghiệp, từng chứng kiến tận mắt cuộc sống xa hoa truỵ
lạc của cung đình, tiếp xúc ít nhiều với cuộc sống dân chúng.
Mặt khác những học thyết, tư tưởng mà Lý Bạch tiếp thu lại rất đa dạng
và phức tạp. Chẳng hạn, Lý Bạch không chỉ yêu thích tư tưởng đạo gia ( học
thuyết Lão Trang ) vốn đã phức tạp mà còn say mê cả đạo giáo ( cầu tiên,
luyện đan….).
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 12
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Thơ ông hướng về cái đẹp, ca ngợi cái đẹp và phản ứng với cái xấu. Là
hai mặt nhiều khi khó tách rời trong tư tưởng, tình cảm và thơ ca Lý Bạch.
dường như ở đây ta bắt gặp cái mà các nhà lý luận hay gọi là tích phân cực
trong tình cảm của tác giả lãng mạn.
Thơ Lý Bạch coi khinh bọn quyền quý, phê phán bọn mũ cao áo dài xa
hoa thối nát. Bài cổ phong thứ 15 Lý Bạch viết:
Cớ sao bậc cao sỹ
Vứt như rác bên đường
Châu ngọc mua cười hát
Tấm cám nuôi hiền lương
Ông nói đến những thời đen tối do sự xa hoa của vua quan nhà Đường
gây ra ngay khi làm quan ở Tràng An trong bài hành lộ nan (đường đi khó)
bài thứ 2 ông viết
Đường lớn như trời xanh
Ta còn chưa đến được
Thẹn không bằng lũ nhóc Trường An
Đá gà, đấu chó chơi thoả thích…
Dẫu đả kích quyết liệt đến đâu rốt cuộc nhà thơ cũng chỉ là một kẻ
bướng bỉnh cô độc, nên từ đó đôi khi không khỏi cảm thấy bế tắc rồi đi tìm
những lối thoát tiêu cực, coi đời như một giấc mộng lớn (ngày xuân say rượu
tỉnh dậy nói chí mình) hoặc dùng rượu để giải sầu.
Sầu lai, ẩm tử nhị thiên thạch
( Sầu đến, nốc hai nghìn thạch rượu )
Song, rượu không chỉ làm cho nhà thơ say tuý luý mà quên hết sự đời .
Cất chén tiêu sầu, sầu cứ sầu
Rút dao chặt nước, nước cứ chảy
(Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 13
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Trừu đao đoạn thuỷ, thuỷ cánh lưu)
(Trên lầu Tạ Diễu….)
Bình vàng, rượu trong, cốc đáng vạn
Mâm ngọc, nhắm quý, giá mười ngàn
Dằn chén, ném đũa, nuốt không được
Vung gươm bốn mặt lòng mênh mang
Lý Bạch muốn điều hoà những mâu thuẫn trong tư tưởng tình cảm bằng
một lối sống độc đáo theo tinh thần của lão tử công thành, thân thoái:
Việc xong phủi áo cút
Chẳng cho đời biết ai
( Hiệp khách hành )
Nguyện một phen tôn thờ minh chủ
Khi công thành quay trở về rừng cũ
( viết để lại khi từ biệt Vương Tư Mã Trung )
Lối ứng xử đó trước hết phản ánh mâu thuẫn trong quan điểm sống của
Lý Bạch. Một bên là tinh thần hăm hở, lập công, khát vọng công danh, một
bên là tinh thần bảo mạng, ý muốn ẩn dật. Tuy nhiên đây không phải là câu
chuyện cá nhân. Thỏ khôn chết, chó săn bị phanh thây; chim cao hết, cung tốt
ném vào kho; nước địch bị phá, mưu thần đi đời, (lời Hàn Tín nói về cách đối
xử của Lưu Bang đối với các cận thần) là hiện tượng xảy ra thường xuyên
trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Đằng sau những suy nghĩ tâm tư đó của
Lý Bạch, chúng ta thấy bóng dáng của xã hội đương thời, một xã hội xuất hiện
ngày càng rõ những dấu hiệu suy thoái.
Thơ Lý Bạch có một phong cách phóng khoáng, hào hùng, rất đặc biệt.
phong cách gắn liền với nội dung và tư tưởng các bài thơ và cũng gắn liền
với nhân cách của nhà thơ, lời thơ không sắp đặt, không trau chuốt, đẹp một
cách tự nhiên. ( Trường Chính – thơ Đường tập 2 ). Nhìn chung thơ Lý Bạch
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 14
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
rất đa dạng, phong phú, hùng tráng và khí thế ngang tàng, nói được cái tư
tưởng của con người trước cuộc đời, vũ trụ, thiên nhiên,…đó là vẻ đẹp để
người đời mãi mãi yêu mến cảm phục và cảm thông với ông!...
2. Giá trị nghệ thuật trong thơ Lý Bạch.
Hình tượng trong thơ Lý Bạch thường mang kích cỡ khác thường, phá
khổ. Những hình tượng gợi cái ao lớn, kỳ vĩ mạnh mẽ như dòng sông Hoàng
Hà từ vạn dặm chảy vào giữa cõi lòng. Hình ảnh cùng con người dạo chơi
trên núi Thiên Mụ, đứng trên đỉnh núi với tay đến tậ trời, hình ảnh dải ngân
hà tột khỏi mây…là những hình tượng bắt nguồn từ trí tưởng tượng phong
phú và bút pháp khoa trương phóng đại vốn là đặc trưng trong thơ lãng mạn.
Tiếp xúc với thơ Lý Bạch chúng ta luôn bắt gặp một tâm hồn phóng
túng bay bổng. Vì thích phóng túng nên Lý Bạch không chịu theo con đường
thi cử, không chịu bạc đầu nhai hết từng chương cú, thích đấu kiếm thích Lão
Trang. Vì thích phóng túng nên dù có vào triều cũng không chịu uốn gối làm
một kẻ nịnh thần, nên trong số gần 1000 bài thơ, ông chỉ viết có 70 bài ngũ
luật và 12 bài thất luật. Thật là một nhân cách nhất quán. Trong điều kiện lịch
sử đương thời, đó là một nhân cách đáng quý, tiến bộ.
Về phương diện sáng tạo hình tượng, tính cách nói trên đã đem lại cho
nhà thơ một năng lực hư cấu mạnh mẽ. Trí tưởng tượng của ông bay vút tận
các vì sao vượt qua biển cả, ngược dòng quá khứ lịch sử xa xăm, thâm nhập
vào thế giới thần thoại, truyền thuyết lung linh huyền ảo, cũng như lách vào
mỗi sự vật nhỏ nhoi, bình thường để rồi dựng nên hình ảnh chân thực mà sinh
động, gần gũi mà mới mẻ, bình thường mà kỳ lạ. Khoa trương nhân cách hoá,
những thủ pháp phổ biến để xây dựng hình tượng của nhà thơ, đã được vận
dụng một cách sáng tạo và bạo dạn. Bạo dạn tới mức phi lý nhưng ngẫm nghĩ
kỹ, ta lại thấy thật hợp lý. Khi phân tích câu Hoa tuyết Yên Sơn lớn như chiếu
(Bắc phong hành). Lỗ Tấn viết: Hoa tuyết Yên Sơn lớn như chiếu, là khoa
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 15
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
trương, song Yên Sơn rốt cuộc quả là có hoa tuyết, vì vậy nó vẫn bao hàm cái
thực ở trong đó, khiến chúng ta lập tức biết được ở, Yên Sơn vốn có cái lạnh
đến dường ấy. Nếu nói Hoa tuyết Quảng Châu lớn như chiếu thì chỉ biên
thành một câu nói đùa.
Thiên nhiên trong thơ Lý Bạch không chỉ được khắc hoạ thông qua sự
lãnh hội thẩm mỹ của nhà thơ mà có khi còn là hoá thân của nhà thơ, là người
bạn thân tình của nhà thơ nữa. Bởi vậy thủ pháp nhân cách hoá được tác giả
sử dụng một cách phổ biến trong những bài thơ viết về thiên nhiên. Trong thơ
Lý Bạch hầu như mọi sự vật trong thiên nhiên đều có thể hiểu tâm sự của nhà
thơ, của con người
Gió xuân xót ly biệt
Chẳng khiến Liễu xanh cành
(Đinh Lao Lao)
Nhìn nhau mãi không chán
Ta với núi Kinh Đình
(Ngồi một mình trước Kinh Đình)
Thủ pháp nhân cách hoá làm cho sự vật dù yên tĩnh, vô tư cũng trở nên
đầy sức sống. Tuy vậy tác giả không tuỳ tiện gán ghép ý muốn chủ quan của
mình vào sự vật. Qua các ví dụ trên, ta thấy nhà thơ rất tôn trọng đặc điểm
vốn có của sự vật được nhân hoá
Trong thơ ca của mình, Lý Bạch từng ca ngợi hoặc dẫn dựng những câu
thơ nổi tiếng mới mẻ, tự nhiên và giàu tính sáng tạo như: Bờ ao cỏ xuân
mượt, Non nước ngời trong sáng của Tạ Linh Vân. Và Sông lẳng phẳng như
lụa, gió bấc thổi mưa bay của Tạ Diễu,…Chính vì lẽ đó mà ngôn ngữ của ông
đã sinh động, tự nhiên, lại còn trong sáng hoa mỹ. Thêm vào đó là sức tưởng
tượng lãng mạn và nổi nhiệt tình dạt dào của ông cùng khiến cho ngôn ngữ
của ông trở thành cao hoa, hào phóng như người xưa thường nói.
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 16
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Người ta gọi Lý Bạch là thi tiên bởi thơ thiên nhiên của ông rất hay.
Sông núi, nước khe, hang trời, biển động…đều rất hùng tráng trong thơ Lý
Bạch. Những bài nổi tiếng này là Thục đạo nan, hành lộ nan, Nga Mi sơn
nguyệt ca…
Thơ trăng Lý Bạch huyền ảo vô cùng…trăng trên núi, trăng trên sông,
trăng với sử sách, trăng ở quán trọ, và trăng trong cả lúc cô đơn nhất. Với bài
Tĩnh dạ tứ ta cũng đủ xao lòng cùng Lý Bạch trước trăng:
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
Nhưng rượi trong thơ Lý Bạch mới thật vô địch. Khó ai có thể làm thơ
về rượu hay hơn ông. Thơ nói đến rượu được viết khá nhiều…có những bài ở
đề tài khác nhau, Lý Bạch vẫn thường hay nhắc đến rượu ở bài nào cũng
mang một tâm trạng, một hoàn cảnh rất khác nhau. Nổi tiếng nhất là bài
Tương tiến tửu…một bài thơ viết đã hơn nghìn năm mà người Á Đông từ thế
kỷ XX trở về trước, ngồi vào tiệc không ai không nhắc đến những câu thơ:
Biết chăng ai,
Sông Hoàng Hà ngọn nước tại lưng trời
Tuôn xuống bể vời lại được
Biết chăng nữa,
Đài gương mái tóc bạc
Sớm như tơ mà tối đã như sương…
Và cũng chỉ Lý Bạch mới viết nổi bài thơ Nguyệt hạ độc chước (uống
rượu dưới trăng) này:
Trong hoa rượu đã sẵn bình,
Người thân cũngchẳng có, một mình uống thôi
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 17
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Gọi trăng nâng chén ta mời
Một trăng, một bóng với người là ba
Trăng kia uống được đâu mà
Bóng kia lẵng nhẵng theo ta chẳng rời
bạn cùng nhé! Bóng, trăng ơi
Chơi xuân cho kịp kẻo hoài mất xuân…
Một điểm nửa trong thơ Lý Bạch là tính chất bình dị, tự nhiên, đây cũng
là sản phẩm tát yếu của tính cách không trói buộc. Bản thân Lý Bạch đã từng
nêu chủ trương:
Nước trong sẽ nở hoa sen,
Thiên nhiên là đẹp,chớ nên vẽ vời
Nhiều bài thơ Lý Bạch giản dị như một bài dân ca và giống dân ca rất
nhiều mặt:
Trường An trăng một mảnh
Đập vải tiếng muôn nhà
Gió thu thổi về mãi
Đưa đến tình ải xa
Bao giờ dẹp xong giặc
Để chàng thôi xông pha
Thơ Lý Bạch không bị gò bó theo khuôn khổ, luật lệ và không bị hạn
chế về câu chữ, cách gieo vần, có khả năng diễn đạt được nhiều sắc thái, tình
cảm cũngnhư phản ánh được nhiều vấn đề xã hội rộng lớn. Hình thức này phù
hợp với tư tưởng bay bổng phóng khoáng của thi tiên Lý Bạch, vì thế đọc thơ
ông người ta cảm nhận được vể dịu dàng tươi mát, có lúc khẳng khái tươi vui:
Lý Bạch là một nhà thơ lãng mạn tích cực vĩ đại, trong lịch sử phát triển
thơ ca cổ điển Trung Quốc, thành tựu của ông đã đạt đến đỉnh cao của nghệ
thuật lãng mạn. Dù đứng về mặt tinh thần hay mặt bút pháp đều có những ảnh
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 18
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
hưởng to lớn đối với thi ca đời Đường và các thế hệ sau này. Hán Dũ đời
Đường đánh giá ông rất cao
Văn chương Lý Đỗ còn
Ánh sáng chiếu muôn trượng
(Điệu Trương Tích)
Chương II: Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
I. Giới thuyết một số khái niệm1. Khái niệm không gian
Không gian là khoảng mênh mông, vô hạn bao trùm vạn vật (Ngôn ngữ
học Việt Nam). Nó là một trong những nhân tố bảo đảm sự tồn tại của con
người và vật chất. Nó quen thuộc đến nỗi nhiều khi chúng ta không cảm thấy
được, nhưng thực sự nó luôn tồn tại xung quanh chúng ta. Như không gian
trường lớp, không gian làng quê, không gian đô thị…
Không gian cũng như thời gian, là hình thức tồn tại của con người khó
mà hiểu được con người nếu không hiểu được không gian tồn tại của nó.
Người ta cũng thường dùng những từ như vũ trụ, thế giới nhằm để chỉ
không gian.
2. Khái niệm không gian nghệ thuật
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên) viết: Hình thức bên trong của hình tượng
nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ
thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong tường nhìn nhất
định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính
của nó: cái này bên kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối cao thấp, xa, gần, rộng
dài tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về
không gian, nên mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian
tâm tưởng (gần nhau đây mà xa biết bao nhiêu. Giữa hai đứa mênh mông là
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 19
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
biển rộng - Tố Hữu). Do vậy không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối,
không gian quy được vào không gian địa lý. Không gian, nghệ thuật trong tác
phẩm văn học có tác dụng mô hình hoá các mối liên hệ của bức tranh thế giới
như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự. Không gian nghệ thuật có thể
mang tính địa điểm, tính phân giới, dùng để mô hình hoá các phạm trù thời
gian như bước đường đời, con đường cách mạng. Không gian nghệ thuật có
thể mang tính cản trở, để mô hình hoá các kiểu tính cách con người.
Không gian nghệ thuật có thể là không có tính cản trở, trong cổ tích,
làm cho ước mơ công lý được thực hiện dễ dàng. Ngôn ngữ của không gian
nghệ thuật rất đa dạng và phong phú
Các cặp phạm trù cao - thấp, xa - gần, rộng - hẹp, cong - thẳng,
bên này- bên kia, vững chắc - bập bênh, ngay - lệch… đều được dùng để biểu
hiện các phạm vị giá trị phẩm chất của đời sống xã hội.
Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác
phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế
giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học. Nó cung
cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại
hình của các hình tượng nghệ thuật.
Trong thi pháp thơ Đường của Nguyễn Thị Bích Hải cho rằng: Trong
tác phẩm nghệ thuật con người xuất hiện với tư cách là hình tượng con người
và không gian tượng trưng cũng chỉ là hình tượng không gian. Không gian
nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng. Vậy không gian nghệ thuật là
hình tượng không gian trong tác phẩm (Trần Đình Sử - giáo trình thi pháp
học)
Góc mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
(Bà Huyện Thanh Quan - Chiều hôm nhớ nhà)
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 20
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Cái viễn phố cô thôn ở đây chính là không gian được chuyển hoá vào
trong trí tưởng tâm hồn của nhà thơ, được thể hiện bằng ngôn ngữ thơ và đến
người đọc, gợi dậy những viễn phố cô thôn hiu hắt người đọc.
Trong ca dao Việt Nam, chẳng hạn con người tồn tại nơi làng quê với
gốc đa, bến nước, sân đình…với đồng sâu, đồng cạn…Đó là không gian quen
thuộc và mang tính quan niệm. Người dân quê Việt Nam chỉ quen thuộc với
loại không gian đó nên họ chỉ có thể miêu tả loại không gian đó mà thôi
Trong văn học dân gian, đó là không gian làng quê. Nhưng trong văn
chương bác học thì khác
Thế sự du du nai lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
(Đăng Dung - Cảm Hoài)
Nhất lung thiên địa tàng thân tiểu
Vạn lý thanh vân cử mục tần
(Nguyễn Hữu Cầu – chim trong lồng)
Đó là không gian vũ trụ bao la cho khí phách của người tráng sĩ trung
thành. Ngay cả khi miêu tả không gian làng quê thì các làng quê trong con
mắt của Tam Nguyên Yên Đỗ xũng khác xa trong con mắt anh nông dân tát
nước đầu đình
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hiu hắt
(Nguyễn Khuyến – Thu Vịnh)
Chỉ cần thấy không gian trong tác phẩm, ta có thể xác định được nó
thuộc loại văn chương nào. Mỗi bộ phận văn học có thế giới riêng, có cái mã
riêng của nó. Ngay ở mỗi tác giả nhưng khi sử dụng ở nhiều thể loại khác
nhau, không gian nghệ thuật cũng khác nhau, chẳng hạn như Nguyễn Du
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 21
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
trong truyện Kiều thường xuất hiện không gian vũ trụ nhưng trong hát
phường vải lại là không gian của đời thường
Khi phân tích không gian nghệ thuật trong thơ, chúng ta có thể phân
tích theo ba chiều của không gian vật lý mà trung tâm của nó chính là con
người. Phải biết phát hiện không gian tầm thường, không gian vũ trụ, phát
hiện được tính chất động, tĩnh, thực, hư của nó. Từ đó tìm hiểu mối quan hệ
khăng khít giữa nó với thế giới nghệ thuật. Nhưng quan trọng nhất là xem xét
không gian nghệ thuật như một quan niệm về thế giới và con người; như một
phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát
tư tưởng thẩm mĩ, để từ đó lý giải khả năng phản ánh hiện thực của một hệ
thống thơ nhất định
II. Những kiểu không gian nghệ thuật trong thơ ĐườngTrong thơ Đường có 2 kiểu con người chủ yếu: Con người vũ trụ
và con người xã hội, tương ứng với hai kiểu con người đó cũng có hai kiểu
không gian vũ trụ và không gian đời thường.
1. Không gian vũ trụ
Trong thơ Đường tuy có hai kiểu không gian nghệ thuật, nhưng không
gian vũ trụ vẫn chiếm ưu thế.
Trong bài Thử tìm hiểu tứ thơ của thơ Đường, sau khi thực hiện một
phép thống kê, Nhữ Thành Lý giải rằng: Bầu trời và thiên nhiên là cái nền của
thơ Đường. Vì thơ Đường cốt nêu lên tình huống thống nhất chủ yếu là tính
thống nhất của con người với thiên nhiên cho nên tất yếu nó hướng về thiên
nhiên.
Sở dĩ thơ Đường thể hiện tính thống nhất giữa con người với thiên
nhiên vì quan niệm nghệ thuật về con người của nó (của thơ Đường) là con
người vũ trụ. Là con người vũ trụ nó phải đứng giữa đất trời, ở vị trí trung
tâm của vũ trụ, và từ một điểm (điểm trung tâm), con người nhìn ra mọi phía
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 22
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Trong thơ Đường, vị trí trung tâm ấy được xác định như một lẽ tự nhiên
và bao giờ cũng đẹp
Nhân phan minh, nguyệt bất khả đắc
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ
(Lý Bạch – Bã tửu vẩn nguyệt)
(Người với lên trăng vịn chẳng được
Khi đi trăng lại mãi theo nhau)
Con người ở đâu thiên nhiên cũng bao quanh, và khi con người di
chuyển thì cả vũ trụ cũng di chuyển dời theo để con người vẫn ở vị trí trung
tâm
Mộ tòng lịch sơn hà
Sơn nguyệt tuỳ nhân quy
(Lý Bạch – Há Chung nam sơn…)
(Chiều hôm bước xuống chân đèo
Ánh trăng trên núi cũng theo người về)
Không gian vũ trụ bao bọc con người, trong vòng trời che đất chỉ con
người luôn luôn có sự hô ứng, tương thông tương cảm với đất trời, với thiên
nhiên, vạn vật
Thanh sơn hoành Bắc quách
Bạch thuỷ nhiễu Đông hành
Thử địa nhất vi biệt
Cô bồng vạn lý chinh
Con người đựoc bao bọc giữa sơn với thuỷ, hữu tình như vậy mà lại
phải chia tay để dấn thân vào nơi vô định, phiêu bạt như một ngọn cỏ bồng bé
nhỏ trên vạn dặm xa xôi.
Vì con người ở vị trí trung tâm nên không gian quanh nó mang tính
chất đối xứng và con người chính là trung tâm của không gian ấy
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 23
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Bạch nhật y sơn tận
Hoàng Hà nhập hải lưu
Dục cùng thiên lý mục
Cánh thướng nhất tầng lâu
(Vương Chi Hoán – Đăng Quán tước lâu)
Đây là một bài thơ đặc biệt Đường thi. Tác giả đã trải ra chiều rộng
mênh mông để dựng chiều cao chót vót. Ở trên lầu Quán Tước có thể nhìn
thấy cả miền núi non trùng điệp phía Tây, nơi mặt trời dần khuất bóng; nhìn
về phía Đông có thẻ thấy dòng sông Hoàng Hà đang mải miết chảy vào biển.
Tầm nhìn chiếm lĩnh được cả một vùng trời nước bao la như vậy, vị trí của
con người đã là cao thượng nhưng nó còn muốn vươn cao hơn nữa. Động từ
hướng thể hiện cái tư thế hăm hở của con người đời Đường - bước lên đỉnh
cao để mở rộng tầm mắt, tầm tư tưởng.
Lên cao, đó là một động tác mang tính quan niệm, một sự vận động để
bước vào vị trí trung tâm của vũ trụ
Nói về sự thể hiện không gian vũ trụ thì Đăng U Châu đài ca vẫn là tác
phẩm tiêu biểu nhất. Ở vị trí trung tâm ấy, con người trong tư thế cầm chịch
cho cân bằng của không gian vũ trụ đối xứng. Không gian được tạo dựng
thường được hô ứng, song phương tương đối.
Thanh thiên nhất nhạn viễn
Hải khoát cô phàm trì
(Lý Bạch)
(Vút thẳng trời cao con nhạn lượn
Thênh thanh biển rộng cánh buồn dong)
Không gian vũ trụ trong thơ được xây dựng trên quy luật liên tưởng của
tâm lý hay, theo hệ thống đang diễn đạt được thể hiện bằng quan hệ.
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 24
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Khi con người ở vị trí trung tâm khiến cho con người cảm thấy bé nhỏ
cô đơn giữa vụ trụ vô hạn vô cùng. Vì cảm giác ấy mà ở nơi đó dấy lên khát
vọng chiếm lĩnh không gian, và đó là không gian luôn mang tính chất mở, có
xu hướng giãn nở để đưa tâm hồn con người lan toả vào không gian, vượt qua
không gian.
Vân khai vấn thuỷ cô phàm viễn
Lộ nhiễu Luơng sơn nhất mã trì
(Cao Thích - Tống tiền vệ huyện Lý Thẩm thiếu)
(Rẽ mây, trên dòng sông Vấn lá buồm coi quanh xa xa
Ven nẻo Lương sơn vó ngựa một mình chầm chậm)
Để chiếm lĩnh không gian, nó thường phóng tầm mắt về mọi phía. Nó
ngẩng trông rồi cúi nhìn, nó đã nhìn song tả tốt phải quay về hữu, đã phóng
tầm mắt hướng ngoại tất phải trở về hướng nội. Nó nói đến một chiều không
gian là để bày tỏ khát vọng chiếm lĩnh, đồng thời cũng để nói với Thiên hạ
rằng – ta đã chiếm lĩnh vũ trụ trong cái nhìn tương thông, giao hoà của ta;
cái tiểu ngã bé nhỏ này có mặt khắp nơi trong cái vô cùng kia.
Không gian lữ thứ cũng xuất hiện nhiều, với tư cách là một bộ phận của
không gian vũ trụ trong thơ. Là hình ảnh con đường thường trải ra mời gọi,
bàn chân vó ngựa, lòng sông mở ra cho những cánh buồm. Trong thơ Đường
ta bắt gặp rất nhiều thơ tống biệt. Đó là bạn bè đưa tiễn nhau trên những con
đường, bên những dòng sông, nơi miền quan ải…con đường, quán trọ… làm
nên không gian lữ thứ trong thơ.
Vọng quân yên thuỷ khoát
Huy thủ lệ triêm côn
Phi điểu một hà xứ
Thanh Sơn không hướng nhân
(Lựu Trường Khanh - Tiễn biệt Vương Thập Nhất nam du)
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 25
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
(Trông theo bác trong khoảng khói nước mênh mang
Vẫy tay, lệ tràn thấm khăn
Chim bay mất hút vào đâu
Chỉ còn núi xanh hướng về người)….
Trong thơ Đường ta thường gặp nhiều cảnh tống biệt mà thường là tiễn
bạn. Không gian và thời gian tống biệt rất đặc biệt vì nó là điểm nút của tâm
trạng, từ sum vầy sang xa cách, từ bầu bạn sang cô đơn. Không gian tống biệt
là một thứ bản lề khép mở hai vùng trời của người đi, kẻ ở. Không gian tống
biệt thường được dựng lên trong tâm trạng của người ở lại vì trong quan niệm
của người xưa, người ra đi đáng được quan tâm hơn. Họ sắp dấn thân vào một
không gian mà lời thơ tống biệt thường là lời của người đưa tiễn tỏ bày, an ủi,
khuyến lệ người đi.
Còn đây là cuộc chia tay để rồi hai người đi về hai ngã:
Dương tử giang đầu, dương liễu tôn
Dương hoa sầu sát đọ giang nhân
Sổ thanh phong địch ly đinh vẫn
Quân hướng tiên tương ngã hướng Tần.
(Trịnh Cốc – Hoài thượng biệt hữu nhân)
(Bên sông Dương Tử, dương liễu đượm màu xuân
Hoa Dương liễu làm cho người qua sông buồn đến chết
Vài tiếng sáo vi vút ở đình ly biệt buổi chiều hôm
Anh đi tới vùng sông Tiêu sông Tương, Tôi đi tới đất Tần)
Bến sông này mọi vật đều gợi tình ly biệt, vì bên sông như một ranh
giới vô hình để từ đây con người chia tay. Dương liễu xanh da diết, đầu sông
gợi nỗi buồn đứt ruột trong thơ Đường cành liễu là hình ảnh ước lệ, biểu
tượng của chia ly; lại thêm âm thanh vi vút của ngọn gió chiều hôm trên đỉnh
ly biệt làm nền cho nỗi buồn. Thi nhân rất tinh tế tiễn bạn đi rồi, nhìn theo
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 26
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
bóng bạn qua sông, bấy giờ mình mới quay đi với một tâm trạng rất đỗi ngậm
ngùi thể hiện bằng hình ảnh ngã hướng Tần. Tiếng Tần như một nốt trầm gieo
xuống tâm hồn tửu nặng nỗi niềm chia ly. Từ một bến sông này, hai người đi
về hai nẻo xa xăm đành lòng vậy, đau lòng vậy
Như vậy không gian nghệ thuật luôn là phương tiện quan trọng để thể
hiện cảm xúc, tâm tình. Không gian vũ trụ là môi trường, là tấm gương phản
chiếu tâm tình của con người vũ trụ. Con người đẹp biết bao, trong sạch biết
bao và cũng hoà hợp tương thông, tương xứng với môi trường không gian của
nó biết bao. Con người ấy, không gian ấy cho ta cái cảm giác mà đã có lần nói
tới: bước vào thế giới thơ Đường ta bước bvào thế giới của sự hoà điệu. Đó
cũng là sự hoà điệu của con người vũ trụ, của không gian nội tâm với không
gian ngoại giới.
Thi nhân đời Đường rất sành thể hiện thế giới nội tâm, và cách thể hiện
cũng đặc biệt Đường thi - thể hiện bằng quan hệ. Họ phổ tâm tình vào trong
không gian, gửi gắm nõi niềm vào cảnh vật. Thi nhân dùng sự lặng lẽ của
cánh hoa rơi để thể hiện sự xao động của tâm hồn. Sự tương giao của tâm hồn
với ngoại giới đạt đến độ vô ngôn nó chỉ gợi cảm xúc chứ không miêu tả cảm
xúc.
Đa tình khước thị tổng vô tình
Duy giác tôn tiền tiến bất thành
Lạp chúc hữu tâm hoàn tịch biệt
Thế nhân thuỳ lệ thiên minh
(Đỗ Mục – Tăng biệt)
(Đa tình mà lại hoá vô tình
Thật khó làm vui trước chén quỳnh
Ngọn nến có lòng còn luyến tiếc
Thay người nhỏ lệ suốt năm canh)
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 27
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Bài thơ đẹp như bàn tay của hoá công tạo tác. Tựa đề Tăng biệt gắn kết
với bài thơ thành một chỉnh thể hoàn mỹ. Cả bài thơ thể hiện tình biệt ly. Đa
tình mà hoá vô tình tưởng như nghịch lý. Nhưng chỉ những ai thuộc giống đa
tình mới hiểu được rằng: Khi tình cảm quá nặng sâu thì ngôn ngữ đành bất
lực.
Con người trong sự hô ứng với vũ trụ thể hiện hệ không gian vũ trụ cao
- viễn cho ta một hình ảnh khá viên mãn về thế giới của sự hoà điệu - thế giới
Đường thi.
2. Không gian đời thường
Nếu như không gian vũ trụ tương thông bởi con người vũ trụ là một tất
yếu, thì bao quanh con người xã hội là không gian đời thường lại cũng là một
tất yếu. Con người vũ trụ ở vị trí trung tâm của không gian vũ trụ thì con
người dân đen bị bủa vây, bị trói buộc bởi không gian đời thường.
Không gian tồn tại của người dân đen là không gian đời thường đầy ưu
hoạn
Không lạ nếu ta thấy trong thơ Đỗ Phủ và thơ hiện thực trung Đường
nhiều không gian đời thường đến thế (điều mà ta ít thấy, thậm chí hầu như
không thấy trong thơ thịnh Đường)
Đâu còn nữa sự rộng mở xa xăm thoáng đãng của không gian vũ trụ.
Giờ đây là không gian đời thường nhãn tiền, chật chội đầy ưu hoạn.
Phá ti phụ bồng mạ
Dẫn man cố bất tường
Giá nữ dử chinh phụ
Bất nhủ khí lộ hàng
(Đỗ Phủ - Tân hôn biệt)
(Tơ hồng leo phải cây gai
Quanh co quấn quýt cho dây khó dài
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 28
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Gả con cho mấy cậu cai
Chẳng thà bỏ quách ở nơi vệ đường.
Không gian đời thưòng có xu hướng thu hẹp, dồn nén con người vào
những địa du chật hẹp, có xó xỉnh của cuộc sinh hoạt. Tơ hồng thì quanh co
quấn quýt, con gái thì thà bỏ quách ở bên vệ đường,… Họ đâu có không gian
mở rộng bát ngát để có thể vọng quân yên thuỷ khoát để nhìn thấy thanh thiên
nhất nhạn viễn, hoài khoát cô phàm trì…
Con người không còn được bay lượn trong bầu trời mênh mông nữa mà
rớt xuống đất bằng với đời thường vất vả nhọc nhằn.
Người ta cũng không còn hăm hở đăng cao nữa mà lo hám lấy đất bằng
để tồn sinh một cách vất vả, cực nhọc.
Khi con người vũ trụ du lãm, những địa danh thường là danh lam thắng
cảnh gắn với thời gian nghìn tuổi còn người dân đen thì đi hoặc chạy, trong
những không gian cụ thể của hiện đại. Đó là những chiến trường đang xảy ra
những cuộc giao tranh dữ dội hoặc là những xóm tiêu điều trong hoạn lạc.
Đi hoài thấy ngõ vắng
Buồn tênh bóng nắng gầy
(Đỗ Phủ - Vô gia biệt)
Huyện nhỏ qua cơn loạn
Để lại bao đắng cay
(Nguyệt kết – Thung lăng hành)
Không gian vũ trụ thường được đo bằng những hình thước ở cấp độ vĩ
mô hoặc thể hiện bàng những hình tượng có tính tượng trưng. Thì không
gian đời thường, thì lại rất thực, gần gũi, với những số đo thực, rất bình
thường:
Thu thuỷ tái thâm tứ ngũ xích
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 29
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Dã hàng cáp thụ lưỡng tam nhân
(Đỗ Phủ - Dữ Chu Sơn Nhân)
(Nước thu mới sâu độ bốn, năm thước
Đò đồng chở vừa hai, ba người).
Những lâu đài dinh thự, những non nước xa xăm của quê hương thì vẫn
còn đó. Nhưng những cao các, linh sơn của các vị phật, tiên, của các bậc cao
nhã, làm nên không gian vũ trụ đã biến mất. Chỉ còn lại không gian chật hẹp
nhãn tiền đầy đói rét, chết chóc, bệnh tật của những người dân đen bất hạnh vì
chiến tranh, vì sưu thuế, vì mất mùa đói kém.
Giờ đây, họ không thể hiện nội tâm, thể hiện luôn khát vọng hoà nhập
với vũ trụ như trước nữa. Và đến như một Lý Bạch hướng tới lãng mạn, là cao
viễn là khát vọng chiếm lĩnh vũ trụ đến thế mà giờ đây trong chiến thành nam
ông phản ánh một không gian chiến tranh đau đớn một cách chân thực. ông
đau đớn cho số phận của bao nhiêu người trong vòng chiến loạn, hứng chịu
những tai hoạ lớn lao, sinh mệnh treo trên đầu sợi tóc.
Sa trường đâm nhau chết
Ngựa ai ngơ ngác nhìn hí trời
Diều quạ rỉa ruột người
Pha treo cành khô trông tả tơi
(Lý Bạch - Chiến Thành Nam)
Quả là một sự đối nghịch quá rõ ràng giữa không gian vũ trụ và không
gian đời thường. Vũ trụ bao la, lộng lẫy, mỹ mãn đến chừng nào thì giờ đây ở
đời thường lại tù túng, đói kém, tàn tạ đến thê thảm. Đỗ Phủ một thánh thi có
lòng yêu thương dân, am hiểu và đồng cảm với họ vô cùng. Ông đau xót
trước những điều trông thấy nhãn tiền, cụ thể:
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đồng tử cốt
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 30
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Vinh khô, chỉ xích dị
Trù tướng nan tái thuật
(Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt
Sướng khổ cách tấc gang
Nghẹn ngào khôn kể xiết)
Nếu như con người vũ trụ xuất hiện trong không gian vũ trụ thường
mang màu sắc trong trẻo tươi sáng thì trong không gian đời thường, thế giới
cảnh vật quanh cuộc đời vất vả của người dân đen mang màu sắc u tối, nhợt
nhạt
Dạ thâm kinh chiến trường
Hàn nguyệt chiến bạch cốt
(Đỗ Phủ - bắc chinh)
(Đêm khuya qua chốn chiến trường
Ánh trăng lạnh soi trên sương trắng)
Lý Bạch và Đỗ Phủ là hai nhà thơ lớn thời Đường đã phần nào khắc
hoạ rõ nét và chân thực bộ mặt xã hội bất công thối nát, nó thể hiện bằng
những cuộc đấu đá tranh giành nhau trong biên ải kéo theo đó là cuộc sống
lầm than tủi cực của những kiếp dân đen.
Kế thừa quan niệm nghệ thuật và kinh nghiệm sáng tác của Đỗ Phủ, các
nhà thơ hiện thực Trung , văn Đường đã tiếp tục phản ánh đời sống đau khổ
bị áp bức bóc lột và chịu muôn vàn tai hoạ của những người dân đen trong
không gian đời thường.
Vậy qua không gian nghệ thuật này của thơ Đường đã cho ta thấy được
phần nào thành tự của thi pháp thơ Đường. Cả hai loại không gian nghệ thuật
trên đều đã đạt đến trình độ cổ điển, tiêu biểu cho không gian nghệ thuật thơ
Trung Quốc.
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 31
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
III. Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch1. Các yếu tố tác động đến không gian nghệ thuật trong thơ Lý
Bạch
a. Yếu tố khách quan
Có thể nói cuộc đời Lý Bạch là một chuyến du hành không biết chỗ
dừng chân. Hai mươi tuổi với tráng chí của tuổi trẻ ông muốn làm những việc
khác đời. Ông không đắm mình vào lịch sử, đỗ đạt mà lại ngao du ở các nơi
danh song thắng tích ở đất Thục. Vốn là người say cảnh thiên nhiên hùng vĩ,
non xanh nước biếc. Trước khi lên kinh thành Lý Bạch du ngoạn hồ Đông
Đình, tới Kim Lăng Dương Châu và rất nhiều các địa thắng khác nữa. Lý
Bạch đã hoà mình vào với thiên nhiên vũ trụ thể hiện cái khát vọng tương
thông hoà với vũ trụ để rồi từ đó nảy sinh nên một hồn thơ phóng khoáng, lời
hay ý đẹp, đã vẽ nên không gian vũ trụ cao - viễn cho ta một hình ảnh khá
viên mãn về thế giới của sự hoà điệu giữa thiên nhiên với con người. Hình
thành nên một phong cách Lý Bạch mà không một nhà thơ đương thời có
được.
Đồng thời trong tâm hồn ấy còn ẩn chứa một tư tuởng chính trị cao đẹp
muốn đem tài năng của mình giúp dân giúp nước, một tư tưởng hiệp khách
hoàn toàn lành mạnh: dùng đồng tiền và sức để cứu người, che chở cho tầng
lớp bị trị, trừng trị kẻ thống trị độc ác. Chính vì lẽ đó mà ông đã lách mạnh
mẽ trật tự phong kiến, khinh thường quyền quý, hướng tới tự do cá nhân. Đó
là một con người yêu quê hương, thông cảm và quan tâm sâu sắc đến cuộc
sống số phận con người. Đây là những nhân tố chủ quan, đã ảnh hưởng, tác
động đến kiểu không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch.
b. Yếu tố khách quan
Đó chính là hoàn cảnh xã hội đương thời lúc bấy giờ. Thịnh Đường
đang trên đà sụp đổ, vua quan ăn chơi sa đoạ, xã hội rối ren, loạn An Lộc Sơn
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 32
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
xẩy ra làm cho chiến tranh loạn lạc, điêu tàn, nhân dân lầm than điêu đứng đã
làm cho cuộc sống người dân cùng khốn khổ, đất nước chìm trong chiến tranh
máu người và chết chóc.
Đây là những nhân tố đã hình thành nên Lý Bạch hai kiểu không gian
đặc trưng là không gian thiên nhiên và không gian sinh hoạt xã hội. Tuy nhiên
vẫn chiếm ưu thế trong sáng tác của ông. Bởi nó phù hợp với cá tính hoàn
cảnh và con người ông. Lý Bạch từng quan niệm rằng Nhân sinh như mộng,
nhân thế vô thường. Ông tìm đến thiên nhiên bởi lẽ: Ông là người yêu thiên
nhiên, thiên nhiên chính là người bạn tâm tình của tác giả khi giấc mộng công
danh không thành , ông đã rời bỏ chốn quan trường lui về ở ẩn là trở về với
thiên nhiên.
Không gian sinh hoạt xã hội (là không gian đời thường, không gian
cung đình, không gian biến tái,…) cũng được phản ánh trong thơ ông nhưng ít
hơn, tần số xuất hiện không nhiều, không đậm đặc như không gian thiên
nhiên bởi ông không thực sự gần gũi nhiều với tầng lớp nhân dân nên phản
ánh chưa thật sâu sắc mặc dù tâm ông nặng về họ.
2. Các kiểu không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
2.1. Không gian thiên nhiên
Thiên nhiên chiếm một vị trí sang trọng trong hồn thơ Lý Bạch. Với
thanh kiếm hiệp sĩ và bầu rượu, túi thơ, thi tiên đã đi tới mọi chân trời góc bể.
Ở đâu có cảnh đẹp là ông tìm đến thăm thú, thưởng ngoạn và để thơ.
Với một tinh thần du hiệp kết hợp với tư tưởng giận đời ghét tục đã làm
cho Lý Bạch quay về với thiên nhiên chi phối trong toàn bộ các sáng tác của
ông. Đó là không gian vô cùng vô tận của vũ trụ, là núi cao, sông thẳm mây
ngàn, hạc nội… .Với tầm nhìn cao thẳm xa vời, với những cánh cửa thần tiên
lộng lẫy vừa thực vừa mơ, không gian của các mối quan hệ của con người với
thiên nhiên,…
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 33
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Tìm hiểu và ngao du sơn thuỷ khiến Lý Bạch suốt đời đi đến rất nhiều
danh lam thắng cảnh, dấn chân ông dường như in khắp đất nước Trung Quốc.
Sự hun đúc của thiên nhiên cộng với tinh thần lãng mạn khiến ông có một tâm
hồn hào phóng, một tấm lòng rộng mở và ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành
phong cách thơ ca của ông. Đối với thiên nhiên, ông quan sát trong thời gian
dài, lại có tình yêu say đắm, nồng nàn nên ông đã cảm nhận, khám phá ra
được những vẻ đẹp sâu xa thầm kín của thiên nhiên. Vì thế mà không gian
thiên nhiên trong thơ ông thật đẹp, trong sáng, siêu phàm hùng vĩ và tráng lệ.
Từ vị trí trên cao nhà thơ có thể tha hồ thả hồn vào thiên nhiên, say sưa
với nó, phát hiện được toàn bộ vẻ đẹp của nó dù là tinh tế nhất. Chính vì vậy
mà không gian cao - viễn là không gian đẹp nhất trong kiểu không gian thiên
nhiên của Lý Bạch nói riêng và vẻ đẹp thẩm mĩ trong thơ Đường nói chung.
Lên cao tức là bước vào lòng vũ trụ, ở đó con người dễ phóng tầm mặt
xa xăm hơn, có điều kiện hoà nhập với thiên địa để nhận thấy vị trí trung tâm
của mình hơn.
Tư thế đăng cao và không gian trên cao là không gian mang tính quan
niệm, không gian thẩm mĩ. Ở trên cao ấy con người bao quát, chiếm lĩnh
không gian vũ trụ trong tầm nhìn rộng lớn của mình. Họ muốn vượt sông
Hoàng Hà nhưng băng lấp kín dòng sông, muốn lên núi Thái Hoàng thì tuyết
che kín bầu trời. Vì thế mà trong họ luôn khao khát được chiếm lĩnh không
gian vừa cao vừa rộng của thiên nhiên nằm trong tiềm thức của họ - những
con người.
Vì con người ở vị trí trung tâm nên không gian quanh nó mang tính
chất đối xứng và con người làm tâm đối xứng của không gian ấy. Do vậy mà
không gian mang tính hô ứng, song phương, tương đối trên phải có dưới,
tương xứng với nhau
Thượng hữu thanh mạc chi trường thiên
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 34
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Hạ hữu lục thuỷ chi ba lan
(Lý Bạch - Trường tương tư)
Hay:
Thượng hữu vô hoa chi cổ thụ
Hạ hữu thương tâm chi xuân thảo
(Lý Bạch – Bá lăng hành tống biệt)
Đứng giữa vũ trụ bao la rộng lớn Lý Bạch đã mở rộng tầm mắt của
mình ra mọi phía đó là đại vũ trụ
Thành sơn hoành Bắc Quách
Bạch thuỷ nhiễu Đông Thành
Thử địa chất vi biệt
Cô bồng vạn lý chinh
(Tống Hữu nhân)
Bốn câu thơ ngắn gọn nhưng với thủ pháp gợi mở, liên tưởng Lý Bạch
đã gợi ra trước mắt người đọc đầy đủ sáu phương từ hai phương mà tác giả đã
nói tới. Nói tới Bắc ta nghĩ đến phương đối xứng là Nam, nói đến Đông gợi ta
liên tuởng tới Tây; nói sơn ta biết cao, nói thuỷ ta biết thâm. Chỉ với hai câu
đầu tác giả đã tạo dựng cả, cả không gian vũ trụ( tứ phương, thương hạ vi chi
vũ). Mà trung tâm của đại vũ trụ ấy có hai tiểu thiên địa đang tiễn đưa nhau.
Sơn hoành: tĩnh; thuỷ nhiễu: động
Thử địa nhất vi biệt
Một người ở lại (tĩnh), nột người ra đi (động), ra đi vô định: cô bồng
vạn lý chinh.
Nỗi niềm của kẻ ở lại người đi được Lý Bạch tiếp tục diễn tả hai lại câu
thơ đầy hình ảnh:
Phù Vân du tử ý
Lạc Nhật cố nhân tình
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 35
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
(Mây nổi là người đi xa
Mặt trời lặn nhắc tình bạn cũ)
Giữa cảnh sông núi bao la nhà thơ Lý Bạch đã tiễn bạn lên đường,
nhưng đến lúc chia ly cả hai cả hai đều không một lời từ biệt, tình ly biệt
đượm hết vào không gian bao la, những gì muốn nói được Lý Bạch gửi gắm
vào cái vẫy tay (huy thủ). Cuộc chia tay ly diễn ra trong im lặng tất cả tình ý
được thốt lên trong tiếng ngựa hí não nùng:
Tiêu tiêu ban mã minh
(Ngựa lìa đàn, tiếng kêu thương nhớ)
Cả không gian vũ trụ đang vào một tiếng ngựa kêu vang làm rung động
đất trời trong buổi chia ly. Đã có lúc đứng giữa không gian bao la rộng lớn,
sâu thẳm và hun hút. Lý Bạch càng thấy mình nhỏ bé cô độc lạc lõng trong
thế giới ấy, chính vì thế mà ông càng khát khao được chiếm lĩnh toàn bộ
không gian quanh mình. Những lúc ấy không gian trong thơ Lý Bạch lại mang
tính chất mở, có xu hướng giãn nở để đưa tâm hồn mình lan toả vào không
gian, vượt qua không gian
Trường phong phá lãng hội hữu thì
Trực quải vân phàm tế thương hải
(Thành lộ Nan)
(Sẽ có lúc cưỡi gió dài – sóng lớn
Gương thẳng buồm mây vượt biển xanh)
Qua những vần thơ này càng thể hiện khát vọng chiếm lĩnh cái cao
rộng của không gian đồng thời thể hiện được sự tương thông giao hoà giữa thi
nhân với thiên nhiên.
Cũng chính vì xuất phát từ khát vọng chiếm lĩnh thiên nhiên vạn vật mà
không gian vũ trụ trong thơ Đường được thể hiện bằng những số đo ở cấp vĩ
mô với những số đo lớn (thiên lý vạn dặm, tam thiên xích) để thấy được sự
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 36
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
cao đẹp lộng lẫy, nguy nga của thiên nhiên và đồng thời nói lên được sự khó
khăn trắc trở không dễ gì chiếm lĩnh nó. Điều này được thể hiện rõ trong thơ
Lý Bạch
Phi lưu trực há tam thiên xích
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Hay:
Hoàng Hà lạc thiên tẩu Đông Hải
Vạn lý tả nhập hung hoài gian
(Tăng Bùi Thập Tứ)
Đây là thủ pháp khoa trương, phóng đại để nói lên cái mênh mông của
không gian vũ trụ trong xu hướng giãn nở.
Mặc dù rất yêu không gian tĩnh nhưng Lý Bạch lại thích đi, ông đã đi
rất nhiều. Chính vì vậy mà nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước Trung
Hoa đã soi bóng vào thơ ông. Và Lý Bạch đã đi là đi xa - đến thiên lý, vạn lý -
Bởi ông đi để mở rộng chân trời, mở rộng hiểu biết gặp gỡ thêm nhiều người;
mở rộng giao du. Đã có lúc Lý Bạch rất sợ đi xa này đã làm nên những cuộc
chia tay. Đây chính là lúc không gian tống biệt xuất hiện.
Lý Bạch đi rất nhiều và gặp bạn cũng nhiều để rồi chia ly cũng nhiều,
có lẽ vậy mà những bài thơ viết về đề tài tống biệt thường rất hay đặc sắc và
toàn đầy cảm xúc.
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến trường giang thiên tế lưu
(Lý Bạch – Hoàng Hạc Lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng)
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 37
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Bài thơ tả cảnh chia tay đầy lưu luyến giữa người ra đi, kẻ ở lại. Đặc
biệt là tình cảm giữa người ở lại dành cho người ra đi. Giữa thời thái bình,
bạn lại ra đi từ một thắng cảnh đẹp (lầu Hoàng Hạc - một di tích thần tiên)
đến một thắng cảnh (Quảng Lăng thuộc Dương Châu – nơi phồn hoa đô hội
nổi tiếng thời Đường) nên buổi tiễn đưa không đầm đìa giọt lệ. Thông qua
miêu tả cảnh với hình ảnh cánh buồm mờ dần, thấp thoáng cho đến khi bóng
buồm mất hút khỏi khoảng trời nước xanh thẳm bao la (bích không tận). Nhà
thơ đã gửi gắm dòng sông hữu hạn vào bầu trời vô hạn để thể hiện mối tình
thăm thẳm như dòng sông, vô tận như bầu trời.
Nhưng cũng có những cuộc chia ly làm rung động cả càn khôn, thắm
đượm vào không gian bao la. Cuộc chia ly vũ trụ làm cho bao nhiêu khúc
chiết liễu đã vang lên trong ống sáo, bao nhiêu cành liễu đã bị những bàn tay
đưa tiễn hái tặng nhau. Lý Bạch phải đau lòng thốt lên.
Thiên hạ thiên tâm xứ
Lao lao tống khách đình
Xuân phong tri biệt khổ
Bất khiển liễu điều thanh
(Lý Bạch – Lao Lao Đình)
(Nỗi đau khổ nhất gầm trời
Là đình Lao Lao nơi tiễn khách
Ngọn gió xuân hiểu nỗi buồn ly biệt
Còn không nữ khiến cành liễu xanh)
Hay:
Đảo hoa khai chước chước
Đinh liễu tế y y
Biệt hậu vô tư sự
Hoàn ưng tảo điếu ky
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 38
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
(Lý Bạch - Tống khách quy Ngô)
(Trên đảo hoa nở rực rỡ
Liễu bên bờ buông lá nhỏ thướt tha
Sau khi chia tay, không còn việc gì nữa
Quét sạch tảng đá ngồi câu cá.
Không gian thiên nhiên trong thơ Lý Bạch không chỉ dừng lại ở không
gian cao viễn, không gian của những cuộc chia ly đầy lưu luyến mà còn là sự
ca ngợi những cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, rộng lớn, đẹp như trong cõi tiên. Bởi
cõi tiên toàn là người trong sạch:
Người trời hiền, chuộng yêu
Trăng vốn thường đa cảm
(Lý Bạch - Cổ lãng nguyệt hành)
Với một cảm hứng lãng mạn bay bổng, một cảm xúc mãnh liệt Lý Bạch
đã khắc hoạ thành công hình tượng kỳ vĩ hào hùng cảu thác núi Lư
Nhật chiếu hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân hà lạc cửu thiên
(Vọng Lư sơn bộc bố)
(Mặt trời chiếu núi hương lô sinh làn khói tín
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đỡ thẳng xuống ba nghìn
thước
Ngỡ là sông ngân hà rơi từ chín tầng mây)
Cả bài thơ vẽ nên một bức tranh thật đẹp vừa thực vừa ảo làm hiện lên
vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ đầy màu sắc: màu trắng của thác, màu
xanh của núi, màu vàng của nắng và màu tía của sương khói đã gợi nên vẻ
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 39
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
đẹp huyền ảo của toàn cảnh. Mà đằng sau câu thơ, người đọc cảm thấy thi tiên
đang đứng lặng trầm ngâm và say sưa ngắm thác núi Lư.
Hay trong bài thơ Tảo phát bạch Đế Thành - cảnh đẹp thiên nhiên cũng
được Lý Bạch ca ngợi và khắc hoạ rõ nét
Triên từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên Lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đế bất tận
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san
(Táo …Thành)
(Sáng từ biệt thành Bạch Đế, trong làn mây rực rỡ
Một ngày vượt tới ngàn dặm về tới Giang Lăng
Hai bên bờ sông tiếng vượn kêu không dứt
Thuyền nhẹ tênh đã vượt núi non muôn trùng)
Không một chữ dốc, một chữ cao, nột chữ nước song độ cao của thành
Bạch Đế, độ dốc của con sông, tốc độ của dòng nước chảy hiện lên rõ như
tranh vẽ. Không chỉ khắc hoạ khí thế ào ạt của sông Trường Giang tuôn về
động mà còn có cái xông xáo, hăn hở của một con đường tràn trề sức sống.
Một đặc điểm của không gian thiên nhiên trong thơ Lý Bạch là xuất
hiện bóng trăng. Thơ trăng Lý Bạch huyền ảo vô cùng,… Trăng trên núi, trăng
trên sông, trăng với lữ khách, trăng ở quán trọ và trăng trong cả lúc cô đơn
nhất. Với bài Tĩnh dạ tứ ta cũng đủ xao lòng cùng Lý Bạch trước trăng.
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đấu tứ cố hương
Cả không gian ngập tràn ánh trăng. Ánh trăng rọi vào đầu giường. Hình
như đã đánh thức thi nhân dậy thật cảm động, trăng đến khơi gợi một nguồn
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 40
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
thơ và trăng là chất liệu tạo nên vần thơ dào dạt. Ánh trăng và cố hương gắn
với nhau trong mạch cảm hứng trữ tình của tác giả hoà quyện thành một liên
tưởng thấm thía, cảm động. Vì thế, ánh trăng đêm nay là ánh trăng gợi nhớ,
gợi sầu, vấn vương một hoài niệm, làm sống dậy bâng khuâng của một hồn
thơ và một tình quê man mác.
Hay trong bài Quan sơn nguyệt tác giả cũng hướng đến trăng ánh trăng
như nhuốm toàn bộ không gian trong thơ của ông ánh trăng xuất hiện khắp
nơi, mọi nơi:
Minh nguyệt xuất thiên sơn
Thương vân mang hải gian
(Trăng sáng mọc trên núi thiên
Giữa biển mây mênh mông)
Ánh trăng là hình ảnh trung tâm của bức tranh - một bức tranh đẹp đến
lạ thường. Núi thiên không gần biển mà biển ở đây được tạo bởi mây. Trăng
mọc trên núi Thiên và nằm trong lòng của một biển mây mênh mông, với bao
lớp sóng nhấp nhô. Làm cho ta cảm nhận được trăng giường như được mọc
lên từ biển, vẫn cho ta cảm nhận được sự mênh mông khôn cùng của biển.
Đã có lúc ánh trăng ấy lại xuất hiện như một nhân vật đồng cảm với
nhà thơ đó là người bạn tri âm, tri kỷ một người bạn tâm tình, là cái bóng theo
suất cuộc đời thi nhân.
Mộ tòng bịch Sơn há
Sơn nguyệt tuỳ nhân quy
(Lý Bạch – Há Chung nam Sơn)
(Chiều hôm bước xuống chân đò
Ánh trăng trên núi cũng theo người về
Hay:
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 41
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ
(Lý Bạch - Bả tửu Vấn nguyệt)
(Người với trăng vin chẳng được
Khi đó trăng lại mãi theo nhau)
Không gian thiên nhiên là một yếu tố nghệ thuật luôn hiện hữu trong
thơ Lý Bạch. Với một tình yêu thiên nhiên, và một tâm hồn luôn hướng đến
khao khát giao hoà chiếm lĩnh thiên nhiên đã tạo nên một tâm hồn phóng
khoáng, một phong cách lãng mạn bay bổng trong thơ Lý Bạch
2.2. Không gian sinh hoạt xã hội
Không gian sinh hoạt xã hội đó là không gian diễn ra cảnh sinh hoạt,
lao động của con người, không gian mà ở đó có mặt đầy đủ những tầng lớp,
những số phận của mỗi cá nhân trong xã hội. Từ những kẻ sống sung sướng,
nhàn hạ nơi cung cấm đến những người khốn khổ dưới đáy xã hội, những con
người bị áp bức bóc lột, những cảnh chết chóc đau thương trong chiến tranh
loạn lạc…Tuy nhiên không gian này có mặt không nhiều trong thơ Lý Bạch.
Xuất phát từ tình cảm chân thành và sự đồng cảm sâu sắc với đời
sống vất vả khốn khó của người dân lao động chịu cảnh loạn lạc bởichiến
tranh và bị áp bức bóc lột của bọn vua quan trong xã hội đương thời và nhất là
trong loạn An Lộc Sơn. Với ngói bút tả thực Lý Bạch đã khắc hoạ lên những
cảnh tượng thật đau lòng, thê thảm của nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ
này thông qua không gian sinh hoạt xã hội trong thơ ông.
Qua những bài cổ phong, Lý Bạch đã dựng lên không gian với những
nếp sống xa hoa, đồi bại của quý tộc, quan liêu thuộc tầng lớp trên vạch trần
các tên đế vương diễu võ dương oai, mê thần tiên, đắm nữ sắc, khinh nhân
tài… không gian cung đình được Lý Bạch phản ánh: trước hết ông tỏ thái độ
coi khinh bọn quyền quý, phê phán bọn mũ quan áo dài xa hoa thối nát. Bài
cổ phong thứ 15 Lý Bạch viết:
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 42
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Cớ sao bậc cao sĩ
Vứt ngọc mua cười hát
Châu ngọc mua cười hát
Tấm cám nuôi hiền lương
Ông còn nói đến những thời đen tối do sự xa hoa của vua quan nhà
Đường gây ra ngay khi còn đang làm quan ở Trùng An trong hành lộ nan (Đi
đường khó) bài thứ 2 ông viết:
Đường lớn như trời xanh
Ta còn chưa đến được
Thẹn không bằnglũ nhóc Trường An
Đá gà, đấu chó chơi thoả thích
Chiêu Dương sương trắng phơi cỏ dại
Nào ai quét dọn Hoàng kim đài…
Chỉ bấy câu thơ thoi cũng đủ cho Lý Bạch vạch rõ bộ mặt thối nát của
bọn vua quan đời Đường. Không gian cung đình đã tái hiện được cảnh ăn
chơi sa đoạ xuống dốc của những kẻ chốn thâm cung chúng chỉ biết vui chơi
hưởng lạc bên những thú vui đá gà, đấu chó thể hiện sự khủng hoảng của chế
độ phong kiến thời Đường.
Đối ngược với không gian cung đình là không gian biên tái và không
gian sinh hoạt của người dân.
Lý Bạch có thơ biên tái hay như tái hạ khúc, Quan san nguyệt, có
những câu thơ chấn động lòng người:
Đồn Bạch Đăng Hán đóng
Vùng Thanh Hải, Hồ nhòm
Xưa nay người chinh chiến,
Một đi là biệt tăm…
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 43
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Hay những lời thơ khắc hoạ rõ nét cảnh ác liệt ở chiến trường và hậu
quả của chiến tranh ấy:
Sa trường đâm nhau chết
Ngựa ai ngơ ngác nhìn hí trời
Diều quạ rịa ruột người
Tha treo cành khô không tả tơi
(Chiến thành Nam)
Nếu không gian vũ trụ thường được vẽ nên bằng những nét chấm phá
đơn sơ gây ấn tượng và gợi liên tưởng thì ở không gian xã hội ngòi bút của thi
nhân đã miêu tả rất cụ thể có khi tỉ mỉ với những cảnh:
Xương trắng chất thành núi
Dân đen tội tình gì?
Đây chính là hậu quả mà loạn Thiên Bảo gây ra cho nhân dân. Bằng
sự xót thương với những con người vô tội xương chất thành núi ấy cùng với
sự căm phẫn những kẻ đã gây nên tội ác này, Lý Bạch đã dựng lên một không
gian thật ghê rợn, đầy xót xa, đầy nỗi bi ai.
Cũng vì chiến tranh mà làm cho người phụ nữ phải mòn mỏi ngày
đêm mong ngóng chồng về. Chồng phải ra miền biên ải, làm cho tình cảm vợ
chồng xa cách, chia lìa, phải chịu sự đau khổ, chia lìa mãi mãi.
Giận nỗi vợ thương dân
Tuổi xuân xa cách mãi
(Trường can hành)
Hay:
Dừng thoi man mác nhớ người xa
Phòng riêng, gối lẽ, lệ như mưa
(Ô dạ đề)
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 44
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Thông qua không gian chiến tranh, không gian biên tái trong thơ, Lý
Bạch đã gợi lên được một thời kỳ loạn ly tán của xã hội Trung Quốc lúc bấy
giờ đồng thời thể hiện thái độ phê phán căm phẫn tội ác chiến tranh, đồng
cảm với những người lính, người vợ chờ chồng và biết bao con người khác
phải chịu hậu quả mà chiến tranh gây nên.
Thơ ông còn gợi lên không gian đời thường bằng việc miêu tả sự
khốn khó, cùng cực của người nôn dân. Ông đã xót xa trước những cảnh nhân
dân phải làm việc như trâu như ngựa với những công việc nặng nề, vất vả:
Đường ngược lên Vân Dương
Đôi bờ buôn trù mất
Tiết trâu Ngô thở trăng
Người kéo thuyền khổ nhật
(Đinh đô hộ ca)
Hay miêu tả sự khắc nghiệt của thời tiết
Cõi bát hoang gió mạnh ruổi
Muôn vật đều úa rụng
Mây nổi che ánh sáng
Sóng lũ chồm vũng lớn …
(Cổ phong 14)
Tuy nhiên bên cạnh những gam màu u tối, ảm đạm nhợt nhạt ấy đã có
lúc vang lên những khung cảnh lao động tươi vui đầy nên thơ được nhà thơ
thể hiện trong bài Thái Liên khúc
Có cô con gái nhà ai
Hái sen chơi ở bên ngòi Nhược Gia
Mặt hoa cuời cách đoá hoa
Cùng ai cười nói mặn mà thêm xinh…
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 45
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Câu thơ gợi lên nét đẹp trong sáng, tươi vui trong đó là sự kết hợp hài
hoà giữa con người (cô gái) và cảnh vật (hình ảnh hoa sen) phần nào thể hiện
được cuộc sống thanh bình, ấm áp của người dân. Bài thơ là một sự kết hợp
hài hoà tinh tuý làm cho cảnh hái sen vốn bình dị trong lao động của con
người trở nên thơ mộng và đẹp như một bức tranh.
Qua đây cho ta thấy rằng: Đặc trưng của không gian nghệ thuật trong
thơ Lý Bạch là không gian thiên nhiên. Điều này phù hợp với tâm hồn và
phong cách thơ lãng mạn của ông. Bên cạnh đó, cũng có không gian sinh hoạt
xã hội (không gian đời thường, không gian cung đình, không gian biến tái…)
tuy không nhiều trong thơ ông. Song nó thể hiện được sự phong phú về đề tài
và nội dung trong thơ Lý Bạch. Ở các sáng tác của ông có sự kết hợp hài hoà,
giữa yếu tố lãng mạn và yếu tố hiện thực. Một tư tưỏng thoát tục nhưng hàm ý
yêu đời, yêu người sâu sắc. Ông yêu cái đẹp của thế giới xung quanh đến
nồng nhiệt, hiểu và hết sức cảm thông, yêu quý, trân trọng những con người
vất vả, khổ cực, lên án, phê phán những kẻ quan lại chỉ biết hưởng lạc, những
cuộc chiến tranh phi nghĩa.
2.3. So sánh không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch và thơ Đỗ Phủ
Lý Bạch và Đỗ Phủ là hai nhà thơ tiêu biểu cho thời thịnh Đường. Họ
là bạn vong niên của nhau. Tuy cả hai người đều sống trong thời kỳ loạn An
Lộc Sơn xảy ra, cùng chứng kiến sự đồi bại, suy vong của vua chúa thịnh
Đường và chứng kiến cảnh tang thương chết chóc của nhân dân trong loạn
lạc, chiến tranh, những nỗi vất vả khổ cực của người dân lao động… Thế
nhưng mỗi nhà thơ lại xây dựng cho mình một phong cách thơ khác nhau:
hình tuợng thơ Lý Bạch bay bổng kỳ vĩ thì hình tượng thơ Đỗ Phủ chân thật,
giản dị, gần gũi với cuộc sống đời thường.
Lý Bạch là một nhà thơ lãng mạn, nội dung trong thơ Lý Bạch rất
phong phú nhưng chủ đề chính là thể hiện sự khát khao vươn tới lý tưởng cao
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 46
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
đẹp, khát vọng giải phóng cá tính. Chính vì vậy mà phong cách thơ Lý Bạch
phóng túng, phiêu bạt mà rất tự nhiên, tinh tế mà giản dị, thơ ông hay nói về
cõi tiên nên người đời gọi ông là thi tiên, là một cuộc hành trình đi tìm và thể
hiện cái đẹp của thiên nhiên, của đời sống và của tình người. Cho nên không
gian đặc trưng trong thơ Lý Bạch là không gian thiên nhiên. Không gian nghệ
thuật ấy mang tính quan niệm, không gian thẩm mĩ, không gian cao rộng…
Ngoài những sáng tác viết về không gian thiên nhiên, Lý Bạch còn có
những sáng tác viết về không gian sinh hoạt xã hội phần nào phản ánh được
cuộc sống, tình cảm của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Nhưng những sáng
tác này còn ít chưa sâu sắc, vì vậy mà không gian xã hội không gian đặc trưng
như không gian thiên nhiên.
Còn với Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thưc của Trung Quốc với cuộc đời
buồn thương, đau khổ đói khát. Ông lại là người phiêu bạt nhiều nơi, vì thế
thơ ông phản ánh một cách chân thực đậm nét cảnh tượng xã hội trong thời
chuyển giao từ thời cực thịnh sang thời cực suy. Bởi thế mà không gian nghệ
thuật đặc trưng trong thơ ông là không gian sinh hoạt đời thường(là chiến
tranh đời thường). Đó là một không gian chật hẹp, cụ thể, biệt ly, loạn lạc,…
Đây chính là điểm khác nhau lớn nhất trong không gian nghệ thuật
giữa nhà thơ Lý Bạch và thơ Đỗ Phủ. Cùng một đề tài nhưng với mỗi phong
cách, hoàn cảnh khác nhau vì thế mà mỗi người đã tạo riêng cho mình những
nét đặc trưng và dấu ấn riêng.
Có thể nói ở Đỗ Phủ và Lý Bạch chẳng xa bao nhiêu về không gian và
thời gian nhưng có cả một sự biến đổi trời vực về không gian nghệ thuật.
Nhưng biết làm sao được! Đỗ Phủ cũng muốn làm cái cao cả và cái đẹp được
thống nhất lại trong như Lý Bạch lắm chứ nhưng ông không thể không vẽ lại
bóng nắng gầy guộc thê thảm trên một quê hương đã bị chiến tranh tàn phá
đến xơ xác, tiều tụy. Sự thay đổi trời vực về không gian nghệ thuật này phản
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 47
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
ánh một hiện thực khắc nghiệt của thời Đường - Từ đỉnh cao của thái bình
thịnh trị bị đột ngột ném xuống vực thẳm của cuộc chiến tranh trời đất sụp
(Vẫn cảm - Đỗ Phủ).
Lý Bạch và Đỗ Phủ là hai nhà thơ tiêu biể nhất trong thơ Đường
Trung Quốc, sống cùng thời nhưng hai ông lại xây dựng mình phong cách thơ
khác nhau. Nếu Đỗ Phủ hướng tới dân đen với tất cả tinh thần và trách nhiệm
của mình để chia sẻ nỗi gian nan trong bể khổ thì Lý Bạch lại hướng ngòi bút
của mình tới vũ trụ bao la rộng lớn mà thưởng thức, lĩnh hội tất cả những vẻ
đẹp của thiên nhiên vào tầm mắt của mình để từ đó tạo nên không gian nghệ
thuật riêng, đặc trưng cho mỗi nhà thơ với những phong cách thơ đặc trưng
cho mỗi nhà thơ với những phong cách thơ đặc trưng riêng đồng thời góp
phần hình thành nên thi pháp thơ Đường.
IV. Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong một số tác phẩm
của Lý Bạch ở chương trình văn THCS.1. Bài Vọng Lư sơn bộc bố (xa ngắm thác núi Lư)
Đây là bài thơ tả cảnh thiên nhiên của Lý Bạch vì vậy mà khi giảng
dạy bài này, chúng ta phải biết định hướng tiếp cận cho học sinh về không
gian nghệ thuật trong bài là không gian thiên nhiên. Bài thơ miêu tả cảnh
thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ, biểu lộ một tình yêu thiên nhiên, yêu núi
sông tổ quốc
Nắng rọi Hương Lô khỏi tía bay
Xa trông dòng thác bước sông này
Hương Lô hay Hương Lư là một ngọn của dãy núi Lư trông giống
như chiếc bình hương. Hai câu điều của sông núi hùng vĩ. Nhà thơ đứng nhìn
thác từ phía xa và vị trí thấp hơn so với chiều cao của thác. Do đó, trước mắt
ông cảnh dòng thác và núi đâu khác gì một bức tranh sơn thuỷ treo ở lưng
chừng trời. Bức tranh có nhiều màu sắc và có vẻ đẹp huyền ảo
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 48
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Bức tranh kỳ vĩ của núi sông này được bàn tay thi nhân vẽ lên thật rõ
nét.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng giải ngân hà tuột khỏi mây
Trước mắt người đọc là một dòng thác lấp lánh bạc đổ xuống tưởng
như dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây ở trời cao, cao lắm, rơi xuống hạ
giới. Sự so sánh ấy thật độc đáo đã làm tôn thêm vẻ đẹp kỳ vĩ của dòng thác
núi Lư có thực trên trần thế.
Cả bài thơ mở ra một không gian thiên nhiên cao lớn rộng mở, không
gian khoáng đãng. Không gian ấy mở ra trước mắt ta với đầy đủ màu sắc,
hình khối đường nét. Tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa thực vừa ảo làm
hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư.
Bài xa ngắm thác núi Lư của thi tiên - Lý Bạch đã lưu lại cho muôn
đời bằng phương tiện văn học cái đẹp hùng vĩ của một dòng thác khổng lồ kỳ
lạ. Càng đọc thơ ông, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước và càng khâm
phục sự phóng khoáng của một nhà thơ có trí tưởng tượng dồi dào, phong
phú. Bài thơ tiêu biểu cho kiểu không gian nghệ thuật đặc trưng trong thơ ông
– Không gian thiên nhiên. Chính nét đặc sắc của kiểu không gian này đã làm
cho bài thơ đạt đến giá trị cao về mặt nội dung lẫn nghệ thuật.
2. Bài Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn có hai mươi chữ
nhưng đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc về cảnh mộng đêm trăng gợi lên vẻ
đẹp tâm hồn của thi nhân với bút pháp lãng mạn thần tình.
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 49
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
Khi tiếp cận bài thơ chúng ta nên lưu ý làm rõ cho học sinh thấy được
không gian và thời gian nghệ thuật của bài thơ.
Thời gian trong bài là đêm đã khuya trở nên thanh tĩnh gợi nên một
không gian bốn bề vắng lặng, không một tiếng động. Nhưng không gian ấy
được bao phủ bởi ánh trăng, ánh trăng sáng quá đã lãi không gian để rồi nhà
thơ chợt tỉnh giấc thấy mình nằm dưới trăng.
Cả ba câu thơ đầu đều tỏ ánh trăng trong đêm thanh tĩnh với tâm trạng
bồi hồi và ngỡ ngàng của thi nhân. Thi sĩ đã mở ra một không gian nghệ thuật
vừa thực vừa mộng, huyền ảo lung linh.
Lúc bấy giờ, Lý Bạch đang sống nơi đất khách quê người giữa đêm
khuya thanh tĩnh chỉ có trăng và thi nhân. Ánh trăng ấy đã gợi nên một không
gian lạnh lẽo cô đơn, trống trải. Đó còn là ánh trăng gợi sầu, vấn vương một
hoài niệm sống dậy bao bâng khuâng của một hồn thơ và một tình quê man
mác.
Cả hai bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố và Tĩnh dạ tứ là những bài thơ tiêu
biểu về kiểu không gian thiên nhiên trong thơ Lý Bạch, nhưng mỗi bài thể
hiện mỗi khung cảnh thiên nhiên khác nhau.Với ngôn ngữ thơ hàm súc, hình
tượng, hoa lệ, cảm xúc mênh mông, gợi nên một không gian buồn đẹp tất cả
tạo nên vẻ đẹp văn chương của bài thơ trăng này.
Qua đây, ta thấy rõ hơn hồn Lý Bạch. Một tình yêu lớn đối với thiên
nhiên, quê hương, đất nước. Tình yêu ấy đã tạo nên một tâm hồn thơ phóng
khoáng với phong cách lãng mạn bay bổng, tràn đầy cảm xúc của thi tiên – Lý
Bạch.
C. KẾT LUẬNNhư vậy, thông qua việc nghiên cứu không gian nghệ thuật trong thơ
Lý Bạch giúp người đọc, người nghe phần nào hiểu rõ hơn giá trị nghệ thuật
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 50
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
trong các tác phẩm của ông. Không những thế, mà không gian nghệ thuật là
một phương diện quan trọng của thi pháp vì vậy mà nghiên cứu không gian
nghệ thuật giúp ta mở cánh cửa để hiểu được hình tượng và tư tưởng mà tác
giả gửi gắm trong tác phẩm.
Lý Bạch có một vị trí và vai trò đặc biệt trong thi ca đời Đường.
Chính vì vậy mà khám phá không gian nghệ thuật trong thơ ông giúp ta dễ
dàng tiếp cận với thi ca thời Đường Trung Quốc tạo cho mình một kiến thức
nhất định để sau này khi ra trường dạy cho các em phần thơ Đường sẽ không
bị lúng túng và gặp khó khăn trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho
các em. Giúp các em dễ dàng tiếp cận tác phẩm để cảm nhận sâu hơn, hiểu
hơn về thi pháp thơ Đường.
Qua việc nghiên cứu và khám phá không gian nghệ thuật trong thơ Lý
Bạch, ta thấy được vũ trụ rộng lớn, bao la, núi sông hùng vĩ, thiên nhiên cỏ
cây hoa lá, trăng, sao, luôn hiện lên với một vẻ đẹp kỳ lạ khác thường. Tất cả
đã dựng lên với một không gian nghệ thuât trong thơ ông đó là không gian
nghệ thuật trong thơ ông đó là không gian thiên nhiên - đẹp, lãng mạn.
Bên cạnh ấy ông còn khai thác ở bề sâu cuộc sống bằng không gian
xã hội, phản ánh cuộc sống nghèo khổ của lớp dân đen, đời sống tuỵ lạc xa
hoa trong chốn thâm cung và cảnh chiến tranh loạn lạc ly tán. tất cả làm nên
không gian đời thường trong thi ca Lý Bạch.
Qua đề tài nghiên cứu này, ta thấy được sự đóng góp to lớn của Lý
Bạch vào nên thi ca Trung Quốc nói chung và thi Đường nói riêng. Ngòi bút
của ông không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về mặt nghệ
thuật trong đó không thể thiếu được không gian nghệ thuật - một yếu tố hình
thành nên phong cách thơ của Lý Bạch.
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 51
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Nguyễn Thị Bích Hải: Thi pháp thơ Đường
NXB Thuận Hoá Huế - 1995.
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 52
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
2. Nguyễn Thị Bích Hải: Bình giảng thơ Đường
NXB giáo dục – 2005
3. Đoàn Thị Kim Nhung - Tạ Thị Thanh Hà: Để học tốt văn học nước
ngoài THCS
NXB Quốc gia TP HCM – 2006
4. Hồ Sĩ Hiệp: Lý Bạch
NXB Quốc gia TP HCM – 2006
5. Phan Ngọc: Đỗ Phủ nhà thơ thánh với hơn 1000 bài thơ
NXB văn hoá thông tin – 2001.
6. Trần Đình Sử: Giáo trình dẫn luận thi pháp học
NXB giáo dục – 1998.
7. Nguyễn Khắc Phi: Lịch sử văn học Trung Quốc Tập I
NXB giáo dục – 1997
8. Nguyễn Văn Phú: Thơ Đường ở Việt Nam
NXB hội nhà văn 1996
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 53
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 54
Không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch
SVTH: Trần Thị Khương K28 Văn - Sử Trang 55