tailieu.vncty.com 5315 9188
Post on 24-Jun-2015
93 Views
Preview:
DESCRIPTION
TRANSCRIPT
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÂN TÍCH CƠ BẢN VÀ PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
TRONG KINH DOANH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
VÀ ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Huyền Trang
Lớp : Anh 1 - TCNH - TCQT
Khóa : 45
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Trần Thị Lƣơng Bình
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ
DANH MỤC VIẾT TẮT
Lời mở đầu.................................................................................................... 1
Chương I: Cơ sở lí luận về phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật trong
kinh doanh ngoại hối .................................................................................... 4
I. Tổng quan về phân tích cơ bản ............................................................. 4
1. Khái niệm chung và đặc điểm của phân tích cơ bản: ...................... 4
1.1 Khái niệm. ..................................................................................... 4
1.2 Đặc điểm của phân tích cơ bản. .................................................... 4
1.3 Ưu điểm và nhược điểm của phân tích cơ bản.............................. 5
2. Các chỉ báo chính trong phân tích cơ bản ........................................ 5
2.1 Những chỉ báo kinh tế ................................................................... 6
2.1.1 Tổng thu nhập quốc dân. .......................................................... 7
2.1.2 Tổng thu nhập quốc nội ............................................................ 7
2.1.3 Chi tiêu dùng của người dân .................................................... 8
2.1.4 Chi tiêu công của chính phủ ..................................................... 8
2.2 Những chỉ báo về lạm phát ........................................................... 8
2.2.1 Chỉ số giá sản xuất (PPI) ......................................................... 9
2.2.2 Chỉ số quản lí tiêu dùng (PMI) ................................................. 9
2.2.3 Chỉ số giá tiêu dùng ............................................................... 10
2.2.4 Hàng hoá bền–Durable good ................................................. 10
2.2.5 Chỉ số điều chỉnh tổng sản phẩm quốc dân. .......................... 11
2.2.6 Chỉ số điều chỉnh tổng sản phẩm quốc nội ............................. 11
2.2.7 Chỉ số CRB ............................................................................ 11
2.2.8 Chỉ số giá công nghiệp JoC.................................................... 12
2.3 Những chỉ báo về việc làm .......................................................... 12
2.4 Chỉ báo chi tiêu dùng .................................................................. 12
2.4.1 Doanh số bán lẻ ..................................................................... 12
2.4.2 Chỉ số cảm tính của người tiêu dùng ...................................... 13
2.4.3 Xây dựng nhà mới .................................................................. 13
2.4.4 Sản xuất công nghiệp ............................................................. 14
2.5. Các chỉ báo quan trọng nhất ...................................................... 14
II. Phân tích kĩ thuật ............................................................................... 15
1. Khái niệm và đặc điểm của phân tích kĩ thuật ............................... 15
1.1 Khái niệm .................................................................................... 15
1.2 Đặc điểm của phân tích cơ bản ................................................... 15
1.3 Ưu điểm và nhược điểm của phân tích kĩ thuật .......................... 17
2. Các loại biểu đồ ................................................................................ 17
2.1 Biểu đồ tuyến (line charts) .......................................................... 17
2.2 Biểu đồ thanh phương Tây (Western bar charts)........................ 17
3. Các mẫu hình cơ bản trong phân tích kĩ thuật. ............................ 20
4. Các Lý thuyết cơ bản và công cụ sử dụng trong phân tích kĩ thuật
.............................................................................................................. 24
4.1 Lý thuyết Dow .............................................................................. 24
4.2 FIBONACCI ............................................................................... 25
4.3 Mức sàn, mức trần, đường xu hướng và kênh xu hướng. .......... 27
4.3.1 Mức sàn (support) và mức trần (resistance) ........................... 27
4.3.2 Đường xu hướng .................................................................... 27
4.3.3 Kênh xu hướng ....................................................................... 28
4.4 Đường trung bình động ............................................................... 28
4.5 Đường Bollinger Bands............................................................... 29
4.6 MACD .......................................................................................... 30
4.7 PARABOLIC SAR ....................................................................... 31
4.8 STOCHASTICS ........................................................................... 31
4.9 Chỉ số sức mạnh tương đối ( Relative strength index- RSI)........ 32
III. Những đặc điểm cơ bản của kinh doanh trên thị trường ngoại hối.
.................................................................................................................. 33
1. Các đồng tiền giao dịch trên thị trường ngoại hối ......................... 33
2. Hình thức kinh doanh ...................................................................... 33
3. Lợi nhuận trong kinh doanh ngoại hối ........................................... 34
4. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.................................................. 34
Chương II. Ứng dụng phân tích biến động của cặp tỉ giá USD/JPY trong
tháng 1 năm 2010 tại thị trường Mĩ .......................................................... 36
I. Nền kinh tế Mĩ trong những năm gần đây. ........................................ 37
II. Kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn suy thoái. .................................... 40
III. Phân tích biến động tỷ giá USD/JPY trong tháng 1 năm 2010 ...... 43
Chương III. Điều kiện để áp dụng hiểu quả phân tích cơ bản và phân tích
kĩ thuật trong kinh doanh ngoại hối tại Việt Nam .................................... 77
I. Mục tiêu và định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam .. 77
1. Đặc điểm thị trường ngoại hối Việt Nam........................................ 77
1.1 Là một thị trường non trẻ. .......................................................... 77
1.2 Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng
với các thành viên chủ yếu là các ngân hàng thương mại, các nhà
môi giới ngoại hối và các NHTW. ..................................................... 78
1.3 Chính sách đang dần được nới lỏng từng bước theo hướng tự do
hoá dần các giao dịch ngoại hối........................................................ 79
1.4 Tỷ giá thả nổi nhưng có sự quản lí của nhà nước. ..................... 80
1.5 Ngoại tệ kinh doanh chủ yếu là đồng USD. ................................ 81
2. Mục tiêu và định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam
.............................................................................................................. 82
2.1 Xây dựng quy tắc ứng xử và thông lệ thống nhất cho hoạt động
thị trường ngoại hối Việt Nam .......................................................... 82
2.2 Điều hành tỷ giá trong giai đoạn tới vẫn tiếp tục theo cơ chế thả
nổi có điều tiết của chính phủ. .......................................................... 84
2.3 Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ..... 84
2.4 Nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền và Khắc phục hiện tượng
đô la hoá: ........................................................................................... 88
2.5 Chuyển biện pháp kết hối sang công cụ tỷ giá thị trường ........... 88
2.6 Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. ...... 89
2.7 Hình thành các công ty môi giới ngoại hối ................................. 90
II. Điều kiện áp dụng hiệu quả phương pháp phân tích cơ bản và phân
tích kĩ thuật cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tại Việt Nam ....... 91
1. Hoàn thiện môi trường pháp lí........................................................ 91
2. Kiểm soát tỷ giá thị trường theo hướng phù hợp với cung-cầu
ngoại tệ: ................................................................................................ 95
3. Nâng cấp hệ thống thông tin ........................................................... 95
4. Đầu tư phát triển con người ............................................................ 96
Kết Luận ..................................................................................................... 98
Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................... 99
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1 Biểu đồ thanh .............................................................................. 18
Hình 1.2 Biểu đồ hình nến ......................................................................... 18
Hình 1.3 Mẫu hình hai đỉnh ....................................................................... 21
Hình 1.4 Mẫu hình hai đáy ........................................................................ 22
Hình 1.5 Mẫu hình Vai- đầu - vai .............................................................. 22
Hình 1.6 Mẫu hình Vai- đầu- vai đảo ngược............................................. 23
Hình 1.7 Các mức giới hạn của Fibonacci hồi truy. ................................. 26
Hình 1.8 Fibonacci mở rộng ...................................................................... 27
Hình 1.9 Bolinger band, đường trung bình động- MA và đường trung
bình hội tụ phân kì-MACD ........................................................................ 30
Hình 1.10 PARABOLIC SAR, STOCHASTICS, RSI-chỉ số sức mạnh
tương đối ..................................................................................................... 32
Hình 2.1 Khối lượng giao dịch của đồng USD .......................................... 39
Hình 2.2 Diễn biến tỷ giá USD/JPY tháng 4/2007 đến tháng 2/2010 trên
thị trường ngoại hối Mĩ .............................................................................. 44
Hình 2.3: Các mốc biến động tỉ giá USD/JPY từ 2007 đến 2010 ............. 46
Hình 2.4 Chi tiêu trong đầu tư xây dựng tháng 11 năm 2009 .................. 47
Hình 2.6 Diễn biến tỷ giá USD/JPY tháng 1 năm 2010 ............................ 49
Hình 2.7 Doanh số bán nhà ........................................................................ 51
Hình 2.8 Lượng dầu thô dự trữ tháng 1 năm 2010 ................................... 52
Hình 2.9 Chỉ số hài lòng của người tiêu dùng ........................................... 53
Hình 2.10 Diễn biến tỷ giá USD/JPY từ 4/1 đến 12/1 ............................... 61
Hình 2.11 Diễn biến tỷ giá USD/JPY, chỉ báo ADX, RSI. ........................ 62
Hình 2.12 Mô hình vai- đầu- vai ................................................................ 63
Hình 2.13 Mô hình hai đỉnh ....................................................................... 69
Hình 2.14 Tình trạng thất nghiệp ở Mĩ ..................................................... 72
Hình 2.15 Chỉ số sản xuất bang Philadelphia ........................................... 72
Hình 2.16 Biểu đồ phân tích bằng công cụ phân tích Ichimoku Kinko
Hyo. ............................................................................................................. 76
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Tăng trưởng thực tế bình quân của các thành phần đóng góp
vào GDP hàng năm từ 1980 đến 2003 ....................................................... 41
Bảng 2.2 Chỉ số sản xuất ISM tháng 12 .................................................... 47
Bảng 2.3 Lượng tiền cơ sở hàng tháng của Nhật Bản .............................. 48
Bảng 2.4 Cán cân vãng lai tháng 11 của Nhật .......................................... 58
Bảng 2.5 Cán cân thương mại tháng 11 của Nhật .................................... 58
DANH MỤC VIẾT TẮT
API American petroleum Institude
Viện dầu khí Hoa Kì
CRB Commodity Research Bureau
Cục nghiên cứu hàng hóa thương mại
TIC Treasury International Capital Flows
Dòng vốn quốc tế
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
PPI Chỉ số giá sản xuất
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
NH Ngân hàng
NH NN Ngân hàng nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
TTNTLNH Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
AUD Đô la Úc
EUR Đồng Euro
JPY Đồng Yên Nhật
USD Đô la Mĩ
VND Việt Nam đồng
1
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật là hai phương pháp phân tích phổ
biến trong kinh doanh trên rất nhiều thị trường tài chính như thị trường chứng
khoán, thị trường vàng và thị trường ngoại hối. Với những ưu điểm của mình
hai phương pháp này đã bổ sung cho nhau giúp các nhà đầu tư thực hiện hiệu
quả việc đầu tư và đem lại lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, việc ứng dụng hai
phương pháp này trong việc phân tích biến động tỉ giá trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế do chế độ tỷ giá của VND và
USD – đồng tiền chiếm tỉ lệ lớn nhất trong giao dịch thương mại quốc tế ở
Việt Nam, vẫn chưa được thả nổi hoàn toàn, hệ thống pháp lí, thông tin vẫn
chưa được thiết lập hoàn chỉnh…Chính những vấn đề này đã làm cho thị
trường ngoại hối Việt Nam đi sau một khoảng cách khá xa so với thị trường
ngoại hối ở các nước phát triển và chưa thực hiện được đúng chức năng cơ
bản của nó đó là điều tiết cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Vì vậy, một vấn
đề đặt ra là, cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc phương pháp phân tích
cơ bản và phân tích kĩ thuật trong kinh doanh trên thị trường ngoại hối và điều
kiện để hai phương pháp này có thể phát huy được ưu thế của mình trên thị
trường ngoại hối Việt Nam. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó tác giả đã chọn
đề tài “phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật trong kinh doanh trên thị trường
ngoại hối và điều kiện áp dụng cho Việt Nam” làm đề tài khóa luận.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Tìm hiểu hệ thống các vấn đề lý luận về phân tích cơ bản và phân tích
kĩ thuật
2
- Áp dụng lí thuyết để phân tích tỷ giá USD/JPY trên thị trường ngoại
hối Mĩ trong giai đoạn tháng 1 năm 2010.
- Đưa ra những điều kiện nhằm áp dụng hiệu quả hai phương pháp phân
tích trên vào thị trường ngoại hối Việt Nam.
Thực hiện mục đích trên khóa luận có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích các chỉ báo kinh tế cơ bản áp dụng cho việc nghiên cứu nền
kinh tế trong phân tích cơ bản, phân tích các công cụ sử dụng trong phân tích
kỹ thuật thường sử dụng cho kinh doanh trên thị trường ngoại hối.
- Phân tích ứng dụng của những chỉ báo kinh tế cơ bản và các công cụ kĩ
thuật vào phân tích biến động của thị trường ngoại hối Mĩ cho cặp tiền tệ
USD và JPY.
- Phân tích đặc điểm của thị trường ngoại hối Việt Nam và đưa ra những
điều kiện để ứng dụng hiệu quả hai phương pháp trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu ý nghĩa các chỉ báo của phương pháp phân tích cơ bản và
tác dụng của các cộng cụ sử dụng trong phân tích cơ bản
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn trong việc phân tích biến
động tỷ giá USD/JPY trong tháng 1 năm 2010 dựa trên các thông tin kinh tế
vĩ mô và mô hình phân tích kĩ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệ trong và ngoài nước để phân tích, tổng hợp thông tin
kinh tế chung của hai nước Nhật Bản và Hoa Kì
Ngoài ra khóa luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
Phương pháp diễn giải và qui nạp, phương pháp thống kê, so sánh để khái
quát, hệ thống và khẳng định các kết quả nghiên cứu.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận bao gồm 3 chương:
3
- Chương 1: Cơ sở lí luận về phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật
trong kinh doanh ngoại hối
- Chương 2: Ứng dụng phân tích biến động của cặp tỉ giá USD/JPY
trong tháng 1 năm 2010 tại thị trường Mĩ
- Chương 3: Điều kiện để áp dụng hiệu quả phân tích cơ bản và phân
tích kĩ thuật trong kinh doanh ngoại hối tại Việt Nam.
4
Chương I: Cơ sở lí luận về phân tích cơ bản và phân tích kĩ
thuật trong kinh doanh ngoại hối
I. Tổng quan về phân tích cơ bản
1. Khái niệm chung và đặc điểm của phân tích cơ bản:
1.1 Khái niệm.
Phân tích cơ bản là một phương pháp xem xét thị trường thông qua
những yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị có ảnh hưởng đến cung và cầu của một
đồng tiền nhất định. Nói một cách khác là chúng ta phải đánh giá nền kinh tế
của quốc gia nào hoạt động tốt và nền kinh tế nào bị giảm sút.
1.2 Đặc điểm của phân tích cơ bản.
a, Phân tích cơ bản chú ý đến các yếu tố tác động đến cung cầu tiền tệ
trên thị trường: lãi suất, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu, đầu
tư…
Khi nói về phân tích cơ bản người ta muốn nói đến việc nghiên cứu các
nhân tố cốt lõi ảnh hưởng đến nền kinh tế của một quốc gia. Nó là việc dự
đoán những biến động của giá cả và xu hướng thị trường bằng cách phân tích
các chỉ báo kinh tế, chính sách nhà nước và các yếu tố xã hội khác trong
phạm vi một chu kì kinh doanh. Các nhà phân tích cơ bản phải nghiên cứu các
dấu hiệu khác nhau từ biến động giá trên biểu đồ, thông tin kinh tế công bố
thường xuyên và các sự kiện chính trị, xã hội hàng ngày có tác động đến thị
trường tiền tệ. Ví dụ, khi phân tích một dự báo của một nhà kinh tế học về sự
tăng trưởng GDP hoặc báo cáo về tình trạng thất nghiệp, chúng ta sẽ có một
cái nhìn tương đối về sức khoẻ của nền kinh tế đó. Các yếu tố cơ bản này
cũng có những tăng giảm thường xuyên trong cả ngắn hạn và dài hạn. Khi đi
sâu vào nghiên cứu sự phức tạp và tinh tế của các yếu tố cơ bản thì kiến thức
và sự hiểu biết về nền kinh tế toàn cầu sẽ gia tăng đáng kể.
5
b, Phân tích cơ bản là một cách hiệu quả để tiên đoán các điều kiện
kinh tế, nhưng giá trị chính xác của thị trường không phải là một nhiệm vụ
chính.
Mục tiêu chính của phân tích cơ bản là dự đoán về giá trị sinh lời tiềm
ẩn của một thị trường để xác định xem thị trường được đánh giá cao hơn hay
thấp hơn giá trị thực tế dựa trên các lí thuyết căn bản: Lý thuyết ngang giá lãi
suất (IRP) và ngang giá sức mua (PPP).
1.3 Ưu điểm và nhược điểm của phân tích cơ bản
Với những đặc điểm trên, phân tích cơ bản đã cho thấy ưu điểm lớn
nhất của phương pháp phân tích này đó là:
- Khả năng dự đoán xu thế dài hạn
- Nắm bắt giá trị thực tế của ngoại tệ.
Tuy nhiên, nó cũng còn nhiều hạn chế như:
- Chỉ có hiệu quả nếu nhà phân tích tiếp cận thông tin đầy đủ, có khả
năng phân tích và dự tính tốt để hành động ngay
- Phục thuộc vào hệ thống thông tin kinh tế của các quốc gia
- Chỉ xác định được giá trị tốt mà chưa xác định được thời điểm mua
bán thích hợp.
2. Các chỉ báo chính trong phân tích cơ bản
Bất cứ một tin tức, sự kiện nào tác động một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp đến nền kinh tế đều được coi là những yếu tố cơ bản. Từ sự thay đổi
trong nền kinh tế, thay đổi lãi suất, bầu cử chính trị đến những thông tin về
thiên tai đều có thể tác động đến nền kinh tế trong tương lai. Những tin tức
này không chỉ khác nhau giữa các quốc gia mà chúng còn khác nhau về tầm
quan trọng và thời điểm công bố. Những thông tin kinh tế thường được lên kế
hoạch thông báo trước và có thể dễ dàng tìm kiếm được, nhất là ở những nước
công nghiệp.
6
Không như những thông tin kinh tế, các tin tức về chính trị thì có thể
được công bố vào bất kì thời điểm nào và chắc chắn là chúng có ảnh hưởng
lớn đến thị trường ngoại hối nhưng chỉ trong ngắn hạn. Ở Mĩ các cuộc bầu cử
diễn ra 4 năm 1 lần và các ứng cử viên đã được thông báo trước công chúng,
chính vì vậy mà thị trường ngoại hối ở đây được xem là ổn định nhất. Ở các
quốc gia khác, ví dụ như Italia, bộ máy chính phủ không ổn định và thời gian
bầu cử nghị viện có thể diễn ra bất cứ lúc nào, khiến chúng ta không thể đoán
trước được.
Những yếu tố tài chính được xác định và dự đoán dựa trên thực tế. Việc
cắt giảm lãi suất của ngân hàng trung ương ở Mĩ, Ngân hàng Trung ương
Châu Âu và Ngân hàng Nhật Bản vẫn có thể dự đoán được mặc dù những
thông tin này luôn được giữ bí mật. Trong khi những thay đổi về lãi suất gần
như không thể biết trước thì chúng ta vẫn có thể biết được thời gian diễn ra
những cuộc họp mặt của các quan chức ngân hàng trung ương thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng.
Để hệ thống lại các chỉ báo thường được sử dụng trong phân tích cơ
bản, ta sẽ tìm hiểu các nhóm chỉ báo chính sau:
2.1 Những chỉ báo kinh tế
Những chỉ báo kinh tế cho tới nay đã cung cấp phần lớn thông tin của
tất cả các yếu tố cơ bản được sử dụng để phân tích trong kinh doanh trên thị
trường ngoại hối. Không giống như tài chính, chính trị và các nhân tố gây ra
khủng hoảng, các nhân tố kinh tế diễn ra đều đặn và ở những thời điểm cụ thể
và thường xuyên hơn. Điều quan trọng là chúng ta phải hiểu được các thông
tin kinh tế này và đưa các quyết định giao dịch chính xác. Tuy nhiên nắm bắt
được thông tin thôi là chưa đủ, muốn có được lợi nhuận chúng ta cần phải đưa
ra những dự báo chuẩn xác về xu hướng biến động.
Những thông tin kinh tế thông thường được đăng tải hàng tháng ngoại
trừ một số thông tin về tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số giá thuê nhân công…
7
chỉ được thông báo hàng quý, hàng năm. Trong khi đó lại có những thông tin
kinh tế được công bố hàng tuần và thường tạo ra ảnh hưởng không đáng kể
tới thị trường ngoại hối. Tất cả thông tin đều được thông báo cả con số năm
trước và năm nay để các nhà giao dịch có thể so sánh được và xác định tình
hình thực tế của nền kinh tế thông qua sự so sánh đó.
Thông tin về những gì sắp diễn ra hay những con số kinh tế của Mĩ
luôn được thông báo trên những tờ báo hàng đầu như Wall street, Financial
Times và NewYork Times. Và một số trang web đáng tin cậy như
www.money.cnn.com, www.moneycentral.msn.com/investor/home.asp,
www.bloomberg.com hay một nguồn thông tin khác nữa của ngân hàng dự
trữ New York www.ny.frb.org.
2.1.1 Tổng thu nhập quốc dân.
Tổng thu nhập quốc dân (GNP) được xem là chỉ thị kinh tế quan trọng
nhất và nhiều nhà phân tích đồng ý rằng nó là thước đo thực trạng nền kinh tế
một cách toàn diện nhất. GNP là tổng lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra
bởi người dân của một nước không phân biệt người đó có đang sống và làm
việc tại chính quốc gia của mình hay không. Khi một báo cáo cho thấy GDP
thực tế đã tính đến các yếu tố điều chỉnh tăng thì đó là một dấu hiệu tốt cho
nền kinh tế và tạo nên một sự lạc quan cho thị trường kinh doanh của đồng
tiền nước đó.
2.1.2 Tổng thu nhập quốc nội
Tổng thu nhập quốc nội- GDP lại phản ánh tổng lượng hàng hoá và
dịch vụ được sản xuất trên một quốc gia bao gồm của cả người dân của những
nước khác đang sinh sống và làm việc trên quốc gia đó. Nó cũng có ý nghĩa
tương tự như GDP, khi mà tổng sản lượng hành hóa dịch vụ thực tế sản xuất
ra của một quốc gia mà tăng thì đó là dấu hiệu khả quan cho nền kinh tế của
nước đó và ngược lại.
8
2.1.3 Chi tiêu dùng của người dân
Chỉ tiêu chi tiêu dùng thường được đánh giá trên góc độ tâm lí tự nhiên,
nó cho biết sự tự tin của người tiêu dùng hơn là lượng tiêu dùng thực tế. Chi
tiêu dùng do từng cá nhân dựa vào mức thu nhập thực tế và thu nhập khả
dụng của bản thân mà ra quyết định chi tiêu cho hợp lí.
2.1.4 Chi tiêu công của chính phủ
Chi tiêu công là một chỉ tiêu rất quan trọng trong đó nó chiếm tỉ lệ đáng
kể và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, nhưng nó cũng có ảnh hưởng trên cả
các khía cạnh khác như chính trị, xã hội. Do là một hình thức chi tiêu đặc biệt
như tiêu dùng trong quân đội, chi đầu tư cơ sở hạ tầng quốc gia…, nó giúp
giảm tỉ lệ thất nghiệp và tăng tổng thu nhập quốc nội và khuyến khích chi tiêu
đầu tư.
2.2 Những chỉ báo về lạm phát
Tỉ lệ lạm phát là sự gia tăng của giá cả chung và việc ước tính mức độ
tăng của nó là một nhiệm vụ quan trọng trong kinh tế vĩ mô. Các nhà giao
dịch thường chú ý chỉ số lạm phát bởi vì một trong những cách để đối phó với
tình trạng này chính phủ có thể tăng lãi suất danh nghĩa, từ đó sẽ dẫn tới sự
thay đổi giá đồng nội tệ, giá trị của lãi suất thực tế và tổng thu nhập quốc dân,
tổng thu nhập quốc nội thực tế. Đây là những con số quan trọng nhất đối với
các nhà quản lí tiền tệ và giao dịch tiền tệ, nó cho phép họ có thể so sánh một
cách chính xác thị thường giá cả thế giới. Thông thường các nhà giao dịch
thường sử dụng 9 công cụ chỉ báo kinh tế sau:
- Chỉ số giá sản xuất PPI
- Chỉ số quản lí tiêu dùng (purchasing managers’ index PMI)
- Chỉ số giá tiêu dùng CPI
- Hàng hoá bền (Durable goods)
- Chỉ số điều chỉnh GNP
- Chỉ số điều chỉnh GDP
9
- Chỉ số giá thuê công nhân ( Employment cost index ECI)
- Chỉ số CRB
- Chỉ số giá công nghiệp do tạp chí JOC công bố
2.2.1 Chỉ số giá sản xuất (PPI)
Chỉ số giá sản xuất được thu thập từ đầu thế kỉ XX và được gọi là chỉ
số giá bán buôn (wholesale price index) cho đến năm 1978. Chỉ số giá sản
xuất phản ánh sự thay đổi trung bình của chi phí mà nhà sản xuất phải chịu
trong suốt các giai đoạn của quá trình sản xuất.
Không giống như CPI, nó bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu và
thuế, PPI được tính dựa trên các lĩnh vực chính như sản xuất, khai khoáng và
nông nghiệp. Việc tính toán PPI liên quan đến hơn 3400 mặt hàng.
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường mức giá mà các nhà sản xuất nhận
được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với
CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế, như vậy có thể suy ra là giá trị nhận
được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã
thanh toán. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng
và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày
"hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau.
Chỉ số giá bán buôn đo lường sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán
buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số
này rất giống với PPI.
Chỉ số giá hàng hóa cho biết sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa
một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất
được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này
bao gồm cả vàng và bạc.
2.2.2 Chỉ số quản lí tiêu dùng (PMI)
Hiệp hội quốc gia các nhà quản lí tiêu dùng mua bán nay đổi thành viện
quản lí nguồn cung cấp công bố hàng tháng một chỉ số tổng hợp về tình trạng
10
sản xuất quốc gia dựa trên những đơn đặt hàng mới, sức sản xuất, thời gian
giao hàng, lô hàng giao trễ, tồn kho, giá cả, thuê mướn nhân công, đơn hàng
xuất khẩu và nhập khẩu. Mức đo trung bình của chỉ số này là 50, nếu nó lớn
hơn 50 thì có nghĩa là nền kinh tế đang có xu hướng mở rộng phát triển hơn,
và nếu nhỏ hơn 50 thì nền kinh tế đó đang co lại và đây là một tín hiệu xấu.
2.2.3 Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được hình thành từ các thông tin chi tiêu của
hàng nghìn hộ gia đình trên toàn quốc. Thông tin được thu thập thông qua
phỏng vấn và nhật kí chi tiêu của các đối tượng lựa chọn để nghiên cứu. Rổ
hàng hoá dịch vụ được sử dụng để tính bao gồm hơn 200 danh mục, thuộc 8
nhóm: thực phẩm và đồ uống, nhà đất, may mặc, vận tải, chăm sóc sức khoẻ,
giải trí, giáo dục và truyền thông, và một số loại hàng hoá dịch vụ khác. Giá
cả của khoảng 800.000 hàng hoá dịch vụ trong rổ tính được thu thập hàng
tháng từ hàng ngàn các cửa hàng bán lẻ, các nhà cung cấp dịch vụ, các công
ty cho thuê nhà đất và các phòng khám sức khoẻ.
Cả hai chỉ số CPI và PPI đều giúp nhà đầu tư trong việc quyết định
quốc gia này có đang trong tình trạng lạm phát hay không và chúng đều được
tính toán và thông báo hàng tháng.
2.2.4 Hàng hoá bền–Durable good
Đơn đặt hàng lâu bền đo lường đơn đặt hàng mới của các nhà sản xuất
trong nước. Đó là những loại hàng hoá của các nhà máy công nghiệp nặng có
thể được giao ngay hoặc giao trong tương lai. Hàng hóa bền được định nghĩa
là hàng hóa có thời gian sử dụng lớn hơn 3 năm.
Những đơn đặt hàng lâu bền gia tăng dẫn tới nhu cầu về vốn tăng, và
kéo theo lãi suất tăng lên. Khi điều này xảy ra, đồng USD sẽ tăng giá và các
loại tiền tệ trên thị trường lên quan tới đồng USD sẽ giảm giá trị.
11
2.2.5 Chỉ số điều chỉnh tổng sản phẩm quốc dân.
Bảng biểu báo cáo tổng sản phẩm quốc dân bản thân nó không có ý
nghĩa gì. GNP tăng là tốt hay xấu cho nền kinh tế còn tùy thuộc vào mức độ
lạm phát. Vì thế, GNP danh nghĩa phải được quy đổi theo chỉ số giá. Có nhiều
cách để tính chỉ số giảm phát nhưng thông dụng nhất là tính chỉ số giảm phát
ẩn (implicit deflator). Chỉ số giảm phát ẩn được tính bằng cách chia GNP hiện
tại cho một GNP gốc cố định.
2.2.6 Chỉ số điều chỉnh tổng sản phẩm quốc nội
Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (GDP) dựa trên việc tính toán
của tổng sản phẩm quốc nội. Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế
(GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định
GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực. Nó là phép đo mức giá
cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các
thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên
bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép
khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
2.2.7 Chỉ số CRB
Chỉ số CRB bao gồm giá tương lai của 21 loại hàng hoá có trọng số
bằng nhau:
- Kim loại quí: vàng, bạc và bạch kim
- Hàng hoá công nghiệp: dầu thô, dầu đốt lò sưởi, xăng không chì,
đồng, đồ gỗ và bông
- Ngũ cốc: ngô, lúa mì, đậu tương, dầu thực vật…
- Vật nuôi và thịt
- Hàng hoá nhập khẩu: cà phê, ca cao và đường
- Hàng tạp hoá: nước cam…
Chỉ số CRB phổ biến và đáng tin cậy từ những năm cuối thập niên
1980
12
2.2.8 Chỉ số giá công nghiệp JoC
Chỉ số JoC được sử dụng để nhận biết dấu hiệu của lạm phát trước cả
những chỉ số giá khác. Chỉ số giá JoC bao gồm giá của 18 loại nguyên liệu
công nghiệp và gia công giai đoạn đầu của sản xuất, xây dựng và sản xuất
năng lượng.
2.3 Những chỉ báo về việc làm
Tỉ lệ thất nghiệp là chỉ báo kinh tế quan trọng trong thị trường ngoại
hối do tầm quan trọng của nó trong việc dự đoán tình hình các khu vực kinh
tế. Tỉ lệ việc làm có thể phản ánh sự ổn định xã hội và tính lành mạnh của nền
kinh tế. Khi tỉ lệ thất nghiệp tăng, nó sẽ kéo theo nhiều hệ quả xấu tất yếu của
sự dư thừa nhân công lao động như tệ nạn xã hội, tội phạm trộm cắp…
Trên thị trường ngoại hối, những chỉ thị tiêu chuẩn được các nhà giao
dịch nghiên cứu là tỉ lệ thất nghiệp, mức lương trong lĩnh vực sản xuất, trong
lĩnh vực phi nông nghiệp, thu nhập trung bình...Nói chung, dữ liệu quan trọng
nhất là lương chi trả trong ngành sản xuất và phi nông nghiệp, tiếp sau đó là tỉ
lệ thất nghiệp.
Những thông số này được công bố rộng rãi hàng tháng bởi cục thống kê
lao động.
2.4 Chỉ báo chi tiêu dùng
2.4.1 Doanh số bán lẻ
Chỉ số bán lẻ là một chỉ báo kinh tế quan trọng bởi vì nó phản ánh nhu
cầu và sự lạc quan của người tiêu dùng. Ở Mĩ chỉ báo này được chú ý hơn ở
các nước khác ví dụ như Nhật Bản, bởi vì sự phát triển của nền kinh tế Mĩ bị
ảnh hưởng bởi tiêu dùng nhiều hơn so với các nước khác.
Doanh số bán lẻ cao là tín hiệu tốt cho ngành sản xuất. Các tháng có
doanh số bán lẻ cao trong năm là 9,11 và 12. Tháng 9 là tháng mà mọi người
bắt đầu đi học hoặc là trở lại với công việc. Tháng 11 và 12 là tháng mua sắm
13
cho lễ tết và các nhà giao dịch thường quan sát cẩn thận chỉ số vào đầu tháng
12 và sau lễ giáng sinh.
Báo cáo doanh số bán lẻ là một thước đo tổng doanh số của các nhà bán
lẻ từ các mẫu điều tra đại diện cho tất cả doanh nghiệp có qui mô khác nhau
trong ngành bán lẻ trên toàn quốc. Nếu chỉ số tăng thì đó là dấu hiệu cho thấy
tốc độ tiêu thụ hàng hóa nhanh, sản xuất trong nước cũng tăng theo và phản
ánh thực trạng hoạt động tốt của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế.
2.4.2 Chỉ số cảm tính của người tiêu dùng
Chỉ số cảm tính tiêu dùng được đưa ra thông qua việc khảo sát các hộ
gia đình để đo lường xu hướng tiêu dùng cá nhân. Đại học Michigan và Ủy
ban nghiên cứu dư luận gia đình quốc gia đều tiến hành nghiên cứu và đưa ra
chỉ số này của riêng mình. Chỉ số do ủy ban đưa ra có liên hệ chặt chẽ với thị
trường việc làm còn chỉ số do Đại học Michigan đưa ra thì được đưa ra dựa
trên kết quả của ít nhất 500 cuộc phỏng vấn trên hầu hết các bang loại trừ
Alaska và Hawaii
Những thông tin này đưa ra sự đánh giá về phản ứng của người tiêu dùng
dựa trên điều kiện kinh doanh, điều kiện tài chính và tiêu dùng cá nhân. Dự
báo kì vọng kinh tế và hành vi tiêu dùng trong tương lai của người tiêu dùng.
Đánh giá mức độ lạc quan của người tiêu dùng về viễn cảnh kinh tế trong
tương lai. Nó không chỉ tác động đến thị trường ngoại hối, mà đối với thị
trường chứng khoán và trái phiếu, những thông tin này cũng được xem xét
một cách kĩ lưỡng.
2.4.3 Xây dựng nhà mới
Báo cáo xây dựng nhà mới đo lường số đơn vị dân cư mà ngành xây
dựng phải khởi công hàng tháng. Báo cáo này cho biết số lượng nhà mà ngành
xây dựng phải bắt đầu vào mỗi tháng dựa trên nhu cầu về nhà ở của dân cư. Nhà ở
là một lĩnh vực nhạy cảm với lãi suất và đi đầu trong việc phản ứng lại với sự thay
đổi lãi suất. Số lượng nhà xây dựng tăng lên cho thấy nền kinh tế đang tăng trưởng
14
và nhu cầu vốn tín dụng tăng lên. Kết quả là lãi suất tăng kéo theo đồng USD tăng
giá. Báo cáo xây dựng của tháng này thường được công bố vào khoảng giữa tháng
tiếp theo.
2.4.4 Sản xuất công nghiệp
Là một thước đo sự thay đổi trong sản xuất của các nhà máy, hầm mỏ và
công ty trong nước. Chỉ số này đo lường năng lực sản xuất của rất nhiều nhà
máy và các hầm mỏ thông qua cách sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên
sẵn có (thường được gọi là chỉ số năng lực sản xuất- Capacity utilization)
Chỉ số năng lực sản xuất là một khái niệm kinh tế học, nó đề cập đến
mức độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của một doanh nghiệp hay một quốc
gia. Vì thế nó cho thấy mối quan hệ giữa sản lượng đầu ra thực tế và sản
lượng tiềm năng nếu ta sử dụng tối đa các nguồn lực.
Khu vực sản xuất chiếm ¼ nền kinh tế, do vậy khi chỉ số sản xuất công
nghiệp giảm cho thấy sự tăng trưởng chậm chạp của nền kinh tế. Lúc đó,
Ngân hàng trung ương sẽ giảm mức lãi suất để thúc đẩy nền kinh tế, điều này
kéo theo sự giảm giá của đồng USD.
2.5. Các chỉ báo quan trọng nhất
Là những yếu tố kinh tế thay đổi trước khi nền kinh tế bắt đầu theo một
hướng hay dạng mẫu thị trường. Chỉ thị hướng dẫn được dùng để tiên đoán
những sự thay đổi sẽ xảy ra trong nền kinh tế. Nó bao gồm những chỉ báo
kinh tế sau:
- Số ngày làm việc trung bình trong tuần của công nhân trong ngành sản
xuất
- Số người bị thất nghiệp hàng tuần
- Những đơn đặt hàng hàng tiêu dùng và nguyên liệu (được điều chỉnh
theo chỉ số lạm phát)
- Doanh số bán hàng
- Hợp đồng và đơn đặt hàng nhà máy và trang thiết bị
15
- Số giấy phép xây dự ng mới được cấp
- Sự thay đổi giá cả của những nguyên vật liệu nhạy cảm
- Chỉ số giá chứng khoán
- Cung tiền
- Chỉ số kì vọng của người tiêu dùng
Những chỉ số này thường được tính toán để dự đoán viễn cảnh kinh tế
trong khoảng 6- 9 tháng tới. Các con số này là công cụ hữu ích để dự báo lạm
phát và giảm phát và không giống như tỉ lệ thất nghiệp là chỉ báo theo sau.
Những chỉ thị kinh tế này giúp dự đoán được triển vọng của nền kinh tế.
Không giống như thị trường chứng khoán, khi tin tức được tung ra, thị
trường ngoại hối sẽ phản ánh lại ngay lập tức. Chúng ta phải chắc chắn rằng
những nguồn thông tin của mình là chính xác và là sớm nhất có thể để đưa ra
quyết định giao dịch kịp thời.
II. Phân tích kĩ thuật
1. Khái niệm và đặc điểm của phân tích kĩ thuật
1.1 Khái niệm
“Phân tích các yếu tố kĩ thuật là nghiên cứu sự vận động của giá, dự báo
các xu hướng giá trong tương lai dựa trên việc xem xét các biến động giá
trong quá khứ. Hay còn gọi là kĩ thuật phân tích bằng biểu đồ”.
Phân tích kĩ thuật sử dụng các chỉ báo, các quy tắc giao dịch, đồ thị giá
và số lượng mua bán của quá khứ đã được tập hợp để dự báo xu hướng. Nó có
thể áp dụng cho tất cả các công cụ tài chính có thể giao dịch được: ngoại tệ,
cổ phiếu, các hợp đồng giao sau, hàng hóa…
1.2 Đặc điểm của phân tích cơ bản
a. Coi giá là nền tảng phản ánh tất cả hành động thị trường và thừa
nhận tính xu hướng của giá cả.
Giá không chỉ phản ánh những sự kiện liên quan, mà nó còn thể hiện
những cảm xúc của con người, tâm lí phổ biến và tâm trạng chung của các
16
nhà giao dịch trên thị trường ở thời điểm đó. Tóm lại, giá cả không chỉ là hàm
số của cung và cầu nó còn chịu sự tác động của cảm xúc, lòng tham, sự sợ
hãi, hoảng loạn, kích động, phấn chấn và gọi chung là tâm lí của con người.
b. Chỉ căn cứ vào thông tin có trong giá cả để lý giải về các biểu hiện
của thị trường và hình thành dự báo giá trong tương lai.
Các nhà giao dịch bằng phân tích kĩ thuật đều cho rằng tất cả các yếu tố
cơ bản đều đã được thể hiện trong giá. Họ dường như không quan tâm tới tầm
ảnh hưởng của một trận thiên tai, hay những con số lạm phát đó có thể gây ra
đột biến về giá bằng việc những biến động của giá đó có phù hợp với một
mẫu hình thị trường hay xu hướng không. Và hơn thế nữa mẫu hình thị
trường đó có thể dùng để tiên đoán những giá cả trong tương lai sẽ biến động
như thế nào.
c. Nhấn mạnh sự điều chỉnh theo thị trường: xác định thời điểm thị
trường thay đổi.
Bằng cách xem biểu đồ ta có thể nhận diện xu hướng và mẫu hình có thể
giúp ta tìm thấy cơ hội giao dịch tốt nhất. Điều quan trọng nhất trong phân
tích kĩ thuật là dự báo xu hướng. Có thể nói rằng: “xu hướng là bạn của nhà
phân tích” bởi vì khi dự đoán được xu hướng biến động giá cả chúng ta có thể
tạo ra lợi nhuận bằng cách giao dịch dựa trên xu hướng đó. Phân tích kĩ thuật
có thể giúp ta nhận diện được xu hướng một cách sớm nhất và đưa ra những
quyết định giao dịch sinh lời.
d. Tập trung nhiều vào sự biến động trong ngắn hạn của thị trường.
Phân tích kĩ thuật có thể giúp ta nhận diện được xu hướng trong tương lai
dựa trên việc phân tích các mẫu hình cả trong ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên,
đặc điểm của thị trường ngoại hối là thị trường biến đổi liên tục trong một
khoảng thời gian ngắn, các nhà giao dịch luôn tập trung phân tích tận dụng cả
những biến động ngắn để nắm được thời cơ giao dịch tốt nhất.
17
1.3 Ưu điểm và nhược điểm của phân tích kĩ thuật
Ưu điểm:
- Phân tích kĩ thuật chỉ quan tâm đến sự dịch chuyển cung- cầu dẫn đến
sự thay đổi xu hướng của giá
- Dữ liệu phân tích minh bạch dễ tiếp cận.
- Cho biết thời điểm mua- bán hớp lý nhất. Làm tăng hiệu suất sử dụng
vốn do hành động theo diễn biến thị trường.
Nhược điểm:
- Không phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường hiệu quả
- Một quy tắc giao dịch hiệu quả sẽ nhanh chóng bị lỗi thời khi có nhiều
người sử dụng nó.
Với những đặc điểm khác nhau tạo nên những ưu điểm và nhược điểm
bổ sung cho nhau của phân tích kĩ thuật và phân tích cơ bản. Chính vì vậy mà
để kinh doanh hiệu quả không chỉ trên thị trường ngoại hối mà hầu hết các thị
trường giao sau, thị trường chứng khoán các nhà giao dịch thành công đều
phải kết hợp cả hai phương pháp này.
2. Các loại biểu đồ
2.1 Biểu đồ tuyến (line charts)
Một biểu đồ tuyến đơn giản là một đường được vẽ từ một giá đóng cửa
này đến một giá đóng cửa kế tiếp. Khi các giá đóng cửa này được nối với
nhau chúng ta có thể nhìn thấy sự chuyển động của một cặp giá ngoại tệ trên
một khoảng thời gian.
2.2 Biểu đồ thanh phương Tây (Western bar charts)
Biểu đồ thanh cũng cho chúng ta thấy giá đóng cửa, trong khi đồng thời
cũng chỉ ra giá mở cửa, cũng như cho ta thấy giá cao và giá thấp. Đáy của
thanh thẳng đứng biểu thị giá trị thấp nhất đã giao dịch trong một khoảng thời
gian, trong khi đỉnh của thanh chỉ ra giá cao nhất đã xảy ra. Vì thế, thanh
18
thẳng đứng biểu thị phạm vi giao dịch của cặp tiền tệ một cách đầy đủ. Vạch
ngang bên trái là giá mở cửa và bên phải là giá đóng cửa.
Biểu đồ thanh cũng được gọi là biểu đồ “OHLC”
Hình 1.1 Biểu đồ thanh
High: mức giá cao nhất trong ngày
giao dịch
Low: mức giá thấp nhất
Open: mức giá mở cửa
Close: mức giá đóng cửa
2.3 Biểu đồ cây nến Nhật Bản (Japanese candlestick charts)
Biểu đồ cây nến biểu thị những thông tin giống như biểu đồ thanh. Tuy nhiên,
ở loại biểu đồ này, khối lớn hơn ở chính giữa biểu thị một dãy giá đóng cửa
và mở cửa. Theo truyền thống, nếu khối ở giữa được lấp đầy hoặc tô màu
nghĩa là giá tiền tệ lúc đóng cửa thấp hơn giá lúc mở cửa. Nếu giá đóng cửa
cao hơn giá mở cửa, khối ở giữa sẽ là màu trắng hoặc rỗng. Người ta cũng có
thể dùng mầu xanh thay cho màu trắng và màu đỏ thay cho màu đen.
Hình 1.2 Biểu đồ hình nến
High: mức giá cao nhất
trong ngày giao dịch
Low: mức giá thấp nhất
Open: mức giá mở cửa
Close: mức giá đóng cửa
19
Mục đích của biểu đồ cây nến là để phục vụ như một phương tiện trợ
giúp khi mà những thông tin về giá cả xuất hiện trên biểu đồ thanh OHLC.
Lợi thế của loại biểu đồ này là:
- Dễ hiểu và nó là một công cụ tốt bắt đầu tính toán phân tích biểu đồ
- Dễ sử dụng, mắt chúng ta có thích nghi ngay lập tức với những thông
tin trên kí hiệu của thanh
- Biểu đồ cây nến và mẫu hình cây nến có những tên đặc biệt và dễ nhớ
- Thuận tiện để nhận diện những điểm thay đổi thị trường- đảo chiều từ thị
trường đang lên sang thị trường đi xuống hoặc ngược lại.
Biểu đồ cây nến giúp ta dễ nhận biết và giải thích hơn nhiều sự thay đổi
về cảm nhận của thị trường trên cơ sở hằng ngày bằng cách nhìn sự thay đổi
màu sắc trên thân cây nến.
Cây nến cũng có những kích cỡ thân khác nhau. Thân cây nến dài tượng
trưng cho sức mua và sức bán mạnh, khối lượng mua bán càng nhiều thì thân
cây nến càng dài. Thân cây nến ngắng thể hiện rất ít người mua bán.
Cây nến rỗng và dài nghĩa là đang có rất nhiều người mua, thân càng dài
thì khoảng cách giữa giá mở và giá đóng càng lớn. Cây nến dài có tô màu
nghĩa là có nhiều người bán, thân càng dài thị khoảng cách giữa giá mở và giá
đóng càng lớn. Điều này có nghĩa là giá đã rớt mạnh so với lúc mở cửa.
Những mẫu hình cơ bản của đồ thị cây nến
Spinning tops
Là loại cây nến có bóng dưới và bóng trên dài, còn thân chính thì ngắn,
màu sắc của thân chính rất quan trọng. Mẫu hình này thể hiện tính do dự của
người mua lẫn người bán.
Thân chính ngắn (có thể rỗng hay tô màu) thể hiện xu thế dao động rất
chậm giữa giá mở và giá đóng, và hai bóng thể hiện cuộc chiễn giữa người
mua và người bán, nhưng không ai thắng cả.
20
- Nếu một spinning top được thành lập trong quá trình đi lên thì có nghĩa
là không còn nhiều người mua nữa và có thể xảy ra sự đảo chiều.
- Nếu một spinning top được thành lập trong quá trình đi xuống thì có
nghĩa là không còn nhiều người bán nữa và có thể xảy ra sự đảo chiều.
Maruboru
Là loại cây nến không có bóng của cột hình nến. Tuỳ thuộc vào thân cây
nên là rỗng hay được tô mày thì giá cao nhất và giá thấp nhất trùng với giá
mở cửa.
Maruboru màu trắng có thân màu trắng, dài và không có bóng. Giá mở
cửa trùng với giá thấp nhất, và giá đóng cửa trùng với giá cao nhất. Đây là
mẫu biểu đồ thể hiên xu hướng đi lên rất mạnh và có rất nhiều người mua
trong suốt phiên giao dịch
Maruboru màu đen có thân màu đen, dài và không bóng. Giá mở cửa
trùng với giá cao nhất và giá đóng cửa trùng với giá thấp nhất. đây là mẫu thể
hiện hình nến đi xuống và cho thấy những người bán đang làm chủ phiên giao
dịch. Nó ám chỉ thị trường tiếp tục giảm hay đảo chiều đi xuống.
Doji
Hình cây nến doji được hình thành khi giá mở cửa và giá đóng của bằng
nhau. Doji thể hiện sự không nhất quán của thị trường, là cuộc chiến bất phân
thắng bại của người bán và người mua. Giá dao động trên dưới giá mở cửa
suốt phiên giao dịch, nhưng khi đóng cửa giá gần bằng hoặc bằng giá mở cửa.
3. Các mẫu hình cơ bản trong phân tích kĩ thuật.
Mô hình 2 đỉnh – (double tops): Hiện tượng này xuất hiện khi giá đạt
đến một điểm cao rõ rệt, vượt hẳn điểm trước đây, sau đó quay lại điểm đó và
lại vượt lên. Khi thời gian 2 đỉnh liên tiếp của sự tăng giá này cách nhau càng
lâu thì càng thể hiện khả năng tăng giá của đồ thị này. Sự biến đổi của mô
hình này tương tự như hiện tượng mà người ta gọi là mô hình các đỉnh “M”
hay 1-2-3 đợt sóng tăng giá. Tuy nhiên, sự tăng giá thứ 2 thường thấp hơn sự
21
tăng giá đầu tiên đối với mô hình này. Trong hầu hết các trường hợp, những
điểm quyết định thường là những điểm tăng giá, đó là những điểm đánh dấu
khả năng xuất hiện một mức giá trần mong đợi, và một mức giá thấp tạm thời.
Nếu giá giảm xuống thấp hơn mức đó, đó là sự xác nhận đỉnh mô hình và dấu
hiệu khuyên ta nên bán.
Hình 1.3 Mẫu hình hai đỉnh
Mô hình 2 đáy (double bottom) : nguyên tắc của mô hình này giống như sự
ngược lại của mô hình 2 đỉnh. Tương tự mô hình này được gọi là mô hình các
đáy “W” hoặc 1-2-3 đợt sóng giảm giá. Trong tất cả các trường hợp của mô
hình này, giá đạt đến một mức thấp rõ rệt, có sự bật lên 1 chút, sau đó rớt
xuống mức thấp để thử lại 1 lần nữa, và cuối cùng tăng trở lại. Khi giá vượt
khỏi mức cao tạm thời, khi đó đáy mô hình được xác nhận và thị trường nên
bán.
22
Hình 1.4 Mẫu hình hai đáy
Mô hình “đầu và vai” (Head-and-shoulders top reversal): Mô hình
đảo ngược khuynh hướng truyền thống này xuất hiện khi thị trường tạo ra một
điểm cao mới (left shoulder), giảm xuống, tăng lên đến đỉnh mới cao hơn
(head) và giảm trở lại, sau đó tăng tới 1 đỉnh cao mới sau 1 thời gian có thể là
bằng với đỉnh bên trái (left shoulder) và sau đó thì giảm trở lại. Điểm mấu
chốt ở đây là “1 đường tiệm cận” - “neckline” hoặc là 1 đường nằm ngang mà
có thể nối 2 điểm thấp trên đồ thị.
Hình 1.5 Mẫu hình Vai- đầu - vai
23
Khi giá rớt xuống thấp hơn “neckline”, đó là dấu hiệu kết thúc sự tăng
giá và có khả năng bắt đầu 1 đợt giảm giá của thị trường. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp giá có khuynh hướng đi ngược với xu hướng thị trường vì
vậy sự dừng lại chưa tạo ra một xu hướng giảm giá ngay. Đôi khi điểm dừng
lại của đường tiệm cận xuất hiện như 1 sự gián đoạn hoặc báo hiệu 1 xu
hướng giảm giá mạnh, ủng hộ cho sự đảo ngược về giá.
Mô hình “ đầu và vai” là một trong nhiều loại mô hình đồ thị khác nhau
mà được sử dụng để hoạch định cho chiến lược về giá. Các nhà phân tích đo
lường khoảng cách từ đỉnh “head” đến đường tiệm cận của đồ thị sau đó trừ đi
khoảng cách từ điểm ngừng của đường tiệm cận để tính toán xem giá có thể
giảm đến mức nào.
Mô hình “đầu và vai” đảo ngược (Head-and-shoulders bottom
reversal) : các đáy “vai và đầu” cũng giống các đỉnh “vai và đầu” nhưng
ngược lại. Điều này có nghĩa là giá trượt xuống 1 mức thấp (left shoulder),
tăng trở lại sau 1 thời gian, sau đó giảm xuống đến 1 mức thấp hơn (head), lại
tăng trở lại và sau cùng là hạ xuống lần nữa đến 1 mức thấp xấp xỉ với mức
“left shoulder” (right shoulder).
Hình 1.6 Mẫu hình Vai- đầu- vai đảo ngược
24
Đường tiệm cận của đồ thị rất quan trọng. Khi giá vượt khỏi đường
tiệm cận này, mô hình đảo ngược kết thúc và 1 xu hướng tăng tiềm năng có
thể xuất hiện. Cùng với các đỉnh “ vai và đầu”, có thể có 1 vài giao dịch về
phía sau và phía trước theo cả 2 phía của đường tiệm cận khi thị trường quyết
định chọn hướng đi, và khoảng cách giữa đường tiệm cận và đỉnh “head” có
thể được sử dụng để dự đoán xem giá có thể biến động như thế nào.
4. Các Lý thuyết cơ bản và công cụ sử dụng trong phân tích kĩ thuật
4.1 Lý thuyết Dow
Là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật trên thị trường. Mặc dù
nó thường bị coi là trễ so với thị trường nhưng nó vẫn được đông đảo những
người có quan tâm đến và tôn trọng. Cơ sở để xây dựng cũng như đối tượng
nghiên cứu của lý thuyết chính là những biến động của bản thân thị trường
(thể hiện trong chỉ số trung bình của thị trường). Lý thuyết này được áp dụng
cho phân tích kĩ thuật trên mọi thị trường không chỉ riêng chứng khoán mà cả
trong kinh doanh ngoại hối nó cũng được xem là một lý thuyết nền tảng. Khi
nghiên cứu lý thuyết Dow các nguyên lý quan trọng sau:
a, Giá đóng cửa hàng ngày phản ánh tất cả hành động của thị trường
b, Mô tả thị trường có 3 xu thế
- Xu thế cấp 1: là những chuyển động lớn của tỷ giá, bao hàm cả thị
trường, thường sử dụng biểu đồ ngày và biểu đồ tuần. Còn đối với thị trường
chứng khoán xu thế này có thể kéo dài trong cả vài năm.
- Xu thế cấp 2: là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá
trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Thường thì những biến động trung
gian này kéo dài trong nhiều giờ cho đến 1 tuần.
- Xu thế nhỏ: đây là những dao động trong thời gian ngắn, thông
thường các nhà phân tích thường dùng các biểu đồ 1 phút hoặc 5 phút để phân
tích các biến động ngắn hạn này. Bản thân những dao động ngắn này không
thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian.
25
c, Mỗi xu hướng chính đều trải qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn tích lũy: thể hiện việc mua của các nhà đầu tư tinh thông.
- Giai đoạn tham gia công chúng: xảy ra khi giá bắt đầu tăng
- Giai đoạn phân phối: xảy ra khi khối lượng có tính chất đầu cơ và sự
tham gia công chúng gia tăng.
d, Giá và khối lượng giao dịch có mối quan hệ nền tảng cơ bản:
- Khối lượng tăng khi giá phục hồi và thu hẹp khi giá giảm
- Nếu khối lượng thu hẹp khi giá tăng và gia tăng khi giá giảm cảnh
báo sự đảo chiều của xu hướng chính.
4.2 FIBONACCI
Leonard Fibonacci là một nhà toán học nổi tiếng người Ý, đã khám phá
ra những dãy số đơn giản tạo ra các tỉ số mô tả sự cân xứng tự nhiên của các
sự vật trong vũ trụ. Các tỉ lệ đó xuất hiện từ dãy số sau: 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21,
34….Dãy số này thu được bằng cách bắt đầu với 1 và 2, sau đó cộng 1+2 =3,
là con số thứ ba rồi tiếp tục như vậy tìm ra các số tiếp theo trong dãy số này.
Sau vài con số đầu tiên tạo thành dãy, nếu ta tính toán tỉ số của bất kì số nào
với con số lớn hơn kế tiếp, ta sẽ được 0,618. Nếu tính tỉ số giữa 2 con số xen
kẽ nhau, ta được 0,382. Fibonacci là một chủ đề rộng lớn và có nhiều cuộc
nghiên cứu khác nhau về nó với những cái tên kỳ lạ và được coi là “tỉ lệ
vàng”
- Fibonacci hồi truy mức độ: 0,236; 0,382; 0,500; 0,618; 0,764
- Fibonacci mở rộng mức độ: 0,00; 0,382; 0,618; 1,000; 1,382; 1,618.
Các tỉ số trên sẽ được phần mền tự động thực hiện. Những nhà giao
dịch dùng những mức hồi truy Fibonacci như là mức sàn và mức trần.
Fibonacci hồi truy (FR)
Được xác định trước tiên bằng cách vẽ đường thẳng nối kết giữa hai
điểm giá cao nhất và thấp nhất của đồ thị giá trong giai đoạn phân tích. Một
loạt 9 đường nằm ngang sau đó được vẽ lên tại các mức Fibonacci 0.0%,
26
23.6%, 38.2%, 50%, 61.8%, 100%, 161.8%, 261.8%, và 423.6% tương ứng
với chiều cao tính từ điểm giá cao nhất đến thấp nhất (một số đường có thể
không được vẽ ra khi nằm ngoài quy mô phân tích của đồ thị)
Hình 1.7 Các mức giới hạn của Fibonacci hồi truy.
Đối với tín hiệu mua vào, khi giá chạm vào điểm A thể hiện một tín
hiệu mua trong ngắn hạn, khi giá tăng đến điểm B thì giá sẽ điều chỉnh xuống
điểm C nó là một điểm hỗ trợ rất mạnh tương ứng với F 61.8, do đó tại C giá
sẽ bật ngược trở lại.
Đối với tín hiệu bán ra, khi giá chạm đến điểm A nó bắt đầu thể hiện một
tín hiệu bán ra trong ngắn hạn, giá giảm xuống điểm B thì sẽ có sự điều chỉnh cho
giá qua trở lại điểm C, tuy nhiên nó lại trùng với mức kháng cự mạnh nhất F61.8
rồi sẽ lao xuống trở lại. Trong những giai đoạn như thế này, giá thường lên cao
trong 2-5 ngày rồi lại xuống thấp, biến động giá cứ diễn ra liên tục cho đến khi nó
gặp mức kháng cự hay hỗ trợ mạnh nhất rồi tiếp tục đảo chiều.
Fibonacci mở rộng:
Ứng dụng kế tiếp của Fibonacci mở rộng là để thu lại lợi nhuận từ
những biến đổi của giá trên thị trường. Người ta thường dùng Fibonacci hồi
truy để vào thị trường và dùng Fibonacci mở rộng để tìm những ngưỡng thoát
ra khỏi thị trường. Một ví dụ mô tả dưới đây sẽ giúp ta hiểu hơn về việc sử
dụng Fibonacci mở rộng.
27
Mức giá mục tiêu để thoát khỏi thị trường là điểm D, mức hỗ trợ giá
đảo chiều đi lên F61.8 (fibonacci retracement) là C, điểm C này có thể tính
toán được dựa trên các mức giá tại điểm A và B, nhưng tất cả các phần mềm
hiện nay đều có thể tự tính cho chúng ta. Khi giá đi từ A lên đến B rồi lại đi
xuống gặp ngưỡng hỗ trợ mạnh nhất F 61.8 thì giá có thể quay trở lại mức
161.8% (điểm D) lúc này ta có thể thoát ra khỏi thị trường, tuy nhiên giá vẫn
còn có thể lên cao hơn nữa
Hình 1.8 Fibonacci mở rộng
4.3 Mức sàn, mức trần, đường xu hướng và kênh xu hướng.
4.3.1 Mức sàn (support) và mức trần (resistance)
Mức sàn và mức trần là một trong những khái niệm quan trọng nhất
trong giao dịch, nhưng dường như mọi người đều có những ý tưởng riêng cho
mình để xác định mức trần hay mức sàn.
4.3.2 Đường xu hướng
Đường xu hướng là một phương pháp phân tích kĩ thuật thường dùng
nhất trong giao dịch ngày nay, và cũng được xem là rất hiệu quả.
28
Nếu vẽ đúng những đường xu hướng có thể chính xác như bất kì
phương pháp nào khác. Những lại có rất nhiều nhà giao dịch đã vẽ chúng
không đúng hoặc cố tình vẽ đường xu hướng khớp với thị trường dẫn đến việc
giao dịch không hiệu quả. Theo cách đơn giản nhất, một đường xu hướng đi
lên được vẽ dọc theo những đáy của các mức sàn (khu vực đáy). Còn đường
xu hướng đi xuống vẽ dọc theo những đỉnh của khu vực mức trần.
4.3.3 Kênh xu hướng
Để tạo một kênh đi lên chúng ta có thể vẽ một đường song song cùng
với đường xu hướng đi lên, và sau đó dịch chuyển chúng đến vị trí sao cho
chúng chạm vào những điểm cao nhất vừa mới hình thành.
Để tạo một kênh đi xuống đơn giản là vẽ một đường song song cùng
đường xu hướng đi xuống, và sau đó di chuyển chúng đến vị trí sao cho
chúng chạm vào những điểm thấp nhất vừa mới hình thành.
Khi giá chạm vào đường kênh ở dưới đáy thì đó là cơ hội để mua vào. Và
ngược lại khi giá chạm vào đường kênh phía trên thì đó được xem là lúc để bán ra.
4.4 Đường trung bình động
Một đường trung bình động chỉ đơn giản là một cách để làm mềm biến
động của giá cả theo thời gian. Khi nói: “đường trung bình động” thì có nghĩa
là lấy giá đóng cửa trung bình của một đồng tiền trong X chu kì cuối cùng.
Giống như các vật chỉ thị khác, đường trung bình động được dùng để
dự báo giá ở tương lai. Bằng cách xem xét độ dốc của trung bình động, ta sẽ
có những dự báo tổng quát như là giá sẽ đi đến chỗ nào.
Đường trung bình động có vai trò làm mềm dao động của giá. Có nhiều
dạng đường trung bình động khác nhau, và mỗi đường có mức độ làm phẳng
khác nhau. Thông thường, đường trung bình động càng mềm (phẳng) bao
nhiêu, thì nó thể hiện sự phản ứng chậm đối với sự biến động giá bấy nhiêu
(đáp ứng với sự thay đổi về giá càng chậm). Đường trung bình động càng
29
nhấp nhô, thì nó thể hiện sự phản ứng càng nhanh đối với sự biến động giá
(đáp ứng đối với sự thay đổi về giá càng nhanh).
- Trung bình động đơn giản (SMA): một đường trung bình động đơn
giản là loại đơn giản nhất trong các trung bình động. Về căn bản, một điểm
trung bình động đơn giản được tính bằng cách cộng tất cả các giá đóng cửa
của X chu kì cuối cùng và rồi chia số đó cho X.
- Trung bình động theo hàm số mũ (EMA): Đường trung bình động
theo hàm số mũ đặt trọng số lớn hơn cho những chu kỳ gần nhất vì thế nó chỉ
cho ta thấy các nhà giao dịch đang làm gì. Hơn thế nữa, các nhà giao dịch
thường dùng biểu đồ khung thời gian ngắn đối với đường EMA, những giá trị
của nó sẽ giúp ta bắt kịp xu hướng rất nhanh để có thể đạt kết quả với lợi
nhuận cao hơn.
4.5 Đường Bollinger Bands
Bollinger bands được sử dụng để đo lường sự biến động của thị trường.
Một cách cơ bản, công cụ này cho chúng ta biết thị trường đang QUIET- ít
biến động hay thị trường đang LOUD- giá dao động mạnh. Khi thị trường ít
biến động thì hai đường co lại, và khi thị trường biến động mạnh thì hai
đường tách xa nhau. Điểm nổi bật của Bollinger bands là giá luôn có xu
hướng trở về mức giá trị giữa hai đường biên. Đó là toàn bộ ý tưởng phía sau
của Bollinger bands , nó hoạt động như một mức giá sàn phụ và mức giá trần
phụ. Nếu chúng ta sử dụng khung thời gian càng dài thì Bollinger bands càng
mạnh. Sự thắt chặt của Bollinger bands là một điều rất tốt. Khi hai band thắt
chặt lại với nhau, nó thường có nghĩa rằng sự đột phá sắp xảy ra. Nếu thanh
nến bắt đầu phá lên band trên, sau đó thường sẽ tiếp tục đi lên. Nếu những
thanh nến bắt đầu phá xuống dưới, sau đó thường tiếp tục đi xuống. Những
thiết lập về giá trong Bollinger bands không diễn ra mỗi ngày nhưng chúng ta
có thể nhận ra chúng vài lần trong một tuần nếu xem biểu đồ 15 phút
30
4.6 MACD
MACD là một từ viết tắt của đường trung bình hội tụ phân kì. Công cụ
này được sử dụng để nhận ra những giá trị trung bình động mà có thể chỉ ra
cho ta thấy một xu hướng mới, bất kể nó đi lên hay đi xuống. Sau cùng, ưu
thế số một của chúng ta trong giao dịch là có thể nhận ra một xu hướng, bởi vì
đó là nơi mà hầu hết tiền được tạo ra.
Với MACD chúng ta sẽ thấy 3 con số được thiết lập cho nó. Con số thứ
nhất là con số chỉ chu kỳ được sử dụng để tính đường dịch chuyển nhanh, số
thứ hai là số chỉ chu kỳ sử dụng cho đường dịch chuyển chậm, và số thứ ba là
số cột được sử dụng để tính đường trung bình, nó nằm giữa số thứ nhất và số
thứ hai.
Hình 1.9 Bolinger band, đường trung bình động- MA và đường trung
bình hội tụ phân kì-MACD
Biểu đồ này đơn giản là vẽ lên sự khác nhau giữa đường trung bình
Fast và Slow. Nếu ta nhìn vào bản đồ nguyên bản ta có thể thấy rằng khi hai
đường trung bình tach rời nhau thì biểu đồ sẽ bung ra to hơn. Điều này gọi là
sự phân kì bởi vì đường Fast tách ra hay di chuyển xa dần đường Slow. Khi
31
hai đường trung bình tiến lại gần nhau thì biểu đồ thu nhỏ lại. Điều này gọi là
sự hội tụ bở gì đường Fast đang hội tụ hay tiến lại gần đường Slow.
Một mặt hạn chế của MACD là đường trung bình có khuynh hướng
thường chậm hơn so với giá. Bởi vì nó chỉ là trung bình của giá quá khứ. Khi
MACD thể hiện trung bình của các đường trung bình, sau đó lại được làm
phẳng bằng một đường trung bình khác nữa nên ta có thể hình dung được
rằng nó đã bị chậm một khoảng khá nhiều. Tuy nhiên, nó vẫn là một công cụ
rất ưa thích của các nhà giao dịch.
4.7 PARABOLIC SAR
Parabolic Sar là một công cụ dùng để nhận biết nơi kết thúc của một xu
hướng. Một đường Parabolic Sar (stop and reversal- Kết thúc và đảo chiều)
được vẽ bởi những chấm, hoặc những điểm. Nó chỉ ra một sự đảo chiều tiềm
năng trong sự di chuyển của giá.
Parabolic Sar là một công cụ rất đơn giản. Cơ bản, khi các chấm ở phía
dưới thanh nến, đó là dấu hiệu để mua; và khi những chấm ở phía trên thanh
nến, đó là dấu hiệu để bán. Đây hầu như là một dấu hiệu sớm nhất được thể
hiện bởi vì nó cho biết giá cũng lên hay xuống như vậy. Như vậy công cụ này
tốt nhất sự dụng trong thị trường có xu hướng, và không nên sử dụng trong thị
trường không ổn định khi giá di chuyển vô hướng.
4.8 STOCHASTICS
Stochastics là một công cụ chỉ thị khác giúp ta nhận ra đâu là nơi một
xu hướng có thể kết thúc. Bằng định nghĩa, Stochastics là một công cụ đo
lường điểm không thể mua và điểm không thể bán trong thị trường. Hai
đường tương tự như MACD vì cũng có một đường nhanh và một đường
chậm. Thang đo Stochastics dao động từ 0 100, khi các đường Stochastics
lớn hơn 70 nó có nghĩa là thị trường lúc này không nên mua nữa. Khi các
đường Stochastics thấp hơn 30 nó có nghĩa rằng thị trường lúc này không nên
32
bán nữa. Như một quy luật, ta mua khi thị trường không thể bán và ta bán khi
thị trường không thể mua.
4.9 Chỉ số sức mạnh tương đối ( Relative strength index- RSI)
RSI tương tự như Stochastics là nó chỉ ra điểm không thể mua và điểm
không thể bán trong thị trường. Nó cũng dao động từ 0100. Nếu dưới 20 là
không thể bán, nếu trên 80 thì ta không thể mua.
RSI có thể được sử dụng như Stochastics, từ biểu đồ dưới đây ta có thể
thấy rằng khi RSI rớt xuống 20, nó rõ ràng cho thấy một thị trường không thể
bán. Sau khi rớt, giá đã nhanh chóng quay trở lại. RSI là một công cụ rất phổ
biến bởi vì nó có thể được sử dụng để xác nhận sự hình thành một xu hướng.
Nếu ta nghĩ một xu hướng đang được hình thành, hãy nhìn vào RSI và nhìn
vào nơi nào nó lớn hơn và nhỏ hơn 50. Nếu ta nhìn thấy một xu hướng lên,
sau đó phải chắc chắn rằng RSI lớn hơn 50. Nếu nhìn thấy một xu hướng đi
xuống sau đó phải chắc chắn rằng RSI nhỏ hơn 50.
Hình 1.10 PARABOLIC SAR, STOCHASTICS, RSI-chỉ số sức mạnh
tương đối
33
Mỗi công cụ phân tích trong phân tích kĩ thuật đều mang một đặc điểm
riêng, có những công cụ chỉ phục vụ hiệu quả cho việc dự đoán xu hướng
trong ngắn hạn, dài hạn ví dụ MACD, MA, Bolingerband, Stochastic… có
những công cụ có thể cho ta biết thời điểm tham gia hay rút lui thích hợp khỏi
thị trường. Chính vì vậy mà phân tích kĩ thuật là việc kết hợp linh hoạt nhiều
công cụ phân tích khác nhau chứ không chỉ riêng một công cụ đặc biệt nào.
Mỗi nhà kinh doanh trên thị trường đều thiết lập cho mình một hệ thống công
cụ phân tích riêng tùy theo mức độ hiểu biết, khả năng phân tích của họ, tính
sợ rủi ro, mục tiêu kinh doanh trong dài hạn hay ngắn hạn.
III. Những đặc điểm cơ bản của kinh doanh trên thị trường ngoại hối.
1. Các đồng tiền giao dịch trên thị trường ngoại hối
Do hàng hóa kinh doanh trên thị trường này là các đồng tiền của các
quốc gia. Nó không chỉ phản ánh sự lưu thông của hệ thống tiền tệ mà còn là
một tấm gương phản chiếu những điểm yếu của nền kinh tế đó. Hơn thế nữa,
các cơ quan quản lí chính sách luôn thông qua thị trường tiền tệ để điều tiết
nền kinh tế bằng các chính sách tiền tệ hay chính sách tài khóa. Không giống
với việc phân tích cơ bản trên thị trướng chứng khoán, các nhà phân tích cơ
bản trên thị trường ngoại hối phải sử dụng những hệ thống thông tin phản ánh
thực trạng của cả một nền kinh tế để đưa ra những quyết định giao dịch mua
bán ngoại tệ.
2. Hình thức kinh doanh
Các nhà giao dịch trên thị trường ngoại hối có thể thông qua công ty
môi giới hoặc giao dịch trực tiếp bằng chính tài khoản của mình mở tại một
công ty kinh doanh ngoại hối. Do đặc điểm của thị trường này là một thị
trường toàn cầu, không nhất thiết phải tập trung tại một vị trí hữu hình nhất
định và hoạt động mua bán có thể diễn ra ở bất cứ đâu, thông tin cân xứng,
khối lượng giao dịch rất lớn, công nghệ hiện đại nên các hoạt động kinh
doanh trên thị trường này trở nên hiệu quả và phát triển nhanh chóng.
34
3. Lợi nhuận trong kinh doanh ngoại hối
Đây là một thị trường có đòn bẩy tài chính cao nhất với tỉ lệ thông
thường là 1:50; 1: 100, hoặc có thể lên tới 1: 200, so với thị trường chứng
khoán tỉ lệ này là 1: 1 và 1:2, thị trường Future cũng cung ứng một tỉ lệ khá
cao 1:15. Hơn nữa đây là thị trường có tính thanh khoản cao nhất, tỷ giá biến
động không bị chi phối hay kiểm soát bởi bất kì một định chế tài chính nào,
chi phí mỗi lần giao dịch thấp và có thể giao dịch 24 giờ trong 1 ngày. Chính
vì những đặc điểm này mà các nhà giao dịch có thể kiếm lợi nhuận lớn trong
một thời gian ngắn mà ở thị trường chứng khoán hay bất cứ thị trường nào
khác không thể đáp ứng được. Hơn nữa, phương pháp phân tích kĩ thuật được
xem là khá hiệu quả khi áp dụng ở thị trường này đồng thời trong giao dịch
ngoại hối thông thường ta chỉ chọn một hoặc 2 cặp tiền tệ để giao dịch, chính
vì vậy mà mức độ tập trung sức lực và trí tuệ cho phân tích cũng hiệu quả hơn
là phân tích cả một danh mục gồm hàng chục cổ phiếu như trong phân tích
chứng khoán.
4. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
Bất cứ một lĩnh vực đầu tư nào lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro. Trong
kinh doanh ngoại hối cũng vậy, rủi ro thua lỗ trong giao dịch là rất lớn và có
thể không thích hợp với một số nhà đầu tư ngại rủi ro. Ngoài những rủi ro
phát sinh từ phía nhà kinh doanh như khả năng dự báo thị trường sai lệch dẫn
đến quyết định giao dịch thua lỗ, rủi ro do thiết bị kĩ thuật hoạt động không
tốt, hệ thống giao dịch bị hỏng chúng ta có thể mất cơ hội thực hiện một lệnh
mua, bán nào đó…thì còn có những rủi ro cơ bản và có tính phổ biến khác
trên thị trường ngoại hối:
a, Rủi ro tỉ giá
Đây là loại rủi ro thường trực, gắn liền và trở thành rủi ro đặc trưng của
hoạt động kinh doanh ngoại hối. Nó bắt nguồn từ trạng thái ngoại tệ không
cân xứng của nhà giao dịch và chỉ xảy ra khi trạng thái ngoại hối mở. Ví dụ,
35
khi giao dịch mua bán đồng Yên bằng tài khoản gốc là đồng Đô la Mĩ, nếu tài
khoản đang ở trạng thái trường đồng Yên thì khi tỉ giá USD/ JPY tăng, chúng
ta sẽ gặp phải rủi ro tỉ giá, tài khoản lúc này đổi sang USD sẽ bị lỗ. Một
nguyên nhân khác của loại rủi ro này đó là do cung-cầu ngoại tệ trên thị
trường, cán cân thanh toán quốc tế, chính sách thuế quan, năng suất lao động,
tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước, lãi suất giữa các đồng tiền…
b, Rủi ro lãi suất
Sự tăng giảm lãi suất đồng tiền trong cặp tiền vào thời gian giao dịch sẽ
ảnh hưởng đến lượng tiền lãi/ phí có thể phải trả cho nhà môi giới hàng ngày
để duy trì lệnh giao dịch
c, Rủi ro thanh khoản
Là rủi ro khi công ty môi giới giữ tài khoản giao dịch không còn khả
năng để thanh toán khi chủ tài khoản yêu cầu rút tiền. Muốn kiểm tra xem
công ty môi giới đó có đủ uy tín không ta có thể kiểm tra thông qua những
đánh giá trên trang web www. nfa.futures.org. Bởi vì các công ty môi giới có
uy tín đều phải đăng kí qua hiệp hội hợp đồng tương lai quốc gia (National
Futures Association)
36
Chương II. Ứng dụng phân tích biến động của cặp tỉ giá
USD/JPY trong tháng 1 năm 2010 tại thị trường Mĩ
Những kiến thức lí thuyết trên chúng ta có thể tìm ở bất cứ thư viện
sách, ở rất nhiều trang web cung cấp thông tin về kinh doanh ngoại hối.
Nhưng việc áp dụng chúng như thế nào thì tuỳ thuộc vào khả năng nghiên
cứu, phân tích và nguồn thông tin mà người kinh doanh nắm bắt được. Một số
web cung cấp thông tin về kinh tế Mĩ: Cục thống kê lao động: www.bls.gov,
Cục dự trữ liên bang: www.federalreserve.gov. Những thông tin ở các trang
web này đều được công bố rộng rãi, tuy nhiên thị trường ngoại buôn bán
ngoại tệ là một thị trường nhạy cảm đến từng giây, từng phút, cho nên việc
theo dõi lịch công bố thông tin cũng là một việc rất quan trọng để có thể nắm
bắt tình hình kinh tế và quyết định giao dịch kịp thời. Ta cũng có thể tìm lịch
đó trong rất nhiều website:http://www.bls.gov, http://www.fxstreet.com/. Bên
cạnh các thông tin kinh tế, các nhà giao dịch còn phải theo dõi tình hình tổng
quát chung của toàn bộ nền kinh tế, thông tin chính trị, thiên tai…có tác động
gián tiếp đến thị trường ngoại hối. Tất cả các nhà giao dịch trên thị trường đều
không tiếp nhận thông tin cùng một thời điểm, cùng một nguồn công bố và
không phải họ đều có những lượng thông tin như nhau do vậy quyết định giao
dịch của họ là không giống nhau. Chính điều này đã tạo ra sự không hoàn hảo
của thị trường và vì thế việc kết hợp phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật là
rất quan trọng để có được những giao dịch tốt. Ngày nay, với dịch vụ cung
cấp thông tin chuyên nghiệp của các công ty môi giới, những vấn đề trên cũng
được giải quyết phần nào bằng cách sử dụng các phần mềm hỗ trợ cung cấp
thông tin kịp thời và chính xác, các công cụ ứng dụng trong phân tích kĩ thuật.
Để rõ hơn về tác động của những thông tin kinh tế và lý thuyết phân tích kĩ
thuật chúng ta sẽ sử dụng kết hợp hai công cụ phân tích này để giải thích biến
37
động trên thị trường ngoại hối của cặp tiền tệ USD và JPY trong tháng 1 năm
2010. Hoa Kì và Nhật Bản là hai cường quốc kinh tế trên thế giới, kinh tế của
hai quốc gia này đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế, vì thế
đồng đôla Mĩ và Yên Nhật cũng giữ một vị trí chủ đạo trong giao dịch trên thị
trường ngoại hối.
I. Nền kinh tế Mĩ trong những năm gần đây.
Hoa Kì là quốc gia đi đầu trong nền kinh tế thế giới chính vì vậy mà
đồng USD luôn giữ một vai trò chủ đạo trong giao dịch thương mại quốc tế
và chiếm 60% tổng dự trữ của ngân hàng trung ương năm 2007. Tăng trưởng
GDP bình quân năm 2007 đạt 2,53% nhưng đến năm 2008 cuộc khủng hoảng
tài chính bắt đầu bùng nổ do bong bóng tài sản cầm cố bắt đầu được bơm
căng vào năm 2001 và chỉ trong vài năm đã trở nên đáng lo ngại. Nhu cầu về
chứng khoán cầm cố vẫn ở mức cao nhưng việc thanh toán các tài sản cầm cố
trước hạn, vỡ nợ và những đổ vỡ khác liên quan đến các sản phẩm tài chính
phái sinh đã khiến cho giá trị tài sản sụt giảm. Vào cuối mùa hè năm 2007, lãi
suất ngắn hạn bắt đầu tăng lên sau khi đạt mức thấp nhất trong lịch sử, các
dấu hiệu rạn nứt bắt đầu được nhận ra khi giá trị ký quỹ và giá trị tài sản bắt
đầu lao xuống dốc, từ đó khiến khủng hoảng ngân hàng và bảo hiểm bùng nổ
chỉ trong vài tháng. Trong năm 2008, GDP giảm mạnh chỉ còn – 1,83%, tỉ lệ
thất nghiệp gia tăng nhanh chóng từ 5% tháng 1/2008 lên 7,4% tháng
12/2008, và duy trì ở mức cao trong cả năm 2009 (tháng 10/2009 là 10,1%).
Tỷ lệ thất nghiệp vẫn không hề suy giảm đáng kể trong quý I năm 2010. Với
sự nỗ lực cứu vãn nền kinh tế bằng các gói cứu trợ khổng lồ của tân tổng
thống Barack Obama GDP của quý III, IV năm 2009 đã có dấu hiệu tăng
dương trở lại và kéo GDP cả năm tăng thêm 0.25% nhưng tình trạng thất
nghiệp vẫn duy trì ở mức cao 9,7% trong 2 tháng đầu năm 2010. Cũng theo
đó các chỉ số bán lẻ, chỉ số lòng tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp, sản
lượng xuất nhập khẩu cũng giảm mạnh, tình trạng giảm phát đã bắt đầu xuất
38
hiện từ tháng 3/2009 và kéo dài đến hết tháng 10/2009. Theo truyền thống,
nền kinh tế Mĩ đã từng trải qua nhiều thời kì dài phát triển thịnh vượng trước
khi lâm vào khủng hoảng có tính chu kỳ. Những đợt suy thoái này thường
được châm ngòi bởi bong bóng tài sản và lặp đi lặp lại 8 lần kể từ năm 1873-
thời điểm cuộc suy thoái kinh tế lớn đầu tiên nổ ra ở New York cho đến năm
1929. Mỗi đợt suy thoái có mức độ nghiêm trọng không giống nhau, thời kì
Đại suy thoái năm 1929 đã buộc nước Mĩ phải tìm kiếm những biện pháp cải
cách hệ thống ngân hàng và các thị trường chứng khoán.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính ở Mĩ ảnh hưởng đến toàn cầu,
các nền kinh tế lớn đều bị tác động một cách tiêu cực và cũng cố gắng đưa
nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái. Nhưng trong dài hạn vẫn phải thừa
nhận rằng chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế toàn cầu
và đặc biệt là sự phát triển của khu vực châu Á, điều đó cũng có nghĩa là
trong những năm tiếp theo sự vượt trội của nền kinh tế Mĩ sẽ giảm đi. Tuy
nhiên, Mĩ vẫn duy trì được vị trí quan trọng trung tâm của kinh tế thế giới, và
các nhà giao dịch ngoại hối cũng sẽ phải chú tâm đến những biến động của
kinh tế Mĩ. Đặc biệt là các nhà giao dịch kinh doanh những cặp tiền tệ có một
đồng tiền là đồng đô la Mĩ. Họ đang phải đánh giá hoặc dự đoán về xu hướng
tăng giảm giá trị của đồng đô la so với các đồng tiền khác. Họ cũng phải dự
báo thị trường đầu cơ giá lên hay giá xuống của đồng đôla trong những phiên
giao dịch tiếp theo. Để giải quyết những vẫn đề này, đầu tiên ta có thể xem
xét vị trí của đồng đô la trên thị trường tiền tệ quốc tế và đánh giá mức độ
mạnh yếu của nó bằng cách nhìn vào chỉ số khối lượng giao dịch (The trade-
weighted Index TWI), nó đo lường giá trị của một đồng tiền với một rổ đồng
tiền mà nó có khối lượng trao đổi thương mại lớn nhất. Nếu chỉ số này giảm
xuống dưới 80 thì đó là một dấu hiệu xấu, một sự sụt giảm giá trị đồng đôla
chưa từng có trong nhiều năm trước đó. Chúng ta cũng có thể dựa vào biểu đồ
TWI này để vạch kế hoạch kinh doanh ngoại hối trong tương lai
39
Hình 2.1 Khối lượng giao dịch của đồng USD
Nguồn: Cục dự trữ liên bang Hoa Kì
Theo số liệu thống kê năm 2006 của Ngân hàng liên bang Autralia khối
lượng giao dịch các cặp tiền tệ USD/ EUR chiếm 38.74% trong tổng số giao
dịch đồng EUR, cũng tương tự như vậy đối với các cặp tiền USD/AUD chiếm
23,32%, USD/ GBP chiếm 21,27%, USD/NZD là 30,94%, USD/ CAD chiếm
86,59%, USD/JPY chiếm 60,91%... ta có thể thấy rằng đồng đô la Mĩ không
chỉ chiếm một vị trí quan trọng trong buôn bán quốc tế mà cả trên thị trường
ngoại hối nó cũng cho thấy rõ tính thanh khoản lớn nhất của mình. Chính vì
những lí do như trên mà bất cứ nhà giao dịch trên thị trường ngoại hối nào
cũng luôn cân nhắc đến việc tham gia vào mua bán đồng USD. Mặc dù trong
vài năm gần đây diễn biến nền kinh tế có những dấu hiệu lao dốc và nhất là
trong thời gian khủng hoảng vừa qua, một mặt các chỉ báo kinh tế đều cho
thấy tình trạng suy thoái trầm trọng và lan rộng ra nhiều quốc gia khác. Mặt
khác các nhà kinh tế học liên tục đưa ra các luận điểm chống lại đồng đôla
Mĩ, họ chỉ ra nhiều điểm yếu của đồng đôla và khe hở của nền kinh tế Mĩ
đồng thời đưa ra những lời cảnh báo không có lợi cho đồng USD và đề nghị
các quốc gia giảm bớt sự phụ thuộc vào đồng đô la trong giao dịch thương
mại quốc tế. Những sự việc này đã làm cho thị trường ngoại hối luôn ở trong
trạng thái biến động thất thường. Nó tiềm ẩn một rủi ro lớn nhưng cũng là cơ
40
hội cho rất nhiều nhà giao dịch ngoại hối muốn tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn
hạn. Để hiểu rõ hơn thị trường ngoại hối và tự tìm ra những chiến lược riêng
cho mình chúng ta cần tiến hành nghiên cứu chi tiết các thông số thống kê của
nền kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn để có được cái nhìn toàn cảnh về sức
mạnh của đồng tiền tham gia giao dịch và ra quyết định kịp thời, đúng đắn để
có thể thành công trên thị trường hấp dẫn và đầy rủi ro này.
II. Kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn suy thoái.
Nhật Bản đã giữ vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong nhiều năm
qua và chỉ mới đánh mất vị trí đó trong những năm gần đây, theo báo cáo
kinh tế thường niên của Cục dự trữ liên bang Mĩ, tháng 7/ 2006 tổng sản
phẩm quốc dân của Trung Quốc tính dựa trên ngang giá sức mua của đồng
USD chỉ sau Hoa Kì. Mặc dù vậy nhưng điều đó không có nghĩa là nó đã là
một trong những nền kinh tế thành công. Thời kì bong bóng kinh tế 1987-
1991 Nhật Bản đã đạt được những bước tiến vượt bậc trong mọi lĩnh vực kinh
tế, đây được biết đến như thời kì hoàng kim của những chiếc xe ôtô hạng
sang, thực phẩm đắt tiền, những cuộc đấu giá của các tác phẩm nghệ thuật kỳ
dị và sự nổi lên của thời trang hàng hiệu và trang sức đắt tiền. Cũng trong thời
gian này giá nhà đất ở những vùng trung tâm thành phố tăng gấp 3 lần từ năm
1985- 1989 và cuối cùng là sự tăng nhanh của các khoản tín dụng mua nhà.
Năm 1989 chỉ số Nikkei 225 đã đạt tới 39000 điểm, chỉ số này được tính trên
giá trị của 225 cổ phiếu hàng đầu được niêm yết trên sản giao dịch Tokyo.
Nhưng cho đến năm 1990 nó đã giảm 39% và tháng 3/2007 nó chỉ còn 17400
điểm. Đây là một dấu hiệu và bằng chứng điển hình của sự suy thoái kinh tế,
trong những năm 90 kinh tế Nhật đã phải trải qua “thập niên suy thoái” (The
Lost Decade). Từ năm 1995- 2002 tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm
ở Nhật là 1,2% thấp hơn rất nhiều so với các nước như Mĩ 3,2%, Canada
3,4%, Anh 2,7% và Autralia 3,8%. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra sự trì trệ
này nhưng nguyên nhân chính của nó là sự giảm sút trong đầu tư và tiêu dùng
41
cá nhân ở Nhật. Theo nghiên cứu của Charles Horioka “Những nguyên nhân
suy thoái kinh tế ở Nhật: Vai trò của tiêu dùng hộ gia đình” thì GDP của nó
được tính dựa trên 6 thành phần chính: một là, chi tiêu hộ gia đình thực tế; hai
là, chi tiêu công thực tế; ba là, đầu tư tư nhân; bốn là, đầu tư chính phủ; năm
là, sự thay đổi của hàng tồn kho và sáu là, xuất khẩu ròng.
Bảng 2.1 Tăng trưởng thực tế bình quân của các thành phần đóng góp
vào GDP hàng năm từ 1980 đến 2003
Nguồn: Naikakufu Keizai Shakai Sougou Kenkyuusho (Viện nghiên cứu
kinh tế xã hội, văn phòng nội các chính phủ Nhật Bản), Kokumin Keizai
Keisan Nenpou (Báo cáo tài khoản quốc gia thường niên), xuất bản 2005
(Tokyo: Media- Rando Kabushiki Kaisha, 2005)
Trong đó:
-Actual final consumption of households: chi tiêu hộ gia đình thực tế
- Government actual final consumption: chi tiêu công thực tế
Trong 6 thành phần này chi tiêu hộ gia đình chiếm một tỉ lệ lớn trong
tổng giá trị GDP 57,24% trong giai đoạn 1980- 1991, và 85,4% trong giai
đoạn 1991- 2003 và cũng có mức giảm tương ứng từ 3,59% xuống còn
1,56%. Nguyên nhân của việc tiêu dùng giảm sút là do thu nhập khả dụng và
42
sự giàu có của hộ gia đình suy giảm dẫn đến mối lo sợ trong tương lai và
thiếu lòng tin vào nền kinh tế. Khi một nhà giao dịch ngoại hối hiểu rõ các
khu vực kinh tế trì trệ như Nhật Bản thì họ sẽ hiểu sâu sắc tại sao Nhật Bản
ngày nay vẫn không thể phục hồi nền kinh tế mạnh mẽ như trong giai đoạn
bong bóng. Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy khu vực đầu tư tư nhân giảm sút
nghiêm trọng từ 6,11% (1980-91) xuống còn -0,59 % (1991-2003) và tỉ trọng
đóng góp cũng giảm sút theo tương ứng 34% xuống -11,5%. Khi các hộ gia
đình đã kém lòng tin vào nền kinh tế họ sẽ có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn
đầu tư, chính những hành động này của người dân đã làm cho nền kinh tế
càng trở nên khó phục hồi hơn.
Rất ít nhà giao dịch ngoại hối nhớ đến thời kì khủng hoảng này của
Nhật Bản mặc dù nó chỉ mới qua đi vài năm trước. Nền kinh tế Nhật sẽ tiếp
tục phải đối mặt với thời kì trì trệ hay thoát khỏi nó và phát triển là tuỳ thuộc
vào những quyết định của Ngân hàng Nhật về mức lãi suất, vào lòng tin của
doanh nghiệp và người tiêu dùng bởi vì nguyên nhân lớn nhất của sự trì trệ
kinh tế này là do thiếu lòng tin để chi tiêu và tiêu dùng. Vì thế, sự tăng chi
tiêu sẽ giúp phục hồi nền kinh tế. Nhưng thật không dễ dàng gì để có thể kích
thích người tiêu dùng Nhật. Do vậy các nhà kinh doanh ngoại hối phải đặc
biệt chú ý tới những báo cáo về lạm phát và chỉ số niềm tin của người tiêu
dùng, nó là bằng chứng cho thấy Nhật bản đã vượt qua được nỗi lo giảm phát
hay chưa. Một ví dụ điển hình vào tháng 3/2007 lần đầu tiên trong 16 năm
qua giá nhà đất ở Nhật bất ngờ tăng và chỉ số lạm phát vượt qua mức 0.0%,
giá trị của đồng Yên so với USD và EUR bắt đầu được củng cố. Nhưng sự
mạnh lên của đồng Yên lại đe dọa đến xuất khẩu của Nhật, vì thế chính phủ
Nhật vẫn tiếp tục duy trì một giá trị đồng Yên thấp để kích thích xuất khẩu.
Lúc này các nhà chúng ta nên nhớ rằng nhờ chế độ tiền tệ thì một nước có thể
được hưởng lợi nhiều nhưng các nước còn lại sẽ bị mất nhiều. Ở thời điểm
này ngân hàng Nhật còn duy trì một lãi suất rất thấp là 0.5% để khuyến khích
43
đầu tư và chi tiêu nhưng mặt trái của của chính sách này là lại khiến dòng vốn
ồ ạt chảy ra nước ngoài, những nước có mức lãi suất cao và điển hình là New
Zealand (8.0% tháng 6/2007). Các nhà đầu tư đã lợi dụng mức chênh lệch lãi
suất này để thực hiện “carry trade” vay đồng Yên và đầu tư vào đồng Kiwi
hay các đồng tiền khác có lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó những nhà giao dịch
đồng Yên cũng nên chú ý tới sự phát triển kinh tế của Trung Quốc bởi nó tác
động đến viễn cảnh tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Trung Quốc đã vượt
qua Mĩ và hiện đang là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật, nếu đồng Yên
mạnh lên thì xuất khẩu của Nhật Bản sẽ bị ảnh hưởng xấu. Ngược lại, nếu duy
trì một đồng Yên yếu sẽ giúp kích thích xuất khẩu, do vậy những báo cáo về
tình trạng xuất nhập khẩu cũng là chỉ báo kinh tế quan trọng cho các nhà kinh
doanh ngoại hối.
Tóm lại, nền kinh tế Nhật Bản đang phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn,
nó có thể phục hồi hay không là tuỳ thuộc vào lòng tin của người tiêu dùng có
đủ lớn để kích thích nền kinh tế hay không và lãi suất đồng Yên có tăng để
duy trì vai trò thống trị về khối lượng giao dịch của đồng Yên hay không.
Hơn thế nữa, Nhật Bản cũng đang phải đổi mặt với nguy cơ thiếu lao động vì
dân số già trong những năm tới. Vì vậy, giao dịch đồng Yên sẽ gặp nhiều
thách thức lớn, nhưng đồng thời cũng đem lại những cơ hội lớn
III. Phân tích biến động tỷ giá USD/JPY trong tháng 1 năm 2010
Nhìn toàn cảnh thị trường ngoại hối trong khoảng 5 năm gần đây ta
thấy tỉ giá USD/JPY đã trải qua những giai đoạn đầy biến động và đang có xu
hướng giảm kể từ giữa năm 2007 đến nay do giá trị của đồng Yên Nhật tăng
so với đô la Mĩ. Nền kinh tế Mĩ trong giai đoạn này phải chứng kiến một cuộc
suy thoái có mức ảnh hưởng tương đương với cuộc đại suy thoái 1929-1932,
gía trị của đồng đôla đã giảm sút đi rất nhiều trên thị trường tiền tệ thế giới.
Có thể kể đến những mốc đáng chú ý nhất là vào giữa năm 2008 các dấu hiệu
suy thoái liên tiếp được công bố, thị trường tài chính chao đảo với hàng loạt
44
ngân hàng hàng đầu tuyên bố phá sản. Mở đầu là vụ phá sản lớn nhất từ trước
tới nay của ngân hàng Lehman Brother- tập đoàn chứng khoán và tập đoàn
ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ, ngày 15 tháng 9 năm 2008. Và hàng
loạt các ngân hàng, tập đoàn bảo hiểm khác cũng lâm vào tình trạng tương tự.
Bên cạnh đó tỉ lệ thất nghiệp liên tục gia tăng, chỉ số về lương, chỉ số lòng tin
người tiêu dùng, chỉ số bán lẻ liên tục giảm sút. Nền kinh tế bắt đầu nún sâu
vào cuộc khủng hoảng cho đến đầu năm 2009 chính phủ Mĩ và các nước khác
cùng hợp tác đưa ra các biện pháp để đối phó với cuộc khủng hoảng này.
Hình 2.2 Diễn biến tỷ giá USD/JPY tháng 4/2007 đến tháng 2/2010 trên
thị trường ngoại hối Mĩ
Tháng 1 năm 2010, các nền kinh tế trên thế giới đã có dấu hiệu phục
hồi rõ nét, các khu vực đồng tiền chung châu Âu, Trung Quốc đều công bố
những kết quả đáng mừng về nền kinh tế của mình. Mĩ cũng đạt được những
mức tăng trưởng đáng kể trong cuối năm 2009 và đầu năm 2010. Năm 2009,
GDP quý III tăng 2,2%, quý IV tăng 5,9%, tỉ lệ lạm phát cũng duy trì ở mức
trên 2% và đã thoát khỏi thời kì giảm phát trầm trọng của năm 2009, tỷ lệ thất
nghiệp có dấu hiệu giảm đi nhưng chưa rõ nét. Có thể kết luận rằng nền kinh
tế thế giới đang dần dần phục hồi. Để biết được chi tiết các chỉ báo kinh tế
trong tháng 1 năm 2010 đã tác động đến tâm lí của các nhà kinh doanh trên
45
thị trường kinh doanh ngoại tệ như thế nào ta sẽ phân tích và xét từng thời
điểm cụ thể sau:
Dùng biểu đồ 4 giờ, tức là mỗi một cây nến tương ứng với một khoảng
thời gian giao dịch là 4 giờ đồng hồ, đồng thời kết hợp với những biểu đồ thời
gian nhỏ hơn 1giờ. Như vậy ta chỉ đi phân tích những biến động chính làm
thay đổi tỉ giá mạnh mẽ trong tháng 1 năm 2010.
Tháng 6/2007 tỉ giá lúc này vào khoảng USD/ JPY=124.20 nhưng liên
tiếp sau đó nó đã sụt giảm và chỉ còn hơn 95 tháng 3/ 2008 rồi lại tiếp tục
phục hồi cho đến ngưỡng 110.668 ngày 10/8/2008. Với những tín hiệu suy
thoái kinh tế vào cuối năm 2008 tỉ giá của đồng USD liên tục trượt giảm so
với các đồng tiền khác cũng như so với đồng Yên, lúc này tỉ giá chỉ còn
86,834 ngày 18/1/2009. Nhưng những hi vọng vào chính sách thúc đẩy nền
kinh tế của tổng thống Obama gía trị của đồng đôla cũng được phục hồi đáng
kể và đạt 101,345 ngày 05/04/2009, tuy vậy nó vẫn liên tiếp sụt giảm chỉ ngay
sau đó do những kì vọng vào chính sách mới không được như ý muốn, và độ
trễ của các gói kích cầu đã làm nản các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, tỉ
giá lúc này lại tiếp tục lao xuống và chỉ còn 84,661 ngày 22/11/2009. Nhưng
đến đầu năm 2010 hàng loạt các báo cáo tài chính của các ngân hàng, tập
đoàn bảo hiểm đã công bố những mức lãi ngoài dự kiến, các thông báo của
cục nghiên cứu kinh tế đã cho thấy dấu hiệu phục hồi của quý III, IV năm
2009, thị trường ngoại hối như được tiếp thêm sức lực để vượt dậy sau cả
chuỗi thời gian dài liên tiếp đạt những mốc thấp nhất trong lịch sử. Như trên
biểu đồ ta có thể thấy, đỉnh thứ nhất và đỉnh thứ hai là hai đỉnh phục hồi cao
nhất kể từ tháng 9/ 2009 cho đến nay 1USD =93,70 JPY.
46
Hình 2.3: Các mốc biến động tỉ giá USD/JPY từ 2007 đến 2010
Sau những ngày nghỉ đầu năm, thị trường ngoại hối bắt đầu hoạt động
trở lại. 15h ngày 4/1 cục điều tra dân số Hoa Kì đã đưa ra báo cáo thống kê tỉ
lệ chi tiêu trong lĩnh vực xây dựng (the construction spending), đây là một
công cụ đo lường tổng tiêu dùng của người dân Mĩ vào tất cả các loại hình
xây dựng. Xây dựng nhà ở cũng là một trong những thành phần của báo cáo
này, nó có ích trong việc dự đoán số lượng nhà mới sẽ bán và số lượng tài sản
thế chấp trong tương lai. Khi con số này tăng điều đó thể hiện một tương lai
khả quan cho đồng USD và ngược lại. Tháng 12 vừa qua giá trị công trình
xây dựng mới là 857.803 triệu đôla giảm 0.6% trong khi các quan chức dự
kiến chỉ là -0,5%. Trong đó xây dựng nhà ở là 264 triệu tăng 1% so với tháng
trước, do vậy nguyên nhân giảm sút là ở lĩnh vực xây dựng khác bao gồm văn
phòng, trường học, bệnh viện, giao thông…
47
Hình 2.4 Chi tiêu trong đầu tư xây dựng tháng 11 năm 2009
Nguồn: http://www.fxstreet.com
Cũng trong ngày 4.1 Viện quản lí cung ứng hàng hoá đã công bố chỉ số
sản suất tháng 12 năm 2009. Nó là một chỉ báo tổng quát điều kiện kinh tế ở
Mĩ quan trọng. Khi chỉ số này giảm xuống dưới 50 thì đó là một dấu hiệu
đáng lo ngại cho các nhà quản lí nhưng trong tháng 12 này nó đã đạt 54.9 tăng
nhẹ so với mức 53.6 của tháng trước và đang đà đi lên từ mức thấp kỉ lục 32.4
tháng 12 năm 2008. Sự phục hồi của các nhà máy đã giúp ngành sản xuất đạt
được mức tăng trưởng nhẹ vào cuối năm 2009 và là lần thứ 5 liên tiếp chỉ số
này tăng vượt mức mong đợi của các nhà đầu tư.
Bảng 2.2 Chỉ số sản xuất ISM tháng 12
Nguồn: http://www.fxstreet.com/.
48
Nhưng bên cạnh đó ngân hàng Nhật Bản cũng thông báo tăng lượng
cung tiền cơ bản trong nền kinh tế để kích cầu. Trong cuối năm 2009 hàng
loạt quốc gia thông báo những tín hiệu phục hồi tốt của nền kinh tế thì Nhật
Bản phải đối phó tình trạng giảm phát trầm trọng trong suốt cả năm này. Ngày
7/12 Nhật Bản đã quyết định tung ra gói kích cầu mới để ngăn chặn đà suy
thoái này. Tăng lượng tiền cơ sở được xem như là một biện pháp hữu ích để
làm giảm thiểu phát, tăng giá cả hàng hoá nhưng đồng thời cũng đặt một áp
lực lớn lên việc tăng tỉ giá trao đổi tiền tệ. Đây cũng là một nhân tố làm tỉ giá
USD/ JPY đi lên tại thời điểm này.
Bảng 2.3 Lượng tiền cơ sở hàng tháng của Nhật Bản
Nguồn: http://www.fxstreet.com/.
Sau những tín hiệu đi lên chậm chạp vào cuối năm 2009 với giá trị mua
bán trên thị trường tương đối thấp thì đến đầu năm 2010 khi đã gần đạt tới
đỉnh của giai đoạn này thì tính thanh khoản bắt đầu được cải thiện, khối lượng
giao dịch tăng đáng kể. Thời điểm này cũng có thể là thời điểm tốt để thoát ra
khỏi thị trường. Theo những chỉ báo của Parabolic SAR những chấm từ dưới
đi lên bắt đầu chuyển dần từ trên đi xuống nó chỉ ra một sự đảo chiều đi
xuống của giá. Ưu điểm lớn nhất của công cụ này là sử dụng rất đơn giản, khi
các chấm ở phía dưới thanh nến, đó là dấu hiệu để mua vào, và khi những
chấm ở phía trên thanh nến, đó là dấu hiệu để bán ra. Đây hầu như là một dấu
49
hiệu sớm nhất được thể hiện bởi vì nó cho biết giá cũng lên hay xuống như
vậy. Nó được xem như công cụ tốt nhất sử dụng trong thị trường có xu hướng
nhưng không nên sử dụng công cụ này trong thị trường không ổn định khi giá
di chuyển vô hướng.
Hình 2.6 Diễn biến tỷ giá USD/JPY tháng 1 năm 2010
Hơn nữa ta cũng có thể thấy dải bolinger band đã thu hẹp lại ở trước
đó nó thể hiện rằng các nhà giao dịch trên thị trường đang tích luỹ USD trong
một khoảng thời gian mà không dám mạo hiểm, để chờ thị trường đi lên.
Chính vì vậy mà khối lượng giao dịch cũng rất hạn chế và thường là lượng
mua vào tương đương hoặc nhiều hơn lượng bán ra rất ít. Do vậy, cuối tháng
12/2009 là thời điểm mà ta có thể xâm nhập vào thị trường mua đồng đô la
Mĩ và chờ đến đầu tháng 1 là có thể bán ra để chốt lãi.
Không chỉ Parabolic cho ta thấy những tín hiệu thị trường đang lên vào
những ngày cuối năm 2009 mà Chỉ số sức mạnh tương đối –RSI cũng cho
thấy thị trường đang lên và tiếp tục xu hướng đó tới đầu năm 2010 và đạt gần
50
tới ngưỡng 80 tức là ngưỡng không thể mua. RSI là một công cụ rất phổ biến
bởi vì nó có thể được sử dụng để xác nhận sự hình thành một xu hướng.
Sau khi giá liên tiếp tăng ba cây nến màu xanh xuất hiện cho thấy thị
trường bắt đầu mua vào nhiều, cây nến thứ hai có thân dài nhất chứng tỏ sức
mua của thị trường thời điểm đó rất mạnh, cuối cùng xu hướng đi lên kết thúc
bằng một cây nến có thân ngắn và bóng trên gần như không có điều này có
nghĩa là sức mua và sức bán của thị trường gần như tương đương, lượng bán
ra đã kéo giá đóng cửa đi xuống gần bằng với giá ban đầu. Thị trường phản
ứng mạnh ngay lập tức sau đó và cây nến đỏ bắt đầu xuất hiện, giá mở cửa
của nó thấp hơn cả giá đóng cửa của phiên trước đó. Một số nhà đầu tư vẫn
còn hi vọng giá sẽ tiếp tục tăng và một cây nến xanh lại xuất hiện tuy nhiên
sức mua vào vẫn rất yếu không đủ mạnh để kéo thị trường lên và kết thúc
ngày giao dịch mùng 3/1 một cây nến đỏ có thân ngắn và 2 bóng cũng rất
ngắn (giá mở cửa: 92.907, đóng cửa:92.729, giá cao nhất 92.937, giá thấp
nhất:92.679) được hình thành. Sang ngày 4/1 mặc dù những thông tin về nền
kinh tế Mĩ đã có những thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn nhưng xu
hướng đi xuống dường như vẫn còn tiếp tục diễn ra trên thị trường sau một
thời gian dài đồng Yên Nhật mất giá vào cuối năm 2009. Chính phủ Nhật
cũng ra sức cứu vãn tình trạng thiểu phát của nền kinh tế và hứa hẹn những
kết quả tốt đẹp hơn sau các biện pháp kích cầu, do vậy niềm tin vào kinh tế
Nhật bắt đầu được khôi phục, thông tin này đã kéo tỉ giá đi xuống.
Trong các ngày mùng 5 và 6/ 1/2010 Hiệp hội các nhà buôn bất động
sản quốc gia đã thông báo chỉ số về doanh số bán nhà, đây là một chỉ số chỉ
dẫn trên thị trường nhà đất ở Mĩ và thị trường này được xem là rất nhạy cảm
với sức khoẻ của nền kinh tế Mĩ do vậy nó là một thông tin quan trọng mà bất
cứ nhà kinh doanh ngoại hối hay nhà nghiên cứu kinh tế nào đều phải chú ý.
Nó có thể tạo ra những biến động tỷ giá đồng đôla so với các đồng tiền khác.
Nói chung, nếu chỉ số này tăng thì nó là một tín hiệu khả quan cho nền kinh tế
51
Mĩ và ngược lại. Trong tháng 12/2009 chỉ số này đã xuống tới mức kỉ lục
trong cả năm 2009 chỉ còn -16.4%, con số này cũng vượt quá nhiều lần so với
-2% mà các nhà kinh tế dự đoán trước đó. Sự sụt giảm của thông tin này đã
đẩy thị trường đi xuống mặc dù cùng thời điểm đó cục điều tra dân số cũng
đưa ra những thông tin khả quan về số lượng các đơn đặt hàng của các nhà
máy bao gồm cả các đơn đặt hàng lâu bền và hàng tiêu dùng không bền, hàng
tồn kho… cũng như rất nhiều các chỉ số khác, thông thường nếu nó tăng cao
thì đó là dấu hiệu tốt và ngược lại. Trong tháng 12 chỉ số này cũng chỉ tăng
1%.
Hình 2.7 Doanh số bán nhà
Nguồn: http://www.fxstreet.com/.
Vào lúc 21.30 và 22h Viện dầu khí quốc gia Hoa Kì đã thông báo
những thông tin về tình hình dự trữ dầu thô. Nhìn vào kết quả của báo cáo
này chúng ta có thể dự đoán lượng cầu, biến động giá cả xăng dầu ở Mĩ và
nền kinh tế Mĩ cũng bị ảnh hưởng bởi biến động này. Theo nghiên cứu của
Kevin L. Kliesen trong báo cáo của cục dữ trữ liên bang thì dầu thô và các sản
phẩm phái sinh của nhiên liệu chất đốt này có thể thúc đẩy hoặc làm trì trệ sự
tăng trưởng kinh tế. Cứ mỗi thùng dầu thô tăng thêm $ 10 thì GDP giảm đi
0,4 % và nếu như mỗi thùng dầu tăng giá gấp đôi thì sẽ làm cho giá cả của các
mặt hàng khác tăng 3.2%. Trong tháng 12, lượng dầu thô dự trữ đã giảm 2.3
52
triệu thùng điều đó có nghĩa là nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này đang tăng
mạnh và nó có thể ảnh hưởng đến giá dầu thô của thế giới.
Hình 2.8 Lượng dầu thô dự trữ tháng 1 năm 2010
Nguồn: http://www.fxstreet.com/.
Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng của tuần đầu tiên trong tháng
này đã suy giảm còn -44 điểm trên thang điểm từ -100100 của hãng tin
ABC và tạp chí Washington. Chỉ số này đo lường lòng tin của người tiêu
dùng và phản ánh mức thu nhập của họ thông qua thói quen chi tiêu hàng
ngày. Trong một nền kinh tế mà người tiêu dùng lạc quan về thu nhập của họ
trong tương lai thì họ sẽ chi tiêu nhiều hơn, điều này góp phần thúc đẩy nền
kinh tế mở rộng sản xuất và ngược lại chính vì thế chỉ số này giảm trong thời
gian vừa qua là một tín hiệu xấu đối với các nhà sản xuất. Nhìn vào biểu đồ
bên dưới ta có thể thấy là lòng tin của người tiêu dùng đã xuống tới mức thấp
nhất trong 2 thập niên vừa qua và nó vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt.
53
Hình 2.9 Chỉ số hài lòng của người tiêu dùng
Nguồn: Báo cáo chỉ số tiêu dùng của hãng tin ABC (ABC news
consumer index) phát hành thứ 3 ngày 5/1/2010
Ngày 6/1 với một loạt các tín hiệu lạc quan cho nền kinh tế. Đầu tiên là
số lượng đơn thế chấp nhà đất được thống kê bởi hiệp hội các Ngân hàng
cho vay thế chấp đã tăng 0,5% trong tuần đầu tiên của tháng 1 so với mức
giảm -22,8% của tuần trước đó, tiếp theo là tỉ thất nghiệp đã giảm chỉ còn -
61K thấp hơn rất nhiều so với -169K trong tháng trước, viện quản lí nguồn
cung hàng hoá (Institute for Supply Management) đã đưa ra kết quả hoạt động
khả quan của lĩnh vực phi sản suất tăng từ 48.7 điểm trong tháng trước lên
49.8, tuy nhiên vẫn thấp hơn dự báo là 50.5 điểm trong tháng này. Chỉ số này
cũng đang có xu hướng tăng dần lên từ đầu năm 2009. Cũng trong ngày 6.1
vào lúc 19h Uỷ ban thị trường mở liên bang (FOMC) đã đưa ra biên bản
của cuộc họp thường xuyên được tổ chức 8 lần trong một năm để báo cáo
điều kiện nền kinh tế, tài chính, quyết định những chính sách tiền tệ phù hợp
và đánh giá rủi ro trong dài hạn của việc thực hiện mục tiêu duy trì ổn định
giá cả và tăng trưởng kinh tế bền vững. Đây là một biên bản có tính quyết
định đối với chính sách tỉ gía trong tương lai. Trong biên bản này FOMC
cũng trình bày những quan điểm sẽ chỉ kì vọng một mức tăng trưởng thấp
54
trong thời gian tới nhưng sẽ ngăn chặn lạm phát và chú ý hơn đến việc giảm
tình trạng thất nghiệp đang diễn ra. Những quan chức cấp cao trong hội nghị
còn lo sợ rằng nền kinh tế có thể sẽ đi xuống khi gói kích thích của chính phủ
kết thúc. Còn về phía Nhật Bản, bộ trưởng bộ tài chính Hirohisa Fuji đã tuyên
bố trước cuộc họp báo về việc ông xin từ chức vì lí do sức khỏe. Ông hiện là
người có nhiều kinh nghiệm về vấn đề tài chính quốc gia nhất trong nội các
của Thủ tướng Hatoyama. Ông đã phải nhập viện tháng 12 vừa qua vì kiệt sức
và đã tuyên bố hoãn cuộc họp thường kì của bộ tài chính Nhật vào ngày 6.1.
Đây là thời điểm nội các Nhật Bản đang có những vẫn đề tranh cãi về việc thu
chi ngân sách và áp lực từ dân chúng với cam kết không sử dụng lãng phí
nguồn thu từ thuế của nhân dân. Việc này cũng đặt một thách thức cho thủ
tướng khi phải tìm một người có trách nhiệm và ảnh hưởng chính trị đủ lớn để
thay thế ông Hirohisa Fuji.
Ngày 7/1 Bộ lao động Mĩ đã đưa ra con số đáng mừng cho tình trạng
thất nghiệp ở Mĩ. Số lượng người điền vào tờ khai xin trợ cấp thất nghiệp lần
đầu tiên tron tuần đầu của tháng 1 không tăng thêm như dự đoán. Những vấn
đề về tình trạng thất nghiệp bắt đầu có dấu hiệu tích cực tỉ lệ thất nghiệp giảm
từ 10% tháng 12 năm 2009 xuống còn 9,7% trong đầu năm nay. Những thông
tin trên đã làm cho thị trường ngoại hối có những ngày giao dịch sôi động và
đi lên mạnh mẽ trong ngày mùng 7 đạt đỉnh cao nhất từ đầu quý IV năm
2009.
Sau 2 ngày liên tiếp nhận được những thông tin lạc quan từ thị trường
trên biểu đồ đã hình thành 2 cây nến xanh với mức giá đóng cửa và mở cửa
chênh lệch nhau khá lớn thể hiện một xu hướng đi lên rất mạnh. Tuy nhiên
ngay sau cây xanh thứ 2 của ngày mùng 7 một cây nến đỏ có giá mở cửa bằng
với giá đóng cửa của phiên giao dịch trước đó, hai bóng của cây nến này rất
dài thì ta có thể thấy thị trường đang giằng co giữa người bán và người mua,
nhưng sau một hồi giá lên mạnh mẽ trong 2 ngày mùng 6 và 7/1 thì sức mua
55
đã giảm dần. Thị trường đã có dấu hiệu đi xuống nhưng ngay sau đó lại xuất
hiện một cây nến Doji, đây là dấu hiệu đảo chiều cho thấy thị trường có thể
vẫn tiếp tục đi lên do sức cung và cầu đang cân bằng nhau.
Ngày 8/1 Nhật Bản đã công bố những thông tin chỉ dẫn quan trọng
của nền kinh tế, số liệu cho thấy kinh tế Nhật Bản đang theo chiều hướng đi
ngang và không có sự biến đổi quan trọng. Chỉ số này là sự tổng hợp của 12
chỉ số thành phần khác như số lượng đơn đặt hàng máy móc, giá chứng
khoán, chỉ số hàng tồn kho…. Nó phản ánh tổng quát nền kinh tế Nhật Bản
trong ngắn hạn và trung hạn. Mức bình quân của chỉ số này là 50, do vậy nếu
cao hơn 50 thì đó là một dấu hiệu tốt, nhỏ hơn 50 thì nó cảnh báo rằng đồng
Yên sẽ mất giá mạnh. Chỉ số này đang có xu hướng đi lên kể từ đầu năm 2009
điều đó cũng chứng tỏ rằng nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi. Tuy
nhiên so với các nước khác những biện pháp để khắc phục hậu quả của cuộc
khủng hoảng không thể hiện sự quyết tâm của chính phủ và đang tồn tại
những vấn đề mâu thuẫn trong nội các chính vì vậy mà việc thống nhất các
biện pháp hỗ trợ rõ ràng cũng trở nên khó khăn hơn và sự phục hồi kinh tế
cũng khó đạt được những bước ngoặt lớn. Nhưng ngược lại với những thông
tin không gây được sự định hướng chắc chắn cho nền kinh tế thì một loạt
thông tin quan trọng về bảng lương, mức lương trung bình mỗi giờ, tuần, tỉ
lệ thất nghiệp trong tháng 12 của Mĩ đã gây ra tác động mạnh mẽ cho thị
trường ngoại hối trong ngày giao dịch. Tất cả những chỉ số này đều phản ánh
một thực trạng đáng buồn về nền kinh tế Mĩ. Trái lại những thành tựu đạt
được trước đó thì mức lương của các ngành phi nông nghiệp đã sụt giảm
nhiều hơn mong đợi rất nhiều. Nó là một trong những chỉ báo quan trọng nhất
tác động đến tâm lí của các nhà giao dịch. Bên cạnh đó vấn đề giải quyết tình
trạng thất nghiệp xem ra không có gì khả quan, số lượng người không viết
đơn xin trợ cấp tăng lên nhưng thị trường việc làm vẫn dậm chân tại chỗ, khả
năng tìm được việc mới của những người thất nghiệp còn thấp. Do vậy, tỉ lệ
56
thất nghiệp trong tháng 12 vẫn duy trì ở mức rất cao 10%. Đây là hai nguyên
nhân chính đã làm sụt giảm giá trị đồng đôla mạnh nhất trong ngày 8/1. Tuy
nhiên được phần hỗ trợ thêm của thông tin về sự sụt giảm của tín dụng tiêu
dùng cũng cho thấy động lực thúc đẩy nền kinh tế đã giảm sút. Đây là giai
đoạn mà đáng ra người dân phải chi tiêu nhiều để chuẩn bị cho các ngày lễ tết
mừng noel, năm mới nhưng họ lại hạn chế chi tiêu vì lo sợ cho tương lai của
một năm khó khăn tiếp theo. Tín dụng cá nhân đã giảm tới mức thấp nhất kể
từ đầu cuộc khủng hoảng tới giờ và quan trọng hơn là nó thấp rất nhiều so với
dự đoán của các nhà kinh tế, giảm 21.8 triệu đô la Mĩ trong khi dự báo chỉ là
5 triệu. Nếu như theo dõi các bản tin thường ngày thì ta cũng có thể nhận ra
điều này vì năm nay là một năm mà khoản chi cho các đồ trang trí, thời trang,
thực phẩm cao cấp đã phải giảm rất nhiều, người dân Mĩ sống tiết kiệm hơn,
họ lo cho tương lai và không xa hoa như trước nữa. Điều này là tốt cho bản
thân và gia đình của họ trong thời gian trước mắt, nhưng xét trong dài hạn và
trên khía cạnh vĩ mô thì nó là một dấu hiệu xấu. Chính vì những lí do này mà
xu hướng đi lên mạnh mẽ trước đó đã bị ngăn chặn bằng một cây nến đỏ, và
bắt đầu cho một xu hướng đi xuống. Giá trị đồng đôla giảm tương đối so với
đồng Yên Nhật.
Tính chính xác của mẫu hình trên đã được kiểm chứng trong những
ngày tỉ giá giảm liên tục tiếp theo. Trong ngày 11/1 xu hướng đi xuống vẫn
được duy trì. 17h45’ Giám đốc điều hành ngân hàng liên bang của bang
Atlanta đã đưa ra ý kiến theo những quan sát của mình về nền kinh tế Mĩ và
giá trị tương quan của đồng đô la Mĩ so với các đồng tiền chủ chốt khác. Ông
tốt nghiệp đại học Standford và nghiên cứu kinh tế thế giới và chính sách
ngoại giao của Hoa Kì tại trường Johns Hopkín năm 1971, đã có 17 năm kinh
nghiệm nắm giữ nhiều vị trí quan trọng cả trong nước và quốc tế của tập đoàn
Citybank. Những bài phát biểu của ông cũng tác động đến thị trường ngoại
hối trong ngắn hạn. Theo quan sát của ông cho thấy đồng Yên Nhật đã tăng
57
giá trị tương đối so với đồng USD. Một sự tăng giá đồng Yên như vậy cũng
giúp cho cầu trái phiếu chính phủ Nhật tăng, ngân hàng trung ương cũng đã
mua vào 1.8 tỷ Yên trái phiếu mỗi tháng và có thể mua nhiều hơn thế nữa để
giúp chính phủ đối phó với tình trạng giảm phát. Tuy nhiên Bộ trưởng bộ tài
chính Kan cũng đã cho rằng nên giảm bớt giá trị của đồng Yên để kích thích
xuất khẩu hơn là tăng giá trị của nó như người tiền nhiệm ông là bộ trưởng
Fuji đã làm năm ngoái khi ông còn đang giữ chức. Hầu hết các nhà giao dịch
cũng dự đoán rằng Nhật Bản sẽ duy trì một đồng Yên yếu để ngăn chặn giảm
phát và hỗ trợ xuất khẩu. Những ý kiến trái ngược vẫn đang được xem xét và
chưa đi đến những kết quả cuối cùng chính vì vậy mà những dự đoán của các
nhà kinh tế học sẽ có ảnh hưởng ngắn hạn đến thị trường ngoại hối. Thêm vào
đó, cuối ngày giao dịch bộ tài chính Nhật Bản công bố mức thặng dư cán
cân vãng lai là 1304.8 tỷ Yên, con số này khả quan hơn rất nhiều so với dự
đoán là 1220.0 tỷ Yên. Nó có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người
không cư trú là lớn hơn so với chi. Nó là một bộ phận không thể thiếu được
trong phân tích kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế mở. Đặc biệt là nó có khả năng
ảnh hưởng trực tiếp và nhanh chóng đến các chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế
như tỷ giá, tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Cũng trong thời gian này cán cân cơ
bản của Nhật cũng giảm ít hơn con số dự tính. Trong bối cảnh các nước thắt chặt
chi tiêu, Nhật Bản, quốc gia dựa vào xuất khẩu để phát triển kinh tế từ sau chiến
tranh thế giới thứ II, đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng khiến thặng dư cán cân đi
xuống trong suốt 14 tháng. Tuy nhiên mặc dù là mức thặng dư đã giảm xuống
rất nhanh nhưng vẫn còn chậm hơn dự đoán như vậy đã đem lại sự lạc quan hơn
cho các nhà kinh tế. Thêm vào đó chính sách duy trì một đồng Yên yếu của tân
bộ trưởng bộ tài chính Naoto Kan đã giúp cho xuất khẩu của Nhật đạt được sự kì
vọng tốt đẹp mới.
58
Bảng 2.4 Cán cân vãng lai tháng 11 của Nhật
Bảng 2.5 Cán cân thương mại tháng 11 của Nhật
Ngày 12/1 hai luồng thông tin từ 2 nước đối lập nhau tạo nên một ngày
giảm mạnh cho cặp tỉ giá USD/JPY. 5.00 GMT văn phòng nội các Nhật Bản
đã đưa ra các thông tin tổng hợp về xu hướng phát triển của các vùng,
miền. Đây là một bản khảo sát dựa trên tình hình kinh tế cụ thể của từng địa
phương, qua đó có thể dự đoán được xu hướng phát triển kinh tế chung trong
ngắn hạn cho toàn nền kinh tế Nhật. Chỉ số này càng cao thì càng tốt và
ngược lại. Trong những năm gần đây nó đã xuống 17.6 điểm, thấp nhất vào
đầu năm 2009 khi nền kinh tế đã thực sự trì trệ trên mọi vùng, ngành ở Nhật
nhưng hiện tại thì đang từng bước phục hồi đi lên và đã đạt 36.3 cao hơn
tháng trước. Ngược lại, ở Mĩ cán cân thương mại thâm hụt nhiều hơn tháng
trước và nhiều hơn mức dự tính của chính phủ. Cục nghiên cứu kinh tế và cục
điều tra dân số đã liên tục thông báo những thông tin đáng thất vọng về thâm
59
hụt thương mại của Mĩ trong suốt thời gian vừa qua. Nó không những không
suy giảm mà còn càng ngày càng tăng kể từ tháng 4 năm 2009. Mĩ là một
quốc gia luôn dẫn đầu trong tỉ trọng thương mại quốc tế, đứng thứ 3 về sản
lượng xuất khẩu, những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị,
môtô, máy bay, lương thực thực phẩm và đồ uống. Và có những đối tác chủ
chốt trong thương mại là Canada, Liên minh châu Âu, Mexico, Trung Quốc
và Nhật Bản. Tổng gía trị xuất khẩu trong tháng 1 là 91842 triệu đô la nhưng
giá trị nhập khẩu còn lớn hơn đạt 136499 triệu đôla. Mĩ là một cường quốc
xuất khẩu nhưng cũng là một cường quốc nhập khẩu. Phần lớn hàng hoá nhập
khẩu có xuất xứ từ các nước liên minh châu Âu, Trung Quốc, Mexico và Nhật
Bản. Đến 21h30GMT ngày 12/1 API công bố lượng dầu thô dự trữ hàng
tuần của Mĩ. Tuần này số lượng thùng dầu thô dự trữ đã tăng thêm 1.2 triệu
thùng điều này cho thấy nhu cầu về dầu đã tăng trở lại so với tuần trước. Cầu
về dầu tăng cũng có nghĩa là giá dầu sẽ tăng, như vậy không có lợi cho những
nước nhập khẩu dầu thô nhiều như Mĩ. Chỉ số niền tin của người tiêu dùng
của tuần tiếp theo được công bố ngay sau đó và cũng chỉ mang lại những tin
đáng buồn cho nền kinh tế Mĩ. Nó được thống kê bởi tạp chí Washington và
hãng tin ABC. Chỉ số này đã giảm chỉ còn -47 điểm trong tuần vừa qua. Nó
phản ánh tình trạng tài chính hiện tại của người dân, đó là một vấn đề đáng lo
lắng đối với họ, họ nghĩ rằng phải tiết kiệm nhiều hơn tiêu dùng để có những
khoản tiền dự trữ cho tương lai không mấy sáng sủa sắp tới. Những dấu hiệu
này đã kéo thị trường đi xuống với giá mở cửa là 92,095 và giá đóng cửa
91,097.
Quay trở lại với phân tích kĩ thuật, các biểu đồ 4h và một ngày cũng
cho thấy rõ xu hướng đi xuống của giá trong 4 ngày vừa qua. Những thông tin
trên thị trường ngoại hối đã phản ánh đầy đủ trên biểu đồ thông qua kết quả
của các thành viên giao dịch. Qua những biểu hiện của đồ thị ta có thể thấy
những thông tin lạc quan đã được thể hiện ngay trong xu hướng đi lên giá
60
ngày mùng 6, 7 đã vượt ra khỏi dải bolinger band nhưng ngay sau đó đã có
xu hướng quay trở lại tiến vào trong giữa hai đường nhanh và chậm. Chỉ số
RSI cũng tiến sát tới mức 50 và có khả năng sẽ đi xuống, nó xác nhận xu
hướng trước đó của đồ thị. Đến thanh nến của ngày mùng 9 nó đã thiết lập
được mô hình Harami (Bullish) trong vòng tròn màu đỏ mẫu hình hai thanh
nến, trong đó một thanh nến xanh nhỏ nằm trong thân một thanh nến đỏ trước
đó. Mẫu hình này ám chỉ rằng xu hướng trước đó đang dần kết thúc. Thị
trường sẽ đi lên. Nhưng những giao động đi xuống chỉ năm giữa 2 đường 0.0
và 23.6 của công cụ Fibonacci, điều đó chứng tỏ nó vẫn chưa chắc chắn được
xu hướng quay đầu đi lên của đường tỷ giá, nó vẫn dễ dàng đi xuống tiếp. Và
đúng như vậy, những thông tin xấu cho đồng đôla vẫn tiếp tục kéo nó đi
xuống trong ngày 10 và 11/1 và đến ngày 12 do ảnh hưởng của những luồn
thông tin trái chiều, bất lợi cho đồng USD và có lợi cho đồng Yên tăng giá,
đường tỷ giá đã xuyên thủng ngưỡng hỗ trợ 23.6. Khối lượng giao dịch trên
thị trường tăng mạnh do tâm lí lo sợ muốn cắt lỗ của một số nhà đầu tư và số
khác thì mua vào với hi vọng rằng đó sẽ là đáy mới của thị trường. Tính thanh
khoản lúc này tăng mạnh, khối lượng giao dịch thành công đạt hơn 50 triệu đô
la Mĩ. Ngoài ra để bắt kịp và xác định đúng xu hướng của thị trường hơn ta có
thể dùng thêm chỉ số ADX, chỉ số này có thể khắc phục những điểm yếu của
RSI mà ta sẽ trình bày ở biểu đồ sau.
61
Hình 2.10 Diễn biến tỷ giá USD/JPY từ 4/1 đến 12/1
Đường RSI giúp cho ta tránh mua vào ở những điểm vượt mua, bán ra
ở những điểm vượt bán, nhưng nó sẽ mất tác dụng khi thị trường đi theo xu
hướng rõ ràng như hình vẽ bên dưới. Ở ngày 6 và 7/1 khi thị trường đang lên
rất mạnh thì RSI lại chỉ là một đường lên yếu và khi nó đi xuống như ở các
ngày 912 thì RSI chỉ đi ngang và phản ánh xu hướng không rõ ràng. Nhưng
ngược lại ADX lại rất hiệu quả khi thị trường đang có hướng, những xu
hướng lên và xuống được thể hiện rõ ở đồ thị của ADX. Sự kết hợp giữa 2
công cụ này sẽ đem lại hiệu quả cho chúng ta muốn tối đa hoá lợi nhuận và
tránh thua lỗ. ADX bao gồm 2 đường +DI và –DI biểu hiện xung lượng tích
cực và tiêu cực của giá. Khi xu hướng rõ ràng đường +DI sẽ vượt từ dưới lên
khỏi đường –DI , và ngược lại. ADX là đường chỉ số định hướng trung bình
cho cả xu hướng tăng và xu hướng giảm. Có nghĩa là khi giá tăng hay giảm
theo 1 chiều rõ ràng ( theo 1 xu hướng – xu hướng tăng hoặc giảm ) , ADX
vượt mức 30 cho biết xu hướng đang trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên
ADX cũng chỉ là một chỉ số dựa vào xu hướng trong quá khứ nên nó chậm
hơn so với những gì đang diễn ra trên thị trường một khoảng thời gian nhất
định. Để giảm thiểu được nhược điểm này ta cũng có thể phân tích những
62
biểu đồ có khung thời gian ngắn hơn, ví dụ biểu đồ 1h, 4h. Với những dấu
hiệu đi xuống rất nhanh chỉ trong vài ngày, tỉ giá đã giảm từ 93,7 còn 90,6 và
cuối ngày 12/1 thị trường cũng đã có dấu hiệu phục hồi, đồng thời đường tỉ
giá cũng vượt xuống dưới dải Bolingerband thì dấu hiệu chứng tỏ nó có xu
hướng quay trở phía trong của dải thì đây có thể là thời điểm để các nhà giao
dịch có thể mua vào và kinh doanh trong ngắn hạn.
Hình 2.11 Diễn biến tỷ giá USD/JPY, chỉ báo ADX, RSI.
63
Hình 2.12 Mô hình vai- đầu- vai
Nhìn trên biểu đồ tỉ giá ta có thể thấy mô hình vai- đầu- vai đã được
hình thành sau khi giá đạt mức đỉnh vai1 tại 92.7 điểm ngày 6/1 sau đó lại lên
đến mức kỉ lục là 93.73 điểm ngay 7/1 rồi đảo chiều đi xuống, ta có thể vẽ
một đường ngang từ đáy thứ nhất để xác định một điểm hỗ trợ cho xu hướng
giá đang đi xuống sau khi tạo được đỉnh Đầu. Đường này là đường quan trọng
nhất trong mô hình này, thường dùng để xác định ngưỡng hỗ trợ cho thị
trường. Cuối phiên giao dịch của ngày 11 tỉ giá đã đi xuống xuyên qua đường
này đó là dấu hiệu kết thúc của xu hướng đi lên và đảo chiều đi xuống mạnh.
Không chỉ vậy ngưỡng hỗ trợ 23.6 của Fibonacci cũng bị đâm thủng, đây có
thể coi là dấu hiệu báo tỉ giá sẽ đi xuống rất mạnh của thị trường trong những
phiên giao dịch tiếp theo. Và ngày 12/1 tỉ giá giảm mạnh từ mức cao nhất
trong ngày 92,47 xuống còn mức thấp nhất trong ngày 90,7.
Mô hình “ đầu và vai” là một trong nhiều loại mô hình đồ thị khác nhau
mà được sử dụng để hoạch định cho chiến lược về giá. Các nhà phân tích đo
lường khoảng cách từ đỉnh “đầu” đến đường tiệm cận của đồ thị sau đó trừ đi
khoảng cách từ điểm ngừng của đường tiệm cận để tính toán xem giá có thể
giảm đến mức nào.
64
Chuyển tiếp sang một xu thế mới cho tỉ giá của cặp tiền tệ này. Nhìn
tổng quát những thông tin tác động trực tiếp tới thị trường ngày 13/1 có phần
tích cực cho đồng USD với những tín hiệu tốt đến từ thị trường cho vay cầm
cố nhà đất, chính sách mới của cục dự trữ liên bang, báo cáo ngân sách hàng
tháng…Những thông tin này đã giúp cho tỉ giá USD/JPY phục hồi trong ngày
giao dịch 13/1 và đạt gần đến ngưỡng đã để mất của những ngày trước. Đầu
tiên là những thông tin từ phía Nhật Bản công bố số lượng đơn đặt hàng thiết
bị tăng mạnh nó cho thấy những tín hiệu lạc quan cho ngành công nghiệp sản
xuất máy móc. Nó cũng có ý nghĩa rằng nền kinh tế thế giới đang phục hồi có
những tác động tốt tới sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản. Giá trị của đồng Yên
được củng cố hơn nữa. Nhưng những thông tin từ phía Mĩ đã cho thấy tốc độ
phục hồi còn nhanh hơn thế trên nhiều lĩnh vực cụ thể cũng như tổng quan
chung. 12h ngày 13/1 hiệp hội các ngân hàng cho vay thế chấp đã công bố số
lượng đơn xin vay tăng 14.3% so với tuần trước. Nó cho thấy sức khoẻ của
thị trường nhà đất bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Khi giá nhà đất tăng người
dân có xu hướng thế chấp nhà và tài sản của họ và vay tiền từ ngân hàng để
chi tiêu nhiều hơn. Như vậy, sẽ thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế Mĩ đi lên. 15h30’
cơ quan quản lí thông tin năng lượng cho biết số lượng dầu thô dự trữ đã
tăng lên 3.7 triệu thùng tăng hơn rất nhiều so với dự đoán 1.4 triệu thùng
trước đó. Đây là một dấu hiệu tăng có tác động đáng kể tới kinh tế Mĩ. Lượng
dầu dự trữ tăng làm tăng nhu cầu về dầu mỏ trên trên thế giới, hầu hết các
hợp đồng mua bán dầu đều được tính bằng đồng đôla, dẫn đến nhu cầu về
đồng đôla Mĩ cũng tăng. Tuy nhiên trong vài năm gần đây các nước OPEC và
một số quốc gia lớn bắt đầu hạn chế sự ảnh hưởng của đồng đôla tới giá dầu
nên đã dần chuyển đổi sang kí kết các hợp đồng bằng các loại tiền tệ khác như
đồng Yên, Euro và Sterling. Ví dụ như Nga đã cắt giảm tỉ lệ hợp đồng xuất
khẩu dầu thanh toán bằng đồng đôla từ 67% xuống còn 65%. 19 GMT Báo
cáo Biege Book của cục dự trữ liêng bang khái quát điều kiện chung của nền
65
kinh tế Mĩ cũng được công bố, nó được tổng hợp từ các cuộc phỏng vấn các
nhà kinh tế, chuyên gia thị trường và các nhà kinh doanh lớn ở nhiều bang
khác nhau. Nếu họ bày tỏ tinh thần lạc quan về sự phát triển kinh tế trong
tương lai thì đó là dấu hiệu tăng cho đồng USD và nếu họ bi quan thì nó sẽ
gây ra tác động giảm giá trị đồng đôla trên thị trường tiền tệ. Sự phục hồi của
nền kinh tế vẫn tiếp tục từ cuối năm 2009 và lan rộng ra nhiều khu vực của
Mĩ, nhưng nó vẫn quá yếu để có thể làm nóng thị trường lao động và giảm tỉ
lệ thất nghiệp. Trong bản báo cáo Beige book mới nhất, Fed đã cho biết hoạt
động kinh tế đã dần tiến triển tốt lên nhưng vẫn ở mức độ rất thấp bởi vì sự
ảm đạm của thị trường lao động và sự trì trệ của thị trường buôn bán bất
động sản. So với năm 2008, cuối năm 2009 hầu hết các quận đều có mức chi
tiêu dùng cá nhân tăng lớn, nhưng thấp hơn rất nhiều so với năm 2007. Số
lượng hàng bán lẻ tồn kho vẫn duy trì ở mức rất thấp, doanh số bán ôtô cũng
chỉ tăng rất ít còn những thông tin về ngành du lịch thì không có gì khá hơn
những báo cáo trước, nhưng về lĩnh vực sản xuất dường như chúng ta có thể
tìm thấy chút hi vọng trong tương lai gần. Cuối năm 2009 số lượng nhà bán
được đã tăng đáng kể đặc biệt là ở phân khúc thị trường nhà giá rẻ, giá nhà
không biến động mấy so với kì báo cáo trước và số lượng nhà ở xây dựng
thêm vẫn duy trì ở mức thấp trên hầu hết các quận. Cùng lúc này cơ quan
quản lí tài chính cũng công bố bản báo cáo ngân sách hàng tháng tóm tắt
hoạt động tài chính của các định chế tài chính liên bang, các cơ quan thu chi
ngân sách và Ngân hàng dự trữ liên bang. Thâm hụt ngân sách đã giảm gần
1/3 so với tháng trước xuống còn -91,9 triệu đôla nhưng giảm ít hơn dự tính là
-84.9 tỉ đôla. Đến cuối ngày những thông tin không mấy lạc quan về nền kinh
tế Nhật đã được thông báo. Số lượng đơn đặt hàng máy Core Machinery đã
giảm 11,3% nhiều hơn mức giảm 4,5 % của tháng trước và đi ngược lại với
dự đoán tăng 0,2%. Nó là một mức giảm nhiều nhất kể từ đầu năm 2009 đến
nay. Những đơn đặt hàng này được tổng hợp từ các ngành vận chuyển và
66
năng lượng điện. Đây là một trong những dấu hiệu được xem xét bởi các nhà
đầu tư để đánh giá cơ hội kinh doanh ở Nhật. Một con số tăng sẽ giúp giá trị
đồng Yên tăng theo và ngược lại. Cùng với đó những thông tin về chỉ số giá
hàng hoá nội địa hàng tháng và hàng năm cũng tăng rất nhẹ 0,1%. Chỉ số
này cũng là một cách để đo lường biến động giá sản xuất và lạm phát ở Nhật.
Nếu chỉ số này tăng thì đó là một tín hiệu đáng mừng cho tình trạng giảm phát
ở Nhật Bản trong suốt thời gian vừa qua và sẽ là một tín hiệu xấu nếu như nó
giữ nguyên hay giảm đi. Kết thúc ngày 13, tỉ giá đã đảo chiều đi lên sau 3
ngày đầu tuần giảm mạnh liên tiếp.
Ngày 14/1 có thể coi là một ngày chiến đấu không mỏi mệt giữa người
mua và người bán dựa trên loạt thông tin có tác động lớn tới thị trường như
chỉ số giá hàng nhập khẩu hàng tháng và hàng năm, số lượng đơn xin trợ cấp
thất nghiệp, chỉ số bán lẻ hàng hoá thiết yếu, hàng hoá công nghiệp
ôtô…Trong những phiên giao dịch đầu tiên tỉ giá vẫn đi lên theo xu hướng
của ngày hôm trước, nhưng đến 13h30 Bộ lao động đã cho biết những biến
động giá hàng nhập khẩu trong tháng trước tăng cao hơn mức dự tính nhưng
cũng đã giảm đi so với tháng 11. Bộ lao động cũng cho biết số lượng người
thất nghiệp lần đầu làm đơn xin trợ cấp tuần thứ 2 cũng tăng ngoài mức dự
tính từ 433 nghìn người lên 446 nghìn người, nhưng số người thất nghiệp
trong cả năm 2009 đã có xu hướng giảm mạnh và giảm nhiều hơn dự tính từ
4,807 triệu lao động xuống còn 4.617 triệu lao động, mức dự tính là 4.8 triệu
người. Những con số này phản ánh sức mạnh của thị trường lao động đã được
phục hồi so với năm trước nhưng tình trạng người lao động mất việc vẫn diễn
ra theo chiều hướng tăng. Người dân mất việc thì nguồn thu nhập của họ cũng
bị cắt giảm cho nên họ sẽ không còn khả năng chi tiêu như trước. Việc này
làm giảm tiêu dùng cá nhân, một trong những thành phần quan trọng đóng
góp vào GDP. Tiếp đến là chỉ số bán lẻ hàng tháng và năm 2009 cũng được
thông báo trong thời gian này. Đây là chỉ số phản ánh sâu sắc thực trạng của
67
nền kinh tế, nếu chỉ số này tăng cao nó thể hiện một nền kinh tế khoẻ mạnh có
sức mua bán lớn, hàng hoá luân chuyển nhanh, ngành sản xuất, dịch vụ tăng
trưởng mạnh, tỉ lệ thất nghiệp thấp và ngược lại. Chỉ số này trong tháng vừa
qua đã giảm 0.1% sau khi tăng 1,8% vào tháng trước, nó được các nhà kinh tế
kì vọng là sẽ tăng 0,4% vào tháng này. Tính trung bình năm thì nó cũng giảm
0,2% và nếu theo như dự đoán thì phải tăng 0,4%. Những thông tin này đã
làm nản lòng các nhà giao dịch, tỉ giá lại quay đầu đi xuống. Trên đồ thị ta có
thể thấy kết thúc ngày giao dịch 14/1 đã hình thành một spinning top điều
này có nghĩa là thị trường đã không còn nhiều người mua nữa và có thể xảy ra
sự đảo chiều. Xu hướng ngày mai có thể dự đoán là thị trường sẽ đi xuống.
Giữa ngày 15/1 chỉ số giá tiêu dùng của tháng được công bố, đây là
một thước đo biến động giá bán lẻ các mặt hàng và dịch vụ. Sức mua của đôla
Mĩ đã bị giảm xuống bởi lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng là chỉ báo kinh tế
dùng để đo lường mức lạm phát và xu hướng mua bán của người dân. Trong
tháng trước CPI tăng 0,2%, giá cả đang tăng ở một mức vừa phải và báo hiệu
bước đầu của sự phục hồi kinh tế. CPI hàng năm cũng tăng đáng kể từ 1,8%
lên 2,7%. Chỉ số giá tiêu dùng loại trừ lương thực và năng lượng hàng tháng
và hàng năm đều tăng nhẹ thêm 0,1% đúng như mức dự báo. Các chỉ số cảm
tính của người tiêu dùng cũng chỉ tăng nhẹ so với tháng trước từ 72,5 lên
72,8 và thấp hơn mức dự tính. Chỉ số này đánh giá mức độ tự tin của người
tiêu dùng vào thu nhập trong tương lai, nếu họ tin tưởng rằng nguồn thu nhập
của họ ổn định thì sẽ tiêu dùng nhiều hơn, nếu họ nghĩ rằng họ có thể bị mất
việc, thu nhập không ổn định thì sẽ có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn. Những
thông tin không mấy tiến triển này đã làm mất đà tăng giá trị của đồng đôla,
số lượng người bán ra tương đương với mua vào khiến tỷ giá ở những phiên
giao dịch cuối ngày đi ngang. Nhìn chung ngày 15/1 tỉ giá đã bị xu hướng đi
xuống của ngày hôm trước ảnh hưởng và những thông tin được công bố cũng
không đủ sức để kéo tỉ giá đi lên, giá trị đồng đôla tiếp tục giảm. Ngày 19/1
68
ngay từ những phiên giao dịch đầu tiên những thông tin giảm sút của nền kinh
tế Nhật Bản đã kéo tỉ giá USD/JPY đi lên. Lòng tin của người tiêu dùng cá
nhân và hộ gia đình đã giảm sút và vẫn duy trì ở mức dưới 50. Những thông
tin này đã khiến các nhà giao dịch bi quan hơn vào nền kinh tế Nhật và thị
trường bắt đầu chuyển hướng đi lên. Đến 14 h thông tin về nguồn vốn ròng
trung bình hành tháng và hàng năm được công bố cho thấy những tài sản tài
chính vẫn ồ ạt chảy vào Mĩ để giúp nước này thoát khỏi suy thoái. Chỉ số nay tăng
mạnh so với tháng 11 từ 19,3 tỉ đôla lên 126,4 tỉ đô la và gấp 4 lần so với dự tính.
TIC là một nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách và là một trong những sự kiện quan
trọng trên thị trường, nó được các thành viên giao dịch chú ý theo sát để đưa ra
những dự đoán về biến động thị trường trong thời gian sắp tới. Đây có thể coi là
thông tin quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn nhất để kéo tỉ giá đi lên trong ngày
19. Đến cuối ngày những thông tin về thị trường nhà ở, sự lạc quan của người tiêu
dùng ở Mĩ đã giảm nhẹ so với tháng trước và cũng thấp hơn so với dự đoán cũng
cân bằng với thông tin giảm sút của chỉ số công nghiệp Tertiary hàng tháng. Chỉ
số này được bộ công nghiệp, thương mại và kinh tế Nhật Bản cung cấp, nó đánh
giá lĩnh vực dịch vụ bao gồm truyền thông thông tin, năng lượng điện, chất đốt,
nước, dịch vụ, giao thông, thương mại bán buôn và bán lẻ, tài chính và bảo hiểm
và sự thịnh vượng của một nhóm người. Do nền kinh tế của Nhật Bản dựa nhiều
vào xuất khẩu nên những thông tin này được cho là không có tác động mạnh đến
sự phát triển kinh tế.
69
Hình 2.13 Mô hình hai đỉnh
Từ ngày 12 đến ngày 14, tỉ giá tăng chậm, lượng giao dịch trên thị
trường thấp, chứng tỏ tâm lí e ngại của người bán và người mua nên giai đoạn
này đã hình thành hàng loạt cây nến ngắn và có bóng ngắn. Sau khi lên đỉnh ở
ngày 14, nó đã đâm thủng ngưỡng kháng cự 23.6 đây là một ngưỡng kháng cự
mạnh nên nó đã quay đầu đi xuống, khối lượng bán ra lúc này cũng tăng vọt
kéo thị trường đi xuống mạnh và liên tiếp chuyển hướng đi xuống chậm chạp
trong những ngày tiếp theo. Đến ngày 19/1 nó lại tiếp tục gặp ngưỡng hỗ trợ
38.2 đây chỉ là một ngưỡng hỗ trợ yếu, cùng với lòng tin vào sự phục hồi của
nền kinh tế Mĩ, đồ thị cũng đã quay đầu đi lên trở lại. Xu hướng đi lên tiếp
diễn trong một thời gian ngắn rồi cũng gặp ngưỡng kháng cự 23.6 rồi đi
xuống. Đến đây ta có thể thấy mẫu hình đồ thị 2 đỉnh đã được hình thành. Sự
biến đổi của mô hình này tương tự như hiện tượng mà người ta gọi là mô hình
các đỉnh “M” hay 1-2-3 đợt sóng tăng giá. Tuy nhiên, sự tăng giá thứ 2
thường thấp hơn sự tăng giá đầu tiên đối với mô hình này. Trong hầu hết các
trường hợp, những điểm quyết định thường là những điểm tăng giá, đó là
những điểm đánh dấu khả năng xuất hiện một mức giá trần mong đợi, và một
mức giá thấp tạm thời. Nếu giá giảm xuống thấp hơn mức đó, đó là sự xác
nhận đỉnh mô hình và dấu hiệu này khuyên ta nên bán. Mô hình này kết thúc
70
bằng một sự giảm giá rất mạnh của thị trường. Hầu như các nhà giao dịch đều
nắm bắt được cơ hội này và thi nhau bán USD đang nắm giữ ra, việc này đã
làm cho thị trường đi xuống và biểu đồ ngay lập tức hình thành 3 cây nến đỏ
có thân rất dài.
Ngày 20/1 tính thanh khoản của thị trường được tăng lên nhờ tác động
của những thông tin quan trọng về thị trường nhà đất và chỉ số giá sản xuất
PPI ở Mĩ. Nhưng nhìn chung thị trường vẫn không phân thắng bại giữa người
bán và người mua và ngày giao dịch đã tạo nên một cây nến Doji mới báo
hiệu sự đảo chiều, kết thúc xu hướng đi lến yếu ớt từ 2 ngày trước đó. Về phía
Nhật Bản những tin tức từ Hiệp hội sản xuất công cụ máy móc đã cho biết số
lượng đơn đặt hàng của các nhà sản xuất tính trung bình trong năm ngoái đã
tăng 63.4% trong khi năm trước giảm 21.0%. Nhưng nó cũng không đủ sức
để kéo tỉ giá đi xuống và làm tăng giá đồng Yên Nhật do trong nửa sau của
ngày giao dịch 2 luồng thông tin trái chiều từ phía Mĩ cũng làm cho thị trường
đi lên đi xuống thất thường. Đầu tiên là số lượng nhà xây mới và số giấy
phép cấp thêm đã tăng đáng kể, vượt mức mong đợi của thị trường. Mặc dù
chỉ số sản xuất giảm nhiều so với tháng trước nhưng cũng vẫn tăng nhiều hơn
mức dự tính và tính trung bình cả năm thì nó đã tăng thêm 2% từ 2.4% năm
2008 lên 4,4% năm 2009. Đây là những tín hiệu phục hồi quan trọng nhất của
nền kinh tế Mĩ. Tuy nhiên nó cũng chỉ tăng ở mức vừa phải so với những dự
đoán trước đó nên thị trường chịu những tác động bất ngờ khiến tỉ giá tăng
ngoài dự kiến.
Ngày 21 đến ngày 23 xu hướng đi xuống đã được xác nhận bởi những
thông tin nghiêng về phía đồng Yên. Nhật Bản đã có những tín hiệu phục hồi
khá khả quan sau quyết định kích thích nền kinh tế chống giảm phát của chính
phủ được công bố từ đầu tháng 12 năm 2009. Những phiên giao dịch đầu tiên
đã chứng kiến những bước đảo chiều đi xuống sau khi nội các chính phủ Nhật
đã công bố chỉ số chỉ dẫn chung của nền kinh tế. Nó được tính toán dựa trên
71
12 chỉ số khác bao gồm chỉ số về hàng tồn kho, số lượng đơn đặt hàng sản
xuất công nghiệp, giá chứng khoán, và các chỉ số liên quan khác. Đây là chỉ
số phản ánh thực trạng toàn cảnh của nền kinh tế và nó đã tăng một cách khả
quan từ 91.2 điểm lên 94 điểm trong tháng trước. Ngược lại với những gì
đang diễn ra ở Nhật Bản thì thị trường lao động Mĩ đã công bố những con số
cho thấy số người thất nghiệp vẫn tiếp tục tăng lên và số người thất nghiệp
chưa tìm được việc cũng không giảm đi. Mặc dù điều này cho thấy thị trường
lao động chưa có dấu hiệu phục hồi ổn định nhưng các nhà kinh tế cũng
không tỏ ra lo ngại về vấn đề này. Bộ lao động cho biết số lượng đơn xin trợ
cấp thất nghiệp tăng thêm 36 nghìn đơn lên 482 nghìn trong tuần này. Ngân
hàng liên bang của bang Philadelphia đưa ra một bản khảo sát cho biết chỉ số
đo lường điều kiện sản xuất đã giảm từ 22.5 điểm xuống còn 15,2 điểm
trong tháng này nhưng vẫn duy trì được mức dương liên tiếp trong 5 tháng
liên tục. Trong đó số lượng đơn đặt hàng mới và vận tải đã giảm từ 4 đến 5
điểm, riêng chỉ số hàng tồng kho mặc dù vẫn ở mức điểm âm nhưng cũng đã
tăng được 4 điểm trong tháng này và là mức tăng cao nhất trong 26 tháng qua.
Những phiên giao dịch cuối ngày chứng kiến sự giảm điểm mạnh mẽ bởi
những tin tức trên và một tác động xấu nữa đó là sự cắt giảm lớn lượng dầu
thô dự trữ được cơ quan quản lí thông tin năng lượng công bố. Ngày 22/1 là
một ngày rực sắc đỏ trên biểu đồ của cặp tiền USD/JPY do Nhật Bản đã có
những dấu hiệu phục hồi kinh tế khá rõ thể hiện qua doanh số bán hàng do
hiệp hội hàng hoá tổng hợp cho biết. Giá trị của các mặt hàng hoá bán ra đã
tăng gần 7% trong năm 2009
72
Hình 2.14 Tình trạng thất nghiệp ở Mĩ
Nguồn: Globicus
Hình 2.15 Chỉ số sản xuất bang Philadelphia
Nguồn: Globicus
Rất nhiều thông tin quan trọng có tác động mạnh đến thị trường ngoại
hối được công bố trong những ngày cuối tháng 1. Ngày 26/1 ngay tại những
73
phiên giao dịch đầu tiên sau khi Ngân hàng Nhật Bản công bố chính sách lãi
suất sẽ không thay đổi và tiếp tục duy trì mức lãi suất 0,1% để kích thích nền
kinh tế. Các nhà giao dịch hi vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn cho kinh tế
Nhật và giá trị đồng yên được kì vọng sẽ tăng trong thời gian tới. Tỷ giá sụt
giảm đáng kể. Những phiên giao dịch của nửa cuối ngày đã bị ảnh hưởng bởi
những thông tin không tốt đến từ thị trường nhà đất của Mĩ, giá nhà liên tục
giảm, trong đó báo cáo của S&P là báo cáo có tác động lớn hơn đã cho thấy
giá trên thị trường bất động sản trên 20 khu vực chính của Mĩ đã giảm. Chỉ số
này được tính trên những thông tin về giá nhà dành cho hộ gia đình ở các
trung tâm thành phố, và mức tiêu chuẩn được lấy là giá trị của tháng 1/ 2000
tương đương với thang đo 100. Ví dụ, chỉ số này hôm nay là 150 thì có nghĩa
rằng gía nhà đã tăng 50% so với giá nhà tính từ tháng 1/2000. Theo kinh
nghiệm của các chuyên gia môi giới bất động sản thì mùa thu và mùa đông là
thời điểm mà giá nhà đất sẽ xuống thấp nhất trong cả năm. Và trong tháng này
chỉ số này đã tăng từ - 7.3% lên -5,3% thấp hơn dự đoán là -4,9%. Chỉ số sản
xuất Richmond Fed cũng tăng không như mong muốn của các nhà kinh tế,
nó chỉ tăng nhẹ từ -4 lên -2 trong khi đó mức dự báo là 0. Đây là một loại chỉ
số được tổng hợp bao gồm 33% là chỉ số giao thông vận tải, chỉ số các đơn
đặt hàng mới chiếm 40% và chỉ số thất nghiệp chiếm 27% và những thông tin
để tính toán được cung cấp bởi 80 đến 144 hãng ở các quận của Columbia,
Marylanhd, Carolina, Virginia. Bên cạnh đó nhu cầu dự trữ dầu mỏ giảm
mạnh. Chỉ số lòng tin người tiêu dùng tăng rất thấp, và không đáp ứng được
lòng mong đợi của các nhà kinh tế. Đến cuối ngày những thông tin lạc quan
của bộ tài chính Nhật Bản đã góp phần làm giảm đáng kể tỉ giá giao dịch.
Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng một cách ngoạn mục trong tháng
cuối cùng của năm 2009 từ 492,4 tỷ yên lên 655.868 tỷ yên và tăng ngoài dự
kiến của chính phủ.
74
Ngày 27 Ngân hàng Nhật Bản công bố những thông tin về bản khảo
sát nền kinh tế hàng tháng và cho biết kinh tế Nhật đang trên đà phục hồi
nhưng với tốc độ vừa phải. Lĩnh vực đầu tư kinh doanh, thị trường nhà đất
đang trong giai đoạn tạm dừng để khắc phục những điểm yếu khác đang tồn
tại trong hệ thống kinh tế. Mặc dù vậy nó cũng chỉ chững lại trong ngắn hạn
bởi các chỉ tiêu khác như tiêu dùng cá nhân, xuất khẩu và sản xuất vẫn đang
trên đà tăng nhờ những ưu đãi của chính sách kích thích kinh tế cả từ trong
nước và ngoài nước. Nhật là nước phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu, do vậy
khi tăng trưởng kinh tế của thế giới phục hồi nó cũng đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế Nhật Bản. Chỉ số về thương mại bán lẻ
hàng năm cũng đã tăng đáng kể, mặc dù chưa đạt đến mức kì vọng của người
dân nhưng cũng là cả một thành tích lớn trong việc thúc đẩy tiêu dùng ở Nhật.
Đây là một dấu hiệu quan trọng trong quá trình thúc đẩy chi tiêu cá nhân và
hộ gia đình, nó đóng một vai trò không nhỏ giúp nền kinh thế phục hồi trở lại.
Ngày 28/1 bài phát biểu của Masaaki Shirakawa về toàn cảnh chung nền
kinh tế Nhật Bản đã có tác động đến tỉ giá giao dịch của đồng Yên, và làm
cho tỉ giá USD/JPY có một ngày đi xuống. Ông cho rằng nền kinh tế Nhật có
mối liên hệ khá chặt chẽ nền kinh tế thế giới chính vì vậy mà những chính
sách kích thích kinh tế ở châu Âu, Mĩ… không chỉ mang lại lợi ích cho nước
họ mà còn có tác động tốt đến nền kinh tế của Nhật. Đầu năm 2010, kinh tế
khu vực châu Âu và Mĩ đã báo hiệu những điều tốt đẹp, các nhà kinh tế kì
vọng vào một năm đi lên sau khi khủng hoảng đã rơi xuống đáy vào năm
2009. Do vậy có thể nói rằng kinh tế Nhật cũng đang trên đà đi lên, tuy nhiên
chỉ ở một mức độ vừa phải. Đầu tiên là chỉ số về sản xuất công nghiệp, lĩnh
vực này chiếm 20 % trong tổng sản phẩm thu nhập quốc nội của Nhật và cũng
được xem như một chỉ báo tổng quan cho nền kinh tế, nó đã tăng 18.5% trong
tháng 1/2010. Tình trạng giảm phát cũng giảm đáng kể từ -2.2% tháng 9/2009
xuống còn -1,3 tháng 1/2010. Chỉ số lòng tin của người tiêu dùng tăng từ
75
36.3 tháng 5/2009 lên 39.4. Tỉ lệ thất nghiệp cũng giảm 0,4 % so với cuối
năm ngoái. Bên cạnh đó chính phủ Nhật cũng ra sức tìm ra những giải pháp
hỗ trợ nền kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ. Nhật Bản không những
được hưởng lợi từ những chính sách của chính phủ Nhật mà còn cả từ các
nước khác.
Tuần giao dịch cuối tháng 1 đã vẽ nên một mẫu hình vai- đầu- vai đảo
ngược. Ngày 21 xu hướng đi xuống được dự đoán bởi mô hình 2 đáy và được
xác nhận bởi công cụ dự báo Ichimoku Kinko Hyo. Đường tenkan màu đỏ
cắt đường kijun màu xanh từ trên xuống, hơn nữa đám mây kumo lại ở trên
đường giá, chứng tỏ một dấu hiệu giảm giá mạnh. Và ta cũng có thể thấy
được tín hiệu bán ra rất mạnh khi đường chikou span (màu đen) nằm ngay bên
dưới đường giá ở thời điểm 8h sáng ngày 22/1. Với những tín hiệu rất mạnh
như thế, thị trường đã ồ ạt bán ra, đồ thị tỉ giá cũng chạm phải ngưỡng kháng
cự 38.2 rồi đi xuống vẽ nên đỉnh vai thứ nhất của mẫu hình. Những ngày tiếp
theo thông tin về sự phục hồi của Nhật Bản đã được công bố, khiến giá trị của
đồng Yên được nâng lên và kéo thị trường đi xuống cho đến ngày 26. Lúc này
đồ thị tỉ giá đã chạm phải ngưỡng hỗ trợ 50.0 đây là một ngưỡng hỗ trợ khá
mạnh, nó đã đâm xuyên qua ngưỡng này nhưng lại bật trở lại rồi đi lên. Hai
đường tenkan và kijun đã tiến lại gần nhau và đang có xu hướng cắt lên, đồng
thời đám mây Kumo cũng tiếp tục đi xuống và tiến gần vào đường tỉ giá, báo
hiệu thị trường sẽ đi lên trong tương lai. Ngày 28/1 khi tenkan cắt kijun và
đường chikou span ở trên đường tỉ giá rất cao, nó cho thấy một tín hiệu mua
vào cực mạnh bởi đó là một đáy tiếp theo của mô hình vai đầu vai đảo ngược,
và đây chính là vai thứ 2. Kết thúc một mô hình vai đầu vai, tỉ giá đi lên mạnh
mẽ trong ngày 29. Ta có thể thấy đường xu hướng của đồ thị đi lên từ “đầu”
của mô hình vẫn được duy trì trong một vài phiên giao dịch sau đó.
76
Hình 2.16 Biểu đồ phân tích bằng công cụ phân tích Ichimoku Kinko
Hyo.
77
Chương III. Điều kiện để áp dụng hiểu quả phân tích cơ bản và
phân tích kĩ thuật trong kinh doanh ngoại hối tại Việt Nam
I. Mục tiêu và định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam
1. Đặc điểm thị trường ngoại hối Việt Nam
1.1 Là một thị trường non trẻ.
Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, từ năm 1986, công
cuộc đổi mới ở Việt Nam được thực hiện với chủ trương phát triển một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới cũng được tiến hành đồng thời với
việc phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu
hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng trên
khắp mọi lĩnh vực.
Trong những năm qua, với vai trò là cầu nối giữa nền kinh tế nội địa với
nền kinh tế thế giới bên ngoài, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành
và từng bước phát triển. Thị trường ngoại hối Việt Nam mang gần như đầy đủ
những đặc điểm của thị trường ngoại hối nói chung tuy nhiên đó vẫn còn là
một thị trường còn rất non trẻ và sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động cũng
như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh.
Cuối năm 1994 trước nhu cầu bức thiết trong quan hệ giao dịch, thanh
toán quốc tế của nền kinh tế nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế phù hợp
với quá trình phát triển của thị trường tài chính toàn cầu, với các điều kiện
khách quan và chủ quan thuận lợi như hệ thống NHTM đã phát triển hơn về
số lượng và chất lượng các điều kiện về kinh tế, trang thiết bị cho phép khả
năng giao dịch của các ngân hàng được nâng cao và đặc biệt là nguồn ngoại tệ
của nền kinh tế trở nên dồi dào ngày 20/9/1994 thống đốc NHNN đã ban hành
quyết định 203/QĐ-NH thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Đây
78
được coi là bước thành công đầu tiên cho việc hình thành 1 thị trường ngoại
hối minh bạch, khách quan, đã dần xoá bỏ chế độ áp đặt tỉ giá chủ quan duy ý
chí và rút ngắn được khoảng cách giữa tỉ giá ở thị trường tự do và thị trường
chính thức. Tuy nhiên do còn non kém trong công tác quản lí và điều hành
nên thị trường liên ngân hàng vẫn chưa phát huy được hết những mặt tích cực
của mình. Về phía NHNN thì luôn tỏ ra lúng túng trong vai trò là người quản
lí chính sách vĩ mô và điều hành tỉ giá thông qua quá trình điều tiết cung cầu
trên thị trường, còn các NHTM và tổ chức tài chính trên thị trường thì chưa có
kinh nghiệm tham gia một thị trường kinh doanh ngoại hối lớn mang tính toàn
cầu, chiến lược kinh doanh đề ra còn mang tính chất ngắn hạn chưa có tầm
nhìn xa. Nhìn chung, giai đoạn này thị trường ngoại hối vẫn đang trong quá
trình hoàn thiện và đã có những bước tiến đáng kể để tiến tới một thị trường
hoạt động theo cơ chế mở cửa, chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế.
1.2 Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng với
các thành viên chủ yếu là các ngân hàng thương mại, các nhà môi giới
ngoại hối và các NHTW.
Sau 1 thời gian hoạt động đến 4/1999 trước những thay đổi về tính chất
và hoạt động ngân hàng nói chung, đặc biệt là khi luật ngân hàng nhà nước và
luật các tổ chức tín dụng được ban hành tháng 12/1997 nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển ở trình độ cao hơn, chặt chẽ hơn của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng (TTNTLNH) ngày 26/3/1999 thống đốc ngân hàng đã ra quyết định
101/1999 /QĐ NHNN 13 về quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH
thay thế cho QĐ203 trước đây. So với quy chế cũ, quy chế mới được quy định
trong QĐ 101/1999 có nhiều thay đổi theo hướng cụ thể hơn mở rộng điều
kiện để trở thành thành viên, đồng tiền giao dịch, các nghiệp vụ và phương
thức giao dịch. Trước chỉ có các NHTM được phép tham gia TTNTLNH thì
nay tất cả các tổ chức có giấy phép đều được giao dịch trên TTNTLNH và
nghiệp vụ hoán đổi đã được phép áp dụng trong giao dịch bên cạnh các
79
nghiệp vụ truyền thống như giao ngay và kì hạn. Tuy nhiên, các ngân hàng
vẫn đóng vai trò chủ đạo trên thị trường kinh doanh ngoại tệ, còn các doanh
nghiệp được cấp phép thì vẫn còn hạn chế về số lượng và quy mô giao dịch.
1.3 Chính sách đang dần được nới lỏng từng bước theo hướng tự do hoá
dần các giao dịch ngoại hối
Kể từ năm 2002 với sự phục hồi của nền kinh tế cùng với sự thay đổi và
ổn định của cơ chế chính sách về khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư
nước ngoài, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Luật
Đầu tư nước ngoài sửa đổi, luật cạnh tranh, xây dựng luật đầu tư chung…
Nhìn chung giai đoạn này tỉ giá biến động trong ngắn hạn và ổn định trong dài
hạn. NHNN cố gắng xây dựng chế độ tỉ giá linh hoạt có điều tiết, theo dõi sát
sao tỷ giá hàng ngày để có những can thiệp kịp thời định hướng cho tỷ giá dài
hạn đạt đến mức mục tiêu phù hợp với chính sách tiền tệ và môi trường kinh
tế.
Quyết định 46/2003/QĐ Ttg đã nới rộng phạm vi hoạt động của các tổ
chức ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, xoá bỏ tỷ lệ kết hối ngoại tệ, đồng
thời kích thích thu hút các nguồn vốn ngoại tệ vào trong nước đặc biệt là
nguồn kiều hối tập trung vào hệ thống NHTM thông qua hình thức ưu đãi về
lãi suất đối với khách hàng bán và gửi ngoại tệ vào NH góp phần thành công
vào mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ
những thay đổi theo hướng tích cực, nước ta đã thu hút được một lượng ngoại
tệ đáng kể vào trong nước. Hoạt động của hệ thống NH và các tổ chức tín
dụng trên thị trường ngoại hối ngày càng sôi động tạo điều kiện mở rộng hoạt
động của thị trường ngoại hối có tổ chức, giảm ảnh hưởng của thị trường tự
do từ năm 2004 trở lại đây quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN của Thống
đốc NHNN điều chỉnh giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng (TCTD)
được phép hoạt động ngoại hối đã chính thức có hiệu lực thi hành và thay thế
Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN7 về Quy chế giao dịch hối đoái năm 1998.
80
Nền kinh tế mở sau sự kiện gia nhập WTO và cam kết mở cửa thị trường
tài chính đã giúp Việt Nam thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp và gián
tiếp nước ngoài, điều này đã làm cho thị trường ngoại hối Việt Nam tăng
nhanh về quy mô, nâng cao chất lượng thành viên tham gia thị trường và cơ
quan quản lí điều tiết cũng đạt được những bước tiến bộ đáng kể trong công
tác quản lí điều hành thị trường một cách linh hoạt, thông thoáng, an toàn hơn
để ổn định thị trường.
1.4 Tỷ giá thả nổi nhưng có sự quản lí của nhà nước.
Từ khi thành lập cho đến nay, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có
những bước tiến đáng kể trong việc tự do hóa kinh doanh ngoại tệ. Tuy nhiên
ngân hàng nhà nước vẫn thông qua các quy chế về chủ thể kinh doanh ngoại
tệ, giới hạn biên độ biến động tỉ giá để điều tiết thị trường này và can thiệp
bằng nhiều cách khác nhau để ổn định nhu cầu và nguồn cung ngoại tệ trong
nước.
Ví dụ, ngày 02/01/2007 NHNN ban hành quyết định sô 2554/QĐ-
NHNN thay thế quyết định số 679/2003/ QĐ-NHNN về việc nới rộng biên độ
tỷ giá ngoại tệ từ ±0,25% lên ±0,5% để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu, tăng tính cạnh tranh trên thị trường ngoại hối.
Đến những tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối cũng rơi vào tình
trạng căng thẳng, nhưng những áp lực trên đã không còn quá lớn. Trong 7
tháng đầu năm, nhập siêu chỉ mới ở mức 3,38 tỷ USD; do chính sách hạn chế
nhập khẩu, kích cầu trong nước do vậy theo mục tiêu Bộ Công Thương đặt ra,
nhập siêu sẽ dưới 20% kim ngạch xuất khẩu, cả năm sẽ khoảng 8 - 10 tỷ
USD, rất thấp so với sự đột biến 18 tỷ USD năm 2008. Tuy nhiên cung cầu
ngoại tệ vẫn chưa hết căng thẳng. Tăng trưởng tín dụng nói chung của cả nền
kinh tế là 11,6%, nhưng tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ giảm 2,5%.
Doanh số giao dịch chỉ bằng mức trần mà ngân hàng quy định. Tình trạng
găm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp ngày một cao.
81
Với tình hình kinh tế biến động thất thường vào cuối năm 2008 và đầu
năm 2009 nhiều doanh nghiệp nhập khẩu gặp khó khăn do USD tăng giá,
nguyên nhân chính là do tâm lý bi quan về giá trị VNĐ và chính sách hỗ trợ
lãi suất của chính phủ làm cho lãi suất VNĐ và USD xấp xỉ bằng nhau nên
các doanh nghiệp đã không muốn bán lại ngoại tệ cho ngân hàng để phòng
ngừa rủi ro tỷ giá trong tương lai. Trước những tình hình như vậy Ngân hàng
Nhà nước cũng khẳng định có đủ khả năng để can thiệp thị trường khi cần
thiết với nguồn ngoại tệ đủ mạnh. Hiện dự trữ ngoại tệ ở khoảng trên dưới 22
tỷ USD. Ngân hàng Nhà nước bán ngoại tệ cho các ngân hàng có trạng thái
ngoại hối âm. Nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá từ 3% lên 5%. Tung nhóm
giải pháp hỗ trợ 4% lãi suất vay vốn ngân hàng ra thị trường. Ngân hàng Nhà
nước giữ mặt bằng lãi suất huy động USD chỉ nên ở mức 1-2%, trên cơ sở đó
kéo lãi suất cho vay xuống 1,5-3,5%.
Tóm lại có thể thấy, sau một chặng đường dài, hiện nay thị trường
NHVN đã có một tổ chức thống nhất và hoạt động có hiệu quả. Thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng không chỉ là nơi kinh doanh ngoại tệ nhằm thoả mãn
các nhu cầu tiền tệ của khách hàng mà còn là nơi NHNN can thiệp một cách
có hiệu quả vào cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường.
1.5 Ngoại tệ kinh doanh chủ yếu là đồng USD.
Do những đặc điểm của thương mại quốc tế, Việt Nam ngày càng hội
nhập vào nền kinh tế thế giới nên hoạt động xuất nhập khẩu cũng phát triển
nhanh, nguồn cung và cầu ngoại tệ cũng tăng theo tương ứng và các giao dịch
chủ yếu được thực hiện bằng đồng Đôla Mĩ. Hơn nữa, do có tính thanh khoản
cao không chỉ ở Việt Nam mà hầu khắp các thị trường trên thế giới. Chính vì
vậy mà tại thị trường ngoại hối Việt Nam nó cũng đóng vai trò chủ đạo trong
giao dịch thương mại và kinh doanh ngoại hối.
82
2. Mục tiêu và định hướng phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam
2.1 Xây dựng quy tắc ứng xử và thông lệ thống nhất cho hoạt động thị
trường ngoại hối Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Ban soạn thảo Bản thông lệ thị trường
ngoại hối Việt Nam, các thành viên ban soạn thảo gồm đại diện của Hiệp hội
Ngân hàng Việt Nam, một số NHTM Việt Nam và NH nước ngoài có kinh
nghiệm về hoạt động kinh doanh ngoại hối. Theo đó, các quy tắc này phải phù
hợp và mang tính chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế, bảo vệ sự lành mạnh của
hệ thống tài chính.
Bản thông lệ thị trường ngoại hối Việt Nam đưa ra các tiêu chuẩn về quy
tắc ứng xử kinh doanh của các thành viên tham gia thị trường và thiết lập
những thông lệ thị trường cho các giao dịch nhằm đảm bảo mối quan hệ lành
mạnh và công bằng giữa các thành viên thị trường. Đồng thời thông qua đó
tạo tính hiệu quả cho thị trường, giảm thiểu tranh chấp giữa các đối tác và đặt
một nền móng khách quan để phân xử giữa các bên tranh chấp khi cần thiết
Các quy tắc hoạt động trên thị trường ngoại hối được đưa ra tại Bản
thông lệ thị trường ngoại hối Việt Nam đó là:
Đạo đức nghề nghiệp
Đặt ra những tiêu chuẩn đạo đức và ứng xử của giao dịch viên và bên
môi giới cần tuân thủ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; đó
là các thành viên tham gia thị trường không được phép tiết lộ thông tin cho
các bên không liên quan, không được cố ý truyền bá tin đồn hay thông tin sai
lệch để trục lợi cho bản thân, luôn cảnh giác để phát hiện hành vi lừa đảo và
phổ biến cho các thành viên khác nếu thấy có dấu hiệu lừa đảo để tránh thiệt
hại
Các nguyên tắc giao dịch ngoại hối và thông lệ thị trường
Đề ra những nguyên tắc chủ yếu trong việc ứng xử các hoạt động thị
trường, trách nhiệm và nghĩa vụ các thành viên thị trường đối với các hoạt
83
động như báo giá, hoàn tất giao dịch, chấm dứt sớm hợp đồng, đặt và nhận
lệnh giao dịch, xác định ngày giá trị, xác định ngày nghỉ, xác định khối lượng
giao dịch, giờ giao dịch của thị trường, giao dịch sau giờ làm việc ….
Các nguyên tắc quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
Mỗi định chế cần có trách nhiệm quản lý rủi ro có thể bắt nguồn từ hoạt
động thị trường của mình phù hợp với những văn bản pháp quy và những
chính sách hoặc quy định khác. Đồng thời, các thành viên tham gia thị trường
cần phải đề ra các chính sách và quy định quản lý rủi ro trong kinh doanh
ngoại hối bằng văn bản, trong đó quy định các công cụ được phép giao dịch,
các hạn mức rủi ro, cơ chế giám sát và báo cáo rủi ro, phương pháp xác định
mức độ rủi ro và kế hoạch dự phòng đối với trường hợp gặp rủi ro.
Quy trình giao dịch:
Quy trình xử lý cần đảm bảo rằng giao dịch được tiến hành và giải quyết
một cách hiệu quả đồng thời củng cố việc kiểm soát rủi ro, một việc cần thiết
cho sự lành mạnh của toàn bộ các thị trường tài chính. Như vậy, một số vấn
đề cần được chú ý như việc chuẩn bị trước khi giao dịch, ghi nhận các giao
dịch, thủ tục xác nhận, chỉ dẫn thanh toán, giám sát thanh toán và phạt thanh
toán chậm, hồ sơ về những giao dịch đã được tiến hành và xác nhận, thanh
toán bù trừ song phương…cần được tuân thủ bởi các thành viên thị trường
Vấn đề quản lý và nhân sự
Lãnh đạo của các thành viên tham gia thị trường có trách nhiệm kiểm
soát hoạt động của các nhân viên giao dịch trên thị trường ngoại hối. Còn
nhân viên giao dịch có trách nhiệm đảm bảo hành động trung thực khi giao
dịch trên thị trường và tuân thủ đúng các quy tắc về giao dịch ngoại hối
Giải quyết những tranh chấp
Khi có tranh chấp xảy ra, các bên nhanh chóng thông báo và trao đổi với
nhau để tìm ra giải pháp phù hợp. Giải quyết bằng phương pháp hoà giải sẽ
84
tiết kiệm thời gian, chi phí, đảm bảo tính bảo mật và duy trì mối quan hệ tốt
đẹp hơn là đưa ra trọng tài kinh tế.
Đưa ra Bản thông lệ là một lẽ, thực hiện như thế nào còn là một câu hỏi
lớn. Những quy định, quy tắc nêu ra cần được quán triệt chỉ đạo và nghiêm
túc thực hiện, có như vậy mới có thể góp phần hoàn thiện thị trường ngoại hối
Việt Nam
2.2 Điều hành tỷ giá trong giai đoạn tới vẫn tiếp tục theo cơ chế thả nổi có
điều tiết của chính phủ.
Những nghiên cứu của IMF cho thấy hầu hết các nước thường duy trì
một chế độ tỷ giá linh hoạt không hoàn toàn. Chính những “nỗi sợ hãi thả
nổi” đã làm cho nhiều Ngân hàng Trung ương duy trì tỷ giá danh nghĩa trong
phạm vi dải băng tỷ giá. Có ba khả năng:
Trong một thị trường vốn quốc tế phát triển cao độ ở phạm vi toàn
cầu thì một chế độ tỷ giá cố định sẽ làm cản trở chính sách tiền tệ độc lập.
Còn nếu chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn sẽ là không
khả thi do tính biến động quá mức của tỷ giá đi cùng với tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế ở các nước.
Khả năng thứ ba là hệ thống tỷ giá thả nổi có điều tiết. Giải pháp
này được chính phủ nhiều nước đã và đang theo đuổi, nhưng hệ thống tỷ giá
như thế cũng lại đương đầu với những phức tạp, đó là phải có dự trữ ngoại hối
đủ mạnh để tiến hành can thiệp khi cần thiết. Mặc dù vậy, đây có thể coi là
một hướng đi thích hợp cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Thực tế là trong thời gian qua, NHNN Việt Nam đã có những động thái
tích cực, góp phần đảm bảo ổn định trên thị trường tiền tệ.
2.3 Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Mục đích ban đầu khi thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
(TTNTLNH) là nhằm thiết lập một mức tỷ giá cơ bản cho thị trường, có
nghĩa là tỷ giá giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng sẽ phản ánh cung cầu ngoại
85
tệ trên thị trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, do trình độ thị trường còn sơ khai
và còn bị rằng buộc bởi nhiều chính sách hành chính cho nên doanh số giao
dịch trên thị trường này chỉ vào khoảng 13% - so với con số 85% ở các nền
kinh tế phát triển – do đó tỷ giá giao dịch bình quân ở đây chưa đặc trưng cho
cả nền kinh tế, chưa phán ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại
hối. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả ở Việt
Nam, ngoài yếu tố tỷ giá thì phải đề cập đến các nhân tố khác, đó là:
Nâng cao vai trò của Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN)
Khi mà tỷ giá chưa làm được chức năng là điều tiết cung cầu trên thị
trường ngoại tệ thì NHNN nên tham gia TTNTLNH với tư cách vừa là thành
viên vừa là người tổ chức, quản lý điều hành hoạt động của thị trường này.
NHNN thực hiện chức năng là người mua bán cuối cùng trên TTNTLNH,
điều tiết cung cầu ngoại tệ, nhằm bôi trơn và giúp cho thị trường ngoại hối
hoạt động được thông suốt.
Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời theo sát diễn biến thị
trường với quy mô thích hợp, có như vậy thị trường mới hoạt động thông
suốt. Một khi NHNN can thiệp không kịp thời hoặc không đúng quy mô sẽ
tạo ra tâm lý ngóng đợi, nghi ngờ, khiến thị trường rơi vào trầm lắng, kích
thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá.
Có thể lấy ví dụ như trong những tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại
hối ở Việt Nam rơi vào tình trạng khá căng thẳng. Nền kinh tế đang có hiện
tượng hệ thống ngân hàng “thừa” ngoại tệ để cho vay, thiếu ngoại tệ để bán,
thị trường ngoại hối căng thẳng, có rất ít giao dịch. Các NHTM không có đủ
USD để bán cho doanh nghiệp, trong khi đó lại không huy động được USD từ
người dân, dẫn đến tình trạng là các doanh nghiệp phải đi mua USD chợ đen
với giá cao ngất ngưởng, đồng thời USD thu được từ xuất khẩu họ lại không
bán lại cho ngân hàng mà để dự trữ phòng tránh rủi ro tỷ giá, làm tình trạng
thiếu USD càng thêm nghiêm trọng. Trước tình hình đó, NHNN đã can thiệp
86
ngay vào thị trường bằng 3 nhóm giải pháp chính: thông tin tuyên truyền, sử
dụng các công cụ kinh tế và chấn chỉnh thị trường, chống đầu cơ. Cụ thể:
- Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời cung cấp một cách công khai, minh
bạch các thông tin cần thiết về tình hình dự trữ ngoại hối, kim ngạch xuất
nhập khẩu để doanh nghiệp và người dân hiểu tình hình.
- Ngân hàng Nhà nước đã dự báo cán cân thanh toán cả năm 2009 theo
nhiều kịch bản khác nhau. Theo đó, mức thâm hụt trung bình của cán cân
thanh toán là khoảng 1 tỷ USD. Ngay cả với kịch bản xấu nhất, mức thâm hụt
chỉ gần 2,5 tỷ USD. Trong khi đó dự trữ ngoại hối của nước ta vẫn đang duy
trì ở mức 20 tỷ USD, đủ sức để bù mọi thiếu hụt của cán cân thanh toán.
- Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ sử dụng các nhóm giải pháp sử
dụng các công cụ và biện pháp kinh tế. Hiện nay mặt bằng lãi suất huy động
USD của ngân hàng thương mại phổ biến ở mức từ 2% đến 3%. Do không
cho vay ra được nên nếu các ngân hàng huy động càng nhiều USD thì sẽ càng
lỗ vì: các ngân hàng phải gửi số ngoại tệ này ở nước ngoài với mức lãi suất
thấp hơn rất nhiều so với mức 2 đến 3% và rủi ro cũng rất lớn. Các ngân hàng
cũng có thể gửi tại Ngân hàng Nhà nước hầu như không có rủi ro nhưng lãi
suất chỉ ở mức 0,1%. Như vậy về bản chất kinh tế, các ngân hàng phải cùng
nhau đưa mặt bằng lãi suất huy động USD xuống thấp hơn nữa.
Khi đó mới có điều kiện để đưa mặt bằng lãi suất cho vay USD xuống
mức thấp hơn (theo tính toán sẽ ở mức từ 1,5% đến 3,5%). Điều này sẽ tạo
chênh lệch lãi suất giữa vay vốn USD và VND ở mức từ 2% đến 3% - điều
kiện hấp dẫn hơn để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn USD thay vì chỉ
đi mua USD.
- Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang tiến hành hoán đổi ngoại tệ trên
quy mô lớn với các ngân hàng thương mại để tạo thêm nguồn vốn VND cho
ngân hàng thương mại vừa giải quyết bài toán “thừa” ngoại tệ để cho vay của
các ngân hàng thương mại.
87
- Về nhóm giải pháp chấn chỉnh thị trường, chống đầu cơ, Thủ tướng
Chính phủ đã yêu cầu chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về quản
lý ngoại hối, đặc biệt là các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép. Ngân hàng
Nhà nước cũng có nhiều biện pháp nghiệp vụ, thanh tra tại chỗ hoạt động mua
bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, xử lý nghiêm khắc các hành vi cố
tình mua bán ngoại tệ vượt trần qui định.
Cho đến nay, với những biện pháp can thiệp kịp thời của NHNN lên thị
trường ngoại hối, tình hình cung cầu ngoại tệ đã bớt căng thẳng, tính thanh
khoản của thị trường ngoại tệ có những chuyển biến tích cực, tình trạng găm
giữ ngoại tệ đã được cải thiện đáng kể. Qua đó càng thấy rõ vai rò của NHNN
đối với thị trường ngoại tệ.
NHNN cần xem xét một số điểm chưa hợp lý trong quy định về
nghiệp vụ hoán đổi giữa NHNN và NHTM. Cụ thể:
Ngân hàng Nhà nước cần quy định lại tỷ giá giao ngay cho phù hợp.
Theo tập quán kinh doanh quốc tế thì tỷ giá giao ngay trong dịch vụ hoán đổi
là “tỷ giá trung bình của tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra”, nhưng NHNN lại
quy định trong giao dịch hoán đổi, tỷ giá mua vào và bán ra là tỷ giá mua vào
và bán ra của NHNN. Điều này không những không phù hợp với tập quán
quốc tế mà còn khiến người ta có suy nghĩ NHNN có động cơ “mua rẻ, bán
đắt” thông qua giao dịch hoán đổi.
Mở rộng số lượng thành viên tham gia thị trường
Hiện nay đã có khoảng 60 thành viên được công nhận là thành viên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số lượng thành viên tham gia tích cực
vào thị trường còn hạn chế, khiến cho thị trường hoạt động khá trầm lắng.
Hơn nữa, giao dịch trên thị trường diễn ra một chiều, có nghĩa là có một số
ngân hàng chuyên bán, còn số khác thì chuyên đi mua, làm cho thi trường
ngoại tệ liên ngân hàng mất đi tính đặc thù của nó. Cho nên, một mặt cần mở
88
rộng số lượng thành viên, mặt khác cần tạo ra môi trường để các thành viên
có thể tham gia tích cực hơn nữa.
Cần hiện đại hóa hệ thống giao dịch, trang bị công nghệ thông tin
tiên tiến cho các ngân hàng.
Giữa các ngân hàng phải được kết nối một cách thông suốt. Hiện chỉ có
một số ít ngân hàng đã thực hiện giao dịch mua bán qua hệ thống Dealing
2000 của Reuter, còn lại là thực hiện qua thủ tục công văn, còn điện thoại thì
không được chấp nhận. Rõ ràng đây là một hạn chế lớn của thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng Việt Nam.
Đào tạo kiến thức cho các cán bộ ngân hàng về kỹ năng kinh doanh, các
nghiệp vụ ngoại hối mới và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, phần
mềm chuyên dụng
2.4 Nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền và Khắc phục hiện tượng đô la
hoá:
Việc nâng cao tính chuyển đổi của VND trong bối cảnh toàn cầu hoá
kinh tế hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và
quá trình hội nhập quốc tế. Đồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết kinh
tế trong nước với quốc tế, thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, thu hút mạnh
nguồn vốn nước ngoài, tạo vị thế cho quốc gia trên thị trường quốc tế. Đồng
tiền có tính chuyển đổi cao cũng sẽ làm giảm hiện tượng “đô la hoá”, qua đó
nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.
2.5 Chuyển biện pháp kết hối sang công cụ tỷ giá thị trường
Kết hối ngoại tệ là biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp có nguồn thu về
ngoại tệ phải bán ngay một phần cho NHTM. Trong những thời điểm cụ thể,
biện pháp này phát huy tác dụng nhất định trong việc hạn chế tình trạng găm
giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nó cũng đi ngược với xu thế
giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp, tăng cường các biện pháp kinh tế
trong công tác điều hành, quản lý ngoại hối.
89
Ngày15/5/2002, Qui định kết hối bắt buộc đối với tài khoản vãng lai của
doanh nghiệp được điều chỉnh, chỉ còn kết hối 30%. Lại thêm một lần nữa,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện đúng cam kết với Quỹ tiền tệ quốc tế sẽ bỏ
dần kết hối để vào năm 2003 các doanh nghiệp sẽ không còn bị bắt buộc phải
bán ngoại tệ mình kiếm được cho Ngân hàng.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa đảm bảo tính tự chủ của doanh
nghiệp, vừa khuyến khích họ sẵn sàng bán ngoại tệ cho NHTM để quay vòng
sản xuất chứ không bắt ép bằng biện pháp kết hối? Để thúc đẩy thị trường
ngoại hối phát triển, chính sách quản lý ngoại hối phải được đổi mới theo
hướng tự do hoá, giảm việc can thiệp trực tiếp, tăng sử dụng các biện pháp
kinh tế trong điều hành chính sách quản lý ngoại hối.
2.6 Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
Trong số các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối: Giao ngay, kỳ hạn,
hoán đổi, quyền chọn và tương lai, mặc dù 4 nghiệp vụ đầu tiên đã xuất hiện
ở Việt Nam, tuy nhiên hoạt động của nó còn rất khiêm tốn. Để thị trường
ngoại hối Việt Nam hoạt động hiệu quả, góp phần tích cực vào việc phát triển
kinh tế đất nước, thì việc hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh là
cần thiết.
Về nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi:
Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi bao gồm tỷ giá
giao ngay, mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền, và thời hạn của hợp
đồng. Mục đích chính của hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi là phòng chống rủi ro
tỷ giá; như vậy, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển khi tỷ giá
được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, chính sách tỷ
giá cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo môi trường để phát triển các
nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi.
Mở rộng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.
90
Quyền chọn là nghiệp vụ phức tạp về nội dung và nghiệp vụ, do đó, cần
triển khai từng bước, từ đơn giản đến phức tạp:
- Mới chỉ xuất hiện ở nước ta vào khoảng năm 2004, nghiệp vụ quyền
chọn có thể nói là còn rất mới mẻ. Trong thời gian đầu, chỉ nên tiến hành theo
phương thức giao dịch qua quầy vì phương thức giao dịch trên sở giao dịch
chỉ khả thi khi thị trường phát triển đạt trình độ cao
- Chỉ nên áp dụng kiểu quyền chọn Châu Âu. Vì hợp đồng quyền chọn
kiểu Mỹ cho phép tiến hành thực hiện tại bất kì thời điểm nào trong suốt thời
gian hiệu lực của hợp đồng nên chưa phù hợp với nước ta ở giai đoạn đầu
- Về mặt thời hạn của hợp đồng, để có thể kiểm soát dễ dàng hơn và
tránh tâm lý đầu cơ thì thời hạn của hợp đồng nên quy định ngắn từ 3 tháng
trở xuống. Khi thị trường đã phát triển thì thời hạn của hợp đồng do ngân
hàng và khách hàng tự thoả thuận.
Về nghiệp vụ tương lai
Về ý nghĩa, giao dịch tương lai thực chất chỉ là một trò chơi cá cược,
kích thích đầu cơ. Do đó, tác dụng của nó đối với nền kinh tế là hạn chế. Vì
nguyên nhân này mà nghiệp vụ tương lai chưa phát triển ở Việt Nam.
2.7 Hình thành các công ty môi giới ngoại hối
Các công ty môi giới ngoại hối đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Giao dịch qua công ty môi giới có ưu điểm hơn hẳn so với giao dịch trực
tiếp giữa các ngân hàng ở chỗ:
Nhu cầu mua bán được truyền đi rộng khắp với tốc độ xử lý nhanh
chóng
Ngân hàng có nhu cầu mua bán ngoại tệ không phải xưng danh, do
đó, giữ được bí mật kinh doanh của mình
91
Vì vậy, cần có giải pháp khuyến khích cấp phép cho một vài công ty môi
giới ngoại hối hoạt động trên thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian
tới.
II. Điều kiện áp dụng hiệu quả phương pháp phân tích cơ bản và phân
tích kĩ thuật cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tại Việt Nam
So với thị trường ngoại hối quốc tế, thị trường ngoại hối nước ta được ví
như “một cái ao nhỏ” so với “đại dương lớn”. Đến nay, sau gần 20 năm hoạt
động, thị trường ngoại hối Việt Nam vẫn thuộc loại kém phát triển cả về quy
mô và chiều sâu mà để phát triển nó cần có một hệ thống các giải pháp đồng
bộ. Do thị trường ngoại hối còn đang trong giai đoạn hình thành như Việt
Nam, việc phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật còn chưa được đề cao. Quyết
định giao dịch phần lớn dựa trên nhu cầu ngắn hạn của các nhà giao dịch, để
điều tiết cung cầu trước mắt mà chưa tính đến những diễn biến lâu dài của thị
trường tiền tệ. Do vậy một trách nhiệm không thể thiếu để làm cho thị trường
ngoại hối năng động hơn, thực hiện hiệu quả vai trò của nó hơn đó là việc
công khai minh bạch các thông tin của nền kinh tế và nâng cao độ chính xác
của các thông tin đó. Để làm được việc này thì cơ quan quản lí giám sát thị
trường ngoại hối phải thực hiện một số công việc sau:
1. Hoàn thiện môi trường pháp lí
Thị trường ngoại hối Việt Nam đang ngày càng phát triển và hoàn thiện
các cơ sở pháp lí nhằm mở rộng thành phần tham gia đồng thời cũng kiểm
soát chặt chẽ để thị trường tiền tệ để giúp thị trường này phát triển tương ứng
với các thị trường khác.
Năm 2004, Thống đốc Ngân hàng đã ra quyết định Về giao dịch hối đoái
của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối, quy định về các loại
hình giao dịch hối đoái trong đó đã bao gồm đầy đủ các loại giao dịch phổ
biến trên thị trường hối đoái quốc tế đó là giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán
đổi, quyền lựa chọn và các giao dịch hối đoái khác theo quy định của Thống
92
đốc Ngân hàng nhà nước trong từng thời kì. Trong quyết định này, các thành
phần tham gia giao dịch hối đoái cũng được mở rộng cho các tổ chức và cá
nhân được phép tham gia, nhưng những điều kiện để tham gia vẫn chưa được
quy định cụ thể. Hơn nữa, vẫn còn một số hạn chế cần phải thay đổi để thị
trường ngoại hối mang tính tự do hơn, khuyến khích giao dịch qua lại giữa
các tổ chức tín dụng và các thành phần kinh tế khác tham gia vào mua bán
quyền lựa chọn. Giám đốc các TCTD được phép quy định các loại ngoại tệ
giao dịch tại đơn vị mình và tỷ giá giao dịch của các loại ngoại tệ phù hợp với
quy định hiện hành của Ngân hàng nhà nước. Trong điều 9 của quyết định
này có quy định về việc xuất trình chứng từ trong các giao dịch hối đoái, các
tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân dùng đồng Việt Nam để mua tệ của
TCTD được phép qua các giao dịch giao ngay kì hạn phải xuất trình các
chứng từ cung cấp đầy đủ thông tin về mục đích, số lượng và loại ngoại tệ cần
thanh toán, thời điểm thanh toán theo quy định hiện hành về quản lý ngoại
hối. Điều này cho thấy, để thị trường ngoại hối tự do hơn trong việc mua bán
thì những quy định này cần phải được dỡ bỏ. Có thể thấy rằng lượng ngoại tệ
trong thị trường liên ngân hàng vẫn chủ yếu phục vụ cho những mục đích
kinh tế vĩ mô của nhà nước đó là khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập
khẩu, chính vì thế mà các nhu cầu mua bán ngoại tệ cho mục đích kinh doanh,
tích trữ vẫn chưa được phép thực hiện. Điều này khiến cho thị trường kinh
doanh ngoại tệ cho cá nhân, một số tổ chức phi ngân hàng ở Việt Nam có thể
coi như chưa được phép.
Năm 2005 pháp lệnh ngoại hối của Việt Nam được thông qua. Pháp lệnh
này đưa ra chính sách quản lí ngoại hối của Việt Nam nhằm tạo điều kiện
thậm lợi và đảm bảo lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu của
chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam,
thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, thực
93
hiện cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn
thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam. Điều này cho thấy chính phủ
Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể để tạo tiền đề cho một thị trường
ngoại hối phát triển về sau. Những điều khoản về kinh doanh ngoại tệ cũng
được quy định rất cụ thể về các nguyên tắc giao dịch vốn trong hoạt động đầu
tư nhằm khuyến khích các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia đầu tư vào
Việt Nam. Bên cạnh đó các quy định chặt chẽ và cụ thể về hoạt động vay nợ
nước ngoài cũng đã được thiết lập nhằm đảm bảo tính ổn định của thị trường
ngoại tệ vốn rất nhạy cảm. Đặc biệt là những quy định về thị trường ngoại tệ,
cơ chế tỷ giá hối đoái ở các điều 28, 29, 30 của pháp lệnh này. Trong đó quy
định thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao gồm Ngân
hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng được phép, các đối tượng này được
thực hiện các loại hình giao dịch theo thông lệ quốc tế khi đáp ứng các điều
kiện do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định. Pháp lệnh này cũng nói rõ
vai trò quan trọng của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết thị trường tiền
tệ, thực hiện các chính sách vĩ mô phù hợp với điều kiện phát triển ở Việt
Nam. Tỷ giá hối đoái lúc này cũng đã được hình thành trên cơ sở cung cầu
ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng, tuy nhiên ngân hàng nhà nước vẫn
thông qua việc quy định biên độ dao động tỉ giá để ngăn cản những biến động
mạnh gây ảnh hưởng đến mục tiêu vĩ mô dài hạn và trấn an lòng tin của người
dân vào VND. Tùy từng giai đoạn và mục tiêu phát triển kinh tế, ngân hàng
nhà nước có thể thay đổi biên độ này. Ví dụ, ngày 02/01/2007NHNN ban
hành quyết định sô 2554/QĐ- NHNN thay thế quyết định số 679/2003/ QĐ-
NHNN về việc nới rộng biên độ tỷ giá ngoại tệ từ ±0,25% lên ±0,5% để
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng tính cạnh tranh trên thị
trường ngoại hối. Và trong suốt cuối năm 2009 đầu 2009 Ngân hàng Nhà
94
nước liên tục ra các quyết định nhằm điều chỉnh hoạt động của thị trường
ngoại hối, can thiệp sâu vào những đợt biến động tỷ giá bất thường.
Thông tư 03/2008 NHNN Hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại
hối của các tổ chức tín dụng. Trong đó có quy định cụ thể về phạm vi hoạt
động kinh doanh của các tổ chức ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng và điều kiện để được phép kinh doanh ngoại hối trên thị trường trong
nước và thị trường nước ngoài có đề cập đến các hình thức giao dịch ngoại
hối được phép thực hiện theo thông lệ quốc tế, bên cạnh các dịch vụ thanh
toán quốc tế, thực hiện giao dịch mua bán ngoại hối và vàng trên thị trường
nước ngoài, các tổ chức tín dụng được phép còn có thể tham gia các thị
trường tiền tệ, thị trường phái sinh ở nước ngoài. Những quy định này đã cho
phép thị trường kinh doanh ngoại hối ở Việt Nam đa dạng hơn về hình thức
giao dịch, tiên tiến hơn về nghiệp vụ kinh doanh và đồng thời giúp các tổ
chức tín dụng học hỏi nhiều hơn trên thị trường quốc tế đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh doanh ngoại tệ.
Tóm lại, cơ chế pháp lí của Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có
những bước tiến đáng kể khuyến khích các thành viên tham gia vào sân chơi
kinh doanh ngoại tệ. Tuy nhiên, trong những giai đoạn nhất định Ngân hàng
Nhà nước vẫn can thiệp quá sâu vào thị trường thông qua các chính sách tài
khóa làm cho thị trường này chưa phát triển lành mạnh như mong muốn.
Chính vì vậy mà một yêu cầu đặt ra đối với Ngân hàng Nhà nước đó là thực
hiện tốt vai trò là người mua cuối cùng trên thị trường tiền tệ, dùng các công
cụ trên thị trường mở để điều tiết thị trường ngoại tệ chứ không nên phục
thuộc quá nhiều vào các quy định cứng nhắc. Để làm được điều này, thị
trường ngoại tệ Việt Nam cần những quy định chặt chẽ hơn trong việc kiểm
soát tin đồn thất thiệt và dẫn đến chao đảo như trong thời gian vừa qua, thực
thi các biện pháp chống tình trạng đô la hóa, giảm tầm quan trọng của thị
95
trường tự do, tập trung nguồn ngoại tệ vào thị trường chính thức để nâng cao
lượng dự trữ ngoại hối để Ngân hàng Nhà nước.
2. Kiểm soát tỷ giá thị trường theo hướng phù hợp với cung-cầu ngoại tệ:
Trước hết, có thể khẳng định là tỷ giá chính thức hiện nay thấp hơn so
với mức cân bằng cung cầu ngắn hạn, bởi lẽ, mặc dù biên độ giao dịch đã 2
lần được điều chỉnh song các NHTM vẫn tiếp tục giao dịch ở mức trần trong
thời gian hơn 6 tháng trở lại đây. Cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá
phải chịu áp lực tăng.
Trong thời gian gần đây, một số giải pháp tích cực đã được thực hiện như
nghiêm cấm niêm yết bằng ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước tiến hành hoán đổi
ngoại tệ trên phạm vi lớn hay các NHTM lớn đồng thuận hạ lãi suất huy động
và cho vay bằng đồng USD.
3. Nâng cấp hệ thống thông tin
a, Về phía các cơ quan quản lí vĩ mô
Đây là một vấn đề cốt lõi để có thể ứng dụng hiệu quả phân tích cơ bản
trên thị trường ngoại hối Việt Nam nói chung và thị trường kinh doanh ngoại
tệ nói riêng. Yếu tố quan trọng nhất trong phân tích cơ bản là hệ thống thông
tin kinh tế minh bạch chính xác. Để có được điều này các cơ quan chính phủ
như Tổng cục thống kê, Tổng cục Thuế, Tổng cục hải quan, Bộ công thương,
bộ tài chính cần thiết lập hệ thống thông tin phản ánh chân thực kịp thời tình
hình nền kinh tế. Ở các nước phát triển như Mĩ, Nhật, Anh…ta có thể thấy hệ
thống thông tin về từng lĩnh vực cụ thể như thông tin về tình trạng thất
nghiệp, mức lương trung bình, số lượng nhà mới trên thị trường bất động sản,
dịch vụ bán lẻ, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất, cán cân thương mại,
kim ngạch xuất nhập khẩu…đều được công bố rõ ràng. Không những vậy mà
những thời điểm công bố những báo cáo này cũng được lên kế hoạch trước để
các nhà kinh doanh có thể theo dõi và cập nhật sớm nhất. Hơn thế nữa, không
chỉ các tổ chức cơ quan nhà nước có thể công bố những con số này mà các
96
trường đại học, các cơ quan đánh giá tình hình chung cũng có thể thiết lập hệ
thống chỉ số đánh giá riêng theo quan điểm của họ về tình hình nền kinh tế ví
dụ như Ủy ban nghiên cứu dư luận gia đình có thể đưa ra những đánh giá
riêng về chỉ số cảm tính người tiêu dùng trong tháng, nhưng trường ĐH
Michigan cũng đưa ra những đánh giá này, tuy nhiên hai hệ thống đánh giá
này thực hiện trên những tiêu chuẩn khác nhau và các nhà giao dịch sử dụng
những thông tin này cũng có cách hiểu khác nhau dựa trên từng chỉ số. Chính
sự đa dạng thông tin này đã giúp cho hệ thống thông tin minh bạch hơn, chính
xác và cụ thể hơn.
b, Về phía các nhà giao dịch
Việc nâng cấp hệ thống thông tin cá nhân là một việc rất quan trọng để
có thể cập nhật thông tin chính xác và kịp thời. Nó mang tính quyết định đến
mức lợi nhuận đạt được của nhà giao dịch do, trên những thị trường nhạy cảm
như thị trường ngoại hối việc quyết định thực hiện lệnh mua bán vào thời
điểm hợp lí là rất quan trọng, nếu chậm trễ thị nhà giao dịch sẽ lỡ mất cơ hội
kinh doanh và tổn thất là vô cùng lớn. Trong thông tư 03/2008/TT-NHNN
ngày 11 tháng 4 năm 2008, Ngân hàng nhà nước cũng đã quy định điều kiện
về trang thiết bị, vật chất để có thể tham gia vào thị trường ngoại hối của các
tổ chức được phép. Hơn nữa đây cũng là quyền lợi của chính các nhà giao
dịch để có thể cập nhật thông tin nhanh nhất.
Về phân tích kĩ thuật, các phần mền hiện đại đang thịnh hành trên thế
giới giúp ta có thể ứng dụng công cụ phân tích kĩ thuật hiệu quả nhất. Nó có
nhiều tiện ích, cách thể hiện sinh động dễ nhìn và thực hiện các kĩ thuật một
cách chính xác giúp ta có thể quan sát và đưa ra những nhận định đúng đắn về
diễn biến trên thị trường ngoại hối.
4. Đầu tư phát triển con người
Đội ngũ nguồn nhân lực trong các phòng ban kinh doanh ngoại hối ở các
ngân hàng, các định chế tài chính khác đã được nâng cao về trình độ chuyên
97
môn, kĩ năng giao dịch, phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật. Tuy nhiên do
điều kiện thực tế của thị trường ngoại hối Việt Nam còn đang sơ khai, các
công cụ giao dịch còn đơn giản, số lượng tổ chức cá nhân tham gia còn bị
khống chế, tính minh bạch, cạnh tranh còn thấp nên trình độ phân tích và thực
hiện nghiệp vụ vẫn còn đi sau các thị trường lớn rất nhiều chính vì vậy mà
bên cạnh vai trò quản lí điều hành thị trường ngoại hối Ngân hàng nhà nước
còn phải khuyến khích các thành viên này nâng cao trình độ chuyên môn cả
về phân tích cơ bản cũng như phân tích kĩ thuật. Theo những ý kiến từ riêng
cá nhân thì việc phân tích kĩ thuật đòi hỏi nhà phân tích nắm được càng nhiều
công cụ về các phương pháp phân tích kĩ thuật cơ bản như Fibonnaci,
Bolinger band, MA, MACD, RSI, ADX… các mẫu hình đã được nghiên cứu
và chứng minh bằng thực tiễn trong quá khứ…thì việc phân tích sẽ trở nên dễ
dàng thực hiện hơn. Không chỉ có vậy, phân tích kĩ thuật còn đòi hỏi nhà
phân tích phải có rất nhạy cảm với từng thời điểm của thị trường, biết kết hợp
các công cụ phân tích để dự đoán hơn là thực hiện máy móc như lý thuyết đã
trình bày. Trong những năm gần đây hệ thống công cụ phân tích không chỉ
được chứng minh bằng thực tế mà nó còn phát triển thêm các phương pháp
phân tích mới, ichimoku là một trong những phương pháp được các nhà giao
dịch đánh giá là cho những tín hiệu kịp thời và chính xác cao.
98
Kết Luận
Trong những năm qua, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước
phát triển đáng kể và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu
tư trong nước và ngoài nước. Sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản đã giúp làm thông suốt nguồn vốn và tạo nên thành công
cho rất nhiều nhà đầu tư. Một trong những yếu tố đóng góp không nhỏ vào
những thành công này là việc thực hiện thành thạo phương pháp phân tích cơ
bản và phân tích kĩ thuật các giao dịch. Trong kinh doanh ngoại hối cũng vậy
nó là công cụ phổ biến và hiệu quả để phân tích biến động của các cặp tỉ giá
tiền tệ. Sau khi nghiên cứu thực hiện đề tài, tác giả đã rút ra kết luận như sau:
Ứng dụng phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật đã giúp giải thích rõ ràng
những biến động trên thị trường ngoại hối theo những xu hướng ảnh hưởng
của những thông tin kinh tế được công bố từ Nhật Bản và Mĩ và những biến
động đó phù hợp với những dấu hiệu dự đoán từ các công cụ phân tích kĩ
thuật. Tuy nhiên đối với thị trường ngoại hối Việt Nam, vẫn đang trong giai
đoạn đầu của thời kì phát triển, còn tiềm ẩn nhiều thiếu sót khiến nó chưa
thực hiện được đúng vai trò điều tiết cung cầu ngoại tệ, thiết lập tỉ giá hối đoái
linh hoạt dựa trên quy luật cung cầu. Do vậy, để thị trường có thể phát triển
thì Ngân hàng Nhà nước cần khắc phục những điểm yếu của hệ thống pháp
luật, thông tin kinh tế vĩ mô, nâng cao tính chuyển đổi của VND và tiến tới
một chính sách tỉ giá thả nổi.
Qua nghiên cứu đề tài tác giả đã ứng dụng được hai phương pháp này
vào giải thích biến động tỉ giá USD/JPY trong tháng 1 năm 2010 trên thị
trường Mĩ đồng thời đưa ra những định hướng phát triển và điều kiện để ứng
dụng hiệu quả các phương pháp này trong kinh doanh trên thị trường ngoại
hối Việt Nam.
99
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách- tạp chí
1. TS. Bùi Kim Yến, năm 2006, Phân tích Chứng khoán và định giá chứng
khoán, nhà xuất bản thống kê.
2. Ths. Đỗ Văn Khiêm, năm 2007, Giao dịch ngoại hối, nhà xuất bản
Đồng Nai.
3. Lê Đạt Chí, Phan Thị Bích Nguyệt, năm 2007, Phân tích kĩ thuật ứng
dụng trong đầu tư Chứng khoán, nhà xuất bản Lao động- xã hội
4. PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến, năm 2009, Giáo trình tài chính quốc tế,
nhà xuất bản trẻ.
5. PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến, năm 2008, Giáo trình nghiệp vụ kinh
doanh ngoại hối, nhà xuất bản thống kê.
6. Abe Cofnas, năm 2007, The Forex Trading Course, John Wiley & Sons,
Inc.
7. Charles Yuji Horioka, 2006, The causes of Japan’s ‘Lost Decade’:the
role of household consumption.
8. Chrishtopher Conte và Albert R. Karr, năm 2008, Phác thảo nền
kinh tế Mĩ, nhà xuất bản thanh niên.
9. Elwell, Craig K. January 8, 2008, Dollar Crisis: Prospect and
Implications. Washington, DC: Congressional Research Service.
10. James Dicks, 2004, Forex made easy: 6ways to trade the dollar,
McGraw Hill.
11. Kathy Lien, 2000, Day trading & swing trading the currency market,
John Wiley &Sons Inc.
12. Ken Marshall and Rob Moubray, 2005, Practical Fibonacci Methods
for Forex trading
100
13. Ken standfield, 2002, Intangible Finance standards, Elsevier academic
press.
14. Krugman, Paul R, 2009, International Economics: Theory and Policy.
Boston, MA: Pearson/ AddisonWesley
15. William Poole, 2006, Chinese Growth: A source of US. Export
Opprtunities, Federal Reserve Bank ST. Louis Review.
Trang web
1. Current Releases. http://www.bea.gov/newsreleases/rels.htm
2. Economic News Releases. http://www.bls.gov/bls/newsrels.htm
3. Real time calendar
http://www.fxstreet.com/fundamental/economic-calendar/
4. Foreign Exchange
http://www.newyorkfed.org/markets/foreignex.html
5. The Basics of Foreign Trade and Exchange
http://www.newyorkfed.org/education/fx/index.html
6. The Foreign Exchange Joint Standing Committee's survey for the U.K.
market: http://www.bankofengland.co.uk/markets/forex/fxjsc/index.htm
7. The Australian Foreign Exchange Committee's survey for the Australian
market:http://www.rba.gov.au/AFXC/Statistics/FXTurnoverReports/2009/Oct
_2009/index.html
8. Technical Analysis.
http://www.investopedia.com/investing-topics/Technical_Analysis
top related