ca chinh

7
35 TP CHÍ KHOA HC, Đại hc Huế, S49, 2008 DN LIU VCÁC LOÀI CÁ CHÌNH (ANGUILLA) LƯU VC SÔNG BA Hoàng Đức Đạt, Vin Sinh hc Nhit đới ti TP HChí Minh Nguyn Minh Ty, NCS. Đại hc Huế TÓM TT lưu vc sông Ba có 3 loài cá Chình: Chình Hoa (Anguilla marmorata), Chình Nhn (A. malgumora), Chình Mun (A. bicolor bicolor). Cá Chình Hoa có slượng nhiu (trên 95% sn lượng cá chình khai thác), phân brng tvùng thượng lưu đến hlưu; hai loi chình nhn và chình mun có slượng rt ít. Cá chình gương (glass ell) xut hin ca sông, hlưu, di cư ngược dòng lên trung, thượng lưu, vào các phlưu, khe sui, các ao htnhiên và hcha sinh sng. Trong mùa mưa lũ, cá chình trưởng thành di cư xuôi dòng vhlưu, ra bin phát dc, sinh sn. I. Đặt vn đề Sông Ba là con sông ln nht các tnh Nam Trung B, dài 388 km, vi din tích lưu vc 13.800 km 2 bt ngun tdãy Ngc Rô tnh KonTum cao trên 1.500 m, chy qua các tnh Gia Lai, Đắc Lc (chcó các phlưu), Phú Yên và đổ nước ra bin Đông ca Đà Giang thuc tnh Phú Yên. Sông Ba có ngun tài nguyên thiên nhiên đa dng, phong phú, có vai trò quan trng trong phát trin kinh tế xã hi ca các tnh trong lưu vc ca nó. Khu hcá Sông Ba đa dng, phong phú có nhiu loài có giá trkhoa hc, kinh tế sông Ba. Tuy nhiên, trong nhng năm gn đây các loài cá chình đang chu nhiu tác động bt li ca các hot động kinh tế trong lưu vc sông Ba: chn dòng sông chính, các phlưu để xây dng các công trình thy li, thy đin ngăn cn sdi cư ca cá, khai thác quá mc... Do vy, vic nghiên cu thành phn loài, phân b, di cư, tình hình khai thác các loài cá chình lưu vc sông Ba, xem xét nhng tác động bt li và đề xut mt sgii pháp bo v, duy trì và phát trin bn vng ngun li cá chình đây đã trnên cp thiết. II. Phương pháp nghiên cu Chúng tôi đã tiến hành điu tra, nghiên cu và thu thp mu ti 15 đim trên sông Ba và các phlưu ca nó tthượng ngun đến hlưu thuc các tnh Kon Tom, Gia Lai, Đắc Lc, Phú Yên vi 8 đợt kho sát trong mùa khô và mùa mưa ttháng 11 năm 2005 đến tháng 11 năm 2007. Thu mu nghiên cu bng cách cùng ngư dân đánh bt cá vi các ngư ckhác nhau: đăng đáy, bi (chà, bò), vt, câu... Tư liu nghiên cu chyếu là các mu vt thu thp được, tư liu thu thp tcác quan sát trc tiếp vùng nghiên cu và trong phòng thí nghim. Ngoài ra còn sdng ngun tư liu thông qua

Upload: buu-dang

Post on 22-Jun-2015

710 views

Category:

Business


8 download

DESCRIPTION

Dan lieu ve cac loai ca chinh

TRANSCRIPT

Page 1: Ca chinh

35

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 49, 2008

DẪN LIỆU VỀ CÁC LOÀI CÁ CHÌNH (ANGUILLA) Ở LƯU VỰC SÔNG BA

Hoàng Đức Đạt, Viện Sinh học Nhiệt đới tại TP Hồ Chí Minh

Nguyễn Minh Ty, NCS. Đại học Huế

TÓM TẮT

Ở lưu vực sông Ba có 3 loài cá Chình: Chình Hoa (Anguilla marmorata), Chình Nhọn

(A. malgumora), Chình Mun (A. bicolor bicolor). Cá Chình Hoa có số lượng nhiều (trên 95%

sản lượng cá chình khai thác), phân bố rộng từ vùng thượng lưu đến hạ lưu; hai loại chình

nhọn và chình mun có số lượng rất ít. Cá chình gương (glass ell) xuất hiện ở cửa sông, hạ lưu,

di cư ngược dòng lên trung, thượng lưu, vào các phụ lưu, khe suối, các ao hồ tự nhiên và hồ

chứa sinh sống. Trong mùa mưa lũ, cá chình trưởng thành di cư xuôi dòng về hạ lưu, ra biển

phát dục, sinh sản.

I. Đặt vấn đề

Sông Ba là con sông lớn nhất các tỉnh Nam Trung Bộ, dài 388 km, với diện tích

lưu vực 13.800 km2 bắt nguồn từ dãy Ngọc Rô tỉnh KonTum cao trên 1.500 m, chảy qua

các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc (chỉ có các phụ lưu), Phú Yên và đổ nước ra biển Đông ở cửa

Đà Giang thuộc tỉnh Phú Yên. Sông Ba có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong

phú, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh trong lưu vực của

nó. Khu hệ cá Sông Ba đa dạng, phong phú có nhiều loài có giá trị khoa học, kinh tế ở

sông Ba. Tuy nhiên, trong những năm gần đây các loài cá chình đang chịu nhiều tác

động bất lợi của các hoạt động kinh tế trong lưu vực sông Ba: chắn dòng sông chính,

các phụ lưu để xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện ngăn cản sự di cư của cá,

khai thác quá mức... Do vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, phân bố, di cư, tình hình

khai thác các loài cá chình ở lưu vực sông Ba, xem xét những tác động bất lợi và đề

xuất một số giải pháp bảo vệ, duy trì và phát triển bền vững nguồn lợi cá chình ở đây đã

trở nên cấp thiết.

II. Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi đã tiến hành điều tra, nghiên cứu và thu thập mẫu tại 15 điểm trên

sông Ba và các phụ lưu của nó từ thượng nguồn đến hạ lưu thuộc các tỉnh Kon Tom,

Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Yên với 8 đợt khảo sát trong mùa khô và mùa mưa từ tháng 11

năm 2005 đến tháng 11 năm 2007. Thu mẫu nghiên cứu bằng cách cùng ngư dân đánh

bắt cá với các ngư cụ khác nhau: đăng đáy, bỗi (chà, bò), vợt, câu... Tư liệu nghiên cứu

chủ yếu là các mẫu vật thu thập được, tư liệu thu thập từ các quan sát trực tiếp ở vùng

nghiên cứu và trong phòng thí nghiệm. Ngoài ra còn sử dụng nguồn tư liệu thông qua

Page 2: Ca chinh

36

điều tra, thu thập ở các cơ quan liên quan, phỏng vấn ngư dân và những người buôn bán

cá chình trong vùng. Các mẫu cá thu được chụp hình, mô tả hình dạng, màu sắc trước

lúc định hình và bảo quản trong dung dịch formalin 5 - 8% để phân tích xác định thành

phần loài. Mẫu vật nghiên cứu được lưu giữ ở phòng tiêu bản động vật, Viện Sinh học

Nhiệt đới tại thành phố Hồ Chí Minh.

III. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

3.1. Thành phần loài

Từ các mẫu vật thu thập, chúng tôi đã xác định được ở sông Ba và các phụ lưu

của nó có 3 loài cá chình thuộc giống Anguilla, họ cá chình Anguillidae, bộ cá chình

Anguilliformes:

Bảng 1: Các loài cá chình ở lưu vực sông Ba

STT Tên khoa học Tên tiếng Việt (và địa phương)

1 Anguilla marmorata

(Quoy & Gaimard, 1824)

Chình hoa, (chình bông, chình tràu, chình

cNm thạch)

2 Anguilla bicolor bicolor

(MeClelland, 1844) Chình mun (chình nhốt, chình trê)

3 Anguilla malgumora (Kaup, 1856) Chình nhọn

Khoá định loại các loài cá chình:

1 (4) Khởi điểm vây lưng nằm gần đầu hơn khởi điểm vây hậu môn nhiều

2 (3) Cơ thể có chấm hoa rải rác, khoảng cách từ gốc vây lưng đến gốc vây hậu

môn tối thiểu bằng 2/3 chiều dài đầu A. marmorata

3 (2) Cơ thể không có chấm hoa, khoảng cách giữa khởi điểm vây lưng và khởi

điểm vây hậu môn bằng chiều dài đầu A. malgumora

4 (1) Khởi điểm vây lưng nằm đối diện hoặc gần đối diện với khởi điểm vây hậu

môn A. bicolor bicolor

Mô tả:

1. Loài cá chình hoa Anguilla marmorata Quoy & Gaimard, 1824

Synonym: Anguilla mauritiana Bennett, 1856; Anguilla johannae Gunther,

1867.

Số mẫu nghiên cứu: 150 cá thể có chiều dài L (ab) từ 50 mm đến 850 mm.

Thân hình trụ hơi tròn, dạng rắn, có phủ vảy rất nhỏ vùi dưới da. Miệng to, khe

miệng kéo đến ngang rìa sau mắt. Khe mang thẳng góc với trục thân. Có đường bên.

Các vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi dính liền nhau. Cá có màu xám tro ở mặt lưng

có vân chấm hoa, vàng nhạt ở mặt bụng, vây lưng màu sẫm. Rìa vây lưng, vây hậu môn

cùng với vây đuôi có màu đen.

Page 3: Ca chinh

37

2. Loài cá chình mun. Anguilla bicolor bicolor MeClelland, 1844

Synonym: Muraena macrocephala Rappm 1849; Anguilla mowa Bleeker, 1853;

Anguilla bleekeri Kaup, 1856; Anguilla amblodon Günther, 1867; Anguilla spengeli

Weber, 1912.

Số mẫu nghiên cứu: 12 cá thể có chiều dài L (ab) từ 185 mm đến 600 mm.

Thân hình trụ hơi tròn, dạng rắn. Có vảy rất nhỏ vùi dưới da. Miệng to, khe

miệng kéo đến ngang rìa sau mắt. Khe mang thẳng góc với trục thân. Có đường bên.

Các vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi dính liền nhau. Cá có màu xám tro ở phía lưng,

trắng ngả vàng ở phía bụng. Ranh giới giữa hai màu phía lưng và phía bụng rõ ràng.

Vây lưng màu xám, vây hậu môn sáng ở phía trước, sẫm màu ở phía sau.

3. Loài cá chình nhọn. Anguilla malgumora Kaup, 1856

Synonym: Anguilla borneensis Popta, 1924.

Số mẫu nghiên cứu: 6 cá thể có chiều dài L (ab) từ 200 mm đến 450 mm.

Thân hình trụ hơi tròn, dạng rắn. Có vảy rất nhỏ vùi dưới da. Miệng to, khe

miệng kéo đến ngang rìa sau mắt. Khe mang thẳng góc với trục thân. Có đường bên.

Các vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi dính liền nhau. Cá có màu xám mặt lưng, vàng

nhạt ở mặt bụng. Không có vân chấm hoa. Vây lưng màu sẫm. Phía trước vây hậu môn

màu sáng. Rìa vây lưng, vây hậu môn có màu đen.

3.1. Phân bố, di cư

Kết quả khảo sát cho thấy loài cá chình hoa (A. marmorata) phân bố rộng khắp

từ hạ lưu đến thượng lưu ở dòng chính cũng như ở các phụ lưu, các hồ tự nhiên, hồ chứa

có liên hệ với sông chính hoặc các phụ lưu và gặp quanh năm với số lượng nhiều. Loài

cá chình mun (A. bicorlor bicolor) chỉ gặp ở vùng hạ lưu, chủ yếu trong mùa mưa, số

lượng rất ít. Loài cá chình nhọn (A. malgumora) gặp chủ yếu trong các tháng mùa khô

và nửa cuối mùa mưa ở hạ lưu, thượng lưu, số lượng rất ít (Bảng 2).

Bảng 2: Sự phân bố của 3 loài cá Chình trên sông chính và các phụ lưu của sông Ba

TT Tên khoa

học

Tên Việt Nam

Vùng phân bố (trạm thu mẫu)*

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

1 Anguilla

malgumora

Chình

nhọn ++ + + - - - - - + + - - - +

2 Anguilla

marmorata

Chình

hoa + +++ +++ ++ ++ ++ + ++ + + + + + + ++

3

anguilla

bicolor

bicolor

Chình

mun - + + + - + - - - - - - - - -

(Từ 1 đến 15 là các trạm thu mẫu từ cửa sông đến đầu nguồn của dòng chính và các

phụ lưu).

Page 4: Ca chinh

38

Ghi chú: 1: Tuy Hòa; 2: Hòa Định; 3: Đồng Cam; 4: Sơn Hà; 5: Sơn Hòa; 6: Crông

Pa; 7: Azun Pa; 8: Chư Sê, 9: Phú Thiện; 10: An Khê; 11: Kbang; 12: Kong Chro; 13: Krông

Năng; 14: Ea Dăng; 15: Kông Plông

(- ): Không xuất hiện; (+): Xuất hiện ít; (++): Xuất hiện nhiều; (+++): Xuất hiện rất nhiều.

Cá chình gương, chình trắng (glass ell) - giai đoạn sau khi kết thúc biến thái dạng

lá liễu (leptocephali) chuyển thành dạng hình trụ, có chiều dài từ 45 mm đến 60 mm,

trong suốt, chưa xuất hiện sắc tố trên thân gặp ở vùng cửa sông, bắt đầu di cư vào hạ lưu

sông Đà Rằng, tiếp tục ngược dòng, vượt qua các chướng ngại trên đường đi: dòng chảy,

thác nước... lên trung, thượng lưu dòng chính và các phụ lưu. Cá chình gương thường gặp

theo dòng nước chảy nhẹ gần bờ để bơi ngược dòng. Chúng thường bơi thành đàn về ban

đêm. Cá chình gương, chình hương, chình giống có thể vượt lên các đập chắn có độ dốc

từ 70 - 80 độ, cao 3 - 4 m với dòng chảy nhẹ hoặc Nm ướt (nhất là lúc có mưa). Trên

đường di cư, cá chình còn có thể vượt qua các vùng sình lầy, các cánh đồng thiếu nước

lúc trời mưa hoặc sương đêm Nm ướt đến các ao hồ, hồ chứa để sinh sống. Các tháng mùa

khô, nắng nóng, mực nước sông Ba hạ thấp, lượng nước chảy qua đập Đồng Cam rất ít,

có tháng mực nước xuống thấp không còn tràn qua đập nước, cá chình không vượt được

qua đập. Chúng tụ lại ở đoạn sông dưới đập. Ở đây có thể gặp cá chình với các kích thước

khác nhau: cá chình gương, cá hương, cá giống và cá chình có kích thước lớn. Đập thủy

điện sông Hinh cũng là chướng ngại không thể vượt qua được của cá chình trong mùa khô.

Tuy nhiên, về mùa lũ, nước lũ dâng cao, trong thời gian xả tràn, cá chình có thể tiếp tục di

cư ngược dòng vào hồ chứa và lên trung, thượng lưu. Mùa mưa lũ cũng là thời kỳ cá

chình cỡ lớn di cư xuôi dòng về hạ lưu và ra biển để phát dục, sinh sản. Về mùa này ở

kênh xả nước sau tua bin của Nhà máy Thủy điện sông Hinh, ngư dân thường vớt được cá

chình lớn bị tua bin cán chết (có con bị chặt thành nhiều khúc) khi xuôi theo dòng nước

của tua bin nhà máy. Từ năm 2005, trên dòng chính của sông Ba, công trình thuỷ điện

sông Ba Hạ cách đập Đồng Cam 35 km về phía thượng nguồn đã được xây dựng là

chướng ngại mới lớn nhất, không thể vượt qua trên đường di cư ngược dòng của cá chình.

Công trình này đã và sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi cá chình ở lưu vực sông Ba.

3.2. Tình hình khai thác các loài cá chình ở lưu vực sông Ba

Những năm gần đây, nhu cầu cá chình cho thị trường trong nước và xuất khNu

tăng cao, nên ở lưu vực sông Ba cũng như nhiều vùng khác ở miền Trung nghề đánh bắt

cá chình gia tăng rất mạnh. Số người đánh bắt tăng; vùng khai thác mở rộng từ hạ lưu

đến trung, thượng lưu, các phụ lưu, khe suối, các hồ chứa, vùng trên dưới các đập thủy

lợi, thủy điện; sử dụng nhiều loại ngư cụ đánh bắt: câu, chà (bỗi), đáy, đăng, te, vợt,

kích điện... Kích điện là phương tiện đánh bắt bị cấm nhưng vẫn sử dụng rất phổ biến.

Cá chình khai thác với các kích thước khác nhau: cá hương, giống có chiều dài L (ab) từ

70 mm đến 400 mm, khối lượng từ 1 g đến 300 g; cá thịt: 400 mm – 900 mm, khối

lượng từ 350 g đến 4.500 g. Những cá thể lớn hơn rất ít gặp trong cá chình khai thác ở

lưu vực sông Ba.

Page 5: Ca chinh

39

Bảng 3: Sản lượng cá chình khai thác tại 15 điểm

nghiên cứu trên lưu vực sông Ba năm 2006

Loài Mùa khô

(kg) Mùa mưa

(kg) Cả năm

(kg) %

Cá chình hoa (A. marmorata) 1.211 1.705 2.916 96,50

Cá chình nhọn (A. malgumora) 37 60 97 3,21

Cá chình mun (A. bicolor bicolor) 4 5 9 0,29

Tổng cộng 1.252 1.770 3.022 100,00

Từ kết quả điều tra cho thấy sản lượng khai thác cao nhất ở các vùng từ Hoà

Định đến Crông Pa và từ An Khê đến Krông Năng, nơi có các phụ lưu và nhiều suối đổ

vào sông Ba tạo các vực nước sâu; do vậy, cá chình tập trung di cư lên sinh sống nhiều.

Mùa vụ khai thác chủ yếu tập trung vào các tháng mùa lũ IX, X, XI - thời kỳ cá chình

trước thành thục sinh dục từ các sông, suối tập trung di cư về hạ lưu ra biển để sinh sản.

Sau mùa lũ thường đánh bắt được nhiều cá chình giống. Tổng sản lượng 3.022 kg là kết

quả điều tra, thống kê sản lượng khai thác cá chình của các hộ đánh bắt ở 15 điểm

nghiên cứu (Bảng 3) Ngư dân đánh bắt cá chình ở các điểm nghiên cứu ở phía trên đập

thủy điện sông Ba Hạ cho biết sản lượng cá chình đánh bắt năm 2006 giảm sút nhiều so

với những năm trước khi chưa có đập thủy điện sông Ba Hạ. Như vậy, việc xây dựng

thủy điện sông Ba Hạ đã tác động rất lớn đến sự di cư, phân bố của cá chình và ảnh

hưởng đến sản lượng khai thác. Đập thủy điện này đã ngăn cản sự di chuyển của cá

chình con lên các vùng ở trung, thượng lưu và cá chình trưởng thành ở các vùng trên

đập xuống vùng hạ lưu ra biển để sinh sản. Nếu chúng vượt qua thì cũng bị tua bin của

nhà máy thủy điện gây tổn thương thậm chí bị chết. Hàng năm, nhà máy thủy điện xả lũ

một lần vào tháng X, cá chình trưởng thành từ trên đập có thể xuống vùng hạ lưu qua

cống xả lũ; còn cá con từ hạ lưu khó có khả năng vượt được dòng thác mạnh của cống

xả lũ để lên vùng nước trên đập.

IV. Kết luận và kiến nghị

4.1. Kết luận

- Ở lưu vực sông Ba có 3 loài cá chình: chình hoa (Anguilla marmorata)¸ chình

nhọn (A. malgumora), chình mun (A. bicolor bicolor). Cá chình hoa có số lượng nhiều

(trên 95% sản lượng cá chình khai thác), phân bố rộng từ vùng thượng lưu đến hạ lưu;

hai loài chình nhọn và chình mun có số lượng rất ít. Cá chình gương (glass ell) xuất

hiện ở cửa sông, hạ lưu, di cư ngược dòng lên trung, thượng lưu, vào các phụ lưu, khe

suối, các ao hồ tự nhiên và hồ chứa sinh sống. Trong mùa mưa lũ, cá chình trưởng thành

di cư xuôi dòng về hạ lưu, ra biển phát dục, sinh sản.

- Các loài cá chình ở lưu vực sông Ba đang bị khai thác quá mức: số người đánh

bắt tăng, sử dụng nhiều loại ngư cụ khai thác huỷ diệt, phổ biến là kích điện; đánh bắt

cá tất cả các cỡ, khắp nơi, quanh năm; sản lượng cá chình khai thác đang giảm sút mạnh.

Page 6: Ca chinh

40

Các đập thủy điện, thủy lợi trên sông Ba và các phụ lưu đã ảnh hưởng mạnh đến sự di

cư của các loài cá chình. Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản ở lưu vực sông Ba chưa

được quan tâm. Hai loài cá chình bông, chình mun có tên trong sách Đỏ Việt Nam

không được bảo vệ.

4.2. Đề nghị

- Xây dựng các đường dẫn cho cá ở các đập thủy điện, thủy lợi trên sông Ba và

các phụ lưu của nó.

- Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi cá chình ở lưu vực sông Ba. Cấm sử

dụng các phương tiện đánh bắt hủy diệt: kích điện, chất độc, chất nổ.

- Nghiên cứu kỷ thuỵât ương nuôi cá chình gương (glass ell) thành cá chình

giống, cung cấp cho nghề nuôi cá chình, giảm đánh bắt cá chình lớn làm cá giống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Khoa học và Công nghệ. Sách đỏ Việt Nam phần I - Động vật. Nhà xuất bản Khoa

học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, (2007).

2. Bộ Thủy Sản. Nguồn lợi thủy sản Việt Nam. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, (1996).

3. Nguyễn Hữu Dực, Góp phần nghiên cứu khu hệ cá nước ngọt Nam Trung Bộ Việt Nam,

Luận án PTS sinh học trường ĐHSP Hà Nội, (1995).

4. Hoàng Đức Đạt và nnk. Điều tra nguồn lợi cá Chình (Anguilla) ở các tỉnh miền Trung.

Báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ Thuỷ Sản, (2006).

5. Nguyễn Văn Hảo. Cá nước ngọt Việt Nam, tập II. NXB Nông nghiệp, Hà Nội, (2005).

6. Nguyễn Thị Thu Hè. Điều tra khu hệ cá của một số sông suối Tây nguyên. Luận án tiến

sĩ sinh học, Trường ĐHKHTN, ĐHQG Hà Nội, (2000).

7. Võ Văn Phú và nnk. Thành phần khu hệ cá Thừa Thiên Huế. Tạp chí sinh học, số 2, 14-

22, (1997).

8. Đặng Ngọc Thanh và nnk. Thủy sinh học các thủy vực nội địa Việt Nam. NXB KH&KT,

Hà Nội, (2002).

9. Eschmeyer W.N., Editor. Catalog of fishes. Updated database version of December

2001. Catalog databases as made available to FishBase in December 2001, (2001).

10. Rainboth. Walter.J.. Fishes of the Cambodian Mekong. Fao, Food and Agriculture

Organization of United Nations, Rome, (1996).

Page 7: Ca chinh

41

DATA OF EELS (ANGUILLA) IN BA RIVER BASIN

Hoang Duc Dat, Institute of Tropical Biology Ho Chi Minh City

Nguyen Minh Ty, Graduate student, Hue University

SUMMARY

There are three species of eels in Ba river basin: the Giant mottled eel (flower eel)

(Anguilla marmarota Quoy and Gaimard, 1824) living in the higher section of a river to the

lower section of a river; a considerable number of the Shortfin eel (Ebony eel) (A.bicolor

bicolor M'Clelland, 1844) and the Sharp eel (A. malgumora Kaup, 1856) could be found in the

researching section. These three species developed the highest in the raining season from

September to November. Glass eel from sea living in anadromous estruaries migrated upward to

lower, middle and higher section of the river. Hydroelectric dams on Ba river had certain effect

on the biodiversity of fishes, particularly limitted the distribution and migration of eels species

and influenced the exploitation at the sections. Solutions to the situations have been brought

up; logical stocking with young fish have been carried out to keep susbtainable development

source of fish in Ba river.