chuyên Đề triết học - dùng cho học viên cao học...
TRANSCRIPT
CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC
CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC(Dùng cho học viên Cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành Triết học)
(In lần thứ hai)
Đồng chủ biên:
TRẦN ĐĂNG SINH – LÊ VĂN ĐOÁN
Chuyên đề 1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG – CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
I. THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC1. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan
a. Khái niệm “thế giới quan”
Triết học có nhiều chức năng khác nhau trong đó chức năng thế giới
quan là chức năng cơ bản có ý nghĩa quan trọng nhất.
Thế giới quan được hình thành do nhu cầu tất yếu của đời sống con
người với tư cách là chủ thể của nhận thức. Để tồn tại và phát triển, con
người cùng một lúc phải quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau để sản
xuất và tái sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết để thoả mãn nhu cầu
của con người. Trong quá trình quan hệ đó, con người có nhu cầu nhận thức
thế giới và nhận thức chính bản thân mình. Những vấn đề đặt ra đối với con
người cần phải lí giải như: Bản chất thế giới này là gì? Thế giới tồn tại hay
không tồn tại? Con người sinh ra từ đâu? Con người có vị trí, vai trò như thế
nào trong thế giới?… Trả lời những vấn đề đó đã hình thành nên các quan
điểm, quan niệm, tư tưởng của con người về thế giới.
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, quan niệm, tư tưởng của
con người về thế giới (giới tự nhiên, xã hội và bản thân con người).
– Nội dung và hình thức biểu hiện của thế giới quan:
Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới theo ba phương diện là:
các đối tượng bên ngoài chủ thể (khách thể), bản thân chủ thể, mối quan hệ
giữa chủ thể và khách thể. Ba phương diện đó thể hiện ý thức, quan niệm của
con người về thế giới, đồng thời thể hiện ý thức, quan niệm của con người về
chính bản thân mình.
Về hình thức, thế giới quan biểu hiện dưới hình thức các quan điểm,
quan niệm, có thể rời rạc, có thể là một hệ thống lí luận chặt chẽ của con
người (là một cá nhân, một giai cấp hoặc một thời đại).
– Chức năng của thế giới quan:
Thế giới quan được tạo thành từ nhiều yếu tố như: tri thức, tình cảm,
niềm tin… trong đó, tri thức là yếu tố cơ bản nhất.
Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới (trong đó có hiểu biết
của con người về bản thân mình), là kết quả của quá trình nhận thức thế giới
của con người. Cấu trúc của tri thức, nếu chia theo lĩnh vực, gồm: tri thức về
tự nhiên và tri thức về xã hội; nếu chia theo cấp độ, gồm: tri thức kinh nghiệm
và tri thức lí luận. Tri thức có vai trò là cơ sở trực tiếp của sự hình thành thế
giới quan, song tri thức chỉ gia nhập vào sự hình thành thế giới quan khi nó
biến thành niềm tin. Như vậy, niềm tin là kết quả của sự chuyển hóa từ tri
thức. Khi tri thức khoa học biến thành niềm tin thì nó có tính sâu sắc, bền
vững và trở thành cơ sở cho hành động. Niềm tin có vai trò quan trọng trong
đời sống con người, nó làm tăng ý chí, nghị lực, quyết tâm của con người
trong cuộc sống.
Về chức năng, thế giới quan có nhiều chức năng như: chức năng nhận
thức, chức năng xác lập giá trị, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục,
chức năng điều chỉnh hành vi… Từ các chức năng này, có thể khái quát, chỉ
ra chức năng bao trùm của thế giới quan là chức năng định hướng cho toàn
bộ hoạt động sống của con người.
b. Những hình thức cơ bản của thế giới quan
Với tính cách là sản phẩm của nhận thức, thế giới quan được hình
thành, phát triển cùng với lịch sử phát triển của nhận thức con người. Theo
lịch sử nhận thức, thế giới quan được chia thành ba hình thức cơ bản là: thế
giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan triết học.
– Thế giới quan huyền thoại
Thế giới quan huyền thoại là hình thức đầu tiên của thế giới quan. Thế
giới quan huyền thoại đặc trưng cho tư duy nguyên thủy, được thể hiện đậm
nét trong nội dung của các câu truyện thần thoại, phản ánh trình độ nhận thức
thế giới của con người ở xã hội nguyên thuỷ, khi mà con người còn ở trạng
thái mông muội và dã man. Thế giới quan huyền thoại phản ánh một cách
hoang đường, tuy nhiên nó cũng chứa đựng nội dung hiện thực của thế giới
khách quan. Thế giới quan huyền thoại là kết quả nhận thức cảm tính là chủ
yếu, tuy nhiên, trong đó có sự đan xen, hoà quyện giữa hiện thực và tưởng
tượng, tư duy và xúc cảm, lí trí và tín ngưỡng. Ở thế giới quan huyền thoại
thường giải thích “các lực lượng của tự nhiên trong tưởng tượng”. Thực chất
đó là sự nhân hình hóa, nhân cách hóa các hình tượng tự nhiên thành các vị
thần.
– Thế giới quan tôn giáo
Thế giới quan tôn giáo là hệ thống quan điểm, tư tưởng tôn giáo, thể
hiện niềm tin của con người vào sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên,
được biểu hiện tập trung trong các kinh, sách của các tôn giáo, được các
chức sắc tôn giáo truyền bá một cách tự giác. Thế giới quan tôn giáo có cơ
sở lí luận là chủ nghĩa duy tâm trong triết học, phản ánh trình độ nhận thức và
năng lực hoạt động thực tiễn của con người còn hạn chế, thể hiện sự yếu
đuối, sợ hãi, bất lực của con người trước những lực lượng tự nhiên và lực
lượng xã hội đang thống trị con người; dẫn đến sự sùng bái, thần thánh hóa,
biến các lực lượng ấy thành sức mạnh siêu nhiên. Theo Ph.Ăngghen: “Tất cả
mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con
người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của
họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình
thức những lực lượng siêu trần thế”. Những hình thức sơ khai của tôn giáo là:
tôtem giáo, bái vật giáo, ma thuật giáo, vật linh giáo, saman giáo…
Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là đặt niềm tin cao hơn lí
trí, đó là niềm tin vào thế giới tưởng tượng mà con người hướng tới. V.I.
Lênin cho rằng: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống
bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới
bên kia, cũng giống y như sự bất lực của con người dã man trong cuộc đấu
tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng lin vào thần thánh, ma quỷ, vào những
phép mầu, v.v…”. Ngoài ra, thế giới quan tôn giáo như C. Mác đã nói, còn là
biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực, đồng thời còn là sự phản kháng chống
lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Vì vậy, thế giới quan tôn giáo còn bao hàm
khát vọng của con người vào một cuộc sống trần gian tốt đẹp hơn.
– Thế giới quan triết học
Thế giới quan triết học là hệ thống quan niệm, quan điểm triết học của
con người về thế giới được thể hiện qua hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quy luật.
Thế giới quan triết học ra đời khi nhận thức của con người đạt tới trình
độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa và cùng với đó là các lực
lượng xã hội có ý thức về sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ
đạo cuộc sống.
Thế giới quan và triết học không tlách rời nhau. Triết học là hạt nhân lí
luận của thế giới quan. Do đó, nó là bộ phận quan trọng nhất, giữ vai trò chi
phối các quan điểm, quan niệm về kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, đạo
đức,…
Sự khác nhau giữa thế giới quan triết học và thế giới quan khác (chủ
yếu là thế giới quan tôn giáo), đã được C. Mác chỉ rõ: “…các vị hướng về tình
cảm, triết học hướng về lí trí; các vị nguyền rủa than vãn, triết học dạy bảo;
các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế giới, triết học không hứa hẹn gì cả
ngoài chân lí; các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học đòi hỏi
tin tưởng vào các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài
nghi; các vị doạ dẫm, triết học an ủi. Và thật thế, triết học biết cuộc sống khá
đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không bao dung sự khao khát
hưởng lạc và lòng vị kỉ – của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục”.
Thế giới quan triết học được chia thành thế giới quan duy vật và thế
giới quan duy tâm.
Ngoài các hình thức cơ bản trên của thế giới quan, còn có hình thức
thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học.
Thế giới quan khoa học hình thành trên cơ sở tổng kết những thành tựu
khoa học, vì thế nó phản ánh trung thực và đúng đắn về thế giới. Ở thế giới
quan khoa học, các quan điểm, quan niệm về thế giới, về bản thân con người
và quan hệ giữa con người với thế giới luôn được bổ sung, hoàn thiện cùng
với sự tăng tiến của tri thức khoa học, đã làm cho vai trò cải tạo thế giới thông
qua hoạt động thực tiễn của thế giới quan khoa học ngày càng tăng lên.
2. Thế giới quan duy vật
a. Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật
– Thế giới quan duy tâm coi bản chất của thế giới là tinh thần và thừa
nhận vai trò quyết định của tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối
với con người, xã hội loài người nói riêng.
Thế giới quan duy tâm có nhiều cấp độ khác nhau và được biểu hiện
dưới hình thức rất đa dạng. Cấp độ khác nhau của thế giới quan duy tâm phụ
thuộc vào trình độ nhận thức của con người và tương ứng với từng cấp độ
nhận thức, thế giới quan duy tâm được thể hiện dưới các hình thức huyền
thoại, tôn giáo hay triết học. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Tất cả những
nhà duy tâm cả về triết học lẫn tôn giáo, cả cũ lẫn mới, đều tin vào linh cảm,
khải thị, Chúa cứu thế, người sáng tạo kì diệu; sự tín ngưỡng ấy mang hình
thức thô sơ, tôn giáo hay hình thức văn minh, triết học thì điều đó chỉ phụ
thuộc vào trình độ giáo dục của họ”. Tính đa dạng của thế giới quan duy tâm
phụ thuộc vào sự đa dạng trong quan niệm về tinh thần của những người
theo chủ nghĩa duy tâm. “Tinh thần” có thể là ý thức chủ quan bên trong của
con người như tri thức, tình cảm, ý chí, trực giác; cũng có thể là một bản
nguyên bên ngoài con người như “tinh thần tối cao”, “đấng sáng tạo”, “ý niệm
tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”…
– Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất và
vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần,
thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong đời sống hiện thực.
Thế giới quan duy vật có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Một là, khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế
giới vật chất không sinh ra, không mất đi, mà nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô
tận.
Hai là, thế giới quan duy vật thừa nhận có sự tồn tại của các hiện
tượng ý thức, tinh thần, song nó chỉ rõ mọi biểu hiện của ý thức, tinh thần đều
có nguồn gốc vật chất. Vì thế trong quan hệ với ý thức, tinh thần, thì vật chất
là cái có trước, giữ vai trò quyết định.
Ba là, trong khi khẳng định sự tồn tại của con người hiện thực và vai trò
quyết định của hoàn cảnh vật chất, thế giới quan duy vật nhấn mạnh tính
năng động, sáng tạo của ý thức.
Phân biệt giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, V.I.
Lênin vạch rõ: “Không trừ một trường hợp nào, chúng ta đã thấy rằng, đằng
sau một đống thuật ngữ tinh vi mới, đằng sau cái mớ lộn xộn những nghị luận
uyên thâm kinh viện, là hai đường lối cơ bản, hai khuynh hướng cơ bản trong
cách giải quyết các vấn đề triết học”. Và “Chủ nghĩa duy vật cho rằng giới tự
nhiên là cái có trước, tinh thần là cái có sau, nó đặt tồn tại lên hàng đầu và tư
duy vào hàng thứ hai. Chủ nghĩa duy tâm thì ngược lại”. Như vậy, cơ sở có
tính nguyên tắc để phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm là
lập trường giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tồn tại
và tư duy, vật chất và ý thức, tự nhiên và tinh thần, giữa chúng thì cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào giữ vai trò quyết định cái nào? Nhận thức của
con người là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
b. Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
Chủ nghĩa duy vật từ khi ra đời đến nay đã trải qua ba hình thức cơ bản
là chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Tương ứng với ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật lý
ba hình thức cơ bản của thế giới quan: thế giới quan duy vật chất phác, thế
giới quan duy vật siêu hình, thế giới quan duy vật biện chứng.
– Thế giới quan duy vật chất phác ra đời và tồn tại gắn liền với lịch sử
thời cổ đại, thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, mộc mạc của những nhà
triết học duy vật. Đó là thời kì đời sống xã hội còn ở trình độ rất thấp. Sản
xuất vật chất bằng lao động cơ bắp với công cụ thô sơ là chủ yếu, còn hoạt
động nhận thức của một bộ phận lao động trí óc phần nhiều chỉ dựa vào sự
quan sát trực tiếp thế giới, vào sự phỏng đoán chứ chưa có luận chứng khoa
học. Trong khi thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, các nhà duy vật
thời kì này lại quan niệm vật chất là một hay một số dạng vật chất ban đầu
như nước, lửa, không khí, nguyên tử…, từ đó tạo thành thế giới.
Với quan niệm như vậy, mặc dù mang đậm nét tính ngây thơ, mộc mạc,
song thế giới quan duy vật chất phác thời cổ đại đã vượt lên so với thế giới
quan huyền thoại và thế giới quan tôn giáo trong xã hội đương thời. Đóng góp
lớn của thế giới quan duy vật chất phác đối với lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại là đã đánh đấu bước chuyển từ giải thích thế giới bằng huyền thoại sang
giải thích thế giới bằng tư duy triết học. Thế giới quan duy vật chất phác đã
định hướng cho con người nhận thức thế giới xuất phát từ chính bản thân thế
giới và đặt ra nhiều vấn đề cả bề rộng lẫn bề sâu mà sau này các hình thức
thế giới quan duy vật tiếp tục bổ sung và phát triển. Nó góp phần đấu tranh
chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo trong xã hội, thúc đẩy sự phát triển tư
tưởng khoa học, tiến bộ thời cổ đại.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử nên thế giới quan duy vật chất phác còn
nhiều hạn chế. Một là, nhận thức vì thế giới còn mang tính tính trực quan,
dựa vào sự phỏng đoán là chính; Hai là: các nhà triết học duy vật thời cổ đại
đã đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể hoặc sự kết hợp của một số dạng
vật chất; Ba là, không hiểu được bản chất của các hiện tượng tinh thần cũng
như mối quan hệ giữa tinh thần với vật chất, không lí giải được mối quan hệ
giữa tinh thần và vật chất trong đời sống xã hội, dẫn đến quan niệm duy tâm
về lịch sử; Bốn là, thế giới quan duy vật chất phác thời cổ đại chỉ dừng lại ở
việc giải thích thế giới chứ chưa có vai trò cải tạo thế giới.
– Thế giới quan duy vật siêu hình
Thế giới quan duy vật siêu hình gắn với chủ nghĩa duy vật số hình thời
cận đại ở Tây âu (thế kỉ XVII – XVIII). Thời kì này, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa (TBCN) đã được xác lập ở nhiều nước. Sự ra đời của phương
thức sản xuất TBCN đòi hỏi khoa học tự nhiên phải có bước phát triển mới.
Nhưng ở thế kỉ XVII XVIII, khoa học tự nhiên nói chung còn ở trình độ phát
triển hạn chế: hóa học vẫn ở hình thức ấu trĩ, chủ yếu theo thuyết Phlôgixtôn;
sinh vật học mới ở trình độ phôi thai khi nghiên cứu về cơ thể động, thực vật,
lịch sử phát triển của trái đất hoàn toàn chưa được biết đến… Trong tất cả
các khoa học tự nhiên thời kì này, chỉ có cơ học về cơ bản đã đạt đến mức độ
phát triển cao, các định luật cơ học đã được coi là duy nhất đúng đối với mọi
hoạt động nhận thức. Cũng ở thời kì này, việc áp dụng phổ biến phương
pháp phân tích là phương pháp tách cái toàn thể thành các bộ phận riêng lẻ
để nhận thức và ít chú ý đến mối liên hệ giữa các bộ phận ấy đã đem lại hiệu
quả to lớn trong việc tìm hiểu những lĩnh vực cụ thể của hiện thực. Khi
phương pháp này được một số nhà duy vật tuyệt đối hóa và đem áp đụng vào
nhận thức triết học thì dẫn đến phương pháp tư duy siêu hình. Hầu hết các
nhà triết học duy vật ở Tây âu thời cận đại đều chịu ảnh hưởng của phương
pháp tư duy siêu hình. Mặc dù trong các học thuyết triết học của các nhà duy
vật thời kì này như Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ, J. Lốc cơ, B. Xpinôda. R. Đêcáctơ,
G. Lametri, Đ. Điđrô, H. Hônbách… có xuất hiện một số yếu tố biện chứng,
song về cơ bản, thế giới quan của họ mang tính duy vật siêu hình.
Thế giới quan duy vật siêu hình có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, phủ nhận vai trò của “Đấng sáng tạo”, thừa nhận bản chất của
thế giới là vật chất, tiếp tục khẳng định và phát triển tư tưởng coi thế giới
được tạo thành bởi bản nguyên vật chất đầu tiên của các nhà duy vật thời kì
cổ đại. Ph. Bê cơn, R. Đềcáctơ coi vật chất là “hạt”; T. Hốpxơ, G. Lamctri, Đ.
Điđrô coi vật chất là các “vật thể riêng lẻ”… Nhìn chung, các nhà duy vật siêu
hình quan niệm rằng, thế giới chẳng qua là vô số những vật thể cụ thể mà cái
này tồn tại bên cạnh cái kia, không thấy được rằng, giữa chúng có mối liên hệ
hữu cơ tác động qua lại, ảnh hưởng và chuyển hóa lẫn nhau.
Hai là, các nhà duy vật siêu hình đã đề cao vị trí và giá trị con người,
song quan niệm của họ về con người lại mang tính siêu hình, máy móc. T.
Hốpxơ coi trái tim con người như chiếc lò xo, dây thần kinh như sợi chỉ, các
khớp xương như những bánh xe. Ph. Bêcơn coi ý thức con người là “linh hồn
biết cảm giác” tồn tại trong óc và luôn chảy theo các dây thần kinh và các
mạch máu… Như vậy, mặc dù đề cao con người, nhưng do quan niệm siêu
hình, các nhà duy vật siêu hình thời kì này không thể có quan niệm đúng về
bản chất và vai trò của con người trong thế giới hiện thực.
– Thế giới quan duy vật biện chứng
Thế giới quan duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng
vào giữa thế kỉ XIX, được V.I. Lênin bảo vệ và tiếp tục phát triển vào cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Thế giới quan duy vật biện chứng ra đời là kết quả của sự kế thừa có
phê phán, chọn lọc những thành tựu trong lịch sử triết học, đặc biệt là quan
điểm duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen của C. Mác và
Ph. Ăngghen; đồng thời là kết quả khái quát thành tựu khoa học tự nhiên đạt
được đến giữa thế kỉ XIX, trước hết là thành tựu của vật lí học và sinh học.
Ph. Ăngghen đánh giá rằng: “khoa học tự nhiên kinh nghiệm chủ nghĩa đã
phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ đến mức làm cho người ta
không những có thể khắc phục được hoàn toàn tính thiển cận máy móc của
thế kỉ XVIII, mà ngay bản thân khoa học tự nhiên, nhờ chứng minh được
những mối liên hệ tồn tại trong bản thân giới tự nhiên ngay cả giữa những
lĩnh vực nghiên cứu khác nhau (cơ học, vật lí học, hóa học, sinh vật học…)
mà đã biến từ khoa học sinh nhiệm chủ nghĩa thành khoa học lí luận và nhờ
tổng hợp những kết quả đã đạt được mà trở thành một hệ thống duy vật về
giới tự nhiên”.
Sự ra đời thế giới quan duy vật biện chứng còn là kết quả tổng kết rút
ra từ thực tiễn lịch sử Tây Âu khi phương thức sản xuất TBCN đã hình thành
và đã bộc lộ cả những ưu việt và hạn chế của nó, là tổng kết rút ra từ thực
tiễn lịch sử phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước Tây Âu
chống lại chế độ áp bức, bóc lột bất công của chủ nghĩa tư bản.
Nội dung, bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng là đem lại cho
con người không chỉ bức tranh trung thực về thế giới mà còn là công cụ hiệu
quả giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
II. NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỚI TƯ CÁCH LÀ HẠT NHÂN LÍ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a. Quan điểm duy vật về thế giới
Các nhà triết học duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần.
Trái lại, các nhà triết học duy vật khẳng định bản chất của thế giới là vật chất.
Quan điểm duy vật về bản chất thế giới đã không ngừng được bổ sung, phát
triển cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên và thực tiễn. Kế thừa quan
điểm duy vật trong lịch sử, dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đi tới khẳng định rằng, bản chất của thế giới là
vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan,
tồn tại độc lập với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh.
Tính thống nhất vật chất của thế giới được thể hiện:
– Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô tận vô hạn, không được sinh ra
và không bị mất đi.
– Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều là nhưng dạng tồn tại cụ thể
của vật chất hay là thuộc tính của vật chất, thế giới không có gì khác ngoài
vật chất đang vận động.
– Các sự vật hiện tượng của thế giới vật chất thống nhất chặt chẽ với
nhau, luôn vận động phát triển theo các quy luật khách quan, chuyển hóa lẫn
nhau, là nguồn gốc, là nguyên nhân và kết quả của nhau.
– Ý thức là đặc tính của bộ não người, là kết quả phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ não người.
Nội dung trên của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính thống nhất vật
chất của thế giới không phải là sự khái quát tùy tiện chủ quan, mà là tổng kết
rút ra từ các thành tựu của khoa học tự nhiên. Đó là từ phỏng đoán thiên tài
về bảo toàn vật chất và bảo toàn vận động của Lômônôxốp, sau đó là việc
chứng minh được bằng thực nghiệm sự bảo tồn khối lượng trong các phản
ứng hóa học, đến định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mâyơ, đã
tạo cơ sở khoa học cho kết luận về sự bất sinh bất diệt của thế giới vật chất.
Sự phát hiện của Svanno và Slayden cho rằng, tế bào là cơ sở của kết cấu và
sự phát triển của thực, động vật, đã chứng minh tính thống nhất của giới tự
nhiên hữu cơ, của lịch sử sự sống trên trái đất. Học thuyết tiến hóa của
Đácuyn luận chứng quá trình vận động, biến đổi, phát triển của thực, động vật
thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên và nhân tạo cũng như các phát hiện
khác về sinh học, vật lí hóa học, thực vật học, địa chất học… đã tạo luận cứ
khoa học để Ph.Ăngghen luận chứng, khái quát về các hình thức vận động cơ
bản, về liên hệ, chuyển hóa không ngừng của thế giới vật chất.
Như vậy, đúng như các nhà duy vật biện chứng đã tổng kết, “bản chất
vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới được chứng minh không phải
bằng với ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu
dài, khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”.
b. Quan điểm duy vật về xã hội
Từ góc độ duy vật biện chứng, C.Mác quan niệm “Xã hội – dù nó có
hình thức gì đi nữa – là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
những con người”. V.I. Lênin cho rằng, “Trong khi nghiên cứu sâu và phát
triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và
mở rộng học thuyết ấy, từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã
hội loài người”. C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, cũng giống như mọi hiện
tượng tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội loài
người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định.
Quan điểm duy vật mácxít về xã hội thể hiện ở bốn nội dung cơ bản
sau đây:
– Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên
Vận dụng quan điểm duy vật vào nghiên cứu xã hội, dựa trên bằng
chứng của khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định xã hội là một
bộ phận đặc thù của tự nhiên. Chính sự phát triển dưới hình thức tiến hóa lâu
dài của giới tự nhiên đã dẫn tới sự ra đời của con người và xã hội loài người.
Xã hội là một bộ phận đặc thù và là sản phẩm phát triển cao nhất của giới tự
nhiên. Tính đặc thù của xã hội thể hiện ở hai đặc trưng: một là, sự tồn tại, vận
động, phát triển của xã hội có hệ thống các quy luật riêng; hai là, sự vận
động, phát triển của xã hội bao giờ cũng phải thông qua hoạt động có ý thức
của con người, đang theo đuổi những mục đích nhất định.
– Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất
quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội.
Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội chỉ rõ sự khác nhau căn bản
giữa con người với động vật là ở chỗ, động vật sống nhờ vào bản năng; con
người tồn tại phát triển không chỉ dựa vào cái có sẵn của tự nhiên mà bằng
lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng cho nhu
cầu đời sống của con người. Từ đó, triết học Mác đi từ khẳng định sản xuất
vật chất là cơ sở của đời sống xã hội đến chỗ lịch sử tồn tại, phát triển của xã
hội gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, sản xuất vật chất lại được
tiến hành theo một cách thức nhất định, đó là phương thức sản xuất. Phương
thức sản xuất giữ vai trò quyết định các sinh hoạt xã hội, đời sống tinh thần
nói chung. Sự thay đổi phương thức sản xuất sẽ làm thay đổi các mặt khác
của đời sống xã hội. Như vậy, lịch sử phát triển của xã hội thực chất là lịch sử
phát triển của các phương thức sản xuất vật chất từ thấp đến cao.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người không chỉ gắn
liền với một phương thức sản xuất nhất định, mà còn dựa vào những điều
kiện tất yếu là môi trường tự nhiên, dân số và những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác. Phương thức sản xuất cùng toàn bộ những điều kiện tất yếu của
sản xuất và những điều kiện sinh hoạt vật chất chính là tồn tại xã hội. Trong
mối quan hệ với ý thức, tinh thần của xã hội thì tồn tại xã hội giữ vai trò quyết
định. “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ. Trái lại, tồn
tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.
– Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên
Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội xem xét xã hội trong tiếng giai
đoạn lịch sử nhất định đó chính là hình thái kinh tế – xã hội. Mỗi hình thái kinh
tế – xã hội là một chỉnh thể, bao gồm nhiều yếu tố trong đó có yếu tố cơ bản
hợp thành là lực lượng sản xuất các quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng.
Trong quá trình sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất thường xuyên
biến đổi và phát triển. Khi lực lượng sản xuất biến đổi, phát triển đến một mức
độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ thay đổi cho phù hợp với trình độ mới
của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất thay đổi dẫn đến kết cấu kinh tế
trong cơ sở hạ tầng thay đổi, tất yếu dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng. Đến đây các mặt cơ bản của hình thái kinh tế – xã hội đã thay
đổi, cũng có nghĩa là hình thái kinh tế – xã hội này đã chuyển sang hình thái
kinh tế – xã hội khác cao hơn.
Như vậy, sự vận động, phát triển của xã hội tuân theo các quy luật
mang tính khách quan, trước hết và quan trọng nhất là sự tác động của hai
quy luật cơ bản: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Những quy luật này chi phối, tác
động làm cho sự vận động phát triển của xã hội loài người biểu hiện là một
quá trình lịch sử – tự nhiên. Đồng thời những quy luật này nói lên lôgíc của
tiến trình lịch sử nhân loại.
– Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
Khi khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương
thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung; sự phát triển của lịch sử xã hội loài người là một quá trình lịch sử – tự
nhiên; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, thì quan điểm duy vật biện
chứng về xã hội đồng thời khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể chân
chính sáng tạo ra lịch sử. Vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân
dân được thể hiện ở chỗ: quần chúng nhân dân chính là lực lượng trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất, là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội, là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần.
Trong mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ, quan điểm
duy vật biện chứng về xã hội đánh giá cao vai trò của lãnh tụ: lãnh tụ là người
nắm bắt xu thế của thời đại, định hướng chiến lược, sách lược cho hành động
của quần chúng; tổ chức giáo dục, thuyết phục, thống nhất ý chí hành động
của quần chúng nhằm giải quyết những vấn đề mà thời đại đặt ra. Nhưng suy
cho cùng, quần chúng nhân dân vẫn là lực lượng quyết định sự tồn tại của
lãnh tụ, quyết định uy tín và sức mạnh của lãnh tụ. Trong tiến trình lịch sử,
lãnh tụ là người tổ chức, định hướng, dẫn dắt phong trào quần chúng, thúc
đẩy sự phát triển lịch sử và quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự
phát triển ấy.
Tóm lại, quan điểm duy vật về xã hội là một hệ thống quan điểm thống
nhất chặt chẽ phán ánh quy luật ra đời, tồn tại, vận động, phát triển của xã hội
và các lực lượng thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trong quá trình vận động
phát triển của lịch sử xã hội.
2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Xung
quanh vấn đề cơ bản của triết học đã có nhiều cách giải quyết khác nhau,
thậm chí đối lập nhau. Xuất phát từ quan điểm coi bản chất của thế giới là tinh
thần, chủ nghĩa duy tâm đã cho ý thức là người gốc của vật chất, quyết định
vật chất. Trái lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác bằng việc khẳng định bản chất
của thế giới là vật chất, đã có ý nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm và đặt nền móng cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật sau
này. Song chủ nghĩa duy vật trước Mác, trong khi giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học đã mắc phải hạn chế là không thấy được sự tác động trở lại của
ý thức đối với vật chất, dẫn đến duy tâm về xã hội và con người.
Hạn chế trên của chủ nghĩa duy vật trước Mác có nhiều nguyên nhân,
song nguyên nhân chủ yếu và cũng là “khiếm khuyết chủ yếu” là thiếu quan
điểm thực tiễn.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa phạm trù thực tiễn vào lí luận
nhận thức, do đó có cơ sở để giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết
học. Thực tiễn với tư cách là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang
tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội, thoả mãn
nhu cầu của con người trong mỗi giai đoạn nhất định của lịch sử. Thực tiễn là
hoạt động đặc trưng, bản chất của con người, là phương thức tồn tại của xã
hội. Hoạt động thực tiễn đa dạng, phong phú song có thể phân thành ba dạng
cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt
động thực nghiệm khoa học.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học, xem thực tiễn là “mắt khâu trung gian” trong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, thực tiễn chính là nơi con người vật chất hóa ý thức tư tưởng, biến
ý thức tư tưởng thành hiện thực. C. Mác viết: “Thực tiễn là nơi con người
chứng minh chân lí, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính
trần tục của tư duy của mình”.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế
của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết
học. Đó là trong khi khẳng định vai trò quyết định của điều kiện vật chất, các
nhà duy vật biện chứng đã “không loại trừ việc các lĩnh vực tư tưởng, đến
lượt chúng, lại có tác động ngược lại, nhưng là tác động cấp hai lên những
điều kiện vật chất ấy…”, không loại trừ việc các lĩnh vực tư tưởng, “… cũng
sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
b. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
Đây hoàn toàn không phải là sự kết hợp giản đơn giữa chủ nghĩa duy
vật trước Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Trước Mác, chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản là tách rời nhau. Chủ nghĩa duy
vật tuy có chứa đựng một số yếu tố biện chứng nhất định, nhưng nhìn chung
tính chất siêu hình là đặc trưng của chủ nghĩa duy vật kể cả chủ nghĩa duy vật
nhân bản của Phoiơbắc. Trong khi đó phép biện chứng lại đạt tới đỉnh cao ở
chủ nghĩa duy tâm trong triết học của Hêghen.
Mác đã phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen là coi thường
nội dung thực tế, vật chất của các quá trình tự nhiên, xã hội và do đó bóp
méo, giải thích một cách thần bí bản chất của chúng. mô tả sự liên hệ, biến
đổi phát triển như là sự liên hệ, phát triển lôgic của khái niệm. Từ đó Mác đã
thực hiện sự cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của Hêghen
sau khi tách “hạt nhân hợp lí” vốn có của nó, sau khi vứt bỏ lối quy các quá
trình vật chất vào sự vận động, lôgíc của tư duy, vào sự tự nhận thức của “ý
niệm tuyệt đối”. Đồng thời Mác tiến hành cải tạo một cách biện chứng chủ
nghĩa duy vật siêu hình trước đó và thực hiện sự liên kết thành một thể thống
nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng
duy vật đã tạo ra sự thay đổi về chất của chủ nghĩa duy vật. Thuật ngữ “chủ
nghĩa duy vật biện chứng” và “phép biện chứng duy vật” là “bình đẳng”, “đồng
nhất” xét về ý nghĩa cơ bản của chúng. Toàn bộ quá trình tự nhiên, xã hội đều
diễn ra một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng được thể hiện ở chỗ chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Bởi vì chủ nghĩa
duy vật triệt để, bản thân nó phải mang tính chất biện chứng; và ngược lại,
phép biện chứng triệt để phải là phép biện chứng duy vật. Các nguyên lí của
chủ nghĩa duy vật và của phép biện chứng ở đây đã hòa quyện vào nhau tạo
nên một lí luận thống nhất – lí luận biện chứng duy vật – một lí luận triết học
hoàn bị, triệt để, khoa học.
c. Quan điểm duy vật triệt để
Chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật không triệt để, là chủ
nghĩa duy vật về tự nhiên song lại duy tâm về xã hội. Quan điểm duy tâm về
xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác do nhiều nguyên nhân, trong đó có
ba nguyên nhân chủ yếu là: không hiểu đúng vật chất, nhất là vật chất trong
xã hội; chưa lí giải đúng nguồn gốc, bản chất của ý thức, thiếu quan điểm
thực tiễn và quan điểm biện chứng. Cho nên khi đề cập, giải quyết những vấn
đề về xã hội, các nhà duy tâm trước Mác đã lấy các yếu tố tinh thần như tôn
giáo, pháp quyền, đạo đức, tình cảm, ý chí, nguyện vọng… làm nền tảng, dẫn
đến quan điểm duy tâm về xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để vì đã làm rõ
nguồn gốc vật chất của xã hội; luận chứng và khám định vai trò của sản xuất
vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết định quá
trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội và chứng minh sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội là một
quá trình lịch sử – tự nhiên. Với những quan điểm duy vật đó về xã hội, chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt để của chủ
nghĩa duy vật trước Mác. V I Lênin đánh giá “Trong khi nghiên cứu sâu và
phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn
bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận
thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học”.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử là một cuộc cách mạng đối với
quan niệm về xã hội, nó đã đem lại cho con người một công cụ vĩ đại để nhận
thức và cải tạo thế giới.
d. Tính thực tiễn cách mạng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống lí luận triết học thể hiện đậm
nét tính thực tiễn – cách mạng, đó là:
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lí luận của giai cấp vô sản.
C Mác và Ph. Ăngghen đã phát triển các nguyên lí của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, đứng trên lập trường vô sản, xuất phát từ thực tiễn phong
trào công nhân, dựa vào việc nghiên cứu quá trình lịch sử xã hội, khái quát
kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai
cấp tư sản. Bản thân C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đồng thời vừa là nhà
cách mạng vừa là nhà khoa học sáng tạo lí luận. Đối với các ông, nghiên cứu
lí luận không phải là mục đích tự thân mà là nhằm giải quyết những nhiệm vụ
thực tiễn của phong trào công nhân. Do đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
được phong trào công nhân tiếp nhận và trở thành vũ khí lí luận trong cuộc
đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại. Vũ khí lí luận này
đã tạo nên bước chuyển về chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát
lên trình độ tự giác. C. Mác và Ph. Ăngghen nhận định: “Giống như triết học
thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy
triết học là vũ khí tinh thần của mình”l, cho nên, “ngay từ đầu, cái khuynh
hướng mới, coi lịch sử phát triển của lao động là chìa khoá để hiểu toàn bộ
lịch sử của xã hội, đã chủ yếu hướng về giai cấp công nhân và đã được giai
cấp công nhân dành cho một sự hưởng ứng mà nó không tìm thấy và không
mong chờ có được ở phía khoa học quan phương”.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn
đóng vai trò cải tạo thế giới.
Cũng như mọi triết học đều có chức năng giải thích thế giới, chủ nghĩa
duy vật biện chứng là một hệ thống lí luận khoa học phản ánh đúng bản chất
quy luật của các quá trình tự nhiên, xã hội, vì thế: “Triết học Mác là một chủ
nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai
cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”.
Song để có vai trò cải tạo thế giới thì lí luận khoa học phải đi vào cuộc
sống được quần chúng nhân dân tiếp nhận và hành động theo. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng đi vào phong trào công nhân, thể hiện sức mạnh cải tạo
thế giới thông qua thực tiễn cách mạng, từng bước xóa bỏ các chế độ áp
bức, bóc lột, đưa loài người tiến tới một xã hội mới tốt đẹp hơn.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm về tính hợp lí của cái đang
tồn tại đã bao hàm cả sự phủ định, sự diệt vong tất yếu của hiện tồn đó. Ph.
Ăngghen cho rằng: “Đối với triết học duy vật biện chứng đó thì không có gì là
tối hậu, là tuyệt đối là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra – trên mọi sự vật và trong mọi
sự vật dấu ấn của sự suy tàn tất yếu và đối với nó không có gì tồn tại ngoài
quá trình không ngừng của sự sinh thành và sự tiêu vong, của sự tiến triển vô
cùng tận từ thấp đến cao”.
Như vậy, quá trình xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu để xác lập cái mới, cái tiến
bộ hơn là một tất yếu. Đó chính là thực chất tư tưởng về sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Tóm lại, nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện
phong phú, sâu sắc qua từng luận điểm của nó, có thể khái quát thành tư
tưởng cơ bản là:
Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất; trong thế
giới vật chất, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức
có tính độc lập tương đôi tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là sản
phẩm thuần túy của tư duy tư biện, mà là kết quả của sự phát triển lâu dài,
khó khăn của nhận thức triết học trên cơ sở thực tiễn và thành tựu của khoa
học tự nhiên. Vì thế, chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là cơ sở lí luận của
thế giới quan khoa học. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải
là lí luận đã xong xuôi hẳn bất khả xâm phạm, mà là một hệ thống mở, nó
luôn đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển trên cơ sở khái quát thực tiễn và
thành tựu khoa học mới. Hơn nữa, chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải
là lí luận giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động, theo nghĩa những yêu
cầu phương pháp luận có tính nguyên tắc mà nó nêu lên đòi hỏi con người
phải vận dụng sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ thể thì mới đem lại hiệu quả
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ hai nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng: vật chất tồn
tại khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức và ý thức có tính
độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người, thì nguyên tắc phương pháp luận được rút ra là, trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng khách quan đồng thời phải
phát huy tính năng động chủ quan của con người.
1. Tôn trọng khách quan
Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất, trong
đó cốt lõi là tôn trọng quy luật, bởi lẽ thế giới vật chất tồn tại, vận động, biến
đổi, phát triển tuân theo quy luật khách quan. Nguyên tắc tôn trọng khách
quan đòi hỏi con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải luôn xuất
phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện cho hoạt
động của mình.
Một số yêu cầu khi vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan vào cách
mạng Việt Nam hiện nay:
a. Đường lối, chủ trương chính sách phải luôn xuất phát từ thực tế, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời sống
Đường lối, chủ trương, chính sách phải luôn xuất phát từ hiện thực,
phản ánh đúng nhu cầu và tính tất yếu của đời sống thì mới có khả năng biến
thành hiện thực. Ngược lại, nếu đường lối, chủ trương, chính sách thoát li đời
sống, áp đặt chủ quan thì sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, hành động bất
chấp quy luật khách quan, dẫn tới thất bại trong thực tiễn.
Ở Việt Nam, trước khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
năm 1986, quá trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, do chủ quan nóng vội, chúng ta đã vi phạm nhiều quy luật, trong đó
quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Từ vi phạm quy luật nên đã dẫn đến những
sai lầm trong việc cải tạo XHCN, hợp tác hóa nông nghiệp, xác định mục tiêu
mô hình công nghiệp hóa, hình thức, bước đi của thời kì quá độ lên CNXH…
Để đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển, Đảng ta với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật đã tổng kết rút ra bài học: “Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan”.
Hiện nay, thực trạng kinh tế – xã hội, nhất là lực lượng sản xuất ở nước
ta còn ở trình độ thấp, trong khi tiềm năng còn rất lớn chưa khai thác tốt về
lao động, tài nguyên và điều kiện quốc tế thuận lợi… Để đạt mục tiêu đến
năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, Đảng ta đã xuất
phát từ thực tế đất nước hơn 20 năm đổi mới, chủ trương thực hiện nhất
quán nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lí của nhà nước; đặc biệt là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước… nhằm phát huy tối ưu tài lực, trí lực nhân lực còn tiềm tàng, để tạo
nên sự chuyển biến về chất trong toàn bộ đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu
thực tiễn mà cách mạng Việt Nam đang đặt ra.
b. Khi có đường lối chủ trương, chính sách đúng, phải tổ chức được lực lượng vật chất để thực hiện có hiệu quả
Tư tưởng tự bản thân nó không thể trở thành hiện thực mà phải thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Khi lịch sử đặt ra cho con người
những nhiệm vụ phải giải quyết thì đồng thời cũng sản sinh ra những điều
kiện vật chất để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử đó. Cho nên, để hiện thực
hóa đường lối, chủ trương, chính sách, con người phải tìm tòi, huy động, tổ
chức được những yếu tố vật chất thành lực lượng vật chất có đủ sức mạnh
để thực hiện.
Trong thời kì kháng chiến trước đây, nhờ huy động và tổ chức được
sức mạnh tổng hợp của cả nước kết hợp với sức mạnh thời đại, chúng ta đã
tạo nên sức mạnh vật chất khổng lồ của chiến tranh nhân dân, đánh bại các
thế lực thực dân đế quốc xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn chúng ta
nhiều lần.
Ngày nay, Đảng ta thực hiện chủ trương “Đại đoàn kết dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Viết
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Đó cũng chính là lực lượng vật chất có đủ sức mạnh để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
2. Phát huy tính năng động chủ quan
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực sáng tạo
của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa
những tính chất ấy.
Phát huy tính năng động chủ quan cần phải đáp ứng một số yêu cầu cơ
bản sau:
a. Coi trọng, đề cao tri thức khoa học
Tri thức khoa học là hiểu biết của con người về thế giới ở cấp độ bản
chất, quy luật. Nó có vai trò đặc biệt trong đời sống con người và là một động
lực quan trọng của sự phát triển xã hội. Mỗi bước tiến của lịch sử nhân loại
đều gắn liền với thành tựu mới, có tính cách mạng của tri thức khoa học.
Coi trọng, đề cao tri thức khoa học là yêu cầu cơ bản đầu tiên để phát
huy tính năng động chủ quan. Vì tri thức khoa học là tiền đề, điều kiện để phát
triển năng lực trí tuệ của con người. Sự phát triển cao và năng động của trí
tuệ sẽ đem lại kết quả hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo của con người
trên cơ sở tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Thời đại ngày
nay, mỗi quốc gia cũng như mỗi con người nếu thiếu tài nguyên trí tuệ thì sẽ
mất ưu thế phát triển.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của khoa học đối với sự phát triển
đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”, “phát triển mạnh,
kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo
để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu tạo động lực đẩy nhanh
CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức”. Về giáo dục và đào tạo. Đảng ta đã
chỉ rõ “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân văn, dân
tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng” nhằm “đào tạo những con người toàn diện, có đạo đức, tri thức sức
khoẻ, thẩm nmĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và
CNXIH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đối với khoa học, Đảng
chủ trương: “Nhà nước tập trung đầu tư vào các chương trình nghiên cứu
quốc gia, phấn đấu đạt trình độ khu vực và thế giới; xây dựng tiềm lực khoa
học và công nghệ cho một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ cao. Chú trọng
công tác đào tạo, bổ sung cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa
học”.
b. Tích cực truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng
Phát huy tính năng động chủ quan ở quy mô xã hội phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng giữ vị trí rất
quan trọng. Và tri thức khoa học được truyền bá, trở thành niềm tin sẽ trở
thành sức mạnh to lớn thúc đẩy tính tích cực sáng tạo của quần chúng trong
hoạt động thực tiễn xã hội.
Để truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng, Đảng ta chủ trương:
“… xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công
bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và
học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước”; “phát triển mạnh và
nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền
hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
c. Thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội
Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, là một trong
những động lực mạnh mẽ nhất của sự phát triển xã hội.
Dân chủ với phát huy tính năng động chủ quan là một động lực quan
trọng, vì nó thể hiện vai trò chủ thể của con người trong đời sống chính trị –
xã hội. Thông qua dân chủ mà quyền lợi và nghĩa vụ của con người được bảo
đảm, nâng cao tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình và tính năng động sáng tạo
của mỗi người. Dân chủ là một phương thức sử dụng nguồn lực con người, là
một cơ chế kích thích sự cống hiến giải phóng năng lực của con người, nâng
cao tính tích cực, sáng tạo của họ. Vì thế, Đảng ta khẳng định dân chủ xã hội
chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc…”. Để xây dựng một xã hội dân chủ phải “xác định các
hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội” để “mọi đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham
gia ý kiến của nhân dân”.
Tóm lại, tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan là hai
nguyên tắc được rút ra từ quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Để nhận thức về hoạt
động thực tiễn đem lại kết quả, đòi hỏi con người phải quán triệt và thực hiện
chúng một cách đồng bộ, chống những biểu hiện đối lập như chủ quan duy ý
chí hoặc bảo thủ trì trệ.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về thế giới quan?
Câu 2: Sự khác nhau căn bản giữa thế giới quan duy vật và thế giới
quan duy tâm?
Câu 3: Trình bày lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật và phân
biệt sự khác nhau về chất giữa các hình thức cơ bản của thế giới quan duy
vật.
Câu 4: Phân tích nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vì sao chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân của thế giới quan khoa học?
Câu 5: Những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng?
CÂU HỎI XÊMINA
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng và ý nghĩa
phương pháp luận của nó trong nhận thức thực tiễn cách mạng Việt Nam
hiện nay?
Chuyên đề 2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – PHƯƠNG PHÁP LUẬN NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Khái niệm phép biện chứng
a. Siêu hình và biện chứng
Thuật ngữ “siêu hình” có gốc từ tiếng Hi Lạp là “metaphysica”, với
nghĩa là “những gì sau vật lí học”. Theo Arixtốt (384 – 322 tr.CN), “những gì
sau vật lí học” là những hiện tượng “siêu vật lí” thuộc về tinh thần, ý thức, là
bản chất của sự vật, hiện tượng mà Arixtốt gọi là “vô hình” hay “siêu hình”. Về
sau, tài liệu triết học thường dùng theo ý này và gọi là “siêu hình học”.
Trong triết học Mác, thuật ngữ “siêu hình” được dùng theo nghĩa là
phương pháp xem xét sự tồn tại của sự vật, hiện tượng và sự phản ánh
chúng vào tư duy con người trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ
với các sự vật, hiện tượng khác và trong trạng thái không vận động, phát
triển; nếu có vận động, phát triển thì cũng chỉ là sự thay đổi về lượng chứ
không thay đổi về chất. Đây là phương pháp xem xét có tính một chiều, tuyệt
đối hóa mặt này hay mặt kia; phủ nhận các khâu trung gian, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Các nhà siêu hình chỉ dựa trên những
phản đề tuyệt đối không thể dung hòa có là có, không là không; hoặc tồn tại
hoặc không tồn tại; sự vật, hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái
khác nó; cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau. Ph.
Ăngghen khẳng định, phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật
riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, nhìn
thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng
thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy,
chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
– Thuật ngữ “biện chứng” có gốc từ tiếng Hi Lạp là “dialektica” (với
nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là
nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lí bằng cách phát triển các mâu thuẫn
trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận của mình.
Người Hi Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức đúng thì không thể có mâu thuẫn
trong tri thức đó và quá trình đi tới chân lí là quá trình giải quyết những mâu
thuẫn trong lập luận.
Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được dùng đối lập với “siêu
hình”. Đó là lí luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận
động, phát triển không ngừng. Phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật
cá biệt, mà còn thấy mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn
tại của sự vật, mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật; không
chỉ thấy trạng thái tĩnh, mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật; không chỉ
thấy “cây” mà còn thấy cả “rừng”. Theo Ph. Ăngghen, phương pháp biện
chứng “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng,
trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Phương pháp đó mềm dẻo,
linh hoạt, thừa nhận trong những trường hợp nhất định, bên cạnh cái “hoặc
là… hoặc là”, còn có “cái này lẫn cái kia” nữa.
b. Khái quát lịch sử của phép biện chứng
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát
triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn liền với sự phát triển
của khoa học và thực tiễn.
– Phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại
Phép biện chứng cổ đại thể hiện rõ nét trong triết học Ấn Độ, Trung
Quốc và Hi Lạp cổ đại. Trong đạo Phật, quan niệm về nhân duyên, vô ngã, vô
thường đã chứa đựng những tư tưởng biện chứng khá sâu sắc. Trong thuyết
Âm – Dương, âm và dương tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn nhau tạo ra
sự thống nhất giữa cái bất biến với cái biến đổi; giữa cái duy nhất với cái số
nhiều, đa dạng phong phú. Trong thuyết Ngũ hành, năm yếu tố kim – mộc –
thủy – hỏa – thổ tồn tại trong mối liên hệ tương sinh, tương khắc với nhau.
Các yếu tố đó tác động, chuyển hóa lẫn nhau, ràng buộc, quy định lẫn nhau,
tạo ra sự biến đổi trong vạn vật.
Lão Tử (khoảng thế kỉ VI tr.CN) cho rằng, vạn vật bị chi phối bởi hai luật
phổ biến là quân bình và phản phục. Luật quân bình luôn giữ cho sự vận
động của vạn vật được cân bằng theo một trật tự điều hòa trong tự nhiên,
không có gì thái quá không có gì bất cập. Luật phản phục nói rằng, cái gì phát
triển tột độ thì sẽ trở thành cái đối lập với nó. Trong Đạo Đức Kinh còn có
những tư tưởng biện chứng trực quan như bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng
đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc nhau, vừa nương
tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau v.v…
Các nhà “biện chứng bẩm sinh” tiêu biểu của Hi Lạp cổ đại là Hêraclít,
Xôcrát, Platôn, Arixtốt, v.v… Theo Hêraclít, thế giới vật chất tồn tại trong sự
hình thành, vận động vĩnh viễn của sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Phép
biện chứng của ông phản ánh sự vận động, biến đổi của thế giới vật chất nhờ
phát hiện ra mâu thuẫn nội tại của sự vật, hiện tượng. Ông coi sự vận động,
biến đổi của thế giới cũng giống như sự chuyển động, đều trôi đi, chảy đi của
một con sông mà ông đã xây dựng trong Học thuyết về dòng chảy. Với quan
niệm như vậy, Hêraclít đã xây dựng được một số phạm trù của phép biện
chứng như lôgôs (gồm lôgôs chủ quan và lôgôs khách quan) để luận bàn về
những quy luật khách quan của thế giới vật chất và coi đó là nội dung cơ bản
của phép biện chứng. Sau Hêraclít, phép biện chứng Hi Lạp cổ đại tiếp tục
được hoàn thiện, phát triển với nhiều nội dung phong phú.
Xôcrát, người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “biện chứng” theo nghĩa là
nghệ thuật tranh luận, hướng các bên cùng quan tâm tới vấn đề đang tranh
luận với mục đích đạt được chân lí bằng con đường độc lập các ý kiến của họ
qua hình thức hỏi – đáp.
Tư tưởng biện chứng của Xôcrát đã được phát triển hơn trong quan
niệm biện chứng của Platôn. Platôn cho rằng, phép biện chứng là nghệ thuật
tìm ra các khái niệm đúng, là thao tác lôgíc phân chia và gắn kết các khái
niệm bằng công cụ hỏi – đáp để xác định đúng các khái niệm đó.
Arixtốt đưa ra nhiều tư tưởng về phạm trù, quy luật và xây dựng các
hình thức cơ bản của tư duy. Ph. Ăngghen khẳng định: “Những nhà triết học
Hi Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát bẩm sinh và Arixtốt, bộ óc
bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình
thức căn bản nhất của tư duy biện chứng”.
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ.
Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong bức tranh chung, chỉnh thể về thế giới. Do trình độ còn thấp kém
về khoa học nên phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm biện
chứng mộc mạc, mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh
nghiệm trực giác mà chưa được minh chứng bởi các tri thức khoa học. Ph.
Ăngghen khẳng định: “Hình thức thứ nhất là triết học Hi Lạp. Trong triết học
này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên chưa bị
khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu và nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu hình
là đúng hơn so với những người Hi Lạp, thì về toàn thể, những người Hi Lạp
lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình”. Cho dù còn nhiều hạn chế, nhưng
nhìn chung, phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là chỉnh thể thống nhất;
giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, lác động và
quy định lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Những nội dung
tư tưởng cơ bản của phép biện chứng Hi Lạp cổ đại là cơ sở để phép biện
chứng phát triển lên các hình thức cao hơn. Ph. Ăngghen cho rằng, triết học
hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi.
– Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức (cuối thế kỉ XVII
đầu thế kỉ XX)
Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ,
qua Phíchtơ, Sêlinh và phát triển đến đỉnh cao trong phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Ph. Ăngghen khẳng định “hình thức thứ hai của phép biện
chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết
học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen”.
Trong triết học Cantơ, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về sự
thống nhất giữa các mặt đối lập, theo đó, sự thống nhất và thâm nhập lẫn
nhau giữa các mặt đối lập là động lực của sự vận động và phát triển. Động
lực đó có trước vật chất và vận động tách rời vật chất. Trong triết học
Phíchtơ, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mâu thuẫn là nguồn gốc
của sự phát triển. Mâu thuẫn và phát triển chỉ tồn tại trong ý thức, thể hiện
trong sự vận động tiến bộ của tư duy trong quá trình nhận thức. Trong triết
học Sêlinh, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mối liên hệ phổ biến;
sự thống nhất và sự phát triển; tư tưởng về sự thống nhất biện chứng của tự
nhiên, về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong tự nhiên.
Trong triết học Hêghen, phép biện chứng duy tâm được phát triển đến
đỉnh cao với hình thức và nội dung phong phú. Về hình thức, phép biện
chứng duy tâm của Hêghen đã bao quát cả ba lĩnh vực, bắt đầu từ các phạm
trù lôgíc thuần túy đến lĩnh vực tự nhiên và kết thúc bằng biện chứng của toàn
bộ quá trình lịch sử. Về nội dung, Hêghen chia phép biện chứng thành tồn tại,
bản chất và khái niệm. Tồn tại là cái vỏ bên ngoài, trực tiếp, nông nhất mà
con người có thể cảm giác và được cụ thể hóa trong các phạm trù chất,
lượng và độ. Bản chất là lãng gián tiếp của thế giới, không thể nhận biết được
bằng cảm giác, tồn tại trong mâu thuẫn đối lập với chính mình và được thể
hiện trong các phạm trù “hiện tượng – bản chất”, “hình thức – nội dung”,
“ngẫu nhiên – tất yếu”, “khả năng – hiện thực” v.v… Còn khái niệm (mà hiện
thân của nó là giới hạn cơ, sự sống) là sự thống nhất giữa tồn tại với bản
chất, là cái vừa trực tiếp (có thể cảm giác được), vừa gián tiếp (không thể
cảm giác được), được thể hiện trong các phạm trù “cái phổ biến”, “cái đặc
thừ”, “cái đơn nhất”. Phép biện chứng trong giai đoạn này là “sự phát triển”,
nghĩa là sự chuyển hóa từ cái trừu tượng đến cái cụ thể; từ chất này sang
chất khác được thực hiện nhờ giải quyết mâu thuẫn. Phát triển được coi là sự
tự phát triển tịnh tiến của “ý niệm tuyệt đối”, từ tồn tại đến bản chất, từ bản
chất đến khái niệm, trong đó khái niệm vừa là chủ thể, vừa là khách thể, đồng
thời là “ý niệm tuyệt đối”. Hêghen coi phát triển là nguyên lí cơ bản nhất của
phép biện chứng với phạm trù trung tâm là “tha hóa” và khẳng định “tha hóa”
được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
Các nhà biện chứng cổ điển Đức, mà Hêghen là điển hình, đã áp dụng
phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Qua đó đã xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật chung, thống nhất, có
lôgíc chặt chẽ của nhận thức tinh thần, và trong một ý nghĩa nào đó, là của cả
hiện thực vật chất. Mặc dù có nhiều “hạt nhân hợp lí” và “lấp lánh mầm mống
phôi thai của chủ nghĩa duy vật” nhưng phép biện chứng của triết học cổ điển
Đức còn mắc phải những hạn chế nhất định. Theo V.I. Lênin, những kết luận
của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là những phỏng
đoán tài tình về “biện chứng của sự vật trong biện chứng của khái niệm”.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã hoàn thành cuộc
cách mạng về phương pháp, nhưng cuộc cách mạng đó lại ở tận trên trời,
chứ không phải ở dưới trần gian, trong cuộc sống hiện thực của loài người,
và do vậy, phép biện chứng đó cũng “không tránh khỏi tính chất gò ép, giả
tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”. Do vậy học thuyết của Hêghen đã để một
khoảng đất rộng cho các quan điểm thực tiễn có tính chất đảng phái và hết
sức khác nhau. Người nào đặc biệt dựa vào hệ thống của Hêghen thì người
đó có thể là khá bảo thủ, còn người nào cho phương pháp biện chứng là chủ
yếu, thì người đó, về chính trị cũng như về tôn giáo, đều có thể thuộc vào
trường phái cực đoan nhất.
Theo V.I. Lênin, cống hiến lớn nhất của phép biện chứng duy tâm trong
triết học cổ điển Đức, đặc biệt là Hêghen, đã trở lại phép biện chứng, coi nó
như một phương pháp xem xét đối lập với phương pháp siêu hình thế kỉ XVII,
XVIII. Nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu được đúc rút từ kinh nghiệm cuộc
sống hằng ngày, thì phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã
trở thành một hệ thống lí luận tương đối hoàn chỉnh và trong một chừng mực
nhất định, đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ biến. Lần đầu
tiên phép biện chứng thể hiện với tư cách là lôgíc biện chứng, khắc phục một
số hạn chế của lôgíc hình thức. V.I. Lênin còn cho rằng, phép biện chứng duy
tâm trong triết học cò điển Đức đã tạo ra bước quá độ chuyển biến về thế giới
quan và lập trường từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang thế giới quan khoa
học duy vật biện chứng. Tuy nhiên, với những hạn chế của phép biện chứng
duy tâm trong triết học cổ điển Đức, khi khoa học tự nhiên phát triển sang giai
đoạn tổng quát, nghiên cứu quá trình phát sinh, thì tất yếu nó sẽ bị phủ định
và thay thế bằng phép biện chứng duy vật.
– Phép biện chứng duy vật
Ph. Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ
phổ biến” và “Phép biện chứng (…) là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và
của tư duy”. V.I. Lênin viết: “phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát
triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học
thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản
ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”. Hồ Chí Minh đánh giá “Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”, có thể hiểu
phép duy vật biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến và phát triển; về
những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội
và tư duy.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo những “hạt
nhân hợp lí” trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, mà trực tiếp là phép
biện chứng duy tâm của Hêghen và đặt nó trên nền tảng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan
duy vật với phương phát biện chứng; giữa lí luận nhận thức với lôgíc biện
chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong
phương pháp tư duy triết học; là phương pháp tư duy khác về chất so với các
phương pháp tư duy trước đó; là “phương pháp mà điều căn bản là nó xem
xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối
liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát
sinh và sự tiêu vong của chúng”.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự
giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là
kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên cũng như lịch sử xã hội loài
người. Mỗi nguyên lí, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được khái
quát và luận giải trên cơ sơ khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật
đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác. Theo Ph. Ăngghen, “Biện
chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi
là chủ quan, tức là tư duy biên chung, thì chỉ phản ánh sự chi phối trong toàn
bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những
mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối
cùng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, tương tự với những hình thức
cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội, tư duy quy định nội dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của phép
biện chứng duy vật bao gồm nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về
sự phát triển. Đây là các nguyên lí có ý nghĩa khái quát nhất. Các phạm trù,
các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hóa các
nguyên lí trên. Nghiên cứu và làm sáng tỏ các nguyên lí, các phạm trù, quy
luật cơ bản đó là nhiệm vụ cơ bản của phép biện chứng duy vật. Ph. Ăngghen
nhấn mạnh: “Vậy là từ trong lịch sử của giới tự nhiên và lịch sử của xã hội loài
người mà người ta đã rút ra được các quy luật của biện chứng. Những quy
luật không phải là cái gì khác ngoài những quy luật chung nhất của hai giai
đoạn phát triển lịch sử ấy cũng như là bản thân tư duy”.
a. Hai nguyên lí của phép biện chứng duy vật
– Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát
mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo
đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau đến thế
nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế
giới vật chất duy nhất.
Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, chúng giữ
những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, không nên tuyệt
đối hóa mối liên hệ nào và cũng không nên tách rời mối liên hệ này khỏi các
mối liên hệ khác bởi trên thực tế, các mối liên hệ còn phải được nghiên cứu
cụ thể trong sự biến đổi và phát triển của chúng.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế
giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó.
Tính vô hạn của thế giới khách quan, tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong
thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy
định bằng nhiều mối liên hệ với hình thức, vai trò khác nhau. Từ nguyên lí về
mối liên hệ phổ biến, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ
đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
– Nguyên lí về sự phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình
vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho
sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển
trước hết là sự tự phát triển. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa
các mặt đối lập bên trong sự vật hiện tượng. Phát triển đi theo đường “xoáy
ốc”, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc tính của cái cũ nhưng
trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước
thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
Phát triển có tính khách quan, phổ biến đa dạng. Phát triển là một
trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện
tượng chuyển hóa sang chất mới, cao hơn, phức tạp hơn, làm cho cơ cấu tổ
chức, phương thức vận động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện
hơn. Từ nguyên lí về sự phát triển, con người rút ra được những quan điểm,
nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện
chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản như cái riêng, cái chung,
cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân
và kết quả, khả năng và hiện thực; nội dung và hình thức v.v… Chúng được
hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải
tạo tự nhiên, xã hội. Các phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên
và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các
phương pháp phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái quát hóa,
trừu tượng hóa để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ
thống. Các phạm trù nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực là cơ sở
phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển giữa các sự vật hiện
tượng là một quá trình. Các phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương
pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung,
phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và thực tiễn.
– Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự
phản ánh những sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá
trình so sánh giữa những sự vật, hiện tượng này với những sự vật, hiện
tượng khác; phân biệt chỗ giống nhau và khác nhau giữa chúng, nhận thức đi
đến sự phân biệt cái riêng, cái chung. Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một
sự vật, một hiện tượng nhất định. Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những
mặt, những thuộc tính lặp lại trong nhiều sự vật nhiều hiện tượng. Cái đơn
nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật,
hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng với
nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng;
ngược lại, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, bao hàm cái
chung, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng; cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển
hóa lẫn nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. V.I. Lênin viết:
“Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn
tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái
chung (…). Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả
mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái
chung, v.v… Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa
mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác”.
– Nguyên nhân và kết quả
Nhận thức về sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố,
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật,
hiện tượng mới, đó là do mối liên hệ nguyên nhân và kết quả. Nguyên nhân là
sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các
sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là
những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Giữa nguyên nhân, kết quả có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên luôn có trước kết quả; sau khi xuất
hiện, kết quả có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân. Sự phân biệt
nguyên nhân, kết quả có tính tương đối. Một sự vật, hiện tượng ở trong mối
quan hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối quan hệ khác
và ngược lại tạo nên chuỗi nhân – quả vô tận. Do vậy: nguyên nhân, kết quả
bao giờ cũng ở trong mối quan hệ cụ thể.
– Tất nhiên và ngẫu nhiên
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được
tính không một nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau
của sự vật hiện tượng nên phân chia chúng thành nhóm các mối liên hệ nhất
định phải xảy ra đúng như thế và nhóm các mối liên hệ có thể xảy ra, cũng có
thể không xảy ra, cũng có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất nhiên do mối
liên hệ bản chất, do những nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật, hiện tượng
quy định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ
không thể khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên
nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định; có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện;
có thể xuất hiện thế này hoặc thế khác.
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ biện chứng với nhau. Tất
nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số ngẫu nhiên, còn
ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên. Tất
nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên chỉ có thể làm cho
sự phát triển diễn ra nhanh hoặc chậm, trong hình thức này hay trong hình
thức khác. Sự phân biệt tất nhiên, ngẫu nhiên có tính tương đối và trong
những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau.
– Nội dung và hình thức
Việc nhận thức nội dung và hình thức gắn liền với việc nghiên cứu các
yếu tố quy định sự tồn tại của sự vật và phương thức tồn tại của nó. Nội dung
là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình
thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật, hiện tượng.
Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau,
trong đó nội dung giữ vai trò quyết định. Nội dung đòi hỏi phải có hình thức
phù hợp với nó. Khi nội dung thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi theo.
Tuy nhiên, hình thức cũng có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở
lại nội dung. Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó là động lực thúc đẩy nội
dung phát triển, còn khi không phù hợp, hình thức cản trở sự phát triển của
nội dung. Cùng một nội dung, trong quá trình phát triển, có thể thể hiện dưới
nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể phù hợp những nội
dung khác nhau.
– Bản chất và hiện tượng
Khi có được nhận thức tương đối đầy đủ về những mặt những mối liên
hệ tất yếu và những đặc tính riêng của sự vật, thì nhận thức đó vẫn chưa
vươn tới sự phản ánh đầy đủ về sự vật. Để nhận thức đúng sự vật, từ các
hiện tượng phong phú, nhiều vẻ, con người tiếp tục đi sâu, nghiên cứu bản
chất của sự vật. Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển
của sự vật. Hiện tượng là những biểu hiện bề ngoài, bên ngoài của sự vật.
Giữa bản chất và hiện tượng có mối liên hệ biện chứng với nhau: Bản
chất và hiện tượng thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ:
bản chất thể hiện thông qua hiện tượng, còn hiện tượng là sự thể hiện của
bản chất; bản chất “được ánh lên” thông qua hiện tượng (Hêghen). Tuy vậy,
“nếu như hình thái biểu hiện và bản chất sự vật phù hợp trực tiếp với nhau,
thì mà khoa học sẽ trở nên thừa”. Hiện tượng thể hiện bản chất trong hình
thức đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất bằng
cách bổ sung vào bản chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể quy
định, làm hiện tượng phong phú hơn bản chất. Bản chất tương đối ổn định, ít
biến đổi hơn, còn hiện tượng “động” hơn, thường xuyên biến đổi hơn.
– Khả năng và hiện thực
Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự
vật, hiện tượng, chúng ta có thể phán đoán được sự vật, hiện tượng sẽ biến
đổi theo hướng nào, nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả
hiện thức và khả năng biến đổi của sự vật, hiện tượng. Khả năng là cái hiện
chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái
đang có, đang tồn tại thực sự.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Trong hiện thực bao giờ cũng
chứa đựng những khả năng nhất định; ngược lại, khả năng lại nằm trong hiện
thực và khi đủ điều kiện sẽ biến thành hiện thực mới. Mối quan hệ giữa khả
năng và hiện thực diễn ra rất phức tạp. Trong từng giai đoạn phát triển của sự
vật thường xuất hiện nhiều khả năng. Khả năng nào biến thành hiện thực là
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Trong hoạt động thực tiễn phải dự báo các khả
năng và tạo điều kiện cho khả năng tốt thành hiện thực và ngăn ngừa khả
năng xấu.
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là hệ thống
bất biến, mà phát triển cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Mối
quan hệ giữa các phạm trù của ngành khoa học với các phạm trù của phép
biện chứng duy vật là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Do vậy, khi
nghiên cứu các phạm trù cần liên hệ chúng với nhau và với các quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật, bởi dù quan trọng đến mấy, chỉ riêng các
phạm trù hoặc các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật cũng không
phản ánh đầy đủ các mối liên hệ của thế giới.
c. Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng duy vật còn bao hàm ba
quy luật phổ biến về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đó là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, quy luật phủ định của phủ định.
– Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng. Trong đó, chất là tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà không
phải là cái khác. Lượng là tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như
các thuộc tính của nó. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng.
Giới hạn, trong đó những thay đổi về lượng của sự vật gây ra những thay đổi
căn bản về chất được gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt quá giới hạn
độ sẽ làm cho chất của sự vật biến căn bản. Điểm mà tại đó sự thay đổi căn
bản về chất được thực hiện gọi là điểm nút. Bước nhảy là bước thay đổi căn
bản về chất của sự vật do thay đổi về lượng trước đó gây ra. Mối quan hệ
giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất còn có chiều ngược lại. Đến
lượt nó, sự thay đổi về chất lại tác động đến lượng, thúc đẩy lượng tiếp tục
phát triển.
Nắm được nội dung quy luật này sẽ tránh nôn nóng, đốt cháy giai đoạn
tích lũy về lượng; đồng thời tránh tư tưởng tuyệt đối hóa sự thay đổi về
lượng, không kịp thời chuyển những thay đổi về lượng sang những thay đổi
về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang những thay đổi mang tính
cách mạng và ngược lại không biết sử dụng chất mới để thúc đẩy lượng tiếp
tục phát triển.
– Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “hạt nhân”
của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn gốc động lực của sự vận động,
phát triển. Theo phép biện chứng, mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau. Mọi sự vật đều có mặt đối lập. Sự tác động giữa
chúng tạo thành mâu thuẫn bên trong của sự vật. Mâu thuẫn biện chứng là
phổ biến, khách quan, vốn có của sự vật. Các mặt đối lập lại vừa thống nhất,
vừa đấu tranh với nhau. Trong đó, thống nhất là tương đối, tạm thời; đấu
tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực của sự vận động, sự phát triển.
Quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phát hiện
và phân tích mâu thuẫn của sự vật cũng như tìm ra con đường đúng đắn để
giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển.
– Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng phát triển của
sự vật. Phủ định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế
thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ là một khâu trong quá trình dẫn tới sự
ra đời của sự vật, hiện tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình phủ định
của phủ định tạo thành sự vận động, phát triển không ngừng mang tính chu kì
của thế giới khách quan. Trải qua một số lần phủ định, sự vật, hiện tượng
dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn và như
vậy, phát triển không đi theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
Quy luật này có một ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong quá trình
thay thế cái cũ bằng cái mới. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ những điều kiện
khách quan cho phép, phải tạo điều kiện, tiền đề cho cái mới chiến thắng cái
cũ, phải biết kế thừa và phát triển sáng tạo những cái tích cực đã đạt được từ
cái cũ; đồng thời phải thấy được tính chất quanh co, phức tạp trong quá trình
ra đời cái mới.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách
thức của sự phát triển; quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự phát triển, thì quy luật phủ
định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự phát
triển đó. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật định hướng việc
nghiên cứu những quy luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành và đến
lượt mình, các quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới chỉ có tác dụng
trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù. Mối quan hệ qua
lại giữa các quy luật cơ bản với các quy luật đặc thù tạo nên cơ sở khách
quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học
chuyên ngành.
II. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN, MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phương pháp và phương pháp luận
a. Khái niệm phương pháp và các cấp độ phương pháp
Thuật ngữ “phương pháp” có gốc từ tiếng Hi Lạp cổ là “methodos” (với
nghĩa là con đường nghiên cứu hay con đường nhận thức). Phương pháp
gắn liền với hoạt động có ý thức, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người. Trước khi hành động, con người thương phân tích
hoàn cảnh; đề ra mục tiêu tương ứng; xác định cách thức và phương tiện để
đạt được mục tiêu đó rồi mới tác động lên sự vật, hiện tượng theo hệ thống
những nguyên tắc nhất định. Hệ thống những nguyên tắc đó tạo nên phương
pháp để đạt được mục tiêu đã đề ra. Như vậy, phương pháp bắt nguồn từ
thực tiễn, phản ánh những quy luật khách quan đã được nhận thức để định
hướng hoạt động có mục đích của con người. “Phương pháp là hệ thống
những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều
chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu
nhất định”.
Như vậy, phương pháp, một mặt có nội dung khách quan, được quy
định bởi bản chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng, mặt khác, phương pháp
chỉ tồn tại trong hoạt động có ý thức của con người. Sau khi đã xác định được
mục tiêu thì phương pháp trở thành yếu tố quyết định thành công hay thất bại
trong hoạt động thực tiễn. Phương pháp càng đúng, hiệu quả hoạt động càng
cao và ngược lại. Bêcơn ví phương pháp như “ngọn đuốc soi đường đi trong
đêm tối”. Hêghen ví phương pháp là “linh hồn của đối tượng”. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của phương pháp,
nhất là trong hoạt động cách mạng.
Sự đa dạng của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự đa dạng của phương
pháp. Các nhà khoa học nghiên cứu những sự vật, hiện tượng khác nhau, có
những phương pháp khác nhau phù hợp với mục tiêu mà khoa học đó đề ra.
Phương pháp được phân loại thành: phương pháp riêng, phương pháp
chung, phương pháp phổ biến; phương pháp nhận thức, phương pháp thực
tiễn. Trong đó, phương pháp riêng (như phương pháp hóa học, phương pháp
lí học, phương pháp xã hội học v.v…) là phương pháp chỉ áp dụng cho từng
bộ môn khoa học cụ thể. Phương pháp chung (như phương pháp quan sát,
thí nghiệm, mô hình hóa v.v…) là phương pháp được áp dụng cho nhiều
ngành khoa học khác nhau. Phương pháp phổ biến là phương pháp biện
chứng duy vật (hình thành từ những nguyên tắc như phân tích và tổng hợp,
trừu tượng và cụ thể, quy nạp và diễn dịch v.v…) được áp dụng trong mọi lĩnh
vực của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phương pháp nhận
thức là phương pháp phản ánh để nhận thức bản chất, quy luật vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Phương pháp thực tiễn (phương pháp cải
tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội v.v…) là phương pháp sử dụng các phương
tiện vật chất để tác động trực tiếp vào sự vật, hiện tượng nhằm biến đổi theo
nhu cầu của con người.
Sự phân chia phương pháp như trên chỉ mang tính tương đối. Trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần vận dụng tổng hợp các
phương pháp, không tuyệt đối hoặc coi nhẹ phương pháp nào, bởi mỗi
phương pháp có chức năng, nhiệm vụ khác nhau và giữa chúng có mối quan
hệ qua lại, hỗ trợ cho nhau. Trong đó phương pháp biện chứng duy vật có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Phép biện chứng duy vật là phương pháp của triết học duy vật biện
chứng và của các khoa học nói chung. Theo Ph. Ăngghen, “Phép biện chứng
là phương pháp mà điều văn bản là nó xem xét những sự vật và những phản
ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng,
trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Là
cơ sở của nhận thức lí luận tự giác, phép biện chứng duy vật là phương pháp
dùng để nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những mâu thuẫn trong sự phát
triển của hiện thực, đưa lại chìa khóa để nghiên cứu tổng thể những quá trình
phức tạp của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, phép biện chứng duy vật
được áp dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực và có vai trò quyết định trong việc
xác định kết quả nghiên cứu và cải tạo sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng
duy vật không chỉ đưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc
tiếp cận sự vật, hiện tượng nghiên cứu, mà đồng thời còn là điểm xuất phát
để đánh giá những kết quả đạt được. Mọi nhận thức của thế giới, theo C.
Mác, đó không phải là học thuyết mà là phương pháp. Nhận thức thế giới của
C. Mác không mang lại những giáo điều có sẵn, mà chỉ mang lại những điểm
xuất phát để tiếp tục nghiên cứu và là phương pháp cho việc nghiên cứu đó.
b. Khái niệm phương pháp luận và các cấp độ phương pháp luận
Thuật ngữ “phương pháp luận” có gốc từ tiếng Hi Lạp cổ
“methodologia” với nghĩa là phương pháp và lời nói; khái niệm; học thuyết. Là
người có vai trò lớn đối với việc nghiên cứu phương pháp luận trong triết học
Hi Lạp cổ đại, Xôcrát đặt vấn đề bản chất biện chứng của tư duy lên trên hết
và coi đây là sự đạt tới chân lí nhờ quá trình so sánh, đối chiếu, phân chia,
xác định những khái niệm khác nhau. Platôn xem xét ý nghĩa của cái khái
niệm và các phạm trù biện chứng trong sự tìm kiếm nguyên tắc của mỗi sự
vật, hiện tượng và để đạt được ý nghĩa đó, lôgic hình thức cần tương ứng với
đối tượng nhận thức. Đóng góp của Arixtốt đối với việc nghiên cứu phương
pháp luận nằm ở học thuyết về các khái niệm, được ông xây dựng với tính
cách là học thuyết về các hình thức của nhận thức, về biện chứng của các
khái niệm (mối quan hệ qua lại giữa cái khả năng với cái thiết yếu, hình thức
và vật chất v.v…). Đến thời Phục hưng và Cận đại, nhờ sự phát triển mang
tính bùng nổ của tri thức khoa học tự nhiên, đòi hỏi có sự thay đổi tận gốc
quan niệm về phương pháp luận để chống lại quan niệm của Bêcơn về cách
tiếp cận trực quan, quy nạp đối với các hiện tượng của tự nhiên và khẳng
định các nguyên tắc hình học do Galilê (1564 – 1 642) và cơ học do Đềcáctơ
(1596 – 1650) tạo ra là hình mẫu của phương pháp luận khoa học. Hướng
khác trong việc nghiên cứu phương pháp luận thời Cận đại thuộc về Lốccơ,
người hướng sự nghiên cứu phương pháp luận vào khả năng của nhận thức
như có hay không khả năng xây dựng khoa học thực nghiệm dựa trên cơ sở
của kinh nghiệm cảm tính. Triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đã chỉ
ra tính hạn chế mang tính duy lí, kinh nghiệm của các hướng trên và xây
dựng phương pháp luận biện chứng nhưng trên lập trường duy tâm.
Phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng.
Để đạt mục đích đặt ra đòi hỏi phải biết chọn lựa và vận dụng đúng phương
pháp. Từ đó nảy sinh yêu cầu phải có phương pháp luận đúng đắn, khoa học.
“Phương pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc
xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực
tiễn”. Phương pháp luận được phân chia thành các cấp độ khác nhau như
phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung và phương pháp luận
chung nhất (phương pháp luận triết học).
Phương pháp luận bộ môn là những quan điểm, nguyên tắc xác định
các phương pháp nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của các ngành khoa học
cụ thể, như phương pháp luận toán học, phương pháp luận vật lí học,
phương pháp luận sinh học v.v…
Phương pháp luận chung là những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo việc
xác định phương pháp của một nhóm các ngành khoa học có những điểm
chung nhất nào đó, như phương pháp luận của các ngành khoa học tự nhiên,
phương pháp luận của các ngành khoa học xã hội.
Phương pháp luận triết học là những quan điểm nguyên tắc chung nhất;
là xuất phát điểm cho việc xác định các phương pháp luận bộ môn, các
phương pháp luận chung, các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức
và thực tiễn. Các hình thức phương pháp luận trên hợp thành một hệ thống
khoa học về phương pháp chỉ đạo nhằm xác định các phương pháp cụ thể
đúng đắn và khoa học. Các hình thức phương pháp luận vừa độc lập tương
đối với nhau, vừa bổ sung, xâm nhập vào nhau, do đó cần vận dụng tổng hợp
các phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Phương pháp luận biện chứng duy vật:
“Phương pháp luận biện chứng duy vật là hệ thống những quan điểm,
những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp
cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp hợp lí,
có hiệu quả tối đa”. Nó là hệ thống quan điểm, nguyên tắc chung nhất chỉ đạo
tự tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp để thực hiện
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất; là lí luận
về hệ thống phương pháp và là khoa học về phương pháp. Phương pháp
luận biện chứng duy vật là học thuyết về phương pháp luận nhận thức khoa
học và cải tạo thế giới.
Trong hệ thống quan điểm, nguyên tắc xây dựng phương pháp, yếu tố
thế giới quan đóng vai trò định hướng quá trình tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn
và vận dụng phương pháp. Do vậy, toàn bộ hệ thống tri thức phương pháp
luận gắn trong mình sự diễn giải thế giới quan – cơ sở của nghiên cứu và
đánh giá những kết quả của nó. Còn phép biện chứng duy vật phản ánh các
mối liên hệ, các quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên,
xã hội, tư duy; đóng vai trò là phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển
của các ngành khoa học hiện đại và hoạt động thực tiễn.
2. Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật
Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản được rút ra từ nội dung
của phép biện chứng duy vật giữ vai trò định hướng cho hoạt động nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng. Trong quá trình phân tích nội dung các
nguyên lí, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật, đã phần nào đề
cập đến những nguyên tắc phương pháp luận của chúng. Dưới đây là một số
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật, được
xem xét trong mối liên hệ qua lại phụ thuộc lẫn nhau trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
a. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của
phép biện chứng duy vật. Cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lí
về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được
bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong
mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính
chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật,
hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện,
một chiều. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt,
từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; tránh chủ nghĩa chiết
trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật ngụy
biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất
hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật,
hiện tượng.
Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương
pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát
triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét
sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ
phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng. “Muốn thực
sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất
cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó, phải tính đến “tổng
hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Tuy
nhiên, cũng theo V.I. Lênin, chúng ta không thể làm được điều đó hoàn toàn
đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng không
phạm sai lầm và cứng nhắc. Sở dĩ chúng ta không làm được điều đó hoàn
toàn đầy đủ bởi trong quá trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng phải
trải qua nhiều giai đoạn tồn tại, phát triển khác nhau, trong mỗi giai đoạn đó
không phải lúc nào sự vật, hiện tượng cũng bộc lộ tất cả các mối liên hệ bên
trong và bên ngoài của nó. Hơn nữa, tất cả những mối liên hệ ấy chỉ được
biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định. Và bản thân con người, những
chủ thể nhận thức với những phẩm chất và năng lực của mình luôn bị chế
ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó không thể bao quát được hết
những mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện
tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của
con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất
đa dạng. Trong mỗi hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối
liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu nhất định của
mình, nên nhận thức của con người về sự vật, hiện tượng mang tính tương
đối, không đầy đủ, trọn vẹn. Nắm dược điều đó sẽ tránh tuyệt đối hóa những
tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và tránh coi những tri thức đã có là những
chân lí bất biến, tuyệt đối, cuối cùng về sự vật hiện tượng mà không bổ sung,
phát triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan
hệ của sự vật, hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan
hệ đó. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn
cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ
thể của sự vật, hiện tượng. Theo V.I. Lênin, phép biện chứng đòi hỏi người ta
phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ
thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một
mẩu ở chỗ kia. Như vậy, xem xét toàn diện nhưng không “bình quân, dàn
đều” mà có “trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố,
từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để khái quát, rút ra mối liên hệ chủ
yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của
chúng.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối
lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Chủ nghĩa chiết trung cũng
chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng nhưng không
rút ra được mặt bản chất, mối liên hệ cơ bản của sự vật, hiện tượng mà xem
xét bình quân, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, tạo thành
một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng và
bất lực trước chúng. Thuật ngụy biện đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản,
cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy
biện đều là những biểu hiện của phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét
các sự vật, hiện tượng. Sự khác nhau giữa chủ nghĩa chiết trung và thuật
ngụy biện với phép biện chứng duy vật nằm ở chỗ, nếu thuật ngụy biện và
chủ nghĩa chiết trung áp dụng chủ quan tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của
các khái niệm, thì phép biện chứng duy vật phản ánh sự vật động, phát triển
trong tính toàn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó.
Từ những phân tích trên cho thấy, lôgic của quá trình hình thành quan niệm
toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật, hiện tượng sẽ phải trải qua nhiều
giai đoạn cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức
mỗi mặt, mỗi mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng rồi đến nhận thức
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng đó và cuối cùng đi tới
khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự
vật, hiện tượng.
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn
đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng
phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật,
hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng
tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết. Trước đây, trong giai đoạn
cách mạng dân tộc, dân chủ, trên cơ sở phân tích toàn diện bản chất xã hội
Việt Nam là thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng ta chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản
của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc xâm lược và
mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ,
phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân với đế quốc xâm lược và
bọn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần tập trung lực lượng
giải quyết, sau đó giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn
vẹn. Ngày nay, trong quá trình lãnh đạo đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và
lĩnh vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình đổi mới vừa qua đã chứng minh
tính đúng đắn của những quan điểm đó.
Trong mọi hoạt động cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Việc nghiên
cứu trong các ngành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại phải
trong mối liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có nhiều sự vật, hiện tượng
đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh vực
xã hội, nguyên tắc toàn diện cũng có vai trò quan trọng. Chúng ta không thể
hiểu được bản chất một hiện tượng xã hội nếu tách nó ra khỏi những mối liên
hệ, những sự tác động qua lại với các hiện tượng xã hội khác. Trong thời kì
đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, nếu không phân tích
toàn diện những mối liên hệ tác động sẽ không đánh giá đúng tình hình và
nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể, và do vậy sẽ không
đánh giá hết những khó khăn, những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
b. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Cơ sở lí luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lí về sự phát triển của
phép biện chứng duy vật. Theo đó, phát triển là sự vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển
sẽ nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ
cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng
chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy để nhận thức được sự
tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, chúng ta phải thấy được sự
thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất trong quá trình
phát triển; phải chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong. nghĩa là tìm ra
và biết cách giải quyết mâu thuẫn; phải xác định xu hướng phát triển của sự
vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề
cho sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng mới ra đời phù
hợp với quy luật vận động và phát triển, bởi vậy phải ủng hộ cái mới, cái tiến
bộ.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt
nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự
vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh
hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ
những biến đổi của sự vật, hiện tượng, khái quát những hình thức biểu hiện
của sự biến đổi đó để tìm ra khuynh hướng biến đổi chính của nó. Để xem xét
sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển; để phát hiện ra các quy
luật quy định sự chuyển hóa về chất của nó; để xem xét sự vật, hiện tượng
trong giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác, cần phải chỉ ra
nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn. Điều quan trọng là phải
xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập; phát
hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa
những khuynh hướng ấy. “Điều kiện của một sự nhận thức về tất cả các quá
trình của thế giới trong “sự tự vận động” của chúng, trong sự phát triển tự
phát của chúng, trong đời sống sinh động của chúng là nhận thức chúng với
tính cách là sự thống nhất của các mặt đối lập”.
Cách xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối
lập; phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu
tranh giữa những khuynh hướng ấy có vai trò quan trọng không những trong
nhận thức sự vật, hiện tượng với tính cách là đối tượng nhận thức đang vận
động, phát triển, mà còn có vai trò quan trọng trong việc giải thích toàn bộ sự
đa dạng của các thuộc tính khác và đối lập nhau vốn có trong các trạng thái
khác nhau về chất của chúng; có vai trò quan trọng để chỉ ra những chuyển
hóa từ trạng thái về chất này sang trạng thái về chất khác và sang mặt đối lập
với nó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu phải nhận thức sự phát triển là quá trình
trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc
điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể để
tìm ra những hình thức tác động phù hợp hoặc để thúc đẩy, hoặc để hạn chế
sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực liễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới
hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ; phải
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ v.v… Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn
ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.
Trong quá trình đó, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo
nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Nhận thức được như vậy sẽ
vững tin ở cái mới, tìm mọi cách vượt qua cản trở trên con đường phát triển,
tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ. Trong quá trình thay thế cái cũ
phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo những yếu tố đã đạt được, phát
triển sáng tạo chúng trong cái mới.
Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về con đường tiến
lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở
phân tích xu hướng phát triển của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta,
Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, tụt hậu quá xa so
với các nước trên thế giới, vì vậy cần phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng ta luôn chú ý đến vấn đề xã
hội, từng bước giải quyết vấn đề công bằng xã hội, đồng thời phải bảo vệ môi
trường nhằm đảm bảo phát triển một cách bền vững.
Trong suốt thời kì quá độ, cũng như trong từng giai đoạn phát triển của
đất nước, Đảng ta luôn chú ý phát hiện ra các mâu thuẫn và tìm ra phương
hướng giải quyết mâu thuẫn để phát triển đất nước. Thời kì quá độ là thời kì
đấu tranh phức tạp của dân tộc ta với các thế lực thù địch đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ, trong đó cái mới sẽ từng bước chiến thắng cái cũ. Đảng ta
cũng xác định động lực phát triển đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Về nội lực, là đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công
nhân, nông dân và đội ngũ tri thức do Đảng ta lãnh đạo; là kết hợp hài hòa
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; phát huy mọi tiềm năng và các nguồn
lực của các thành phần kinh tế. Về ngoại lực, là sức mạnh của thời đại, sức
mạnh đoàn kết quốc tế. Trong đó, nội lực quyết định, ngoại lực là quan trọng,
gắn kết với nhau thành sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
c. Nguyên tắc lịch sử – cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử – cụ thể cũng là một trong những nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thức tiễn. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình
thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, môi trường
cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điểm xuất phát của nguyên tắc lịch sử – cụ
thể là sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong
không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện
tượng cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá
trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử – cụ thể khác nhau đó.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá
trình phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong
tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều
kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Bởi vậy,
nguyên tắc lịch sử – cụ thể đòi hỏi để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện
tượng, chúng ta phải xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình phát sinh,
phát triển, chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh
co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện
tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong
từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các
yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử – cụ thể. Nguyên tắc lịch sử – cụ thể
được V.I. Lênin nêu rõ và cô đọng, “xem xét mối vấn đề theo quan điểm sau
đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện
tượng đó đã trải qua những giai đoạn chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm
của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào”. Bản chất
của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng,
trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được
sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống
của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử – cụ thể là tái tạo sự vật hiện
tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh
co, những gián đoạn theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng
nhất của nguyên tắc lịch sử – cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự
nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này
là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và
đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó,
nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử – cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có
tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức
được sự vận động, làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo
những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của
nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình
phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những
thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu những đặc trưng chất và lượng vốn có
của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử – cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay
đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng
thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời
và khả năng chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ
định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng
mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ
trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới.
Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng
thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện
tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển
hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác
cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác, hay thành
các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và
số lượng đặc thù của nó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử – cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện
tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối
liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển
cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất của
các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực
tiễn của con người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc
lịch sử – cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào
trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành
tựu khoa học trước đó.
Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử – cụ thể và
đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử – cụ thể
không kết hợp các sự kiện đơn lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chỉ
ra nối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân
tích ý nghĩa và vai trò của chúng tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình
lịch sử.
Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử – cụ thể là cần
thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong
những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng
của sự vật hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu
tượng không cụ thể. Mặt khác cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối
hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động,
biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thay tính
cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.
Khái quát từ góc độ lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, cách
mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả hoặc ở các
nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến, khi chủ nghĩa tư bản đã biến đổi, phát triển
đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Quan điểm đó của C. Mác và Ph. Ăngghen
được V.I. Lênin phát triển bằng quan điểm: cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ
có thể thắng lợi trước tiên ở một hoặc vài nước, ở khâu yếu nhất của chủ
nghĩa tư bản. Vận dụng nguyên tắc lịch sử – cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế –
xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh.
Các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật thống
nhất chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất giữa các nguyên tắc phương pháp
luận của phép biện chứng duy vật là chúng đều được rút ra từ những nguyên
lí, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật, phản ánh sự vận động,
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự khác nhau giữa chúng là mỗi
nguyên tắc được rút ra từ sự phản ánh từng mặt nhất định của hiện thực. Mỗi
nguyên tắc có thể xây dựng trên cơ sở không phải của một, mà có thể của vài
nguyên lí, phạm trù, quy luật, nên khi vận dụng các nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản của phép biện chứng duy vật, điều quan trọng nhất là phải nhận
thức được chúng trong mối liên hệ hữu cơ với nhau ở các giai đoạn phát triển
của nhận thức và thực liễn.
Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra
nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Nắm
vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các
nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật giúp nhận thức
được tính biện chứng của thế giới, tính tất yếu của công cuộc đổi mới của
Việt Nam hiện nay. Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
không tuân theo những công thức có sẵn, bất biến, mà chúng được vận dụng
linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn. Con đường của cách
mạng Việt Nam được xác định là “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chú nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” là con đường duy nhất đúng, thể hiện
sự nhận thức và vận dụng sáng tạo các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin nói chung, các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện
chứng duy vật nói riêng và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái quát những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
2. Phân tích mối quan hệ thống nhất giữa tính khoa học và tính cách
mạng trong phép biện chứng duy vật.
3. Nội dung của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn?
4. Nội dung của nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn?
5. Nội dung của nguyên tắc lịch sử – cụ thể trong nhận thức và thực
tiễn?
6. Nêu ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy vật đối với
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
CÂU HỎI XÊMINA
1. Phân tích sự đối lập giữa phép biện chứng với phép siêu hình.
Những giai đoạn cơ bản trong lịch sử phép biện chứng?
2. Vận dụng nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc
lịch sử cụ thể trong thực tiễn ngành giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.
Chuyên đề 3. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
I. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ LÍ LUẬN1. Khái niệm thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
a. Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn (Practice) là phạm trù cơ bản trong lí luận nhận thức mácxít.
V.I. Lênin cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lí luận về nhận thức”. Việc đưa vấn đề thực tiễn vào lí
luận nhận thức đã góp phần tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng của triết
học mácxít so với các hệ thống triết học duy vật cũ.
Trong các hệ thống triết học duy vật cũ thì hệ thống triết học của L.
Phoiơbắc được C. Mác đánh giá cao. Phoiơbắc đã góp phần to lớn “đưa chủ
nghĩa duy vật trở lại ngôi vua” trong cuộc đấu tranh với các hệ thống triết học
duy tâm đặc biệt là triết học duy tâm khách quan của G.V.P. Hêghen.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ, Phoiơbắc cũng như
các nhà triết học duy vật ở Anh, Hà Lan và Pháp trước đó cũng không tránh
khỏi hạn chế. Theo Mác, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật cũ là mang
tính trực quan, rằng “… sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận
thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được
nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được
nhận thức về mặt chủ quan”. Phoiơbắc, như Mác đã chỉ ra, chỉ coi trọng hoạt
động lí luận mà xem nhẹ hoạt động thực tiễn. Theo Phoiơbắc, hoạt động lí
luận mới là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được
ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó
mà thôi.
Phoiơbắc đã không thấy được tính tích cực, năng động sáng tạo của
sự phản ánh ý thức, không thấy được nhận thức là quá trình phản ánh hiện
thực khách quan bởi con người. Nhận thức là kết quả của quá trình tương tác
giữa chủ thể và khách thể nhận thức. Ông đã sai lầm khi tách khách thể ra
khỏi chủ thể, không chú ý tới khách thể nhận thức, không coi sự vật, hiện
thực, cái cảm giác được (khách thể) có tính thực tiễn.
Chính sự hạn chế ấy của Phoiơbắc và các nhà triết học duy vật trước
Mác là cơ sở cho chủ nghĩa duy tâm phát triển mặt năng động của yếu tố chủ
quan, đi đến tuyệt đối hóa yếu tố ý thức, tinh thần, do đó không hiểu đúng
hoạt động thực tiễn của con người – hoạt động cảm giác được.
Các nhà triết học duy tâm do quá đề cao và tuyệt đối hóa vai trò của ý
thức, tư tưởng, tinh thần nên cũng xem thực tiễn như là hoạt động tinh thần
chứ không xem thực tiễn là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính
của con người.
Một số nhà triết học duy tâm chủ quan cho rằng, hoạt động thực tiễn bị
chế định bởi ý chí, bản năng, những nhân tố tiềm thức của con người.
Hêghen – nhà triết học duy tâm khách quan thì cho “thực tiễn là hoạt
động ý chí của tư tưởng”, “là một suy lí lôgíc”. Thực tiễn chỉ được ông giới
hạn ở hoạt động tư tưởng, ở “ý niệm”. Tuy nhiên, Hêghen đã có lí khi bàn đến
“ý niệm thực tiễn”. Theo ông, bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối
tượng hóa bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
Như vậy, các trào lưu triết học trước Mác hoặc hoàn toàn phủ nhận
hoạt động thực tiễn của con người, hoặc hiểu thực tiễn chỉ trong phạm vi
quan sát trực quan hay trong phòng thí nghiệm, hoặc đều tách rời hoạt động
thực tiễn với quá trình nhận thức của con người, chỉ coi hoạt động tinh thần là
hoạt động thực tiễn.
Kế thừa những yếu tố hợp lí của các hệ thống triết học trước đó, vận
dụng phép biện chứng duy vật vào việc xem xét đời sống xã hội, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã đưa ra quan niệm đúng đắn về thực tiễn, vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức nói riêng và đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người nói chung.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin thì hoạt động thực tiễn chỉ có
thể có được ở xã hội loài người; nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và
phát triển của xã hội loài người. Thực tiễn là phạm trù trung tâm, nền tảng của
triết học duy vật biện chứng.
Trong “Luận cương về Phoiơbắc”, C. Mác nhấn mạnh rằng: “Đời sống
xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang
đưa lí luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lí trong
thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy”.
Khác biệt với các nhà triết học duy tâm đã giải thích, xem xét các hiện
tượng trong đời sống xã hội xuất phát từ yếu tố ý thức, tư tưởng, tinh thần,
Mác xuất phát từ con người hiện thực, từ hoạt động vật chất của con người.
Mác xác định: tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự
tồn tại của những cá nhân con người sống”.
Để tồn tại và phát triển, trước hết con người phải chế tác và sử dụng
công cụ lao động, tác động vào tự nhiên nhằm cải biến tự nhiên tạo ra của cải
vật chất nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người như ăn, mặc, ở,
đi lại… Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên, cơ bản của con
người. Nhờ đó, tất cả các mặt của đời sống xã hội được hình thành, phát
triển, được tái tạo lại. Xã hội chính là “giới tự nhiên thứ hai” được tạo ra thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Mác phê phán Phoiơbắc là đã không chú trọng tư duy trừu tượng, mà
coi trọng trực quan cảm tính, song lại không coi cảm tính như là hoạt động
thực tiễn, hoạt động cảm tính của con người. Phoiơbắc đã tách nhận thức
khỏi hoạt động thực tiễn của con người.
Thực ra, nhận thức là một quá trình biện chứng từ thấp đến cao, từ trực
quan sinh động (nhận thức cảm tính) đến tư duy trừu tượng (nhận thức lí
tính) và đến thực tiễn.
Mác cho rằng, thực tiễn chính là hoạt động vật chất mà tất cả các hoạt
động khác như hoạt động tinh thần, hoạt động chính trị, hoạt động tôn giáo…
đều phụ thuộc vào nó.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, “cảm tính”, có mục đích,
có tính lịch sử – xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói
một cách cụ thể hơn, thực tiễn là hoạt động có suy nghĩ, có ý thức, có tính
toán, hoạt động có đối tượng cảm tính của con người.
Thực tiễn không chỉ bó hẹp trong hoạt động vật chất mà còn bao hàm
cả hoạt động lí luận. Theo Mác, “vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người
có thể đạt tới chân lí khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề
lí luận mà là một vấn đề thực tiễn”.
Hoạt động thực tiễn có tính năng động, sáng tạo, là quá trình chuyển
hóa cái tinh thần (mục đích, ý thức) thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là
quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận thức, trong đó chủ thể
hướng vào việc cải tạo khách thể, trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Do vậy,
thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian nối liền ý thức của con người với thế
giới bên ngoài. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi giới tự
nhiên, biến đổi hình ảnh sự vật trong nhận thức và đồng thời biến đổi chính
bản thân mình.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Chỉ có con
người mới có các hoạt động thực tiễn, còn con vật chỉ hoạt động theo bản
năng. Theo Ăngghen, lịch sử xã hội loài người chẳng qua là lịch sử con người
theo đuổi các mục đích khác nhau. Hoạt động có ý thức, có mục đích chính là
hoạt động đặc trưng, là cái để phân biệt sự khác nhau về chất giữa người với
động vật. Con người thông qua hoạt động lao động sản xuất đã không những
khai thác những cái sẵn có trong tự nhiên mà còn tạo ra những cái không có
sẵn, những “cái nhân tạo” để thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao của
mình. Do vậy, thực tiễn chính là phương thức tồn tại cơ bản của con người và
xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người
và thế giới.
Các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử xã hội có các trình độ
phát triển khác nhau của hoạt động thực tiễn. Do đó, thực tiễn mang tính lịch
sử – xã hội. Vì hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài
người. Đó là hình thức hoạt động đặc thù của con người, luôn diễn ra trong
một bối cảnh văn hóa xã hội nhất định. Là một sản phẩm lịch sử, hoạt động
thực tiễn luôn vận động và phát triển không ngừng theo các giai đoạn lịch sử.
Trình độ phát triển của thực tiễn được đánh giá ở trình độ, khả năng chinh
phục, khai thác, tái tạo giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người.
Hoạt động thực tiễn không phải là hoạt động của cá nhân người mà là hoạt
động của loài người, trước hết là của đông đảo quần chúng nhân dân –
những người trực tiếp tham gia hoạt động sản xuất ra cua cải vật chất.
Thực tiễn là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Hoạt
động thực tiễn nhằm mục đích cao nhất là cải tạo thế giới hiện thực. Con
người nhận thức thế giới hiện thực và tích cực tác động một cách có mục
đích để cải tạo nó. Trên cơ sở đó, thế giới mới bộc lộ những đặc tính, bản
chất, nội dung, quy luật,… nhờ đó con người mới có tri thức về thế giới. Có
như vậy, con người mới có thể cải tạo thế giới hiện thực theo điều kiện của
sự phát triển tự nhiên và xã hội.
Nếu xem thực tiễn tồn tại dưới dạng một chỉnh thể thì nó bao gồm
nhiều yếu tố như: nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu
tố đó góp phần tạo nên hoạt động thực tiễn của con người. Nếu con người
không có nhu cầu vật chất và tinh thần, không theo đuổi các mục đích khác
nhau, gắn liền lợi ích với các hoạt động của mình, không có công cụ và
phương tiện vật chất để thực hiện các hoạt động, và hoạt động không có kết
quả thì đương nhiên không thể có hoạt động thực tiễn.
b. Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, phong phú song có thể phân thành ba
dạng cơ bản như hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động thực nghiệm khoa
học, hoạt động chính trị – xã hội.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản đầu tiên, nền tảng của
đời sống xã hội. Hoạt động này có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các dạng
hoạt động khác, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội. Theo
quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng, là
sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra gần giống, hoặc lặp lại những trạng thái
của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của
đối tượng nghiên cứu. Nhờ có hoạt động thực nghiệm khoa học, con người
ngày càng nhận thức đầy đủ sâu sắc về thế giới. Thời đại ngày nay – thời đại
của nền kinh tế tri thức thì hoạt động thực nghiệm khoa học ngày càng có vai
trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động nhằm cải tạo xã hội, phát triển
các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Đấu tranh giai cấp nhằm cải tạo xã hội, lật
đổ ách thống trị của giai cấp này, thay vào đó sự thống trị của giai cấp khác
đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ là hoạt động chính trị – xã hội
mang tính cơ bản, phổ biến. Hoạt động chính trị – xã hội là một dạng đặc biệt
– dạng cao nhất của hoạt động thực tiễn.
Ba dạng hoạt động thực tiễn trên có chức năng, vai trò khác nhau, song
có mối liên hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó hoạt động
sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định.
Ngoài ba dạng hoạt động thực tiễn cơ bản trên còn có các dạng phái
sinh, không cơ bản. Đó là các hoạt động trong lĩnh vực đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật, giáo dục… Các dạng hoạt động này được hình thành và phát triển
trên cơ sở, nền tảng của hoạt động sản xuất vật chất, suy đến cùng chịu sự
quy định của hoạt động sản xuất vật chất.
2. Khái niệm lí luận và các cấp độ lí luận
a. Khái niệm lí luận
Lí luận theo tiếng Hi Lạp là “theoria” có nghĩa là sự quan sát, nghiên
cứu, nhận ra, thảo luận.
Có nhiều cách hiểu về lí luận, song theo có thể hiểu theo cách phổ biến
nhất: “Lí luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một lĩnh vực nào đó
trong thế giới. Nói cách khác, lí luận là hệ thống các luận điểm nhất định gắn
bó chặt chẽ với nhau về mặt lôgíc và phản ánh bản chất, các quy luật, hoạt
động và phát triển của khách thể được nghiên cứu”.
Lí luận khác với giả thuyết (Hypothesis) ở chỗ, giả thuyết là những hiểu
biết mang tính giả định chưa được kiểm định. Lí luận khác với thực tiễn ở
chỗ, nó thuộc lĩnh vực tư duy, ý thức, là sự phản ánh, tái hiện hiện thực khách
quan. Lí luận có chức năng phản ánh hiện thực khách quan và phục vụ thực
tiễn.
Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn nhu
cầu hiểu biết của mình về thế giới, trên cơ sở đó nhằm cải biến thế giới. Sự
hiểu biết của con người cũng có các cấp độ khác nhau.
Cấp độ thấp của nhận thức là kinh nghiệm (Experience). Kinh nghiệm
là sự hiểu biết (tri thức) thu nhận được từ chính thực tiễn cuộc sống, do
những hoạt động quan sát và thí nghiệm mang lại. Có tri thức kinh nghiệm
thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông
thường nảy sinh trực tiếp từ cuộc sống lao động sản xuất và đấu tranh xã hội.
Nó là sự phản ánh trực tiếp, phong phú và sinh động các mặt của đời sống xã
hội, song nó có hạn chế là chỉ cho ta biết cái bên ngoài chứ chưa phải cái bên
trong, cái bản chất, quy luật của đời sống xã hội.
Tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm,
khảo sát khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học bổ sung những hiểu biết về
thế giới mà tri thức kinh nghiệm thông thường không có.
Cả hai dạng tri thức này tuy rất phong phú, đa dạng song chỉ dừng lại ở
cấp độ kinh nghiệm, chưa đạt được độ tin cậy cao, chưa mang tính khái quát
cao và hệ thống, chưa đạt tới cấp độ lí luận. Dạng tri thức này còn bị giới hạn
ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ các
quan sát và thí nghiệm. Ăngghen cho rằng: “Sự quan sát dựa vào kinh
nghiệm là nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”.
Tri thức kinh nghiệm có vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Nó là cơ sở, là nền tảng để hình thành và phát triển tri thức
khoa học. Không có tri thức kinh nghiệm thì không có tri thức lí luận. Kinh
nghiệm chính là cơ sở để con người kiểm tra lí luận, sửa đổi, bổ sung lí luận
đã có, tổng kết khái quát thành lí luận mới.
Trình độ cao hơn của nhận thức là lí luận. Lí luận được hình thành từ
kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, là sự khái quát, hệ thống các tri
thức kinh nghiệm. Lí luận thường được trình bày thông qua các lí thuyết, học
thuyết với hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Khác với tri thức kinh
nghiệm, tri thức lí luận là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách trừu
tượng, gián tiếp, khái quát về bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng.
Nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về cái bên trong, cái bản chất, cái tất yếu của
sự vật hiện tượng.
Lí luận có những cấp độ khác nhau như lí luận chung nhất, lí luận
chuyên ngành…
Hệ thống lí luận chung nhất về các quy luật vận động của thế giới là lí
luận triết học. Còn lí luận chuyên ngành là lí luận về một lĩnh vực riêng biệt
nào đó trong thế giới. Thí dụ như lí luận toán học, vật lí học, hóa học, sinh
học, văn học, sử học, lí luận về pháp quyền, lí luận về phương pháp,…
Lí luận triết học có vai trò là cơ sở để hình thành thế giới quan và
phương pháp luận cho lí luận chuyên ngành. Lí luận chuyên ngành có tác
dụng bổ sung, làm sâu sắc thêm cho lí luận triết học.
Lí luận triết học Mác – Lênin mang tính khách quan, khoa học, cách
mạng, không những giải thích đúng thế giới mà còn góp phần “cải tạo thế
giới”.
II. SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lí
luận. Lí luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận là hai giai đoạn phát triển
kế tiếp nhau của quá trình nhận thức. Giữa chúng có mối liên hệ biện chứng
với nhau.
Nhận thức kinh nghiệm là nền tảng, cơ sở của nhận thức lí luận. Nó
cung cấp cho nhận thức lí luận những dữ liệu cụ thể, đa dạng, phong phú.
Nhận thức kinh nghiệm là sự phản ánh trực tiếp thực tiễn đời sống xã hội, cho
ta những hiểu biết ban đầu về sự vật hiện tượng. Là cơ sở hiện thực để kiểm
tra, đánh giá, sửa chữa, bổ sung cho lí luận.
Lí luận được hình thành và phát triển trên cơ sở của kinh nghiệm, thực
tiễn. Quá trình phát triển của thực tiễn đặt ra những vấn đề đòi hỏi lí luận phải
giải đáp.
Lí luận phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan song lại đáng tin cậy
hơn kinh nghiệm. Lí luận thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy
luật thể hiện chân lí sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn. Do đó phạm
vi ứng dụng của nó mang tính phổ biến hơn so với tri thức kinh nghiệm.
Lí luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn song nó
có tính độc lập tương đối. Điều đó được biểu hiện ở chỗ, không phải lí luận
nào cũng xuất phát lừ kinh nghiệm, có lí luận được xây dựng không trên cơ
sở những dữ liệu kinh nghiệm có trước. Điều này chỉ có thể lí giải bởi tính ưu
việt, vượt trội của tư duy trừu tượng của con người. Lí luận có vai trò rất to
lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt
động của con người. Lí luận được hình thành và phát triển, trở lại chỉ đạo
hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn và tiếp tục bổ sung, phát
triển trong thực tiễn.
Mác cho rằng, “lí luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”. Lí luận được xem như “kim chỉ nam cho hành
động”. Nó có thể dự kiến được phương hướng vận động và phát triển của các
sự vật, hiện tượng, phương hướng phát triển của thực tiễn. V.I. Lênin cho
rằng, không có sách thì không có tri thức. Không có tri thức cách mạng thì
không có lí luận cách mạng. “Không có lí luận cách mạng thì cũng không thể
có phong trào cách mạng”.
Lí luận khoa học phản ánh đúng hiện thực khách quan. Nó góp phần
hạn chế tính mò mẫm, tự phát, tăng cường tính tự giác, chủ động tích cực
trong hoạt động của con người.
Tuy nhiên, lí luận do sự phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan, mang
tính trừu tượng cao nên không phải lúc nào nó cũng mang lại nhận thức đúng
đắn, chính xác. Nếu nó phản ánh hư ảo hiện thực thì trở thành lí luận tôn
giáo. Nếu nó phản ánh sai, bóp méo hiện thực thì trở thành lí luận duy tâm
trong triết học. Nếu nó lạc hậu, không phù hợp với hiện thực, phản ánh xa rời
hiện thực, thành ảo tưởng, giáo điều thì trở thành sức cản đối với sự phát
triển xã hội, thậm chí trở thành lí luận phản động, phản tiến bộ nếu nó được
giai cấp phản động sử dụng.
Do vậy cần phân biệt lí luận nói chung với lí luận khoa học, lí luận phản
khoa học, lí luận tiến bộ với lí luận phản tiến bộ.
Lí luận xuất phát từ thực tiễn, không xa rời thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn là lí luận khoa học. Lí luận góp phần thúc đẩy sự phát triển của thực
tiễn, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội là lí luận khoa học tiến bộ.
V.I. Lênin trong Bút kí triết học cho rằng, thực tiễn cao hơn nhận thức (lí
luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà còn của tính hiện
thực trực tiếp. Thực tiễn của con người được lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu
lần được in vào ý thức thành những cách lôgíc.
Do vậy giữa lí luận và thực tiễn phải thống nhất với nhau. Coi trọng lí
luận, song không cường điệu, tuyệt đối hóa vai trò của lí luận, xem thường
thực tiễn, tách lí luận khỏi thực tiễn. Lênin cho rằng, bản thân ý chí của con
người, thực tiễn của con người đối lập với sự thực hiện mục đích của con
người… do chúng tách rời khỏi nhận thức và không thừa nhận hiện thực bên
ngoài là tồn tại chân thực (chân lí khách quan). Phải có sự thống nhất giữa
thực tiễn và nhận thức. Lênin xem đây chính là một nguyên tắc của lí luận
nhận thức, “sự thống nhất của ý niệm lí luận (của nhận thức) và của thực tiễn
– và sự thống nhất ấy chính là ở trong lí luận nhận thức”. Mác trước đó cũng
đã nhấn mạnh rằng, chính trong thực tiễn mà con người chứng minh được
chân lí, chứng minh tính hiện thực. Do đó, tư duy không tách rời hiện thực.
Nếu tách rời hiện thực, thực tiễn khỏi tư duy là vấn đề thuần túy kinh viện.
Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với nhận thức. Nó vừa là cơ sở, nền
tảng, động lực, mục đích của nhận thức. Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân
lí.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lí luận và
thực tiễn rằng: “Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lí luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lí luận mà không liên hệ với thực tiễn là lí luận
suông”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là lí luận khoa học của giai cấp công nhân được
hình thành và phát triển trong phong trào đấu tranh cách mạng, có vai trò soi
đường, định hướng cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Mác
viết: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai
cấp vô sản cũng thay triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Thứ triết học ấy –
vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản – chính là triết học Mác.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mang tính cách mạng. Nó
xuất phát từ thực tiễn đồng thời không bao giờ chịu chấp nhận thực tiễn đã
lạc hậu là chủ nghĩa tư bản, nó mở ra con đường phát triển cho thực tiễn
tương lai – Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở, linh hồn của học thuyết
đó là phép biện chứng mácxít. Thực tiễn luôn vận động và biến đổi không
ngừng, do đó tư duy lí luận cũng phải vận động biến đổi và phát triển để có
thể phản ánh kịp thời, phản ánh đúng hơn nữa còn định hướng cho thực tiễn
phát triển.
Chúng ta còn nhớ mỗi lần tái bản các tác phẩm kinh điển, Mác và
Ăngghen chủ trương vẫn giữ nguyên nội dung, chỉ bổ sung trong lời tựa
những dữ liệu thông tin mới từ thực tiễn nóng bỏng của cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân. Lênin cũng là tấm gương sáng về sự phát triển
của chủ nghĩa Mác trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới. Việc chuyển đổi từ
chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới cho phù hợp với
giai đoạn cách mạng mới là một ví dụ điển hình. Ở đây, Lênin đã vận dụng
sáng tạo học thuyết Mác vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Tuy nhiên, không phải lúc nào những người cộng sản và phong trào
quốc tế cũng vận dụng đúng nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn.
Họ, hoặc là quá đề cao lí luận mà xa rời thực liễn, hoặc là quá đề cao kinh
nghiệm, thực tiễn mà không chịu học tập phát triển lí luận, vận dụng sáng tạo
lí luận Mác – Lênin vào thực tiễn cuộc sống. Bệnh giáo điều và bệnh kinh
nghiệm trở thành khá phổ biến đối với nhiều đảng viên cộng sản ở nhiều
nước trong thời gian qua.
2. Phê phán bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm
Bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm hình thành và trở thành phổ biến
trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là vì ở đó nhiều đảng viên cộng
sản đã vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn.
Bệnh giáo điều có nguyên nhân là do cường điệu, tuyệt đối hóa vai trò
của lí luận đối với thực tiễn, tách rời lí luận khỏi thực tiễn.
Biển hiện của bệnh giáo điều là bệnh kinh viện, sách vở. Xem lí luận,
sách vở như là cái gì tuyệt đối đúng không cần phải bổ sung, phát triển. Học
tập lí luận Mác – Lênin thì không chú ý tới nội dung và bản chất cách mạng
của nó, chỉ chú ý tới câu chữ và vận dụng câu chữ của các nhà kinh điển vào
bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào. Hoặc học tập lí luận Mác – Lênin theo kiểu
thuộc lòng, không chú ý tới những đổi thay đang diễn ra trong cuộc sống.
Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin một cách phiến diện, vận dụng một cách rập
khuôn những mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ngoài mà không chú ý tới đặc
thù của nước mình. Các chủ trương, chính sách lại thường xuất phát từ ý
muốn chủ quan, không thấy được hiện thực sinh động và phù hợp với thực
tiễn cuộc sống.
Ở nước ta, bệnh giáo điều còn biểu hiện ở chỗ vận dụng những kinh
nghiệm trong chiến tranh cách mạng vào công cuộc xây dựng hòa bình, kiến
thiết đất nước trong thời bình. Học tập, áp dụng một cách máy móc kinh
nghiệm của địa phương này vào địa phương khác mà không thấy đặc điểm
riêng biệt của từng địa phương. Đó chính là bệnh “giáo điều kinh nghiệm”.
Như vậy, nhìn chung bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng quá coi
trọng vai trò của lí luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lí luận khỏi thực tiễn, thiếu
quan điểm lịch sử – cụ thể, vận dụng lí luận, áp dụng kinh nghiệm một cách
máy móc, rập khuôn.
Đối lập với bệnh giáo điều là bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm là
khuynh hướng tư tưởng quá coi trọng kinh nghiệm, thực tiễn, xem thường lí
luận.
Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm là tư tưởng “kinh nghiệm chủ nghĩa”
theo kiểu “sống lâu lên lão làng” thỏa mãn với những thành tích đã đạt được.
Trong công việc, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đã tích lũy được, chủ quan,
lười hoặc không chịu khó tích cực học tập để không ngừng nâng cao trình độ
tư duy lí quận. Không thấy được vai trò quan trọng của giáo dục và khoa học
kĩ thuật. Không tôn trọng và sử dụng người tài, có tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
không chịu tiếp thu và vận dụng cái mới, cái tiến bộ.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở nước ta là tồn tại khá lâu nền
sản xuất nhỏ, chưa có nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Trình độ dân trí còn
thấp, nền giáo dục còn nhiều bất cập, khoa học – kĩ thuật phát triển còn hạn
chế. Mặt khác, do ý thức hệ phong kiến, các phong tục, tập quán, truyền
thống, thói quen của người dân còn mang những dấu vết của xã hội cũ. Đó
chính là mảnh đất thuận lợi để hình thành, tồn tại và phổ biến bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa.
Bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm ở nước ta còn có nguyên nhân cơ
bản là sự yếu kém về lí luận. Sự yếu kém về lí luận khiến cho chúng ta không
có nhận thức đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Việc hiểu một cách đơn giản, xơ cứng, phiến diện lí luận Mác –
Lênin dẫn đến sự vận dụng lí luận ấy vào thực tiễn cách mạng còn nhiều sai
sót. Chậm đổi mới tư duy lí luận là một nguyên nhân chủ quan dẫn tới cuộc
khủng hoảng toàn diện ở nước ta thời kì trước đổi mới.
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các tri thức khoa học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể ở nước ta
Thời đại ngày nay đang có những biến đổi hết sức sâu sắc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để hội nhập và phát triển, không bị hòa tan
trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta đã chủ động vận dụng lí luận
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn cách
mạng Việt Nam hiện nay. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định lấy chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động. Đó là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lí luận
của Đảng ta.
Vận dụng lí luận hình thái kinh tế – xã hội của triết học Mác – Lênin.
Đảng ta cho rằng, con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bỏ qua ở đây không có
nghĩa là bỏ qua tất cả, mà chỉ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Đồng thời có tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã dạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ.
Vận dụng lí luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Đảng ta cho rằng, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức bát công. Đấu tranh, ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng
và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch để bảo vệ độc lập dân tộc, kiên định
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng các quy luật kinh tế của thời kì quá độ, Đảng ta chủ trương
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta kiên định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X vẫn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
soi đường có cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc, về
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự là của dân, do dân,
vì dân, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về
phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng khoa học
– công nghệ ảnh hưởng sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thực tế
những thành tựu của công cuộc đổi mới của Đảng hơn 50 năm qua cho thấy
rằng, Đảng đã vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học nhân loại vào điều
kiện cụ thể ở nước ta.
Để có thể phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu đến năm
2020 trở thành nước công nghiệp phát triển, Đảng ta xem phát triển khoa học
và công nghệ cùng với phát triển giáo dục là nền tảng, động lực đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng chủ trương tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của nhân loại bằng cách tăng
cường giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Thực
hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ. Ưu tiên, quan tâm và tạo điều kiện
cho đội ngũ trí thức, khuyến khích các nhà khoa học có nhiều công trình
nghiên cứu xuất sắc. Với phương châm “đi tắt đón đầu”, Đảng chủ trương đi
sâu, phát triển nhanh một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại,
công nghệ cao như tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa.
Đảng cũng chỉ rõ, khoa học xã hệ nhân văn tập trung hướng vào giải
đáp các vấn đề lí luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp
luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế – xã hội, xây dựng con người, sáng tạo những giá trị văn hóa mới
của Việt Nam.
Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây
dựng cơ sở khoa học để phát triển khoa học, công nghệ trọng điểm, khai thác
các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường sống, phòng chống thiên tai.
2. Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tình hình thế giới và trong nước hơn 30 năm qua là cơ sở để Đảng ta
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Khi hầu hết các nước XHCN lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế –
xã hội trầm trọng do mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan liêu, bao cấp
được duy trì quá lâu, thì CNTB, do điều chỉnh được mâu thuẫn xã hội, sử
dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, sử dụng các học
thuyết xã hội… đã tỏ ra ổn định và phát triển. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô cũ
và các nước XHCN ở Đông Âu thất bại, còn ở Trung Quốc, do thực hiện
đường lối cải cách, mở cửa đúng đắn nên đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước.
Ở nước ta, sau thắng lợi năm 1975, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí
muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp không còn phù hợp đã gây cản trở tới tiến trình phát triển
xã hội. Mặt khác, ở bên ngoài các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, hai cuộc
chiến tranh biên giới xảy ra… đã làm nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh
tế – xã hội trầm trọng.
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện, trước hết là
đổi mới tư duy lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Mỗi kì Đại hội Đảng là một dịp để Đảng ta tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn, bổ sung, phát triển lí luận Mác – Lênin.
Đại hội VI (năm 1986), Đảng đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội VII (năm 1991) đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó nêu rõ những nét khái
quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, khẳng định chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đưa ra nhận định nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế – xã hội, chỉ rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên
và chặng đường tiếp theo của thời kì quá độ, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020. Xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; coi phát triển giáo dục – đào tạo và khoa
học – công nghệ là quốc sách háng đầu.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) xác định mục tiêu của cách mạng Việt
Nam là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa…”
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những yếu
kém, khuyết điểm trong 20 năm đổi mới, rút ra những bài học bổ ích từ những
yếu kém và thành tựu trong công cuộc đổi mới. Trong đó bài học lớn số một
là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời luôn luôn nhạy bén với cái mới, với những phát triển của thực tiễn.
Như vậy, có thể nói Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lí luận Mác – Lênin
vào thực tế công cuộc đổi mới ở nước ta. Đến nay, về cơ bản hệ thống quan
điểm lí luận về công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta đã hình thành, nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn.
Đó là cơ sở cho việc xây dựng và phát triển đường lối của Đảng, góp phần bổ
sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội.
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, liên tục tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, chúng ta ngày càng thấy rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta
phải tiếp tục phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ trung tâm
của thời kì quá độ là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từng bước
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội X khẳng định sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chú trọng tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với phát
triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thực hiện công bằng xã hội, vừa xây
dựng vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa tiếp tục mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Những vấn đề lí luận trên đây là kết quả của quá trình đổi mới tư duy lí
luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn của Đảng, là minh chứng cho việc Đảng
vận dụng sáng tạo lí luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Trong giáo dục – đào tạo phải kết hợp nhà trường với xã hội, lí luận với thực tiễn
Đảng ta xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, Đảng chủ
trương giáo dục, đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội,
kết hợp giữa lí luận với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi sự nghiệp giáo dục,
đào tạo phải có những biến đổi mạnh mẽ về quy mô và chất lượng. Thực hiện
phương châm “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học
tập”, ngành Giáo dục đào tạo đã chú ý nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa” hệ thống trường lập và hệ thống quản lí giáo dục.
Đảng cũng chỉ đạo ngành Giáo dục – Đào tạo coi trọng công tác hướng
nghiệp, phát triển mạnh việc đào tạo nghề sao cho phù hợp với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong phạm vi cả nước. Bồi dưỡng đào tạo cho lớp trẻ
những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu công nghệ
mới của các nước phát triển. Trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X,
Đảng một lần nữa nhấn mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo phải khắc phục
những yếu kém, bất cập, phát huy những thành lựu đã đạt được để đáp ứng
với yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.
Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo, Đảng chủ trương thực hiện phương châm giáo dục: “học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”.
Nhà trường là một thiết chế xã hội đặc biệt có chức năng đặc biệt là
giáo dục kiến thức, văn hóa, khoa học cho con người, nhất là thế hệ trẻ. Nhà
trường ngoài việc trang bị kiến thức văn hóa, khoa học còn phải giáo dục ý
thức, kĩ năng lao động, thực hành cho học sinh. Học sinh không chỉ nắm vững
lí thuyết mà còn giỏi thực hành để khi ra trường có thể hòa nhập ngay với
thực tiễn sản xuất, không bị lạc hậu, ngỡ ngàng trước những yêu cầu ngày
càng cao của nền kinh tế thị trường. Những kiến thức trong nhà trường học
sinh thu nhận được phải bổ ích trực tiếp cho nghề nghiệp và cuộc sống của
họ sau này.
Một trong những yếu kém, bất cập của nền giáo dục nước ta là chưa
thường xuyên cập nhật những vấn đề thực tiễn của xã hội hiện đại vào trong
giảng dạy lí luận, lí thuyết. Bệnh học chay còn khá phổ biến, lối học truyền
thống không động viên được tính năng động, chủ động trong tư duy của
người học. Nội dung, chương trình học tập “quá tải” đối với học sinh, nội dung
còn nặng về lí thuyết, chưa thật phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội.
Mục tiêu giáo dục của ta là đào tạo thế hệ trẻ không những giỏi về lí
luận mà còn giỏi về thực hành, về đạo đức phẩm chất tư cách, “chuyên” về
nghề nghiệp kĩ thuật, có thể đảm đương được sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu đó chúng ta càng phải quán triệt và vận
dụng tốt phương châm “giáo dục phải kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, học đi
đôi với hành”.
Thực tiễn đất nước đang đòi hỏi rất nhiều ở đội ngũ trí thức – những
người đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới tư duy lí luận. Chính vì vậy, trong
tình hình hiện nay, lí luận có vai trò hết sức quan trọng. Đổi mới và phát triển
lí luận là một yếu tố góp phần tạo nên thắng lợi của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Lí luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải
được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đồng thời Đảng phải
không ngừng tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ lí luận, nâng cao trí tuệ. Chỉ có
như vậy sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo mới đạt được những thắng lợi
to lớn hơn nữa.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Quá trình hình thành và phát triển khái niệm thực tiễn trong lí luận
nhận thức mácxít?
2. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn của triết học
Mác – Lênin?
3. Nguyên nhân, biểu hiện và việc đấu tranh phê phán bệnh giáo điều
và bệnh kinh nghiệm?
CÂU HỎI XÊMINA
1. Tại sao việc đưa khái niệm thực tiễn vào lí luận nhận thức lại là một
yếu tố tạo ra bước ngoặt căn bản mang tính cách mạng của triết học mácxít?
2. Tại sao Đảng ta lại lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động?
Chuyên đề 4. LÍ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ XUẤT PHÁT ĐỂ XÂY DỰNG LÍ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Các quan điểm ngoài mácxít về xã hội
Trước C. Mác, đã có nhiều học thuyết, lí luận tìm cách lí giải về bản
chất và quy luật vận động của xã hội loài người, trong đó có những khía cạnh
hợp lí, tiến bộ; nhưng chưa chỉ ra được tính quy luật của nó do chủ yếu lấy
quan hệ tư tưởng (tôn giáo, pháp luật, chính trị, v.v…) làm cơ sở. Chưa có
học thuyết, lí luận nào giải quyết toàn diện, triệt để về cơ sở khoa học của
bản chất và quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người.
Thời Cổ đại, Hêrôđốt (485 – 425 TCN) tìm cái chung thông qua việc mô
tả hoạt động sản xuất của con người và lưu truyền cho các thế hệ sau, Platôn
(472 – 347 TCN) nêu ra mô hình nhà nước lí tưởng dựa trên sự bất bình
đẳng trong xã hội.
Thời Trung cổ, T. Đacanh (1225 – 1274), R. Bê cơn (1214 – 1294) giải
thích xã hội và số phận con người theo quan điểm coi lịch sử là sự thể hiện
của mệnh trời, số phận con người do thượng đế quy định.
Thời Khai sáng, Hécđơ (1744 – 1803) cho rằng, những lực lượng sống,
những năng lực người là nguồn gốc sự vận động của xã hội; Rút xô (1712 –
1778) cho rằng sở hữu tư nhân là nguyên nhân của sự bất bình đẳng, của
những đối kháng trong xã hội và của sự xuất hiện nhà nước. Để hạn chế sự
bất bình đẳng trong xã hội, ông cho rằng, nên cần có nền dân chủ trực tiếp
dựa trên cơ sở đồng thuận xã hội và quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Xanh Ximông (1760 – 1825) cho rằng, mỗi xã hội đều là những bước
tiến của lịch sử và chúng trải qua những giai đoạn hưng thịnh, suy tàn và tan
rã. Ông chia xã hội loài người thành ba giai đoạn, trong đó tư tưởng đáng chú
ý nhất của ông là tư tưởng về giải phóng giai cấp công nhân, loại bỏ sự bần
cùng và nâng cao trình độ vật chất và văn hóa cho “giai cấp nghèo khổ”, tư
tưởng về nền sản xuất kế hoạch v.v…
Thời Cận đại, Vicô (1668 – 1744) phân chia lịch sử xã hội loài người
như phân chia các giai đoạn của một vòng đời người là thơ ấu, thanh niên,
tuổi già. Phuriê (1771 – 1837) đã chia lịch sử xã hội loài người thành bốn thời
kì là mông muội, dã man, gia trưởng và thời kì văn minh. Moócgăng (1818 –
1881) lại phân chia lịch sử xã hội loài người thành ba thời kì chính là thời kì
mộng muội, dã man và thời kì văn minh: Hêghen (1778 – 1831) phân chia lịch
sử xã hội loài người thành ba thời kì chủ yếu là thời kì phương Đông, thời kì
cổ đại, thời kì Giecmani và vẫn lấy “sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và
dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và
người ta biến quan hệ đó thánh sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà
nước…”. Quan điểm duy tâm như vậy về xã hội đã làm đảo lộn bức tranh
hiện thực của lịch sử.
Một số nhà xã hội học tư sản xem xã hội là tổng số các cá nhân, là sự
kết hợp một cách cơ học giữa các cá nhân, họ ví xã hội như một bao tải khoai
tây mà mỗi cá nhân là một củ khoai tây! Dĩ nhiên xã hội phải được tạo thành
từ những cá nhân song không phải là sự kết hợp cơ học như vậy.
Ngày nay, có quan điểm cho rằng cần thay thế cách tiếp cận xã hội của
lí luận hình thái kinh tế - xã hội bằng cách khác, trong đó cách tiếp cận theo
các nền văn minh (làn sóng) của các nhà tương lai học người Mĩ là A. Toffler
và H. Toffler là đáng chú ý hơn cả. Họ chia lịch sử xã hội loài người thành ba
nền văn minh (làn sóng) va chạm và thay thế nhau. Trong đó nền văn minh
nông nghiệp (làn sóng thứ nhất) bắt đầu từ khi xã hội nguyên thủy chuyển
sang chăn nuôi và trồng trọt với đặc điểm cơ bản vì nền kinh tế khép kín, tự
cung, tự cấp cách đây khoảng một vạn năm và kéo dài cho đến cách đây ba
trăm năm; nền văn minh công nghiệp (làn sóng thứ hai) bắt đầu từ những
năm 1650 – 1750 nhờ cuộc cách mạng công nghiệp với đặc điểm là công
nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nền văn minh hậu công nghiệp
(làn sóng thứ ba) bắt đầu từ những năm 50 của thế kỉ XX nhờ sự xuất hiện
của những ngành khoa học mới (như công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu và năng lượng mới v.v…) với đặc điểm là trong mỗi
sản phẩm làm ra hàm lượng trí lực nhiều và giá trị hơn hàm lượng thể lực của
người lao động. Quan điểm về xã hội mang tính duy khoa học, duy kĩ thuật
như vậy chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu trình độ và các giai đoạn tất yếu
phải trải qua của nền kinh tế mỗi nước, mà không thể chỉ ra cơ sở để phân
chia các chế độ xã hội và cũng không thể chỉ ra được mối quan hệ biện
chứng giữa các lĩnh vực trong đời sống xã hội, do đó cũng không chỉ ra dược
quy luật thay thế xã hội này bằng xã hội khác tiến bộ hơn.
– Tiền đề xuất phát để xây dựng quan điểm duy vật về xã hội của Mác
Phê phán quan điểm duy tâm trong mọi hình thức, trong đó có quan
điểm của triết học cổ điển Đức về lĩnh vực xã hội, Mác cho rằng, người ta
phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống
được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài
thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư
liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất trong bản thân đời sống vật
chất. Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người hiện thực, bắt đầu từ sự
khẳng định sản xuất vật chất với hai mặt là quan hệ giữa người với người và
quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, Mác đã phát hiện ra
quan hệ vật chất, kinh tế quy định quan hệ tư tưởng, chính trị; điều kiện sinh
hoạt vật chất (tồn tại xã hội) quy định ý thức (ý thức xã hội) của con người.
Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không
thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt
động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta
phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ
với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối
liên hệ và quan hệ xã hội đó. Mác cũng khẳng định sự vận động và phát triển
của xã hội tuân theo quy luật khách quan và vai trò của yếu tố chủ quan. Từ
những quan niệm trên, Mác đưa ra khái quát khoa học về xã hội bằng lí luận
hình thái kinh tế – xã hội.
2. Cấu trúc xã hội, phạm trù hình thái kinh tế – xã hội
a. Cấu trúc xã hội
Nếu xem xã hội tồn tại dưới dạng một chỉnh thể thì nó được tạo bởi
nhiều yếu tố như: 1) kinh tế (quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế) giữ vai trò là
quan hệ ban đầu, cơ bản và quy định tất cả các quan hệ xã hội khác; 2) xã
hội (quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân loại); 3) chính trị (các tổ chức và
các thiết chế quyền lực, hệ thống pháp luật và tư tưởng chính trị) và 4) tinh
thần của đời sóng xã hội. Các lĩnh vực đó thống nhất biện chứng với nhau,
trong đó lĩnh vực kinh tế quy định các lĩnh vực còn lại. Mác viết: “trong sự sản
xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, lất
yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ – tức những quan hệ sản xuất,
những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực
lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên
một kiến trúc thượng tầng pháp lí và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống
vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung”.
b. Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất ấy. Các yếu tố cơ bản của hình thái kinh tế – xã hội:
– Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kĩ thuật của mỗi hình thái
kinh tế – xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành,
tồn tại và chuyển hóa lẫn nhau từ hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái cao
hơn, tiến bộ hơn giữa các hình thái kinh tế – xã hội.
– Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản tạo nên kết cấu kinh tế của xã
hội (tức cơ sở hạ tầng); là quan hệ quy định mọi quan hệ xã hội khác, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời còn là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
– Kiến trúc thượng tầng gồm các thành phần là các hình thái ý thức xã
hội (chính trị pháp lí, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật, triết học, khoa học v.v…)
với các thiết chế tương ứng (đảng phái, nhà nước, giáo hội v.v…). Kiến trúc
thượng tầng được xây dựng từ cơ sở hạ tầng với chức năng bảo vệ, duy trì
và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Ngoài ra, hình thái kinh tế – xã hội
còn bao gồm các thành phần như quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc v.v…
Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội vừa tồn tại độc lập, vừa thống nhất với
nhau, vừa tác động qua lại lẫn nhau, gắn bó và biến đổi cùng với sự biến đổi
của quan hệ sản xuất.
3. Biện chứng về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội
a. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất tạo nên quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Sản xuất vật chất được tiến hành trong điều kiện địa lí tự nhiên, dân số
và phương thức sản xuất. Trong các yếu tố đó, phương thức sản xuất là yếu
tố quy định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Phương thức sản xuất là cách
thức con người thực hiện để sản xuất vật chất, là sự thống nhất biện chứng
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất ở những giai đoạn phát triển
nhất định của xã hội loài người. Mỗi phương thức sản xuất thể hiện sự thống
nhất cụ thể giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản
xuất tương ứng. Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn tại hình thái kinh tế –
xã hội nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản – những nấc thang chính trong
sự phát triển của xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kĩ thuật của mỗi hình thái
kinh tế xã hội; là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình
sản xuất vật chất, thể hiện năng lực thực tế chinh phục giới tự nhiên bằng sức
mạnh tổng hợp của con người trong quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và chuyển hóa giữa các hình thái kinh
tế – xã hội, từ hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái tiến bộ hơn. Các yếu tố
chính của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất, người lao động.
Quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất, kinh tế của hình thái kinh tế – xã
hội, quy định mọi quan hệ xã hội khác và mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu
cho bản chất kinh tế của mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định, thể hiện mối
quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất; phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xế hội. Tính vật chất của quan
hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con
người. Trong quy luật này, quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quy định.
Mác viết: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người
ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở
vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo
riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng
thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một
giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”. Khái quát này của Mác
cho thấy tính lặp lại quy luật trong sự phát triển đa dạng của các nước khác
nhau, đem lại một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội này với xã hội
khác trong lịch sử.
– Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại thống nhất biện
chứng với nhau trong một phương thức sản xuất cụ thể. Trong hai mặt đó của
phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, thường xuyên biến đổi
theo hướng phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất,
tương đối ổn định. Sự tác động biện chứng giữa hai mặt đó tạo nên quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển của xã hội. Sự
phát triển khách quan của lực lượng sản xuất bắt đầu từ việc cải tiến và chế
tạo ra công cụ lao động mới nhằm đạt hiệu quả lao động cao hơn; trong quá
trình đó, trình độ thể lực và trí lực của người lao động cũng không ngừng tăng
lên, khoa học phát triển; phân công lao động ngày càng sâu, v.v… Tất cả
những điều đó làm cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng hình đó của lực lượng
sản xuất thẻ hiện ở cấp độ của công cụ lao động, trình độ người lao động,
ứng dụng khoa học công nghệ vào lao động và trình độ tổ chức, phân công,
quản lí lao động. Điều này thể hiện sức mạnh chinh phục tự nhiên của con
người trong giai đoạn lịch sử đó.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quy định quan hệ sản
xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó. Nhưng trong quá
trình vận động, phát triển đó, quan hệ sản xuất thường biến đổi chậm hơn so
với sự vận động và biến đổi của lực lượng sản xuất nên sự phù hợp ban đầu
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất dần dần
bị phá vỡ. Khi lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, xuất hiện mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất hiện có với trình độ phát triển mới của lực lượng sản
xuất. Lúc đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất,
kìm hãm sự phát triển tiếp theo của lực lượng sản xuất. Theo Mác “tới một
giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã
hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay – đây chỉ là biểu hiện
pháp lí của những quan hệ sản xuất đó – mâu thuẫn với quan hệ sở hữu,
trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc cách mạng xã hội”. Mâu thuẫn biện chứng giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính quy luật và thể hiện
thông qua hoạt động có ý thức của con người nên việc giải quyết mâu thuẫn
đó còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan. Con người phát hiện những yếu tố
không phù hợp của quan hệ sản xuất, thay thế bằng những yếu tố phù hợp;
đem lại sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Nhưng rồi sự phù hợp đó cũng không chống lại được sự phát
triển khách quan của lực lượng sản xuất lên trình độ mới tiếp theo, dẫn đến
sự phát triển biện chứng của sản xuất vật chất tuân theo chuỗi mắt xích phù
hợp, không phù hợp. Lực lượng sản xuất, như trên đã phân tích, quy định sự
vận động, phát triển của quan hệ sản xuất.
– Quan hệ sản xuất tồn tại độc lập tương đối và tác động ngược trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất; tác động lên thái độ
người lao động; lên tổ chức phân công lao động xã hội; lên khuynh hướng
phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ để từ đó hình thành một hệ thống
những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Nếu phù hợp, quan hệ sản xuất sẽ tạo địa bàn, mở đường và trở thành
động lực cơ bản thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại, sẽ trở
thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự tác
động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất thông qua các
quy luật kinh tế, đặc biệt là các quy luật kinh tế cơ bản. Thực tiễn cho thấy,
lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có quan hệ sản xuất hợp lí, đồng
bộ, phù hợp với nó.
b. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Mỗi xã hội cụ thể đều có một kiểu quan hệ vật chất, kinh tế nhất định và
phù hợp với nó là quan hệ tư tưởng, chính trị v.v… Mối liên hệ, tác động lẫn
nhau giữa quan hệ vật chất, kinh tế với quan hệ tinh thần, chính trị được chủ
nghĩa duy vật biện chứng phản ánh trong quy luật về mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
– Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định. Các thành phần cơ bản của một cơ sở hạ
tầng cụ thể (trừ xã hội nguyên thuỷ) gồm quan hệ sản xuất thống trị trong
phương thức sản xuất hiện có; quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất
tàn dư trước đó; quan hệ sản xuất mầm mống của phương thức sản xuất
tương lai và những kiểu quan hệ kinh tế khác, trong đó quan hệ sản xuất
thống trị giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu quan
hệ sản xuất khác, đồng thời quy định tính chất của cơ sở hạ tầng. Sự đối
kháng giai cấp và tính chất của sự đối kháng đó bắt nguồn từ cơ sở hạ tầng.
– Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm (chính trị, pháp
luật, triết học, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, đạo đức, v.v…) với những thiết
chế tương ứng với các quan điểm đó (đảng phái, nhà nước, giáo hội, các
đoàn thể xã hội, v.v….) và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó của
kiến trúc thượng tầng. Các thành phần cơ bản của một kiến trúc thượng tầng
cụ thể gồm những quan điểm xã hội và các thiết chế tương ứng của giai cấp
thống trị hiện có; tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước; quan điểm
và tổ chức xã hội của các giai cấp đang ra đời; quan điểm và tổ chức xã hội
của các tầng lớp trung gian. Trong đó, những quan điểm xã hội và các thiết
chế tương ứng của giai cấp thống trị hiện có quy định tính chất kiến trúc
thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng là
nhà nước – công cụ vật chất của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và
pháp luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị
được xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính quyền nhà
nước thì tư tưởng và các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã
hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình
thái kinh tế – xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau; trong đó cơ sở
hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng, song kiến trúc thượng tầng cũng có
tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng do mỗi kiến trúc thượng
tầng tương ứng đều được xây dựng lên từ cơ sở hạ tầng nhất định; do vậy
tính chất của kiến trúc thượng tầng do lính chất của cơ sở hạ tầng quy định.
Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc
thượng tầng. “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ
sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Tuy nhiên, sự phụ thuộc của kiến
trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng thể hiện sự phong phú và phức tạp; có
những yếu tố của kiến trúc thượng tầng như chính trị, pháp luật biến đổi
nhanh, những yếu tố như tôn giáo, nghệ thuật, v.v… biến đổi chậm hơn. Cơ
sở hạ tầng, như trên đã phân tích, quy định sự vận động, phát triển của kiến
trúc thượng tầng.
– Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại cơ
sở hạ tầng.
Trong mỗi kiến trúc thượng tầng còn kế thừa một số yếu tố của kiến
trúc thượng tầng trước. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác
động trở lại cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, các yếu tố chính trị, pháp luật tác động
trực tiếp, còn triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v… tác động
gián tiếp đối với cơ sở hạ tầng, bị các yếu tố chính trị, pháp luật chi phối.
Trong xã hội còn giai cấp, nhà nước là yếu tố vật chất có tác động mạnh nhất
đối với cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, sự tác động tích cực của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc
thượng tầng mà trước hết là nhà nước, dựa trên hệ tư tưởng để kiểm soát xã
hội và dùng bạo lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị là
bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xóa
bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Những tác động của kiến trúc
thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tích cực khi tác động đó cùng chiều với
sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan, trái lại, sẽ gây trở ngại cho
sự phát triển sản xuất, cản đường phát triển của xã hội. Nếu kiến trúc thượng
tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế – xã hội, sớm hay muộn, bằng cách
này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng đó sẽ được thay thế bằng kiến trúc
thượng tầng mới, thúc đẩy kinh tế – xã hội tiếp tục phát triển. Tuy có tác động
mạnh, nhưng các yếu tố tinh thần của kiến trúc thượng tầng không thể thay
thế được yếu tố vật chất, kinh tế.
c. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên
Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội vừa tuân theo quy luật
khách quan phổ biến, vừa chịu sự chi phối của các quy luật riêng, đặc thù
như quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
với kiến trúc thượng tầng và các quy luật khác. C. Mác viết: “Tôi coi sự phát
triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”.
– Nguồn gốc sâu xa của sự thay thế nhau theo khuynh hướng phát
triển của các hình thái kinh tế – xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phát triển đó, trước hết làm cho quan hệ sản xuất biến đổi dẫn đến
sự thay đổi của phương thức sản xuất rồi sự biến đổi của quan hệ sản xuất
(lúc này đã chuyển hóa thành cơ sở hạ tầng), làm cho kiến trúc thượng tầng
biến đổi theo qua những biến đổi theo quy luật từ những thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. Như vậy, hình thái kinh tế – xã
hội biến đổi theo chiều hướng đi lên theo quy luật phủ định của phủ định,
nghĩa là trong hình thái kinh tế – xã hội mới có kế thừa biện chứng những
thành phần, tính chất của hình thái kinh tế – xã hội trước đó và đương nhiên,
trong hình thái kinh tế – xã hội mới có những thành phần, tính chất mà hình
thái kinh tế – xã hội trước đó không có. Suy ra, hình thái kinh tế – xã hội mới
cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế – xã hội trước đó.
– Quá trình thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế xã hội vừa diễn ra
tuần tự, vừa trong những điều kiện nhất định, bao hàm cả sự bỏ qua một vài
hình thái kinh tế – xã hội nào đó.
Lịch sử xã hội loài người là sự phát triển tuần tự từ thấp đến cao của
các hình thái kinh tế – xã hội tuân theo những quy luật chung mang tính
khách quan như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiên trúc thượng tầng, quy
luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội…
Tuy nhiên do những điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế – xã hội, văn
hóa khác nhau, sự tác động và ảnh hưởng của những điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan nên sự phát triển của các quốc gia, dân tộc không phải
lúc nào cũng chỉ là sự phát triển tuần tự tuân theo những quy luật chung mà
còn phát triển tuân theo quy luật riêng, “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế –
xã hội để tiến lên một hình thái kinh tế – xã hội mới tiến bộ hơn. Ví dụ: nước
Mĩ, Ốtxtrâylia phát triển “bỏ qua” hình thái kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ và
hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, tiến thẳng lên chủ nghĩa tư bản do quá
trình xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây vào thế kỉ XVIII.
Dù phát triển tuần tự từ thấp đến cao hay phát triển bỏ qua thì đều là
sự phát triển hợp quy luật khách quan của lịch sử xã hội mà không phải theo
ý muốn chủ quan của một ai đó.
Ở Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng lí luận hình thái kinh tế – xã hội để
đưa nước ta từ một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã
hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó phản ánh đúng xu thế phát
triển của thời đại, nguyện vọng của đa số các tầng lớp nhân dân trong xã hội,
và phù hợp với quy luật khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử dân
tộc Việt Nam.
4. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lí luận hình thái kinh tế – xã hội
Tính khoa học của lí luận hình thái kinh tế – xã hội thống nhất với vai
trò phương pháp luận của nó. Điều này thể hiện ở chỗ:
– Thứ nhất, lí luận hình thái kinh tế – xã hội nêu quan niệm duy vật biện
chứng về xã hội; nó chỉ ra rằng sản xuất vật chất là yếu tố quy định sự tồn tại
và phát triển của xã hội, lĩnh vực vật chất, kinh tế quy định lĩnh vực tinh thần,
chính trị. Mác viết: “không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng
như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh
thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại,
phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện
sinh hoạt vật chất (…) Nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý
kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về
một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải
giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự
xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản
xuất xã hội”.
– Thứ hai, lí luận hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra rằng xã hội là một hệ
thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó, các yếu tố, các mặt, các
lĩnh vực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Xã hội là một cơ thể sống đang
phát triển không ngừng, một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì phải phân
tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã
hội nhất định, và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển
của hình thái xã hội đó.
– Thứ ba, lí luận hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra động lực bên trong (các
quy luật xã hội khách quan) sự vận động, phát triển của xã hội và do đó, chỉ
ra sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử – tự
nhiên. “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản
xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương
thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm
sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái
cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi
nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.
– Thứ tư, lí luận hình thái kinh tế – xã hội cũng chỉ ra quy luật phát triển
chung của xã hội loài người và chỉ ra con đường phát triển riêng, đặc thù của
mỗi dân lộc, “một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của
sự vận động của nó (…) cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát
triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó”. Mác cũng
cho rằng, “nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”. Điều
đó cho thấy cần kết hợp giữa việc nghiên cứu những quy luật chung với việc
nghiên cứu điều kiện cụ thể về điều kiện tự nhiên, môi trường địa lí, dân số,
truyền thống văn hóa, tình hình quốc tế, v.v… thể hiện nguyên tắc phương
pháp luận lôgíc – lịch sử trong việc nhận thức đúng con đường phát triển của
mỗi dân tộc. Như V.I. Lênin nhận định, lí luận đó không bao giờ có tham vọng
giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp duy nhất khoa
học để giải thích lịch sử.
II. NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Dự báo của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội
a. C. Mác và Ph. Ăngghen dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và giai cấp vô
sản cách mạng – những yếu tố tự thân xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng
xã hội mới. Để đi đến xã hội cộng sản, phải trải qua cách mạng cộng sản,
cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những sẽ có tính chất dân tộc mà
sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh,
Mĩ, Pháp và Đức. Trong mỗi một nước đó, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ
phát triển nhanh hay chậm, là tùy ở chỗ nước nào trong những nước đó có
công nghiệp phát triển hơn, tích luỹ được nhiều của cải hơn và có nhiều lực
lượng sản xuất hơn”.
b. V.I. Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C. Mác trong việc phân tích xã hội tư bản và dự báo về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền về kinh tế, giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa về chính trị. V.I. Lênin đã phát hiện ra sự phát triển không đều về kinh
tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, từ đó ông đi tới kết
luận: Chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi, trước hết trong một số ít nước, thậm
chí trong một nước tư bản. Ông cũng chỉ ra hai con đường cơ bản quá độ lên
chủ nghĩa xã hội: con đường quá độ trực tiếp dành cho những nước tư bản
đã phát triển và con đường quá độ gián tiếp, thông qua nhiều khâu trung gian,
nhiều bước quá độ dành cho những nước kinh tế kém phát triển. “Vì chúng ta
chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã
hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh
khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng
ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con
đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản
xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”.
c. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung
Chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô kéo
dài từ năm 1929 đến năm 1991. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội theo
mô hình đó là: 1) Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu trong hình
thức toàn dân và tập thể. 2) Nhà nước quyết định và quyết định có tính pháp
lệnh về sản xuất gì, như thế nào, phân phối cho ai những sản phẩm đó. 3)
Phân phối bình quân, trực tiếp bằng hiện vật; coi nhẹ quan hệ hàng hóa – tiền
tệ. 4) Nhà nước quản lí bằng mệnh lệnh hành chính; coi nhẹ các biện pháp
kinh tế.
Trong điều kiện bị bao vây, cô lập, mô hình kế hoạch hóa tập trung có
vai trò tích cực trong việc huy động sức người, sức của vào sự nghiệp xây
dựng đất nước và chống lại sự tấn công của kẻ thù.
Tuy nhiên do không khai thác được năng lực sản xuất; không phát huy
được sự nhiệt tình và tính chủ động sáng tạo của sản xuất; không đẩy nhanh
được sự tiến bộ của khoa học, công nghệ, mô hình kế hoạch hóa tập trung đã
đẻ ra bộ máy hành chính quan liêu, chủ quan duy ý chí.
2. Những biến đổi của thời đại và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung sụp đổ; chủ
nghĩa tư bản đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, khoa học và công nghệ đòi
hỏi phải nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội và nhận thức đó không tách rời với
nhận thức về sự phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, với
những thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ.
Trong thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất có bước phát triển căn bản
về chất; bước phát triển đó là tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội. Tuy do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra, nhưng sự phát
triển đó của lực lượng sản xuất lại là cái đối lập với chủ nghĩa tư bản. Mâu
thuẫn đó sẽ được giải quyết với kết quả là chủ nghĩa tư bản mất đi, chủ nghĩa
xã hội ra đời và do vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu hướng của thời
đại.
3. Về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Vận dụng sáng tạo lí luận hình thái kinh tế – xã hội vào điều kiện cụ thể
ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của xã hội Việt Nam. Khẳng định đó
phù hợp với xu hướng thời đại và điều kiện cụ thể ở nước la. Điều đó thể hiện
ở: 1) Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng
của thời đại. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mặc dù có những
vấp váp, nhưng đã đem lại nhiều thành tựu về mọi mặt. 2) Bỏ qua tư bản chủ
nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải trải qua một thời kì quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức,
bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng
tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại
đoàn kết dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế”. “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa
cái mới và cái cũ”.
b. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang là xu thế chung và tất
yếu đối với các nước phát triển và các nước đang phát triển. Với Việt Nam –
một nước hiện vẫn còn ở tình trạng của nước nghèo, kém phát triển, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định là con đường phát triển tất yếu,
khách quan. Muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, muốn tránh khỏi nguy cơ tụt
hậu xa hơn so với các nước trong khu vực mà điểm xuất phát ban đầu của họ
không khác mấy so với nước ta, muốn đưa nước ta nhanh chóng đạt đến
trình độ của một nước phát triển, thì không có cách nào khác ngoài đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tư cách cuộc cách mạng toàn diện và sâu
sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ sở lí luận nền tảng của
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc đó chính là lí luận về hình thái kinh tế –
xã hội.
Chúng ta nói lí luận hình thái kinh tế – xã hội là cơ sở nền tảng của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa bởi lẽ, mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang tiến hành là nhằm cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X (4/2006), khi xác định con đường công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cần và có thể
rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có nước nhảy vọt, Đảng
ta đã khẳng định sự nghiệp đó phải nhằm đảm báo xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ, có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích lũy ngày càng cao từ nội
bộ nền kinh tế, có cơ cấu kinh tế hợp lí; phát triển lực lượng sản xuất, đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ được tăng cường; kết
cấu hạ tầng ngày càng hiện đại; quốc phòng, an ninh vững chắc; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; hướng tới mục tiêu
chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó thể hiện sự vận dụng một
cách sáng tạo lí luận hình thái kinh tế – xã hội. Lí luận nói lên thực chất quan
niệm duy vật về lịch sử của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin,
quan niệm dùng để chỉ xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển lịch sử với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên cơ sở
của quan hệ sản xuất đặc trưng ấy – quan niệm về con đường phát triển lịch
sử – tự nhiên của xã hội loài người.
c. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lí và phân phối. Xây dựng
và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền
kinh tế có: 1) Mục tiêu tổng quát là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. 2) Có ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) và
năm thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài). 3) Có cơ chế quản lí kinh tế là phát triển đồng bộ và quản lí có
hiệu quả sự vận hành các loại thị trường theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
nhằm điều tiết sản xuất và kích thích phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng
suất lao động và tăng cường vai trò định hướng, quản lí của nhà nước. 4) Có
hình thức phân phối là thực hiện công bằng xã hội; kết hợp phân phối theo
lao động với mức độ đóng góp vốn và các nguồn lực vào quá trình sản xuất;
đồng thời bảo đảm cho mọi thành viên của xã hội đều được hưởng thành quả
của sự phát triển kinh tế.
d. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội
Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với chính trị và các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội mà lí luận hình thái kinh tế – xã hội nêu ra
thể hiện tập trung ở mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị hiện
nay, Việt Nam tập trung đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước song song với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng
sản Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao
vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển
giáo dục, đào tạo; giải quyết tốt những vấn đề an sinh xã hội, thực hiện công
bằng, dân chủ, văn minh trong đời sống xã hội. Có thể nói, lí luận hình thái
kinh tế – xã hội với tư cách là cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã
hội cho đến nay vẫn là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân
tích tiến trình phát triển của lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội, cho phép
“chuyển từ việc mô tả (và từ việc đánh giá theo quan điểm lí tưởng) những
hiện tượng xã hội sang việc phân tích hiện tượng đó một cách hết sức khoa
học”, bởi như Lênin đã chỉ ra rằng, chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào
những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ
của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc
để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử
tự nhiên.
Lí luận đó khi phân tích quy luật vận động của một hình thái kinh tế – xã
hội cụ thể đã chỉ ra những mâu thuẫn nội tại và khẳng định chính sự vận động
của mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa sang hình thái khác cao
hơn, từ một trật tự quan hệ xã hội này sang một trật tự quan hệ xã hội khác
cao hơn. Lí luận đó đã giải thích rõ những quy luật đặc thù chi phối sự phát
sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong của một chế độ xã hội nhất định và sự
thay thế nó bằng một chế độ xã hội khác cao hơn.
Lí luận đó không chỉ giới hạn trong phạm vi một nền văn minh nhất
định, mà còn luôn đánh giá cao vai trò cách mạng của lực lượng sản xuất,
của khoa học và công nghệ – vai trò của những trình độ văn minh vật chất.
Hơn nữa, lí luận này không chỉ thừa nhận những quan hệ kinh tế, xét đến
cùng, là quan hệ quyết định, mà còn thừa nhận vai trò của những yếu tố trong
kiến trúc thượng tầng (chính trị, tư tưởng, văn hóa), thừa nhận sự tác động
qua lại lẫn nhau của những yếu tố đó và tất cả đều ảnh hưởng đã quá trình
phát triển của một hình thái kinh tế – xã hội. Nó đòi hỏi chúng ta phái phân
tích sự phát triển của các xã hội như một quá trình tổng hợp các nhân tố và
các quy luật khách quan, phải tính đến cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản
xuất và mối liên hệ biện chứng của chúng. Lí luận đó, như V.I. Lênin khẳng
định, là cái “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một
hình thức tổ chức đời sống xã hội này, xảy ra và phát triển lên như thế nào
một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn”.
Qua đó có thể khẳng định rằng, với chúng ta, khi “công nghiệp hóa gắn
với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển”, với việc
ngày một “nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế –
xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức”, với việc ứng dụng rộng rãi
những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại, khi khoa học
và công nghệ được coi là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi
việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam
hiện đại là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đó và khi mà bản thân
sự nghiệp đó được nhận thức là con đường phát triển tất yếu, khách quan, là
cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, thì một trong những cơ sở lí luận, một trong những nền tảng tư tưởng
của nó là lí luận về hình thái kinh tế – xã hội – biểu hiện tập trung của quan
niệm duy vật về lịch sử, quan niệm duy vật biện chứng được cụ thể hóa trong
việc xem xét đời sống xã hội, hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội và do
vậy, là một trong những nền tảng lí luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày phạm trù hình thái kinh tế – xã hội.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?
4. Sự nhận thức con đường đi lên CNXH ở Việt Nam?
CÂU HỎI XÊMINA
1. Giá trị lịch sử và thời đại của học thuyết hình thái kinh tế xã hội?
2. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội trong những chặng
đường đầu tiên của thời kì lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
Chuyên đề 5. GIAI CẤP, DÂN TỘC, NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤPVấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong học thuyết Mác – Lênin từ
lâu đã là vấn đề luôn làm nổ ra các cuộc đấu tranh quyết liệt của nhiều trường
phái triết học và nhiều quan điểm chính trị – xã hội khác nhau. Có thể nói, đây
là một trong những vấn đề gay go nhất của quan điểm mácxít về quá trình
phát triển của xã hội loài người. Lí luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt học thuyết Mác –– Lênin, là hòn đá tảng để phân biệt
những người mácxít với những kẻ giả danh, với chủ nghĩa xét lại và chủ
nghĩa cơ hội trong phong trào đấu tranh quốc tế. Trong thời đại ngày nay, tình
hình thế giới có những biến đổi phức tạp, đặc biệt là sau sự đổ vỡ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông âu, các thế lực thù địch với cách
mạng vô sản ra sức bóp méo, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lêmn, trong đó có
vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Từ thực trạng đó, vấn đề giai cấp và
đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin cần phải được phân tích, đánh
giá trên cơ sở khoa học, khẳng định tính quy luật của nó và vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Khái lược các quan điểm ngoài mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
a. Quan điểm ngoài mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, những quan điểm về giai cấp và đấu
tranh giai cấp đã được hình thành từ rất sớm. Ở Trung Quốc, thời cổ đại,
Khổng Tử đã đưa ra quan điểm hoàn toàn đậm nét về phân biệt đẳng cấp
trong xã hội. Ông cho rằng, trong xã hội, người quân tử và kẻ tiểu nhân là
những hạng người có địa vị và nhân cách hoàn toàn khác nhau. Giữa người
quân tử và kẻ tiểu nhân không thể có sự dung hoà trong mọi lĩnh vực. “Người
quân tử có khi phạm điều bất nhân chứ chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm
được điều nhân”. Tiếp đó vào thời Chiến quốc (thế kỉ thứ V–III TCN), trong
cuốn Quản Tử, tác giả đã thừa nhận việc phân chia xã hội thành đẳng cấp và
chỉ rõ: sĩ, nông, công, thương là cơ sở tồn tại của nhà nước.
Ở Hi Lạp cổ đại, Platon (427 – 437 TCN) đã viết hai tác phẩm nổi tiếng
Nhà nước và Luật lệ, trong đó ông khẳng định cần phải đấu tranh chống lại
sự giàu có và nghèo nàn. Ông cho rằng sự giàu có đẻ ra tệ ăn bám và lòng
ham muốn vật chất quá đáng; còn sự nghèo khó thì sinh ra tính thấp hèn, độc
ác và cũng sinh ra lòng ham muốn vật chất. Như vậy, tình trạng có người
giàu, người nghèo trong xã hội phá hoại các mối quan hệ trong xã hội và sinh
ra mâu thuẫn đối kháng trong xã hội.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại cả ở phương Đông và phương Tây đã
xuất hiện những tư tưởng phản ánh sự phân chia giai cấp và cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp đối kháng về lợi ích. Song những tư tưởng đó còn mộc mạc
và đơn giản, chúng chưa chỉ ra được nguồn gốc hiện thực của giai cấp và do
đó chưa thể nêu lên được một định nghĩa khoa học về giai cấp. Khi chủ nghĩa
tư bản bắt đầu hình thành và cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và địa chủ
quý tộc xuất hiện thì quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trở nên rõ
ràng hơn.
Trong các tác phẩm của Morơ (1478 – 1535), Campanenla (1568 –
1639) đều chỉ rõ quyền tư hữu là nguồn gốc của mọi tai họa trong xã hội
đương thời. Morơ cho rằng, với chế độ tư hữu thì không thể nói đến sự công
bằng và hạnh phúc trong xã hội. Theo ông, với chế độ ấy mọi người đều sẽ
chiếm lấy cái gì mình muốn dù cho của cải có nhiều đến đâu, nó cũng bị một
số ít người chiếm đoạt và số phận của đông đảo những người còn lại sẽ đau
khổ. Từ đó, ông kết luận, muốn thiết lập một chế độ bình đẳng cần phải thủ
tiêu chế độ tư hữu. Phủ nhận chế độ tư hữu, thiết lập chế độ không còn tư
hữu. Trong tác phẩm không tưởng là thái độ phản kháng tích cực của Morơ
về mặt tư tưởng đối với các chế độ đương thời ở Châu Âu.
Vào cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, với sự xuất hiện các tác phẩm
của Xanh Ximông, các tư tưởng về giai cấp và đấu tranh giai cấp đã đi xa hơn
và cụ thể hơn. Tiếp tục truyền thống của nhiều nhà tư tưởng xã hội trước đó,
Xanh Ximông theo dõi cuộc đấu tranh giữa các tầng lớp nhân dân bị áp bức
và không có của với những kẻ sở hữu trong tất cả các giai đoạn của lịch sử –
cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô, bình dân và quý tộc, nông dân và địa
chủ phong kiến. Từ đó ông đi đến kết luận: các giai cấp xuất hiện là do sự
chiếm đoạt. Trong các tác phẩm của Xanh Ximông đã có một loạt ý kiến về
đấu tranh giai cấp và ông đã coi cuộc đấu tranh giai cấp đó thể hiện nguyện
vọng của các giai cấp muốn xác lập một trật tự phù hợp nhất đối với lợi ích
của họ trong quá trình sản xuất. Theo ông, đấu tranh giai cấp là đặc trưng của
bất cứ xã hội nào có áp bức, bóc lột và cuộc đấu tranh của giai cấp nắm giữ
nền công nghiệp đang phát triển chống lại bọn quý tộc phong kiến là nội dung
cơ bản của lịch sử xã hội từ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản (từ thế kỉ XV).
Như vậy, tư tưởng của Xanh Ximông về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một
điều mới mẻ so với tất cả những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng trước
ông. Mặc dù do sự quy định của thời đại và sự hạn chế của bản thân, Xanh
Ximông chưa nêu ra được tiêu chuẩn khoa học và nhất quán để phân định
các giai cấp, chưa xác định được thật chính xác vị trí, vai trò của các giai cấp
trong xã hội đương thời, nhưng trong quan niệm của ông về giai cấp ngày
càng có thêm những nhân tố hợp lí, phản ánh thực trạng xã hội phân chia giai
cấp trên cơ sở xuất hiện và phát triển của nhân tố mới là công nghiệp.
Tuy nhiên, công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
gắn liền với tên tuổi của các nhà sử học Pháp như Phrăngxoa Ghido (1778 –
1784), Ôguytxtanh Chiery (1795 – 1856) và Phrăngxoa Minhê (1796 – 1884).
Theo quan điểm của các ông, những sự thay đổi về quan hệ tài sản, chủ yếu
là quan hệ về ruộng đất đã dẫn tới mối quan hệ giai cấp mới và sự thay đổi về
chế độ chính trị. Nhưng đồng thời họ lại cho rằng, sự hình thành giai cấp và
nhà nước là dựa trên cơ sở chinh phục bằng vũ lực và sự tan rã của xã hội
cũ; bằng sự nô dịch của những dân tộc và bộ lạc này đối với dân tộc và bộ lạc
khác. Như vậy, họ làm lu mờ sự đối kháng giai cấp của xã hội tư bản và chủ
trương cải tạo xã hội bằng sự điều hòa mâu thuẫn giai cấp. Tuy nhiên, lịch sử
đã ghi nhận công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp của
các học giả tư sản. Điều này đã được C. Mác giải thích rằng, tôi không có
công tìm ra sự tồn tại của giai cấp trong xã hội hiện đại cũng như cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp đó. Rằng, những nhà viết sử tư sản đã mô tả sự phát
triển lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp và các nhà kinh tế tư sản đã mô
tả kết cấu kinh tế từ trước tôi rất lâu. Điều này cũng đã được V.I. Lênin khẳng
định rằng, thuyết đấu tranh giai cấp không phải do Mác, mà do giai cấp tư sản
trước Mác sáng tạo ra.
b. Quan điểm của các nhà tư tưởng tư sản hiện nay về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin
chỉ ra tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản, đồng
thời khẳng định tính tất yếu của chuyên chính vô sản. Chính vì vậy, các đại
biểu của giai cấp tư sản luôn tìm mọi cách phủ nhận học thuyết trên bằng
những phương pháp và mức độ khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, một số
học giả tư sản phủ nhận hoàn toàn học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Theo họ, Mác đã nhấn mạnh quá mức sự đối lập giữa tư sản và vô sản
khi đưa ra học thuyết đó. Rằng, quy luật đấu tranh giai cấp không phải là quy
luật phổ biến, vì vậy không thể áp dụng cho xã hội tư bản chủ nghĩa. Chẳng
hạn, ở Mĩ có quan điểm cho rằng, sự biến động của các giai cấp và các tầng
lớp xã hội diễn ra rất nhanh, do đó việc phân định giai cấp trở nên không có ý
nghĩa. Đồng thời với quan điểm đó còn có nhiều quan điểm khẳng định sự
xích lại gần nhau giữa các giai cấp trong các nước tư bản phát triển. Một số
học giả tư sản cũng thừa nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, nhưng lại
tìm cách bác bỏ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp.
Theo họ, để phân chia xã hội thành giai cấp phải dựa trên cơ sở sinh học,
dựa trên những tố chất tạo nên cơ thể, cấu trúc hoàn thiện hoặc không hoàn
thiện của cơ thể v.v… Bên cạnh đó, nhiều học giả lại đưa ra những tiêu chí
khác để phân biệt giai cấp như sự khác biệt nhau về ý thức, tâm lí, nghề
nghiệp v.v… Tất cả các quan điểm nêu trên đều có chung mục đích là phủ
định lí luận mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
2. Quan điểm mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
a. Khái niệm giai cấp, nguồn gốc giai cấp và kết cấu giai cấp
Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã có nhiều cống hiến to
lớn vào lí luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Lí luận về giai cấp được C.
Mác và Ph. Ăngghen diễn đạt rất đơn giản nhưng rõ ràng nhất trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, là: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến
ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Dĩ nhiên, C. Mác và Ph. Ăngghen
không phải là người đầu tiên chỉ ra sự phân chia giai cấp trong xã hội. Đóng
góp to lớn của các ông vào lí luận và giai cấp là ở chỗ, C. Mác đã đưa ra một
quan niệm khoa học về giai cấp, xem xét vấn đề giai cấp trên cơ sở quan
niệm duy vật về lịch sử. Trong thư gửi cho J. Vâyđơmaye (ngày 5 tháng 3
năm 1852), C. Mác nhấn mạnh rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với
những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”.
Sự xuất hiện của giai cấp trong quá trình phát triển của xã hội loài
người đã được Ph.Ăngghen trình bày chi tiết trong tác phẩm Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước.
Theo quan điểm mácxít, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới
sự phân công lao động xã hội. Sự phân công lao động làm cho năng suất lao
động được nâng cao. Các quá trình này tác động qua lại với nhau đã tạo ra
của cải vật chất dư thừa tương đối. Chính số của cải dư thừa có giới hạn này
đã tạo ra chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự phân hóa xã hội thành các giai cấp
đối kháng. Chủ nghĩa Mác – Lênin không phải chỉ nhìn thấy cội nguồn của sự
phân hóa giai cấp ở cơ sở kinh tế mà còn thấy đặc trưng cơ bản của các giai
cấp cũng là đặc trưng kinh tế.
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại viết năm 1919, V.I. Lênin đã đưa ra
một định nghĩa nổi tiếng về giai cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn
to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thường thì quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu
sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể
chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. Định nghĩa này cho thấy
những tiêu chuẩn cụ thể để xác định các giai cấp khác nhau, đồng thời cũng
xác định rõ trong tất cả các xã hội có giai cấp đối kháng, quan hệ giữa các
giai cấp cơ bản là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột.
Xuất phát từ quan điểm duy vật về giai cấp như trên, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin đã phân tích toàn bộ sự phát sinh và phát triển
của các giai cấp trong các giai đoạn lịch sử rất khác nhau và cho rằng, thực
chất mối quan hệ giữa chúng như chủ nô với nô lệ, địa chủ quý tộc với nông
nô, tư sản với vô sản là quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Trong bộ “Tư bản”, C.
Mác đã tập trung phân tích mối quan hệ giữa tư sản với vô sản, vạch ra mâu
thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa hai giai cấp này và chỉ ra xu thế tất
yếu phải thay thế xã hội tư bản bằng một chế độ tốt đẹp hơn – chế độ xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Việc phát hiện ra quy luật bóc lột giá trị
thặng dư trong xã hội tư bản chủ nghĩa là một phát hiện vĩ đại của Mác, trong
đó vạch ra bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xuất phát từ lập
trường duy vật biện chứng về xã hội, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin còn
phân tích kết cấu giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa khác nhau, vạch ra
những giai cấp cơ bản và không cơ bản, các giai cấp đối kháng và những giai
cấp trung gian, các tầng lớp xã hội khác nhau và xác định vai trò của chúng
trong xã hội có giai cấp.
b. Đấu tranh giai cấp và vai trò của nó trong xã hội có đối kháng giai cấp
Từ những quan điểm khoa học về giai cấp, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.
Lênin đã phân tích những cuộc đấu tranh giai cấp trong suốt quá trình lịch sử.
Các ông cho rằng, lịch sử loài người từ khi có giai cấp đối kháng là lịch sử
đấu tranh giai cấp. Theo V.I. Lênin, đấu tranh giai cấp trong lịch sử và trong
thời đại ngày nay thực chất là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức
và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống lại những người hữu sàn hay giai cấp tư sản”.
Những cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô, chúa đất và nông nô, tư sản và
vô sản đã tạo nên sự vận động lịch sử từ thấp đến cao. Những cuộc đấu
tranh giai cấp không phải là những cuộc tạo phản, lật đổ, mà là những cuộc
đấu tranh có ý nghĩa cách mạng, nhằm xóa bỏ những chế độ xã hội, những
giai cấp đã lỗi thời, thay đổi quan hệ sản xuất để tạo điều kiện cho lực lượng
sản xuất phát triển. Với ý nghĩa đó, thì đấu tranh giai cấp là một trong những
động lực phát triển của lịch sử xã hội có giai cấp. Tư tưởng đó đã được
chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển lịch sử từ trước đến nay.
Theo quan điểm mácxít, giai cấp không tồn tại vĩnh viễn. Nếu nguyên
nhân kinh tế đã làm nảy sinh giai cấp, thì đến một lúc nào đó sự phát triển ở
trình độ rất cao của lực lượng sản xuất cũng tạo điều kiện để thủ tiêu giai cấp.
Chính chủ nghĩa tư bản với một lực lượng sản xuất khổng lồ đang tạo ra cơ
sở vật chất để đi đến một xã hội với trình độ phát triển cao hơn về mọi mặt,
một xã hội không còn giai cấp. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử nhân
loại. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tất yếu đi tới thủ tiêu quyền lực chính
trị của giai cấp tư sản, thiết lập quyền thống trị của giai cấp vô sản, tức là thiết
lập nền chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản là một thể chế chính trị
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dựa trên cơ sở liên minh công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Nhưng chuyên chính vô sản không phải
là mục tiêu của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Chuyên chính vô sản chỉ
là công cụ, là phương tiện mà giai cấp vô sản thiết lập để có thể thực hiện
được mục tiêu cơ bản của cách mạng. Mục tiêu cơ bản của cách mạng vô
sản là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chuyên
chính vô sản chỉ tồn tại chừng nào chủ nghĩa cộng sản chưa được xác lập
một cách cơ bản. Chừng nào chế độ tư hữu về cơ bản bị xóa bỏ, năng suất
lao động cao đến mức có khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất của mọi thành
viên trong xã hội thì chuyên chính vô sản trở nên không cần thiết và nó tự tiêu
vong. Vì vậy, chuyên chính vô sản chỉ là bước quá độ để đi đến một xã hội
không còn giai cấp. Xóa bỏ giai cấp là một quá trình rất lâu dài. Muốn xóa bỏ
giai cấp phải thủ tiêu chế độ tư hữu, như C. Mác và Ph. Ăngghen đã từng
tuyên bố: “những người cộng sản có thể tóm tắt lí luận của mình thành một
luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”. Nhưng liệu có thể xóa bỏ
chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph. Ăngghen trả lời là “Không,
không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có
tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công
hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những
triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần
dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết
cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”.
Như vậy, điều kiện cơ bản để xóa bỏ chế độ tư hữu phải là sự phát
triển cao của lực lượng sản xuất “đến mức khiến cho có thể sản xuất đã sản
phẩm cho mọi người, và khiến cho chế độ tư hữu trớ thành xiềng xích ngăn
cản sự phát triển của các lực lượng sản xuất đó”. Để có được điều kiện trên,
phải cần một giai đoạn lịch sử khá lâu dài, không những chỉ cần có sự phát
triển rất cao của lực lượng sản xuất, mà còn cần sự trưởng thành căn bản
của con người, xóa bỏ sự phân cách giữa lao động trí óc và lao động chân
tay, xóa bỏ sự khác biệt về đời sống vật chất cũng như tinh thần giữa nông
thôn và thành thị. Cần phải lưu ý rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn khẳng
định sự xuất hiện của giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp và xóa bỏ giai cấp đều
là những tất yếu khách quan. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
bất cứ giai cấp nào, và chừng nào các điều kiện khách quan chưa cho phép
thì không một giai cấp nào có thể thực hiện được những mục tiêu của mình.
c. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ, sự quốc tế hóa lực lượng sản xuất kéo theo quốc tế hóa quan
hệ sản xuất, các nước trên thế giới ngày càng có mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau. Chủ nghĩa tư bản ngày nay khác rất xa so với chủ nghĩa tư bản ở thế kỉ
XIX. Quá trình trí thức hóa công nông, công nông hóa trí thức đang diễn ra
như một tất yếu của chính nền sản xuất xã hội sinh ra. Thực tế cho thấy cả
giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và các tầng lớp khác đều có sự biến đổi to
lớn do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại.
Trong xã hội tư bản, cả lao động chân tay và lao động trí óc đều sống bằng
việc bán sức lao động cho các nhà tư bản và làm việc trong khu vực đại công
nghiệp. Chính vì thế, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại bao gồm công
nhân truyền thống (công nhân gắn với máy móc lớn); công nhân kĩ thuật mới
gắn với máy móc tự động (kĩ sư, bác học làm việc trong đại công nghiệp và
làm thuê cho tư bản); công nhân dịch vụ trong lĩnh vực công nghiệp.
Xuất phát từ sự phân tích trên, xét về bản chất, địa vị của giai cấp vô
sản và tư sản trong xã hội tư bản hiện nay không có gì thay đổi, mặc dù trên
thế giới đang có nhiều biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Mặc dù cơ cấu giai
cấp công nhân có thay đổi, một bộ phận công nhân có cổ phần, tham gia
quản lí xí nghiệp, có mức sống cao hơn trước song thực quyền quyết định
mọi vấn đề trong sản xuất, phân phối lưu thông của cải vật chất trong xã hội
tư bản vẫn thuộc về các nhà tư bản. Giai cấp công nhân thực chất vẫn là
những người làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản. Họ bị bóc lột nhiều
hơn trước nhưng dưới hình thức tinh vi hơn. Chính vì vậy, giai cấp công nhân
phải xác định được nội dung, hình thức và phương pháp đấu tranh mới phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện đại, từng bước đưa cuộc đấu tranh đi
đến những thắng lợi mới và ngày càng phát triển. Trước sự biến động của
giai cấp công nhân, trước sự khủng hoảng của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa, nhiều người nghi ngờ về vai trò của giai cấp công nhân và theo họ thì
sự nghiệp lãnh đạo cách mạng phải trao cho tầng lớp trí thức. Điều đó không
có cơ sở khoa học bởi vì trí thức chỉ là một tầng lớp xã hội, không phải là một
giai cấp. Trí thức giữ vai trò to lớn trong đời sống xã hội hiện đại, nhưng họ
không thể ở cương vị lãnh đạo cách mạng được vì họ không có hệ tư tưởng
độc lập, vì họ xuất thân từ những giai cấp khác nhau và phục vụ cho những
giai cấp khác nhau. Cũng không nên hiểu rằng, ai nghèo khổ nhất trong xã hội
là cách mạng nhất. Cách mạng hay không cách mạng là tùy thuộc vào chỗ
giai cấp đó có khả năng giải phóng lực lượng sản xuất đã bị kìm hãm trong
phương thức sản xuất cũ hay không. Chúng ta khẳng định giai cấp công nhân
là giai cấp tiên phong của thời đại vì nó là nhân tố cơ bản, người đại diện của
lực lượng sản xuất hiện đại. Giai cấp công nhân càng được trí tuệ hóa thì
càng phát triển và là chủ thể có đủ tiềm năng đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến nhất của lịch sử loài người thông qua việc xóa bỏ mọi chế độ áp
bức bóc lột.
Trong thời đại ngày nay, rõ ràng ngoài vấn đề lợi ích giai cấp và lợi ích
dân tộc còn nổi lên vấn đề lợi ích toàn cầu, bảo đảm cho sự tồn tại và phát
triển của toàn nhân loại, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp nào trên
thế giới. Bởi vậy mục tiêu của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản hiện nay là
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân lộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cần phải
nhận thức rằng, tiến bộ xã hội ngày nay gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội gắn liền với thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tinh thần
đó đã được khẳng định trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta: “Lịch sử thế giới đang trải qua những
bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
3. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Đặc điểm giai cấp và quan hệ giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ, từ năm 1975 cả
nước ta bước vào chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên. do đặc điểm lịch sử, nước ta vốn là chế độ thuộc địa. nửa phong
kiến lại trải qua những cuộc kháng chiến chống xâm lược liên tục và kéo dài,
nên vấn đề giai cấp ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù. Chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
trước giai cấp tư sản Việt Nam. Do vậy, trong cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, giai cấp công nhân Việt Nam cũng sớm xác định được vai trò lãnh đạo
của mình và giành được ưu thế tuyệt đối. Mặt khác, phần lớn công nhân Việt
Nam xuất thân từ nông dân, điều kiện lịch sử xã hội cùng những phong tục
tập quán sinh hoạt cổ truyền làm cho mối liên hệ giữa hai giai cấp này hết sức
mật thiết. Có thể nói rằng, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình
thành một cách tự nhiên trong lịch sử dân tộc. Người nông dân coi Đảng
Cộng sản của giai cấp công nhân cũng là Đảng của chính mình. Xuất phát từ
lòng yêu nước, người nông dân Việt Nam sẵn sàng đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh chống các thế lực phản động hiện nay, nông
dân luôn luôn đứng về phía công nhân.
Trí thức Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhiều người tham gia
cách mạng ngay từ những ngày đầu và có nhiều cống hiến đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại bộ phận trí thức Việt Nam hiện nay được
đào tạo trong chế độ mới; chủ yếu họ xuất thân từ công nhân và nông dân, từ
các tầng lớp lao động khác. Chính vì vậy, họ gắn bó với công – nông, gần gũi
với công – nông. Do đó, trên thực tế, công nhân, nông dân và trí thức nước ta
luôn luôn là lực lượng cơ bản của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ đặc thù của cuộc cách mạng dân tộc mà các giai cấp bóc
lột ở nước ta có sự phân hóa rõ rệt. Trong giai cấp địa chủ trước kia có
những người tham gia kháng chiến cứu nước. Trong giai cấp tư sản, trừ bọn
tư sản mại bản có lợi ích gắn với lợi ích của đế quốc, có nhiều người thuộc
hàng ngũ tư sản dân tộc tham gia kháng chiến hoặc ủng hộ cách mạng. Vì
vậy, ở Việt Nam, lực lượng chống đối cách mạng chỉ là những bộ phận bảo
thủ nhất và phản động nhất của giai cấp tư sản, những phần tử cực đoan
trong chính quyền cũ. Lực lượng đó không tập hợp được toàn bộ giai cấp và
càng không thể lôi cuốn được quần chúng nhân dân để làm nội chiến chống
lại chính quyền nhà nước của chúng ta. Tuy nhiên, nói như vậy không phải
chúng không còn ý chí phục hồi chính quyền đã mất; trong nước vẫn có
những kẻ hoạt động ngấm ngầm chống phá cách mạng, chuẩn bị lực lượng,
chờ thời cơ nổi dậy. Đồng thời chúng còn nhận được sự tiếp tay của bọn
phản động lưu vong, các tổ chức phản động nước ngoài. Điều đó đòi hỏi
chúng ta phải có ý thức cảnh giác đầy đủ. Song, trong hai nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta vẫn coi xây dựng là nhiệm vụ trung tâm, trong đó
nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống cho nhân dân, tạo cơ sở vật
chất cho sự cải tạo toàn bộ xã hội luôn luôn được đặt lên hàng đầu.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần nhằm tạo điều kiện để mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội có thể
phát huy hết tiềm năng của mình, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh.
Trong bối cảnh đó, có quan điểm cho rằng, không nên đặt vấn đề đấu tranh
giai cấp vì nó sẽ dẫn đến phân tán, chia rẽ lực lượng. Đây là một quan điểm
không đúng, vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế không loại bỏ đấu tranh
giai cấp. Đấu tranh giai cấp là một tất yếu khách quan trong mọi xã hội có giai
cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội Việt Nam hiện nay không còn sự
khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp, không còn đấu tranh giai
cấp. Nhưng cũng sẽ là sai lầm nếu phân chia các giai cấp trong xã hội ta hiện
nay thành hai lực lượng đối lập nhau. Việc nhận thức đúng đắn tính chất, nội
dung của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta xử lí
một cách khoa học mối quan hệ xã hội – giai cấp, đưa sự nghiệp đổi mới tới
thắng lợi.
b. Nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối
quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu
dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong
một mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột,
chống nghèo nàn lạc hậu. Đúng như tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ IX đã
nêu: “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn
chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;
bảo vệ độc lập dân lộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”.
Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo điều
kiện để các giai cấp, tầng lớp xã hội có thể phát huy năng lực sản xuất kinh
doanh, khai thác mọi tiềm năng của đất nước. Ở đây, đấu tranh giai cấp được
biểu hiện dưới hình thức cạnh tranh, thi đua trong hoạt động kinh tế, giải
quyết các lợi ích kinh tế, tạo điều kiện về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa
cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Tăng cường hiệu lực của Nhà nước
trong việc quản lí nền kinh tế bằng pháp luật là hình thức đấu tranh đặc biệt
quan trọng. Đấu tranh trên cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – tư
tưởng. Đấu tranh chống xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa, xu hướng xa rời
mục tiêu của xã hội (dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, định hướng xã hội chủ nghĩa). Đấu tranh chống các thế lực phá hoại
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc không chỉ là vấn đề dân
lộc mà còn là vấn đề giai cấp. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là điều kiện cơ bản
và tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội; ngược lại, xây dựng chủ nghĩa xã
hội là cơ sở vật chất để bảo đảm độc lập dân tộc bền vững. Vì thế, trận tuyến
đấu tranh giai cấp ở nước ta được xác định một bên là quần chúng nhân dân
lao động, các lực lượng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, đoàn kết trong
một mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo, với một bên là các tổ
chức, các phần tử chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Như vậy,
trong tình hình hiện nay ở nước ta, cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra gay
go và phức tạp, thực chất là cuộc đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư
bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch chống lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công,
chống nghèo nàn lạc hậu.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp còn vô cùng
phức tạp. Quy mô rộng lớn và tính chất phức tạp của những nhiệm vụ kinh tế
– xã hội hiện nay. Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và
bọn phản động quốc tế đang đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của cả cộng
đồng dân tộc, đồng thời phải kiên định tinh thần cách mạng, nắm vững định
hướng chiến lược, mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược đấu tranh, bảo đảm
sự thống nhất giữa giai cấp và nhân loại giai cấp và dân tộc trong đấu tranh.
Điều có ý nghĩa quyết định là không ngừng nâng cao năng lực quản lí của
nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của quần chúng nhân dân, động
viên và phát huy được sức mạnh của toàn dân tham gia vào sự nghiệp đổi
mới hiện nay. Đúng như tinh thần của Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”.
II. QUAN HỆ GIAI CẤP VỚI DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Dân tộc, quan hệ giữa giai cấp với dân tộc
a. Dân tộc
Theo quan điểm mácxít, dân lộc là hình thức cộng đồng người hình
thành trong lịch sử thay thế cho các hình thức cộng đồng trước đó, kể cả hình
thức bộ tộc Dân tộc là hình thức cộng đồng gắn liền với xã hội có giai cấp, có
các thể chế chính trị và nhà nước. Về cơ bản, dân tộc được hình thành trên
cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại, song cũng có trường hợp dân
tộc có thể từ một bộ lộc phát triển lên.
Những cộng đồng người được coi là dân tộc có các đặc trưng chủ yếu
là cộng đồng về ngôn ngữ; cộng đồng về lãnh thổ; cộng đồng về kinh tế, cộng
đồng về văn hóa, về tâm lí, tính cách. Các đặc trưng cơ bản nói trên không
thể thiếu được đối với bất kì một cộng đồng dân tộc nào. Tuy nhiên, dân tộc
không phải là số cộng giản đơn những quan hệ cộng đồng đó. Trái lại, những
quan hệ ấy có sự tác động qua lại lẫn nhau, kết hợp với nhau một cách chặt
chẽ và độc đáo trong lịch sử lâu dài của quá trình hình thành và phát triển
cộng đồng dân tộc. Trong thực tế đã có nhiều quan điểm phiến diện về vấn đề
này. Chẳng hạn, các quan điểm duy tâm về lịch sử chỉ nói đến quan hệ cộng
đồng về mặt tinh thần như cộng đồng văn hóa, tính cách hoặc đưa ra những
khái niệm mơ hồ, trừu tượng như “cộng đồng số mệnh”, quan điểm “duy vật
kinh tế” chỉ nói đến cộng đồng kinh tế.
Với cái nhìn toàn diện về vấn đề này, chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng
định rằng, các quan hệ cộng đồng nói trên có sự thống nhất biện chứng; đồng
thời nhấn mạnh vai trò quyết định của nhân tố kinh tế – xã hội và vai trò quan
trọng của nhân tố chính trị. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ quá trình hình
thành các dân tộc ở Châu Âu gắn liền với quá trình thay thế phương thức sản
xuất phong kiến bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế
để xuất hiện dân tộc là thủ tiêu tình trạng phân tán phong kiến chủ nghĩa,
củng cố những mối liên hệ kinh tế giữa các khu vực riêng lẻ trong nước,
thống nhất các thị trường địa phương thành thị trường toàn quốc. Lực lượng
lãnh đạo các dân tộc đã xuất hiện vào thời kì này là giai cấp tư sản, và điều
đó đã đặt một dấu ấn lên bộ mặt chính trị – xã hội và tinh thần của các dân
tộc. Về điều này, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác và Ph.
Ăngghen chỉ rõ: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy
một thế kỉ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Ở phương Đông, quá
trình hình thành các dân tộc không gắn liền với chủ nghĩa tư bản, mà do sự
thúc đẩy của nhiều nhân tố cố kết tự nhiên và xã hội trong quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Loại hình dân tộc này được gọi là dân tộc tiền tư
bản.
Sự hình thành dân tộc Việt Nam có những nét đặc trưng riêng, đó là:
1) Sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam cũng giống như
các dân tộc phương Đông, không gắn liền với sự hình thành và phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là động lực thúc
đẩy sự hình thành dân tộc ở nước ta cũng không thuộc giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản. Trên thực tế, chế độ phong kiến tập quyền ở phương Đông nói
chung và Việt Nam nói riêng ra đời sớm hơn, nhưng lại tan rã muộn hơn chế
độ phong kiến Châu Âu. Ở đây, sự hình thành dân tộc gắn liền với phương
thức sản xuất phong kiến và giai cấp quý tộc phong kiến. Với chế độ phong
kiến tập quyền được tổ chức chặt chẽ và hà khắc, nhà nước phong kiến tập
quyền đã thống nhất lãnh thổ bằng các cuộc chiến tranh thôn tính, hình thành
các “lãnh chúa” cát cứ một vùng lãnh thổ. Như vậy, đặc trưng dân tộc về lãnh
thổ được hình thành sớm nhất. Ở đây, vua là “thiên tử”, là người duy nhất có
quyền lực tuyệt đối, người duy nhất đại diện cho cộng đồng dân tộc cai trị cả
người sống và người chết. Ông vua là chủ sở hữu duy nhất của mọi tài
nguyên của cộng đồng dân tộc. Đó là yếu tố cơ bản tạo nên sự thống nhất
cộng đồng dân tộc trong quá trình chuyển sang xã hội phong kiến.
2) Dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc phương Đông, ra đời và
phát triển gắn với phương thức sản xuất Châu Á – một phương thức sản xuất
đặc thù. Về kinh tế, người Việt Nam cho đến cuối thế kỉ XIX sang thế kỉ XX
vẫn sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp – nông nghiệp độc canh cây lúa
nước, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Điều đó buộc con người phải liên
kết với nhau, hình thành các mối liên hệ bền vững ngay trong các “công xã”,
làng xã cho đến khu vực quốc gia để chống chọi với thiên tai. Về văn hóa,
dân tộc Việt Nam sớm hình thành nền văn minh rực rỡ riêng của mình như
văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn, mặc dù sau đó có chịu ảnh hưởng của
các nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ. Sự giao lưu văn hóa và thống nhất
lãnh thổ làm cho ngôn ngữ dân tộc hình thành và phát triển sớm. Có thể nói
rằng đặc trưng về văn hóa và tâm lí là đặc trưng có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam.
3) Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và phát triển bền vững như ngày
nay còn do truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm từ các phía, dưới sự lãnh
đạo của các triều đại phong kiến. Đoàn kết chống ngoại xâm là một truyền
thống quý báu của dân tộc Việt Nam và cũng là một nhân tố tạo nên tính bền
vững của cộng đồng người Việt Nam, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
b. Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc
Giai cấp và dân tộc là hai phạm trù khác nhau, chỉ các mối quan hệ
khác nhau trong xã hội, cho nên mỗi nhân tố đó có vai trò lịch sử khác nhau
đối với sự phát triển của xã hội. Trong lịch sử nhân loại, giai cấp xuất hiện
trước dân tộc, và trong tương lai khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn tồn tại lâu
dài. Song, theo quan điểm mácxít, vấn đề dân tộc không thể tách khỏi vấn đề
giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp quan hệ mật thiết với nhau.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý
nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, đồng thời vấn đề dân
tộc bao giờ cũng được chỉ đạo bởi những quan điểm giai cấp nhất định. Quan
hệ giai cấp – với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất
trong xã hội có giai cấp – là nhân tố suy cho cùng có vai trò quyết định đối với
sự hình thành dân tộc, quy đính bản chất xã hội của dân tộc, quy định tính
chất của mối quan hệ giữa các dân tộc. Biểu hiện rõ nhất trong lịch sử là vai
trò của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư bản đối với sự hình thành các dân tộc
hiện đại ở Châu Âu. Đối với sự hình thành một số các dân tộc phương Đông
diễn ra trước chủ nghĩa tư bản thì vai trò này thuộc về tập đoàn xã hội dại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đương thời, đó là những tập đoàn
phong kiến tiến bộ. Thực tiễn lịch sử nhân loại đã xác định kết luận của các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin rằng, muốn xóa bỏ triệt để nạn áp
bức dân tộc thì phải xóa bỏ nguồn gốc của nó là chế độ người bóc lột người.
Khi giai cấp tư sản còn giữ vai trò thống trị thì vẫn còn nạn dân tộc này áp
bức dân tộc khác, còn chủ nghĩa thực dân và còn tư tưởng sô vanh rất nặng
nề. Điều đó giải thích vì sao khi các dân tộc tư sản hình thành thì các cuộc
chiến tranh xâm lược lại diễn ra trên quy mô và trong phạm vi rộng lớn chưa
từng có trong lịch sử. Đến khi giai cấp vô sản cầm quyền thì một trong những
mục tiêu mà cách mạng đặt ra và giải quyết là “quyền tự quyết dân tộc”, là sự
bình đẳng giữa các dân tộc. Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong
trào giải phóng dân tộc. Các vấn đề như giai cấp nào lãnh đạo phong trào?
Những giai cấp, liên minh nào là lực lượng nòng cốt của phong trào? Đó là
những vấn đề trọng yếu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Đối với việt Nam, sự nghiệp giải phóng dân tộc không thể thành công
nếu không có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của
họ, nếu không thực hiện được khối liên minh bền vững giữa giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp lao động khác
làm nòng cất cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Đương nhiên, trong khi khẳng định vai trò quyết định của nhân tố giai
cấp trong mối quan hệ giai cấp – dân tộc, chủ nghĩa Mác – Lênin không tuyệt
đối hóa vấn đề giai cấp, mà trái lại xác định vấn đề dân tộc là rất quan trọng,
nó tác động trở lại một cách tích cực, mạnh mẽ tới vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Chủ nghĩa Mác – Lênin xem vấn đề dân tộc là một trong những
vấn đề quan trọng hàng đầu của cuộc cách mạng vô sản. Song, để nhận thức
và giải quyết đúng đắn “vấn đề dân tộc” phải có quan điểm giai cấp của giai
cấp cách mạng nhất – giai cấp công nhân.
c. Vấn đề dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc hiện nay
Ngày nay, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, về bản chất mang
tính quốc tế và đoàn kết quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng
lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng những người lao động. Các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ rằng, Đảng Cộng sản không lúc nào được
coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng nhân
dân, nhưng giai cấp công nhân không được quên rằng, cuộc đấu tranh giải
phóng của họ có tính chất dân tộc. Dân tộc chính là cơ sở, là địa bàn trực tiếp
tạo nên kết cấu giai cấp và diễn ra cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
chống giai cấp tư sản. C. Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh “Giai cấp vô sản
mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. Cuộc đấu tranh dân tộc không
chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân cho đấu tranh giai cấp phát triển về bề
rộng, bề sâu và có bước nhảy vọt. Thông qua đấu tranh dân tộc để thực hiện
đấu tranh giai cấp. Chính cuộc đấu tranh dân tộc nuôi dưỡng và làm sâu sắc
thêm cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong bất kì quốc gia nào, dân tộc đều là cơ sở, là nguồn gốc tạo nên
sức mạnh giai cấp. Bất cứ giai cấp nào cũng tồn tại trong một dân tộc nhất
định. Nguồn sức mạnh của giai cấp không chỉ ở trong bản thân giai cấp đó,
cho dù đó là giai cấp tiến bộ nhất, mà còn có trong sức mạnh của dân tộc, ở
đoàn kết dân tộc. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi đến
một kết luận hết sức quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
2. Nhân loại, vấn đề quan hệ giai cấp với nhân loại
a. Nhân loại
Nhân loại chính là loài người. Như vậy khái niệm nhân loại dùng để chỉ
toàn thể cộng đồng người sống trên trái đất từ hàng triệu năm nay. Nhân loại,
một mặt phân chia thành các giai cấp, các tầng lớp có vai trò xã hội và lợi ích
khác nhau; mặt khác phân chia thành các cộng đồng xã hội, các tộc người có
trình độ phát triển khác nhau, song nhân loại vẫn là một thể thống nhất. Cơ
sở của sự thống nhất ấy là bản chất người của từng cá thể và của cả cộng
đồng, bản chất đó quy định lợi ích chung và quy luật phát triển chung của cả
cộng đồng. Song trong lịch sử có những tập đoàn đặc quyền đặc lợi đã không
muốn thừa nhận sự thống nhất trên bản chất người của cộng đồng nhân loại.
Tuy nhiên, xem nhân loại như một cộng đồng có chung vận mệnh, có chung
bản chất, sự tồn tại của các cá nhân cũng như các cộng đồng, tập đoàn v.v…
không thể tách rời khỏi vận mệnh nhân loại đã được nhiều nhà tư tưởng tiên
tiến thuộc các thời đại khác nhau thừa nhận. Tuy nhiên, quan niệm về quyền
con người, bản chất con người và tính thống nhất toàn nhân loại của các nhà
tư tưởng tiên tiến trước Mác còn trừu tượng và phiến diện. Họ không chú ý
đến tính lịch sử của khái niệm nhân loại.
Quan niệm về tính thống nhất toàn nhân loại của chủ nghĩa duy vật
biện chứng không dừng lại ở bản chất tộc loại trừu tượng của con người. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng chỉ ra bản chất xã hội của con người và loài người,
coi đó là tiêu chí cơ bản phân biệt loài người với muôn loài; bản chất ấy là cơ
sở của sự thống nhất cộng đồng nhân loại. C. Mác viết: “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Con
người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó nhân loại là cộng đồng của những
thực thể xã hội. Các quan hệ xã hội của loài người vô cùng phong phú, phức
tạp, không ngừng thay đổi theo trình độ phát triển những năng lực bản chất
con người. Nền văn minh nhân loại có được như ngày nay là thành quả hoạt
động sáng tạo trong nhiều thiên niên kỉ của cả loài người. Từng con người,
từng cộng đồng, tập đoàn người riêng lẻ không thể tạo ra được nền văn minh
nhân loại. Các cá nhân, các dân tộc, các giai cấp không tồn tại và phát triển
tách rời sự tồn tại và phát triển của cả cộng đồng nhân loại. Do vậy, tất cả có
lợi ích chung là bảo vệ và phát triển cuộc sống bảo vệ nền văn minh của loài
người trên trái đất.
b. Quan hệ giữa giai cấp với nhân loại
Để tồn tại và phát triển, con người phải không ngừng đấu tranh cải tạo
thiên nhiên và cải tạo môi trường xã hội của mình. Trong quá trình phát triển,
mỗi dân tộc và toàn nhân loại thường xuyên đấu tranh để gạt bỏ những quan
hệ xã hội đã lỗi thời. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng tỏ
rằng, lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu tranh ấy là các giai cấp cách mạng.
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì lịch sử nhân loại là lịch
sử đấu tranh giai cấp. Từ thời điểm chiếm hữu nô lệ cho đến thời đại tư bản
chủ nghĩa, các giai cấp bị áp bức, bóc lột đã không ngừng đấu tranh chống áp
bức, bóc lột. Nếu không có các cuộc đấu tranh đó thì nhân loại không thể thay
thế hình thái kinh tế – xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế – xã hội mới cao
hơn, từ đó giải phóng con người và cả loài người. Nát nhìn từ góc độ khái
quát thì mục đích của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại, suy
cho cùng là hướng tới xây dựng một môi trường xã hội tốt đẹp nhất, trong đó
tất cả mọi người đều có điều kiện phát triển toàn diện và “sự phát triển tự do
của một người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Như vậy trong xã hội có giai cấp, vấn đề giai cấp không chỉ là vấn đề
riêng của một giai cấp, tầng lớp nào đó mà là vấn đề của toàn nhân loại. Vấn
đề giai cấp và vấn đề nhân loại luôn có mối quan hệ mật thiết, không tách rời
nhau. Tuy nhiên, sự biểu hiện của mối quan hệ đó trong từng giai đoạn lịch
sử là không giống nhau. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, quần
chúng lao động là người sáng tạo lịch sử trong mọi thời đại, nhưng chính giai
cấp thống trị trong bản thân phương thức sản xuất đang phù hợp với quy luật
lịch sử, cho dù là giai cấp bóc lột, vẫn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự
tiến bộ của toàn nhân loại. C. Mác và Ph. Ăngghen đã từng khẳng định vai trò
lịch sử của giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp
chưa đầy một thế kỉ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ
hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Khi giai cấp tư sản đã đưa nhân loại phát triển đến đỉnh cao của nền
văn minh tư sản thì những hạn chế mang tính cố hữu của giai cấp tư sản
càng bộc lộ rõ nét. Một mặt, giai cấp tư sản vẫn tiến hành cuộc “đấu tranh giai
cấp” rất quyết liệt để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của mình, thậm chí gây ra
những cuộc đấu tranh thảm họa nhất trong lịch sử loài người; mặt khác, nó
luôn luôn tìm cách che đậy sự đối kháng giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là
phá hoại sự thống nhất xã hội, là phi nhân tính. Như vậy, giai cấp tư sản
thống trị luôn luôn đặt lợi ích giai cấp lên trên hết, nó không bao giờ đặt lợi ích
giai cấp phục tùng lợi ích nhân loại.
Vấn đề toàn nhân loại được đặt ra trong xã hội tư bản là yêu cầu bình
đẳng phải có tính hiện thực, nó phải được áp dụng trong cả lĩnh vực kinh tế
và xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng, lợi ích của giai cấp công
nhân thống nhất căn bản với lợi ích toàn nhân loại. Vì vậy, sự nghiệp giải
phóng giai cấp công nhân không chỉ là sự giải phóng một giai cấp đặc thù như
cách mạng tư sản đã làm mà là giải phóng toàn xã hội, giải phóng con người
nói chung. Mục tiêu của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo
nhằm xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nhân dân lao động làm chủ,
bảo đảm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, mang lợi ích cho mọi
người. Như vậy, mối quan hệ giữa nhân loại với giai cấp chỉ được giải quyết
một cách triệt để, hợp lí, đúng quy luật khi cuộc đấu tranh do giai cấp công
nhân lãnh đạo giành được thắng lợi trên phạm vi quốc tế.
c. Những vấn đề có tính nhân loại và quan hệ giữa giai cấp với nhân loại hiện nay
Trong thời đại hiện nay, người ta nói nhiều tới những vấn đề toàn cầu
hay những vấn đề mang tính chất toàn nhân loại như chống chiến tranh hạt
nhân, bảo vệ môi trường, vấn đề bùng nổ dân số, chống các loại bệnh xã hội
nguy hiểm, v.v… bởi chúng có liên quan tới lợi ích của toàn nhân loại. Lợi ích
toàn nhân loại chính là những điều kiện tất yếu khách quan, bảo đảm cho sự
tồn tại và phát triển của toàn thể loài người, không phân biệt quốc gia, dân
tộc, giai cấp v.v… Tuy nhiên, do địa vị, lợi ích khác nhau nên có sự nhận thức
và xử lí mối quan hệ giữa nhân loại và giai cấp rất khác nhau.
Từ lập trường của giai cấp công nhân, chúng ta khẳng định rằng lợi ích
toàn nhân loại không hề đối lập với lợi ích giai cấp. Nếu chúng ta xem xét lợi
ích toàn nhân loại là lợi ích của mọi giai cấp thì quan hệ giữa lợi ích toàn
nhân loại và lợi ích giai cấp là quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong xã
hội có giai cấp, lợi ích toàn nhân loại không tồn tại một cách cô lập ngoài lợi
ích giai cấp. Những vấn đề toàn cầu được xem xét và giải quyết khác nhau
chính vì sự chi phối của lợi ích giai cấp. Lợi ích toàn nhân loại và lợi ích giai
cấp có khi thống nhất với nhau, có khi mâu thuẫn với nhau. Đối với các giai
cấp lạc hậu, đã mất hết vai trò lịch sử thì lợi ích giai cấp về căn bản là mâu
thuẫn với lợi ích toàn nhân loại. Khi đó lợi ích giai cấp sẽ trở thành cái chi
phối hoạt động của giai cấp đó. Như chúng ta đã biết, chính chủ nghĩa đế
quốc là người đầu tiên chế tạo bom nguyên tử, vũ khí hóa học, các loại vũ khí
giết người hàng loạt và sử dụng chúng vào mục đích chiến tranh. Những sự
kiện như cuộc chiến tranh vùng Vịnh, cuộc chiến tranh trắc gần đây, chứng tỏ
Mĩ hành động không phải vì những vấn đề toàn nhân loại mà hành động vì lợi
ích của giai cấp tư sản Mĩ. Nhưng đối với các giai cấp tiến bộ thì lợi ích giai
cấp về căn bản là phù hợp với lợi ích toàn nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin
khẳng định rằng, giai cấp vô sản là giai cấp tiến bộ nhất trong lịch sử hiện đại.
Vì vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp này là giải phóng toàn thể nhân loại chứ
không phải chỉ giải phóng riêng mình. Mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và
vấn đề nhân loại là mối quan hệ biện chứng sâu sắc. Chính vì vậy, khi giải
quyết vấn đề này phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề kia. Sự tác
động qua lại hài hoà giữa giai cấp và nhân loại, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích
nhân loại sẽ mang lại những tiến bộ xã hội cho loài người.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam
a. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
Hồ Chí Minh – nhà cách mạng tiêu biểu của các dân tộc bị áp bức trong
thời đại ngày nay, đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Có thể nói rằng, sự thống nhất giữa vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc và nhân
loại là thuộc tính vốn có bên trong của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như tư
tưởng Hồ Chí Minh. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin vào
thực tiễn cách mạng nước ta, mà còn phát triển lí luận của học thuyết đó đáp
ứng những yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng trong thời đại ngày nay. Hồ
Chí Minh đã rút ra được những kết luận mới hết sức sâu sắc về mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc với vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp, mà tính đúng đắn của nó đã được chứng minh bởi thực tiễn cách
mạng Việt Nam cũng như các phong trào cách mạng trên toàn thế giới.
Xuất phát từ nhận thức cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã chỉ ra xu thế tất yếu khách quan của sự phát
triển xã hội trong thế kỉ XX. Phong trào giải phóng dân tộc có vai trò to lớn, là
nhân tố cấu thành của cách mạng thế giới. Nếu như trước đây C. Mác, Ph.
Ăngghen chỉ ra, xóa bỏ nạn bóc lột giai cấp là điều kiện cơ bản để xóa bỏ ách
áp bức dân tộc, thì trong điều kiện của thế kỉ XX, sự nghiệp giải phóng dân
tộc lại trở thành tiền đề cho sự nghiệp giải phóng giai cấp. Hơn nữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc còn là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô
sản toàn thế giới. Theo Hồ Chí Minh, sự giúp đỡ của giai cấp công nhân
chính quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc không chỉ là đòi hỏi của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn là đòi hỏi của chính sự nghiệp giải phóng
giai cấp.
Hồ Chí Minh nhìn thấy sự cố kết của giai cấp địa chủ phong kiến với
giai cấp tư sản đế quốc, thấy giai cấp tư sản ở các nước đế quốc là kẻ thù
chung của giai cấp vô sản ở chính quốc và của cả giai chỉ vô sản ở nước
thuộc địa. Người cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi
bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp
vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục
hút máu của giai cấp vô sản, con vật tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại
mọc ra.
Từ cách nhìn đó, Hồ Chí Minh khẳng định cuộc đấu tranh giành độc lập
của các nước phương Đông là một trong những cái cánh của cách mạng vô
sản trong phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt, Người luôn luôn nhấn mạnh mối
quan hệ giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc; kêu gọi sự
đoàn kết giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp vô sản thuộc địa; và cho
rằng, cuộc đấu tranh ở các nước này phải quan hệ khăng khít với nhau để
làm cho chủ nghĩa tư bản bị tiêu diệt tận gốc.
b. Giải phóng giai cấp phải gắn với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp, dân tộc và nhân loại luôn luôn
gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự nghiệp của giai cấp công nhân không thể thắng
lợi nếu không có nền tảng là sự đoàn kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ
của cả dân tộc. Sự nghiệp của cả dân tộc không thể thành công nếu nó không
được đặt trong mối quan hệ quốc tế rộng rãi, chặt chẽ; cũng như cuộc đấu
tranh đó sẽ không đi đến thắng lợi triệt để nếu nó không gắn với mục tiêu đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Sự thống nhất biện chứng ấy luôn thể hiện
trong tư tưởng và quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh cũng như của cách
mạng Việt Nam. Một trong những bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam
là bài học về sự kết hợp chặt chẽ nhuần nhuyễn giữa đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Đó là nhân tố cơ
bản nhất bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn
lịch sử khác nhau. Đó cũng chính là điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy ở đó con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đã được thể hiện rất rõ ràng ngay từ khi thành lập Đảng. Trong
Chính cương vắn tắt của Đảng đã khẳng định “chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm trung tâm,
xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc để đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản là điểm khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước của Hồ
Chí Minh với các con đường của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám v.v… Hồ Chí Minh đánh
giá rất cao tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc của họ;
song Người thấy rõ con đường cứu nước ấy không triệt để, không đem lại
độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “Trong thời đại
ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hoàn toàn”. Để đưa dân tộc ta đi tới độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, trong
quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn mục tiêu
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó,
cách mạng Việt Nam phát triển không ngừng và đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Đảng và nhân dân ta khẳng định công lao to lớn nhất của Hồ Chí
Minh là Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, gắn mục tiêu độc lập
dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội và cống hiến trọn đời mình cho mục
tiêu đó. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta
vẫn kiên định đi theo con đường cách mạng với mục tiêu: độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
c. Phát huy khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đại đoàn kết toàn dân là tư tưởng nhất quán và xuyên suốt trong tư duy
lí luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ
Chí Minh là một hệ thống luận điểm, nguyên tắc, phương pháp và cách thức
giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng,
nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong
sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh định hướng cho việc xây dựng, củng cố,
mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và con người.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ
mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới. Trong thời
đại ngày nay, kẻ thù của cách mạng mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước
là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới thì lực lượng cách mạng
không thể bó hẹp là lực lượng của dân tộc trong một nước. Song, cách mạng
trước hết phải được diễn ra ở phạm vi quốc gia dân tộc nhất định. Do vậy,
việc xây dựng lực lượng cách mạng hùng mạnh ở trong nước có ý nghĩa
quyết định để tự giải phóng mình, đồng thời trong xây dựng xã hội mới thì “sự
giúp đỡ của các nước là quan trọng nhưng ta phải tự lực cánh sinh là chính”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống
còn, nó quyết định sự thành bại của cách mạng. Trong phạm vi quốc gia –
dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn
dân tộc thành một khối. Với lực lượng đoàn kết của toàn dân thì không một
sức mạnh nào có thể chiến thắng nổi. Đoàn kết dân tộc kết hợp chặt chẽ với
đoàn kết quốc tế tạo ra sức mạnh cộng hưởng to lớn, vượt trội là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn khẳng định để giành thắng lợi, cách
mạng nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo: “Chỉ có khối liên minh
công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để
đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của
nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân
chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đồng thời, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, coi đó là nhân tố quyết định cho thắng lợi
của cách mạng nước ta. Người viết: “Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân và trên cơ sở liên minh công nông ngày càng vững chắc, trong mỗi giai
đoạn cách mạng, cần tập hợp lực lượng cách mạng và tiến bộ thành một mặt
trận rộng rãi, thực hiện thống nhất hành động dưới nhiều hình thức giữa các
lực lượng ấy để chống kẻ thù chung”. Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi phải
đoàn kết rộng rãi, chống khuynh hướng chủ nghĩ” dân tộc hẹp hòi, chống cả
sự đoàn kết xuôi chiều. Người đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
4. Vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
a. Phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân là một tất yếu
khách quan của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ngay từ khi ra đời,
cộng đồng dân tộc Việt Nam đã phải không ngừng đấu tranh chống chọi với
thiên nhiên và giặc ngoại xâm để dành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Truyền thống đoàn kết toàn dân đã ngày càng phát triển và củng cố trong quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Biết bao lần kẻ thù muốn phá vỡ khối
đại đoàn kết toàn dân của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhưng các thế hệ
người Việt Nam đã không ngừng giữ gìn và vun đắp nó.
Đảng ta từ ngày thành lập đến nay đã rất quan tâm đến nhiệm vụ xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
coi công tác mặt trận có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lượt vắn tắt năm 1930 của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu chủ trương đoàn kết rộng rãi những giai cấp và
tầng lớp nhân dân có thể đoàn kết được trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất
(trong đó chủ yếu là lực lượng công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức).
Trong kháng thiến chống Pháp và chống Mĩ, đường lối đoàn kết của Đảng đã
huy động được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, kể cả những nhân sĩ,
trí thức tư sản, mặc dù chưa tán thành chủ nghĩa cộng sản, song vẫn tích cực
tham gia kháng chiến. Nhờ phát huy được truyền thống đại đoàn kết của dân
tộc, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những chiến thắng lịch sử,
đánh bại những thế lực thực dân đế quốc hung bạo, có tiềm lực kinh tế, quân
sự lớn hơn ta rất nhiều lần. Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đường lối đoàn
kết toàn dân lại một lần nữa được thể hiện bằng những quyết định đúng đắn
và cụ thể. Sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện truyền thống
hòa hợp dân tộc, đối xử nhân đạo với những người lầm đường lạc lối, đưa họ
trở về với cộng đồng dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân được củng cố trên cơ sở
thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới, đại đoàn kết toàn dân dựa
trên cơ sở phát huy sự năng động, sáng tạo, thống nhất ở mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đoàn kết được coi là
động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đoàn kết
toàn dân vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa trên cơ sở liên minh
vững chắc giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đó
là những giai cấp cơ bản trong xã hội, mà giữa họ có sự thống nhất căn bản
về lợi ích kinh tế và chính trị. Chính vì vậy, họ trở thành đồng minh tự nhiên
của nhau trong sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Khối liên
minh này đã được xây dựng và củng cố vững chắc trong quá trình đấu tranh
cách mạng lâu dài của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong quá trình cách mạng ở nước ta, khối liên minh này chính là cơ sở
của khối đại đoàn kết toàn dân, chính vì vậy nó đã không ngừng được củng
cố và phát triển bởi Đảng ta; đồng thời phải là lực lượng chủ chốt trong công
cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng Lao động Việt Nam (2/1951) nêu rõ:
“Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính quyền dân chủ
của nhân dân… lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm
nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, đặc
biệt là từ công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
(1991) càng đặc biệt coi trọng việc thực hiện liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tri thức, coi đó là nền tảng của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Cương lĩnh chỉ rõ “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỉ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân”.
Đại hội Đảng thứ IX (200 1) chẳng những vẫn khẳng định tính tất yếu
của liên minh công – nông – trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động lực chủ
yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, trước hết là trách nhiệm của toàn Đảng. Đảng đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn, đáp ứng được nguyện vọng và bảo đảm lợi
ích của toàn dân là cơ sở quan trọng hàng đầu để gắn kết và phát huy sức
mạnh của dân tộc. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ gìn đoàn kết
trong Đảng là điều kiện hàng đầu để Đảng thực hiện vai trò là hạt nhân trong
khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách
nhiệm của bộ máy Nhà nước, công cụ chủ yếu thực hiện đường lối của Đảng
Xây dựng nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi
chính sách và giải pháp kinh tế, xã hội của Nhà nước đều phục vụ nhân dân;
cán bộ, công chức Nhà nước là công bộc của dân. Chăm lo và bảo vệ lợi ích
chính đáng của mọi giai cấp, tầng lớp, bộ phận dân cư trong xã hội là biện
pháp cơ bản để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân là trách nhiệm của các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội
nghề nghiệp, các hội sáng tạo, các tổ chức nhân đạo, từ thiện v.v… Trong
hoạt động của mình, các tổ chức xã hội phải lấy mục tiêu góp phần giữ gìn và
phát triển khối đại đoàn kết toàn dân là một nhiệm vụ chủ yếu, thường xuyên.
Giữ gìn và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của toàn dân
tộc. Lịch sử đất nước ta đã chứng tỏ, đoàn kết dân tộc là sức mạnh vô địch.
Mọi sự phá hoại khối đoàn kết toàn dân đều bị lịch sử lên án và loại bỏ. Trong
điều kiện tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay, yêu cầu đại
đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên quan trọng để bảo vệ bản sắc và truyền
thống văn hóa của dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Những thành tựu to lớn đạt được trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã
chứng minh tính đúng đắn của việc đa dạng hóa các hình thức, các quan hệ
sở hữu và thiết lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta đã khởi
xướng đường lối đổi mới và đường lối đó tiếp tục được khẳng định tại các Đại
hội VII, VIII và một lần nữa lại được khẳng định tại Đại hội IX, X của Đảng.
Đảng ta đã vạch ra những sai lầm trong đường lối xây dựng kinh tế ở Việt
Nam trước thời kì đổi mới chính là ở chỗ do chủ quan, nóng vội, duy ý chí và
cũng do bệnh giáo điều, máy móc, ít quan tâm, nghiên cứu lí luận và tổng kết
thực tiễn, không gắn kết hai quá trình này với nhau, chúng ta đã đẩy quan hệ
sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi thế,
đường lối đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với nhiều hình thức và quan hệ sở
hữu, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lí
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được phản ánh rõ nét tại Đại hội
IX của Đảng: “Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Với quan
niệm như vậy về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng tại
Đại hội IX, Đảng ta đã xác định rõ phương hướng xây dựng chế độ sở hữu
trong nền kinh tế, đó là “Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân,
sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với
những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã cho thấy sự phát triển năng động của nó. Sự
năng động đó có được, một phần là do chúng ta thực hiện chủ trương đa
dạng hóa các hình thức và quan hệ sở hữu, cho phép các hình thức sở hữu
khác nhau cùng phát triển lâu dài trên cơ sở hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế mới, chủ động hội nhập với khu
vực và thế giới, việc tạo ra tính chất đan xen và đẩy nhanh quá trình phối
hợp, liên kết cùng với sự hoạch định một sự tương quan hợp lí giữa các hình
thức và các quan hệ sở hữu khác nhau không những cho phép kinh tế tư
nhân, kinh tế tập thể phát triển hết khả năng của mình, loại bỏ được những
hậu quả tiêu cực của kinh tế tự bản tư nhân mà còn làm cho kinh tế nhà nước
phát huy được vai trò chủ đạo, định hướng và điều tiết vĩ mô của nó trong nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Những thắng lợi bước đầu sau hơn 20 năm đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã cho thấy, thành công của sự nghiệp đó là do
nhiều nguyên nhân nhưng một nguyên nhân đặc biệt quan trọng là, nhờ đổi
mới kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, trong đó có đổi mới về nhận
thức về chế độ sở hữu, chúng ta đã tạo nên tính chất đan xen, sự liên kết
giữa nhiều hình thức và quan hệ sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Đó chính là hướng đi đúng đắn, bảo đảm cho việc quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa ở nước ta.
c. Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước
Từ khi nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, tình hình quốc tế đã có
nhiều thay đổi. Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu sụp đổ. Cục diện
quốc tế mới đang hình thành, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa
đấu tranh vừa hợp tác với nhau. Đó là điều kiện để Đảng ta thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở
trong thời kì đổi mới. Nghị quyết của Đại hội Và đã khẳng định: “Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”. Đại hội IX đã tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra như một xu thế khách quan, nhưng sự chi
phối của các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia,
chủ nghĩa thực dân kinh tế, thuyết “can thiệp nhân đạo”, “nhân quyền cao hơn
chủ quyền”, chính sách “can dự” của chủ nghĩa đế quốc mà đứng đầu là Mỹ,
là một nguy cơ đối với các nước đang phát triển. Chính vì vậy, việc nhấn
mạnh quan điểm độc lập, tự chủ, chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế có ý
nghĩa rất quan trọng. Đại hội IX của Đảng ta đã phân tích các khía cạnh của
các quá trình kinh tế và khẳng định chúng ta với chủ trương tiếp tục mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập với khu vực và thế giới “chủ yếu
và trước hết là về kinh tế”. Trong quá trình đó phải đảm bảo độc lập tự chủ,
trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, bảo vệ lợi ích quốc gia
và định hướng XHCN, bảo đảm an toàn và an ninh quốc gia. Xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp
nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Mở
rộng quan hệ với các nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc
và bị chi phối của bên ngoài. Quan điểm này đã được cụ thể hóa trong văn
kiện của Đại hội IX: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại đã được
Đảng ta xác định là “Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều
kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền
quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Như vậy việc mở rộng quan hệ quốc tế và giữ vững độc lập chủ quyền
của đất nước phải có mối quan hệ biện chứng sâu sắc, tác động qua lại hỗ
trợ cho nhau, tạo điều kiện cho đất nước phát triển. Công tác đối ngoại phải
phục vụ chính sách đối nội của Đảng và Nhà nước. Bằng hoạt động đặc thù
của mình, hoạt động đối ngoại phải góp phần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
của Chính phủ và nhân dân các nước đối với sự nghiệp đổi mới của nhân
dân ta cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại,
thu hút đầu tư, trao đổi văn hóa, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học – kĩ
thuật, quản lí, v.v… nhằm tăng thêm tiềm lực mọi mặt của đất nước, phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thông qua các hoạt động đối
ngoại phong phú, đa dạng, đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn chống phá
cách mạng nước ta của các thế lực thù địch từ bên ngoài, tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi để đất nước phát triển nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập chủ quyền quốc gia là những giá trị cơ bản và thiêng liêng mà nhân
dân ta phải đấu tranh lâu dài, chịu đựng nhiều gian khổ hi sinh mới giành
được. Trong quan hệ quốc tế, chủ quyền quốc gia được bảo đảm bằng luật
pháp quốc tế. Nhờ những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh giành và bảo
vệ độc lập dân tộc, những thành tựu quan trọng của sự nghiệp đổi mới, tạo ra
thế và lực mới của đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên
trường quốc tế. Các nước trên thế giới thừa nhận độc lập, chủ quyền quốc
gia của Việt Nam và mong muốn phát triển quan hệ với nước ta. Đây là một
thuận lợi rất cơ bản trong hoạt động đối ngoại để bảo vệ độc lập và chủ
quyền quốc gia. Mặt khác, cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập và chủ quyền
quốc gia là cuộc đấu tranh rất phức tạp, khó khăn, thường xuyên và lâu dài,
trong đó công tác đối ngoại có vai trò cực kì quan trọng. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa, nước ta chịu nhiều thử thách với những âm mưu và thủ đoạn tiến
hành chủ nghĩa thực dân kinh tế, đồng thời lại nằm trong khu vực tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định (như tranh chấp biên giới trên bộ, trên biển và
trên không); và là đối tượng chống phá của các thế lực thù địch trong chiến
lược “diễn biến hòa bình” mưu toan sử dụng vấn đề dân tộc tôn giáo để chia
cắt đất nước. Chính vì vậy cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, bảo vệ chủ quyền
quốc gia diễn ra phức tạp, có mặt trên tất cả các lĩnh vực hoạt động đối ngoại.
Để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, trước hết phải bảo vệ sự thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ sự độc lập về đường lối và chính sách độc lập tự
chủ về kinh tế giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, chủ quyền và quyền lợi
quốc gia trong quan hệ với các nước, với các tổ chức quốc tế.
d. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Đây là đường lối chỉ
đạo đúng đắn, bởi vì nó phù hợp với bối cảnh ở trong nước và thế giới hiện
nay. Nhưng vấn đề cất lõi là ở chỗ, hiểu thế nào cho đúng về nền kinh tế độc
lập tự chủ và sự hội nhập kinh tế quốc tế? Ở đây, cần phải nhận thức rằng,
nền kinh tế độc lập tự chủ không có nghĩa là nền kinh tế tự cấp tự túc, tách
biệt với thế giới bên ngoài, tự cô lập mình, không sử dụng những thành tựu
và kinh nghiệm về sự phát triển kinh tế và công nghệ trên thế giới. Lịch sử
nhân loại đã chứng tỏ rằng, chưa có một dân tộc nào trên thế giới với đường
lối biệt lập, bế quan tỏa cảng mà lại có được nền kinh tế phát triển bền vững.
Nền kinh tế độc lập, tự chủ trước hết là tự chủ về lựa chọn đường lối phát
triển kinh tế – xã hội, nhưng trong quan hệ với bên ngoài không bị lệ thuộc
vào sự chi phối của một nước hay một nhóm các nước nào đó, có nghĩa là
nền kinh tế đó có khả năng ứng phó hữu hiệu trước những biến động bên
ngoài. Chẳng hạn, vào những năm cuối của thế kỉ XX, nền kinh tế của Việt
Nam không bị chao đảo trước sự mất ổn định của nền kinh tế thuộc khu vực
Đông Nam Á như Thái Lan, Inđônêsia, Malaisia v.v… Sở dĩ chúng ta có thành
tựu đó là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng ta về việc xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ. Như vậy, những điều kiện thiết yếu để xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ là có một tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất – kĩ thuật vững
mạnh, có nguồn lực con người dồi dào, có khoa học và công nghệ đủ mạnh
để phát triển. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có sức cạnh tranh dựa
trên một cơ cấu kinh tế hợp lí và có hiệu quả; có cơ chế kinh tế vững vàng,
kinh tế vĩ mô ổn định.
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới đang diễn
ra rất mạnh, chúng ta đã chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và cam kết tham
gia các chế định kinh tế khu vực và toàn cầu. Song, để bảo vệ và phát triển
các lợi ích quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa, công cuộc hội nhập kinh
tế cần được tiến hành chủ động, tranh thủ tối đa các cơ hội và điều kiện thuận
lợi do hội nhập mang lại, đồng thời hết sức tránh các ảnh hưởng và tác động
tiêu cực của hội nhập. Trong quá trình hội nhập, chúng ta phải kiên trì giữ
vững nguyên tắc: độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững
chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc, đề cao cảnh giác trước các
âm mưu phá hoại của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Yêu cầu
đặt ra đối với việc hội nhập là bình đẳng cùng có lợi vừa hợp tác vừa đấu
tranh đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế. Để thực hiện
cuộc hội nhập kinh tế một cách chủ động và có kết quả, đảm bảo được các
nguyên tắc và yêu cầu nêu trên, cần phải tăng cường sức cạnh tranh của nền
kinh tế, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để sớm có một tiềm lực kinh tế và
công nghệ đủ mạnh, đổi mới cơ chế quản lí, giảm độc quyền và hàng rào bảo
hộ. Cần phải thấy rằng, nếu đứng trên lợi ích quốc gia và định hướng xã hội
chủ nghĩa để xem xét thì vấn đề xây dựng nền kinh tế tự chủ và hội nhập kinh
tế quốc tế về bản chất không mâu thuẫn với nhau mà giữa chúng có mối quan
hệ biến chứng sâu sắc. Tính thống nhất của các chủ trương trên là ở chỗ
chúng đều phục vụ mục đích là lợi ích quốc gia và định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, trong sự phát triển của đất nước thì nguồn nội lực là quyết
định, ngoại lực là rất quan trọng, nhưng nếu tách riêng các nguồn lực đó thì
hiệu quả hoạt động rất thấp. Trên thực tế, chỉ có kết hợp nội lực và ngoại lực
thành một sức mạnh tổng hợp thì mới có đủ các yếu tố như vốn, lao động,
công nghệ để phát triển kinh tế có chất lượng và hiệu quả. Chính việc xây
dựng nền kinh tế nói trên phản ánh thực tại của mối quan hệ giai cấp, dân tộc
và nhân loại trong giai đoạn hiện nay của cách mạng nước ta.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích quan điểm mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong
lịch sử nhân loại.
2. Trình bày vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Phân tích quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc
và giai cấp với nhân loại trong thời đại hiện nay.
CÂU HỎI XÊMINA
1. Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch
sử Việt Nam?
2. Sự khác biệt giữa quan điểm ngoài mácxít và quan điểm mácxít về
giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại?
Chuyên đề 6. LÍ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚCPHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÍ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC1. Nguồn gốc của nhà nước
Nguồn gốc của nhà nước là câu hỏi đặt ra từ rất xa xưa, đã có nhiều
nhà tư tưởng cố gắng tìm cách giải thích, nhưng do hạn chế về lịch sử và thế
giới quan, những giải thích này đều không đi vào bản chất xã hội của quá
trình tính thành nhà nước. C. Mác và Ph. Ăngghen, với quan điểm duy vật lịch
sử, là những người đầu tiên chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc
của nhà nước. Các ông cho rằng nhà nước xuất hiện khi xã hội loài người đã
phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước không phải là một phạm trù
bất biến, mà luôn vận động; phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện
khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa.
Trong nhiều tác phẩm của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản
khoa học đã khẳng định, trong xã hội nguyên thủy chưa từng tồn tại nhà
nước; thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém, xã hội chưa có sự phân hóa
giai cấp, tồn tại các tổ chức thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các tổ chức đó là các tộc
trưởng, tù trưởng do các thành viên thị tộc, bộ lạc bầu ra; quyền lực của
người đứng đầu cơ quan quản lí xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức, uy tín và
chức năng lãnh đạo. Trong thời kì cộng sản nguyên thủy, quản lí xã hội chưa
mang tính chính trị; người đứng đầu không phải là người cai trị. Họ không có
đặc quyền đắc lợi cá nhân. Họ thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết
định của nhân dân. Thể chế xã hội trong thời kì cộng sản nguyên thủy là thể
chế tự quản của nhân dân; mặc dù nhà nước chưa ra đời nhưng xã hội vẫn
tồn tại trong vòng trật tự. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất sự ra đời
của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp, chế độ công sản
nguyên hủy đã tan rã. Ph. Ăngghen cho rằng, sự tan rã của xã hội cộng sản
nguyên thủy dẫn tới sự ra đời của nhà nước là do:
1) Sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động
nhiều hơn so với nhu cầu tối thiểu đối với sự tồn tại của mình. Sự dư thừa
sản phẩm tương đối chính là cơ sở khách quan làm nảy sinh ở những người
có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc sự ham muốn chiếm đoạt làm của riêng và
họ đã sử dụng quyền lực trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây chính là
nguyên nhân thúc đẩy sự phân hóa xã hội. Một khi các giai cấp xuất hiện thì
mối quan hệ bình đẳng trước đây bị đảo lộn sự đối kháng giai cấp xuất hiện
và ngày càng phát triển tăng lên. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã đưa tới một kết quả song trùng: chế độ sở hữu chung bị thay thế bởi
chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và sự xuất hiện chế độ người
bóc lột người.
2) Sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng và khát vọng muốn chiếm
đoạt nó đã làm nảy sinh ở giới có thẩm quyền thói hám của. Họ sử dụng mọi
quyền lực có trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây là nguyên nhân thúc
đẩy sự phân hóa xã hội. Giai cấp xuất hiện, quan hệ người áp bức người thay
thế quan hệ bình đẳng, hợp tác, tương trợ. Sự đối kháng giữa giai cấp bóc lột
và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc.
3) Chiến tranh ăn cướp giữa các bộ lạc, thị tộc cũng làm cho quyền lực
của thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cùng với sự ra đời của
chế độ phụ quyền, người trong một gia đình được thừa kế chức thủ lĩnh quân
sự làm cho họ ngày càng giàu có về của cải, địa vị thống tri của họ ngày càng
được củng cố và mở rộng. Họ trở thành lực lượng đối lập với nhân dân.
4) Cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ của nó
trong nhân dân. Từ chỗ là công cụ của nhân dân, các tổ chức đó trở thành cơ
quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã làm xuất hiện giai cấp và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng
đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là chủ nô và nô lệ. Cuộc đấu tranh giai
cấp dẫn đến nguy cơ là không những họ tiêu diệt nhau mà tiêu diệt luôn cả xã
hội. Để điều đó không xảy ra, một cơ quan đặc biệt ra đời – đó là nhà nước –
một thiết chế có tiền thân từ những tổ chức phi chính trị trong xã hội thị tộc,
bộ lạc, vốn có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, giờ đây đã
biến thành công cụ bảo vệ lợi ích của một giai cấp – giai cấp chủ nô.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà nước không phải
là cơ quan điều hòa mâu thuẫn giai cấp. Ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn
giai cấp sâu sắc, không thể điều hòa. Giai cấp bóc lột không thể duy trì địa vị
bóc lột nếu không dựa vào bộ máy bạo lực mà bộ phận chủ yếu của nó là đội
vũ trang đặc biệt dùng để trấn áp giai cấp bị bóc lột. Trong điều kiện đấu tranh
giai cấp đã trở nên gay gắt, chế độ nhân dân là tổ chức thành lực lượng vũ
trang không còn thích hợp. Nó phải được thay thế bằng thiết chế nhà nước.
Chính vì vậy khi đề cập đến nguyên nhân chính sự xuất hiện nhà nước, V.I.
Lênin nhận định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu hễ lúc nào và chừng nào mà
về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì
nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng
những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.
2. Bản chất của nhà nước
Vấn đề bản chất của nhà nước luôn là đề tài tranh luận gay gắt, vì vấn
đề nhà nước là một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất. Các
nhà tư tưởng của giai cấp tư sản thường đưa ra nhiều quan điểm cố tình biện
hộ cho sự thống trị của giai cấp bóc lột, xóa nhòa bản chất giai cấp của nhà
nước. Chỉ có học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật mới giải thích
được một cách đúng đắn và khoa học về bản chất của nhà nước nói chung
cũng như của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Nghiên cứu nguồn gốc và sự ra đời của nhà nước, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ, nhà nước chỉ sản sinh và tồn tại trong
xã hội có giai cấp và chính vì thế nhà nước luôn luôn có bản chất giai cấp sâu
sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng
chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất
để duy trì sự thống trị giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác
đều thể hiện dưới ba loại quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và
quyền lực trong lĩnh vực tư tưởng, trong đó quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết
định, là cơ sở để đảm bảo cho sự thống trị giai cấp, quyền lực kinh tế có ý
nghĩa quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả năng có thể bắt
những người bị bóc lột phải phụ thuộc vào mặt kinh tế. Nhưng bản thân
quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. Vì vậy, cần phải
có nhà nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, để củng cố quyền lực của giai
cấp thống trị về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc
lột. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị
về chính trị.
Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để trấn
áp các giai cấp đối địch, vì thế nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để tổ chức và thực
hiện quyền lực thống trị của giai cấp mình. Thông qua nhà nước, ý chí và hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất
và hợp pháp hóa thành ý chí nhà nước. Bộ máy nhà nước và các công cụ
của nó có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân theo một “trật tự” do
giai cấp thống trị đặt ra, phải phục vụ cho lợi ích giai cấp thống trị. Như vậy,
giai cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên chính của giai cấp này đối với các
giai cấp khác nhờ công cụ chủ yếu là nhà nước, bộ máy do chính giai cấp
thống trị tổ chức ra. Các nhà nước bóc lột đều có bản chất chung là bộ máy
để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột như nhà nước chủ nô là
công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô; nhà nước phong kiến là công cụ
chuyên chính của địa chủ phong kiến; nhà nước tư sản là công cụ chuyên
chính của giai cấp tư sản. Các nhà nước này đều có đặc điểm chung là duy
trì sự thống trị về chính trị, kinh tế và tư tưởng của một thiểu số người bóc lột
để đàn áp và bóc lột đa số nhân dân lao động. Trái lại, nhà nước xã hội chủ
nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, là bộ máy để củng cố địa vị thống trị
và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chiếm đa số
trong xã hội, để trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những
phần tử chống đối cách mạng. Và quan trọng hơn, nó là bộ máy để tổ chức,
xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện sự chuyên chính
giai cấp, các giai cấp bóc lột không thể chỉ đơn thuần dựa vào bạo lực và
cưỡng chế mà còn thống trị cả về mặt tư tưởng. Giai cấp thống trị đã thông
qua nhà nước để duy trì sự thống trị của hệ tư tưởng, bắt các giai cấp khác
phải lệ thuộc mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là một bộ máy đặc biệt tách ra khỏi xã hội để thực
hiện quyền lực mang tính giai cấp và vì thế nhà nước là công cụ để thực hiện
sự thống trị giai cấp. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Nhà nước là một bộ máy đặc biệt
phục vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
cũng có bản chất giai cấp sâu sắc như các kiểu nhà nước khác, nhưng với
bản chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa
nữa, mà theo V.I. Lênin, chỉ là “nửa nhà nước”. Chuyên chính của nhà nước
vô sản chỉ là nhằm tập hợp, tổ chức nhân dân lao động trấn áp sự phản
kháng của các giai cấp bóc lột để bị đánh đổ cũng như các phần tử chống đối
nhà nước và chế độ, và quan trọng hơn là xây dựng xã hội mới – xã hội xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Tuy vậy,
với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực công cộng nhằm duy trì trật tự và sự
ổn định của xã hội, nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội của nó. Trong bất
cứ xã hội nào, bên cạnh việc chăm lo bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị cầm
quyền, nhà nước cũng buộc phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải
quyết những vấn đề mà đời sống cộng đồng xã hội đặt ra, chẳng hạn về giao
thông, thông tin liên lạc, đấu tranh chống tội phạm… Tóm lại, nhà nước là một
tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, thực hiện
chuyên chính giai cấp và các chức năng quản lí đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị trong xã hội, duy trì trật tự xã hội và phục vụ những nhu
cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.
3. Chức năng của nhà nước
Chức năng cơ bản của nhà nước được thể hiện thông qua những
phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước, phản ánh bản chất của nhà
nước và nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước của nhà nước. Chức
năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ
sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. Các nhà nước bóc lột
được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và
bóc lột nhân dân lao động, cho nên chúng có những chức năng cơ bản như
bảo vệ chế độ tư hữu, đàn áp sự phản kháng và phong trào cách mạng của
nhân dân lao động, tổ chức tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng ảnh
hưởng và nô dịch các dân lộc khác v.v… Nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ sở
kinh tế là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa và bảo vệ lợi ích của đông đảo
quần chúng lao động, vì vậy chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa khác
với chức năng của các nhà nước bóc lột cả về nội dung và phương pháp tổ
chức thực hiện.
Có nhiều cách tiếp cận và xác định chức năng cơ bản của nhà nước.
Chẳng hạn, căn cứ vào bản chất của nhà nước, dưới góc độ của khoa học
triết học và chủ nghĩa cộng sản khoa học, người ta xác định chức năng cơ
bản của các nhà nước của giai cấp tư sản là trấn áp giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, phục vụ cho lợi ích của giai cấp bóc lột cầm quyền; trái
lại, chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa là trấn áp sự phản
kháng của thiểu số giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ và tổ chức xây dựng xã hội
mới là chức năng chủ yếu. Trong khoa học lí luận chung về nhà nước và
pháp luật, thông thường, chức năng cơ bản của nhà nước được xác định căn
cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được
chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là
những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước như: bảo
đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ và phát
triển chế độ kinh tế, văn hóa v.v… Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của
nhà nước trong quan hệ đối với các nhà nước và dân tộc khác như: phòng
thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên ngoài, thiết lập quan hệ với các
quốc gia khác… Chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với
nhau. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn phải xuất
phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội. Ngược lại, việc thực hiện
tốt các chức năng đối nội tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
các chức năng đối ngoại. Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại,
nhà nước sử dụng nhiều hình thức, phương pháp hoạt động khác nhau, trong
đó có ba hình thức hoạt động chính là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật và bảo vệ pháp luật. Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng ba hình
thức hoạt động này cũng có những đặc điểm khác nhau. Tùy thuộc vào tình
hình cụ thể của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để thực hiện các
chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng, nhưng nhìn chung có hai phương
pháp chính là giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc
lột, cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chính để thực hiện
các chức năng của nhà nước. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ
nghĩa, giáo dục, thuyết phục là phương pháp chủ yếu còn cưỡng chế được
sử dụng kết hợp ở mức độ nhất định và lấy giáo dục, thuyết phục làm nền
tảng. Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng, nên chức năng của các nhà nước
thuộc mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau, việc tổ chức bộ máy để thực hiện
các chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng. Vì vậy, ngoài việc nghiên
cứu bản chất, chức năng của nhà nước còn phải nghiên cứu các kiểu nhà
nước và hình thức nhà nước.
4. Đặc trưng của nhà nước
Khi so sánh nhà nước với cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực và quản
lí các công việc chung của thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thủy, cũng như
khi so sánh với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp cho thấy, nhà nước
có những đặc trưng sau đây:
a. Nhà nước là bộ máy quản lí dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nếu các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ
huyết thống, thì nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa
bàn lãnh thổ nơi mà họ cư trú và được tổ chức thành các đơn vị hành chính.
Việc phân chia này đảm bảo cho hoạt động quản lí của nhà nước được tập
trung thống nhất và chặt chẽ hơn. Đây là sự khác biệt quan trọng giữa nhà
nước với các tổ chức thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thủy trước
đó.
b. Nhà nước thiết lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước đã lập ra những cơ quan
hành chính và các lực lượng thuần túy trấn áp như quân đội, cảnh sát vũ
trang, nhà tù… Những cơ quan cưỡng bức và cơ quan hành chính thực hiện
chức năng cai trị, buộc mọi người phục tùng ý chí của giai cấp thống trị. Khác
với những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thủy
thực hiện chức năng quản lí của mình bằng sức mạnh truyền thống, đạo đức,
uy tín, những người đại diện cho nhà nước thực hiện quyền lực của mình
bằng sức mạnh cưỡng bức của pháp luật. Nhà nước ban hành pháp luật và
sử dụng các thiết chế và công cụ bạo lực để ý chí của giai cấp thống trị được
thực thi trong thực tế. Do đó, mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nước đều từ
xã hội mà ra, nhưng chúng ngày càng thoát li khỏi nhân dân và đứng đối lập
với nhân dân.
c. Nhà nước ban hành một hệ thống thuế khóa để tạo nguồn ngân sách nuôi bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước bao gồm đông đảo viên chức và cả đội quân vũ trang
– lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản xuất để thực hiện chức năng
quản lí nhà nước. Họ không thể tồn tại nếu không dựa vào nguồn ngân sách
bằng thu thuế. Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách là đại biểu chính
thức của toàn xã hội để quản lí xã hội, do đó nhà nước cũng là tổ chức độc
quyền thu thuế.
5. Các kiểu nhà nước và hình thức nhà nước
a. Các kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là một khái niệm trong lí luận chung về nhà nước, nhờ
nó ta có thể nhận thức được một cách cụ thể và lôgic bản chất và những dấu
hiệu đặc trưng cũng như những tồn tại và phát triển của bất cứ nhà nước
nào. Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của nhà
nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của nhà
nước trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã tồn tại các hình thái kinh tế – xã
hội và tương ứng với chúng là các kiểu nhà nước chủ nô; phong kiến; tư sản;
xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản có những để điểm riêng,
nhưng chúng có điểm chung đều là những kiểu nhà nước bóc lột được xây
dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều
là công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị
của các giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với
các kiểu nhà nước bóc lột. Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà
nước mới tiến bộ hơn là một tất yếu khách quan. Quy luật về sự thay thế các
kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của các hình
thái kinh tế – xã hội. Nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô, nhà
nước tư sản thay thế nhà nước phong kiến, nhà nước xã hội chủ nghĩa thay
thế nhà nước tư sản là một tất yếu khách quan và thông qua các cuộc cách
mạng xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới tiến bộ nhất,
nhưng cũng là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong để nhường
chỗ cho một xã hội có hình thức tổ chức và quản lí cao hơn.
b. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan
trọng. Hình thức nhà nước là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực chính
trị của giai cấp thống trị. Như vậy, sự thống trị về chính trị phụ thuộc vào việc
giải cấp thống trị tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo hình thức
nào. Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những
phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình
thức nhà nước phong phú đa dạng song có thể phân làm ba loại là: hình thức
chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ
quan tối cao của nhà nước và xác lập những mối quan hệ của các cơ quan
đó. Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản chính là chính thể quân chủ và
chính thể cộng hòa. Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối
cao của nhà nước tập trung toàn bộ (hay một phần) trong tay một người đứng
đầu nhà nước và được chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế, truyền ngôi.
Chính thể cộng hòa là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định. Trong thực
tế tổ chức hoạt động của các nhà nước trong lịch sử, cả hai hình thức đó hiện
nay đều có những biến dạng của mình. Chính thể quân chủ được chia thành
chính thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế. Trong các tổ
chức nhà nước theo chính thể quân chủ tuyệt đối, đứng đầu nhà nước (vua,
hoàng đế v.v…) một mình nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước và có
quyền lực vô hạn; còn trong các nhà nước quân chủ hạn chế, người đứng
đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao, bên cạnh đó còn có một
cơ quan quyền lực khác nữa (ví dụ: nghị viện trong các nhà nước tư sản có
chính thể quân chủ).
Chính thể cộng hòa cũng có hai hình thức biến dạng chính là cộng hòa
dân chủ và cộng hòa quý tộc. Trong các nhà nước cộng hòa dân chủ, các
tầng lớp nhân dân lao động có quyền tham gia bầu cử để lập ra cơ quan
quyền lực tối cao của nhà nước. Nhưng đó chỉ là quy định về mặt hình thức.
Trên thực tế, các giai cấp thống trị của các nhà nước bóc lột thường đặt ra
nhiều quy định nhằm hạn chế hoặc vô hiệu hóa quyền lực này của nhân dân
lao động. Trong các nước cộng hòa quý tộc, quyền đó chỉ là đặc quyền của
các tầng lớp quý tộc.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, do nhiều yếu tố khác nhau tác động,
các hình thức chính thể cũng có những đặc điểm khác biệt. Vì vậy, khi nghiên
cứu hình thức chính thể của một nhà nước nhất định, cần gắn bó với những
điều kiện lịch sử – cụ thể. Nhà nước trong thời cổ đại (nhà nước chiếm hữu
nô lệ) là nhà nước của giai cấp chủ nô. Trong những nước có chế độ chiếm
hữu nô lệ phát triển như Hi Lạp và La Mã cổ đại, nhà nước chủ nô được tổ
chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong thời kì đó, “… người ta đã phân
biệt chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, chính thể quý tộc và chính thể
dân chủ… Mặc dù có khác nhau như thế, nhưng nhà nước, trong thời đại chế
độ nô lệ, dù là quân chủ hay Cộng hòa quý tộc hay cộng hòa dân chủ, đều là
nhà nước chủ nô”. Trong nhà nước chủ nô, tất cả các quyền đều thuộc về giai
cấp chủ nô, pháp luật nhà nước không coi nô lệ là người. Trong nhà nước
cộng hòa dân chủ chủ nô, pháp luật quy định tất cả mọi người đều tham gia
bầu cử, nhưng đó chỉ là quyền của chủ nô và một phần những người tự do.
Trong nhà nước quân chủ chủ nô, mọi quyền hành nằm trong tay vua – một
hoàng đế đại diện cho quyền lực của giai cấp chủ nô.
Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau phù hợp với tính chất phân tán về kinh tế của xã hội phong kiến, nhà
nước phong kiến phổ biến mang tính chất cát cứ. Mỗi chúa phong kiến là một
ông vua trên lãnh thổ của mình. Chúa phong kiến nhỏ là chư hầu của chúa
phong kiến lớn. Hoàng đế là chúa phong kiến lớn nhất, nhưng cũng chỉ có
thực quyền trên lãnh thổ của mình. Trong chế độ phong kiến phân quyền nói
trên, quyền lực nhà nước bị chia thành những quyền lực độc lập địa phương
phân tán. Trong nhà nước phong kiến tập quyền, quyền lực của vua được
tăng cường rất mạnh, nhưng nói chung, vẫn chưa thủ tiêu hoàn toàn các
quyền địa phương độc lập. Trong nhà nước chuyên chế phong kiến, hoàng
đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của nhà vua là pháp luật. Dù tồn tại dưới bất kì
hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa
chủ, quý tộc; đó là cơ quan để bảo vệ những đặc quyền phong kiến. Cách
mạng tư sản lật đổ nhà nước phong kiến, xác lập sự thống trị của giai cấp tư
sản, nhà nước tư sản ra đời.
Hình thức điển hình của nhà nước tư sản là chế độ cộng hòa đại nghị.
Tuy nhiên, giai cấp tư sản còn tổ chức nền thống trị của nó dưới một số hình
thức khác phản ánh tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong chủ
nghĩa tư bản. Ở một số quốc gia tư sản, nhà nước được tổ chức dưới hình
thức quân chủ lập hiến. Trong nhà nước đó, vua là người đứng đầu quốc gia
(trên danh nghĩa mà không có thực quyền). Nghị viện là cơ quan lập pháp và
nội các là cơ quan nắm mọi quyền hành. Sự khác nhau về hình thức của nhà
nước tư sản không làm thay đổi bản chất của nó – đó là nền chuyên chính
của giai cấp tư sản đối với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Đề cập
tới bản chất đó của nhà nước tư sản, V.I. Lênin cho rằng, những hình thức
của các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một:
chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên
phải là nền chuyên chính tư sản.
Hình thức cấu trúc nhà nước là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức các đơn
vị hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ
quan nhà nước ở địa phương với cơ quan nhà nước ở trung ương. Có hai
hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và nhà
nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là nhà nước thống nhất, có chủ quyền chung, nước
được phân chia thành các cấp hành chính, có hệ thống cơ quan quyền lực và
cơ quan quản lí thống nhất từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Ví dụ:
Việt Nam, Lào, Pháp v.v… là các nước có hình thức cấu trúc nhà nước đơn
nhất.
Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều thành viên hợp lại.
Nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan hành
chính cao nhất chung cho toàn liên bang, trong mỗi nước thành viên cũng có
hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính cao nhất của mình có
chủ quyền quốc gia chung của nhà nước liên bang đồng thời mỗi thành viên
cũng có chủ quyền riêng nhất định. Ví dụ: Mĩ, Nga… có hình thức cấu trúc
liên bang.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kết quả cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. tùy theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mỗi nước mà sự ra đời cũng như
việc tổ chức nhà nước kiểu mới có những hình thức chính trị khác nhau, song
bản chất của nó, như V.I. Lênin chỉ rõ: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức
khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một,
tức là: chuyên chính vô sản”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước nào cũng là nền
chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Những sự thống trị của giai
cấp công nhân có bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về chính trị
của giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu
số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức bóc lột nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp bóc lột. Trái lại, chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai cấp công
nhân nhằm mục đích xóa bỏ áp bức bóc lột, bảo vệ lợi ích của tất cả nhân
dân lao động, xây dựng một xã hội mới – xã hội không còn người bóc lột
người. Sự xác lập chuyên chính vô sản trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
cộng sản là cần thiết vì thời kì này còn tồn tại các giai cấp khác nhau. Chuyên
chính vô sản vì vậy không chỉ là trấn áp bằng bạo lực đối với giai cấp bóc lột,
mà còn là một tổ chức thông qua đó Đảng của giới cấp công nhân thực hiện
vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất của giai cấp công nhân của
mình. Vì vậy, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước
là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước không chỉ là yếu tố đảm bảo bản chất giai cấp công nhân của
nhà nước, mà còn là điều kiện để giữ vững tính nhân dân, tính chất dân chủ
rộng rãi của nhà nước đó. Bản chất giai cấp công nhân và bản chất dân chủ
là hai mặt thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Lênin
chỉ ra rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước đặc biệt, nhà nước quá
độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi
những cơ sở kinh tế xã hội của sự xuất hiện và tồn tại nhà nước mất đi thì
nhà nước sẽ không còn tồn tại. Sự mất đi của nhà nước xã hội chủ nghĩa
không phải bằng con đường “xoá bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong” và
muốn cho nó nhanh chóng đi đến chỗ tiêu vong phải không ngừng xây dựng
và hoàn thiện nó. Sự tiêu vong của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một quá
trình lâu dài.
II. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền tư sản
a. Sự hình thành và phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền
Các tư tưởng đầu tiên về nhà nước pháp quyền của nhân loại ra đời từ
thời cổ đại. Ngay từ các thế kỉ thứ IX – VI TCN, các nhà tư tưởng Hi Lạp và
La Mã đã cố gắng tìm kiếm phương thức tổ chức nhà nước tuân theo trật tự
pháp luật và bảo đảm quyền công dân. Tiêu biểu là các nhà tư tưởng ở Hi
Lạp thời cổ đại.
Xôcrat là người ủng hộ triệt để về nguyên tắc tuân thủ pháp luật cho
rằng, công lí ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành; sự công minh và sự
hợp pháp đều là một. Nếu không luân thủ pháp luật thì cũng không thể có nhà
nước và trật tự pháp luật. Công dân của nhà nước nào tuân thủ pháp luật thì
nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh.
Platôn là học trò của Xôcrat, một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất
của thời cổ đại, tác giả của nhiều công trình khoa học có giá trị như: nhà
nước, pháp luật, nhà chính trị… Ông để lại nhiều tư tưởng về nhà nước pháp
quyền có giá trị như hoạt động xét xử là để bảo vệ pháp luật, nhà nước sẽ
ngừng tồn tại nếu như trong nhà nước ấy tòa án không được tổ chức một
cách thỏa đáng.
Aristốt tiếp tục phát tán và làm sâu sắc hơn các quan điểm chính trị
pháp lí của Platôn. Theo Arixtốt, công lí là các quy phạm pháp luật, là mối
tương quan của pháp luật với công dân của quốc gia. Một mặt, công lí phân
chia, phân bổ công danh, tiền bạc hoặc nói chung tất cả những gì có thể chia
được giữa mọi người trong xã hội. Mặt khác công lí được thể hiện trong sự
cào bằng mọi thứ có thể trao đổi và theo ông, bằng pháp luật, các quyền
chung của công dân được thực hiện và củng cố.
Xixêrôn đã đưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ về nhà nước pháp quyền
như: người điều hành các công việc nhà nước cần phải sáng suốt, công
minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lí cơ bản của pháp
luật mà nếu như thiếu các kiến thiết đó thì không ai có thể công minh được,
các đạo luật do con người quy định phải phù hợp với tính công minh và quyền
tự nhiên, vì sự phù hợp hay không ấy là tiêu chuẩn để đánh giá tính công
minh (hay không) của chúng… Đặc biệt Xixêrôn đưa ra nguyên tắc tất cả mọi
người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật. Tất cả các tư tưởng đề cao pháp
luật trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước ra đời lúc bấy giờ đều có
nguồn gốc sâu xa từ mơ ước của con người về sự chiến thắng của công lí đối
với bạo lực, của chính nghĩa đối với gian tà, của cái thiện đối với cái ác và từ
một thực tế trong đời sống nhà nước và xã hội là vua có toàn quyền, không
chịu trách nhiệm pháp lí trước ai cả.
Sau thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản thì các tư tưởng về nhà
nước pháp quyền mới được tiếp tục phát triển và dần dần hình thành một
cách rõ ràng và thành hệ thống trong các học thuyết chính trị pháp lí. Có thể
nêu một số tư tưởng về nhà nước pháp quyền của một số nhà lí luận nổi
tiếng trong thời kì này như Lôccơ. Các tư tưởng về nhà nước pháp quyền của
ông được trình bày trong tác phẩm “Hai bài giảng về lãnh đạo nhà nước”
(1690). Theo ông, các quyền của con người (bao gồm quyền tự do, bình đẳng
và sở hữu) là tự nhiên và không bị tước đoạt; nhà nước được lập nên là để
bảo vệ các quyền của con người, bảo vệ pháp luật. Ông lập luận về sự cần
thiết phải đề cao pháp luật. Ông cho rằng ở đâu không có pháp luật thì ở đó
cũng không có tự do, vì pháp luật là công cụ cơ bản quyết định việc giữ gìn
và mở rộng tự do cá nhân, đồng thời bảo đảm cho cá nhân tránh khỏi sự tùy
tiện và độc đoán của người khác. Lốccơ cho rằng, mối nguy hiểm chính của
sự tùy tiện và xâm phạm từ phía quyền lực nhà nước đối với các quyền tự do
của con người là bắt nguồn từ đặc quyền của người cầm quyền. Ông cho
rằng, việc điều hành nhà nước phải dựa trên các đạo luật do nhân dân tuyên
bố và hiểu rõ về nó. Chủ quyền của nhân dân cao hơn, quan trọng hơn chủ
quyền của nhà nước do họ thành lập. Và do đó, nhà cầm quyền không được
thi hành chính sách chuyên chế và độc tài đối với nhân dân của mình. Nhà
cầm quyền không thể cao hơn dân chúng.
Môngtéckiơ, một trong những đại diện xuất sắc của trào lưu Khai sáng
thế kỉ XVIII ở Pháp, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Tinh thần pháp luật”
(1748). Ông cho rằng, sự tồn tại của chế độ chuyên chế dựa vào việc làm cho
con người khiếp sợ. Đó chính là nhà nước của sự độc đoán và tùy tiện. Bởi
vì, trong nhà nước đó không có pháp luật; hoặc nếu có pháp luật thì không
được tuân thủ trong thực tế bởi không có những quy định bảo vệ pháp luật.
Môngtéckiơ lập luận về sự cần thiết phải có pháp luật và tuân thủ nghiêm
chỉnh pháp luật, pháp luật là thước đo của tự do. Vì vậy để đảm bảo tự do
chính trị của công dân thì quyền lực nhà nước phải dược phân chia thành ba
quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp bắt nguồn từ lợi ích chung của toàn
xã hội và nhân dân, từ việc đảm bảo cho công dân tránh khỏi tình trạng vô
pháp luật cũng như sự tùy tiện và lạm quyền từ phía các quan chức của bộ
máy nhà nước. Ông cho rằng, nếu như quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp nằm trong tay một người hay một cơ quan (như nằm trong tay vua) thì
con người sẽ không có tự do. Còn nếu như quyền tư pháp hợp nhất với
quyền hành pháp thì toà án sẽ trở thành kẻ đàn áp và tất cả sẽ bị hủy diệt.
Như vậy, nhân tố hợp lí trong học thuyết của Môngtéckiơ là ở chỗ ông đã đề
ra lí thuyết về sự phân công quyền lực nhà nước bắt nguồn từ bản chất dân
chủ và nhân đạo. Vì vậy, sự phân công, phân nhiệm trong tổ chức quyền lực
nhà nước không chỉ là một học thuyết mà còn là một nguyên tắc cơ bản được
thừa nhận chung trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Cantơ, nhà triết học nổi tiếng người Đức cho rằng, lí trí thực tế này ý
chí tự do của mỗi người chính là nguồn gốc của các đạo luật có tính pháp
quyền và hợp đạo đức, pháp luật là để đảm bảo các quan hệ văn minh giữa
con người. Nhà nước, đó là sự hợp nhất của nhiều người biết phục tùng các
đạo luật có tính pháp quyền nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và được xây dựng
trên nguyên tắc toàn bộ hoạt động của mình phải dựa trên pháp luật, nếu
không nó sẽ bị mất sự tín nhiệm của các công dân – những người cấu thành
nó. Dựa vào các quy định pháp luật có hay không việc phân công quyền lực
nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp), mà ông chia ra nhà nước pháp
quyền hay nhà nước độc tài. Bởi vì theo ông, chỉ có sự phân công và phối
hợp điều hòa giữa ba quyền mới có khả năng ngăn ngừa được chuyên chế
độc tài. Chủ quyền của nhân dân chỉ có thể được thực hiện trên thực tế thông
qua sự phân công quyền lực nhà nước. Có như vậy tất cả công dân mới bình
đẳng trước pháp luật trong nhà nước.
Hêghen – nhà triết học, nhà tư tưởng Đức, trong tác phẩm “Triết học
pháp quyền” (1821) đã lập luận rằng, cấu trúc của nhà nước pháp quyền với
các yếu tố xã hội công dân, trật tự pháp luật và các đạo luật mang tính pháp
quyền tạo thành. Tuy nhiên, hạn chế của ông ở chỗ khi cho rằng, nhà nước
và pháp luật chỉ là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối và ý chí tự do. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền chính là hiện thực của tự do và là tồn tại thực tế
của ý chí tự do. Đối lập với nhà nước pháp quyền là cấu trúc của nhà nước
cực quyền với các yếu tố xã hội khép kín, bộ máy nhà nước quan liêu và hệ
thống pháp luật mang tính mệnh lệnh, tùy tiện, duy ý chí tạo thành.
Cùng với các nhà lí luận nói trên, nhiều nhà luật học, chính trị học trong
thời kì này đã góp phần phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền như
Jépphécxơn (1743 – 1826), người đại diện cho những người sản xuất nhỏ và
là tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mĩ năm 1776; Tômát Pên (1737 – 1809),
Jôn Ađam (1735 – 1826); Jem Mêđison (1752 – 1836).
Từ việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển các tư tương về nhà
nước pháp quyền và một số quan điểm hiện nay đã viết ở phần trên, có thể
khái quát một số dấu hiệu đặc trưng của khái niệm nhà nước pháp quyền sau
đây:
1) Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó pháp luật trước hết
là hiến pháp và các đạo luật phải giữ địa vị tối cao. Pháp luật đó phải có chất
lượng tốt, nghĩa là phải thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với
hiên thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật đó phải được nhà
nước và nhân viên các cơ quan nhà nước và mọi người trong xã hội tôn trọng
và nghiêm chỉnh chấp hành.
2) Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà quyền lực nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc phân công rành mạch trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp để thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt
động quyền lực nhằm hạn chế sự lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp
của công dân từ phía nhà nước.
3) Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó con người là giá trị
cao quý và là mục tiêu cao nhất. Do đó, nhà nước đảm bảo cho công dân sự
an toàn pháp lí, được hưởng các quyền và tự do cơ bản và bảo hộ cho họ
các quyền tự do cơ bản đó khi bị vi phạm.
b. Nhà nước pháp quyền tư sản
Nhà nước pháp quyền tư sản được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau như chế độ cộng hòa, chế độ cộng hòa đại nghị, chế độ tổng thống. Các
hình thức nhà nước đó còn khác nhau về chế độ bầu cử, chế độ một hay hai
viện, về nhiệm kì tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và
nội các v.v… Nhưng thực chất nó là sự thống trị của giai cấp tư sản, song cơ
quan tuyên truyền tư sản tìm mọi cách làm cho người ra tin rằng chế độ cộng
hòa dân chủ tư sản là hình thức nhà nước “dân chủ”, “tự do”, là nhà nước lí
tưởng. Ngày nay nhà nước tư sản thường có vẻ bề ngoài như là một cơ cấu
cho phép nhân dân tỏ rõ ý chí của mình một cách định kì, nhưng những hình
thức và thể chế dân chủ đó không hoàn toàn làm thay đổi bản chất của nhà
nước tư sản như Lênin đã chỉ ra trên đây. Không những thế, chế độ cộng hòa
dân chủ còn là một hình thức hoàn bị nhất của nền chuyên chính tư sản. Nhà
nước tư sản tuyên bố quyền bình đẳng tư sản, đảm bảo những lợi ích của
giai cấp tư sản. Do đó, V.I. Lênin viết: “Pháp luật bảo vệ mọi người như nhau;
nó bảo vệ tài sản của những người có của chống lại sự xâm phạm của cái
khối lớn những người không có của, không có gì cả ngoài hai cánh tay, và
dân bị bần cùng hóa, bị phá sản và biến thành vô sản”. Trong chủ nghĩa tư
bản, quan hệ bóc lột của tư sản đối với công nhân được che đậy bằng sự
bình đẳng có tính chất hình thức. Nó cho phép bọn tư bản tha hồ bóc lột sức
lao động của công nhân và cũng “cho phép” người công nhân tự do bán sức
lao động cho tư bản. Nền dân chủ tư sản là nền dân chủ thiểu số của bọn bóc
lột. Nhà nước cộng hòa dân chủ tư sản “dân chủ” ở chỗ nó cho phép giai cấp
tư sản quản lí các công việc nhà nước. Song, bản chất chủ yếu của dân chủ
tư sản là “sự chuyên chính không hạn chế” đối với những người lao động.
Ngày nay, mặc dù trong luật bầu cử của hầu hết các nước tư bản phát triển
đều thừa nhận quyền của người lao động được ứng cử vào các cơ quan
quản lí nhà nước. Nhưng, một là, trong một số trường hợp, luật đó cũng đưa
ra những điều kiện mà người lao động khó vượt qua; hai là, trong những cuộc
bầu cử, giai cấp tư sản nắm trong tay mình bộ máy tuyên truyền đồ sộ, chi
những khoản tiền khổng lồ để cổ động cho người của mình. Phân tích thực
chất của nền dân chủ tư sản, V.I. Lênin khẳng định trong nhà nước tư sản
dân chủ nhất, quần chúng bị áp bức đều luôn luôn vấp phải cái mâu thuẫn
hiển nhiên giữa quyền bình đẳng hình thức do “chế độ dân chủ” của bọn tư
sản ban bố với hàng nghìn sự hạn chế và mánh khoé dối trá thực sự, đang
biến những người vô sản thành nô lệ làm thuê. Kẻ nắm thực quyền trong nhà
nước tư sản hiện đại là có tập đoàn tư bản lớn. Chúng có thể phát huy quyền
lực vô hạn của tài sản bằng cách mua chuộc các viên chức nhà nước, bằng
sự liên minh giữa chính phủ và sở giao dịch. Chính vì vậy, V. I. Lênin chỉ rõ:
“Quyền lực vô hạn của “sự giàu có” trong chế độ cộng hòa dân chủ sở dĩ trở
thành chắc chắn hơn, là vì nó không lệ thuộc vào một số thiếu sót của cơ cấu
chính trị, vào cái vỏ chính trị xấu của chủ nghĩa tư bản”.
Trong những trường hợp nhất định, khi lợi ích tư bản đòi hỏi, giai cấp
tư sản sẵn sàng thu hẹp quyền tự do dân chủ, thậm chí sẵn sàng từ bỏ “hình
thức chính trị tốt nhất của chủ nghĩa tư bản”– tức là cái vỏ dân chủ, để lộ
nguyên hình là một nền chuyên chính công khai dưới hình thức độc tài phát
xít – một hình thức biểu hiện của chuyên chính tư sản. Nhà nước phát xít
khác với nhà nước “dân chủ” tư sản ở chỗ, nó là nền chuyên chính công khai
của giai cấp tư sản đối với nhân dân. Trong nhà nước đó, mọi quyền tự do
dân chủ mà nhân dân giành được qua đấu tranh đều bị tước bỏ, chủ nghĩa
“sô vanh dân tộc” được truyền bá một cách công khai. Việc phân tích khách
quan, khoa học mặt hạn chế trên đây của dân chủ trong chủ nghĩa tư bản
không đối lập với quan điểm cho rằng lịch sử phát triển xã hội loài người từ
khi có giai cấp là lịch sử không ngừng vươn lên để đạt tới nền dân chủ ngày
càng cao. Trước khi có nền dân chủ vô sản, dân chủ đạt được trong chủ
nghĩa tư bản là đỉnh cao trong sự tiến hóa dân chủ, ở đó kết tinh những giá trị
dân chủ được sáng tạo ra trong thời kì trước khi giai cấp công nhân cầm
quyền. Phần lớn những chuẩn mực dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản
là thành quả đấu tranh của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động. Do
vậy, trong khi kiên trì quan điểm đúng đắn về bản chất giai cấp của nhà nước,
khẳng định bản chất tư sản của nhà nước và nền dân chủ trong chủ nghĩa tư
bản, cũng cần thấy những nhân tố mang tính nhân loại, mang tính nhân dân
chứa đựng trong một số chuẩn mực dân chủ đang được thực hiện ở các
nước tư bản chủ nghĩa. Tuy không phủ nhận quyền lực to lớn của đồng tiền,
nhưng cũng không thể vì thế mà phủ nhận một số yếu tố công bằng, bình
đẳng đã được thực hiện trong chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của các giá trị
đó là những nhân tố nội tại dẫn tới phủ định chủ nghĩa tư bản. Nền dân chủ
vô sản với tư cách là một nền dân chủ cao về chất so với dân chủ tư sản
cũng chỉ ra đời khi biết kế thừa, phát triển toàn bộ những giá trị dân chủ mà
loài người đã sáng tạo ra, đặc biệt là những giá trị dân chủ đạt được trong
chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, ngay ở những nước tư bản phát triển nhất trong
thời đại ngày nay cũng đang chồng chất biết bao bất công, ở đó không ít
những yêu cầu dân chủ sơ đẳng vẫn bị chà đạp. Vì vậy, chỉ có thể đạt được
một nhà nước thực sự dân chủ của nhân dân khi xóa bỏ nhà nước tư sản để
xác lập nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước cộng hòa dân chủ
được đặc trưng bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân lao động vào việc
thành lập các cơ quan đại diện của mình trên nguyên tắc bầu cử trực tiếp,
phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín.
c. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh và của
Đảng ta có thể khái quát trong một số nội dung cơ bản sau đây:
Đứng vững trên lập trường dân chủ, dân tộc, yêu nước, kết hợp với tư
tưởng của thời đại “nhân dân nắm quyền tự quyết”, lí tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái, Hồ Chí Minh đã phê phán, tố cáo, buộc tội chế độ thực dân nói chung
và bộ máy thống trị, quan lại, nhân viên chính quyền thuộc địa nói riêng.
Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Hồ Chí Minh trong ý tưởng và
trên thực tế đã từng bước hình dung được mô hình bộ máy nhà nước tương
lai. Với tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (1927), tập hợp những bài giảng do
chính Người trình bày tại các lớp huấn luyện các thế hệ thanh niên cách
mạng đầu tiên, Hồ Chí Minh đã đề cập một cách trực tiếp những vấn đề lí
luận cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh đã trình bày một
cách hệ thống đặc trưng, tính chất, những bài học có thể rút ra từ các cuộc
cách mạng tiêu biểu của thế giới lúc bấy giờ, từ cách mạng Mĩ, cách mạng
Pháp đến cách mạng Nga. Từ sự so sánh các cuộc cách mạng (tư bản, dân
tộc, giai cấp), Hồ Chí Minh đi đến kết luận: “Chúng ta đã hi sinh làm cách
mạng, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm xong cách mạng rồi thì quyền
giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi
hi sinh nhiều lần, thì dân chúng mới được hạnh phúc”. Ba năm sau, với trách
nhiệm được quốc tế III phân công chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản
Việt Nam, Hồ Chí Minh, trong Chính Cương vắn tắt, chính thức cho ra đời
khái niệm “chính phủ công nông binh”. Và việc xây dựng một chính phủ như
vậy trở thành nội dung quan trọng của Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng
sản vừa được thành lập. Tư tưởng về chính thể công nông binh tiếp tục được
đề cập ở Nghị quyết Trung ương lần thứ tám (5/1941) và qua thư gửi đồng
bào toàn quốc (10/1944) của Hồ Chí Minh. Sau khi phân tích tình hình và
nhiệm vụ cấp bách của cách mạng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta trước
phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động
nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc toàn
quốc đại biểu đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái
quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và uy tín,
trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các
hữu bang”.
Như vậy, từ chính phủ công nông binh chuyển sang thành lập Chính
phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một bước chuyển đổi
mang tính cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân và vì dân.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn lần lượt ra đời hai văn kiện là Tuyên ngôn
Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp 1946, thể hiện tập trung tư
tưởng của Hồ Chí Minh về một nhà nước độc lập, tự chủ, dân chủ, cộng hòa,
chủ quyền quốc gia dân tộc, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền với việc đề cao vai trò của pháp luật cũng
được hình thành rất sớm trong tư duy của Hồ Chí Minh. Trong “Yêu sách của
nhân dân An Nam” (1922), yêu sách thứ bảy, Hồ Chí Minh viết: “Thay chế độ
ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Yêu sách này thể hiện sự am
hiểu pháp luật sâu sắc, không những khẳng định vai trò quan trọng của pháp
luật mà còn chỉ ra rằng pháp luật đó phải là pháp luật của một chế độ dân
chủ, thể hiện ý chí của đa số nhân dân do một cơ quan đại diện được cử tri
bầu ra thay mặt mình ban hành dưới hình thức văn bản luật đồng thời, phải
có ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Mặc dù trước khi chính quyền nhà
nước kiểu mới, ở nước ta không có truyền thống lập hiến, nhưng thể hiện
nhất quan quan điểm của mình, sau khi đọc “Tuyên ngôn Độc lập” (2/9), thì
ngày hôm sau, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời
(3/9/1945), Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ sớm ban hành hiến pháp và sớm
xem đó là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của chính quyền nhà nước non
trẻ. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến yêu cầu cơ bản của chế độ pháp
quyền, tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Không phải ngẫu nhiên Mục A, chương II
của Hiến pháp 1946 dành 2 điều quy định nghĩa vụ của công dân, thì nghĩa vụ
tôn trọng hiến pháp, tuân theo pháp luật được đặt ngay sau nghĩa vụ bảo vệ
Tổ quốc.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà nước kiểu mới ra đời, mặc
dù đất nước còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh (chống Pháp và Mĩ) nhưng
trong các Văn kiện, Nghị quyết của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng
chính quyền nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từ khi tiến
hành đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời thì
Đảng ta đặc biệt coi trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt, tại Hội nghị Đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kì (1994) Đảng ta đã khẳng định phương hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Phương hướng đó được cụ thể
hóa một bước tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám (khoá VII)
đầu năm 1995. Tại Hội nghị này, năm quan điểm để tiến hành cải cách bộ
máy nhà nước theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền được xác
định. Tiếp đến, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định
nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước
là một trong 10 định hướng cơ bản để phát triển đất nước đến năm 2000 và
những năm tiếp theo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VIII) đã cụ thể hóa một bước “Phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
trong sạch vững mạnh”. Tóm lại, từ khi ra đời đến nay, trong đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước
của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam và coi trọng việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật phương tiện quan trọng trong quản lí nhà nước.
2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
Xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta, cần chú ý đến vai trò và chức
năng mới của nhà nước, trên cơ sở nhận thức lại đặc trưng và thuộc tính xã
hội của Nhà nước. Từ kinh nghiệm lịch sử như đã nói ở trên có thể thấy rằng,
không thể có “thiên vị” cho một đặc trưng nào trong hai phạm vi kinh tế và xã
hội khi nói về vai trò và chức năng của nhà nước. Chính vì vậy mà Đảng ta đã
đề ra nhiệm vụ xây dựng từng bước một nhà nước pháp quyền như là con
đường cơ bản để khẳng định thiên chức của nhà nước của dân. Đảng ta
khẳng định một trong những nhiệm vụ hàng đầu ở nước ta hiện nay là “xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh”. Trong các phần trên, khi phân tích kinh nghiệm lịch sử, ta thấy rõ
rằng, tư tưởng về nhà nước pháp quyền có nội dung cơ bản là phản ánh mối
quan hệ giữa quyền lực và pháp luật. Nói cách khác, quyền lực chính trị sử
dụng pháp luật; quan niệm về pháp luật như thế nào. Những quan niệm về
quyền lực và mối quan hệ của nó với pháp luật, tuy là hạt nhân của học
thuyết này, nhưng chưa đủ để trở thành học thuyết nhà nước pháp quyền.
Chỉ khi nào nhà nước được quan niệm như một tổ chức pháp lí nhằm thực
hiện công quyền thì khi đó tư tưởng nhà nước pháp quyền mới được coi là
một học thuyết hoàn chỉnh. Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi
nhà nước pháp quyền trật tự pháp chế.
Thứ nhất, đó là sự hiện diện của một tổ chức công quyền và việc dựa
trên nền tảng pháp luật để duy trì công quyền. Điều đó có nghĩa là nhà nước,
các thiết chế của nó phải là những thiết chế được xác định rõ ràng về mặt
pháp luật, tránh tùy tiện và lạm quyền. Tính pháp lí của tổ chức theo chiều
ngang, và cả những quan hệ được tổ chức theo chiều dọc, trên và dưới. Từ
đó, đặt ra vấn đề về kiểm tra việc tuân thủ thẩm quyền đã được luật định
(tuân thủ hiến pháp và pháp luật), về phân quyền nhằm kiểm tra và hạn chế
sự lạm quyền, về mối quan hệ giữa quyền lực trung ương và sự tự quản ở
địa phương, về mối quan hệ giữa quyền lực công khai (công quyền) với cá
nhân công dân.
Thứ hai, pháp luật được công quyền thừa nhận, sử dụng như một
phương thức cai tri và quản lí có giá trị phổ biến chung và có hiệu lực bắt
buộc. Để đạt được yêu cầu này, phải tạo ra được một cơ chế đảm bảo tính
khách quan của pháp luật. Đến lượt mình, tính chất khách quan và phổ biến
đó chỉ có thể có được trong điều kiện các thiết chế quyền lực tổ chức trên cơ
sở pháp lí. Rõ ràng là hai yêu cầu, hai đặc trưng chủ yếu này hòa quyện, bổ
sung cho nhau, tuy là hai nhưng cùng nằm trong một cơ cấu thống nhất về
nhà nước pháp quyền. Hiến pháp nước ta đã khẳng định bản chất nhà nước
của nhân dân và nguyên tắc quản lí xã hội bằng pháp luật, các tổ chức và
thiết chế đều phải hoạt động trên cơ sở pháp luật. Đó là nguyên tắc cô đọng
của hai yêu cầu cơ bản về nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền, như vậy, có tiền đề từ trong chế độ kinh tế và
quan hệ sở hữu mới. Chức năng cơ bản của nhà nước là bảo vệ con người,
điều tiết kinh tế vì lợi ích của cá nhân con người và cộng đồng, duy trì trật tự
vì lợi ích của con người. Sự đa dạng vì lợi ích kinh tế tự nó đòi hỏi phải có sự
bình đẳng và công bằng. Thị trường đòi hỏi những cơ chế tự điều chỉnh từ
phía các công cụ chính trị để thích nghi với nó. Sự điều chỉnh từ phía nhà
nước chỉ có thể là sự tự điều chỉnh của nó cho phù hợp với lợi ích kinh tế và
xã hội của các thành viên xã hội. Những yếu tố này tạo nên sự thống nhất của
thị trường, làm phong phú giao lưu kinh tế quốc tế. Vai trò điều chỉnh này của
nhà nước là thông qua các đòn bẩy pháp luật, chẳng hạn như sự cần thiết
phải có luật về chống độc quyền, luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ người
sản xuất, nhà kinh doanh và bảo vệ người tiêu dùng, luật đối với hoạt động
xuất, nhập khẩu… Để đảm bảo công bằng, tất nhiên, ngoài pháp luật, bản
thân nhà nước và hệ thống chính trị của xã hội phải hết sức năng động và
mềm dẻo, có khả năng tự điều chỉnh lớn. Chính vì vậy, trong hệ thống chính
trị Việt Nam hiện nay, vai trò của các phong trào quần chúng, của các tổ chức
phi chính phủ và nói chung là của “quyền lực thứ tư” – dư luận xã hội – rất
được đề cao và ngày càng phát huy tác dụng. Tính đa dạng của các quan hệ
xã hội ngày nay và trong tương lai nằm trong chiều sâu của quá trình phát
triển các quan hệ kinh tế, dân tộc, tôn giáo và các quan hệ khác. Theo lôgíc
của sự vật, các quan hệ ấy càng phức tạp bao nhiêu thì khả năng quan hệ
qua lại càng lớn và vì vậy, nhu cầu có những cơ chế phối hợp, điều hoà càng
lớn. Như vậy, pháp luật của quá trình đổi mới xã hội ở Việt Nam hiện nay phải
là đại lượng có khả năng điều chỉnh và trật tự hóa các quan hệ xã hội. Pháp
luật gắn liền với vai trò mới của nhà nước, không tách rời chính trị. Nhưng
pháp luật không chỉ đóng vai trò “phục vụ”, mà nó làm đại lượng cho những
chính sách đúng đắn của nhà nước. Chính trị và quản lí xuất phát từ nhân
dân, bảo đảm dân chủ, có nội dung nhân đạo cao cả, thì sẽ cần đến pháp
luật, và khi đó, pháp luật sẽ là công cụ hữu hiệu của chính trị và quản lí.
Trong lĩnh vực phân phối sản phẩm xã hội, đại lượng công bằng – pháp luật –
là sự thể hiện tương xứng cần thiết giữa một bên là các hành vi của công
dân, sự đóng góp bằng công sức và lao động của họ cho xã hội và một bên là
phản ứng của xã hội, thái độ “đối xử” lại của xã hội. Trong lĩnh vực thuộc về
chức năng cưỡng chế của Nhà nước, sự công bằng cũng phải được thể hiện
bằng sự tương xứng giữa mức độ vi phạm và mức độ của trách nhiệm pháp
lí, của hình phạt. Trong lĩnh vực hoạt động quản lí, sự công bằng phải được
thể hiện ở việc xác lập phạm vi tối thiểu nhất của quyền lực với việc xác định
đầy đủ các bảo đảm cho người bị quản lí để phòng và chống những trường
hợp bị ức hiếp. Chính là từ nhu cầu này mà Nhà nước Việt Nam đang tích
cực xúc tiến việc thành lập hệ thống các Tòa án hành chính, hệ thống các
Tòa án kinh tế, đổi mới hệ thống tư pháp nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, pháp
luật mà xã hội Việt Nam cần đến hoàn toàn phù hợp với truyền thống Việt
Nam, văn hóa Việt Nam. Đây là cơ sở cho việc khẳng định khả năng xây
dựng một nhà nước pháp quyền, khả năng chấp nhận và phổ biến những giá
trị pháp luật.
Lòng nhân ái sự công bằng là yếu tố cốt lõi của văn hóa truyền thống
Việt Nam. Đó là “tình làng, nghĩa xóm”, là “thương người như thể thương
thân”. Chủ tịch đồ Chí Minh đã nói rằng, nhân dân Việt Năm từ lâu sống với
nhau đã có tình, có nghĩa và tình nghĩa ấy càng ngày càng sâu đậm. Văn hóa
của một dân tộc như vậy phải được thể hiện như một trình độ văn minh, trong
đó, con người được tôn trọng, kỉ cương được đảm bảo, từng cá nhân và cả
cộng đồng biết xây dựng cho mình một lối sống lành mạnh, dân chủ, công
bằng. Một vấn đề được đặt ra là khi ta nói đến pháp luật có ý nghĩa điều chỉnh
đối với các quan hệ xã hội thì trong điều kiện nhiều thành phần và lợi ích kinh
tế, nhiều nhóm xã hội, làm thế nào để xác định tính pháp lí (tức là sự công
bằng) như vừa nói ở trên? Trả lời được câu hỏi đó là xác định rõ cơ sở pháp
luật làm nền tảng cho một nhà nước của nhân dân trong điều kiện duy trì nền
kinh tế thị trường. Thực tế, đối với một nhóm xã hội này, pháp luật có thể
được coi là rất công bằng, trong khi những nhóm xã hội khác có thể không
làm như vậy. Vì thế dường như là không thể có một tiêu chí chung cho việc
xác định tính pháp lí của luật. Tính công bằng của pháp luật suy cho cùng là
do thái độ của người dân quyết định. Tất nhiên, thái độ đó, đến lượt nó, lại do
các lợi ích xã hội và vị trí xã hội của con người quyết định. Đó là điều rất dễ
hiểu, vì ý thức pháp luật là sự phản ánh toàn bộ cơ sở xã hội chứ không chỉ là
do tính chất của pháp luật quyết định. Pháp luật phản ánh được lợi ích của
nhiều người thì được nhiều người cho là công bằng, là đúng đắn. Đó là đặc
điểm cần phải được chú ý khi ban hành pháp luật. Và đó cũng là ý nghĩa của
việc nhà nước sử dụng pháp luật, là thiên chức của quyền lực bảo vệ an toàn
xã hội, bảo vệ con người. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định nhà nước là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân (điều 2), phát triển kinh tế nhiều thành phần, theo cơ
chế thị trường (điều 15) và các thành phần kinh tế đó đều bình đẳng trước
pháp luật (điều 22). Với hiểu biết như vậy về quá trình của sự phát triển hiện
nay ở nước ta, rõ ràng công cụ quản lí các quá trình đó, tức là nhà nước, phải
là công cụ của sự điều tiết xã hội.
Chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần. Một nền kinh tế với cơ chế đó đòi
hỏi sự bình đẳng, sự công bằng, tự quản và có tính tổ chức cao. Chính tư
tưởng nhà nước pháp quyền có thể thỏa mãn những nhu cầu khách quan đó.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là tạo ra một quan hệ đúng đắn và ổn định
cho một cơ chế quyền lực, tạo ra một hệ thống chính trị năng động và có hiệu
quả, loại trừ những nguyên nhân của chế độ tập trung, độc đoán của bệnh
quan liêu, của tệ tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Xây dựng nhà nước
pháp quyền là tạo ra mối quan hệ đúng đắn giữa tổ chức quyền lực Nhà nước
với công dân. Xã hội nào cũng cần khẳng định mối quan hệ giữa con người
và chính quyền của mình. Nhà nước pháp quyền tạo dựng lên những “kênh”
pháp lí đúng đắn, công khai, dân chủ để nhân dân sử dụng quyền lực của
mình, sử dụng các quyền cơ bản của mình, thực hiện các nghĩa vụ đối với xã
hội và nhà nước. Cốt tử của các kênh quan hệ đó là sự công bằng, bình
đẳng, rõ ràng, ổn định – những giá trị pháp lí mà chỉ một hệ thống pháp luật
được xuất phát từ quyền lực của nhân dân đích thực mới có thể bảo đảm
được. Việc xây dựng nhà nước Pháp quyền ở nước ta trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội cần quán triệt mấy nguyên tắc cơ bản sau đây:
1) Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước vừa trực tiếp, vừa gián tiếp bầu ra các cơ quan nhà
nước. Đồng thời chính nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các
cơ quan nhà nước trong việc sử dụng quyền lực mà nhân dân ủy quyền cho
quyền giám sát đó được bảo đảm thực hiện bằng các cơ chế và công cụ
pháp lí hữu hiệu.
2) Mọi quan hệ xã hội phải được điều chỉnh bằng pháp luật chứ không
phải chỉ bằng đạo lí. Pháp luật đóng vai trò như những quy tắc xử sự chung,
mang tính bắt buộc, định ra hành lang pháp lí an toàn cho sự xử sự chung
của toàn xã hội. Ở nghĩa đó, nhà nước không “làm ra” luật mà chỉ là hình thức
hóa các quy tắc, các mô hình phổ biến của các hành vi xã hội. Các thiết chế
của nhà nước phải là những công cụ đắc lực thực thi pháp luật. Cần nói thêm
ở đây rằng pháp luật phải là pháp luật hợp lí và công bằng, phản ánh đúng
đắn quy luật khách quan, mối quan hệ lợi ích, không được chủ quan duy ý
chí, càng không được cục bộ, bản vị. Pháp luật phải được xây dựng với “chất
lượng” cao, phản ánh được lợi ích chung và nhu cầu phổ biến của xã hội
trong từng giai đoạn.
3) Pháp luật phải giữ vị trí chủ đạo trong toàn xã hội, trong hoạt động,
xử sự của các chủ thể quan hệ xã hội. Hệ thống các quy phạm pháp luật phải
tuyệt đối tuân thủ tính thống nhất của pháp luật, trong đó tính tối cao thuộc về
luật và trước hết là hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật bắt buộc không
được trái với các quy định của hiến pháp. Tương tự như vậy, các văn bản
dưới luật phải phù hợp với luật, văn bản của ngành, địa phương phải phù hợp
với văn bản của các cấp cao hơn và của trung ương. Có nghĩa là tính hợp
pháp và hợp hiến, tính pháp chế phải được đảm bảo.
4) Đề ra pháp luật, nhưng chính nhà nước, các cơ quan nhà nước,
những người có chức vụ, cũng như mọi tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh
tế và công dân đều có nghĩa vụ phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có một
tổ chức hoặc cá nhân nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật hoặc thậm chí
đứng trên pháp luật. Đồng thời với nguyên tắc này, nhà nước ta tiến tới thực
hiện nguyên tắc “có thể làm tất cả những gì luật không cấm” đối với công dân,
tất nhiên trong khuôn khổ đạo đức xã hội chủ nghĩa và tôn trọng lợi ích của xã
hội và của người khác. Con người phải là mục tiêu và giá trị cao nhất. Tuy
nhiên cũng cần phải thấy, nhà nước có trách nhiệm với công dân như thế nào
thì công dân cũng phải có trách nhiệm với nhà nước như vậy để xây dựng
một xã hội đồng trách nhiệm giữa công dân với nhà nước. Do đó xây dựng
nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay bên cạnh việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, xây dựng bộ máy nhà nước để “buộc người ta tuân
thủ những nguyên tắc của pháp luật” còn phải nâng cao ý thức pháp luật cho
công dân, bởi vì nếu không có ý thức pháp luật ở trình độ cao thì xã hội công
dân không có khả năng buộc bộ máy nhà nước phải tuân thủ ý chí của mình.
Với những nguyên tắc trên, nhà nước pháp quyền, do đó, phải là một
nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trong đó tất cả quyền
lực phải thực sự thuộc về nhân dân./.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Quan điểm mácxít về nguồn gốc và bản chất nhà nước?
2. Các kiểu và hình thức nhà nước?
3. Bản chất của nhà nước pháp quyền tư sản?
4. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay?
CÂU HỎI XÊMINA
1. Quá trình hình thành tư tưởng về nhà nước pháp quyền?
2. Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa?
Chuyên đề 7. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi
ngành lại nghiên cứu những mặt riêng biệt, cụ thể về con người.
Triết học nghiên cứu những vấn đề chung nhất về con người như bản
chất con người; thế giới quan; tư duy; các quan hệ xã hội, giai cấp; dân tộc và
nhân loại…
Nội dung triết học về con người, từ xưa tới nay, thường là những câu
hỏi như con người là gì, từ đâu ra? Bản chất con người là gì? Trong mỗi thời
đại, con người có quan hệ với tự nhiên và với đồng loại như thế nào? Vì đâu
ở mỗi con người, mỗi cộng đồng lại có những nét độc đáo về tư tưởng, tình
cảm, tính cách tâm lí, nghị lực và tài năng? Con người có thể làm chủ được
bản thân mình hay không? Con người phải làm gì để có cuộc sống xứng đáng
với bản thân mình?
Đặc trưng của tư duy triết học là sự phản tư của con người đối với
chính bản thân mình nên bản chất con người và việc giải phóng con người
hầu như là vấn đề vĩnh cửu và cũng là vấn đề luôn luôn mới của triết học, bởi
con người cũng như bao hiện tượng khác, luôn vận động và biến đổi không
ngừng. Ngay từ khi con người bắt đầu có ý thức và khám phá thế giới xung
quanh thì đồng thời cũng bắt đầu tự tìm hiểu về mình. Và khi xã hội ngày một
phát triển, nhận thức của con người ngày một sâu rộng, con người càng đặt
ra những vấn đề đa dạng phức tạp hơn, càng muốn đi sâu tìm hiểu chính bản
thân mình hơn nữa. Đặc biệt, khi xã hội ở vào các khúc quanh của lịch sử, bị
giằng xé bởi những mâu thuẫn đối kháng giai cấp, như thời kì tan rã của xã
hội cổ đại, thời kì suy vong của xã hội phong kiến, v.v… thì vấn đề con người
nổi lên thành một chủ đề trung tâm của sinh hoạt tư tưởng xã hội. Đã có
nhiều nhà tư tưởng lớn xuất hiện trong những giai đoạn đó, và những học
thuyết lớn cũng ra đời, thể hiện sự trăn trở của các nhà tư tưởng về con
đường giải thoát, con đường đưa con người tới một cuộc sống thanh bình,
hạnh phúc, không còn sự bất công. Tuy nhiên, cho đến giữa thế kỉ XIX vẫn
chưa có được một giải pháp hữu hiệu nào. Thêm vào đó, khoa học tự nhiên
cũng từng bước khám phá nhiều bí mật trong quan hệ của con người với giới
tự nhiên; khám phá mặt sinh học của con người, là cơ sở khoa học không thể
thiếu cho những quan điểm duy vật của triết học Mác. Với triết học Mác –
Lênin, lần đầu tiên, van đề con người được giải quyết đúng đắn trên quan
điểm biện chứng duy vật.
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Phương Đông cổ đại được nhắc đến chủ yếu là Trung Quốc và Ấn Độ,
hai quốc gia có nền văn hóa lâu đời. Các học thuyết lớn ở phương Đông đều
ra đời vào thời chiếm hữu nô lệ và được bổ sung, làm phong phú và hoàn
thiện thêm vào thời phong kiến kéo dài hàng chục thế kỉ.
Khổng Tử (551 – 479 TCN) – người sáng lập ra đạo Nho, tin rằng con
người ta có mệnh, mệnh này do trời định đoạt (thiên mệnh) “sống chết có
mệnh, giàu sang tại trời” (Luận ngữ, Nhan Uyên). Theo Khổng Tử, ngay từ khi
sinh ra, con người đã có sẵn tính thiện (thiên tính), nhưng do trong quá trình
sống, bị ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu trong xã nội mà tính thiện đó bị
mai một “tính thì gần nhau, nhưng do tập nhiễm mà xa nhau (“tính tương cận
dã, tập tương viễn dã” – Luận ngữ, Dương Hóa 2).
Trong hệ thống học thuyết của mình, Khổng Tử đặc biệt đề cao chữ
“nhân”. Tùy từng trường hợp cụ thể mà hiểu “nhân” như thế nào cho phù hợp.
“Khi ở nhà thì giữ gìn cho khiêm cung, khi làm việc thì kính cẩn, khi giao tiếp
với người thì trung thành”, đó là “nhân” (Luận ngữ, Tử Lộ 7). “Cung, khoan,
tín, mẫn, huệ” tức là cung kính không khinh nhờn, khoan dung, vị tha, được
lòng tin, có công lao và sai khiến được người, đó là “nhân” (Luận ngữ, Dương
hoá 6). “Trước làm những điều khó, sau mới nghĩ tới thu hoạch kết quả”, đó
cũng là “nhân” (Luận ngữ, Ung Giá 20). Thương người như thể thương thân,
mình muốn thành đạt hãy giúp người thành đạt, mình muốn giàu sang hãy
giúp người khác giàu sang, đó cũng là “nhân” nữa…
Muốn đạt đức “nhân”, con người phải có “trí” và “dũng”. Muốn có “trí”
phải học tập. Người có “dũng” thì có thể hành động thanh cao, tỏ rõ ý kiến
của mình một cách cao minh, có thể tự chủ được mình, uy vũ không khuất
phục, khó khăn không nao núng (Luận ngữ, Hiểu Vấn 4; Lí Nhân 2). Người
“nhân” tuân theo “lễ”, có phép tắc, trên dưới phân minh. Đó cũng là cơ sở cho
thuyết “chính danh” nổi tiếng của Khổng Tử.
Theo ông, xã hội loạn là do con người không chính danh. Vua không ra
vua, tôi không ra tôi; cha không xứng là cha, con không xứng là con… Vậy
nên, nếu ai cũng chính danh thì xã hội tất sẽ trở về vòng trật tự. “Chính danh
là làm mọi việc cho ngay thẳng” (Lậun ngữ, Nhan Uyên 1), “vua ra vua, tôi ra
tôi; cha ra cha, con ra con” (Luận ngữ, Nhan Uyên 11).
Mạnh Tử (372 – 279) đã phát triển học thuyết của Khổng Tử theo chiều
hướng duy tâm, cho rằng, không những bản tính con người là thiện, mà còn
có sẵn “lương tri” (không cần suy nghĩ mà biết) và “lương năng” (không cần
học mà hay), con người có “tứ đoan” (lòng trắc ẩn, tu ố, từ nhượng, thị phi)
cũng do trời phú. Từ đó ông cho rằng, để con người giữ được tính thiện của
mình cần phải trau dồi đạo đức. Luận điểm cho tính người là thiện của Mạnh
Tử tuy bị thực tế bác bỏ nhưng tinh thần của nó vẫn được duy trì trong lập
luận của các nhà nho chính thống về sau, được thêm bớt cho phù hợp với
tình hình mới và yêu cầu mới của giai cấp thống trị. Trong số đó, có thể kể
đến Đổng Trọng Thư đời Hán, Hàn Dũ đời Đường, Trình Hạo, Trình Di, Chu
Hy đời Tống…
Tuân Tử (315 – 230 TCN) lại phát triển tư tưởng của họ Khổng theo
đường lối ngược lại với Mạnh Tử, cho rằng con người bản tính vốn ác, phải
luôn ngăn chặn cái ác bằng cách dùng giáo lí, nhân, nghĩa, lễ… để cảm hóa.
Đặc biệt tiến bộ khi Tuân Tử rất đề cao con người. Ông cho rằng, nước và
lửa có khí nhưng vô sinh, cỏ cây có sinh nhưng vô tri, cầm thú có tri nhưng vô
lễ nghĩa, chỉ có con người là vừa có khí, có sinh, có tri, lại có lễ nghĩa, do vậy,
con người là giống quý nhất trong vũ trụ (Tuân Tử, Vương Chế 9).
Tuân Tử cũng đề cao năng lực của con người khi cho rằng con người
không cần phải tuân theo mệnh trời một cách thụ động mà “thiên nhân bất
tương quan”, về phương diện sinh dưỡng, người mang ơn trời, về phương
diện xã hội, đạo trời không giúp cũng không hại đến đạo người, vì vậy con
người phải chủ động giải quyết các vấn đề xã hội, tránh thái độ bị động, trông
chờ vào mệnh trời. “Tôn thờ trời sao bằng cứ biết lợi dụng thuận theo mệnh
trời mà làm, chờ thời sao bằng thuận ứng theo trời mà làm”. Trong lúc Mạnh
Tử và một số nhà nho chỉ biết tìm bản chất con người trên phương diện đạo
đức, Tuân Tử đã tìm bản chất con người trên phương diện khác, chưa ai nói
tới, nhưng lại có tầm quan trọng: con người hơn con vật ở chỗ biết “hợp
quần”, do đó có thể điều khiển được con bò có sức khoẻ hơn mình, điều
khiển được con ngựa có sức chạy nhanh hơn mình. Quan điểm của Tuân Tử
tuy nhiên còn mang yếu tố trực quan, chưa nêu được tính da dạng và vô hạn
của thế giới, nên bị các nhà duy tâm huyền học và lí học phản đối.
Nói chung, con người lí tưởng của Nho giáo là con người đạo đức chứ
không phải con người lao động hay con người khoa học, đó là hình tượng
người quân tử, bậc trượng phu với “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” – những phẩm
chất đạo đức của xã hội phong kiến. Coi trọng đạo đức mà xem thường
những mặt khác của cuộc sống, Nho giáo đã gây ra không ít hậu quả tai hại
cho sự phát triển của xã hội phương Đông. Nền giáo dục của nó chỉ tạo ra
những con người có đạo đức phong kiến, có tham vọng hoạt động chính trị
phục vụ cho giai cấp phong kiến quý tộc chứ không hề biết đến lao động sản
xuất hay thực nghiệm khoa học, là những hoạt động rất cần cho sự phát triển
xã hội.
Nếu Nho giáo chủ trương nhập thế thì Đạo giáo lại chủ trương xuất thế
(xa lánh cuộc đời). Đạo giáo cho rằng, đạo là cái gốc sinh thành vạn vật trong
đó có con người.
Lão Tử (khoảng thế kỉ VI TCN) cho rằng, con người do đạo sinh ra, do
đó cũng mang tính vô vi, tự nhiên, chất phác của đạo. Con người không nên
hữu vi, can thiệp vào tự nhiên, cứ để tự nhiên như nhiên thì sẽ thuận, nếu
hữu vi, can thiệp vào tự nhiên sẽ chuốc lấy đau khổ. Ông cho rằng, con người
không cần nhân nghĩa, không nên phân biệt giàu nghèo, sang hèn, xã hội
không có chiến tranh, không có trộm giặc, bụng no và lòng hư tĩnh là hạnh
phúc.
Trang Tử (khoảng 369 – 286 TCN) thấy sự khác biệt giữa con người
với con vật: “Trâu và ngựa có bốn chân, đó gọi là trời, thắng cương ngựa, xỏ
mũi trâu, đó là người”, song người nên “huyền đồng với vạn vật” là hơn.
Trang Tử còn nói, con người không cao hơn tự nhiên, con người có quan
điểm đẹp xấu, ưa thích, ghét bỏ của mình, thì loài vật như con chim, con cá,
con khỉ cũng có sự đẹp xấu, ưa thích, ghét bỏ của nó, mà không biết bên nào
đáng làm thước đo cho bên nào. Theo thế đủ thấy con người đừng có kiêu
hãnh là mình được làm người, vì làm người hay làm vật, làm Trang Chu hay
làm bướm cũng thế thôi, đều là mộng cả, nếu để mất đi cái bản chất tự nhiên
của mình thì không khác gì bắt chim đem nhốt vào lồng cho nó nghe âm
nhạc, không tránh khỏi mau chóng diệt vong. Với Trang Tử, sống, chết là lẽ
tự nhiên, người và muôn vật không có sự phân biệt. “Trời đất cùng ta đồng
sinh, vạn vật cùng ta là một” (Tề vật luận). Con người nên hoà vào với “đạo”,
phải “quên thân thế, bãi thông minh, lìa hình hài, bỏ tri thức” (Nam hoa kinh,
Đại Tông sư). Xã hội bày đặt ra các chuẩn mực pháp luật, đạo đức, thiết
chế… buộc con người phải tuân thủ là một điều phi tự nhiên. Từ đó, ông cũng
đề cập đến tính tương đối của khả năng nhận thức. Vì mọi vật đều trong biến
hóa khôn cùng nên con người không bao giờ nhận thức được nó. Mọi thứ
đều không có tiêu chuẩn, phải hay trái, thiện hay ác… cũng chỉ tương đối mà
thôi. “Hãy quên sự khu biệt phải trái và hãy vui trong cõi vô cùng” (Tề vật
luận).
Dương Chu (khoảng 395 – 335 TCN) được coi là người đặt nền móng
cho chủ nghĩa “vị ngã”, chủ nghĩa cá nhân, đề cao việc tận hưởng tự do và
khoái lạc. Ông cho rằng, ngay cả những bậc thánh nhân cũng chỉ là những
người ham danh hão, khi chết rồi không thể làm cho nắm xương khô tàn tươi
lại để hưởng lạc thú, nghe sự khen chê. Ông cho rằng “Đã sinh ra rồi thì cứ
thản nhiên nhận cuộc sống và thỏa mãn hết thị hiếu của mình” (“Liệt tử” và
“Dương tử”, chương VII, 10).
Phương châm đối nhân xử thế của Đạo giáo được thể hiện qua quan
điểm “vô vi” và thuyết “bất tranh”. “Vô vi” (không hành động gì thái quá, để cho
việc đời tự nó biến diễn, sống theo lẽ tự nhiên thuần phác, không gò ép, giả
tạo), “vô kỉ” (đến nỗi quên cả chính mình), “vô đãi” (quên mọi điều kiện ràng
buộc xung quanh), “bất tranh” (không tranh đấu),v.v... sống một cuộc sống tự
nhiên, quả dục. Muốn vậy, đứng trước danh lợi, con người phải có thái độ từ
chối, tri túc, biết đủ, vì “họa không có gì to hơn là không biết đủ”. Muốn “vô vi”
không phải là dễ, tưởng “không làm gì cả, mà không gì không làm”, phải biết
cần kiệm, khiêm nhường, từ ái, khoan dung… Lão Tử nói: “Ta có ba của báu
hằng nắm giữ và bảo vệ, một là từ ái, hai là tiết kiệm và ba là không dám
đứng trước thiên hạ” (Đao đức kinh, chương 67).
Đối với các đại biểu của Đạo giáo, cuộc sống lí tưởng cũng là cuộc
sống đạo đức chứ không phải cuộc sống lao động hay đấu tranh xã hội,
nhưng “đức” của Đạo giáo không giống “đức” của Nho giáo. Họ thường nhắc
chuyện Đào Tiềm từ quan về sống bên luống cúc, hàng ngày được nhìn
ngắm núi Nam; Quản Ninh cuốc vườn thấy vàng không thèm nhặt; Trương
Hàn đang làm quan, thấy gió thu nổi lên, nhớ rau thuần, cá lộ ở quê, bỏ quan
mà về… Tư tưởng này có khi biểu hiện một lối sống thanh cao, không màng
danh lợi, nhất là trong xã hội nhiều sự bon chen, nhưng cũng có khi nó chỉ
biện hộ cho thái độ lạnh lùng, vô trách nhiệm trước cuộc đời, thế sự, là nhân
sinh quan của một lớp người bất mãn với xã hội hoặc bất lực trước cuộc sống
đó. Rõ ràng, một cuộc sống như vậy chỉ có thể đưa người ta trở lại một xã hội
trì trệ hoặc thấp kém hơn, và như thế, nó là một quan điểm sống phản tiến bộ.
Phật giáo cũng chủ trương xuất thế, thái độ đối với đời là thái độ bi
quan, yếm thế. Phật giáo không thừa nhận có một đấng sáng thế tạo ra con
người, phủ nhận linh hồn cá thể (Atman). Theo thuyết luân hồi, thuyết nhân
quả và nghiệp con người là nguyên nhân của chính mình, “tự kỉ nhân quả”,
con người quá khứ là nguyên nhân của con người hiện tại, con người hiện tại
là nguyên nhân của con người vị lai. Con người được tạo nên bởi sự hội tụ
của sắc và danh, tạo nên thân vật lí (mặt thể xác) và thân tâm lí (mặt tinh
thần), trong đó, thân vật lí là giả hợp của tứ đại (đất, nước, lửa, không khí);
còn thân tâm lí là giả hợp của tứ uẩn (thụ, tưởng, hành, thức) với thất tình (ái,
ố, hỉ, nộ, ai, lạc, dục). Để có được một con người cần có sự kết hợp của tinh
cha, huyết mẹ và nghiệp lực; trong đó, nghiệp lực là nguyên nhân quan trọng
nhất. Mặt khác, con người cũng phải tuân thủ bản chất vô thường của vạn vật
nên sự tồn tại của con người trong nhân gian chỉ là tạm thời, không có cái tôi
(vô ngã). Để biện minh cho sự bế tắc dẫn đến thái độ lựa chọn con đường
giải thoát là xuất thế cầu an, Phật giáo đã đưa ra học thuyết Tứ diệu đế khẳng
định đời là bể khổ với tám nỗi khổ bao quát nhất (bát khổ), căn nguyên của
những nỗi khổ ấy là do mười hai nguyên nhân (thập nhị nhân duyên), song
con người có thể hóa giải được những nỗi khổ của mình bằng tám con đường
chân chính (bát chính đạo). Theo Phật giáo, lí tưởng của con người là được
siêu thoát đến nơi hoàn toàn hư tịch, không còn khổ đau, bất công, đó là cõi
Niết bàn. Kinh Phật dạy không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau,
không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Với tư cách là một trào lưu
tư tưởng lấy mục đích cứu khổ cứu nạn, Phật giáo không những đặt cho mỗi
người nhiệm vụ “tự giác” mà còn xác định trách nhiệm “giác tha”, không
những làm cho họ thấy cứu mình là bức thiết, mà cứu người cũng là việc
không thể chậm trễ. Chính vì vậy, ở một khía cạnh nhất định, nguyên tắc
“giác tha” có thể là một động cơ cao thượng thúc đẩy những hành vi cao
thượng của các phật tử, nhưng vì không có cơ sở khoa học nên khiến họ tin
vào những lực lượng huyền bí, ràng buộc họ bởi những sợi dây vô hình, làm
cho họ xa rời cuộc đấu tranh của quần chúng nhằm đạt tới sự giải phóng thực
sự.
Nói chung, triết học phương Đông thời cổ, trung đại bàn đến con người
như một vấn đề trung tâm, trong đó tư tưởng về đời người, đạo đức, lối sống,
lí tưởng, thái độ đối với các vấn đề chính trị – xã hội v.v… khá sâu sắc.
2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Ở phương Tây, vấn đề con người cũng được đặt ra từ rất sớm. Ngay ở
thời kì “tiền triết học” cũng đã có thể tìm thấy không ít những quan niệm về
con người trong các tôn giáo nguyên thủy, trong thần thoại, truyền thuyết, sử
thi, anh hùng ca… Thần thoại Hi Lạp là một kho tàng vô cùng phong phú,
chứa đựng những quan niệm về con người, xem con người như một bộ phận
không thể chia tách khỏi thế giới. Nhà thơ mù Hôme cho rằng “Tất cả chúng
ta đều là đất và nước”. Do chưa nhận thức được các hiện tượng tự nhiên nên
họ vẫn luôn thấy sự chi phối của một sức mạnh vũ trụ huyền bí được mệnh
danh là số phận. Trong thế giới thần thoại, người với thần sống hòa thuận
bên nhau, những vị thần cai quản số phận con người, vừa để bảo vệ con
người vừa để trừng phạt nếu như con người mắc phải những sai phạm.
Nhưng như một điều hợp quy luật, ngay từ khi tách khỏi thế giới động vật,
con người đã chống chọi với tự nhiên và bắt đầu xác định quyền lực của mình
trước tự nhiên, dẫu còn nhỏ bé, yếu ớt. Con người bắt đầu đặt niềm tin vào
chính mình, như Prômêtê, Hécquyn, Sisiphơ v.v… Ph. Ăngghen khẳng định
rằng, việc con người tìm ra lửa và sử dụng lửa để nấu chín thức ăn, rồi sau
đó là để rèn công cụ lao động, là một bước nhảy cực kì vĩ đại của con người
nhằm tách khỏi giới động vật. C. Mác cho rằng, câu chuyện về Prômêtê ăn
cắp lửa của thiên đình mang về cho con người rồi chịu cực hình trong thần
thoại Hi Lạp là một biểu tượng tuyệt đẹp về tinh thần bất khuất của con người
ngay từ thuở hồng hoang. Tuy nhiên, ở thời kì này, con người còn chưa có bộ
mặt riêng của cá nhân, bởi lúc đó, sinh hoạt của cá nhân còn hòa chung vào
sinh hoạt của cả cộng đồng, con người chưa phát triển đến mức độ tự tách
mình ra thành một cá thể mang tiểu sử và cá tính riêng biệt. Còn để đánh dấu
sự nhảy vọt trong tư duy con người phải kể đến sự ra đời của triết học. Theo
nguyên nghĩa tiếng Hi Lạp thời cổ đại, triết học là “lòng say mê, ham thích sự
hiểu biết, thông thái”.
Tinh thần tự chủ đó của con người được thể hiện ngay trong những
quan niệm triết học đầu tiên. Các nhà triết học duy vật ở Hi Lạp thời cổ đại đã
giải thích cấu tạo của thân thể con người từ các yếu tố vật chất.
Talet (khoảng 624 – 547 TCN) cho rằng, con người được sinh ra từ
nước. Anaximen (khoảng 585 – 525 TCN) cho con người do không khí sinh
ra. Hêraclit (khoảng 540 – 480 TCN) cho rằng, lửa là bản nguyên vật chất đầu
tiên sinh ra con người. Như vậy, con người là một bộ phận của tự nhiên.
Người Hi Lạp thời cổ đại nói nhiều đến linh hồn. Hêraclit thấy linh hồn
cũng giống không khí, đất và nước, tức chỉ là một trạng thái biến đổi của lửa.
Đêmôcrit (khoảng 460 – 370 TCN) cũng nói đến linh hồn, nhưng theo ông,
linh hồn không phải là bất tử mà nó được cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu,
rất năng động, nó cũng chết khi cơ thể chết đi…
Hêraclit cho rằng, tư duy là một giá trị vĩ đại, và sự thông thái chính là ở
chỗ nói lên chân lí, ở chỗ lắng nghe tự nhiên rồi hành động thích hợp với tự
nhiên.
Xênôphan (khoảng 570 – 478 TCN) thì cho rằng: số đông yếu hơn trí
tuệ. Anaxago (500 – 428 TCN) quan niệm: người là thực thể thông minh nhất
vì có đôi bàn tay, nhờ đó có khả năng lớn nhất để thực hiện lí tính của mình.
Bên cạnh quan điểm duy vật tiến bộ nêu trên là quan điểm duy tâm quy
bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng hoặc được quy định sẵn từ
những lực lượng siêu nhiên. Pitago khẳng định, xã hội loài người cũng phải
tuân theo trật tự của các con số, và linh hồn thì bất tử trong những thể xác
hữu tử. Còn Xôcrát (469 – 399 TCN) thì cho rằng, đạo đức chân chính là phải
thừa nhận bản nguyên tinh thần trong con người (tức linh hồn) và trong tự
nhiên (tức thần thánh). Platôn (427 –327 TCN) khẳng định tự nhiên chỉ là thế
giới của những vật cảm tính bắt nguồn từ một thế giới ý niệm, và sự nhận
thức của con người chẳng qua là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử về thế giới
ý niệm mà nó đã trải qua.
Thời trung cổ, thần học cơ đốc giáo đã đề cập tới những vấn đề xoay
quanh bản chất và nguồn gốc con người, vai trò vị trí con người trong xã hội
như: sự sáng thế của Chúa, tội lỗi và sự chuộc tội của con người trước Chúa,
sự cứu rỗi của Chúa đối với con người, sự phục sinh…
Ôguyxtanh (354 – 430) cho rằng, Chúa có quyền uy tuyệt đối, định đoạt
số phận con người. Ông đề xướng thuyết tiền định, đề ra chủ nghĩa khổ hạnh,
kêu gọi con người hãy coi thường cuộc sống vật chất nơi trần thế, vì cuộc
sống ấy gắn với phần thể xác – phần thấp hèn của con người. Thể xác gần
với súc vật, là phần đáng khinh miệt. Khi con người có những ham muốn thể
xác là có tội, cần rửa tội hoặc sám hối; còn linh hồn là phần cao quý, bất tử
nên con người phải chăm sóc chu đáo hàng ngày. Trong cuộc đời này, con
người chỉ là kẻ bộ hành cô đơn và bé nhỏ… Những quan điểm tôn giáo tiêu
cực đó đã được Giáo hội sử dụng để ru ngủ quần chúng, biến họ thành
những con chiên ngoan đạo, chỉ biết phục tùng, chịu đựng, mất hết khả năng
tranh đấu và không có niềm tin vào bản thân.
Sang đến thời Phục hưng, do những biến chuyển tích cực trong lòng xã
hội (chủ nghĩa tư bản dần hình thành), do những thành tựu của khoa học tự
nhiên (phát hiện ra tế bào của Rôbe Húc; sự lưu thông máu của William
Hacvây; cấu tạo các mô trong các vật hữu sinh của Lơven Húc, sự kiện tìm ra
châu Mĩ...), do việc ứng dụng cơ học, thủy động học, toán học… vào sản
xuất, thương mại, hàng hải,… nhiều nhà tư tưởng đã dũng cảm đấu tranh với
các quan điểm tôn giáo. Đây là thời đại của những “con người khổng lồ có tư
tưởng khổng lồ”, bất khuất trước thần quyền và vương quyền, xuất phát từ
những điều kiện của cuộc sống hiện thực để giải thích về con người, khẳng
định tự do, đề cao phẩm giá. Chủ nghĩa nhân đạo tư sản ra đời trong bối cảnh
ấy. Được sự hậu thuẫn của các thành tựu tư tưởng tiến bộ thời cổ đại, họ nói
đến quyền tự nhiên của con người, những yêu cầu bản chất của con người,
kịch liệt chống lại chủ nghĩa kinh viện. Tiêu biểu trong số đó có thể kể đến
Lêôna đơ Vanh xi, Ph. Bêcơn, T. Hôpxơ. R. Đêcáctơ…
Ph. Bêcơn (1561 – 1626) đề cao tri thức, coi tri thức là sức mạnh. T.
Hốpxơ (1588 – 1670) đòi tách thần học ra khỏi triết học. R. Đêcáctơ (1596 –
1650) đề cao vai trò của tư duy với mệnh đề nổi tiếng: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn
tại”.
Những tư tưởng duy vật vô thần thế kỉ XVII – XVIII về con người đã tiếp
tục truyền thống thời Cổ đại và thời Phục hưng, khẳng định vị thế con người.
Các nhà Khai sáng Pháp đã đưa sự phê phán chủ nghĩa kinh viện đến đỉnh
cao.
Lametri (1709 – 1751) cho rằng, nguồn gốc con người là từ thế giới
động vật ông xem xét tính tình và động cơ hành động của con người tương
ứng với tình trạng khỏe hay yếu, lành mạnh hay bị hư hỏng của các bộ phận
trong cơ thể như tim, gan, lá lách, tĩnh mạch động mạch.
Điđơrô (1713 – 1784) kịch liệt chống quan niệm tôn giáo về linh hồn bất
tử. Ông cho rằng, muốn trình bày quá trình hình thành của con người hay
động vật thì nhất thiết phải đưa vào những nhân tố vật chất, bởi tác dụng của
những nhân tố ấy đưa đến kết quả hợp lí là sản sinh ra một vật thể biết cảm
giác, biết suy nghĩ một vật thể vĩ đại, đáng ngạc nhiên, đang già cỗi, đang mất
đi, tắt đi, chết đi, tan rã và trở lại đất đai phì nhiêu.
Henvêtiuyt (1715 – 1771) đề cao giáo dục khi cho rằng, con người chỉ
là sản phẩm của giáo dục.
Hônbach (1723 – 1789) đã lên án gây gắt tôn giáo. Theo ông, tôn giáo
chỉ làm trụy lạc đầu óc con người, làm con người đánh mất bản chất của
mình, làm cho tầm mắt con người phải hướng lên trời để không nhìn thấy
những nguyên nhân đích thực của bất hạnh và khổ đau.
Cantơ (1724 – 1804) đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa tín ngưỡng quan niệm: Thượng đế là nguyên nhân vô
thượng của “hạnh phúc toàn thiện” bảo đảm công bằng ở thế giới bên kia.
Ông phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người khi đưa ra thuyết
“không thể biết”.
Hêghen (1770 – 1831) tuy không giải thích nguồn gốc con người từ
thần thánh nhưng lại cho rằng, con người là do ý niệm tuyệt đối tha hóa, biến
đổi, phát triển mà thành.
Phoiơbắc (1804 – 1872) phản đối quan điểm duy tâm của Hêghen, chỉ
ra nguồn gốc phi thần thánh của con người và cũng đồng thời nêu bật bản
chất của tôn giáo rằng, không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh
của Chúa mà chính con người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người.
Con người là một sinh vật có hình thể vật chất, ở trong không gian và thời
gian, là “cái gương của vũ trụ” mà thông qua đó, giới tự nhiên ý thức và nhận
thức chính bản thân mình. Bản chất con người là tổng thể những khát vọng,
khả năng, nhu cầu, ham muốn v.v… nên ngoài việc đem lại một quan niệm
mới về con người, triết học còn có nhiệm vụ tiến hành cuộc đấu tranh lí luận
cho việc giải phóng con người, đem lại cho con người một cuộc sống hạnh
phúc thực sự, loại trừ những học thuyết duy tâm tôn giáo ra khỏi cuộc sống
tinh thần của con người. Theo ông, tôn giáo chỉ hướng con người vào cái
thiên giới, khuyến khích con người hạn chế tối đa những nhu cầu tối thiểu,
bóp nghẹt phần con người tự nhiên, đó là điều trái ngược hoàn toàn với bản
chất con người. Tôn giáo vừa là sản phẩm của sự tưởng tượng hoang
đường, vừa là thể hiện khao khát của con người về một cuộc sống tốt đẹp
hơn con người tin vào thực thể được sung sướng, vì nó muốn trở nên sung
sướng; tin vào thực thể hoàn hảo, vì bản thân nó muốn trở nên hoàn hảo; tin
vào thực thể bất diệt, vì bản thân nó không muốn chết. Ông chỉ rõ rằng, tư
duy con người là sản phẩm của khí quan vật chất, đó là bộ óc người. Con
người khác con vật không phải chỉ ở tư duy mà còn khác ở cả xúc cảm, và sứ
mệnh của lí tính không phải là ở việc lấn át bản tính cảm tính ấy của con
người, mà là ở chỗ phát triển nó, vì đời sống con người trước hết là đời sống
cảm tính. Tuy vậy, ông lại rơi vào duy tâm và siêu hình khi phân tích bản chất
xã hội của con người, không đặt con người trong các mối quan hệ xã hội nhất
định, trong hoàn cảnh điều kiện cụ thể mà đó là con người chung chung, con
người trừu tượng, con người là “đối tượng cảm tính” chứ không phải là “hoạt
động cảm tính”. Ông lí tưởng hóa tình bạn, tình yêu của con người, quy bản
chất con người vào tính tộc loại và tìm đặc trưng cho tính tộc loại đó ở tình
cảm đạo đức. Ông “đẽo gọt” đạo đức học “cho thích hợp với mọi thời gian,
mọi hoàn cảnh và chính vì thế mà nó không thể áp dụng được bất cứ ở đâu
và bất cứ lúc nào”. Phê phán quan điểm này, C. Mác viết: “Phoiơbắc hòa tan
bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Một số trào lưu triết học tư sản hiện đại coi con người sinh ra từ tự
nhiên nên móng bản chất tự nhiên, bản chất này bất biến, tuyệt đối, giữ vai trò
quyết định đến phẩm chất con người.
Phrớt (1 856 – 1 939) cho rằng, mỗi cá thể người được sinh ra là một
cái đơn nhất, hoàn toàn cô đơn, có những đặc điểm sinh học ban đầu khác
biệt, có những ham muốn vô thức, trực giác, tính dục quy định bản chất con
người.
Một số nhà triết học phương Tây hiện đại khác lại cho rằng, so với các
động vật có vú cao cấp khác, con người tỏ ra yếu đuối hơn, chậm chạp, vụng
về hơn, kém thích nghi với môi trường hơn, thậm chí thiếu nhạy cảm, kém cỏi
hơn con vật. Chính vì vậy, con người phải tạo ra các thiết chế, các luật lệ như
luật pháp, đạo đức để sống cho an toàn.
Một số người theo chủ nghĩa kĩ trị lại đề cao khoa học kĩ thuật, coi khoa
học tiên tiến là chiếc chìa khóa vạn năng để mở mọi cánh cửa dẫn đến thành
công. Điều này khiến cách nhìn nhận, đánh giá về con người rơi vào hai thái
cực, hoặc quá đề cao con người lí tính, con người tư duy; hoặc biến con
người thành những cỗ máy lạnh lùng, thành một bộ phận trong dây chuyền
sản xuất, con người bị “máy móc hóa”.
Một số đại biểu của chủ nghĩa hiện sinh đòi hỏi cá nhân người cần
thoát khỏi những ràng buộc của xã hội, của pháp luật, của đạo đức để trở về
sống đúng mình với tự do tuyệt đối.
Tóm lại, triết học tư sản hiện đại thường rơi vào duy tâm và siêu hình
khi bàn về con người, mặc dù có thể dưới những hình thức cụ thể, tế nhị, sinh
động. Các nhà triết học tư sản hiện đại một mặt đề cao sức mạnh tinh thần,
“cái tôi chủ thể”, mặt khác, họ lại biến “cái tôi” đó thành những mảnh vụn cô
lập với toàn bộ phần xã hội còn lại. Trong triết học tư sản hiện đại, con người
vừa mạnh mẽ, lí trí, làm chủ cuộc đời và chinh phục tự nhiên, đồng thời cũng
là con người nhỏ bé cô độc, yếm thế. Sự khủng hoảng trong tư tưởng triết
học tư sản hiện đại trước vấn đề con người còn được thể hiện qua sự chứa
đựng những mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết được. Nó rất đa dạng,
nhiều vẻ nhưng lại thiếu đi sự nhất quán; nó nghiên cứu con người trên nhiều
bình diện, từ nhiều góc độ, nhưng cho đến nay, chưa có một luận thuyết nào
trình bày tổng quát và triệt để vấn đề này. Các luận thuyết có sự chồng chéo,
có sự cạnh tranh ảnh hưởng và mang tính độc lập nhất định. Tuy nhiên, triết
học tư sản hiện đại, trong một chừng mực cũng có những đóng góp đáng kể.
Nó góp phần tạo nên sự phong phú, nhiều màu sắc cho đời sống triết học
đương đại, có những nhận xét sắc sảo, giàu tính thực tiễn, luận giải vấn đề
con người có yếu tố hợp lí, gây ảnh hưởng đối với tư tưởng của nhiều tầng
lớp trong xã hội.
Nhìn chung, trải qua trên 2500 năm lịch sử triết học, vấn đề con người
luôn luôn được đặt ra, có khi được giải quyết trên lập trường duy vật mộc mạc
hay duy vật siêu hình, có khi là duy tâm khách quan hay tôn giáo thần bí.
Trong suốt quá trình ấy, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
các ngành khoa học, việc nhận thức của con người về mình ngày một được
nâng lên. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách sâu
sắc và thoả đáng. Sự ra đời của triết học Mác – Lênin đã góp phần làm rõ
hơn những vấn đề triết học về con người.
II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI 1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất con người
a. Con người là một thực thể sinh vật – xã hội
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở kế thừa
những tinh hoa trí tuệ trong lịch sử triết học nhân loại, đồng thời dựa trên
những thành tựu của khoa học tự nhiên mà trực tiếp là các phát minh khoa
học vĩ đại của thế kỉ XIX đã khẳng định, con người vừa là sản phẩm phát triển
lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính mình. Con
người là một thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã hội
– là thực thể sinh vật – xã hội.
Con người là thực thể sinh vật, bởi vì cho dù nó có phát triển tới đâu nó
cũng vẫn là một động vật. Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh: “Bản thân cái sự kiện
là con người từ loài động vật mà ra cũng đã quyết định việc con người không
bao giờ hoàn toàn thoát li khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Cũng như
những loài vật khác, con người là một bộ phận của tự nhiên, “giới tự nhiên là
thân thể vô cơ của con người”, vì vậy con người chính là kết quả của quá
trình phát triển và tiến hóa lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản
chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với loài
vật là phương diện xã im cua nó.
Con người là thực thể xã hội là do các hoạt động xã hội của nó quy
định, mà trước hết và quan trọng nhất là hoạt động lao động sản xuất, đã làm
cho con người trở thành con người với đúng nghĩa. Ph. Ăngghen nói: “Người
là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy
của loài vật”; “thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình, hình thành và phát
triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành
nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội”.
Theo C. Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại
giữa những con người. Con người tạo ra xã hội đồng thời cũng là thành viên
của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu hiện và khẳng định
của xã hội.
Như vậy, con người không phải là một động vật thuần túy mà một động
vật xã hội – một thực thể sinh vật – xã hội. Thực thể sinh vật và thực thể xã
hội ở con người không tách rời nhau, trong đó thực thể sinh vật là tiền đề mà
trên đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
b. Con người là chủ thể của lịch sử
Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới
hữu sinh. Song điều quan trọng nhất là con người luôn luôn là chủ thể của
lịch sử – xã hội.
Lịch sử hiểu theo nghĩa rộng là những quá trình đan xen, nối tiếp nhau
với tất cả những bảo tồn và biến đổi diễn ra trong quá trình ấy. Như vậy con
người có lịch sử và động vật cũng có lịch sử. Song lịch sử con người và lịch
sử động vật khác hẳn nhau. Trong tác phẩm Biện chúng của tự nhiên, Ph.
Ăngghen viết: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của
chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của
chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không
hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách
xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng
tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Con người với tư cách là một thực thể xã hội, bằng hoạt động thực tiễn
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện sẵn có
của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn để làm
phong phú thêm giới tự nhiên, tái tạo một tự nhiên thứ hai theo mục đích của
mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử chính bản thân mình. Hoạt động lao động sản xuất chính là tiền đề để
con người tách khỏi thế giới động vật và đó cũng chính là hành động lịch sử
đầu tiên của con người. Con người tách khỏi động vật như thế nào thì bước
vào lịch sử cũng như thế.
Con người làm ra lịch sử, song không phải làm theo ý muốn tùy tiện
của mình, mà là trong những điều kiện có sẵn do quá khứ để lại. Với những
điều kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ, một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của
thế hệ trước trong những hoàn cảnh mới, một mặt tiếp tục các hoạt động mới
của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ. Nếu xét mối quan hệ giữa các thế hệ và
hoàn cảnh sống của con người thì bản thân xã hội sản xuất ra con người như
thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế.
c. Bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Từ quan niệm con người là một thực thể sinh vật – xã hội và con người
là chủ thể của lịch sử, chúng ta nhận thấy rằng, con người vượt lên trên thế
giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ
với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Các mối quan hệ đó suy
cho cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa người với người là
quan hệ bản chất bao trùm lên các quan hệ khác. Chính vì vậy, C. Mác đã
nói: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội”.
Luận điểm của Mác đã khẳng định rằng không có con người trừu
tượng, thoát li mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn
cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời
đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình,
con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả
thể chất lẫn trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội (như quan hệ
kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức, quan hệ dân
tộc, quan hệ gia đình, v.v…) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình.
Như vậy, bản chất của con người được hình thành và biến đổi theo sự
hình thành và biến đổi của các quan hệ xã hội, trong đó quan trọng nhất là
các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế. Khi các quan hệ xã hội đã thay đổi thì dù
sớm hay muộn bản chất của con người cũng thay đổi.
2. Quan điểm về giải phóng con người trong triết học Mác
Đây là vấn đề được quan tâm hàng đầu bởi đây là mục tiêu cơ bản
nhất của cuộc cách mạng vô sản, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao
động và loài người tiến bộ trên toàn thế giới. C. Mác cho rằng, tiền đề đầu
tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân
con người sống và do đó xã hội không thể nào giải phóng cho mình được nếu
không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biết. Điều này cũng được ghi nhận
thành mục tiêu lí tưởng của giai cấp vô sản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản rằng, phải “vĩnh viễn giải phóng toàn thế xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp
bức”.
a. Nội dung quan điểm giải phóng con người trong triết học Mác
Thực sự nội dung giải phóng con người là gì? Triết học Mác xác định:
“bất kì sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người,
những quan hệ của con người về với bản thân con người”; cụ thể, giải phóng
con người là giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa.
Thuật ngữ “tha hóa” được hiểu với nghĩa là sự chuyển hóa sang dạng
tồn tại khác của cùng một bản chất, một giai đoạn tất yếu của quá trình phát
triển.
C. Mác tìm nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa của con người từ “lao
động bị tha hóa”, biểu hiện ở:
1) Lao động bị tha hóa không còn mang bản chất sáng tạo mà trở thành
lao động cưỡng bức
Trong lao động, con người không khẳng định mà lại phủ định chính
mình. Để thể hiện mặt xã hội của mình, có nghĩa để khẳng định mình với tư
cách là một cá nhân xã hội, con người khác con vật ở chỗ có lao động. Lao
động trở thành nhu cầu, mang lại cho con người niềm vui. Nhưng khi lao
động bị tha hóa, tức nó không còn là niềm vui, là hạnh phúc, là nơi con người
thỏa chí sáng tạo, mà con người lao động chỉ vì nhu cầu cuộc sống tối thiểu
hàng ngày, những nhu cầu sinh tồn như ăn, ở v.v… Trong xã hội tư bản trước
đây, con người bị quá trình lao động cưỡng bức ấy vắt kiệt sức lực, làm cho
ốm yếu về thể xác và què quặt về tâm hồn. Trong xã hội hiện đại, với việc áp
dụng khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại, số máy móc thay thế lao
động thủ công của con người ngày càng tăng đồng nghĩa với số người thất
nghiệp càng nhiều, và số người còn lại trong guồng quay lao động thì bị biến
thành một mắt khâu trong cả dây chuyền sản xuất. Thứ lao động như vậy
“ném một bộ phận công nhân trở về với lao động dã man và biến một bộ phận
công nhân khác thành những cái máy”. Vậy nên, con người ghê sợ kiểu lao
động này. “Tính bị tha hóa của lao động biểu hiện rõ rệt ở chỗ là một khi
không còn sự cưỡng bức lao động về thể xác hoặc về mặt khác thì người ta
trốn tránh lao động như trốn tránh bệnh dịch hạch vậy”.
2) Lao động bị tha hóa là lao động mà trong đó tư liệu sản xuất và sản
phẩm làm ra trở thành cái đối lập, chi phối con người
Khi sử dụng tư liệu lao động, con người ở vị trí chủ thể, còn tư liệu lao
động là khách thể. Nhưng vì phải phụ thuộc vào tư liệu đó, bị biến thành một
bộ phận của máy móc đó nên con người bị chính tư liệu sử dụng, con người
chỉ là khách thể của quá trình. Còn tiền công phụ thuộc rất nhiều vào sản
phẩm nên người lao động cũng bị nô dịch bởi chính sản phẩm mình làm ra.
Nó là của chủ sở hữu tư liệu nó xa lạ với người trực tiếp sản xuất, nên nó là
kẻ thống trị xa lạ của người lao động.
3) Nguyên nhân của hiện tượng lao động bị tha hóa là chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất
Lao động bị tha hóa chỉ có thể tồn tại và phát triển trong chế độ sở hữu
tư nhân, mà chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là hình thức cao nhất.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, phần lớn tư liệu sản xuất của xã hội
nằm trong tay một thiểu số người. Ngay cả sức lao động cũng không thuộc
người lao động mà thuộc người khác (nhà tư bản thuê lao động). Người lao
động chỉ có một quyền tự do duy nhất, đó là quyền bán sức lao động của
mình với giá rẻ mạt, chấp nhận sự cưỡng bức lao động. Chính vì vậy, con
đường giải phóng con người là khắc phục sự tha hóa của lao động, xóa bỏ
chế độ sở hữu tư nhân, đặc biệt là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. “Xoá bỏ
một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng định sinh hoạt của
con người là sự xóa bỏ một cách tích cực mọi sự tha hóa”, đó là mục tiêu giải
phóng con người.
b. Quan điểm về phương thức và lực lượng thực hiện việc giải phóng con người
Xuất phát từ quan điểm duy vật về con người, coi bản chất con người
là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, xem xét con người trong mối quan hệ với
tự nhiên và xã hội, triết học Mác – Lênin đã xây dựng học thuyết về một xã
hội tốt đẹp trong tương lai, xã hội có thể tạo điều kiện cần và đủ cho sự
nghiệp giải phóng con người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là xã hội
văn minh, công bằng, trong đó không còn hiện tượng người bóc lột người,
mọi người đều bình đẳng, đều có quyền hưởng tự do, cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, con người được sống theo đúng bản chất của mình, có khả năng phát
triển toàn diện năng lực của mình. C. Mác cho rằng, bất kì sự giải phóng nào
cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con
người về với bản thân con người. Và ông gọi đó là sự “giải phóng chính trị”.
Giải phóng chính trị là sự giải phóng con người khỏi sự khép kín về đẳng cấp,
về địa vị, về vị trí của con người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ
biến của con người, thừa nhận bản tính loài của con người trái với tất cả
những sự khác biệt hiện thực, xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người.
Bằng sự giải phóng chính trị ấy, những sự khác biệt hiện thực, những sự bất
bình đẳng của con người (về sở hữu tư liệu sản xuất, về tôn giáo, dân tộc,
học vấn, v. v…) những sự bất bình đẳng mà trước đây đã biến thành các cơ
cấu trì trệ thì bây giờ phải luôn biến đổi và ngày một được cải thiện.
Từ những quan niệm về sự “giải phóng chính trị”, C. Mác đi đến kết
luận: Một thời đại mới về nguyên tắc trong sự phát triển của con người chỉ có
thể bắt đầu nhờ sự giải phóng con người. Chỉ bằng cách giải phóng con
người chúng ta mới khắc phục được tính phân đôi, tính độc lập giữa nhà
nước chính trị và xã hội công dân, giữa công dân trừu tượng của nhà nước
với các thành viên hiện thực của xã hội công dân, giữa con người với tư cách
một thực thể loài với con người với tư cách cá nhân ích kỉ. Sự giải phóng con
người là con đường, là phương thức thực hiện đúng đắn bản chất loài của
con người. Nhờ sự giải phóng ấy, con người sẽ nhận thức được và tổ chức
hoạt động của mình với tư cách hoạt động xã hội và không còn tách hoạt
động ấy ra khỏi đời sống hiện thực của mình dưới dạng một hoạt động độc
lập.
Nguyên nhân sâu xa của sự phát triển toàn bộ đời sống xã hội là sự
phát triển của lực lượng sản xuất, và sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất là “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” để khắc phục sự tha hóa của con
người. Nếu bất chấp tiền đề này sẽ rơi vào chủ nghĩa cộng sản bình quân
giảm thiểu nhu cầu, dẫn đến sự thiếu thốn phổ biến, và khi đó, con người
không tránh khỏi sa vào ti tiện, kém cỏi như trước đó.
Mối quan hệ giữa việc xóa bỏ chế độ tư hữu với việc khắc phục sự tha
hóa là mối quan hệ hữu cơ, bởi tuy chế độ tư hữu làm cho lao động bị tha
hóa đến tột độ nhưng cũng tạo tiền đề cho việc tước bỏ sự tha hóa đó. Cơ sở
của sự “tha hóa” con người là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất gắn trực tiếp
với chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi thế, xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản, thứ sở
hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động, là tiền đề cơ
bản cho việc xóa bỏ mọi sự “tha hóa” của con người để dẫn đến giải phóng
toàn xã hội. C. Mác cho rằng, sự giải phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân, khỏi
sự nô dịch, trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân, vả lại
vấn đề ở đây không chỉ là sự giải phóng của họ, vì sự giải phóng của họ bao
hàm sự giải phóng của toàn thể loài người.
Như vậy, ngay từ đầu, trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen,
lực lượng xã hội có sứ mệnh thực hiện sự nghiệp giải phóng con người
không ai khác hơn là giai cấp vô sản. Giai cấp này không thể tự giải phóng
mình nếu không tự giải phóng mình khỏi tất cả những lĩnh vực khác của xã
hội. Họ phải tiến hành cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế
độ cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản không xóa bỏ tư hữu nói chung
mà là xóa bỏ tư hữu tư sản, nó vẫn khôi phục sở hữu cá nhân của đông đảo
người lao động đã bị sở hữu tư bản tư nhân phủ định. Chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa phải được hiểu là sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu xã hội
với sở hữu cá nhân, lợi ích xã hội thống nhất với lợi ích cá nhân.
Muốn chủ nghĩa xã hội xóa bỏ sự tha hóa lao động, xã hội phải điều tiết
toàn bộ nền sản xuất, để cho các cá nhân không còn bị lệ thuộc vào thứ lao
động khiến họ không có được tự do thực sự, khiến họ trở nên “phiến diện,
méo mó và bị hạn chế”, và khi đó, lao động biến thành hoạt động tự giác,
thành nhu cầu sống của con người. Trong xã hội tương lai này, lần đầu tiên
con người tổ chức đời sống của mình một cách tự giác, đó là bước nhảy của
con người từ “vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”, con người, cuối
cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình, thì cũng do đó mà làm chủ tự
nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do.
C. Mác và Ph. Ăngghen cũng nêu những tiền đề vật chất cho sự nghiệp
giải phóng con người một cách khoa học rằng, người ta mỗi lần đều giành tự
do chừng nào việc đó không phải do lí tưởng về con người mà do lực lượng
sản xuất hiện hành quyết định và cho phép. Đây không phải là việc làm giản
đơn, chốc lát mà là một quá trình hết sức dài lâu, vô cùng phức tạp, đầy
những thăng trầm, đòi hỏi được thực hiện bằng một cuộc cách mạng với quy
mô và phạm vi toàn thế giới. Cuộc cách mạng này đề ra nhiệm vụ xây dựng
một chế độ xã hội mới phải giải quyết đồng bộ và triệt để những vấn đề phức
tạp: vấn đề đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, vấn đề công
bằng xã hội, vấn đề quyền lực của giới quan chức không được trở thành một
đặc quyền đối lập với quần chúng nhân dân v.v…
Những kiến giải khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen về bản chất con
người và giải phóng con người cho đến nay trong thời đại mới vẫn còn
nguyên giá trị.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
a. Tư tưởng nhân đạo, bác ái của văn hóa phương Đông và phương Tây kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản
Hồ Chí Minh thấy được nét tương đồng của các tôn giáo lớn: Thiên
Chúa giáo có lòng bác ái khoan dung, Phật giáo có tinh thần từ bi, cứu khổ
cứu nạn, Nho giáo luôn răn dạy tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Hồ Chí Minh cũng tiếp thu có chọn lọc quan điểm nhân văn trong hệ tư
tưởng tư sản, với những mục tiêu tự do, bình đẳng, bác ái, công bằng xã hội,
vấn đề nhân quyền v.v… Nhưng đằng sau những khái niệm ấy, Hồ Chí Minh
nhận ra sự giả dối, lừa bịp của bọn thực dân, và sau khi giành được chính
quyền, giai cấp tư sản thường phản bội lại những tư tưởng tốt đẹp đó.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn
trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Nó chỉ rõ nguồn gốc sự đau khổ của con
người, con đường giải phóng, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn cho
con người.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng của chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản, kết hợp với truyền thống nhân ái của dân tộc, nâng tư tưởng nhân văn
lên tầm cao mới, mở ra một giai đoạn mới của truyền thống nhân văn Việt
Nam.
b. Sự tiếp thu các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam như
tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau “lá lành đùm lá
rách”, “thương người như thể thương thân”; truyền thống uống nước nhớ
nguồn, thủy chung, sự tôn kính đối với ông bà tổ tiên, những vị anh hùng xả
thân vì dân tộc; yêu hòa bình, chuộng hòa hiếu với các nước láng giềng.
Người chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống đạo đức gia đình theo tư
tưởng nhân đạo của Nho giáo. Đó là những cơ sở thực tiễn vô cùng quan
trọng cho việc hình thành tư tưởng nhân đạo của Hồ Chí Minh.
2. Khái niệm “con người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Về thái độ đối với con người
Xuất phát từ tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về
con người, Hồ Chí Minh đã nhắc đến những quyền tối thượng của con người
ngay ở những dòng đầu tiên trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Người cũng xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội
phức tạp, đa dạng, gắn bó với các điều kiện lịch sử nhất định. Con người chỉ
tồn tại trong một cộng đồng xác định: gia đình, giai cấp, dân tộc v.v… Theo
Hồ Chí Minh, chữ “người”, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn,
nghĩa rộng là đồng bào cả nước, rộng nữa là cả loài người. Hồ Chí Minh nhìn
con người theo quan điểm biện chứng rằng, trong xã hội có thiện và cũng có
ác. Theo nghĩa rộng thì cả thế giới và trong một nước có thiện và có ác. Theo
nghĩa hẹp thì trong bản thân và tư tưởng của mỗi người cũng có thiện và có
ác. Hồ Chí Minh nâng lên ở tầm mới về cái thiện và cái ác trong con người:
trong đầu óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, hoặc nói
theo cách mới, là sự đấu tranh giữa tư tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân.
Hồ Chí Minh thương yêu, quý trọng (nhất là đối với người già và trẻ
em), tin tưởng vào những khả năng của con người, nâng niu những tài năng,
nghiêm khắc với những thói hư tật xấu, song cũng nhất mực độ lượng bao
dung với những người trót lầm đường lạc lối, với những người mắc khuyết
điểm; luôn mong muốn và tranh đấu cho hòa bình, chống chiến tranh để con
người có một cuộc sống hạnh phúc. Hồ Chí Minh cho rằng, nhân nghĩa là
nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới,
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân.
b. Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động
Hồ Chí Minh khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng. Làm cách mạng là để giải phóng con người một cách toàn
diện, về chính trị (con người được quyền tự do, có quyền công dân), về kinh
tế (có cuộc sống ngày càng no ấm, sung túc), về văn hóa (được học hành, vui
chơi giải trí, hưởng thụ các giá trị văn hóa v.v…). Điều trăn trở lớn trong suốt
cuộc đời của Hồ Chí Minh là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành. Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ mong giải phóng con người
khỏi ách nô lệ mà còn hướng tới mục tiêu giai phóng con người khỏi nghèo
nàn, lạc hậu. Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh nhắc tới
khá nhiều lần, nhưng Người không nói đến những điều cao xa mà thường
chủ yếu nhìn mạnh đến việc chăm lo đời sống của con người. Theo Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một
đời hạnh phúc. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử. Người chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vì đó
chính là động lực cho cách mạng, nguyên nhân của mọi thắng lợi. Tư tưởng
“lấy dân làm gốc” được Hồ Chí Minh quán triệt rất rõ, là sự nối tiếp truyền
thống “dân vi bản” trong lịch sử Việt Nam, là tư tưởng chỉ đạo chiến lược
xuyên suốt cả quá trình cách mạng. Người nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Sự nghiệp giải phóng con
người thực chất là giải phóng nhân dân lao động, giải phóng dân tộc.
c. Về phát triển con người toàn diện
Đối với Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng xã hội cũng đồng nghĩa với
cách mạng con người. Người đặt tất cả tâm huyết của mình vào việc xây
dựng con người mới. Muốn con người phát triển toàn diện, cần bồi dưỡng,
tạo điều kiện cho họ phát huy mặt tốt đẹp, tích cực, thực hiện công bằng xã
hội. Chú ý tạo môi trường dân chủ để con người phát triển hết những năng
lực tiềm ẩn của mình. Hồ Chí Minh nêu các tiêu chuẩn rất chi tiết cho từng đối
tượng như: nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, giáo viên, học sinh, công
an, quân đội nhân dân.
Hồ Chí Minh thường gắn khái niệm con người, nhiệm vụ phát triển con
người toàn diện với nhiệm vụ xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Trong dịp chỉnh huấn đầu xuân 1961, Người chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Lời dạy đó bao
hàm hai nghĩa chính là con người luôn là chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp
cách mạng, và do đó, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động
tự giác của con người; và con người Việt Nam tự cải tạo mình thành con
người xã hội chủ nghĩa. Đó là con người có cả đức lẫn tài, phải vừa hồng vừa
chuyên. Những phẩm chất cơ bản của đạo đức mới đã được Hồ Chí Minh
nhiều lần nhắc tới, tùy thuộc từng đối tượng, nhưng cơ bản là trung với nước,
hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Còn tài là năng lực làm
việc, là trình độ học vấn, khoa học, lí luận. Hồ Chí Minh cũng nêu mối quan hệ
mật thiết giữa đức và tài thông qua hình ảnh người có đức mà không có tài
giống như ông Phật ngồi trong chùa, tốt nhưng không làm được gì giúp ích
cho xã hội, còn người có tài mà không có đức thì cũng là người vô dụng.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh vai trò của giáo dục và tự giáo dục, trong
đó tự giáo dục sẽ theo suốt cuộc đời mỗi người, đòi hỏi con người dù ở đâu,
trong lĩnh vực hoàn cảnh nào cũng biết tự hoàn thiện mình, tự giác vươn lên.
Những phẩm chất do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và
củng cố. Hồ Chí Minh gọi đó là cuộc cách mạng trong bản thân mình, cuộc
cách mạng ấy còn cam go hơn và có mối quan hệ khăng khít với cuộc cách
mạng ngoài xã hội. Với tinh thần học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cuộc sống, chúng ta xem xét vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay.
IV. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY1. Con người Việt Nam trong lịch sử
a. Điều kiện hình thành con người Việt Nam
Việt Nam nằm ở đông nam Châu Á, có địa hình phong phú, khí hậu
nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, hệ thống sông ngòi dày đặc, vừa là
điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, vừa gây khó
khăn trong việc phòng chống thiên tai. Đất chật, người đông, tâm lí tiểu nông
sản xuất nhỏ ăn sâu vào lối sống người Việt. Cộng đồng làng xã được hình
thành từ lâu đời, với những truyền thống về một nền dân chủ làng xã, sự gắn
kết chặt chẽ trong cuộc chiến chống thiên tai khiến người Việt nổi tiếng về sự
đoàn kết, chăm chỉ, cần cù và khéo léo…
Dân tộc Việt Nam có truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời, con
người được tôi luyện và trưởng thành qua nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt.
Do phải bảo vệ đất nước và sự tồn vong của chính mình, người Việt có truyền
thống yêu nước chống giặc ngoại xâm.
b. Mặt tích cực của con người Việt nam
Điều kiện tự nhiên và kinh tế, lịch sử đặc biệt như vậy đã tôi luyện cho
người Việt một ý chí kiên cường, một sức sống mãnh liệt.
Người Việt Nam có tinh thần đấu tranh, chiến đấu dũng cảm chống
thiên tai và địch họa, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo. Khó khăn, nguy
hiểm không làm nhụt chí (chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo; dù ai nói ngả
nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân); trong gian khó ấy lại mưu
trí tìm cách giải quyết (cái khó ló cái khôn); có triết lí sống linh hoạt, mềm dẻo
(ở bầu thì tròn, ở ống thì dài); thông minh, sắc sảo; lạc quan, yêu đời… là
những phẩm chất tích cực của con người Việt Nam trong lịch sử và được
phát huy trong suốt quá trình phát triển của dân tộc.
Hồ Chí Minh đã đúc kết lòng yêu nước thành một truyền thống quý báu
của con người Việt Nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tư
tưởng yêu nước được thể hiện qua những nhận thức về dân tộc và dân tộc
độc lập, ý thức về sự ngang hàng của mình so với phương Bắc, lí luận về
nguồn gốc và động lực của cuộc chiến tranh giữ nước, những bài học kinh
nghiệm xương máu (lấy dân làm gốc, coi trọng sức mạnh cộng đồng), tinh
thần xả thân vì dân tộc.
Trong cuộc sống, con người Việt Nam rất coi trọng “đạo làm người”.
Tuy ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo, “đạo làm người” của
người Việt vẫn có những nét riêng độc đáo. Cũng là chữ “Nhân” của Nho giáo
nhưng trong tâm thức người Việt, nó không chỉ dành cho người quân tử, mà
đã mở rộng thành chủ nghĩa nhân đạo trong cả nước, yêu thương con người,
tôn trọng con người, quý trọng hiền tài, cùng chia bùi sẻ ngọt, có tinh thần
tương thân tương ái, vị tha, bao dung.
Đạo lí uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây v.v… luôn được
nhắc đến trong tâm thức và cách đối nhân xử thế của người Việt. Dù cho
hoàn cảnh ngặt nghèo, con người Việt Nam bao giờ cũng lựa chọn giữ gìn
phẩm chất, giữ “đạo làm người”.
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII
của Đảng có tổng kết những phẩm chất tốt đẹp của người Việt; đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lí; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tinh tế trong
ứng xử, giản dị trong lối sống. Phát huy những truyền thống tốt đẹp ấy, người
Việt hoàn toàn có quyền tự hào về dân tộc mình trên con đường hội nhập
hiện nay.
c. Mặt hạn chế của con người Việt Nam
Việt Nam vốn là một nước nhỏ yếu, nằm trong quần thể văn hóa
phương Đông, chịu nhiều ảnh hưởng của Nho – Phật – Lão, lại bị đô hộ nhiều
nên trong tư tưởng cũng có những hạn chế nhất định. Cần thấy một đặc điểm
nổi bật ở nước ta là một nước nông nghiệp với thói quen canh tác lạc hậu,
việc sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào thiên nhiên, nên nhiều khi còn
có tâm lí trông chờ thời tiết mưa thuận gió hòa. Khi được mùa cũng không
dám khẳng định đó là công lao nhọc nhằn của bản thân mà cho đó là do sự
ban ơn của trời.
Con người Việt Nam còn có tính bảo thủ, có những thói quen của nền
sản xuất nhỏ, tiểu nông manh mún v.v… luôn là những lực cản đối với bước
tiến chung.
Với tập quán canh tác tiểu nông lâu đời, với một xã hội nông nghiệp và
nông thôn chiếm tỉ trọng lớn, người Việt Nam chưa dễ dàng thích nghi với lối
sống công nghiệp, với quan niệm đạo đức của xã hội công nghiệp và với
chuẩn giá trị xã hội mới theo tiêu chí công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự chậm
chạp trong cách sống và cách nghĩ vẫn còn ngự trị trong tâm lí của đa số
người dân. Sản xuất với quy mô gia đình, cá thể nhỏ hẹp cho thấy khả năng
hạch toán kinh tế chưa cao, năng lực quản lí hạn chế, tâm lí an phận, đề cao
kinh nghiệm v.v… đều làm chậm tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Việt Nam hiện nay.
2. Vấn đề con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
a. Những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam hiện nay
Cách mạng Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh chung của thế giới bước
vào thiên niên kỉ thứ ba, phải đối mặt với nhiều vấn đề mới, đòi hỏi việc xây
dựng con người mới phải có những nhiệm vụ phù hợp. Trên thế giới, cục diện
chính trị từ khi Liên Xô tan rã đã thay đổi đáng kể. Đấu tranh giai cấp trong
tình hình thế giới mới diễn biến hết sức phức tạp. Những vấn đề lớn như hội
nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc dân tộc; vấn đề bảo vệ hòa bình, chống
chiến tranh, chống khủng bố, giải quyết xung đột dân tộc, sắc tộc, đi kèm với
nó là vấn đề “giải lãnh thổ” của nhiều quốc gia; vấn đề phát triển khoa học và
công nghệ; vấn đề bảo vệ sức khoẻ con người khỏi các dịch bệnh kì lạ và
nguy hiểm; vấn đề bảo vệ môi trường, giải quyết đói nghèo, tình trạng thiếu
lương thực; vấn đề khủng hoảng định hướng giá trị, v.v… đòi hỏi sự hợp tác,
chung tay giải quyết của nhiều quốc gia. Đây cũng là lí do để cho xu thế hòa
bình, hợp tác và cùng phát triển là xu hướng chính của thời đại. Theo xu
hướng đó, Việt Nam cũng tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế. Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho Việt Nam những
thành tựu đáng kể: tình hình chính trị – xã hội ổn định; Việt Nam là thành viên
chính thức của WTO v.v… Có thể nói, vị thế của Việt Nam được tăng cường
và củng cố trên trường quốc tế và trong khu vực.
Đó là những dấu hiệu đáng mừng khuyến khích con người Việt Nam
phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực. Song, cũng phải thấy rằng nhiệm vụ của
chúng ta rất nặng nề, thách thức đối với chúng ta là rất lớn. Việt Nam vẫn còn
là nước có nền kinh tế lạc hậu, thu nhập bình quân thấp. Nếu tính theo chỉ số
phát triển con người HDI (Human Development Index) gần đây nhất (9/2007)
thì Việt Nam được xếp ở ngưỡng trung bình (từ 0,5 đến 0,8 so với chỉ số cao
nhất là 1). Trong thứ tự 177 nước tham gia xếp hạng, chúng ta đứng thứ 109.
Liên hợp quốc đánh giá sự nghiệp xóa đói giảm nghèo của Việt Nam là nhanh
chóng và ngoạn mục. Tuy vậy, tỉ lệ hộ nghèo và người nghèo trong xã hội vẫn
còn cao; và khoảng cách mức sống của người dân thường Việt Nam so với
những người nghèo cũng không xa nhiều lắm. Bên cạnh đó, tình trạng tham
nhũng, tệ quan liêu, bệnh hình thức và suy thoái đạo đức trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đã khiến cho quần chúng nhân dân hết sức bất
bình.
b. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đảng ta đã xác định xây
dựng con người phát triển toàn diện cả đức và tài, nắm trong tay các tri thức
mới, đặc biệt trên lĩnh vực khoa học và công nghệ, năng động phát huy nội
lực, có lập trường tư tưởng vững vàng, không xa rời lí tưởng chủ nghĩa xã
hội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV chỉ rõ,
con người mới Việt Nam là con người “kết tinh và phát triển những gì cao đẹp
nhất trong tâm hồn và cốt cách Việt Nam hun đúc qua bốn nghìn năm lịch sử”.
Báo cáo chính trị nêu rõ: “Con người mới là con người có tư tưởng đúng và
tình cảm đẹp, có tri thức, có thể lực, để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên,
làm chủ bản thân. Con người mới là con người lao động với tinh thần tự giác
cao, với đầy đủ nhiệt tình cách mạng, trung thực, thật thà, quý trọng và bảo
vệ của công, lao động có kỉ luật, có kĩ thuật, có sáng tạo và đạt năng suất
cao. Con người mới là con người có lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng
nàn, kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng. Con
người mới là con người có tình thương yêu sâu sắc đối với nhân dân lao
động, biết đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động, chiến đấu và
xây dựng cuộc sống mới. Con người mới là con người phát triển toàn diện, có
cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Tri thức giỏi, tư
tưởng đúng, tình cảm đẹp có mối quan hệ rất biện chứng với nhau: tri thức
giỏi ngày càng củng cố tư tưởng đúng, bồi đắp tình cảm đẹp; có tư tưởng
đúng, tình cảm đẹp lại càng hướng tri thức không ngừng được nâng cao vào
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mối quan hệ biện chứng này mang nội
dung nhân đạo sâu sắc, nhằm tạo điều kiện cho con người phát huy hết khả
năng của mình vào sự nghiệp chung. “Việc xây dựng con người mới phải
được tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên trì, bền bỉ”, là “một công việc rất
công phu”, “một khoa học tổng hợp và một nghệ thuật tinh tế nhất”. Nó đòi hỏi
chúng ta phải có những nhận thức đúng về con người, hiểu biết thực sự từng
cá nhân và lựa chọn những phương thức, biện pháp tiến hành phù hợp, sáng
tạo. Việc xây dựng con người mới theo những tiêu chí trên cho tới nay vẫn
giữ nguyên giá trị của nó.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) được coi là Đại hội của
đổi mới, trong đó đặc biệt đề cao nhân tố con người, lấy việc phục vụ con
người làm mục đích cao nhất, lấy sự quan tâm đến con người và thái độ đối
với nhân dân là một tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ. Trong các phẩm chất của
con người, Đại hội nhấn mạnh sức sáng tạo, tài năng, nhiệt tình, năng suất
lao động, trật tự kỉ cương, quyền công dân, tính cộng đồng, tính đa dạng, bản
sắc dân tộc độc đáo. Đường lối đổi mới cũng nảy sinh những vấn đề nóng
bỏng như vấn đề thang giá trị, vấn đề đánh giá tư tưởng, nhân cách.
Hội nghị lần thứ mười, khóa IX nhấn mạnh xây dựng con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay là xây dựng con người theo những tiêu chí sau:
1) Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2) Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống
lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, tôn trọng kỉ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh
thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
3) Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mĩ và thể lực. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã chỉ rõ “Nguồn lực con người là quý
báu nhất”. Điều này cũng thống nhất với quan điểm đầy tính nhân văn của
Liên hợp quốc là, của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc
gia đó, và mục đích phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép
con người được hưởng cuộc sống dài lâu, khỏe mạnh, sáng tạo. Chân lí giản
đơn nhưng đầy sức mạnh này cũng thường bị người ta quên mất trong lúc
theo đuổi của cải vật chất và tài chính. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri
thức, trong bối cảnh nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn, thử
thách hiện nay, vấn đề phát huy nguồn lực con người cũng chính là phát huy
nội lực của mỗi một cá nhân và của toàn dân tộc.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Quan niệm của các nhà triết học trước C. Mác về nguồn gốc và bản
chất con người?
2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất con
người? So sánh với các quan điểm trước Mác?
3. Vấn đề giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh?
4. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện nhìn từ góc độ
triết học?
CÂU HỎI XÊMINA
1. So sánh một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử.
2. Nêu tính nhân văn của triết học Mác khi giải quyết vấn đề con người.
3. Quan điểm về con người của Hồ Chí Minh.
4. Quán triệt nguyên tắc nhân văn trong thực tiễn xây dựng con người
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Khánh Bật. Những bài giảng về môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học). NXB Lí luận
Chính trị, Hà Nội, 2006.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Triết học tập 1, 2, 3 (dùng cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2001.
4. Phạm Như Cương (Chủ biên). Về vấn đềxây dựng con người mới.
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.
5. Thành Duy. Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI. NXB Sự thật, Hà Nội, 1987.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. NXB Sự thật, Hà nội, 1991.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII. NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
12. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1,
4, 5, 6, 8, 9, 10, 12.
13. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn khoa học Mác – Lênin, tư tương Hồ Chí Minh. Giáo trình Triết học Mác –
Lênin. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
14. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các
môn Khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2002.
15. Bùi Bá Linh. Quan niệm của Mác - Ăngghen về con người và sự
nghiệp giải phóng con người. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
16. V.I. Lênin. Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 1, 18, 29,
33, 39.
17. C. Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004, tập 1 2, 3, 4, 1 3, 1 9, 20, 2 1, 23, 27, 28, 34, 42.
18. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên). Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong sự phát triển xã hội. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000.
19. Kỉ yếu Hội nghị khoa học Quốc tế. Nghiên cứu con người, giáo dục,
phát triển và thế kỉ XXI, Hà Nội, 27–29/7/1994.
20. Đỗ Tư, Trịnh Quốc Tuấn. Lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội thịt
nghĩa và cộng sản thủ nghĩa. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
21. Trần Phúc Thăng. Giai cấp và đấu tranh giai lấp – Một số vấn đề lí
luận và thực tiễn. NXB Lí luận Chính trị, Hà Nội, 2005.
MỤC LỤCChuyên đề 1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng – cơ sở lí luận của thế giới quan khoa học
I. Thế giới quan và thế giới quan khoa học
II. Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là
hạt nhân lí luận của thế giới quan khoa học
III. Những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và việc vận dụng vào cách mạng Việt Nam hiện nay
Câu hỏi ôn tập
Câu hỏi xêmina
Chuyên đề 2. Phép biện chứng duy vật – phương pháp luận nhận thức khoa học và thực tiễn
I. Khái quát lịch sử phép biện chứng và nội dung cơ bản của phép biện
chứng duy vật
II. Phương pháp và phương luận. Một số nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản của phép biện chứng duy vật
Câu hỏi ôn tập
Câu hỏi xêmina
Chuyên đề 3. Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin
I. Khái niệm thực tiễn và lí luận
II. Sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn
III. Ý nghĩa phương pháp luận của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lí luân và thực tiễn trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta
Câu hỏi ôn tập
Câu hỏi xêmina
Chuyên đề 4. Lí luận hình thái kinh tế – xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
I. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lí luận hình thái kinh tế – xã hội
II. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
Câu hỏi ôn tập
Câu hỏi xêmina
Chuyên đề 5. Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
I. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
II. Quan hệ giai cấp với dân tộc và nhân loại trong thời đại ngày nay.
Câu hỏi ôn tập
Câu hỏi xêmina
Chuyên đề 6. Lí luận về nhà nước và nhà nước pháp quyển xã hội chủ nghĩa Việt Nam
I. Những nội dung cơ bản của lí luận về nhà nước
II. Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Câu hỏi ôn tập
Câu hỏi xêmina
Chuyên đề 7. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay
I. Một số quan điểm triết học trước Mác về con người
II. Quan điểm triết học Mác– Lênin về con người.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người
IV. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay
Câu hỏi ôn tập
Câu hỏi xêmina
Tài liệu tham khảo
–––//–––
CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC
(Dùng cho học viên Cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành Triết học)
(In lần thứ hai)
Đồng chủ biên:
TRẦN ĐĂNG SINH – LÊ VĂN ĐOÁN
Tập thể tác giả:
PGS.TS. HÀ NGUYÊN CÁT: Chuyên đề 1
TS. NGUYỄN THÁI SƠN: Chuyên đề 2, 4
PGS.TS.TRẦN ĐĂNG SINH: Chuyên đề 3
PGS.TS. LÊ VĂN ĐOÁN: Chuyên đề 5
TS. NGUYÊN VĂN LONG: Chuyên đề 6
TS. TRẦN THỊ NGỌC ANH: Chuyên đề 7
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập ĐINH VĂN VANG
Người nhận xét:
PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN – PGS.TS. NGUYỄN ĐÌNH TƯỜNG
Biên tập nội dung: ĐẶNG MINH THÚY
Kĩ thuật vi tính: ĐÀO PHƯƠNG DUYẾN
Trình bày bìa: PHẠM VIỆT QUANG
Mã số: 01.01.721/1185.ĐH 2010
In 1000 cuốn, khổ 17 x 24 cm, tại Công ty TNHH In Thanh Bình. Giấy ĐKXB
số: 77–2010/CXB/721–02/ĐHSP, ngày 15/01/2010. In xong nộp lưu chiểu
tháng 11 năm 2010.