vĂn hÓa phẬt giÁo xỨ nghỆ: quÁ khỨ, hiỆn tẠi vÀ … · hỘi thẢo khoa hỌc:...
TRANSCRIPT
-
HỘI THẢO KHOA HỌC:
VĂN HÓA PHẬT GIÁO XỨ NGHỆ: QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
Cuốn sách là kết quả của cuộc Hội thảo khoa học Văn hóa Phật giáo xứ Nghệ: Quá
khứ, hiện tại và tương lai diễn ra vào tháng 8 năm 2012 tại thành phố Vinh, Nghệ An
do Viện Nghiên cứu Tôn giáo phối hợp với Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật
giáo Việt Nam tổ chức.
http://khaocohoc.gov.vn/sites/default/files/images/39.jpg
-
Cuộc hội thảo khoa học được tổ chức với mục đích: khảo sát và tập hợp bước đầu các
nguồn tài liệu liên quan đến văn hóa xứ Nghệ, phân tích làm rõ các giá trị sử học, triết
học, văn hóa học, tôn giáo học của chúng, thống kê những di tích còn có thể thống kê,
đi sâu nghiên cứu các di sản văn hóa vật thể, phế tích, kiến trúc, biểu tượng học Phật
giáo nói riêng và cơ sở thờ tự nói chung v.v…
Hội thảo gồm 70 tham luận, chia thành bốn chủ đề:
Chủ đề 1: Định vị văn hóa xứ Nghệ và văn hóa Phật giáo xứ Nghệ qua các nguồn tài
liệu liên quan; chủ đề 2: Tương quan giữa di sản văn hóa xứ Nghệ và văn hóa Phật
giáo xứ Nghệ trong lịch sử; Chủ đề 3: Phật giáo xứ Nghệ trong lịch sử: nhân vật và
công trạng; Chủ đề 4: Xây dựng Phật giáo Nghệ An hiện tại và tương lai.
Nội dung của các tham luận tham gia Hội thảo này là những viên gạch đầu tiên trong
việc tìm hiểu tổng thể Phật giáo xứ Nghệ.
Tư liệu đã được xuất bản thành sách do nhà xuất bản Hồng Đức xuất bản.
Sau đây là các bài tham luận đã được Hòa thượng Thích Đồng Bổn sưu tập gửi cho
Thư Viện Hoa Sen và Quảng Đức để tùy nghi lưu trữ cùng phổ biến. Chân thành cảm
ơn Hòa thượng Thích Đồng Bổn. (TD)
-
MỤC LỤC
tt TÁC GIẢ VÀ BÀI VIẾT Trg
1. DIỄN VĂN KHAI KHAI MẠC HỘI THẢO KHOA HỌC:
Văn hóa Phật giáo xứ Nghệ: Quá khứ, hiện tại và tương lai 7
2. ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC:
Văn hóa Phật giáo xứ Nghệ: Quá khứ, hiện tại và tương lai 10
CHỦ ĐỀ I:
ĐỊNH VỊ VĂN HÓA XỨ NGHỆ VÀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO
XỨ NGHỆ QUA NGUỒN TƯ LIỆU LIÊN QUAN
3. THS. PHAN THỊ ANH
Dấu ấn của Phật giáo qua văn học dân gian xứ Nghệ 13
4. TS. NGUYỄN MẠNH CƯỜNG – LÊ THỊ VÂN ANH
Hộp Xá lị trong lòng tháp Nhạn (Nam Đàn – Nghệ An) 23
5. BÙI VĂN CHẤT
Văn hóa Phật giáo xứ Nghệ 30
6. THS. PHẠM THỊ CHUYỀN
Nhìn nhận lại di sản văn hóa Hán Nôm
tại chùa Cần Linh (Sư Nữ) hiện nay 40
7. CN. PHAN VĂN HÙNG
Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nghệ An qua văn bia cổ 51
8. CHU TRỌNG HUYẾN
Vị thế của Phật giáo trong đời sống văn hóa của cư dân xứ Nghệ 58
9. VU GIA
Người xứ Nghệ và văn hóa Phật giáo 63
10. THS. DƯƠNG THỊ THÙY LINH
Phật giáo trong "không gian thiêng" của người xứ Nghệ 68
11. HT. THÍCH THIỆN NHƠN
Phật giáo Nghệ An trong lịch sử Phật giáo Việt Nam 76
12. TS. NGUYỄN NGỌC NHUẬN
Phật giáo Nghệ An trong thư tịch Hán Nôm Việt Nam 83
13. TRẦN THỊ PHƯƠNG
Phật giáo Nghệ An qua một số tư liệu, lễ hội và
truyền thống gắn với di tích 88
14. CƯ SỸ CHÍNH TRUNG
Văn hiến xứ Nghệ, đôi dòng cảm ký 97
-
15. TRẦN MINH SIÊU
Di tích Nhạn tháp và chùa Cần Linh, hai công trình văn hóa
kiến trúc độc đáo trên đất xứ Nghệ 107
16. NGUYỄN THỊ THANH XUYÊN
Một vài suy nghĩ về tính cách của người xứ Nghệ trong nề nếp
gia đình truyền thống và sự phát triển của Phật giáo xứ Nghệ 112
CHỦ ĐỀ II:
TƯƠNG QUAN GIỮA DI SẢN VĂN HÓA XỨ NGHỆ VÀ
VĂN HÓA PHẬT GIÁO XỨ NGHỆ TRONG LỊCH SỬ
17. BAN QUẢN LÝ DI TÍCH VÀ DANH THẮNG NGHỆ AN
Chùa Phổ Nghiêm, một nét kiến trúc Huế ở Nghệ An 121
18. PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI
Hệ thống các danh lam của tỉnh Nghệ An 124
19. TT.TS. THÍCH THANH ĐẠT
Đôi điều về Phật giáo xứ Nghệ 137
20. TS. LÊ ĐỨC HẠNH
Một số di tích lịch sử - văn hóa và tôn giáo tiêu biểu ở Nghệ An 142
21. THS. NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
Dấu ấn văn hóa Thăng Long thế kỷ XI – XV trong không gian văn
hóa Phật giáo xứ Nghệ qua khảo sát một số ngôi chùa tiêu biểu
(Từ góc nhìn lịch sử) 153
22. THS. HOÀNG THỊ THU HƯỜNG
Vài nét về bia hậu ở Nghệ An 164
23. PGS.TS. NGUYỄN CÔNG KHANH
Tìm hiểu Phật giáo Nghệ An trong lịch sử 172
24. THS. TẠ QUỐC KHÁNH
Một vài đặc điểm kiến trúc chùa ở Nghệ An 184
25. TS. NGUYỄN QUANG KHẢI
Tìm hiểu giá trị Phật giáo của văn bia Phật giáo ở Nghệ An 192
26. TS. ĐINH VIẾT LỰC
Chùa Hương Tích, một di sản Phật giáo nổi tiếng xứ Nghệ 201
27. THÍCH TUỆ MINH
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Phật giáo 206
-
28. PGS.TS. NGUYỄN TÁ NHÍ
Di sản văn hóa Hán Nôm ở khu tịnh cảnh thể hiện tài hoa
của người dân xứ Nghệ 216
29. TS. NGUYỄN HỮU NGUYÊN
Cảm nhận về sức sống văn hóa Phật giáo Nghệ An
"Phật pháp bất ly thế gian giác" 223
30. TRẦN TỬ QUANG
Văn bia "Chung Sơn Quang tự bi" – dấu tích ngôi chùa
thời Lê Trung Hưng trên đất Nghệ An 231
31. TS. HỒ BÁ QUỲNH
Chùa Đại Tuệ với những tế khí thiên tạo 241
32. TRẦN ĐÌNH SƠN
Tìm hiểu lịch sử, văn hóa Phật giáo Nghệ An
qua di tích "Diệc Cổ tùng lâm" 245
33. CN. HOÀNG ANH TÀI
Chùa cổ và dấu ấn Phật giáo ở vùng hạ lưu sông Cấm
(thực trạng và những kiến giải) 257
34. ĐÀO TAM TỈNH
Di tích Phật giáo xứ Nghệ trong dòng chảy lịch sử, văn hóa xứ Nghệ 265
35. NGUYỄN VĂN THANH
Bước đầu tìm hiểu về Phật giáo Nghệ An qua một số di tích 277
36. TS. PHAN XUÂN THÀNH
Chùa Chí Linh, chùa Diệc,
những công trình kiến trúc Phật giáo đặc sắc ở Nghệ An 283
37. PGS.TS. ĐINH KHẮC THUÂN
Văn bia và chùa Phật ở Nghệ An 288
CHỦ ĐỀ III:
PHẬT GIÁO XỨ NGHỆ TRONG LỊCH SỬ:
NHÂN VẬT VÀ CÔNG TRẠNG
38. GS.NGND. NGUYỄN ĐÌNH CHÚ
Những là rày ước mai ao 299
39. ĐÀO NGUYÊN
Danh sỹ xứ Nghệ: Tiến sỹ Đinh Văn Chấp, người mở đầu cho
công việc dịch thơ thiền Lý – Trần 306
-
40. THS. TRẦN MẠNH QUANG
Chùa Bà Bụt với Uy Minh Vương Lý Nhật Quang 319
41. NCV. NGUYỄN VĂN QUÝ
Danh tăng xứ Nghệ trong Thiền uyển tập anh 326
42. TS. LÊ SƠN
Phong thái Bi, Trí, Dũng nơi bậc túc nho La Sơn Phu Tử 336
43. PGS.TS. NGUYỄN HỮU SƠN
Phật giáo trong tâm thức nhà Nho xứ Nghệ thế kỷ XVIII 342
44. TS. LÊ ĐÌNH PHỤNG
Phật giáo nơi xứ Nghệ 354
CHỦ ĐỀ IV:
XÂY DỰNG PHẬT GIÁO NGHỆ AN HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
45. TS. KIỀU THỊ VÂN ANH - TS. NGUYỄN NGỌC QUỲNH
Thực trạng và định hướng của Phật giáo xứ Nghệ
(Qua khảo sát một số di tích Phật giáo Nghệ An tháng 5/2012) 361
46. PGS.TS. LÊ HỮU ÁI – ĐINH ĐỨC HIỀN
Những vấn đề đặt ra cho Phật giáo Nghệ An 369
47. TT.TS. THÍCH ĐỒNG BỔN
Phật giáo Nghệ An: Hôm nay và ngày mai 376
48. TS. LÊ TÂM ĐẮC – THS. HOÀNG THỊ THU HƯỜNG
Mấy vấn đề về Phật giáo Nghệ An
(nghiên cứu chùa Bảo Lâm, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành) 379
49. NGUYỄN ĐẠI ĐỒNG
Phật giáo Nghệ An giai đoạn 1936 – 1945 387
50. TT.TS. THÍCH KIÊN ĐỊNH
Nghệ An rạng ngời ánh sáng chánh pháp 392
51. THS. TRẦN THỊ MỸ HẠNH
Bước đầu tìm hiểu về kiến trúc Phật giáo ở Nghệ An 403
52. TT.TK. THÍCH MINH HIỀN
Đánh giá và định hướng phát triển kiến trúc chùa Việt Nam 413
53. PGS.TS. NGUYỄN QUANG HỒNG
Thêm một số ý kiến về Phật giáo Nghệ An từ nửa sau thế kỷ XX đến nay 434
54. TT. THÍCH CHƠN KHÔNG
Giáo dục thanh thiếu nhi Phật tử 440
-
55. TT. THÍCH THỌ LẠC
Phật giáo Nghệ An, hiện thực và định hướng 445
56. NGUYỄN TIẾN LỢI
Từ Trúc Lâm Yên Tử đến Trúc Lâm Yên Thành -
chặng đầu khắc đậm dấu ấn của sự phát triển 448
57. ĐOÀN VĂN NAM
Một số vấn đề cần quan tâm trong việc bảo vệ phát huy di sản
văn hóa Phật giáo ở Việt Nam 454
58. TS. NGUYỄN MINH NGỌC – NGUYỄN THỊ XUÂN NINH
Thiền phái Trúc Lâm và thiền phái Trúc Lâm tại Nghệ An hiện nay 461
59. THS. NGUYỄN PHÚC NGUYÊN
Thực trạng Phật giáo ở Nghệ An: Kiến nghị và giải pháp 467
60. HT. THÍCH GIA QUANG
Phật giáo tỉnh Nghệ An,
thành tố tích cực của Giáo hội Phật giáo Việt Nam 477
61. ANH TUẤN
Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo ở Nghệ An 482
62. DƯƠNG KINH THÀNH
Phật giáo Nghệ An đi lên từ phế tích 486
63. NGUYỄN ÁNH TUYẾT
Một số vấn đề cần quan tâm trong việc
bảo vệ, phát huy di tích chùa Cần Linh 491
64. ĐĐ.TS. THÍCH MINH TRÍ
Phật giáo Nghệ An, sự tiếp nối truyền thống đến hiện tại 494
65. THS. BÙI ĐÌNH SÂM
Một ngọn tháp Phật giáo ở Nghệ An cần được phục dụng 498
66. GS.TS.KTS. TRẦN ĐÌNH VIỆT – THS.KTS. NGUYỄN MINH QUANG
Qui hoạch và kiến trúc chùa Đại Tuệ, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An 500
-
DIỄN VĂN KHAI MẠC HỘI THẢO KHOA HỌC:
VĂN HÓA PHẬT GIÁO XỨ NGHỆ:
QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI Thượng tọa Thích Thọ Lạc
Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Chư tôn đức,
Kính thưa quý liệt vị!
Danh xưng Nghệ An có từ năm 1030, niên hiệu Thiên Thành thứ 2 đời Lý Thái
Tông. Ban đầu Nghệ An được gọi là châu Trại, sau đó đổi thành trại Nghệ An, rồi
Nghệ An phủ, Nghệ An thừa tuyên. Năm 1490, vua Lê Thánh Tông đổi tên từ Nghệ
An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (xứ Nghệ), bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh.
Phật giáo được truyền vào vùng đất này từ rất lâu đời. Sử liệu có nhắc đến nhân
duyên học Phật của Chử Đồng Tử với nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên. Sách
Nghệ An chí của tiến sỹ Bùi Dương Lịch có chép: “Huyền sử đời Hùng Vương tương
truyền rằng Chử Đồng tử và nàng Tiên Dung tu tiên đắc đạo ở Rú Bể nên gọi là núi
Quỳnh Viên và đó cũng là cái tên xưa nhất của dãy Nam Giới này”.
Sở dĩ chúng tôi lấy mốc thời gian 1030, thời nhà Lý làm sự kiện, bởi nó gắn với
thời kỳ độc lập tự chủ đầu tiên của dân tộc, sau suốt một nghìn năm chịu ách đô hộ của
Trung Hoa. Khi được đặt tên, vùng đất này đã nằm trong ý thức xác lập chủ quyền,
gắn với công cuộc trấn giữ, bình định của danh tướng Phật tử tài ba Lý Thường Kiệt.
Với tinh thần Phật giáo dấn thấn ấy, tình yêu nước thương dân luôn được thắp
sáng trong lòng người Phật tử Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên vào thời Trần, tại
mảnh đất này đã xuất hiện ngôi chùa mang tên An Quốc, nằm dưới núi Lam Thành
(thuộc huyện Hưng Nguyên, Nghệ An ngày nay). Một vị thiền sư chùa An Quốc vào
cuối đời Trần đã có những lời ca tụng chí khí của vị tướng tài Nguyễn Biểu như sau:
“Trần quốc xẩy vừa mạt tạo. Sứ hoa bỗng có trung thần. Vàng đúc lòng son một tấm.
Sắt rèn tiết cứng mười phân…”. Nguyễn Biểu đã từng giận mắng tướng giặc Trương
Phụ nhà Minh rằng: "Trong bụng thì mưu đánh lấy nước, bên ngoài giả làm quân nhân
nghĩa. Đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận huyện, không chỉ cướp lấy vàng bạc
châu báu, lại còn giết hại nhân dân, thực là giặc tàn ngược".
Phó ban Thường trực BTSPG tỉnh Nghệ An, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Tuần
Văn hóa Phật giáo năm 2012 tại Nghệ An
-
Chúng ta sẽ khó hình dung về văn hóa Phật giáo xứ Nghệ nếu không có bất cứ
bối cảnh Phật giáo nào trong lịch sử. Các bậc quân vương, các trí thức Tam giáo, các
vị thiền sư, cư sĩ là những người đã nối mạch cho nền đạo lý yêu nước thương dân ấy.
Thời đại của họ là thời đại khẳng định độc lập, chủ quyền quốc gia và đẩy mạnh tinh
thần khoan dung tư tưởng, xây dựng một xã hội nhân nghĩa, hài hòa.
Kính bạch chư tôn đức,
Kính thưa quý liệt vị!
Phật giáo xứ Nghệ dù trải bao thăng trầm, nhưng không bao giờ đứng bên lề xã
hội một cách tách biệt. Cho dù ở bất cứ định chế văn hóa nào, ở những mức độ chi
phối đậm nhạt nào, văn hóa Phật giáo vẫn đảm bảo sự phong phú, đa dạng và uyển
chuyển theo tinh thần “khế lý”, “khế cơ”, nhằm đưa nhận thức và mức sống văn hóa
của cộng đồng, trước nhất là cộng đồng Phật tử lên một mức cao hơn trong hành vi
ứng xử. Xã hội không cần mọi tư tưởng phải giống nhau như hai giọt nước, nhưng rất
cần chúng ta ý thức sống đúng với tinh thần ấy của tổ tiên.
Phật giáo xứ Nghệ vẫn còn đó những di sản văn hóa tinh thần không ngừng tái
khẳng định sức sống của nó trong lòng dân tộc. Truyền thống “hộ quốc an dân” của
Phật giáo xứ Nghệ đã trở thành một phần bản sắc của văn hóa Phật giáo Việt Nam. Dù
có những lúc trong lịch sử, Phật giáo bị bài xích, kỳ thị ở những mức độ khác nhau,
nhưng trong một mặt bằng văn hóa chung của dân tộc, Phật giáo không những tồn tại
độc lập bên cạnh những tranh giành quyền lực thế tục mà còn nêu bật những giá trị
văn hóa, nhằm phản tỉnh những cuồng nộ, tránh đem đến những xung đột đau thương
cho dân tộc. Có thể nói người Phật tử ở bất cứ thời đại nào cũng không bao giờ đứng
ngoài những biến động lành dữ của xã hội. Điều gì xa rời truyền thống yêu nước
thương dân ấy thì chưa phải Phật giáo Việt Nam đúng nghĩa.
Sẽ có những thay đổi trong tiếp nhận những giá trị Phật giáo. Và trong sự chọn
lựa, sàng lọc, mỗi cá nhân có thể làm chủ niềm tin của mình, cũng như tự cho phép
mình thiết định những giá trị văn hóa trên một mặt bằng tri thức đã được tổng hợp, hài
hòa. Mặt bằng trí thức ấy sẽ là cơ hội dẫn dắt con người vượt xa giáo điều. Họ vượt
qua giáo điều không phải với thái độ bất trung luân lý, mà bởi nhận thức của họ đã
trưởng thành khi nhìn nhận những giá trị văn hóa trong mối tương quan nhân quả.
Văn hóa Phật giáo xứ Nghệ từ quá khứ ấy, nhìn vào tương lai để ý thức với vai
trò điều chỉnh và thay đổi hành vi của con người theo chiều hướng tích cực ích mình
lợi người. Đó cũng chính là ý nghĩa sống còn mà những giá trị Phật giáo cần phải được
nhanh chóng khôi phục. Bỏ qua những giá trị lỗi thời, và bằng mọi cách giữ gìn những
giá trị còn nguyên vẹn tính bảo đảm trong một tương lai lâu dài, Phật giáo xứ Nghệ dù
phát triển nhanh hay chậm thì những giá trị chuẩn mực trong ứng xử vẫn phải đảm bảo
-
những lợi ích thiết thực chung cho cá nhân, cộng đồng cũng như cho môi trường sống
của mọi loài chung quanh.
Phật giáo là tôn giáo hòa bình và khoan dung, vì thế chính những ứng xử hòa
bình và khoan dung đã làm cho Phật giáo không quan ngại đến những ứng xử bất
khoan dung khác. Sức mạnh lớn nhất của văn hóa Phật giáo chính là niềm tin nhân quả
được suy xét chi tiết từ trong ý nghĩ, lời nói và hành động. Khi nói nền văn hóa Việt
Nam là nền văn hóa có ảnh hưởng chính từ các giá trị Phật giáo, thì không có nghĩa
phải nói rằng tất cả người Việt Nam đều theo Phật giáo, đều là Phật tử, mà từ trong
tâm thức ứng xử, những giá trị Phật giáo đến một lúc nào đó trong cuộc sống vẫn
hướng sự xử sự của con người vào đó. Có nghĩa rằng đó là một giá trị mà khi đem so
với những giá trị khác nó vẫn chưa tỏ ra lỗi thời và khuyết điểm.
Kính bạch chư tôn đức,
Kính thưa liệt quý vị!
Hẳn chúng ta còn nhớ những câu thành ngữ như “Đất vua chùa làng phong cảnh
Bụt” hay “Tiếng chuông ngân ba cõi, bóng tháp ngả trùm đồng”. Dù bóng dáng nhạn
Tháp, niềm tự hào của Phật giáo xứ Nghệ nay không còn, nhưng những di sản tinh
thần của ông cha vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng người Phật tử xứ Nghệ và ẩn mình
rải rác trên những vùng đất thiêng. Với hy vọng qua các phương pháp nghiên cứu khoa
học, và bằng niềm tin thiết tha vào sự thanh bình ấy của quê hương xứ sở, thay mặt
Ban Tổ chức Tuần Văn hóa Phật giáo năm 2012 tại Nghệ An, chúng tôi xin được long
trọng tuyên bố khai mạc Hội thảo khoa học “Văn hóa Phật giáo xứ Nghệ: quá khứ,
hiện tại và tương lai”.
Xin kính chúc liệt quý vị sức khỏe, an lạc và thành công.
Xin cảm ơn!
-
ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC:
VĂN HÓA PHẬT GIÁO XỨ NGHỆ:
QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
TS. Nguyễn Quốc Tuấn
Xứ Nghệ gồm địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, tức là vùng văn hóa
Bắc Trung Bộ. Cách gọi này đã từng hình thành trong lịch sử, ít nhất được biết đến
trong thời Nguyễn với câu ca: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc
như tranh họa đồ. Không những thế, xứ Nghệ còn được mô tả rất kỹ trong cuốn Nghệ
An ký của Tiến sỹ Bùi Dương Lịch thế kỷ 19.
Ngược thời gian, cho đến thời Lý-Trần, cùng với Thanh Hóa, xứ Nghệ được
hình thành và định hình với tên gọi hành chính là "Trại" với nghĩa là "phên dậu" của
Đại Việt ở phía nam, giáp với Chiêm quốc.
Xứ Nghệ từ thế kỷ 15 cho đến nay, xứ Nghệ đã trở thành vùng văn hóa được
khẳng định một cách vững chắc trong tâm trí dân tộc, đóng góp nhiều thành tựu cho
đất nước, có những người con xuất chúng như Hồ Chủ Tịch, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc,
Đảng và đất nước ta. Văn hóa xứ Nghệ là một trong những vùng văn hóa độc sáng của
đất nước, có vị trí và vai trò lớn lao trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Mặt khác, xứ Nghệ cũng để lại một di sản văn hóa nói chung, văn hóa Phật giáo
và Tam giáo (Phật, Nho, Đạo) nói riêng hết sức quý báu, nhưng chưa được nghiên cứu
và giới thiệu đầy đủ tới công chúng và nhân dân cả nước. Trải qua nhiều thăng trầm
lịch sử và biến động xã hội, di sản văn hóa Phật giáo xứ Nghệ đã bị mai một, thất tán
và chưa được tập hợp, phân tích một cách thỏa đáng, ngõ hầu đáp ứng được nhu cầu
tìm hiểu, giữ gìn, phát huy giá trị của di sản đó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước ngày nay, cũng là di sản có giá trị to lớn trong việc xây một Giáo hội Phật
giáo Việt Nam thống nhất và vững mạnh.
Đó là lý do để Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Trị
sự Phật giáo tỉnh Nghệ An phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: Văn hóa Phật giáo xứ Nghệ: quá khứ,
hiện tại và tương lai, để bước đầu chuyên bàn về di sản văn hóa xứ Nghệ và văn hóa
Phật giáo xứ Nghệ, tạo ra bước chuyển biến mới trong nhận thức của nhân dân Nghệ
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo
-
An, Hà Tĩnh nói riêng và nhân dân cả nước, khơi gợi lòng yêu quê hương, đất nước,
thỏa mãn tấm lòng của những người con xứ Nghệ xa quê hương.
Cuộc hội thảo khoa học được tổ chức với mục đích: khảo sát và tập hợp bước
đầu các nguồn tài liệu liên quan đến văn hóa xứ Nghệ, phân tích làm rõ các giá trị sử
học, triết học, văn hóa học, tôn giáo học của chúng; thống kê những di tích còn có thể
thống kê, đi sâu nghiên cứu các di sản văn hóa vật thể, phế tích, kiến trúc, tiếu tượng
học Phật giáo nói riêng và cơ sở thờ tự nói chung; đi sâu khảo tả, phân tích các giá trị
văn hóa phi vật thể xứ Nghệ nói chung, văn hóa phi vật thể Phật giáo xứ Nghệ nói
riêng qua các bộ môn văn chương nghệ thuật, diễn xướng và lễ hội, chú trọng đến mối
quan hệ giữa hai di sản chung và riêng đó; khảo tả và phân tích vị trí, vai trò của Tam
giáo và Phật giáo trong việc xây dựng tư tưởng, đạo đức và lối sống xứ Nghệ trong
quá khứ và hiện tại; thống kê và đi sâu phân tích nhân vật Phật giáo bao gồm tiểu sử,
hành trạng và công lao của các nhà sư, cư sĩ đã đóng góp cho Phật giáo nước nhà trong
lịch sử và hiện tại; phân tích và làm rõ định hướng cho việc xây dựng Tỉnh hội Phật
giáo tỉnh Nghệ An, đào tạo tăng tài, đào tạo tăng ni, hướng dẫn Phật tử, xây dựng các
đoàn thể Phật giáo theo quy định của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước, của tỉnh Nghệ An.
Hội thảo đã nhận được gần 70 tham luận, chia thành bốn chủ đề lớn như sau:
Chủ đề 1: Định vị văn hóa xứ Nghệ và văn hóa Phật giáo xứ Nghệ qua các
nguồn tài liệu liên quan;
Chủ đề 2: Tương quan giữa di sản văn hóa xứ Nghệ và văn hóa Phật giáo xứ
Nghệ trong lịch sử;
Chủ đề 3: Phật giáo xứ Nghệ trong lịch sử: nhân vật và công trạng;
Chủ đề 4: Xây dựng Phật giáo Nghệ An hiện tại và tương lai.
Nội dung của các tham luận tham gia Hội thảo này là những viên gạch đầu
tiên trong việc tìm hiểu tổng thể Phật giáo xứ Nghệ. Chúng tôi hi vọng, trong thời
gian tới, nhiều cuộc hội thảo khoa học sẽ tiếp tục được tổ chức đề cập đến những
vấn đề chuyên sâu nhằm làm rõ hơn nữa các chiều cạnh cụ thể khác nhau của Phật
giáo xứ Nghệ, làm cho Phật giáo địa bàn này ngày càng phát triển một cách sâu
rộng, lành mạnh và chính tín.
-
CHỦ ĐỀ I:
ĐỊNH VỊ VĂN HÓA XỨ NGHỆ
VÀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO XỨ NGHỆ
QUA NGUỒN TƯ LIỆU LIÊN QUAN
-
DẤU ẤN CỦA PHẬT GIÁO
QUA VĂN HỌC DÂN GIAN XỨ NGHỆ
Ths. Phan Thị Anh
Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ nhưng có sức ảnh hưởng rất lớn và
trở thành một bộ phận quan trọng của lịch sử văn hoá Việt Nam. Và gần như ở đâu
trong các khía cạnh văn hoá Việt Nam chúng ta đều tìm thấy dấu ấn của văn hoá Phật
giáo. Bởi sự gần gũi với đạo lý truyền thống của dân tộc mà khi vào Việt Nam, Phật
giáo nhanh chóng hoà nhập, hỗn dung với tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc để đi vào
tâm thức dân gian, ăn sâu vào tư tưởng, tâm lý mỗi người dân Việt.
Nằm trong dòng chảy chung của lịch sử văn hoá Việt Nam, văn hoá Phật giáo
xứ Nghệ cũng được tạo lập bởi sự kết hợp, giao thoa của giáo lý Phật với tín ngưỡng,
văn hoá con người xứ Nghệ. Tuy không phát triển mạnh mẽ như Phật giáo ở các vùng
miền khác của cả nước nhưng Phật giáo cũng đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong các
khía cạnh của văn hoá xứ Nghệ, trong đó có văn học dân gian.
Bên cạnh các tư liệu lịch sử khác, tìm hiểu dấu ấn của Phật giáo qua văn học
dân gian xứ Nghệ, chúng ta bước đầu có được những nhận thức về Phật giáo trong
tâm thức dân gian, thấy được sự thịnh suy của đạo Phật ở xứ Nghệ qua từng thời kỳ
lịch sử, bước đầu góp phần vào việc xác định diện mạo của văn hoá Phật giáo ở xứ
Nghệ trong quá khứ.
Ở xứ Nghệ, theo một số nhà nghiên cứu, Phật giáo được truyền nhập vào nơi
đây từ thời Đường, đó là việc Cao Biền xây dựng chùa Phương Tích, Nhạn Tháp.
Nhưng từ thời Lý trở đi, Phật giáo ở Nghệ Tĩnh mới phát triển mạnh. Hàng loạt chùa
được xây dựng, người theo đạo Phật ngày một đông. Theo lưu truyền trong nhân dân,
từ cách đây hàng trăm năm ở xứ Nghệ đã có những ngôi chùa cổ như chùa Trả
(Quỳnh Dị), chùa Bình An (Quỳnh Thiện), chùa Am (Diễn Đoài)… Từ thời Lý trở
đi, với việc mở mang đất đai, lập làng mới của Uy Minh vương Lý Nhật Quang,
nhiều địa danh gắn với chữ nghĩa của nhà Phật cũng được sử dụng như Đà Lam, Phật
Kệ, Bụt Đà, Lạc Thiện, Tiên Bồng…
Văn học dân gian xứ Nghệ theo đó cũng bắt đầu đề cập đến đề tài xây dựng
chùa chiền, thể hiện quan niệm của dân gian về Phật,… Trong kho tàng đồ sộ của văn
học dân gian xứ Nghệ, thực sự khó để có thể tìm hiểu hết mọi ngõ ngách, thể loại. Ở
đây, tác giả chỉ muốn thông qua một số thể loại văn học tiêu biểu như ca dao, truyện
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Nghệ An
-
kể, vè... để bước đầu phác hoạ một số nét về văn hoá Phật giáo trong tâm thức dân
gian xứ Nghệ.
1. Văn học dân gian xứ Nghệ cho thấy sự phong phú của hệ thống chùa
chiền, các cơ sở thờ tự Phật giáo ở các làng xã
Từ khi Phật giáo có mặt ở xứ Nghệ, chùa chiền đã được xây dựng. Theo một số
tư liệu lịch sử, đến cuối đời Lý, ở xứ Nghệ đã có rất nhiều chùa. Riêng Quỳnh Lưu đã
có hơn 80 chùa, Diễn Châu có khoảng 70 chùa… Thống kê của PGS. Ninh Viết Giao
cho biết đến đầu thế kỷ XX, ở Nghệ An có đến 363 ngôi chùa lớn, nhỏ. Chùa gắn với
làng và gần như làng nào cũng có chùa, có làng có đến 2, 3 ngôi chùa; chỉ một số ít
làng là không có chùa. Chùa ở đây cũng khá phong phú về kiểu dáng, kiến trúc, quy
mô: có chùa trần, chùa trong hang đá; có chùa làm bằng tranh tre nứa lá, có chùa xây
gạch lợp ngói; có chùa có sư trụ trì, có chùa không có sư…
Qua ca dao, vè, chúng ta cũng có thể phần nào thấy được sự phong phú ấy và
hình dung được sự “ưu ái” của dân gian với Phật giáo thông qua việc làng nào cũng
góp công góp của dựng chùa, đúc chuông, tô tượng.
Vè là một loại văn vần để kể chuyện (tự sự), tường thuật sự việc trong dân gian.
Nội dung biểu đạt của thể loại vè hết sức phong phú, bao gồm gần như tất cả mọi
phương diện của đời sống làng xã hàng ngày, là một “bộ bách khoa thư của nhân dân
trong vùng”. Chính vì thế, tìm hiểu về thể loại vè xứ Nghệ, chúng ta cũng tìm thấy
nhiều thông tin thú vị về dấu ấn của văn hoá Phật giáo trong lòng dân gian Nghệ Tĩnh.
Trong các bài vè về phong tục, sinh hoạt làng xã, có rất nhiều bài viết về việc
làng dựng chùa, đúc chuông như vè Làm chùa Nguyễn Xá, Làm chùa Thát Đát, Làm
chùa Đại Hùng, Đúc chuông chùa Chân Tiên…, thể hiện sự thâm nhập của đạo Phật
vào trong tín ngưỡng dân gian, sự sùng Phật của nhân dân ở các làng xã ở khắp vùng
Nghệ Tĩnh.
Trong bài vè Làm chùa Nguyễn Xá, dân làng Nguyễn Xá tự hào vì quê mình
phong cảnh hữu tình, dân cư thịnh sự bởi nhờ thần phật phù hộ. Vì thế mà cả làng
đồng tâm góp sức trùng tu đền, chùa:
… Lên miếu phật tụng kinh
Làm chay hơn ba tháng
Đúc chuông rồi tạc tượng
Cúng ruộng lại làm chùa
Công đức biết từng mô
Dân ta thờ vạn đại…
Chùa Thát Đát ở xã Nho Lâm (Diễn Thọ, Diễn Châu) được xây dựng vào năm
1927, tường xây bằng gạch sò. Trong bài vè dựng chùa của làng cũng nói rõ:
Làng ta mới lập chùa lên
-
Tứ vi thành đất, bốn bên thành sò.
Làng Nham Xá thuộc huyện Can Lộc có chùa Đại Hùng, vốn được xây trên
đỉnh ngọn Mồng Gà thuộc dãy núi Hồng Lĩnh, đến năm 1920, làng dời chùa về ngọn
Động Chùa để gần dân hơn. Nhân sự kiện này, làng cũng có vè Làm chùa Đại Hùng:
… Đồng thôn thượng hạ
Người chiếu bổ tài, công
Dặn ai nấy một lòng
Đưa chùa về cả thảy…
… Hướng ngôi chùa được rồi
Thật phong quang tứ diện…
Cũng ở vùng đất Can Lộc, chùa Thông trên ngọn núi Vân Am là một danh thắng
có tiếng, được xếp vào “Vân Am thập cảnh”. Chùa được dựng cạnh lèn đá có dấu chân
tiên nên còn được gọi là chùa Tiên. Tương truyền xưa, chùa có quả chuông lớn. Sau khi
quả chuông ấy mất, làng đã đúc quả chuông khác. Bài Đúc chuông chùa Chân Tiên
miêu tả:
Trước dâng hương Phật tổ
Sau hạ tượng đúc chuông
Đất gần chợ gần truông
Đúc chuông rồi kéo hội
Vùng đất làng Lộc Điền (nay thuộc xã Hưng Khánh, huyện Hưng Nguyên),
trong bài vè Ngẫm xem phong cảnh Lộc Điền cũng nói về việc xây dựng chùa Mụ:
Cha xuất công đi tìm
Bất cân rẻ đắt
Hết mấy thì hết
Mua được thì mua
Kêu thợ về làm chùa
Cắt phu ra chặt củi.
Trong khi đó, tuy không có vè dựng chùa nhưng rất nhiều những làng khác ở xứ
Nghệ cũng vô cùng tự hào vì những ngôi chùa của làng mình như Làng Hoàng Hà
(nay thuộc xã Diễn Hoàng, Diễn Châu) tự hào vì có chùa Thiên Phúc:
Cõi Nam rộng ở nước non
Có xã Kim Bảng, có thôn Hoàng Hà
Có chùa Thiên Phúc một toà
Có đất Tam Bảo để mà dầu hương.
Tuy chỉ là một số bài vè điển hình kể về việc xây dựng chùa ở một số làng xã
nhưng từ đó cũng góp phần giúp chúng ta hình dung về sự thịnh trị của Phật giáo ở xứ
-
Nghệ, khi mà làng nào cũng coi chùa chiền là một công trình, một thiết chế quan
trọng, sự phụng thờ Phật vừa là nghĩa vụ vừa là nhu cầu tâm linh:
Nam mô pháp, nam mô tăng
Chùa làng làng giữ, ta đừng cậy ai.
Cùng với vè thì ca dao cũng là một thể loại văn học dân gian hết sức phổ biến,
gần gũi, dễ nhớ, trong đó có rất nhiều câu dành để miêu tả, ca ngợi về cảnh đẹp của
làng xóm, chùa chiền và bộc lộ thái độ của tầng lớp bình dân với đạo Phật.
Người dân vùng Hà Tĩnh tự hào vì có 99 đỉnh non Hồng, trên đó có những ngôi
chùa nổi tiếng đẹp và linh thiêng. Danh thắng chùa Hương Tích từng được xem là
“Nam thiên đệ nhất động”. Ca dao xưa cũng miêu tả:
Ai lên Hương Tích, chùa Tiên
Gặp cô sư bác anh khuyên đôi lời…
… Chùa Tiên cao tít mịt mù
Bao la Ngàn Hống, mây mờ giăng giăng.
Trong khi đó những câu ca dao liệt kê ngắn gọn:
Đi qua thấy cảnh chùa Bi
Nghe chuông chùa Đạt, có khi hay gần;
và:
Đi ngang nghe tiếng chùa Ơi
Nghe chuông chùa Dạ, nhớ lời chị em;
hay:
Mừng đây phong cảnh Nộn Hồ
Đây đền Mụ Ngọ, kia chùa Nam Chinh
Lại nhắc đến một loạt ngôi chùa ở vùng đất Nam Đàn: chùa Ơi, chùa Dạ ở xã
Nam Anh; chùa Bi ở xã Nam Lĩnh; chùa Đạt ở xã Kim Liên; chùa Nam Chinh ở xã
Nam Thanh.
Cũng có câu ca dao sử dụng lối chơi chữ rất tinh tế để nói về cảnh chùa đẹp ở
xã Tự Trì thuộc huyện Nam Đàn.
Mừng đây phong cảnh Tự Trì
Ao chùa Cực Lạc, vui thì thậm vui.
Có thể nói, tuy không thực sự đầy đủ như các nguồn sử liệu nhưng qua những
câu ca dao, hò vè kể, miêu tả về chùa chiền ở các làng xã xứ Nghệ đã bước đầu cho
chúng ta thấy sự phong phú của hệ thống chùa xứ Nghệ.
2. Văn học dân gian xứ Nghệ thể hiện tư tưởng, quan niệm của dân gian về
Phật và đạo Phật
Đạo Phật với giáo lý nhân văn, nghi lễ thờ cúng đơn giản, gần gũi với tín
ngưỡng, phong tục của người Việt nên khi du nhập vào Việt Nam, nó đã nhanh chóng
-
đi sâu vào tâm thức, đời sống của nhân dân. Vì thế mà với người dân Việt Nam nói
chung, Nghệ Tĩnh nói riêng, dù có thể họ không phải là tín đồ của đạo Phật nhưng vẫn
sống dung hoà, vẫn có nhiều thiện cảm với đạo Phật.
Tác giả Bùi Dương Lịch trong Nghệ An ký cho rằng người Nghệ không mê
đạo Phật, nên không có chùa quán lớn, không có những nghi lễ Phật giáo linh đình
như những nơi khác. Tuy vậy, qua thể hiện của văn học dân gian cho thấy Phật giáo
vẫn có một sức ảnh hưởng không nhỏ đối với đời sống văn hoá, tâm linh của người
dân xứ Nghệ.
Với người dân xứ Nghệ, cũng như quan niệm chung của người dân Việt Nam,
chùa là một thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng có ý nghĩa đặc biệt, quan trọng trong các
thiết chế khác của làng xã. Có rất nhiều câu ca dao nói về cảnh chùa, mà gần như tất cả
đều hướng về với nhận thức chùa là một nơi đẹp đẽ, linh thiêng, ở đó người ta tìm thấy
sự an nhàn, tĩnh tâm, vui vẻ:
Chào chàng bước tới cảnh này
Chùa vui cực lạc, trồng cây bồ đề
hay:
Đã chơi chơi chốn non tiên
Chơi nơi lịch sự, chơi miền Bồng lai
và:
Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng dội nước hồ sen trước chùa.
Bởi chùa là của làng (đất vua, chùa làng) nên dù có linh thiêng, thanh tịnh thì
nó vẫn bình dị và gần gũi. Trong tâm thức dân gian, nghĩ đến chùa là nhớ đến tượng
Phật, ao sen, khói nhang, tụng kinh, gõ mõ:
Nhất vui cảnh thú Kim Liên
Vui chùa nhờ tượng, tốt sen nhờ hồ
hay:
Gần chùa nghe cảnh với tiu
Ở gần thợ mộc nghe rìu với cưa
và:
Trống cắc trên chùa, mõ cắc trên chùa
Anh thương em một nỗi phải vác bừa hai vai
Từ khi du nhập vào Việt Nam, bởi sự gần gũi giữa giáo lý Phật giáo với tư
tưởng người Việt nên Phật giáo nhanh chóng hoà nhập, dung hoà với tín ngưỡng dân
gian, ăn sâu, bén rễ trong đời sống văn hoá tâm linh của người Việt. Chính vì sự hoà
nhập, hỗn dung một cách tự nhiên, tự nguyện ấy nên nhiều khi chính những người đi
chùa cúng Phật cũng không nắm rõ giáo lý nhà Phật. Với đa số người dân xứ Nghệ
-
cũng vậy. Họ không cần biết mình theo Phật giáo Tiểu thừa hay Đại thừa, lý thuyết sâu
xa của đạo Phật về “Tứ diệu đế” hay “Thập nhị nhân duyên”… Họ chỉ hiểu rằng đức
Phật là một thế lực siêu phàm, thuộc một thế giới yên vui, cực lạc. Phật có lòng bác ái,
có đức từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn, phù hộ cho con người thoát khỏi tai ương, bất
hạnh. Họ tâm niệm rằng thành tâm thờ Phật, cúng Phật để tránh điều ác, gặp điều lành,
tu nhân tích đức để mong những điều bình an, tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Văn
học dân gian xứ Nghệ cũng phản ánh rất rõ quan niệm ấy.
Người ta đến với chùa, với Phật để cầu mong những điều tốt đẹp:
Hai tay bưng lấy mâm vàng
Lên chùa khấn nguyện ngày chàng đi thi
hay:
Lên chùa thắp một trăm nhang
Khấn nguyện trời bụt ra đàng xáp cho
Xáp anh không ăn cũng no
Đau đầu cũng nhẹ, hen ho cũng lành.
Nhưng để những điều như mong muốn được linh ứng, dân gian cho rằng phải
thật sự thành tâm đến với Phật:
Nhất tâm phụng thỉnh em ơi
Trong kinh nhà Phật anh xem đã tường.
Đường đến với Phật dù có khó khăn cũng không từ:
Chùa cao mấy bậc cũng trèo
Đường xa mấy dặm cũng đeo em về.
Người theo Phật phải có tâm trong sáng và có những hành động để thể hiện sự
thành tâm trước Phật:
Phật tự phải trùng tu
Miệng đọc chữ nam mô
Tâm nhớ điều khẩu phật
và:
Đêm ngày tụng niệm nam mô
Kệ kinh lòng thuộc, hiến đồ lễ chăm.
Con người có thành tâm thì mới đạt được ý nguyện. Trời Phật là thế lực đứng
trên con người, nhìn rõ đúng sai, đen trắng, phân định một cách công bằng, minh bạch.
Phật có thể nhìn thấu tâm người, khi tâm thành, Phật sẽ chứng giám mà ban phúc, ban
lộc cho:
Cười em đã bấy nhiêu lần
Em còn để tiếng xa gần cho anh
-
- Ai cười trời bụt xét cho
Rồi ra ta kể nguyên do sự tình.
Tâm thành, hành động tốt, nhất định sẽ có kết cục như ý nguyện:
Đền chùa mà tu chỉnh lại
Thì ủng hộ có Phật, thần
Dân ta sẽ dần dần
Hưởng thái bình mãi mãi
Giáo lý nhà Phật răn dạy cho phật tử về thuyết nhân - quả: gieo nhân nào, gặt
quả ấy. Điều này rất gần với quan niệm truyền thống của dân tộc Việt Nam “ở hiền
gặp lành, ở ác gặp dữ”. Quan niệm này xuất hiện rất nhiều trong ca dao, hò vè và
chúng ta cũng khó xác định được đó là quan niệm truyền thống hay giáo lý đạo Phật:
Hiền lành trời để cho yên
Ở mà gian ác có phen ăn mày.
hay:
Ở đời thế mới biết
Lẽ nhân quả xưa nay
Ai nắm tay tối ngày
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
và:
Xưa nay sãi giữ chùa chiền
Cướp của Tam bảo, vững bền hay chăng?
Thấm nhuần tư tưởng “gieo nhân nào, gặt quả ấy” nên dân gian tích cực khuyên
con người tu nhân tích đức. Và chữ “tu” cũng được nhắc đến nhiều trong văn học dân
gian xứ Nghệ, thể hiện sự hướng thiện một cách sâu sắc của tầng lớp bình dân:
Ai lên Hương Tích, chùa Tiên
Gặp cô sư bác anh khuyên đôi lời
Đem thân đến đất nước này
Tu sao cho vẹn một đời thì tu
Dân gian hướng theo Phật, lấy giáo lý nhà Phật và cũng là đạo lý của dân tộc
mà khuyên răn những kẻ giàu có:
Giàu hay sửa quán làm đình
Đúc chuông, tô tượng, san kinh, bắc cầu
Hiếu tâm trời phụ ai đâu
Châu rời Hợp Phố rồi châu về liền.
Tuy nhiên, trong con mắt dân gian, chữ “tu” cũng có khi được hiểu một cách
giản dị mà sâu sắc, thấu đáo:
-
Dầu mà không lấy được em
Anh về đóng cửa, cài rèm đi tu
- Tu mô cho em tu cùng
May ra thành Phật, thờ chung một chùa
- Tu mô cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ cũng là đi tu.
Bên cạnh ca dao, vè thì truyện kể cũng là một thể loại đặc sắc, góp phần làm
nên sự phong phú của kho tàng văn học dân gian xứ Nghệ. Qua tìm hiểu một số truyện
kể dân gian Nghệ Tĩnh, kể cả thần thoại, truyền thuyết hay truyện cười, chúng ta đều
có thể tìm thấy trong đó dấu ấn của đạo Phật.
Xung quanh truyện kể Làm ơn hoá hại kể về chuyện một người tốt bụng lên
trời để giục bà thần Mưa cứu hạn cho một vùng. Nhưng vì quá sốt sắng, nhiệt tình mà
người này đã làm hỏng việc, vô tình tiêu diệt cả vùng mà mình định cứu. Trong truyện,
thần Mưa làm mưa bằng phương tiện là một bầu nước và một nhánh lá để nhúng nước
và vẩy. Chi tiết này làm chúng ta liên tưởng đến hình ảnh Quan âm Bồ Tát với bầu
nước và nhành lá Người mang theo bên mình. Hay thực tế hơn, đó là phương tiện
giống với dụng cụ mà thày chùa sử dụng trong nghi thức chạy đàn của Phật giáo. Điều
đó cho phép chúng ta nghĩ đến việc khi câu chuyện thần kỳ này ra đời, có thể đã từ rất
lâu, thì Phật giáo đã có mặt ở xứ Nghệ.
Sự có mặt của Phật và vai trò của Phật trong đời sống của người dân xứ Nghệ
và cả dân tộc còn được biết đến qua những câu chuyện truyền thuyết nhưng mang màu
sắc huyền thoại như chuyện kể về Uy Minh vương Lý Nhật Quang với Phật bà ở chùa
Bà Bụt, Hồ Quý Ly và Quang Trung - Nguyễn Huệ với Phật bà chùa Đại Tuệ…
Những câu chuyện này được sử chép lại, nhưng những yếu tố mang tính thần bí, ly kỳ
của nó lại được dân gian thêu dệt, làm cho nó trở nên lung linh, mang đậm màu sắc
thần thoại, trong đó ca ngợi, đề cao hình tượng Phật bà Quan Âm.
Về chùa Bà Bụt nằm ở thôn Thượng Thọ, xã Bạch Ngọc, nay thuộc xã Lam
Sơn, huyện Đô Lương. Nguyên xưa chùa Bà Bụt có tên gọi là chùa Thượng Thọ.
Truyền thuyết kể rằng, xưa kia, tại bến đò Trung Lở ngần chùa Thượng Thọ có cô lái
đò rất đẹp và duyên dáng. Vào một buổi trưa có một thanh niên trong làng đi ngang
qua, thấy cô lái đò xinh đẹp liền buông lời trêu ghẹo. Cô lái đò bỗng nhiên biến hoá
thành Phật bà 12 tay ngồi lên đầu người thanh niên và bắt anh đội vào một lùm cây
xanh. Đến nơi anh ta thấy đầu nhẹ bỗng, một đám mây ngũ sắc đang từ từ bay lên trời.
Cũng từ đó nhân dân đổi tên chùa Thượng Thọ thành chùa Tiên Tích và dân gian
thường gọi là chùa Bà Bụt.
Đến thời kỳ Lý Nhật Quang (con trai thứ 8 vua Lý Thái Tổ) được bổ làm Tri
châu Nghệ An, ông đã tổ chức khai hoang mở đất, xây dựng và phát triển kinh tế. Phật
-
bà Quan Âm ở chùa Bà Bụt đã phù giúp Lý Nhật Quang gặp nhiều thuận lợi, may
mắn. Trong quá trình chinh phạt quân Chiêm Thành, Lý Nhật Quang được Phật bà
Quan Âm linh ứng phù giúp cho ông đánh giặc thắng lợi. Đến cái chết của Lý Nhật
Quang, Phật bà cũng ra tay vớt xác Ngài trên hữu ngạn sông Lam. Vì thế sau này, cứ
hai năm một lần, mỗi khi xã mở lễ hội vào tháng giêng, bao giờ cũng có lễ trả ơn Phật
bà ở chùa Bà Bụt.
Theo truyện kể, chùa Đại Tuệ trên núi Đại Huệ, thuộc xã Nam Anh, huyện Nam
Đàn được cha con Hồ Quý Ly cho xây dựng để cảm ơn Đức Phật Đại Tuệ (trí sáng
suốt lớn) hiển linh, phù hộ cho quan quân, tướng sĩ, nhân dân trong quá trình xây dựng
thành Hồ Vương, mong muốn Đức Phật phù hộ, giúp đỡ vương triều nhà Hồ trong
công cuộc chống ngoại xâm cũng như trị nước, yên dân.
Ngày ấy Hồ Vương cho xây tường thành trên dãy núi Đại Huệ. Việc xây dựng
gặp rất nhiều khó khăn. Dân phu vất vả nhiều mà không xây được thành. Một đêm, Hồ
Vương mơ thấy Phật Bà Đại Tuệ chỉ vẽ cho cách xây thành. Từ đó việc xây thành đắp
luỹ trở nên thuận lợi. Biết ơn Phật Bà, Hồ Vương giao cho con gái là công chúa Thái
Dương ở lại chùa chăm lo hương khói phụng thờ, cầu quốc thái dân an.
Cũng liên quan đến Phật Bà Đại Tuệ còn có câu chuyện về vua Quang Trung
trên đường tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh. Khi đi qua chùa Đại Tuệ, ngài đã
dừng lại và vào chùa dâng hương, lễ Phật, cầu xin đức Phật phù hộ cho ông và ba quân
tướng sĩ nhanh chóng quét sạch ngoại xâm. Sau khi thắng lợi, trên đường trở về Phú
Xuân, ngài lại lên chùa cảm tạ đức Phật, cắt ruộng đất cho chùa và đổi tên chùa là Đại
Huệ.
Xung quanh chuyện kể về sự linh ứng của Phật đã cho thấy niềm tin mãnh
liệt của nhân dân vào sức mạnh, sự ban ơn, giúp đỡ của Phật cho con người trong
hoàn cảnh khó khăn.
3. Văn học dân gian xứ Nghệ phản ánh thực trạng của Phật giáo qua các giai đoạn
lịch sử
Bên cạnh những giai đoạn thịnh trị, Phật giáo được ngợi ca và có vai trò, ảnh
hưởng lớn đến đời sống văn hoá tín ngưỡng của người dân xứ Nghệ thì cũng có giai đoạn
Phật giáo bị suy đồi, mất đi vai trò vốn có của nó. Biểu hiện của sự suy thoái là chùa chiền
bị lãng quên, sư sãi đánh mất nhân cách, không thực sự chân tu. Hiện thực này có lẽ xuất
hiện vào thời kỳ tình hình kinh tế, chính trị, xã hội bất ổn, mâu thuẫn giai cấp diễn ra
quyết liệt. Phật giáo, hệ tư tưởng gần gũi với tầng lớp bình dân đã không giữ nổi chỗ đứng
của mình trong xã hội đảo điên.
Trong thơ ca dân gian hiện lên hình ảnh chùa chiền hoang lạnh, đổ nát:
Phạm nơi Phật tự, thành hoàng
Chùa chiền trúc đổ, miếu hoang chẳng nề
-
hay:
Cửa chùa then khoá toang ra
Toà sen mốc thếch, lá đa sạch lì
Nối đời nương cảnh bồ đề
Trước thời là Phật, sau thì ra ma.
và:
Chùa này rách nát, bụt ngã, sư sầu
Còn tình chi anh nữa để dựng lầu đúc chuông
Chùa chiền bị bỏ bê, không ai quan tâm thờ tự, hương khói. Trong khi đó,
những vị sư trụ trì, những đệ tử của Phật giáo vốn được nể trọng bởi nhân cách đạo
đức, học vấn nay cũng đánh mất chính mình. Đệ tử của cửa Phật mà nay chẳng còn
chân tu:
Cái trống sơn son, cái mõ sơn son
Ông sư chùa Diệc rõ ràng tám con.
Trong truyện tiếu lâm Con thanh tịnh tuy là câu chuyện vui nhưng cũng đã
phản ánh về sự có mặt của Phật giáo trên đất Nghệ Tĩnh. Câu chuyện xoay quanh việc
ông quan thích ăn thịt ếch (được gọi là con Thanh tịnh) những cuối cùng là để cười
cợt, chế giễu việc nhà sư được coi là “thanh tịnh” mà lại chẳng “thanh tịnh”, chẳng
đáng tư cách một nhà sư nơi cửa Phật. Có lẽ câu chuyện này ra đời khi Phật giáo ở vào
giai đoạn suy vong, giáo lý nhà Phật không được tôn trọng, sư tôn chẳng phải chân tu.
Có thể nói, từ giáo lý, kinh kệ của đạo Phật đến đạo Phật qua tâm thức dân gian
là một quá trình cải biến, thích nghi, hoà nhập để phù hợp với môi trường mới. Phật
giáo trong nhận thức, quan niệm dân gian đã mang màu sắc mới, gần hơn với đời sống
thực, vừa linh thiêng, huyền bí nhưng vừa gần gũi, giản dị. Qua những sáng tác của
văn học dân gian xứ Nghệ, chúng ta có thêm một cách tiếp cận với Phật giáo xứ Nghệ,
để hiểu hơn về lịch sử phát triển, cách nhìn nhận và các sắc thái của đạo Phật trong quá
khứ qua tâm thức dân gian.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển, có lúc thịnh, lúc suy nhưng cuối cùng thì
Phật giáo vẫn là một tôn giáo có ảnh hưởng lớn đối với đời sống văn hoá tinh thần của người
dân xứ Nghệ nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung và xung quanh nó còn nhiều điều để tìm
hiểu, nghiên cứu.
-
H
HỘP XÁ LỊ TRONG LÒNG THÁP NHẠN
(NAM ĐÀN - NGHỆ AN)
TS. Nguyễn Mạnh Cường
Lê Thị Vân Anh
I. Đặt vấn đề
Trong cuốn sách của mình, tôi có trích lại Việt sử lược về việc tìm thấy hộp xá
lỵ tại Chùa Dâu như sau: “Năm Giáp Tuất niên hiệu vua Thiên Thành năm thứ 7 (năm
1034)… vị sư ở chùa Pháp Vân tại Cổ Châu có tâu lên vua rằng, ở trong chùa thấy
phát ra mấy đạo tia sang mà đào thì thấy một hòm bằng đá. Trong hòm đá có hòm
bằng bạc, trong hòm bạc có hòm bằng vàng, trong hòm vàng có bình pha lê, trong bình
có xá lị (xương Phật)”(1).
Đã có những trao đổi xung quanh sự kiện lịch sử này. Ghi chép của người xưa
nghe có vẻ huyền bí, mang đầy tính huyễn hoặc, khó tin… còn về bản thân tôi, trong
phần Tháp Hòa Phong, không chỉ dẫn sử mà còn dẫn lại một đoạn văn bia ngay dưới
chân tháp rằng: “Xưa kia vua Tùy Cao Đế sai quan lệnh họ Lưu mang xá lị đến Giao
Châu đặt. Khi tới Giao Châu một vị Pháp Hiền đại sư đã chi cho Lưu khu đất trước
đền Bà Dâu là danh tiếng dựng tháp ở đây là tiếng thơm muôn thưở...”(2).
Sau khi cuốn sách được in ra, có nhiều người đã hỏi tôi về sự kiện lịch sử Chùa
Dâu tìm thấy hộp xá lị là thật hay chỉ là tương truyền mà sử ghi vào? Và nếu thật thì
hộp xá lị đó ra sao? Bên trong hộp xá lị chứa cái gì?
Vấn đề xá lị đã làm tôi nhớ lại những hình ảnh của bộ phim tư liệu nói về cuộc
đấu tranh của Phật tử miền Nam chống lại chế độ gia đình trị họ Ngô năm 1962. Trong
phim, chúng ta thấy hình ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức ngồi kiết già điềm tĩnh
trong khi ngọn lửa đã bao kín toàn thân Ngài. Thật kinh ngạc khi trong phim cho
chúng ta thấy hình ảnh các Phật tử lấy xá lị của nhà sư từ trong đống than tro. Và lẫn
trong đám than đen ấy, có một cục tròn mà theo người làm phim thì đó là quả tim của
Ngài còn nguyên vẹn. Vậy đó là quả tim của Hòa thượng Thích Quảng Đức hay một
phần xá lị của Hòa thượng? Vậy xá lị là gì? Và xá lị có mặt tại Việt Nam từ lúc nào?
Xá lị là một khái niệm của Phật giáo để chỉ một phần tinh cốt còn lại của Đức
Phật sau khi thiêu xong lưu truyền lại cho hậu thế. Những xá lị này thường hay được
Viện Nghiên cứu Tôn giáo
Khoa Lý luận chính trị, Đại học Nội vụ 1 Nguyễn Mạnh Cường, Chùa Dâu - Tứ Pháp và Hệ thống các chùa Tứ pháp, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 2000, tr.19. 2 Nguyễn Mạnh Cường, sáchđã dẫn, tr.54.
-
chôn trong hòm nhiều lớp và được đặt trong lòng các bảo tháp mang tính hiệu hữu của
Đức Phật.
Nếu đúng như sử chép thì xá lị đã tìm thấy đầu tiên ở Chùa Dâu vào thời Lý
hoặc có thể sớm hơn nhiều. Tôi tin vào sự kiện lịch sử này mặc dù tôi chưa hề được
đào khảo cổ khu vực tháp Hòa Phong. Cũng trong phần tháp Hòa Phong, tôi xin nói rõ
hơn: “Tùy văn Đế sai Lưu Phương mang 5 hòm xá lị sang Giao Châu để dựng bảo
tháp, một hòm đặt ở Dâu (602-605), một hòm đặt tại Tường Khánh (Nam Định), một
hòm đặt ở Châu Hoan, một hòm đặt ở Châu Ái và hòm cuối cùng đặt ở Phong Châu
(Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc)….” (3). Rất tiếc, những tư liệu này chỉ lưu truyền chứ chưa có
một sử liệu nào ghi chép chính thức. Như vậy, 5 hòm xá lị mà Lưu Phương đưa qua
Giao Châu chỉ là huyền thoại hay là sự thật lịch sử? Liệu việc phát hiện hòm xá lị ở
Chùa Dâu phải chăng là một đề dẫn quan trọng cho việc nghiên cứu cũng như phát
hiện các hòm xá lị tại Việt Nam?
Cùng với các nhà khảo cổ học, tôi có một cơ may là đã tìm và đào được một
trong những hòm xá lị ấy? Đó là hộp xá lị trong lòng Tháp Nhạn thuộc thôn Nhạn
Tháp, xã Hồng Long, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phế tích chân móng tháp này
được tìm thấy vào năm 1982 và được khai quật trong các năm 1985-1986(4). Hy vọng
những phát hiện tại đây và những gì thu được qua nhiều năm khai quật trong lòng tháp
Nhạn sẽ là lời giải cho những uẩn khúc mà chúng ta đang quan tâm.
II. Xá lị từ những khái niệm
Như đã trình bày, xá lị là một phần tinh túy, là hiện thân của Đức Phật lưu
truyền cho mai hậu. Theo Tự điển Phật học, xá lị là: “chỉ chung những gì còn sót lại
sau khi thiêu thân Phật - Thích Ca hoặc các bậc đắc đạo, thường được thờ trong các
tháp hoặc chùa chiền”. Người ta cho rằng, tục thờ xá lị có lẽ bắt đầu với Phật Thích
Ca. Tro của Ngài được chia ra nhiều phần cho các bộ tộc và lần đó có sự tranh chấp về
vấn đề này. Danh từ xá lị cũng được dùng để chỉ - Kinh (sutra) Đà La Ni (Dharani)
hay tranh tượng Đức Phật, mang tính thiêng liêng. Tục thờ cúng xá lị được lưu truyền
trong dân chúng, người ta tin rằng nhờ vậy mà trừ được rủi ro.
Người ta đã tìm thấy xá lị của Phật Thích Ca tại quê hương của Ngài là Ca Tì
La Vệ (Kapolavastu) và Vệ Xá Lị (Vaisali). Một răng của Đức Phật được thờ ở Tích
Lan, tóc của Phật được thờ ở Myanmar. Người ta cho rằng bình khất thực của Ngài
ngày nay vẫn còn. Theo Đại sử (Mahavamsa) của Tích Lan (Sri lanka) thì bình này
3 Nguyễn Mạnh Cường, sách đã dẫn, tr. 54-55 4 Xem thêm: Nguyễn Mạnh Cường, Trần Anh Dũng, Phạm Như Hồ và Võ Văn Tuyển:
Báo cáo khai quật Nhạn Tháp (Nghệ Tĩnh), tư liệu lưu tại Phòng Tư liệu Viện
Khảo cổ học mang ký hiệu HS 321.
-
được vua A Dục cho mang qua Tích Lan, sau thời Marco Polo thì vua Tích Lan Kublai
Khan cho mang bình qua Trung Quốc”(5).
Trong một cuốn từ điển khác, Đoàn Trung Còn đưa ra khái niệm xá lị như sau:
“Xá lị (lợi) Sarira (Scr) - Relique (Fr) Cari (p) Oiseau (fr). Tro tàn thân cốt của Phật
sau khi tịch diệt. Người ta cũng dùng tiếng xá lị để gọi tro tàn thân cốt của các vị thánh
đã quá vãng.
Hồi Đức Phật Thích ca được 84 tuổi, ngài tịch gần thành Câu thi na
(Koucinagara). Chư đệ tử bèn đem xác ngài lên giàn hỏa mà thiêu, tro tàn của ngài đã
thành từng viên đẹp đẽ và chiếu sáng như ngọc, kêu là xá lị.
Xá lị của Phật đựng trong tám hộc bốn đấu (bát thạch, tứ đấu), giáo hội bèn
đem phân phát cho các nhà vua và các nhà chùa trong toàn cõi Ấn Độ.
Kế vào thế kỷ ba trước Dương lịch, một vị đại vương tên là A Dục xây vô số
cảnh tháp tromng toàn cõi thiên trước mà thờ di tích và xá lị của Chư đệ tử. Có hai thứ
xá lị:
Toàn thân xá lị: như Phật Đa Bảo đã tịch, nhưng xá lị của Ngài là toàn thân thể
của ngài ngồi kiết già trong bảo tháp. Trong các đời sau, hễ có vị Phật nào giảng kinh
Pháp Hoa, thì toàn thân xá lị ấy hiện lại mà nghe kinh.
Toái thân xá lị (xá lị nát ra): như xá lị Phật Thích Ca… thờ trong các chùa
Tháp.
Lại có hai thứ xá lị:
Sanh thân xá lị: tức Toàn thân xá lị hay Toái thân xá lị. Chính Phật dùng các
Sanh thân mà tu hành giới - định - tuệ, thành Phật rồi tịch diệt, để lại xá lị. Chư Thiên
và Loài người những ai cúng dường xá lị ấy, thì được phúc lớn.
Pháp thân xá lị: Tức là các kinh điển Đại thừa hoặc Tiểu thừa.
Xá lị (Cari) lại là tên của một giống chim cò. Tàu dịch là chim Thụ”(6).
Những tưởng xá lị chỉ là một khái niệm đơn giản. Song càng đọc chúng ta càng
thấy phức tạp và đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu sâu hơn.
III. Hộp xá lị trong lòng Tháp Nhạn
Trong nhiều năm qua, các nhà Khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu
và khai quật khá nhiều các dấu tích Phật giáo như: Tháp Tường Long (Đồ Sơn-Hải
Phòng), Tháp Chương Sơn (Hà Nam), Ghềnh Tháp (Hoa Lư-Ninh Bình), Tháp Phật
Tích (Bắc Ninh), Chùa Dâu (Thuận Thành Bắc Ninh), Chùa Đậu (Thường Tín-Hà
Nội)… Và Tháp Nhạn (Hồng Long-Nam Đàn-Nghệ An).
5 Chân Nguyên Nguyễn Tường Bách, Từ điển Phật học. Nxb Thuận Hóa năm 1999,
tr.508-509. 6 Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh năm 1992, tr.
676,677.
-
Tháp Nhạn được xây toàn bằng gạch. Bề mặt ngoài của tháp được trang trí bởi
nhiều viên gạch có trang trí hình Tam thế Phật (xem hình). Chân tháp có quy mô hình
vuông mỗi chiều khoảng 9,6m x 9m, dày 2m. Quanh chân tháp có một hành lang và
một đường xây gạch rộng hơn 1m. Rất có thể là đường chạy đàn? Tháp hiện có 4 cửa,
3 cửa hay chỉ là 1 cửa? vẫn là một ẩn số! Chúng tôi chưa thể lý giải hiện tượng này vì
mới chỉ được tiếp cận từ một phế tích móng rất lộn xộn.
Chân tháp có quy mô hình gần vuông 9,6m x 9,0m; và nếu theo cách tính của L.
Bezacier đã tiến hành với một tháp gạch tại chùa Ninh Phúc (Phật Tích - Bắc Ninh)
năm 1940 thì Tháp Nhạn có thể cao tới 20,5m(7). Với chiều cao này, rất có thể tháp
được chia thành nhiều tầng theo kiểu dưới to, trên thu nhỏ dần. Với chiều cao như vậy,
Tháp Nhạn sẽ là một công trình kiến trúc Phật giáo to nhất xứ Hoan Châu ngày đó.
Điều mà tôi băn khoăn là chưa thấy L. Bezacier đề cập tới những diễn biến cấu
trúc bên trong lòng tháp Phật Tích để từ đó đưa ra những đối sánh với Tháp Nhạn. Cấu
trúc bên trong lòng Tháp Nhạn như sau:
Lòng tháp xây theo kiểu giật cấp, dưới to trên nhỏ hay theo kiểu thượng thu hạ
thách. Phía trên chân tháp có kích thước 5,75m x 5,6m thì ở dưới đáy cùng là 3,20m x
3,18m. Như vậy, độ chênh từ trên mặt tháp xuống tới đáy chân tháp là khá lớn từ
2,42m đến 2,55m.
Bên trong lòng tháp diễn biến khá phức tạp. Đầu tiên là một lớp gạch tháp bị đổ
lấp kín lòng tháp. Lớp gạch này có độ dày từ 0,60m-0,70m.
Dưới lớp gạch vỡ là một bệ thờ. Bệ thờ cũng được làm bằng gạch, có hình khối
hộp chữ nhật dài 0,70m, rộng 0,40m, cao 0,80m. Mặt bệ quay về hướng bắc, có một
hốc nhỏ hình chữ nhật.
Dưới bệ thờ là một ụ đất màu nâu lẫn trong đó có cuội sỏi to và gạch vụn. Ụ đất
này có hình bầu dục bao quanh chân bệ gạch, kích thước: dài theo trục bắc nam 2,50m,
dài theo trục đông tây 1,60m, dày chừng 0,30m.
Trên mặt ụ đất và dưới chân bệ thờ (cách mặt đất hiện tại chừng 1,40m) là một
hộp bằng đồng nhỏ; bên trong lòng hộp rỗng khi lắc phát ra tiếng kêu song không rõ là
vật gì, vì hộp không mở được. Cạnh đó là vài chục mảnh đồng bị vỡ ra từ nhiều loại
hình hiện vật khác nhau. Trong đó có một mảnh lớn, hình tròn trang một vành hoa 4
cánh, xung quanh trổ lỗ thủng. Rất có thể đây là vành hoa văn trang trí sau lưng một
pho tượng đồng nào đó?
Dưới ụ đất là lớp đất nâu thuần, dày chừng 0,10m, không thấy có hiện vật. Dưới
lớp đất nâu là lớp than tro đen dày. Lớp than này có hình bầu dục dài 1,80m, rộng
0,80m.
7 L.Bezacier, Nghệ thuật Việt Nam, Hà nội 1944, tr. 290.
-
Dưới lớp than đen (cách mặt đất hịên tại 1,80m) là một cây gỗ rỗng lòng, chôn
theo tư thế thẳng đứng ở chính giữa lòng tháp. Cây gỗ rỗng lòng này được ghép từ hai
nửa thân cây sau khi đã đẽo rỗng lòng rồi ghép lại với nhau tạo thành một trụ bằng
thân cây, cao 1,37m. Phần thân cây chôn chìm dưới đáy tháp là 1,12m. (xem hình vẽ).
Hai mảnh thân cây gỗ ghép lại thành một trụ đứng có cấu trúc khá đặc biệt. Cả
hai đều chôn phân gốc ở dưới, phần ngọn lên phía trên. Chiều cạnh của gốc dày 5,5cm,
phần ngọn dày 3cm. Dưới gốc để bằng, đầu ngọn để vát. Mảnh gỗ phía tây có nhiều
điểm đáng chú ý. Cạnh gốc của mảnh gỗ này có một lỗ thủng nửa hình bầu dục dài
0,48m, rộng 0,26m, vết đẽo nham nhở. Phía đầu mảnh gỗ khoét 2 lỗ nhỏ hình hạnh
nhân.
Trong lòng cây gỗ chôn thẳng đứng có chứa nhiều than tro. Đây là loại than củi
đen, to và xốp. Lẫn trong đám than tro này là một hộp hình chữ nhật bằng đồng đã bị
gỉ sét. Lớp gỉ đồng có màu xanh còn bám chặt lấy lớp than đen, mềm xung quanh.
Chiếc hộp bằng đồng được phát hiện trong tình trạng còn khá nguyên vẹn, cách đầu
cây gỗ phía trên khoảng 0,48m, và nằm ngay rìa cạnh phía tây của cây gỗ.
Lúc đầu chúng tôi cũng có ý định để nguyên trạng hộp đồng để phục vụ cho
công tác trưng bày của Bảo tàng Tổng hợp Nghệ Tĩnh (nay là Bảo tàng Nghệ An).
Song bí mật này không giữ được lâu, chỉ bởi một góc hộp đồng bị vỡ hé lộ ra một hộp
kim loại bên trong có màu vàng.
Bên trong lòng hộp bằng đồng là một hộp nhỏ nữa cũng được làm bằng kim
loại có màu vàng. Hộp có hình chữ nhật, kích thước dài 8cm, rộng 5cm, cao 5,5cm,
được chia thành 2 phần nắp hộp và thân hộp.
Nắp hộp: giống như nắp mui luyện của những ngôi mộ hợp chất, có gờ mái
chờm ra xung quanh. Trên đỉnh nắp có trang trí hình hoa 6 cánh, có nhụy nhỏ tròn ở
chính giữa, xếp liên tiếp tạo thành một khung trang trí chữ nhật. (xem hình).
Thân hộp: Diềm nắp ăn khít với thân hộp, trên đó trang trí bông hoa 3 cánh,
chụm lại dưới một cái cuống với 2 đôi cánh là đối xứng nhau như dạng hoa sen cách
điệu. Những bông hoa sen cách điệu này, được trang trí theo dải băng tạo thành một
khung hoa văn chữ nhật. Giữa lòng các ô trống là một mặt phẳng, có màu kim loại
vàng (hình vẽ).
Trong lòng hộp, khi mở ra, chúng tôi thấy khoảng 1/3 đáy hộp là than tro do bị
nước thấm vào nên đã quánh lại thành một lớp màu đen rất mềm. Trên bề mặt lớp than
tro ấy, có 2 nửa hình tròn màu trắng đục, trong và mỏnh như vỏ trứng. Chắc hẳn hai
mảnh vòng tròn này là từ một cục tròn có chất trắng đục bị vỡ ra làm đôi(8). Bên trong
8 Cho đến nay, tôi vẫn không thể quên được hình ảnh của hai viên nửa hình tròn. Khi nhìn ngắm tôi có cảm giác
chúng là một loại vỏ bọc bằng sáp cho những viên cao đan hoàn tán.
-
quả cầu trắng đục ấy là gì? Hiện giờ chúng tôi vẫn chưa thể hình dung ra. Song có điều
chắc chắn là chúng tôi đã tìm thấy và đào được một hòm xá lị của Đức Phật(9).
Như vậy trong lòng Tháp Nhạn đã tìm thấy xá lị của Đức Phật. Hộp xá lị Tháp
Nhạn có cấu trúc hơi đặc biệt gồm 3 lớp sau:
Lớp 1: là thân cây khóet rỗng và chôn theo phương thẳng đứng ở chính tâm
tháp. Bên trong thân cây này có chứa nhiều than tro.
Lớp 2: hộp bằng đồng có kích thước dài 12cm, rộng 8cm, cao 8cm. Lớp hộp
đồng này cũng chỉ để vừa hộp kim loại có màu vàng ở bên trong.
Lớp 3: Hộp chữ nhật là từ kim loại có màu vàng. Trong lòng hộp có chứa
khoảng 1/3 là than tro và 2 nửa viên tròn rỗng, màu trắng đục lẫn trong. Phải chăng
đây là bình pha lê như đã thấy ở Chùa Dâu?
Niên đại của Tháp Nhạn được xây dựng vào thời Đường, nửa đầu thế kỷ VII.
Theo các cụ già trong thôn thì vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, có một số
học giả Pháp ở Trường Viễn đông Bác cổ đã về đây khảo cứu và mang đi nhiều di vật
quý, trong đó có những viên gạch có chữ ghi niên đại năm 627 đời nhà Đường.
Về phát hiện hộp xá lị trong lòng Tháp Nhạn, GS. Hà Văn Tấn đã viết: “Việc
đặt hộp xá lị trong lòng thân cây khoét rỗng cũng gợi chúng ta nhớ tới tục chôn người
chết trong những quan tài thân cây khoét rỗng trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn ở Việt
Nam. Các tháp xá lị vẫn được coi là mộ tháp, khác với tháp kỷ niệm. Phải chăng đây là
sự tiếp hợp giữa Phật giáo với những truyền thống bản địa lâu đời”(10).
IV. Vài suy nghĩ thay cho lời kết
1. Sau cuộc khai quật Nhạn Tháp, nhiều vấn đề lịch sử vẫn còn bỏ ngỏ. Song
dẫu sao việc phát hiện ra Tháp Nhạn và những bí mật trong lòng ngôi tháp này đã phần
nào minh chứng cho những ghi chép của người xưa ở Chùa Dâu. Chúng tôi là những
người có vinh dự lần đầu tiên tìm thấy hộp xá lị trong phế tích tháp Phật giáo ở Nghệ
An. Phát hiện này, tuy chưa giống hẳn với những gì ghi chép ở Chùa Dâu, cũng chưa
góp phần làm sáng tỏ hết phế tích tháp Phật Tích, song lại là những tư liệu chân xác
của lịch sử giúp cho những ai đam mê nghiên cứu về xá lị Phật trên đất Nam Đàn
(Nghệ An) nói riêng, xá lị Phật trên đất Việt Nam nói chung.
2. Việc phát hiện hộp xá lị Phật trong lòng Tháp Nhạn phần nào góp thêm tư
liệu xác nhận rằng, xá lị Đức Phật đã có mặt tại Việt Nam từ khá sớm. Sự xuất hiện
Tháp Nhạn ở Nam Đàn (Nghệ An) lúc đó như một sợi chỉ vạch ranh giới giữa một
vùng đất theo Phật giáo Đại Thừa với những vùng đất ở phía Nam theo Phật giáo Tiểu
thừa hoặc theo đạo Bàlamôn giáo.
9 Trần Anh Dũng, Nguyễn Mạnh Cường, Tháp NHạn ở Nghệ Tĩnh qua hai lần khai
quật, Tạp chí Khảo cổ học số 3 /1987 tr: 69-83. 10 Hà Văn Tấn, Chùa Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội 1993, tr.29.
-
3. Cũng từ những phát hiện ở Nhạn Tháp và những khảo sát nhiều di tích Phật
giáo khu vực xứ Nghệ cho phép chúng ta nhận định lịch sử Phật giáo truyền vào xứ
Nghệ có lẽ từ rất sớm tại vùng Cửa Sót (Hà Tĩnh ngày nay) với sự kiện nhà sư Phật
Quang truyền đạo cho Chử Đồng Tử và Tiên Dung, trùng hợp với những phát hiện của
TS. Lê Mạnh Thát trong bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Tất nhiên lịch sử Phật giáo xứ Nghệ sẽ còn phải trả lời cho các nhà nghiên cứu
nhiều vấn đề như: nhà sư Phật Quang là ai? Ông có phải là người Thiên Trúc hay là
người nước ngoài khác Thiên Trúc truyền bá đạo Phật vào xứ Nghệ? Diện mạo Phật
giáo buổi đầu ở xứ Nghệ là gì?... Tuy còn khá nhiều câu hỏi đặt ra, song những chứng
tích Khảo cổ học Phật giáo tìm được ở Nhạn Tháp, từ những ngôi chùa tháp cổ khác
trên đất xứ Nghệ là minh chứng cho sự xuất hiện sớm của đạo Phật ở khu vực này.
-
VĂN HÓA PHẬT GIÁO XỨ NGHỆ
Bùi Văn Chất
1. Văn hóa xứ Nghệ và văn hóa Phật giáo xứ Nghệ qua các tư liệu
1.1. Xứ Nghệ
Tỉnh Nghệ An vào đầu thời Nguyễn, gồm: 9 phủ, 25 huyện và 2 châu11.
Trong đó có:
Bốn phủ thanh giáo:
1. Phủ Đức Quang gồm 6 huyện: La Sơn (nay là Đức Thọ), Thiên Lộc (nay là
Can Lộc), Nghi Xuân, Hương Sơn (4 huyện trên nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh) Thanh
Chương và Chân Lộc (nay là Nghi Lộc).
2. Phủ Anh Đô gồm 2 huyện: Nam Đường (nay là Nam Đàn) và Hưng Nguyên.
3. Phủ Diễn Châu gồm 2 huyện: Đông Thành (nay là Yên Thành) và Quỳnh
Lưu.
4.Phủ Hà Hoa gồm 2 huyện: Thạch Hà và Kỳ Hoa (nay là Kỳ Anh). Cả 2 huyện
nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Năm phủ ki mi:
1.Phủ Qùy Châu gồm 2 huyện: Trung Sơn và Thúy Vân (nay là các huyện: Quế
Phong, Qùy Châu, Qùy Hợp, Nghĩa Đàn và Tân Kỳ thuộc tỉnh Nghệ An)
2. Phủ Trà Lân gồm 4 huyện: Kỳ Sơn, Hội Ninh (nay thuộc Tương Dương),
Tương Dương và Vĩnh Khang (nay là huyện Con Cuông)
3. Phủ Trấn Ninh gồm 7 huyện (nay thuộc nước bạn Lào)
4. Phủ Ngọc Ma có châu Trịnh Cao
5. Phủ Lâm An có châu Quy Hợp.
Hai châu Trịnh Cao, Quỳ Hợp nay là các huyện Vụ Quang, Hương Khê thuộc
tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1831, Nghệ An chia thành 2 tỉnh: Nghệ An và Hà Tĩnh, địa giới như
hiện nay.
Thời thuộc Pháp, Nghệ An gồm các phủ: Diễn Châu, Hưng Nguyên, Anh Sơn,
Tương Dương, Qùy Châu.
Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ An 11. Bản chữ Hán, in khắc ván.Tr6
-
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, vẫn giữ nguyên địa hạt hành chính là 2
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh như cũ.
Năm 1976, hợp nhất hai tỉnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh.
Năm 1991, lại chia ra 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
1.2. Văn hóa xứ Nghệ
Xứ Nghệ núi cao nước sâu, phong thổ trọng hậu, khí tượng sáng sủa, nơi quần
tụ của nhiều tộc người cùng sinh sống, là thắng địa của nước Nam ta. Từ thuở Văn
Lang, nơi đây, đất biên viễn vốn đã là nơi then chốt thành trì vững chắc, nơi núi non
trùng điệp ẩn chứa biết bao kỳ tích.
Từ di chỉ Làng Vạc, thời kỳ văn hóa Đông Sơn - Sức sống trổi dậy trong đêm
trường Bắc thuộc, năm 722, Mai Hắc đế đã:
“Cát cứ Hoan Châu địa nhất phương
Vạn An thành lũy Vạn An hương
Tứ phương hưởng ứng hô Mai đế
Bách chiến uy thanh nhiếp Lý Đường
Lam nguyệt giang thanh, thanh lãng ngạc
Hùng phong sơn tĩnh, tĩnh yên lang
Lệ chi tuyệt cống Đường nhi hậu
Dân đáo vu kim thụ tứ trường”
(Theo Tiên Chân Bảo Huấn tân kinh12)
Dịch thơ :
Cát cứ Hoan Châu đất một phương
Vạn An thành lũy Vạn An hương (thơm)
Bốn phương hưởng ứng hô Mai Đế
Trăm trận uy thanh át Lý Đường13
Lam thủy trăng thanh, thanh sóng ngạc (kình ngạc)
Hùng sơn gió lặng, lặng mùi lang (lang sói)
Từ đây cống vải cho Đường, dứt
Mãi mãi dân ta hưởng lộc trường.
Bùi Văn Chất dịch
Trải qua các triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê… thời nào đất và
người xứ Nghệ cũng góp công lao xứng đáng. Đặc biêt, là thời Quang Trung Nguyễn
Huệ, nhà quân sự thiên tài, tốc chiến tốc thắng đại phá quân Thanh.
12
. Theo “Tiên chân bảo huấn tân kinh”, cuốn kinh do Vân Hương Đệ nhất Thiên tiên soạn thay (Thực chất là
ứng tác của nhóm sáng lập), Lạc Thiện đàn tàng bản, khắc in năm Khải Định 6 (1921). 13. Lý Long Cơ tên húy Đường Huyền Tông
-
Nước non Xứ Nghệ hãy còn vang âm hưởng câu thơ vua Trần Nhân Tông, ngày
26/12 năm Giáp Thân, Thiệu Bảo thứ 6(1284), khi quân Nguyên đánh vào các cửa ải,
quân ta bất lợi phải lùi về Vạn Kiếp, đã đề lên đuôi thuyền, nhằm khích lệ tinh thần
tướng sĩ:
“Cối Kê cựu sự quân tu ký
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh”14
(Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ
Hoan Diễn còn kia chục vạn quân)
Đó chính là hồn cốt “Nền văn Xứ Nghệ”.
Xứ Nghệ non xanh nước biếc, cảnh trí nên thơ. Sự kỳ diệu của nó là những nơi
“Đẹp mà Thiêng” ấy, mỗi góc núi bến sông, mỗi tên làng tên bản đếu lưu dấu ấn lịch
sử; đều có những làn điệu dân ca, ví giặm; những nhịp trống kèn đàn sáo; những tập
tục nghi lễ thờ cúng, ma chay, cưới hỏi, mừng lão khác nhau. Đến cả thú chơi và cách
săn bắt thú rừng, chim trời, cá nước mỗi miền cũng khác.
Trải hàng ngàn năm lịch sử, cư dân nơi đây đã quây quần với nhau lập thành
làng xã, hợp sức chống chọi với thú rừng, với bão lụt thiên tai, với bọn ngoại xâm để
xây dựng và bảo vệ làng nước, qua đó đã sản sinh những anh hùng dân tộc mà tên tuổi
cùng sự tích của họ còn truyền mãi trong dân gian; Họ đã cùng “dĩ nông tàng Nho”
(lấy nghề cày nuôi sự học), chăm lo việc học hành mở mang trí tuệ. Nhờ vậy, đã xuất
hiện ngày càng nhiều những bậc hiền tài, nguyên khí quốc gia và tên tuổi của họ đã
được ghi trong trang đầu Đỉnh Khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, trong lịch triều
khoa bảng của các tổng huyện, trong các bia Văn chỉ.
Xứ Nghệ nổi tiếng là xứ sở của Thần linh, thế nên dân gian vẫn thường lưu
truyền rằng: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”, và “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch
Mã, tứ Chiêu Trưng”
“Nghệ An quốc tế tứ linh từ chi đệ tam/ y cổ sùng hồng minh tại thạch.
Minh Mệnh Kỷ Hợi vạn tư niên chi nhị thập/ tùng kim thể thế ngật như sơn”15.
Đây là ngôi đền đứng thứ 3 trong số 4 ngôi đền của Nghệ An tế tự theo nghi
thức nhà nước, như từ xưa đã được tôn sùng, khắc sâu vào đá;
Sự kiện này một lần nữa được xác nhận vào năm Kỷ Hợi Minh Mệnh thứ 20,
từ nay thể thế và vị thế của đền cao như núi..
2. Văn hóa Phật giáo Xứ Nghệ
14. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb KHXH, H.1985, Tr49
15. Theo Tờ khải của Bùi Thế Đạt, Trấn thủ Nghệ An lập ngày 02/6 năm Cảnh Hưng 31 (1770) (bản chữ Hán, ký
hiệu VHv 2497 tại Thư viện KHTƯ) và câu đối chính tại Tam quan đền Bạch Mã, Võ Liệt.
-
2.1. Chùa chiền
Văn hóa xứ Nghệ - văn hóa Hồng Lam, tuy có nét riêng biệt, song lại rất gần
gũi với văn hóa Đồng bằng Bắc bộ và văn hóa Phật giáo Nghệ An cũng không ngoại
lệ. Ở các phủ huyện được gọi là thanh giáo, nói ở phần 1.1, hầu hết các làng xã đều có
đình, chùa, đền, đài, đàn, miếu…
Đối với thần linh thì danh hiệu, đẳng cấp, Thiên thần hay Nhân thần, đều do
Sắc chỉ nhà vua phong chuẩn. Phần nghi thức tế lễ ở các đền cùng việc phân phối quả
phẩm do các nhà chức trách địa phương quy ước, đảm trách.
Trong khi đó, về Đạo Phật, trong tiềm thức của mọi người từ thuở xa xưa, già
cũng như trẻ, đã gắn Trời với Phật, Bụt với Tiên và hình ảnh các đấng nhân từ cứu khổ
luôn gắn liền vào những câu chuyện cổ tích.
Việc dựng chùa đúc tượng do các nhà hảo tâm góp công đức gây nên. Việc
trông coi chùa chiền, tụng kinh niệm Phật, do các vị sư chủ trì hướng dẫn các đệ tử
thực hiện.
Ở Nghệ An, những ngôi chùa cổ kính thường gắn với công tích của các yếu
nhân, như:
Chùa Bà Bụt gắn với công tích Thái tử Lý Nhật Quang (988 - 1059) và vùng
đất xứ Nghệ; Chùa Đại Tuệ trên động Thăng Thiên Đại Huệ gắn sự nghiệp Hồ vương
(1400 - 1407); Chùa Hương Tích trên đỉnh núi cao nhất của dãy Hồng Lĩnh với sự tích
các vua Trần…
Danh hiệu đền đài miếu mạo đình chùa Nghệ An thời trước còn lưu trong thư
tịch gồm: 32 văn bia đền thờ thần; 28 văn bia từ đường dòng tộc, thờ tiên tổ; 18 văn
bia văn miếu, văn chỉ thờ Khổng Tử và ghi danh các nhà khoa bảng bản địa và 1 bài
văn khắc trên chuồng Văn miếu Nghệ An hiện treo trên gác chuông Võ miếu Vinh; 41
văn bia các loại khác.
Và 16 văn bia của 13 ngôi chùa, gồm: Bia chùa Vạn Lộc dựng năm Vĩnh Thịnh
thứ 6 (1710); Bia chùa Phúc Long, xã Vạn Phần, huyện Đông Thành, (Nay là xã Diễn
Kim, huyện Diễn Châu), dựng năm Thành Thái thứ 4 (1892); Bia chùa Viên Quang xã
Thanh Thủy, nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, dựng năm Hoằng Định thứ 5
(1605); Bia trùng tu c