vẬn dỤng tƯ tƯỞng hỒ chÍ minh vỀ chÍnh sÁch xà hỘi...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN CÔNG LẬP
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN CÔNG LẬP
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG
2. TS. TRẦN VĂN HẢI
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
TÁC GIẢ
Nguyễn Công Lập
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đến luận án 6
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu 25
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI 29
2.1. Khái niệm chính sách xã hội 29
2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội 33
Chương 3: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 75
3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội
thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 75
3.2. Những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội ở
Việt Nam trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016) theo tư tưởng
Hồ Chí Minh 86
3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính
sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 104
Chương 4: NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 116
4.1. Những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với việc
thực hiện chính sách xã hội hiện nay 116
4.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội ở
Việt Nam hiện nay 122
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động
tổ chức, điều hành và quản lý xã hội. Hiệu quả việc thực hiện chính sách xã
hội góp phần phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế
mang tính bền vững và phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng,
công bằng và tiến bộ. Ngoài ra, chính sách xã hội còn góp phần trợ giúp
những con người, những nhóm xã hội, đảm bảo mức sống cho một số nhóm
đối tượng yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro trong cuộc
sống. Do vậy, ở bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị nào, chính sách xã hội
cũng đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách xã hội là giải quyết
các vấn đề liên quan trực tiếp đến con người, qua đó nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Do vậy, ngay từ khi thành lập nước, Người rất
chú trọng đến việc xây dựng các chính sách xã hội nhằm quản lý đất nước và
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là
một hệ thống các quan điểm về mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực
lượng thực hiện chính sách xã hội. Tư tưởng của Người về chính sách xã hội
là tài sản tinh thần quý giá, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính sách xã hội cho phù hợp với tình hình mới, góp phần
giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất đây là
quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, là thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với
mong muốn đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,
nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, chính sách xã hội đã phát huy được
năng lực của cá nhân, cộng đồng trong xây dựng và phát triển đất nước,
hạn chế ở mức độ nhất định những tiêu cực phát sinh từ môi trường kinh tế
thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh những
thành tựu đạt được, vẫn còn một số hạn chế cần phải tiếp tục điều chỉnh, bổ
sung, hoàn thiện, như: Vấn đề việc làm cho người lao động, xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chính sách đối với người có công
với cách mạng.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đổi mới
và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội để giải quyết tốt vấn đề con người.
Trong đó, chính sách xã hội là công cụ quan trọng, góp phần vào thực hiện
mục tiêu cơ bản của quản lý xã hội nhằm cân bằng nhu cầu và lợi ích của
con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
hoạch định được chính sách xã hội tiến bộ, phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, cần có nhận thức và giải quyết đúng đắn
những vấn đề lý luận về chính sách xã hội, những đòi hỏi từ thực tiễn của
đất nước hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, việc nghiên cứu và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội còn nhiều vấn đề đặt ra,
đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sáng tỏ để vận dụng sáng tạo, phù hợp với
thực tiễn hiện nay. Chỉ trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước mới có được tầm
nhìn, năng lực của chủ thể hoạch định đường lối, chính sách và thực hiện tốt
công tác lãnh đạo, quản lý việc thực hiện chính sách xã hội đạt hiệu quả cao
trên thực tế.
Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội để vận
dụng vào việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay là một trong những vấn đề cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận
và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này,
3
nghiên cứu sinh chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội,
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội thời kỳ đổi
mới, từ đó, đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những khái niệm cơ bản liên quan đến luận án.
- Phân tích một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã
hội (Mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực lượng thực hiện chính sách
xã hội).
- Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội thời kỳ đổi mới với những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
thành tựu, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận dụng tư tưởng đó
vào thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản chính sách
xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm chính sách lao động và việc làm, chính
sách xóa đói giảm nghèo, chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân,
chính sách đối với người có công với nước và sự vận dụng của Đảng, Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới.
4
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội cả trong tư duy lý luận lẫn hoạt động thực tiễn và sự vận dụng tư tưởng
của Người về chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về chính sách xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra,
tác giả còn kết hợp một số phương pháp cụ thể như: lịch sử và lôgíc, phân tích
và tổng hợp, thống kê và so sánh, quy nạp và diễn dịch,…
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Phân tích, luận giải một cách có hệ thống, góp phần làm sáng tỏ hơn các
quan điểm của Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.
- Khảo sát khá toàn diện tình hình thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam, trên cơ sở đó, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của ưu điểm, hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách xã hội dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học như là
cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước hoạch định và thực thi chính sách xã hội thời
kỳ đổi mới đất nước hiện nay.
5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm
ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Ngoài ra, luận án còn
làm tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
trong các Học viện, trường Đại học, Cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên
quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội
Tập thể tác giả trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về
chính sách xã hội do Lê Sỹ Thắng chủ biên [129] đề cập quan điểm con người
từ trong truyền thống của dân tộc Việt Nam đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên
cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và tư tưởng về chính sách
xã hội đối với con người thâm nhập vào nhau trong chỉnh thể tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, cuốn sách làm rõ nhiệm vụ và chức năng của chính sách xã
hội; mối quan hệ giữa chính sách xã hội với cơ cấu xã hội, quản lý xã hội; mối
quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, văn hóa; mối quan
hệ giữa chính sách xã hội với công bằng xã hội; về chủ thể hoạch định và thực
hiện chính sách xã hội; về chiến lược “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Cuốn sách khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn là cơ sở
cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay. Tuy vậy, công trình không đi sâu tìm hiểu các chính sách xã
hội cụ thể mà dừng lại ở việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho
việc hoạch định các chính sách ấy.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội
học [130] do Nguyễn Thế Thắng chủ biên đã làm rõ khái niệm chính sách xã
hội và một số cách tiếp cận về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội học. Qua
đó, tác giả cuốn sách trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính sách
xã hội tác động vào cơ cấu giai cấp, tác động của chính sách xã hội, vào các
nhóm xã hội đặc thù; vào các quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất; trên lĩnh
vực phân phối, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội; về một số cơ sở khoa học của
việc hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong thực tiễn. Ngoài ra, cuốn sách
khẳng định dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
7
Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội bằng một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn. Bên cạnh đó, cuốn
sách còn trình bày thực tiễn và thành tựu thực hiện các chính sách xã hội giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
trong sự nghiệp đổi mới.
Liên quan đến chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, trong
cuốn Bác Hồ với ngành y tế Việt Nam [20] có các bài viết: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về một nền y tế Việt Nam của Nguyễn Văn Hồng; Chủ tịch Hồ Chí Minh
với việc xây dựng ngành y tế của Vũ Ngọc Khánh; Quan điểm về y tế và đạo
đức người thầy thuốc của Hồ Chí Minh của Đỗ Nguyên Phương; Một số quan
điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nền y học Việt Nam của Nguyễn
Dương Quang; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khỏe của Võ
Nguyên Giáp;… Các tác giả cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
việc chăm lo sức khỏe cho nhân dân; quan điểm về y tế, về công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần nhân văn cao
cả, tấm lòng nhân hậu hết mực vì nhân dân, vì con người.
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội [109], tác giả
Nguyễn Năng Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
phải lấy con người làm gốc, làm xuất phát điểm và đích hướng tới của mọi
chính sách; phải xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp; phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế, gắn với chính sách kinh tế; “có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ
mà phải có biện pháp cụ thể, vững chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để
thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp
phải hai phần, cố gắng phải ba phần”; giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi
và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ; phải cắn cứ vào bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tác giả A.X.Varônhin trong bài viết Chính sách xã hội và tinh thần thời
đại của Hồ Chí Minh [147] đã khẳng định con đường giải phóng đất nước và
xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn là một trong những chiến lược xã
8
hội đặc sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Đi theo con đường của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc
giải quyết những vấn nạn xã hội nghiêm trọng do quá khứ thời phong kiến đô
hộ và chiến tranh tàn phá kéo dài để lại. Kinh tế như nền tảng vật chất của
chính sách xã hội phát triển bền vững và sôi động. Hệ thống bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế và hệ thống thượng lưu ngày càng được củng cố và cải thiện.
Tuy nhiên, cùng với thế giới ngày càng quan tâm hơn tới kinh nghiệm của Việt
Nam cũng sẽ có một số thế lực muốn bôi nhọ lý tưởng và tư tưởng mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đấu tranh suốt cuộc đời mình để biến thành hiện thực. Những
thế lực này tìm cách làm giảm uy tín chính sách xã hội của Người khi gọi nó là
chủ nghĩa không tưởng, không phù hợp với thực tiễn chính trị và chuẩn mực xã
hội đương thời. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ quan trọng là phải luôn tìm tòi
sáng tạo để phát triển hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, khéo léo chứng minh
được rằng chiến lược đấu tranh giành độc lập dân tộc và xã hội mà Người đã đề
ra, kinh nghiệm thắng lợi mà nhân dân Việt Nam đã có được trong quá trình
thực hiện chiến lược này là vô giá. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến ngày hôm
nay vẫn soi sáng con đường của nhân dân Việt Nam đi đến tương lai, cho
người dân thêm vững tin vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, một xã hội
công bằng và tiến bộ cả về vật vất và tinh thần.
Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong trong cuốn sách Văn hóa và triết lý phát
triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [80], đã khẳng định những thành tựu của sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam, như về hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển bền
vững, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo - quản lý,… đều khởi nguồn từ tầm
nhìn và bản lĩnh Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cuốn sách có một bài viết đề cập đến
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội, trong đó tập trung làm rõ
chính sách xã hội gắn với quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng
dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; chính sách xã hội gắn với
chính sách phát triển kinh tế và văn hóa; chính sách xã hội phải hướng đến
công bằng xã hội; trồng người là chiến lược hàng đầu.
9
Nguyễn Đình Nhạ trong bài viết Từ lời căn dặn trong Di chúc, tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người [7], đã làm
rõ quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người được thể hiện
trong Di chúc. Trên cơ sở đó, tác giả bài viết khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và chính sách xã hội đối với con người được thể hiện đa dạng và
phong phú, thấm đậm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
Người. Do vậy, chỉ có thấm nhuần quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về con người mới có thể đề ra chính sách xã hội đúng đắn theo hướng
“lấy con người làm trung tâm”.
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới [69], tác giả Nguyễn Thị
Minh Thùy đã trình bày những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội. Bài viết cho rằng, để thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội
phải lấy con người làm gốc và mục tiêu; phải phù hợp và gắn với chính sách
kinh tế; phải bắt nguồn từ cơ cấu xã hội - giai cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Do vậy, việc
thực hiện nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là nhân tố
quan trọng đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của công cuộc đổi
mới, là biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục mặt trái của cơ chế thị
trường, là cơ sở vững chắc để tạo nên sự ổn định và đồng thuận xã hội đưa Việt
Nam tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bàn về công bằng xã hội trong xây dựng xã hội mới, trong bài viết Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội [140] tác giả Vũ Văn Thuấn trình bày
những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội phải được
thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đồng thời, tác giả
bài viết còn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội có sự gắn
bó chặt chẽ với bình đẳng xã hội.
Phạm Xuân Nam trong bài viết Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội [108] đã luận
10
giải quan điểm của Hồ Chí Minh về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đề xướng và đặt nền móng cho việc
thực hiện các chính sách xã hội nói chung và chính sách an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội nói riêng ở Việt Nam. Đồng thời, bài viết còn phân tích quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới về hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ở Việt Nam.
Khẳng định Triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh [87], tác giả Lê Quốc Lý khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh về xóa đói, giảm nghèo là một triết lý phát triển bền vững, bảo đảm tăng
trưởng kinh tế cao gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, môi trường, môi sinh
trong lành, tươi đẹp. Thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh đòi hỏi phải coi
xóa đói, giảm nghèo là một trong những thước đo quan trọng thể hiện sự đúng
đắn về đường lối, chính sách và giải pháp trong xây dựng và phát triển đất nước.
Tinh thần chiến đấu chống đói nghèo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải biến
thành lẽ sống, khát vọng làm giàu, vươn lên của toàn thể nhân dân, dân tộc, để
Việt Nam thật sự dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Các công trình nghiên cứu trên là tài liệu để tác giả luận án tham khảo một
số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Theo đó, chính
sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế và văn hóa; phải hướng đến công
bằng và tiến bộ xã hội;… Ngoài ra, luận án còn tham khảo vấn đề hoạch định
và vai trò của chủ thể hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có
công với nước, là những tài liệu tham khảo cho luận án.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trong các cuốn sách Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội của Phạm
Như Cương [16]; Chính sách xã hội, một số vấn đề lý luận và thực tiễn do Bùi
11
Đình Thanh (Chủ biên) [133]; Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta
hiện nay của Hoàng Chí Bảo [4]. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận và
phương pháp luận về chính sách xã hội, khái niệm và nội dung của chính sách
xã hội cũng như mối quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách khác.
Đề tài Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội bức bách hiện nay (từ năm 1986 - 1995) [48], tác giả Trần
Đồng đã trình bày khái niệm, nhiệm vụ, vai trò của chính sách xã hội; cơ sở đề
ra chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay; một số vấn đề xã hội
cấp bách cần giải quyết trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, lao động và việc
làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân,…; thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả chính sách xã hội trong giai đoạn cách mạng mới.
Nguyễn Văn Nhớn với đề tài Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với
việc nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [114], đã làm rõ vai trò của nhân tố
con người trong chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc
nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Bàn về Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện [63],
Trần Đình Hoan (chủ biên), đã trình bày những nội dung cơ bản về chính sách
xã hội ở nước ta và sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý trong việc thực
hiện chính sách xã hội nhằm nâng cao tính hiệu quả của nó trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội cấp bách của con người.
Phân tích những luận cứ khoa học và giải pháp cho việc đổi mới chính
sách xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta, trong cuốn
sách Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp [106], tác giả Phạm
Xuân Nam (Chủ biên) đã đưa ra một số vấn đề lý luận và phương pháp luận về
chính sách xã hội. Đánh giá thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội
và việc thực hiện các chính sách xã hội trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế
12
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, các tác giả còn dự báo xu hướng vận
động của các quá trình trên, đề xuất những kiến nghị về quan điểm và giải pháp
cho việc đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 1996 - 2000. Đặc biệt, các tác giả
cũng phân tích một số chính sách xã hội phổ biến: chính sách dân số, chính
sách lao động và việc làm, chính sách bảo đảm xã hội, chính sách xã hội nhằm
bảo đảm an ninh xã hội, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; chính sách đối
với các giai tầng xã hội: chính sách đối với giai cấp công nhân, chính sách đối
với giai cấp nông dân, chính sách phát huy năng lực lao động sáng tạo của trí
thức và sinh viên, chính sách đối với tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân; chính
sách xã hội đối với các giới đồng bào: chính sách đối với thanh niên, chính
sách đối với phụ nữ và gia đình, chính sách đối với các dân tộc thiểu số, chính
sách tôn giáo.
Trong đề tài Những vấn đề xã hội cần được giải quyết ở nông thôn ngoại
vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá trình cải cách kinh tế
[144], bằng một hệ thống những số liệu cụ thể và sinh động, tác giả Nguyễn Từ
đã khái quát được nhiều vấn đề bức xúc trong bức tranh xã hội ở khu vực miền
núi phía Bắc, đó là: Tệ nạn xã hội và tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, trình
độ dân trí của người dân, những hủ tục lạc hậu trong văn hóa,… Qua đó, tác giả
cũng đã nêu lên những giải pháp toàn diện để giải quyết các vấn đề xã hội bức
xúc ở nông thôn ngoại vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá
trình cải cách kinh tế.
Nguyễn Thị Thanh với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực
hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới (1986 - 1991) [134] và đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1991
đến năm 2001 [135] đã trình bày nội dung và vai trò của chính sách xã hội
trong xây dựng đất nước; quá trình thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ
13
đổi mới về lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với người có
công với cách mạng. Tác giả phân tích làm rõ một số kinh nghiệm trong thực
hiện chính sách xã hội như: Đổi mới nhận thức về vai trò của chính sách xã hội,
chú trọng phương châm xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội, kết hợp
chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết
đúng đắn về mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Đề tài Tác động của kinh tế Nhà nước nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn đồng bằng
Bắc bộ [104], tác giả Ngô Quang Minh đã khái quát tình trạng đói nghèo của cư
dân nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ, nêu lên những thành tựu và hạn chế
trong công tác xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những giải pháp
cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế nhà nước trong tham gia xóa
đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ.
Đề tài Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề
xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay [40]. Dưới góc độ triết học, tác giả Đinh Thế Định đã phân
tích sâu sắc những vấn đề lý luận về phát triển hài hòa, phát triển bền vững ở
vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ. Từ cách tiếp cận này, tác giả cũng đã
phân tích một cách toàn diện những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này và nêu lên những giải pháp cơ
bản nhằm hướng đến sự phát triển bền vững ở nông thôn Bắc Trung bộ.
Tác giả Lê Thị Liên trong bài viết Suy nghĩ từ những lời dặn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ trong Di chúc [7] đã phân tích quan
điểm của Người thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng đối với những người đã
hy sinh cho nền độc lập tự do của Tổ quốc. Qua đó, bài viết khẳng định giá trị
tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội đối với người có công với cách
mạng trong việc hoạch định và thực thi chính sách đối với họ của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bài viết là tài liệu tham khảo cho luận án
14
về quan điểm Hồ Chí Minh đối với gia đình có công với cách mạng và sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, trong bài viết Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng - Bốn mươi năm nhìn
lại [71], tác giả Nguyễn Hữu Chí tiếp tục khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người khởi xướng phong trào đền ơn đáp nghĩa. Suốt cả cuộc đời Người đã
dành tình cảm đặc biệt cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Bên cạnh đó,
tác giả bài viết cũng khẳng định sau 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt sâu sắc lời căn dặn của Người
thông qua những chủ trương, chính sách đối với thương bệnh binh và gia đình
có công với cách mạng.
Bài viết Đảng và Nhà nước thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo [7] của tác giả Lê Văn Tích đã khẳng định Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là điểm tựa vững chắc và giữ vai trò định hướng
cho Đảng, Nhà nước ta hoạch định đường lối, chính sách xóa đói giảm nghèo.
Ngoài ra, bài viết còn trình bày những kết quả đáng ghi nhận sau 40 năm thực
hiện Di chúc của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo.
Trong cuốn sách Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới [6], Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), đã cung
cấp những nội dung quan trọng về vấn đề phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội như là một trong những trục định hướng cơ bản của sự nghiệp đổi mới.
Cuốn sách là sự tập hợp các bài viết về những vấn đề phương pháp luận và cơ
sở lý luận của phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội; lý thuyết và mô hình
phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội của một số nước trên thế giới -
Những tham khảo cho Việt Nam; biến đổi xã hội và quản lý phát triển xã hội
trên một số lĩnh vực chủ yếu ở nước ta hiện nay; những nhân tố tác động,
quan điểm định hướng và hệ giải pháp phát triển xã hội ở nước ta đến năm
2020. Đặc biệt, trong cuốn sách có một số bài viết đề cập đến một số nội dung
liên quan đến chính sách xã hội và một số kinh nghiệm của Đảng ta về lãnh
15
đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm đổi mới (1986-2010), như bài
viết của tác giả Đoàn Minh Huấn và Nguyễn Thị Ngọc Mai. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá chính sách xã hội thời kỳ trước đổi mới và nhu cầu đổi mới tư
duy lý luận về giải quyết các vấn đề xã hội, quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng về chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới, bài viết trình bày một
số kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm
đổi mới như: Nhận thức đầy đủ vai trò của chính sách xã hội đối với nhu cầu
định hình giá trị xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới; xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa phát huy vai trò nòng cốt của Nhà nước và mở ra khả năng xã
hội hóa trong thực hiện các chính sách xã hội; giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Vấn đề giải quyết việc làm đã được tác giả Phạm Đức Kiên đề cập trong
bài viết Từ quan điểm, chủ trương đến kết quả giải quyết việc làm trong 25
năm thực hiện đường lối đổi mới” [77]. Tác giả khẳng định giải quyết việc làm
là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát
triển kinh tế nên cần được đặt trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế - xã
hội. Ngoài ra, tác giả còn nêu lên một số kết quả đạt được trong việc gắn phát
triển kinh tế với giải quyết việc làm. Từ thực trạng đó, tác giả bài viết nêu lên
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết việc làm ở nước ta
trong thời gian tới.
Nhằm đánh giá kết quả thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới,
tác giả Đinh Xuân Lý với cuốn sách Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực
hiện chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986 - 2011) [84] đã phân tích
cơ sở hình thành chủ trương, chính sách xã hội của Đảng ta trong 25 năm đổi
mới và kết quả quá trình thực hiện chính sách xã hội về lao động và việc làm,
xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, ưu đãi người có công với cách mạng, bảo
trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, cuốn sách bước đầu đánh
giá sự lãnh đạo và nêu một số kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng đối
với lĩnh vực xã hội ở nước ta. Bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải nhận
16
thức đúng vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong tổng thể đường lối của
Đảng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; cần quán triệt quan điểm về sự
thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội; cần thường xuyên
nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Thơm trong bài viết Xóa đói giảm nghèo bằng chính
sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo [138] đã khẳng định
xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong quá
trình đổi mới và thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Để thực hiện chủ trương
này, Đảng và Nhà nước đã đề ra một hệ thống chính sách, trong đó có nhóm
chính sách về hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ nghèo, vùng nghèo. Bài viết
cũng trình này những kết quả đạt được trong công tác xóa đói, giảm nghèo
bằng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo của Đảng
và Nhà nước ta trong những năm gần đây và đề ra một số khuyến nghị đối với
những tồn tại về vấn đề này.
Cuốn sách Chính sách xóa đói giảm nghèo. Thực trạng và giải pháp [85],
tác giả Lê Quốc Lý đưa ra một số vấn đề lý luận về xóa đói, giảm nghèo;
những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xóa đói,
giảm nghèo; thực trạng đói nghèo ở Việt Nam; một số cơ chế nhằm thực hiện
có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam và giải pháp xóa đói,
giảm nghèo ở Việt Nam thời gian tới. Đặc biệt, cuốn sách còn nêu lên những
chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước về xóa đói, giảm
nghèo thời kỳ đổi mới đất nước.
Luận giải Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay
[17], tác giả Mai Ngọc Cường (Chủ biên) giới thiệu một cách khái quát về đặc
điểm, mục tiêu, nguyên tắc và quá trình thực hiện chính sách xã hội, cũng như
hệ thống các chính sách xã hội phổ biến ở các nước và những nội dung có khả
năng vận dụng để xây dựng ở nước ta. Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập đến
những thành tựu đạt được và những hạn chế, vướng mắc của chính sách xã hội
dưới góc độ các lĩnh vực về thu nhập, giảm nghèo và an sinh xã hội; chính sách
17
việc làm; chính sách cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, cung ứng các dịch vụ
xã hội cá nhân; chính sách đối với người có công; chính sách bình đẳng giới.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những giải pháp và một số khuyến nghị về xây
dựng hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam những năm tới.
Trong bài viết An sinh xã hội cho nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [73], tác giả Đông Thị Hồng luận giải về vai
trò của an sinh xã hội với nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực trạng chính sách an sinh xã hội cho
nông dân trong những năm qua và đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường an
sinh xã hội cho nông dân giai đoạn hiện nay.
Bài viết An sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta hiện nay: chính
sách và thực tiễn [145], tác giả Nguyễn Đình Tuấn và Phạm Thị Tính đã phân
tích một số chính sách và thực tiễn về an sinh xã hội cho người cao tuổi ở
nước ta hiện nay nhằm làm rõ hơn các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi, cũng
như phân tích thực trạng an sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta hiện nay.
Qua bài viết Công tác xóa đói giảm nghèo tại vùng miền núi Đông Bắc
Việt Nam giai đoạn 2001-2010 [141], tác giả Hoàng Thu Thủy đã có những
đánh giá về quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo tại các tỉnh miền
núi Đông Bắc Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 và đưa ra một số bài học kinh
nghiệm trong công tác xóa đói giảm nghèo đối với vùng này.
Bài viết Một năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020: Cơ hội và thách thức [25] của Nguyễn
Trọng Đàm khái quát về những thành tựu và hạn chế thực hiện chính sách xã
hội. Trong đó, bài viết chia chính sách xã hội thành hai nhóm: chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng và chính sách an sinh xã hội. Bài viết cũng
chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với nước ta khi thực hiện chính sách xã
hội trong những năm tiếp theo.
18
Trong cuốn Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã
hội [132] của tác giả Ngô Ngọc Thắng, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên), đã
trình bày một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội như lý
thuyết về di dân; lý thuyết về hệ thống và lý thuyết cấu trúc - chức năng; lý
thuyết về vốn phi tài chính; lý thuyết về xã hội dân sự; lý thuyết về rủi ro xã hội
và quản trị rủi ro xã hội; lý thuyết về an sinh xã hội và những vận dụng cho
việc xây dựng sàn an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Khẳng định chính sách an sinh xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc duy trì sự ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa, tác
giả Nguyễn Văn Chiều với cuốn sách Chính sách an sinh xã hội và vai trò của
Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam [9] đã
trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách
an sinh xã hội; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã
hội; kinh nghiệm thực hiện chính sách an sinh xã hội của một số nước trên thế
giới và thực trạng chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong gần 30 năm thực
hiện đường lối đổi mới đất nước; đề xuất phương hướng và những giải pháp
nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam hiện nay. Cuốn sách là tài liệu tham khảo về giải pháp kiện toàn bộ
máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc thực hiện chính sách xã hội.
Ngô Ngọc Thắng trong bài viết Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh
tái cấu trúc mô hình tăng trưởng [131] khẳng định chính sách an sinh xã hội là
một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong chiến lược phát triển
kinh tế và xã hội của đất nước. Do vậy, việc xây dựng và tổ chức việc thực hiện
các chính sách an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính
trị - xã hội, hướng đến sự phát triển bền vững, lâu dài.
Trong bài viết Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính
sách với người có công [119], tác giả Nguyễn Trọng Phúc trình bày nội dung
quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có công với nước. Thực
hiện Di chúc của Người, Đảng, Nhà nước và đồng bào cả nước đã chăm lo ưu
19
đãi người có công với tất cả sự quý trọng, lòng biết ơn sâu sắc. Để thực hiện
chính sách với người có công, Đảng và Nhà nước đã phát huy vai trò của hệ
thống chính trị, huy động nguồn lực của toàn dân, toàn xã hội. Việc thực hiện
chính sách với người có công phải được đặt trong tổng thể các chính sách xã
hội, giải quyết các vấn đề xã hội và chú trọng phát triển kinh tế, tạo cơ sở vững
chắc cho thực hiện chính sách xã hội và chính sách đối với người có công.
Nghiên cứu sự vận dụng, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có các bài viết Tư
tưởng Hồ Chí Minh với y học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước của
Hoàng Đình Cầu, Một số vấn đề xây dựng ngành y tế theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của Phạm Hồng Chương, Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây
dựng và phát triển nền y tế Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước của Phạm Duy Đức, Xã hội hóa y tế ở nước ta sau gần 30 năm
nhìn lại của Đào Văn Phương, Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng hệ thống
khám, chữa bệnh để nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, chăm sóc
sức khỏe nhân dân của Nguyễn Thị Kim Tiến [20]. Nội dung các bài viết luận
giải về sự cần thiết phải thực hiện chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân
dân thông qua công tác xây dựng và phát triển ngành y tế Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Luận giải về tính tất yếu phải Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công
bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới [127], tác giả Nguyễn Hồng Sơn khẳng định
tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội có giá trị khoa học và nhân bản sâu
sắc, là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ về công bằng xã hội,
dưới ánh sáng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
những giá trị căn cốt của truyền thống văn hóa, đạo lý dân tộc, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn, là cơ sở, kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của toàn
Đảng và toàn dân ta trong công cuộc xây dựng xã hội mới, công bằng, dân chủ,
văn minh. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội, qua tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có
20
nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về công bằng xã hội và đạt được nhiều thành
tựu nhất định. Ngoài ra, bài viết cũng chỉ ra một số hạn chế trong việc thực
hiện công bằng xã hội và đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy
thành tựu đạt, khắc phục hạn chế thực hiện công bằng xã hội ở nước ta thời
gian tới.
Qua bài viết Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí
Minh [116], tác giả Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh khẳng định trong quá trình
đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội như là một trong những giải pháp quan trọng để giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bàn về chính sách an sinh xã hội, trong cuốn sách Chính sách an sinh xã
hội. Thực trạng và giải pháp [86] do tác giả Lê Quốc Lý (Chủ biên) tập trung
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính sách an
sinh xã hội; những trở ngại trong thực thi các chính sách an sinh xã hội ở nước
ta những năm gần đây qua đánh giá của nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ
hưởng chính sách; mục tiêu, quan điểm và giải pháp thực thi hiệu quả chính
sách an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020. Trong đó, cuốn sách có làm rõ
giải pháp về đổi mới tư duy, tăng cường nghiên cứu lý luận về an sinh xã hội;
về nâng cao nhận thức, kỹ năng, đạo đức của cán bộ thực thi chính sách an sinh
xã hội.
Tiếp tục bàn về chính sách an sinh xã hội, tác giả Phạm Xuân Nam làm rõ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
[107]. Thông qua bài viết, tác giả cũng đưa ra một số nội dung của hệ thống an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong các quốc gia phát triển và đang phát triển
trên thế giới. Theo đó, cần chủ động “phòng ngừa rủi ro” cho tuyệt đại đa số
người dân trong xã hội; “giảm thiểu rủi ro” cho những đối tượng có liên quan
cần được xem xét kỹ và giải quyết chu đáo về cả hai phương diện xã hội và tự
nhiên; lập ra quỹ “khắc phục rủi ro” cho những người không có khả năng lao
21
động; bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đòi hỏi phải có một nền kinh tế
tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững, cũng như có một nền văn hóa
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ.
Qua bài viết Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người với tư
cách là đối tượng phục vụ của chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới [117],
tác giả Trần Văn Phòng và Nguyễn Thị Hoàng đã chỉ ra sự phát triển về chất
trong quá trình đổi mới nhận thức về con người trong chính sách xã hội của
Đảng, Nhà nước ta. Bài viết phân tích trước đổi mới, chúng ta chỉ mới khẳng
định con người là chủ thể thực thi chính sách xã hội, nhưng ttong thời kỳ đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta không chỉ coi con người là chủ thể thực thi chính
sách xã hội mà còn là đối tượng phục vụ của chính sách xã hội.
Nguyễn Mai Phương với bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về an
sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay [121] đi sâu phân tích, luận giải an sinh xã hội
chính là lưới an toàn xã hội với nhiều tầng, nấc khác nhau để bảo vệ, trợ giúp
các thành viên trong xã hội trước những rủi ro trong cuộc sống, các cú sốc về
kinh tế - xã hội làm cho họ mất đi nguồn sinh kế rơi vào cảnh nghèo khổ, bần
cùng hóa. Việc trợ giúp được thực hiện thông qua các chính sách thuộc hệ
thống an sinh xã hội như: xóa đói, giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
trợ giúp xã hội và ưu đãi xã hội. Do vậy, thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội
được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Khẳng định chính sách an sinh xã hội giữ vai trò quan trọng trong giải
quyết các vấn đề xã hội, tác giả Nguyễn Văn Chiều tiếp cận bài viết Một số vấn
đề về quyền an sinh xã hội [10] nhằm khẳng định quyền an sinh xã hội trong
nhà nước pháp quyền là một trong những vấn đề quan trọng. Mức độ xác lập và
thực hiện quyền an sinh xã hội phản ánh mức độ giải phóng con người của các
nhà nước trong lịch sử. Hiện nay, quyền an sinh xã hội là kết quả của sự liên
kết có tính toàn cầu và được quốc tế hóa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và xác lập những biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo
22
quyền an sinh xã hội cho công dân. Để quyền này ngày càng được mở rộng thì
yêu cầu đặt ra cho Nhà nước là phải từng bước quốc tế hóa, đổi mới tư duy,
hoàn thiện hệ thống và quy trình xây dựng pháp luật về an sinh xã hội.
Tác giả Nguyễn Mai Phương trong bài viết Chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội từ Đại hội XI đến Đại hội XII [122]
đã khẳng định Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến đời sống của người
dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách, tầng lớp người nghèo, yếu thế
trong xã hội. Trong đó, tập trung giải quyết vấn đề xóa đói, giảm nghèo;
chăm lo, quan tâm đối với gia đình có công; giải quyết việc làm; phát triển
và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm tai nạn giao thông.
Trong cuốn sách 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam [75] đã trình bày
thực trạng việc thực hiện chính sách lao động và việc làm, chính sách chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi người
có công, chính sách an sinh xã hội trong quản lý phát triển xã hội. Những thành tựu
nêu trên có nhiều nguyên nhân: Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là đúng đắn, hợp lòng dân. Đã động
viên khai thác các nguồn lực trong nhân dân cùng với Nhà nước và sự hỗ trợ
của nhiều tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội. Những hạn chế nêu
trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ
quan là chính. Là một nước nông nghiệp vốn nghèo nàn, lạc hậu, thường
xuyên bị thiên tai, chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu toàn cầu lại trải
qua hơn 30 năm chiến tranh để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, cho nên các
vấn đề xã hội phải tốn nhiều nguồn lực và thời gian để khắc phục. Xu hưởng
già hóa dân số nhanh hơn dự kiến đặt ra những thách thức về chi phí liên
quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và chính sách an sinh xã hội, bảo
hiểm xã hội. Nhận thức của nhiều cấp ủy đảng và chính quyền về các vấn đề
xã hội, chính sách xã hội chưa đầy đủ và sâu sắc; có nơi còn coi nhẹ mô hình
23
và phương thức quản lý xã hội, chưa có sự gắn kết giữa chính sách phát triển
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội chậm đổi mới so
với chính sách kinh tế. Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo. Các
chính sách giảm nghèo còn thiết kế theo hướng cào bằng, bao cấp, tạo tâm lý
trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước, chưa khuyến khích người dân tự
vươn lên. Còn thiếu những giải pháp hữu hiệu để thu hẹp khoảng cách về
mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền. Việc tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương chưa chặt chẽ; phân công trách nhiệm không rõ; thiếu thể
chế và thiết chế để tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất. Công tác
thanh tra ở nhiều nơi chưa được coi trọng. Nhu cầu nguồn lực để giải quyết
các vấn đề xã hội rất lớn nhưng khả năng đáp ứng thực tế của đất nước, còn
rất hạn hẹp, lại sử dụng chưa hiệu quả, còn phân tán, lãng phí, thậm chí tiêu
cực; chưa động viên, thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội và khuyến
khích người thụ hưởng chính sách tự vươn lên. Nguồn lực thực hiện các
chính sách xã hội chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, mức hỗ trợ còn thấp,
sử dụng nguồn lực còn manh mún, dàn trải. Chưa huy động được sự tham gia
mạnh mẽ của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội; nguồn lực từ
cộng đồng chủ yếu là tự phát và chưa được quản lý chặt chẽ.
Nghiên cứu chính sách đối với người có công với cách mạng, tác giả
Nguyễn Đình Liêu trong cuốn cách Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu
đãi người có công [82] và tác giả Lê Văn Hân trong bài viết Chính sách đối với
thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng của Đảng, Nhà nước ta
hiện nay [58] đều khẳng định chính sách đối với người có công với nước và sự
cần thiết phải hoàn thiện pháp luật ưu đãi đối với người có công thể hiện truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của Đảng và Nhà
nước ta. Qua đó, các tác giả đã phân tích những chủ trương, chính sách về công
tác thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng để bày tỏ lòng biết ơn sâu
24
sắc đối với sự hy sinh, cống hiến của các liệt sĩ, thương binh, người có công
trong sự nghiệp giải phóng đất nước trước đây cũng như xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay.
Cuốn sách Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới [118] đã trình bày những vấn
đề cơ bản nhất của quá trình đổi mới và phát triển ở nước ta trên các lĩnh vực chính trị
và xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại. Đặc biệt, trên lĩnh vực xã hội, cuốn sách đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn
xây dựng hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta; thực trạng hệ thống an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội về vấn đề tạo việc làm, tạo thu nhập và tham gia thị
trường lao động, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã
hội; những nhân tố ảnh hưởng tới hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội như dân
số giáo dục khoa học và công nghệ, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị
hóa, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; một số giải pháp, định hướng hoàn
thiện chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Khi luận giải một số giải pháp,
định hướng hoàn thiện chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cuốn sách tập
trung làm rõ sự cần thiết phải đổi mới tư duy về hoạch định chính sách an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân những tri thức hiện đại về quyền con người và nhân tố con người đối với
sự phát triển bền vững của xã hội; bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực của chính sách trợ
giúp người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn để họ thoát khỏi tình trạng nghèo
triền miên, không có cơ hội phát triển; xây dựng chương trình an sinh con người
thông qua hệ thống chính sách an toàn xã hội; đẩy mạnh các hoạt động tài chính để
thực hiện chính sách an sinh xã hội trong các cộng đồng khó khăn, thực hiện bảo
hiểm và nâng cao năng lực tự an sinh; phát triển công tác xã hội để triển khai các
chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, an toàn xã hội tới từng địa bàn dân cư; tập
trung nguồn lực cho phúc lợi xã hội để giảm nghèo đa chiều cho người lao động, đưa
nhanh những hộ gia đình nghèo đạt tới chuẩn cận nghèo và trung lưu hóa đội ngũ lao
25
động tri thức; phát huy sức mạnh của các tổ chức xã hội trong công tác an sinh xã
hội; đẩy mạnh tiến độ xây dựng xã hội học tập, thực hiện việc học tập suốt đời để
nâng cao năng lực tự an sinh cho người lao động.
Tác giả Lương Thị Hồng trong bài viết Nhìn lại 30 năm thực hiện công
tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân (1986 - 2016) [74], đã
trình bày quan điểm đổi mới của Đảng về xóa đói, giảm nghèo và khái quát
những thành tựu cơ bản và thách thức về thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở
Việt Nam nhìn lại sau 30 đổi mới đất nước. Tác giả cho rằng, công cuộc đổi
mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Trong
đó, Việt Nam đã và đang được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong 18
quốc gia có thành tích xóa đói, giảm nghèo tốt nhất thế giới và là một trong số
ít những quốc gia đạt 5/8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Chính đường lối
đúng đắn, được sự đồng thuận và ủng hộ của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội,
công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất
đáng tự hào.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo cho luận án
tiếp cận khái niệm và nội dung chính sách xã hội, an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội; một số quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về giải
quyết các vấn đề xã hội thời kỳ đổi mới; thực trạng chính sách xã hội và một
số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới đất
nước. Nghiên cứu một số chính sách xã hội về lao động và việc làm; xóa đói,
giảm nghèo; đối với người có công với cách mạng cũng cung cấp tài liệu
tham khảo cho luận án. Ngoài ra, luận án còn tham khảo các công trình nghiên
cứu nêu trên về nội dung thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, có thể rút ra
những đánh giá chung như sau:
26
1.2.1. Những kết quả nghiên cứu đạt được liên quan đến luận án
Thứ nhất, các công trình, bài viết của các tác giả đã đưa ra khái niệm, bản
chất của chính sách xã hội. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu trên cũng đã
phân tích, đánh giá về thực trạng thực hiện chính sách xã hội được thể hiện trên
một số lĩnh vực xã hội cụ thể và đi đến khẳng định những luận cứ, giải pháp
cho đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách xã hội trong sự nghiệp
đổi mới đất nước. Ngoài ra, một số nghiên cứu còn đi sâu phân tích về chính
sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Từ việc phân tích về sự cần thiết phải thiết lập mạng
lưới an sinh xã hội, các tác giả khẳng định giữa chính sách an sinh xã hội và
chính sách xã hội có mối quan hệ hữu cơ, không thể tách rời, chính sách an
sinh xã hội là một bộ phận của chính sách xã hội trong việc giải quyết những
vấn đề xã hội bức xúc liên quan đến con người trong sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, luận giải một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội như là luận cứ khoa học cho việc hoạch định, thực hiện và đổi mới
chính sách xã hội ở nước ta. Các tác giả đã phân tích sâu sắc về mối quan hệ
giữa chính sách xã hội và con người; vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong
việc phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển. Ngoài ra, các tác giả còn đi sâu phân tích tư duy biện chứng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi giải quyết mối quan hệ giữa chính sách xã hội
phải gắn với chính sách kinh tế và văn hóa, gắn với quản lý xã hội và hướng
đến công bằng xã hội. Từ đó, các tác giả khẳng định tầm vóc lớn lao, giá trị to
lớn tư tưởng Hồ Chí Minh đặt nền móng cho việc xây dựng chính sách xã hội
vì mục tiêu quản lý phát triển xã hội.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp quan trọng
khi khẳng định tính nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về một số chính sách xã hội cụ thể trong việc giải quyết
27
các vấn đề xã hội bức bách cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đóng góp
vào việc nghiên cứu sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới, một số tác giả bước đầu làm rõ giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người, về chính sách xã hội để Đảng, Nhà nước ta
xây dựng chính sách xã hội giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, các tác giả
nghiên cứu đã phân tích thực trạng thực hiện chính sách xã hội nói chung,
chính sách trên một số lĩnh vực xã hội cụ thể nói riêng và đưa ra một số nhóm
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách xã hội thời kỳ đổi mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Qua phân tích trên cho thấy, những công trình nghiên cứu đạt được những
kết quả liên quan và làm tài liệu tham khảo cho luận án. Nhưng do mục đích
nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau nên các tác giả nghiên cứu nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội ở những khía cạnh khác nhau, vì thế,
chưa luận giải, khái quát một cách đầy đủ, toàn diện nội dung và giá trị nhân
văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên cứu nêu trên tuy đi sâu
phân tích, khảo sát thực trạng thực hiện chính sách xã hội và có đề ra một số
giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém còn tồn tại, nhưng chưa có tác giả,
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ chuyên ngành
Hồ Chí Minh học về vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã
hội giai đoạn hiện nay. Đây là một trong những khoảng trống cần được bổ sung
nhằm góp phần nghiên cứu về thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới toàn
diện, đồng bộ ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, những vấn đề
luận án cần tiếp tục nghiên cứu:
- Một là, hệ thống hóa và phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội. Đây là nội dung quan trọng cung cấp cơ sở lý luận để nghiên
cứu về chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đất nước.
- Hai là, từ sự phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội, luận án chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế
28
trong việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới, nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế.
- Ba là, luận án đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách xã hội nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chính sách xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì sự ổn
định và phát triển bền vững kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Qua tổng quan
tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án cho thấy:
Ở nhóm nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội, đã luận
giải một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội như là
luận cứ khoa học cho việc hoạch định, thực thi và đổi mới chính sách xã hội ở
nước ta.
Ở nhóm nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã
hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, các công trình đã nghiên cứu chính sách xã hội
của Đảng, Nhà nước và việc thực hiện chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi
mới; nghiên cứu những giải pháp đổi mới chính sách xã hội trong quản lý và
phát triển xã hội; nghiên cứu chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; nghiên
cứu một số chính sách xã hội cụ thể về xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,
chăm sóc sức khỏe nhân dân và chính sách đối với người có công với nước.
Kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan là nguồn tư liệu tham
khảo để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, từ tổng
quan tình hình nghiên cứu cũng đặt ra những vấn đề luận án cần tiếp tục giải
quyết như trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội; phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Thông qua đó, đề xuất một số giải
pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.
29
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
2.1. KHÁI NIỆM CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Chính sách xã hội luôn gắn với sự phát triển của các thể chế chính trị nhất
định và là vấn đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Ở Việt
Nam, những vấn đề liên quan đến chính sách xã hội đã được nêu trong các văn
bản pháp quy, trong các bài viết, các công trình nghiên cứu, nhưng vẫn chưa
đưa ra một khái niệm thống nhất về chính sách xã hội.
Để có cách hiểu đúng đắn và khoa học hơn về khái niệm chính sách xã
hội, trước hết cần làm rõ khái niệm xã hội - một khái niệm được dùng rất
nhiều nhưng lại được hiểu một cách chưa thống nhất. Thuật ngữ xã hội được
hiểu ở hai mức độ khác nhau. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ xã hội được hiểu là
tổng hòa tất cả những quan hệ giữa các cá nhân tạo nên cộng đồng xã hội và
nhằm phân biệt với giới tự nhiên. Xã hội bao gồm đời sống xã hội với bốn
lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; tổ chức thiết chế quản
lý mà trụ cột là nhà nước; chế độ xã hội với vai trò của ý thức hệ và lực lượng
lãnh đạo xã hội.
Theo nghĩa hẹp, xã hội là phương diện xã hội của đời sống xã hội, hoạt
động sống của con người trong một quốc gia, một chế độ xã hội nhất định. Nó
là mặt xã hội của đời sống và được sử dụng để phân biệt với khía cạnh kinh tế,
chính trị, văn hóa. Mặt xã hội là một tập hợp lớn, một hệ thống các vấn đề xã
hội trong phát triển, liên quan trực tiếp đến đời sống của con người như lao
động và việc làm, mức sống, tình trạng đói nghèo, dân số, sức khỏe và y tế
cộng đồng, nhà ở, giáo dục, vệ sinh môi trường,… là tất cả những vấn đề của
đời sống cá nhân và cộng đồng, có tính chất và hệ quả xã hội mà xã hội và nhà
nước phải giải quyết bằng chính sách. Đó là hệ thống chính sách xã hội và hệ
thống chính sách an sinh xã hội [6, tr.29-30].
Bên cạnh việc làm rõ khái niệm xã hội cũng cần hiểu về khái niệm chính
sách. Chính sách là những quy định, quyết định được thể chế hóa bởi các cơ
30
quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của con người, giải quyết những vấn đề xã hội nhằm thực hiện
những mục tiêu đã được xác định.
Vận dụng quan niệm về chính sách vào lĩnh vực xã hội, chính sách xã hội
là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội của con người,
giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra và thực hiện bình đẳng, công bằng,
tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người. Với cách tiếp cận này, chính sách
xã hội được các cơ quan có thẩm quyền sử dụng nhằm điều chỉnh những quan
hệ xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội để tạo ra động lực phát triển xã hội,
phát triển con người. Chính sách xã hội là biện pháp, là công cụ của các nhà
lãnh đạo, quản lý góp phần làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng xã hội, thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đảm bảo an sinh xã hội [65, tr.177].
Nhà xã hội học V.Z.Rôgôvin cho rằng: Với tính cách là một môn khoa
học, chính sách xã hội là một lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên cứu hệ thống
về các quá trình xã hội quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội,
xét về khả năng tác động quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ cơ sở để xem
xét chính sách xã hội như là sự hòa quyện của khoa học và thực tiễn, như là sự
phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận dụng
thực hiện những tri thức thu nhận được nhằm mục đích quản lý các quá trình và
các quan hệ ấy [124, tr.10-11].
Theo Nguyễn Thiện Nhân: Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của
Đảng và Nhà nước để thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được
đặt ra đối với con người (con người ở đây xét theo góc độ con người xã hội, chứ
không phải con người kinh tế hay con người kỹ thuật) để thỏa mãn hoặc phần
nào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các
đối tượng khác nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời
kỳ nhất định, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội [133, tr.65-66].
Nhà nghiên cứu Bùi Đình Thanh cho rằng: Chính sách xã hội là cụ thể
hóa và thể chế hóa bằng pháp luật những đường lối, chủ trương, những biện
31
pháp để giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của
chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất chế độ xã hội - chính trị, phản ánh lợi
ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội
nói riêng nhằm mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng
về đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân [133, tr.23].
Theo Mai Ngọc Cường: Chính sách xã hội là tổng thể các hệ thống quan
điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp được thể chế hóa bằng pháp luật
của Nhà nước để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra trong một thời gian và
không gian nhất định, nhằm tăng cường phúc lợi, bảo đảm công bằng xã hội và
tạo cơ hội cho người dân hòa nhập vào sự phát triển của xã hội [17, tr.18].
Từ điển Bách khoa Việt Nam nêu quan điểm về chính sách xã hội: Chính
sách xã hội - Một bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính Đảng hay
chính quyền nhà nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội, chính
sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và
sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ
xã hội. Một trong những đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội là sự thống
nhất biện chứng của nó với chính sách kinh tế… Chính sách xã hội phải đạt
mục đích đem lại đời sống tốt đẹp cho con người, mang lại sự công bằng, dân
chủ cho mỗi con người [143, tr.478].
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không đưa ra khái niệm về chính
sách xã hội nhưng trong nội hàm tư tưởng của Người đã thể hiện rõ quan điểm
về chính sách xã hội. Theo đó, Người cho rằng, với tư cách là chủ thể lãnh đạo,
quản lý xã hội, Đảng và Nhà nước ta cần thông qua hệ thống chính sách để giải
quyết các vấn đề xã hội liên quan đến con người, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân. Bàn về yêu cầu thực hiện chính sách
xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định về sự cần thiết phải gắn chính sách xã
hội với quản lý xã hội, với chính sách kinh tế, văn hóa và phải hướng đến công
bằng xã hội.
32
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay, để giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức bách nhằm phát huy nhân tố con
người, cần xác định rõ nội hàm khái niệm tư tưởng của Người về chính sách xã
hội. Theo đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là hệ thống quan
điểm về đối tượng và nội dung của chính sách xã hội, lực lượng và yêu cầu
thực hiện chính sách xã hội, nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho con người, cho nhân dân.
Từ những phân tích trên, có thể nêu khái quát về khái niệm chính sách xã
hội như sau: Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành chính sách chung của
một chính Đảng hay chính quyền nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và
giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra trong không gian, thời gian nhất định,
nhằm mục đích cao nhất để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu
cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các đối tượng khác nhau,
trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời kỳ nhất định, nhằm
đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội đảm bảo sự ổn định, phát triển xã
hội, đảm bảo an sinh xã hội, tạo ra động lực phát triển xã hội, phát triển con
người. Chính sách xã hội có mối quan hệ với các chính sách khác, nhưng đặc
điểm cơ bản là sự thống nhất của nó với chính sách kinh tế nhằm mang lại sự
công bằng, tiến bộ và dân chủ cho con người.
Từ khái niệm chính sách xã hội như trên, có thể khái quát các yếu tố cơ
bản hợp thành chính sách xã hội như sau:
- Chủ thể đề ra chính sách xã hội: Tổ chức chính trị lãnh đạo, quản lý
xã hội.
- Nội dung của chính sách xã hội: Bao gồm hệ thống chính sách khác
nhau về giải quyết các vấn đề xã hội bức bách của con người nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội nhất định.
- Mục đích của chính sách xã hội: Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho con người, đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội, phát triển con người.
33
- Đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội: Thống nhất với chính sách kinh
tế và hướng đến công bằng, tiến bộ và dân chủ xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội cũng cần làm rõ khái niệm hiệu
quả thực hiện chính sách xã hội. Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội là quá
trình Nhà nước ta hiện thực hóa hệ thống chính sách vào cuộc sống trên cơ sở
phản ánh đúng thực tiễn vận động của đất nước và thời đại, nhằm giải quyết tốt
các vấn đề xã hội bức bách để góp phần làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng
xã hội. Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội nghĩa là đời sống vật chất và tinh
thần của con người phải không ngừng được nâng cao trên thực tế, góp phần
phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế mang tính bền
vững và phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng, công bằng, tiến bộ
và dân chủ xã hội. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước ta phải thường xuyên tổng kết
lý luận và thực tiễn bằng việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, trong đó có tư
tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.
2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
2.2.1. Mục đích, đối tượng của chính sách xã hội
Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc giành độc lập
cho Tổ quốc để đi tới một xã hội dân chủ, tự do, hạnh phúc, giàu mạnh là
hướng đi tất yếu của xã hội Việt Nam. Con đường phát triển đó xuất phát từ
thực tế Việt Nam gắn với xu thế của thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân
dân, thể hiện được triển vọng phát triển xã hội. Bản chất của chủ nghĩa xã hội
là nhân văn, nhân đạo thể hiện lý tưởng cao đẹp về giải phóng triệt để con
người và tạo ra sức mạnh nội sinh, động lực to lớn thúc đẩy xã hội đi lên phù
hợp với lý tưởng chân chính của dân tộc Việt Nam.
* Mục đích của chính sách xã hội
Thực chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và
toàn diện mọi nhu cầu chính đáng có tính chất nhân văn của con người. Tự do,
34
hạnh phúc của mọi người là cốt lõi của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa và
cũng là nội dung mang tính cốt lõi trong quan niệm phát triển xã hội của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Chính vì tự do, hạnh phúc của con người mà Người luôn
đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội chỉ có giá trị thật sự khi mang lại tự do, hạnh phúc cho con người.
Đối với Việt Nam, quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa là
bước tiến mới trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc. Quá trình cải tạo và
xây dựng xã hội mới thực sự là một cuộc cách mạng về mọi mặt của đời sống
xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, khắc phục khuyết tật do chế độ cũ để lại, giải quyết những vấn đề
mới nảy sinh. Để giải quyết các vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ
bản là đề ra chính sách xã hội.
Chính sách xã hội luôn gắn liền với chế độ chính trị - xã hội nhất định.
Mỗi chế độ chính trị - xã hội sẽ quyết định bản chất của chính sách xã hội.
Chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa khác về bản chất so với chính sách xã hội
trong xã hội do các giai cấp bóc lột thống trị. Dưới chế độ dân chủ mới - dân
chủ xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con
người. Mục tiêu ấy không những định hướng cho chính sách xã hội mà còn
định hướng cho các chính sách khác. Ngược lại, thông qua việc hoạch định và
thực thi hệ thống các chính sách, trong đó có chính sách xã hội, thể hiện được
bản chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây
dựng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:
Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng
sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động
được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa
bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh
thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội [101, tr.438].
35
Quan điểm trên đây đã định hướng cho mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, một chủ nghĩa xã hội như vậy, đầy sức hấp dẫn đối với
nhân dân Việt Nam, ai cũng muốn phấn đấu cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội. Tựu trung lại, trục xuyên suốt trong quan niệm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội là một xã hội “dân giàu, nước mạnh”, dân và nước là hai mặt thống nhất,
trong đó, dân là gốc nước, dân có giàu thì nước mới mạnh và nước mạnh thì
dân giàu. Mối quan hệ thống nhất giữa dân và nước đặt trong mối quan hệ
thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo nghĩa đó, “nếu nước
được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì” [92, tr.64]. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay việc làm cho dân
có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Sau khi giành được chính quyền, thiết lập nhà nước do nhân dân lao động
làm chủ và là chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách từng bước xóa bỏ tình trạng người áp
bức bóc lột người, giải phóng sức sản xuất, phát triển sản xuất, từng bước xóa
bỏ nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân lao
động. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội là xã hội vì con người, tất cả vì hạnh phúc con
người thông qua việc điều tiết và làm lành mạnh các quan hệ xã hội để hình
thành một cơ cấu xã hội phù hợp, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế,
hoàn thiện các quan hệ xã hội và bản chất xã hội của con người. Vì vậy, chính
sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội quan tâm đến con người một cách toàn diện
nhằm phát huy nhân tố con người, để đến lượt nó, con người với tư cách là chủ
thể, là động lực sáng tạo nên mọi tiến bộ và phát triển xã hội.
Mục đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất, nhằm phát huy nhân tố con người
trong quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Con người ở đây
với tư cách là người lao động được giải phóng không chỉ là động lực của chủ
nghĩa xã hội, mà còn là mục tiêu của chính sách xã hội. Cần lưu ý rằng, mỗi
chế độ chính trị - xã hội, mỗi giai cấp có quan điểm giải quyết các vấn đề xã
hội khác nhau, nên chính sách xã hội cũng khác nhau. Tính giai cấp của chính
36
sách xã hội đại diện cho nguyện vọng, ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị xã
hội. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, không ít người đã mô tả một cách thái quá
sự giàu có về vật chất, cường điệu về sự quan tâm đầy đủ của giai cấp tư sản
đối với con người. Tính giai cấp của chính sách xã hội tư bản chủ nghĩa là
nhằm duy trì ách thống trị của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng chính
sách xã hội làm công cụ mị dân, làm “cái van bảo hiểm” làm giảm áp lực của
cuộc đấu tranh giai cấp, phục vụ lợi ích và quyền lợi của giai cấp tư sản. Vì thế,
chính sách xã hội dưới chủ nghĩa tư bản phát triển tới mức độ nào đó, hình thức
biểu hiện có đa dạng, phong phú đến đâu thì bản chất vì lợi nhuận tối đa cho
giai cấp tư sản và mức sống tối thiểu cho người lao động vẫn không thay đổi
[114, tr.68-69].
* Đối tượng của chính sách xã hội
Dưới chế độ dân chủ mới ở Việt Nam, đứng trên lập trường giai cấp công
nhân, mục đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ vì
lợi ích của giai cấp công nhân, mà cả lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể
dân tộc Việt Nam. Chính sách xã hội nhằm giải quyết tốt nhu cầu, lợi ích của
các giai cấp, tầng lớp và đông đảo quần chúng nhân dân. Không có gì khó khăn
khi nêu khẩu hiệu “vì hạnh phúc nhân dân”, “vì hạnh phúc con người” cho bất
kỳ kế hoạch, chủ trương nào. Nhưng, vấn đề là ở chỗ lời nói phải đi đôi với
việc làm. Bằng chính đời sống và mức sống cụ thể của mình, nhân dân cảm
nhận trực tiếp và chính xác lời nói và việc làm của Đảng và Nhà nước có thật
vì lợi ích của họ hay không [129, tr.43].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa giai
cấp và dân tộc để không tách biệt một cách siêu hình các giai cấp, tầng lớp xã
hội cơ bản với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Giai cấp và quan hệ giữa các
giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan
tâm và chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Vị thế,
vai trò và mối quan hệ của các giai tầng trong xã hội đã được Người chỉ ra,
phân tích sâu sắc và trở thành nền tảng tư tưởng cho các chủ trương, chính sách
xã hội của Đảng, Nhà nước tác động vào các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã
37
hội đặc thù trong quá trình xây dựng xã hội mới. Trước lúc đi xa, trong Di
chúc, Người xác định rõ: “Đầu tiên là công việc đối với con người” - Đối tượng
của chính sách xã hội. Theo đó, Đảng và Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ, tạo
điều kiện để những người có công với cách mạng có công ăn, việc làm thích
hợp, quyết không để họ đói rét. Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực
lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong, Đảng và Chính phủ cần
chọn một số ưu tú nhất cho đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo họ
thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách
mạng vững chắc. Đối với phụ nữ, Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Đối với những nạn nhân của chế
độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v…, thì Nhà nước
phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên
những người lao động lương thiện. Đối với nông dân, Đảng và Chính phủ miễn
thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ
hả, mát dạ lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất [103, tr.616-617].
Như vậy, giữa mục đích và đối tượng của chính sách xã hội có mối quan
hệ hữu cơ với nhau, theo đó, mục đích của chính sách xã hội phải hướng đến
đối tượng của chính sách xã hội nhằm góp phần trợ giúp những con người,
những nhóm xã hội, đồng thời, đảm bảo mức sống cho một số nhóm đối tượng
yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro trong cuộc sống. Từ
đó cho thấy, chính sách xã hội là một trong những công cụ quản lý nhà nước, là
phương thức tổ chức hoạt động của đời sống xã hội. Chính sách xã hội không
chỉ giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến cuộc sống con người, làm cho
mỗi cá nhân trong cộng đồng người được khẳng định. Chính sách xã hội còn
góp phần điều hòa các mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, cống hiến và
hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ của từng cá nhân, tập thể, của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Do vậy, chính sách xã hội là công cụ để khai thác mọi
tiềm năng của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng để thúc đẩy sự phát
triển mọi mặt của xã hội. Chính sách xã hội như là đòn bẩy kích thích tính tích
38
cực lợi ích cá nhân, chuyển lợi ích cá nhân riêng lẻ thành động lực trực tiếp của
sự phát triển kinh tế xã hội và tác động, tạo điều kiện để xây dựng các mối
quan hệ xã hội trên cơ sở công bằng, bình đẳng.
Tóm lại, quan điểm về mục đích, đối tượng và vai trò của chính sách xã
hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tư duy phát triển đầy tính sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng xã hội mới ở Việt Nam, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thân cho con người, điều tiết và làm
lành mạnh các mối quan hệ xã hội. Chỉ trên sở hoạch định và thực thi chính
sách xã hội lấy con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi sự phát
triển mới tạo nên sức hấp dẫn của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng và
góp phần tạo nên đường hướng, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động để Đảng và Nhà nước vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách xã hội
2.2.2.1. Chính sách lao động và việc làm
Con người trong xã hội thuộc nhiều tầng lớp, thứ hạng khác nhau, nhưng
bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành tình cảm, tâm hồn, lòng yêu thương
cho những người cùng khổ. Vì muốn giải phóng cho những người cùng khổ mà
Người đã hiến cả đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Dưới chế độ thực dân, lao động của người
dân, đặc biệt là công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề và rơi vào tình cảnh bần
cùng hóa. Do vậy, khi nước nhà giành được độc lập, Người luôn nhấn mạnh sự
cần thiết phải “làm sao cho nhân dân có công ăn việc làm” [98, tr.65] để nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lên. Muốn vậy, “chính quyền
và quân đội nhân dân phải bảo vệ cho nhân dân làm ăn yên ổn” [95, tr.487] và
“phải tuyên truyền rộng khắp các chính sách khuyến khích sản xuất” [98,
tr.213]. Ngoài ra, Người còn yêu cầu: “Phải ra sức khôi phục lại kinh tế: nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, vận tải” [97, tr.226] nhằm tạo ra công ăn
việc làm cho nhân dân lao động theo nguyên tắc “công và tư đều được chiếu
39
cố, chủ và thợ đều có lợi. Các bạn công nhân hăng hái sản xuất. Bà con công,
thương hăng hái kinh doanh” [97, tr.80].
Như vậy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, chính sách lao động và việc làm
giữ vị trí, vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống nhân dân và khẳng
định trách nhiệm của chủ thể quản lý xã hội đối với quá trình tạo ra công ăn
việc làm cho người dân khi tham gia vào đời sống mới. Ngược lại, với tư cách
là người chủ đất nước, người dân phải luôn nhớ rằng “lao động là một nghĩa vụ
thiêng liêng của mỗi người công dân đối với Tổ quốc. Ai cũng phải tuỳ khả
năng mình mà tự nguyện tự giác tham gia lao động, góp phần xây dựng nước
nhà” [98, tr.545]. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh, lao động là nghĩa
vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mọi người, mọi nhà khi
nó mang lại lợi ích cho nhân dân, cho xã hội. Do vậy, trong lao động sản xuất
cần gạt bỏ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa vì đây là nguồn gốc đẻ ra căn bệnh lười
biếng, tham ô, thích hưởng thụ. Người từng nói:
Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười
biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng
như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm trọn trách nhiệm thì đều vẻ vang như
nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, người đó mới
là kém vì không phải là người xã hội chủ nghĩa [101, tr.69].
Trong lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao quan điểm không
phân biệt ngành nghề, lao động chân tay hay lao động trí óc, thậm chí “người
lao động trí óc phải làm được lao động chân tay. Nếu lao động trí óc không làm
được lao động chân tay và lao động chân tay không có trí óc thì đó là người lao
động bán thân bất toại” [99, tr.400]. Do đó, cần phải xoá bỏ dần sự tách rời đó,
cần phải làm cho những người lao động trí óc và lao động chân tay đoàn kết
chặt chẽ với nhau, để cùng nhau xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Tuy nhiên,
Người cũng đưa ra quan điểm về sự cần thiết phải dùng hình thức kỷ luật lao
động nhằm nâng cao nhận thức lao động, nhất là cho người lao động chân tay
để khắc phục tình trạng vô kỷ luật trong lao động sản xuất và tạo ra sự công
40
bằng xã hội cho người tham gia lao động. Ngược lại, người tham gia lao động
phải tự giác giữ kỷ luật lao động, phải giữ gìn của công và thực hành tiết kiệm.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người nói chung, người lao động và
công nhân nói riêng là vốn quý nhất. Cho nên, trong sản xuất phải bảo đảm an
toàn lao động, bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho người lao động, vì “nếu để
xảy ra tai nạn là thiệt chung cho bản thân, gia đình, cho Đảng, Chính phủ và
nhân dân. Người bị nạn không đi làm được, gia đình sẽ gặp khó khăn, sức lao
động của nhân dân do vậy cũng kém sút” [100, tr.142]. Xuất phát từ bản chất
tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho nhân dân lao động, trong đó
có công nhân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và hạnh phúc, theo Người, Nhà nước, Công đoàn phải quan tâm
đến đời sống cá nhân, đến điều kiện sinh hoạt vật chất, “phải làm tốt công tác
bảo hộ lao động. Phải thật sự chăm nom nơi ăn, nhà ở của công nhân, viên
chức” [101, tr.434], “phải cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao đời sống
vật chất, văn hóa của giai cấp công nhân nói riêng và của nhân dân nói chung”
[98, tr.479]. Chính sách lao động và việc làm phải đảm bảo tính công bằng, hợp
lý trong phân công và sử dụng lao động. Người lưu ý: “Sức người có nhiều
loại: có thanh niên, có phụ nữ, có người trẻ, có người già. Phải phân công cho
hợp lý, người khỏe thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ” [103, tr.259].
Qua việc phân tích nêu trên cho thấy tư duy biện chứng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động, việc làm với việc
nâng cao đời sống cho nhân dân lao động. Chỉ trên cơ sở giải quyết tốt lao
động và việc làm mới phát huy vai trò to lớn của nhân dân lao động đối với quá
trình xây dựng xã hội mới, khẳng định bản chất tốt đẹp và nhân văn của chế độ
xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn phấn đấu vì mục tiêu mang lại hạnh
phúc cho con người, sự phồn thịnh cho đất nước.
2.2.2.2. Chính sách xóa đói giảm nghèo
Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh, chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới
làm cho mọi người Việt Nam trở nên giàu có. Điều này nói lên sự khác biệt về
41
chất và tính nhân văn sâu sắc của chế độ xã hội mà toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân lựa chọn và quyết tâm xây dựng thành công để đạt đến mục tiêu phát triển
xã hội, làm cho các quan hệ xã hội mang tính nhân bản và đạt đến trình độ
người cao nhất. Người nói: “Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội” [103, tr.627]. Từ hoài bão lớn nhất đến quyết định lựa chọn mô hình phát
triển xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa thể hiện tư tưởng mang tính nhất
quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hoài bão lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dân tộc Việt Nam hoàn
toàn được độc lập, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc. Người nói:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành” [103, tr.627]. Đó là mục đích cao cả, nhất quán,
xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phấn
vì một nước Việt Nam độc lập, con người thoát khỏi mọi áp bức, bất công, đói
nghèo, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào.
Sinh thời, Người dành tất cả lòng hiền từ ấm áp cho đồng bào, già, trẻ, gái, trai,
miền Bắc, miền Nam, miền xuôi, miền ngược. Trước lúc đi xa, Người còn “để
lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho
các cháu thanh niên và nhi đồng” [103, tr.628].
Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu cuộc sống đói khổ đến cùng
cực của nhân dân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong
kiến tay sai. Hậu quả để lại ở Việt Nam sau gần một thế kỷ sống dưới chế độ
“cướp của, giết người và hiếp dâm” là “người nghèo khổ thì nhiều, người no
ấm thì ít” [93, tr.113]. Sự nô dịch và bóc lột tàn bạo của bọn thực dân Pháp
không chỉ để lại đói nghèo, dốt nát cho cả một dân tộc mà còn triệt tiêu mọi
khả năng để phát triển con người. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người cho rằng:
42
Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,
của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành [92, tr.175].
Có thể coi đây là những phác thảo đầu tiên về chính sách xóa đói, giảm
nghèo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi dân tộc Việt Nam vừa mới giành độc lập.
Cùng với dốt nát, giặc ngoại xâm, Người coi đói khổ là một trong những loại
giặc cần phải kiên quyết tiêu diệt. Do đó, diệt giặc đói là việc làm cần thiết và
cấp bách nhằm mục tiêu phấn đấu đưa nhân dân thoát khỏi nạn bần cùng, mọi
người có cuộc sống ấm no, có công ăn, việc làm và đời sống hạnh phúc. Để xóa
đói, giảm nghèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tăng gia
sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người yêu cầu phải thực hiện “Tăng gia sản
xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta
ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”
[92, tr.135]. Còn phong trào thực hành tiết kiệm gạo không chỉ góp phần cứu
đói, cứu dân nghèo, mà còn thể hiện nghĩa cử cao đẹp của Người đối với việc
xóa đói, giảm nghèo. Người nói: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến
kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào
cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng
nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [92, tr.33].
Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần nhân
văn sâu sắc, chứa đựng triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển xã
hội. Theo đó, một đất nước mà người dân còn nghèo, thiếu ăn, thiếu mặc thì ở
đó xã hội còn chưa phát triển. Đối với chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
43
Nam, mục tiêu làm cách mạng là vì dân, mang lại lợi ích cho dân, “phải đem
hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân” [93, tr.75]. Do vậy, việc để người
dân phải sống trong cảnh đói nghèo thì trách nhiệm thuộc về Đảng và Chính
phủ. Vì vậy, Đảng và Chính phủ phải chăm lo đời sống của nhân dân, phải lãnh
đạo, tổ chức nhân dân chăm lo sản xuất, ra sức thực hành tiết kiệm. Người nói:
“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống
của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là
Đảng và Chính phủ có lỗi” [97, tr.518]. Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã định hướng cho chủ thể quản lý, mà trước hết ở vai trò, trách nhiệm
của Đảng và Chính phủ khi hoạch định, thực hiện chính sách xã hội phải luôn
đảm bảo dân sinh, nâng cao dân trí và hiểu rõ dân tình. Trách nhiệm này vô
cùng nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang, vì hễ còn người dân nào bị bóc lột, bị
nghèo nàn, thì Đảng và Chính phủ chưa làm tròn nhiệm vụ. Vì lẽ đó, trong Di
chúc, Người căn dặn Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế,
văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân.
Tóm lại, từ quan điểm coi đói nghèo là giặc đến quyết tâm “đánh đuổi”,
“tiêu diệt” đói nghèo nhằm mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
con người thể hiện triết lý sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói,
giảm nghèo. Thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm
nghèo trong quản lý phát triển xã hội, đòi hỏi phải coi việc xóa đói, giảm nghèo
là một trong những tiêu chí, thước đo quan trọng đánh giá về tính đúng đắn của
chính sách xã hội, tính nhân văn của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa mà Việt
Nam đang xây dựng.
2.2.2.3. Chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe cho toàn dân. Người xác định sức khỏe là
vốn quý nhất của con người, là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi
44
của mọi công việc, thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người
từng nói: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân
mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ…Dân cường thì quốc thịnh” [92, tr.241].
Sức khỏe quan trọng là như thế, cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn
coi trọng quyền bình đẳng được bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân. Do đó,
việc phục vụ sức khỏe toàn dân cần giảm thiểu những chênh lệch về khoảng
cách giàu nghèo, cấp chức, vùng miền trong cả nước, phải hướng tới mọi người
dân, đồng thời phải chú trọng đến các đối tượng ưu đãi và chính sách xã hội.
Người dân phải được bình đẳng về quyền được khám chữa bệnh, được nằm
viện điều trị khi cần, được hưởng thuốc theo bệnh và sử dụng các phương pháp
điều trị phù hợp. Thực hiện quyền bình đẳng trong y tế cho mọi người dân, bởi
lẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ý thức rằng: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân
được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì
kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công” [96, tr.154].
Cần lưu ý rằng, sức khỏe ở đây không chỉ là sức khỏe toàn dân mà còn mang
tính toàn diện, tức là phải làm sao cho mọi người đều vui khỏe cả về tinh thần
và thể chất. Quan điểm về sức khỏe toàn diện của Người được đưa ra từ rất
sớm, mang tính hiện đại và sau này rất tương đồng với Tuyên ngôn Alma Ata
khi định nghĩa về sức khỏe phải là sự thoải mái về tâm hồn và thể chất đối với
toàn xã hội. Qua đó cho thấy, sức khỏe còn hàm chứa trong đó cả chất lượng
cuộc sống, hiệu quả đóng góp của cuộc sống đối với sự phát triển của xã hội.
Theo các chuyên gia y tế thế giới, sự tác động của y học và y tế là một
trong năm yếu tố chính tác động đến sức khỏe của con người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh xếp y tế ở nhóm ưu tiên, là hoạt động không thể thay thế. Người luôn coi
trọng công tác y tế vì đây là lĩnh vực quan trọng, trực tiếp chăm lo sức khỏe
cho con người. Người nhận thức sâu sắc rằng, dưới chế độ thực dân, phong
kiến, y tế chỉ phục vụ quyền lợi cho thực dân, tay sai và những người giàu có
trong xã hội, sức khỏe của quảng đại quần chúng không được đảm bảo, hơn
nữa, lĩnh vực y tế chỉ chú trọng về điều trị mà không quan tâm đến công tác
phòng bệnh. Người yêu cầu hoạt động y tế trong chăm sóc sức khỏe nhân dân
45
phải thực hiện phương châm dự phòng là chính, kết hợp phòng bệnh với chữa
bệnh và kết hợp đông - tây y theo nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng.
Bảo vệ sức khỏe là trách nhiệm của mọi người dân, là nhiệm vụ của Đảng
và Nhà nước, nhưng ngành y tế giữ vai trò nòng cốt, trong đó đội ngũ cán bộ
thầy thuốc trực tiếp làm nhiệm vụ này. Cũng như các hoạt động xã hội khác,
mặt trận y tế cần có đội ngũ cán bộ trong công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Số lượng và chất lượng cán bộ y tế là khâu then chốt trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy y tế. Theo đó, “cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người
bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn”
[97, tr.343] và “Lương y phải như từ mẫu”. Trong quan niệm Hồ Chí Minh, y
tế là một mặt trận đặc biệt nên cần đến vai trò của những người cán bộ vừa có
tài, vừa có đức, vừa có kiến thức khoa học, vừa có lòng vị tha, giàu lòng bác ái.
Đức là gốc, là cần thiết của người thầy thuốc, nhưng chữa bệnh cho người, y
học lại là một khoa học thật sự. Vì thế, người thầy thuốc không chỉ có đức mà
cần phải có trình độ, hiểu biết chuyên môn, phải có tài. Khác với nhiều lĩnh
vực, trong y học, khám chữa bệnh cho người dân không được phép sai sót, bởi
lẽ đằng sau các chẩn đoán, cách điều trị đúng hay sai là tính mạng một con
người, là sự sống hay cái chết. Vì thế, người thầy thuốc không chú tâm học tập,
nghiên cứu, tu nghiệp, không có kiến thức và hiểu biết thì không được hành
nghề y, khám chữa bệnh cho mọi người. Đức và tài được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhìn nhận trong sự thống nhất biện chứng, trong đó, đạo đức làm tiền đề
cho tài phát triển, ngược lại, tài giỏi sẽ làm cho các ý tưởng, mong muốn đạo
đức được hiện thực hóa, tình thương người có cơ sở thực tế, thông qua hành
động và việc làm cụ thể.
Ngành y tế giữ vai trò nòng cốt trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân, nhưng mỗi người dân phải nêu cao ý thức bảo vệ sức khỏe của mình
trong xây dựng xã hội mới bằng việc thường xuyên luyện tập thể dục, phải
quan tâm đến giữ gìn vệ sinh. Mỗi hoạt động lớn hay nhỏ, ở từng con người,
từng tập thể hay đơn vị, địa phương nếu có lợi cho sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí
46
Minh đều cho đó là thể hiện tinh thần yêu nước. Người coi thể dục là biện pháp
tốt để rèn luyện sức khỏe, thân thể khỏe mạnh. Người gọi phong trào diệt muỗi
của nhân dân là “vệ sinh yêu nước” vì nó không chỉ liên quan đến công tác vệ
sinh mà nó còn có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa. Người còn yêu
cầu: “Trong nhà ngoài vườn, luôn luôn sạch sẽ gọn gàng” [93, tr.118], “đường
sá phải sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống phải phân biệt và săn sóc cẩn
thận. Những ao hồ không cần thì lấp đi, cho đỡ muỗi” [93, tr.119]. Vì theo
Người, “sạch sẽ tức là một phần đời sống mới. Sạch sẽ thì ít đau ốm. Sức khoẻ
thì làm được việc, làm được việc thì có ăn. Xem đó thì biết rằng ai cũng nên
làm đời sống mới” [93, tr.114].
Quan điểm Hồ Chí Minh về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân thể
hiện tính nhân văn, khoa học. Tính biện chứng trong tư duy của Người khi
khẳng định y tế là một mặt trận đặc biệt nên cần đến những người thầy thuốc
vừa có tài vừa có đức, vừa có vừa kiến thức y học vừa có lòng vị tha, độ lượng.
Quan điểm của Người mang giá trị khoa học, nhân văn sâu sắc, không chỉ trở
thành nền tảng lý luận cho sự hình thành và phát triển nền y học Việt Nam tiên
tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc truyền thống, mà còn định hướng cho việc hoạch
định và thực thi chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân trong giai
đoạn hiện nay.
2.2.2.4. Chính sách đối với người có công với cách mạng
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhằm thực hiện bản
chất tốt đẹp của chế độ xã hội mới, đồng thời kế thừa và phát huy đạo lý truyền
thống ngàn đời của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thương binh, bệnh binh, thân nhân
các liệt sĩ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc. Bởi lẽ, trong tiến trình cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hàng triệu người con ưu tú của
dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sự sống của mình cho Tổ quốc.
47
Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha mẹ, những người vợ, người chồng
và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại người thân của mình.
Ngay từ những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, Người đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày Thương
binh”. Thực hiện chỉ thị của Người, một Hội nghị trù bị gồm đại biểu của các
cơ quan, các ngành ở trung ương, khu và tỉnh đã họp ở Phú Minh, Đại Từ, Thái
Nguyên và nhất trí lấy ngày 27- 7- 1947 làm “Ngày Thương binh, liệt sĩ” đầu
tiên trong cả nước. Từ đó, ngày 27- 7 hàng năm đã trở thành “Ngày Thương
binh, liệt sĩ” của cả nước. Đối với mỗi người dân Việt Nam:
Ngày 27- 7 là một ngày kỷ niệm. Mỗi năm đến ngày ấy, thì những
người ái quốc Việt Nam càng tưởng nhớ đến anh em thương binh,
tưởng nhớ đến các gia đình tử sĩ, tưởng nhớ đến những người vô
danh anh hùng, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã góp một phần
xương máu trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta [94, tr.415].
Đến ngày 27- 7 hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư động viên,
khích lệ cho thương binh và các gia đình liệt sĩ. Không chỉ gửi thư, Người còn
trích một tháng lương của mình và dành những món quà để tặng thương binh.
Ngoài ra, Người còn đi thăm một số cơ sở chăm sóc thương binh, thăm những
gia đình có công với cách mạng, gia đình có đông con đi bộ đội và gia đình liệt
sĩ. Dù bận nhiều việc trong lãnh đạo kháng chiến, nhưng Người vẫn dành thời
gian đến viếng các nghĩa trang liệt sĩ. Người viết:
Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sĩ đã ghi
sâu vào lòng dạ của toàn dân và non sông đất nước.
Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng chí khí dũng cảm của các liệt sĩ đã thấm
nhuần vào tâm hồn của toàn quân và dân ta trong cuộc kiên quyết
đấu tranh đặng giành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trong
cả nước.
Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá Quốc kỳ vẻ vang càng thêm
thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời lưu truyền với sử
xanh [97, tr.223].
48
Quan điểm nhất quán của Người đối với thương binh, bệnh binh và gia
đình liệt sĩ là dù trong hoàn cảnh nào cũng giúp họ từng bước ổn định và nâng
cao dần đời sống vật chất, tinh thần. Người thường xuyên nhắc các cơ quan và
các đoàn thể phải thực hiện thật tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước đối
với thương binh, bệnh binh và các gia đình có công với cách mạng; phải có
những việc làm thiết thực để đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ,
những người có công, giúp họ ổn định cuộc sống, có cơ hội tham gia vào các
hoạt động của xã hội và góp phần vào việc xây dựng đất nước.
Việc giúp đỡ phải thiết thực, cụ thể, có tổ chức và tùy theo khả năng của
từng người. Vì đây là công việc tình nghĩa, nên tuyệt đối không cưỡng bức và
cần giúp đỡ lâu dài chứ không chỉ trong một thời gian ngắn, không phải bằng
cách góp gạo nuôi thương binh, mà bằng cách tạo điều kiện và công ăn việc
làm cho họ. Mọi người nên coi đây là một nghĩa vụ, chứ không phải là một
việc “làm phúc”.
Với các thương binh, bệnh binh, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Đã là
quân nhân cách mạng thì bao giờ cũng phải là chiến sĩ anh dũng. Tránh ỷ lại,
công thần, kém kỷ luật, kém tin tưởng, không tích cực công tác, không bi quan
chán nản. Phải luôn luôn cố gắng đem hết khả năng của mình để tăng gia sản
xuất, dần dần có thể tự lực cánh sinh, tiến tới tự cấp tự túc, giảm bớt khó khăn
cho bản thân, gia đình và xã hội. Phấn đấu để trở thành người công dân kiểu
mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở
ngoài mặt trận.
Xuất phát từ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc đối với những người có
công với nước, với các gia đình thương binh liệt sĩ, trong suốt 24 năm lãnh đạo
đất nước, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước lúc đi xa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lời căn
dặn cuối cùng trong Di chúc về thương binh, liệt sĩ. Người chỉ rõ:
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong,…),
Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi
49
ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp
với mọi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây
dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh của các liệt sĩ, để đời
đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao
động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì
chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có
công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ đói rét [103, tr.616].
Tình cảm thân thương, niềm tin và sự quan tâm của Người là định
hướng, là chỗ dựa về mặt tinh thần vững chắc, là nguồn động viên, cổ vũ lớn
lao để bộ đội, chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, thử thách phấn đấu hoàn thành
nhiệm vụ của mình trước vận mệnh của nước nhà trong mọi giai đoạn lịch sử.
Quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có công với cách mạng
không chỉ ghi nhận lòng biết ơn sâu sắc của Nhà nước, cộng đồng và xã hội,
mà còn thể hiện tinh thần nhân văn cao cả của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta đang xây dựng, góp phần ổn định chính trị - xã hội, giữ vững thể
chế, tạo điều kiện cho phát triển đất nước trong thế ổn định, bền vững của
hiện tại và tương lai.
2.2.3. Yêu cầu thực hiện chính sách xã hội
2.2.3.1. Chính sách xã hội phải gắn với quản lý xã hội
Trong bất kỳ thể chế chính trị - xã hội nào cũng đều quan tâm đến vấn đề
quản lý xã hội. Đối với Việt Nam, quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong điều kiện lịch sử nước
ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, nhiệm vụ quản lý xã hội là một quá trình không
ngừng đổi mới và hoàn thiện.
Quản lý xã hội là sự tác động khoa học của các cơ quan lãnh đạo điều
hành, quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội, nhằm đảm bảo cho xã hội hoạt
động và phát triển tối ưu, đạt tới mục đích đề ra. Quá trình quản lý xã hội mang
50
tính khoa học là quá trình kết hợp lý luận với thực tiễn, kết hợp những nguyên
lý của chủ nghĩa xã hội khoa học với hành động có trách nhiệm và sáng tạo của
các tầng lớp nhân dân. Đó là sự kết hợp giữa việc nghiên cứu đề ra các đường
lối đến việc đưa đường lối vào cuộc sống bằng các biện pháp tổ chức và các
chính sách xã hội [106, tr.12]. Ngược lại, chính sách xã hội có vai trò và tác
động trở lại đối với quản lý xã hội. Chính sách xã hội là một “phương tiện” của
quản lý xã hội, một bộ phận của quản lý xã hội.
Bàn về quản lý xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quản lý một
nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: Phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc
gì phải làm ngay, việc gì phải chờ, hoãn hay bỏ, món nào đáng tiêu, người nào
đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận” [6, tr.110]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh hiểu rất rõ quản lý xã hội là sự nhận thức, tính toán, cân đối, bố trí và
sử dụng các nguồn lực của đất nước, của nhân dân một cách hợp lý nhằm đem
lại hiệu quả cao nhất và mang tính bền vững. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức hiện đại, đúng đắn, không chỉ phù hợp với điều kiện của Việt
Nam mà còn đúng cho mọi quốc gia, dân tộc trong quản lý phát triển xã hội
phải đạt đến sự tiến bộ và phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung quản lý xã hội phong phú, rộng
lớn bao gồm hệ thống vấn đề xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống con người:
lao động và việc làm, tình trạng đói nghèo, dân số, sức khỏe nhân dân,… Do
đó, đòi hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo và một hệ thống các cơ quan quản lý
chuyên nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, dưới chế độ ta, quản lý xã hội
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đảng
cầm quyền, là đại biểu trung thành cho lợi ích không chỉ của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động mà cho cả dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước
hoạch định đường lối, chủ trương, sử dụng các công cụ hành chính và pháp lý
để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua
vai trò quản lý của Nhà nước và nếu biết dựa vào nhân dân thì mới phát huy
được tính hiệu quả. Mặc dù chưa chính thức sử dụng phạm trù “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” với tư cách là cơ chế quản lý xã
51
hội, nhưng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập đến cơ
chế này.
Người nhiều lần nói rõ, Đảng phải “một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc
và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích
gì khác” [97, tr.31]. Người đòi hỏi Đảng phải là đạo đức, là văn minh, là người
lãnh đạo đồng thời là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, phải không
ngừng đổi mới chỉnh đốn Đảng, phải giữ mối quan hệ máu thịt với nhân dân.
Đảng phải giữ được vai trò là người chỉ lối, dẫn đường cho nhân dân làm cách
mạng. Đảng phải kính yêu nhân dân, phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân, phải có tinh thần chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Giữ vai trò là chủ thể quản lý xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà
nước là một tổ chức để thực thi quyền lực của nhân dân và có trách nhiệm phục
vụ nhân dân. Từ quan niệm “lấy dân làm gốc”, đã hình thành một Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Người nhấn mạnh:
Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng
ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng. Vì
vậy, mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của
chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải
nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Mà muốn hiểu biết, học hỏi
dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn,
phải chịu khó. Nếu không vậy, thì dân chúng sẽ không tin chúng ta.
Biết, họ cũng không nói. Nói, họ cũng không nói hết lời. Dân chúng
đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì
làm cũng không nên [93, tr.333].
Nhân dân làm chủ mọi mặt của đời sống xã hội thông qua vai trò hướng
dẫn của Đảng và Nhà nước. Vai trò hướng dẫn của Đảng và Nhà nước được thể
hiện ở việc xác định đúng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để nhân
dân phát huy tối đa vai trò là chủ và làm chủ của mình. Do vậy, trong quản lý
xã hội, nhân dân không chỉ là đối tượng chỉ biết thực thi các chính sách, quyết
52
định quản lý mà phải trở thành mục tiêu và động lực của quá trình quản lý, là
chủ thể đích thực, có địa vị cao nhất trong hệ thống quyền lực quản lý ở nước
ta. Bản chất dân chủ của quản lý xã hội trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh
chính là ở điểm mấu chốt này.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đến vai trò và trách
nhiệm của chủ thể quản lý xã hội. Theo đó, quản lý xã hội đòi hỏi một năng lực
tổng hợp về các phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn
nghiệp vụ để không ngừng đổi mới tư duy, trau dồi tác phong sâu sát thực tiễn,
liên hệ mật thiết với nhân dân. Nhiệm vụ của chủ thể quản lý xã hội không phải
chỉ đề ra hệ thống các chính sách, mà chủ thể quản lý xã hội còn phải tự đổi
mới, tự chỉnh đốn và tự hoàn thiện để không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị,
nắm vững tâm lý xã hội, đặc điểm lịch sử, truyền thống văn hóa mỗi quốc gia,
dân tộc mà đưa ra phương thức lãnh đạo mới phù hợp với xu thế phát triển của
xã hội.
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu chủ thể quản lý xã hội cần
phải biết tiếp thu sáng tạo, có chọn lọc các giá trị quốc tế và hiện thực nó vào
trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách xã hội. Nguyên tắc phương
pháp luận này không chỉ mở ra đường lối đối ngoại và hợp tác quốc tế cho
nước Việt Nam độc lập, thông qua đó, chủ thể quản lý còn sử dụng sức mạnh
thời đại như là động lực bên ngoài góp phần nâng cao hiệu quả việc hoạch định
và thực thi chính sách xã hội. Với phương châm Việt Nam muốn “Làm bạn với
tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” [93, tr.256], Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã không chỉ vạch ra, mà còn thực hiện nguyên tắc chung sống
hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Với các nước dân
chủ, Việt Nam sẵn sàng mở cửa, hợp tác mọi lĩnh vực. Với các nước khác, sẵn
sàng mở rộng các cảng, sân bay, đường giao thông và cho quá cảnh quốc tế.
Với các tổ chức quốc tế, Việt Nam sẵn sàng tham gia mọi tổ chức kinh tế quốc
tế và các tổ chức quốc tế khác. Với cá nhân các nhà tư bản, kể cả Pháp và Mỹ,
sẵn sàng hợp tác, cộng tác trong các lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật, thương
53
mại; sẵn sàng dành sự tiếp nhận thuận lợi cho việc đầu tư các ngành kỹ nghệ
[115, tr.239]. Những khởi xướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế
đã định hướng cho đường lối đối ngoại của Đảng ta mang tính độc lập, tự chủ,
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trong giải quyết các vấn đề xã
hội giai đoạn hiện nay.
Trong quản lý xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của
pháp luật và mối quan hệ của nó với quản lý xã hội. Pháp luật là nhân tố quan
trọng nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội và là công cụ hữu hiệu nhất để quản lý
xã hội. Theo Người, pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và
phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã
hội. Song, pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai
cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ,
vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Đây là điểm
khác biệt về chất giữa luật pháp của ta với luật pháp của chế độ thực dân,
phong kiến ở Việt Nam trước đây. Luật pháp của chế độ thực dân, phong kiến
đặt ra là để giữ gìn trật tự xã hội theo hướng có lợi cho chế độ thực dân, phong
kiến, không có lợi gì cho toàn thể nhân dân lao động.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò pháp luật trong quản lý xã hội không
phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con
người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con
người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng
thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm
lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc
Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp
quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân
tộc và dân chủ sâu sắc. Điều này được thể hiện nhất quán và xuyên suốt từ sau
khi Cách mạng tháng Tám thành công đến thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
khi Người khẳng định:
Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự
do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có
54
tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải
tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do quá
mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp [88, tr.178].
Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh về quản lý xã hội là sự thống nhất
giữa chính trị, đạo đức và văn hóa. Một thứ chính trị rất đạo đức và cũng rất
văn hóa; một thứ đạo đức, văn hóa cũng rất chính trị. Với ý nghĩa đó, khi
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý xã hội cần nhận thức đầy đủ về
mối quan hệ giữa vai trò điều hành xã hội của pháp luật với việc giáo dục đạo
đức, nâng cao trình độ giác ngộ, tự giác của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, trong cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã
hội, rất cần đến vai trò nghiêm minh của pháp luật vì “Nếu nhất luật không xử
phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn
toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt
cũng không đúng” [93, tr.324]. Do đó, theo Người, “Pháp luật phải thẳng tay
trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” [94,
tr.127]. Trong quản lý xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức tham
ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù của nhân dân, là trở lực của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nó là giặc nội xâm, giặc trong lòng, là con đẻ của chủ nghĩa
cá nhân nên việc đấu tranh chống lại những thứ giặc đó luôn là vấn đề cần kíp
và quan trọng. Nhằm răn đe đồng thời để giáo dục cán bộ, Người dẫn lại lời
của Lênin:
Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng
nhẹ nhàng như vậy, - đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên
cộng sản, cho những người cách mạng. Cần phải nêu những đồng chí
đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi
Đảng… Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối
lộ (ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác). Ít nhất cũng
phải phạt 10 năm giam cầm và 10 năm khổ sai [95, tr.364].
Trong khi khẳng định vai trò nghiêm minh của pháp luật trong quản lý xã
hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không
55
đúng. Do đó, trong chỉ đạo hoạt động của Đảng và Nhà nước cần chú ý đến yếu
tố “có lý, có tình”. Hai yếu tố này gắn chặt với nhau trong việc xây dựng cũng
như quá trình thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Tư duy biện chứng Hồ Chí
Minh khi bàn về vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội đó chính là sự kết
hợp nhuần nhuyễn, thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”. Theo Người, “giáo
dục là chính, trừng phạt là phụ” [95, tr.361]. Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân lao động, bằng tấm lòng độ lượng, khoan
dung, Người dùng sức cảm hóa để ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, luôn đấu
tranh một cách chân thành và thẳng thắn đối với những sai lầm, khuyết điểm,
những hành vi phạm pháp. Còn “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ,
như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa
giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người
lao động lương thiện” [103, tr.617].
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng sự công minh, công bằng và bình
đẳng trong thi hành luật. Người thường xuyên nhắc nhở chủ thể quản lý xã hội
không được xét xử thiếu công bằng, lẫn lộn giữa công và tội. Vấn đề không
phải ở chỗ quá nhiều luật, quan trọng hơn là phải hết sức quan tâm đến việc
đưa pháp luật đi vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi
hành, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. Trong điều kiện
cụ thể ở nước ta, tăng cường vai trò của pháp luật cũng có nghĩa là đề cao
phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm
chủ của nhân dân.
Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chính sách
xã hội và quản lý xã hội, cần đặc biệt coi trọng vai trò của pháp luật. Vì chính
sách xã hội là sự cụ thể hóa bằng pháp luật những đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội, gắn với từng đối tượng cụ
thể trong cơ cấu xã hội, từng địa phương, từng hoàn cảnh, vì lợi ích nhân dân.
Người khái quát:
Đảng và Chính phủ điều tra, nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận nhằm
vào lợi ích chung của nhân dân, đặt chính sách. Cán bộ phải nghiên
56
cứu, hiểu suốt, thấm nhuần chính sách ấy. Theo chính sách ấy mà
điều tra, nghiên cứu, hiểu suốt hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình,
địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực, để giải
thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu
thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi
thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy [95, tr.249].
Quan niệm trên cho thấy, để đưa chính sách xã hội vào cuộc sống, nhiệm
vụ quan trọng cần giúp cho đối tượng của chính sách xã hội hiểu biết về chính
sách của Đảng và Chính phủ liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của họ,
khuyến khích họ đóng góp ý kiến xây dựng chính sách xã hội. Do vậy, đội ngũ
cán bộ phải nghiên cứu, thấm nhuần chính sách để giải thích, tuyên truyền, vận
động quần chúng tham gia thực hiện.
Tóm lại, khi khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện
chứng giữa chính sách xã hội và quản lý xã hội, cần hiểu rằng, chính sách xã
hội là sự cụ thể hóa và thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà nước từ những
đường lối, chủ trương của Đảng để giải quyết các vấn đề xã hội. Điều này cho
thấy, không thể nói chính sách xã hội một cách chung chung, mà phải gắn với
những đối tượng cụ thể trong cơ cấu xã hội, trong các lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Mặt khác, chính sách xã hội gắn với quản lý xã hội trên cơ sở
tăng cường pháp luật cũng có nghĩa là đề cao vai trò và trách nhiệm lãnh đạo
của Đảng, phát huy mạnh mẽ quyền lực của nhân dân thông qua hiệu lực của
bộ máy nhà nước. Đó cũng chính là quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh về các
chính sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng.
2.2.3.2. Chính sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế, văn hóa
Nét nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tập trung giải quyết mối
quan hệ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế và văn hóa. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất coi trọng chính sách kinh tế, nhưng không phải vì mục đích tự
thân của nó, quan trọng hơn nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem
lại hạnh phúc cho con người. Còn phát triển văn hóa nhằm mục đích xây dựng
57
nền tảng tinh thần cho xã hội, cho sự tồn tại của đời sống con người, xã hội loài
người. Do vậy, cùng với chính sách kinh tế và văn hóa, chính sách xã hội trở
thành một trong ba vấn đề lớn, vấn đề trung tâm của mọi sự phát triển.
Trong triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh, mọi việc làm đều vì hạnh
phúc của con người, giải phóng cho con người. Theo đó, phát triển kinh tế
nhằm thỏa mãn các nhu cầu về ăn, ở, mặc,… nghĩa là thỏa mãn các nhu cầu
của sự sinh tồn và phát triển của con người. Đời sống kinh tế sẽ vận động theo
hướng làm cho người nghèo đói trở nên đủ ăn, người đủ ăn trở nên khá, người
khá trở nên giàu, người giàu thì giàu thêm, cuối cùng đạt đến mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng. Còn phát
triển văn hóa làm nền tảng tinh thần cho sự tồn tại của đời sống con người và
của xã hội. Phát triển văn hóa nhằm làm cho mọi người không ngừng hoàn
thiện về nhân cách, hướng con người đến giá trị Chân - Thiện - Mỹ, đời sống
tinh thần lành mạnh, trong sạch, xã hội ta thật sự trở thành một xã hội có đạo
đức và văn minh.
Trước hết, về kinh tế, Người yêu cầu phải tập trung phát triển sản xuất,
kinh doanh, tạo nền tảng vật chất vững chắc cho sự phát triển xã hội lâu dài và
ổn định. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính
sách xã hội, nhưng các mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh
tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Phải luôn luôn nhớ rằng: Điều quan trọng
bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời
sống của nhân dân” [98, tr.314]. Điều này cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn đặt chính sách xã hội trong mối quan hệ không thể tách rời chính sách
kinh tế. Tức là cần làm rõ tính chất xã hội, mục tiêu xã hội trong kế hoạch phát
triển kinh tế và cả những điều kiện đảm bảo của nền kinh tế trong cơ sở xã hội.
Xuất phát từ mục đích của chủ nghĩa xã hội nhằm không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát triển một nền kinh tế toàn diện và phát
triển cân đối, hài hòa giữa các ngành từ nông nghiệp, công nghiệp, thương
nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế tới
58
phát triển các loại hình dịch vụ. Khi nói về mô hình kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Người đã sớm nói về sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu,
nhiều hình thức phân phối và do đó phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, để đảm bảo quốc kế dân sinh và phát triển kinh tế phải
tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người nói: “Đảng và Chính phủ rất
muốn cho mọi người được no ấm nên đã đề ra tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm. Chỉ trên cơ sở tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm mới cải thiện
sinh hoạt cho nhân dân, cán bộ, quân đội” [98, tr.589]. Tăng gia sản xuất và
thực hành tiết kiệm là điều “cần thiết nhất để phát triển chế độ dân chủ nhân
dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội” [98, tr.545], là “làm cho đời sống đồng bào
địa phương ngày càng khá hơn, cả về vật chất và tinh thần” [101, tr.225].
Có thể nói, mục đích nâng cao đời sống cho nhân dân là tư tưởng nhất
quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
cũng là mục đích của kế hoạch kinh tế. Cần nhận thức rằng, nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa phải là một nền kinh tế có kế hoạch. Theo đó, cách xây dựng kế
hoạch phải nhằm mục đích làm sao cho kế hoạch kinh tế có hiệu quả, kế hoạch
sản xuất không định theo cách chủ quan mà phải liên hệ chặt chẽ với tình hình
kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính toán rõ rệt sức hậu bị của ta. Từ đó,
Người phê phán cách làm kế hoạch chủ quan:
Có người theo ảo tưởng của mình mà định kế hoạch, chứ không nghĩ
đến vốn liếng. Họ quên rằng: Nếu không có một số vốn tối thiểu,
không có một số tiền hậu bị tối thiểu, thì chẳng những không đạt
được kế hoạch công nghệ nào, mà cũng không xây dựng được những
xí nghiệp “to lớn bao la”. Họ quên điều đó, họ chạy trước sự thực.
Thế nào là chạy trước sự thực mà đặt kế hoạch? Là không cân nhắc
lực lượng, mà làm ẩu. Là đặt kế hoạch rất to tát, động viên hàng
nghìn hàng vạn công nhân, xem rất oai. Nhưng rồi thấy vốn liếng
không đủ, phải để công nhân về, phải cấp lộ phí cho họ về. Kết quả
là hao tổn rất nhiều, gây ra thất vọng cho công cuộc xây dựng, gây
mối khó khăn cho chính trị [95, tr.366].
59
Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “Khi đặt kế hoạch phải nhìn xa.
Có nhìn xa mới quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải làm công việc gì là
chính. Phải thấy rộng. Có thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động một cách
cân đối” [102, tr.462]. Lời chỉ dẫn của Người đã định hướng cho những người
làm kế hoạch khi xây dựng một kế hoạch, một dự án phải tính toán cẩn thận
đến hiệu quả kinh tế - xã hội, phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của con
người để tránh được những sai lầm, nóng vội, chủ quan, duy ý chí làm hại đến
dân, đến nước.
Trong triết lý phát triển kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nền tảng
kinh tế vững chắc và quá trình sản xuất ra của cải vật chất có liên quan mật
thiết đến chất lượng dân sinh. Theo đó, mức sống với sản xuất như thuyền với
nước, “nước dâng thì thuyền lên. Sản xuất, kinh tế của chúng ta có phát triển
thì đời sống mọi người mới cải thiện” [98, tr.562]. Với Người, vì nước, vì dân,
vì sự tiến bộ của xã hội phải vì lợi ích chính đáng của nhân dân, cả về vật chất
lẫn tinh thần. Chỉ trên cơ sở đáp ứng được những nhu cầu chính đáng của nhân
dân mới tạo ra được động lực vô cùng to lớn cho mọi sự phát triển. Ngược lại,
những nhu cầu, lợi ích đó nếu không được quan tâm giải quyết thì mọi chính
sách dù hay mấy cũng không thực hiện được. Cho nên, trong khuôn khổ của
hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và là nhân tố quan
trọng để phát triển sản xuất. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh trong Di chúc: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế
và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [103, tr.612].
Nếu Đảng và Chính phủ thực hiện tốt vấn đề “Đưa tiền của dân và sức của dân
để làm việc ích lợi cho dân, thì bao giờ dân cũng hăng hái, việc cũng thành
công. Việc gì dù to lớn tốn kém mấy, dân đồng sức, đồng lòng thì làm cũng
được” [94, tr.172].
Qua việc phân tích nêu trên cho thấy, việc tiếp cận các vấn đề kinh tế hay
các vấn đề xã hội chỉ là cách tiếp cận khác nhau đối với việc nghiên cứu một
quá trình duy nhất, có quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và thâm nhập vào nhau. Cụ
60
thể, cùng với chính sách xã hội, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật
chất để giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Ngược lại, khi các vấn đề xã hội được
giải quyết mang tính hợp lý, công bằng, tiến bộ thông qua chính sách xã hội
sẽ góp phần tạo ra động lực mạnh mẽ để thực hiện các mục tiêu kinh tế. Cách
tiếp cận này tạo cơ sở khoa học cho chủ thể lãnh đạo, quản lý định ra được
những chính sách phát triển kinh tế, xã hội đúng đắn, phù hợp với thực tiễn
vận động của đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu chính sách xã hội trong sự tác
động qua lại với chính sách kinh tế là rất quan trọng, song cũng cần chú ý đến
mối quan hệ giữa chính sách xã hội với văn hóa. Bởi vì, giữa văn hóa và xã hội
có sự gắn bó khăng khít với nhau, mục tiêu của sự phát triển xã hội cũng chính
là mục tiêu văn hóa. Điều này khẳng định, văn hóa phải phục vụ nhân dân, lấy
hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Văn hóa là mục tiêu, vì sự
phát triển xã hội nhằm mục tiêu vì con người, phát triển con người toàn diện.
Do đó, văn hóa không thể đứng ngoài chính kinh tế, chính trị và xã hội, văn
hóa phải soi đường cho quốc dân đi và lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập,
tự cường và tự chủ. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội
chủ nghĩa dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa vĩ
đại, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con
người. Giải phóng con người là giá trị văn hóa cao cả nhất, nhưng sự sâu sắc
của giá trị văn hóa cao cả đó nhằm làm cho con người tự đứng lên giải phóng
bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình. Lấy đoàn kết toàn dân để giải
phóng dân tộc, làm cho nhân dân đồng thuận để xây dựng xã hội mới, lấy
thống nhất thay vì đối đầu, loại trừ là đường lối và phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh. Giải phóng con người ở tầm cao văn hóa như thế đã tạo ra nguồn
năng lượng và động lực cực kỳ mạnh mẽ của toàn dân làm nên thắng lợi trong
cả sự nghiệp giải phóng và xây dựng Tổ quốc. Đó là bí quyết thành công của
cách mạng Việt Nam. Đó là bí quyết văn hóa Hồ Chí Minh.
61
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [92,
tr.64]. Độc lập, tự do phải đi tới ấm no hạnh phúc và phát triển. Triết lý phát
triển Hồ Chí Minh cho thấy mục tiêu, lý tưởng mà thể chế chính trị ta đang
xây dựng phải vì hạnh phúc của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy hạnh phúc con người làm tiêu chuẩn, thước đo của
sự phát triển xã hội, hiệu quả xã hội, mà ở đó mỗi thành viên cộng đồng có
được một cuộc sống đúng nghĩa, tức cuộc sống có văn hóa. Sự nghiệp văn
hóa Hồ Chí Minh là sự nghiệp vì dân, vì nhân dân mà phục vụ nên nền văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa phải lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm
cơ sở, lấy lợi ích của nhân dân làm “khuôn phép”.
Mục tiêu văn hóa trong chính sách xã hội còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định ở định hướng phát triển bền vững, trong đó chứa đựng những yếu
tố về xóa đói, xóa nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp, phổ cập giáo dục
tiểu học, nam nữ bình đẳng và nâng cao vị thế cho phụ nữ, vấn đề chăm sóc
sức khỏe, bảo đảm bền vững về môi trường, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu.
Rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy sự phát triển xã hội mang tính bền vững
hướng đến vì hạnh phúc con người, nhằm mục tiêu vì con người. Cho nên, văn
hóa chính là mục tiêu của mọi sự phát triển xã hội, của quá trình thực hiện tốt
các chính sách xã hội liên quan đến vấn đề con người.
Chính sách xã hội hướng đến mục tiêu văn hóa, nhưng khi các vấn đề xã
hội liên quan đến con người được giải quyết, khi đó, vai trò văn hóa với tư
cách là động lực sẽ bồi dưỡng nguồn lực con người, cải tạo và xây dựng một
xã hội phát triển. Văn hóa phải xây dựng và củng cố niềm tin của con người
Việt Nam vào sức mạnh vô địch của họ trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang
nhằm “thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn
người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh
phúc” [100, tr.221], “biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa
cao” [99, tr.92]. Ngoài ra, văn hóa phải góp phần vào việc xây dựng lối sống
mới xã hội chủ nghĩa cho con người Việt Nam với tinh thần vì nước quên
62
mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng; lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ; mình vì mọi người, mọi người vì mình và với một mục đích là phụng sự
đồng bào, phụng sự Tổ quốc. Với nghĩa đó, văn hóa giữ vai trò “soi đường
cho quốc dân đi” và đã tạo nên sức mạnh to lớn trong quá trình đấu tranh
giành chính quyền và xây dựng đất nước. Do vậy, mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta phải mở đường cho văn hóa phát triển,
phải tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc vun đắp những
giá trị tinh thần tốt đẹp trong nhân dân.
Tóm lại, quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách xã hội phải gắn với
chính sách kinh tế, văn hóa thể hiện tư duy biện chứng trong việc xem xét,
giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến con người. Chỉ trên cơ sở lấy
mục tiêu phát triển kinh tế làm nền tảng cơ bản để thực hiện tốt các chính
sách xã hội nhằm đạt đến mục tiêu văn hóa, thì hạnh phúc con người mới
được đảm bảo và xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng mới
phát triển nhanh và mang tính bền vững.
2.2.3.3. Chính sách xã hội phải hướng đến công bằng xã hội
Công bằng xã hội là khát vọng lớn lao của con người và là vấn đề tác
động mạnh mẽ đến con người, đến nhận thức và hành động của mỗi cá nhân
trong xã hội. Nói đến công bằng xã hội là nói đến sự ngang bằng giữa người
với người về phương diện xã hội xác định như giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa
cống hiến và hưởng thụ. Điều này khẳng định tầm quan trọng và vai trò của
công bằng xã hội trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Nhà xã hội học
người Pháp Êmin Đuýchkêm nhận xét: Các xã hội hiện đại chỉ có thể ổn định,
nếu nó tôn trọng công bằng. Nhà xã hội học Mỹ Phơran Scapanty cho rằng:
Mục tiêu của công bằng xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua chính sách
làm giảm sự tập trung quyền lực và những nguồn tài nguyên kinh tế trong tay
một tầng lớp nhỏ đặc quyền trong xã hội [25, tr.99].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã
hội, trong đó mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng và
phát triển toàn diện con người. Khi nói về bản chất của chủ nghĩa xã hội,
63
Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già
yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom” [99, tr.404]. Tính hợp
lý, khoa học và nhân văn trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công
bằng xã hội đó là: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng. Quan điểm này hoàn toàn khoa học, đúng đắn và phù hợp với điều
kiện Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện
tốt điều này sẽ giúp mọi người hăng hái làm việc, cống hiến và hưởng thụ,
góp phần ổn định xã hội và phát triển đất nước. Nhưng, công bằng trong chủ
nghĩa xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là hợp lý và nhân văn. Tức là,
những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom. Bởi
lẽ, bản chất của chủ nghĩa xã hội là vì con người, chăm lo hạnh phúc cho con
người, nhất là các đối tượng yếu thế, không may mắn trong xã hội. Nói khác
hơn, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại công bằng và bình đẳng cho tất cả
mọi người, nhân dân lao động mới thực sự được hưởng quyền “bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ” [100, tr.371].
Chủ nghĩa xã hội thực hiện công bằng dựa trên nguyên tắc phân phối theo
lao động nhằm đảm bảo tính khoa học, hợp lý và nhân văn. Theo đó, phân phối
theo lao động là nguyên tắc chủ yếu nhưng không phải là duy nhất trong việc
thực hiện công bằng xã hội. Xuất phát từ bản chất nhân văn “Mình muốn ăn no
mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm” [98,
tr.593], công bằng trong chủ nghĩa xã hội hướng đến các đối tượng yếu thế
không phải chỉ là người già neo đơn, già yếu, bệnh tật không nơi nương tựa, mà
trẻ em mồ côi cũng được xã hội nuôi dưỡng, chăm sóc chu đáo; những người
có công với Tổ quốc cũng được quan tâm bằng những chính sách ưu đãi xã hội
hợp lý. Phân phối theo lao động, theo cống hiến và theo các giá trị truyền thống
là một chính sách vừa hợp lý vừa mang tính đạo lý phù hợp với điều kiện Việt
Nam khi phải trải qua gần một thế kỷ chống chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp, hơn hai mươi năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước và nhiều
năm liền chống chiến tranh phá hoại, bảo vệ biên giới. Trong cuộc chiến tranh
64
đó, rất nhiều người con của đất nước đã hy sinh một phần thân thể hay thân
nhân của những người đã hy sinh vì độc lập tự do, cán bộ về hưu,… là những
người thiệt thòi nhất, vì họ thiếu hoặc không có sức lao động, thiếu hoặc không
có vốn sản xuất, nên chính sách này là sự đãi ngộ đảm bảo công bằng xã hội.
Và đó cũng là nội dung mang tính nhân văn sâu sắc của thể chế chính trị - xã
hội mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta luôn thực hiện nhất quán
nguyên tắc công bằng trên cơ sở giải quyết tốt về mối quan hệ lợi ích giữa các
giai cấp, tầng lớp xã hội, các thành viên trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan tâm đến sự hài hòa về mặt lợi ích và con đường cùng tiến lên giữa các
giai tầng khác nhau trong xã hội. Ngoài ra, Người cũng khuyến khích nhân dân
làm giàu chính đáng làm cho dân giàu, nước mạnh nhưng phải chú ý đến xóa
đói, giảm nghèo theo phương châm:
Làm cho người nghèo thì đủ ăn.
Người đủ ăn thì khá giàu,
Người khá giàu thì giàu thêm [93, tr.81].
Quan điểm Hồ Chí Minh đã phản ánh đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa Mác
- Lênin về công bằng xã hội dựa trên nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, theo cống hiến trong chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, còn thể hiện tinh
thần nhân văn sâu sắc của Người trong giải quyết những vấn đề liên quan đến
con người. Do đó, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
biểu đạt những giá trị tương đồng của chủ nghĩa xã hội với truyền thống nhân
văn sâu sắc của dân tộc ta. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu nỗi
thống khổ, sự bất công mà người dân phải gánh chịu dưới ách cai trị của bọn
thực dân. Nhân dân ta phải nộp sưu, đóng những thứ thuế vô lý, đi lính đi phu
mà không có quyền lợi, trong khi đó, họ là những người chủ yếu sản xuất ra
của cải vật chất cho xã hội, nhờ đó mà xã hội mới tồn tại và phát triển nhưng
lại rất bất công vì họ luôn là những người nghèo khổ. Sự bất công, tàn bạo của
chủ nghĩa thực dân hoàn toàn đối lập với tính nhân văn sâu sắc và nhân đạo
triệt để của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng chính ở việc
65
giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng
thụ khi thực hiện công bằng xã hội. Đánh giá cao vai trò của nguyên tắc công
bằng trên lĩnh vực lưu thông phân phối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo:
Có khi vật tư, hàng hoá không thiếu, mà phân phối không đúng, thì
gây ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân
phối, có hai điều quan trọng phải luôn luôn nhớ: Không sợ thiếu, chỉ
sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên
[103, tr.224].
Khi đời sống còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, con người sẵn sàng chấp
nhận và tìm cách khắc phục thiếu thốn, khó khăn. Nhưng con người không thể
chấp nhận bất công xã hội do tình trạng phân phối không công bằng gây ra. Vì
thế, thực hiện tốt công bằng xã hội luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong
đời sống xã hội và là nguồn gốc tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, của sự
đồng thuận xã hội trong phát triển kinh tế, xã hội.
Cần lưu ý, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao công bằng xã hội và nhấn mạnh
sự cần thiết phải thực hiện ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn công bằng xã hội,
nhưng Người cũng phê phán tư tưởng cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Người cho
rằng, nếu công bằng xã hội là yếu tố quan trọng tạo lập môi trường chính trị - xã
hội tốt đẹp hướng con người vươn tới những giá trị cao đẹp, thúc đẩy xã hội phát
triển thì sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa sẽ triệt tiêu động lực đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ:
Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân
phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít. Lao động khó thì được
phân phối nhiều, lao động dễ thì được phân phối ít. Không nên có
tình trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ, cũng công điểm
như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân
[101, tr.216].
Quá trình thực hiện công bằng xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
đó Nhà nước với tư cách là người quản lý, điều hành xã hội sẽ thông qua các
66
chính sách, biện pháp tác động và điều tiết các quá trình diễn ra trong xã hội,
tạo ra sự công bằng xã hội cho các thành viên trong cộng đồng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, công bằng xã hội phải tạo điều kiện để mọi người “ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [103, tr.627]; ốm đau có
thuốc; mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhà nước phải tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng thụ giáo
dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe, vui chơi, giải trí. Nhà nước phải có chính sách
đặc biệt quan tâm đến nông thôn, tạo mọi điều kiện để rút ngắn khoảng cách
giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, phải đảm bảo ổn định xã hội tại khu
vực rộng lớn nhất của đất nước vì nông thôn vốn là căn cứ địa trong chiến
tranh, là nơi còn tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến dân trí, dân sinh và chậm
phát triển so với thành thị; phải làm thế nào cho miền ngược tiến kịp miền
xuôi. Người đặc biệt quan tâm đến sự phát triển các vùng dân tộc, miền núi,
căn cứ địa cách mạng.
Thực hiện tốt công bằng xã hội sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy mọi sự
phát triển kinh tế - xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để đạt được công
bằng xã hội, chủ thể quản lý xã hội cũng cần kiên quyết đấu tranh chống lại
tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đây không chỉ là trở lực của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà còn là một trong những nguyên
nhân dẫn đến thiếu công bằng trong xã hội. Cảnh báo về nguy cơ của một
Đảng cầm quyền xa rời quần chúng và có những hành động trái với lợi ích
của nhân dân, Người tuyên bố: “Về việc Chính phủ liêm khiết, thì Chính phủ
hiện thời đã rất cố gắng liêm khiết lắm... Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm
gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị. Những
kẻ ăn hối lộ, đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết” [88, tr.158]. Lời tuyên bố
của Người về quyết tâm tuyên chiến với nạn quan liêu, tham ô, tham nhũng
có ý nghĩa hiện thực sâu sắc về những biện pháp kiên quyết, liên tục, đồng bộ
về xử lý pháp luật và động viên toàn xã hội vào cuộc đấu tranh nhằm từng
bước đẩy lùi “quốc nạn” đó.
67
Tóm lại, quan điểm phải gắn chính sách xã hội với công bằng xã hội
được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra từ rất sớm và từng bước thực hiện, coi đó
không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của chính sách xã hội. Người coi
việc thực hiện công bằng xã hội là một yêu cầu bức thiết khi hoạch định và tổ
chức thực thi chính sách xã hội. Chỉ trên cơ sở thực hiện đúng lời dạy của
Người về gắn chính sách xã hội với công bằng xã hội thì toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta mới giành được thắng lợi trong xây dựng xã hội mới công
bằng, dân chủ, văn minh.
2.2.4. Lực lượng thực hiện chính sách xã hội
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước là chủ thể lãnh đạo, quản lý việc thực hiện
chính sách xã hội
Mỗi thể chế chính trị xã hội khác nhau đều chế định và thực hiện chính
sách xã hội một cách có ý thức. Việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội
của chủ thể quản lý phản ánh bản chất của Nhà nước, cũng như tổ chức lãnh
đạo Nhà nước đó. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ thể đề ra chính sách xã hội
và đối tượng chịu sự tác động của chính sách xã hội là một. Vì Đảng ta, Nhà
nước ta từ nhân dân mà ra, gắn bó máu thịt với nhân dân nên không có lợi ích
nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Luận điểm Đảng “là người lãnh đạo, là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [103, tr.622] được xuất phát từ bản
chất cách mạng của Đảng ta, từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng. Theo cách hiểu thông thường, về mặt chính trị,
người lãnh đạo và người đày tớ (người phục vụ) có những chức trách không
giống nhau. Thế nhưng, với Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng ra đời từ
phong trào cách mạng của nhân dân, có trách nhiệm lãnh đạo cách mạng vì
mục đích, lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có mục đích tự thân,
hoàn toàn không có bức tường ngăn cách giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ
phục vụ. Để thực hiện tốt vai trò “là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân”, Đảng cần đề ra đường lối, chủ trương, chính sách xã hội
68
đúng đắn, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Đảng
phải là công bộc của nhân dân, mục đích hoạt động của Đảng là phục vụ nhân
dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân.
Với vai trò là chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
yêu cầu Đảng và Nhà nước ta phải có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc
lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn
nhiệm vụ… Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó
gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta” [100, tr.402]. Người còn nhấn
mạnh: “Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no, dân
không có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo… Ngay đến cả tương, cà, mắm, muối
của dân, Đảng đều phải lo” [101, tr.272]. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
nhắc nhở chủ thể quản lý phải kiên trì, thận trọng trước vấn đề hoạch định và
đưa chính sách xã hội vào cuộc sống. Người nói: “Chính phủ ta đã hứa với dân,
sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc. Trong việc kiến thiết nước
nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một năm mà
làm được hết… Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta
phải hết sức tránh” [92, tr.64-65].
Vấn đề hoạch định và thực thi chính sách xã hội vào cuộc sống phản ánh
tính đúng đắn hay sai lầm, thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào vai
trò, trách nhiệm, năng lực và tư cách của chủ thể quản lý. Theo đó, Người
khẳng định:
Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến
thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có chính
sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi
cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba
điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích [93, tr.636].
69
Như vậy, chính sách đúng là điều kiện cần để đi đến mọi thắng lợi, nhưng
muốn có thắng lợi thực sự dựa trên đường lối đúng thì cần có điều kiện đủ
chính là cách tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và công tác kiểm tra. Bàn về
vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích:
Mục đích sự tổ chức công tác là: động viên toàn thể nhân dân hăng hái
thi hành chính sách đã định. Mục đích lựa chọn cán bộ là dùng nhân
tài cần phải hợp lý,… Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích
cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết
điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời [93, tr.636].
Ngoài ra, Người còn khẳng định:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng
chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân
chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải
có quần chúng giúp mới được [93, tr.325].
Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính đúng đắn, khoa
học, toàn diện về mối quan hệ giữa lãnh đạo và kiểm soát. Theo đó, người lãnh
đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của
mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của
mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân
chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình. Lãnh đạo đúng nghĩa, cố nhiên,
không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh.
Để rèn luyện Đảng ta xứng đáng là chủ thể lãnh đạo xã hội, Chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm
cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ
Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” [103, tr.616].
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi việc của dân, của nước, mọi thành công,
70
thất bại đều phụ thuộc trực tiếp vào phẩm chất, năng lực của Đảng. Đảng phải
chịu trách nhiệm về sự hưng thịnh hay suy vong của dân tộc. Điều đó tùy thuộc
vào đường lối cách mạng đúng đắn, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Cho nên,
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được coi là nhiệm vụ then chốt.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ quản lý là người trực tiếp tổ chức thực hiện chính
sách xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn xây dựng một đội ngũ cán bộ có
đức, có tài, có tính chuyên môn hóa, tính chuyên nghiệp hóa cao, thật sự là
công bộc của nhân dân, là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của quần
chúng. Chỉ khi nào đội ngũ cán bộ, đảng viên xác định rõ trách nhiệm “Tất cả
những việc Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân
dân. Làm gì mà không nhằm mục đích ấy là không đúng” [98, tr.310], khi đó,
mới hoàn thành chức trách công việc mà nhân dân giao phó. Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên với tư cách là người tổ chức thực hiện chính
sách xã hội phải chăm lo cho dân trước rồi sau đó mới nghĩ đến sự hưởng thụ
của bản thân, phải đặt quyền lợi tập thể lên trên quyền lợi cá nhân. Điều này
được Người luận giải:
Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại,
chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai
cũng ấm no, sung sướng. Nhưng chúng ta biết rằng: Muốn cải thiện
đời sống, thì trước phải ra sức thi đua phát triển sản xuất; và trước
phải nâng cao mức sống của nhân dân, rồi mới nâng cao mức sống
của cá nhân mình. Tức là: “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau
thiên hạ” [97, tr.508].
Chất triết lý trong chiều sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về lời dạy đối với cán
bộ, đảng viên chính là việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đời sống cá nhân và
đời sống tập thể, giữa nâng cao đời sống với đẩy mạnh sản xuất. Các chủ thể
quản lý chính sách xã hội cần lưu ý rằng: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc
71
đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta
còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như
vậy là không có đạo đức” [98, tr.589].
Thắng lợi của việc thực hiện chính sách xã hội còn tùy thuộc vào cán bộ
tốt hay xấu, tức liên quan đến năng lực và tư cách của chủ thể quản lý xã hội.
Cảnh báo về sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ quản lý xã hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng:
Đã có xe rồi, lại “phấn đấu” để có chiếc xe đẹp hơn, chiếm mất phần
của người khác. Đã có nhà ở rồi, lại “phấn đấu” theo kiểu như thế để
có nhà đẹp hơn. Làm như vậy là trái với đạo đức cách mạng. Các chú
có biết rằng dân tộc ta vĩ đại, Đảng ta vĩ đại, ta được anh em bầu bạn
khắp năm châu yêu mến và ca ngợi là vì cái gì không? Vì cuộc chiến
đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo là chí
công vô tư, mình vì mọi người [103, tr.672].
Để chống lại những biểu hiện tiêu cực trong quản lý xã hội, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư” [103, tr.622]. Đạo đức của người cách mạng được hợp thành bởi nhiều
yếu tố, theo Người, trong điều kiện Đảng cầm quyền, phẩm chất cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư là những thành tố cơ bản nhất, quyết định nhất. Đó cũng
chính là vấn đề then chốt nhất đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh của Đảng,
làm cho Đảng thực sự là người lãnh đạo, là người đày tớ trung thành của nhân
dân. Để có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, mỗi cán
bộ, đảng viên phải nghiêm khắc đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu
hiện tiêu cực trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách xã hội. Người
xem chủ nghĩa cá nhân là trở lực, là giặc nội xâm đẻ ra nạn tham ô, lãng phí,
quan liêu, gây hậu quả không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, đạo đức, văn
hóa, làm giảm niềm tin của nhân dân vào chế độ, vào vai trò lãnh đạo của Đảng
72
và quản lý của Nhà nước. Do vậy, cuộc đấu tranh chống những biểu hiện tha
hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ quản lý trong thực hiện chính sách xã hội là
nhu cầu sống còn mang tính nhân văn mà Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
đại diện.
Thứ ba, quần chúng nhân dân lao động vừa là đối tượng của chính sách
xã hội, vừa là lực lượng thực hiện chính sách xã hội
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước với tư cách là chủ thể
quản lý xã hội. Tuy vậy, nhân dân lao động lại là người làm chủ mọi mặt đời
sống xã hội thông qua vai trò hướng dẫn của Đảng và Nhà nước. Việc hoạch
định và thực thi chính sách xã hội phát huy tính hiệu quả trong cuộc sống đòi
hỏi chủ thể quản lý phải tạo lập được các thiết chế đủ mạnh để tổ chức, vận
động toàn dân, huy động sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong giải quyết các
vấn đề xã hội. Chính sách xã hội xuất phát từ nhu cầu của người dân, được
Đảng cầm quyền phát hiện, xây dựng thành chế độ, chính sách, rồi lại phải trở
về trong dân chúng và chính dân chúng là người trực tiếp thực hiện và thụ
hưởng các kết quả mà họ sáng tạo nên. Với ý nghĩa đó, quần chúng nhân dân
không chỉ là mục tiêu mà chính sách xã hội hướng đến mà còn là động lực của
quá trình quản lý việc thực hiện chính sách xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Thắng đế quốc và phong kiến là tương
đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều” [100, tr.402]. Trong
quản lý xã hội thông qua việc thực hiện chính sách xã hội sẽ không tránh khỏi
mò mẫm, vấp váp, sai lầm nên phải dựa vào dân. Bởi vì “Dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” [93, tr.335]. Nói tóm lại, là
phải theo đúng quan điểm quần chúng. Nghĩa là: “Việc gì cũng phải học hỏi và
bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. Tin vào dân chúng. Đưa mọi
vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết… tuyệt đối không nên
theo đuôi quần chúng” [93, tr.337-338].
73
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng thực hiện chính sách xã hội
không chỉ có giá trị về mặt lý luận nhằm giáo dục, rèn luyện Đảng và Nhà nước
ta trong vai trò quản lý xã hội, quan trọng hơn, Người đã hiện thực hóa quan
niệm của mình trong toàn bộ quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước với tư
cách là người có vị trí quyền lực cao nhất. Triết lý phát triển xã hội của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đạt đến chiều sâu nhất của chủ nghĩa nhân văn hành động khi
lấy con người, mà trước hết là nhân dân lao động làm điểm trung tâm, nơi xuất
phát và cũng là điểm cuối cùng của việc thực hiện chính sách xã hội. Chỉ trên
cơ sở nhận thức đúng quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của mọi sự phát triển thì Đảng và Nhà nước ta mới phát huy vai trò là chủ thể
thực hiện chính sách xã hội.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Bất kỳ thể chế chính trị nào muốn tồn tại và phát triển đều phải quan tâm
giải quyết các vấn đề xã hội, bởi nó không chỉ liên quan đến quản lý phát triển
xã hội, mà còn duy trì địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Nhận thức
được con đường giải phóng dân tộc để đi tới một xã hội dân chủ, tự do, hạnh
phúc, giàu mạnh là hướng đi tất yếu của xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, làm cho xã
hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được
ấm no và hạnh phúc.
Dưới chế độ dân chủ mới, đứng trên lập trường giai cấp công nhân, mục
đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải chỉ vì lợi
ích của giai cấp công nhân, mà cả lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân
tộc Việt Nam. Chính sách xã hội nhằm giải quyết tốt nhu cầu, lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân tộc, đồng bào tôn giáo. Ngoài ra, chính
sách xã hội còn điều tiết và làm lành mạnh các quan hệ xã hội để hình thành
một cơ cấu xã hội phù hợp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh
74
tế, hoàn thiện các quan hệ xã hội và bản chất xã hội của con người. Như vậy,
lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất, nhằm phát huy nhân tố con
người với tư cách là động lực của quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội
chủ nghĩa là đặc trưng bản chất và cũng là mục đích của chính sách xã hội
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chính sách xã hội trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh mang tính khoa
học, hợp lý và nhân văn. Dưới gốc độ quản lý phát triển, chủ thể cần phải gắn
chính sách xã hội với chính sách kinh tế, văn hóa và bảo đảm công bằng xã hội.
Chỉ trên cơ sở lấy mục tiêu phát triển kinh tế làm nền tảng cơ bản để thực hiện
tốt các chính sách xã hội nhằm đạt đến mục tiêu văn hóa, thì hạnh phúc con
người mới được đảm bảo và xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây
dựng mới phát triển nhanh, bền vững, hợp lý, công bằng và văn minh. Để đưa
chính sách xã hội vào cuộc sống, một mặt phải nâng cao năng lực của chủ thể
lãnh đạo, quản lý xã hội, mặt khác phải nâng cao hiểu biết cho nhân dân về
chính sách liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của họ, khuyến khích họ đóng
góp ý kiến xây dựng chính sách xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội gợi mở nhiều vấn đề có tính
chất phương pháp luận và tính hiện đại sâu sắc nhằm định hướng việc hoạch
định và thực thi chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta khi giải quyết các
vấn đề liên quan đến con người. Vì thế, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam không chỉ khẳng định bản chất
ưu việt, tốt đẹp vì con người của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang
xây dựng, mà còn khẳng định tầm vóc và ý nghĩa lớn lao của triết lý hành động
Hồ Chí Minh đối với quá trình thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước lấy con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của mọi sự phát triển.
75
Chương 3
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trong sự nghiệp đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
luôn được Đảng ta kế thừa và phát triển khi khẳng định cùng với phát triển
kinh tế, giải quyết các vấn đề chính trị và văn hóa, phải quan tâm giải quyết
các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội. Quan điểm về giải quyết các
vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng của
đường lối cách mạng Việt Nam. Việc thực thi chính sách xã hội có tác dụng
khơi dậy, phát huy những nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn của con
người, làm nên những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), với đường lối đổi mới
toàn diện, Đảng đã đặt đúng vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội khẳng định chính sách xã hội là một bộ
phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, một bộ
phận cấu thành chiến lược kinh tế - xã hội, là động lực to lớn phát huy vai trò
nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, lần
đầu tiên trong văn kiện của Đảng đã nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách
xã hội và đưa ra khái niệm “Chính sách xã hội”. Nội hàm của chính sách xã hội
được xác định là “bao trùm mọi mặt cuộc sống con người: điều kiện lao động
và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ
dân tộc,…” [26, tr.86]. Nghị quyết cũng nêu lên quan điểm cơ bản làm cơ sở
cho đổi mới chính sách xã hội là: “xây dựng và tổ chức thực hiện một cách
thiết thực và có hiệu quả các chính sách xã hội. Chính sách xã hội nhằm phát
76
huy mọi khả năng của con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích
cao nhất. Coi nhẹ chính sách xã hội cũng là coi nhẹ yếu tố con người trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” [26, tr.221]. Điều này
thể hiện tính nhất quán trong quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh khi lấy con người là đối tượng phục vụ của
chính sách xã hội.
Vận dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chính
sách xã hội và chính sách kinh tế, Đảng ta khẳng định: “Cần thể hiện đầy đủ
trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội” [26, tr.86] và “Trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội
lại là mục đích của các hoạt động kinh tế” [26, tr.86]. Ngay trong khuôn khổ
của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm, là nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vai trò của chính sách xã hội, Đảng ta xác
định cần phải có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những
nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu
tiên của sự nghiệp đổi mới. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy của Đảng
ta trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội. Từ
quan điểm đổi mới về chính sách xã hội, Đảng ta chủ trương tập trung giải
quyết vấn đề lao động và việc làm; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân;
thực hiện kế hoạch hóa gia đình; chăm lo người có công với cách mạng; chăm
sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân; đảm bảo cho người lao động
có thu nhập; phòng chống các tệ nạn;… Những chủ trương đó đi vào cuộc
sống từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giải phóng các năng lực sản xuất,
đặt cơ sở cho sự ổn định và phát triển đất nước.
Điểm mới trong quan điểm về chính sách xã hội tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng được khái quát ở những điểm cơ bản sau đây: Chính
sách xã hội không chỉ là thước đo tiến bộ và công bằng xã hội, mà nhằm phát
77
huy mọi khả năng vốn có của con người vốn bị che khuất bởi cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Con người không chỉ là mục tiêu của chính
sách xã hội, mà còn là động lực của chính sách xã hội, với việc huy động sức
mạnh của toàn dân, nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, trong đó Nhà nước
giữ vai trò trụ cột, mới đảm bảo chính sách xã hội vì con người. Chính sách xã
hội không thể tách rời chính sách kinh tế; mục tiêu của chính sách xã hội thống
nhất với mục tiêu phát triển kinh tế; phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để
thực hiện các chính sách xã hội, và ngược lại, thực hiện tốt chính sách xã hội là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Chính sách xã hội phải tuân thủ nguyên
tắc phân phối theo lao động là chủ yếu, đảm bảo hài hòa giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa trách nhiệm và quyền lợi, đạt đến giá trị tiến bộ và công bằng
xã hội, khắc phục chủ nghĩa bình quân của thời kỳ trước đó.
Phát triển tư duy đổi mới về chính sách xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định:
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh
tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con
người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã
hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở, là
tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, và thực hiện tốt chính sách
xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế [29, tr.73].
Về chính sách xã hội, Đảng không chỉ tập trung giải quyết các vấn đề xã
hội nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư về
lương thực, nhà ở, vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường, giao thông công
cộng; dân số và kế hoạch hóa gia đình; bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; chính
sách người có công với cách mạng;… và nhằm giữ vững bản chất chế độ xã hội
chủ nghĩa. Quan trọng hơn, Đảng đã đề cập đến nhiều vấn đề mới nhằm thích
ứng với quá trình xác lập của cơ chế thị trường, giải quyết những bức xúc nảy
sinh từ cơ chế đổi mới kinh tế, thể hiện bước tiến trong tư duy của Đảng về
78
chính sách xã hội. Đó là, chủ trương đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập,
khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế; bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp lý thu
nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng; đấu tranh ngăn chặn thu
nhập phi pháp. Về đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng mọi người
lao động và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp vào quỹ
bảo hiểm xã hội. Từng bước tách quỹ bảo hiểm xã hội đối với công chức, viên
chức nhà nước ra khỏi ngân sách và hình thành quỹ bảo hiểm xã hội chung cho
người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Về giải quyết lao động và việc
làm phải trên cơ sở thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, coi trọng
cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ với
phân bố lại lao động trên phạm vi cả nước. Giải quyết việc làm là trách nhiệm
của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, của từng gia
đình, từng người, với sự đầu tư của Nhà nước, các đơn vị kinh tế và nhân dân
[29, tr.73-79].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
cùng với Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được
Đại hội VII của Đảng thông qua tiếp tục có những phát triển mới về quan điểm,
phương hướng, nhiệm vụ của chính sách xã hội. Theo đó, Đảng ta khẳng định:
“Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người, là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội” [27, tr.13]. Đặc biệt, để xử lý đúng đắn các vấn đề xã hội bức
bách trong cơ chế mới, trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000, Đảng ta đề ra những nhiệm vụ cụ thể để giải quyết từng bước
các vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động.
Thực hiện chính sách toàn dân đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình
liệt sĩ, những người có công với nước, chính sách bảo trợ trẻ mồ coi, người tàn
tật, người già cô đơn, chính sách cứu trợ những vùng gặp thiên tai rủi ro và
79
những gia đình quá nghèo khổ [29, tr.14]. Với quan điểm trên cho thấy những
thay đổi cơ bản trong nhận thức của Đảng ta về chính sách xã hội khi xác định
đối tượng cơ bản của chính sách xã hội là con người, để đạt mục tiêu cơ bản là
giải phóng con người, phát triển con người, bảo đảm cho con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Tư duy mới về chính sách xã hội theo chủ trương Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII và các Hội nghị Trung ương khóa VII là tăng cường các luật
nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, vừa khuyến khích đầu tư
phát triển, vừa hạn chế bất công xã hội; từng bước thực hiện rõ hơn về nhiều
hình thức phân phối, bên cạnh phân phối theo lao động, còn có hình thức phân
phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh đào tạo tay
nghề, mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn lao động; có chính sách ưu đãi hợp lý
về nhiều mặt để tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên, khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo [84, tr.74].
Từ những chủ trương định hướng về chính sách xã hội của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứu VII của Đảng
và qua thực tiễn giải quyết các vấn đề xã hội trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi
mới (1986 - 1996), Chính phủ đã đưa ra 10 định hướng lớn về những lĩnh vực
xã hội chủ yếu cần tập trung thực hiện tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát
triển xã hội, họp tại Copenhagen vào tháng 3- 1995 như sau:
1. Giải quyết việc: hướng vào mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, sử dụng
có hiệu quả nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với cơ cấu kinh
tế, đa dạng hóa các hình thức giải quyết việc làm.
2. Xóa đói giảm nghèo: Định hướng khuyến khích mọi người làm giàu
hợp lý, coi một bộ phận dân cư giàu trước, một vùng giàu trước là cần thiết cho
sự phát triển và tiến bộ chung, đồng thời có chính sách đặc biệt trợ giúp người
nghèo, dần dần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
3. Hòa nhập xã hội: Quyền mỗi người sống bình đẳng, tự do và hạnh phúc
bao gồm các vấn đề (phụ nữ, trẻ em, thanh niên, dân tộc, người tàn tật, người
80
cao tuổi, giúp đỡ đồng bào các vùng khó khăn, phòng chống và khắc phục hậu
quả thiên tai, hòa nhập với cộng đồng).
4. Tăng cường vai trò của gia đình
5. Phát triển giáo dục.
6. Dân số - kế hoạch hóa gia đình.
7. Chăm sóc sức khỏe nhân dân.
8. Bảo trợ xã hội bao gồm: Bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội (người có
công, người chịu nhiều thiệt thòi rủi ro trong cuộc sống, người già cô đơn
không nơi nương tựa, trẻ mồ coi bất hạnh trong cuộc sống, những người không
còn khả năng lao động).
9. Môi trường: Đồi núi trọc, hoang hóa xói mòn, tài nguyên cạn kiệt, nước
sông hồ bị ô nhiễm, chất thải công nghiệp và sinh hoạt ở khu dân cư.
10. Hạn chế và ngăn ngừa các hành vi tội phạm ma túy, mại dâm, buôn
lậu, tham nhũng, làm giàu bất chính [84, tr.75-76].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đánh dấu sự hoàn chỉnh
các quan điểm đổi mới về chính sách xã hội cho thời kỳ phát triển mới của đất
nước - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Nghị quyết của Đại hội nêu rõ:
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước đi cũng như trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội
phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối
kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và
sử dụng tốt năng lực của mình.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc
lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người
lao động.
81
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.
Thu hẹp dần về khoảng cách trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng,
các dân tộc, các tầng lớp dân cư.
- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”,
“Đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu thủy chung.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa,
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham
gia giải quyết những vấn đề xã hội [30, tr.113-114].
Quan điểm trên cho thấy, việc hoạch định các chính sách xã hội phải dựa
trên quan điểm cơ bản về mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát
triển xã hội và phát triển con người. Không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới
giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát
triển, tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Mục tiêu và động lực của sự phát triển nằm trong việc giải quyết mối quan hệ
hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Để thực hiện tốt chính sách xã hội trong việc giải quyết các vấn đề xã hội,
Đảng ta yêu cầu chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần xã hội
hóa. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời cần động viên sự
tham gia ủng hộ của từng người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Quan điểm đổi mới về chính sách xã hội của Đảng ta còn được thể hiện
trong giải quyết các vấn đề xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn thị trường trong nước với
thị trường quốc tế. Đặc biệt, “phát triển thị trường lao động; người lao động
được tìm việc và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao
động với sự tham gia của các thành phần kinh tế” [32, tr.192-193]. Trong giải
quyết chính sách xã hội, cần tăng cường vai trò của Nhà nước theo hướng vừa
là người điều tiết, vừa là nhà đầu tư. Là người điều tiết, thông qua vai trò quản
lý xã hội, Nhà nước cần ban hành thể chế và chính sách đúng để đảm bảo tính
hợp lý, công bằng xã hội. Là nhà đầu tư, Nhà nước tăng cường đầu tư vào các
82
lĩnh vực gắn với các nhóm đối tượng dễ bị tác động mạnh từ ngoại ứng tiêu cực
của cơ chế thị trường, có cơ hội vươn lên trong cuộc sống. Thực hiện quá trình
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần coi trọng công
bằng trong hưởng thụ các dịch vụ, đặc biệt là công bằng trong thụ hưởng dịch
vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho những đối tượng, những
vùng khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn. Xã hội hóa việc giải quyết các
vấn đề xã hội theo chiều sâu mang tính thích ứng với việc động viên toàn xã
hội tham gia thực hiện trên cơ sở xác định rõ sự khác nhau về tính chất và mức
độ của từng lĩnh vực, từng khía cạnh mà khu biệt hóa cho phù hợp. Theo đó,
những đối tượng có khả năng tham gia các loại dịch vụ lớn hơn phải tạo điều
kiện cho họ được thụ hưởng chất lượng dịch vụ tương ứng. Ngược lại, những
đối tượng khó khăn, không hoặc ít có khả năng chi trả các dịch vụ, Nhà nước
và cộng đồng có trách nhiệm giúp đỡ họ bằng chế độ bảo hiểm.
Tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm đổi mới về chính sách xã hội,
Đảng ta chủ trương: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển” với các định hướng lớn về giải quyết các
vấn đề xã hội. Cụ thể:
- Khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả
các chính sách xóa đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng
các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát
nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo. Khắc phục tư
tưởng bao cấp, ỷ lại.
- Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ
công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo
việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa - thông tin,… Xây dựng hệ thống an sinh
xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến
tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc
làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao.
Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.
83
- Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân
được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.
- Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người
Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện giống nòi.
- Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
- Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
- Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng. Phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công
cộng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các
đơn vị công lập và huy động mạnh mẽ nguồn lực của xã hội [36, tr.101-105].
Tiếp tục khẳng định và nêu cao vai trò của chính sách xã hội đối với con
người trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta cho rằng:
Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người
nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh
tế khó khăn, suy giảm [37, tr.181].
Thuật ngữ “An sinh xã hội” lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ IX với nội dung: “từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo
hiểm xã hội và an sinh xã hội” [32, tr.212]. Từ đó, chủ trương của Đảng về
công tác an sinh xã hội được đề cập phổ biến, rõ nét hơn. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI quan niệm an sinh xã hội là
một hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng
xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và giảm nghèo, về
chăm sóc sức khỏe, về tiếp cận giáo dục và về thụ hưởng các phúc lợi cho
mọi thành viên trong xã hội, thông qua việc nâng cao năng lực tự an sinh của
cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng và thông qua quản lý, kiểm soát các rủi ro
do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên tai, tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường… dẫn đến giảm hoặc bị mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận các
dịch vụ cơ bản. Đây là điểm mới mang tính đột phá trong tư duy của Đảng
84
Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước đối với vấn đề xã hội quan trọng này.
Theo đó, việc thực hiện chính sách xã hội bảo đảm an sinh xã hội cần tiếp
tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi
thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua
khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ
xã hội sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho
các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng
đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu.
Điều này cho thấy vai trò to lớn của an sinh xã hội với tư cách vừa là
phương tiện, vừa là mục tiêu bảo đảm phát triển đất nước theo hướng bền vững
và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. An
sinh xã hội được đảm bảo sẽ mang lại những ảnh hưởng tích cực về mặt xã hội
trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. An sinh xã hội bảo đảm cho các đối tượng “yếu thế” nói riêng,
người lao động nói chung được chăm sóc, bảo vệ, có cơ hội để khắc phục
những rủi ro, có cơ hội để phát triển và hòa nhập cộng đồng. Qua đó, an sinh xã
hội nếu được thực hiện đúng và toàn diện sẽ phát huy vai trò nhân tố con người
với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế, góp phần ổn định tình hình chính trị của đất nước. Theo đó:
Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực
mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài
hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao
đời sống của mọi thành viên trong xã hội [37, tr.79-80].
85
Đặc biệt, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương, khóa XI đã
ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW: “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012 - 2020”. Nghị quyết khẳng định chính sách ưu đãi người có công và
an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng
huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có
công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc
thiểu số. Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa
Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa
các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính
sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện
chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức,
doanh nghiệp và người dân tham gia. Ðồng thời tạo điều kiện để người dân
nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm
nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an
sinh xã hội.
Tiếp tục tư duy đổi mới về chính sách xã hội, Đảng ta đã có sự bổ sung và
phát triển trong quan điểm về sự cần thiết phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh
tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả
của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước…; bảo đảm an sinh xã
hội, nâng cao phúc lợi xã hội [39, tr.30-31]. Điều này cho thấy sự vận động về
nội dung quan điểm của Đảng về chính sách xã hội trong 30 năm đổi mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới toàn diện,
đồng bộ không chỉ giải quyết các vấn đề xã hội mà phải giải quyết có hiệu quả
những vấn đề xã hội bức xúc. Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với
mục tiêu phát triển kinh tế phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao phúc lợi xã hội.
Tóm lại, bước vào thời kỳ đổi mới, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập
86
những quan điểm đúng đắn về vị trí, vai trò chính sách xã hội dựa trên nền tảng
tư tưởng Hồ Chí Minh. Khắc phục những hạn chế trong tư duy lý luận và thực
tiễn chỉ đạo việc giải quyết các vấn đề xã hội thời kỳ trước đổi mới, chính sách
xã hội thời kỳ đổi mới hướng vào lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, đảm bảo
quá trình tăng trưởng và phát trển kinh tế vững chắc gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của
đất nước. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội thời kỳ
đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định bản chất ưu việt của một chế độ
luôn phấn đấu cho mục tiêu vì con người, do con người và trở thành một tiêu chí
xác định sự định hình dần từng bước giá trị của chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó,
Đảng ta đã tập trung lãnh đạo việc thực hiện chính sách xã hội với mục tiêu
hướng tới con người, vì con người, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và
văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016) THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
Những kết quả đạt được trong 30 năm đổi mới đất nước đã khẳng định
năng lực và vị thế lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong việc thực
hiện chính sách xã hội. Việc khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này thể hiện sự vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về chính sách xã hội của Đảng ta trong sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2.1. Chính sách lao động và việc làm
Trong quan điểm Hồ Chí Minh, giải quyết tốt chính sách lao động và việc
làm không chỉ nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, mà
còn thể hiện trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta trong
87
việc “làm sao cho nhân dân có công ăn việc làm” khi tham gia vào đời sống
mới. Vận dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách lao động và
việc làm thời kỳ đổi mới, Đảng ta khẳng định: “Giải quyết việc làm là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm
lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của
nhân dân” [32, tr.210]. Việc giải quyết việc làm cho người lao động phải gắn
chặt với việc thực hiện nó thông qua chương trình phát triển kinh tế nhằm thúc
đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế nước nhà, qua đó, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp,
nhất là tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn, tạo ra sự ổn định và an toàn
xã hội.
Mục tiêu hàng đầu giải quyết việc làm cho người lao động là phát triển và
sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong việc đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế và sắp xếp lại lao động của quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới, với quan điểm, đường lối
đúng đắn của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm cho người lao động,
Quốc hội và Chính phủ đã thể chế hóa thành những chính sách cụ thể, như
Quyết định số 111, 120, 176, 315 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
đã huy động nguồn thu từ ngân sách nhà nước, nguồn thu do đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài, sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các
nước cho việc giải quyết việc làm.
Thực hiện Chương trình quốc gia giải quyết việc làm, người lao động có
điều kiện tham gia vào các ngành nghề mới và lĩnh vực sản xuất mới. Nhà
nước không làm thay cho dân như trước đây, mà tạo điều kiện và môi trường,
có sự đầu tư trợ giúp một phần như là “bà đỡ” để người lao động tự tạo việc
làm; cho vay vốn ưu đãi; xây dựng kết cấu hạ tầng; chuyển giao công nghệ;
đào tạo, phổ cập nghề.
Tạo lập thị trường sức lao động là vấn đề cơ bản nhất để hình thành chính
sách việc làm trong điều kiện mới. Hệ thống chính sách việc làm đã được Nhà
nước ban hành và thể chế hóa bằng pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân
được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, hợp tác và thuê mướn lao
88
động, phát huy khả năng tự tạo việc làm và phát triển việc làm trong khuôn khổ
của pháp luật. Nhờ thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
dạng, phong phú đã làm cho thị trường lao động trở nên sôi động, linh hoạt, tạo
điều kiện giải phóng triệt để sức lao động, người lao động có nhiều cơ hội tự
tạo việc làm và thu hút thêm lao động cho xã hội.
Để giải quyết việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn,
thông qua các chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và chuyển
giao công nghệ - kỹ thuật, chính sách xóa đói giảm nghèo, đã tạo ra việc khai
thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, phát huy các
nguồn lực tại chỗ và lợi thế của mỗi địa phương, trong mỗi gia đình và cộng
đồng dân cư. Kết hợp giữa phân công lao động và tạo việc làm tại chỗ với việc
phân bố, điều chỉnh lại dân cư và lực lượng sản xuất trên cơ sở đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đa dạng hóa ngành
nghề và hình thức hoạt động sản xuất, kinh doanh của dân cư, đa dạng hóa việc
làm và thu nhập. Để giải quyết việc làm cho người nghiện ma túy, gái mại dâm,
trộm cắp mãn hạn tù, thực hiện Nghị định 05 và 06 của Chính phủ về phòng
chống và kiểm soát ma túy, hàng năm, Nhà nước đầu tư 7 - 8 triệu USD để
giúp các đối tượng nêu trên có điều kiện chữa bệnh, học nghề, tìm kiếm việc
làm, giúp họ tái hòa nhập với cộng đồng.
Thực hiện Nghị định số 370 của Hội đồng Bộ trưởng về chiến lược việc
làm, nước ta đã mở rộng hợp tác lao động, xuất khẩu lao động đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài. Đồng thời, nghiên cứu các chính sách cụ thể có liên
quan, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế trong nước tìm kiếm thị trường và
ký kết trực tiếp với nước ngoài trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, trên cơ sở
quản lý thống nhất về mặt nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Ngoài ra, Chính phủ đã thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay vốn,
tạo việc làm, học nghề, xuất khẩu lao động, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ vay vốn
phát triển sản xuất; thành lập mạng lưới trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao
dịch và tư vấn việc làm, xây dựng các trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp. Huy
89
động các nguồn vốn đầu tư của nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể
cả vay vốn nước ngoài cho phát triển dạy nghề.
Với Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm của Chính
phủ và Chiến lược việc làm (2001 - 2010) của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, giai đoạn 2001 - 2005 đã góp phần tạo việc làm cho gần 7,5 triệu lao
động [84, tr.120]; cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng lao
động công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm lao động nông nghiệp (năm
2001 cơ cấu lao động nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ là 63%,
14%, 23% thì năm 2007 tương ứng là 53%, 19%,và 28%); giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị từ 6,28% năm 2001 xuống còn 4,91% năm 2007;
tăng số lao động qua đào tạo từ 22% năm 2001 lên 35,4 % năm 2007;... [149].
Trong 5 năm (2006 - 2010), đã giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ
lệ thất nghiệp ở thành thị giảm [37, tr.154]. Năm 2010, tỉ lệ lao động qua đào
tạo tăng, đạt 40% tổng số lao động đang làm việc [37, tr.153-154]. Quy mô dạy
nghề tăng nhanh, trong 10 năm (2001 - 2010) đã dạy nghề cho khoảng 13 triệu
người; từ năm 2006 - 2010, tăng trưởng việc làm bình quân 2,58%/ năm, trong
đó khoảng 75% là từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, 25% từ các
chương trình mục tiêu việc làm, giảm nghèo và xuất khẩu lao động; thất nghiệp
thành thị có xu hướng giảm liên tục, đến năm 2010 giảm xuống dưới 5% [84,
tr.121]. Hiện nay, cả nước có 150 khu công nghiệp, trong đó có 110 khu đã đi
vào hoạt động. Các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân phát triển mạnh. Hiện
cả nước có trên 3 triệu hộ kinh doanh cá thể, 17.535 hợp tác xã kiểu mới, trên
2.000 làng nghề,... Đây là những cơ sở góp phần rất quan trọng tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động [149].
Từ năm 2001 đến năm 2005, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm đã cho vay
gần 100 nghìn dự án lớn, nhỏ, góp phần tạo ra hàng triệu việc làm cho công
nhân. Xuất khẩu lao động tạo việc làm cũng đem lại kết quả khá, đến nay lao
động Việt Nam đã có mặt ở 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghề
các loại, trên 50% lao động đi làm việc ở nước ngoài đã được đào tạo nghề.
90
Giai đoạn 2001 - 2005 nước ta đã đưa được 295,1 nghìn lao động đi làm việc ở
nước ngoài, năm 2006 là 78,8 nghìn và năm 2007 là 85 nghìn, nâng tổng số lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trên 400 nghìn người [149]. Ngoài
việc xuất khẩu lao động phổ thông, các chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài trong khuôn khổ hợp đồng với các đơn vị trực thuộc của các công
ty xuyên quốc gia đã bắt đầu thực hiện. Chẳng hạn: Tập đoàn Unilever Việt
Nam hiện có gần 20 người Việt Nam đang làm quản lý cho Unilever tại các
nước châu Á; Tập đoàn P&G Việt Nam hiện có 10 nhà quản lý cao cấp trẻ
người Việt Nam đang làm việc tại Singapo, Thái Lan, Inđônêsia, Trung Quốc
và Cộng hòa liên bang Đức; Tập đoàn vận tải Maersk hiện có 6 người Việt
Nam đang làm việc tại Singapo và 2 người làm việc tại Trung Quốc. Theo
thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, với số lượng lao động
Việt Nam làm việc tại các nước khá đông đảo, hàng năm người lao động gửi về
nước khoảng 1,6 - 2 tỷ USD, trừ đi các khoản chi phí khi kết thúc hợp đồng 2
năm, người lao động có thể tích lũy được 5.000 - 10.000 USD [6, tr.515-516].
Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta
vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Cụ thể: Lao động khu vực nông nghiệp giảm,
nhưng không hẳn là đã dịch chuyển sang khu vực công nghiệp - xây dựng hay
dịch vụ mà cả triệu lao động là nông dân sau khi bị thu hồi đất, rất ít người tìm
được việc làm mới, số còn lại là thất nghiệp. Trước đây, lao động nông nghiệp
chỉ thiếu việc làm - không có thất nghiệp toàn phần, thì nay số lao động thất
nghiệp toàn phần có xu hướng tăng lên. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
là một tất yếu dẫn đến thường xuyên có lao động mất việc làm. Hàng năm, Việt
Nam có thêm 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, khoảng nửa triệu học
sinh, sinh viên, người học nghề tốt nghiệp ra trường, nhưng hệ thống chính
sách chưa bảo đảm cho người lao động cần việc là có việc; chưa bảo đảm ổn
định tương đối lực lượng lao động sản xuất kinh doanh trong những thời gian
nhất định. Người sử dụng lao động khu vực ngoài quốc doanh, thường xuyên
thay đổi lực lượng lao động bằng cách ký nhiều hợp đồng lao động ngắn hạn.
91
Hơn nữa, từ phía người lao động, nhiều người bỏ việc, tự do di chuyển nơi làm
việc mà luật pháp, chính sách không kiểm soát được. Việc làm ăn kém hiệu quả
của không ít các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước
dẫn đến nợ nần quá lớn; việc nhập siêu với mức độ quá cao, đã buộc Chính phủ
phải cắt giảm nhiều công trình đầu tư càng làm cho số lao động thiếu việc làm,
mất việc tăng lên [149].
Chất lượng lao động thấp, khoảng 60 - 70% lao động chưa qua đào tạo,
trong đó một bộ phận đáng kể lao động trẻ chưa qua dạy nghề hoặc nếu được
đào tạo thì vẫn còn bị hạn chế về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Thị trường
lao động đã hình thành nhưng chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm
nên đã thu hút sự chuyển dịch lớn lao động đến vùng này, gây áp lực lớn về hạ
tầng cơ sở xã hội và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống thông
tin thị trường lao động, thông tin phục vụ quản lý lao động còn nhiều bất cập,
chưa đảm bảo cung cấp kịp thời giúp người lao động sớm tìm được việc làm và
người sử dụng lao động tuyển dụng lao động [84, tr.121].
Chính sách lao động và việc làm ở nước ta thời kỳ đổi mới tuy còn tồn tại
một số yếu tố bất hợp lý, song, với những kết quả đạt được là minh chứng
khẳng định vai trò lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong
việc hiện thực hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề việc
làm cho người lao động để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
3.2.2. Chính sách xóa đói giảm nghèo
Nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức để không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người là công việc mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh phấn đấu trọn đời. Người chỉ rõ, nhân dân lao động là lực lượng vĩ đại
từng bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, đã bao đời chịu đựng
gian khổ, đã trải qua biết bao hy sinh trong hai cuộc chiến tranh cho nên mặc
dù đã thoát khỏi áp bức của đế quốc nhưng họ đang còn thiếu thốn và thường
xuyên bị đói nghèo đe dọa. Do đó, lãnh đạo tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
92
hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống - xóa đói giảm nghèo cho mọi người
dân phải là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng ta.
Thực hiện di huấn của Người, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và
Nhà nước ta coi xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững là mục tiêu xuyên
suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ
quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, khi con người được đảm bảo về
đời sống vật chất thì mới có điều kiện tham gia vào các hoạt động xã hội. Đó
cũng là lý do vì sao nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước
ta xây dựng thành chương trình lớn của quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng: đất nước thoát khỏi khủng
hoảng, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống người dân được cải thiện rõ nét.
Tuy nhiên, vấn đề phân hóa giàu nghèo nổi lên giữa các vùng, các nhóm dân
cư, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc, đời sống người dân
còn hết sức khó khăn. Vì vậy, đầu năm 1991 vấn đề xóa đói giảm nghèo trở
thành chủ đề thảo luận ở nhiều diễn đàn quốc gia. Phong trào xóa đói giảm
nghèo lan tỏa mạnh trong xã hội. Năm 1996, lần đầu tiên vấn đề xóa đói giảm
nghèo được ghi nhận là Chương trình về xóa đói, giảm nghèo [30, tr.221]. Phấn
đấu đến năm 2005 về cơ bản không còn hộ đói và chỉ còn khoảng 10% hộ nghèo
[32, tr.299] và “tiếp tục đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn
lực và phương thức thực hiện xóa đói giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ
nội lực kết hợp với sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế” [36, tr.217].
Giải quyết vấn đề nghèo đói cũng là thể hiện mạnh mẽ cam kết của Đảng,
Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các mục tiêu
thiên niên kỷ nhằm hướng tới mục tiêu chung là nâng cao mức sống của người
dân, giảm nhanh tỷ lệ hộ sống dưới ngưỡng nghèo. Theo Báo cáo Mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ năm 2010, Việt Nam đã đạt được những kết quả quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và cho thấy dấu hiệu khả quan của việc
hoàn thành các mục tiêu vào năm 2015. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
93
(GDP) bình quân hằng năm trong thời kỳ 2001 - 2010 đạt 7,2%, GDP bình
quân đầu người năm 2010 khoảng 1.160 USD. Cùng với tăng trưởng và phát
triển kinh tế, Việt Nam đặc biệt quan tâm và ưu tiên nguồn lực cho giảm
nghèo. Với việc giảm 1/2 hộ nghèo vào năm 2002, và đến nay đã giảm được
3/4 số hộ nghèo (so với đầu thập niên 90 thế kỷ XX), hoàn thành trước mục
tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo, Việt Nam chuyển vị trí từ nước nghèo sang
nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp.
Nhờ thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo (Chương trình 133), Chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc, miền núi
(Chương trình 135), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối
với 62 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a) và các chương trình kinh tế, xã hội
khác hướng vào mục tiêu giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm nhanh từ
22% (năm 2005) xuống còn 11,3% (năm 2009) và còn 9,45% (năm 2010), bình
quân mỗi năm giảm 2% - 3% tỷ lệ nghèo; người nghèo đã được tiếp cận tốt hơn
các nguồn lực kinh tế (vốn, đất đai, công nghệ, thị trường...) và các dịch vụ xã
hội cơ bản như: giáo dục, y tế, nước sạch,... Chính vì vậy, thành tựu giảm
nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận: “Những thành tựu
giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất
trong phát triển kinh tế” [111].
Với những kết quả đạt được về xóa đói, giảm nghèo, ngay từ năm 2002,
cơ quan đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam đánh giá là “hoàn thành sớm hơn
so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ hộ nghèo vào năm 2015. Cũng
theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã về đích trước 10 năm so với
mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ. Việt Nam được xếp thứ 27 trong số 101 nước đang phát triển xét về năng
lực xóa đói, giảm nghèo, trên cả các nước trong khu vực như Inđônêsia,
Malaysia, Philippin, Thái Lan. Đặc biệt, đến tháng 10- 2010, trong Báo cáo của
Học viện Phát triển nước ngoài (ODI) khẳng định: “Việt Nam là một trong hai
nước đi đầu trong việc giảm nghèo và cải thiện sức khỏe theo các Mục tiêu
94
Phát triển Thiên niên kỷ” [84, tr.128-129]. Chỉ số phát triển con người (HDI)
của Việt Nam tăng 41% trong vòng hai thập kỷ. Năm 2014, chỉ số HDI Việt
Nam đứng thứ 127/187 quốc gia trên thế giới [74, tr.33].
Nhìn chung, kết quả xóa đói, giảm nghèo ở nước ta thời gian qua đạt được
nhiều thành tựu to lớn, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định. Dù
tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng kết quả giảm nghèo chưa bền vững, số hộ đã
thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70% - 80%), tỷ
lệ hộ tái nghèo hàng năm so với tổng số hộ thoát nghèo còn cao (7% - 10%);
chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc
biệt là ở những huyện, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao. Theo chuẩn nghèo mới dự
kiến áp dụng từ năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước chiếm khoảng 15% -
17%, người nghèo tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 90%;
một số huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền núi Duyên hải miền
Trung, Tây Nam Bộ là những nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tỷ
lệ hộ nghèo trên 50% [111]. Tốc độ cải thiện đời sống của hộ nghèo ở nhiều
nơi còn chậm, nguy cơ tái nghèo cao. Nguồn lực huy động cho chương trình
giảm nghèo còn hạn chế, chưa huy động được nhiều doanh nghiệp có điều kiện
tham gia, nhiều địa phương chưa chủ động trong huy động các nguồn lực tại
chỗ tương xứng với tiềm năng. Một bộ phận người nghèo chưa tiếp cận được
các chính sách, giải pháp trợ giúp của Nhà nước, chưa được hưởng hoặc ít
được hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản. Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện xóa
đói, giảm nghèo chưa đồng bộ ở nhiều địa phương; đội ngũ cán bộ làm công
tác xóa đói, giảm nghèo vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực. Việc theo
dõi, giám sát, đánh giá chương trình vượt hệ thống chỉ tiêu thống nhất nên gây
khó khăn cho công tác tổng kết, sơ kết và chỉ đạo thực hiện chương trình từ
trung ương đến địa phương [84, tr.129-130].
Xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài của toàn Đảng và toàn
dân ta, để bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Trong 10 năm tới, giảm nghèo bền vững là một
95
trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội đất nước, cũng như trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Chính phủ,
chính quyền các cấp nhằm phát huy nội lực của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực,
vươn lên của người nghèo [111]. Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến
lược an sinh xã hội 2011 - 2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và
chương trình việc làm giai đoạn 2011 - 2015, phấn đấu để năm 2011 tỷ lệ hộ
nghèo giảm 2% theo chuẩn mới; phát triển các loại hình bảo hiểm, mở rộng
mạng lưới an sinh xã hội [139].
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến cuối năm
2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 7,8% xuống còn 5,8-6% so với cuối
năm 2013 (giảm 1,8 đến 2%/năm). Gần 2 triệu học sinh nghèo, học sinh dân
tộc thiểu số được miễn giảm học phí, hỗ trợ học bán trú, hỗ trợ kinh phí học
tập với số tiền hơn 7.000 tỷ đồng. Ngân hàng chính sách xã hội đã cho hơn
400.000 lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất, xuất khẩu lao động, hơn 60.000 học
sinh nghèo được vay vốn học tập. Nguồn lực dành cho xóa đói, giảm nghèo
không ngừng tăng, giúp đối tượng nghèo có cơ hội tiếp cận với chính sách
giảm nghèo. Năm 2014, tổng nguồn vốn thực hiện mục tiêu giảm nghèo
khoảng 34,7000 tỷ đồng, trong đó, ngân sách Trung ương với hơn 6000 tỷ
đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
[121, tr.56-57].
Chương trình xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
và quản lý của Nhà nước mang đậm triết lý phát triển xã hội của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã và đang đạt được những thành tựu to lớn. Đây thật sự là một
chương trình có nhiều ý nghĩa nhân văn và nhân đạo sâu sắc, là động lực thúc
đẩy quá trình hiện thực hóa mục tiêu xóa đói, giảm nghèo phải bảo đảm tính
toàn diện, công bằng và bền vững. Học tập và làm theo tinh thần chống đói
nghèo của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải biến thành lẽ sống, khát vọng làm giàu,
vươn lên trong cuộc sống của toàn thể nhân dân và cả dân tộc Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
96
3.2.3. Chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân luôn được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm. Người từng nói: Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Câu nói thấm đượm tính
nhân văn cao cả về trách nhiệm của Đảng và chính quyền trước nhân dân, dân
tộc, nhất là câu “nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Vì thế, Người
giao cho ngành y tế một trọng trách lớn lao là giúp đồng bào, giúp Chính phủ
xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân. Người còn yêu
cầu Đảng và Nhà nước ta cần phát triển công tác vệ sinh, y tế. Thực hiện lời
căn dặn của Người, việc chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân
luôn là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Luật Bảo vệ sức khỏe
nhân dân khẳng định: “Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người, là một
trong những điều kiện cơ bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và
nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ Tổ
quốc” [123, tr.6].
Thực hiện Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân và nhiều chỉ thị, nghị định, đặc
biệt Nghị định 95 của Chính phủ đã hỗ trợ người nghèo về y tế và người quá
nghèo khi ốm đau đến khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế Nhà nước được miễn
một phần viện phí, miễn giảm viện phí cho người nghèo. Tuy nhiên, hầu hết
các cơ sở y tế đều gặp khó khăn trong việc miễn giảm viện phí cho người bệnh
do không có nguồn kinh phí cụ thể. Chính vì vậy, đa số người nghèo đều gặp
khó khăn khi đi khám chữa bệnh.
Từ thực trạng trên, Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
giai đoạn 2001 - 2010 được ban hành và từng bước đi vào cuộc sống. Thực
hiện Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Nhà nước có chính
sách khám chữa bệnh miễn phí và giảm phí đối với người có công với nước,
người nghèo, người sống ở vùng có nhiều khó khǎn và đồng bào các dân tộc
97
thiểu số. Ngoài ra, Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo đã tạo điều kiện và
cải thiện việc tiếp cận dịch vụ y tế cho đối tượng nghèo. Điều này thể hiện
bản chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường
đòi hỏi sự công bằng và hiệu quả trong chǎm sóc sức khỏe.
Ở Việt Nam, chính sách bảo hiểm y tế bắt đầu được triển khai từ năm
1992. Đến năm 2008, với việc ban hành và áp dung Luật bảo hiểm y tế, người
nghèo, người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn thuộc diện được ngân sách Nhà nước chi trả tiền mua thẻ bảo hiểm y
tế. Đối tượng cận nghèo cũng được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần kinh
phí mua thẻ bảo hiểm y tế. Nhận thức được đây là lĩnh vực quan trọng cần có
bảo hiểm, số người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng tăng qua các năm. Cụ
thể, năm 1993, chỉ có 3,79 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, nhưng đến năm
2008, tổng số người tham gia bảo hiểm y tế hơn 39,3 triệu, chiếm 46% dân số,
tăng hơn 10 lần so với năm 1993 [66, tr.180]. Đến năm 2013, cả nước có 61,67
triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 69% dân số. Đến cuối năm 2015, tỉ
lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng và chiếm 75% dân số [39, tr.239]. Mục tiêu của
bảo hiểm y tế đến năm 2020 phải thực hiện được bảo hiểm y tế toàn dân dưới
hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng. Tuổi thọ trung bình tăng, đạt
73,3 tuổi vào năm 2015. Làm tốt công tác y tế dự phòng, không để dịch bệnh
lớn xảy ra. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, ứng dụng nhiều thành
tựu khoa học - công nghệ kỹ thuật cao. Đã tích cực triển khai nhiều giải pháp
giảm quá tải bệnh viện và đạt kết quả bước đầu. Tập trung đầu tư xây dựng các
bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến trung ương. Đội ngũ cán bộ y tế
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao y đức và đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị y tế sự nghiệp công
lập, bước đầu thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế cùng với
thực hiện hỗ trợ cho đối tượng chính sách, người nghèo. Các cơ sở y tế tư nhân,
98
y học cổ truyền và công nghiệp dược được khuyến khích phát triển. Tăng
cường quản lý chất lượng và giá thuốc chữa bệnh. Chú trọng quản lý vệ sinh an
toàn thực phẩm [39, tr.239-240].
Những kết quả đạt được trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân là một thành tựu quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện con người
của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt, sự tăng nhanh về chỉ số tuổi thọ đã phản
ánh mức độ tác động của yếu tố y tế trong việc nâng cao sức khỏe cho nhân
dân. Tuy vậy, do những khó khăn về kinh tế - xã hội, ngân sách đầu tư cho
ngành y tế còn thấp. Tình trạng xuống cấp ở một số bệnh viện, tình hình thu
viện phí, thái độ phục vụ bệnh nhân cần sớm được khắc phục. Một số bệnh tật
sau nhiều năm được thanh toán, nay có xu hướng tái phát và tăng lên như bệnh
sốt rét, bệnh lao, bệnh tả, bệnh AIDS cũng đang có xu hướng phát triển. Ô
nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội đang là yếu tố ảnh hưởng xấu đến sức khỏe
nhân dân, làm tăng nguy cơ mắc bệnh tật. Tỷ lệ người dân được dùng nước
sạch còn rất thấp. Công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe còn mang tính thời
vụ, làm theo chiến dịch, chưa tạo được phong trào nhân dân tham gia vệ sinh
phòng bệnh có tính thường xuyên, liên tục. Công tác đào tạo cán bộ được tăng
cường về số lượng nhưng chỉ số bác sĩ bình quân trên tổng số dân còn thấp.
Tình trạng thừa bác sĩ ở thành phố nhưng thiếu cán bộ y tế cơ sở ở các vùng
nông thôn, các bệnh viện tuyến huyện và các xã.
Thực hiện tốt chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân không
chỉ thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa chúng
ta đang xây dựng, mà còn góp phần thực hiện tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về “Phát triển công tác vệ sinh, y tế” đối với con người thời kỳ đổi
mới. Trong nhưng năm tiếp theo, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc tiếp tục quán triệt quan điểm Hồ
Chí Minh vào việc chăm lo sức khỏe cho nhân dân và xây dựng một nền y tế
Việt Nam hiện đại là vấn đề thiết thực cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
99
3.2.4. Chính sách đối với người có công với cách mạng
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm nên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sự
sống của mình cho Tổ quốc. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha mẹ,
những người vợ, người chồng và những người con đã mãi mãi không thể gặp
lại người thân của mình. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể cần chấp hành thật tốt các chính sách đối với
thương binh, bệnh binh và các gia đình có công với cách mạng. Cùng với các
chủ trương, chính sách ưu tiên của Đảng và Nhà nước, những việc làm đền ơn,
đáp nghĩa của nhân dân ta đã thiết thực hỗ trợ người có công với nước ổn định
cuộc sống, tham gia vào các hoạt động xã hội, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính sách ưu đãi đối với
người có công với cách mạng không chỉ là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của
dân tộc, mà đã trở thành một hệ thống chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta
trong sự nghiệp đổi mới, góp phần to lớn vào sự ổn định và phát triển xã hội.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, tùy vào tình hình và khả năng thực tế,
chính sách ưu đãi đối với người có công với nước từng bước được bổ sung và
hoàn thiện. Việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh “Ưu đãi
người hoạt cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người
hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng” (gọi tắt là Pháp lệnh
ưu đãi người có công) và Pháp lệnh phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam
anh hùng” là bước tiến quan trọng trong hệ thống chính sách “Đền ơn đáp
nghĩa” ở nước ta. Với hai Pháp lệnh này góp phần cải thiện thêm một bước đời
sống người có công và tạo điều kiện để các gia đình chính sách phát huy năng
lực, sở trường của mình trong cơ chế mới.
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt khi đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ
càng được quan tâm. Chỉ thị số 09-CT/TW, ngày 14- 12- 1996 của Bộ Chính
100
trị về việc mở đợt vận động kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh, liệt sĩ (27- 7-
1947 - 27- 7- 1997); Quyết định số 104/QĐ-TTg, ngày 14- 4- 1999 của Thủ
tướng Chính phủ về một số chính sách đối với thanh niên xung phong đã hoàn
thành nhiệm vụ trong kháng chiến. Ngày 15- 12- 1999, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 175/1999/NĐ-CP điều chỉnh mức trợ cấp và sinh hoạt phí đối với
các đối tượng chính sách. Chỉ thị số 80 CT/TW, ngày 01- 3- 2002 của Ban Bí
thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thương binh, liệt sĩ,
người có công với cách mạng và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trong giai
đoạn mới.
Ngày 29- 6- 2005, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Ưu
đãi người có công sửa đổi. Ngày 14- 12- 2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng
đã có Chỉ thị số 07/CT-TW, về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác
thương binh, liệt sĩ, người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”. Ngày
18- 6- 2007, để tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung chính sách ưu đãi
người có công lần thứ ba. Ngày 15- 11- 2007, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội cũng có Thông tư số 25/2007/TT-BLĐTBXH, Hướng dẫn bổ sung việc
thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Pháp lệnh số
35/2007/PL-UBTVQH11 ngày 21-6-2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh số 26 và Nghị định số
89/2008/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số 35.
Ngày 24- 12- 2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2010/NĐ-CP
về chính sách đối với người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở
các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bảo đảm đồng bộ,
thống nhất chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có
công với cách mạng. Tháng 5- 2014, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị
quyết Trung ương 5 khóa XI về những định hướng chính sách xã hội giai đoạn
2012 - 2020, với mục tiêu tổng quát: Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần cho người có công, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản bảo đảm gia đình
101
người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân
cư trên địa bàn.
Việc từng bước bổ sung, hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công và từ
thực tiễn lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác chăm sóc thương binh, gia đình
liệt sĩ và người có công với cách mạng của Đảng đã mang lại những kết quả to
lớn. Hiện cả nước có hơn 8 triệu người có công với 13 diện đối tượng được
hưởng chế độ ưu đãi và chăm sóc, trong đó có khoảng 1,5 triệu người hưởng
trợ cấp hàng tháng; gần 4,2 triệu người hưởng trợ cấp một lần; hàng chục nghìn
con thương binh, liệt sĩ được hưởng chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo, chăm
sóc y tế; 14.500 cán bộ lão thành cách mạng được hỗ trợ cải thiện nhà ở. Cùng
với việc hoàn thành công tác xác nhận người có công với cách mạng, phong
trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của nhân
dân ta. Từ phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” hơn 300 nghìn gia đình chính sách
được tặng nhà tình nghĩa, hơn 600 nghìn sổ tiết kiệm gửi đến các gia đình
chính sách còn khó khăn.
Năm 2008, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã trao tặng thêm 5.200 nhà
tình nghĩa, sửa chữa 7.500 nhà, tặng 20 nghìn sổ tiết kiệm, vận động Quỹ “Đền
ơn đáp nghĩa” được hơn 250 tỷ đồng; đã có 9.568/10.340 xã, phường (đạt tỷ lệ
92%) được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố công nhận làm tốt công tác
thương binh, liệt sĩ [110, tr.6-7]. Năm 2010, trong điều kiện kinh tế đất nước
còn nhiều khó khăn nhưng Quỹ đền ơn đáp nghĩa Trung ương đã nhận được sự
ủng hộ 290 tỉ đồng, chúng ta đã xây mới 11.202 nhà tình nghĩa, sửa chữa nâng
cấp 7.317 nhà cho đối tượng người có công với tổng số tiền hơn 401 tỉ đồng.
Hơn 94% số xã, phường trong toàn quốc làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa,
trên 95% đối tượng chính sách đạt được mức sống bằng và cao hơn mức sống
trung bình của xã hội, 100% bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được phụng
dưỡng và chăm sóc chu đáo, tặng 16.282 sổ tình nghĩa với tổng số tiền trên 13
tỉ đồng. Hầu hết các nghĩa trang liệt sĩ quy mô quốc gia và địa phương, các khu
tưởng niệm danh nhân, anh hùng liệt sĩ và những “địa chỉ Đỏ” được nhân dân
102
và các tổ chức xã hội góp công, góp của trị giá hàng trăm tỉ đồng để xây dựng
và tu bổ [111].
Nguồn ngân sách thực hiện chế độ ưu đãi xã hội đối với người có công
không ngừng tăng qua các năm. Năm 2012, đã bố trí 25.285,043 tỷ đồng, tăng
4.124,114 tỷ đồng so với năm 2011. Đến năm 2013, ngân sách nhà nước chi ưu
đãi người có công là 29.987,100 tỷ đồng. Năm 2014, tổng dự toán ngân sách
chi ưu đãi người có công là 32.390 tỷ đồng. Mức hỗ trợ đối với người có công
cũng không ngừng được cải thiện. Từ năm 2008 đến năm 2013, Chính phủ đã 7
lần điều chỉnh mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công, từ 470.000 đồng/tháng
(năm 2007) lên mức 1.220.000 đồng/tháng (năm 2013), cao hơn mức lương tối
thiểu chung (1.115.000 đồng/tháng) [121, tr.58].
Theo Báo cáo tổng kết việc thực hiện Chính sách ưu đãi người có công
tính đến tháng 2- 2001, cả nước có 3.037 nghĩa trang liệt sĩ là nơi yên nghỉ vĩnh
hằng của hơn 740.000 liệt sĩ. Cùng với nghĩa trang liệt sĩ, nhiều công trình
tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ được xây dựng, trong đó có 1.915 nhà Bia ghi
tên Liệt sĩ được xây dựng và đưa vào hoạt động. Việc tìm kiếm, cất bốc,
chuyển hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh tại Lào và Campuchia
về nước được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Đến năm 2004, khoảng 36.340 hài
cốt liệt sĩ được đưa về nước an táng tại các nghĩa trang liệt sĩ. Ngân sách Trung
ương cấp 73 tỷ đồng và hàng trăm tỷ đồng từ ngân sách các địa phương được
huy động cho việc xây dựng, cải tạo, nâng cấp mộ, nghĩa trang liệt sĩ.
Thực hiện lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy thương binh “tàn nhưng không
phế”, hiện nay công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công
với đất nước của Đảng ta luôn gắn liền với việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
họ tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương như
vay vốn, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, xây dựng nền văn hóa mới,
con người mới. Điều này đã phát huy vai trò gương mẫu tự vươn lên của
thương binh, bệnh binh, cũng như vai trò của các gia đình liệt sĩ và những
người có công với cách mạng trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Ngoài ra, Nhà
103
nước còn đầu tư xây dựng hệ thống các khu điều dưỡng, trung tâm phục hồi
chức năng, cơ sở dạy nghề,... dành riêng cho thương binh, bệnh binh và thân
nhân liệt sĩ.
Việc thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng
của Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra nguồn động lực to lớn trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Bằng sự cố gắng
của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, chúng ta quyết tâm làm cho đời sống
thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng
từng bước được cải thiện, thể hiện tấm lòng của toàn dân ta “Uống nước nhớ
nguồn, đền ơn đáp nghĩa” [105, tr.4]. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Nhà nước,
cộng đồng và gia đình chính sách cùng chăm lo thực hiện chính sách thương
binh, liệt sĩ, ưu đãi người có công theo phương châm “Đồng bào sẵn sàng giúp,
Chính phủ ra sức nâng đỡ, và anh em có quyết tâm”. Trong đó, chính sách của
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sự hỗ trợ của cộng đồng là vô cùng quan trọng
và sự nỗ lực vươn lên của gia đình chính sách có ý nghĩa quyết định.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách đối với
thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng vẫn còn một hạn chế cần
được khắc phục, giải quyết. Đó là tình trạng sai sót đối tượng trong việc thực
hiện chính sách hỗ trợ vẫn còn diễn ra ở không ít địa phương. Công tác đền
ơn đáp nghĩa ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục truyền thống, tuyên
truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt, việc tốt. Chế độ
trợ cấp ưu đãi nhìn chung còn thấp. Phong trào xã hội hóa công tác người có
công với cách mạng chưa đều, chưa đáp ứng được nhu cầu của người có công
và còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, tình cảm và trách nhiệm của từng địa
phương. Đời sống của gia đình chính sách tuy được cải thiện nhưng vẫn còn
thấp, học hành và việc làm của con em chưa được bảo đảm. Những sai sót,
nhầm lẫn, tiêu cực trong thực hiện chính sách xảy ra ở một số nơi, gây không ít
phiền hà cho người hưởng chính sách, gây dư luận không tốt trong xã hội. Do
vậy, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương và trợ cấp xã hội đối với
104
người có công với nước. Tích cực ban hành, bổ sung, sửa đổi chế độ phụ cấp,
trợ cấp đối với các ngành nghề đặc thù quân sự, với các lực lượng làm việc trên
các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tiếp tục cải thiện
điều kiện sống và làm việc của cán bộ, chiến sĩ; động viên tinh thần học tập, lao
động sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang [58, tr. 32].
Nhìn chung, việc thực hiện chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp
đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần giải quyết tốt các vấn đề
xã hội bức bách của con người. Chỉ số phát triển con người (HDI) không
ngừng tăng, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Tuy vậy, việc thực hiện
chính sách xã hội hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định, chất lượng
cuộc sống con người còn thấp so với nhiều nước trên thế giới, nhiều vấn đề
xã hội tiếp tục phát sinh trong cơ chế mới. Do đó, cần có sự đánh giá đúng
thực trạng, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế, để tìm ra những giải
pháp nhằm tiếp tục phát huy những kết quả đạt được và khắc phục dần mặt
thiếu sót việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ
đất nước.
3.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ VIỆC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu
Một là, Đảng đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, kịp thời,
tương đối đồng đều.
Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Sau 30 năm đổi mới chính sách xã hội đã khẳng định sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân trong
việc hoạch định, tổ chức thực thi chính sách xã hội. Nếu như thời kỳ trước đổi
mới, các vấn đề xã hội chưa được nhận thức với tư cách là một phân hệ lĩnh
vực trụ cột của phát triển xã hội, mà nó thường được gắn với các chủ trương về
kinh tế hoặc văn hóa - xã hội. Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước,
105
Đảng ta đã nhận thức đúng đắn hơn về các vấn đề xã hội, về vấn đề trung tâm
của xã hội là con người. Bước tiến quan trọng trong đổi mới tư duy về chính
sách xã hội khi Đảng ta xác định các vấn đề xã hội với tư cách là một phân hệ
trụ cột của xây dựng, phát triển xã hội Việt Nam gắn với tính định hướng xã
hội chủ nghĩa. Điều này được Đảng ta khẳng định: “Từ thực tiễn xây dựng đất
nước mấy chục năm qua, chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, xã hội,
văn hóa là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa” [36, tr.32].
Như vậy, đường lối đổi mới về chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta
thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng là yếu
tố giữ vai trò quyết định đến thắng lợi của quá trình hoạch định và thực thi
chính sách xã hội. Tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được bổ sung, hoàn
thiện, phát triển mang tính nhất quán khi Đảng ta có những đổi mới quan trọng
trong nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế phải
gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách
phát triển, mà ở đó con người là vốn quý nhất, là động lực và mục tiêu của phát
triển xã hội bền vững. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã
chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của các tầng lớp
dân cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu
tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế
là bình quân, cào bằng đã từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ
vậy, công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn. Từ chỗ không đặt đúng
tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác với chính
sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Từ
chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần
106
chuyển trọng tâm sang cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người
lao động đều tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa
giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với
tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một bộ phận dân cư giàu trước là cần
thiết cho sự phát triển. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm
sóc sức khỏe nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; có chính sách
trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo [34, tr.75-78].
Hai là, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết các vấn đề
xã hội được đổi mới.
Thời kỳ trước đổi mới, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao
cấp, sự lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội là trực tiếp.
Đảng quyết định từ các vấn đề chiến lược, đường lối đến những vấn đề cụ thể,
đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách được thực hiện một cách thống
nhất, khẩn trương và nghiêm ngặt. Thời kỳ đổi mới, sự lãnh đạo của Đảng đối
với lĩnh vực xã hội không bằng con đường trực tiếp, mà thông qua những mục
tiêu chiến lược nói chung, cụ thể về chính sách xã hội được thể hiện trong các
kế hoạch, chiến lược phát triển và tầm nhìn, được các lực lượng của hệ thống
chính trị chủ động tham gia hiện thực hóa do Đảng lãnh đạo. Thực tế cho thấy,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực xã hội thời kỳ đổi mới mang
tính gián tiếp, thay cho phương thức trực tiếp thời kỳ trước đổi mới. Phương
thức lãnh đạo gián tiếp của Đảng làm cho những quan điểm, mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ của Đảng đi vào cuộc sống, thẩm thấu vào xã hội và trở thành
hành động tự giác của xã hội [84, tr.162-163]. Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện
chính sách xã hội của Đảng thông qua vai trò quản lý của Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội, đã giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội bức xúc,
tạo cơ sở cho sự “năng động hóa xã hội”, tạo nền tảng đẩy mạnh “xã hội hóa”
việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo tính khả thi của chính sách xã hội
trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
107
Có thể khẳng định, vai trò lãnh đạo của chủ thể quản lý và phát triển xã
hội sẽ quyết định đến thành công hay thất bại của việc hoạch định, thực thi các
chính sách vào thực tiễn cuộc sống. Vấn đề đặt ra là chủ thể đó phải biết rõ
mình phải làm gì, phải hành động như thế nào trước những biến đổi của thời
cuộc và hoàn cảnh, biết điều chỉnh hợp lý những kế hoạch, chính sách và giải
pháp để tồn tại, phát triển trong thế giới đầy biến động. Tư duy đổi mới của
Đảng về chính sách xã hội là minh chứng sinh động nhất về tính nhất quán
trong phương thức lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện để đạt hiệu quả cao
đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Những thành tựu đạt được về chính
sách xã hội thời kỳ đổi mới đã khẳng định tính khoa học và nghệ thuật trong
vai trò lãnh đạo của Đảng ta khi nhận biết và xử lý “cái có thể”, làm cho “cái
có thể” tích cực trở thành hiện thực, đồng thời làm cho “cái có thể” tiêu cực
yếu dần đi và không thể xảy ra, hoặc giảm thiểu những tác hại của nó tới mức
thấp nhất [125, tr.82].
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy nguồn lực bên trong, đồng
thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn
đề xã hội là vấn đề được Đảng luôn quan tâm thực hiện, là nhiệm vụ chiến
lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Để tăng cường nguồn lực tổng
hợp giải quyết các vấn đề xã hội, Đảng đề ra phương châm: “Phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài… để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững” [32, tr.89]. Với đường lối đối ngoại đúng đắn, Việt
Nam không chỉ tích cực, chủ động hội nhập ngày càng sâu vào quá trình toàn
cầu hóa, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, mà còn đẩy
mạnh hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề chung mang tính toàn cầu. Nhờ
mở rộng, tăng cường các mối quan hệ hợp tác quốc tế, góp phần thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để phát triển kinh tế và giải quyết
các vấn đề xã hội. Thông qua quá trình dịch chuyển tư bản và các nguồn viện
108
trợ của các nước phát triển, Việt Nam có thêm điều kiện và cơ hội để giải
quyết việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, phát triển dịch vụ y
tế,… Ngoài ra, hợp tác quốc tế còn thúc đẩy quá trình dịch chuyển lao động
giữa Việt Nam với các nước thông qua xuất khẩu lao động, qua đó khắc phục
tình trạng thiếu việc làm, tạo nên sự phát triển hài hòa giữa cung và cầu về
nguồn lao động.
Những thành tựu đạt được về chính sách xã hội thời kỳ đổi mới khẳng
định vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quản lý của Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội trong chỉ đạo, tổ chức thực thi giải quyết các vấn đề xã
hội. Chính sách xã hội đúng đắn phải lấy việc phục vụ con người làm mục
đích cao nhất, nhằm phát huy nhân tố con người, điều tiết và làm lành mạnh
hóa các quan hệ xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Do vậy, việc
phân tích, đánh giá nguyên nhân của những thành tựu về chính sách xã hội
thời kỳ đổi mới có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn đối với công tác chỉ đạo
thực hiện chính sách xã hội, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu
để kế thừa, phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện mới trong những
năm tiếp theo.
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
3.3.2.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nảy sinh nhiều vấn đề xã
hội, làm giảm hiệu quả thực hiện chính sách xã hội.
Trong cơ chế thị trường, những hiện tượng tiêu cực trên lĩnh vực kinh tế
đã kéo theo sự suy thoái, rạn nứt về mặt xã hội bởi sự tác động của trào lưu
chạy theo đồng tiền, bất chấp đạo lý, xem nhẹ nhân phẩm càng làm giảm hiệu
quả việc thực hành chính sách xã hội. Ngoài ra, sự phân hóa nhanh, mạnh
trong nền kinh tế thị trường đã tác động đến các nhóm xã hội yếu thế theo
hướng ngày càng yếu hơn và dễ bị tổn thương hơn. Các dòng di chuyển việc
109
làm, di chuyển lao động diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, tạo áp lực lớn
cho việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các nhóm dân cư yếu thế, dễ
bị tổn thương.
Hai là, dân số tăng nhanh, trình độ dân trí chưa cao là một khó khăn lớn
cho việc thực hiện chính sách xã hội.
Sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam là do chính người dân thực
hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Nhưng với một nước
mà người dân chịu ảnh hưởng của thói quen, phong tục tập quán lạc hậu, trình
độ dân trí chưa cao sẽ là một khó khăn lớn trong việc thực hiện chính sách xã
hội. Vấn đề nóng bỏng và gay gắt là số người không có hoặc thiếu việc làm còn
lớn, trong khi tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức cao, trình độ lao động còn thấp so
với yêu cầu thị trường sức lao động trong và ngoài nước. Đây là bài toán khó
cho Đảng và Nhà nước khi giải quyết vấn đề việc làm trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Dân số đông và tăng nhanh không chỉ gây sức ép về
giải quyết việc làm, mà còn là gánh nặng đối với ngành y tế trong công tác
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở các vùng
dân tộc thiểu số cao nhất nước, chất lượng y tế vẫn còn rất thấp. Do chịu ảnh
hưởng của lối sống cũ nên người dân ở các tỉnh miền núi thường chữa bệnh tại
nhà theo các biện pháp của những thầy mo. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tử vong cao, nhất là tình trạng tử vong ở bà mẹ
và trẻ em. Dân số tăng nhanh, kinh tế chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân
lực chưa cao,... là những thách thức lớn đối với việc nâng cao hiệu quả chính
sách xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức của cán bộ hoạch định chính sách xã hội còn hạn chế
nên việc thiết kế chính sách chưa phù hợp.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhờ
đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng mà nền kinh tế không ngừng được tăng
trưởng, phát triển, góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc. Tuy
110
nhiên, trong tổ chức thực thi chính sách xã hội cũng còn tồn tại nhiều bất cập.
Nguyên nhân của những bất cập do cán bộ hoạch định chính sách xã hội chưa
nhận thức đúng vai trò của chính sách xã hội và tầm quan trọng của công tác
xã hội hóa chính sách xã hội dẫn đến việc thiết kế chính sách chưa phù hợp,
thiếu cơ chế động viên người dân tham gia. Cán bộ hoạch định chính sách
chưa phân định rõ vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường trong phân
bố các nguồn lực, nên nhiều chính sách xã hội chưa được đặt ngang tầm với
chính sách kinh tế, chưa được đầu tư thỏa đáng, lại còn phụ thuộc quá nhiều
vào ngân sách nhà nước. Đầu tư cho chính sách xã hội chỉ được tính toán sau
khi Nhà nước giải quyết xong các khoản đầu tư khác. Điều này dẫn tới việc
chậm trễ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, hoặc giải quyết nhưng tính
hiệu quả không cao. Sự tích tụ cái cũ và sự phát sinh cái mới các vấn đề xã
hội sẽ tác động tiêu cực đến đời sống xã hội nói chung và các quan hệ giữa
con người với con người nói riêng. Bên cạnh đó, nhiều chính sách xã hội cần
có sự đầu tư từ ngân sách nhà nước lại có xu hướng xóa bao cấp một cách tràn
lan, thị trường hóa bằng bất cứ giá nào. Trái lại, một số chính sách lại được
bao cấp nặng theo kiểu ban phát, với cơ chế “xin - cho” dẫn đến tâm lý ỷ lại,
trong chờ vào viện trợ Nhà nước, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn chế,
không có đủ khả năng để điều tra nhu cầu, phát hiện bất cập, điều chỉnh chính
sách và bổ sung chính sách.
Hai là, quy trình xây dựng chính sách xã hội chưa hợp lý, thiếu tính khả
thi, nhiều nội dung còn bất cập, gây trở ngại trong thực thi chính sách xã hội.
Trong hoạch định, thiết kế chính sách xã hội thiếu điều tra đánh giá nhu
cầu xã hội nên thiếu cơ sở khoa học trong một số khâu của quy trình chính
sách; chưa chú trọng đến việc điều tra, tổng kết thực tiễn và chưa đủ mạnh để
giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư. Chẳng hạn, chính sách lao động
và việc làm chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát
triển kinh tế, tạo nhiều việc làm vì thiếu chính sách khuyến khích phát triển thị
trường lao động, cụ thể là chính sách tiền lương, tiền công chưa thật sự theo
111
nguyên tắc thị trường và hiệu quả; chưa có hệ thống chính sách khuyến khích
hộ nghèo thoát nghèo,… Trong thực thi chính sách xã hội, nhận thức và trách
nhiệm của cán bộ thực thi chính sách còn nhiều hạn chế. Cán bộ thực thi chính
sách chưa “đọc” được và hiểu đúng các hợp phần chính sách, nên chưa có kế
hoạch triển khai phù hợp với từng hợp phần chính sách gắn với từng đối tượng,
từng phạm vi, từng vùng miền khác nhau. Do vậy, việc chưa nhận thức đầy đủ,
đúng đắn mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện
thuộc về trách nhiệm của các nhà hoạch định, tổ chức thực thi chính sách, lực
lượng tham gia và cả đối tượng chịu ảnh hưởng chính sách. Từ đó, chưa tạo
nên sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, chưa phát huy được sức mạnh
tổng hợp khi tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách. Vì thế, việc thực hiện
chính sách xã hội đòi hỏi các ngành, các cấp, các cá nhân cần hiểu rõ vai trò,
trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc tham gia thực thi chính sách.
Ba là, phương pháp tuyên truyền, kiểm tra giám sát, thu nhận và phản hồi
thông tin của chủ thể thực thi chính sách xã hội còn hạn chế về năng lực, tính
chuyên môn hóa chưa cao.
Hình thức tuyên truyền thiếu tính linh hoạt, chưa hấp dẫn, chưa phù hợp
với từng đối tượng cụ thể, từng trường hợp rủi ro, từng vùng miền nên người dân
(đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội) và các tổ chức chính trị - xã hội (đối
tượng thụ hưởng, phối hợp thực hiện chính sách xã hội) chưa hiểu đúng về
quyền hạn, nghĩa vụ mà mình nhận được khi tham gia chính sách hoặc hiểu
nhằm về chính sách nên quá trình triển khai chính sách không mang lại hiệu quả
cao. Thực tế những năm qua đã và đang thực thi chính sách giảm nghèo là minh
chứng điển hình cho thấy nhiều bất cập và tính không bền vững. Hiện nay, chính
sách giảm nghèo nặng về tính bao cấp, các gói hỗ trợ về tiền thường cho không
hơn là hỗ trợ vay ưu đãi. Người đứng đầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
cho rằng nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ việc Nhà nước đã không
chỉ hỗ trợ người nghèo “cần câu” mà hỗ trợ luôn “con cá”. Do vậy, tạo ra tâm lý
ỷ lại cho người thụ hưởng nên khá nhiều người chưa có ý thức vươn lên thoát
nghèo, thậm chí không muốn thoát nghèo [86, tr.96-97].
112
Bốn là, bộ máy thực thi chính sách xã hội còn nhiều thủ tục hành chính.
Nếu như mô hình tổ chức hoạt động của các cơ quan thực thi chính sách
xã hội chậm đổi mới, phương thức triển khai chính sách của chủ thể quản lý
thiếu đa dạng, thiếu chủ động, chưa phù hợp đến tính đặc thù của từng đối
tượng thụ hưởng chính sách xã hội là một trở ngại, thì việc thiết lập thể chế tổ
chức bộ máy thực thi chính sách xã hội với thủ tục hành chính cồng kềnh,
nhiều khâu nấc, rườm rà, nhiêu khê, không phân định rõ trách nhiệm sẽ dẫn
đến việc triển khai chính sách xã hội kém hiệu quả, ảnh hưởng đến chất lượng,
mục tiêu của chính sách. Tình trạng tham nhũng, bớt xén, ăn chặn, sử dụng sai
mục đích các khoản cứu trợ, tiền bảo hiểm y tế,… cũng dẫn đến việc triển khai
chính sách xã hội chậm, kém hiệu quả và gây mất niềm tin của người dân vào
chính sách. Những hiện tượng lợi dụng, tham ô tiền cứu trợ trong thực thi chính
sách xã hội không chỉ bộc lộ đạo đức yếu kém của một bộ phận quan chức
công quyền mà còn làm sai lệch ý nghĩa cao đẹp của công việc cứu trợ xã hội
và chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Năm là, nhận thức của người dân về chính sách xã hội còn hạn chế.
Đảng, Nhà nước lãnh đạo, quản lý việc hoạch định và tổ chức thực thi
chính sách xã hội góp phần ổn định thể chế chính trị, phát triển kinh tế và thực
hiện tiến bộ xã hội, đảm bảo cho mọi người được sống trong tình nhân ái, bình
đẳng và công bằng. Tuy nhiên, nhận thức của cộng đồng về chính sách xã hội
hoặc chưa biết, hoặc biết chưa đầy đủ hoặc không đủ niềm tin vào chính sách,
tâm lý, thói quen và đạo đức của người dân trước những rủi ro cần chia sẻ còn
nhiều hạn chế là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không tham gia, không phối
hợp với chính quyền trong thực thi chính sách xã hội. Hiện nay, trong xã hội ta
tồn tại hai loại tâm lý về chính sách xã hội. Một là, số người trong đối tượng
được hưởng chính sách xã hội thường quan niệm xã hội phải có trách nhiệm
với mình nên trông chờ vào sự viện trợ của Nhà nước, do đó thiếu ý chí khắc
phục khó khăn, vươn lên cống hiến cho xã hội. Loại tâm lý này do ảnh hưởng
bởi tư duy thời bao cấp, việc gì cũng nhờ vào Đảng và Nhà nước. Số người
ngoài diện chính sách lại hiểu mình bị phân biệt đối xử nên lơ là với trách
113
nhiệm công dân, thậm chí có người tùy tiện xoay sở, vi phạm kỷ cương, phép
nước. Ngay cả lãnh đạo nhiều địa phương, nơi thực hiện chính sách xã hội
cũng có những hạn chế trong nhận thức hoặc trong đạo đức nghề nghiệp khi
còn nặng về tư tưởng chưa muốn thoát nghèo để nhận được nhiều hơn ngân
sách nhà nước. Hai là, đối tượng được thụ hưởng chính sách xã hội mang tâm
lý sĩ diện, ngại cho người khác biết hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của mình.
Loại tâm lý này không chỉ tồn tại trong người dân mà còn tồn tại ở một số cán
bộ địa phương. Điều này phản ánh sai lệch thực trạng kinh tế, sai lệch thông tin
về nghèo đói và nhiều vấn đề xã hội bức xúc khác của nhiều địa phương, gây
ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả thực hiện chính sách xã hội [86, tr.91-92].
Nhận định nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong thực hiện chính
sách xã hội thời kỳ đổi mới, Đảng ta cho rằng: “Nước ta còn nghèo, hậu quả
chiến tranh để lại rất nặng nề, thiên tai xảy ra thường xuyên, gây thiệt hại lớn.
Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo. Chính sách xã hội còn chậm
đổi mới so với chính sách kinh tế. Còn thiếu các giải pháp hữu hiệu để thu hẹp
khoảng cách về mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền. Việc tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa
các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Công tác thanh tra, kiểm tra ở nhiều
nơi chưa được coi trọng. Nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội còn hạn
hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; chưa động viên thu hút được nhiều
sự tham gia của xã hội và khuyến khích người thụ hưởng chính sách tự vươn
lên” [38, tr.105]. Trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ hiện nay, trên cơ sở
làm rõ nguyên nhân gây ra những trở ngại trong thực thi chính sách xã hội,
Đảng và Nhà nước cần tìm ra các nhóm giải pháp cụ thể nhằm khắc phục
những hạn chế, trở ngại. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới
quá trình nhận thức và thực hiện chính sách xã hội theo những chỉ dẫn mang
tính định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh để tiếp tục nâng cao chất lượng,
hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở nước ta.
114
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong 30 năm đổi mới, thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to
lớn, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc nhằm cải thiện, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận
và đánh giá cao là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện Mục
tiêu Thiên niên kỷ. Tuy nhiên, xem xét cụ thể từng chính sách thì các giá trị -
mục tiêu của hệ thống chính sách xã hội về phúc lợi, công bằng và hòa nhập xã
hội mới đạt được ở mức độ thấp và còn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập.
Thứ nhất, chính sách lao động và việc làm mặc dù đã được quan tâm và
đạt được nhiều thành tựu, nhưng đến nay việc làm cho người lao động vẫn
chưa bền vững, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng.
Thứ hai, chính sách xóa đói giảm nghèo mặc dù đạt được những kết quả
ấn tượng nhưng thiếu vững chắc, tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao.
Thứ ba, chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân còn nhiều hạn
chế. Y tế tuyến cơ sở nhiều nơi còn yếu kém; nguy cơ bùng phát dịch bệnh lớn;
vệ sinh an toàn thực phẩm chưa bảo đảm.
Thứ tư, chính sách đối với người có công với cách mạng còn hạn chế.
Mức trợ cấp ưu đãi đối với người có công tuy đã được điều chỉnh tăng cao hơn
tiền lương nhưng vẫn còn thấp so với mức bình quân tiêu dùng của xã hội. Đời
sống của một bộ phận người có công còn khó khăn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém trên đây.
Về nguyên nhân khách quan: Do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, làm giảm hiệu quả thực hiện chính sách xã hội;
dân số tăng nhanh, trình độ dân trí thấp là một khó khăn lớn cho việc thực hiện
chính sách xã hội.
Về nguyên nhân chủ quan: Nhận thức của cán bộ hoạch định chính sách
xã hội còn hạn chế nên việc thiết kế chính sách chưa phù hợp; quy trình xây
115
dựng chính sách xã hội chưa hợp lý, thiếu tính khả thi, nhiều nội dung còn bất
cập, gây trở ngại trong thực thi chính sách xã hội; phương pháp tuyên truyền,
kiểm tra giám sát, thu nhận và phản hồi thông tin của chủ thể thực thi chính sách
xã hội còn hạn chế về năng lực, tính chuyên môn hóa chưa cao; bộ máy thực thi
chính sách xã hội còn nhiều thủ tục hành chính; nhận thức của người dân về
chính sách xã hội còn hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại và tiếp tục nâng cao hiệu quả
việc thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam trong những năm tới, cần tiếp tục
quán triệt việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn cho phù hợp
với xu thế vận động của quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay.
116
Chương 4
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HIỆN NAY
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và
khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn,
phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” [39, tr.70-75]. Điều này
cho thấy, đây là những nhân tố có tác động mạnh mẽ và đặt ra nhiều vấn đề đối
với việc tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội trong
những năm tiếp theo.
4.1.1. Những nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách xã hội
hiện nay
Thứ nhất, sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và là
nhân tố tác động đến việc hoạch định, thực thi chính sách xã hội cả chiều thuận
lẫn chiều nghịch. Toàn cầu hóa không chỉ là tác nhân giúp các quốc gia chủ
động hội nhập quốc tế, ra sức tận dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức
mà còn phát sinh nhiều hậu quả tiêu cực cần được khắc phục. Đảng ta khẳng
định: “Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang
thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường” [36, tr.95]. Kinh tế thế giới tuy có
dấu hiệu được phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều khó
khăn, bất ổn, nảy sinh nhiều vấn đề an sinh xã hội mới như thất nghiệp, nghèo
117
đói, dịch bệnh, an toàn thu nhập,… đòi hỏi phải có sự tham gia, đối thoại và
hợp tác của nhiều quốc qua.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội để Việt Nam học tập kinh
nghiệm, giao lưu, hợp tác với các nước trong phát triển hệ thống chính sách xã
hội mang tính hiện đại, hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và
tiến tới phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Mở cửa, hội nhập quốc tế không chỉ
giúp nước ta học hỏi kinh nghiệm quốc tế, huy động thêm các nguồn lực để
thực thi chính sách xã hội, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn
giúp Việt Nam tiếp thu quan điểm quốc tế về những thay đổi trong nhận thức
về chính sách xã hội theo hướng ngày càng mở rộng quyền và dịch vụ cho
người dân. Nghĩa là, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện chính sách xã hội không
chỉ thể hiện ở việc duy trì mức sống vật chất cần thiết, mà quan trọng hơn con
người được phát triển về mặt tinh thần với lối sống có văn hóa và giáo dục, dân
trí ngày càng cao trong vai trò và trách nhiệm xã hội [9, tr.191].
Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế cũng tạo ra những áp
lực mới trong việc thực hiện chính sách xã hội. Đó là sự phân cực giàu - nghèo,
làm trầm trọng thêm những bất công và bất bình đẳng trong xã hội, sự bùng nổ
dân số, sự đe dọa an toàn và an ninh trong phát triển bởi chủ nghĩa khủng bố
gia tăng, nguy cơ phá vỡ truyền thống và đánh mất bản sắc văn hóa trước sự
xâm thực của những biến thái mới của chủ nghĩa thực dân như chủ nghĩa thực
dân công nghệ, tài chính và sự xâm lăng văn hóa [117, tr.50-51]. Trong bối
cảnh đó, sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là các nước lớn làm cho
độ rủi ro và tính bất định tăng lên. Tình trạng nguy nan về cạn kiệt tài nguyên
và suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu nhất là hiện tượng nước biển dâng
cao là một khó khăn lớn đối với việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách xã hội ở nước ta trong thời gian tới. Những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng,
phức tạp, khó lường với nhiều nghịch lý, tác động tiêu cực của những cú sốc
khó lường trước của tình hình thế giới những năm đầu thế kỳ XXI đã và đang
118
đặt ra những thách thức lớn đối với quá trình hoạch định, thực thi chính sách xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng phát triển nhưng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn, trong đó có việc thực hiện chính sách xã hội nhằm phát huy nhân tố con
người. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Thế và
lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày
càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [150, tr.73]. Tuy nhiên, sự nghiệp đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, việc thực hiện chính sách xã hội
nói riêng trong những năm tiếp theo còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức trên các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội.
Về chính trị, nhiều vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động trong cơ chế
quản lý chưa được tổng kết, làm rõ và chưa mang lại kết quả mong muốn.
Những bất cập trong tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế vận hành bộ máy
cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho việc hoạch định và thực thi chính sách
xã hội. Việc thiết lập thể chế tổ chức bộ máy thực thi chính sách xã hội với
thủ tục hành chính cồng kềnh, nhiều khâu nấc, không phân định rõ trách
nhiệm sẽ dẫn đến việc triển khai chính sách xã hội kém hiệu quả, ảnh hưởng
đến chất lượng, mục tiêu của chính sách. Quy trình xây dựng chính sách xã
hội thiếu điều tra đánh giá nhu cầu xã hội nên thiếu cơ sở khoa học trong một
số khâu của quy trình chính sách; chưa chú trọng đến việc điều tra, tổng kết
thực tiễn và chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư.
Tình trạng tham nhũng, lãng phí và sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả các
nguồn lực cho an sinh xã hội, thực hiện chính sách xã hội còn tồn tại ở nhiều
cơ quan, địa phương.
119
Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức tương đối cao,
nhưng do quy mô của nền kinh tế còn nhỏ, chất lượng tăng trưởng còn thấp, lại
bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nên sức cạnh tranh của nền
kinh tế chưa cao, ảnh hưởng đến nguồn lực vật chất thực hiện chính sách xã
hội. Nguồn lực đầu tư cho việc thực hiện chính sách xã hội còn hạn chế, khả
năng huy động từ các nguồn khác, đặc biệt từ cộng đồng còn thấp, chủ yếu dựa
vào nguồn ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức độ hỗ trợ thấp, chưa
theo kịp với sự phát triển của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khả năng cân đối và sử dụng các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội, kể cả
quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các chế độ bảo trợ xã hội còn gặp
nhiều khó khăn và thách thức lớn. Trong nền kinh tế thị trường, chênh lệch về
các chỉ số an sinh xã hội, khả năng mở rộng quyền và dịch vụ cho người dân
giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc bằng với mức trung bình của cả nước
vẫn còn lớn. Nhóm người nghèo, người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng
xa ngày càng trở nên dễ bị tổn thương do những bất cập về mức hưởng lợi từ
tăng trưởng kinh tế.
Về xã hội, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn còn cao, giảm nghèo chưa
bền vững, chênh lệch về khoảng cách giàu - nghèo đang gia tăng. Hậu quả
chiến tranh vẫn còn ảnh hưởng nặng nề, đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư nguồn
ngân sách đảm bảo an sinh xã hội đối với các đối tượng thuộc diện gia đình
chính sách, gia đình có công với nước. Các dòng di dân tự do, di chuyển việc
làm từ nông thôn lên thành thị, từ vùng này sang vùng khác, từ trong nước ra
nước ngoài với cường độ ngày càng mạnh, tạo áp lực cho Nhà nước trong việc
thực hiện chính sách xã hội. Xu hướng già hóa dân số đang diễn ra với tốc độ
chưa từng có trong lịch sử. Theo ước tính của Ủy ban quốc gia Người cao tuổi
đến năm 2020, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm khoảng 16% dân số
[9, tr.188]. Xu hướng này đặt ra nhiều áp lực đối với Nhà nước và cộng đồng
trong thực hiện chính sách xã hội đối với người già trong những năm tiếp theo.
Đó là các vấn đề về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, dịch vụ chăm sóc sức
120
khỏe, vấn đề nhà ở, hệ thống trợ cấp lương hưu, cũng như nhiều vấn đề an sinh
xã hội khác. Bên cạnh đó, những rủi ro về mặt xã hội và hạn chế về khả năng
phòng ngừa rủi ro do ảnh hưởng dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, thiên tai, lụt bão, xâm nhập mặn, hạn hán, mất mùa diễn ra với tần suất
ngày càng lớn và gây thiệt hại ngày càng nặng. Trong khi đó, Nhà nước chưa
có phương án hiệu quả để hạn chế thiệt hại cho người dân, dẫn đến nhiều bất
cập trong hoạch định và tổ chức thực thi chính sách.
4.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách xã hội
hiện nay
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, khi mà đất nước bước vào giai đoạn
thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng, việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống cho con người, góp phần ổn định và phát triển xã hội là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu. Do vậy, với tư cách là chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội
trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta cần giải quyết tốt những vấn đề đặt
ra đối với việc thực hiện chính sách xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam nhằm khắc phục những
khuyết tật của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường với quy luật vốn có tác động rất lớn đến chính sách xã
hội cả chiều thuận và chiều nghịch. Một mặt, tạo cơ hội cho con người phát
huy khả năng, tiềm năng vốn có của mình, kích thích mọi cá nhân, tập thể và
toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác, các rủi ro về kinh
tế, xã hội trong nước, trên toàn cầu ngày càng đa dạng, phức tạp, làm cho con
người luôn có những bất an về mặt xã hội và bất lợi cao trong đời sống xã hội.
Do vậy, cần khắc phục những rủi ro do cơ chế thị trường mang lại nhằm phát
huy vai trò nhân tố con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
121
Thứ hai, thực hiện chính sách xã hội đảm bảo để nhân dân được hưởng
thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển
đất nước.
Công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ hiện nay cần nhận thức sâu sắc
vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã
hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chính sách xã hội
phải bảo đảm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và chính sách phát triển. Phải đảm bảo giải quyết tốt những vấn đề
xã hội bức xúc; bảo đảm sự hài hòa về lợi ích, về quan hệ xã hội, quan tâm
thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc
thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa
giàu - nghèo. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công; giải quyết lao
động, việc làm và thu nhập của người lao động; đảm bảo an sinh xã hội, nâng
cao phúc lợi xã hội; coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; góp phần giảm
nghèo bền vững, ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, phải tăng cường xã hội hóa các nguồn lực trong nước và hợp tác
quốc tế trong việc thực hiện chính sách xã hội.
Thứ tư, thực hiện chính sách xã hội phải gắn kết chặt chẽ với chính sách
kinh tế. Theo đó, chính sách phát triển kinh tế phải nhằm thực hiện mục tiêu xã
hội nhất định, phải tìm động lực phát triển trong xã hội, hướng tới sự ổn định
và phát triển xã hội. Trong tăng trưởng kinh tế, phải quán triệt quan điểm vì
con người, mang lại hạnh phúc cho con người, đảm bảo cho các nhóm dân cư
trong xã hội, nhất là nhóm xã hội yếu thế đều được thụ hưởng thành quả của
tăng trưởng kinh tế.
Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội phụ thuộc vào việc giải quyết những
vấn đề xã hội đặt ra. Trong những năm tiếp theo, để giải quyết những vấn đề
122
đặt ra đối với chính sách xã hội, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục quán
triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Chỉ trên
cơ sở đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội mới được hiện thực hóa
trong cuộc sống, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
mới đảm bảo tính đúng đắn, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc
sống con người, đảm bảo an sinh xã hội và nâng cao phúc lợi xã hội.
4.2. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức
Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho cấp
ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách xã hội.
Thực tiễn đổi mới đất nước để lại cho Đảng Cộng sản Việt Nam bài học
kinh nghiệm về giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa, mà ở đó chính sách
xã hội thể hiện cả tầng nổi lẫn tầng sâu giá trị về bản chất của chế độ xã hội
mới mà chúng ta đang xây dựng. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò
của chính sách xã hội đối với thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn quán
triệt, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh để tiếp tục ban hành nhiều chính sách
xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đặt con người vào vị trí trung tâm chiến lược của mọi sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Từ nhận thức đó càng thấy rõ chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan
trọng trong quản lý phát triển xã hội, trong việc giải quyết những vấn đề xã hội
bức bách qua từng thời kỳ cách mạng. Hiệu quả việc giải quyết các vấn đề xã
hội không chỉ góp phần tạo nên sự ổn định, phát triển lành mạnh các quan hệ
xã hội mà còn thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng và phát triển kinh tế
đảm bảo tính bền vững, lâu dài. Chính sách xã hội chỉ trở thành động lực của
sự phát triển nếu đó là những chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc
công bằng, dân chủ, hợp lý và nhân văn. Ngược lại, chính sách xã hội sai lầm
123
hoặc lạc hậu so với thực tiễn vận động của đất nước có thể kìm hãm sự phát
triển của xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát huy nhân tố con người.
Thời kỳ trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, cơ
chế phân phối bình quân được xác lập và đồng nhất chủ nghĩa bình nghĩa với
công bằng xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, với sự phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, sự phân hóa xã hội diễn ra ngày
càng sâu sắc, bất công xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức, có nguy cơ đẩy các
quan hệ xã hội đến chỗ căng thẳng, xa rời bản chất nhân đạo của chủ nghĩa xã
hội. Do vậy, tính định hướng xã hội chủ nghĩa về phương diện xã hội góp phần
phòng ngừa nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa [6, tr.190], mà ở đó, chính
sách xã hội chính là các chỉ báo cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố
giá trị xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Vì thế, chính sách xã hội có quan hệ chặt chẽ tới yêu cầu giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị và kinh tế, góp phần ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, mang lại sự tiến bộ, công bằng xã hội cho con người.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chính
sách xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức theo quan điểm đổi mới
và phát triển. Đảng chỉ rõ: “Khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là
coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [29,
tr.86]. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng,
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ, công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần;
giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân
với tập thể và cộng đồng xã hội.
Muốn thực hiện mục tiêu vì con người và phục vụ lợi ích cho con người,
chính sách xã hội phải là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế - xã hội.
Trong lý luận cũng như trên thực tế, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, thực
hiện công bằng xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội phản ánh mối quan hệ bản
124
chất vốn có của chế độ ta. Do vậy, nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò của
chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ theo nguyên tắc
công bằng, dân chủ và nhân đạo sẽ góp phần định hình giá trị xã hội chủ nghĩa
và tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển đất nước mang tính bền vững.
Thứ hai, thường xuyên mở các lớp tập huấn nhằm nâng cao tinh thần,
trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác chính sách xã hội.
Tính khả thi của chính sách xã hội phụ thuộc rất lớn vào vị trí, vai trò của
đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém” [93, tr.260]. Theo đó, đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện
chính sách xã hội đòi hỏi phải có một năng lực tổng hợp về các phẩm chất
chính trị, đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ để không ngừng
đổi mới tư duy, trau dồi tác phong sâu sát thực tiễn, liên hệ mật thiết với quần
chúng nhân dân.
Trên thực tế, những năm qua, một trong những nguyên nhân làm cho
chính sách xã hội thiếu tính khả thi, nhiều bất cập, khó triển khai trong thực
tiễn cuộc sống chính là do nhận thức, trách nhiệm và trình độ công tác của đội
ngũ cán bộ thực thi chính sách còn nhiều hạn chế. Bởi lẽ, muốn triển khai có
hiệu quả chính sách, cán bộ phải “đọc” được chính sách và hiểu đúng về chính
sách, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh
tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách. Vì thế, nâng cao nhận thức,
trình độ công tác, kỹ năng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ thực thi chính sách xã
hội là việc làm hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, việc hoạch định
chính sách và thực thi chính sách thường là những chủ thể khác nhau nên việc
nâng cao nhận thức, chuyển giao chính sách là yêu cầu bắt buộc.
Việc nâng cao tinh thần và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên làm
công tác xã hội nên thực hiện thông qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng chính
sách. Đối với các lớp tập huấn nên phân theo chủ thể triển khai, đối tượng thụ
hưởng chính sách, theo từng chính sách và theo địa bàn cụ thể. Tại các buổi tập
huấn, ngoài việc nâng cao nhận thức, trình độ công tác cần trang bị thêm các kỹ
125
năng thực thi, kỹ năng tuyên truyền, hướng dẫn người dân về chính sách và
động viên người dân tham gia chính sách. Chỉ như vậy, đội ngũ cán bộ, đảng
viên triển khai mới nhận thức đầy đủ, đúng đắn về mục tiêu, ý nghĩa, nội dung
của chính sách và các giải pháp thực hiện, mới có thể triển khai thành công
chính sách trong cuộc sống và xử lý những vướng mắc phát sinh trong quá
trình triển khai.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia
thực hiện chính sách xã hội.
Để đưa chính sách xã hội vào cuộc sống, cần giúp cho đối tượng của
chính sách xã hội hiểu biết về chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến
nghĩa vụ và quyền lợi của họ, khuyến khích, động viên họ đóng góp ý kiến xây
dựng và tham gia thực hiện chính sách xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng cần
đến vai trò của chủ thể quản lý để giải thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng,
làm cho mọi người hiểu thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như
là của họ, rồi thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy [95, tr.249]. Thực hiện lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước luôn đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động người dân tham gia thực hiện chính sách xã hội, góp
phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, các nhóm xã hội và
cả cộng động tham gia chính sách trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Công tác tuyên truyền chính sách xã hội là một hoạt động quan trọng để
chính sách đi vào cuộc sống, để người dân và các tổ chức kinh tế - xã hội nhận
thức đúng đắn, đầy đủ hơn về quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích mà mình có
được khi tham gia chính sách xã hội. Để công tác tuyên truyền, vận động tham
gia thực hiện chính sách xã hội phát huy tính hiệu quả, đòi hỏi nhận thức của
đội ngũ cán bộ chuyên trách và người dân phải đạt đến một trình độ nhất định
để hiểu, chấp nhận hình thức và nội dung thông tin tuyên truyền.
Thực tế cho thấy, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ tuyên truyền của
cán bộ, cơ quan thực thi chính sách xã hội còn nhiều hạn chế, thiếu linh hoạt.
Kinh phí chi cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến còn thiếu so với yêu cầu.
126
Công tác thông tin, tuyên truyền chính sách xã hội ở địa phương còn chậm,
chưa mang tính phổ biến. Hơn nữa, hình thức tuyên truyền thiếu tính phong
phú, đa dạng, thậm chí mang tính nghèo nàn, chưa phù hợp với từng đối
tượng, từng vùng miền cụ thể nên người dân chưa nắm bắt được mục đích,
nội dung và hình thức tham gia, dẫn đến tình trạng người dân chưa thật sự
thiết tha với việc tham gia đóng góp. Như vậy, trở ngại lớn nhất khiến người
dân không, không thể, không muốn tham gia chính sách xã hội xuất phát từ
nhận thức không đầy đủ của họ về chính sách. Người dân chưa hiểu rõ đối
tượng thụ hưởng của từng loại chính sách, hoặc cho rằng, quyền lợi của mình
thường không được bảo đảm.
Vì thế, để tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến,
vận động tham gia thực hiện chính sách xã hội một cách có hiệu quả, cần thay
đổi cách thức triển khai chính sách với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng
và cách làm mang tính linh hoạt, sáng tạo. Cụ thể:
Một là, thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với nhân dân để
giải đáp những thắc mắc về chính sách xã hội, giúp người dân hiểu hơn về
chính sách xã hội. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, phổ biến
và tổ chức thực hiện chính sách xã hội.
Hai là, thay đổi cách thức theo dõi các đối tượng được hưởng chính sách
xã hội ở Trung ương và địa phương.
Ba là, xác định đối tượng cần phổ biến, truyền thông về chính sách xã
hội mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, quán triệt sao cho phù hợp. Riêng
đối với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực hiện và
kiểm tra thực hiện chính sách cần mở các lớp tập huấn để quán triệt, nghiên
cứu nội dung chính sách, bàn về các giải pháp khắc phục trở ngại trong thực
thi chính sách xã hội. Ngoài ra, tổ chức các lớp phổ biến, tuyên truyền về
chính sách xã hội cho các cơ quan thông tin đại chúng, đội ngũ cán bộ làm
công tác truyền thông. Cung cấp tài liệu hướng dẫn việc thực thi chính sách
127
xã hội cho các tổ chức, doanh nghiệp liên quan để xây dựng chương trình
tham gia chính sách.
Bốn là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách xã
hội đến mọi tầng lớp nhân dân và các đối tượng liên quan để mọi người được
biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, từ đó tạo dư luận xã hội và môi
trường thuận lợi cho quá trình thực thi chính sách. Chẳng hạn, để đạt được mục
tiêu bảo hiểm y tế toàn dân, cần triển khai thường xuyên, đồng bộ công tác
truyền thông về bảo hiểm y tế và Luật bảo hiểm y tế để người dân hiểu rõ hơn
về lợi ích khi tham gia bảo hiểm y tế đối với bản thân, gia đình và cộng đồng.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách xã hội phải
đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống báo chí, nhất là hệ
thống báo chí chuyên ngành về chính sách xã hội, để lực lượng này đảm bảo
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cung cấp thông tin chính thống, chủ động định
hướng và làm chủ thông tin, tăng cường hiệu quả truyền thông. Thông qua vai
trò báo chí, năng lực nhận thức người dân và toàn xã hội về chính sách xã hội,
về thực hiện quy định pháp luật chính sách xã hội được nâng cao. Để các cơ
quan báo chí làm tốt vai trò, trách nhiệm của mình, cơ quan quản lý, chỉ đạo
báo chí cần kịp thời định hướng, chỉ đạo thông tin, tuyên truyền về các vấn đề
xã hội để đạt được mục tiêu chiến lược truyền thông. Đồng thời, có những
chương trình tập huấn ngắn hạn, dài hạn cho lãnh đạo và phóng viên các cơ
quan báo chí về chính sách xã hội để sáng tạo, đăng tải các tác phẩm có giá trị,
xứng đáng là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, đi đầu trong cuộc
đấu tranh vì con người, vì an sinh xã hội và sự phát triển bền vững của quốc
gia, dân tộc.
Sáu là, kịp thời phát hiện, khen thưởng, động viên các địa phương, cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện tốt công tác truyền thông về
chính sách xã hội. Đồng thời, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp
luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác trong thực hiện chính sách xã hội
[86, tr.286-292].
128
4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
Thứ nhất, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc
thực hiện chính sách xã hội
Những thành tựu đạt được trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức
bách của con người đã minh chứng cho tính đúng đắn của việc hoạch định và
tổ chức thực thi chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả những việc Đảng và
Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà không
nhằm mục đích ấy là không đúng” [98, tr.310], trong đường lối đổi mới đất
nước, Đảng và Nhà nước luôn phấn đấu thực hiện mục tiêu phải hết sức chăm
nom đến đời sống của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
toàn xã hội.
Trong tổ chức và thực thi chính sách xã hội, các cơ quan nhà nước có
nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện khung khổ và hướng dẫn pháp lý cho việc
thực hiện chính sách xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế như việc
ban hành một số văn bản vẫn chưa bảo đảm thời gian theo luật định, những quy
định chưa rõ ràng, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ ban hành chậm, thiếu đồng bộ
nên tạo ra nhiều kẽ hở và tình trạng vi phạm pháp luật về thực hiện chính sách
xã hội còn phổ biến. Tính quy định về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thực
hiện chính sách xã hội chưa rõ ràng. Tính liên thông giữa các cơ quan này chưa
cao nên chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, triển khai chính sách còn chậm
và hiệu quả thấp. Năng lực quản lý và tổ chức thực thi chính sách xã hội của
đội ngũ cán bộ nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bộ máy thực hiện
chính sách xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, kinh phí chi cho hoạt
động thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chính sách xã hội còn thiếu,
chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của cán bộ chuyên
trách. Công tác quản lý nhà nước về tổ chức thực hiện chính sách xã hội của
chính quyền ở địa phương cũng còn nhiều hạn chế, bất cập như việc thanh tra,
kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ, thường xuyên và thiếu tính đồng bộ. Điều này
129
dẫn đến tình trạng chủ trương, chính sách thì đúng nhưng việc triển khai chưa
mang lại hiểu quả như mong đợi [9, tr.162-164].
Ngoài ra, quy trình thực hiện chính sách xã hội còn rườm rà, nhiều khâu,
nhiều nấc. Từ việc xác định đối tượng thụ hưởng chính sách đến việc tổ chức
thực hiện chính sách còn chậm, hiệu quả chưa cao, gây mất niềm tin trong nhân
dân. Vì thế, cần tiếp tục kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều
hành việc thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa Trung
ương và địa phương, giữa các cấp quản lý, trong đó, tập trung vào đổi mới quy
trình, phương thức và cải tiến thủ tục hành chính.
Để đổi mới quy trình thực thi chính sách xã hội, trước hết cần cụ thể hóa
chính sách bằng các chương trình hành động, chương trình mục tiêu, đề ra kế
hoạch thực hiện và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách trên cơ
sở nghiên cứu hợp lý để tránh sự rườm rà, phức tạp nhằm tạo ra tính ổn định
tương đối cho môi trường thực thi chính sách. Chuẩn bị nguồn lực cho việc
thực hiện chính sách, bao gồm nguồn nhân lực và nguồn kinh phí. Về nguồn
nhân lực, để bảo đảm tính hiệu quả của chính sách, cần đào tạo đội ngũ cán bộ
làm công tác xã hội cả về số lượng và có trình độ chuyên môn cao về năng lực
quản lý, tổ chức thực thi chính sách. Trong đó, đặc biệt chú ý việc tăng cường
và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội ở sơ sở, nhất là
vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thiết lập bộ máy tổ chức thực
hiện và bộ máy giám sát trên cơ sở ngành dọc và ngang, đảm bảo tính hệ thống,
hạn chế tình trạng phân tán, cát cứ như hiện nay. Về nguồn kinh phí, cần khai
thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm chi phí từ ngân sách nhà nước,
nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm khai
thác các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước. Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh
phí nhằm phát hiện, phòng ngừa và xử lý hành vi sử dụng nguồn kinh phí
không đúng mục đích, kém hiệu quả.
130
Đổi mới quy trình triển khai chính sách xã hội cần tổ chức thực hiện một
cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân
liên quan. Cần xác định rõ ai là người chịu trách nhiệm chính và tham gia phối
hợp trong quá trình tổ chức thực thi chính sách xã hội. Trong phân công tổ
chức thực hiện, nên căn cứ vào thế mạnh, khả năng và tính chất chuyên môn
của từng cá nhân mà giao nhiệm vụ phụ trách, tránh tình trạng trùng chéo
nhiệm vụ hay không rõ trách nhiệm. Cuối cùng, cần thực hiện tốt công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách xã hội, qua đó phát hiện
yếu kém trong cơ chế quản lý, trong chính sách để kiến nghị với cơ quan có
thẩm quyền đề ra biện pháp khắc phục. Đồng thời, thông qua đó nhằm phát huy
những nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với việc tổ chức thực thi chính sách xã hội.
Kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc thực thi có
hiệu quả chính sách xã hội phải thực hiện tốt công tác cải tiến thủ tục hành
chính theo hướng đơn giản hóa các thủ tục rườm rà, nhiều nấc, nhiều khâu,
nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức và cá nhân có thể sử dụng hệ
thống dịch vụ của chính sách xã hội. Bên cạnh đó, còn khuyến khích, tạo điều
kiện để các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia ủng hộ và đầu tư
vào các lĩnh vực liên quan. Để thực hiện nhiệm vụ này, ngoài việc xây dựng
đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội có đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên
môn cao, giỏi về nghiệp vụ, việc nâng cấp hệ thống trang thiết bị hiện đại phục
vụ cho các hoạt động liên quan đến hệ thống chính sách xã hội cần được tăng
cường cả về số lượng và chất lượng. Lấy việc phân cấp quản lý là khâu đột phá
trong cải cách thủ tục hành chính, xây dựng lại quy trình giải quyết chính sách
xã hội nhằm thay đổi nhận thức, lề lối, tác phong làm việc và nâng cao trách
nhiệm công việc cho cán bộ phụ trách. Tiếp tục duy trì chế độ một cửa, các thủ
tục hành chính được niêm yết công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng
nắm bắt thông tin, giám sát trực tiếp quá trình thực hiện “chuyển đổi phong
cách hành chính sang tác phong phục vụ” [86, tr.277-280].
131
Thực tiễn đổi mới đất nước và sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn
cầu hóa, hợp tác quốc tế luôn đặt ra yêu cầu phải kiện toàn, hoàn thiện bộ máy
cơ quan các cấp trong tổ chức, quản lý, điều hành việc thực thi chính sách xã
hội. Thực hiện tốt giải pháp này không chỉ nâng cao hiệu quả chính sách xã hội
trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, mà
còn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc đề ra chính sách đúng
đắn và cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác chính sách xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ. Theo Người, cán bộ là gốc của mọi việc, do vậy, thông qua đào
tạo và bồi dưỡng cán bộ mới tạo ra đội ngũ thực hiện chính sách xã hội vừa
có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, vừa giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội ở Việt
Nam hiện nay còn thiếu về số lượng và chất lượng. Trong những năm tiếp
theo, để khắc phục trình trạng này, cần xây dựng chính sách đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ thực thi chính sách xã hội mang tính thường xuyên, lâu dài và
chú trọng những vấn đề sau:
- Tuyển chọn công chức, viên chức để tham gia các lớp đào tạo, bồi
dưỡng thực thi chính sách xã hội phải bảo đảm tính khách quan, công bằng,
phù hợp với đặc thù công việc, có bằng cấp, đạo đức nghề nghiệp và thâm niên
công tác để tham gia thực hiện và tuyên truyền chính sách. Cần có điểm ưu tiên
cho những đối tượng tốt nghiệp ở nước ngoài với khả năng ngoại ngữ để có thể
tiếp cận những thông tin, tài liệu nước ngoài về hướng dẫn quy trình hoạch
định chính sách tiên tiến, hiện đại. Đây là khâu có ý nghĩa quan trọng vì liên
quan đến công tác cán bộ như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Mục đích lựa
chọn cán bộ là dùng nhân tài cần phải hợp lý” [93, tr.636].
- Tổ chức đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân viên triển khai chính
sách xã hội thường xuyên, định kỳ để có định hướng đào tạo, bồi dưỡng.
132
- Nghiên cứu làm rõ mục tiêu, nội dung, phương thức đào tạo nguồn nhân
lực làm công tác xã hội. Trong đó, nội dung đào tạo cần chú trọng cả kiến thức
và kỹ năng triển khai chính sách xã hội, đặc biệt là những kiến thức về các đối
tượng thụ hưởng, kỹ năng tổ chức, kỹ năng tuyên truyền chính sách.
- Tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển công tác xã hội thành một nghề
mang tính chuyên nghiệp theo Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Với khoản kinh phí 2.347,4 tỷ đồng để thực hiện Đề án phát triển
nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020, mục tiêu của Đề án là xây dựng
đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội đạt yêu
cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ công tác
xã hội tại các cấp, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho 60.000 cán bộ, nhân viên công tác xã hội ở trình độ sơ cấp,
trung cấp, cao đẳng và đại học. Trong đó, mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất
từ một đến hai cán bộ, nhân viên công tác xã hội với mức phụ cấp hàng tháng
bằng mức lương tối thiểu, xác định rõ việc áp dụng ngạch, bậc lương viên
chức công tác xã hội phù hợp với đặc thù nghề nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào
tạo có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan quy hoạch
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đào tạo trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến
sỹ công tác xã hội theo hướng hội nhập quốc tế. Ở Việt Nam, mặc dù công tác
xã hội được công nhận là một nghề, nhưng vấn đề việc làm, chính sách đãi
ngộ vẫn chưa tạo động lực cho người làm nghề công tác xã hội bám trụ nghề
nghiệp lâu dài. Vì thế, cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nhằm
tạo cơ hội việc làm, điều chỉnh mức lương và các chính sách đãi ngộ khác để
phát triển mạng lưới công tác xã hội, phục vụ cho việc thực hiện chính sách
xã hội đạt hiệu quả [86, tr.273-275].
Thứ ba, huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã hội.
Phương thức thực hiện chính sách xã hội là Nhà nước và cộng đồng xã hội
cùng chia sẻ trách nhiệm. Bàn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn
dặn: Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
133
mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn
chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người
để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Lời dạy của Người không chỉ thể hiện trách nhiệm của chủ thể quản lý xã
hội và đồng bào cả nước đối với công tác thương binh, liệt sĩ và người có công
với nước nói riêng, mà còn tạo tiền đề cho phương châm xã hội hóa, tăng
cường sự tham gia của người dân vào việc thực hiện chính sách xã hội nói
chung. Ở Việt Nam, huy động nguồn lực trong dân, trong các tổ chức kinh tế,
xã hội là biện pháp quan trọng để phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân
tương ái của con người vào việc giải quyết các vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, xã
hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội còn góp phần xác lập những giá trị
mới cho mối quan hệ giữa người với người trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Do
vậy, trong đường lối đổi mới đất nước, cần quán triệt phương châm xã hội hóa
thực hiện chính sách xã hội.
Thực tế cho thấy, trong cơ chế cũ, chế độ bao cấp tràn lan và kéo dài đã
tạo nên tâm lý thụ động, ỷ lại, thói vô trách nhiệm của người dân và do đó triệt
tiêu vai trò, khả năng sáng tạo trong nhân dân. Chuyển sang cơ chế mới, khi
khẳng định phương châm xã hội hóa là giải pháp cơ bản, bền vững việc thực
hiện chính sách xã hội phải nhằm mục đích phát huy cao nhất tiềm năng, sức
mạnh, trách nhiệm của cá nhân, cộng đồng, xã hội và mọi thành phần kinh tế
vào giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà
nước. Và sẽ là sai lầm nếu đồng nhất xã hội hóa với triệt để xóa bỏ bao cấp
sang hoạt động kinh doanh hoặc thả nổi cho thị trường. Vì đây là nhận thức
chưa đúng về xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa phát huy vai trò nòng cốt của
Nhà nước và mở ra khả năng xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội. Vai
trò của Nhà nước trong thực hiện chính sách xã hội thể hiện cách thức điều tiết
linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp, trước hết thông qua hệ thống pháp luật, các công
cụ quản lý vĩ mô nhằm đẩy lùi các hiện tượng bất bình đẳng, duy trì ổn định
trật tự xã hội. Cũng cần lưu ý rằng, xã hội hóa thực hiện chính sách xã hội là
134
điều cần thiết để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, nhưng nếu xã hội
hóa quá mức, hoặc thiếu lộ trình xã hội hóa phù hợp sẽ gây ra những hệ lụy khi
triển khai chính sách xã hội trong cuộc sống. Ngược lại, nếu quá xem nặng vai
trò của Nhà nước và nguồn lực từ ngân sách sẽ gây khó khăn cho việc mở rộng
đối tượng thụ hưởng, không đảm bảo nguồn lực cho thực thị chính sách, nhất là
trong điều kiện những rủi ro kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và có
diện ảnh hưởng rộng.
Xã hội hóa còn thể hiện ở khía cạnh tổ chức thực thi chính sách xã hội với
khả năng tham gia của các tổ chức đoàn thể, nghiệp đoàn, doanh nghiệp, cộng
đồng, xã hội, cá nhân. Điều này không chỉ thể hiện xu hướng dân chủ hóa, xã
hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội, cho phép phát huy đầy đủ sức mạnh
và trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, mà còn đảm bảo các nguồn lực đầu tư
trực tiếp đi vào cuộc sống, không bị thất thoát ở những khâu trung gian và nhờ
đó mang lại hiệu quả. Do vậy, ở khía cạnh tổ chức thực thi chính sách xã hội
theo xu hướng xã hội hóa cần quán triệt phương châm việc gì xã hội làm tốt
hơn Nhà nước thì để xã hội làm, Nhà nước chỉ quản lý và định hướng bằng
định chế luật pháp. Ngược lại, việc gì xã hội không thể làm hoặc làm không tốt
thì Nhà nước có trách nhiệm phải làm [6, tr.194].
Phương châm xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam
hoàn toàn phù hợp với xu hướng mở rộng xã hội hóa và dân chủ hóa công tác
xã hội trong thế giới hiện đại trên cơ sở phát triển hệ thống mạng lưới các tổ
chức xã hội và phi chính phủ (NGO). Theo quan niệm quốc tế, việc huy động
các tổ chức xã hội và phi chính phủ tham gia vào thực hiện các chính sách xã
hội được đặt vào hệ thống các giải pháp quan trọng để đảm bảo tính khả thi của
chính sách. Bởi lẽ, chỉ có thông qua các tổ chức của chính họ thì chính sách xã
hội mới đến đúng đối tượng và có hiệu quả. Đối với Việt Nam, việc phát huy
vai trò của các tổ chức xã hội còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, góp phần
gắn bó quần chúng với tổ chức của mình và củng cố tổ chức ngày càng vững
mạnh. Đồng thời, còn góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức,
135
khơi dậy tính sáng tạo, chủ động và tích cực của cộng đồng, nhờ vậy có thể đa
dạng hóa và tăng nguồn cung ứng các dịch vụ công cho xã hội, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của người dân. Vì vậy, xã hội hóa việc thực hiện chính
sách xã hội là bài học không thể thiếu, là giải pháp quan trọng trong công tác
lãnh đạo, quản lý việc giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng và Nhà nước
trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm tiếp theo, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xã hội
hóa việc thực hiện chính sách xã hội, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền, vận động về từng loại hình chính sách để người dân tham gia
thực hiện. Mở rộng dân chủ trong thực hiện chính sách xã hội để người dân
tham gia đóng góp ý kiến, kiểm tra, giám sát và phản biện chính sách. Khuyến
khích sự tham gia của các chủ thể xã hội vào quá trình thực hiện chính sách xã
hội, nhất là phát triển mô hình “phúc lợi doanh nghiệp” đối với người lao động
và cộng đồng. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần thực hiện phương thức có sự tham
gia của các đối tác xã hội như: hộ gia đình, tổ chức phi lợi nhuận, bệnh viện tư
nhân, trung tâm dạy nghề tư nhân,… để hỗ trợ các đối tượng yếu thế có cơ hội
tiếp cận với các chính sách xã hội. Rõ ràng, đẩy mạnh xã hội hóa thực hiện
chính sách xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng của mình
nhằm tạo ra sự thống nhất, công bằng cho mọi đối tượng, đồng thời, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ Nhà nước - thị trường để không rơi vào tình trạng xem
nhẹ vai trò của Nhà nước hoặc quá đề cao vai trò của tư nhân, của thị trường.
Cùng với tăng cường vai trò của Nhà nước và cộng đồng trong thực hiện
xã hội hóa chính sách xã hội, bản thân các đối tượng cũng cần nâng cao trách
nhiệm và năng lực tự vươn lên trong cuộc sống theo lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Theo đó, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để người dân được hưởng
giá trị về mặt vật chất lẫn tinh thần và có biện pháp hỗ trợ để mỗi đối tượng
chính sách có điều kiện tự lo cho bản thân, gia đình. Chỉ trên cơ sở nhận thức
đầy đủ, đúng đắn về phương châm và nội dung xã hội hóa thực hiện chính sách
xã hội, Nhà nước ta mới thực hiện đúng chức trách: “Đưa tiền của dân và sức
136
của dân để làm việc ích lợi cho dân, thì bao giờ dân cũng hăng hái, việc cũng
thành công. Việc gì dù to lớn tốn kém mấy, dân đồng sức, đồng lòng thì làm
cũng được” [94, tr.172].
Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm
trong việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội là xu thế mang tính tất yếu và là
giải pháp quan trọng khắc phục tình trạng hạn chế nguồn lực dành cho thực
hiện chính sách xã hội. Từ quan điểm Hồ Chí Minh, Việt Nam làm bạn với tất
cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai đến chủ trương “đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [37,
tr.83], thể hiện tính nhất quán, xuyên suốt việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ
Chí Minh về hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực cho việc thực hiện chính
sách xã hội, đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội.
Những khởi xướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế đã định
hướng cho đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước mang tính độc lập, tự chủ,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trong giải quyết các vấn đề xã hội
giai đoạn hiện nay. Theo đó, chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế đòi hỏi
chủ thể quản lý xã hội phải biết tiếp thu sáng tạo, có chọn lọc các giá trị quốc tế
và hiện thực nó vào trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách xã hội,
đồng thời, sử dụng sức mạnh thời đại như là động lực bên ngoài để thực hiện
chính sách xã hội.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn mang giá trị hiện thời, khi mà
hội nhập quốc tế không chỉ tạo cơ hội để nước ta học tập kinh nghiệm các nước
trong phát triển hệ thống chính sách xã hội phù hợp với trình độ phát triển của
đất nước, với chuẩn mực quốc tế, hợp tác với các nước nhằm huy động thêm
các nguồn lực để thực thi chính sách xã hội, mà còn phát sinh nhiều vấn đề
phức tạp và khó lường. Do vậy, muốn tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm
nguồn lực, kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách xã hội, Nhà nước cần
137
xây dựng chiến lược toàn diện về hợp tác quốc tế trong tình hình mới. Trong
đó, cùng với các nước xây dựng tầm nhìn chung về sự phát triển, xu hướng và
vai trò của chính sách xã hội trong xu thế hội nhập. Tập trung xây dựng chiến
lược về hệ thống chính sách xã hội quốc gia, bảo đảm hài hòa giữa khung định
hướng phát triển dài hạn với giải quyết những vấn đề ưu tiên trước mắt. Tiếp
tục nghiên cứu và cải cách tổng thể hệ thống chính sách xã hội quốc gia cho
phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế. Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu,
đánh giá một cách toàn diện, chính xác những tác động của hội nhập quốc tế
đến việc thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, để đề ra chính
sách ứng phó kịp thời, giảm thiểu rủi ro, vướng mắc.
Chủ động cùng với chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội gắn với giải quyết các vấn đề xã hội của
Việt Nam. Tiếp tục mở rộng và giữ vững vai trò của Việt Nam với các đối tác
trong tiến trình đối thoại, hợp tác về bảo đảm an sinh xã hội. Tăng cường giao
lưu, trao đổi và học tập kinh nghiệm các nước có hệ thống chính sách xã hội
phát triển, mạng lưới an sinh xã hội hiện đại về ứng phó với các tác động xã
hội, trong đó có việc duy trì lưới an toàn nhằm đảm bảo tính công bằng, hợp lý
về mặt cơ hội, phân bổ nguồn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,
ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Tích cực, chủ
động và thực hiện có hiệu quả các điều ước và thỏa thuận quốc tế việc thực
hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội (việc làm, nghèo đói, bệnh tật,
biến đổi khí hậu,…) mà Việt Nam đã tham gia.
Trong hợp tác quốc tế, phải cải cách thể chế chính sách xã hội sao cho phù
hợp với các tiêu chí quốc tế, bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại. Muốn
vậy, Nhà nước cần nhận diện đầy đủ hệ thống chính sách xã hội các nước để
hình thành các tiêu chí về mục tiêu, nội dung, phương thức thực hiện chính
sách xã hội của Việt Nam. Chính việc nhận diện này sẽ giúp cho quá trình xây
dựng, triển khai chính sách xã hội phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và thích ứng
được với quá trình vận động của cộng đồng quốc tế. Ngoài ra, còn phải tiếp tục
138
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện văn bản pháp lý cho phù hợp với thông lệ của luật
pháp quốc tế về chính sách xã hội [9, tr.245-246]. Chỉ trên cơ sở đó, việc tăng
cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng
và thực hiện chính sách xã hội mới đạt được hiệu quả. Những dự báo về “bối
cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường” [37, tr.95] sẽ
không là trở lực cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước nói chung, quá
trình hoạch định và thực thi chính sách xã hội nói riêng.
4.2.3. Nhóm giải pháp về kiểm tra, giám sát; tổng kết lý luận và thực
tiễn việc thực hiện chính sách xã hội
Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách xã hội.
Hiệu quả việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội phụ thuộc vào
cách tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và công tác kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, nếu ba điều ấy thực hiện sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng
vô nghĩa. Theo Người, có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực
lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới
sửa chữa và giúp đỡ kịp thời và “phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát
đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được” [93, tr.325].
Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính đúng đắn, khoa
học, toàn diện về mối quan hệ giữa chủ thể quản lý xã hội, phát triển xã hội và
công tác kiểm tra, giám sát. Theo đó, chủ thể quản lý không nên kiêu ngạo, mà
nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh
đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải
dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của
mình. Lãnh đạo đúng nghĩa, cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà
viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Người cán bộ quản lý không được chỉ biết khai
hội nghị, viết nghị quyết, ra chỉ thị, mà không biết điều tra, nghiên cứu, đôn
đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra. Đây là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh
quan liêu, tham ô, lãng phí và hậu quả chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc.
139
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kiểm soát đối
với quá trình thực thi chính sách xã hội không chỉ là trách nhiệm của chủ thể
quản lý xã hội mà còn ở vai trò là chủ và làm chủ của người dân tham gia vào
quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ khi thực hiện chức trách
công việc. Phát huy dân chủ trong quản lý phát triển xã hội thông qua việc
kiểm tra, kiểm soát tức là làm cho dân có quyền nêu sáng kiến cải tiến quản lý
của mình, đồng thời, còn phát hiện những yếu kém trong thực hiện chính sách
xã hội có liên quan đến năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý. Nhờ
tăng cường cơ chế tham gia của người dân vào kiểm tra, kiểm soát mà năng
lực, chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước trong việc thực hiện
chính sách xã hội được cải thiện và chuyển biến tích cực, đáp ứng được yêu
cầu xây dựng xã hội mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường gắn với tính định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với người dân, thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát góp phần tăng
cường vai trò phản biện xã hội trong việc hoạch định và thực thi chính sách xã
hội. Phản biện xã hội giữ vai trò quan trọng giúp chủ thể hoạch định chính sách
có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học về vấn đề cần triển khai, tránh
những thiếu sót, sai lầm trong ban hành chính sách gây ảnh hưởng đến đời sống
nhân dân, uy tín lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhân dân tham gia
phản biện xã hội thể hiện quyền và nghĩa vụ người chủ đất nước tham gia hoạch
định, thi hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Do
vậy, để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thu hút và động viên quần chúng
nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng công tác kiểm tra,
kiểm soát, cần tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt quyền và trách nhiệm
phản biện xã hội. Thông qua kiểm tra, kiểm soát, phản biện xã hội để thấy được
giá trị tiếng nói của nhân dân về hoạt động của Nhà nước và như là phương thức
để Nhà nước gần dân hơn, thân dân hơn. Qua đó, hạn chế sự lạm dụng quyền
lực, sự độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy
quản lý và chủ thể hoạch định, tổ chức thực thi chính sách xã hội.
140
Với tư cách là chủ thể quản lý phát triển xã hội, việc tăng cường công tác
kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với việc tổ chức thực hiện chính sách xã
hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên thực tế, chỉ trong giai đoạn 2009 - 2011,
các cơ quan nhà nước đã trực tiếp kiểm tra 20 bệnh viện trên toàn quốc và giám
sát việc thực hiện Luật bảo hiểm y tế đối với trẻ em dưới 6 tuổi tại 15 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Hàng năm, Quốc hội còn tổ chức nhiều đoàn giám
sát việc thực thi chính sách, pháp luật về chính sách xã hội trên nhiều lĩnh vực, ở
nhiều địa phương trong cả nước. Qua kiểm tra, kiểm soát đối với việc tổ chức
thực hiện chính sách xã hội, các cơ quan nhà nước đã phát hiện, phòng ngừa,
chấn chỉnh và kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn, qua đó góp phần
làm cho chính sách xã hội phát huy được hiệu quả [9, tr.134]. Đây là một hoạt
động quan trọng nhằm tìm thấy những sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính
sách và pháp luật để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền đề ra biện pháp khắc
phục nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan.
Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, nhất là công tác xử lý vi
phạm pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội thời gian qua chưa được
thực hiện thường xuyên và hiệu quả. Việc các tổ chức, doanh nghiệp vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
là rất phổ biến, thường xuyên, nhưng kết quả kiểm tra, giám sát của các cơ
quan nhà nước còn quá ít và chậm trễ. Bên cạnh đó, quy định xử lý về các hành
vi vi phạm pháp luật về đóng bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý, cơ chế xử phạt
không đảm bảo tính nghiêm minh, kịp thời, phụ thuộc vào các cơ quan chức
năng khác, cũng như sự quan tâm của chính quyền địa phương [9, tr.165].
Do vậy, để chính sách xã hội thật sự đi vào cuộc sống, Đảng và Nhà nước
cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện những bất cập và
phản hồi kịp thời cho các cơ quan liên quan khắc phục. Củng cố bộ máy kiểm
tra, giám sát thực hiện chính sách xã hội độc lập ở Trung ương và địa phương.
Tăng cường tính pháp chế và xử phạt nghiêm minh đối với những hành vi vi
141
phạm pháp luật chính sách xã hội. Xây dựng phương thức phối hợp giữa thực
thi chính sách với giám sát chính sách để kịp thời điều chỉnh, sửa chữa những
bất cập, khó khăn, vướng mắc [86, tr.281].
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện
chính sách xã hội.
Thực tiễn của đời sống xã hội rất phong phú, đa dạng và luôn đặt ra
nhiều vấn đề xã hội bức bách cần giải quyết thông qua việc thực hiện các
chính sách xã hội. Ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể, việc hoạch định và tổ chức
thực thi chính sách xã hội vào cuộc sống cần được đẩy mạnh nghiên cứu cả
trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn nhằm phát hiện những mâu thuẫn và trở ngại trong việc thực hiện
chiến lược con người và chính sách xã hội để điều chỉnh sao cho phù hợp với
đà phát triển mới của đất nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi chúng ta không thể
xem nhẹ vì ý nghĩa có tầm chiến lược của nó. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhắc nhở:
Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút,
một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời,
nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để
bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp
tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi
trước [92, tr.28].
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thực hiện chính
sách xã hội thực chất chính là nhằm mục đích đổi mới tư duy cho phù hợp với
sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Vì xét cho cùng, sự yếu
kém, tụt hậu trong hoạch định, tổ chức thực thi chính sách xã hội không phải
do hạn chế về khả năng hay nguồn lực, mà chủ yếu do thiếu đổi mới về tư duy.
Ở Việt Nam, mặc dù lý luận về chính sách xã hội được quan tâm nghiên cứu,
bổ sung, phát triển, ứng dụng trong thực tiễn thông qua việc hoạch định và triển
khai thực hiện theo tinh thần:
142
Đảng và Chính phủ điều tra, nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận nhằm
vào lợi ích chung của nhân dân, đặt chính sách. Cán bộ phải nghiên
cứu, hiểu suốt, thấm nhuần chính sách ấy. Theo chính sách ấy mà
điều tra, nghiên cứu, hiểu suốt hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình,
địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực, để giải
thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu
thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi
thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy [95, tr.249].
Tuy nhiên, chính sách xã hội chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: Trình
độ phát triển về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của một quốc gia trong
tương quan với sự phát triển chung của thế giới tại một thời điểm lịch sử cụ
thể; sự tác động của mô hình và nền tảng phát triển của một nền kinh tế; năng
lực và trình độ hoạch định chính sách xã hội của bộ máy cầm quyền; phụ thuộc
vào sự tham gia của cộng đồng và xã hội trong việc hiện thực hóa chính sách
xã hội trong đời sống và xã hội hóa huy động các nguồn lực tài chính, nguồn
lực con người. Do vậy, đổi mới tư duy, tăng cường nghiên cứu lý luận về chính
sách xã hội là vấn đề giữ vai trò quyết định đến việc thiết kế và thực thi chính
sách xã hội phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và thời đại cần được
tiếp tục nhận thức lại, để bổ sung, hoàn thiện và phát triển ở trình độ cao hơn.
Trong xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế diễn ra mạnh mẽ chưa từng
có như hiện nay, song hành với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của đất nước thì việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc liên
quan đến con người thông qua việc thực hiện chính sách xã hội trở thành một
chỉ báo của sự ổn định và phát triển kinh tế, là nguồn lực cho sự phát triển bền
vững của quốc gia, dân tộc. Những năm qua, Việt Nam đã triển khai nhiều
chương trình khoa học công nghệ quốc gia về vấn đề con người và chính sách
xã hội đạt được những thành tựu nhất định. Thực trạng việc thực hiện chính
sách xã hội nói chung và các chính sách xã hội đặc thù đối với các đối tượng
chuyên biệt ở Việt Nam đã chứng tỏ Đảng và Nhà nước làm tốt công tác
143
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn tồn
tại một số hạn chế về tính ổn định và tính dự báo khi hoạch định và thực thi
chính sách xã hội nói chung và trên từng lĩnh vực cụ thể, “chính sách vừa mới
ban hành đã bị thay đổi, sự phát triển đôi khi không cân đối và thiếu toàn diện,
thiếu những dự báo mang tính chiến lược, chưa ưu tiên trong việc giải quyết
những vấn đề bức thiết của đời sống xã hội” [43, tr.183].
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, để tiếp tục nâng
cao hiệu quả và khắc phục những hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội và
thay thế các chính sách hiện hành đã trở nên lạc hậu không thể giải quyết các
vấn đề xã hội mới đã và đang tiếp tục nảy sinh, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần
tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Việc phát hiện tình
huống mới, dự báo xu hướng mới để kịp thời điều chỉnh chính sách xã hội cho
phù hợp với yêu cầu thực tiễn là việc làm thường xuyên và cấp thiết. Đổi mới
tư duy để hoàn thiện lý luận, nhận thức về chính sách xã hội cần tập trung vào
những vấn đề sau đây:
Một là, tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về khái niệm, vị
trí, vai trò, đặc điểm, bản chất, nội dung, mục đích và cấu trúc của chính sách
xã hội, làm căn cứ cho việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Hai là, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chính
sách xã hội với phát triển xã hội gắn với cơ chế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; chính sách xã hội cần gắn với chính sách phát triển kinh tế, văn
hóa; chính sách xã hội phải bảo đảm an sinh xã hội. Đặc biệt, chính sách xã hội
phải gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo hướng phát triển nhanh
và bền vững. Việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội của một quốc gia
dân tộc cần được nhìn nhận và giải quyết theo quan điểm phát triển bền vững.
Tức là, thực hiện tốt chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội góp phần giữ
vững ổn định về chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
thông qua việc “điều hòa” các “mâu thuẫn xã hội”, hạn chế bất ổn xã hội.
144
Ngược lại, phát triển bền vững tạo thêm nguồn lực để chăm lo phát triển xã hội,
thực hiện chính sách xã hội.
Ba là, tiếp tục nhận thức về hệ thống chính sách xã hội và mô hình an sinh
xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. Thể chế chính sách là trụ cột quan trọng của hệ thống chính sách xã hội.
Thể chế chính sách khẳng định trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong
thực thi chính sách xã hội trong việc xác định đúng đối tượng tham gia, đối
tượng điều chỉnh, đối tượng cụ thể và cơ chế xác định đối tượng theo một quy
trình thống nhất. Khắc phục tình trạng đối tượng thụ hưởng không phù hợp, bỏ
sót đối tượng điều chỉnh; hoặc mức độ thụ hưởng của chính sách không đáp
ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn, không bảo đảm độ an toàn và khả năng hạn
chế rủi ro của xã hội…
Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn vai trò, cơ chế và trách nhiệm của
các chủ thể thực hiện chính sách xã hội. Theo đó, phát huy vai trò chủ đạo của
Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, bên cạnh đó đẩy mạnh các cuộc
vận động xã hội, cộng đồng và đối tượng chính sách tham gia thực hiện. Nhà
nước thông qua hệ thống chính sách và nguồn lực của mình gắn với xã hội hóa
huy động các nguồn lực, nhằm thúc đẩy tăng trưởng, phát triển nhanh, bền
vững và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
Năm là, đổi mới tư duy trong cải cách tiền lương để đảm bảo thu nhập cho
người lao động, bảo đảm tính bền vững tài chính trong thực thi chính sách xã
hội. Cải cách tiền lương cần tiến hành đồng bộ ở khu vực hành chính sự
nghiệp, lực lượng vũ trang và khu vực sản xuất - kinh doanh. Ngoài ra, cần
nghiên cứu luận cứ đề xuất mục tiêu, phương hướng và giải pháp cải cách chế
độ lương hưu, trợ cấp sao cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và mức sống dân cư. Nghiên cứu luận cứ cho việc xây dựng các chính sách thị
trường tích cực, hỗ trợ, đan kết thực hiện chính sách xã hội hiệu quả, lâu dài
như: việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống y tế,…
145
Sáu là, nghiên cứu lý luận đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách xã hội
đa tầng, đa lớp, linh hoạt phù hợp với các nhóm đối tượng và có khả năng hỗ
trợ lẫn nhau để vừa đảm bảo mức sống tối thiểu cho người dân, vừa không
ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân, vừa tạo điều kiện để người dân thực
hiện tự an sinh. Khuyến khích và tạo điều kiện để người lao động tiếp cận và
tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi nhằm cải
thiện, nâng cao mức sống đối với người có công với nước. Mở rộng các hình
thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn. Tập
trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức
xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, dạy nghề và
phát triển giáo dục.
Bảy là, đổi mới tư duy về chính sách xóa đói, giảm nghèo, trước hết là tư
duy hệ thống, tức là đặt vấn đề xóa đói, giảm nghèo trong chiến lược sang mô
hình phát triển bền vững. Theo đó, xóa đói, giảm nghèo gắn liền với tăng thu
nhập, ổn định xã hội và gắn với tăng trưởng, phát triển kinh tế [86, tr.233-238].
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Những thành công của sự nghiệp đổi mới về giải quyết các vấn đề xã hội
không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong
việc chăm lo đời sống con người, phát triển con người, quan trọng hơn, thể
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng và nhân dân Việt Nam quan tâm xây dựng. Do đó, nghiên cứu, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội trong điều kiện “nước ta bước vào
thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức
tạp và khó lường” [37, tr.95], đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần làm rõ những
nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với chính sách xã hội giai đoạn
hiện nay.
146
Về những nhân tố tác động đến chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước cần
tiếp tục nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách toàn diện và chính xác tác
động của hội nhập quốc tế, của toàn cầu hóa đến việc hoạch định và thực thi
chính sách xã hội. Bởi vì, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp các nước,
trong đó có Việt Nam ra sức tận dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, phát triển kinh tế
tri thức, tăng thêm nguồn lực và học tập kinh nghiệm từ các nước, nhưng cũng
phát sinh nhiều yếu tố tiêu cực, rủi ro cần được khắc phục. Ngoài ra, Đảng và
Nhà nước cũng cần lưu ý, thực hiện chính sách xã hội không chỉ chịu sự tác
động của tình hình thế giới, của quá trình hội nhập quốc tế mà còn liên quan
chặt chẽ đến trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Vì thế, để thực hiện chính
sách xã hội có hiệu quả, phải căn cứ vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước như là nguồn lực bên trong kết hợp với những tác động của nhân tố
bên ngoài mà đề ra các nhóm giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
thực hiện chính sách xã hội trong những năm tiếp theo.
Về những vấn đề đặt ra đối với chính sách xã hội hiện nay, Đảng và Nhà
nước cần xác định rõ ảnh hưởng của cơ chế thị trường đã và đang tạo ra những
vấn đề xã hội bức xúc cần tiếp tục được giải quyết. Ngoài ra, trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta cần xác định con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự chống phá của các
thế lực thù địch cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với chính sách xã hội hiện nay.
Trên cơ sở xác định rõ những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối
với chính sách xã hội hiện nay, việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã
hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào 3 nhóm giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho
cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách
xã hội; thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên làm công tác chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.
147
Thứ hai, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc
thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác
chính sách xã hội; huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã
hội; mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc
xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách xã hội; đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện
chính sách xã hội.
148
KẾT LUẬN
Thực tiễn 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh “mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [37, tr.88].
Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội đã và đang giữ vai trò
quan trọng, là cơ sở, định hướng để Đảng và Nhà nước xây dựng, thực thi
chính sách trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đối với con
người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế ngày
càng đi vào chiều sâu thì sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước đang
đặt ra những thời cơ và thách thức mới, nhất là đối với vấn đề con người
thông qua việc thực hiện chính sách xã hội mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Do
vậy, việc nghiên cứu, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
cần được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị quan tâm thực hiện. Chỉ
trên cơ sở thấm nhuần quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước mới có thể đề ra các chính sách xã hội
đúng đắn vì con người, do con người, cho con người, “lấy con người làm
trung tâm” cho mọi sự phát triển, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để con người
được sống một cuộc sống có chất lượng, có ý nghĩa.
Nhận thức đúng đắn và thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh, đòi
hỏi Đảng và Nhà nước cần xác định rõ nội dung tư tưởng của Người về
chính sách xã hội hết sức phong phú và đa dạng từ việc xác định mục đích,
đối tượng, phương thức thực hiện, lực lượng tham gia đến nội dung của
chính sách xã hội. Theo đó:
Mục đích của chính sách xã hội phải lấy việc phục vụ con người, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người làm mục đích cao nhất,
nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa.
149
Đối tượng của chính sách xã hội là những người thuộc các nhóm xã
hội yếu thế, nhóm ưu đãi xã hội, cũng như đảm bảo cho sự phát triển của tất
cả mọi người, của xã hội trong xây dựng xã hội mới.
Nội dung cơ bản của chính sách xã hội bao gồm chính sách lao động
và việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có công với cách mạng.
Yêu cầu thực hiện chính sách xã hội phải gắn với quản lý xã hội;
chính sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế, văn hóa; chính sách xã hội
phải hướng đến công bằng xã hội.
Lực lượng thực hiện chính sách xã hội: Đảng và Nhà nước với tư cách
là chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý là người trực tiếp
thực hiện chính sách xã hội; quần chúng nhân dân lao động vừa là đối tượng,
vừa là lực lượng thực hiện của chính sách xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, từ quan niệm chính sách xã hội là
động lực của mọi sự quản lý phát triển xã hội, đến việc xác định những luận
cứ khoa học cho hệ thống chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước không
những xây dựng được một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn, đồng bộ,
mà còn luôn trăn trở với những vấn đề mới phát sinh, luôn nhạy bén và kịp
thời điều chỉnh, bổ sung các chính sách xã hội phát triển theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, chính sách xã hội đã từng bước đóng vai trò
động lực, gây ảnh hưởng tích cực đối với việc nâng cao vai trò nhân tố con
người, phát triển toàn diện con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành
tựu bước đầu. Những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay như việc làm, xóa đói
giảm nghèo, y tế, công bằng xã hội,… đang là những vấn đề mang tính thời
sự, cần quan tâm giải quyết.
Những yếu kém, hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội có nhiều
nguyên nhân. Trong đó, về mặt chủ quan là do nhận thức của các cấp, các
150
ngành còn chưa đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của chính sách xã hội. Công tác
quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo; năng lực và trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ quản lý còn thấp; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
còn nhiều hạn chế. Nguồn lực cho thực hiện chính sách xã hội còn hạn hẹp,
chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa thu hút được nhiều sự tham gia
của xã hội; hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao, còn phân tán, manh mún
và dàn trải.
Vì vậy, để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội ở Việt
Nam hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính sách xã hội. Trong đó, cần tập trung thực hiện các nhóm
giải pháp:
Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho
cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách
xã hội; thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên làm công tác chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.
Thứ hai, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc
thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác
chính sách xã hội; huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã
hội; mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc
xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách xã hội; đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện
chính sách xã hội.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Công Lập (2014), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội vào việc xây dựng chính sách xã hội ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Đồng Tháp, (3), tr.76-81.
2. Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm Hồ Chí
Minh về chính sách xã hội”, tại trang http://lyluanchinhtri.vn, ngày
13/12/2016.
3. Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế và văn hóa”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (11), tr.30-33.
4. Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
trong quản lý phát triển xã hội”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (253), tr.13-16.
5. Nguyễn Công Lập (2016), ‘‘Chính sách xã hội trong triết lý phát triển Hồ
Chí Minh”, trong Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng xã hội mới - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
6. Nguyễn Công Lập (2017), ‘‘Sáng ngời quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chính sách đối với người có công với cách mạng”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học, Nxb Đại học Huế, tr.130-133.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và
vận dụng nó ở nước ta trong điều kiện hiện nay", Kỷ yếu đề tài khoa
học cấp bộ năm 2003, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
2. Ba mươi lăm năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (2004),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Hoàng Chí Bảo (1993), Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hoàng Chí Bảo (1998), “Đổi mới ở Việt Nam. Một số vấn đề triết học về
con người và xã hội”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.24-29.
6. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
7. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội (2009), Giá trị nhân văn của Di chúc Hồ Chí Minh, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
8. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1998), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Chiều (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Chiều (2015), "Một số vấn đề về quyền an sinh xã hội trong
nhà nước pháp quyền", Tạp chí Triết học, số 6 (289), tr.24-29.
153
11. Chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới (1995), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
12. Chủ nghĩa xã hội - đời sống của xã hội và của con người (1989), Nxb Sự thật,
Hà Nội.
13. Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Phạm Như Cương (chủ biên) (1978), Về vấn đề xây dựng con người mới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Phạm Như Cương (1988), Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2013), Một số vấn đề cơ bản về chính sách
xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2013), Chính sách xã hội đối với di dân
nông thôn - thành thị ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
19. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1999), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Kim Dung (Chủ biên) (2014), Bác Hồ với ngành y tế Việt
Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
21. Nguyễn Tấn Dũng (2010), “Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm
xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta”,
tại trang http://baochinhphu.vn, [truy cập ngày 22/7/2016].
22. Nguyễn Văn Dương (2010), Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần
xây dựng con người mới Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
23. Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Trọng Đàm (2012), ‘‘Thực hiện giảm nghèo bền vững ở Việt Nam”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (9).
154
25. Nguyễn Trọng Đàm (2014), “Một năm thực hiện Nghị quyết số 15-
NQ/TW một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020: Cơ
hội và thách thức”, tại trang http://www.molisa.gov.vn, [truy cập ngày
2/10/2016].
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế xã hội 1991 - 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21-1960,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng
kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết những vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, Hà Nội.
155
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đinh Thế Định (2000), Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc
giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
41. Đinh Đăng Định (chủ biên) (2004), Một số vấn đề về lao động, việc làm và
đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
42. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông
dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Phạm Văn Đồng (1991), Hồ Chí Minh - Quá khứ, hiện tại và tương
lai, Nxb Sự thật, Hà Nội.
45. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
47. Phạm Văn Đồng, Bản Di chúc bất hủ sáng ngời tính thời sự, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
48. Trần Đồng (1995), Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc
giải quyết các vấn đề xã hội bức bách hiện nay (từ 1986 - 1995), Luận
văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính tri quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
49. Phạm Văn Đức (1999), “Một số giải pháp nhằm khai thác và sử dụng
nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (6), tr.31-33.
50. Nguyễn Tĩnh Gia (2000), Tư tưởng triết học về con người trong chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội.
156
51. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Trần Văn Giàu (2008), Vĩ đại một con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Lê Thị Hải Hà (2010), Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về phương
pháp xây dựng con người để xây dựng con người ở nước ta hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính tri - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
54. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Lê Văn Hân (2015), "Chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có
công với cách mạng của Đảng, Nhà nước ta hiện nay", Tạp chí Lịch sử
Đảng, tr.30-33.
59. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Đức Hạt (Chủ biên) (2009), Năng cao năng lực lãnh đạo của
cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người
với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
62. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2010), Nghiên cứu văn hóa và con người
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Trần Đình Hoan (chủ biên) (1996), Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế
quản lý việc thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
64. Lê Quang Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Tập bài
giảng chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính cho các đối
tượng đào tạo ở trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, phần lý luận chính trị, khối thứ nhất: Chủ nghĩa Mác -
Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng ta (Lưu hành
nội bộ), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
66. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tập bài
giảng chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính dành cho
đối tượng đào tạo tập trung tại Học viện Chính trị - Hành chính, khối
thứ hai, Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một
số lĩnh vực chủ yếu, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
67. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
68. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống
xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
69. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Một số vấn đề về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
70. Hội đồng quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ
điển Bách khoa Việt Nam, tập I, Hà Nội.
71. Hội thảo khoa học 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(2009), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia khu vực I.
72. Nguyễn Phương Hồng (1977), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Đông Thị Hồng (2013), “An sinh xã hội cho nông dân trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (202).
158
74. Lương Thị Hồng (2016), "Nhìn lại 30 năm thực hiện công tác xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân (1986 - 2016)", Tạp chí Lịch
sử Đảng, (7), tr.29-34.
75. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
76. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
77. Phạm Đức Kiên (2011), “Từ quan điểm, chủ trương đến kết quả giải
quyết việc làm trong 25 năm thực hiện đường lối đổi mới”, Tạp chí Lý
luận chính trị.
78. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh - Văn hóa và đổi
mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
80. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2008), Văn hóa và triết lý phát triển
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2009), Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong nhà trường, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
82. Nguyễn Đình Liêu (2000), Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi
người có công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Đinh Xuân Lý (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận
dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
84. Đinh Xuân Lý (2011), Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986-2011), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
85. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2012), Chính sách xóa đói giảm nghèo. Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2014), Chính sách an sinh xã hội. Thực trạng và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
87. Lê Quốc Lý (2015), "Triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển
xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (5),
tr.37-41.
88. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Ngô Quang Minh (1998), Tác động của kinh tế Nhà nước nhằm góp
phần xoá đói giảm nghèo trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, Đề tài khoa học
cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
105. Đỗ Mười (1997), “Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, (7), tr.3-4.
106. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội. Luận cứ
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Phạm Xuân Nam (2014), "Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội", Tạp chí Triết học, số 2 (273), tr.20-25.
160
108. Phạm Xuân Nam (2014), Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội,
Tạp chí Triết học, số 5 (276), tr.20-25.
109. Nguyễn Năng Nam (2014), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội", tại
trang http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn, [truy cập ngày 20/8/2016].
110. Nguyễn Thị Kim Ngân (2008), “Bảo đảm mức sống, từng bước cải thiện
cuộc sống người có công trong điều kiện kinh tế thị trường và lạm
phát”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (350), tr.6-7.
111. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), “Bước ngoặt mới trong nỗ lực xóa đói,
giảm nghèo”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập
ngày 20/10/2016].
112. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), “Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ưu
đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững”, tại
trang http://www.baocantho.com.vn, [truy cập ngày 22/8/2016].
113. "Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI", (1995), Kỷ
yếu Hội nghị khoa học quốc tế, Hà Nội.
114. Nguyễn Văn Nhớn (1996), Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc
nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Luận án phó Tiến sĩ Triết
học, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
115. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh (2015), "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.3-7.
117. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Hoàng (2015), "Quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về con người với tư cách là đối tượng phục vụ
của chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Giáo dục lý
luận, (228), tr.38-42.
161
118. Phùng Hữu Phú và các cộng sự (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Nguyễn Trọng Phúc (2014), "Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chính sách với người có công", Tạp chí Lý luận chính trị,
(9), tr.37-40.
120. Đỗ Nguyên Phương (1994), “Phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo và
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (5).
121. Nguyễn Mai Phương (2015), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về an
sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, tr.56-59.
122. Nguyễn Mai Phương (2017), ‘‘Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về an sinh xã hội từ Đại hội XI đến Đại hội XII", Tạp chí Lịch sử Đảng,
(1), tr.45-49.
123. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1991), Luật Bảo vệ
sức khỏe nhân dân, Nxb Y học, Hà Nội.
124. V.Z.Rôgôvin (1980), Chính sách xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa
phát triển, Nxb Nauka, Mockba (Bản dịch của Viện Thông tin Khoa
học xã hội).
125. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
127. Nguyễn Hồng Sơn (2015), "Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng
xã hội trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.56-61.
128. Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty (Chủ biên) (2010), Tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
129. Lê Sĩ Thắng (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
về chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
130. Nguyễn Thế Thắng (Chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội từ góc nhìn xã hội học, Nxb Lao động, Hà Nội.
131. Ngô Ngọc Thắng (2014), “Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh tái
cấu trúc mô hình tăng trưởng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).
132. Ngô Ngọc Thắng, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên) (2014), Một số lý
thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
133. Bùi Đình Thanh (Chủ biên) (1993), Chính sách xã hội - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia,
Hà Nội.
134. Nguyễn Thị Thanh (1998), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học
Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
135. Nguyễn Thị Thanh (2004), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội từ năm 1991 đến năm 2001, Luận án Tiến sĩ khoa
học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
136. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
137. Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch (1971), tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
138. Nguyễn Thị Thơm (2011), “Xóa đói giảm nghèo bằng chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo”, Tạp chí Lý luận chính trị.
139. “Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng”
(2011), tại trang http://vnexpress.net, [truy cập ngày 20/10/2016].
140. Vũ Văn Thuấn (2011), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội",
Đặc san Hồ Chí Minh học, (1).
141. Hoàng Thu Thủy (2013), “Công tác xóa đói giảm nghèo tại vùng miền
núi Đông Bắc Việt Nam giai đoạn 2001-2010”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (202).
163
142. Lê Văn Tích (chủ biên) (2008), Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
143. Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Hà Nội.
144. Nguyễn Từ (1998), Những vấn đề xã hội cần được giải quyết ở nông
thôn ngoại vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá trình
cải cách kinh tế, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
145. Nguyễn Đình Tuấn, Phạm Thị Tính (2013), "An sinh xã hội cho người
cao tuổi ở nước ta hiện nay: Chính sách và thực tiễn", Tạp chí Nghiên
cứu con người, số 5 (86).
146. Trần Văn Tùng (2000), Tính hai mặt của toàn cầu hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội.
147. A.X.Varônhin (2016), "Chính sách xã hội và tinh thần thời đại của Hồ
Chí Minh", tại trang http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 15/12/2016].
148. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
149. “Về chính sách việc làm và bảo hiểm thất nghiệp” (2008), tại trang
http://tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 15/8/2016].
150. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu con người (2010), Hồ
Chí Minh - Về mối quan hệ giữa con người và văn hóa, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
151. Vũ Thị Vinh (2014), Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.