chuyên Đề triết học dùng cho hv cao học không chuyên...
TRANSCRIPT
CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌCCHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC
(Tài liệu nghiên cứu Triết học
dùng cho học viên Cao học không chuyên)
Tác giả: VI THÁI LONG
Chuyên đề 1. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG - VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
Triết học là hình thái ý thức xã hội, phản ánh những qui luật vận động
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó ra đời từ rất sớm và để lại
những giá trị to lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại. Kể từ khi ra đời cho
đến nay, nó đã có nhiều thay đổi về nội dung và chức năng, trong đó chức
năng thế giới quan có vị trí và vai trò rất quan trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu
triết học không thể không nghiên cứu chức năng này. Nhưng thế giới quan là
gì? nó có cấu trúc như thế nào? có bao nhiêu loại thế giới quan? trong các
loại thế giới quan đó thì thế giới quan nào là thế giới quan khoa học cần phải
trang bị cho con người trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
những vấn đề đó sẽ được làm sáng tỏ trong chuyên đề này.
I. KHÁI NIỆM THẾ GIỚI QUAN1. Các đặc điểm cơ bản của thế giới quan:
Khi bàn về thế giới quan, đã có nhiều quan niệm khác nhau:
- Trong cuốn “Từ điển bách khoa toàn thư triết học” - Tiếng Nga - Xuất
bản năm 1964 tại Matxcơva, (T3,Tr.454) đã xác định: “Thế giới quan là hệ
thống những quan điểm khái quát của con người về thế giới nói chung, về
những hiện tượng riêng lẻ và bản thân con người trong thế giới ấy, về sự
chinh phục trong hoạt động của mình và về số phận của nhân loại, là toàn bộ
những quan điểm khoa học, triết học, chính trị, pháp quyền…”.
- Trong cuốn “Từ điển triết học” của Liên Xô do M.Rôdentan và P.Iuđin
chủ biên. Nxb. Sự thật, Hà Nội. 1976, (Tr.906) có viết: “Thế giới quan là hệ
thống quan điểm, khái niệm và quan niệm về toàn bộ thế giới xung quanh
mình. Theo nghĩa tổng quát, đó là toàn bộ những quan điểm về thế giới, về
những hiện tượng tự nhiên và trong xã hội: các quan điểm triết học, xã hội và
chính trị, luân lý, mỹ học, khoa học vv…. Các quan điểm triết học hợp thành
hạt nhân chủ yếu của mọi thế giới quan, hiểu theo nghĩa đen của danh từ ấy”.
- Trong “Từ điển triết học” Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 1986 (Tiếng Việt,
Tr.539) có viết: “Thế giới quan là toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và
niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập
đoàn xã hội của một giai cấp hay của xã hội nói chung đối với thực tế”.
- Trong Cuốn “Giáo trình triết học Mác - Lênin”, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. 1999 (Tr. 21) đã xác định: “Toàn bộ những quan niệm về thế giới về
vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân và cuộc sống của con
người và loài người hợp thành thế giới quan của một con người, một cộng
đồng người trong mỗi thời đại nhất định.”
- Còn ở cuốn “Giáo trình triết học Mác - Lênin” (dùng trong các trường
Đại học và Cao đẳng) xuất bản năm 2002, (Tr.12) đã cho rằng “thế giới quan
là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó”.
- Trong tài liệu “Triết học” tập 3 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (dành cho
nghiên cứu sinh và cao học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, (Tr.5) đã
viết: “Thế giới quan là hệ thống những quan niệm của con người về thế giới,
về vị trí của con người trong thế giới nhằm giải đáp những vấn đề về mục
đích, cuộc sống của con người”.
Từ các định nghĩa đã nêu ở trên, mặc dù còn có cách hiểu theo các
khía cạnh khác nhau, song khi nói đến thế giới quan, các định nghĩa đó đều
xác định thế giới quan là “hệ thống quan điểm của con người về thế giới”. Nó
bao gồm các đặc trưng cơ bản:
- Đặc trưng thứ nhất, thế giới quan là toàn bộ những quan điểm của
con người. Điều đó có nghĩa xác định thế giới quan thuộc lĩnh vực đời sống
tinh thần của con người chứ không phải lĩnh vực đời sống vật chất của họ.
Các quan niệm đó là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong đầu óc của con người chứ không phải là bản thân hiện thực khách quan
ấy. Nó có thể là một quan niệm của cá nhân và cũng có thể là tất cả những
quan niệm, quan điểm của con người, của loài người gộp lại.
- Đặc trưng thứ hai, thế giới quan là nó phản ảnh mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, xã hội. Có nghĩa là nó phản ảnh mối quan hệ giữa con
người với thế giới. Đó là những tri thức, niềm tin, tình cảm ý chí, lý tưởng của
con người về thế giới và về chính bản thân con người và vị trí của họ trong
thế giới đó.
- Đặc trưng thứ ba, thế giới quan là nó có tính lịch sử - xã hội vì nó ra
đời, vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của loài người.
Nó phản ánh trình độ và lợi ích khác nhau của con người trong các giai đoạn
lịch sử. Điều đó là hiển nhiên, vì trong quá trình tồn tại và phát triển của mình,
con người luôn luôn phải thích nghi với thế giới xung quanh, phải sống hoà
hợp và có quan hệ mật thiết với thế giới đó. Song con người không thích nghi,
quan hệ hoà hợp một cách thụ động, chịu sự chi phối hoàn toàn của thế giới
mà luôn luôn tìm cách cải biến thế giới theo nhu cầu và lợi ích cuộc sống của
mình. Muốn vậy con người phải hiểu biết về tự nhiên, về xã hội và về chính
bản thân mình. Từ đó buộc con người phải lý giải nhiều vấn đề về thế giới và
bản thân mình. Chẳng hạn như thế giới này do đâu mà có? Bản chất của nó
là gì? Nó có vai trò gì đối với đời sống con người? Sự biến đổi của nó có tác
động như thế nào đến sinh vật và con người? Con người được sinh ra từ
đâu? Bản chất của con người là gì? Con người có vị trí như thế nào trong tự
nhiên và trong xã hội? Bản chất của xã hội là gì? Nó hình thành và phát triển
dưới tác động của những qui luật nào? vv… Những câu hỏi đó được con
người luôn luôn đặt ra và giải quyết ở những mức độ khác nhau tuỳ theo sự
phát triển của chính con người và sự phát triển của xã hội từ thời mông muội
cho đến ngày nay cũng như của mai sau. Con người thường xuyên muốn
hiểu biết hoàn toàn đầy đủ, chính xác về các sự vật hiện tượng, quá trình của
thế giới khách quan. Song tri thức của con người và cả loài người tích luỹ
được lại có giới hạn. Quá trình tìm hiểu và giải đáp những câu hỏi đặt ra sẽ
hình thành ở con người những quan niệm nhất định về thế giới cũng như về
vị trí, vai trò của con người trong thế giới hiện thực. Những quan niệm đó tạo
nên thế giới quan của con người. Thông qua thế giới quan của mình, con
người xem xét, nhìn nhận, tìm tòi để hiểu biết bản chất của thế giới. Từ đó
định hướng, chỉ đạo, chi phối nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người.
Trên cơ sở của ba đặc trưng cơ bản đó có thể định nghĩa khái niệm thế
giới quan như sau: “Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm có tính lịch sử
- xã hội của con người về thế giới”.
Quan niệm về thế giới quan như vậy không có nghĩa là đồng nhất nó
với triết học. Bởi vì giữa thế giới quan và triết học tuy có những điểm giống
nhau là cùng tìm cách giải thích thế giới và định hướng cho việc cải tạo thế
giới, nhưng có sự khác nhau cơ bản là ở chỗ, thế giới quan bao gồm toàn bộ
những quan niệm của con người về thế giới. Còn triết học chỉ là một hệ thống
các quan niệm dưới dạng lý luận về những vấn đề chung nhất của thế giới
mà thôi. Chính vì vậy mà thế giới quan chỉ là một trong các chức năng của
triết học, còn triết học lại là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
2. Cấu trúc của thế giới quan
Thế giới quan có cấu trúc phức tạp, bao gồm tri thức, niềm tin, tình
cảm, ý chí và lý tưởng.
- Tri thức là kết quả của nhận thức, tức là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Tri thức bao gồm nhiều loại
khác nhau: có tri thức về tự nhiên, có tri thức về xã hội và có tri thức về tư
duy. Lại có tri thức đúng, có tri thức sai.
- Tình cảm là tình yêu và sự cảm hoá của con người trước một hành
động, một sự vật nào đó. Có nhiều loại tình cảm khác nhau như tình cảm
trong sáng, tình cảm không trong sáng; tình cảm chân thành, tình cảm không
chân thành.
- Niềm tin là sự tin tưởng vào một quan niệm nào đó. Bao gồm các loại
niềm tin khoa học, niềm tin không khoa học; niềm tin bền vững hoặc niềm tin
không bền vững…
- Ý chí là năng lực trí tuệ của con người quyết tâm đạt được một ý định
nào đó đã đề ra. Nó được hình thành trên cơ sở niềm tin để tạo thành lý
tưởng sống của con người.
- Lý tưởng là lý luận mà con người tưởng tượng ra thành mục đích để
hướng tới trong cuộc sống. Lý tưởng được hình thành nếu không xuất phát từ
“mảnh đất” hiện thực, từ đời sống xã hội của con người thì lý tưởng đó sẽ là
phi hiện thực và ảo tưởng. Ví dụ: “Cõi niết bàn” hay “chủ nghĩa xã hội không
tưởng”. Còn lý tưởng được hình thành nếu xuất phát từ “mảnh đất” hiện thực
từ quy luật phát triển của cuộc sống thì lý tưởng đó sẽ trở thành hiện thực. Ví
dụ: “Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa”.
Giữa tri thức, niềm tin, tình cảm, ý chí và lý tưởng có một mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó thì tri
thức là bộ phận quan trọng nhất đóng vai trò quyết định đối với việc hình
thành niềm tin, tình cảm, ý chí và lý tưởng. Bởi vì nếu có tri thức đúng đắn,
khoa học thì sẽ hình thành niềm tin vững chắc, tình cảm trong sáng, ý chí
mãnh liệt và lý tưởng cao cả. Ngược lại nếu tri thức mà không đúng đắn sẽ
hình thành niềm tin không bền vững, tình cảm không trong sáng, ý chí yếu ớt
và lý tưởng thấp hèn.
3. Những hình thức thể hiện của thế giới quan
Thế giới quan được thể hiện ra ở nhiều hình thức khác nhau. Song có
ba hình thức cơ bản, phản ánh ba trình độ khác nhau của con người về thế
giới là thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết
học.
- Thế giới quan thần thoại: là hình thức thế giới quan đặc trưng cho
người nguyên thuỷ trong buổi sơ khai của lịch sử loài người. Đó là sự phản
ánh mang tính chất cảm nhận ban đầu của người nguyên thuỷ về thế giới mà
trong đó các yếu tố hiện thực và ảo tưởng, sự thật và hoang đường, lý trí và
tín ngưỡng, tư duy và xúc cảm hoà quyện vào nhau. Thế giới quan thần thoại
phản ánh thế giới bằng các hình tượng thần thoại. Nó còn tiếp tục tồn tại ở
các giai đoạn sau này của con người và ở mọi dân tộc trên thế giới.
- Thế giới quan tôn giáo: ra đời khi trình độ nhận thức của con người
còn thấp kém, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên (sấm sét, bão lụt…). Đó
là sự phản ánh hiện thực một cách hư ảo, “là thuốc phiện của nhân dân”. Đặc
trưng của thế giới quan này là xây dựng niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên.
Nó thể hiện khát vọng giải thoát nỗi khổ đau của con người để vươn tới một
cuộc sống tốt đẹp, vĩnh hằng. Tuy nhiên con đường để vươn tới cuộc sống tốt
đẹp đó là một ảo tưởng phi hiện thực.
- Thế giới quan triết học: ra đời trong thời kỳ chuyển biến từ chế độ
cộng sản nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Nó phản ánh thế giới
không phải bằng hình tượng thần thoại hay niềm tin tôn giáo, ảo tưởng mà
bằng một hệ thống khái niệm, phạm trù lý luận. Thế giới quan này không chỉ
nêu ra các quan niệm của mình mà còn chứng minh các quan niệm đó bằng
lý tính. Thế giới quan triết học là một hệ thống những quan điểm lý luận chung
nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Đây là một chức
năng cơ bản của triết học.
- Các loại thế giới quan triết học:
Tuỳ theo những mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta lựa chọn
những cơ sở phân chia khác nhau. Vì vậy mà thế giới quan được chia ra
thành các loại khác nhau.
- Nếu xuất phát từ mục đích là xác định rõ thái độ, lập trường, quan
điểm của con người và xã hội đối với đời sống tín ngưỡng của họ thì thế giới
quan được chia ra thành thế giới quan vô thần và thế giới quan hữu thần. Thế
giới quan vô thần là thế giới quan phủ nhận sự tồn tại của thần thánh, của
chúa… Tức là phủ nhận sự tồn tại của những lực lượng siêu nhiên. Còn thế
giới quan hữu thần là thế giới quan xác nhận sự tồn tại của các lực lượng
siêu tự nhiên (như thần thánh, chúa…) trong thế giới. Những lực lượng này
ngự trị trong tự nhiên, trong xã hội và trong đời sống của con ngườ, nó chi
phối đời sống của con người.
- Nếu xuất phát từ mục tiêu tìm hiểu đúng đắn bản chất, những mối liên
hệ có tính quy luật trong sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng, để đạt tới một trình độ nhất định và có thái độ cư xử khoa học đối với
các sự vật, hiện tượng đó thì thế giới quan lại được chia ra làm hai loại là thế
giới quan phản khoa học và thế giới quan khoa học. Thế giới quan phản khoa
học là thế giới quan chứa đựng những quan niệm không đúng đắn về bản
chất của các sự vật, hiện tượng phản ánh sai lệch hoặc xuyên tạc bản chất,
quy luật vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: thế giới quan
tôn giáo hay thế giới quan hữu thần. Đâylà những loại thế giới quan phản ánh
hư ảo, xuyên tạc thế giới hiện thực. Còn thế giới khách quan khoa học là thế
giới quan đưa ra những quan niệm đúng đắn về bản chất và quy luật vận
động, phát triển của thế giới, chẳng hạn thế giới quan duy vật biện chứng. Bởi
vì, thế giới quan này đã đưa ra quan niệm đúng đắn về bản chất của thế giới,
về những quy luật vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Những quan niệm đó phù hợp với tự nhiên, với xã hội và với con người. Nó
có tác dụng định hướng đúng đắn cho hoạt động của con người trong việc
nhận thức và cải tạo thế giới.
- Khi xuất phát từ chủ định phân kỳ lịch sử phát triển của xã hội loài
người, để tìm hiểu quy luật vận động của nó thông qua những quan hệ kinh tế
trong xã hội, (vì quan hệ này quyết định các quan hệ xã hội khác), người ta
dựa vào hình thái kinh tế – xã hội để phân chia thế giới quan thành năm loại
khác nhau là thế giới quan chiếm hữu nô lệ, thế giới quan phong kiến, thế giới
quan tư bản và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. Đây là những loại thế giới
quan đặc trưng cho mỗi một xã hội ở trong lịch sử.
- Nếu xuất phát từ việc tìm hiểu cách giải quyết khác nhau vấn đề cơ
bản của triết học để tìm ra quy luật của sự vận động và phát triển của triết học
thì người ta lại chia thế giới quan ra thành thế giới quan duy vật và thế giới
quan duy tâm. Đây là hai loại thế giới quan đặc trưng và có quan hệ đối lập
nhau trong triết học. Chúng ta sẽ nghiên cứu chúng ở phần sau.
- Nếu xuất phát từ việc nghiên cứu lợi ích của các tập đoàn người khác
nhau trong xã hội thì người ta lựa chọn tính giai cấp để phân chia thế giới
quan ra thành thế giới quan thống trị và thế giới quan bị trị. Thế giới quan
thống trị là thế giới quan của giai cấp giữ địa vị chi phối toàn bộ các giai cấp
khác ở trong xã hội đó. Ví dụ: thế giới quan phong kiến là thế giới quan thống
trị trong xã hội phong kiến. Thế giới quan tư sản là thế giới quan thống trị
trong xã hội tư bản. Còn thế giới quan bị trị là thế giới quan của các giai cấp
chịu sự chi phối của giai cấp thống trị trong xã hội. Ví dụ: thế giới quan nô lệ
là thế giới quan bị trị trong xã hội chiếm hữu nô lệ. Bởi vì giai cấp này tồn tại
dưới sự nô dịch của giai cấp chủ nô.
Trong điều kiện hiện nay đang tồn tại hai giai cấp cơ bản trong xã hội là
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Vì vậy mà tồn tại hai loại thế giới quan đối
lập nhau là thế giới quan tư sản và thế giới quan vô sản.
Thế giới quan mà trong đó cơ sở, nền tảng lý luận của nó là chủ nghĩa
Mác - Lênin được gọi là thế giới quan Macxit hay thế giới quan cộng sản chủ
nghĩa, thế giới quan duy vật biện chứng. Đó là thế giới quan khoa học, cách
mạng và triệt để nhất trong lịch sử bởi vì nó đưa ra quan niệm đúng đắn về
những quy luật chung nhất của tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn và thực
tiễn kiểm nghiệm tính chân lý vốn có của mình.
Chú ý: Khi phân chia ra các loại thế giới quan đó, không nên hiểu một
cách máy móc, áp đặt một cách rập khuôn, miễn cưỡng mà cần phải căn cứ
vào những tiêu chí cụ thể để phân chia các loại thế giới quan.
Ví dụ: Không thể quy thế giới quan tư sản là thế giới quan duy tâm. Khi
xem xét các vấn đề của chủ nghĩa tư bản thì đừng vội quy tư sản là duy tâm
cả, mà phải nhìn nhận kỹ càng, khách quan. Bởi vì thế giới quan tư sản có
thể có duy vật - duy vật đến thực dụng để tồn tại và cạnh tranh. Nó cũng thay
đổi để phù hợp.
+ Thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết
học có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau.
+ Thế giới quan luôn luôn gắn liền với phương pháp luận thì mới có tác
động vào sự vật. Triết học duy vật biện chứng không chỉ là giải thích thế giới
mà còn là cải tạo thế giới.
II. SỰ ĐỐI LẬP GIỮA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT VÀ THẾ GIỚI QUAN DUY TÂM TRIẾT HỌC.
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Như đã nói ở trên, sự hình thành và tồn tại hai loại thế giới quan khác
nhau, đối lập nhau là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, là dựa
vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Vậy vấn đề cơ bản của triết
học là gi? Tại sao đó lại là vấn đề cơ bản của triết học và vấn đề cơ bản của
triết học có cấu trúc như thế nào?
Thế giới về đại thể được chia ra theo hai lĩnh vực khác nhau, có quan
hệ với nhau đó là lĩnh vực vật chất (tự nhiên, tồn tại) và lĩnh vực ý thức (tinh
thần, tư duy). Mối quan hệ giữa hai lĩnh vực đó được xác định là vấn đề cơ
bản của triết học. Nói cách khác, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức (hay giữa tự nhiên và tinh thần, giữa tồn tại
và tư duy). Điều này đã được Ph. Ăngghen xác định trong tác phẩm “Lútvích
phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” rằng, “Vấn đề cơ bản
lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa
tư duy và tồn tại”.
Tại sao đó lại là vấn đề cơ bản của triết học?
Sở dĩ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được coi là vấn đề cơ bản
của triết học bởi vì: Đây là vấn đề mà mọi trào lưu triết học đều phải giải
quyết. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nội dung của triết học. Việc giải
quyết vấn đề đó theo kiểu nào sẽ quyết định giải quyết tất cả vấn đề khác
theo kiểu đó. Hơn nữa việc giải quyết vấn đề ấy sẽ định ra tiêu chuẩn để phân
biệt các trào lưu triết học trong lịch sử là duy vật hay duy tâm.
Cấu trúc của vấn đề cơ bản của triết học: Vấn đề cơ bản của triết học
bao gồm 2 mặt:
- Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức thì cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?
- Thứ hai, con người có thể nhận thức được thế giới hay không?
2. Các cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học:
Khi giải quyết mặt thứ nhất: giữa vật chất và ý thức thì cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào thì tuỳ theo việc lựa chọn
cách giải quyết nào mà triết học phân ra thành thế giới quan duy tâm và thế
giới quan duy vật.
- Thế giới quan duy tâm là một trào lưu lớn trong lịch sử triết học. Thế
giới quan này khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ý thức
là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý thức quyết định vật chất. Thế giới
quan duy tâm lại được chia ra hai loại là thế giới quan duy tâm chủ quan và
thế giới quan duy tâm khách quan.
+ Thế giới quan duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức của con
người là cái có trước, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Họ coi các sự vật, hiện tượng chỉ là sự phức hợp của những cảm
giác. Những màu sắc, mùi vị và những đặc tính khác nhau khác của sự vật
chẳng qua chỉ là những cảm giác của con người; của “cái tôi” cảm nghĩ mà
thôi. Quan niệm duy tâm đó không trách khỏi dẫn đến cái gọi là chủ nghĩa duy
ngã. Đại diện cho thế giới quan duy tâm khách quan là Béccơli và Đêcáctơ.
Bởi vì: Béccơli cho rằng “Sự vật là sự phức hợp của những cảm giác”. Còn
Đềcáctơ khẳng định “Tôi tư duy thì tôi tồn tại”.
+ Thế giới quan duy tâm khách quan lại cho rằng ý thức, ý niệm, ý niệm
tuyệt đối, tinh thần thế giới là cái có trước vật chất. Chúng tồn tại khách quan,
độc lập với con người, không phụ thuộc vào con người, vào sự vật. Nó quyết
định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và con người. Tất cả các sự vật, hiện
tượng và cả con người nữa đều là sự hiện thân của “ý niệm” hay “ý niệm
tuyệt đối”. Đại diện cho thế giới quan duy tâm khách quan là Platon và
Hêghen. Bởi vì theo Platon thì “Sự vật hình ảnh là cái bóng của ý niệm”. Còn
Hêghen coi “ý niệm tuyệt đối tồn tại tự nó và vì nó”. “Sự vật là kết quả của sự
tha hoá của ý niệm tuyệt đối”.
- So sánh thế giới quan duy tâm chủ quan và thế giới quan duy tâm
khách quan:
- Tuy có khác nhau về hình thức thể hiện, song về bản chất của chúng
có sự thống nhất. Bởi vì cả thế giới quan duy tâm chủ quan và thế giới quan
duy tâm khách quan đều thừa nhận ý thức là cái có trước và quyết định vật
chất.
- Thế giới quan duy tâm tuy có yếu tố hợp lý nhưng về cơ bản là lý luận
triết học sai lầm.
Có hai nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện và sai lầm đó là nguyên nhân
về nhận thức và nguyên nhân về xã hội.
- Về nhận thức: Do cường đại hoá, khuếch đại, thổi phồng, tuyệt đối
hoá yếu tố ý thức, nhận thức. Khi nhận định về lý do này, Lênin đã viết: “Theo
quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chủ nghĩa duy tâm triết học
là một sự phát triển (một sự thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái hoá … của
một trong những đặc trưng của một trong những mặt, của một trong những
khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi
tự nhiên, thần thánh hoá”.
- Về nguồn gốc xã hội: Do sự áp bức giai cấp trong xã hội có giai cấp
đối kháng, giai cấp thống trị sử dụng thế giới quan duy tâm làm vũ khí tinh
thần để ru ngủ quần chúng, duy trì và củng cố địa vị thống trị của chúng trong
xã hội.
- So sánh thế giới quan duy tâm và thế giới quan tôn giáo:
+ Giống nhau: cả hai loại đều thừa nhận ý thức (tinh thần) có trước.
+ Khác nhau: Về hình thức thể hiện:
Thế giới quan tôn giáo: Dựa vào lòng tin thuần tuý, lấy lòng tin thay cho
tri thức.
Thế giới quan duy tâm: Dựa vào lý trí, vào tri thức bao gồm một hệ
thống khái niệm có tính lý luận.
Về tính chất Về trình độ phản ánh
Thế giới quan tôn
giáo: Cảm nhận
phi hiện thực, vô
minh, ảo tưởng
Thế giới quan
duy tâm: có tính
lý trí, có tri
thức.
Thế giới quan
tôn giáo: Niềm
tin mù quáng
Thế giới quan
duy tâm: Tri thức
lý luận có hệ
thống
Mối quan hệ giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan duy tâm:
- Thế giới quan tôn giáo và thế giới quan duy tâm là hai loại thế giới
quan khác nhau. Nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tác
động qua lại lẫn nhau. Sự quan hệ đó là quan hệ song hành với cùng một
mục đích, một bản chất. Tôn giáo là sự biểu hiện đặc thù của thế giới quan
duy tâm. Còn thế giới quan duy tâm là cơ sở triết học của tôn giáo. Vì vậy
trong lịch sử phát triển triết học chúng thường liên minh với nhau để chống lại
thế giới quan duy vật.
- Thế giới quan duy vật cho rằng, trong mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức thì vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định
ý thức. Tính chất quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện ở chỗ:
Vật chất có trước, sinh ra ý thức. Sự vật như thế nào thì ý thức hư thế ấy. Sự
vật thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
- Thế giới quan duy vật có 3 hình thái phát triển là:
+ Thế giới quan duy vật chất phác thời cổ đại: Hêracơlít
+ Thế giới quan duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII: Bê Cơn
+ Thế giới quan duy vật biện chứng: Mác, Ăngghen, Lênin.
Trong lịch sử phát triển triết học thì CNDV và CNDT là hai dòng phái
lớn, hai loại thế giới quan đối lập nhau, luôn luôn đấu tranh với nhau. Nó thể
hiện tính Đảng trong triết học vì đó là hai loại tư tưởng của hai giai cấp đối lập
nhau trong xã hội.
Khi giải quyết mặt thứ hai: Con người có thể nhận thức được thế giới
hay không, đã xuất hiện hai học thuyết, hai loại thế giới quan khác nhau là thế
giới quan bất khả tri và thế giới quan khả tri.
- Thế giới quan bất khả tri là thế giới quan triết học phủ nhận khả năng
nhận thức được thế giới của con người. Đại diện cho thế giới quan này là
Đavít Hium, Cantơ và Đề cáctơ. Bởi vì Đavít Hium cho rằng “Con người
không thể nhận thức được sự vật”. Trong khi đó Cantơ khẳng định “Con
người không nhận thức được cái bản chất của vật tự nó”. Còn Đềcáctơ thì
“hoài nghi sự nhận thức”của con người.
- Thế giới quan khả tri là thế giới quan triết học khẳng định khả năng
nhận thức được thế giới của con người. Không có cái gì con người không thể
nhận thức được, chỉ có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận
thức được mà thôi.
III. BẢN CHẤT CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG:1. Cơ sở hình thành thế giới quan duy vật biện chứng: Sự hình thành
và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng dựa trên những cơ sở sau đây:
- Những thành tựu lý luận, thực tiễn và khoa học.
- Đó là triết học duy vật biện chứng. Để có được thế giới quan duy vật
biện chứng phải có tri thức triết học duy vật biện chứng (triết học Macxit). Nó
kế thừa và phát triển những yếu tố đúng đắn và hợp lý trong các quan điểm,
quan niệm của các thế giới quan khác nhau.
Nó được xây dựng bởi các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng
* Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học vì nó giải
quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn.
- Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học.
- Đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận nhận thức.
* Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan thống nhất giữa
quan niệm duy vật và phép biện chứng:
Quan niệm duy vật Phép biện chứng
Trước Mác Sai – phiến diện, tách rời nhau
Mác thống nhất chặt chẽ không, tách rời
* Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan duy vật biện chứng
triệt để.
- Thế giới quan duy vật trước Mác: Duy vật về tự nhiên còn duy tâm về
xã hội.
- Thế giới quan duy vật Macxít: Duy vật và biện chứng về cả tự nhiên,
xã hội và tư duy.
* Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan thống nhất giữa
tính khoa học với tính cách mạng, thống nhất giữa hệ tư tưởng tiên tiến nhất
của thời đại với lý luận khoa học.
- Tính khoa học
- Tính cách mạng
- Hệ tư tưởng tiên tiến nhất thời đại
- Lý luận khoa học
=> Không tách rời nhau - thống nhất với nhau
* Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp vô sản
cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Tóm lại: thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học tiên
tiến, triệt để và cách mạng.
Người cộng sản chân chính, mọi nhà khoa học chân chính đang hoạt
động trên các lĩnh vực, kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật…cần phải
được trang bị thế giới quan duy vật biện chứng trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Có như vậy mới đạt hiệu quả cao và đúng đắn trong
công tác của mình.
IV. VAI TRÒ CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN.
Thế giới quan có vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người.
- Nó là lăng kính mà qua đó con người xem xét, nhìn nhận thế giới một
cách đúng đắn, đưa ra được sự giải thích khoa học các hiện tượng nảy sinh
trong tự nhiên và xã hội. Chẳng hạn, hiện tượng khủng hoảng của chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Như chúng ta đã biết, sau chính biến ngày 19 tháng 8 năm 1991, chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã lâm vào sự khủng hoảng. Nguyên
nhân của sự khủng hoảng đó là do quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các
nước này đã vận dụng một cách máy móc, giáo điều học thuyết Mác – Lênin
về chủ nghĩa xã hội. Họ muốn “đi tắt” đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản mà bỏ qua những bước quá độ tất yếu của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội hiện thực. Chính những sai lầm đó đã đưa chủ nghĩa xã hội lâm vào sự
khủng hoảng và đổ vỡ. Đứng trước những sự kiện đó, một số trường phái
duy tâm và siêu hình ở một số nước đã dao động, không tin vào chủ nghĩa xã
hội. Họ còn cho rằng chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, phi hiện thực. Nó đã bị tan
rã và thất bại. Nhưng nếu dừng lại ở sự nhận thức siêu hình như vậy sẽ dẫn
tới mất niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Chỉ có thế giới quan
duy vật biện chứng mới cho chúng ta cách nhìn toàn diện và đánh giá đúng
đắn về chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Thế giới quan duy vật biện chứng cho rằng chủ nghĩa xã hội hiện nay
đang từng bước đi đúng bước và phát triển. Nó sẽ thành công trong tương
lai, mặc dù nó chỉ được theo đuổi ở các nước Trung Quốc, Việt Nam, Cu
Ba… Nhưng chắc chắn các nước này sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Thời gian là bao nhiêu, dài hay ngắn, điều đó tuỳ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của từng nước. Còn hệ thống chủ nghĩa xã hội đã tồn tại
trước đây, tuy có đổ vỡ nhưng đó chỉ là một hiện tượng tạm thời, chỉ là bước
quanh co trong sự phát triển của xã hội. Chính sự sụp đổ của mô hình chủ
nghĩa xã hội đó đã để lại một bài học vô cùng to lớn đối với các nước đi sau,
giúp cho các nước này có được những kinh nghiệm nhất định trong việc kiên
trì con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình. Bởi đây là xã hội tốt đẹp,
hợp với những qui luật phát triển khách quan của lịch sử. Nó thống nhất hữu
cơ giữa khát vọng giải phóng của con người và loài người với mong muốn
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phản ánh bản chất tốt
đẹp của con người trong một xã hội hiện thực.
- Nó định hướng cuộc sống, chi phối nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người. Thế giới quan đúng – hoạt động đúng. Thế giới quan sai –
hoạt động sai.
- Nó là tiêu chí quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách của
con người.
- Muốn có thế giới quan đúng đắn phải có tri thức khoa học- niềm tin -
định hướng hành động đúng.
V. BỒI DƯỠNG THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC, CHỐNG NHỦ NGHĨA CHỦ QUAN
1. Tính tất yếu của việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học
- Khẳng định: Thế giới quan khoa học chỉ là thế giới quan duy vật biện
chứng.
- Muốn hoạt động có hiệu quả trên các lĩnh vực của đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội cần phải có thế giới quan đúng đắn, khoa học – thế
giới duy vật biện chứng.
2. Nội dung của việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học
- Nâng cao sự hiểu biêt các tri thức khoa học vì tri thức khoa học là yếu
tố cơ bản, quyết định thế giới quan. Tri thức đúng là cơ sở để có thế giới
quan đúng đắn, khoa học. Tri thức sai sẽ có thế giới quan phản khoa học. Đặt
biệt phải nâng cao sự nhận thức về triết học Mác - Lênin vì:
+ Triết học Mác - Lênin là tri thức quan trọng nhất, quyết định sự hình
thành thế giới quan duy vật biện chứng (đây là điều kiện đủ).
+ Không có triết học Mác - Lênin không thể có thế giới quan khoa học.
- Củng cố và nâng cao sự hiểu biết học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh
- Bồi dưỡng niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản.
- Nâng cao ý chí quyết tâm, phấn đấu cho sự nhgiệp giải phóng nhân
loại, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bất công. Thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
- Bồi dưỡng tình cảm cách mạng trong sáng và lý tưởng cao cả.
3. Chống chủ nghĩa chủ quan
- Thế giới quan duy tâm chủ quan và khách quan là thế giới quan phản
khoa học.
- Thế giới quan chủ quan là cơ sở của sự hình thành chủ nghĩa chủ
quan duy ý chí.
- Thế giới quan duy tâm chủ quan là cơ sở của sự hình thành chủ nghĩa
cá nhân.
- Chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí.
- Kết luận chung:
- Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học, là cái cần
thiết hàng đầu cho mọi người.
- Tăng cường học tập, ra sức bồi dưỡng những tri thức khoa học đặc
biệt là tri thức triết học Mác - Lênin, xây dựng niềm tin vững chắc, ý chí mãnh
liệt và tình cảm cách mạng trong sáng, lý tưởng cao cả.
- Phấn đấu dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, thực hiện khẩu hiệu “giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại” hướng theo mục tiêu xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
- ở nước ta, trước mắt xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập,
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Triết học” tập 3 (dùng cho nghiên cứu sinh
và cao học không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Giáo trình triết học mác – Lênin”(dùng
trong các trường đại học và cao đẳng), Nxb. Chính trị Quốc gia, 2002
3. Nguyễn Trọng Chuẩn: “Sinh học và thế giới quan”, Tạp chí Triết học,
số 1, 1992.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lầ thứ
IX”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
5. Hội đồng Trung Ương biên soạn bộ giáo trình quốc gia các môn khoa
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình triết học Mác - Lênin”,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
6. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1974 - 1981, các tập: 1,
18, 29, 26, 33.
7. C. Mác và Ăngghen: Toàn bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993
– 1996, các tập: 1,3,4,13,18,21,23.
8. M.Rôdentan và P. Iuđin chủ biên: “Từ điển triết học”, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1976.
9. “Từ điển triết học”, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1986 (tiếng việt).
10. Viện triết học: “Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Chuyên đề 2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT - PHƯƠNG PHÁP LUẬN NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
I. KHÁI NIỆM PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG.
1. Khái niệm phép biện chứng.
- Biện chứng và siêu hình: Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập
trong phương pháp chung nhất của tư duy.
Phương pháp siêu hình là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi
các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thì đó chỉ
là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối
tượng.
Phương pháp siêu hình là phương pháp “chỉ nhìn thấy những sự vật
riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ
nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự
vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà
không thấy rừng”.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối
tượng trước hết phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận
thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian, thời gian xác định.
Phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định, vượt ra
khỏi phạm vi đó tư duy siêu hình sẽ mắc phải sai lầm.
Phương pháp biện chứng là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng
nhau, ràng buộc lẫn nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong
khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các
sự vật hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt
đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa
nhận trong những bối cảnh xác định thì bên cạnh cái “hoặc là …hoặc là” còn
có cả cái “vừa là …vừa là”. Nó thừa nhận một chỉnh thể trong cùng một lúc
vừa là nó lại vừa không phải là nó, cái khẳng định và cái phủ định vừa là loại
trừ nhau lại vừa thống nhất với nhau trong sự tồn tại, vận động, biến đổi của
sự vật.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ
vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con
người nhận thức và cải tạo thế giới.
- Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Biện chứng khách quan: là biện chứng của sự vật, của thế giới hiện
thực khách quan, nó nói lên bản chất sự tồn tại của sự vật là trong những mối
liên hệ phổ biến và trong sự vận động, phát triển.
Biện chứng chủ quan: là biện chứng của tư duy, của hoạt động nhận
thức của con người, nó nói lên bản chất của quá trình nhận thức là quá trình
phản ánh biện chứng khách quan vào trong đầu óc con người một cách năng
động, sáng tạo. Đó là quá trình phức tạp và mâu thuẫn, trong đó các giai đoạn
của sự nhận thức không tách rời nhau mà có quan hệ mật thiết, tác động qua
lại lẫn nhau. Con đường biện chứng của sự nhận thức là “từ trực quan sinh
động tới tư duy trừu tượng và tư duy trừu tượng tới thực tiễn”. Về bản chất,
biện chứng chủ quan là sự phản ánh của biện chứng khách quan.
- Phép biện chứng
Ănghen đã đưa ra định nghĩa phép biện chứng: “phép biện chứng
chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình được tạo thành bởi hệ
thống quan điểm xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng, tĩnh tại
với một tư duy cứng nhắc.
2. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng
a. Phép biện chứng chất phác thời cổ đại.
Đây là hình thức đầu tiên trong lịch sử phát triển của phép biện chứng.
Phép biện chứng cổ đại, kể cả trong triết học phương Đông lẫn phương Tây
đều xem xét mọi sự hiện tượng của vũ trụ trong sự sinh thành, biến hoá và
trong những mối liên hệ vô cùng, vô tận. Tuy còn mang tính chất tự phát,
ngây thơ, mới chủ yếu dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài
chứ chưa phải chủ yếu dựa trên kết quả của nghiên cứu khoa học nhưng căn
bản là đúng. Phép biện chứng tự phát thời cổ đại đã phác hoạ ra được bức
tranh chung về thế giới trong tác động qua lại chằng chịt lẫn nhau giữa các bộ
phận, các yếu tố của chúng. Phép biện chứng cổ đại đã đặt nền móng cho sự
hình thành phát triển của các quan điểm biện chứng về thế giới trong nhiều
thế kỷ sau.
b. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức
Đây là hình thức thứ hai của lịch sử phép biện chứng, gọi là phép biện
chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết học cổ
điểm Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen. Có thể
nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học
Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của
phương pháp biện chứng. Tuy nhiên, theo họ, biện chứng ở đây bắt đầu từ
tinh thần và kết thúc ở tinh thần nên nó dựa trên thế giới quan duy tâm. Phép
biện chứng cổ điển Đức có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của tư
duy biện chứng của nhân loại, thúc đẩy tư duy biện chứng lên một trình độ
cao, nhưng với hạn chế duy tâm, nó chưa thể trở thành cơ sở lý luận cho một
thế giới quan khoa học.
c. Phép biện chứng duy vật
Đây là hình thức cao nhất trong lịch sử phép biện chứng. Phép biện
chứng duy vật được Mác và Ăngghen xây dựng, sau đó được Lênin phát
triển. Mác và Ăngghen đã gạt bỏ tính chất duy tâm, thần bí, kế thừa những
hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng cổ điển Đức(trực tiếp nhất là phép
biện chứng của Hêghen). Mác và Ăngghen đã cải tạo lại một cách căn bản
phép biện chứng của Hêghen, trên cơ sở những thành tựu lý luận, khoa học
của nhân loại, trên cơ sở đúc kết từ thực tiễn xã hội, các ông đã sáng lập ra
phép biện chứng duy vật, hình thức cao nhất cao nhất của phép biện chứng.
Phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất. Nó bao gồm một hệ thống
các nguyên lý, phạm trù và quy luật; nó đồng thời là lý luận nhận thức và logic
học của chủ nghĩa Mác, có sự thống nhất trong nó giữa tính cách mạng, tính
khoa học, tính thực tiễn, trở thành phương pháp luận chung nhất cho mọi
hoạt động nhận thức và thức tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội của con người.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT - TÍNH KHOA HỌC VÀ TÍNH CÁCH MẠNG CỦA NÓ.
1. Nguyên nhân về mối liên hệ phổ biến.
a. Nội dung của nguyên lý
Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, những câu hỏi được dặt ra là:
các sự vật hiện tượng và quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua
lại, tác động ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định những mối liên hệ đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho
rằng các sự vật hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên
cạnh cái kia, giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và chuyển
hoá lẫn nhau; nếu có chỉ là những liên hệ có tính ngẫu nhiên, bề ngoài. Hạn
chế của quan điểm siêu hình là sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên
ranh giới giả tạo giữa các sự vật hiện tượng. Hạn chế này có nguồn gốc bởi
phương pháp tư duy siêu hình, nghiên cứu tách rời các lĩnh vực, bộ phận
riêng rẽ của thế giới gắn với trình độ tư duy khoa học còn ở giai đoạn sưu tập
tài liệu. Phương pháp đó không có khả năng phát hiện ra được cái chung, cái
bản chất, quy luật của sự tồn tại vận động và phát triển của các sự vật hiện
tượng trong thế giới.
Đối lập với quan điểm siêu hình, những người theo quan điểm biện
chứng lại cho rằng các sự vật hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại
độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Thế giới như
một chỉnh thể thống nhất trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại trong những
mối liên hệ phổ biến.
Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm (duy tâm
khách quan và duy tâm chủ quan) cho rằng cái quyết định mối liên hệ, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng tinh thần
siêu nhiên hoặc cảm giác, ý thức của con người.
Còn quan điểm duy vật biện chứng thì khẳng định cơ sở của những
mối liên hệ phổ biến là quan điểm đứng đắn khoa học vì nó đã dựa trên sự
đúc kết những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỉ XIX và kế
thừa một cách xuất sắc các giá trị tư tưởng, lý luận trong tư duy triết học biện
chứng của nhân loại. Cơ bản hơn, nó đã phản ánh đúng đắn bản chất của sự
tồn tại của thế giới.
Nội dung cơ bản của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện
chứng duy vật thể hiện ở các luận điểm cơ bản sau:
+ Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các bộ phận,
yếu tố trong cùng một sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong sự quy định, tác
động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật hiện
tượng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có vì nó bắt
nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới, biểu hiện trong tất cả các quá
trình tự nhiên, xã hội, tư duy. Sự vật hiện tượng nào cũng là thể thống nhất
của các mặt đối lập và sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ
với các sự vật hiện tượng khác.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng không chỉ mang tính khách
quan mà còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong tự nhiên, xã hội, tư duy đều tồn tại
trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng
nào nằm ngoài những mối liên hệ. Các mối liên hệ biểu hiện dưới các hình
thức riêng biệt, đa dạng, phong phú tuỳ theo điều kiện nhất định. Song dù
dưới hình thức nào thì chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng và
nhiều vẻ. Có thể phân chia các mối liên hệ đa dạng đó thành từng loại tuỳ
theo tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông
hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp…mà có thể khái quát thành những mối
liên hệ khác nhau.
b. Các mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng.
Các mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng trong thế giới được
khái quát trong các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng.
+ Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
+ Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
+ Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức
+ Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực…
2. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
a. Nội dung của nguyên lý
Giải thích về bản chất của sự tồn tại của thế giới, câu hỏi đặt ra là: thế
giới tồn tại như thế nào, đứng im, vĩnh viễn, bất biến hay vận động, biến đổi?
Nếu vận động biến đổi thì diễn ra như thế nào? Có hai quan điểm đối lập
nhau:
+ Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi
đơn thuần về mặt số lượng, không có sự thay đổi gì về chất. Sự vật ra đời với
những chất nào thì cứ giữ nguyên trong suốt quá trình tồn tại. Hoặc nếu có sự
thay đổi thì cũng chỉ là diễn ra trong một vòng khép kín. Phát triển chỉ là sự
thay đổi về lượng của sự vật, không có sự ra đời cái mới với những chất mới.
Phát triển được hiểu như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những
quanh co, thăng trầm phức tạp.
+ Quan điểm biện chứng xem phát triển là một quá trình vận động đi lên
từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa đến sự
ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển diễn ra cả ở trong tự nhiên,
xã hội, tư duy. Dù ở lĩnh vực nào, quá trình phát triển không phải lúc nào cũng
theo đường thẳng, mà rất quanh co phức tạp, thậm chí có thể có những bước
lùi tạm thời.
Về nguồn gốc của sự phát triển, quan điểm duy vật biện chứng khẳng
định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật.Đó là những mău
thuẫn bên trong của chính sự vật qui định. Phát triển là quá trình tự thân, là
sự giải quyết liên tục những mâu thuẵn bên trong của sự vật. Quan điểm này
đối lập với quan điểm duy tâm tôn giáo, tìm nguồn gốc của sự phát triển ở
thần linh, thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ý thức của con người.
Về thực chất của sự phát triển, theo quan niệm duy vật biện chứng, sự
phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ một quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật.
Về hình thức thể hiện sự phát triển cũng rất khác nhau tuỳ theo hình
thức tồn tại cụ thể của những dạng vật chất.(ví dụ: sự phát triển ở giới vô cơ
khác ở giới hữu cơ, sự phát triển của tự nhiên khác sự phát triển của đời
sống xã hội hay của tư duy).
Về cách thức của sự phát triển: đi từ tuần tự đến nhảy vọt, từ thay đổi
về lượng dẫn đến biến đổi ở trình độ cao hơn về chất.
Về xu hướng của sự phát triển: sự phát triển dẫn đến sự vật mới ra dời
thay thế sự vật cũ diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ở
từng trường hợp cá biết thì có sự vận động đi lên, tuần hoàn, hoặc đi xuống.
Song xét trong cả quá trình vận động thì khuynh hướng chung là khuynh
hướng phát triển, tức là sự vận động đi lên.
Tính chất của sự phát triển: Sự phát triển của mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới có những tính chất sau:
- Tính khách quan: phát triển là khuynh hướng tất yếu của thế giới vật
chất.
- Tính phổ biến: phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực của thế giới, trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
- Tính đa dạng phong phú: mỗi sự vật hiện tượng có quá trình phát triển
khác nhau; không gian, thời gian, điều kiện khác nhau thi sự phát triển cũng
thể hiện ra theo những cách khác nhau; trong quá trình phát triển của một sự
vật, do những mối quan hệ tác động, bên trong, bên ngoài theo chiều hướng
khác nhau cũng làm cho sự phát triển diễn ra theo hướng này hoặc theo
hướng khác.
Dù thăng trầm phức tạp, dù biểu hiện cụ thể vô cùng đa dạng, phong
phú, khuynh hướng chung của sư vận động biến đổi của mọi sư vật trong thế
giới vẫn là khuynh hướng đi lên.
b. Các quy luật cơ bản của sự phát triển
Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến
đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng - chất). Quy luật này nói lên
cách thức của sự vận động phát triển. Cách thức đó là: Bất kỳ sự vật hay hiện
tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng. Trong sự vật, sự quy
định về lượng không bao giời tồn tại nếu không có quy định về chất và ngược
lại. Chất và lượng thống nhất với nhau nhưng thường xuyên tác động qua lại
lẫn nhau trong quá trình vận động, biến đổi sự vật. Mọi sự biến đổi của sự vật
đều bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh
hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự
vật tương ứng với sự thay đổi về lượng của nó. Khi sự vật còn là nó chưa
biến thành cái khác, chất và lượng thống nhất với nhau trong “độ”. “Độ” chính
là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm
thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. “Độ” nói lên mối liên hệ giữa lượng và
chất của sự vật ấy. Trong giới hạn “độ”, sự thay đổi về lượng chỉ tác động làm
thay đổi trạng thái của chất chứ chưa làm biến đổi căn bản chất của sự vật.
Khi lượng của sự vật thay đổi vượt quá giới hạn “độ”, tới điểm “nút”, sẽ diễn
ra sự biến đổi căn bản về chất, chất mới ra đời thay thế chất cũ. Lượng mới
và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên “độ” mới và điểm “nút”
mới, trong đó lại tiếp tục diễn ra quá trình biến đổi về lượng để dẫn tới quá
trình biến đổi về chất. Quá trình này diễn ra liên tiếp làm cho mọi sự vật hiện
tượng trong thế giới luôn vận động, biến đổi không ngừng. Cơ chế của sự
vận động biến đổi là vừa có sự biến đổi dần dần về lượng, vừa có sự nhảy
vọt về chất.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật
mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn
gốc, động lực của sự phát triển. Sự vật hiện tượng nào cũng bao hàm trong
đó những mặt đối lập. Các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành mâu thuẫn của sự vật. Các mặt đối lập không chỉ tồn tại trong quan hệ
thống nhất mà luôn tác động qua lại lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau, gọi là đấu tranh của các mặt đối lập. Trong quá trình tác động
qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập, mâu thuẫn được hình thành, biến đổi,
phát triển. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, theo
khuynh hướng trái ngược nhau của các mặt đối lập. Sự khác nhau đó ngày
càng phát triển và biến đổi. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều
kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà
thể thống nhất cũ mất đi, thay thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất
đi,sự vật mới ra đời. Như vậy đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn với quá trình
phát sinh, phát triển giải quyết mâu thuẫn chính là nguồn gốc, động lực của
mọi sự vận động, phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến
lên của sự vật. Đó là sự phát triển diễn ra theo con đường xoáy trôn ốc. Hình
ảnh đường xoáy trôn ốcvừa diễn tả tính chất liên tiếp, tính chất chu kỳ, tính
quanh co phức tạp của sự phát triển. Sự phát triển diễn ra không thẳng tắp
theo đường thẳng mà thăng trầm, phức tạp.Sau mỗi chu kỳ của sự phát triển,
sự vật dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.Sự phát triển
bao giờ cũng mang tính khách quan và tính kế thừa, dẫn đến sự ra đờicủa cái
mới, kế thừa những yếu tố phù hợp, tích cực trong cái cũ nhưng ở một trình
độ cao hơn, tiến bộ cao hơn so với cái cũ.
3. Tính khoa học và tính cách mạng của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật mang tính khoa học và tính chất cách mạng
sâu sắc.Tính khoa học và tính cách mạngcủa phép biện chứng duy vật thống
nhất với nhau bởi vì phép biện chứngg duy vật là học thuyết “về sự phát triển
dưới hình thức hoàn bi nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện”
Phép biện chứng duy vật về bản chất có tính phê phán và cách mạng.
Đối với phép biện chứng duy vật “không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng
liêng cả.Nó chỉ ra - trên mọi sự vật và trong mọi sự vật - dấu ấn của sự suy
tàn tất yếu, và đối với nó, không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của
sự hình thành và sự tiêu vong của sự tiến triển vô cùng vô tận từ thấp đến
cao.” Bản chất cách mạng của phép biện chứng duy vật thể hiện ở chỗ, trong
khi đưa ra quan niệm về tính hợp lý của cái hiện tồn thì đồng thời cũng bao
hàm trong nó quan niệm về sự diệt vong tất yếu của cái hiện tồn đó. Phép
biện chứng duy vật chống lại mọi quan điểm bảo thủ, trì trệ. Chính quá trình
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, quá trình tích luỹ dần dần về
lượng, đến một giới hạn nhất định, khi điều kiện chín muồi, tất yếu dẫn đến
sự tự phủ định của sự vật, làm cho sự vật phát triển lên một giai đọan mới
cao hơn, tiến bộ hơn về chất.
Với bản chất cách mạng sâu sắc và triệt để, được thể hiện trong những
nguyên lý, các cặp phạm trù và những quy luật của mình, phép biện chứng
duy vật đã vạch ra biện chứng của quá trình phát triển, với nội dung và hình
thức hết sức phong phú. Nó là cơ sở phương pháp luận, chỉ đạo chủ thể xác
định phương pháp cách mạng khoa học và đúng đắn. Bất cứ hành động cách
mạng nào, nếu xa rời những quan điểm và nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật, thì sớm muộn gì cũng sẽ phải trả giá cho điều đó. Như vậy, đối vối
mọi người cách mạng phép biện chứng duy vật trở thành công cụ quan trọng
bậc nhất không thể thiếu được của nhận thức và hành động để cải tạo hoàn
cảnh và cải tạo bản thân.
Cánh mạng là quá trình xóa bỏ cái cũ, lỗi thời và xác lập cái mới, tiến
bộ hơn. Với bản chất ấy, cách mạng không phải là quá trình thẳng tắp, trơn
tru, mà là một quá trình khó khăn, phức tạp, quanh co, thậm chí có sự tụt lùi
tạm thời nhưng cuối cùng cái mới tiến bộ hơn là cái chiến thắng. Quan điểm
đó của phép biện chứng duy vật là cơ sở khoa học để xác định tinh thần lạc
quan cách mạng, giữ vững niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, mặc dù
hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, chưa bao giờ tình hình thế
giới lại phức tạp như ngày nay. Trong bối cảnh ấy, sự nghiệp đổi mới trên đất
nước ta lại gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Đó là một thử thách to lớn đối
với Đảng và dân tộc ta. Chính sự nghiệp đổi mới ngày càng đặt ra nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần phải được giải quyết… Nhưng
chính tình hình càng phức tạp lại càng đòi hỏi phải nắm vững phép biện
chứng duy vật, cần mài sắc tư duy biện chứng để nhận thức đúng những biến
đổi sâu sắc tình hình thế giới, để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của sự
nghiệp đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Lênin là người nêu tấm gương sáng về việc nắm vững và vận dụng tài
tình phép biện chứng duy vật trong việc nhận định khả năng và đề ra phương
pháp tiến hành cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cũng như
vận dụng tài tình phép biện chứng duy vật để vạch ra “chính sách kinh tế mới”
– cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nước kém phát
triển. Ngày nay, học tập Lênin, việc nắm vững các biện chứng duy vật và mài
sắc tư duy biện chứng, sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ tính chất biện chứng
chung của thế giới cũng như của công cuộc đổi mới ở nước ta. Từ đó giúp
chúng ta xác định phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn.
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại phát triển như vũ bão, bắt
đầu từ sau Đại chiến thế giới thứ hai. Những thành tựu vĩ đại của nó được
nhanh chóng áp dụng vào đời sống xã hội, đem lại bước phát triển kỳ diệu
của nhân loại, đưa loài người lên trình độ văn minh mới - văn minh trí tuệ.
Nền văn minh mới là một bằng chứng sống chỉ rõ sự phát triển biện chứng
của xã hội vẫn là một quá trình lịch sử tự nhiên hướng tới lý tưởng cao đẹp
mà học thuyết Mác-Lênin đã vạch ra. Đó là lí tưởng xã hội chủ nghĩa, là lý
tưởng giải phóng con người, thực hiện sự bình đẳng, công bằng để đem lại
“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người”.
Tuy nhiên, những hình thức và con đường thực hiện lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, ngay cả khi chủ thể không mắc phải sai lầm chủ quan, cũng không
phải là những công thức có sẵn và càng không phải là bất biến. Nghĩa là,
chúng phải được vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo và luôn luôn đổi mới,
phù hợp với điều kiện quốc tế và điều kiện của mỗi nước. Như vây, để đi lên
chủ nghĩa xã hội, các nước khác nhau có thể áp dụng những mô hình
phương pháp và biện chứng khác nhau. Những thành tựu mới của cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật, những biến đổi mới trong hệ thống các nước tư
bản chủ nghĩa và tình hình mới đang tạo ra những tiền đề cho quá trình lựa
chọn đó.
Trong khi thích nghi với điều kiện, thời đại ngày nay để tiếp tục phát
triển, để khắc phục những mâu thuẫn gay gắt trong hệ thống nói chung và
trong từng nước nói riêng, để giải quyết những vấn đề toàn cầu đang ảnh
hưởng tới sự sống còn của chủ nghĩa tư bản, các nước tư bản chủ nghĩa
buộc phải đẩy nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật, vận dụng nhanh những
tiến bộ ấy vào đời sống xã hội trước hết vào lĩnh vực quân sự và kinh tế, buộc
phải thay đổi nhận định các hình thức sở hữu và thực hiện một số chính sách
xã hội vv…Vì thế, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn
vốn có của nó. Nhưng cũng qua đó, chủ nghĩa tư bản lại tạo ra một cách
khách quan những tiền đề cho sự thực hành lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Những tiền đề ấy là: hình thành nền tảng công nghiệp mới(các công nghệ kỹ
thuật cao), hệ thống điều tiết sản xuất và kinh doanh ở mức độ nhất định,
trong phạm vi toàn xã hội; các cơ chế phân phối lại thu nhập quốc dân; hệ
thống bảo hiểm và các quỹ phúc lợi xã hội; mở rộng sự tham gia của nhân
dân lao động vào công việc quản lý,vv… Cũng vì thế chủ nghĩa tư bản hiện
đại, tất nhiên vẫn là chủ nghĩa tư bản, nhưng nó đang chuẩn bị những điều
kiện tự phủ định chính nó, những điều kiện cho sự chuyển biến lên mặt đối
lập của nó là chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, điều đó
không phụ thuộc vào ý muốn của giai cấp cầm quyền, mà là thành quả đấu
tranh của đông đảo quần chúng vì hoà bình và tiến bộ xã hội.
Thực tế trên đây chứng minh rằng, nếu nhận thức về chủ nghĩa xã hội
như là một mặt đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa tư bản, không có sự “đồng
nhất” nào, hoặc ngược lại, qua hai chế độ xã hội đó không có gì khác nhau,
đều là những quan niệm không biện chứng. Biện chứng của sự kết hợp các
mặt đối lập là sự triển khai cụ thể của sự “đồng nhất” và “thống nhất” của các
mặt đối lập. Vì vậy, phải căn cứ vào mức độ và trình độ của sự “đồng nhất” và
“thống nhất” của các mặt đối lập để thực hiện các hình thức kết hợp các mặt
đối lập, vận dụng các khâu trung gian các bước quá độ cho phù hợp. Đó là
phương pháp luận chung về sự kết hợp các mặt đối lập trong sự thống nhất
biện chứng.
Ngày nay, sự “đồng nhất” và “thống nhất” của các mặt đối lập ngày
càng mở rộng.Những giải pháp khoa học và kỹ thuật tiên tiến, những vấn đề
toàn cầu…tạo ra những môi trường thuận lợi cho sự mở rộng đó. Đương
nhiên không lên lầm lẫn điều đó với thuyết “hội tụ”. “Hội tụ” dẫn tới thủ tiêu
cách mạng, còn sự “đồng nhất” và “thống nhất” của các mặt đối lập tất yếu
dẫn tới cách mạng sâu sắc thông qua những biện pháp cách mạng phong
phú, đa dang và uyển chuyển.Vì vậy, ngày nay, bước chuyển biến cách mạng
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không mang những hình
thái đặc thù: có thể cho phép thực hiện biện pháp hoà bình bên cạnh biện
pháp dùng bạo lực cách mạng giành chính quyền: có thể cho phép kém phát
triển đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua một hay nhiều giai đoan nào đó trong sự
phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhưng dù với bất cứ đăc thù nào, vẫn phải đảm
bảo yêu cầu của tính “lịch sử tự nhiên” trong quá trình vận động cách mạng.
Từ một xã hội với một điều kiện một nền kinh tế chậm phát triển, nước
ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường
quá độ lâu dài, mà có thể nói, mâu thuẫn cơ bản của nó là mâu thuẫn giữa xu
hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã
hội. Phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn này mới đảm bảo yêu cầu của quá
trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển cách mạng nước ta, trong đó, tính
chủ động sáng tạo và tự giác của Đảng và Nhà nước ta giữ vai trò quyết định.
Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách
mạng nước ta là quá trình vừa tuân theo sự phát triển tiến hoá dần dần về
lượng, vừa tranh thủ những bước phát triển cách mạng nhảy vọt về vật chất;
lại vừa kế thừa tất cả những mặt cần thiết “hợp lý” của chủ nghĩa tư bản để
phát triển lực lượng sản xuất, lại vừa đấu tranh tích cực để loại bỏ những mặt
tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản; vừa biết tích luỹ nội dung, lại
vừa phải luôn luôn nhạy bén để cải tạo hình thức cho phù hợp; vừa kết hợp
những giá trị truyền thống của dân tộc với những tiến bộ của nền văn minh
mới.
Con dường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi chủ động và
tự giác phát triển và sử dụng chủ nghĩa tư bản làm khâu trung gian, làm
phương tiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là hướng chủ nghĩa tư bản vào
con đường tư bản nhà nước. Đó chính là sự kết hợp tự giác các mặt đối lập
thông qua hàng loạt các khâu trung gian và bước quá độ.
Cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa hai xu hướng - tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa được cụ thể hoá trong các cuộc đấu tranh giải
quyết các mâu thuẫn khác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư
tưởng vv…Bởi vì mâu thuẫn cơ bản là cơ sở nảy sinh và chi phối các mâu
thuẫn khác. Chính các cuộc đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn cụ thể ấy
là quá trình trực tiếp giải quyết mâu thuẫn cơ bản, là cách thức cụ thể nhằm
phát huy tổng hợp những yếu tố tích cực, tiến bộ của dân tộc và của thời đại,
bảo đảm cho công cuộc đổi mới thành công, đưa sự nghiệp cách mạng nước
ta đến thắng lợi hoàn toàn.
III.PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN; CÁC NGUYÊN TĂC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.
1.Phương pháp và phương pháp luận.
a. Phương pháp:
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Methodos, theo
nghĩa thông thường dùng để chỉ những cách thức, thủ đoạn nhất định, được
chủ thể hành động sử dụng để thực hiện mục đích đã vạch ra. Còn theo
nghĩa chặt chẽ và khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc
được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động
nhận thức và thực tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định.
Phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con
người, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Do đó phương pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất
bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Trên cơ sở những điều
kiện khách quan đã có, phương pháp càng đúng đắn thì kết quả đạt được
càng cao, và ngược lại. Ph.Bêcơn, nhà triết học nổi tiếng người Anh, thế kỷ
XVII đã ví phương pháp như là chiếc đèn soi đường cho khách lữ hành trong
đêm tối. Nói về vai trò của phương pháp cách mạng, đồng chí Lê Duẩn viết:
“Phong trào cách mạng có khi dậm chân tại chỗ, thậm chí thất bại nữa, không
phải vì thiếu một phương hướng và mục tiêu rõ ràng, mà chủ yếu vì thiếu một
phương pháp cách mạng thích hợp”.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm quan niệm hoàn toàn khác
nhau về nguồn gốc và bản chất của phương pháp. Chủ nghĩa duy tâm coi
phương pháp là những nguyên tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để tiện cho
nhận thức và hành động. Những người duy tâm xem phương pháp như một
phạm trù thuần tuý chủ quan.
Trái lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, phương pháp
hình thành không phải một cách chủ quan tuỳ tiện. Phương pháp không phải
là nguyên tắc có sẵn, bất biến. Nó phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu và
mục đích đặt ra. Để tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể
phải nghiên cứu đối tượng và mục đích cần đạt tới một cách khách quan.
Nghĩa là phải vạch rõ những tính chất, chỉ tiêu về số lượng và chất lượng…
Từ đó, nhận thức rõ những quy lụât của nó. Chỉ trên cơ sở đó, và sau đó, chủ
thể mới xác định được phải nghiên cứu và hành động như thế nào, và cần
phải sử dụng phương tiện, công cụ và biện pháp gì cho thích hợp, cũng như
cần phải kết hợp với các yếu tố đã theo một trình tự như thế nào cho hợp lý.
Nghĩa là khi xác định phương pháp chỉ tuân theo một lôgíc nhất định, tuỳ
thuộc vào lôgic của đối tượng. Như vậy, phương pháp bắt nguồn từ thực tiễn,
phản ánh những quy luật khách quan của đối tượng nghiên cứu. Sức mạnh
của phương pháp là, trong khi phản ánh đúng đắn những quy luật khách
quan, nó đem lại cho khoa học và thực tiễn một công cụ có hiệu quả để
nghiên cứu thế giới và cải tạo thế giới. Phương pháp có nhiều loại và nhiều
cấp độ khác nhau.
- Phương pháp riêng, phương pháp đặc thù và phương pháp chung.
- Phương pháp nhận thức và phương pháp thực tiễn.
Việc phân biệt các loại phương pháp như trên chỉ có ý nghĩa tương đối
tuỳ theo góc độ và phân loại. Tính tương đối giữa các loại phương pháp phản
ánh tình hình thực tế là trong hoạt động nhận thức và thực tiến, các loại
phương pháp có thể được phối hợp, đan xen và bổ sung cho nhau. Cùng một
đối tượng hay công việc có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng
cuối cùng chủ thể phải lựa chọn phương pháp tối ưu, và mang lại hiệu quả
cao nhất. Lựa chọn những phương pháp “giản tiện “để giải quyết những công
việc phức tạp nhằm rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí, đưa lại hiệu quả cao
dựa trên sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đang là
xu hướng được chú ý hiện nay. Chẳng hạn, với sự phát triển của công nghệ
vi xử lý, máy tính điện tử, phương tiện thông tin hiện đại…, hiện nay người kĩ
sư chỉ cần thực hiện những phương pháp hết sức “giản đơn” là bấm nút điều
chỉnh, nhìn màn ảnh vô tuyến, nghe điện thoại mà vẫn có thể điều hành được
một công đoạn hay toàn bộ quá trình sản xuất.
b.Phương pháp luận:
- Khái niệm phương pháp luận: Trong thực tiễn, con người có thể áp
dụng nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết công việc đã định. Quá
trình lựa chọn phương pháp có thể đúng hoặc sai. Vậy làm thế nào để xác
định được phương pháp đúng đắn, khoa học? Từ đó, xuất hiện nhu cầu tri
thức khoa học về phương pháp và đó cũng là lý do để khoa học về phương
pháp ra đời. Đó chính là phương pháp luận.
Vậy, phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về ph-
ương pháp. Phương pháp luận giải quyết những vấn đề như: phương pháp là
gì? Bản chất, nội dung, hình thức của phương pháp như thế nào? Do đó, có
thể nói cách khác, cụ thể hơn, phương pháp luận là hệ thống những quan
điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương
pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một
cách hợp lý, có hiệu quả tối đa.
Chẳng hạn, phương pháp luận toán học có nhiệm cụ nêu ra những
quan điểm, nguyên tắc chung chỉ đạo quá trình xác định và áp dụng các
phương pháp, cụ thể như: phương pháp tiên đề, phương pháp giả thiết - diễn
dịch v.v… Hoặc, trong kinh tế cụ thể như: phương pháp điều tra chọn mẫu,
phương pháp phân tích các hoạt động kinh tế, phương pháp thống kê v.v…
Trên cơ sở đó, rút ra những quan điểm, nguyên tắc chung chỉ đạo việc áp
dụng các phương pháp kinh tế cụ thể như: quan điểm về hiệu quả, quan điểm
về đồng bộ, quan điểm về phát triển và tiến bộ xã hội v.v… Việc lựa chọn, áp
dụng một phương pháp kinh tế cụ thể nào phải xuất phát từ những quan
điểm, nguyên tắc chung đó.
Như vậy, phương pháp luận và phương pháp khác nhau. Phương pháp
luận là lý luậnvề phương pháp, là những quan điểm, nguyên tắc xuất hiện chỉ
đạo chủ thể xác định phương pháp một cách đúng đắn. Còn phương pháp là
cách thức, thủ đoạn hoạt động (cả trong nhận thức và thực tiễn) cụ thể của
chủ thể, cái thứ nhất là thuần tuý lý luận, cái thứ hai là cả lý luận và thực tiễn.
Phương pháp luận nghiên cứu phương pháp, nhưng không nhằm mục đích
xác định phương pháp cụ thể mà là rút ra những quan điểm, nguyên tắc
chung cho việc xác định và áp dụng phương pháp. Vì vậy không nên nhầm
lẫn giữa phương pháp luận là cơ sở nghiên cứu các phương pháp cụ thể, còn
phương pháp cụ thể phải xuất phát từ quan điểm, nguyên tắc của phương
pháp luận.
- Các cấp độ của phương pháp luận: Phương pháp luận có các cấp độ
khác nhau: phương pháp luận bộ môn, phương pháp khoa học chung và ph-
ương pháp luận chung nhất - phương pháp luận triết học.
Phương pháp luận bộ môn là phương pháp luận của các bộ môn khoa
học cụ thể như: phương pháp luận toán học, vật lý học, hoá học, sinh học,
kinh tế học, công nghệ học v.v… Đó là những quan điểm, nguyên tắc xuất
phát để xác định các phương pháp cụ thể, nhằm giải quyết những vấn đề cụ
thể của các bộ môn khoa học đó.
Phương pháp luận khoa học chung là những quan điểm, nguyên tắc
chung hơn, chỉ đạo việc xác định phương pháp bộ môn hay phương pháp
luận của một nhóm các ngành của các bộ môn khoa học có những điểm
chung nào đó. Ví dụ, phương pháp luận chung cuả các ngành khoa học xã
hội. Phương pháp luận bộ môn nào đó cũng có thể được coi là phương pháp
luận khoa học chung nếu bộ môn đó được phát triển và chia thành những
môn học độc lập. Ví dụ, phương pháp luận toán học trở thành phương pháp
luận khoa học chung cho các bộ môn toán học như số học, hình học, đại số
v.v… Hay phương pháp luận sinh vật học trở thành phương pháp luận chung
cho các bộ môn sinh học cụ thể khác nhau như tế bào học, vi sinh học v.v…
Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận triết học. Nó khái
quát những quan điểm, nguyên tắc chung nhất làm xuất phát điểm cho việc
xác định các phương pháp luận khoa học chung, phương pháp luận bộ môn
và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn. Các
phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận khoa học chung và phương
pháp luận chung nhất hợp thành một hệ thống khoa học về phương pháp chỉ
đạo chủ thể nhằm xác định các phương pháp cụ thể một cách đúng đắn. Các
loại phương pháp luận này vừa độc lập tương đối với nhau, vừa bổ sung cho
nhau, thâm nhập vào nhau mặc dù không thể thay thế cho nhau. Do đó đòi
hỏi chúng ta phải biết vận dụng tổng hợp các loại phương pháp luận.
c. Phương pháp luận biện chứng duy vật.
Phương pháp luận biện chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất
của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng, nó bao gồm hệ thống những
quan điểm, nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo việc hoạch định phương pháp
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Mỗi nguyên lý, phạm
trù, quy luật của phép biện chứng duy vật đều thể hiện sự thống nhất trong nó
giữa thế giới khách quan khoa học và phương luận đúng đắn.
2. Các nguyên tắc luận cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn.
Bất cứ sự vật hiện tượng nào thế giới cũng đều tồn tại trong những mối
liên hệ với các sự vật hiện tượng khác và các mối liên hệ đó là vô cùng đa
dạng và phong phú. Vì thế trong nhận thức và thực tiễn phải quán triệt
nguyên tắc toàn diện. Nguyên tắc toàn diện đặt ra các yêu cầu:
+ Khi phân tích sự vật phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, các bộ
phận của chính sự vật trong mối liên hệ của chúng và sự tác động giữa sự vật
đó với các sự vật khác, kể cả những mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của
chúng để từ đó đi đến tri thức chỉnh thể về sự vật. Cần tránh quan điểm phiến
diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một, hoặc một vài mối liên hệ đã vội vàng đi
đến những kết luận về bản chất sự vật. Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được
sự vật cần nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ
và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”.
+ Đồng thời, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét thấu
đáo và phân biệt từng mối liên hệ, tránh cách xem xét dàn trải liệt kê, dẫn đến
sự đánh đồng ngang nhau những thuộc tính, những tính quy định khác nhau
của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. cần phải đi
từ tri thức nhiều mặt, từ nhiều mối liên hệ của sự vật để khái quát và làm nổi
bật lên cái cơ bản nhất, quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng đó.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào sai lầm của chủ nghĩa
chiết trung và thuật nguỵ biện. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung là sự kết
hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ, tạo nên một hình ảnh không đúng về sự
vật. Thực chất của thuật nguỵ biện là sự “đánh tráo” có dụng ý, biến cái không
cơ bản thành cái cơ bản, không bản chất thành bản chất… hoặc ngược lại,
phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển,
nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải quán triệt nguyên tắc phát
triển. Nguyên tắc phát triển đặt ra các yêu cầu sau:
+ Xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong xu
hướng vận động, biến đổi, chuyển hoá của chúng. Không chỉ nắm bắt cái hiện
đang tồn tại, mà phải thấy khuynh hướng phát triển trong tương lai. Phải phân
tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, khái quát những hình thức biểu hiện
của sự biến đổi đó để tìm ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật đó.
+ Phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến kém hoàn thiện hơn. Mỗi giai
đoạn lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau cho nên phải có
sự phân tích cụ thể để tìm ra những cách thức hoạt động, phương pháp tác
động phù hợp nhằm thúc đẩy những biến đổi có lợi và sự kìm hãm những
biến đổi có hại.
+ Cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến vv… trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cần có quan điểm đúng đắn trong
nhận thức về cái mới và tạo điều kiện cho sự khẳng định cái mới. Từ đó xây
dựng quan điểm đúng đắn, khoa học trong việc nắm bắt hiện thực và có sự
định hướng, niềm tin khoa học vào những xu hướng tất yếu, hợp quy luật của
hiện thực.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển đòi hỏi đi cùng với nó là
quan điểm lịch sử cụ thể. Điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì mối liên
hệ của sự vật và hình thức phát triển của sự vật khác nhau. Cho nên phải đặt
sự vật vào trong những bối cảnh lịch sử cụ thể để xem xét. Nguyên tắc lịch sử
- cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải
chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự
vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là đúng đắn, khoa học
trong điều kiện này nhưng sẽ không còn là đúng đắn trong một điều kiện, bối
cảnh khác. Vượt ra khỏi những bối cảnh cụ thể xác định, sự vật hiện tượng
sẽ không được biểu hiện ra trong bản chất cũ, mà có thể biểu hiện ra trong
bản chất khác…
Vận dụng vào thực tiễn xã hội, việc quán triệt các nguyên tắc toàn diện,
phát triển, lịch sử - cụ thể có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Triết học” 3 tập (dùng cho nghiên cứu sinh
và cao học thuộc chuyên ngành triết học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001.
2. Hội đồng Trung Ương biên soạn bộ giáo trình quốc gia các môn khoa
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình triết học Mác - Lênin”,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
3. Hội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Một số vấn đề về chủ
nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996.
4. Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện triết học: “Lịch sử phép biện
chứng”, tập 4 (Phép biện chứng mácxit - giai đoạn Mác- Ăngghen), tập 5
(Phép biện chứng macxit - giai đoạn Lênin). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998.
5. Viện Triết học: “Chủ nghĩa Mác - Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Câu hỏi Xêmina
1. Phân tích sự đối lập giữa phép biện chứng với phép siêu hình?
Những giai đoạn cơ bản trong lịch sử phép biện chứng?
2. Quán triệt nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc
lịch sử - cụ thể trong thực tiễn ngành giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay
như thế nào?
Chuyên đề 3. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN.
I. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN1. Khái niệm thực tiễn và các hình thức thực tiễn.
a. Khái niệm thực tiễn.
* Lược sử vấn đề thực tiễn:
Thực tiễn (Practice) là phạm trù cơ bản trong lý luận nhận thức
mácxít.V.I Lênin cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”. Việc đưa vấn đề thực tiễn
vào lý luận nhận thức đã góp phần tạo ra bước ngoạt có ý nghĩa cách mạng
của triết học mác xít so với các hệ thống triết học duy vật cũ.
Trong các hệ thống triết học duy vật cũ thì hệ thống triết học của
L.Phoiơbắc được C.Mác đánh giá cao: Phoiơbắc đã góp phần to lớn “đưa chủ
nghĩa duy vật trở lại ngôi vua” trong cuộc đấu tranh với các hệ thống triết học
duy tâm, đặc biệt là triết học duy tâm khách quan của G.V.P. Hêghen.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ, Phoiơbắc cũng như
các nhà triết học duy vật ở Anh, Hà lan, và Pháp trước đó cũng không tránh
khỏi hạn chế. Theo Mác, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật cũ là mang
tính trực quan, rằng: “Sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận
thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được
nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được
nhận thức về mặt chủ quan”.
Phoiơbắc, như Mác đã chỉ ra, chỉ coi trọng hoạt động lý luận mà xem
nhẹ hoạt động thực tiễn. Hoạt động lý luận mới là hoạt động đích thực của
con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức
biểu hiện. Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi.
Phoiơbắc đã không thấy được tính tích cực, năng động sáng tạo của
sự phản ánh ý thức, không thấy được nhận thức là qúa trình phản ánh hiện
thực khách quan bởi con người. Nhận thức là kết quả của quá trình tương tác
giữa chủ thể và khách thể nhận thức. Ông đã sai lầm khi tách khách thể ra
khỏi chủ thể, không chú ý tới khách thể nhận thức, không coi sự vật, hiện
thực, cái cảm giác được (khách thể) là thực tiễn.
Chính sự hạn chế ấy của Phoiơbắc và các nhà triết học duy vật trước
Mác là cơ sở cho chủ nhĩa duy tâm phát triển mặt năng động của yếu tố chủ
quan, đi đến tuyệt đối hoá yếu tố ý thức, tinh thần do đó không hiểu đúng hoạt
động thực tiễn của con người - hoạt động cảm giác được.
Các nhà triết học duy tâm do quá đề cao và tuyệt đối hoá vai trò của ý
thức, tư tưởng tinh thần nên cũng xem thực tiễn như là hoạt động tinh thần
chứ không xem thực tiễn là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính
của con người.
Một số nhà triết học duy tâm chủ quan cho rằng, hoạt động thực tiễn bị
chế định bởi ý chí, bản năng những nhân tố tiềm thức của con người.
Hêghen - nhà triết học duy tâm khách quan thì cho “thực tiễn là hoạt
động ý chí của tư tưởng”, “là một suy lý lôgíc”. Thực tiễn chỉ được ông giới
hạn ở hoạt động tư tưởng, ở “ý niệm”. Tuy nhiên, Hêghen đã có lý khi bàn
đến “ý niệm thực tiễn”. Theo ông, bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình,
đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
Như vậy, các trào lưu triết học trước Mác hoặc hoàn toàn phủ nhận
hoạt động thực tiễn của con người, hoặc hiểu thực tiễn chỉ trong phạm vi
quan sát trực quan hay trong phòng thí nghiệm, hoặc đều tách rời hoạt động
thực tiễn với quá trình nhận thức của con người. Kế thừa những yếu tố hợp lý
của các hệ thống triết học trước đó, vận dụng phép biện chứng duy vật vào
xem xét đời sống xã hội, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra quan niệm đúng
đắn về thực tiễn, vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói riêng và đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người nói chung.
* Khái niệm thực tiễn trong triết học Mác - Lênin
Theo quan niệm của triết học Mác - Lênin thì hoạt động thực tiễn chỉ có
thể có được ở xã hội loài người; nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và
phát triển của xã hội loài người. Thực tiễn là phạm trù trung tâm, nền tảng của
triết học duy vật biện chứng.
Trong “Luận cương về phoiơbắc” C.Mác nhấn mạnh rằng: “Đời sống xã
hội, về thực chất, là có tính thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý
luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn
của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy”.
Khác biệt với các nhà triết học duy tâm đã giải thích, xem xét các hiện
tượng trong đời sống xã hội xuất phát từ yếu tố ý thức, tư tưởng, tinh thần,
Mác xuất phát từ con người hiện thực, từ hoạt động vật chất của con người.
Mác xác định: “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là
sự tồn tại của những cá nhân con người sống”.
Để tồn tại và phát triển trước hết con người phải chế tác và sử dụng
công cụ lao động, tác động vào tự nhiên nhằm cải biến tự nhiên tạo ra của cải
vật chất nhằm thoả mãn các nhu cầu vật chất của con người như ăn, mặc, đi
lại… Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên, cơ bản của con
người. Nhờ đó, tất cả các mặt của đời sống xã hội được hình thành, phát
triển, được tái tạo lại. Xã hội chính là “giới tự nhiên thứ hai” được tạo ra thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
C. Mác phê phán Phoiơbắc là đã không chú trọng tư duy trừu tượng,
mà coi trọng trực quan cảm tính của con người. Phoiơbắc đã tách nhận thức
ra khỏi hoạt động thực tiễn của con người.
Thực ra, nhận thức là một quá trình biện chứng từ thấp đến cao, từ trực
quan sinh động (nhận thức cảm tính) đến tư duy trừu tượng (nhận thức lý
tính) đến thực tiễn.
Mác cho rằng, thực tiễn chính là hoạt động vật chất mà tất cả các hoạt
động khác như hoạt động tinh thần, hoạt động chính trị, hoạt động tôn giáo
đều phụ thuộc vào nó.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, “cảm tính”, có mục đích,
có tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói
một cách cụ thể hơn, thực tiễn là hoạt động có suy nghĩ, có ý thức, có tính
toán, hoạt động có đối tượng cảm tính của con người.
Theo Mác, “vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn”.
Hoạt động thực tiễn có tính năng động, sáng tạo, là quá trình chuyển
hoá cái tinh thần (mục đích, ý thức) thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là
quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận thức, trong đó chủ thể
hướng vào việc cải tạo khách thể, trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Do vậy,
thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian nối liền ý thức của con người với thế
giới bên ngoài. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi giới tự
nhiên, biến đổi hình ảnh sự vật trong nhận thức và đồng thời biến đổi chính
bản thân mình.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Chỉ có con
người mới có các hoạt động thực tiễn, còn con vật chỉ hoạt động theo bản
năng. Theo Ph.Ăngghen, lịch sử xã hội loài người chẳng qua là lịch sử con
người theo đuổi các mục đích khác nhau. Hoạt động có ý thức, có mục đích
chính là hoạt động đặc trưng, là cái để phân biệt sự khác nhau về chất giữa
người với động vật. Con người thông qua hoạt động lao động sản xuất đã
không những khai thác những cái sẵn có trong tự nhiên mà còn tạo ra những
cái không có sẵn, những “cái nhân tạo” để thoả mãn những nhu cầu ngày
càng cao của mình. Do vậy, thực tiễn chính là phương pháp tồn tại cơ bản
của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan
hệ giữa con người và thế giới.
Các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử xã hội có các trình độ
phát triển khác nhau của hoạt động thực tiễn. Do đó, thực tiễn mang tính lịch
sử - xã hội. Vì: hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của loài người.
Đó là hình thức hoạt động đặc thù của con người, luôn diễn ra trong một bối
cảnh văn hoá xã hội nhất định. Là một sản phẩm lịch sử, hoạt động thực tiễn
luôn vận động và phát triển không ngừng theo các giai đoạn lịch sử. Trình độ
phát triển của thực tiễn được đánh giá ở trình độ, khả năng chinh phục, khai
thác, tái tạo giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người. Hoạt động
thực tiễn không phải là hoạt động của cá nhân người mà là hoạt hoạt động
của loài người, trước hết là của đông đảo quần chúng nhân dân - những
người trực tiếp tham gia hoạt động sản xuất ra của cải vật chất.
Thực tiễn là hoạt động có ý thức,có mục đích cuả con người. Hoạt
động thực tiễn nhằm mục đích cao nhất là cải tạo hiện thực. Con người nhận
thức thế giới hiện thực và tích cực tác động một cách có mục đích để cải tạo
nó.Trên cơ sở đó, thế giới mới bộc lộ những đặc tính, bản chất, nội dung, qui
định,...nhờ đó con người mới có tri thức về thế giới. Có như vậy, con người
mới có thể cải tạo hiện thực theo điều kiện của sự phát triển tự nhiên và xã
hội.
Nếu xem thực tiễn tồn tại dưới dạng một chính thể thì nó bao gồm
nhiều yếu tố như: nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu
tố đó góp phần tạo nên hoạt động thực tiễn của con người. Nếu con người
không có nhu cầu vật chất và tinh thần, không theo đuổi các mục đích khác
nhau, gắn liền lợi ích với các hoạt động của mình, không có công cụ và
phương tiện vật chất để thực hiện các hoạt động và hoạt động không có kết
quả thì đương nhiên không thể hoạt động thực tiễn.
b. Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, phong phú. Có ba dạng cơ bản: hoạt
động sản xuất vật chất, hoạt động thực nghiệm khoa học; hoạt động chính trị -
xã hội.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên cơ bản, nền tảng của
đời sống xã hội. Hoạt động này có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các dạng
hoạt động khác, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội. “Theo
quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng, là
sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực”.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động nhằm cải biến xã hội, phát
triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Đấu tranh giai cấp nhằm cải tạo xã
hội, lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay vào đó sự thống trị của giai cấp
khác đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ là hoạt động chính trị -
xã hội mang tính cơ bản, phổ biến. Hoạt động chính trị - xã hội là một dạng
đặc biệt - dạng cao nhất của Hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra gần giống, hoặc lặp lại những trạng thái
của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của
đối tượng nghiên cứu. Nhờ có hoạt động thực nghiệm khoa học con người
ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc về thế giới. Thời đại ngày nay- thời đại
của nền kinh tế tri thức thì hoạt động thực nghiệm khoa học ngày càng có vai
trò triết học lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Ba dạng hoạt động thực tiễn trên có chức năng, vai trò khác nhau song
có mối liên hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, hoạt
động sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định.
Ngoài ba dạng hoạt động thực tiễn cơ bản trên còn có dạng phát sinh,
không cơ bản đó là các hoạt động trong lĩnh vực đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, giáo dục… Các dạng hoạt động này được hình thành và phát triển trên
cơ sở, nền tảng của hoạt động sản xuất vật chất, suy đến cùng chịu sự quy
định của hoạt động sản xuất vật chất.
2. Khái niệm lý luận và các cấp độ lý luận
a. Khái niệm lý luận
Lý luận, tiếng Hy Lạp là theo Ria, có nghĩa là sự quan sát, nghiên cứu,
nhận ra, thảo luận.
Lý luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một lĩnh vực nào đó
trong thế giới. Nói cách khác, lý luận là hệ thống các luận điểm nhất định gắn
bó chặt chẽ với nhau về mặt lôgic và phản ánh bản chất, các quy luật, hoạt
động và phát triển của khách thể được nghiên cứu.
Lý luận khác với giả thuyết (Hypôthesis) ở chỗ, giả thuyết là những hiểu
biết mang tính giả định chưa được kiểm định. Lý luận khác với thực tiễn ở
chỗ nó thuộc lĩnh vực ý thức, tư duy, là sự phản ánh, tái hiện khách quan. Lý
luận có chức năng phản ánh hiện thực khách quan và phục vụ thực tiễn.
b. Các cấp độ
Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm mọi cách để thoả mãn nhu
cầu hiểu biết của mình về thế giới trên cơ sở đó nhằm cải biến thế giới. Sự
hiểu biết của con người cũng có các cấp độ khác nhau.
- Cấp độ của nhận thức: Kinh nghiệm (Experience) là sự hiểu biết (tri
thức) thu nhập được từ chính thực tiễn cuộc sống, do những hoạt động quan
sát và thí nghiệm mang lại. Có tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức
kinh nghiệm khoa học.
Tri thức kinh nghiệm thông thường nảy sinh trực tiếp, phong phú va
sinh động các mặt của đời sống xã hội, song nó có hạn chế là chỉ cho ta biết
cái bên ngoài, chứ chưa phải la cái bên trong, cái bản chất, quy luật của đời
sống xã hội. Tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những kinh
nghiệm, khảo sát khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học bổ sung những
hiểu biết về thế giới mà tri thức kinh nghiệm thông thường không có.
Cả hai dạng tri thức này tuy rất phong phú, đa dạng song chỉ dừng lại ở
cấp độ kinh nghiệm, chưa đạt được độ tin cậy cao, chưa mang tính khái quát
cao và hệ thống, chưa đạt tới cấp độ lý luận. Dạng tri thức này còn bị giới hạn
ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ các
quan sát và thí nghiệm. PH.Ăngghen cho rằng: “Sự quan sát dựa vào kinh
nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” Tri
thức kinh nghiệm có vai trò triết học lớn trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Nó là cơ sở, là nền tảng để hình thành và phát triển tri thức
khoa học. Không có tri thức kinh nghiệm thì không có tri thức lý luận. Kinh
nghiệm chính là cơ sở để con người kiểm tra lý luận, sửa đổi bổ sung lý luận
đã có, tổng kết khái quát lý luận mới.
Trình độ cao hơn của nhận thức là lý luận. Lí luận được hình thành từ
kinh nghiệm, trên cơ sơ tổng kết kinh nghiệm, là sự khái quát, hệ thống các tri
thức kinh nghiệm. lý luận thường được trình bày thông qua các lý thuyết, học
thuyết với hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Khác với tri thức kinh
nghiệm, tri thức lý luận là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách trừu
tượng, gián tiếp, khái quát về bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng.
Nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về cái bên trong, cái bản chất, cái tất yếu của
sự vật, hiện tượng.
Lý luận có những cấp độ khác nhau. Hệ thống lý luận chung nhất về
các qui luật vận động của thế giới là lý luận triết học. Còn lý luận về một lĩnh
vực riêng biệt nào đó trong thế giới là lý luận chuyên ngành. Thí dụ như lý
luận toán học, vật lý. hoá học, sinh học, văn học, lịch sử,…lý luận về pháp
quyền, lý luận về phương pháp,…
Lý luận triết học có vai trò là cơ sở để hình thành thế giới quan và
phương pháp luận cho lý luận chuyên ngành. Lý luận chuyên ngành có tác
dụng bổ sung, làm sâu sắc thêm cho lý luận triết học.
Lý luận triết học Mác – Lênin mang tính khách quan, khoa học, cách
mạng, không những giải thích đúng thế giới mà còn góp phần “cải tạo thế
giới”.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận, lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạN phát triển
kết tiếp nhau của quá trình nhận thức. Giữa chúng có mối liên hệ biện chứng
với nhau.
Nhận thức kinh nghiệm là nền tảng, cơ sở của nhận thức lý luận. Nó
cung cấp cho nhận thức lý luận những dữ liệu cụ thể, đa dạng, phong phú.
Nhận thức kinh nghiệm là sự phản ánh trực tiếp thực tiễn đời sống xã hội, cho
ta những hiểu biết ban đầu về sự vật hiện tượng, là cơ sở hiện thực để kiển
tra, đánh giá, sửa chữa, bổ sung cho lý luận.
Lý luận được hình thành và phát triển trên cơ sở của kinh nghiệm, thực
tiễn. Quá trình phát triển của thực tiễn đã đặt ra những vấn đề đòi hỏi lý luận
phải giải đáp. Lý luận phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan song lại đáng
tin cậy hơn kinh nghiệm. Lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quy luật thể hiện tâm lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn. Do đó
phạm vi ứng dụng của nó mang tính phổ biến hơn so với tri thức kinh nghiệm.
Lý luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn song nó
có tính độc lập tương đối. Điều đó được biểu hiện ở chỗ, không phải lý luận
nào cũng xuất phát từ kinh nghiệm, có lý luận được xây dựng không trên cơ
sở những kinh nghiệm có trước. Điều này chỉ có thể lý giải bởi tính ưu việt,
vượt trội của tư duy trừu tượng của con người. Lý luận được hình thành và
phát triển, trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn, bổ
sung, phát triển trong thực tiễn.
Mác cho rằng, “lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”, lý luận được xem như “kim chỉ nam cho hành
động”. Nó có thể dự kiến được phương thức vận động phát triển của sự vật
hiện tượng, phương hướng phát triển của thực tiễn.V.I Lênin cho rằng, không
có sách thì không có tri thức. Không có tri thức cách mạng thì không có lý
luận cách mạng. Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào
cách mạng.
Lý luận khoa học phản ánh đúng hiện thực khách quan. Nó góp phần
hạn chế tính mò mẫn, tự phát, tăng cường tính tự giác, chủ động tích cực
trong hoạt động của con người.
Tuy nhiên, lý luận do phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan, mang
tính trừu tượng cao nên không phải lúc nào nó cũng mang lại nhận thức đúng
đắn, chính xác. Nếu nó phản ánh hư ảo hiện thực thì trở thành lý luận tôn
giáo. Nếu nó phản ánh sai, bóp méo hiện thực thì trở thành lý luận duy tâm
trong triết học. Nếu nó lạc hậu, không phù hợp với hiện thực, phản ánh xa rời
hiện thực, thành ảo tưởng, giáo điều thì trở thành sức cản đối với sự phát
triển của xã hội, thậm chí trở thành lý luận phản động, phản tiến bộ nếu nó
được giai cấp phản động sử dụng.
Do vậy cần phân biệt lý luận nói chung với lý luận khoa học, lý luận
phản khoa học, lý luận tiến bộ với lý luận phản tiến bộ.
lý luận xuất phát từ thực tiễn, không xa rời thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn là lý luận khoa học. lý luận góp phần thúc đẩy sự phát triển của thực
tiễn, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và lý luận khoa học tiến bộ.
V.I.Lênin trong “Bút ký triết học” cho rằng, thực tiễn cao hơn nhận thức
(lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà còn của tính
hiện thực trực tiếp. Thực tiễn của con người được lặp đi lặp lại hàng nghìn
triệu lần được in vào ý thức thành những cách logic.
Do vậy giữa lý luận và thực tiễn phải thống nhất với nhau. Coi trọng lý
luận, song không cường điệu, tuyệt đối hoá vai trò của lý luận, xem thường
thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn. Lênin cho rằng, bản thân ý chí của con
người, thực tiễn của con người, đối lập với sự thực tiễn của mục đích của con
người…Do chúng tách rời khỏi nhận thức và không thừa nhận hiện thực bên
ngoài là tồn tại chân thực (chân lý khách quan). Phải có sự thống nhất giữa
thực tiễn và nhận thức. Lênin xem đây chính là một nguyên tắc của lý luận
nhận thức, sự thống nhất của lý luận (của nhận thức) và của thực tiễn chính
là trong lý luận nhận thức. Mác trước đó cũng đã nhấn mạnh rằng, chính
trong thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, chứng minh tính hiện
thực. Do đó tư duy không tách rời hiện thực. Nếu tách rời hiện thực, thực tiễn
khỏi tư duy là vấn đề thuần tuý kinh viện.
Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với nhận thức. Nó vùa là cơ sở, nền
tảng, động lực, mục đích của nhận thức. Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân
lý.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn rằng: “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mac- Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông.”
Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận khoa học của giai cấp công nhân được
hình thành và phát triển trong phong trào đấu tranh cách mạng. Là ngọn hải
đăng soi đường cho tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân. Mác viết:
“Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp
vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Thứ triết học ấy - vũ
khí tinh thần của giai cấp vô sản - chính là triết học Mác.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mang tính cách mạng. Nó xuất
phát từ thực tiễn đồng thời không bao giờ chịu chấp nhận thực tiễn đã lạc hậu
đó là chủ nghĩa tư bản, nó mở ra con đường phát triển cho thực tiễn tương lai
- chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở, linh hồn của học thuyết
đó là phép biện chứng macxít. Thực tiễn luôn vận động và biến đổi không
ngừng, do đó tư duy lý luận cũng phải vận động biến đổi và phát triển để có
thể phản ánh kịp thời, phản ánh đúng, hơn nữa còn định hướng cho thực tiễn
phát triển.
Chúng ta còn nhớ mỗi lần tái bản các tác phẩm kinh điển, Mác và
Ăngghen chủ trương vẫn giữ nguyên nội dung, chỉ bổ sung trong lời tựa
những dữ liệu thông tin mới từ thực tiễn nóng bỏng của cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân. Lênin cũng là tấm gương sáng về sự phát triển
chủ nghĩa Mác trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới. Việc chuyển đổi từ
chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới cho phù hợp với
giai đoạn cách mạng mới là một ví dụ điển hình. Ở đây, Lênin đã vận dụng
sáng tạo học thuyết Mác vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Tuy nhiên, không phải lúc nào những người cộng sản và phong trào
cộng sản quốc tế cũng vận dụng đúng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Họ, hoặc là quá đề cao lý luận mà xa rời thực tiễn, hoặc là quá đề
cao kinh nghiệm, thực tiễn mà không chịu học tập phát triển lý luận, vận dụng
sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn cuộc sống. Bệnh giáo điều và bệnh
kinh nghiệm trở thành khá phổ biến đối với nhiều đảng viên cộng sản ở nhiều
nước trong thời gian qua.
2. Phê phán bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm.
Bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm hình thành và trở thành phổ biến
trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là vì ở đó nhiều đảng viên cộng
sản đã vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh giáo điều có nguyên nhân là do cường điệu, tuyệt đối hoá vai trò
của lý luận đối với thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn.
Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh kinh viện, sách vở. Xem lý luận,
sách vở như là cái gì tuyệt đối đúng không cần phải bổ sung, phát triển. Học
tập lý luận Mác- Lênin thì không chú ý tới nội dung và bản chất cách mạng
của nó, chỉ chú ý tới câu chữ và vận dụng câu chữ của các nhà kinh điển vào
bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào. Hoặc học tập lý luận Mác - Lênin theo kiểu
thuộc lòng, không chú ý tới những đổi thay đang diễn ra trong cuộc sống.
Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin một cách phiến diện, vận dụng một cách rập
khuôn những mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ngoài mà không chú ý tới đặc
thù của nước mình. Các chủ trương, chính sách lại thường xuất phát từ ý
muốn chủ quan, không thấy được hiện thực sinh động và phù hợp với thực
tiễn cuộc sống.
Ở nước ta, bệnh giáo điều còn được biểu hiện ở chỗ vận dụng những
kinh nghiệm trong chiến tranh cách mạng vào công cuộc xây dựng hoà bình,
kiến thiết đất nước trong thời bình. Học tập, áp dụng máy móc kinh nghiệm
của địa phương này vào địa phương khác mà không thấy đặc điểm riêng biệt
của từng địa phương. Đó, chính bệnh “giáo điều kinh nghiệm”.
Như vậy, nhìn chung bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng quá coi
trọng vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu
quan điểm lịch sử cụ thể, vận dụng lý luận, áp dụng kinh nghiệm một cách
máy móc, rập khuôn.
Đối lập với bệnh giáo điều là bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm là
khuynh hướng tư tưởng quá coi trọng kinh nghiệm, thực tiễn, xem thường lý
luận.
Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm là tư tưởng “kinh nghiệm chủ nghĩa”
theo kiểu “sống lâu lên lão làng” thoả mãn với những thành tích đã đạt được.
Trong công việc, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đã tích luỹ được, chủ quan,
lười hoặc không chịu khó tích cực học tập để không ngừng nâng cao trình độ
tư duy lý luận. Không thấy được vai trò quan trọng của giáo dục và khoa học
kỹ thuật. Không tôn trọng và sử dụng người tài, có tư tưởng bảo thủ, trì trệ
không chịu tiếp thu và vận dụng cái mới, cái tiến bộ.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở nước ta là tồn tại khá lâu nền
sản xuất nhỏ, chưa có nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Trình độ dân trí còn
thấp, nền giáo dục còn nhiều bấp cập, khoa học - kỹ thuật phát triển còn hạn
chế. Mặt khác, do ý thức hệ phong kiến, các phong tục, tập quán, truyền
thống, thói quen của người dân còn mang những dấu vết của xã hội cũ. Đó
chính là mảnh đất thuận lợi để hình thành, tồn tại và phổ biến bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa.
Bệnh giáo điều và kinh nghiệm ở nước ta còn có nguyên nhân cơ bản
là sự yếu kém về lý luận. Sự yếu kém về lý luận khiến cho chúng ta không có
nhận thức đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Việc hiểu một cách đơn giản, xơ cứng, phiến diện lý luận Mác -
Lênin dẫn đến sự vận dụng lý luận ấy vào thực tiễn cách mạng còn nhiều sai
lầm. Chậm đổi mới tư duy lý luận là một nguyên nhân chủ quan dẫn tới cuộc
khủng hoảng toàn diện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới.
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA.
1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như các tri thức khoa học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể
ở nước ta.
Thời đại ngày nay đang có những biến đổi hết sức sâu sắc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để hội nhập và phát triển, không bị hoà tan
trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Đảng ta đã chủ động vận dụng lý luận
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn cách
mạng Việt Nam hiện nay. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động. Đó là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta.
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của triết học Mác - Lênin,
Đảng ta cho rằng con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bỏ qua ở đây không có
nghĩa là bỏ qua tất cả, mà chỉ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Đồng thời có tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ.
Vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác
Lênin, Đảng ta cho rằng, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức bất công. Đấu tranh, ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng
và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc, kiên định
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng các quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ, Đảng ta chủ trương
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta kiên định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Đại hội Đảng lần thứ IX và dự thảo văn kiện đại hội Đảng lần thứ X vẫn
khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần triết học lớn của Đảng và dân tộc
ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc, về
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự là của dân, do dân,
vì dân, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về
phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ ảnh hưởng sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tế
những thành tựu của công cuộc đổi mới của Đảng gần 20 năm qua cho thấy
rằng, Đảng đã vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học nhân loại vào điều
kiện cụ thể ở nước ta.
Để có thể phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển, Đảng ta xem
phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục là nền tảng,
động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đảng chủ trương tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của nhân loại bằng cách tăng
cường giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Thực
hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ. Ưu tiên, quan tâm và tạo điều kiện
cho đội ngũ trí thức, khuyến khích các nhà khoa học có nhiều công trình
nghiên cứu xuất sắc. Với phương châm “đi tắt đón đầu” Đảng chủ trương đi
sâu, phát triển nhanh một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại,
công nghệ cao như tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa.
Đảng cũng chỉ rõ, khoa học xã hội nhân văn tập trung hướng vào giải
đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp
luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người, sáng tạo những giá trị văn hoá mới
của Việt Nam.
Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây
dựng cơ sở khoa học để phát triển khoa học, công nghệ trọng điểm, khai thác
các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường sống, phòng chống thiên tai.
2. Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Tình hình thế giới và trong nước hơn 30 năm qua là cơ sở để Đảng ta
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Khi hầu hết các nước XHCN lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế -
xã hội trầm trọng do mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan liêu, bao cấp
được duy trì quá lâu. Trong khi đó, CNTB do điều chỉnh được mâu thuẫn xã
hội, sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, sử dụng
các học thuyết xã hội … đã tỏ ra ổn định và phát triển. Công cuộc cải tổ ở
Liên Xô cũ và các nước XHCN ở Đông Âu thất bại, Trung Quốc, Cu Ba thực
hiện đường lối cải cách, mở cửa từng bước đã thu được thắng lợi đáng kể.
Sau thắng lợi năm 1975, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí muốn tiến
nhanh lên chủ nghĩa xã hội, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp không còn phù hợp, gây cản trở tới tiến trình phát triển xã hội. Mặt
khác, ở bên ngoài bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, hai cuộc chiến
tranh biên giới xảy ra… nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện, trước hết là
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một dịp để Đảng ta tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn bổ sung, phát triển lý luận Mác - Lênin.
Đại hội IV (năm 1986), Đảng đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội VII (năm 1991) đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Trong đó nêu rõ những nét khái
quát nhất về xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đưa ra nhận định nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, chỉ rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên
và chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020. Xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) xác định mục tiêu của các mạng Việt
Nam là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa…”.
Dự thảo đề cương báo cáo chính trị Đại hội X của Đảng đã thẳng thắn
chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm trong 20 năm đổi mới, rút ra những bài
học bổ ích từ những yếu kém và thành tựu trong công cuộc đổi mới. Trong đó
bài học lớn số 1 là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập, dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đồng thời luôn luôn nhạy bén với cái mới, với những phát triển của
thực tiễn.
Như vậy, có thể nói Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin
vào thực tế công cuộc đổi ở nước ta. Đến nay, về cơ bản hệ thống quan điểm
lý luận về công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đã hình thành, nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Đó là
cơ sở cho việc xây dựng và phát triển đường lối của Đảng góp phần bổ sung,
phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, liên tục tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn, chúng ta ngày càng thấy rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chúng ta
phải tiếp tục phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ trung tâm
của thời kỳ quá độ là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Từng bước
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chú trọng tăng
trưởng kinh tế bền vững đi đôi với phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, thực hiện công bằng xã hội. Vừa xây dựng vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Những vấn đề lý luận trên đây là kết quả của quá trình đổi mới tư duy lý
luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn của Đảng, là minh chứng cho việc Đảng
vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Trong giáo dục &đào tạo phải kết hợp nhà trường với xã hội, lý luận với nhận thức.
Đảng ta đã xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, Đảng chủ
trương giáo dục, đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội,
kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đòi hỏi sự nghiệp giáo dục,
đào tạo phaỉ có những biến đổi mạnh mẽ về quy mô và chất lượng. Thực hiện
phương châm “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học
tập” ngành giáo dục, đào tạo đã chú ý nâng cao chất lượng giáo dục, toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá” hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục.
Đảng cũng chỉ đạo ngành giáo dục & đào tạo coi trọng công tác hướng
nghiệp, phát triển mạnh việc đào tạo nghề sao cho phù hợp với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong phạm vi cả nước. Bồi dưỡng đào tạo cho lớp trẻ
những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu công nghệ
mới của các nước phát triển. Trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X,
Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo phải khắc phục
những yếu kém, bất cập, phát huy những thành tựu đã đạt được để đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.
Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo, Đảng chủ trương thực hiện phương châm giáo dục: “học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.”
Nhà trường là một thiết chế xã hội đặc biệt có chức năng đặc biệt là
giáo dục kiến thức, văn hoá, khoa học cho con người đặc biệt là thế hệ trẻ.
Nhà trường ngoài việc trang bị kiến thức văn hoá, khoa học giáo dục còn phải
giáo dục ý thức, kỹ năng lao động, thực hành cho học sinh. Học sinh không
chỉ nắm vững lý thuyết mà còn giỏi thực hành, khi ra trường có thể hoà nhập
ngay với thực tiễn sản xuất, không bị lạc hậu, ngỡ ngàng trước những yêu
cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Những kiến thức trong nhà
trường học sinh thu nhận được phải bổ ích trực tiếp cho nghề nghiệp và cuộc
sống của họ sau này.
Một trong những yếu kém, bất cập của nền giáo dục nứơc ta là chưa
thường xuyên cập nhật những vấn đề thực tiễn của xã hội hiện đại vào trong
giảng dạy lý luận, lý thuyết. Bệnh học chay còn khá phổ biến lối học truyền
thống không động viên được tính năng động, chủ động trong tư duy của
người học. Nội dung, chương trình học tập “quá tải” đối với học sinh, nội dung
chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội.
Mục tiêu giáo dục của ta là đào tạo thế hệ trẻ không những giỏi về lý
luận mà còn giỏi về thực hành, “về đạo đức phẩm chất tư cách, “chuyên” về
nghề nghiệp kỹ thuật, có thể đảm đương được sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu đó chúng ta càng phải quán triệt và vận
dụng tốt phương châm “giáo dục phải kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, học
đi đôi với hành”.
Thực tiễn đất nước đang đòi hỏi rất nhiều ở đội ngũ trí thức - những
người đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới tư duy lý luận. Chính vì vậy, trong
tình hình hiện nay lý luận có vai trò hết sức quan trọng. Đổi mới và phát triển
lý luận là một yếu tố góp phần tạo nên thắng lợi của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được
hiểu và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đồng thời Đảng phải không
ngừng tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ lý luận, nâng cao trí tuệ. Chỉ có như
vậy sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo mới đạt được những thắng lợi to lớn
hơn nữa.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Triết học - tập 3” 3 tập. (dùng cho nghiên
cứu sinh và cao học không thuộc chuyên nghành triết học), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
3. Hội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình triết học Mác -
Lênin trong thời đại hiện nay ”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 5, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962
5. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1981,tập 29.
6. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993 – 1996, các tập 1,3,20, 25,phần II.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập
1,8.
8. Hữu Ngọc (chủ biên): “Từ điển triết học giản yếu”, Nxb. Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
9. Viện triết học: “Chủ nghĩa Mác - Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Câu hỏi Xêmina
4. Tại sao việc đưa khái niệm thực tiễn vào lý luận nhận thức lại là một
yếu tố tạo ra bước ngoặt căn bản mang tính cách mạng của triết học mácxít?
5.Tại sao Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động?
Chuyên đề 4. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Lý luận đã phát hiện ra quy luật vận động, phát triển chung nhất của xã
hội loài người. Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc
nhưng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thời
đại. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng sáng
tạo lý luận hình thái kinh tế - xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA LÝ LUẬN ĐÓ.
1. Những tiên đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
a. Quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm thống trị trong khoa học xã hội. Các nhà
triết học đã không giải quyết một cách khoa học vấn đề phân loại các chế độ
xã hội và phân kỳ lịch sử.
- Tư tưởng triết học thời cổ đại về lĩnh vực xã hội.
Ấn độ cổ đại có nhiều hệ thống tôn giáo tồn tại và các hệ thống triết học
thường gắn liền với tôn giáo. Phái Mimansa hậu kỳ chuyển sang thừa nhận
có thần. Phái Jaxna cho rằng: mọi vật đều có linh hồn. Đạo Phật thì coi “đời là
bể khổ” tìm con đường giải thoát chúng sinh khỏi vòng luân hồi số kiếp…
Triết học Trung Quốc cổ đại đặc biệt quan tâm đến vấn đề xã hội, chính
trị và con người. Nhưng sự luận giải về xã hội của các nhà triết học lại phần
nhiều nghiêng về số mệnh, thiên mệnh, đề cao tầng lớp quân tử, coi nhẹ tầng
lớp tiểu nhân, xem sự thay đổi của xã hội là sự thay đổi của một triều đại,
thậm chí là sự thay đổi của một cá nhân con người.
Triết học cổ đại Hy Lạp cũng đề cập nhiều khía cạnh của lĩnh vực xã
hội. Trong học thuyết về xã hội, Platôn đã mô tả một nhà nước quý tộc lý
tưởng mà tiền đề là lao động của nôlệ, các nhà triết học cai quản quốc gia,
các “chiến binh” bảo vệ nó, ở địa vị thấp nhất là nô lệ.
- Tư tưởng triết học thời phong kiến bàn về xã hội:
Các nhà triết học thời phong kiến ở ấn Độ, Trung Quốc phát triển
những quan điểm duy tâm thời cổ đại về xã hội. Họ đề cao vua (Thiên tử)
thay trời trị dân, xem nhẹ những người nông dân, duy trì sự thống trị của địa
chủ phong kiến đối với nông dân.
Những nhà tư tưởng thời trung cổ ở phương Tây như Ôguytxtanh,
Tômát Đacanh… giải thích lịch sử và số phận con người theo mục đích luận,
coi lịch sử là hiện thực của mệnh trời, số phận con người do thượng đế quy
định.
- Tư tưởng triết học thời đại Phục hưng và cận đại về lĩnh vực xã hội:
Triết học thời đại Phục hưng diễn ra sự xung đột gay gắt giữa các tư
tưởng triết học và khoa học tiến bộ với các quan niệm thần học. Triết học thời
kỳ này gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con người. Nhưng việc
giải quyết các vấn đề bản chất của thượng đế, thế giới và con người vẫn
chưa triệt để, vẫn thực sự bị chi phối của các quan niệm tự nhiên thần luận.
Chuyển sang thời kỳ cận đại, các nhà triết học đã có những quan điểm
về xã hội ngày càng rõ ràng hơn. Nhưng vẫn chưa thoát khỏi các quan niệm
duy tâm về lịch sử. G. Rút Xô (1712 - 1778) chia tiến trình phát triển của lịch
sử thành các giai đoạn: ở trạng thái tự nhiên, trạng thái công dân, thông qua
cách mạng xã hội, xã hội lại trở về “Trạng thái tự nhiên” ban đầu, nhưng trên
cơ sở cao hơn. Ông ca ngợi xã hội ở trạng thái thứ ba, đó là nhà nước và xã
hội lý tưởng được xây dựng trên cơ sở công lý và lý tính. Ông cho rằng khí
hậu đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển xã hội. G.V.P. Hêghen
(1770 - 1831), dưới góc độ duy tâm coi bản thân hoạt động thực tiễn của con
người vẫn là dạng hoạt động tinh thần. Ông chưa đánh giá đúng mức vai trò
sản xuất vật chất của quần chúng đối với sự phát triển xã hội. Ông lấy sự
phát triển về tự do là chuẩn mực cơ bản đánh giá giá trị ưu việt của thời đại
này so với thời đại khác của dân tộc này với dân tộc khác. Từ đây, ông chia
lịch sử thế giới như sau: Thời kỳ tiền sử: không ai tự do, phương Đông cổ đại,
chế độ quân chủ, một người tự do; Hy Lạp, La mã cổ đại: Dân chủ quý tộc
một số người tự do, nước Đức Thiên chúa giáo, trung cổ và cận đại: quân
chủ, tất cả được tự do. L. Phoiơbắc (1804 - 1872) không nhận thấy được bản
chất xã hội của con người. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con
người phi lịch sử, phi giai cấp, phi dân tộc, trừu tượng mà không cụ thể. Ông
phê phán kịch liệt đạo Cơ đốc nhưng ông lại cho rằng cần có tôn giáo mới vì
theo ông, chỉ có tín ngưỡng tình yêu thương và niềm tin yêu giữa người với
người mới an ủi được con người khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời.
Tóm lại, quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội là quan điểm nghiên cứu
đời sống xã hội và lịch sử từ động cơ tư tưởng của con người, mà không tìm
xem cái gì đã gây nên và quyết định những động cơ ấy. Vì thế, những nhà
triết học duy tâm về xã hội đã không thể vạch ra được bản chất của hiện
tượng xã hội, nguyên nhân vật chất của hiện tượng ấy. Họ chỉ thấy được
những hiện tượng riêng rẽ của quá trình lịch sử, không thấy được xã hội vận
động theo những quy luật khách quan độc lập với ý chí của con người. họ quy
lịch sử của các vĩ nhân, không thấy được vai trò quyết định của quần chúng
nhân dân trong lịch sử. Đặc biệt, họ không tìm ra con đường đúng đắn để giải
phóng con người, giải phóng xã hội. Họ chọn con đường cải lương xã hội
hoặc khuyên con người cam chịu hoặc khuyên con người đến với sự an ủi
của tôn giáo.
b. Tiền đề xuất phát để xây dựng quan điểm duy vật về xã hội.
Để xây dựng quan điểm duy vật về xã hội, C.Mác và Ph. Ăngghen đã
xuất phát từ những tiền đề sau:
Mác và Ăngghen cho rằng: “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân
loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”. Nghiên cứu
về cuộc sống của con người hiện thực, Mác đã phát hiện ra phương thức tồn
tại của con người chính là Hoạt động thực tiễn của họ. Động lực thúc đẩy con
người hoạt động trong tiến trình lịch sử lại là nhu cầu về lợi ích. Ăngghen
nhấn mạnh rằng: “cái sự hiển nhiên…là trước hết con người cần phải ăn,
uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành
quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học vv….”
Nhưng “cá nhân là thực thể xã hội. Cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó là
biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội”. Mác và Ăngghen viết: “Xã
hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác
động qua lại giữa những con người”. Con người, bằng Hoạt động của mình
đã làm nên lịch sử, tạo ra xã hội.
- Xã hội muốn tồn tại và phát triển phải tiến hành Hoạt động sản xuất xã
hội như: sản xuất của cải vật chất, sản xuất của cải tinh thần và sản xuất ra
chính bản thân con người, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động thích hợp,
tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu tồn
tại và phát triển của mình. Hoạt động sản xuất vật chất không chỉ đạo tư liệu
sinh hoạt duy trì sự tồn tại và phát triển của con người mà điều quan trọng
hơn là sản xuất ra tư liệu sản xuất. Mác chỉ rõ: “Những thời đại kinh tế khác
nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”
Như vậy, để sản xuất ra của cải vật chất, con người phải quan hệ với
giới tự nhiên. Quan hệ này biểu hiện cách thức, năng lực, trình độ con người
đạt được trong quá trình tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những sản
phẩm. Quan hệ đó được biểu hiện thành lực lượng sản xuất. Trong quá trình
sản xuất ra của cải vật chất, con người đã tạo ra những mối quan hệ của
chính con người. Trong quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người trong
sản xuất vật chất (quan hệ sản xuất) là cơ bản nhất, giữ vai trò quyết định.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải là hai bộ phận, mà là hai
loại quan hệ trong một thực thể thống nhất cấu thành phương thức sản xuất.
Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối
quan hệ biện chứng, quy định và ước chế lẫn nhau, trong đó, lực lượng sản
xuất giữ vai trò quyết định. Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật
thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất
mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất cuả mình, và do đó thay đổi
phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có
lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công
nghiệp”.
Về vai trò của quan hệ sản xuất, Mác nhấn mạnh: “Trong sản xuất,
người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất
được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung
và để trao đổi hoạt động với nhau… Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội
tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng
thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”.
Như vậy, Mác dùng một tổng thể các quan hệ sản xuất làm tiêu chuẩn
trực tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại,
tức là trực tiếp phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Lực lượng
sản xuất được hình thành một cách khách quan và tất yếu thì hình thức biểu
hiện của nó - quan hệ sản xuất nói riêng và quan hệ xã hội nói chung- cũng
phải mang tính khách quan và tất yếu. Do đó, xã hội với tư cách là sản phẩm
cuả sự tác động lẫn nhau giữa người và người cũng được hình thành một
cách khách quan và tất yếu. Sự vận động, biến đổi và phát triển của xã hội
phải tuân theo những quy luật nội tại vốn có của nó, trước hết là quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất.
Lịch sử nhân loại là lịch sử hoạt động của chính bản thân con người.
Hoạt động này bao gồm sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan
của quá trình lịch sử. Các nhà triết học trước Mác đã giải quyết không đúng
đắn mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, giữa quy luật lịch sử và hoạt động có ý thức của con
người, giữa tất yếu và tự do, giữa tự giác và tự phát trong sự phát triển lịch
sử nên đã hiểu sai lịch sử. Mác và Ăngghen đã xuất phát từ quan điểm:
“không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ”, đã chỉ rõ mối quan
hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, cho nên đã giải thích đúng
đắn lịch sử. Để cắt nghĩa hàng loạt những vấn đề lịch sử khác nhau như mục
đích của con người đối với tiến trình lịch sử của nhân loại, nhu cầu khách
quan của sự phát hiện các mục đích và những điều kiện thực hiện mục đích
đó thì theo Mác - Ăngghen điểm xuất phát của việc định ra mục đích là những
điều kiện khách quan…
Tóm lại, xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật
chất. Theo Ăngghen: “Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định
trong lịch sử xét đến cùng, là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực”. Trong quan hệ phức tạp của đời sống xã hội, dù thể hiện ở bất kỳ lĩnh
vực nào, chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôn giáo hay khoa
học,… hết thảy đều hình thành và biến đổi trên cơ sở sự vận động của đời
sống sản xuất vật chất. Bởi thế, đối với các hiện tượng của đời sống xã hội,
người ta chỉ có thể đạt tới một sự giải thích có căn cứ, nếu bằng cách này hay
cách khác, sự giải thích ấy được xuất phát từ nền sản xuất xã hội.
2. Cấu trúc xã hội - phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
a. Cấu trúc xã hội.
Học thuyết Mác đòi hỏi phải phân tích sự phát triển của xã hội như một
quá trình tổng hợp các nhân tố và các quy luật khách quan. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử xem xét xã hội với tính cách là một hệ thống bao gồm bốn lĩnh vực
cơ bản:
- Lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội.
- Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội.
- Lĩnh vực khác như: quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân
tộc
- Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội.
Bốn lĩnh vực này đều có vai trò riêng nhưng có tác động qua lại với
nhau làm cho tất cả hệ thống xã hội vận động và phát triển.
Về cấu trúc xã hội, C. Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống
của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc
vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất
của họ. toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ
sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá
trình sinh hoạt, chính trị và tinh thần nói chung”
b. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
Để nghiên cứu xã hội, Mác và Ăngghen đã nêu ra hệ thống phạm trù,
quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội
được làm rõ bằng các phạm trù phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị được khái quát
trong các phạm trù cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và quy luật cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng đến cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được
nghiên cứu trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội, các hình thái ý thức xã hội và vai trò ngày càng
to lớn của ý thức xã hội trong quá trình phát triển xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội là một kết cấu phức tạp gồm
nhiều yếu tố, có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Quan hệ sản xuất được
Mác coi là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ
xã hội khác. Theo Mác, mỗi xã hội có một quan hệ sản xuất riêng biệt, một
chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Các quan hệ sản xuất này là hình thức xã
hội của quá trình sản xuất vật chất. Phát hiện ra những quan hệ xã hội vật
chất cơ bản, các nhà triết học Macxít đã đặt cơ sở khoa học cho việc nghiên
cứu xã hội trên quan điểm duy vật lịch sử của toàn nhân loại. Mác đã coi quan
hệ sản xuất là “bộ xương” của một cơ thể xã hội, là tiêu chuẩn khách quan,
cơ bản để phân biệt sự khác nhau giữa hình thái kinh tế - xã hội này với hình
thái kinh tế – xã hội khác. Đặc biệt, Mác không nghiên cứu quan hệ sản xuất
một cách biệt lập mà luôn đặt quan hệ sản xuất trong quan hệ với các quan
hệ xã hội khác. Mác đã làm rõ những quan điểm chính trị, đạo đức, pháp lý,
triết học… cùng với những thiết chế xã hội tương ứng được hình thành trên
quan hệ sản xuất đó. Những quan hệ này cấu thành cơ sở hạ tầng, tức là cơ
sở hiện thực trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng. Những quan hệ sản
xuất này tồn tại trên một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Hai mặt này thống nhất trong một phương thức sản xuất và chính nó là nền
tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Lênin đã làm sáng tỏ cấu trúc
hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Lênin viết: “Nhưng điều chủ yếu là ở chỗ
C.Mác không thoả mãn với cái sườn đó, không chỉ dựng lại ở cái “lý luận kinh
tế” hiểu theo nghĩa thông thường của danh từ mà thôi là ở chỗ tuy rằng Mác
chỉ dùng độc có những quan hệ sản xuất để giải thích cơ cấu và sự phát triển
của một hình thái xã hội nhất định, song ở mọi nơi và mọi lúc, ông đều phân
tích những kiến trúc thượng tầng tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy
và thêm thịt, thêm da cho cái sườn đó”.
3. Phép biện chứng về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
a. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Phương thức sản xuất:
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Lịch sử loài
người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất vật
chất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất gồm hai mặt có quan hệ mật thiết
với nhau: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá
trình sản xuất tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao
động với kỹ năng của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có tác động biện chứng lẫn nhau,
trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Người lao động là
nhân tố chủ yếu, hàng đầu của lực lượng sản xuất: “lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Công cụ lao
động là yếu tố đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Ngày nay, khoa
học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, là cái dặc trưng cho lực
lượng sản xuất hiện đại.
Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm:
+ Các quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
+ Các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
+ Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Ba loại quan hệ trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó, quan hệ về
sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Với tính cách là những
quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người,
quan hệ sản xuất là một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận
động không ngừng của lực lượng sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất:
Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
biểu hiện mối quan hệ mang tính biện chứng. Quy luật này biểu hiện thành
quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của đời sống xã hội - quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ của công cụ lao động,
trình độ tổ chức lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất,
kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ phân công lao động.
Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng
quyết định của các lực lượng sản xuất. Sự phát triển khách quan của lực
lượng sản xuất dẫn đến việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác
quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan
hệ sản xuất mới, cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức sản
xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Nhưng quan hệ sản
xuất cũng có tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục tiêu xã hội của
sản xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành hệ
thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển cuả lực lượng
sản xuất. Sự tác động trở lại cuả quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là quy luật
kinh tế cơ bản. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và
chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn này.
b. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mỗi xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng, tức là một cơ sở hạ tầng
của xã hội, trên đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
C. Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những mối quan hệ sản
xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu
của xã hội đó. Cơ sở hạ tầng của một xã hội được đặc trưng bởi: kiểu quan
hệ sản xuất thống trị, chi phối các mối quan hệ sản xuất tàn dư, mầm mống,
kiểu quan hệ sản xuất mang tính quá độ, đan xen. Những quan hệ kinh tế tàn
dư, mầm mống có vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cùng với những thiết chế xã
hội tương ứng với nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong kiến trúc thượng tầng, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Ở
xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính gia cấp, bộ máy nhà nước
là cơ quan quyền lực của một giai cấp nhất định.
Quan hệ biến chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng ca kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện
chứng trong một hình thái kinh tế- xã hội nhất định (biểu hiện hai mặt kinh tế
và chính trị của mỗi một hình thái xã hội).
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng (kinh tế quyết định
chính trị). Điều này thể hiện ở chỗ: Nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay
muộn sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng sẽ diễn ra. Mác viết: “Cơ sở
kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít
nhiều nhanh chóng.”
Sự biến đổi này là quá trình diễn ra phức tạp, xét đến cùng là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng sự phát triển của lực lượng sản
xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, còn sự biến đổi của
cơ sở hạ tầng đến lượt nó mới làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi căn
bản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng: kiến trúc thượng tầng có tính độc
lập tương đối đối với cơ sở hạ tầng. Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng
đối với cơ sở hạ tầng thường không trực tiếp và không giản đơn. Kiến trúc
thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động mà chúng có khả năng tác
động trở lại mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh tế xã hội. Bản thân các yếu tố, các
bộ phận của kiến trúc thượng tầng có tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động
của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở hạ tầng, với cơ cấu theo hai
hướng:
Một là, sự tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan.
Hai là, sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan.
Như thế, kiến trúc thượng tầng chính trị có vai trò định hướng phát triển
kinh tế. Nắm vững, quy luật kinh tế thì định hướng đúng, có tác dụng thúc đẩy
kinh tế phát triển; ngược lại, sẽ định hướng sai lầm và làm kìm hãm sự phát
triển của kinh tế. Vì vậy, không được tuyệt đối hoá vai trò của kiến trúc
thượng tầng chính trị bởi nếu như vậy sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy
tâm chủ quan, duy ý chí.
c. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội không chỉ xác định yếu tố
cấu thành hình thái kinh tế xã hội mà còn xem xét xã hội trong quá trình phát
triển và biến đổi không ngừng. Xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp
nhau. ứng với mỗi giai đoạn của lịch sử phát triển là một hình thái kinh tế - xã
hội. Các hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển do sự tác động của các
quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên cuả sự phát triển xã hội. C. Mác
viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử – tự nhiên”.
Điều này được V.I. Lênin giải thích như sau: “Chỉ có đem quy những
quan hệ xã hội và những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản
xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một
cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: Xã hội vận
động theo những quy luật không những không phụ thuộc vào ý thức, ý chí, ý
định của con người mà ngược lại còn quyết định cả ý chí, ý định của họ nữa.
Lịch sử là lịch sử hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân
mình., nhưng không thể hoạt động tuỳ tiện mà phải tuân theo quy luật khách
quan. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được coi như một cơ thể xã hội, tự phát
triển theo những quy luật vốn có của nó. Mỗi một cơ thể xã hội riêng biệt có
những quy luật riêng về sự ra đời, về sự vận động phát triển, về bước chuyển
của nó lên một hình thái cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác.
Mác viết: “Mỗi một thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó… Một
khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ phát triển nhất định, đã từ giai đoạn
này bước sang giai đoạn khác, thì nó cũng bắt đầu bị những quy luật khác chi
phối”.
Như vậy, quá trình “lịch sử - tự nhiên” có nghĩa là: con người làm ra lịch
sử của mình, họ tạo ra những quan hệ xã hội của mình, đó là xã hội. Nhưng
xã hội vận động theo quy luật khách quan. Sự thay thế kế tiếp nhau của các
hình thái kinh tế xã hội: xã hội nguyên thuỷ được thay thế bằng xã hội chiếm
hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng xã hội phong kiến, xã
hội phong kiến được thay thế bằng xã hội tư bản chủ nghĩa … đó là quá trình
tiến hoá bao hàm những bước nhảy vọt, đã tạo nên sự tiến bộ trong lịch sử
loài người. Khi nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội nói chung và
chủ nghĩa tư bản nói riêng, Mác đi đến kết luận khoa học rằng hình thái kinh
tế xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ bị thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới -
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng đã chỉ ra sự thay thế một hình thái kinh tế xã hội này
bằng hình thái kinh tế - xã hội khác thường được thực hiện thông qua cách
mạng xã hội. Quá trình phát triển của lịch sử, cả phát triển tuần tự đủ các hình
thái kinh tế xã hội lẫn phát triển rút ngắn, bỏ qua một hoặc một vài hình thái
kinh tế - xã hội trong trường hợp nào đó, đều là quá trình lịch sử - tự nhiên,
xét theo những quy luật và những điều kiện lịch sử cụ thể khách quan quy
định.
4. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và cách tiếp cận lịch sử nhân loại theo lý thuyết các nền văn minh.
a. Khái niệm văn minh và việc phân chia sự phát triển xã hội theo các trình độ văn minh.
- Khái niện văn minh
Từ “văn minh” gần đây xuất hiện trong những nghiên cứu xã hội nhiều
hơn trước đây, nhất là khi bàn tới những giai đoạn, những trình độ phát triển
của xã hội loài người. Ở đây, văn minh để chỉ một trạng thái phát triển của
một con người đối lập với dã man.Cùng với sự phát triển của nhân loại, thuật
ngữ văn minh dần dần trở thành một khái niệm khoa học với nội dung xác
định của nó gắn liền với trình độ phát triển khác nhau của xã hội loài người.
từ “văn minh” xuất hiện đầu tiên ở pháp vào thời kỳ khai sáng (thế kỷ XVIII),
nó nói lên niềm tin và khát vọng của con người vào tiến bộ xã hội. Sau đó
được dùng để chỉ loại hình xã hội, kể từ khi con người ra khỏi thời tiền sử,
đặc biệt để chỉ những nền văn minh cổ đại (Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, Trung
Quốc vv…). Nó cũng được dùng làm vũ khí chính trị của chủ nghĩa tư bản
vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi các nước phương Tây tự mệnh danh là
những nước “văn minh” có sứ mệnh “khai hoá” những dân tộc lạc hậu nhằm
che đậy những cuộc thôn tính thuộc địa của chúng. Gần đây, với cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ mới, nền sản xuất công nghiệp chuyển sang
sản xuất hậu công nghiệp, trong giới nghiên cứu xã hội xuất hiện các thuật
ngữ: văn minh hậu công nghiệp, văn minh tin học, văn minh trí tuệ… cho đến
nay, chưa có sự phân loại thống nhất nào về các nền văn minh, các giai đoạn
văn minh của loài người.
- Việc phân chia sự phát triển xã hội theo các trình độ văn minh:
Hiện nay, một số nhà nghiên cứu xã hội đưa ra các cách tiếp cận lịch
sử bằng các nền văn minh. Chẳng hạn về mặt tôn giáo, người ta phân loại
thành văn minh Kitô giáo, văn minh Hồi giáo, văn minh Khổng giáo… Gần đây
Alvin Toffer cho rằng, để nghiên cứu xã hội hiện đại (thập niên cuối thế kỷ XX
sang thế kỷ XXI) phải sử dụng lý thuyết ba nền văn minh: văn minh nông
nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh tin học (ông nhấn mạnh văn minh tin
học). Cách tiếp cận lịch sử bằng các nền văn minh thực chất là sự nhào nặn
các quan điểm “kỹ trị”, quan điểm “hội tụ”, “hậu công nghiệp”, gián tiếp phủ
nhận phương pháp tiếp cận lịch sử bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của
C. Mác. Lý thuyết” ba nền văn minh” đã tuyệt đối hoá yếu tố khoa học - công
nghệ, lực lượng sản xuất, không tính đến quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Như vậy việc nghiên cứu xã hội của Alvin Toffer là thiếu toàn
diện, thiếu lôgíc.
b. Sự khác nhau giữa lý luận hình thái kinh tế - xã hội với cách tiếp cận lý thuyết các nền văn minh.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác nghiên cứu xã hội như là một
chỉnh thể, cấu thành từ những yếu tố rất cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Trong khi Alvin Toffer chỉ tuyệt đối hoá yếu tố
khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất, thì lý luận hình thái kinh tế - xã hội
vừa đề cập đến lực lượng sản xuất nhưng lại rất trú trọng đến yếu tố quan hệ
sản xuất và yếu tố này là tiêu chuẩn khách quan để phân ra sự khác nhau về
chất của một xã hội này với một xã hội khác. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội
đã chỉ ra biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đồng thời
cũng chỉ rõ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội. Cách tiếp cận ba nền văn minh rõ ràng là siêu hình cực đoan không thể
thay thế được phép biện chứng về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
5. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế – xã hội.
a. Tính khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Bằng phương pháp lịch sử - lôgic, Mác đã phân tích thực tiễn những
nước tư bản phát triển cao, điển hình, từ đó phân tích thực tiễn tòan nhân loại
để rút ra quy luật chung nhất, cơ bản nhất của xã hội loài người. Mác chỉ rõ:
lịch sử loài người bắt đầu từ sản xuất ra của cải vật chất, vận động theo
những quy luật khách quan của xã hội. Như vậy, Mác đã lấy điểm xuất phát
khoa học để nghiên cứu lịch sử nhân loại là lực lượng sản xuất. Mác đã đi từ
tồn tại đến tư duy, từ kinh tế đến chính trị, từ sản xuất vật chất đến sản xuất
tinh thần. Đó là phương pháp duy vật khoa học. Không dừng lại ở đây, Mác
tiếp tục nghiên cứu quan hệ sản xuất, coi đó là cơ sở quan trọng nhất xác
định cơ cấu giai cấp trong một xã hội nhất định. Mác cũng tiếp tục nghiên cứu
yếu tố thứ ba là kiến trúc thượng tầng. Từ đây Mác đã vạch ra quy luật vận
động của kiến trúc thượng tầng của đời sống tinh thần và sự tác động của nó
đối với đời sống xã hội.
Như vậy, việc tiếp cận lịch sử của Mác đi từ lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất đến kiến trúc thượng tầng và quy luật vận động giữa chúng bằng
lý luận hình thái kinh tế - xã hội có giá trị khoa học triết học to lớn không thể
phủ nhận.
b. Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở phương pháp luận
của khoa học xã hội, là hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội, và do đó là
nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp
những tiêu chuẩn thực sự duy vật khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con
người hiểu được lôgíc khách quan của quá trình tiến hoá xã hội. Học thuyết
này vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở
các nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Chính vì thế, nó đem lại cho
khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân
quả để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của Mác là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng đắn khi giải
quyết những vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rất đa dạng. Bất
kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần,
đều chỉ có thể được hiểu đúng đắn khi gắn với một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đem lại những nguyên tắc phương
pháp luận xuất phát để nghiên cứu xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu
nhiên, không đi vào cái chi tiết, vượt ra khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội
học mô tả, mà đi sâu, vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện
tượng, vạch ra cái lôgíc bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử.
Cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội vẫn có ý nghĩa phương pháp
luận triết học lớn. Gần đây, một số nhà xã hội học phương Tây đề cao cách
tiếp cận lý thuyết các nền văn minh. Cách tiếp cận này thường không chú ý
đến bản chất, nguồn gốc, các động lực của sự vận động phát triển, bỏ qua vai
trò của quan hệ sản xuất, đấu tranh giai cấp nên đã dẫn đến cách tiếp cận
chủ quan, siêu hình đối với lịch sử.
II. NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI1. Dự báo của C.Mác và V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội.
a. C.Mác vận dụng lý luận hình thái kinh tế – xã hội trong việc phân tích xã hội tư bản và dự báo về sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong hàng loạt tác phẩm nổi tiếng của mình, đặc biệt trong tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Chống Đuyrinh”…C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch
sử phát triển nhân loại. Các ông đã chỉ rõ: chủ nghĩa tư bản đã tạo ra bước
phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. Trong chủ nghĩa tư bản, lực
lượng sản xuất ngày càng được cơ khí hoá, hiện đại hoá ngày càng mang
tính xã hội hoá cao. Nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng trở thành vật chướng ngại
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
hoá của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản. Mâu thuẫn này làm tăng mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp công nhân, nhân
dân lao động với giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh giai cấp công nhân chống
giai cấp tư sản ngày càng quyết liệt. Đại công nghiệp cơ khí làm cho giai cấp
công nhân không ngừng trưởng thành về số lượng và chất lượng. Họ là lực
lượng cách mạng, lực lượng lãnh đạo cách mạng lật đổ chủ nghĩa tư bản.
Giai cấp tư sản không chỉ tạo ra vũ khí để giết mình mà còn sinh ra những
người sử dụng vũ khí ấy, những người công nhân hiện đại, những người vô
sản.
C. Mác đã có những dự báo về sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản. Mác - Ăngghen cho rằng:
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến
cao từ giai đoạn xã hội chủ nghĩa lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Đối với
chủ nghĩa xã hội thì thực hiện nguyên tắc: “Làm theo năng lực, hưởng theo
lao động” còn ở chủ nghĩa cộng sản thì có nguyên tắc “Làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu”.
- Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa có một thời
kỳ quá độ từ xã hội nọ sang xã hội kia. Xã hội ở thời kỳ quá độ còn mang dấu
vết của xã hội cũ, là xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó. Do đó,
thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
- Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản (nhà nước chuyên chính vô sản).
- Đó là thời kỳ loại bỏ dần cái cũ, xây dựng và củng cố dần cái mới, là
thời kỳ tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần để hình thành một xã hội cao
hơn chủ nghĩa tư bản.
b. V.I.Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác trong việc phân tích xã hội tư bản và dự báo về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Lênin là người kế tục trực tiếp sự nghiệp của Mác - Ăngghen và có
những phát triển lý luận từ các sự báo mà các ông đã nêu ra. Lênin sống và
hoạt động ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX lúc này, chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh đã trở thành chủ nghĩa tư bản độc quyền. Lênin đã phân
tích sâu sắc chủ nghĩa tư bản độc quyền và dự báo rằng cách mạng vô sản
có thể thắng lợi ở một số nước tư bản chủ nghĩa, thậm chí ở một nước.
Lênin, trong khi chuẩn bị viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, đã
làm một tập bút ký nhan đề: “Chủ nghĩa Mác và vấn đề nhà nước”. Ở tập bút
ký này, Lênin có xác định vị trí của thời kỳ quá độ trong quá trình hình thành
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa như sau:
I.Những cơn đau đẻ kéo dàì.
II. Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
III. Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Lênin còn chỉ rõ: đối với các nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển
cao thì cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Lênin đã nêu ra quan điểm về hai hình thức quá độ lên chủ
nghĩa xã hội: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Ở những nước lạc hậu chỉ
có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng qúa độ gián tiếp. Đối với những nước
thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường quá độ bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa thì theo Lênin, những nước này phải trải qua nhiều bước
trung gian, quá độ mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Những biểu hiện mới của thời đại và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
a. Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung; sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vai trò của nó.
- Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế
hoạch hoá tập trung:
Cùng với những thành tựu triết học lớn và toàn diện đã đạt được, chủ
nghĩa xã hội hiện thực hơn bảy thập kỷ xây dựng cũng vấp phải nhiều sai lầm
và khuyết điểm. Từ thập niên 70 đã phát hiện ra sự trì trệ ở Liên Xô và nhiều
nước xã hội chủ nghĩa khác theo mô hình Xô viết, rõ nhất trong lĩnh vực kinh
tế và quản lý kinh tế- xã hội. Trì trệ kéo dài và chậm đổi mới và khi đổi mới thì
sai lầm về chính trị về kinh tế, văn hoá đã làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực
ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng, tan
rã. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, xét trên tính phổ biến
của nó là cuộc khủng hoảng về mô hình phát triển. Xét về mặt kinh tế, đó là
một nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu, không chú trọng đến nền
kinh tế hàng hoá và quy luật giá trị, đó là nền kinh tế dựa trên cơ chế bao cấp
và phương thức phân phối bình quân, kỹ thuật, công nghệ chậm đổi mới. Xét
về mặt chính trị, hệ thống tổ chức bộ máy cồng kềnh, quan liêu, xa dân, kém
hiệu quả, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân lao động. Về văn hoá xã hội, hệ tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin ngày càng bị phai mờ, xã hội thiếu kỷ cương, đời sống vật chất
tinh thần của người dân rất thấp tạo ra sự bất bình gây mất ổn định xã hội…
Sự khủng hoảng, tan rã của chủ nghĩa xã hội hiện thực là sự sụp đổ
của mô hình chủ nghĩa xã hội kế hoạch hoá, tập trung. Đó là sự cảnh tỉnh đối
với những nước tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đặt ra câu hỏi cho
các nước này tiếp tục đi theo con đường chủ nghĩa xã hội phải tìm ra những
mô hình mới phù hợp với thực tiễn thì mới thành công.
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và vai trò của nó:
Có thể nói rằng, chưa bao giờ nhân loại lại chứng kiến nhiều biến đổi
quan trọng của chủ nghĩa tư bản như hiện nay. Những biến đổi ấy đang diễn
ra ở nhiều bình diện cùng một lúc hoặc gần như thế. Những biến đổi về kỹ
thuật – công nghệ của nó đi đôi với những biến đổi về tổ chức quản lý; những
biến đổi trong mỗi doanh nghiệp gắn liền với biến đổi về phạm vi của chúng
theo hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá; những biến đổi về cơ cấu sở hữu
và lao động trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại… Những biến đổi này
và nhiều thay đổi khác đã làm cho bộ mặt của chủ nghĩa tư bản hiện đại
không những khác với bộ mặt của thế kỷ trước mà còn khác với nửa cuối thế
kỷ XX.
Có thể nói, trình độ phát triển kinh tế mà chủ nghĩa tư bản tạo ra,
phương pháp điều khiển xã hội đã và đang cho phép chủ nghĩa tư bản tránh
được hoặc hạn chế sự gia tăng bất mãn và phản kháng, đem lại cho chủ
nghĩa tư bản những vũ khí mới để chống lại chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư
bản với tiềm lực vốn có và với ưu thế hiện nay, luôn tìm cách chống lại chủ
nghĩa xã hội. Đó là những nguy cơ, đồng thời là những thách thức lớn mà chủ
nghĩa xã hội phải đương đầu, không thể mơ hồ.
b. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với việc hình thành lực lượng sản xuất hiện đại; tính quốc tế của lực lượng sản xuất với quá trình toàn cầu hoá, sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức.
Từ giữa thập kỷ 70, thế giới diễn ra những biến đổi nhanh chóng về
kinh tế trên quy mô toàn cầu. Đặc trưng bao trùm thế giới ngày nay là trí tuệ
đóng vai trò trung tâm. Nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế tri thức với lao
động chất xám - trí thức và tay nghề cao trở thành yếu tố quyết định. Cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại chỉ trong một thời gian ngắn tạo ra sự
biến đổi của thế giới. Cuộc cách mạng này làm cho đối tượng lao động truyền
thống như đất đai, nguyên liệu, năng lượng,… giảm dần vai trò và mất dần ưu
thế cạnh tranh. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã trực tiếp tạo ra sự
phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất hiện đại trên quy mô toàn cầu.
Nét nổi bật của thế giới ngày nay là đời sống kinh tế ngày càng quốc tế hoá
cao độ, mạng lưới sản xuất và thông tin được toàn cầu hoá, thị trường thế
giới trở thành thị trường duy nhất. Do trình độ phát triển rất chênh lệch của
nền kinh tế của các nước nên đã hình thành nền kinh tế với ba cấp phân công
lao động quốc tế:
. Nền kinh tế phát triển cao (Mỹ, Nhật, Anh…)
. Nền kinh tế của các nước công nghiệp hoá (NIES)
. Nền kinh tế của các nước công nghiệp lạc hậu trong thế giới thứ ba.
Sự phân công lao động quốc tế đã tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau đồng
thời kiềm chế lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia. Toàn cầu hoá
về kinh tế cũng tạo ra sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc giữa các quốc gia, tạo
ra sự mất ổn định chính trị, kinh tế trên toàn thế giới.
c. Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản là một xu hướng của thời đại.
Mặc dù cuối thế kỷ XX đã xảy ra cuộc khủng hoảng và thoái trào tạm
thời của chủ nghĩa xã hội nhưng quá độ tới chủ nghĩa xã hội vẫn là xu hướng
của thời đại. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không
có nghĩa là sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội với tính cách là một xu hướng phát
triển tất yếu của xã hội, của một học thuyết cách mạng và khoa học vạch
đường cho sự giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân, nhân dân lao động
các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người. Sự sụp đổ ấy cũng không
phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội vẫn
đang tồn tại ở những nước đã đứng vững trong cơn thử thách vừa qua với
trên một tỷ người trên trái đất. Cuộc đấu tranh cho giá trị và lý tưởng xã hội
chủ nghĩa vẫn phát triển ở mọi nơi ngay cả ở Liên Xô cũ và Đông Âu.
Đối với hàng loạt nước dân tộc chủ nghĩa thì thời kỳ hiện nay là lúc
khẳng định mạnh mẽ ý thức độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, tích cực
tham gia vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội… Cuộc đấu
tranh của họ góp phần làm suy yếu chủ nghĩa tư bản, làm tăng theo những
ảnh hưởng tích cực của chủ nghĩa xã hội.
Ở các nước tư bản phát triển, những mâu thuẫn kinh tế, xã hội vẫn
không bị triệt tiêu. Tại đây, phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân
lao động vẫn liên tục diễn ra. Những bất công xã hội, những tội ác của giai
cấp tư sản với dân tộc, quốc gia không thể chấp nhận được, đòi hỏi phải phủ
định chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại hiện nay là một tất
yếu lịch sử.
III. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự
vận dụng sáng tạo lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
a. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Từ hình thái kinh tế - xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế - xã hội
khác có một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp với độ dài, ngắn khác nhau, kết cấu
và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là thời kỳ quá độ. C.Mác đã nêu một
luận điểm rất quan trọng: “Một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật
tự nhiên của sự vận động của nó,… cũng không thể nào nhảy qua các giai
đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó.
Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”.
Như vậy, khi đã xuất hiện những điều kiện khách quan mới thì việc
nhảy qua một giai đoạn phát triển nào đó lại được đặt ra và có khả năng thực
hiện, do đó có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ. Lênin đã nêu
nên khả năng không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước lạc hậu. Lênin chỉ ra rằng,
trong những điều kiện nhất định, con đường phát triển của các dân tộc tiền tư
bản chủ nghĩa không nhất thiết phải diễn ra tuần tự như lịch sử sinh thành và
phát triển của chủ nghĩa tư bản mà các nước tư bản đã từng trải qua.
Lịch sử cho thấy, có những điều kiện khách quan và chủ quan, bên
trong và bên ngoài chi phối đã bỏ qua một hình thái kinh tế – xã hội nào đó
trong tiến trình phát triển của mình. Chẳng hạn ở một số nước (Italia, Pháp,
Tây Ba Nha…) chế độ phong kiến đã bắt đầu hình thành trong lòng chế độ
chiếm hữu nô lệ, nhưng ở một số nước khác(Nga, Balan, Đức), chế độ,
phong kiến ra đời không phải từ chế độ chiếm hữu nô lệ; ở Mĩ, chủ nghĩa tư
bản hình thành trong điều kiện xã hội không trải qua chế độ phong kiến.
Trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của sự
phát triển lịch sử là khả năng khách quan. Song, không phải cứ có điều kiện,
khả năng khách quan thì bất cứ nước nào cũng biến thành hiện thực việc bỏ
qua đó. Việc bỏ qua một giai đoạn lịch sử của sự phát triển đối với một nước
nào đó, có được hay không còn phụ thuộc vào năng lực giải quyết phép biện
chứng của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan ở nước đó quy định.
Các nước thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội dưới hình thức khác nhau là
do trình độ xuất phát khác nhau. Có thể khái quát thành ba loại nước ứng với
ba kiểu quá độ:
Một là, Những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao.
Hai là, Những nước trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa ở mức trung
bình.
Ba là, Những nước chưa trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa của sự
phát triển. Việt Nam thuộc loại nước thứ 3.
b. Vấn đề “bỏ qua”chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Việt Nam đi theo con đường chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, cả nước ta bước vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Sự kết hợp những nhân tố bên trong và bên ngoài đã
tạo ra khả năng cho phép chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Các nhân tố bên trong: những nhân tố chính trị, kinh tế,
văn hoá ở nước ta đều phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
nhân tố bên ngoài: chúng ta đang sống trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng
chủ nghĩa xã hội Tháng Mười Nga (1917) vĩ đại, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ với những thời cơ, thách thức lớn với các nước; được sự giúp đỡ
của những nước chủ nghĩa xã hội anh em cũng như sự giúp đỡ của nhân dân
tiến bộ trên thế giới…
Điểm xuất phát của Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở Việt nam, trình độ lực lượng sản xuất thấp, năng lực tổ chức, quản lý
thấp, kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến và gắn liền là tư tưởng tiểu tư sản. Trên
nhiều phương diện, ở nước ta hiện nay có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau
của nhiều yếu tố và khuynh hướng khác nhau, đối lập nhau.
Cần khắc phục quan niệm: “bỏ qua” chủ nghĩa tư bản một cách giản
đơn. Chúng ta phải khai thác sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản là “khâu trung
gian” để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội như Lênin đã chỉ ra.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã khởi xướng
công cuộc đổi mới đất nước nhằm tìm ra phương thức, con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội có hiệu quả hơn. Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu triết học lớn trên nhiều phương diện. Về lý luận: con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được làm sáng tỏ hơn. Về thực tiễn,
các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá đều phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần với việc sử
dụng những hình thái kinh tế trung gian mà Đại hội Đảng VI đã chỉ ra. Các Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX đã cụ thể hơn chủ trương này. Điều đó
đã góp phần rất to lớn vào công việc thực hiện thành công quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội trong sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, mỗi chế độ xã
hội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng, phản ánh trình độ phát
triển kinh tế - kỹ thuật của nó. Đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các
xã hội tiền tư bản chủ nghĩa là công cụ thủ công. Cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa tư bản là đại công nghiệp cơ khí. Xã hội xã hội chủ nghĩa nảy sinh
với tính cách là phủ định biện chứng chủ nghĩa tư bản, thì cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải là nền đại công nghiệp phát triển và hoàn thiệt
trên một trình độ cao của nó. Khi bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa
xã hội, cái thiếu nhất ở nước ta là nền đại công nghiệp. Cho nên tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm ở thời kỳ quá
độ. Trong tình hình hiện nay, chúng ta tất yếu phải kết hợp công nghiệp hoá
với hiện đại hoá thì mới tránh khỏi tụt hậu với các nước có nền kinh tế hiện
đại hoá.
Công nghiệp hoá ở Việt Nam được bắt đầu rất sớm, từ năm 1960. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) chỉ rõ: Muốn cải biến tình trạng lạc hậu
hiện nay ở nước ta, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên chế
độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác
ngoài con đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Từ 1960 - 1985, việc tiến
hành công nghiệp hoá đã đạt được những kết qủa nhất định. Cơ sở vật chất
kỹ thuật của nền kinh tế được nâng lên một bước rõ rệt. Nhưng công nghiệp
hoá thời kỳ 1960 - 1985 cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Đại hội VI (1986) đã nêu
ra những sai lầm, thiếu sót trong chỉ đạo phát triển kinh tế nói chung và công
nghiệp hoá nói riêng. Đại hội VI chỉ rõ: trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế, xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường tiếp theo. Đại hội VIII (1996) của Đảng xác định rõ: giai
đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới -
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và từ nay đến 2020 ra sức
phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Đại hội IX (2001)
của Đảng cũng nhấn mạnh rõ chủ trương này.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là: Xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng nâng cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Về con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta: Cần và có thể
rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, về kinh tế và công nghiệp phải
vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, phát huy lợi thế của
đất nước, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, từng bước phát triển kinh tế.
Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi
trọng phát triển giáo dục và đào tạo. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác chỉ rõ: Phương thức sản
xuất là cách thức mà con người ta tiến hành sản xuất, chính sự thống nhất
giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng. Mác còn làm rõ quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, trình độ của lực
lượng sản xuất ở nước ta rất thấp kém. Cho nên, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp. Sự kết hợp này ở nước ta hiện nay là một tất yếu.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội”(6- 1991) nêu ra 7 phương hướng, trong đó có phương hướng: phải phát
triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá đất nước theo hướng
hiện đại hoá gắn liền với phát triển nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, từng bước thiết lập
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình
thức sở hữu, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
kinh tế quốc dân, thực hiện nhiều hình thức phân phối, chủ yếu là phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Định hướng phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay thực chất
là định hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực chất của định hướng trong xây dựng
quan hệ sản xuất ở thời kỳ quá độ ở nước ta làm cho nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần có tác động tối đa đến sự phát triển mạnh mẽ của các lực
lượng sản xuất, làm cho các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa càng có vai
trò chủ đạo và sẽ chiếm ưu thế khi kết thúc thời kỳ quá độ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX của Đảng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng với quy luật quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thực hiện nền kinh
tế nhiều thành phần theo đường lối đổi mới của Đảng đã và đang khơi dậy
tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ
thể lao động trong sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nền kinh tế sản xuất hàng hoá, nhiều thành phần tự nó chứa đựng mâu
thuẫn. Có những thành phần kinh tế, vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo
hướng tư bản chủ nghĩa. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là
nền tảng của nền kinh tế nhưng chưa thích nghi với cơ chế thị trường, làm ăn
còn kém hiệu quả, nên ở đây diễn ra cuộc đấu tranh “định hướng” gay gắt. Vì
vậy, để thực hiện được sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền
kinh tế nhiều thành phần thì việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước giữ vai trò quyết định.
4. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và mặt khác của đời sống xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển cao tạo tiền đề kinh tế - xã hội để cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa được tự giác hình thành
sau khi cách mạng thành công. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng bằng cách thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nó không tự
phát ra đời trong chế độ tư bản chủ nghĩa, mà sau khi giành chính quyền,
Nhà nước của giai cấp vô sản chủ động và tự giác thiết lập nên, coi đó là cơ
sở kinh tế - xã hội của chế độ mới. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phải được tiến hành
từng bước với những hình thức, bước đi thích hợp.
Ở nước ta, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính quá độ với một kết cấu kinh tế “đan
xen”, trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo và một kiến trúc thượng tầng
kinh tế chính trị - xã hội đa dạng, phong phú dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Trên thực tế, chúng ta chưa tạo lập được một cơ sở kinh tế tương ứng
với nó cho nên phải từng bước tạo lập, từng bước xoá bỏ những yếu kém
làm nảy sinh mâu thuẫn đối kháng cả trong cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng.
Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị là sự biểu
hiện tập trung của kinh tế. Vì vậy, khi vận dụng quan điểm biện chứng này
phải xuất phát từ kinh tế đồng thời phải coi trọng vai trò của chính trị, tăng tính
năng động, sáng tạo của chính trị.
Trong công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, Đảng ta đã tiến
hành đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII đã tổng kết 6 kinh nghiệm chủ yếu, trong đó có kinh nghiệm: Kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đất nước ta đã
tiến hành từ đổi mới từng phần về kinh tế đến kết hợp đổi mới kinh tế đối với
đổi mới chính trị. trong qúa trình đổi mới kinh tế, chúng ta đồng thời giữ vững
ổn định chính trị, đổi mới hệ thống chính trị. Đặc biệt, trên cơ sở giữ vững ổn
định chính trị, chúng ta tiến hành kết hợp đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, đổi
mới các mặt khác của đời sống xã hội. Đại hội IX của Đảng ta chỉ rõ: tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
quốc phòng an ninh. Thực hiện việc kết hợp kinh tế với chính trị và các mặt
khác của đời sống xã hội chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội phát triển
toàn diện, hài hoà.
Tài liệu tham khảo
1. GS. Nguyễn Đức Bình: “Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Z.Brezinxki: “Thất bại lớn”, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội,
1992.
3. PTS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS. Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sĩ Quý:
“Những quan điểm cơ bản của C.Mác vag Ph.Ăngghen – V.I. Lênin vè chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1996.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 2001.
8. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Một số vấn đề về chủ
nghĩa Mác Lênin trong thời đại hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996.
9. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình triết học Mác –
Lênin”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
10.C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993 – 2000 các tập: 1, 3, 4,6,13,19,21,23, 25 phần II, 27,42.
11. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Matxcơva, 1974- 1981, các tập 1, 38.
12. GS. Trần Nhâm: “Cuộc đấu trí ở tầm cao trí tuệ Việt Nam”, Nxb.Lý
luận chính trị, Hà Nội,2005.
13. Alvin toffler: “Làn sóng thứ ba”, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội,
1991.
Câu hỏi Xêmina
1. So sánh sự khác nhau giữa hình thái kinh tế - xã hội và cách tiếp cận
lịch sử nhân loại theo lý thuyết các nền văn minh?
2. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh
tế - xã hội?
Chuyên đề 5. VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN TỘC, NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
I. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP.Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong học thuyết Mác - Lênin từ
lâu đã là một trong những đấu trường, nơi mà các trường phái, quan điểm
triết học và chính trị - xã hội tranh luận với nhau. Có thể nói rằng, đây là một
trong những vấn đề gay cấn nhất của quan điểm Mácxít về quá trình phát
triển của xã hội loài người.
Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt học
thuyết Mác - Lênin, là hòn đá tảng để phân biệt những người Mácxít với
những kẻ giả danh Mácxít, với chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội trong phong
trào công nhân quốc tế.
Trong thời đại ngày nay, tình hình thế giới có những biến đổi phức tạp,
đặc biệt sau sự đổ vỡ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch
với cách mạng ở trong và ngoài nước ra sức bóp méo, xuyên tạc chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong đó có vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Từ thực trạng đó, vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa
Mác - Lênin cần phải được phân tích trên cơ sở khoa học, khẳng định tính
đúng đắn của nó và vận dụng vào thực tiễn nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
1. Khái quát các quan điểm ngoài Mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
a. Quan điểm trước Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, những quan điểm về giai cấp và đấu
tranh giai cấp đã được hình thành từ rất sớm. Ở Trung Quốc, vào thời Chiến
Quốc (thế kỷ thứ V - III tr.CN), trong cuốn “Quản tử”, tác giả đã thừa nhận
việc phân chia xã hội thành đẳng cấp và chỉ rõ: sĩ, nông, công, thương là cơ
sở tồn tại của Nhà nước. Ở Hy Lạp cổ đại, Platon (427 - 347 tr. CN) đã viết
hai tác phẩm nổi tiếng “Nhà nước” và “Luật lệ”, trong đó ông đã khẳng định
cần phải đấu tranh chống sự giàu có và nghèo nàn. Ông cho rằng, sự giàu có
đẻ ra tệ ăn bám, lòng ham muốn vật chất quá đáng; còn sự nghèo khó thì
sinh ra tính thấp hèn, độc ác và cũng sinh ra lòng ham muốn vật chất. Như
vậy, tình trạng có người giàu, người nghèo trong xã hội phá hoại các mối liên
hệ xã hội và đẻ ra mâu thuẫn đối kháng trong xã hội.
Khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu hình thành và cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và giai cấp địa chủ quý tộc xuất hiện, quan niệm về giai cấp và đấu
tranh giai cấp trở nên rõ ràng hơn.
Trong các tác phẩm của T.Morơ (1478 - 1535), T.Câmpnenla (1568-
1639) đều nhìn thấy quyền tư hữu là nguồn gốc của mọi tai họa trong xã hội
đương thời. T.Morơ cho rằng, với chế độ tư hữu thì không thể nói đến sự
công bằng và hạnh phúc trong xã hội. Theo ông, với chế độ ấy, mọi người
đều sẽ chiếm lấy cái gì mình muốn, dù cho của cải có nhiều đến đâu, nó sẽ
rơi vào tay một số ít, số phận của đông đảo những người còn lại sẽ trở thành
nghèo khổ. Từ đó, ông đi tới kết luận, muốn thiết lập một chế độ bình đẳng
phải thủ tiêu chế độ tư hữu. Phủ nhận chế độ tư hữu, dựng lên chế độ không
còn tư hữu trong tác phẩm “Không tưởng” là thái độ phản kháng tích cực của
T.Morơ về mặt tư tưởng đối với các chế độ đương thời ở Châu Âu.
Vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, với sự xuất hiện các tác
phẩm của C.H.XanhXiMông, các tư tưởng về giai cấp và đấu tranh giai cấp
đã đi xa hơn và cụ thể hơn. Tiếp tục truyền thống của nhiều nhà tư tưởng xã
hội trước đó,
XanhXiMông theo dõi cuộc đấu tranh giữa các tầng lớp nhân dân bị áp
bức và không có của cải với những kẻ sở hữu trong tất cả các giai đoạn chủ
yếu của lịch sử - cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô, bình dân và quý tộc,
nông nô và phong kiến. Từ đó ông đi đến kết luận rằng, các giai cấp xuất hiện
là do sự chiếm đoạt.
Trong các tác phẩm của XanhXiMông đã có một loạt ý kiến về đấu
tranh giai cấp và ông đã coi cuộc đấu tranh giai cấp đó thể hiện nguyện vọng
của các giai cấp muốn xác lập một trật tự phù hợp nhất đối với lợi ích của họ
trong quá trình sản xuất. Theo ông, đấu tranh giai cấp là đặc trưng của bất cứ
xã hội nào có áp bức bóc lột và cuộc đấu tranh của giai cấp nắm giữ nền
công nghiệp đang phát triển chống lại bọn quý tộc phong kiến là nội dung cơ
bản của lịch sử xã hội từ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. (từ thế kỷ XV).
Như vậy, tư tưởng của XanhXiMông về giai cấp và đấu tranh giai cấp là
một điều mới mẻ so với tất cả những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng trước
ông.
Mặc dù do sự quy định của thời đại và sự hạn chế của bản thân,
XanhXiMông chưa nêu ra được tiêu chuẩn khoa học và nhất quán để phân
định các giai cấp, chưa xác định thật chính xác vị trí, vai trò của các giai cấp
trong xã hội đương thời, nhưng quan niệm của ông về giai cấp ngày càng có
thêm những nhân tố hợp lý, phản ánh thực trạng xã hội phân chia giai cấp
trên cơ sở xuất hiện và phát triển của nhân tố mới là công nghiệp.
XanhXiMông có thái độ phê phán đối với cách mạng tư sản Pháp. Ông
cho rằng, tai hoạ là ở chỗ, cuộc cách mạng đó đã đưa một giai cấp vốn ở vị trí
trung gian - giai cấp tư sản - lên nắm chính quyền thống trị thay thế giai cấp
quý tộc phong kiến và giai cấp này đã lợi dụng địa vị đó để lái cuộc cách
mạng về phía lợi ích của nó. Theo ông, cuộc cách mạng Tư sản Pháp chưa
thiết lập được một chế độ phù hợp với lợi ích của “giai cấp nghèo khổ nhất và
đông đảo nhất” do đó, cần có và sẽ có một cuộc cách mạng mới làm thay đổi
xã hội theo hướng bảo đảm lợi ích cho xã hội. Ông muốn rằng, mọi sự thay
đổi như vậy phải được thực hiện một cách mãnh liệt và ngay lập tức. Xuất
phát từ quan niệm biện chứng về lịch sử, XanhXiMông khẳng định rằng,
những cuộc cách mạng trước chuẩn bị cho cuộc cách mạng sau, những cuộc
“cách mạng cục bộ” chuẩn bị cho cuộc “tổng cách mạng”, những cuộc cách
mạng hạn chế chuẩn bị cho cuộc cách mạng triệt để mai sau.
Theo XanhXiMông, cuộc cách mạng Pháp không chỉ là cuộc đấu tranh
giữa quý tộc và tư sản,mà còn là cuộc đấu tranh giữa một bên là quý tộc và
giai cấp tư sản, với bên kia là những giai cấp không có của. Ph.Ăngghen
đánh giá rằng, vào thời gian đó, nhận xét nêu trên của XanhXiMông là một
phát hiện hết sức thiên tài.
Tuy nhiên, công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
được gắn liền với tên tuổi của các nhà sử học Pháp: G.Phrăngxoa Ghidô
(1778- 1874) Ôguyxtanh Chiery (1795- 1856) và Phrăngxoa Minhê (1796-
1840)
Các nhà sử học Pháp đã đưa ra những suy đoán sâu sắc về sự phân
chia xã hội thành giai cấp và xem đấu tranh giai cấp là nội dung chủ yếu của
lịch sử, mặc dù họ chưa hiểu một cách khoa học về giai cấp và đấu tranh giai
cấp.
Theo quan điểm của các nhà sử học Pháp, những sự thay đổi về quan
hệ tài sản, chủ yếu là quan hệ về ruộng đất đã dẫn tới mối quan hệ giai cấp
mới và sự thay đổi về chế độ chính trị. Nhưng đồng thời họ lại cho rằng, sự
hình thành giai cấp và nhà nước là dựa trên cơ sở chinh phục bằng vũ lực và
sự tan rã của xã hội cũ, bằng sự nô dịch của những dân tộc và bộ lạc này đối
với dân tộc và bộ lạc khác. Họ làm lu mờ sự đối kháng giai cấp của xã hội tư
bản và chủ trương cải tạo xã hội bằng sự điều hoà mâu thuẫn giai cấp.
Tuy nhiên, lịch sử đã ghi nhận công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và
đấu tranh giai cấp của các học giả tư sản. Điều này đã được C.Mác đánh giá
“Tôi không có công tìm ra sự tồn tại của giai cấp trong xã hội hiện đại cũng
như cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó. Những nhà viết sử tư sản đã mô tả
sự phát triển lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp và các nhà kinh tế tư sản
đã mô tả kết cấu kinh tế từ trước tôi rất lâu”. Điều này cũng đã được Lênin
nhấn mạnh: “Thuyết đấu tranh giai cấp không phải do Mác, mà do giai cấp tư
sản trước Mác sáng tạo ra”
b. Quan điểm của các nhà tư tưởng tư sản hiện nay về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin
vạch ra tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư sản, đồng thời khẳng
định tính tất yếu của chuyên chính vô sản. Chính vì vậy, các đại biểu tư tưởng
của giai cấp tư sản luôn tìm mọi cách phủ nhận học thuyết trên bằng những
phương pháp và mức độ khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, một số học giả
tư sản phủ nhận hoàn toàn học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Theo
họ, C. Mác đã nhấn mạnh quá mức sự đối lập giữa tư sản và vô sản khi đưa
ra học thuyết này. Họ khẳng định rằng, quy luật đấu tranh giai cấp không phải
là quy luật phổ biến, vì vậy không thể áp dụng cho xã hội tư bản chủ nghĩa. Ở
Mỹ có những quan điểm cho rằng, sự biến động của các giai cấp và tầng lớp
xã hội diễn ra rất nhanh, do đó việc phân định giai cấp trở nên không có ý
nghĩa. Đồng thời còn có những quan điểm khẳng định sự xích lại gần nhau
giữa các giai cấp trong các nước tư bản phát triển.
Một số học giả tư sản cũng thừa nhận sự phân chia xã hội thành giai
cấp, nhưng lại tìm cách bác bỏ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin về giai cấp. Theo họ, cơ sở để phân chia xã hội thành các giai cấp là cơ
sở sinh học, có nghĩa là sự phân chia giai cấp phụ thuộc vào những tố chất
tạo nên cơ thể, cấu trúc hoàn thiện hoặc không hoàn thiện của cơ thể, vv…
Bên cạnh đó, nhiều học giả lại đưa ra những tiêu chí khác để phân biệt những
giai cấp như: Sự khác biệt nhau về ý thức, tâm lý, nghề nghiệp…
Tất cả các quan điểm nêu trên có chung mục đích là phủ định lý luận
Mácxít giai cấp và đấu tranh giai cấp.
2. Quan điểm Mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
a. Khái niệm giai cấp, nguồn gốc giai cấp và kết cấu giai cấp.
Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã có nhiều cống hiến triết
học lớn vào lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Lý luận về giai cấp được
C.Mác và Ph. Ăngghen diễn đạt rõ ràng nhất, nhưng cũng rất đơn giản trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, bắt đầu bằng câu: “Lịch sử tất cả các xã
hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Dĩ nhiên,
Mác và Ăngghen không phải là những người đầu tiên lưu tâm đến sự phân
chia giai cấp trong xã hội.
Đóng góp to lớn của Mác và Ăngghen vào vấn đề giai cấp là ở chỗ,
Mác đã đưa ra một quan niệm khoa học về giai cấp, xem xét vấn đề giai cấp
trên cơ sở quan điểm duy vật về lịch sử. Trong thư gửi cho J.Vâyđơmaye
(ngày5 tháng 3 năm 1852) C.Mác nhấn mạnh rằng: “sự tồn tại của giai cấp
gắn liền với những giai đoạn phát triển của lịch sử nhất định của sản xuất”.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ giai cấp chỉ
xuất hiện trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ
nhất định. Sự xuất hiện của giai cấp trong quá trình phát triển của xã hội loài
người đã được Ăngghen trình bày một cách chi tiết trong tác phẩm “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Theo quan điểm Mácxít sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự
phân công lao động. Sự phân công lao động làm cho năng suất lao động
được nâng cao. Các quá trình này tác động qua lại với nhau, đã tạo ra của cải
vật chất dư thừa tương đối. Chính số của cải dư thừa có giới hạn này đã tạo
ra chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự phân hoá xã hội thành các giai cấp đối
kháng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải chỉ thấy cội nguồn của sự phân hoá
giai cấp ở cơ sở kinh tế, mà còn thấy đặc trưng cơ bản của giai cấp cũng là
đặc trưng kinh tế. Trong tác phẩm “sáng kiến vĩ đại”, Lênin đã đưa ra một định
nghĩa nổi tiếng về giai cấp. “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn
gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã
hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì
những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau
về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà đã được
hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt
lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Định nghĩa trên đã cho thấy những tiêu chuẩn cụ thể để xác định các
giai cấp khác nhau, đồng thời cũng xác định rõ trong tất cả các xã hội có giai
cấp đối kháng, quan hệ giữa các giai cấp cơ bản là quan hệ giữa bóc lột và bị
bóc lột.
Xuất phát từ quan điểm duy vật về giai cấp như trên các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích toàn bộ sự phát sinh và phát triển của
giai cấp trong các giai đoạn lịch sử rất khác nhau và cho rằng, thực chất mối
quan hệ giữa chúng như: chủ nô và nô lệ, địa chủ quý tộc và nông nô, tư sản
và vô sản là quan hệ bóc lột và bị bóc lột.
Trong bộ “Tư bản” nổi tiếng, Mác đã tập trung phân tích mối quan hệ
giữa tư sản và vô sản, vạch ra mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà được
giữa hai giai cấp này và chỉ ra xu thế tất yếu phải thay thế xã hội tư bản bằng
một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Việc phát hiện ra quy luật bóc lột giá trị thặng dư trong xã hội tư bản
chủ nghĩa là một phát hiện vĩ đại của Mác, trong đó vạch rõ bản chất của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xuất phát từ lập trường duy vật biện
chứng và xã hội, Mác, Ăngghen và Lênin còn phân tích kết cấu giai cấp ở các
nước tư bản chủ nghĩa khác nhau, vạch ra những giai cấp cơ bản và không
cơ bản, các giai cấp đối kháng và những giai cấp trung gian, các tầng lớp xã
hội khác nhau và xác định vai trò của chúng trong xã hội có giai cấp.
b. Đấu tranh giai cấp và vai trò của nó trong xã hội có đối kháng giai cấp.
Từ nhũng quan điểm khoa học về giai cấp, Mác, Ăngghen, Lênin đã
phân tích những cuộc đấu tranh giai cấp trong suốt quá trình lịch sử. Các ông
cho rằng, lịch sử loài người từ khi có giai cấp đối kháng là lịch đấu tranh giai
cấp. Theo quan điểm của Lênin, đấu tranh giai cấp trong lịch sử và trong thời
đại ngày nay thực chất là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền,
bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn
ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Những cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô, chúa đất và nông nô, tư
sản và vô sản đã tạo lên sự vận động của lịch sử từ thấp đến cao. Những
cuộc đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc tạo phản, lật đổ, mà là
những cuộc đấu tranh có ý nghĩa cách mạng, nhằm xoá bỏ những chế độ xã
hội, những giai cấp đã lỗi thời, thay đổi quan hệ sản xuất để tạo điều kiện cho
lực lượng sản xuất phát triển.Với ý nghĩa đó, quan điểm Mácxít khẳng định
rằng, đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của lịch sử, là
động lực trực tiếp của lịch sử xã hội có giai cấp. Tư tưởng đó đã được chứng
minh bằng toàn bộ sự phát triển của lịch sử từ trước đến nay.
Tuy nhiên, theo quan điểm Mácxít, giai cấp không tồn tại vĩnh viễn. Nếu
do nguyên nhân kinh tế đã làm nảy sinh ra giai cấp, thì đến một lúc nào đó sự
phát triển ở trình độ rất cao của lực lượng sản xuất cũng tạo điều kiện để thủ
tiêu giai cấp. Chính chủ nghĩa tư bản với một lực lượng sản xuất khổng lồ
đang tạo ra cơ sở vật chất để đi đến một xã hội với trình độ phát triển cao hơn
về mọi mặt, một xã hội không còn giai cấp. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong
lịnh sử nhân loại.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tất yếu đi đến thủ tiêu quyền lực
chính trị của giai cấp tư sản, thiết lập quyền thống trị của giai cấp vô sản, tức
là thiết lập nền chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản là một thể chế
chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dựa trên cơ sở liên minh
công nhân, nông dân và lực lượng trí thức tiến bộ, cách mạng. Nhưng chuyên
chính vô sản không phải là mục tiêu của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản.
Chuyên chính vô sản chỉ là công cụ, là phương tiện mà giai cấp vô sản phải
thiếp lập để có thể thực hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng. Mục tiêu cơ
bản của cách mạng vô sản là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Chuyên chính vô sản chỉ tồn tại chừng nào chủ nghĩa cộng
sản chưa được xác lập một cách căn bản. Chừng nào chế độ tư hữu về cơ
bản bị xoá bỏ, năng suất cơ bản cao đến mức có khả năng đáp ứng nhu cầu
vật chất của mọi thành viên trong xã hội thì chuyên chính vô sản trở nên
không cần thiết và nó tự tiêu vong. Vì vậy, chuyên chính vô sản chỉ là bước
quá độ để đi đến một xã hội không còn giai cấp.
Xoá bỏ giai cấp là một qúa trình rất lâu dài. Muốn xoá bỏ giai cấp phải
thủ tiêu chế độ tư hữu. Mác và Ăngghen đã từng tuyên bố: “Những người
cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất này là: xoá
bỏ chế độ tư hữu”. Nhưng liệu có thể xoá bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức
được không? Ăngghen trả lời: “Không, không thể được, cũng y như không thể
làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết
để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai
cấp vô sản đang có tất cả các triệu chứng sắp nổ ra, chỉ có thể cải tạo xã hội
hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên một khối lượng tư liệu
sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư
hữu”
Như vậy, điều kiện cơ bản để xóa bỏ chế độ tư hữu phải là sự phát
triển cao của lực lượng sản xuất “đến mức khiến cho có thể sản xuất đủ sản
phẩm cho mọi người, và khiến cho chế độ tư hữu trở thành xiềng xích ngăn
cản sự phát triển của các lực lượng sản xuất đó”. Để có được điều kiện trên,
phải cần một giai đoạn lịch sử khá lâu dài, không những chỉ cần có sự phát
triển rất cao của lực lượng sản xuất, mà còn cần sự trưởng thành căn bản
của con người, xoá bỏ sự phân cách giữa lao động trí óc và lao động chân
tay, xoá bỏ những khác biệt về đời sống vật chất cũng như tinh thần, giữa
nông thôn và thành thị.
Cần phải lưu ý rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn khẳng định sự
xuất hiện của giai cấp, của đấu tranh giai cấp và xoá bỏ giai cấp đều là tất yếu
khách quan. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ giai cấp
nào và chừng nào các điều kiện khách quan chưa cho phép thì không một
giai cấp nào có thể thực hiện được những mục tiêu của mình.
c. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản thời đại ngày nay
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển rất mạnh mẽ, sự quốc tế hoá lực lượng sản xuất kéo theo quốc tế hoá
quan hệ sản xuất, các nước trên thế giới ngày càng có mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau. Chủ nghĩa tư bản ngày nay rất khác so với chủ nghĩa tư bản
ở thế kỷ XIX. Quá trình trí thức hoá công nhân, công nhân hoá trí thức đang
diễn ra như một tất yếu của chính nền sản xuất xã hội sinh ra. Thực tế cho
thấy cả giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và các tầng lớp khác đều có sự
biến đổi to lớn do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại. Trong xã hội tư bản cả lao động chân tay và lao động trí óc đều sống
bằng bán sức lao động cho các nhà tư bản và làm việc trong khu vực đại
công nghiệp. Chính vì thế, kết cấu của giai cấp công nhân hiện đại bao gồm:
- Công nhân truyền thống (công nhân gắn với máy móc lớn)
- Công nhân kỹ thuật mới gắn với máy móc tự động, bao gồm: kỹ sư,
bác học làm việc trong đại công nghiệp và làm thuê cho nhà tư bản.
- Công nhân dịch vụ trong lĩnh vực công nghiệp.
Thực trạng cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng, phức
tạp, nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến động theo xu hướng
không thuần nhất trong nội bộ giai cấp. Có thể nói rằng, thực trạng giai cấp
công nhân hiện đại ở các nước tư bản phát triển được phản ánh ở những
khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, bộ phận vô sản kỹ thuật tăng nhanh, bộ phận công nhân
truyền thống giảm dần.
Thứ hai, một bộ phận nhỏ trong giai cấp công nhân hiện nay có cổ
phần, có tư liệu sản xuất.
Thứ ba, giai cấp công nhân không nghèo khổ như trước, ngày càng
được trung lưu hoá.
Tóm lại, thế giới ngày nay đang có nhiều biến đổi to lớn trong đời sống
kinh tế, văn hoá, xã hội do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ.
Xu hướng xã hội hoá về sở hữu, quản lý và phân phối đang là xu hướng hiện
thực ở các nước tư bản phát triển. mặc dù cơ cấu giai cấp công nhân có thay
đổi, một bộ phận công nhân có cổ phần, tham gia quản lý xí nghiệp, có mức
sống cao hơn trước, song thực quyền quyết định mọi vấn đề trong sản xuất,
phân phối lưu thông của cải vật chất trong xã hội tư bản vẫn thuộc về các nhà
tư bản. Giai cấp công nhân thực chất vẫn là những người làm thuê, bán sức
lao động cho nhà tư bản. Họ bị bóc lột nhiều hơn trước nhưng dưới hình thức
tinh vi hơn. Vì thế, giai cấp công nhân phải có những nội dung, hình thức và
phương pháp đấu tranh mới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện đại,
từng bước đưa đấu tranh đi đến những thắng lợi mới và ngày càng phát triển.
Trước sự biến động của giai cấp công nhân, trước sự khủng hoảng của
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, nhiều người nghi ngờ về vai trò của giai
cấp công nhân và theo họ thì sự nghiệp lãnh đạo cách mạng phải trao cho
tầng lớp trí thức.Điều đó không có cơ sở khoa học, vì trí thức là một tầng lớp
xã hội, không phải là một giai cấp.Trí thức giữ vai trò lớn trong đời sống xã
hội hiện đại nhưng họ không thể lãnh đạo cách mạng được vì họ không có hệ
tư tưởng độc lập, họ xuất thân từ những giai cấp khác nhau và phục vụ cho
những giai cấp khác nhau
Không nên hiểu lầm rằng, ai nghèo nhất, khổ nhất trong xã hội là cách
mạng nhất. Cách mạng hay không cách là tuỳ thuộc vào chỗ giai cấp đó có
khả năng giải phóng lực lượng sản xuất bị kìm hãm trong phương thức sản
xuất cũ hay không. Chúng ta khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên
phong của thời đại vì nó là nhân tố cơ bản, người đại diện của lục lượng sản
xuất hiện đại. Giai cấp công nhân càng được trí tuệ hoá càng được phát triển
và là chủ thể có đủ tiềm năng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của
lịch sử loài người thông qua việc xoá bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột.
Trong thời đại ngày nay, rõ ràng ngoài vấn đề lợi ích giai cấp, còn nổi
lên vấn đề lợi ích toàn cầu, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của nhân
loại, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp nào trên thế giới. Bởi vậy,
mục tiêu đấu tranh của giai cấp vô sản hiện nay là đấu tranh vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Điều quan trọng hiện nay là, giai cấp
công nhân phải tìm ra những hình thức và phương thức đấu tranh mới phù
hợp với điều kiện kinh tế –xã hội hiện đại, từng bước đưa cuộc đấu tranh đi
đến những thắng lợi mới và ngày càng phát triển.
3. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Đặc điểm giai cấp và quan hệ giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, từ năm 1975 cả
nước ta bước vào chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, do xuất phát từ chế độ thuộc địa, nửa phong kiến lại trải qua
những cuộc kháng chiến chống xâm lược liên tục và kéo dài, nên các giai cấp
ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù. Chính sách khai thác ở thuộc địa của thực
dân pháp đã tạo điều kiện cho giai cấp công nhân của Việt Nam ra đời trước
giai cấp tư sản Việt Nam. Do vậy trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giai cấp công nhân Việt Nam cũng sớm xác định được vai trò lãnh đạo của
mình và đã giành được ưu thế tuyệt đối. Mặt khác, phần lớn công nhân Việt
Nam xuất thân từ nông dân, điều kiện lịch sử xã hội cùng những phong tục
tập quán sinh hoạt cổ truyền làm cho mối liên hệ giữa hai giai cấp này hết sức
mật thiết. Có thể nói rằng, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình
thành một cách tự nhiên trong lịch sử dân tộc.
Người nông dân coi Đảng của giai cấp công nhân cũng là Đảng của
chính mình. Xuất phát từ lòng yêu nước, người nông dân Việt Nam sẵn sàng
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh chống các thế lực
phản động hiện nay, nông dân luôn luôn đứng về phía công nhân. Cho nên
giai cấp công dân Việt Nam nói chung không phải là lực lượng cần phải trung
lập hoá trong suốt quá trình cách mạng.
Trí thức Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhiều người tham gia
cách mạng ngay từ những ngày đầu và có nhiều cống hiến đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại bộ phận trí thức Việt Nam hiện nay được
đào tạo trong chế độ mới, chủ yếu họ xuất thân từ công nhân và nông dân, từ
các tầng lớp lao động khác. Chính vì vậy, họ gắn bó với công- nông, gần gũi
với công –nông. Do đó trên thực tế công nhân, nông dân và trí thức nước ta
luôn luôn là lực lượng cơ bản của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ đặc thù của cuộc cách mạng dân tộc mà cả giai cấp bóc
lột ở nước ta cũng có sự phân hoá rõ rệt. Trong giai cấp địa chủ trứơc kia có
những người tham gia kháng chiến cứu nước. Trong giai cấp tư sản, trừ bọn
tư sản mại bản có lợi ích gắn bó với lợi ích của đế quốc, có nhiều người thuộc
hàng ngũ tư sản dân tộc tham gia kháng chiến hoặc ủng hộ cách mạng. Vì
vậy,ở Việt Nam, lực lượng chống đối cách mạng chỉ là những bộ phận bảo
thủ nhất và phản động nhất của giai cấp tư sản, những phần tử cực đoan
trong chính quyền cũ. Lực lượng đó không tập hợp đựơc toàn bộ giai cấp và
càng không thể lôi cuốn được quần chúng nhân dân để làm nội chiến chống
lại chính quyền nhà nước của ta. Tuy nhiên, nói như vậy không phải chúng
không còn ý chí phục hồi chính quyền đã mất. Trong nước vẫn còn những kẻ
hoạt động ngấm ngầm chống phá cách mạng, chuẩn bị lực lượng, chờ thời
cơ nổi dậy. Đồng thờii chúng còn nhận được sự tiếp tay của bọn lưu vong,
các tổ chức phản động nước ngoài. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có ý thức
cảnh giác đầy đủ. Song, trong hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Đảng ta vẫn coi xây dựng là nhiệm vụ trung tâm, trong đó là nhiệm vụ phát
triển kinh tế, đảm bảo đời sống cho nhân dân, tạo cơ sở vật chất cho sự cải
tạo toàn bộ xã hội luôn luôn được đặt lên hàng đầu.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần nhằm tạo điều kiện để mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội có thể
phát huy hết tiềm năng của mình, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh.
Trong bối cảnh đó, có quan điểm cho rằng, không nên đặt vấn đề đấu rtranh
giai cấp vì nó dẫn đến phân tán lực lượng, chia rẽ lực lượng. Đây là một quan
điểm không đúng, vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế không loại bỏ đấu
tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là một tất yếu khách quan trong mọi xã hội
có giai cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội Việt Nam hiện nay không còn
sự khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp, không còn đấu tranh giai
cấp. Nhưng cũng sẽ là sai lầm nếu phân chia các giai cấp trong xã hội ta hiện
nay thành hai lực lượng đối lập nhau. Việc nhận thức đúng đắn tính chất, nội
dung của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta xử lý
một cách khoa học mối quan hệ xã hội - giai cấp, đưa sự nghiệp đổi mới tới
thắng lợi.
b. Nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối
quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu
dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong
một mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn
liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống
bóc lột, chống nghèo nàn lạc hậu. Đúng như tinh thần của Đại hội Đảng lần
thứ IX đã nêu: “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, thực hiện công bằng xã hội chống áp bức, bất công, đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”
Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo điều
kiện để các giai cấp, tầng lớp xã hội có thể phát huy năng lực sản xuất kinh
doanh, khai thác mọi tiềm năng của đất nước. Ở đây, “đấu tranh” được biểu
hiện dưới hình thức cạnh tranh, thi đua trong hoạt động kinh tế, giải quyết các
lợi ích kinh tế, tạo điều kiện về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá cho sự
phát triển lực lượng sản xuất. Tăng cường hiệu lực của Nhà nước trong việc
quản lý nền kinh tế bằng pháp luật là hình thức đấu tranh đặc biệt quan trọng.
Đấu tranh trên cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - tư tưởng. Đấu tranh
chống xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa, xu hướng xa rời mục tiêu của xã
hội (dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, định hướng
xã hội chủ nghĩa). Đấu tranh chống các thế lực phá hoại độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc không chỉ là vấn đề dân tộc, mà còn là vấn
đề giai cấp. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là điều kiện cơ bản và tiên quyết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngược lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội là cơ sở vật
chất để đảm bảo độc lập dân tộc bền vững. Vì thế, trận tuyến đấu tranh giai
cấp ở nước ta được xác định: một bên là quần chúng nhân dân lao động, các
lực lượng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, đoàn kết trong một mặt trận
dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo, với một bên là các tổ chức, các phần tử
chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Như vậy, trong tình hình hiện
nay ở nước ta, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay go và phức tạp, thực chất
là cuộc đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và các thế
lực thù địch chống lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đấu tranh giữa hai
con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống nghèo nàn lạc hậu.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp còn vô cùng
phức tạp. Quy mô rộng lớn và tính chất phức tạp của những nhiệm vụ kinh tế
- xã hội hiện nay, cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và
bọn phản động quốc tế đang đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của cả cộng
đồng dân tộc, đồng thời phải kiên định tinh thần cách mạng, nắm vững định
hướng chiến lược, mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược đấu tranh, bảo đảm
sự thống nhất giữa giai cấp và nhân loại, giai cấp và dân tộc trong đấu tranh.
Điều có ý nghĩa quyết định là không ngừng nâng cao năng lực quản lý của
nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của quần chúng nhân dân, động
viên và phát huy được sức mạnh của toàn dân tham gia vào sự nghiệp đổi
mới hiện nay. Đúng như tinh thần của Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”.
II. QUAN HỆ GIAI CẤP VỚI DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc
a. Khái niệm dân tộc, lợi ích dân tộc, sự hình thành các dân tộc.
Theo quan điểm Mác xít, dân tộc là hình thức cộng người hình thành
trong lịch sử thay thế cho các hình thức cộng đồng trước đó, kể cả hình thức
bộ tộc. Dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp,
có các thể chế chính trị và nhà nước. Về cơ bản, dân tộc được hình thành
trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại, song cũng có trường hợp
dân tộc có thể từ một bộ tộc phát triển lên. Những cộng đồng người được coi
là dân tộc có các đặc trưng chủ yếu sau đây: cộng đồng về ngôn ngữ, cộng
đồng về lãnh thổ, cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính
cách.
Các đặc trưng cơ bản nói trên không thể thiếu được đối với bất kỳ một
cộng đồng dân tộc nào. Tuy nhiên, dân tộc không phải là số cộng giản đơn
những quan hệ cộng đồng đó. Trái lại, những quan hệ ấy có sự tác động qua
lại lẫn nhau, kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và độc đáo trong lịch sử lâu
dài của quá trình hình thành và phát triển cộng đồng dân tộc. Trong thực tế đã
có nhiều quan điểm phiến diện về vấn đề này. Chẳng hạn, các quan điểm duy
tâm về lịch sử chỉ nói đến quan hệ cộng đồng về mặt tinh thần như cộng đồng
văn hoá, tính cách hoặc đưa ra những khái niệm mơ hồ, trừu tượng như
“cộng đồng số mệnh”. Quan điểm “duy vật kinh tế” chỉ nói đến cộng đồng kinh
tế.
Với cách nhìn toàn diện đến vấn đề này, chủ nghĩa duy vật lịch sử
khẳng định rằng, các quan hệ cộng đồng nói trên có sự thống nhất biện
chứng; đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định của nhân tố kinh tế – xã hội và
vai trò quan trọng của nhân tố chính trị.
Mác và Ăngghen đã chỉ rõ quá trình hình thành các dân tộc, ở châu Âu
gắn liền với quá trình thay thế phương thức sản xuất phong kiến bằng
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế để xuất hiện dân tộc là
thủ tiêu tình trạng phân tán phong kiến chủ nghĩa, củng cố những mối liên hệ
kinh tế giữa các khu vực riêng lẻ trong nước, thống nhất các thị trường địa
phương thành thị trường toàn quốc. lực lượng lãnh đạo các dân tộc đã xuất
hiện vào thời kỳ này là giai cấp tư sản, và điều đó đã đặt một dấu ấn lên bộ
mặt chính trị - xã hội và tinh thần của các dân tộc. Trong “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”, Mác và Ăngghen chỉ rõ: “giai cấp tư sản, trong quá trình
thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia
gộp lại”
Ở phương Đông, quá trình hình thành các dân tộc không gắn liền với
chủ nghĩa tư bản, mà do sự thúc đẩy của nhiều nhân tố cố kết tự nhiên và xã
hội trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữa nước. Loại hình dân tộc này
gọi là loại hình tiềm tư bản.
Sự hình thành dân tộc Việt Nam có nét đặc thù riêng sau đây:
Thứ nhất, sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam cũng giống
như các dân tộc phương Đông, không gắn liền với sự hình thành và phát triển
của phương thức tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là động lực thúc đẩy sự
hình thành dân tộc nước ta cũng không thuộc giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư
bản. Trên thực tế, chế độ phong kiến tập quyền ở phương Đông và Việt Nam
nói riêng ra đời sớm hơn, nhưng lại tan rã muộn hơn chế độ phong kiến ở
châu Âu. Ở đây, sự hình thành dân tộc gắn liền với phương thức sản xuất
phong kiến và giai cấp quý tộc phong kiến.
Với chế độ phong kiến tập quyền được tổ chức chặt chẽ và hà khắc,
nhà nước phong kiến tập quyền đã thống nhất lãnh thổ bằng các cuộc chiến
tranh thôn tính, hình thành các “lãnh chúa” cát cứ một vùng lãnh thổ. Như vậy
đặc trưng dân tộc về lãnh thổ được hình thành sớm nhất. Ở đây, vua là
“Thiên tử” là người duy nhất có quyền tuyệt đối, người duy nhất đại diện cho
cộng đồng dân tộc cai trị cả người sống lẫn người chết. Ông vua là chủ sở
hữu duy nhất của mọi tài nguyên của cộng đồng dân tộc. Đó là yếu tố cơ bản
tạo nên sự thống nhất cộng đồng dân tộc trong quá trình chuyển sang xã hội
phong kiến.
Thứ hai, dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc phương Đông, ra đời
và phát triển gắn với phương thức sản xuất châu á - một phương thức sản
xuất đặc thù.
Về kinh tế, người Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XI X sang thế kỷ XX
vẫn sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp – nông nghiệp độc canh cây lúa
nước, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Điều đó buộc con người phải liên
kết với nhau, hình thành các mối quan hệ bền vững ngay trong các “công xã”,
làng xã cho đến khu vực, quốc gia để chống chọi với thiên tai.
Về văn hoá, dân tộc Việt Nam sớm hình thành nền văn minh rực rỡ
riêng của mình như văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn, măc dù sau đó
chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa và ấn Độ. Sự giao lưu văn hoá
và thống nhất lãnh thổ làm cho ngôn ngữ dân tộc hình thành phát triển sớm.
Có thể nói rằng đặc trưng về văn hoá và tâm lý là đặc trưng có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, dân tộc Việt Nam hình thành sớm và phát triển bền vững như
ngày nay cùng truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm từ các phía, dưới sự
lãnh đạo của triều đại phong kiến. Đoàn kết chống ngoại xâm là truyền thống
quý báu của dân tộc Việt Nam và cũng là một nhân tố tạo nên tính bền vững
của cộng đồng người Việt Nam, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
b. Khái quát về quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và biểu hiện trong lịch sử
Giai cấp và dân tộc là hai phạm trù khác nhau, chỉ có mối quan hệ khác
nhau trong xã hội, cho nên mỗi nhân tố có vai trò lịch sử khác nhau đối với sự
phát triển xã hội.
Trong lịch sử nhân loại, giai cấp xuất hiện trước dân tộc, và trong
tương lai khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn tồn tại lâu dài. Song, theo quan điểm
Mácxít, vấn đề dân tộc không thể tách khỏi vấn đề giai cấp. Giải phóng dân
tộc với vấn đề giải phóng giai cấp có quan hệ mật thiết với nhau. Chủ nghĩa
Mác – Lênin khẳng định rằng việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết
định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, đồng thời dân tộc bao giờ cũng
được chỉ đạo bởi một giai cấp nhất định.
Quan hệ giai cấp - với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức
sản xuất trong xã hội có giai cấp - là nhân tố suy cho cùng có vai trò quyết
định đối với sự hình thành dân tộc, quy định bản chất xã hội của dân tộc, quy
định tính chất của mối quan hệ giữa các dân tộc. Biểu hiện rõ nhất trong lịch
sử là vai trò của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đối với sự hình thành các
dân tộc hiện đại ở châu Âu. Đối với sự hình thành một số các dân tộc phương
Đông diễn ra trước chủ nghĩa tư bản thì vai trò này thuộc về tập đoàn xã hội
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đương thời, đó là những tập đoàn
phong kiến tiến bộ.
Thực tiễn lịch sử nhân loại đã xác định kết luận của các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin rằng, muốn xoá bỏ triệt để nạn áp bức dân tộc thì
phải xoá bỏ nguồn gốc của nó là chề độ người bóc lột người.
Khi giai cấp tư sản còn giữ vai trò thống trị thì vẫn còn nạn dân tộc này
áp bức dân tộc khác, còn chủ nghĩa thực dân và còn tư tưởng sô vanh rất
nặng nề. Điều đó giải thích vì sao khi các dân tộc tư sản hình thành thì các
cuộc chiến tranh xâm lược lại diễn ra trên quy mô và trong phạm vi rộng lớn
chưa từng có trong lịch sử. Đến khi giai cấp vô sản cầm quyền thì một trong
những mục tiêu mà cách mạng đặt ra và giải quyết là “quyền tự quyết dân
tộc”, là sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc.
Các vấn đề: giai cấp nào lãnh đạo phong trào? những giai cấp, liên minh nào
là lực lượng nòng cốt của phong trào?....là những vấn đề trọng yếu của cách
mạng giải phóng dân tộc.
Đối với Việt Nam, sự nghiệp giải phóng dân tộc không thể thành công
nếu không có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của
nó, nếu không thực hiện được khối liên minh bền vững giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác làm nòng cốt cho
khối đại đoàn kết dân tộc.
Đương nhiên, trong khi khẳng dịnh vai trò quyết định của nhân tố giai
cấp trong mối quan hệ giai cấp - dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin không tuyệt
đối hoá vấn đề giai cấp, mà trái lại xác định vấn dân tộc là rất quan trọng, nó
tác động trở lại một cách tích cực, mạnh mẽ tới vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét vấn đề dân tộc là một trong những
vấn đề quan trọng hàng đầu của cuộc cách mạng vô sản. Song, để nhận thức
và giải quyết đúng đắn “vấn đề dân tộc” phải có quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giai cấp - dân tộc.
c. Vấn đề dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong thời đại hiện nay.
Ngày nay, quan hệ giữa đấu tranh của giai cấp công nhân, về bản chất
mang tính quốc tế và đoàn kết quốc tế là một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng những người lao động. Các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng, Đảng cộng sản không lúc nào
được coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng
nhân dân, nhưng giai cấp công nhân không được quên rằng cuộc đấu tranh
giải phóng của họ có tính chất dân tộc. Dân tộc chính là cơ sở, là địa bàn trực
tiếp tạo nên kết cấu giai cấp và diễn ra cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
chống giai cấp tư sản, Mác và Ăngghen đã nhấn mạnh: “giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp
dân tộc”.
Cuộc đấu tranh dân tộc không chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân
làm cho đấu tranh phát triển về bề rộng, bề sâu và có bước nhảy vọt. Thông
qua đấu tranh dân tộc để thực hịên đấu tranh giai cấp. Chính cuộc đấu tranh
dân tộc nuôi dưỡng và làm sâu sắc thêm cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong bất kỳ quốc gia nào, dân tộc đều là cơ sở, là nguồn gốc tạo nên
sức mạnh giai cấp. Bất cứ một giai cấp nào cũng tồn tại trong một dân tộc
nhất định. Nguồn sức mạnh của giai cấp không chỉ ở trong bản thân giai cấp
đó, cho dù là giai cấp tiến bộ nhất, mà còn ở trong sức mạnh của dân tộc, ở
đoàn kết dân tộc. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi đến
một kết luận hết sức quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác cách mạng vô sản ”
2. Nhân loại và vấn đề quan hệ giai cấp với nhân loại
a. Khái niệm nhân loại và lợi ích nhân loại.
Nhân loại chính là loài người, như vậy khái niệm nhân loại dùng để chỉ
toàn thể cộng đồng người sống trên trái đất từ hàng triệu năm nay.
Nhân loại, một mặt phân chia thành các giai cấp, các tầng lớp có vai trò
xã hội và lợi ích khác nhau; mặt khác phân chia thành các cộng đông xã hội,
các tộc người có trình độ phát triển khác nhau, song nhân loại vẫn là một thể
thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất ấy là bản chất người của từng cá thể
của cả cộng đồng, bản chất đó quy định lợi ích chung và quy luật phát triển
chung của cộng đồng.Song trong lịch sử có những tập đoàn đặc quyền đặc
lợi không muốn thừa nhận sự thống nhất trên bản chất người của cộng đồng
nhân loại. Tuy nhiên, ý thức xem nhân loại như một cộng đồng có chung vận
mệnh, có chung bản chất, xem sự tồn tại của các cá nhân cũng như các cộng
đồng, tập đoàn…không thể tách khỏi vận mệnh nhân loại đã được nhiều nhà
tư tưởng tiên tiến thuộc các thời đại khác nhau thừa nhận.
Tuy nhiên, quan niệm về quyền con người, bản chất con người tính
thống nhất toàn nhân loại của các nhà tư tưởng tiên tiến trước Mác còn trừu
tượng và phiến diện. Họ không chú ý đến tính lịch sử của chủ nghĩa nhân
loại.
Quan niệm về tính thống nhất toàn nhân loại của chủ nghĩa duy vật lịch
sử không dừng lại ở bản chất tộc loại trừu tượng của con người. Chủ nghĩa
duy vật lịch sử chỉ ra bản chất xã hội của con người và loài người, coi đó là
tiêu chí cơ bản phân biệt loài người với muôn loài; bản chất ấy là cơ sở của
sự thống nhất cộng đồng nhân loại. Mác viết: “bản chất con người không phải
là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Con người là sinh
vật có bản chất xã hội, do đó nhân loại là cộng đồng của những thực thể xã
hội. Các quan hệ xã hội của loài người vô cùng phong phú, phức tạp, không
ngừng thay đổi theo trình độ phát triển những năng lực bản chất con người.
Nền văn minh nhân loại có được như ngày nay là thành quả hoạt động
sáng tạo trong nhiều thiên niên kỷ của cả loài người. Từng con người, từng
cộng đồng, tập đoàn người riêng lẻ không thể tạo ra được nền văn minh nhân
loại. Các cá nhân, các dân tộc của cả cộng đồng nhân loại. Do vậy, tất cả có
lợi ích chung là bảo vệ và phát triển cuộc sống, bảo vệ nền văn minh của loài
người trên trái đất.
b. Khái quát về quan hệ giữa giai cấp vô sản với nhân loại và biểu hiện trong lịch sử:
Để tồn tại và phát triển, con người phải không ngừng đấu tranh cải tạo
thiên nhiên và cải tạo môi trường xã hội của mình. Trong quá trình phát triển,
mỗi dân tộc và toàn nhân loại thường xuyên đấu tranh để gạt bỏ những quan
hệ xã hội đã lỗi thời. lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng tỏ rằng,
lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu tranh ấy là các giai cấp cách mạng. Từ
khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì lịch sử nhân loại là lịch sử
đấu tranh giai cấp. Từ thời đại chiếm hữu nô lệ cho đến thời đại tư bản chủ
nghĩa, các giai cấp bị áp bức, bóc lột đã không ngừng đấu tranh chống áp
bức, bóc lột. Nếu không có các cuộc đấu tranh đó thì nhân loại không thể thay
thế hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao
hơn, từ đó giải phóng con người và cả loài người. Nếu nhìn ở góc độ khái
quát, thì mục đích của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại, suy
cho cùng là hướng tới một môi trường xã hội tốt đẹp nhất, trong đó tất cả mọi
người đều có điều kiện phát triển toàn diện và “sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Như vậy, trong xã hội có giai cấp, vấn đề giai cấp không chỉ là vấn đề
riêng của một giai cấp, tầng lớp nào đó mà là vấn đề của toàn nhân loại. Vấn
đề giai cấp và vấn đề nhân loại luôn luôn có mối quan hệ mật thiết, không
tách rời nhau. Tuy nhiên, sự biểu hiện của mối quan hệ đó trong từng giai
đoạn lịch sử là không giống nhau. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng,
quần chúng lao động là người sáng tạo ra lịch sử trong mọi thời đại, nhưng
chính giai cấp thống trị trong bản thân phương thức sản xuất đang phù hợp
với quy luật lịch sử, cho dù là giai cấp bóc lột, vẫn có vai trò to lớn trong việc
thúc đẩy sự tiến bộ của toàn nhân loại. Mác và Ăngghen đã từng khẳng định
vai trò lịch sử của giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị
giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn
và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Khi giai cấp tư sản đã đưa nhân loại phát triển đến đỉnh cao cuả nền
văn minh tư sản thì những hạn chế mang tính cố hữu cuả giai cấp tư sản
càng bộc lộ rõ nét. Một mặt, giai cấp tư sản vẫn tiến hành cuộc “đấu tranh giai
cấp” rất quyết liệt để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của mình, thậm chí gây ra
những cuộc đấu tranh thảm hoạ nhất trong lịch sử loài người; mặt khác, nó
luôn luôn tìm cách che đậy sự đối kháng giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là
phá hoại sự thống nhất xã hội, là phi nhân tính. Như vậy, giai cấp tư sản
thống trị luôn luôn đặt lợi ích giai cấp lên trên hết, nó không bao giờ đặt lợi ích
giai cấp phục tùng lợi ích nhân loại.
Vấn đề toàn nhân loại được đặt ra trong xã hội tư bản là yêu cầu bình
đẳng phải có tính hiện thực, nó phải được áp dụng trong cả lĩnh vực kinh tế
và xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, lợi ích của giai cấp công
nhân thống nhất căn bản với lợi ích toàn nhân loại. Vì vậy, sự nghiệp giải
phóng giai cấp công nhân không phải là sự giải phóng một giai cấp đặc thù
như cách mạng tư sản đã làm mà là giải phóng toàn xã hội, giải phóng con
người nói chung. Mục tiêu của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh
đạo nhằm xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nhân dân lao động làm
chủ, bảo đảm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, mang lợi ích cho
mọi người. Như vậy, mối quan hệ giữa nhân loại với giai cấp chỉ được giải
quyết bằng một cách triệt để hợp lý, đúng quy luật do giai cấp công nhân lãnh
đạo giành được thắng lợi trên phạm vi quốc tế.
c. Những vấn đề có tính nhân loại và quan hệ giữa giai cấp với nhân loại trong thời đại hiện nay.
Trong thời đại ngày nay người ta nói nhiều tới những vấn đề toàn cầu
hay những vấn đề mang tính chất toàn nhân loại như: chống chiến tranh hạt
nhân, bảo vệ môi trường, chống việc tăng dân số, chống các loại bệnh xã hội
nguy hiểm đối với cả loài người…Những vấn đề nói trên có liên quan đến lợi
ích của toàn nhân loại. Như vậy, lợi ích toàn nhân loại chính là những điều
kiện tất yếu, khách quan, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của toàn thể
loài người, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp…Do địa vị, lợi ích khác
nhau đã nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa nhân loại và giai cấp rất khác
nhau.
Từ lập trường của giai cấp công nhân, chúng ta khẳng định rằng lợi ích
toàn nhân loại không hề đối lập với lợi ích giai cấp. Nếu chúng ta xem xét lợi
ích toàn nhân loại là lợi ích của mọi giai cấp thì quan hệ giữa lợi ích toàn
nhân loại và lợi ích giai cấp là quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong xã
hội có giai cấp, lợi ích toàn nhân loại không tồn tại một cách cô lập ngoài lợi
ích giai cấp. Những vấn đề toàn cầu được người ta xem xét và giải quyết
khác nhau chính vì sự chi phối của lợi ích giai cấp.
Lợi ích toàn nhân loại và lợi ích giai cấp có khi thống nhất với nhau, có
khi mâu thuẫn với nhau. Đối với các giai cấp lạc hậu, đã mất hết vai trò lịch
sử thì lợi ích giai cấp về căn bản là mâu thuẫn với lợi ích toàn nhân loại. Khi
đó lợi ích giai cấp sẽ trở thành cái chi phối hoạt động của giai cấp đó. Như
chúng ta đã biết, chính chủ nghĩa đế quốc là người đầu tiên chế tạo bom
nguyên tử, vũ khí hoá học, các loại vũ khí giết người hàng loạt và sử dụng
chúng vào mục đích chiến tranh. Những sự kiện như: cuộc chiến tranh vùng
Vịnh, cuộc chiến tranh Irắc gần đây, chứng tỏ Mỹ hành động không phải vì
những vấn đề toàn nhân loại mà hành động vì lợi ích của giai cấp tư sản Mỹ.
Nhưng đối với các giai cấp tiến bộ thì lợi ích giai cấp về căn bản là phù hợp
với lợi ích toàn nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, giai cấp vô
sản là giai cấp tiến bộ nhất trong lịch sử hiện đại. Vì vậy, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp này là giải phóng toàn thể nhân loại chứ không phải chỉ giải phóng
riêng mình.
Mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề nhân loại là mối quan hệ
biện chứng sâu sắc. Chính vì vậy, khi giải quyết vấn đề này phải đặt trong mối
quan hệ chặt chẽ với vấn đề kia. Sự tác động qua lại hài hoà giữa giai cấp và
nhân loại, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích nhân loại sẽ mang lại những tiến bộ
cho xã hội loài người.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam.
a. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh - nhà cách mạng tiêu biểu của các dân tộc bị áp bức trong
thời đại ngày nay, đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Có thể nói rằng, sự thống nhất giữa vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc và nhân
loại là thuộc tính vốn có bên trong của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
không những đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng nước ta, mà còn phát triển lý luận của học thuyết đó đáp ứng những
yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh
đã rút ra được những kết luận mới hết sức sâu sắc về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và giải phóng dân tộc với vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, mà
tính đúng đắn của nó đã được chứng minh bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam
cũng như các phong trào cách mạng trên toàn thế giới.
Xuất phát từ nhận thức: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã vạch ra một xu thế tất yếu khách quan của sự
phát triển xã hội trong thế kỷ XX. Phong trào giải phóng dân tộc, có vai trò to
lớn, là nhân tố cấu thành của cách mạng thế giới. Nếu như trước đây Mác,
Ăngghen chỉ ra: xoá bỏ nạn bóc lột giai cấp là điều kiện cơ bản để xoá bỏ ách
áp bức dân tộc, thì trong điều kiện của thế kỷ XX, sự nghiệp giải phóng dân
tộc lại trở thành tiền đề cho sự nghiệp giải phóng giai cấp. Hơn nữa, sự
nghiệp giải phóng dân tộc còn là một bộ phận khăng khít của cách mạng của
toàn thế giới. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,sự giúp đỡ của giai cấp công nhân
chính quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc không chỉ là đòi hỏi của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn là đòi hỏi của chính sự nghiệp giải phóng
giai cấp
Hồ Chí Minh vẫn nhìn thấy sự cố kết của giai cấp địa chủ phong kiến
với giai cấp tư sản đế quốc, vừa nhìn thấy giai cấp tư sản ở các nước đế
quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản ở chính quốc và của cả giai cấp vô
sản ở các nước thuộc địa. Người viết Chủ nghĩa tư sản là một con đỉa có một
cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái bám vào giai cấp vô
sản ở thuộc địa. Muốn giết con vật ấy,người ta đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu
người ta chỉ cắt một vòi mà thôi, thì cái vòi còn lại kia vẵn tiếp tục sống và cái
vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”
Từ cách nhìn đó, Ngưòi khẳng định cuộc đấu tranh giành độc lập của
các nước phương Đông là một trong những cải cánh cửa cách mạng vô sản
trong phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt, Người luôn luôn nhấn mạnh mối quan
hệ giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc kêu gọi sự đoàn
kết giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp ở thuộc địa,và cho rằng, cuộc
đấu tranh ở các nước này phải quan hệ khăng khít với nhau để làm cho chủ
nghĩa tư bản bị tiêu diệt tận gốc.
b. Giải phóng giai cấp phải gắn với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp, dân tộc và nhân loại luôn luôn
gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự nghiệp của giai cấp công nhân không thể thắng
lợi nếu không có nền tảng là sự đoàn kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ
của cả dân tộc. Sự nghiệp của dân tộc không thể thành công nếu nó không
đặt trong mối quan hệ quốc tế rộng rãi, chặt chẽ, cũng như cuộc đấu tranh đó
không đi đến thắng lợi triệt để nếu nó không gắn bó với mục tiêu đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản. Sự thống nhất biện chứng ấy luôn thể hiện trong
tư tưởng và quá trình hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như của cách
mạng Việt Nam.Một trong những bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam là
bài học về sự kết hợp chặt chẽ nhuần nhuyễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.Đó là những nhân tố cơ bản
nhất đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn sử
khác nhau. Đó cũng là điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đó có con đường đúng đắn cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện rất rõ ràng ngay từ khi thành lập Đảng.
Trong chính cương vấn tắt của Đảng và khẳng định: “chủ trương làm tư sản
dân quyền và cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm trung tâm, xuyên
suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc để
đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là điểm khác biệt căn bản giữa
con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với con đường của các sỹ phu yêu
nứơc như. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học,vv…Hồ Chí
Minh đánh giá rất cao tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc
của họ; song người thấy rõ con đường cứu nước ấy không triệt để, không thể
đem lại độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc. Người viết: “Trong thời đại
ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành thắng lợi hoàn toàn”.
Để đưa dân tộc ta đi với độc lập, tự do và chủ nghiã xã hội, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn mục tiêu độc
lập dân tộc với chủ nghãi xã hội, gắn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã chủ nghĩa. Nhờ đó, cách mạng
Việt Nam phát triển không ngừng và đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đảng và nhân dân ta khẳng định công lao to lớn nhất của Hồ Chí Minh
là Người đã tìm ra con đường cúư nước đúng đắn, gắn mục tiêu độc lập dân
tộc với mục tiêu chủ nghiã xã hội và cống hiến trọn đời cho mục tiêu đó. Ngày
nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Viiệt Nam, dân tộc ta vẫn kiên định
đi theo con đường cách mạng với mục tiêu: độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội của Hồ Chí Minh.
c. Phát huy khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đại đoàn kết toàn dân là tư tưởng nhất quán và xuyên suốt trong tư duy
lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đại doàn kết của Hồ Chí Minh là một hệ thống luận điểm,
nguyên tắc, phương pháp và cách thức giáo dục, tổ chức, hướng dẵn các
hành động của các lực lượng cách mạng, nhằm phát huy tới mức cao nhất
sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập
dân tộc,dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
định hướng cho việc xây dựng, củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách
mạng trong sự nghiệp đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
con người.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ
mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới. Trong thời
đại ngày nay, Kẻ thù của cách mạng mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước
là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới thì lực lượng cách mạng
không thể bỏ hẹp là lực lượng của dân tộc trong một nước. Song cách mạng
trước hết phải được diễn ra ở phạm vi quốc gia dân tộc nhất định. Do vậy,
việc xây dựng lực lượng cách mạng hùng mạnh ở trong nước có ý nghĩa
quyết định để tự giải phóng mình, đồng thời xây dựng xã hội mới thì”sự giúp
đỡ của các nước là quan trọng nhưng ta phải tự lập cánh sinh là chính”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đoàn kết là vần đề chiến lược, có ý nghĩa
sống còn, nó quyết định sự thành bại của cách mạng.Trong phạm vi quốc gia
dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn
dân tộc thành một khối. Với lực lượng đoàn kết của toàn dân thì không một
sức nạnh nào có thể chiến thắng nổi. Đoàn kết dân tộc kết hợp chặt chẽ với
đoàn kết quốc tế, tạo ra sức mạnh cộng hưởng to lớn, vượt trội là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định
để giành thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo
“chỉ có khối công nông liên minh do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể
kiên quyết và triệt để để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và
củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm lịch sử của
cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội’’. Đồng thời Hồ Chí
minh luôn luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, coi đó là nhân tố
quyết định cho thắng lợi của nước ta. Người viết: “Dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân và trên cơ sở của liên minh công nông ngày càng vững chắc,
trong mỗi giai đoạn, cách mạng, cần tập hợp mọi lực lượng cách mạng và
tiến bộ thành một lực lượng tiến bộ rộng rãi, thực hiện hành động dưới nhiều
hình thức giữa các lực lượng ấy để chống kẻ thù chung”, Hồ Chí Minh thường
xuyên kêu gọi phải đoàn kết rộng rãi, chống khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi, chống cả sự đoàn kết xuôi chiều. Người đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng:
“Đoàn kết,đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”.
4. Vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
a. Phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công nông –trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân là một tất yếu
khách quan của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ngay từ khi ra đời,
cộng đồng dân tộc Việt Nam đã phải không ngừng đấu tranh chống chọi với
thiên nhiên và giặc ngoại xâm để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Truyền thống đoàn kết toàn dân đã ngày càng phát triển và củng cố trong quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Biết bao lần kẻ thù muốn phá vỡ khối
đại đoàn kết toàn dân của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhưng các thế hệ
người Việt Nam đã không ngừng giữ gìn và vun đắp cho nó.
Đảng ta từ ngày thành lập đến nay đã rất quan tâm đến nhiệm vụ xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
coi công tác mặt trận có vai trò đặc biêt quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng. Trong “Chính cương vắn tắt”, “sách lược vắn tắt” của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nêu chủ trương đoàn kết rộng rãi những giai cấp và tầng lớp
nhân dân có thể đoàn kết được trong mặt trận dân tộc thống nhất (trong đó
chủ yếu là lực lượng công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức).
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đường lối đoàn kết của
Đảng đã huy động được mọi sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, kể cả
những nhân sĩ, trí thức tư sản, mặc dù chưa tán thành chủ nghiã cộng sản,
song vẫn tích cực tham gia kháng chiến. Nhờ phát huy được truyền thống đaị
đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những chiến
thắng lịch sử, đánh bại những thế lực thực dân đế quốc hung bạo, có tiềm lực
kinh tế, quân sự lớn hơn ta rất nhiều lần.
Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đường lối đoàn kết toàn dân lại một
lần nữa được thể hiện bằng những quyết định đúng đắn và cụ thể. Sau chiến
tranh, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện truyền thống hoà hợp dân tộc, đối
xử nhân đạo với những người lầm đường lạc lối, đưa họ trở về với cộng đồng
dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân được củng cố trên cơ sở thống nhất đất nước
Trong sự nghiệp đổi mới, đại đoàn kết toàn dân dựa trên cơ sở phát
huy sự năng động, sáng tạo, thống nhất ở mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đoàn kết được coi là động lực chủ yếu để
phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Đoàn kết toàn dân vì mục tiêu xây dựng CNXH phải dựa trên cơ sở liên
minh vững chắc giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Đó là những giai cấp cơ bản trong xã hội, mà giữa họ có sự thống nhất
căn bản về lợi ích kinh tế và chính trị. Chính vì vậy, họ trở thành đồng minh tự
nhiên của nhau trong sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Khối
liên minh này đã được xây dựng và củng cố vững chắc trong quá trình đấu
tranh cách mạng lâu dài của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trong quá trình cách mạng ở nước ta, khối liên minh này chính là
cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân, chính vì vậy nó đã không ngừng được
củng cố và phát triển bởi Đảng ta; đồng thời phải là lực lượng chủ chốt trong
công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng lao đông Việt Nam(2-1951)đã chỉ rõ:
“Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ
của nhân dân..lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền
tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Bước vào thời kì quá độ lên CNXH trên phạm vi cả nước, đặc biệt là từ
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991) càng đặc biệt coi
trọng việc thực hiện liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí
thức, coi đó là nền tảng của nhà nước XHCN. Cương lĩnh chỉ rõ: “xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỉ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành
động âm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
(2001) chẳng những khẳng định tính tất yếu của liên minh công - nông - trí
thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam XHCN mà còn
đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đại hội chỉ rõ: “động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và tri thức do
Đảng lãnh đạo”.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trước hết là trách nhiệm của toàn
Đảng. Đảng đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đáp ứng được nguyện
vọng và bảo đảm lợi ích của toàn dân là cơ sở quan trọng hàng đầu để gắn
kết và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, giữ gìn đoàn kết trong Đảng là điều kiện hàng đầu để Đảng thực hiện
vai trò là hạt nhân trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của bộ máy nhà
nước, công cụ chủ yếu thực hiện đường lối của Đảng. Xây dựng nhà nước
thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.Mọi chính sách và giải pháp
kinh tế, xã hội của nhà nước đều phục vụ nhân dân, cán bộ, công chức nhà
nước là công bộc của dân. Chăm lo và bảo vệ lợi ích của chính đáng của mọi
giai cấp, tầng lớp của toàn bộ dân cư trong xã hội là biện pháp cơ bản để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của các đoàn thể
chính trị, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hội sáng tạo, các hội nhân đạo,
từ thiện… Trong hoạt động của mình, các tổ chức xã hội, phải lấy mục tiêu
góp phần gìn giữ và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân là một nhiệm vụ chủ
yếu, thường xuyên.
Gìn giữ và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của toàn
dân tộc. Lịch sử đất nước ta đã chứng tỏ, đoàn kết dân tộc là sức mạnh vô
địch. Mọi sự phá hoại khối đoàn kết toàn dân đều bị lịch sử lên án và loại bỏ.
Trong điều kiện tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay, yêu
cầu đại đoàn kết càng trở lên quan trọng để bảo vệ bản sắc và truyền thống
văn hoá của dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu to lớn đạt được trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã
chứng minh tính đúng đắn của việc đa dạng hoá các hình thức, các quan hệ
sở hữu và thiết lập kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Tại đại hội VI, Đảng ta đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới. Đường
lối đó được tiếp tục khẳng định tại các đại hội VII, Đại hội VIII và một lần nữa
lại được khẳng định tại Đại hội IX của Đảng. Đảng ta đã vạch ra những sai
lầm trong đường lối xây dựng kinh tế ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới chính
là ở chỗ do chủ quan, do nóng vội, duy ý chí và cũng do bệnh giáo điều, máy
móc ít quan tâm, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, không gắn kết hai
quá trình này với nhau, chúng ta đã đẩy mạnh quan hệ sản xuất đi quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi thế, đường lối đổi mới kinh
tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần với nhiều hình thức và quan hệ sở hữu vận hành theo cơ
chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được phản ánh rõ
nét tại Đại hội IX của Đảng: “Các thành phần kinh tế doanh nghiệp theo pháp
luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân”.
Với quan niệm như trên về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
cũng tại Đại Hội IX, Đảng ta đã xác định rõ phương hướng xây dựng chế độ
sở hữu trong nền kinh tế đó là: “Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh
tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN đã cho thấy sự phát triển năng động của nó. Sự năng
động đó có được, một phần là do chúng ta thực hiện chủ chương đa dạng
hoá các hình thức và quan hệ sở hữu, cho phép các hình thức sở hữu khác
nhau cùng phát triển lâu dài trên cơ sở hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế mới, chủ động hội nhập với khu
vực và thế giới, việc tạo ra tính chất đan xen và đẩy nhanh quá trình phối
hợp, liên kết cùng với sự hoạch định một sự tương tác hợp lý giữa các hình
thức và các quan hệ sở hữu khác nhau không những cho phép kinh tế tư
nhân, kinh tế tập thể phát triển hết khả năng của mình, loại bỏ được những
hậu quả tiêu cực của kinh tế tư bản tư nhân mà còn làm cho kinh tế nhà nước
phát huy được vai trò chủ đạo, định hướng và điều tiết vĩ mô của nó trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Những thắng lợi bước đầu sau 20 năm đổi mới đất nước theo định
hướng XHCN đã cho thấy, thành công của sự nghiệp đó là do nhiều nguyên
nhân, nhưng một nguyên nhân đặc biệt quan trọng là ở chỗ, nhờ đổi mới kinh
tế, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, trong đó có đổi mới về nhận thức về
chế độ sở hữu, chúng tạo nên tính chất đan xen, sự liên kết giữa nhiều hình
thức và quan hệ sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đó chính là
hướng đi đúng đắn, bảo đảm cho việc quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ
phát triển TBCN ở nước ta.
c. Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước.
Từ khi nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, tình hình quốc tế đã có
nhiều thay đổi. Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội Đông Âu sụp đổ. Cục diện
quốc tế mới đang hình thành, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa
đấu tranh vừa hợp tác với nhau. Đó là điều kiện để Đảng ta thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ rộng mở
trong thời kỳ đổi mới. Nghị quyết của đại hội VII đã khẳng định: “Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”. Đại hội IX đã tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hoá các quan hệ quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra như một xu thế khách quan,
nhưng sự chi phối của các nứơc tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản
xuyên quốc gia, chủ nghĩa thực dân quốc tế, thuyết “can thiệp nhân đạo”,
“nhân quyền cao hơn chủ quyền”, chính sách “can dự” của chủ nghĩa đế
quốc, đứng đầu là Mỹ, là một nguy cơ đối với các nước đang phát triển.
Chính vì vậy, việc nhấn mạnh quan điểm độc lập, tự chủ, chủ động trong hội
nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng.
Đại hội IX của Đảng ta đã phân tích các khía cạnh của các quá trình
kinh tế và khẳng định chúng ta chủ trương tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, chủ động hội nhập với khu vực và thế giới “chủ yếu và trước hết là
về kinh tế”. Trong quá trình đó phải đảm bảo độc lập, tự chủ, trước hết là độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách, bảo vệ lợi ích quốc gia và định hướng
XHCN, bảo đảm an toàn và an ninh quốc gia. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Mở rộng quan hệ với các
nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc và bị chi phối của bên
ngoài. Quan điểm này đã được cụ thể hoá trong văn kiện của Đại hội IX: “Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại đã
được Đảng ta xác định là: “Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các
điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ
quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Như vậy việc mở rộng quan hệ quốc tế và giữ vững độc lập chủ quyền
của đất nước phải có mối quan hệ biện chứng sâu sắc, tác động qua lại hỗ
trợ cho nhau, tạo điều kiện cho đất nước phát triển. Công tác đối ngoại phải
phục vụ cho chính sách đối nội của Đảng và Nhà nước. Bằng hoạt động đặc
thù của mình hoạt động đối ngoại phải góp phần tranh thủ sự đồng tình,ủng
hộ của Chính phủ và nhân dân các nước đối với sự nghiệp đổi mới của nhân
dân ta về cả vật chất lẫn tinh thần. Việc mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại,
thu hút đầu tư, trao đổi văn hoá, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học – kỹ
thuật và quản lý …nhằm tăng thêm tiềm lực mọi mặt của đất nứơc, phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thông qua các dạng hoạt động
đối ngoại phong phú, đa dạng, đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn chống
phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch từ bên ngoài, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi để đất nước phát triển nhanh theo định hướng XHCN.
Độc lập chủ quyền quốc gia là những giá trị cơ bản và thiêng liêng và
nhân dân ta phải đấu tranh lâu dài, chịu đựng nhiều gian khổ hy sinh mới
giành được. Trong quan hệ quốc tế, chủ quyền quốc gia được bảo đảm bằng
pháp luật quốc tế. Nhờ những thắng lơị vĩ đạitrong cuộc đấu tranh giành và
bảo vệ độc lập dân tộc, những thành tựu quan trọng của sự nghiệp đối mới,
tạo ra thế lực mới của đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên
trường quốc tế. Các nước trên thế giới thừa nhận độc lập, chủ quyền quốc
gia của Việt Nam và mong muốn phát triển quan hệ với nước ta. Đây là một
thuận lợi rất cơ bản trong hoạt động đối ngoại để bảo vệ độc lập và chủ
quyền quốc gia.Mặt khác, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia
là cuộc đấu tranh rất phức tạp, khó khăn phải thường xuyên và lâu dài, trong
đó công tác đối ngoại có vai trò cực kỳ quan trọng.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, nước ta chịu nhiều thử thách với những
âm mưu và thủ đoạn tiến hành chủ nghĩa thực dân kinh tế; đồng thời lại nằm
trong khu vực tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định (như tranh chấp biên
giưới trên bộ, trên biển và trên không) và là đối tượng chống phá của các thế
lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hoà bình” mưu toan sử dụng vấn đề
dân tộc tôn giáo để chia cắt đất nước. Chính vì vậy cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia diễn ra rất phức tạp, có mặt trên tất cả
các lĩnh vực hoạt động đối ngoại. Để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia,
trước hết phải bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ về sự độc
lập về đường lối và chính sách độc lập tự chủ về kinh tế, giữ vững bản sắc
văn hoá dân tộc, chủ quyền và quyền lợi quốc gia trong quan hệ với các
nước, trong các tổ chức quốc tế.
d. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hoà nhập kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Đây là đường lối chỉ
đạo đúng đắn, bởi vì nó phù hợp với bối cảnh trong nước và thế giới hiện
nay. Nhưng vấn đề cốt lõi là ở chỗ, hiểu thế nào cho đúng về nền kinh tế độc
lập tự chủ, và sự hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở đây, cần phải nhận thức rằng nền kinh tế độc lập tự chủ không có
nghĩa là nền kinh tế tự cấp tự túc, tách biệt với thế giới bên ngoài, tự cô lập
mình, không sử dụng những thành tựu và kinh nghiệm về sự phát triển kinh tế
và công nghệ trên thế giới. Lịch sử nhân loại đã công nhận rằng, chưa có một
dân tộc nào trên thế giới với đường lối biệt lập, bế quan toả cảng mà lại có
được nền kinh tế phát triển bền vững.
Nền kinh tế độc lập, tự chủ trước hết là tự chủ về lựa chọn đường lối
phát triẻn kinh tế - xã hội, nhưng trong quan hệ với bên ngoài không bị lệ
thuộc vào sự chi phối của một nước hay một nhóm các nước nào đó, có
nghĩa là nền kinh tế đó có khả năng ứng phó hữu hiệu trước những biến động
bên ngoài. Chẳng hạn, vào những năm cuối của thế kỷ XX, nền kinh tế của
Việt Nam không bị chao đảo trước sự mất ổn định của nền kinh tế thuộc khu
vực đông nam châu á như: Thái Lan, Inđônêsia, Malaisia, vv… Sở dĩ chúng ta
có thành tựu đó là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng ta về việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ.
Như vậy, những điều kiện thiết yếu để xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ là: có một tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất - kỹ thuật vững mạnh, có
nguồn lực con người dồi dào, có khoa học và công nghệ đủ mạnh để tự phát
triển. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có sức cạnh tranh dựa trên một
cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả; có cơ chế kinh tế vững vàng, kinh tế vĩ
mô ổn định.
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế toàn cầu hoá kinh tế thế giới đang diễn
ra rất mạnh, chúng ta đã chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và cam kết tham
gia các chế định kinh tế khu vực và toàn cầu. Song, để bảo vệ và phát triển
lợi ích quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa, cuộc hội nhập kinh tế cần
được tiến hành chủ động, tranh thủ tối đa các cơ hội và điều kiện thuận lợi do
hội nhập mang lại, đồng thời hết sức tránh các ảnh hưởng và tác động tiêu
cực của hội nhập.
Trong quá trình hội nhập, chúng ta phải kiên trì giữ vững nguyên tắc:
Độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,giữ vững chủ quyền quốc gia
và bản sắc văn hoá dân tộc, đề cao cảnh giác trước các âm mưu phá hoại
của các thế lực phản động trong và ngoài nước.
Yêu cầu đặt ra đối với việc hội nhập là bình đẳng cùng có lợi,vừa hợp
tác vừa đấu tranh, đa phương hoá,đa dạng hoá các cơ quan kinh tế quốc tế.
Để thực hiện cuộc hội nhập kinh tế một cách chủ động và có kết quả,
đảm bảo được các nguyên tắc vá yêu cầu nêu trên, cần phải tăng cường sức
cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để sớm có một
tiềm lực kinh tế và công nghệ đủ mạnh, đổi mới cách quản lý, giảm độc quyền
và hàng rào bảo hộ.
Cần phải thấy rằng, nếu đứng trên lợi ích quốc gia và định hướng xã
hội chủ nghĩa để xem xét thì vấn đề xây dựng nền kinh tế tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế về bản chất không mâu thuẫn với nhau mà giữa chúng có mối
quan hệ biện chứng sâu sắc. Tính thống nhất của các chủ trương trên là ở
chỗ chúng đều phục vụ một mục đích là lợi ích quốc gia và dịnh hướng xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời, trong sự phát triển đất nước vì nội lực là quyết định,
ngoại lực là rất quan trọng, nhưng nếu tách riêng các nguồn lực đó thì hiệu
quả hoạt động rất thấp.Trên thực tế, có kết hợp nội lực và ngoại lực thành
một sức mạnh tổng hợp thì mới có đủ các yếu tố; như vốn, lao, động, công
nghệ và phát triển kinh tế có chhất lượng và hiệu quả.
Chính việc xây dựng nền kinh tế nói trên phản ánh thực tại của mối
quan hệ giai cấp, dân tộc và nhân loại trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Khánh Bật “Những bài học về môn học tư tưởng Hồ Chí
Minh” Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII”, Nxb.Sự thật Hà Nội,1991.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Cương lĩnh xây dựnh đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” Nxb.Sự thật Hà Nội 1991.
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII’’. Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội địa biểu toàn quốc lần
thư IX” Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, các tập,
1,9,10, 12.
8. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình triết học Mác -
Lênin”Nxb.Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999
9. C.Mác và Ph.ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993 – 1997, các tập 1,3,4,13,19,21,23,28.
10. V.I. Lênnin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1974 – 1981, các tập
1,33,39.
11. PGS,TS. Trần Phúc Thăng: “Giai cấp và đấu tranh giai cấp – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”. Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005
Câu hỏi xêmina
Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân
loại trong thời hiện đại hiện nay?
Sự khác biệt giữa quan điểm ngoài mácxít và quan điểm mácxít về giai
cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại?
Chuyên đề 6. LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC 1. Nguồn gốc của nhà nước.
Nguồn gốc của nhà nước là câu hỏi được đặt ra từ rất xa xưa, đã có
nhiều nhà triết học cố gắng tìm cách giải thích, nhưng do hạn chế về lịch sử
và thế giới quan, những giải thích này đều không đi vào bản chất xã hội của
quá trình hình thành nhà nước.
C.Mác và Ph.Ăngghen, với quan điểm duy vật lịch sử, là những người
đầu tiên chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc của nhà nước. Các
ông cho rằng nhà nước xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một
trình độ nhất định. Nhà nước không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận
động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn
tại của nó không còn nữa.
Trong nhiều tác phẩm của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản
khoa học đã khẳng định: Trong xã hội nguyên thuỷ chưa từng tồn tại nhà
nước. Thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém, xã hội chưa có sự phân hoá
giai cấp, tồn tại các tổ chức thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các tổ chức đó là các tộc
trưởng, tù trưởng do các thành viên thị tộc, bộ lạc bầu ra. Quyền lực của
người đứng đầu cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức, uy tín và
chức năng lãnh đạo.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, quản lý xã hội chưa mang tính
chính trị; người đứng đầu không phải là người cai trị, họ không có đặc quyền
đặc lợi, cá nhân. Họ thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của
nhân dân. Thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự
quản của nhân dân; mặc dù nhà nước chưa ra đời nhưng xã hội vẫn tồn tại
trong vòng trật tự.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu
và phân chia xã hội thành giai cấp, chế độ cộng sản nguyên thủy đã tan rã.
Ph.Ăngghen cho rằng, sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thuỷ dẫn tới sự
ra đời của nhà nước là do:
Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao
động đã giúp cho con người có thể sản xuất ra một lượng sản phẩm tiêu dùng
nhiều hơn so với yêu cầu tối thiểu đối với sự tồn tại của mình. Sự dư thừa
sản phẩm tương đối chính là cơ sở khách quan làm nảy sinh ở những người
có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc sự ham muốn chiếm đoạt làm của riêng và
họ đã sử dụng quyền lực trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây chính là
nguyên nhân thúc đẩy sự phân hoá xã hội. Một khi các giai cấp xuất hiện thì
mối quan hệ bình đẳng trước đây bị đảo lộn, sự đối kháng giai cấp xuất hiện
và ngày càng phát triển tăng lên. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã đưa tới một kết quả song trùng: chế độ sở hữu chung bị thay thế bởi
chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và sự xuất hiện chế độ người
bóc lột người.
Thứ hai, sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng và khát vọng muốn
chiếm đoạt nó đã làm nảy sinh ở giới có thẩm quyền thói hám của. Họ sử
dụng mọi quyền lực có trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây là nguyên
nhân thúc đẩy sự phân hoá xã hội. Giai cấp xuất hiện, quan hệ người áp bức
người thay thế quan hệ bình đẳng hợp tác tương trợ. Sự đối kháng giữa giai
cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc.
Thứ ba, chiến tranh ăn cướp giữa các bộ lạc, thị tộc cũng làm cho
quyền lực của thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cùng với sự ra
đời của chế độ phụ quyền, người trong một gia đình được thừa kế chức thủ
lĩnh quân sự làm cho họ ngày càng giàu có về của cải, địa vị thống trị của học
ngày càng được củng cố và mở rộng. Họ trở thành lực lượng đối lập với nhân
dân.
Thứ tư, cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ
của nó trong nhân dân. Từ chỗ làm công cụ của nhân dân, các tổ chức đó trở
thành cơ quan đối lập thống trị và áp bức nhân dân.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm xuất hiện giai cấp và cuộc
đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người:
chủ nô và nô lệ. Cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến nguy cơ là không những họ
tiêu diệt nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để điều đó không xảy ra, một cơ
quan đặc biệt ra đời - đó là nhà nước- một thiết chế có tiền thân từ những tổ
chức phi chính phủ trong xã hội thị tộc, bộ lạc, vốn có chức năng bảo vệ lợi
ích chung của cộng đồng, giờ đây đã biến thành công cụ bảo vệ lợi ích của
một giai cấp – giai cấp chủ nô.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà nước không phải
là cơ quan điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn
giai cấp sâu sắc, không thể điều hoà. Giai cấp bóc lột không thể duy trì địa vị
bóc lột nếu không dựa vào bộ máy bạo lực mà bộ phận chủ yếu của nó là đội
vũ trang đặc biệt dùng để trấn áp giai cấp bị bóc lột. Trong điều kiện đấu tranh
giai cấp đã trở nên gay gắt, chế độ nhân dân tự tổ chức thành lực lượng vũ
trang không còn thích hợp. Nó phải được thay thế bằng thiết chế nhà nước.
Chính vì vậy khi đề cập đến nguyên nhân chính của sự xuất hiện nhà nước,
V.I.Lênin nhận định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể diều hoà
được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được ”
2. Bản chất của nhà nước:
Vấn đề bản chất của nhà nước luôn là đề tài tranh luận gay gắt, “vì vấn
đề nhà nước là một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, có lẽ
là vấn đề mà các học giả, các nhà văn và các nhà triết học tư sản đã làm cho
rắc rối nhất”. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản thường đưa ra nhiều quan
điểm cố tình biện hộ cho sự thống trị của giai cấp bóc lột, xoá nhoà bản chất
giai cấp của nhà nước. Chỉ có học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp
luật mới giải thích được một cách đúng đắn và khoa học về bản chất của nhà
nước nói chung cũng như của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Nghiên cứu nguồn gốc và sự ra đời của nhà nước, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ “Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào
mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được
thì nhà nước xuất hiện”. Như vậy, nhà nước chỉ được sinh ra và tồn tại trong
xã hội có giai cấp và chính vì thế nhà nước luôn luôn có bản chất giai cấp sâu
sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng
chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất
để duy trì sự thống trị giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác đều thể hiện dưới ba loại quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực kinh
tế và quyền lực trong lĩnh vực tư tưởng, trong đó quyền lực kinh tế giữ vai trò
quyết định, là cơ sở để đảm bảo cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế
có ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả năng có thể bắt
những người bị bóc lột phải phụ thuộc vào mặt kinh tế. Nhưng bản thân
quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. Vì vậy, cần phải
có nhà nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, để củng cố quyền lực của giai
cấp thống trị về kinh tế và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột.
Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về
chính trị. Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để
trấn áp các giai cấp đối địch, vì thế nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước và thực hiện
quyền lực thống trị của giai cấp mình. Thông qua nhà nước, ý chí và hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất và
hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước. Bộ máy nhà nước và các công cụ của
nó có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân theo một “trật tự”do giai
cấp thống trị đặt ra, phải phục vụ cho lợi ích giai cấp thống trị. Như vậy, giai
cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên chính của giai cấp này đối với giai cấp
khác nhờ công cụ chủ yếu là nhà nước, bộ máy do chính giai cấp thống trị tổ
chức ra.
Các nhà nước bóc lột đều có bản chất chung là bộ máy để thực hiện
nền chuyên chính của giai cấp bóc lột: nhà nước chủ nô là công cụ chuyên
chính của giai cấp chủ nô; Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của
địa chủ phong kiến; Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư
sản. Các nhà nước này đều có đặc điểm chung là duy trì sự thống nhất về
chính trị, kinh tế và tư tưởng của một thiểu số người bóc lột để đàn áp và bóc
lột đa số nhân dân lao động. Trái lại, nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất
chuyên chính vô sản, là bộ máy để củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chiếm đa số trong xã hội, để
trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống đối
cách mạng và quan trọng hơn nó là bộ máy để tổ chức, xây dựng xã hội mới -
xã hội xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện sự chuyên chính giai cấp, các giai cấp bóc lột không thể
chỉ đơn thuần dựa vào bạo lực và cưỡng chế mà còn thống trị về cả mặt tư
tưởng. Giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để biến hệ tư tưởng thống trị
trong toàn xã hội, bắt các giai cấp khác phải lệ thuộc mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là bộ máy đặc biệt tách ra khỏi xã hội để thực hiện
quyền lực mang tính giai cấp và vì thế nhà nước là công cụ để thực hiện sự
thống trị giai cấp. Lênin nhấn mạnh: “Nhà nước là một bộ máy đặc biệt phục
vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng
có bản chất giai cấp sâu sắc như các kiểu nhà nước khác, nhưng với bản
chất là chuyên chính vô sản nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa,
mà theo Lênin, chỉ là “nửa nhà nước”. Chuyên chính của nhà nước vô sản chỉ
là nhằm tập hợp, tổ chức nhân dân lao động trấn áp sự phản kháng của các
giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ cũng như các phần tử chống đối nhà nước và
chế độ, và quan trọng hơn là xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của nhân dân lao động.
Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Tuy vậy,
với tư cách là một bộ máy thực thi quyền lực công cộng nhằm duy trì trật tự
và sự ổn định xã hội, nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội của nó. Trong
bất cứ xã hội nào bên cạnh việc chăm lo bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị
cầm quyền, nhà nước cũng buộc phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải
quyết những vấn đề mà đời sống cộng đồng xã hội đặt ra, chẳng hạn về giao
thông, thông tin liên lạc, đấu tranh chống tội phạm….
Tóm lại, nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong
xã hội có giai cấp, thực hiện chuyên chính giai cấp và các chức năng quản lý
đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, duy trì trật tự
trong xã hội và phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.
3. Chức năng của nhà nước.
Chức năng cơ bản của nhà nước được thể hiện thông qua những
phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước, phản ánh bản chất nhà nước
và nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức năng của
nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở kinh
tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. Các nhà nước bóc lột được xây
dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và bóc lột
nhân dân lao động, cho nên chúng có những chức năng cơ bản như bảo vệ
chế độ tư hữu, đàn áp sự phản kháng và phong trào cách mạng của nhân
dân lao động, tổ chức tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng ảnh hưởng
và nô dịch các dân tộc khác…
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, vì vậy chức
năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa khác với chức năng của các nhà nước
bóc lột cả về nội dung và phương pháp tổ chức thực hiện.
Có nhiều cách tiếp cận và xác định chức năng cơ bản của nhà nước.
Chẳng hạn căn cứ vào bản chất của nhà nước, với góc độ của khoa học triết
học và chủ nghĩa cộng sản khoa học,người ta xác định chức năng cơ bản của
các nhà nước của giai cấp tư sản là trấn áp giai cấp công nhân và nhân dân
lao động,phục vụ cho lợi ích của giai cấp bóc lột cầm quyền,trái lại, chức
năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa là trấn áp sự phản kháng của
thiểu số giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ và tổ chức xây dựng xã hội mới là chức
năng chủ yếu. Trong khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật, thông
thường, chức năng cơ bản của nhà nước được xác định căn cứ vào phạm vi
hoạt động của nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi của nhà nước, các chức năng được chia thành
chức năng đói nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong
nội bộ đất nước như;bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối
chế độ, bảo vệ và phát triển chế độ kinh tế, văn hoáv.v.
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với
các nhà nước và dân tộc khác như: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược
từ bên ngoài, thiết lập quan hệ với các quốc gia khác…
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau, việc
xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn phải xuắt phát từ
tình hình thực hiện các chức năng đối nội phục vụ cho việc thực hiện các
ghức năng đối nội. Ngược lại việc thực hiện tốt các chức năng đối nội tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chức năng đối ngoại.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng
nhiều hình thức, phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có ba hình thức
hoạt động chính là: xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật. Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng ba hình thức hoạt động này
cũng có những đặc điểm khác nhau. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi
nước, các phương pháp hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà
nước cũng rất đa dạng, nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là giáo
dục thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc lột, cưỡng chế được
sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện các chức năng của
nhà nước. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa, giáo dục thuyết
phục là phương pháp chủ yếu còn cưỡng chế được sử dụng kết hợp ở mức
độ nhất định và lấy giáo dục, thuyết phục làm nền tảng.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng, nên chức năng của các nhà nước
thuộc mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực
hiện các chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng. Vì vậy, ngoài việc
nghiên cứu bản chất, chức năng của nhà nước còn phải nghiên cứu kiểu nhà
nước và hình thức nhà nước.
4. Đặc trưng của nhà nước.
Khi so sánh nhà nước với cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực và quản
lý các công việc chung của thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thuỷ, cũng như
khi so sánh với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp cho thấy nhà nước
có những đặc trưng sau đây:
a. Nhà nước là bộ máy quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nếu các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ
huyết thống, thì nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa
bàn lãnh thổ nơi mà họ cư trú và được tổ chức thành các đơn vị hành chính.
Việc phân chia này đảm bảo cho hoạt động quản lý của nhà nước tập trung
thống nhất và chặt chẽ hơn. Đây là sự khác biệt quan trọng giữa nhà nước
với các tổ chức thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trước đó.
b. Nhà nước thiết lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước đã lập ra những cơ quan
hành chính và các lực lượng thuần tuý trấn áp như quân đội, cảnh sát vũ
trang, nhà tù…Những cơ quan cưỡng bức và cơ quan hành chính thực hiện
chức năng cai trị, buộc mọi người phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Khác với những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ thực hiện chức năng quản lý của mình bằng sức mạnh truyền
thống, đạo đức, uy tín, những người đại diện cho nhà nước thực hiện quyền
lực của mình bằng sức mạnh cưỡng bức của pháp luật. Nhà nước ban hành
pháp luật và sử dụng các thiết chế và công cụ bạo lực để ý chí của giai cấp
thống trị được thực thi trong thực tế.
Do đó, mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nước đều từ xã hội mà ra,
nhưng chúng ngày càng thoát ly khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân.
c. Nhà nước ban hành một hệ thống thuế khoá để tạo nguồn ngân sách nuôi bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước bao gồm đông đảo công chức viên và cả đội quân vũ
trang đông đảo - lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản xuất để thực
hiện chức năng quản lý nhà nước. Họ không thể tồn tại nếu không dựa vào
nguồn ngân sách có được bằng thu thuế.
Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách là đại biểu chính thức cuả
toàn xã hội để quản lý xã hội, do đó nhà nước cũng là tổ chức độc quyền thu
thuế.
5. Các kiểu nhà nước và hình thức nhà nước.
a. Các kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là một khái niệm trong lý luận chung về nhà nước, nhờ
nó ta có thể nhận thức được một cách cụ thể và lôgíc bản chất và những dấu
hiệu đặc trưng cũng như những tồn tại và phát triển của bất cứ nhà nước
nào. Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của nhà
nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của nhà
nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã
hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:
- Kiểu nhà nước chủ nô.
- Kiểu nhà nước phong kiến.
- Kiểu nhà nước tư sản.
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước chủ nô,phong kiến, tư sản có những đặc điểm riêng,
nhưng chúng có điểm chung đều là những kiểu nhà nước bóc lột được xây
dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều
là công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu vê tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị
của các giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với các kiểu
nhà nước bóc lột.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ
hơn là một tất yếu khách quan. Quy luật về sự thay thế các kiểu nhà nước
phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế - xã
hội. Nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô, nhà nước tư sản thay
thế nhà nước phong kiến, nhà nước xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nước tư
sản là một tất yếu khách quan và thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới tiến bộ nhất, nhưng
cũng là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong để nhường chỗ cho
một xã hội có hình thức tổ chức và quản lý cao hơn.
b. Hình thức nhà nước:
Hình thức nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan
trọng. Hình thức nhà nước là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực chính
trị của giai cấp thống trị. Như vậy, sự thống trị về chính trị phụ thuộc vào việc
giai cấp thống trị tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo hình thức
nào.
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và
những phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị.
Hình thức nhà nước là một khái niệm chung bao gồm ba yếu tố cụ thể: hình
thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị
- Hình thức chính thể
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ
quan tối cao của nhà nước và xác lập những mối quan hệ của các cơ quan
đó. Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính
thể cộng hoà.
Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà
nước tập trung toàn bộ (hay một phần) trong tay một người đứng đầu nhà
nước và được chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế, truyền ngôi.
Chính thể cộng hoà là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà
nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
Trong thực tế tổ chức hoạt động của các nhà nước trong lịch sử, cả hai
hình thức đó hiện nay đều có những biến dạng của mình. Chính thể quân chủ
được chia thành chính thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế.
Trong các nước tổ chức nhà nước theo chính thể quân chủ tuyệt đối người
đứng đầu nhà nước (vua, hoàng đế) một mình nắm giữ quyền lực tối cao của
nhà nước và có quyền lực vô hạn, còn trong các nhà nước quân chủ hạn chế
người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao, bên cạch đó
còn có một cơ quan quyền lực khác nữa (thí dụ: nghị viện trong các nhà nước
tư sản có chính thể quân chủ).
Chính thể cộng hoà cũng có hai hình thức biến dạng chính là cộng hoà
dân chủ và cộng hoà quý tộc. Trong các nước cộng hoà dân chủ, các tầng
lớp nhân dân lao động có quyền tham gia bầu cử để lập ra cơ quan quyền lực
tối cao của nhà nước. Nhưng đó chỉ là quy định về mặt hình thức. Trên thực
tế, các giai cấp thống trị của các nhà nước bóc lột thường đặt ra nhiều quy
định nhằm hạn chế hoặc vô hiệu hoá quyền này của nhân dân lao động.
Trong các nhà nước cộng hoà quý tộc, quyền đó chỉ là đặc quyền của các
tầng lớp quý tộc.
Trong mỗi giai cấp lịch sử cụ thể, do nhiều yếu tố khác nhau tác động,
các hình thức chính thể cũng có những đặc điểm khác biệt. Vì vậy, khi nghiên
cứu hình thức chính thể của một nhà nước nhất định, cần gắn nó với những
điều kiện lịch sử - cụ thể.
Nhà nước trong thời cổ đại là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đó là nhà
nước của giai cấp chủ nô. Ở những nước có chế độ chiếm hữu nô lệ phát
triển như Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhà nước chủ nô được tổ chức dưới nhiều
hình thức khác nhau. Trong thời kỳ đó, “… người ta đã phân biệt chính thể
quân chủ và chính thể cộng hoà, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ…
Mặc dù có khác nhau như thế, nhưng nhà nước, trong thời đại chế độ nô lệ,
dù là quân chủ hay cộng hoà quý tộc, hay cộng hoà dân chủ, đều là nhà nước
chủ nô”. Trong nhà nước chủ nô, tất cả các quyền đều thuộc về giai cấp chủ
nô, pháp luật nhà nước không coi nô lệ là người. Trong nhà nước cộng hoà
dân chủ chủ nô, pháp luật quy định tất cả mọi người đều tham gia bầu cử,
nhưng đó chỉ là quyền của chủ nô và một phần những người tự do. Trong nhà
nước quân chủ chủ nô, mọi quyền hành nằm trong tay vua - một hoàng đế đại
diện cho quyền lực của giai cấp chủ nô.
Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau. Phù hợp với tính chất phân tán về kinh tế của xã hội phong kiến, nhà
nước phong kiến phổ biến mang tính chất cát cứ. Mỗi chúa phong kiến là một
ông vua trên lãnh thổ của mình. Chúa phong kiến nhỏ là chư hầu của chúa
phong kiến lớn. Hoàng đế là chúa phong kiến lớn nhất, nhưng cũng chỉ có
thực quyền lãnh thổ của mình.
Trong chế độ phong kiến phân quyền nói trên, quyền lực nhà nước bị
chia thành những quyền lực độc lập địa phương phân tán. Trong nhà nước
phong kiến tập quyền, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, nhưng
nói chung, vẫn chưa thủ tiêu hoàn toàn các quyền địa phương độc lập. Trong
nhà nước chuyên chế phong kiến, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của
nhà vua và pháp luật.
Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là
chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc; đó là cơ quan để bảo vệ những
đặc quyền phong kiến. Cách mạng tư sản lật đổ nhà nước phong kiến, xác
lập sự thống trị của giai cấp tư sản, nhà nước tư sản ra đời.
Hình thức điển hình của nhà nước tư sản là chế độ cộng hoà đại nghị.
Tuy nhiên, giai cấp tư sản còn tổ chức nền thống trị của nó dưới một số hình
thức khác phản ánh tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong chủ
nghĩa tư bản. Ở một số quốc gia tư sản, nhà nước được tổ chức dưới hình
thức quân chủ lập hiến. Trong nhà nước đó, vua là người đứng đầu quốc gia
(trên danh nghĩa mà không có thực quyền). Nghị viện là cơ quan lập pháp và
nội các là cơ quan nắm mọi quyền hành.
Sự khác nhau về hình thức của nhà nước tư sản không làm thay đổi
bản chất của nó - đó là nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với các giai
cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Đề cập tới bản chất đó của nhà nước tư
sản, V.I.Lênin viết: “Những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức
khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà
nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”
Hình thức cấu trúc nhà nước.
Hình thức cấu trúc nhà nước là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức các đơn vị
hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan
nhà nước ở địa phương với cơ quan nhà nước ở Trung Ương.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn
nhất và nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là nhà nước thống nhất, có chủ quyền chung, trong
đó được phân chia thành các cấp hành chính, có hệ thống cơ quan quyền lực
và cơ quan quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương và cơ sở.
Chẳng hạn: Việt Nam, Lào, Pháp…là các nước có hình thức cấu trúc nhà
nước đơn nhất.
Nhà nước liên bang là nước có từ hai hay nhiều thành viên hợp lại. Nhà
nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính:
ngoài hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính cao nhất chung
cho toàn liên bang, trong mỗi nước thành viên cũng có hệ thống cơ quan
quyền lực và cơ quan hành chính cao nhất của mình; có chủ quyền quốc gia
chung của nhà nước liên bang đồng thời mỗi thành viên cũng có chủ quyền
riêng nhất định. Thí dụ: Mỹ, ấn Độ, Malaixia, Liên Xô(cũ), Tiệp Khắc (cũ)… có
hình thức cấu trúc liên bang.
c. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mỗi nước mà sự ra
đời cũng như việc tổ chức nhà nước kiểu mới với những hình thức khác
nhau, song bản chất của nó như Lênin chỉ rõ: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình
thức khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là
một tức là: chuyên chính vô sản”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước nào cũng là nền
chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị của giai
cấp công nhân có bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về chính trị
của giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu
số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức bóc lột nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp bóc lột. Trái lại, chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai cấp công
nhân nhằm mục đích xoá bỏ áp bức bóc lột, bảo vệ lợi ích của tất cả nhân
dân lao động, xây dựng một xã hội mới - xã hội không còn người bóc lột
người.
Sự xác lập chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
cộng sản là cần thiết vì thời kỳ này còn tồn tại các giai cấp khác nhau.
Chuyên chính vô sản vì vậy không chỉ là trấn áp bằng bạo lực đối với giai cấp
bóc lột, mà còn là một tổ chức thông qua đó Đảng của giai cấp công nhân
thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà nước đó không giữ được
bản chất giai cấp công nhân của mình. Vì vậy, đảm bảo vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản đối với nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô
sản. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước không chỉ là yếu tố đảm bảo
bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, mà còn là điều kiện để giữ vững
tính nhân dân, tính chất dân chủ rộng rãi của nhà nước đó. Bản chất giai cấp
công nhân và bản chất dân chủ là hai mặt thống nhất của nhà nước xã hội
chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước đặc biệt, nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà
nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế xã hội của sự xuất hiện
và tồn tại nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn tồn tại. Sự mất đi của
nhà nước xã hội chủ nghĩa không giải phóng bằng con đường “xoá bỏ” mà
bằng con đường “tự tiêu vong” và muốn cho nó nhanh chóng đi đến chỗ tiêu
vọng phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện nó. Sự tiêu vong của nhà
nước xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài.
II. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền tư sản
a. Sự hình thành và phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền
Các tư tưởng đầu tiên về nhà nước pháp quyền của nhân loại và ra
đời từ thời cổ đại. Ngay từ các thế kỷ thứ IX - VI tr. CN, các nhà tư tưởng Hy
Lạp và La Mã đã tìm kiếm những nguyên tắc, những hình thức, những cơ chế
trong mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật với tổ chức và hoạt động của
quyền lực nhà nước. Trong đó, cần chú ý đến bốn nhà tư tưởng cổ đại Hy
Lạp sau đây:
Xôcrát (469 - 399 tr. CN): Ông là một trong những nhân vật nổi tiếng
nhất của lịch sử tinh thần nhân loại, là người ủng hộ triệt để về nguyên tắc
tuân thủ pháp luật. Ông cho rằng, công lý ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện
hành: sự công minh và sự hợp pháp đều là một. Nếu không tuân thủ pháp
luật thì cũng không thể có nhà nước và trật tự pháp luật. Công dân nhà nước
nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh.
Platôn (427 – 347 tr. CN): Ông là học trò của Xôcrát, một trong những
nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời đại cổ đại, tác giả của nhiều công trình khoa
học có giá trị (như nhà nước, pháp luật, nhà chính trị…): Ông để lại nhiều tư
tưởng về nhà nước pháp quyền có giá trị như: hoạt động xét xử là để bảo vệ
pháp luật, nhà nước sẽ ngừng tồn tại nếu như trong nhà nước ấy toà án
không được tổ chức một cách thoả đáng. Đặc biệt là luận điểm: “Ta nhìn thấy
sự diệt vọng của cái nhà nước mà trong đó luật pháp không có sức mạnh và
ở dưới quyền lực của ai đấy”.
Arixtốt (384 – 322 tr. CN): C.Mác đã đánh giá ông là “Nhà tư tưởng vĩ
đại nhất của thời đại cổ đại”, đã tiếp tục phát triển và làm sâu sắc hơn các
quan điểm chính trị pháp lý của Platôn. Theo Arixtốt, yếu tố cấu thành cơ bản
của phẩm chất chính trị trong các đạo luật là sự phối hợp của tính đúng đắn
về chính trị của nó với tính quyền pháp.
Xirêrôn (106 – 43 tr.CN): Ông đã đưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ về nhà
nước pháp quyền như: người điều hành các công việc nhà nước cần phải
sáng suốt, công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lý
cơ bản của pháp luật mà nếu như thiếu các kiến thức đó thì không ai có thể
công minh được, các đạo luật do con người quy định phải phù hợp với tính
công minh và quyền tự nhiên, vì sự phù hợp hay không ấy là tiêu chuẩn để
đánh giá tính công minh (hay không) của chúng… Và đặc biệt Xirêrôn đưa ra
nguyên tắc: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật.
Tất cả các tư tưởng đề cao pháp luật trong mối quan hệ với quyền lực
nhà nước lúc bấy giờ đều có nguồn gốc sâu xa từ mơ ước của con người về
sự chiến thắng của công lý đối với bạo lực, của chính nghĩa đối với gian tà,
của cái thiện đối với cái ác và từ một thực tế trong đời sống nhà nước và xã
hội là vua có toàn quyền. Vua là con trời, thể theo lòng trời mà làm vua,
không chịu trách nhiệm pháp lý ở trước ai cả.
Sau thắng lợi của cách mạng tư sản thì các tư tưởng về nhà nước
pháp quyền mới được tiếp tục phát triển và dần dần hình thành một cách rõ
ràng và thành hệ thống trong các học thuyết chính trị pháp lý. Có thể nêu một
số tư tưởng về nhà nước pháp quyền của một số nhà lý luận nổi tiếng trong
thời kỳ này.
Giôn lốc - cơ (1632-1704); các tư tưởng về nhà nước pháp quyền của
Lốc cơ được trình bày trong tác phẩm “Hai bài giảng lãnh đạo về nhà nước”
(1690). Theo ông, các quyền của con người (bao gồm quyền tự do, bình
đẳng, và sở hữu) là tự nhiên và không bị cướp đoạt; nhà nước được lập nên
là để bảo vệ các quyền của con người, bảo vệ pháp luật. Ông lập luận về sự
cần thiết phải đề cao pháp luật. Ông cho rằng ở đâu không có pháp luật thì ở
đó cũng không có tự do, vì pháp luật là công cụ cơ bản quyết định việc giữ
gìn và mở rộng tự do cá nhân, đồng thời bảo đảm cho cá nhân tránh khỏi sự
tuỳ tiện và độc đoán của người khác.
Lốc - Cơ cho rằng, mối nguy hiểm chính của sự tuỳ tiện và xâm phạm
từ phía quyền lực nhà nước đối với các quyền tự do của con người là bắt
nguồn từ đặc quyền của người cầm quyền. Ông cho rằng, việc điều hành nhà
nước phải dựa trên các đạo luật do nhân dân tuyên bố và hiểu rõ về nó. Chủ
quyền của nhân dân cao hơn, quan trọng hơn chủ quyền của nhà nước do họ
thành lập. Và do đó, nhà cầm quyền không được thi hành chính sách chuyên
chế và độc tài đối với nhân dân của mình. Các quan điểm tiến bộ của Giôn lốc
- Cơ về sau được kế thừa và phát triển.
- SácLơ Lui MôngTéckiơ (1689 - 1755), một trong những đại diện xuất
sắc của trào lưu giáo dục thế kỷ XVIII ở Pháp, tác giả của cuốn sách nổi tiếng
“Tinh thần pháp luật” (1748). Ông cho rằng, sự tồn tại của chế độ chuyên chế
dựa vào việc làm cho con người khiếp sợ. Đó chính là nhà nước của sự độc
đoán và tuỳ tiện. Bởi vì, trong nhà nước đó, không có pháp luật; hoặc nếu có
pháp luật thì không được tuân thủ trong thực tế bởi không có những quy định
bảo vệ pháp luật.
MôngTéckiơ lập luận về sự cần thiết phải có pháp luật và tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật, về sự cần thiết phải phân chia quyền lực nhà nước
thành ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp bắt nguồn từ lợi ích chung
của toàn xã hội và nhân dân, từ việc bảo đảm cho công dân tránh khỏi tình
trạng vô pháp luật cũng như sự tuỳ tiện và lạm quyền từ phía các quan chức
của bộ máy nhà nước. Ông đã viết rằng: “nếu như quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp nằm trong tay một người hay một cơ quan (như nằm trong
tay vua) thì con người sẽ không có tự do. Còn nếu như quyền tư pháp hợp
nhất với quyền hành pháp thì toà án sẽ trở thành kẻ đàn áp và tất cả sẽ bị
huỷ diệt”.
Như vậy, nhân tố hợp lý trong học thuyết của MôngTéckiơ là ở chỗ ông
đã đề ra lý thuyết về sự phân công quyền lực nhà nước bắt nguồn từ bản
chất dân chủ và nhân đạo. Vì vậy, sự phân công, phân nhiệm trong tổ chức
quyền lực nhà nước không chỉ là một học thuyết mà còn là một nguyên tắc cơ
bản được thừa nhận chung trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
- ImanuienCantơ (1724-1804), nhà triết học nổi tiếng người Đức. Dựa
trên hệ thống triết học của mình, Cantơ cho rằng, lý trí thực tế hay ý chí tự do
của mỗi người, đó chính là nguồn gốc của các đạo luật có tính pháp quyền và
hợp đạo đức, pháp luật là để bảo đảm các quan hệ văn minh giữa con người.
Nhà nước đó là sự hợp nhất của nhiều người biết phục tùng các đạo luật có
tính pháp quyền nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và được xây dựng trên nguyên
tắc toàn bộ hoạt động của mình phải dựa trên pháp luật, nếu không nó sẽ bị
mất sự tín nhiệm của các công dân - những người cấu thành nó.
Dựa vào các quy định pháp luật có hay không việc phân công quyền
lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp), mà ông chia ra nhà nước pháp
quyền hay nhà nước độc tài. Bởi vì theo ông, chỉ có sự phân công và phối
hợp điều hoà giữa ba quyền mới có khả năng ngăn ngừa được chuyên chế
độc tài. Chủ quyền của nhân dân chỉ có thể được thực hiện trên thực tế thông
qua sự phân công quyền lực nhà nước. Có như vậy tất cả công dân mới bình
đẳng trước pháp luật trong nhà nước.
- G.V.P.Hêghen (1770 - 1831): Nhà triết học, nhà tư tưởng Đức. Trong
số các công trình khoa học của Hêghen tác phẩm “triết học pháp quyền”
(1821) là nổi tiếng nhất. Trong tác phẩm này Hêghen đã lập luận rằng, cấu
trúc của nhà nước pháp quyền với các yếu tố xã hội công dân, trật tự pháp
luật và các đạo luật mang tính pháp quyền tạo thành. Đối lập với nhà nước
pháp quyền là cấu trúc của nhà nước cực quyền với các yếu tố xã hội khép
kín, bộ máy nhà nước quan liêu và hệ thống pháp luật mang tính mệnh lệnh,
tuỳ tiện, duy ý chí tạo thành.
Cùng với các nhà lý luận nói trên, nhiều nhà luật học, chính trị học trong
thời kỳ này đã góp phần phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền
như Tômát jepphẽcxơn (1743-1826), người đại diện cho những người sản
xuất nhỏ và là tác giả bản “Tuyên ngôn độc lập Mỹ” năm 1776 Tô mát pên
(1737-1809) Jôn Ađam (1735- 1826) JemMeddison (1752-1836)...
Từ việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của các tư tưởng về
nhà nước pháp quyền và một số quan điểm hiện nay đã nói ở phần trên, có
thể khái quát một số đấu hiệu đặc trưng thuộc nội hàm của khái niện nhà
nước pháp quyền sau đây:
Một là, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó hiến pháp và
các đạo luật phải giữ địa vị tối cao. Pháp luật đó phải có chất lượng tốt, nghĩa
là phải thể hiện đúng đắn quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, phù hợp
với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội … Pháp luật đó phải dược
nhà nước và nhân viên các cơ quan nhà nước và mọi người trong xã hội tôn
trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.
Hai là, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà quyền lực nhà nước
được tổ chức theo nguyên tắc phân công rành mạch trong công việc thự hiện
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để thực hiện chức năng kiểm tra,
giám sát hoạt động quyền lực nhằm hạn chế sự lạm quyền, xâm hại tới lợi ích
hợp pháp của công dân từ phía nhà nước.
Ba là, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó con người là giá
trị cao quý và là mục tiêu cao nhất. Do đó, nhà nước bảo đảm cho công dân
sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản và bảo hộ cho họ
khi các quyền tự do cơ bản đó bị vi phạm.
b. Nhà nước pháp quyền tư sản
Nhà nước pháp quyền tư sản được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau như chế độ cộng hoà, chế độ cộng hoà đại nghị, chế độ tổng thống. Các
hình thức nhà nước đó còn khác nhau về chế độ bầu xử, chế độ một hay hai
viện, về nhiệm kỳ tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và
nội các … Nhưng thực chất nó là sự thống trị của giai cấp tư sản, song cơ
quan tuyên truyền tìm mọi cách làm cho người ta tin rằng chế độ cộng hoà
dân chủ tư sản là hình thức nhà nước “dân chủ, “tự do”, là nhà nước lý
tưởng. Ngày nay nhà nước tư sản thường có vẻ bề ngoài như là một cơ cấu
cho phép nhân dân tỏ rõ ý chí của mình một cách định kỳ, nhưng những hình
thức và thể chế dân chủ đó không hoàn toàn làm thay đổi bản chất của nhà
nước tư sản như Lênin đã chỉ ra trên đây. Không những thế, chế độ cộng hoà
dân chủ còn là một hình thức hoàn bị nhất của nền chuyên chính tư sản. Nhà
nước tư sản tuyên bố quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân,
nhưng trong thực tế đó chỉ là quyền bình đẳng tư sản, đảm bảo những lợi ích
của giai cấp tư sản. Do đó, Lênin viết: “Pháp luật bảo vệ mọi người như nhau;
nó bảo vệ tài sản của những người có của chống lại sự xâm phạm của cái
khối lớn những người không có của, không có gì cả ngoài hai cánh tay, và
dần dần bị bần cùng hoá, bị phá sản và biến thành vô sản”. Trong chủ nghĩa
tư bản, quan hệ bóc lột của tư sản đối với công nhân được che đậy bằng sự
bình đẳng có tính chất hình thức. Nó cho phép bọn tư bản tha hồ bóc lột sức
lao động của công nhân và cũng “cho phép”người công nhân tự do bán sức
lao động cho tư bản.
Nền dân chủ tư sản là nền dân chủ thiểu số của bọn bóc lột. Nhà nước
cộng hoà dân chủ tư sản “dân chủ” ở chỗ nó cho phép giai cấp tư sản quản lý
các công việc nhà nước. Song, bản chất chủ yếu của dân chủ tư sản là “sự
chuyên chính không hạn chế ”đối với những người lao động. Ngày nay, mặc
dù trong luật bầu cử hầu hết các nước tư bản phát triển đều thừa nhận quyền
của người lao động được ứng cử vào các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng,
một là, trong một số trường hợp, luật đó cũng đưa ra những điều kiện mà
người lao động khó vượt qua; hai là, trong những cuộc bầu cử, giai cấp tư
sản nắm trong tay mình bộ máy tuyên truyền đồ sộ, chi những khoản tiền
khổng lồ để cổ động cho người của mình.
Phân tích thực chất cuả nền dân chủ tư sản, Lênin khẳng định trong
nhà nước tư sản dân chủ nhất, quần chúng bị áp bức đều luôn luôn vấp phải
cái mâu thuẫn hiển nhiên giữa quyền bình đẳng hình thức do “chế độ dân
chủ” của bọn tư sản ban bố với hàng nghìn sự hạn chế và mánh khoé dối trá
thực sự, đang biến những người vô sản thành nô lệ làm thuê.
Kẻ nắm thực quyền trong nhà nước tư sản hiện đại là các tập đoàn tư
sản lớn. Chúng có thể phát huy quyền lực vô hạn của tài sản bằng cách mua
chuộc các viên chức nhà nước, bằng sự liên minh giữa chính phủ và sở giao
dịch. Chính vì vậy, Lênin đã chỉ rõ: “Quyền lực vô hạn của “sự giàu có” trong
chế độ cộng hoà dân chủ sở dĩ trở thành chắc chắn hơn, là vì nó không lệ
thuộc vào một số thiếu sót của cơ cấu chính trị, vào cái vỏ chính trị xấu của
chủ nghĩa tư bản”.
Trong những trường hợp nhất định, khi lợi ích tư sản đòi hỏi, giai cấp tư
sản sẵn sàng thu hẹp quyền tự do dân chủ, thậm chí sẵn sàng từ bỏ “hình
thức chính trị tốt nhất của chủ nghĩa tư bản”- tức là cái vỏ dân chủ, để lộ
nguyên hình là một nền chuyên chính công khai dưới hình thức độc tài phát
xít – một hình thức biểu hiện của chuyên chính tư sản.
Nhà nước phát xít khác với nhà nước “dân chủ” tư sản ở chỗ, nó là nền
chuyên chính công khai của giai cấp tư sản đối với nhân dân. Trong nhà
nước đó, mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân giành được qua đấu tranh
đều bị tước bỏ, chủ nghĩa sô vanh dân tộc được truyền bá một cách công
khai.
Việc phân tích khách quan, khoa học mặt hạn chế trên đây của dân chủ
trong chủ nghĩa tư bản không đối lập với quan điểm cho rằng lịch sử phát
triển xã hội loài người từ khi có giai cấp là lịch sử không ngừng vươn lên để
đạt tới nền dân chủ ngày càng cao. Trước khi có nền dân chủ vô sản, dân
chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản là đỉnh cao trong sự tiến hoá dân chủ, ở
đó kết tinh những giá trị dân chủ được sáng tạo ra trong thời kỳ trước khi giai
cấp công nhân cầm quyền. Phần lớn những chuẩn mực dân chủ đạt được
trong chủ nghĩa tư bản là thành quả đấu tranh của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động. Do vậy, trong khi kiên trì quan điểm đúng đắn về bản chất
giai cấp của nhà nước, khẳng định bản chất tư sản của nhà nước và nền dân
chủ trong chủ nghĩa tư bản, cũng cần thấy những nhân tố mang tính nhân
loại, mang tính nhân dân chứa đựng trong một số chuẩn mực dân chủ đang
thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy không phủ nhận quyền lực to lớn
của đồng tiền, nhưng cũng không thể vì thế mà phủ nhận một số yếu tố công
bằng, bình đẳng đã được thực hiện trong chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của
các giá trị đó là những nhân tố nội tại dẫn tới phủ định chủ nghĩa tư bản. Nền
dân chủ vô sản với tư cách là một nền dân chủ cao về chất so với dân chủ tư
sản cũng chỉ ra đời khi biết kế thừa, phát triển toàn bộ những giá trị dân chủ
đạt được trong chủ nghĩa tư bản.
Mặt khác, ngay ở nước tư bản phát triển trong thời đại hiện nay cũng
đang chồng chất biết bao bất công, ở đó không ít những yêu cầu dân chủ sơ
đẳng vẫn bị chà đạp. Vì vậy, chỉ có thể đạt được một nhà nước thực sự dân
chủ của nhân dân, khi xoá bỏ nhà nước tư sản để xác lập nhà nước xã hội
chủ nghĩa.
Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước cộng hoà dân chủ
được đặc trưng bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân lao động vào việc
thành lập các cơ quan đại diện của mình trên nguyên tắc bầu cử trực tiếp,
phổ thông, bình đẳng, và bỏ phiếu kín.
2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a. Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Tư tưởng về một nhà nước kiểu mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là rất đồ
sộ và phong phú. Dựa trên kết quả nghiên cứu của nhiều công trình khoa học,
có thể nêu khái quát một số nội dung cơ bản sau đây:
- Đứng vững trên lập trường dân chủ, dân tộc, yêu nước, kết hợp với tư
tưởng của thời đại “nhân dân nắm quyền tự quyết”, lý tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái, Nguyễn ái Quốc đã phê phán, tố cáo, buộc tội đối với chế độ thực dân
nói chung và bộ máy thống trị, quan lại, nhân viên chính quyền thuộc địa nói
riêng. Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Nguyễn ái Quốc trong ý
tưởng và trên thực tế đã từng bước hình dung được mô hình bộ máy nhà
nước tương lai.
- Với tác phẩm “Đường Cách mệnh” (xuất bản năm 1927), tập hợp bài
giảng do chính Người trình bày tại các lớp huấn luyện các thế hệ thanh niên
cách mạng đầu tiên, Nguyễn ái Quốc đã đề cập một cách trực tiếp những vấn
đề lý luận cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm này, Nguyễn ái Quốc đã trình
bày một cách hệ thống đặc trưng, tính chất, những bài học có thể rút ra từ các
cuộc cách mạng tiêu biểu của thế giới lúc bấy giờ, từ Cách mạng Mỹ, Cách
mạng Pháp đến Cách mạng Nga. Từ sự so sánh các cuộc cách mạng (tư
bản, dân tộc, giai cấp) Nguyễn ái Quốc đi đến kết luận: “Chúng ta đã hy sinh
làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm xong cách mạng rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế
mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới được hạnh phúc”.
Ba năm sau, với trách nhiệm được Đệ tam Quốc tế phân công chủ trì
việc hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam, Nguyễn ái Quốc, trong chính
cương vắn tắt, chính thức cho ra đời khái niệm “Chính phủ công nông binh”.
Và việc xây dựng một chính phủ như vậy trở thành nội dung quan trọng của
chính cương vắn tắt của Đảng cộng sản vừa được thành lập.
- Tư tưởng về chính thể công nông binh tiếp tục được đề cập ở Nghị
quyết Trung ương lần thứ tám (5- 1941) và qua thư gửi đồng bào toàn quốc
(10-1944) của Hồ Chí Minh. Sau khi phân tích tình hình và nhiệm vụ cấp bách
của cách mạng, Người nhấn mạnh: “chúng ta trước phaỉ có một cái cơ cấu
đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hoạt động nhất trí của toàn thể quốc
dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phaỉ do một cuộc toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất
cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra.
Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tính, trong thì lãnh đạo
công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”. Như
vậy, từ chính phủ công, nông, binh chuyển sang thành lập chính phủ nhân
dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một bước chuyển đổi mang
tính cách mạng trong tư tưởng của Nguyễn ái Quốc về nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn lần lượt ra đời hai văn kiện: Tuyên ngôn độc
lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp 1946, thể hiện tập trung tư tưởng
của Chủ tịnh Hồ Chí Minh về một nhà nước độc lập, tự chủ, dân chủ, cộng
hoà, chủ quyền quốc gia dân tộc, một nhà nước thực sự của dân, do dân và
vì dân.
- Tư tưởng về nhà nước pháp quyền với việc đề cao vai trò của pháp
luật cũng được hình thành rất sớm trong tư duy của Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí
Minh. Trong “Yêu sách của nhân dân An Nam”(1922), yêu sách thứ bảy,
Người viết: “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”, và yêu
sách này đã được diễn ca trong Việt Nam yêu cầu ca rằng:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
Yêu sách nói trên thể hiện sự am hiểu pháp luật sâu sắc của Người.
Yêu sách đó không những khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật mà
còn chỉ ra rằng pháp luật đó phải là pháp luật của một chế độ dân chủ, thể
hiện ý chí của đa số nhân dân do một cơ quan đại diện được cử tri bầu ra
thay mặt mình ban hành dưới hình thức văn bản luật, đồng thời, phải có ý
thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Mặc dù trước khi có chính quyền nhà
nước kiểu mới, ở nước ta không có truyền thống lập hiến, nhưng thể hiện
nhất quán quan điểm của mình, ngay sau khi đọc “Tuyên ngôn độc lập” (2-9-
1945), tại phiên họp đầu tiên của chính phủ cách mạng lâm thời (3-9-1945),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ sớm ban hành Hiến pháp và xem đó
là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của chính quyền nhà nước non trẻ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến yêu cầu cơ bản của chế độ pháp
quyền, tôn trọng tuân thủ pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mục A, chương II
của Hiến pháp 1946 dành 2 điều quy định nghĩa vụ của công dân, thì nghĩa vụ
tôn trọng hiến pháp, tuân theo pháp luật được đặt ngay sau nghĩa vụ bảo vệ
Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi ra đời, trong cương lĩnh của
mình, đã khẳng định phải có pháp luật để bảo vệ lợi ích của dân cày.
- Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà nước kiểu mới ra đời,
mặc dù đất nước phải trải qua hai cuộc chiến tranh (chống thưc dân Pháp và
đế quốc Mỹ)nhưng trong các nghị quyết của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng
xây dựng chính quyền nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Từ khi tiến hành đổi mới, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự
quản lý của nhà nước ra đời, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc cải cách bộ máy
nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện
mới. Đặc biệt, tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994) Đảng ta
đã khẳng định phương hướng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Phương
hướng đó được cụ thể hoá một bước tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ tám (khóa VII) đầu năm 1995. Tại nội này, năm quan điểm để tiến
hành cải cách bộ máy nhà nứơc theo định hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền được xác định. Tiếp đến, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Đảng ta đã xác định nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, tiếp tục cải
cách bộ máy nhà nước là một trong 10 định hướng cơ bản để phát triển đất
nước đến năm 2000 và những năm tiếp theo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã cụ thể hoá một bước: “Phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh”.
Tóm lại, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân
và vì dân ở Việt Nam và coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật –phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước.
b. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
Xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta, cần chú ý đến vai trò chức năng
mới của Nhà nước, trên cơ sở nhận thức lại đặc trưng và thuộc tính xã hội
của Nhà nước. Từ kinh nghiệm lịch sử như đã nói ở trên có thể thấy
rằng,không có “thiên vị”cho một đặc trưng nào trong hai phạm vi kinh tế và xã
hội khi nói về vai trò và chức năng của Nhà nước.
Chính vì vậy mà Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng từng bước một
Nhà nước pháp quyền như là con đường cơ bản để khẳng định thiên chức
của Nhà nước của dân. Nói chuyện với các nhà nghiên cứu khoa học và xã
hội nhân văn nước ta, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nêu rõ nhiệm vụ “xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội văn minh.”
Ở các phần trên, khi phân tích kinh nghiệm lịch sử, ta thấy rõ rằng, tư
tưởng về nhà nước pháp quyền có nội dung cơ bản là phản ánh mối quan hệ
giữa quyền lực và pháp luật. Nói cách khác, quyền lực chính trị sử dụng pháp
luật, quan niệm về pháp luật như thế nào.
Những quan niệm về quyền lực và mối quan hệ của nó với pháp luật,
tuy là hạt nhân của học thuyết này, nhưng chưa đủ để trở thành học thuyết
Nhà nước pháp quyền. Chỉ khi nào nhà nước được quan niệm như một tổ
chức pháp lý nhằm thực hiện công quyền thì khi đó tư tưởng nhà nước pháp
quyền mới được coi là một học thuyết hoàn chỉnh. Như vậy, xây dựng nhà
nước pháp quyền đòi hỏi:
Thứ nhất, đó là sự hiện diện một tổ chức công quyền và việc dựa trên
nền tảng pháp luật để duy trì công quyền. Điều đó có nghĩa là nhà nước, các
thiết chế của nó phải là những thiết chế được xác định rõ ràng về mặt pháp
luật, tránh tuỳ tiện và lạm quyền. Tính pháp lý của tổ chức nhà nước không
chỉ đặc trưng và yêu cầu cuả các quan hệ tổ chức theo chiều ngang, mà cả
những quan hệ được tổ chức theo dọc, trên và dưới.
Từ đó, đặt ra vấn đề kiểm tra việc tuân thủ thẩm quyền đã được luật
định (tuân thủ Hiến pháp và pháp luật), về phân quyền nhằm kiểm tra và hạn
chế sự lạm quyền, về mối quan hệ giữa quyền lực Trung ương và sự tự quản
ở địa phương, về mối quan hệ giữa quyền lực công khai (công quyền) với cá
nhân công dân.
Thứ hai, pháp luật được công quyền thừa nhận sử dụng như một
phương thức cai trị và quản lý có giá trị phổ biến chung và có hiệu lực bắt
buộc.
Để đạt được yêu cầu này, phải tạo ra được một cơ chế bảo đảm tính
khách quan của pháp luật. Đến lượt mình tính chất khách quan và phổ biến
do chỉ có thể có được trong điều kiện các thiết chế quyền lực tổ chức trên cơ
sở pháp lý.
Rõ ràng là hai yêu cầu, hai đặc trưng chủ yếu này quyện vào nhau, bổ
sung cho nhau, tuy hai nhưng đều nằm trong một cơ chế thống nhất về nhà
nước pháp quyền.
Hiến pháp nước ta đã khẳng định bản chất nhà nước của nhân dân và
nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật, các tổ chức và thiết chế đều phải
hoạt động trên cơ sở pháp luật. Đó là nguyên tắc cô đọng của hai yêu cầu cơ
bản về nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền, như vậy, có tiền đề từ trong chế độ kinh tế và
quan hệ sở hữu mới. Chức năng cơ bản của nhà nước là bảo vệ con người,
điều tiết kinh tế vì lợi ích của cá nhân con người và của cộng đồng, duy trì trật
tự vì lợi ích của con người.
Sự đa dạng vì lợi ích kinh tế tự nó đòi hỏi phải có sự bình đẳng và công
bằng. Thị trường đòi hỏi những cơ chế tự điều chỉnh từ phía các công cụ
chính trị để thích nghi với nó. Sự điều chỉnh từ phía nhà nước chỉ có thể là sự
tự điều chỉnh của nó cho phù hợp với lợi ích kinh tế và xã hội của các thành
viên xã hội. Những yếu tố này tạo nên sự thống nhất của thị trường, làm
phong phú giao lưu kinh tế quốc tế. Vai trò điều chỉnh này của nhà nước là
thông qua các đòn bẩy pháp luật, chẳng hạn như sự cần thiết phải có luật về
chống độc quyền, luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ người sản xuất, nhà
kinh doanh và bảo vệ người tiêu dùng, luật về các cấp lisence đối với hoạt
động xuất, nhập khẩu…
Để đảm bảo công bằng tất nhiên, ngoài pháp luật, bản thân nhà nước
và hệ thống chính trị của xã hội phải hết sức năng động và mềm dẻo, có khả
năng tự điều chỉnh lớn. Chính vì vậy, trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện
nay, vai trò của các phong trào quần chúng, của các tổ chức phi chính phủ và
nói chung là của “quyền lực thứ tư” – dư luận xã hội – rất được đề cao và
ngày càng phát huy tác dụng.
Tính đa dạng của các quan hệ xã hội ngày nay và trong tương lai nằm
trong chiều sâu của quá trình phát triển các quan hệ kinh tế,dân tộc, tôn giáo
và các quan hệ khác. Theo logic của sự vật, các quan hệ ấy càng phức tạp
bao nhiêu thì khả năng quan hệ qua lại càng lớn và vì vậy, nhu cầu có những
cơ chế phối hợp, điều hoà càng lớn.
Như vậy, pháp luật của quá trình đổi mới xã hội ở Việt Nam hiện nay
phải là đại lượng có khả năng điều chỉnh và trật tự hoá các quan hệ xã hội.
Pháp luật gắn liền với vai trò mới của nhà nước, không tách rời chính trị.
Nhưng pháp luật không chỉ đóng vai trò “phục vụ” mà là ở chỗ nó làm đại
lượng cho những chính sách đúng đắn của Nhà nước. Chính trị và quản lý
mà xuất phát từ nhân dân, bảo đảm dân chủ, có nội dung nhân đạo cao cả,
thì nó sẽ cần đến pháp luật, và khi đó, pháp luật sẽ là công cụ hữu hiệu của
chính trị và quản lý.
Trong lĩnh vực phân phối sản phẩm xã hội đại lượng công bằng- pháp
luật- là thể hiện sự tương xứng cần thiết giữa một bên là các hành vi của
công dân, sự đóng góp bằng công sức và lao động của họ cho xã hội và một
bên là phản ứng của xã hội, thái độ “đối xử” lại của xã hội.
Trong lĩnh vực thuộc về chức năng cưỡng chế của Nhà nước, sự công
bằng cũng phải được thể hiện bằng sự tương xứng giữa mức độ vi phạm và
mức độ của trách nhiệm pháp lý, của hình phạt.
Trong lĩnh vực hoạt động quản lý sự công bằng phải được thể hiện ở
việc xác lập phạm vi tối thiểu nhất của quyền lực với việc xác định đầy đủ các
bảo đảm cho người bị quản lý để phòng và chống những trường hợp hà lạm,
ức hiếp. Chính là từ nhu cầu này mà Nhà nước Việt Nam đang tích cực xúc
tiến việc thành lập hệ thống các toà án hành chính, hệ thống các toà án kinh
tế, đổi mới hệ thống tư pháp nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, pháp luật mà xã hội Việt Nam cần đến hoàn toàn phù
hợp với truyền thống Việt Nam, văn hoá Việt Nam. Đây là cơ sở cho việc
khẳng định khẳ năng xây dựng một Nhà nước pháp quyền, khả năng chấp
nhận và phổ biến những giá trị pháp luật.
Lòng nhân ái, sự công bằng là yếu tố cốt lõi của văn hoá truyền thống
Việt Nam. Đó là “tình làng, nghĩa xóm”, là “thương người như thể thương
thân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng “nhân dân Việt Nam từ lâu sống với
nhau đã có tình, có nghĩa và tình nghĩa ấy ngày càng sâu đậm” Văn hoá của
một dân tộc như vậy phải được thể hiện như một trình độ văn minh, trong đó,
con người được tôn trọng, kỷ cương được bảo đảm, từng cá nhân và cả cộng
đồng biết xây dựng cho mình một lối sống lành mạnh, dân chủ, công bằng.
Một vấn đề được đặt ra là: khi nói đến pháp luật có ý nghĩa điều chỉnh
đối với các quan hệ xã hội thì trong điều kiện nhiều thành phần và lợi ích kinh
tế, nhiều nhóm xã hội, làm thế nào để xác định tính pháp lý ( tức là sự công
bằng) như vừa nói ở trên?
Trả lời được câu hỏi đó là xác định rõ cơ sở pháp luật làm nền tảng
cho một Nhà nước của nhân dân trong điều kiện duy trì nền kinh tế thị trường.
Thực tế, đối với một nhóm xã hội này, pháp luật có thể được coi là rất
công bằng, trong khi những nhom xã hội khác có thể không cho như vậy. Vì
thế dường như là không thể có một tiêu chí chung cho việc xác định tính pháp
lý của luật.
Tính công bằng của pháp luật suy cho cùng là do thái độ của người dân
quyết định. Tất nhiên, thái độ đó, đến lượt nó, lại do các lợi ích xã hội và vị trí
xã hội của con người quyết định. Đó là điều rất dễ hiểu, vì ý thức pháp luật là
sự phản ánh toàn bộ cơ sở xã hội chứ không chỉ là do tính chất của pháp luật
quyết định.
Pháp luật phản ánh được lợi ích của nhiều ngươi thì được nhiều người
cho là công bằng, là đúng đắn. Đó là đặc điểm cần phải được chú ý khi ban
hành pháp luật. Và đó cũng là ý nghĩa của nhà nước sử dụng pháp luật, thiên
chức của quyền lực bảo vệ an toàn xã hội, bảo vệ con người.
Chính vì vậy, “Hiến pháp năm1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” khẳng định nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân (Điều 2), phát triển kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường (Điều
15) và các thành phần kinh tế đó đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 22).
Với hiểu biết như vậy về quá trình của sự phát triển hiện nay ở nước ta, rõ
ràng là công cụ quản lý các quá trình đó, tức là nhà nước, phải là công cụ của
sự điều tiết xã hội.
Chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần. Một nền kinh tế với cơ chế đó đòi
hỏi sự bình đẳng, sự công bằng, tự quản lý và tính tổ chức cao. Chính tư
tưởng Nhà nước pháp quyền có thể thoả mãn những nhu cầu khách quan đó.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là tạo ra một quan hệ đúng đắn và ổn
định cho một cơ chế quyền lực, tạo ra một hệ thống chính trị năng động và có
hiệu quả, loại trừ những nguyên nhân của chế độ tập trung độc đoán của
bệnh quan liêu, của tệ tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là tạo ra mối quan hệ đúng đắn giữa
tổ chức quyền lực nhà nước với công dân. Xã hội nào cũng cần khẳng định
mối quan hệ giữa con người và chính quyền của mình. Nhà nước pháp quyền
tạo dựng lên những “kênh ”pháp lý đúng đắn, công khai, dân chủ để nhân dân
sử dụng quyền lực của mình, sử dụng các quyền cơ bản của mình, thực thiện
các nghĩa vụ đối với xã hội và nhà nước. Cốt tử của các kênh quan hệ đó là
sự công bằng, bình đẳng, rõ ràng, ổn định- những giá trị pháp lý mà chỉ một
hệ thống pháp luật được xuất phát từ quyền lực của nhân dân đích thực mới
có thể bảo đảm được.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, cần quán triệt mấy nguyên tắc cơ bản sau đây:
1. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước vừa trực tiếp, gián tiếp bầu ra các cơ quan nhà nước.
Đồng thời chính nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan nhà
nước trong việc sử dụng quyền lực mà nhân dân uỷ cho. Quyền giám sát
được bảo đảm thực hiện bằng các cơ chế và công cụ pháp lý hữu hiệu.
2. Các quan hệ xã hội căn bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật,
chứ không phải chỉ bằng đạo lý. Pháp luật đóng vai trò như những quy tắc xử
sự chung,mang tính bắt buộc, định ra hành lang pháp lý an toàn cho xử sự
chung của toàn xã hội. Nhà nước không “làm ra” luật mà chỉ là hình thức hoá
các quy tắc, các mô hình phổ biến của các hành vi xã hội. Các thiết chế của
nhà nước phải là những công cụ đắc lực để thực thi pháp luật.
Cần nói thêm ở đây rằng pháp luật phải là pháp luật hợp lý và công
bằng, phản ánh đúng đắn quy luật khách quan, mối quan hệ lợi ích, không
được chủ quan, duy ý chí, càng không được cục bộ, bản vị. Pháp luật phải
được xây dựng với “chất lượng” cao, phản ánh được lợi ích chung và nhu cầu
phổ biến của xã hội trong từng giai đoạn.
3. Pháp luật phải giữ vị trí chủ đạo trong toàn xã hội, trong hoạt động,
xử sự các chủ thể quan hệ xã hội.
Hệ thống các qui phạm pháp luật phải tuyệt đối tuân thủ tính thống nhất
của pháp luật, trong đó tính tối cao thuộc về luật và trước hết là Hiến pháp.
Tương tự như vậy, các văn bản dưới luật phải phù hợp với văn bản của các
cấp cao hơn và của trung ương. Có nghĩa là tính hợp pháp và hợp hiến, tính
pháp chế phải được bảo đảm.
4. Đề ra pháp luật, nhưng chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước,
những người có chức vụ, cũng như mọi tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh
tế và công dân đều có nghĩa vụ phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có một
tổ chức hoặc cá nhân nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật hoặc thậm chí
đứng trên pháp luật. Đồng thời với nguyên tắc này, Nhà nước ta tiến tới thực
hiện nguyên tắc “có thể làm tất cả những gì luật không cấm” đối với công dân,
tất nhiên trong khuôn khổ đạo đức xã hội chủ nghĩa và tôn trọng lợi ích của xã
hội và của người khác. Con người phải là mục tiêu và giá trị cao nhất. Tuy
nhiên cũng cần phải thấy là, Nhà nước có trách nhiệm với công dân như thế
nào thì công dân cũng phải có trách nhiệm với nhà nước như vậy để xây
dựng một xã hội đồng trách nhiệm giữa công dân và Nhà nước.
Với những nguyên tắc trên, Nhà nước pháp quyền, do đó phải là một
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trong đó tất cả các
quyền lực phải thực sự thuộc về nhân dân.
Tài liệu tham khảo.
1. Ph.ăngghen: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” C.Mác và Ph.ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tập 21.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Triết học” (dùng cho nghiên cứu sinh và
cao học không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001.
3. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình triết học Mác -
Lênin” Nxb.Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999.
4. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Phân viện báo chí và tuyên
truyền, Khoa chính trị học: “Lịch sử tư tưởng chính trị”, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.
5. V.I.Lênin: “Nhà nước và cách mạng”- V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến
bộ, Mátxcơva, 1976, tập 33.
6. S.L.Môngtetxkiơ: “Tinh thần pháp luật”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
7. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật: “Những vấn đề lý luận cơ
bản về Nhà nước và pháp luật”,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995.
Chuyên đề 7. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học (nếu
như không muốn nói là tất cả các ngành khoa học). Tuy nhiên, những ngành
đó mới chỉ nghiên cứu những mặt riêng biệt, cụ thể về con người (ví dụ:sinh
học nghiên cứu các quy luật sinh lý; tâm lý học nghiên cứu những quy luật
tình cảm; đạo đức học nghiên cứu các phạm trù đạo đức cơ bản, toán học
nghiên cứu tư duy lôgíc…).
Riêng với triết học, vì có đặc trưng của tư duy triết học là sự phản tư
của tư duy con người đối với chính bản thân mình, có đối tượng nghiên cứu
là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy nên nghiên cứu
con người trên bình diện chung nhất, đầy đủ nhất với các vấn đề đặt ra như:
Con người có nguồn gốc từ đâu? Bản chất của con người là gì? Con
người có quan hệ như thế nào với tự nhiên và trong xã hội? Khả năng nhận
thức và cải tạo thực tiễn của con người đến mức độ nào?...
Bản chất con người và giải phóng con người là vấn đề vĩnh cửu và
cũng là vấn đề luôn mới của triết học, bởi vì vấn đề con người cũng như bao
vấn đề về các hiện tượng khác, luôn vận động và biến đổi. Khi xã hội ngày
một phát triển, nhận thức của con người ngày một sâu rộng, con người càng
đặt ra những vấn đề đa dạng phức tạp hơn, càng muốn đi sâu tìm hiểu chính
bản thân mình.
Với triết học Mác – Lênin, lần đầu tiên, vấn đề con người được giải
quyết một cách đúng đắn trên quan điểm biện chứng duy vật.
Yêu cầu của chuyên đề:
- So sánh một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử.
- Nêu bật những điểm tích cực của triết học Mác khi giải quyết vấn đề
con người, đặc biệt là tính nhân văn sâu sắc.
- Quan điểm về con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Quán triệt nguyên tắc nhân văn trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
- Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo: đều rất chú trọng đến việc giải thích
bản chất con người, bởi vì các tôn giáo này đặt ra nhiệm vụ chủ yếu là giải
quyết các vấn đề chính trị – xã hội, các vấn đề liên quan trực tiếp đến con
người. Ngay trong một trường phái cũng có nhiều quan điểm đa dạng, ví dụ
như: trong Nho giáo, Khổng Tử đề cao tính thiện cuả con người, theo Khổng
Tử, ngay từ khi sinh ra, con người đã có sẵn tính thiện (thiên tính), nhưng do
trong quá trình sống, bởi ảnh hưởng những thói hư tật xấu trong xã hội mà
tính thiện đó bị mai một: “tính thì gần nhau, nhưng do tập nhiễm mà xa
nhau”(“tính tương cận dã, tập tương viễn dã” – Luận ngữ, Dương Hoá2);
Mạnh Tử đề xuất giải pháp để con người giữ được tính thiện của mình phải
trau dồi đạo đức, từ đó hai ông khẳng định tầm quan trọng của cách quản lý
đất nước bằng đức trị và lễ trị; còn Tuân Tử lại có tư tưởng ngược lại, cho
rằng con người bản tính vốn ác, phải luôn ngăn chặn cái ác bằng pháp trị,
quan điểm này được Hàn Phi rất đề cao.
- Thuyết “thiên nhân hợp nhất” cho rằng người với trời hoà hợp, có tác
động lẫn nhau. Đây cũng là một quan điểm mang nhiều yếu tố tích cực, thể
hiện mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên, nhưng cũng vì thế
mà con người phải tuân theo mệnh trời thiếu sự quyết đoán. Thuyết “thiên
nhân bất tương quan” (Tuân Tử) thì ngược lại, về phương diện sinh dưỡng,
người mang ơn trời, về phương diện xã hội, đạo trời không giúp cũng không
hại đến đạo người, vì vậy con người phải chủ động giải quyết các vấn đề xã
hội, tránh thái độ bị động, trông chờ vào mệnh trời.
2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Quan điểm duy vật tôn giáo: quy bản chất con người vào lĩnh vực ý
thức tư tưởng hoặc được quy định sẵn từ những lực lượng siêu nhiên. Nói
chung, các tôn giáo đều quan niệm nguồn gốc con người là do một lực lượng
siêu nhiên sinh ra (do thần thánh, Chúa trời, Thượng đế…) Kitô giáo cho rằng
con người có phần thể xác và phần linh hồn, trong đó phần thể xác là phần
thấp hèn vì gần với súc vật là phần đáng khinh miệt, khi con người có những
ham muốn thể xác là có tội, cần rửa tội hoặc sám hối, còn linh hồn là phần
cao quý, bất tử nên con người phải chăm sóc chu đáo hàng ngày. Cơđốc giáo
khẳng định con người ngay từ khi sinh ra đã mang trong mình điều ác là tội tổ
tông, nên cả cuộc đời phải cầu đến sự cứu vớt của Chúa.
- Quan điểm duy tâm khách quan của G.V.Ph.Hêghen: Tuy không giải
thích nguồn gốc con người từ thần thánh nhưng lại cho rằng con người do “ý
niệm tuyệt đối” tha hóa mà thành, thực ra quan điểm này cũng không kém
phần bí hiểm, và thực chất ý niệm tuyệt đối có ý nghĩa như một sức mạnh
siêu thế gian. Mác và Ăngghen đã phê phán quan điểm tư duy tư biện của
Hêghen về con người. Trong bản thảo “Góp phần phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen”, Mác đã tỏ rõ thái độ này. Người cho rằng: Thật sai lầm
khi thừa nhận tư tưởng là cơ sở đầu tiên của hiện thực từ điểm xuất phát sai
lầm đó mà Hêghen đã phân tích đời sống con người với hai đặc trưng: Thứ
nhất là tính trừu tượng và tính hình thức trong sự phân tích đời sống xã hội;
thứ hai là sự phân tích của Hêghen về các hiện tượng xã hội chỉ có thể được
coi là chủ nghĩa kinh nghiệm tầm thường. Ở đặc trưng thứ nhất, khi xem xét
các sự kiện trong đời sống xã hội, Hêghen hay quy chúng về sự vận động của
khái niêm lôgíc, sự quan tâm của Hêghen chỉ nhằm nhận ra ý niệm trong mỗi
lĩnh vực, còn những chủ thể thực đều trở thành những tên gọi giản đơn của ý
niệm mà thôi. Ở Hêghen, “bao gìơ cũng thế, những phạm trù đó mang lại linh
hồn khi thì cho lĩnh vực này, khi thì cho lĩnh vực khác. Toàn bộ công việc
chung quy lại là tìm cho những quy định cụ thể riêng lẻ những quy định trừu
tượng thích hợp với chúng”. Để giải thích bản chất cuả một hiện tượng xã hội,
đó là nhà nước Hêghen lại dùng nhà nước để luận chứng cho logíc, chứ
không phải dùng lôgíc để luận chứng cho nhà nước. Bằng cách “đem lại một
thể xác chính trị cho lôgíc của mình” nhưng lại “không tạo ra lôgíc của thể xác
chính trị”, ông đi đến quan niệm rằng không phải con người hiện thực đi tới
nhà nước mà nhà nước phải đi tới con người hiện thực, và “con người kinh
nghiệm”là hiện thực cao nhất của nhà nước. Ông đã “bắt bản chất con người,
tự bản thân nó, với tư cách là một tính đơn nhất tưởng tượng nào đó, phải
hoạt động, chứ không phải bắt con người phải hoạt động trong sự tồn tại của
con người hiện thực của nó”. Chính lối tư duy tư biện đó không cho phép ông
tìm ra bản chất đích thực của con người. Ở đặc trưng thứ hai, Mác khẳng
định rằng, sự phân tích của Hêghen về các hiện tượng trong đời sống xã hội
của con người chỉ có thể được xem là chủ nghĩa kinh nghiệm tầm thường, vì
ông không quy sự tồn tại kinh nghiệm thành chân lý mà lại quy chân lý thành
sự tồn tại kinh nghiệm nào đó. Một tồn tại kinh nghiệm bất kỳ nào cũng đều
được ông coi là yếu tố hiện thực của ý niệm. “Từ đỉnh cao của duy linh luận
chính trị, đâu đâu Hêghen cũng tụt xuống chủ nghĩa duy vật thô sơ nhất”.
Với những đặc trưng trong cách tiếp cận vấn đề xã hội và con người
như vậy nên Hêghen không thể đi đến bản chất con người một cách đúng
đắn khoa học. Khi phê phán cách kiến giải duy tâm tư biện của Hêghen về
con người, Mác đã tiến đến quan niệm duy vật lịch sử về con người và giải
phóng con người.
- Quan điểm duy vật thế kỷ XVII - XVIII, điển hình là L.Phoiơbắc. Ông
phản đối quan điểm duy tâm của Hêghen, ông đã chỉ ra nguồn gốc phi thần
thánh của con người và cũng đồng thời nêu bật bản chất của tôn giáo: “không
phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con người
đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người”. Con người, theo Phoiơbắc, là
một sinh vật có hình thể vật chất, ở trong không gian và thời gian, là “cái
gương của vũ trụ” thông qua đó, giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản
thân mình. Bản chất con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu
cầu, ham muốn…Nên ngoài việc đem lại một quan niệm mới vè con người,
triết học còn có nhiệm vụ tiến hành cuộc đấu tranh lý luận cho việc giải phóng
con người, đem lại cho con người một cuộc sống thực sự hạnh phúc, loại trừ
những học thuyết duy tâm tôn giáo ra khỏi cuộc sống tinh thần của con người.
Theo ông tôn giáo chỉ hướng con người vào cái thiện giới, khuyến khích con
người hạn chế tối đa những nhu cầu tối thiểu, bóp nghẹt phần con người tự
nhiên, đó là điều trái ngược hoàn toàn với bản chất con người. Khi phân tích
bản chất tôn giáo, ông đã phân tích khá kỹ lưỡng trên quan điểm nhân bản;
coi thần thánh là “bản chất bị tha hoá” của con người, tôn giáo vừa là sản
phẩm của sự tưởng tượng hoang đường, vừa là thể hiện khao khát của
người về một cuộc sống tốt đẹp hơn, con người “tin vào thực thể được sung
sướng, vì nó muốn trở lên sung sướng, tin vào thực thể hoàn hảo, vì bản thân
nó muốn trở nên hoàn hảo, tin vào thực tế bất diệt, vì bản thân nó không
muốn chết” Sự an ủi mà tôn giáo đem tới cho là giả dối nhưng con người
không thể làm gì hơn ngoài việc chấp nhận sự giả dối đó. Được coi là một
nhà triết học vô thần nhưng chính Phoiơbắc lại là người đề xướng ra một thứ
“tôn giáo mới” tôn giáo tình yêu. Thứ tôn giáo mới này được giải phóng
những thiên kiến, coi “con người là thượng đế đối với con người”, có nhiệm
vụ bảo vệ con người cùng khổ “khai sáng”cho con người, cổ vũ con người
trong cuộc đấu tranh để thực hiện những ý tưởng trần trục mang tính hiện
thực. Ông chỉ rõ tư duy con người là sản phẩm của khí quan vật chất, đó là
bộ óc người. Con người khác con vật không phải chỉ ở tư duy mà còn khác ở
cả cảm xúc, và sứ mệnh của lý tính không phải là ở việc lấn át bản tính cảm
tính ấy của con người, mà là ở chỗ phát triển nó vì đời sống con người trước
hết là đời sống cảm tính. Tuy vậy, ông lại rơi vào duy tâm và siêu hình khi
phân tích bản chất xã hội của con người, không đặt con người trong các mối
quan hệ nhất định, trong hoàn cảnh điều kiện cụ thể mà đó là con người
chung chung, con người trừu tượng, con người là “đối tượng cảm tính” chứ
không phải là “Hoạt động cảm tính”, ông lý tưởng hoá tình bạn, tình yêu của
con người, quy bản chất con người vào tính tộc loại và tìm đặc trưng cho tính
tộc loại đó ở tình cảm đạo đức. Phê phán quan điểm này, Mác viết: “Phoiơbắc
hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng về con người của Phoiơbắc
có thể được coi là quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa nhân đạo cách
mạng – dân chủ, ban đầu còn là mang tính chất trừu tượng, sau cách mạng
1848, ông có cơ sở để khẳng định rõ ràng hơn. Ông hoàn toàn đồng tình với
tinh thần giải phóng con người của chủ nghĩa cộng sản, có lúc còn tự nhận
mình là “người cộng sản”, tuy nhiên, quan điểm của ông vẫn còn mang tính
chất dân chủ tư sản.
- Các nhà duy vật Pháp và Anh thế kỷ XVIII: tuy thấy được sự phụ
thuộc của con người vào hoàn cảnh nhưng vẫn cho rằng những biểu hiện của
tính chất con người trong cuộc sống thực, như tính ích kỷ, tham lam…là bản
chất tự nhiên của con người.
- Nhìn chung, các quan điểm siêu hình trước Mác về con người đều coi
bản chất con người là cái vốn có, trừu tượng, đặc trưng bản chất của con
người được quy về bản tính tự nhiên, do đó nó trở nên bất biến, không thấy
được sự hình thành và biến đổi của nó một cách biện chứng.
II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI.1. Quan điểm triết học Mác - Lênin về bản chất con người
a. Con người là một thực thể sinh vật - xã hội.
“Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” được đánh giá là tác phẩm đáng
được lưu ý nhất trong giai đoạn xây dựng cơ sở lý luận cho một quan niệm
mới về con người của C.Mác, thậm chí còn được đánh giá là tác phẩm quan
trọng nhất, mang tính nhân bản nhất, là “đỉnh cao nhân bản học của chủ
nghĩa Mác”. Vì tác phẩm này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tư tưởng
của Mác: lần đầu tiên, ông đã trình bày một cách tương đối đầy đủ các luận
điểm cơ bản về xã hội nói chung, về con người nói riêng trên lập trường duy
vật biện chứng, đã phân tích khá sâu sắc cuộc sống của con người trong chủ
nghĩa tư bản, luận chứng đầy triển vọng của chủ nghĩa cộng sản. Mác đã lấy
luận điểm xuất phát là hoạt động thực tiễn, mà cụ thể là hoạt động sản xuất
của con người để chứng minh tính tất yếu khách quan của tiến trình lịch sử.
Trong tác phẩm này, do còn chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật
nhân bản của Phoiơbắc nên Mác đã mô tả con người trước hết như một thực
thể loài. “Con người là một sinh vật có tính loài”, “điều cụ thể đầu tiên cần
phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ
chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của giới tự nhiên”. “Mọi khoa
ghi chép lịch sử đều phaỉ xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy và những
thay đổi của chúng trong hoạt động của con người và gây ra trong quá trình
lịch sử”. Tuy có nguồn gốc từ động vật nhưng con người là động vật cao cấp
nhất, là sản phẩm cao nhất của sự tiến hoá dài lâu của giới tự nhiên, là một
bộ phận ưu tú nhất của tự nhiên, không thể tách rời con người khỏi giới tự
nhiên ấy.
Hai khái niệm “tộc loại” và “tha hoá” là hai khái niệm cặp đôi mà Mác và
Ăngghen thường sử dụng để trình bày quan điểm của mình về vấn đề con
người. Đây là những khái niệm quen thuộc của các nhà triết học cổ điển Đức
nhưng đã được Mác - Ăngghen sử dụng với nghĩa mới. “Tộc loại” là khái
niệm chỉ một nội dung nhất định trong sự thực hiện tính tích cực của bản chất
người, còn “tha hoá”, lại là khái niệm thể hiện sự tiêu cực của cũng bản chất
đó. “Tha hoá”chính là sự tha hoá của tộc loại, là sự xuyên tạc và bóp méo “tộc
loại”, “tộc loại” là cái bị xuyên tạc trong “tha hoá”, là cái cần phải được hiện
thực hoá một cách đúng đắn nhờ lột bỏ “tha hoá”. Mác đã sử dụng hai khái
niệm này để chỉ tiến trình phát triển chung của lịch sử nhân loại, và với việc
sử dụng đó, ông đã tìm ra cách tiếp cận đời sống xã hội ở tầng sâu hơn và
thấy được vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với sự hình
thành bản chất con người.
Nhiều nhà tư tưởng đã đề cập tới mặt xã hội của con người như phần
ưu tú nhất, dưới nhiều hình thức khác nhau:Franklin chỉ ra rằng con người
khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao động; Aríttốt khẳng
định con người là một động vật có tính xã hội; Pascan thì ví von hình ảnh: con
người là một cây sậy biết suy nghĩ.
Theo Mác, “con người” là phương thức sinh hoạt “tộc loại” đặc thù, là
phương thức tồn tại đặc thù của con người, là những cá nhân hiện thực với
hoạt động lao động của mình, là một hình mẫu lý tưởng về sự tồn taị và phát
triển của chính mình, là con người với tư cách con người tự nó - con người
được trừu tượng hoá bởi các mối quan hệ, các điều kiện, các hình thức và
phương tiện hoạt động hiện thực của nó.
Để tìm ra bản chất đích thực của con người, theo Mác, cần làm sáng tỏ
thực chất phương pháp luận của vấn đề này, phải tính đến bối cảnh phương
pháp luận chung rồi mới làm sáng tỏ nội dung của nó, giới hạn áp dụng nó.
Mọi ý định nghiên cứu bản chất con người trước khi hoặc bên ngoài việc
nghiên cứu cụ thể đời sống sinh hoạt hiện thực của con người đều là sự nhạo
báng đối với khoa học. Các ông không nói tới con người nói chung, mà
nghiên cứu con người một cách cụ thể trong những điều kiện của đời sống
sinh hoạt hiện thực của nó. “Cá nhân mang tính thể xác là cơ sở thực sự, là
xuất phát điểm thực sự cho “con người” của chúng ta”. Mác - Ăngghen viết:
“Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tuỳ tiện,
không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể
bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt
động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”
Mác - Ăngghen nêu rõ: “có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý
thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con
người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của
con người quy định”. Để sự so sánh được rõ hơn, Mác phân tích: “Cố nhiên,
con vật cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ, chỗ ở của nó, như con ong, con hải
ly, con kiến…Nhưng con vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó hoặc con nó
trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong khi con người sản
xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối bởi nhu cầu thể
xác trực tiếp, còn con người thì sản xuất ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác
ràng buộc” (...) “Súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái
sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Sản xuất của con người là sản xuất mang tính xã hội, thể hiện ở hoạt
động và giao tiếp xã hội, con người có lao động và có ngôn ngữ, là hành động
mang tính sáng tạo. Nếu như “con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu
cầu của loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo kích thước của
bất cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào
đối tượng; do đó con người cũng xây dựng theo quy luật của cái đẹp”.
Con người khác con vật ở cả ba mặt: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với
xã hội, quan hệ với bản thân; cả ba mặt quan hệ đó đều mang tính xã hội,
trong đó, quan hệ với xã hội là quan hệ bản chất nhất, chi phối các mặt quan
hệ còn lại.
Tính xã hội của con người cũng phát triển biện chứng từ thấp đến cao,
từ hoạt động bản năng đến hoạt động ý thức. Bên cạnh bản năng sinh học,
con người còn có bản năng xã hội, và bản năng xã hội bao trùm từng bước
bản năng sinh học, “là một trong những đòn bẩy quan trọng nhất để con
người phát triển từ loài khỉ”.
Ngày nay, mặt xã hội ngày càng thâm nhập vào mặt sinh học, cả về
mục đích, nội dung, phương pháp thực hiện; hay nói một cách khác, con
người ngày càng mang tính xã hội hơn.
b. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử
- Vai trò chủ thể của con người được thể hiện
Con người sáng tạo ra lịch sử, tạo ra xã hội, nếu không có con người
thì cũng không thể có xã hội. Khi giải thích sự vận động của lịch sử nhân loại,
các ông luôn nhấn mạnh rằng, đó là lịch sử của con người, do con người làm
ra. “Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân
của những con người”; “chính con người làm thay đổi hoàn cảnh của mình”
và “xã hội, cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự
tác động qua lại giữa những con người”.
Con người sản xuất ra của cải vật chất,đáp ứng những nhu cầu ngày
càng tăng, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. “Hành vi lịch sử
đầu tiên hay phương diện cơ bản đầu tiên của hoạt động xã hội của con
người là sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu” và họ “sản
xuất ra bản thân đời sống vật chất”
Con người tạo ra các giá trị tinh thần cho xã hội: những thành tựu văn
hoá lớn, những công trình kiến trúc, vĩ đại được coi là các kỳ quan của thế
giới… Con người tạo ra các quan hệ xã hội, các quy định, chuẩn mực, giá trị
xã hội, giữ xã hội trong ổn định tương đối.
Con người là động lực của mọi cuộc cách mạng xã hội, thay thế một
phương thức sản xuất này bằng một phương thức sản xuất khác cao hơn,
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hiện có.
- Con người là sản phẩm của lịch sử, được thể hiện, Con người mang
dấu ấn của dân tộc, giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp, tôn giáo, gia đình, môi
trường giáo dục….
- Tuy nhiên, tính chủ thể và tính sản phẩm của con người không tách
rời nhau, mà thống nhất trong mỗi cá thể, chúng hoà quyện vào nhau, tác
động lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau.
c. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”
Trước hết, Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên của con người, phủ
nhận yếu tố sinh học trong bản chất con người. Cái sinh học đó tồn tại không
tách rời xã hội, nó phải được đặt trong xã hội. Bản chất con người “chỉ có thể
được hiểu là “loài” là tính phổ biến nội tại, gắn bó một cách tự nhiên đông đảo
cá nhân lại với nhau, nên con người của thời đại khác nhau, những dân tộc,
giai cấp, tầng lớp khác nhau, nên con người tự nhiên luôn tồn tại trong sự tác
động qua lại của xã hội.”
Thứ hai, không nên hiểu mặt sinh học một cách thuần tuý sinh học, bởi
con người thực hiện nhu cầu sinh học mang tính xã hội, tạo thành văn hoá
của một cộng đồng ngừơi và tạo nên văn minh nhân loại.
Thứ ba, khi nói tới con người thì không phải là nói con người trong
trạng thái tự nhiên thuần tuý mà là con người hoạt động thực tiễn. Thông qua
hoạt động thực tiễn, con người cải tạo tự nhiên và cải tạo chính bản thân
mình.
Thứ tư, không xem xét mặt xã hội của con người một cách giản đơn,
thô thiển, chỉ quy định về quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị; ngoài quan hệ
cơ bản đó, con người còn nhiều mối quan hệ khác nhau ràng buộc, chi phối,
những quan hệ đó mang tính độc lập tương đối. Các quan hệ đó cấu thành
bản chất con người trong sự liên hệ “tổng hoà” của chúng, mà trong đó, cái
chung toàn nhân loại thống nhất với cái đặc thù giai cấp, dân tộc trong cái
riêng của mỗi cá nhân con người.
2. Quan điểm triết học Mác - Lênin về giải phóng con người
* Vị trí vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác - Lênin: Đây là
vấn đề được quan tâm hàng đầu bởi đây là mục tiêu cơ bản nhất của cuộc
cách mạng vô sản, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động và loài
người tiến bộ trên toàn thế giới. Mác khẳng định: “Tiền đề đầu tiên của toàn
bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người
sống” và “Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải
phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt”.
*Nội dung quan điểm giải phóng con người trong triết học Mác-Lênin
(phân biệt với tôn giáo và cách mạng tư sản phương Tây)
- Khái niệm “tha hoá”:
Thuật ngữ được nhiều nhà triết học cổ Điển Đức sử dụng, với nghĩa là
sự chuyển hoá sang dạng tồn tại khác của cùng một bản chất, một giai đoạn
tất yếu của quá trình phát triển. Phoiơbắc dùng khái niệm này giải thích nguồn
gốc và bản chất tôn giáo nhưng ông đã hoà tan bản chất tôn giáo vào bản
chất con người, nên cuối cùng, ông đã đưa ra giải pháp giải phóng con người
bằng cách thay thế tôn giáo hữu thần bằng thứ tôn giáo tình yêu.
Theo nghĩa rộng nhất, tha hoá là quá trình xã hội mà trong đó kết quả
hoạt động của con người biến thành một lực lượng độc lập thống trị lại con
người và thù địch với con người. Mác tìm nguyên nhân dẫn đến sự tha hoá
của con người từ “lao động bị tha hoá”, biểu hiện:
+ Sản phẩm do lao động của con người trở thành cái đối lập, chi phối
con người.
+ Lao động không còn mang bản chất sáng tạo mà trở thành lao động
cưỡng bức, con người không khẳng định mà lại phủ định chính mình.
+Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sức lao động cũng không thuộc
người lao động mà thuộc người khác (nhà tư bản thuê lao động). Lao động bị
tha hoá chỉ có thể tồn tại và phát triển trong chế độ sử hữu tư nhân, mà chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là hình thức cao nhất. Chính vì vậy, con
đường giải phóng con người là khắc phục sự tha hoá của lao động, xoá bỏ
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đó là mục tiêu giải phóng con
người.
- Quan điểm triết học Mác - Lênin về phương thức và lực lượng thực
hiện việc giải phóng con người.
+ Xuất phát từ quan điểm duy vật về con người, coi bản chất con người
là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, xem xét con người trong mối quan hệ với
tự nhiên và xã hội, triết học Mác đã xây dựng học thuyết về một xã hội tốt đẹp
trong tương lai, xã hội có thể tạo điều kiện đầy và đủ cho sự nghiệp giải
phóng con người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là một chế độ văn
minh, công bằng, không còn hiện tượng người bóc lột người, mọi người đều
bình đẳng, đều có quyền hưởng tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, không
còn hiện tượng con người bị tha hoá mà được sống theo đúng bản chất của
mình, có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện
của mình. Mác viết: “Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả
thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản chất của con
người”. Và ông gọi đó là sự “giải phóng chính trị”. Giải phóng chính trị là sự
giải phóng con người khỏi sự khép kín về đẳng cấp, về địa vị, về vị trí của con
người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa
nhận bản tính loài của con người trái với tất cả những sự khác biệt hiện thực,
xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người. Bằng sự giải phóng chính trị
ấy, những sự khác biệt hiện thực, những sự bất bình đẳng của con người (về
sở hữu tư liệu sản xuất, về tôn giáo, dân tộc, học vấn…), những sự bất bình
đẳng mà trước đây đã biến thành các cơ cấu trì trệ thì bây giờ phải luôn biến
đổi và ngày một được cải thiện.
Từ những quan niệm về sự “giải phóng chính trị”, Mác đi đến kết luận:
một thời đại mới về nguyên tắc trong sự phát triển của con người chỉ có thể
bắt đầu nhờ sự giải phóng con người. Chỉ bằng cách giải phóng con người
chúng ta mới khắc phục được tính phân đôi, tính độc lập giữa nhà nước
chính trị và xã hội công dân, giữa công dân trừu tượng của nhà nước với các
thành viên hiện thực của xã hội công dân, giữa con người với tư cách một
thực thể loài với con người với tư cách cá nhân ích kỷ. Sự giải phóng con
người là con đường, là phương thức thực hiện đúng đắn bản chất loài của
con người. Nhờ sự giải phóng ấy, con người sẽ nhận thức được và tổ chức
hoạt động của mình với tư cách hoạt động xã hội và không còn tách hoạt
động ấy ra khỏi đời sống hiện thực của mình dưới dạng một hoạt động độc
lập.
+ Nguyên nhân sâu xa của sự phát triển toàn bộ đời sống xã hội là sự
phát triển của lực lượng sản xuất, và sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất là “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” để khắc phục sự tha hoá của con
người. Nếu bất chấp tiền đề này sẽ rơi vào chủ nghĩa cộng sản bình quân
giảm thiểu nhu cầu, dẫn đến sự thiếu thốn phổ biến, và khi đó, con người
không tránh khỏi sa vào ti tiện như trước kia (liên hệ thực tiễn xây dựng
CNXH những năm trước đổi mới).
+ Mối quan hệ giữa việc xoá bỏ chế độ tư hữu với việc khắc phục sự
tha hoá là mối quan hệ hữu cơ, bởi vì, tuy chế độ tư hữu làm cho lao động bị
tha hoá đến tột độ nhưng cũng tạo tiền đề cho việc tước bỏ sự tha hoá đó.
Cơ sở của sự “tha hoá” con người là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất gắn
trực tiếp với chế độ tư bản, bởi thế, xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản, thứ sở hữu
vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động, là tiền đề cơ bản
cho việc xoá bỏ mọi sự “tha hoá”của con người để dẫn đến giải phóng toàn
xã hội. “Sự giải phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân, khỏi sự nô dịch, trở thành
hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân, vả lại vấn đề ở đây không
chỉ là sự giải phong của họ, vì sự giải phóng của họ bao hàm giải phóng của
toàn thể loài người”.
Như vậy, ngay từ đầu, trong quan niệm của Mác, Ăngghen, lực lượng
xã hội có sứ mệnh thực hiện sự nghiệp giải phóng con người không ai khác
hơn là giai cấp vô sản. Giai cấp này “không thể tự giải phóng mình nếu không
tự giải phóng mình khỏi tất cả những lĩnh vực khác của xã hội”. Họ phải tiến
hành cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ cộng sản
chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ tư hữu nói chung là xoá bỏ tư
hữu tư sản, nó vẫn khôi phục sở hữu cá nhân của đông đảo người lao động
đã bị sử hữu tư bản tư nhân phủ định. Chế độ công hữu XHCN phải được
hiểu là sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân, lợi
ích xã hội thống nhất với lợi ích cá nhân.
+ Muốn CNXH xoá bỏ sự tha hoá lao động, xã hội phải điều tiết toàn bộ
nền sản xuất, để cho các cá nhân không còn bị lệ thuộc vào thứ lao động
khiến họ không có được tự do thực sự, khiến họ trở nên “phiến diện, méo mó
và bị hạn chế”, và khi đó, lao động biến thành hoạt động tự giác, thành nhu
cầu sống của con người. Trong xã hội tương lai này, lần đầu tiên con người
tổ chức đời sống của mình một cách tự giác, “đó là bước nhảy của con người
từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”, “con người, cuối cùng làm
chủ tồn tại xã hội của chính mình, thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả
bản thân mình, trở thành người tự do”.
Các ông cũng nêu những tiền đề vật chất cho sự nghiệp giải phóng con
người một cách khoa học: “Người ta mỗi lần đều giành tự do chừng nào việc
đó không phải do lý tưởng về con người mà do lực lượng sản xuất hiện hành
quyết định và cho phép”. Đây không phải là việc làm giản đơn, chốc lát mà là
một quá trình hết sức dài lâu, vô cùng phức tạp, đầy những thăng trầm, đòi
hỏi được thực hiện bằng một cuộc cách mạng với quy mô và phạm vi toàn thế
giới. Cuộc cách mạng này đề ra nhiệm vụ xây dựng một chế độ xã hội mới
phaỉ giải quyết đồng bộ và triệt để những vấn đề phức tạp: vấn đề đảm bảo
việc làm và thu nhập cho người lao động, vấn đề công bằng xã hội, vấn đề
quyền lực của giới quan chức không trở thành một đặc quyền đối lập với
quần chúng nhân dân…Đây là sự nghiệp của toàn xã hội.
Những kiến giải khoa học của Mác, Ăngghen về bản chất con người và
giải phóng con người, dù đã cách chúng ta hơn 150 năm, nhưng đến nay vẫn
còn nguyên giá trị.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG DO ĐẢNG TA LÃNH ĐẠO.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
a. Cơ sở lý luận: tư tưởng nhân đạo, bác ái của văn hoá phương Đông và phương Tây kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
- Tư tưởng nhân đạo, bác ái của văn hoá phương Đông và phương Tây
Trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã chứng
kiến tội ác của các nước thực dân đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa và
người lao động. Người kết luận: ở đâu chủ nghĩa thực dân cũng tàn ác như
nhau, ở đâu nhân dân các dân tộc thuộc địa cũng đau khổ như nhau. Trên thế
gian này chỉ có hai giống người: Giống người đi bóc lột và giống người bị bóc
lột. Tình yêu thương con người nơi Hồ Chí Minh đã mở rộng phạm vi toàn thế
giới chứ không còn bó hẹp ở Việt Nam.
Nghiên cứu các tư tưởng nhân đạo từ cổ chí kim, Hồ Chí Minh thấy
được nét chung của các tôn giáo lớn: Thiên chúa giáo có lòng bác ái khoan
dung, Phật giáo có tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn, Nho giáo luôn răn dạy tư
dưỡng đạo đức cá nhân. Hồ Chí Minh tự nhận “Tôi chỉ mong muốn làm người
học trò nhỏ của các vị ấy”.
Hồ Chí Minh cũng tiếp thu có chọn lọc quan điểm nhân văn trong hệ tư
tưởng tư sản, với những mục tiêu: tự do, bình đẳng, bác ái, công bằng xã hội,
vấn đề nhân quyền…Nhưng đằng sau những khái niệm ấy, Hồ Chí Minh nhận
ra sự giả dối, lừa bịp của bọn thực dân, và sau khi giành được chính quyền,
giai cấp tư sản thường đã phản bội lại những tư tưởng tốt đẹp đó.
Chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản
Chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản là đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn
trong lịch sử loài người, mang tính triệt để và toàn diện: nêu rõ nguồn gốc cơ
bản của sự đau khổ của con người, chỉ ra con đường giải phóng con người
tới cùng, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn cho con người, để con
người có thể phát huy hết khả năng của mình đóng góp cho xã hội.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng của chủ nghĩa nhân đạo Cộng
sản, kết hợp với truyền thống nhân ái của dân tộc, nâng tư tưởng nhân văn
của Người lên một tầm cao mới, mở ra một giai đoạn mới của truyền thống
nhân văn Việt Nam.
b. Cơ sở thực tiễn:
Truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam: tinh thần tương thân tương
ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể
thương thân”; truyền thống uống nước nhớ nguồn, thuỷ chung như nhất, sự
tôn kính đối với ông bà tổ tiên, những vị anh hùng xả thân vị dân tộc; yêu hoà
bình, chuộng hoà hiếu với các nước láng giềng; và ngay trong gia đình Hồ
Chí Minh đã có truyền thống đạo đức, được giáo dục theo tư tưởng nhân đạo
của Nho giáo.
2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
a. Khái niệm con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Xuất phát từ tư tưởng của Mác - Ăngghen, “trong tính hiện thực của nó,
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”, Hồ Chí Minh đã nhắc đến
những quyền tối thượng của con người ngay ở những dòng đầu tiên trong
“Tuyên ngôn độc lập” của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945:
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bỉnh đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bên cạnh nét bản
chất tự do của con người với tư cách cá nhân, con người còn luôn luôn tồn tại
trong xã hội nhất định, có các mối quan hệ nhất định, nên người cũng xem xét
con người trong các mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng, gắn bó với các
điều kiện lịch sử nhất định, là con người của một giai cấp, một tầng lớp, một
dân tộc… “Chữ người, nghiã hẹp là gia đình, anh em, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước, rộng nữa là cả loài người” Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận
con người theo quan điểm biện chứng, là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Người viết: “Trong xã hội có thiện và cũng có ác. Theo nghĩa rộng thì cả thế
giới và trong một nước có thiện và có ác.Theo nghĩa hẹp thì trong bản thân và
tư tưởng của mỗi một người cũng có thiện và có ác”, và tư tưởng thiện ác
nhuốm màu Phật giáo này cũng được Người nâng lên ở một tầm mới: “Trong
đầu óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái “thiện” và cái “ác”, hoặc nói
theo cách mới, là sự đấu tranh giữa tư tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân”.
b. Về thái độ đối với con người.
Hồ Chí Minh thương yêu, quý trọng (nhất là đối với người già và trẻ
em),tin tưởng vào những khả năng của con người, nâng niu những tài năng,
nghiêm khắc với những thói hư tật xấu song cũng nhất mực độ lượng bao
dung (với những người trót lầm đường lạc lối, với những người mắc khuyết
điểm…), luôn mong muốn và tranh đấu cho hoà bình, chống chiến tranh để
con người có một cuộc sống hạnh phúc. Người giải thích về chữ “Nhân” như
sau: “Nhân nghĩa là nhân dân.Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới, không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” Tin
ở sức mạnh của con người, Hồ Chí Minh nhận định: “Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng: làm cách mạng là để giải phóng con người một cách toàn
diện, về chính trị (con người được quyền tự do, có quyền công dân), về kinh
tế (có cuộc sống ngày càng no ấm, sung túc), về văn hóa (được học hành, vui
chơi giải trí, hưởng thụ các giá trị văn hoá…); Điều trăn trở lớn trong suốt
cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơn ăn áo mặc, ai cũng được học hành…”.
Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ mong giải phóng con người khỏi ách nô lệ
mà còn hướng tới mục tiêu giải phóng con người khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh nhắc tới khá nhiều
lần, nhưng Người không nói đến những điều cao xa mà thường chủ yếu nhấn
mạnh đến việc chăm lo đời sống của con người. “Nói một cách tóm tắt một
mặt, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một
đời hạnh phúc”. Song, cách mạng cũng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo ra lịch sử. Người không ngừng xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, vì đó chính là động lực cho cách mạng, nguyên nhân của mọi
thắng lợi. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được Hồ Chí Minh quán triệt rất rõ, là
sự nối tiếp truyền thống “dân vi bản” trong lịch sử Việt Nam, là tư tưởng chỉ
đạo chiến lược xuyên suốt cả quá trình cách mạng nước ta từ trước tới nay,
và Người đã đúc kết lại thành luận điểm nổi tiếng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”. Sự nghiệp giải phóng con
người thực chất là giải phóng nhân dân lao động, giải phóng dân tộc.
d. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện.
Đối với Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng xã hội cũng đồng nghĩa với
cách mạng con người, nên ngay sau khi tìm được chân lý cách mạng. Người
đặt tất cả tâm huyết của mình vào việc xây dựng con người mới. Muốn con
người trở thành động lực chính của cách mạng, cần bồi dưỡng tạo điều kiện
cho họ phát triển toàn diện: phát huy mặt tốt đẹp, tích cực thực hiện công
bằng xã hội, taọ môi trường dân chủ để con người phát triển hết những mặt
năng lực tiềm ẩn của mình. Người nêu các tiêu chuẩn cho từng lớp người
thuộc từng lứa tuổi, từng nghề nghiệp: nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ
nữ, giáo viên, học sinh, công an nhân dân, quân đội nhân dân…
Hồ Chí Minh thường gắn khái niệm con người, nhiệm vụ phát triển con
người toàn diện với nhiệm vụ xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”. Đó là con người có cả đức lẫn tài, phải vừa hồng vừa chuyên
theo định hướng lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Trong quan niệm của Người,
con người phát triển toàn diện không phải là một khái niệm nhất thành bất
biến mà có thể biến đổi theo từng giai đoạn cụ thể của cách mạng. Quan
điểm này rất có ý nghĩa trong giai đoạn có nhiều biến động như hiện nay.
IV. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY1. Con người Việt Nam trong lịch sử
- Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam:
Việt Nam có truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời, được tôi
luyện và trưởng thành qua nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt. Cần thấy một đặc
điểm nổi bật ở nước ta là một nước nông nghiệp, tuy sớm trải qua nền văn
minh lúa nước, nhưng lại chậm bước vào nền văm minh công nghiệp, nên
cho đến nay, về đại thể, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi là một nước nông
nghiệp, lạc hậu, hơn 70% dân số vẫn là nông dân thuần tuý. Đặc điểm này
ảnh hưởng rất lớn tới việc xây dựng con người mới, phát triển con người toàn
diện hiện nay. Một điều kiện nữa gắn liền với vấn đề nêu trên là đời sống vật
chất của người dân vẫn còn thấp tuy đã được cải thiện khá nhiều. Ăngghen
đã nói: “Cái sự thật đơn giản mà đã bị tầng lớp tư tưởng phủ kín cho đến
ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã, rồi mới
có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo…,vì vậy, việc sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và do đó mỗi một giai đoạn phát
triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại, tạo thành một cơ sở
trên đó người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền,
nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của những con người
nhất định và vì vậy phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những cái này
chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm”.
- Mặt tích cực và mặt hạn chế của con người Việt Nam:
Con người Việt Nam có những đức tính tốt như chăm chỉ, cần cù, tiết
kiệm, năng động, có truyền thống tốt đẹp…; nhưng còn bảo thủ, trình độ thấp,
thói quen của nền sản xuất nhỏ, tiểu nông manh mún…Với một xã hội nông
nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng chủ yếu không dễ thích nghi với lối sống
công nghiệp với quan niện đạo đức của xã hội công nghiệp, với quan niệm
đạo đức của xã hội công nghiệp và với chuẩn giá trị xã hội mới theo tiêu chí
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bởi những tàn dư của lối sống tiểu nông,
những sự chậm chạp trong cách sống và cách nghĩ vẫn còn ngự trị trong tâm
lý của đa số người dân.
2. Con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra
đối với con người:
Cách mạng Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh chung của thế giới bước
vào thế kỷ XXI, phải đối mặt với nhiều vấn đề mới, như vấn đề đấu tranh giai
cấp trong tình hình thế giới diễn biến phức tạp; vấn đề hội nhập quốc tế và
giữ gìn bản sắc dân tộc; vấn đề bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh, chống
khủng bố; vấn đề phát triển khoa học và công nghệ…đòi hỏi việc xây dựng
con người mới phải có những nhiệm vụ phù hợp.
- Xây dựng con người mới XHCN đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách
mạng hiện nay: vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã xác định cần xây dựng con người phát triển toàn diện cả đức và
tài, nắm trong tay các tri thức mới, đặc biệt trên lĩnh vực khoa học và công
nghệ, năng động phát huy nội lực, có lập trường tư tưởng vững vàng không
xa rời lý tưởng XHCN.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII trình
Đại hội Đảng lần thứ IX đặc biệt nhấn mạnh đến việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, thông qua những giải pháp cụ thể như: thực hiện công bằng
trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích
nhân dân làm giàu chính đáng, hợp pháp…Trong văn kiện Hội nghị lần thứ
hai Ban Chấp hành Trung Ương khoá VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nguồn lực con
người là quý báu nhất”. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức, trong bối
cảnh nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn, thử thách hiện nay,
vấn đề phát huy nguồn lực con người, cũng chính là phát huy nội lực của mỗi
cá nhân và toàn dân tộc.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Triết học”3 tập (dùng cho nghiên cứu sinh
và cao học không thuộc ngành triết học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,2001.
2. Thành Duy: “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện”Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII “, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, các
tập: 4,5,6,8,10.
5. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
6. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Giáo trình tư tưởng Hồ Chí
Minh”, nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
7. Bùi Bá Linh: “Quan niệm của Mác-Ănghen về con người và sự
nghiệp giải phóng con người”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
8. C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993- 1996, các tập: 1,2,3,19,20,21,27,34,42.
9. Hồ Sĩ Quý (chủ biên) “Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong
sự phát triển xã hội”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
10. Vũ Minh Tâm (chủ biên): “Tư tưởng triết học về con người”, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 1996.
Đề tài Xêmina
1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện nhìn từ góc độ
triết học?
2. Sự phát triển của quan niệm về con người trong lịch sử triết học.
MỤC LỤCChuyên đề 1: Thế giới quan duy vật biện chứng - vai trò của nó trong
nhận thức và thực tiễn
Chuyên đề 2: Phép biện chứng duy vật - phương pháp luận nhận thức
khoa học và thực tiễn
Chuyên đề 3: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Chuyên đề 4: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và con đường Đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chuyên đề 5: Vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại ngày
nay và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chuyên đề 6: Lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Chuyên đề 7: Quan điểm triết học Mác - lênin về con người và vấn đề
xây dựng con người Việt Nam hiện nay
---//---
CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC
(Tài liệu nghiên cứu Triết học
dùng cho học viên Cao học không chuyên)
Tác giả: VI THÁI LONG