việt nam quốc sử diễn ca - thái bá tân
DESCRIPTION
Việt Nam quốc sử diễn ca - Thái Bá TânTruyện thơ, 769 trangTRANSCRIPT
VIỆT NAM QUỐC SỬ DIỄN CA
Truyện thơ lịch sử cho học sinh phổ thông
____________
MỤC LỤC
Lời mào đầu
Phần Một: Lịch sử Việt Nam đến thế kỷ thứ Mười.
1. Vũ trụ và trái đất
Cuốn sách và chiếc giỏ đựng than.
2. Sự sống trên trái đất.
Truyện Tấm Cám.
3. Loài vượn cổ
Anh chàng chăn lợn
4. Xã hội nguyên thủy
Hai con dê qua cầu
5. Các quốc gia cổ đại.
Cậu bé và ba điểm một.
6. Nước Văn Lang
Sự tích bánh chưng, bành dày.
7. Nước Âu Lạc
Mị Châu, Trọng Thủy.
8. Hai Bà Trưng.
Ông già và thần chết.
9. Bà Triệu
Vua lợn
10. Nho Giáo và Phật Giáo.
Mười voi không được bát nước xáo.
11. Lý Bí và nhà Tiền Lý
Ăn quả khế, trả cục vàng.
12. Triệu Quang Phục và nhà Hậu Lý.
Trên xe buýt
13. Mai Thúc Loan
Trứng ngót.
14. Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng.
Bà làm bánh và con trai.
15. Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ.
Truyện Lưu Bình, Dương Lễ.
16. Ngô Quyền.
Lời Phật dạy con trai.
17. Nước Chăm-pa
Cậu bé và cây táo.
18. Nước Phù Nam, nước Chân Lạp
Sự tích trầu cau.
Phần Hai - Từ thế kỷ thứ Mười đến thế kỷ thứ Mười Chín.
1. Buổi đầu độc lập và Đinh Bộ Lĩnh.
Con ngựa đá.
2. Lê Đại Hành và nhà Tiền Lê.
Thái hậu Dương Vân Nga.
3. Lý Công Uẩn và đời nhà Lý
Kinh Thánh.
4. Lý Thường Kiệt.
Nguyên phi Ỷ Lan.
5. Trần Thủ Độ
Sự tích trâu vàng Hồ Tây.
6. Các vua Trần.
Lý do.
7. Ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông.
Sự tích con thạch thùng.
8. Trần Hưng Đạo.
Tình mẫu tử.
9. Các danh tướng đời Trần.
Sự tích quả dưa hấu
10. Bốn nhân vật nổi tiếng đời Trần.
Chuyện người học trò của Chu Văn An.
11. Chiến thắng Vân Đồn và Bạch Đằng.
A-la-đanh và cây đèn thần.
12. Hồ Quí Ly
Người Việt Nam xây Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh.
13. Thành Nhà Hồ.
Tìm Phật.
14. Lê Lợi
Một người đãng trí.
15. Khởi nghĩa Lam Sơn.
Giàu, nghèo.
16. Lê Thánh Tông.
Người đẹp và quái vật.
17. Các nhân vật nổi tiếng đời Lê Sơ.
Tiền kiếp của vua Minh Thiền Tông
18. Mạc Đăng Dung.
Ai mua hành tôi.
19. Nam Bắc triều và Đàng Trong, Đàng Ngoài.
Chúa Chổm.
20. Đạo Thiên Chúa, chữ Quốc Ngữ, Chữ Nôm.
Bà chúa Liễu Hạnh.
21. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chuyện con ếch muốn ta bằng con bò.
22. Khởi nghĩa nông dân thế kỷ 18 và đại thắng quân Thanh.
Nàng tiên cá.
23. Quang Trung Hoàng Đế
Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn.
24. Chiến tranh Tây Sơn - Chúa Nguyễn.
Thằng hèn vĩ đại.
25. Cao Bá Quát.
Giai thọa về Cao Bá Quát.
Thay lời kết
_______________
LƯU Ý:
1. In ở mép gấp bìa:
Ngày xưa vua Tự Đức
Cấp tiền và cấp nhà
Để ông Lê Ngô Cát
Viết Quốc Sử Diễn Ca.
Đó là bộ sách lớn
Gần bốn nghìn câu thơ
Viết theo thể lục bát,
Nhiều người thuộc đến giờ.
Đã là con dân Việt
Thì phải biết sử mình.
Vua Tự Đức làm thế
Là ông vua thông minh.
Nay ông cũng bắt chước,
Viết Quốc Sử Diễn Ca
Bằng kiểu thơ năm chữ,
Dễ hiểu và nôm na.
Nó như sách tham khảo,
Sách sử, lại bằng thơ,
Viết về thời dựng nước
Cho đến tận bây giờ.
Nhớ nhé, sách tham khảo,
Chứ không phải giáo khoa.
Giúp bổ sung kiến thức
Về lịch sử nước nhà.
Các cháu nhớ thỉnh thoảng
Đọc lại tập thơ này.
Đọc để nhớ lịch sử
Và cả cổ tích hay.
2.
Bìa bốn cuốn
VIỆT NAM QUỐC SỬ DIỄN CA
Ảnh tác giả
THÁI BÁ TÂN, sinh năm 1949, Diễn Châu, Nghệ An. Tốt nghiệp khoaphiên dịch (tiếng Anh và Nga), trường Đại học Ngoại ngữ Matscơva, LiênXô (1967 - 1974). Từng làm phiên dịch, giảng viên đại học, cán bộ biên
tập nhà xuất bản. Nghỉ hưu năm 2011, là ủy viên Ban đối ngoại, phó chủtịch Hội đồng Văn học Nước ngoài, Hội nhà văn Việt Nam.
Ông làm việc nhiều và có hiệu quả, tác giả nhiều tập thơ dịch lớn trêndưới nghìn trang như “Thơ Nga chọn lọc” trong đó có tiểu thuyết thơEpghênhi Ônhêgin của Puskin. “Thơ Anh chọn lọc” bao gồm tiểu thuyêtthơ Đôn Juan của thi hào Anh Byron, “Cổ thi tác dịch” gồm gần 3000 bàithơ chữ Hán các tác giả Việt Nam và Trung Quốc”, “3500 bài thơ haikuNhật Bản”, “Thơ thiếu nhi thế giới”, “Thơ cổ Ba Tư” vân vân, cùnghàng chục cuốn tiểu thuyết văn xuôi khác.
Ngoài ra Thái Bá Tân cũng sáng tác nhiều, gồm gần một nghìn trangthơ đã xuất bản, mới đây nhất còn có các tập viết bằng thể thơ năm chữ,như “Truyện thơ Thích Ca Mâu Ni Phật” 360 trang, “Thơ châm ngôn”420 trang, “Truyện thơ cổ tích Việt Nam” , 450, cùng các tập sắp xuất bảnkhác như “Truyện thơ cổ tích nước ngoài”, “Thơ thiếu nhi song ngữ Anh- Việt”, “Kinh hiền ngu”, “Truyện thơ cây thuốc Việt Nam” , “Thơ châmngôn” tập 2, vân vân.
Ông cũng là tác giả của khoảng 150 truyện ngắn in rải rác trên báo vàcác tập riêng, như “Ông già và chiếc đàn dương cầm”, “Truyện kỳ ảo”,“Phận đàn bà”, “Thái Bá Tân - 90 truyện ngắn”, “Thái Bát Tân -Truyện ngắn và thơ” (sách Nhà nước đặt hàng).
Thái Bá Tân nổi tiếng dịch thơ có vần điệu, trong sáng và dễ hiểu. Viếtvăn có tứ, nhẹ nhàng và hướng thiện, thời gian gần đây hay viết về tuổigià, tôn giáo và triết lý. Ông sống khép kín, xa lánh chỗ đông người vàhầu như không giao tiếp với ai, kể cả bạn bè, cũng không thích được giớitruyền thông nhắc đến. Tất cả chỉ để có thời gian tập trung làm việc.Ngoài ra ông còn mở lớp dạy tiếng Anh (chủ yếu nhằm mục đích từ thiện)liên tục hơn 20 năm nay, ngày nào cũng đi dạy, lớp học đông, thường hai,ba trăm người mỗi buổi.
Ông đam mê âm nhạc cổ điển và du lịch. Bản thân ông biết chơi khá
thành thạo một số nhạc cụ như viôlông, viôlôngxen, pianô, và đã từng đi40 nước trên thế giới, chủ yếu bằng tiền riêng của mình.
“Tôi nghĩ tôi là người hạnh phúc vì được sống thảnh thơi và làm theoý mình. Mà trong đời, chung quy tôi chỉ làm ba việc chính, là Đọc sách,Suy nghĩ và Viêt” (Thái Bá Tân).
___________________________
Phần Một:
LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐẾN THẾ KỶ THỨ 10
LỜI MÀO ĐẦU
Chào các cháu thân mến.
Ông là Thái Bá Tân,
Còn gọi Ông Tân Béo,
Nghề - làm thơ, viết văn.
Trước ông cũng dạy học,
Nhưng lâu rồi, hôm nay
Ông có chuyện muốn nói
Với các cháu thế này.
Người ta bảo các cháu
Ngại môn Sử, đúng không?
Thế thì thật đáng tiếc,
Vì môn ấy, theo ông
Là môn rất bổ ích,
Dễ học và cực hay.
Ông ngày bé, thú thật,
Chỉ mê học môn này.
Vì sao? Vì học nó
Như một chuyến đi xa,
Ngược thời gian, tìm hiểu
Lịch sử của nước nhà.
Mà chuyến đi vui lắm,
Chẳng tốn kém một đồng.
Ông sẽ dẫn các cháu,
Ta cùng đi, thích không?
Vừa đi ông vừa kể,
Bảo đảm không ai buồn.
Kể bằng thơ dễ hiểu.
Nếu cần, ông thề luôn.
Sẽ lâu và xa đấy.
Bốn nghìn năm cơ mà.
Bốn nghìn năm lịch sử
Đất nước Việt Nam ta.
Ông sẽ theo trình tự
Kể từ những ngày đầu
Nhân dân ta dựng nước
Rồi kể tiếp về sau.
Suốt bốn nghìn năm ấy
Tổ Quốc ta thân yêu
Trải qua bao biến cố.
Nhiều lắm, nhiều, rất nhiều.
Nhiều triều đại tiếp nối.
Nhiều chiến thắng vẻ vang.
Nhiều anh hùng, hào kiệt.
Nhiều trang sử huy hoàng.
Tất cả những cái ấy
Ta phải biết, đúng không?
Biết để hiểu đất nước,
Tự hào về cha ông.
Lần lượt ông kể hết.
Hơn thế, dọc đường đi
Ông kể xen cổ tích,
Toàn truyện hay, li kỳ.
Hoặc có thể là truyện
Các danh nhân, anh hùng.
Nước ta, người như thế
Thì ôi, nhiều vô cùng.
Các cháu đồng ý chứ,
Sao cứ phải chờ lâu?
Làm gì là làm tới.
Nào, chúng ta bắt đầu.
Trước khi kê chuyện sử,
Ông nói qua đôi lời
Về vũ trụ, sự sống
Và nguồn gốc con người.
1
VŨ TRỤ VÀ TRÁI ĐẤT
Đã bao giờ các cháu
Tự hỏi mình câu này:
“Từ đâu ta có được
Thế giới như hôm nay?”
Một câu hỏi thú vị,
Được đặt ra từ lâu.
Bây giờ ông sẽ nói,
Từ sơ khai, ban đầu.
Mười bốn tỉ năm trước,
Có một cái Big Bang,
Tức là Vụ Nổ Lớn,
To lắm, to kinh hoàng.
Cái Big Bang to ấy
Làm vũ trụ nở ra,
Tạo nên các thiên thể,
Như Trăng, Sao, Thiên Hà…
Mười tỉ năm sau đó
Trái Đất mới ra đời,
Như một hành tinh nhỏ
Bay xung quanh Mặt Trời.
Mặt Trời về thực chất
Chính là một Ngôi Sao,
Vì nó tự phát sáng,
Lơ lửng trên trời cao.
Thiên thể bay quanh nó
Được gọi là Hành Tinh,
Tự chúng không phát sáng,
Cả Trái Đất chúng mình.
Mặt Trời có tất cả
Tám Hành Tinh khác nhau.
Rất khác về kích thước,
Tính chất và sắc màu.
Đó chính là Sao Hỏa,
Sao Mộc, Hải, Thiên Vương,
Các sao Thổ, Kim, Thủy
Và Trái Đất thân thương.
Trong số tám “Sao” ấy,
- Chính xác là Hành Tinh,
Vì do ta gọi chệch -
Có Vệ Tinh của mình.
Vệ Tinh là gì nhỉ?
Là thiên thể bay quanh
Một Hành Tinh nào đó.
Tất nhiên bay rất nhanh.
Ngoài Vệ Tinh nhân tạo,
Trái Đất có Mặt Trăng,
Một Vệ Tinh tuyệt đẹp,
Ta quen gọi Chị Hằng.
Chị Hằng không tỏa sáng.
Hấp thụ ánh Mặt Trời,
Đêm, Chị phản chiếu lại,
Làm say lòng loài người.
*
Theo các nhà khoa học,
Trái Đất của chúng ta
Hình thành từ mảnh vỡ
Của Mặt Trời văng ra.
Đến lượt mình, Trái Đất
Cũng có một miếng văng,
Cùng thời gian, cô lại
Và rồi thành Mặt Trăng.
Vậy, như ông đã nói,
Sau cú nổ kinh hoàng,
Ta gọi Vụ Nổ Lớn,
Tây thì gọi Big Bang,
Tỉ tỉ Sao xuất hiện,
Phân bố ở khắp nơi.
Mỗi Sao là một Hệ.
Ta thuộc Hệ Mặt Trời.
Nhiều Hệ gộp nhau lại
Thành một chùm Thiên Hà.
Ngân Hà là tên gọi
Thiên Hà của chúng ta.
Vũ Trụ nó lớn lắm.
Lớn vô tận, vô cùng,
Đến mức ông cũng chịu,
Không thể nào hình dung.
Cùng với sự lớn ấy
Là khối lượng khổng lồ
Các Thiên Hà, các Hệ,
Đủ kích thước nhỏ to.
Có chuyện này thật lạ,
Thoạt nghe tưởng chuyện cười,
Rằng Sao trong Vũ Trụ
Cũng sinh, chết, như người.
Các nhà khoa học nói,
Năm tỉ năm nữa thôi
Mặt Trời ngừng phát sáng
Và sẽ chết, than ôi,
Trái Đất ta, thật tiếc,
Cũng chết theo, tuy nhiên,
Từ giờ đến lúc ấy
Còn lâu, đừng buồn phiền.
Cũng có thể khoa học
Giúp chúng ta “dọn nhà”
Sang sống ở nơi khác
Trong Vũ Trụ bao la.
Vậy là hết lo nhé,
Ngoài lo học thành người.
Nhất là học môn Sử.
Tuyệt đối không được lười.
Tiếp đến ông sẽ nói
Một đề tài rất hay,
Là do đâu xuất hiện
Sự sống như ngày nay.
*
Giờ thì như đã hứa,
Để các cháu nghỉ ngơi,
Ông kể một câu chuyện,
Một bài học ở đời.
Chuyện về một cậu bé
Lười đọc sách, tiếc sao.
Rồi các cháu sẽ hiểu
Chuyện kết thúc thế nào.
Đúng, đọc sách cần lắm.
Mà phải đọc hàng ngày.
Nào, lắng nghe ông kể.
Câu chuyện ấy thế này.
CUỐN SÁCH VÀ CHIẾC GIỎ ĐỰNG THAN
Theo người ta kể lại,
Xưa có người đàn ông
Sống với một cậu bé
Trong ngôi nhà ven sông.
Đó là hai ông cháu.
Người ông tóc bạc phơ.
Cậu bé mới mười tuổi.
Quang cảnh đẹp, nên thơ.
Hàng ngày ông đọc sách.
Vâng, đọc sách hàng ngày.
Có nhiều cuốn sách cổ
Gáy bọc da, rất dày.
Còn cậu bé đi học,
Cũng hàng ngày, buổi chiều,
Khi làm xong bài tập,
Cậu chơi bóng, thả diều.
Cũng có hôm chơi chán,
Cậu đọc sách cùng ông,
Nhưng đọc không hứng lắm,
Và lúc hiểu, lúc không.
“Ông ơi, sao thế nhỉ, -
Cháu đọc thấy không hay,
Lại buồn ngủ, không hiểu.
Mà ông đọc suốt ngày.”
Ông mỉm cười bảo cậu
Lấy chiếc giỏ than đen
Vừa đổ than vào bếp,
Xuống sông xách nước lên.
Cậu vâng lời, rất cố,
Nhưng khi lên đến nơi,
Nước đã chảy ra hết.
Ông cậu lại mỉm cười:
“Thì cháu hãy thử lại.
Lần này đi nhanh hơn.”
Cậu đi gần như chạy,
Mà nước vẫn không còn.
Cậu xách thêm lần nữa,
Mồ hôi chảy thành dòng:
“Không thể dùng chiếc giỏ
Để lấy nước, thưa ông.”
Ông cậu đáp: “Đúng vậy.
Thực ra ông hôm nay
Không muốn cháu lấy nước,
Mà muốn nói điều này:
Giỏ không đựng được nước.
Nhưng giỏ bám than đen,
Sau mấy lần “lấy nước”
Sẽ sạch, trắng dần lên.
Cũng vậy, cháu đọc sách,
Khó hiểu, thấy không cần.
Nhưng cháu kiên trì đọc,
Đầu óc sẽ sáng dần.”
Cậu bé nhìn chiếc giỏ,
Hình như lần đầu tiên,
Thấy nó được nước rửa
Không còn bám bụi đen.
Vâng, ông già nói thế,
Rằng đọc sách rất cần
Tâm hồn và ý nghĩ
Sẽ thanh lọc dần dần.
Từ đó, cậu bé ấy
Chăm đọc sách hàng ngày.
Rồi trở nên thông thái
Tự lúc nào không hay.
2
SỰ SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT
Người ta đã ước tính
Có hàng tỉ Thiên Hà,
Tỉ tỉ ngôi sao sáng
Trong Vũ Trụ bao la.
Tỉ tỉ sao sáng ấy
Có thể có hành tinh,
Tức là có sự sống
Như Trái Đất chúng mình.
Tiếc, đến nay, sự sống
Chưa tìm thấy nơi nào.
Có thể ta đơn độc
Giữa nghìn nghịt trời sao.
Có thể là như vậy.
Có thể không, hãy chờ.
Ông thì nghĩ là có.
Để rồi xem, bây giờ
Ngắn gọn và dễ hiểu,
Lần lượt ông điểm qua
Việc hình thành sự sống
Trên Trái Đất chúng ta.
*
Hơn bốn tỉ năm trước,
Ông nói rồi, nhớ không,
Đã hình thành Trái Đất,
Một khối lửa rực hồng.
Khối lửa ấy lắng xuống.
Các chất nhẹ nổi lên,
Thành quả cầu rất nóng,
Có bề mặt màu đen.
Rồi quả cầu ấy nguội,
Thành đất, đá nhấp nhô.
Các núi lửa hoạt động,
Liên tục phun bụi tro.
Chính trong bụi tro ấy
Có nhiều khí, về sau
Hình thành nên khí quyển
Bao quanh quả địa cầu.
Rồi đại dương xuất hiện,
Bốn tỉ năm trước đây
Nhờ xuất hiện hơi nước
Và mưa lớn nhiều ngày.
Từ trên cao xuống thấp,
Nước chảy mạnh từng dòng,
Dần dần ăn lõm đất
Và cuối cùng thành sông.
Nửa tỉ năm sau đó
Có sinh vật đơn bào.
Thêm hai tỉ năm nữa
Phát triển thành đa bào.
Rồi xuất hiện động vật,
Gồm các loài giản đơn,
Lúc đầu sống dưới nước,
Rồi thành phức tạp hơn.
Năm trăm triệu năm trước
Có loài cá đầu tiên.
Một thời gian sau đó
Có cỏ trên đất liền.
Các cháu chú ý nhé:
Cá xuất hiện trước cây.
Cá bò lên đất cạn,
Thành động vật sau này.
Trước hết thành bò sát,
Lúc đầu sống lưỡng cư,
Cả dưới nước, trên cạn,
Cứ tiến hóa từ từ.
Trong các loài bò sát,
Có một loài rất to,
Là khủng long tiền sử,
Bằng mấy chục con bò.
Hai trăm triệu năm trước,
Tổ tiên của loài người
Là động vật có vú
Mới có mặt trên đời.
Chim thì mãi sau đó,
Khoảng năm mươi triệu năm.
Hoa thì còn sau nữa,
Nếu ông nhớ không nhầm.
Loài khủng long, ta biết,
Tuyệt chủng đã từ lâu,
Sáu lăm triệu năm trước,
Còn chưa rõ do đâu.
*
Bây giờ ông sẽ kể
Một truyện cổ tích hay.
Chuyện Cô Tấm, Cô Cám.
Nghe nhé, truyện thế này…
TRUYỆN TẤM CÁM
Xưa có một cô bé,
Đẹp và rất có duyên.
Tên của cô là Tấm,
Một cái tên thật hiền.
Không may mẹ chết sớm,
Bố cô, lại không may,
Lấy thêm bà vợ nữa.
Đời cô khổ từ đây.
Rồi bố cô cũng chết,
Để lại cô trên đời
Với một bà mẹ ghẻ
Độc ác và khác người.
Bà này có cô Cám,
Là con riêng của bà.
Cũng trạc tuổi như Tấm,
Nhưng lười và chua ngoa.
Cảnh con chồng dì ghẻ
Đời nào cũng giống nhau.
Tấm thì luôn vất vả,
Làm việc nhà, chăn trâu.
Cám thì được chiều chuộng,
Chẳng động tay việc gì.
Chỉ biết ăn rồi uống,
Đi chơi rồi ngủ khì.
Một hôm, dì ghẻ bảo:
Cả hai đứa ra ao,
Cố bắt thật nhiều cá
Đem về đây cho tao.
Vốn chăm chỉ, cô Tấm,
Cứ mò bắt luôn tay.
Cuối buổi nhìn, cô thấy
Giỏ cá đã sắp đầy.
Trong khi đó cô Cám,
Vì lười, vì vụng về,
Nên chiếc giỏ rống rỗng,
Lại sắp đến lúc về,
Nên nhân lúc cô Tấm
Rửa tay bên ao đình,
Cô Cám lấy hết cá
Đổ sang giỏ của mình.
Quay lại, thấy mất cá
Cô Tấm không dám về
Vì sợ mẹ kế đánh,
Khóc, nước mắt dầm dề.
Bỗng có một ông Bụt
Râu trắng, mặt đỏ hồng:
“Cháu nhìn xem trong giỏ
Còn con cá nào không?”
Cô đáp: “Còn con bống.”
Ông Bụt cười, ân cần:
“Cháu thả nó xuống giếng,
Nhớ hàng ngày cho ăn.”
Nghe lời Bụt, từ đấy
Đứng bên giếng hàng ngày,
Cho cá ăn, cô Tấm
Gọi cá lên thế này:
“Bống bống bang bang, bống,
Lên mà ăn cơm vàng.
Đừng ăn cơm người khác,
Bang bang, bống bống, bang!”
Hai mẹ con cô Cám
Nhìn thấy thế sinh nghi,
Nên rình xem cô Tấm
Đang nói gì, làm gì.
Một hôm bà mẹ kế
Sai cô Tấm đi xa.
Rồi mụ bắt con bống,
Ăn, quẳng xương cho gà.
Về, gọi bống không thấy,
Tấm lại khóc, tức thì
Ông Bụt kia tốt bụng
Hiện lên, hỏi chuyện gì.
Nghe Tấm nói, ông Bụt
Bảo: “Cháu lấy ít xương
Còn sót lại của bống,
Đem chôn ở chân giường”.
*
Năm ấy vua mở hội,
Loan báo khắp đông tây.
Hai mẹ con nhà Cám
Chuẩn bị suốt mấy ngày.
Như các cô gái khác,
Cô Tấm cũng muốn đi.
Tiếc là cô nghèo đói,
Quần áo chẳng có gì.
Hơn thế, bà mẹ kế
Trộn đầy cả một nong
Thóc và gạo lẫn lộn,
Bảo cô phải nhặt xong.
Cô Tấm ôm mặt khóc.
Ông Bụt hiện ra ngay.
Ông gọi bầy chim sẻ
Đến giúp cô việc này.
Chỉ một loáng, thóc, gạo
Được tách thành hai bên.
“Giờ thì lọ xương cá,
Cháu hãy vào lấy lên.”
Cô làm theo lời Bụt.
Trong chiếc lọ - lạ thay,
Có đủ quần áo đẹp,
Còn thêm một đôi giày.
Lại có cả con ngựa,
Bé xíu, thật dễ thương.
Lập tức nó to lớn,
Đủ hàm thiếc, yên cương.
Cô Tấm liền tắm rửa,
Thay quần áo, đi giày.
Tất cả đều vừa khít,
Lên ngựa, phóng như bay.
Khi đi ngang vũng nước,
Một chiếc giày của cô
Bị rơi, không kịp nhặt.
Rồi cô tới kinh đô.
Xe của vua lúc ấy
Đi qua vũng nước này.
Con voi không chịu bước
Thúc mấy cũng đứng ngây.
Vua thấy lạ, sai lính
Xuống tìm hiểu sự tình.
Cuối cùng chúng tìm thấy
Một chiếc giày thật xinh.
Thật xinh và thật bé.
Vua nhìn nó, băn khoăn:
“Ai nhỉ? Ai đi nó
Chắc phải đẹp tuyệt trần.”
Rồi vua cho thông báo:
“Ai đi vừa giày này
Sẽ trở thành hoàng hậu.
Mời mọi người thử ngay!”
Vậy là chen nhau thử.
Ôi, các bà, các cô.
Ai cũng háo hức thử,
Nhưng chân họ quá to.
Cả mẹ con cô Cám
Cũng nhất quyết không thua.
Tiếc là họ thử mãi
Mà không thành vợ vua.
Đến lượt cô Tấm thử,
Thật nhẹ nhàng, lạ chưa -
Cả vua quan trố mắt -
Chân cô đi rất vừa!
Vua sai đoàn thị nữ
Rước cô Tấm vào cung,
Tấn phong làm hoàng hậu,
Hạnh phúc đến tột cùng.
*
Sống trong cung sung sướng,
Nhưng đến ngày giỗ cha,
Là người con có hiếu,
Cô xin về thăm nhà.
Mẹ ghẻ và cô Cám
Thấy Tấm giờ cao sang,
Thì vô cùng khó chịu,
Nên ghen ghét với nàng.
Mụ mẹ bảo con gái:
“Đừng lo, từ hôm nay
Con sẽ là hoàng hậu,
Thay cho con ranh này.”
Rồi mụ vợ ngon ngọt,
Bảo cô Tấm: “Bố con
Xưa thích ăn trầu lắm,
Nay nhà cau không còn,
Vậy giờ con chịu khó
Leo lên cây cau cong,
Hái một buồng cúng bố
Cho bố con vui lòng.
Vì thương cha, cô Tấm
Vội leo lên hái cau.
Mụ dì ghẻ chặt gốc,
Cô ngã, chết, dập đầu.
Mụ thay áo cho Cám
Rồi đưa lên kinh thành,
Nói cô chị chết đuối,
Giờ em thay chị mình.
Vua nghe, không vui lắm,
Cũng thấy hơi lạ lùng,
Nhưng vốn yêu thương Tấm,
Nên cho Cám vào cung.
Lại nói cô Tấm chết,
Hóa thành chim vàng anh.
Vua đâu, nó bay đấy,
Líu ríu khắp cung thành.
Một hôm, thấy cô Cám
Phơi áo vua bên ao,
Nó nói: “Phơi cẩn thận,
Kẻo rách áo chồng tao!”
Vua nghe, liền bảo nó:
“Này, vàng anh, vàng anh,
Hãy chui vào ống áo,
Nếu em là vợ anh.”
Con chim chui vào áo.
Từ đó vua ngày đêm
Chỉ vui chơi với nó,
Không đoái hoài cô em.
Cô em, tức cô Cám,
Rất tức giận, thế là
Bắt vàng anh làm thịt,
Lông thì vứt sau nhà.
Chỗ lông chim bị vứt,
Liền mọc một cây xoan,
Che cho vua nghỉ mát,
Đọc sách lúc thư nhàn.
Cô Cám liền cho chặt,
Đốt cả cây lẫn cành
Rồi đem tro của nó
Ra đổ ngoài cổng thành.
Chỗ ấy mọc cây thị,
Lớn rất nhanh hàng ngày,
Đến mùa đậu một quả,
Chỉ một quả trên cây.
Có một bà bán nước,
Nhân có việc đi ngang,
Liền giơ bị và nói
Với quả thị chín vàng:
“Thị ơi, hãy rụng xuống,
Rụng xuống bị của bà.
Bà không ăn, chỉ ngửi,
Rồi bà đem về nhà.”
Quả nhiên thị rụng xuống.
Bà đem cất, hàng ngày
Lấy ra ngửi và ngắm,
Rồi mân mê trên tay.
Một hôm bà đi vắng
Lúc quay về, bất ngờ
Thấy nhà cửa sạch sẽ,
Cơm nấu sẵn đang chờ.
Ai thế nhỉ, thật lạ?
Bà tự thầm hỏi mình.
Những ngày tiếp cũng thế.
Rồi bà quyết định rình.
Thì ra một cô gái
Từ quả thị chui ra.
Cô đảm đang lo liệu
Hết mọi việc trong nhà.
Đó chính là cô Tấm.
Bà ôm chặt, không buông.
Từ đây hai bà cháu
Sống chung nhà, chung buồng.
Bà ngồi quán bán nước,
Cô Tấm lo têm trầu.
Trầu cô têm thật đẹp,
Miếng nào cũng đều nhau.
Một hôm, vua đi dạo,
Mà lòng buồn, buồn sao.
Khi đi ngang quán nước,
Vua khát, liền ghé vào.
Khi ăn trầu, uống nước,
Vua ngạc nhiên hỏi bà:
“Ai têm trầu đẹp thế?”
Bà dẫn Tấm đi ra.
Thế là vua gặp lại
Người vợ cũ của mình.
Ngài rơm rớm nước mắt
Nghe vợ kể sự tình.
Vua nghe xong, tức giận
Truyền quân lính ra đi
Bắt mẹ con cô Cám
Để trị tội tức thì.
Vốn là người nhân hậu,
Lại xét tình người nhà,
Cô Tấm xin nương nhẹ,
Nên cuối cùng vua tha.
Thế là chúng thoát chết,
Bị đuổi đi, dọc đường
Chúng bị hổ ăn thịt,
Mà không ai xót thương.
3
LOÀI VƯỢN CỔ
Hàng chục triệu năm trước,
Trên trái đất chúng ta
Có một loài vượn cổ,
Thường sống trong rừng già.
Hàng ngày đi bắt thú
Hoặc tìm kiếm thức ăn,
Loài vượn này thích ứng
Với việc đi bằng chân.
Hai chi trước giải phóng
Để cầm nắm, bẻ cây,
Hàng triệu năm phát triển,
Rồi dần dần thành tay.
Thế là Người tối cổ
Cuối cùng đã hình thành.
Đứng thẳng lưng, tay ngắn,
Chân to chắc, bước nhanh.
Họ sống thành từng tốp,
Trên dưới vài chục người.
Ban ngày đi bắt thú
Hay hái hoa quả tươi.
Còn ban đêm họ ngủ
Trong hang, trong lều thô
Dựng bằng cành cây lớn,
Phủ cỏ hoặc lá khô.
Họ đã biết dùng lửa
Để nướng chín thức ăn;
Làm công cụ bằng đá
Giúp cho việc đi săn.
Bốn mươi nghìn năm trước,
Loài Người tối cổ này
Cuối cùng có hình dáng
Giống con người hiện nay.
Họ sinh hoạt theo nhóm,
Khoảng vài chục gia đình,
Có họ hàng gần gũi,
Gọi là Người Thông Minh.
Đó là các thị tộc,
Làm, ăn chung với nhau
Trong chế độ nguyên thủy,
Cái buổi ấy ban đầu.
Thế là ông kể hết
Sơ lược về quá trình
Phát triển của Trái Đất
Đến con người thông minh.
Hiện các nhà khoa học
Chưa nhất trí với nhau.
Nhiều điều còn tranh cãi,
Mà chắc còn cãi lâu.
Tiếp đến ông sẽ nói
Về xã hội loài người
Thời xã hội nguyên thủy
Vốn tồn tại một thời.
*
Bây giờ ông sẽ kể
Một câu chuyện rất hay
Về anh chàng chăn lợn
Thông minh và khéo tay.
Ông nhà văn Đan Mạch
Viết nó từ rất lâu.
Ông đọc nó ngày bé,
Giờ vẫn còn thuộc làu.
Có điều ông ấy viết
Không bằng thơ, mà văn.
Để các cháu dễ nhớ,
Ông chuyển nó thành vần.
ANH CHÀNG CHĂN LỢN
Xưa có chàng hoàng tử,
Nước nhỏ, dân không nhiều,
Nhưng đủ giàu và rộng
Để kiếm một người yêu.
Vì chàng là hoàng tử,
Từ chân đến đỉnh đầu,
Chắc chỉ hô một cái
Là có ối nàng dâu.
Nhưng hoàng tử chỉ muốn
Và thầm yêu một người,
Là con gái hoàng đế,
Vừa giàu, vừa xinh tươi.
Gia tài chàng chỉ có
Một cây hồng rất già.
Năm năm nó mới nở
Duy nhất một bông hoa.
Nhưng là bông hồng đẹp,
Có thể gọi hồng tiên.
Ai ngửi hương của nó
Sẽ quên hết ưu phiền.
Ngoài ra chàng còn có
Một con chim họa mi.
Đương nhiên nó biết hót,
Và hót hay cực kỳ.
Chàng gửi hai cái ấy,
Cộng trái tim, tâm hồn,
Tới con gái hoàng đế,
Gọi là để cầu hôn.
Tiếc là nàng công chúa,
Đẹp thì đẹp, có điều
Hời hợt và hơi ngốc,
Sự ngốc nghếch đáng yêu.
“Hoa thật à? Chán thế!”
Nàng kêu lên, và rồi
Các nịnh thần nhất loạt:
“Ôi hoa thật, eo ôi!”
Khi chim họa mi hót,
“Charmant! Merveilleux!”
Tức là hay, hay quá! -
Các cung nữ kêu to.
Thế mà công chúa nói:
“Lại chim thật! Tiếc thay!
Giá nó là chim máy!”
Rồi nàng thả nó bay.
Nghĩa là nàng từ chối
Không cho chàng vào cung.
Nhưng hoàng tử bướng bỉnh,
Quyết đeo đuổi đến cùng.
Chàng giả vờ cà nhắc,
Mặt lấy tro bôi đen,
Gặp hoàng đế, tự nguyện
Làm anh chăn lợn quèn.
Phòng chàng gần chuồng lợn.
Thức suốt đêm, chàng ngồi,
Hý hoáy đục rồi cắt
Chàng làm được chiếc nồi.
Một chiếc nồi kỳ diệu,
Lại phát nhạc rất hay.
Nó hát: “Yêu em lắm...”
Thật thích chiếc nồi này.
Ngoài ra, ai ngửi nó
Sẽ biết được trong thành
Ai ăn gì lúc ấy:
Cá, thịt, đậu hay canh...
Buổi sáng, như thường lệ,
Công chúa dạo ngoài đồng,
Chợt nghe “Yêu em lắm...”
Bài hát nàng thuộc lòng.
Bản nhạc hay đến nỗi
Nàng công chúa đáng yêu
Sai thị tỳ đến hỏi
Chàng bán không, bao nhiêu?
“Có bán, - anh chàng đáp. -
Giá là mười cái hôn
Của chính nàng công chúa.
Không kém, cũng không hơn!”
“Thằng này thật là láo!”
Rồi nàng bảo nữ tỳ:
“Mười cái hôn, đồng ý,
Chúng mày hôn. Đi đi!”
Các nàng kia dãy nãy:
“Bẩn lắm, không hôn đâu!”
Nhưng không dám trái lệnh
Vì không muốn mất đầu.
Như người có hàng tốt,
Anh chăn lợn làm cao:
“Không mặc cả, - anh đáp.-
Không thì thôi, xin chào!”
Công chúa phụng phịu mặt.
Nàng bỏ đi, chiếc nồi
Vẫn hát “Yêu em lắm...”
Hát rất hay, và rồi
Không nhịn được, công chúa
Bảo thị tỳ đứng quanh,
Kéo váy, che thật kín
Để nàng cúi hôn anh.
Vậy là ai cũng thích:
Công chúa được chiếc nồi.
Còn anh chàng chăn lợn -
Mười cái hôn lên môi.
Ôi, thật hay, thật tuyệt,
Công chúa nghe cả ngày,
Hơn thế, trong thành phố
Ai ăn gì, biết ngay.
Anh chăn lợn - hoàng tử,
Tháo vát và thông minh,
Mấy hôm sau làm được
Chiếc máy nhạc tài tình.
Chỉ cần quay một cái
Là nó hát đủ bài:
Valse, ponka, sonnate...
Thật hay và vui tai.
Công chúa nghe, chết lịm.
“Nhưng lần này thì không,
Quyết không hôn hắn nữa.
Hay mấy cũng đừng hòng!”
Thế mà rồi, tội nghiệp,
Không đừng được, và nàng
Gấp mười lần lần trước,
Đã phải cúi hôn chàng.
Từ ban công, hoàng đế
Thấy đám đông nữ tỳ
Tụm quanh trên bãi cỏ,
Không biết đang làm gì.
Ngài rón rén đi tới,
Và ôi, thấy con mình
Đang hôn thằng chăn lợn,
Hôn nhiều lần, thật kinh!
Tức giận, ngài cầm giép
Đánh vào đít các nàng
Mỗi người đúng một cái,
Thật đau, thật phũ phàng.
Còn anh chàng chăn lợn
Thì Ngài cáu vô cùng.
Cáu cả nàng công chúa.
Cáu, đuổi khỏi hoàng cung.
Nghĩ mà thương, thật tội,
Như Adam, Eva
Bị đuổi khỏi thượng giới,
Họ bị đuổi khỏi nhà.
Lại đúng hôm mưa gió,
Quần áo dính vào người.
Nàng nói: “Ta lạnh lắm!”
Chàng không ôm, còn cười.
Chưa hết - mưa rửa sạch
Vết nhọ trên mặt chàng.
Chàng lại thành hoàng tử,
Tuấn tú và cao sang.
Công chúa giờ mới tiếc,
Tiếc hùi hụi, vì mình
Đã ngu dốt từ chối
Con người này thông minh.
Rồi dẫu con hoàng đế,
Rất kiêu, đẹp, lại giàu,
Nàng chủ động đề nghị,
Nhưng hoàng tử lắc đầu.
Chàng cương quyết từ chối,
Còn nỡ oán trách nàng,
Rồi đi, để công chúa
Giữa mưa gió phủ phàng.
Cũng đáng, nhưng tội nghiệp,
Tội nghiệp công chúa này,
Vì nói gì thì nói -
Chàng cư xử không hay.
Thứ nhất, xinh thường ngốc,
Còn hơn xấu thông minh.
Thứ hai, ta, nam giới,
Phải biết chết vì tình.
Chí ít, chàng có thể
Mời công chúa vào nhà,
Cho ăn uống, cho ngủ,
Sáng đuổi cũng kịp mà.
Tôi mong cho công chúa
Kén chọn được người tài.
Hoàng tử tìm được vợ.
Còn giờ thì bye-bye!
4
XÃ HỘI NGUYÊN THỦY
Trong xã hội nguyên thủy,
Mọi người sống với nhau,
Không khái niệm đẳng cấp,
Sang hèn hay nghèo giàu.
Cùng chung sức làm việc,
Không tranh giành miếng ăn.
Không khái niệm bóc lột.
Không ghen ghét, thù hằn.
Vào thời tối cổ ấy
Thức ăn còn chưa nhiều,
Lại sống cùng thú dữ,
Quả khốn khó nhiều điều.
Cùng với sự tiến hóa,
Con người đã khôn dần,
Biết chế tạo công cụ,
Kiếm được nhiều thức ăn.
Họ biết nuôi gia súc,
Trồng ngũ cốc, rau xanh,
Lấy vỏ cây dệt vải,
Làm đồ gốm, đồ sành.
Tuy nhiên, công cụ đá
Dẫu tiến bộ rất nhiều,
Nhưng năng suất lao động
Không tăng được bao nhiêu.
Sáu nghìn năm về trước,
Con người tìm thấy đồng,
Cùng các kim loại khác
Rồi học cách gia công.
Họ chế tao nông cụ,
Các vật dụng trong nhà,
Mài dũa đồ trang sức,
Xẻ gỗ để dựng nhà.
Nhờ có công cụ mới,
Họ khai phá đất hoang,
Săn bắt nhiều dã thú,
Sản xuất, trao đổi hàng.
Rồi hàng hóa, lương thực
Được làm ra cuối cùng
Vừa nhiều vừa đa dạng,
Vượt quá mức tiêu dùng.
Số lượng dư thừa ấy
Được những người thông minh
Hay khỏe mạnh chiếm giữ
Làm của riêng cho mình.
Họ ngày càng giàu có,
Không cùng làm, cùng ăn,
Mà trở thành bóc lột,
Và thế là dần dần
Một giai cấp xuất hiện,
Sống bằng bóc lột người.
Xã hội cũ tan rã,
Xã hội mới ra đời.
*
Xã hội ấy nguyên thủy,
Dạng xã hội đầu tiên,
Đại khái là thế đấy,
Như ông vừa kể trên.
Mai, trước khi kể tiếp,
Về lịch sử nước nhà,
Ông sẽ điểm ngắn gọn,
Kiểu cưỡi ngựa xem hoa,
Một số quốc gia cổ,
Cả Đông và cả Tây.
Các cháu đồng ý chứ?
Thôi, tạm dừng hôm nay.
À mà khoan, gượm đã,
Có chuyện ngụ ngôn này,
Ông kể cho các cháu,
Bảo đảm là rất hay.
Ông Esop viết nó
Cách đây ba nghìn năm,
Một nô lệ Hy Lạp,
Nếu ông nhớ không nhầm.
Các cháu lắng nghe nhé,
Vừa hay vừa thông minh.
Nghe xong, phải cố gắng
Rút bài học cho mình.
HAI CON DÊ QUA CẦU
Có một con Dê Trắng
Và một con Dê Đen
Đi qua chiếc cầu nhỏ,
Hai con từ hai bên.
Chẳng may, cầu thì hẹp,
Sông phía dưới lại sâu.
Ai cũng tranh đi trước,
Quyết không chịu nhường nhau.
Dê Trắng nói: “Anh bạn,
Anh phải nhường tôi đi.”
Dê Đen đáp: “Ngược lại.
Nhường ư? Anh nói gì?”
Cả hai con cứ bước,
Không ai chịu nhường ai,
Rồi húc nhau ghê gớm,
Rồi rơi xuống cả hai.
Từng có chú Dê Trắng
Và Dê Đen, buồn sao,
Nay ở khúc sông ấy
Không có chú Dê nào.
*
Dê hay Người cũng vậy,
Đi đường phải nhường nhau.
Nếu có chậm một chút,
Cũng chẳng chết ai đâu.
5
CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI
Vào cuối thời nguyên thủy,
Cư dân sống rất đông
Ở những vùng đất lớn
Dọc theo các dòng sông,
Như sông Nin Ai Cập,
Sông Dương Tử, Trường Giang,
Trung Hoa thời cổ đại.
Ở Ấn Độ - sông Hằng.
Ti-grơ, Ơ-phơ-rat,
Hai sông nặng phù sa,
Ở khu vực Tây Á,
Còn gọi là Lưỡng Hà.
Nhờ nông cụ cải tiến,
Đất rộng và phì nhiêu,
Nông nghiệp phát triển mạnh,
Năng suất cao hơn nhiều.
Đặc biệt là lúa gạo,
Cả khoai sắn, rau, dưa.
Chăn nuôi cũng phát triển,
Đã có phần dư thừa.
Vậy là có chiếm hữu -
Có người không đủ ăn,
Có người thành giàu có,
Giai cấp hình thành dần.
Năm nghìn năm về trước,
Lần đầu tiên, quốc gia
Hình thành ở Ai Cập,
Trung Quốc và Lưỡng Hà.
Ở các quốc gia ấy
Dân sống bằng nghề nông,
Nhưng họ không có ruộng,
Chỉ là người làm công.
Sau mỗi mùa thu hoạch
Họ phải nộp, trung bình,
Một phần ba sản phẩm
Cho chúa đất của mình.
Ngoài ra phải lao dịch,
Tức là làm không công
Cho nhà giàu, quí tộc,
Và cho cả cộng đồng.
Bọn nhà giàu, quí tộc
Không làm việc chân tay,
Vì có người hầu hạ
Suốt cả đêm lẫn ngày.
Đó là các nô lệ,
Vốn là những tù binh,
Những người nghèo bị ép
Bán sức để nuôi mình.
Đứng đầu lớp quí tộc
Có ông vua, ông này
Nắm hết mọi quyền lực
Trong mọi việc hàng ngày.
Hơn thế, vua tự nhận
Là thánh thần, hơn người.
Trung Quốc là Thiên Tử,
Nôm na là con trời.
Còn ở nước Ai Cập
Vua là Pha-ra-ông,
Tức là “ngôi nhà lớn”.
Các cháu thấy kỳ không?
Để giúp việc vua ấy,
Một bộ máy chính quyền
Do quí tộc nắm giữ,
Suốt từ dưới lên trên.
Chúng bắt dân đóng thuế,
Bắt đi lính, bắt phu,
Xây cung điện, ai chống
Sẽ bị giết, bỏ tù…
*
Vậy là ông đã nói
Ngắn gọn trong mấy dòng
Về ba quốc gia cổ,
Tất cả đều Phương Đông.
Giờ các cháu nghe tiếp
Về hai nước Phương Tây,
Rô-ma và Hy Lạp,
Được hình thành thế này.
Có hai bán đảo nhỏ
Ở miền Nam châu Âu,
Nhô ra Địa Trung Hải.
Ở nơi ấy, từ lâu,
Hơn ba nghìn năm trước
Hình thành hai quốc gia,
Là Hy Lạp cổ đại
Và nhà nước Rô-ma.
Đất ở đây không tốt
Như các nước Phương Đông,
Nên người dân buộc phải
Tìm giống và chọn trồng
Nhiều cây lưu niên phụ,
Như ô-liu và nho.
Chúng không cần nhiều nước,
Nhưng quả mọng và to.
Đặc biệt hai nước ấy
Không chỉ giỏi nghề nông,
Còn giỏi nghề làm rượu
Và nhiều nghề thủ công,
Như nghề luyện kim loại
Làm công cụ, nữ trang,
Nghề thủy tinh, gốm sứ,
Cả nghề tìm, đãi vàng.
Rô-ma và Hy Lạp
Có nhiều cảng nước sâu,
Nên buôn bán phát triển,
Tấp nập thuyền và tàu.
Xã hội hai nước ấy
Gồm có hai loại người -
Chủ nô và nô lệ.
Tỉ lệ một trên mười.
Nô lệ phải làm việc
“Như nô lệ”, tất nhiên.
Bị coi như súc vật,
Không cơm áo, gạo tiền.
Chủ nô, tức quí tộc,
Lại sung sướng cực kỳ.
Chỉ ăn chơi, nhảy múa,
Không động tay làm gì.
Nô lệ đã khởi nghĩa
Rất nhiều lần ở đây,
Vì họ không cam chịu
Cuộc sống bất công này.
*
Vào buổi bình minh ấy,
Các quốc gia cổ xưa
Đạt được những thành tựu,
Cũng không phải loại vừa.
Trung Quốc có âm lịch,
Mười hai tháng một năm.
Ba mươi ngày một tháng,
Tính toán cả ngày rằm.
Họ có đồng hồ nước,
Đồng hồ cát để bàn
Để đo và tính toán
Giờ giấc và thời gian.
Người Phương Đông thời cổ
Nghĩ ra chữ tượng hình
Để ghi lại cảm nghĩ
Và văn hóa của mình.
Trong lĩnh vực toán học,
Người Lưỡng Hà là người
Nghĩ ra các con số
Từ một cho đến mười.
Những con số đơn giản
Các cháu dùng ngày nay.
Đơn giản như khi đếm
Mười ngón trên hai tay.
Trong khi người Ai Cập
Lại tìm ra số Pi,
Vì họ giỏi Hình Học,
Chính xác đến lạ kỳ.
Trong lĩnh vực xây dựng,
Họ để lại cho ta
Rất nhiều Kim Tự Tháp,
Thành quách ở Lưỡng Hà.
Người Rô-ma, Hy Lạp
Vào thời ấy mịt mùng
Đã có bảng chữ cái
Nay nhiều nước vẫn dùng.
Trong các lĩnh vực khác,
Như Toán, Sử, thơ văn,
Vật Lý, Triết, Hình Học,
Điêu Khắc, Địa, vân vân,
Xuất hiện nhiều tên tuổi
Có thể gọi khổng lồ -
Pla-tông, A-si-met,
Ta-let, Pi-ta-go…
Trong lĩnh vực xây dựng
Và kiến trúc ở đây,
Nhiều công trình đồ sộ
Tồn tại đến ngày nay.
Ông đã chiêm ngưỡng chúng -
Đấu trường Cô-li-dê
Ở Rô-ma cổ kính.
Không tin à? Ông thề.
Ông còn đến Hy Lạp,
Thăm đền Pac-tê-nông.
To, đẹp, hoành tráng lắm.
Sao, lại không tin ông?
Mai sau các cháu lớn,
Cứ đến những nơi này,
Ngắm chúng và hãy nhớ
Lời ông nói hôm nay.
Các cháu mệt chưa nhỉ?
Chưa à? Có gì đâu.
Học lịch sử thích lắm,
Như ông nói từ đầu.
Ngày mai ông sẽ nói
Về lịch sử nước nhà.
Giờ ngồi im, ông kể
Chuyện một cậu lớp Ba.
Câu chuyện này có thật,
Đúng mắt thấy, tai nghe,
Khi thăm nhà người bạn,
Mới đây thôi, xin thề.
CHUYỆN CẬU BÉ VÀ BA ĐIỂM MỘT
Cậu nọ đi học về
Liền giấu ngay sổ điểm,
Nhưng bà mẹ đòi xem -
Cậu hết đường giấu diếm.
Mẹ chau mày thở dài,
Chỉ thấy toàn điểm một.
Bố giận dữ hồi lâu
Nhìn cậu con học dốt.
- Vì sao cô cho con
Con một này?- Bố quát.
-Vì con yếu môn sinh,
Gọi chim là bò sát.
-Thế điểm một thứ hai?
Cậu kia liền nhăn nhó:
-Con tưởng Kenguru
Mọc ngoài đồng như cỏ.
-Điểm một là còn cao!
Bà mẹ rơi nước mắt.
-Nhưng trường con xưa nay
Điểm một là thấp nhất.
Còn điểm một thứ ba
Là do con dốt toán.
Đề bài hỏi: Vậy là
Lớp B bao nhiêu bạn?
Con giải suốt một giờ,
Tính trên rồi tính dưới,
Cuối cùng thành: Lớp B
Có hai mươi bạn rưỡi.
6
NƯỚC VĂN LANG
Vào thời xa xưa ấy
Đất nước của chúng ta
Là một vùng rậm rạp
Núi và đồi bao la.
Có rất nhiều hang động
Và cây cối tốt tươi
Cùng nhiều loài động vật,
Tất nhiên, có cả người.
Các nhà khảo cổ học,
Năm sáu mươi, sáu lăm,
Tìm thấy dấu tích họ,
Ba, bốn trăm triệu năm.
Họ sinh sống rải rác
Ở Hòa Bình, Hạ Long,
Nghệ An và Phú Thọ…
Chủ yếu dọc các sông.
Ngoài săn bắn, hái lượm,
Để có thêm thức ăn,
Họ chăn nuôi, trồng trọt,
Cuộc sống khá hơn dần.
Gần ba nghìn năm trước,
Dọc theo các triền sông
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
Như sông Mã, sông Hồng,
Có nhiều bộ lạc lớn,
Đã hình thành khắp nơi,
Chung phong tục, ngôn ngữ,
Hùng mạnh và đông người.
Trong đó, hùng mạnh nhất
Là bộ lạc Văn Lang
Ở Việt Trì, Phú Thọ,
Sống theo các bản làng.
Khoảng thế kỷ thứ Bảy
Trước Công Nguyên, một người,
Một thủ lĩnh tài giỏi
Của Văn Lang ra đời.
Ông nhanh chóng khuất phục
Các bộ lạc bốn phương,
Thanh thế rất mạnh mẽ,
Rồi tự xưng Hùng Vương.
Ông lập một nước mới,
Đặt tên là Văn Lang,
Đóng đô ở Phú Thọ,
Thuộc thời đại Hồng Bàng.
Đất nước ấy rộng lớn,
Gồm Bắc Bộ bây giờ
Và vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên thơ.
Nước có mười lăm bộ,
Giống huyện quận ngày nay,
Đứng đầu là Lạc Tướng.
Bên dưới các bộ này
Có rất nhiều chiềng, chạ,
Tương đương như xã, làng,
Đứng đầu là Bồ Chính,
Chức quan thời Văn Lang.
Nhà nước chưa có luật,
Cả quân đội cũng không.
Mỗi khi có chiến sự,
Các trai tráng một lòng
Theo lệnh vua chiến đấu.
Lạc Tướng luôn dẫn đầu.
Lo các việc chính sự
Có các quan Lạc Hầu.
Kiểu cha truyền con nối,
Các vua lên ngai vàng.
Mị Nương là công chúa.
Hoàng tử là Quan Lang.
*
Là một nước nông nghiệp,
Dân nước ta bấy giờ
Giỏi về canh tác lúa,
Biết dệt vải, thêu thùa.
Chiếc trống đồng Ngọc Lũ,
Phát hiện ở Hà Nam
Và một số trống khác
Cũng người thời ấy làm.
Họ còn biết dùng sắt
Đúc vũ khí, lưỡi cày.
Đánh cá, nuôi gia súc,
Đóng thuyền và trồng cây.
Vì còn nhiều thú dữ
Nên dân ở nhà sàn.
Nhà làm bằng tre nứa,
Tường là các tấm đan.
Nam giới chỉ đóng khố.
Nữ mặc váy, yếm che.
Chân trần, đầu thường đội
Một vòng lông chim xòe.
Dân Văn Lang thời ấy
Xăm mình, nhuộm răng đen.
Theo chế độ mẫu hệ
Và thờ cúng tổ tiên.
Vào những ngày lễ hội
Họ tổ chức đua thuyền,
Thi giã gạo, làm bánh,
Trong tiếng trống, tiếng kèn.
Nước Văn Lang thế đấy,
Có từ thời xa xưa.
Một đất nước rộng lớn.
Các cháu nghe, nhớ chưa?
Bây giờ ông sẽ kể
Câu chuyện cổ tích này,
Xẩy ra vào thời ấy.
Về bánh chưng, bánh dày.
SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG, BÁNH DÀY
Đời Hùng Vương thứ sáu,
Khi giặc Ân không còn,
Vua có ý thoái vị,
Muốn nhường ngôi cho con.
Vua gọi các hoàng tử,
Nhân năm mới, đầu xuân:
“Các con tìm lễ vật
Cùng nước uống, thức ăn
Làm sao thật ý nghĩa
Để thờ cúng đất trời,
Cúng thần linh, tiên tổ,
Đẹp dáng, đẹp lòng người.
Cuộc thi này đặc biệt,
Phần thắng thuộc về ai
Ta sẽ cho người ấy
Được thừa kế vương ngai.”
Các hoàng tử háo hức
Lên đường đi gần xa,
Tìm của ngon vật lạ,
Mong nối ngôi vua cha.
Con trai thứ mười tám,
Có tên là Lang Liêu,
Vốn hiền hậu, hiếu thảo,
Đáng khen đủ mọi điều.
Mẹ không may chết sớm,
Việc thờ cúng tổ tiên
Chàng còn chưa được dạy,
Nên lo lắng, buồn phiên.
Một đêm, thần báo mộng:
“Suy cho cùng, ở đời
Không gì quý bằng gạo.
Gạo nuôi sống con người.
Vậy con lấy gạo nếp
Làm bánh vuông, bánh tròn.
Vuông tượng trưng cho đất.
Tròn là bầu trời con.
Trong bánh có nhân thịt,
Ngoài gói bằng lá xanh,
Để ghi sâu ơn nặng
Công cha mẹ sinh thành.”
Chàng Lang Liêu tỉnh dậy
Nhớ lời thần, rất mừng,
Làm bánh vuông, luộc chín,
Đặt tên là bánh chưng.
Chàng đồ xôi, giã mịn,
Rồi ngồi vắt bằng tay
Những bánh tròn bọc lá,
Gọi đó là bánh dầy.
Đúng hẹn, các hoàng tử
Mang đến trình vua cha
Nhiều món ăn ngon lạ
Của các miền gần xa.
Còn Lang Liêu, khiêm tốn,
Dâng bánh chưng, bánh dày.
Chàng nói rõ ý nghĩa
Của các loại bánh này.
Vua đích thân nếm thử
Thấy rất ngon, và rồi
Chàng là người được chọn
Để vua cha truyền ngôi.
Từ đó, Tết Nguyên Đán
Người dân khắp mọi miền
Làm hai loại bánh ấy
Cúng đất trời, tổ tiên.
*
Trong dân gian còn có
Một truyền thuyết rất hay
Về Vua Hùng ngày trước.
Câu truyện ấy thế này.
Hơn bốn nghìn năm trước
Đế Minh, cháu Thần Nông,
Đi chơi vùng Ngũ Lĩnh,
Gặp nàng Vũ tiên rồng.
Kết quả mối tình ấy
Là một người con trai,
Đặt tên là Lộc Tục,
Quả một đấng anh tài.
Lộc Tục là con thứ,
Đế Minh cho làm vương
Của nước Nam, Xích Quỉ,
Được ví như thiên đường.
Đế Nghi, anh Lộc Tục,
Con trưởng của Đế Minh
Được làm vua phương Bắc,
Thuận lý và thuận tình.
Khi lên ngôi, Lộc Tục
Trở thành Kinh Dương Vương,
Vị Vua Hùng thứ nhất
Của một nước hùng cường.
Một lần, Ngài thăm thú
Sông nước hồ Động Đình,
Gặp và lấy Long Nữ,
Con gái vua Thủy Tinh.
Lạc Long Quân, con họ,
Thông minh và có tài,
Về sau nối ngôi bố
Thành Vua Hùng thứ hai.
Tiếp đến là câu chuyện
Lạc Long Quân, Âu Cơ,
Chuyện cái bọc trăm trứng
Truyền tụng đến bây giờ.
Gần hai thiên niên kỷ
Có mười tám Vua Hùng
Kế tiếp nhau trị nước,
Tước hiệu và tên chung.
Để nhớ ơn tiên tổ,
Ngày mồng Mười tháng Ba
Nhân dân làm lễ cúng,
Gọi là Ngày Giỗ Cha.
Các Vua Hùng dựng nước,
Vậy thì ta, cháu con,
Phải lo mà giữ nước
Để nước mãi trường tồn.
7
NƯỚC ÂU LẠC
Đời Hùng Vương Mười Tám,
Tức thế kỷ thứ Ba,
Trước Công Nguyên, hẳn thế,
Nước Văn Lang chúng ta
Không yên bình như trước.
Vua quan lo ăn chơi,
Không lo chuyện phòng vệ.
Dân đói ăn nhiều nơi.
Trong khi đó, Phương Bắc,
Vua Tần, Tần Thủy Hoàng,
Vào năm Hai Một Tám,
Cho đánh chiếm Văn Lang.
Người Lạc Việt thời ấy
Sống cùng người Tây Âu,
Còn gọi là Âu Việt,
Có quan hệ từ lâu.
Họ hợp sức chiến đấu.
Quân giặc mạnh và đông,
Giết thủ lĩnh Âu Việt,
Nhưng họ không nản lòng.
Sử cũ Trung Quốc chép
Về quân dân Văn Lang:
“Người Việt bỏ lên núi,
Nhất quyết không đầu hàng.
Ngày án binh bất động,
Đêm quấy nhiễu quân Tần.
Họ tôn một hào kiệt
Để lãnh đạo toàn dân.”
Hào kiệt ấy, Thục Phán,
Vừa có đức, có tài,
Ngăn được bọn xâm lược,
Làm chiến tranh kéo dài.
Sáu năm trời ròng rã
Quân giặc bị giam chân.
Trong một trận quyết chiến,
Quân Việt thắng quân Tần.
Tướng giặc bị giết chết
Là Hiệu Úy Đồ Thư.
Nhà Tần phải ra lệnh
Cho rút quân từ từ.
Vào năm Hai Không Bảy,
Sau chiến thắng không lâu,
Thục Phán lên ngôi báu.
Lạc Việt và Tây Âu
Được sáp nhập làm một,
Một nước mới ra đời,
Có tên là Âu Lạc,
Đất rộng và đông người.
Kinh đô của Âu Lạc
Đóng ở vùng Cổ Loa,
Một vùng đất bằng phẳng,
Cách Bờ Hồ không xa.
An Dương Vương Thục Phán
Sau khi lên ngai vàng,
Giữ nguyên bộ máy cũ
Của vua Hùng Văn Lang.
Nước vẫn chia thành bộ,
Có Lạc Tướng, Lạc Hầu,
Bồ Chính và chiềng chạ…
Vốn tồn tại từ lâu.
Đất nước đã phát triển,
Trước hết là nghề nông,
Nghề chăn nuôi, dệt vải,
Rồi các nghề thủ công.
Dân số gia tăng mạnh,
Nhưng khoảng cách giàu nghèo
Cũng gia tăng tương ứng,
Làm mâu thuẫn tăng theo.
*
Các cháu nghe, hiểu chứ?
Giờ ông kể vì sao
Âu Lạc đã sụp đổ,
Và trong hoàn cảnh nào.
Thục Phán cho xây dựng
Ở kinh đô của mình
Một khu thành bằng đất,
Sau gọi là Loa Thành.
Sử cũ chép: “Thành ấy
Rộng nghìn trượng, hình tròn,
Như chiếc loa vỏ ốc…”
Nay di tích vẫn còn.
Với ba vòng khép kín,
Tường thành này rất dài,
Những mười sáu nghìn mét,
Nếu ông nhớ không sai.
Mặt thành khoảng mười mét.
Chiều cao - năm đến mười.
Chân thành, để đứng vững,
Có chỗ rộng hai mươi.
Có hào sâu đầy nước
Bao bọc xung quanh thành,
Thông với một đầm lớn,
Dành cho các thủy binh.
Giữa là khu Thành Nội,
Nơi ở của Hoàng Gia,
Cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng
Đầy tớ và người nhà.
Cổ Loa, thành xưa ấy,
Không chỉ là kinh đô,
Mà còn một chiến lũy,
Cùng quân đội, lương kho.
*
Đất nước mới thành lập,
Được ít năm yên hòa
Thì có họa xâm lược
Từ phía quân Triệu Đà.
Triệu Đà là viên tướng
Được vua Tần ủy quyền
Cai quản xứ Lưỡng Quảng
Và những vùng kề bên.
Vào năm Hai Không Bảy,
Nhà Tần yếu, Triệu Đà
Lập nên nước Nam Việt
Ở vùng đất giáp ta.
Chẳng bao lâu sau đó
Triệu Đà đã dấy binh,
Rắp tâm đánh Âu Lạc,
Những tưởng sẽ thắng nhanh.
Tuy nhiên, quân Âu Lạc,
Có lợi thế đất nhà,
Tướng giỏi, vũ khí tốt,
Nên hắn thua, xin hòa.
Vào năm Một Bảy Chín,
Hắn lần nữa xuất quân
Sau khi đã ly gián
Thục Phán và triều thần.
Do không còn tướng giỏi,
Không chủ động phòng xa,
Đất nước ta, Âu Lạc,
Lọt vào tay Triệu Đà.
Vậy là các cháu thấy,
Thục Phán An Dương Vương,
Chỉ vì do khinh xuất,
Mà phải chết thảm thương.
Cũng bắt đầu từ đó,
Suốt một nghìn năm dài,
Dân ta là nô lệ
Của phong kiến nước ngoài.
Trong suốt nghìn năm ấy
Không khuất phục, đầu hàng,
Nhân dân ta nổi dậy,
Lập nhiều trang sử vàng.
Giờ thì ông sẽ kể
Một truyền thuyết đau lòng
Liên quan đến Thục Phán
Và con gái của ông.
MỴ CHÂU, TRỌNG THỦY
Xưa, ở nước Âu Lạc,
Vua là An Dương Vương
Muốn xây thành giữ nước.
Một việc rất bình thường.
Thành ấy hình xoắn ốc
Ở kinh đô Cổ Loa,
Phải cao và phải rộng,
Cấu trúc phải hài hòa.
Vua và dân xây mãi,
Thế mà không hiểu sao
Cứ ngày xây, đêm đổ,
Chẳng ai hiểu thế nào.
Vua lập đàn cầu tế,
Thần Kim Qui giúp ngài
Xây xong thành lũy ấy,
Vững chắc cả trong ngoài.
Xong, Kim Qui còn lấy
Một chiếc móng của mình
Đưa cho vua và nói
Nó sẽ giúp giữ thành.
“Dùng nó làm lẫy nỏ,
Sẽ là chiếc nỏ thần,
Bắn trăm phát trăm trúng,
Một lúc giết nghìn quân.”
Vua liền sai Cao Lỗ,
Một người thợ thông minh,
Làm cho vua nỏ ấy,
Rồi luôn giữ bên mình.
Đó là chiếc nỏ đẹp
Và rất cứng, muốn dương,
Phải là tay lực sĩ
Có sức mạnh phi thường.
Nước Nam Việt phía Bắc,
Đánh Âu Lạc nhiều lần
Nhưng luôn chịu thất bại
Vì gặp phải nỏ thần.
Nên ông vua nước ấy,
Có tên là Triệu Đà,
Bèn toan tính kế khác -
Cho con sang giảng hòa.
Đó là chàng Trọng Thủy,
Đúng một đấng mày râu,
Cha bắt sang Âu Lạc
Để cầu hôn Mỵ Châu.
Mỵ Châu là con gái
Của vua An Dương Vương,
Một công chúa trong trắng,
Lại xinh đẹp khác thường.
Vì thơ ngây, trong trắng,
Và cả tin, nên nàng
Đem lòng yêu Trọng Thủy,
Không biết mưu cha chàng.
Về phần mình, Trọng Thủy
Cũng yêu nàng thiết tha,
Tình yêu cũng trong trắng,
Bất chấp ý đồ cha.
Thấy Mỵ Châu, Trọng Thủy
Yêu thương nhau thực lòng,
An Dương Vương đồng ý
Cho họ thành vợ chồng.
Một đêm trăng tuyệt đẹp,
Hai người ngồi trước thềm.
Nước dưới hồ lấp lánh
Nghìn vạn ánh sao đêm.
Rồi như thể nhân tiện,
Trọng Thủy hỏi vợ mình
Bí quyết nước Âu Lạc
Giữ vững được Loa Thành.
Nghĩ đã là chồng vợ,
Không giấu diếm điều gì,
Mỵ Châu liền kể chuyện
Chiếc nỏ thần Kim Qui.
Hơn thế, nàng lấy trộm
Chiếc nỏ từ phòng cha,
Hướng dẫn cách sử dụng,
Tỉ mỉ và thật thà.
Ngày hôm sau Trọng Thủy
Xin phép được lên đường
Quay trở về Nam Việt
Để dự lễ Trùng Dương.
Trước khi đi, lưu luyến,
Chàng nói với Mỵ Châu:
“Sự đời khó biết trước,
Lần này ta xa nhau,
Nhỡ can qua, ly biệt,
Khó biết đâu mà tìm.”
Mỵ Châu nói: “Nhà thiếp
Có chiếc áo lông chim.
Nếu không may loạn lạc,
Phải chịu cảnh tha hương,
Thiếp nhổ lông chiếc áo
Rồi bỏ lại dọc đường.
Theo đó mà tìm thiếp
Một khi chàng quay về.
Nói đoạn, nàng liền khóc,
Nước mắt chảy dầm dề.
Lại nói chàng Trọng Thủy
Về nước gặp Triệu Đà,
Kể hết về chiếc nỏ
Rồi đưa cho vua cha
Chiếc lẫy thần, chiếc móng
Của thần Rùa Kim Qui.
Chàng đã lấy trộm được
Mà không ai biết gì.
Mấy tháng sau, Nam Việt,
Với chiếc lẫy trong tay,
Cho quân đánh Âu Lạc,
Chắc thắng lợi lần này.
Được tin giặc lại đến
Vua Việt, An Dương Vương,
Cậy nỏ thần vô địch,
Vẫn bình tâm như thường.
Nhưng khi đem nỏ bắn
Thì thấy mất lẫy thần,
Thành Cổ Loa thất thủ,
Vua phải trốn, thoát thân.
Chỉ một mình một ngựa,
Người ngựa phóng như bay,
Sau lưng là con gái,
Liên tục suốt mấy ngày.
Nàng Mỵ Châu lấy áo,
Nhổ lông rắc dọc đường.
Cuối cùng đến dãy núi,
Đêm vừa buông, mù sương.
Ngọn núi ấy gần biển,
Phía trước không đường đi.
Sau lưng giặc đang đuổi.
Vua không biết làm gì.
Ngài xuống ngựa, cầu khấn
Thần Kim Qui giúp mình.
Khấn xong, trời nổi gió
Và mặt biển rùng mình.
Thần Kim Qui xuất hiện:
“Giặc đang ngồi phía sau!”
Vua Âu Lạc chợt hiểu,
Liền chém con đứt đầu.
Rồi ngài ôm con khóc,
Leo lên tảng đá cao,
Nhảy xuống biển tự tử.
Biển nổi sóng dâng trào.
Nhớ lời vợ, Trọng Thủy
Liền lên đường đi tìm.
Chàng cứ đi, đi mãi,
Lần theo vết lông chim.
Khi đến núi Mộ Dạ,
Chàng tìm thấy Mỵ Châu,
Người vợ chàng yêu quí,
Chết, mà không có đầu.
Chàng ôm vợ than khóc,
Day dứt và chân thành.
Rồi vội vàng lên ngựa
Đem vợ về kinh thành.
Chàng làm lễ mai táng
Theo nghi thức vương gia,
Rồi gieo đầu xuống giếng
Chết trong thành Cổ Loa.
Chiếc giếng ấy, được biết,
Đã trải qua nhiều đời.
Nghe nói lấy nước giếng
Rửa ngọc, ngọc sáng ngời.
8
HAI BÀ TRƯNG (mất năm 43)
Bắt đầu giai đoạn mới
Trong lịch sử nước nhà -
Một nghìn năm lệ thuộc
Vào phong kiến Trung Hoa.
Vào năm Một Bảy Chín
Trước Công Nguyên, Triệu Đà
Sáp nhập vào Nam Việt
Nước Âu Lạc của ta.
Nam Việt, như ta biết
Là Lưỡng Quảng ngày nay,
Vùng đất thuộc Trung Quốc,
Tức Quảng Đông, Quảng Tây.
Triệu Đà chia Âu Lạc
Thành hai quận, đông dân
Và rộng lớn lúc ấy,
Là Giao Chỉ, Cửu Chân.
Giao Chỉ ở Miền Bắc,
Còn Cửu Chân bây giờ
Thuộc vùng Thanh Nghệ Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên thơ.
Vào năm Một Một Một,
Nhà Hán chiếm nước ta.
Lập thêm một quận nữa,
Nhật Nam, quận thứ ba.
Quận này đất cũng rộng,
Nhưng người thưa, hanh khô,
Từ Quảng Bình cát trắng
Đến Quảng Nam bây giờ.
Nhà Hán nhập ba quận
Với vùng đất người Tàu,
Thành một Châu rộng lớn,
Đặt tên là Giao Châu.
Thủ phủ của Châu ấy
Đóng ở huyện Thuận Thành.
Luy Lâu là tên cũ,
Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Thái Thú đứng đầu quận.
Thứ Sử đứng đầu Châu.
Tất cả đều người Hán.
Còn Lạc Tướng, Lạc Hầu
Vẫn giữ nguyên người Việt.
Cai trị vẫn như xưa.
Dân chịu nhiều sưu thuế,
Thân phận như trâu, lừa.
Năm Ba Tư, Tô Định
Được nhà Hán cử sang
Làm Thái Thú Giao Chỉ.
Tên này loại làng nhàng,
Nhưng nham hiểm, độc ác,
Chuyên vơ vét cho mình,
Làm nhiều điều ngang ngược,
Gây khổ cho dân tình.
*
Bấy giờ ở vùng đất
Nay thuộc huyện Mê Linh,
Có hai chị em gái
Vừa đẹp vừa thông minh.
Con một vị Lạc Tướng.
Trưng Trắc là cô đầu.
Cô em là Trưng Nhị,
Ghét Tô Định từ lâu.
Quan Thái Thú Tô Định,
Gian xảo và đê hèn
Lập mưu giết Thi Sách,
Con quan huyện Châu Diên.
Ông là chồng Trưng Trắc,
Trước đó từng bất bình
Với cách quan nhà Hán
Cai trị dân nước mình.
Vào đầu năm Canh Tý,
Tức là năm bốn mươi,
Hai Bà Trưng khởi nghĩa
Thu hút rất nhiều người.
Trước hết đền nợ nước,
Sau để trả thù nhà.
Nghĩa quân thắng dòn dã,
Nức lòng dân gần xa.
Theo truyền thuyết kể lại,
Hay tin, Nguyễn Tam Trinh
Từ Mai Động kéo đến
Cùng hai nghìn tráng binh.
Hơn ba nghìn lính nữ
Theo chủ tướng, Ông Cai,
Gia nhập quân khởi nghĩa,
Từ vùng đất Thanh Oai.
Quân Hai Bà rất mạnh.
Sáu lăm thành đầu hàng.
Tô Định trốn về nước,
Nhục nhã và vội vàng.
Hai Bà lập nước mới,
Kinh đô ở Mê Linh,
Đuổi Thái Thú phương Bắc,
Cai trị theo cách mình.
Đứng đầu đất nước ấy
Là hai vị nữ vương.
Xưa nay trong lịch sử,
Một sự kiện phi thường.
Năm Bốn Hai, nhà Hán
Sai Mã Viện Phục Ba,
Lưu Long làm phó tướng,
Sang chiếm lại nước ta.
Cùng rất nhiều xe ngựa
Và hai vạn tinh binh
Chúng tấn công Hợp Phố,
Và cướp bóc dân tình.
Mã Viện đi đường thủy,
Lưu Long đi đường rừng,
Gặp phải sự chống cự
Của quân Hai Bà Trưng.
Quân Mã Viện thế mạnh,
Áp tới tận La Thành.
Nghĩa quân không chống nổi,
Rút lui bảo vệ mình.
Sau một năm cầm cự,
Dũng cảm và kiên cường,
Quân Hai Bà đành rút,
Binh sĩ chết đầy đường.
Cuối cùng đến Phúc Thọ,
Giặc dụ dỗ ra hàng,
Nhưng Hai Bà tuẫn tiết,
Nhảy xuống dòng Hát Giang.
Ở đấy giờ đang có
Ngôi đền thờ Hai Bà,
Một tấm gương trung liệt,
Trả nợ nước, thù nhà.
Quân Mã Viện tuy thắng,
Nhưng thiệt hại nặng nề.
Mười phần chết sáu, bảy
Ở vùng đất Cấm Khê.
*
Lại nói tướng Mã Viện,
Khi việc bình định xong,
Hắn ngạo nghễ cho đúc
Chiếc cột lớn bằng đồng.
Trên cột đồng hắn khắc
Hai dòng chữ sơn son:
“Khi cột đồng này gãy,
Đất Giao Chỉ không còn.”
Thật láo và hợm hĩnh
Viên tướng người Tàu này.
Cột đồng giờ chẳng thấy,
Nước Việt vẫn còn đây.
Hơn thế, còn hùng mạnh,
Đã đánh đuổi nhiều lần
Khiến quân giặc phương Bắc.
Hoảng sợ, chẳng dám gần.
*
Chuyện Trưng Trắc, Trưng Nhị,
Thế là ông kể xong.
Một trang sử chói lọi
Sống mãi cùng non sông.
Ngày mai ông kể tiếp
Chuyện bà Triệu Thị Trinh,
Hay còn gọi Bà Triệu,
Một anh hùng xứ Thanh.
Bây giờ, để giải trí,
Các cháu nghe chuyện này.
Chuyện ngụ ngôn Esôp,
Ý nghĩa và rất hay.
ÔNG GIÀ VÀ THẦN CHẾT
Xưa có ông già nọ,
Rất già yếu, thế mà
Phải hàng ngày hái củi
Ở tít trong rừng xa.
Một hôm, hái xong củi,
Đang định cõng mang về,
Nhưng bó củi quá nặng,
Lưng thì đau và tê,
Ông lão kêu tuyệt vọng:
“Thật khốn khổ thân tôi!
Chỉ mong sao Thần Chết
Đến bắt đi cho rồi!”
Lập tức, Thần Chết đến.
Đó là một bộ xương,
Một tay cầm lưỡi hái,
Đáng sợ và dị thường.
Ông lão run lập cập.
“Ngươi vừa mới gọi ta?”
“Vâng, ta muốn Thần Chết
Mang bó củi về nhà!”
Bây giờ các cháu biết,
Không phải mong ước nào
Cũng muốn thành hiện thực.
Cuộc sống lạ kỳ sao.
9
BÀ TRIỆU (225 -248)
Hôm qua ông đã nói,
Vì sưu thuế nặng nề,
Dân Giao Châu cơ cực
Và khốn khổ đủ bề.
Nhiều nơi dân khởi nghĩa
Chống lại ách ngoại bang,
Khiến vua quan Trung Quốc
Phải hoảng sợ, kinh hoàng.
Thái Thú quận Giao Chỉ
Là Tiết Tống tâu vua:
“Dân Giao Chỉ khó trị,
Đất lam chướng bốn mùa…”
Năm Hai Trăm Bốn Tám,
Giữa thế kỷ thứ Ba,
Một cuộc khởi nghĩa lớn
Có nhiều người tham gia.
*
Một truyền thuyết kể lại,
Xưa ở quận Cửu Chân
Có một con voi trắng
To đẹp như voi thần.
Nó xuống núi phá phách,
Dẫm đạp hết mùa màng.
Nhiều khi còn táo tợn
Xông cả vào xóm làng.
Con voi thật to lớn,
Duy nhất chỉ một ngà.
Ai nhìn thấy cũng sợ,
Phải né tránh từ xa.
Thế mà một cô gái,
Xinh đẹp, để vai trần,
Quyết tay không bắt nó
Để trừ hại cho dân.
Cô đi trước, khiêu khích,
Nhử nó ra đầm sình,
Rồi nhảy lên đầu nó
Đưa về nuôi nhà mình.
Về sau, cô gái ấy
Chiêu quân chống giặc Ngô,
Luôn cưỡi nó ra trận,
Voi một ngà, khổng lồ.
Truyền thuyết còn kể lại
Rằng ngực cô rất dài,
“Dài tới hơn ba thước”,
Thường phải vắt lên vai.
Quân giặc nhìn, cả sợ,
Liền bỏ chạy thoát thân.
Cô gái ấy xinh đẹp,
Oai nghiêm như vị thần.
*
Cô gái trong huyền thoại,
Tên là Triệu Thị Trinh,
Một anh hùng dân tộc,
Dám vì dân quên mình.
Bà người huyện Yên Định,
Tỉnh Thanh Hóa bây giờ,
Không may bố mẹ chết
Khi đang còn trẻ thơ.
Anh bà, Triệu Quốc Đạt,
Nuôi em như mẹ hiền.
Ông là một hào trưởng,
Làm huyện lệnh Quan Yên.
Lớn lên, bà giỏi võ,
Có sức khỏe hơn người,
Lại nung nấu chí lớn
Muốn ra tay giúp đời.
Gặp người chị dâu ác,
Bà trốn nhà đi xa,
Lên rừng chiêu binh mã,
Hơn nghìn người theo bà.
Thấy giặc Ngô tàn ác,
Bà về bàn với anh
Cùng khởi binh chống lại,
Và được anh đồng tình.
Từ căn cứ Yên Định,
Nghĩa quân lấn đánh dần,
Chiếm quận lỵ Tư Phố,
Rồi cả vùng Cửu Chân.
Quốc Đạt lâm bệnh chết,
Bà cầm quân thay anh.
Ra trận mặc giáp bạc,
Cưỡi voi, cài trâm anh.
Trông bà thật lẫm liệt,
Xinh đẹp như nữ thần,
Nên người ta thường gọi
Là “Nhụy Kiều Tướng quân.”
*
Nghe tin có bạo loạn,
Vua Ngô rất lo âu,
Liền cử tướng Lục Dận
Làm thứ sử Giao Châu.
Cùng sáu nghìn binh mã,
Theo đường bộ tới đây,
Hắn quyết tâm đàn áp
Cuộc khởi nghĩa lần này.
Hắn dùng tiền mua chuộc
Nhiều hào trưởng địa phương,
Hứa phong cho Bà Triệu
Chức Lệ Hải Bà Vương.
Tất nhiên Bà từ chối,
Nhất quyết không đầu hàng.
Nghĩa binh được khích lệ,
Tinh thần càng vững vàng.
Nhiều trận đánh ác liệt
Ở căn cứ Bồ Điền.
Nhưng do lực quá yếu,
Thiếu lương thực và tiền,
Nên chỉ sau hai tháng
Cầm cự rất kiên cường,
Thành Bồ Điền thất thủ,
Rơi vào tay đối phương.
Bà Triệu đã tuẫn tiết
Trên núi Tùng đầy mây.
Nó ở xã Triệu Lộc,
Huyện Hậu Lộc ngày nay.
Bà mới hăm ba tuổi,
Chết, để lại tấm lòng
Và chiến công hiển hách,
Sống mãi với non sông.
*
Giờ thì các cháu thấy
Rằng phụ nữ nước ta
Đúng là thật oanh liệt.
Thật oanh liệt các Bà.
Bà Trưng rồi Bà Triệu.
Rồi sau nữa con nhiều.
Tổ tiên chúng ta đấy.
Ngoan cường và đáng yêu.
Bây giờ, như thường lệ,
Nào, ngồi xích lại đây.
Lại kể chuyện cố tích,
Cực nhộn và cực hay.
VUA LỢN
Xưa, có anh chàng nọ,
Nhà nghèo, không mẹ cha,
Phải đi ở từ bé
Cho ông quan huyện già.
Vì làm lụng vất vả,
Vì ở bẩn thành quen,
Anh chàng bẩn như lợn.
Và Lợn cũng là tên.
Một hôm, đang kỳ cọ
Chân quan huyện bên bồn,
Hắn thấy mu chân chủ
Có ba nốt ruồi son.
Buột miệng thôi, Lợn nói
Hắn cũng có sau lưng
Chín nốt ruồi như thế.
Quan nghe, bảo hắn dừng,
Cởi áo, quan xem kỹ.
Quả có chín nốt ruồi.
Xếp thành hàng thật đẹp,
Nốt nào cũng hồng tươi.
Không nghi ngờ gì nữa.
Đây là tướng làm vua.
Thằng Lợn thành vua Lợn?
Đây không phải chuyện đùa.
Quan quyết định giết hắn,
Bèn lệnh cho nô tỳ,
Bảo như thế, như thế,
Như thế cứ làm đi.
Nô tỳ tên là Gái,
Thầm yêu Lợn lâu nay,
Bèn báo cho Lợn biết,
Bảo phải trốn đi ngay.
Lợn sợ, đi xa lắm,
Theo dòng sông ngược lên,
Cuối cùng hắn được nhận
Giúp việc trong ngôi đền.
Đền có tượng hộ pháp
To lớn và phương phi.
Lợn lau, với không tới,
Bèn nói: “Ngồi xuống đi.”
Thật lạ, ông hộ pháp
Nghe nói thế liền ngồi.
Lau xong, lại đứng dậy,
Còn mỉm cười, nhếch môi.
Ban đêm Lợn bảo tượng
Ra tập võ cho mình.
Có hôm tập hăng quá
Đến tận rạng bình minh.
Ông chủ đền thấy lạ,
Bèn hỏi rõ đầu đuôi.
Lợn thật thà kể hết,
Kể cả chuyện nốt ruồi.
Ông già báo quan huyện.
Quan đến bắt Lợn đi
Vì ngài vẫn muốn giết
Cái thằng này lạ kỳ.
Bất chợt một toán cướp
Từ trong rừng nhảy ra,
Đánh quân lính tan tác
Rồi khênh Lợn về nhà.
Ở đấy, chúng sụp lạy
Trước Lợn rồi kính thưa:
Đêm qua thần báo mộng
Hôm nay sẽ gặp vua.
Lợn vui vẻ đồng ý
Làm thủ lĩnh nghĩa quân,
Được tắm rửa sạch sẽ
Và thay mới áo quần.
Nhưng tên Lợn vẫn giữ.
Thủ lĩnh Lợn oai phong.
Các anh hùng hào kiệt
Đến tụ nghĩa rất đông.
Rồi khởi nghĩa thắng lợi,
Lợn được tôn làm vua.
Một vị vua rất oách,
Vua thật chứ chẳng đùa.
Một lần ngài kinh lý,
Thấy cô Gái năm nào.
Gái nói: “Vua oai nhỉ?”
Ngài đáp: “Ừ, thì sao?
Có muốn làm hoàng hậu
Thì lên xe đi cùng.”
Gái gật đầu: “Cũng được.”
Rồi hai người về cung.
10
NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
Nhà Đông Hán suy yếu,
Đầu thế kỷ thứ ba.
Ba nước Ngô, Thục Ngụy
Ra đời ở Trung Hoa.
Đó là thời Tam Quốc,
Khi ba nước tranh tài.
Nhà Ngô đã tự tiện
Chia Giao Châu thành hai.
Phần đất ở Trung Quốc
Được gọi là Quảng Châu.
Phần của Âu Lạc cũ
Thì gọi là Giao Châu.
Khi dẹp xong khởi nghĩa,
Các triều vua Trung Hoa
Cử người sang cai trị
Các huyện ở nước ta.
Cùng thời gian, đất nước
Phát triển hơn xưa nhiều.
Nhưng người dân vẫn khổ
Và cơ cực đủ điều.
Nhân tiện, ông muốn nói,
Rằng vào thời gian này,
Thế kỷ Một đến Sáu,
Đã có nhiều đổi thay
Trong đời sống văn hóa
Và tinh thần nước ta.
Nho Giáo rồi Đạo Giáo,
Rồi Đạo Phật Thích Ca
Được người Hán du nhập
Vào đời sống hàng ngày.
Sơ bộ, ông giải thích
Về từng đạo thế này.
*
Nho Giáo, hay Khổng Giáo,
Do Khổng Tử lập ra.
Là bộ luật ứng xử
Và lễ nghĩa người Hoa.
Khổng Tử người nước Lỗ,
Thông minh và thâm trầm,
Một triết gia cổ đại,
Hai nghìn năm trăm năm.
Cơ sở của Nho Giáo
Là Tứ Thư, Ngũ Kinh.
Nó dạy người nhỏ tuổi
Phải chăm lo học hành.
Luôn kính yêu cha mẹ,
Lớn, xây dựng nước nhà.
Như các cụ vẫn nói:
“Tu thân rồi tề gia…”
Sống, có trên có dưới,
Đúng đạo lý làm người.
Vua được gọi “Thiên Tử”,
Nôm na là “Con Trời’.
Nó dạy nhiều điều khác,
Nói chung, toàn điều hay.
Ảnh hưởng của Nho Giáo
Còn đến tận ngày nay.
*
Cùng thời với Khổng Tử,
Có Lão Tử, là người
Đã lập nên Đạo Giáo,
Chủ trương sống ở đời
Phải tuân theo số phận
Và qui luật tự nhiên.
Sống giản đơn, thanh bạch,
Không lo lắng, buồn phiền.
Ông cũng là tác giả
Bộ sách Đạo Đức Kinh.
Dựa vào nó, Lão Tử
Xây dựng thuyết của mình.
Đạo Giáo bao quát rộng,
Ngoài nghi lễ tinh thần,
Còn có cả tướng số,
Thuốc chữa bệnh, thiên văn.
Cả phép trừ ma thuật,
Cả phong thủy, pháp thiền,
Dưỡng sinh và diệt độc,
Cả phép luyện thuốc tiên…
Một người khác, Trang Tử,
Cũng đóng góp phần mình
Vào tư tưởng Đạo Giáo
Bằng cuốn Nam Hoa Kinh.
Ông này, theo truyền thuyết,
Có giấc mơ lạ thường.
Ông mơ mình hóa bướm,
Bay lượn mãi bên đường.
Tỉnh dậy, ông rất tiếc,
Thấy mình vẫn là người,
Không biết mơ hay tỉnh,
Đành thở dài, mỉm cười.
*
Quê hương của Phật Giáo
Không phải nước Trung Hoa,
Mà là nước Ấn Độ.
Đức Phật là Thích Ca.
Ngài là người có thật,
Sinh tháng Tư, ngày Rằm,
Cách đây đã lâu lắm -
Hai nghìn năm trăm năm.
Giáo lý của Đạo Phật
Chủ yếu ba điều này:
Không được làm việc ác,
Làm việc thiện hàng ngày.
Điều thứ ba, luôn nhớ
Làm sạch ý nghĩ mình
Bằng cách ngồi thiền định
Hoặc niệm Phật, cầu kinh.
Thế giới, ba Đạo lớn,
Là Đạo Phật lâu đời,
Rồi đến Đạo Thiên Chúa,
Cuối cùng là Đạo Hồi.
Đạo Phật giúp hướng thiện,
Xua đuổi cái ác tà,
Làm lòng người nhân ái,
Xã hội đẹp, hài hòa.
Vậy là ông nói hết
Tam Giáo của người Tàu,
Nhập vào đời sống Việt,
Cái thuở ấy ban đầu.
*
Các cháu mệt chưa nhỉ?
Không sao, ông có đây
Thêm một truyện cổ tích.
Truyện rất nhộn, thế này.
MƯỜI VOI KHÔNG ĐƯỢC BÁT NƯỚC XÁO
Xưa, có ba cô gái,
Đến tuổi, đi lấy chồng.
Thành ra nhà ba rể.
Ba ắt tốt hơn không.
Hai anh đầu giàu có,
Nghiêm chỉnh và đàng hoàng.
Anh thứ ba nghèo khổ,
Lại còn thói huênh hoang.
Một hôm, bố vợ chết,
Hai anh mang lợn, xôi.
Anh thứ ba tay trắng,
Còn khinh khỉnh bĩu môi:
“Lợn hai bác bé quá.
Để bây giờ em đi
Mua mười voi làm cỗ
Chừng ấy thấm tháp gì.”
Rồi anh ta đi thật.
Đi đâu không ai hay,
Bắt người ta chờ mãi,
Cho đến khi tối ngày
Anh ta mới quay lại,
Tay không vẫn tay không,
Rồi làm bộ giận dữ:
“Thật đúng là mất công.
Cái nhà kia thật láo,
Tôi định mua mười voi,
Mà hắn chỉ có tám,
Thế là chờ công toi.”
Rồi anh ta ngồi xuống,
Thản nhiên chén ngon lành,
Lại chê con lợn bé,
Không có mỡ trong canh.
Từ đấy mới có chuyện
Nói khoác những mười voi,
Không được bát nước xáo.
Một anh rể không tồi.
12
LÝ BÍ (503 – 548) VÀ NHÀ TIỀN LÝ
Đầu thế kỷ thứ Sáu,
Nhà Lương chia nước ta
Thành sáu châu lớn nhỏ.
Tên các châu ấy là:
Giao Châu ở Bắc Bộ.
Ở Thanh Hóa - Ái Châu.
Đức, Lợi, Minh - Nghệ Tĩnh.
Quảng Ninh là Hoàng Châu.
Ở Giao Châu thời ấy
Thứ Sử là Tiêu Tư,
Tham lam và gian ác
Nhưng giả bộ nhân từ.
Hắn đặt nhiều thuế mới,
Tăng lao dịch, lao công,
Làm người dân cơ cực,
Luôn ấm ức trong lòng.
Rồi một cuộc khởi nghĩa,
Năm Năm Trăm Bốn Hai,
Do Lý Bí khởi xướng,
Ác liệt và kéo dài.
Sau, ông thành vua Việt,
Hậu duệ người Trung Hoa,
Đó là Lý Nam Đế,
Chính trực và tài ba.
Vào cuối đời Tây Hán,
Để tránh nạn đao binh,
Tổ tiên ông phiêu dạt
Sang nước Nam yên bình.
Đến đời thứ mười một
Lý Nam Đế mới sinh.
Cụ bà ông người Việt,
Đa tài và rất xinh.
Ông lập nhà Tiền Lý,
Khai sinh nước Vạn Xuân,
Một anh hùng dân tộc,
Sống mãi cùng nhân dân.
Ông tên là Lý Bí,
Sinh ở nơi ngày nay
Là vùng đất Thạch Thất
Và thị xã Sơn Tây.
Năm tuổi, ông mất bố.
Bảy tuổi, mẹ qua đời,
Ông sống với người chú.
Đến khi ông lên mười,
Một nhà sư đức độ
Cho vào chùa nhập thiền.
Sau mười năm đèn sách,
Ông thành người thâm uyên.
Tiêu Tư cho Lý Bí
Làm Giám quân Đức Châu,
Nay thuộc huyện Đức Thọ,
Nhưng một thời gian sau,
Thấy dân tình quá khổ
Vì sưu thuế nặng nề,
Vì chế độ lao dịch,
Ông từ quan về quê.
Ông chiêu binh, mãi mã,
Quyết chống lại người Tàu.
Trong số người hưởng ứng
Có thủ lĩnh nhiều châu,
Như Triệu Túc, Hà Nội,
Phạm Tu ở Thái Bình.
Thế mạnh như thác đổ,
Háo hức lòng dân tình.
Chỉ trong vòng ba tháng,
Nghĩa quân chiếm hết châu.
Tiêu Tư cùng gia thất
Phải trốn chạy về Tàu.
Toàn bộ vùng Bắc Bộ
Nằm trong tay nghĩa quân.
Lần lượt các châu khác
Cũng được giải phóng dần.
Vua nhà Lương, Vũ Đế,
Tháng Tư, năm Bốn Hai,
Cho quân sang trấn áp,
Cử toàn những tướng tài.
Nghe tin này, Lý Bí
Liền chủ động đưa quân
Sang bán đảo Hợp Phố
Mai phục sẵn một phần.
Thành Hợp Phố lúc ấy
Còn thuộc về Giao Châu.
Khi quân Lương kéo đến
Liền bị đánh phủ đầu.
Quân của tướng Tôn Quýnh
Mười phần chết bảy phần.
Thế là thành đại bại,
Hắn phải đành rút quân.
Cả nước được giải phóng
Sau trận chiến thắng này,
Kể cả quận Hợp Phố
Thuộc Quảng Đông ngày nay.
Ngày ấy ở vùng đất
Quảng Bình đến Quảng Nam
Là vương quốc Lâm Ấp,
Ở phía bắc nước Chàm.
Lâm Ấp thấy Lý Bí
Đang bận đánh quân Lương,
Định xâm lấn bờ cõi,
Thái độ rất khinh thường.
Chúng đem quân đánh chiếm
Phần phía Nam Giao Châu,
Nay là Thanh, Nghệ, Tĩnh,
Bằng đường bộ, bằng tàu.
Lý Bí sai tướng giỏi
Vào đánh dẹp, rất nhanh
Đội quân của Lâm Ấp
Đã bị đánh tan tành.
*
Năm Năm Trăm Bốn Bốn,
Lý Bí tự xưng vương,
Gọi là Lý Nam Đế,
Một việc cũng bình thường.
Đặt niên hiệu Thiên Đức,
Quốc hiệu là Vạn Xuân.
Lập trăm quan văn võ,
Xuống chiếu để yên dân.
Lập đô ở Đan Phượng,
Thuộc Hà Nội ngày nay,
Cho xây điện Vạn Thọ
Để triều kiến hàng ngày.
Tướng Tinh Thiều giỏi chữ,
Được đứng đầu ban văn.
Còn đứng đầu ban võ
Là Phạm Tu phong trần.
Năm sau, vào tháng Sáu,
Tướng Bá Tiên dẫn đầu
Một đoàn quân hùng mạnh
Sang chiếm lại Giao Châu.
Lý Nam Đế lập tức
Điều ba vạn nghĩa quân
Quyết một lòng bảo vệ
Đất nước mới Vạn Xuân.
Ở cửa sông Tô Lịch
Quân của ông bị thua.
Tướng Tinh Thiều tử trận
Khi phá vây cứu vua.
Thế yếu, Lý Nam Đế
Rút về thành Gia Ninh,
Nay ở tỉnh Phú Thọ,
Để chấn chỉnh lương, binh.
Tháng Giêng năm Bốn Sáu
Bá Tiên chiếm thành này.
Tướng Phạm Tu tử trận,
Vua phải bỏ nơi đây
Để đến hồ Điển Triệt,
Huyện Lập Thạch bây giờ.
Ông đóng nhiều thuyền lớn,
Đậu kín cả mặt hồ.
Quân Lương không dám tiến,
Chờ nước lụt dâng cao.
Bất ngờ nước dâng thật,
Thuyền quân giặc kéo vào.
Do không phòng ngự trước
Quân của vua thua to,
Rút về động Khuất Lão,
Dai dẳng thế dằng co.
Năm Năm Trăm Bốn Tám,
Ở trong hang quá lâu,
Ông nhiễm bệnh, mù mắt,
Qua đời mấy tháng sau.
Hưởng thọ bốn sáu tuổi,
Trị vì được năm năm,
Vua băng hà, để lại
Lừng lẫy một tiếng tăm.
Người vợ vua yêu quí,
Hoàng hậu Bùi Thị Quyền,
Cũng là một dũng tướng,
Hy sinh cùng chiến thuyền.
*
Lại thích nghe cổ tích?
Được thôi, ông có đây.
Ông nhiều cổ tích lắm.
Có thể kể suốt ngày.
ĂN QUẢ KHẾ, TRẢ CỤC VÀNG
Hai anh em nhà nọ
Sớm mồ côi mẹ cha.
Người anh, khi lấy vợ,
Đuổi em ra khỏi nhà.
Ruộng đất và nhà lớn
Anh ta giữ cho mình.
Chỉ cho em cây khế
Và một túp lều tranh.
Người em, vốn dễ tính,
Không một lời cằn nhằn,
Chỉ chăm sóc cây khế
Và làm thuê kiếm ăn.
Không hiểu sao năm ấy
Cây khế trái rất nhiều.
Người em mừng, nghĩ bụng
Bán khế lấy tiền tiêu.
Thế mà rồi bất chợt
Có con chim khổng lồ
Không biết từ đâu đến,
Mổ khế ăn kỳ no.
Người em nhìn, tiếc của:
“Tôi chỉ có cây này.
Nếu chim ăn hết khế,
Tôi sống thế nào đây?”
Con chim đáp: “Đừng sợ,
Tôi là người đàng hoàng.
Cứ ăn một quả khế,
Tôi trả anh cục vàng.”
Hôm sau và sau nữa
Con chim ấy khổng lồ
Tiếp tục đến ăn khế,
Ăn nhiều, ăn thật no.
Cuối cùng con chim nói:
“Hãy may túi ba gang,
Ngồi lên lưng, tôi chở
Đi đến chỗ lấy vàng.
Con chim bay, bay mãi,
Chàng chẳng nhớ bao lâu,
Cuối cùng đến hòn đảo
Đầy bạc vàng, ngọc châu.
Chàng đi dạo quanh đảo,
Chỉ nhặt một ít vàng
Cho vào chiếc túi vải
Rộng vừa đúng ba gang.
Chim bảo lấy thêm nữa
Nhưng chàng chỉ lắc đầu.
Trở về nhà, từ đó
Chàng thành người rất giàu.
Người anh khi biết chuyện
Liền đến gạ gẫm chàng,
Xin đem hết nhà cửa
Đổi lấy cây khế vàng.
Thương anh, lại dễ tính,
Cuối cùng chàng gật đầu.
Người anh tham, háo hức
Chờ mùa khế năm sau.
Con chim kia lại đến,
Ăn khế, hứa trả vàng.
Ăn sắp hết, lại dặn
May túi vải ba gang.
Chim không biết trước đấy
Hai vợ chồng anh này
Đã may sẵn chiếc túi
Rộng đúng bằng sải tay.
Thành ra khi đến đảo
Lấy vàng xong, quay về,
Chim nặng, bảo vứt bớt,
Nhưng anh chàng không nghe.
Anh ta ôm chặt túi,
Nhất quyết không chịu rời.
Chim tức giận, nghiêng cánh,
Rơi cả túi lẫn người.
*
Thế là anh ta chết
Vì lòng tham, đúng không.
Bài học này các cháu
Phải ghi nhớ trong lòng.
Giờ thì ông kể tiếp
Về đất nước Vạn Xuân
Sau khi Lý Bí chết,
Lực lượng suy yếu dần.
12
TRIỆU QUANG PHỤC (mất 571)
VÀ NHÀ HẬU LÝ
Lý Nam Đế khi mất,
Có dặn dò ân cần
Và trao lại quyền bính
Cho một người rất thân.
Đó là Triệu Quang Phục,
Người cùng bố giúp ông
Đánh giặc Lương đô hộ
Và gây dựng non sông.
Dưới triều đại nhà Lý
Ông là Tả tướng quân,
Người nắm quyền quân sự
Đất nước trẻ Vạn Xuân.
Vâng mệnh, Triệu Quang Phục,
Sau thành Triệu Việt Vương,
Đã giữ vững bờ cõi,
Chống xâm lược nhà Lương.
Ông là con Triệu Túc,
Người ở huyện Chu Diên,
Nay nằm ở vùng đất
Phía Đông thành Long Biên.
Hai cha con họ Triệu
Theo Lý Bí từ đầu,
Lập được nhiều công lớn
Truyền tụng mãi về sau.
Năm Năm Trăm Bốn Bảy,
Ông đến một đầm lầy
Có tên là Dạ Trạch,
Huyện Khoái Châu ngày nay.
Đó là một đầm lớn,
Ở giữa có gò cao,
Cây cối rất rậm rạp,
Khó ra và khó vào.
Ông tập trung ở đấy
Những hơn hai vạn người.
Dùng chiến thuật du kích,
Giấu khói và giấu người.
Trần Bá Tiên, tướng giặc,
Muốn đánh nhanh thắng nhanh,
Nhưng bị ông giữ lại,
Ngập chân trong bùn sình.
Đêm, các thuyền độc mộc
Đi từ bãi Tự Nhiên
Đến đánh úp lương thảo
Doanh trại Trần Bá Tiên.
Quân giặc bị bắt sống
Hoặc bị giết hàng nghìn.
Quân Lương rất mệt mỏi,
Nhưng chỉ biết đứng nhìn.
Năm Năm Trăm Bốn Tám,
Lý Nam Đế qua đời.
Ông xưng vương, điều ấy
Hợp lẽ người, lẽ trời.
Tên nước vẫn như cũ,
Ông thành Triệu Việt Vương,
Vẫn ở đầm Dạ Trạch,
Vẫn chiến đấu như thường.
Một thời gian sau đó
Trần Bá Tiên về Tàu,
Giao Dương Sàn, tỳ tướng,
Phải mai phục dài lâu.
Vua Vạn Xuân lập tức
Tung quân đánh họ Dương.
Quân Lương thua, tan vỡ
Phải chạy về Bắc phương.
Đất nước hết bóng giặc,
Hết chiến tranh triền miên.
Vua và tôi nhà Triệu
Dọn về thành Long Biên.
*
Lại nói Lý Nam Đế
Trước có người anh trai
Tên là Lý Thiên Bảo,
Một dũng tướng có tài.
Khi vua Lý gặp khốn,
Bị bệnh, nằm trong hang,
Ông và Lý Phật Tử,
Một người cùng họ hàng,
Đem ba vạn binh mã
Đánh vào vùng Đức Châu,
Nay thuộc đất xứ Nghệ,
Định tính kế dài lâu.
Họ giết Trần Văn Giới,
Một viên tướng người Tàu,
Rồi đem quân ra Bắc,
Tiến đánh vùng Ái Châu.
Trần Bá Tiên đánh trả,
Họ thua, sang Ai Lao,
Đến đất người Di Lạo,
Nay thuộc về nước Lào.
Binh lính chết già nửa,
Chỉ còn hơn vạn người.
Họ chọn vùng đất rộng,
Màu mỡ và xanh tươi
Rồi lập nên nước mới
Đặt tên là Dã Tăng,
Còn tướng Lý Thiên Bảo
Tự xưng vương, Đào Lang.
Khi vua Đào Lang chết,
Chỉ mấy năm sau này,
Không có con nối dõi,
Lý Phật Tử lên thay.
Năm Năm Trăm Năm Bảy
Lý Phật Tử lên đường
Đem quân xuống giao chiến
Với quân Triệu Việt vương.
Hai bên đánh năm trận
Ở vùng đất Thái Bình.
Phật Tử biết mình yếu,
Bèn chủ động hoãn binh.
Ông đề nghị vua Triệu
Cùng rút quân, giảng hòa.
Hơn thế, còn mong muốn
Được trở thành thông gia.
Con trai Lý Phật Tử,
Có tên là Nhã Lang,
Muốn lấy con vua Triệu
Là công chúa Cảo Nương.
Còn nặng tình họ Lý,
Triệu Việt Vương gật đầu,
Chia đất nước ông có
Thanh hai phần đều nhau.
Phía Tây thuộc Phật Tử,
Phía Đông của Việt Vương.
Đất ai người ấy giữ,
Đúng như lẽ đạo thường.
Đường ranh địa giới ấy
Là bãi sậy lơ thơ
Giữa làng Thượng, Hạ Cát,
Huyện Từ Liêm bây giờ.
Sau đó Lý Phật Tử
Dọn đến thành Ô Diên
Nay là xã Hạ Mỗ,
Cũng thuộc huyện Từ Liêm.
Hai bên cựu thù địch
Giờ giảng hòa với nhau,
Thề thân ái, đoàn kết
Tới răng long, bạc đầu.
*
Theo truyền thuyết kể lại,
Khi lấy nàng Cảo Nương,
Nhã Lang muốn tìm hiểu
Binh tình nhà Việt Vương.
Năm Năm Trăm Bảy Mốt
Lý Phật Tử bội thề,
Đánh úp Triệu Quang Phục,
Bao vây khắp tứ bề.
Thế yếu không địch nổi,
Cùng con gái của mình
Vua bỏ chạy, chạy mãi
Rồi hai người quyên sinh.
Thế là nhà Triệu mất,
Trị vì hăm ba năm.
Nhà Lý được khôi phục
Sau bao nỗi thăng trầm.
Lên ngôi, Lý Phật Tử
Đóng đô ở Phong Châu,
Cũng xưng Lý Nam Đế,
Các sử gia đời sau
Gọi là nhà Hậu Lý
Để phân biệt gian, ngay
Giữa Lý Bí vua trước
Và Phật Tử vua này.
Nhà Tùy bên Trung Quốc,
Hơn ba mươi năm sau
Cho quân sang đánh chiếm,
Tướng Lưu Phương cầm đầu.
Hay tin, Lý Phật Tử
Rút về thành Cổ Loa.
Bị bao vây, dụ dỗ,
Ông nộp mình xin hòa.
Cả hoàng tộc bị giết,
Một cảnh tượng đáng thương.
Vua bị đưa về Bắc
Rồi cũng chết dọc đường.
*
Nước Vạn Xuân kết thúc,
Năm Sáu Trăm Linh Ba.
Nhà Đường được thành lập,
Và đô hộ nước ta.
Ngày mai ông sẽ kể
Về giai đoạn sử này.
Giờ thì nghe ông đọc
Bài thơ tếu sau đây.
Bài thơ về loài vật,
Trong một chuyến đi chơi
Tranh chỗ trên xe buýt,
Bị người ta chê cười.
Tác giả là Mac-sắc,
Nhà thơ lớn người Nga.
Ông dịch từ lâu lắm
Sang tiếng Việt nước ta.
TRÊN XE BUÝT
A, xe buýt đến rồi!
Bò nhảy lên chiếm chỗ.
Chó cũng chen vào ngồi.
Dê tranh nhau với Chó.
Én lách qua cửa sau.
Gà luôn mồm tục tác.
Hươu xí chỗ từ lâu,
Ít khi nhường người khác.
Khỉ hỏi: Mấy giờ rồi?
Lợn bận ăn không đáp.
Mèo khinh khỉnh bĩu môi.
Ngựa thì đang bận ngáp.
Ong không chịu ngồi yên.
Phượng hoàng múa rất nhắng.
Quạ hát mà như rên.
Rái Cá kêu: Im lặng!
Sóc cãi nhau với Trâu.
Trâu đá cho một cái,
U hết tai, hết đầu.
Voi phải ra hòa giải.
Xe cứ đi, lái xe
Yêu cầu khách mua vé,
Nhưng khách chẳng thèm nghe,
Cứ trêu đùa vui vẻ.
*
Các bạn nhỏ của tôi,
Đây là chuyện có thật
Về một chuyến đi chơi
Bằng xe, của loài vật.
Khi đọc bài thơ này -
Nếu cần, xin đọc lại -
Bạn sẽ thấy ở đây
Đủ hăm hai chữ cái.
Và nhân tiện, tôi khuyên:
Đi xe, ai cũng vậy,
Phải tôn trọng người bên,
Không làm ồn, không quấy.
13
MAI THÚC LOAN (sinh cuối thế kỷ thứ Bảy)
Năm Sáu Trăm Mười Tám
Thiết lập đời Nhà Đường,
Một triều đại phong kiến
Phát triển và hùng cường.
“An Nam Đô Hộ Phủ”
Là tên gọi nước ta
Từ Sáu Trăm Bảy Chín,
Do nhà Đường đặt ra.
Trung tâm Đô Hộ Phủ
Được gọi là Tống Bình,
Nay Thủ Đô Hà Nội,
Xinh đẹp và văn minh.
Nhà Đường cho xây dựng
Nhiều tuyến đường giao thông,
Giúp đi lại thuận tiện,
Cả đường bộ, đường sông.
Ở nước ta thời ấy,
Ngoài nông nghiệp, công thương
Cũng dần dần phát triển,
Kể cả ngành mía đường.
Tuy nhiên, dân vẫn khổ,
Sống dưới ách ngoại bang.
Chịu sưu cao thuế nặng,
Cống nạp nhiều bạc vàng.
*
Cuối thế kỷ thứ Bảy,
Ở Ngọc Trừng, Châu Hoan,
Một vùng đất linh kiệt,
Nay là huyện Nam Đàn,
Có cậu bé mười tuổi
Theo mẹ đi vào rừng.
Mẹ bị hổ vồ chết.
Hai mắt lệ rưng rưng,
Cậu thề sau khôn lớn
Giết hổ trả thù này.
Rồi cậu luyện tập võ
Rất chăm chỉ hàng ngày.
Cậu đã giết được hổ,
Có sức mạnh hơn người,
Lại nuôi hoài bão lớn
Sẽ hành đạo cứu đời.
Đó là Mai Hắc Đế,
Tên thật Mai Thúc Loan,
Một anh hùng dân tộc,
Sinh ở huyện Nam Đàn.
Ông mở nhiều lò vật,
Thành lập các phường săn,
Luôn chiêu mộ trai tráng,
Chuẩn bị sẵn khi cần.
Ông quen nhiều hào kiệt,
Cả đằng trong, đằng ngoài.
Sau trở thành chiến hữu,
Nhiều người thành tướng tài.
Và rồi thời cơ đến,
Năm Bảy Trăm Mười Ba,
Ông dấy binh khởi nghĩa
Ở ngay tại quê nhà.
Đó là cuộc khởi nghĩa
Chống lại ách nhà Đường,
Nên nhanh chóng thu hút
Người của khắp bốn phương.
Nghĩa quân đang háo hức,
Thế mạnh như chẻ tre,
Nông dân đến tụ nghĩa
Từ khắp mọi vùng quê.
Mai Thúc Loan nhanh chóng
Hạ được rất nhiều thành,
Giải phóng một vùng lớn
Gồm cả đất xứ Thanh.
Ông lên ngôi, xưng đế,
Đóng đô ở Vạn An,
Nay là một vùng đất
Thuộc thị trấn Nam Đàn.
Vua biết mình mệnh thủy,
Thủy tượng trưng màu đen,
Nên lấy hiệu Hắc Đế,
Chứ da ông không đen.
Ông cho xây thành lũy,
Rèn luyện lính đêm ngày
Để chuẩn bị Bắc tiến,
Kho lương thảo chất đầy.
Nghe nói cả hai nước
Khờ-me và Chiêm Thành
Cũng giúp ông khởi nghĩa
Giúp đánh nhanh, thắng nhanh.
*
Năm Bảy Trăm Mười Bốn
Mai Hắc Đế tiến binh,
Nhằm thẳng hướng Hà Nội,
Lúc ấy gọi Tống Bình.
Thanh thế ông lớn lắm,
Có tới mười vạn quân.
Dọc đường đi, dân chúng
Còn gia nhập thêm dần.
Viên tướng Quách Sở Khách,
Thái thú của nhà Đường,
Thế yếu, không địch nổi,
Phải trốn về Bắc phương.
Cả nước được giải phóng,
Độc lập mười năm trời.
Mười năm không nô lệ,
Mười năm được làm người.
Nhà Đường không cam chịu.
Năm Bảy Trăm Hăm Hai
Đã xuất quân trấn áp.
Một cuộc chiến không dài.
Tướng giặc, Dương Tư Húc,
Đem mười vạn tinh binh
Theo đường thủy Đông Bắc
Tấn công thành Tống Bình.
Nhiều trận đánh khốc liệt
Ở sông Lam, sông Hồng,
Dằng co hai thế trận
Phòng ngự và tấn công.
Cuối cùng Mai Hắc Đế
Phải rút vào rừng sâu.
Ông bị bệnh rồi mất,
Để lại một mối sầu.
*
Hôm nay không cổ tích,
Mà cũng chẳng đọc thơ.
Ông sẽ có cái khác.
Cái gì ư? Hãy chờ.
Ông sẽ kể câu chuyện,
Kiểu tiếu lâm, rất hay.
Chắc các cháu sẽ thích.
Câu chuyện ấy thế này.
TRỨNG NGÓT
Có một cô gái nọ
Lấy chồng, về làm dâu.
Một hôm mẹ chồng bảo
Xuống bếp luộc nồi rau.
Cô luộc xong, thật lạ,
Trước cả một nồi đầy,
Giờ chỉ còn một nửa.
Ôi, biết làm sao đây?
Cô sợ quá, ngồi khóc.
Mẹ chồng hỏi vì sao?
Cô nói hết sự thật.
Mẹ chồng cười: “Ôi dào,
Rau luộc nó phải ngót.
Chuyện bình thường ấy mà.”
Cô gái nghe, mừng lắm,
Bây giờ mới hiểu ra.
Mấy hôm sau, luộc trứng,
Luộc mười quả trong nồi.
Cô lấy ăn một nửa,
Vẫn thòm thèm, và rồi
Khi bà mẹ chồng hỏi:
“Còn năm quả thôi à?”
Cô đáp: “Trứng nó ngót.
Chuyện bình thường ấy mà.”
14
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG
(mất năm 791)
Đường Lâm, đất long mạch,
Gần thị xã Sơn Tây
Vốn xưa rất tươi tốt,
Nhiều gò và rừng cây.
Đất địa linh, nhân kiệt,
Sản sinh nhiều người hiền
Kể cả hai vua lớn -
Phùng Hưng và Ngô Quyền.
Phùng Hưng thuộc dòng dõi
Cự tộc và lâu đời.
Phùng Hạp Khanh là bố,
Tài đức quả hơn người.
Cụ tổ Phùng Tôi Cái
Từng phục vụ trong cung
Của vua Đường Cao Tổ,
Cũng là bậc anh hùng.
Sau khi giúp Hắc Đế
Nổi dậy chống nhà Đường,
Phùng Hợp Khanh trở lại
Với cuộc sống đời thường.
Ông chăm lo công việc,
Sớm trở thành rất giàu.
Ba con trai sinh hạ.
Phùng Hưng là con đầu.
Tiếp đến là Phùng Hải.
Phùng Dĩnh - em thứ ba.
Đến năm mười tám tuổi,
Mà côi cả mẹ cha.
Phùng Hưng được nối nghiệp
Thành hào trưởng Đường Lâm.
Ông cao to, khỏe mạnh,
Chính trực và công tâm.
An Nam đô hộ phủ,
Là tên nước bấy giờ,
Do nhà Đường cai trị,
Quan thì lo vét vơ,
Dân quanh năm lao dịch,
Lại sưu thuế nặng nề,
Đâu cũng nghe lời oán,
Khốn khổ đủ trăm bề.
*
Năm Bảy Trăm Bảy Sáu,
Nhân lính ở Tống Bình,
Nay là thành Hà Nội,
Nổi loạn trong trại binh,
Phùng Hưng đã phát động
Khởi nghĩa chống nhà Đường,
Nhận được sự hưởng ứng
Của người khắp bốn phương.
Chiếm Đường Lâm nhanh, gọn,
Được Phùng Hưng dẫn đầu,
Nghĩa quân chiếm phần lớn
Vùng đất quanh Phong Châu.
Lo xây thành, đắp lũy,
Ông và hai em trai
Chốt các nơi xung yếu
Để chiến đấu lâu dài.
Quan thứ sử Trung Quốc,
Tức là Cao Chính Bình,
Nhiều lần đem quân dẹp,
Thế trận cứ lình xình,
Hết đánh lại phòng ngự,
Vừa đánh vừa nghỉ ngơi,
Không thua cũng không thắng
Suốt hai mươi năm trời.
Năm Bảy Trăm Chín Mốt,
Được Anh Hàn tiên sinh
Làm quân sư chiến lược,
Phùng Hưng đánh Tống Bình.
Ông chia quân năm đạo,
Từ năm hướng vây thành,
Vừa đánh vừa chiêu mộ
Thêm tướng và tân binh.
Cao Chính Bình cố thủ,
Nhưng thân cô, thế cô,
Cuối cùng đổ bệnh chết
Vì sợ hãi, buồn lo.
Phùng Hưng lên thay hắn
Cai trị đất An Nam.
Tiếc rằng ông chết sớm,
Nhiều việc chưa kịp làm.
Phùng An, con trai cả,
Nối ngôi, hai năm sau,
Năm bảy trăm chín mốt,
Được tướng giỏi dẫn đầu,
Quân nhà Đường kéo đến,
Quyết dành lại Tống Bình.
Phùng An biết sức yếu,
Đành phải ra nộp mình.
Giặc truy lùng gay gắt
Cả gia tộc họ Phùng,
Nên người gia tộc ấy
Phải tỏa đi các vùng.
Người anh hùng dân tộc
Phùng Hưng chống nhà Đường
Được nhân dân tôn tặng
Là Bố Cái Đại Vương.
Một đền thờ cổ kính
Ở Đường Lâm, Sơn Tây,
Thờ cúng ông từ ấy
Cho đến tận ngày nay.
*
Bây giờ ông sẽ kể
Một cổ tích nước ngoài,
Về bà mẹ nghèo khổ
Đã dạy con thành tài.
Các cháu nghe chăm chú.
Nghe, ngẫm nghĩ về mình,
Tự rút ra bài học
Để thành người thông minh.
BÀ LÀM BÁNH VÀ CON TRAI
Ngày xưa ở Hàn Quốc
Có một người đàn bà
Làm bánh đi chợ bán,
Nổi tiếng khắp gần xa.
Những chiếc bánh gạo nếp
Bà làm trông thật ngon,
Trăm chiếc đều như một,
Thật đầy đặn, thật tròn.
Không may chồng chết sớm,
Bà chỉ có trên đời
Cậu con mười lăm tuổi,
Thông minh, nhưng hơi lười.
Một hôm bà bảo cậu:
Con hãy lên kinh thành,
Trong mười năm phải học
Để thành tài, thành danh.
Con phải học khoa học,
Học lễ giáo, văn chương,
Học xong mới trở lại.
Vậy nên sớm lên đường.
Bao nhiêu tiền chắt bóp
Bà đưa cho con trai.
Anh kia liền khăn gói
Tìm thầy học thành tài.
Bà mẹ làm bánh bán,
Mong chờ con héo hon.
Nhịn ăn, nhịn cả mặc
Để có tiền nuôi con.
Năm năm sau, một tối,
Trời mưa gió dầm dề,
Bà nghe ai gõ cửa -
Thì ra anh con về.
Chàng trai mệt và đói,
Đi bộ mười ngày ròng.
Bà mẹ nhìn, thương lắm,
Những muốn ôm vào lòng.
Nhưng bà nghiêm mặt hỏi:
“Con đã học hết chưa
Các môn khoa học ấy,
Như mẹ dặn ngày xưa?”
“Vâng, con đã học hết.”
Chàng trai đáp. Ân cần,
Bà đưa con giấy bút,
Bảo chép một bài văn.
Nhưng bà thổi tắt nến,
Rồi ngồi xuống kề bên
Và bắt đầu làm bánh
Trong căn phòng tối đen.
Xong việc, đèn lại sáng.
Nét chữ của chàng trai,
Vì viết trong bóng tối,
Không đều, còn chỗ sai.
Trong khi những chiếc bánh
Mẹ làm, trông thật ngon.
Trăm chiếc đều như một,
Thật đầy đặn, thật tròn.
Bà mẹ lại nghiêm mặt:
Con phải lên kinh thành,
Phải học thêm, học nữa
Để thành tài, thành danh.
Thế là ngay tối ấy,
Chưa kịp ăn uống gì,
Cùng số bánh của mẹ,
Chàng trai lại ra đi.
Lại ngày đêm tần tảo,
Lại đợi chờ héo hon,
Bà mẹ nhịn ăn uống
Để có tiền nuôi con.
Rồi năm năm sau đó
Bà thấy con trở về.
Cũng cuốc bộ như trước,
May không mưa dầm dề.
Bà lại bắt con viết
Trong căn phòng tối đen.
Nhưng lần này thì khác,
Con viết xong, thắp đèn,
Bà khóc lên sung sướng,
Ôm chầm người con trai.
Giờ nhìn chữ, bà biết
Con đã học thành tài.
Các nét chữ con viết
Thật đẹp, thật thăng hoa.
Trăm chữ đều như một,
Như nồi bánh của bà.
Về sau, người con ấy,
Nhờ mẹ dạy cách này,
Trở thành nhà bác học
Nổi tiếng đến ngày nay.
15
KHÚC THỪA DỤ (mất năm 907), KHÚC HẠO (trị vì 907 – 917),DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (mất năm 937)
Cuối thế kỷ thứ Chín
Nhà Đường ở Trung Hoa
Đã hoàn toàn suy yếu.
Nhiều khởi nghĩa nổ ra.
Lớn, và kéo dài nhất
Là khởi nghĩa Hoàng Sào.
Vua Đường phải bỏ trốn,
Lòng dân tình xôn xao.
Lợi dụng cơ hội ấy,
Hào trưởng quận Chu Diên
Đã tập hợp dân chúng,
Cùng phất cờ đứng lên.
Ông là Khúc Thừa Dụ,
Quê Hồng Châu, Hải Dương,
Sống khoan hòa, trung thực,
Được dân chúng mến thương.
An Nam vào thời ấy
Đổi thành Tĩnh Hải Quân.
Tiết Độ Sứ người Hán
Độc ác và vô luân.
Hắn bị gọi về nước.
Độc Cô Tổn lên thay.
Rồi tên này thất sủng,
Cuối cùng phải đi đày.
Nhân thế, Khúc Thừa Dụ
Đánh chiếm thành Tống Bình,
Tự xưng Tiết Độ Sứ,
Nắm quyền vào tay mình.
Năm Chín Trăm Linh Sáu,
Vua Đường phải cho ông
Giữ chức Tiết Độ Sứ,
Dẫu ấm ức trong lòng.
Tiếc rằng năm sau đó
Khúc Thừa Dụ băng hà.
Con trai là Khúc Hạo
Được chọn lên thay cha.
Khúc Hạo liền lập tức
Giảm sưu thế cho dân,
Chấn chỉnh lại hành chính,
Bỏ lao dịch không cần.
Năm Chín Trăm Mười Bảy,
Khúc Hạo chết, tiếc thay.
Con trai, Khúc Thừa Mỹ
Nối nghiệp cha, lên thay.
*
Ở Quảng Châu lúc ấy,
Nhân nhà Đường rối ren,
Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn
Mưu phản, lập nước riêng.
Liên kết với Nam Chiếu,
Tỉnh Vân Nam ngày nay,
Một mình ông cát cứ
Vùng đất rộng lớn này.
Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn
Chết năm Chín Trăm Mười.
Lưu Nham lên thay thế,
Thu phục được lòng người.
Năm Chín Trăm Mười Bảy,
Lưu Nham lập nước riêng,
Đặt tên là Nam Hán,
Mưu toan chiếm láng giềng.
Thế là giặc Nam Hán,
Năm Chín Trăm Ba Mươi
Đem đại binh đánh Việt,
Kiểu lấy thịt đè người.
Khúc Thừa Mỹ thất trận,
Bị bắt, đưa về Tàu.
Nam Hán cử Lý Tiến
Sang cai trị Giao Châu.
Hay tin, Dương Đình Nghệ,
Một tướng tài, thông minh,
Đem quân từ Thanh Hóa,
Tấn công thành Tống Bình.
Quân Nam Hán lo sợ,
Cố thủ không chịu ra,
Chờ viện binh đến cứu.
Nhưng đường hiểm và xa,
Nên khi viện binh tới,
Ông đã hạ Tống Bình,
Hơn thế, còn đánh chặn,
Chém đầu tướng viện binh.
Danh tướng Dương Đình Nghệ
Vốn quê ở làng Giàng,
Nay Triệu Dương, Thanh Hóa,
Thuộc dòng họ vẻ vang.
Ông vốn là hào trưởng,
Rất giàu và thương người.
Nghe nói ông từng có
Những ba nghìn con nuôi.
Đánh xong giặc Nam Hán,
Ông tự phong cho mình
“Giao Châu Tiết Độ Sứ”
Và nắm hết quyền binh.
Noi theo gương Khúc Hạo,
Liêm khiết và tài ba,
Ông tiếp tục phát triển
Nền tự chủ nước nhà.
*
Bây giờ, như thường lệ,
Ông kể câu chuyện này,
Về tình yêu, tình bạn,
Thâm thúy và rất hay.
TRUYỆN LƯU BÌNH, DƯƠNG LỄ
Truyện Lưu Bình, Dương Lễ
Được truyền tụng từ lâu,
Truyện về hai người bạn,
Một nghèo và một giàu.
Họ chơi thân từ nhỏ.
Vì nhà giàu, Lưu Bình
Mời bạn đến cùng ở,
Thật chí đức, chí tình.
Biết phận nghèo, Dương Lễ
Rất chịu khó học hành.
Chàng đi thi, đỗ trạng,
Thành công và thành danh.
Còn Lưu Bình, thật tiếc,
Cậy giàu, thích ham chơi,
Nên thi trượt, chán nản,
Chán mình và chán đời.
Cũng vì chán, của cải
Cứ theo nhau ra đi,
Chẳng bao lâu chợt thấy
Trong nhà không còn gì.
Chàng đến gặp Dương Lễ,
Lúc này là quan to,
Dương Lễ không chịu tiếp,
Còn mời ăn cơm khô.
Giận bạn quên ân nghĩa,
Lòng ngậm ngùi, xót xa,
Chàng quyết tâm học giỏi
Mong cũng được vinh hoa.
Khi trở về quán trọ,
Còn tủi nhục trong lòng,
Chàng gặp một cô gái
Có tên là Châu Long.
Nàng dịu dàng, xinh đẹp,
Có vẻ con nhà giàu.
Hai người cảm, rồi mến,
Rồi cuối cùng yêu nhau.
Có điều, Châu Long nói,
Nàng sẽ chỉ lấy chàng
Khi chàng thi, đỗ đạt
Mang về nhà vinh quang.
Được Châu Long khích lệ
Và giúp đỡ tận tâm,
Lưu Bình chăm chỉ học
Ròng rã suốt ba năm.
Nàng lo từ sách vở
Đến quần áo, cái ăn,
Chu đáo như người vợ,
Nhưng vẫn không cho gần.
Rồi Lưu Bình thi đỗ,
Như mở cờ trong lòng,
Về nhà, rất kinh ngạc
Khi vắng nàng Châu Long.
Chàng tìm mãi không thấy,
Mà không hiểu vì sao,
Bèn đến nhà Dương Lễ,
Trách mắng chuyện năm nào.
Dương Lễ ra đón bạn,
Ân cần mời vào nhà.
Lưu Bình chưa kịp nói
Thì Châu Long bước ra.
Khi chàng được cho biết
Châu Long là thiếp yêu
Của bạn mình, Dương Lễ,
Chàng hiểu hết mọi điều.
Thì ra, để khích bạn
Nhanh chóng đạt công danh,
Dương Lễ vờ bội bạc,
Bị bạn trách cũng đành.
Nàng Châu Long xinh đẹp,
Tận tâm vì bạn chồng,
Vẫn giữ tròn danh tiết,
Giúp Lưu Bình thành công.
Từ đó hai người bạn
Lại gắn bó như xưa.
Mọi chuyện thế là rõ,
Có bàn thêm cũng thừa.
Vậy là ông kể hết
Chuyện Dương Lễ, Lưu Bình,
Ông hy vọng các cháu
Rút bài học cho mình.
16
NGÔ QUYỀN (898 - 944)
Người anh hùng dân tộc,
Tiền Ngô vương Ngô Quyền,
Trong lòng người dân Việt
Là một vị vua hiền.
Bằng chiến thắng lịch sử
Trong trận Bạch Đằng giang,
Ông đặt dấu chấm hết
Nghìn năm ách ngoại bang.
Từ đấy nền độc lập
Và tự chủ nước nhà
Được khẳng định thêm nữa
Trong hơn nghìn năm qua.
Ông con một hào trưởng
Thế lực lớn, công dày
Ở châu Đường Lâm cũ,
Nay thuộc huyện Hà Tây.
Mới lọt lòng, thầy tướng
Thấy ba chấm sau lưng,
Liền sụp lạy mà phán
Sau danh tiếng lẫy lừng.
Nước Việt ta ngày ấy
Gọi là Tĩnh Hải Quân,
Do nhà Đường cai trị,
Dân khổ sở muôn phần.
Mà triều chính lúc đó
Cũng rối ren nhiều bề.
Nhà Đường đang suy sụp,
Quan lại thì nhiêu khê.
Hào trưởng Dương Đình Nghệ
Thắng Nam Hán, dần dần
Trở thành Tiết độ sứ,
Cả vùng Tĩnh Hải Quân.
Họ Dương lắm kẻ mạnh,
Họ Ngô nhiều người hiền,
Liên kết, gả con gái
Cho chàng trai Ngô Quyền.
Rồi Ngô Quyền được cử
Cai trị đất Ái Châu,
Một vùng đất rộng lớn,
Đông dân và khá giàu.
Năm Chín Trăm Ba Bảy,
Kiều Công Tiễn đê hèn
Sát hại Dương Đình Nghệ
Rồi thâu tóm toàn quyền.
Bị nhiều người phản đối,
Tiết độ sứ họ Kiều
Sang cầu quân Nam Hán.
Lợi ít, nhục thì nhiều.
Ngô Quyền đem binh lính
Từ Châu Ái đánh ra,
Giết chết Kiều Công Tiễn,
Nhanh chóng rửa thù nhà.
Rồi ông lo chuẩn bị,
Quân và dân một lòng,
Đợi quân Hán xâm lược,
Đóng cọc các dòng sông.
Năm Chín Trăm Ba Tám,
Ở cửa sông Bạch Đằng
Thuyền của quân Nam Hán
Sa bẫy cọc đang giăng.
Phần bị cọc đâm thủng,
Phần bị thuyền Ngô Quyền
Đánh đắm hơn một nửa.
Rồi sông nước lại yên.
Tướng giặc Lưu Hoằng Tháo
Bỏ mạng nơi chiến trường.
Từ đó giặc phương Bắc
Bỏ mộng chiếm Nam phương.
Ngô Quyền xưng vương đế,
Đóng đô ở Cổ Loa,
Lập nên triều đại mới,
Làm vẻ vang nước nhà.
Trong những năm sau đó
Ông làm rất nhiều điều
Để chấn hưng kinh tế,
Được mọi người thương yêu.
Bốn sáu tuổi, ông mất,
Trị vì được sáu năm,
Rồi nhà Ngô sụp đổ
Năm Chín Trăm Sáu Lăm.
*
Ông có một cuốn sách,
Gọi là Phật Thích Ca,
Về giáo lý Đạo Phật,
Cuộc sống người xuất gia.
Hôm nào ông tóm lược
Ba Đạo lớn trên đời.
Các cháu biết rồi đấy -
Phật, Thiên Chúa và Hồi.
Giờ thì ông muốn kể
Một truyện hay, không dài.
Truyện Đức Phật dạy bảo
La Hầu La, con Ngài.
LỜI PHẬT DẠY CON TRAI
Người con trai duy nhất
Của Đức Phật Thích Ca,
Cũng trở thành phật tử,
Tên là La Hầu La.
Cậu ít tuổi, tinh nghịch,
Nhưng được mọi người chiều,
Nên đôi khi nói dối,
Kiểu trẻ con, đáng yêu.
Một hôm Phật bảo cậu:
“Con hãy mang ra đây
Một chậu nước thật sạch
Để ta rửa chân tay.”
Cậu mang chậu nước đến.
Đức Phật rửa chân xong,
Hỏi cậu có muốn uống
Nước trong chậu này không.
Cậu lắc đầu, từ chối,
Nói nước bẩn, và Ngài
Bảo cậu bê đi đổ
Rồi dẫn cậu ra ngoài.
“Giờ thì con đã thấy,
Nước bẩn không ai xin.
Cũng vậy, khi nói dối,
Miệng bẩn, không ai tin!”
La Hầu La chợt hiểu,
Từ đó chẳng bao giờ
Còn nói dối thêm nữa,
Dẫu đáng yêu, ngây thơ.
Một hôm, Ngài ngồi nghỉ
Dưới bóng mát hàng cây
Rồi gọi con trai đến,
Nhẹ nhàng nói thế này:
“Con hãy học ở đất
Sự nhẫn nhục, khiêm nhường.
Đất lặng lẽ chấp nhận
Cái xấu xa, tầm thường.
Bị người ta vứt bẩn,
Hay khạc nhổ, không sao,
Đất thản nhiên chịu dựng,
Không nói một lời nào.
Rồi khi vụ mùa đến,
Đất trao tặng cho đời
Những bông lúa trĩu nặng,
Những cành hoa xinh tươi.
Hơn thế, con phải học
Để làm sao trong con
Có Từ Bi Hỷ Xả
Để sống có tâm hồn.
Có Từ để đối Giận,
Vì Từ là Tình Thương
Của con với người khác
Ở đời này vô thường.
Có Bi để đối Ác,
Vì Bi là khi con
Làm vợi đau người khác,
Mà không cần đền ơn.
Có Hỷ để đối Ghét,
Vì Hỷ là thật lòng
Mừng người khác hạnh phúc,
Cầu cho họ thành công.
Có Xả để tha thứ
Những lỗi lầm của người.
Xả giúp con thanh bạch,
Sống có ích cho đời.
Vậy Từ Bi Hỷ Xả
Là Tứ Vô Lượng Tâm.
Có được bốn cái ấy,
Con và Phật ngang tầm.
Lại nữa, con phải hiểu
Về cái luật Vô Thường,
Để xua cái Tham Dục,
Để ngự trị Tình Thương.
Vạn vật luôn thay đổi.
Có mà lại như không.
Không mà lại như có.
Hãy ghi nhớ trong lòng”.
17
NƯỚC CHĂM-PA
Nước ta, các cháu biết,
Trải qua bao đời nay
Nhờ cha ông xây dựng
Mới được như thế này.
Ở phía Nam Trung Bộ
Xưa có nước Chăm-pa,
Từng một thời hưng thịnh,
Nay thuộc về nước ta.
Cháu con dân nước ấy
Giờ tạo thành một phần
Của gia đình Đại Việt,
Sống trong tình tương thân.
Nhiều di tích văn hóa
Còn giữ đến ngày nay.
Mai sau các cháu lớn,
Sẽ đến thăm nơi này.
Ngày xưa, khi người Hán
Chiếm Giao Chỉ, Cửu Chân,
Họ cho quân đánh tiếp,
Chiếm đất của người Chăm.
Họ lập ra huyện mới
Đặt tên là Tượng Lâm,
Rồi nhập vào thành quận,
Đó là quận Nhật Nam.
Tượng Lâm là huyện lớn,
Xa nhất ở quận này
Gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi
Và Bình Định ngày nay.
Người Chăm cổ lúc ấy
Thuộc văn hóa Sa Huỳnh,
Biết dùng đồng, dùng sắt,
Sinh hoạt đã văn minh.
Dân Giao Châu, Giao Chỉ
Đầu thế kỷ thứ hai
Đã nhiều lần nổi dậy,
Khiến quân giặc chạy dài.
Dân Tượng Lâm nhân thế
Cũng nổi dậy theo ta.
Quân nhà Hán bất lực
Đối phó với quận xa.
Họ giành được độc lập.
Năm Một Trăm Chín Ba,
Đặt tên nước Lâm Ấp,
Rồi xây dựng quốc gia.
Khu Liên, vua của họ,
Có đội quân khá đông,
Đến những bốn, năm vạn,
Rất vững về quốc phòng.
Rồi Lâm Ấp đánh chiếm
Các vùng đất mỡ màng
Của người Cau bản địa,
Đến tận Nam Phan Rang.
Họ đánh lên phương Bắc,
Chiếm dãy núi Hoành Sơn
Vốn là đất nước Việt,
Bốn mùa cây xanh rờn.
Rồi họ đổi tên nước,
Lâm Ấp thành Chăm-pa,
Đóng đô ở Trà Kiệu,
Hay Sin-ha-pu-ra.
Nhà nước này cực thịnh
Thế kỷ thứ Chín, Mười.
Đến nay còn sót lại
Nhiều di tích tuyệt vời.
Đó là các đền, tháp
Ở Ninh Thuận, Quảng Nam,
Các bức tượng tuyệt đẹp
Mang đậm văn hóa Chàm.
Dân Chăm theo đạo Phật
Và đạo Bà La Môn.
Người chết được hỏa táng,
Rắc xuống sông, không chôn.
Họ có riêng chữ viết,
Từ chữ Phạn mà ra.
Văn hóa gốc Ấn Độ
Thấm đẫm nền thi ca.
Chăm-pa là đất nước
Chịu chiến tranh nặng nề.
Phía Bắc, từ Đại Việt,
Phía Nam, từ Khơ-me.
Năm Một Bốn Bảy Một,
Quân vua Lê Thánh Tông
Chiếm nửa nước phía Bắc,
Giải vua về Thăng Long.
Nửa phía Nam còn lại
Bị Chúa Nguyễn về sau
Dần dần thôn tính hết
Bằng nhiều cách khác nhau.
Vương quốc Chăm-pa cổ
Năm Một Tám Ba Hai
Chính thức ngừng tồn tại,
Sau chín thế kỷ dài.
*
Nào, lại chuyện cổ tích.
Ông biết các cháu chờ.
Có ngay, hãy bình tĩnh.
Ông kể liền bâu giờ.
CẬU BÉ VÀ CÂY TÁO
Ngày xưa có cây táo,
Lá xum xuê và dày.
Một cậu bé rất thích
Chơi với nó hàng ngày.
Cậu thường leo lên nó,
Hái quả ăn ngon lành.
Trưa mệt, cậu nằm ngủ
Dưới tán lá cây xanh.
Cậu bé yêu cây táo
Chân thành và ngây thơ.
Cây táo cũng yêu cậu,
Ngày nào nó cũng chờ.
Thời gian trôi, cậu bé
Cứ lớn dần, lớn dần,
Cậu bận học, có vẻ
Đã quên người bạn thân.
Một hôm cậu xuất hiện,
Đôi mắt thoáng buồn rầu.
Cây táo hồ hởi nói:
“Nào, ta chơi với nhau!”
Cậu bé đáp: “Xin lỗi,
Tớ đã lớn, buồn sao,
Không thể chơi với cậu
Vui vẻ như ngày nào.
Tớ muốn đồ chơi đẹp,
Mà lại không có tiền.”
Cây táo nói: “Thật tiếc,
Tớ cũng không, tất nhiên,
Nhưng cậu có thể hái
Táo của tớ trên cây.
Cách ấy tớ có thể
Giúp được cậu lần này.”
Cậu bé nghe, sung sướng
Hái hết táo mang đi,
Rồi không thấy quay lại.
Cây buồn, không nói gì.
Bỗng một hôm, cậu bé,
Giờ là người đàn ông,
Quay lại gặp cây táo,
Nhiều phiền muộn trong lòng.
Lần nữa ông xin lỗi:
“Tớ đã có gia đình,
Mà nhà thì chưa có,
Một ngôi nhà của mình.”
Cây táo đáp: “Thật tiếc,
Tớ cũng không có nhà.
Nhưng cậu có thể chặt
Cành lá tớ xùm xòa.
Hy vọng cậu đủ gỗ
Để xây nhà cho mình.
Ngôi nhà quan trọng lắm
Khi cậu có gia đình.”
Người đàn ông sung sướng
Chặt hết cành mang đi,
Không một lần quay lại.
Cây buồn, không nói gì.
Rất cô đơn và lạnh
Khi gió bão, mưa sa,
Nhưng cây táo hạnh phúc
Biết bạn mình có nhà.
Người đàn ông lại đến,
Mái tóc bạc trên đầu.
Cây táo thấy, vui sướng:
“Nào, ta chơi với nhau!”
“Không, tớ già, muốn nghỉ.
Bao phiền muộn trong lòng.
Tớ cần chiếc thuyền nhỏ.
Cậu giúp tớ được không?”
“Thế thì chặt thân tớ,
Để đóng một con tàu.
Cậu tha hồ chơi biển,
Sẽ không thấy buồn rầu.”
Ông già chặt cây táo,
Thuê xe đến mang đi
Rồi không hề quay lại.
Cây buồn, không nói gì.
Cuối cùng ông cũng đến,
Một ông lão yếu gầy.
“Tớ không còn gì nữa
Để cho cậu lần này, -
Cây nói. - Không còn táo
Để cậu thích thì ăn.”
Ông lão đáp: “Răng rụng,
Không nhai được, không cần.”
“Thân tớ không còn nữa
Để leo như ngày nào.”
“Đã qua rồi thời đó.
Ừ, cái thời vui sao.”
“Vậy thì tớ quả thật
Không còn gì để cho,
Ngoài gốc cây và rễ
Đang mục dần thành tro.”
“Bây giờ, - ông lão nói. -
Tớ quả không cần nhiều.
Chỉ một nơi để nghỉ
Và để sưởi nắng chiều.”
“Thế thì tốt, thật tốt.
Tớ giúp cậu lần này.
Để tựa và để nghỉ,
Gì tốt hơn gốc cây?”
Ông lão ngồi xuống nghỉ,
Tựa lưng ông bạn già.
Cây táo vui, muốn khóc,
Đôi mắt lệ ướt nhòa.
*
Cho các cháu yêu quí
Ông kể câu chuyện này
Các cháu là cậu bé,
Còn bố mẹ là cây.
Các cháu sinh, khôn lớn,
Rồi đi xa, bay xa,
Cuối cùng lại cần đến
Vòng tay bố mẹ già.
Từ chuyện này triết lý
Rút bài học cho mình,
Để sống bớt ích kỷ,
Có hiếu và thông minh.
18
NƯỚC PHÙ NAM, NƯỚC CHÂN LẠP
Phù Nam là nước cổ,
Từng nổi tiếng một thời
Khắp vùng Đông Nam Á,
Đất rộng và đông người.
Hơn hai nghìn năm trước,
Ở Nam Bộ ngày nay
Có một nền văn hóa
Của quốc gia cổ này.
Các nhà khảo cổ học
Gọi nó là Ốc Eo.
Di tích nó để lại
Đến nay vẫn còn nhiều.
Trên nền văn hóa ấy,
Quốc gia cổ Phù Nam
Hình thành, rất phát triển,
Thế kỷ Ba đến Năm.
Đó là một vương quốc,
Do nhà vua đứng đầu.
Dưới có nhiều nước nhỏ,
Không gọi quận hay châu.
Người dân theo đạo Phật
Và đạo Bà La Môn.
Tiếng nói hệ Nam Đảo,
Trồng lúa để sinh tồn.
Họ cũng giỏi đánh cá
Và các nghề thủ công,
Biết gao dịch, buôn bán,
Mở đường ra Biển Đông.
Đến thế kỷ thứ Bảy,
Nước Phù Nam, tiếc thay,
Bị Chân Lạp thôn tính.
Chấm hết quốc gia này.
Đến thế kỷ Mười Tám,
Một phần nước Phù Nam
Tách khỏi nước Chân Lạp,
Rồi nhập vào Việt Nam.
Phần nước Phù Nam ấy
Là Nam Bộ bây giờ.
Một vùng đất mầu mỡ,
Những dòng sông lững lờ.
*
Nhân tiện ông cũng nói,
Dẫu qua loa, đôi lời
Về đất nước Chân Lạp,
Từng hưng thịnh một thời.
Chân Lạp là vương quốc
Đầu tiên của Khơ Me.
Vốn là một nước nhỏ
Của Phù Nam xưa kia.
Đến thế kỷ thứ Sáu
Nó tách thành nước riêng,
Rồi mở mang bờ cõi,
Chiếm các nước láng giềng.
Giữa thế kỷ thứ Bảy,
Nó thôn tính Phù Nam
Thành một nước rất rộng,
Đông Bắc giáp nước Chàm.
Phía Tây là nước Thái.
Gồm Cam-pu-chi-a
Và thêm một số tỉnh
Vùng Nam Bộ nước ta.
Nhưng rất nhanh sau đó,
Đất nước họ bất an.
Đầu thế kỷ thứ Chín
Thì tan rã hoàn toàn.
Vậy là nước Chân Lạp,
Một quốc gia phương Đông
Sau gần ba thế kỷ
Phát triển rồi suy vong.
*
Hôm nay ông sẽ kể
Về sự tích trầu cau,
Một nét văn hóa đẹp
Đã tồn tại từ lâu.
Một câu chuyện cảm động
Về tình nghĩa vợ chồng,
Cả tình anh em nữa.
Hay, đẹp, nhưng đau lòng.
SỰ TÍCH TRẦU CAU
Ngày xưa ở làng nọ,
Hai anh em họ Cao
Rất giống nhau, khó biết
Người nào là người nào.
Năm tròn mười tám tuổi,
Cha mẹ họ qua đời.
Trước thương yêu nhau lắm,
Nay yêu thương gấp mười.
Lưu Ông là đạo sĩ
Rất nổi tiếng trong làng.
Hai người đến tìm học.
Ông cũng yêu hai chàng.
Nhà có cô con gái
Vừa đến tuổi cập kê,
Nết na và xinh đẹp,
Thêm sắc sảo nhiều bề.
Vì hai người học giỏi,
Cũng tuấn tú, khôi ngô,
Nên một người trong họ
Đã lọt vào mắt cô.
Khốn nỗi vì giống quá,
Nhiều khi cô thở dài,
Vì chính mình không thể
Phân biệt ai là ai.
Một hôm cô muốn thử,
Liền đặt bát cháo hành.
Họ nhường ai ăn trước,
Chắc chắn đó là anh.
Rồi Lưu Ông làm lễ
Cho cô và người này.
Có điều sau khi cưới,
Mọi việc khác xưa nay.
Người anh, vì có vợ,
Dường như quên mất em.
Anh kia, do tủi phận,
Thường nằm khóc trong đêm.
Người em, một ngày nọ,
Quay về từ cánh đồng.
Chị dâu ở trong bếp
Chạy ra, tưởng là chồng,
Liền ôm hôn, nũng nịu,
Vừa đúng lúc người anh
Xuất hiện ngay trước cửa.
Đúng là việc chẳng lành.
Anh ta nghĩ: Thật láo,
Thằng em tán vợ mình.
Nên tình đã vốn nhạt,
Nay càng thêm cạn tình.
Người em thấy oan ức,
Bèn bỏ nhà ra đi.
Đi, đi mãi, đi mãi,
Tới dòng suối rầm rì.
Suối thì rộng, nước xiết,
Không thể qua, đành ngồi,
Khóc đến cạn nước mắt,
Chết, thành hòn đá vôi.
Lại nói người anh cả,
Về nhà không thấy em,
Ngày hôm sau, giấu vợ,
Lặng lẽ bỏ đi tìm.
Anh cũng đi đường ấy,
Gặp suối, không thể qua,
Bèn ngồi bên hòn đá,
Rồi khóc, lệ ướt nhòa.
Anh khóc mãi, khóc mãi,
Chết, thành một cây cao,
Thân rất thẳng, chỉ lá,
Không có một cành nào.
Vợ ở nhà lo lắng,
Không biết chồng đi đâu.
Rồi lên đường tìm kiếm,
Cũng đi lâu, rất lâu.
Cuối cùng đến con suối,
Cô ngồi khóc não lòng,
Không biết ngay bên cạnh
Là chồng và em chồng.
Cô khóc hết nước mắt,
Người cô cứ gầy teo,
Rồi cô chết, lặng lẽ
Biến thành một dây leo.
Dây leo ấy quấn quít
Ôm quanh cây cao kia.
Bên dưới là tảng đá,
Bộ ba không chia lìa.
Khi mọi người biết chuyện,
Tỏ lòng thương xót thay.
Một lần vua kinh lý,
Có dừng lại nơi này.
Sau khi nghe hết chuyện,
Vua bèn lấy trái cây,
Nhai với lá dây cuộn,
Thấy có vị cay cay.
Vua nhổ vào tảng đá,
Thấy mặt đá sùi sôi,
Rồi ngả dần màu đỏ.
Đó là hòn đá vôi.
Cái cây cao cao ấy
Vua gọi là cây cau.
Còn lá leo quanh nó
Thì đặt tên lá trầu.
Còn tảng đá, nung chín,
Sẽ có màu trắng tinh,
Nhai với trầu, cau ấy,
Môi đỏ, trông rất xinh.
Từ đấy dân nước Việt
Có tục lệ ăn trầu
Để nhớ ba người chết
Còn gắn bó bên nhau.
Phần Hai
TỪ THẾ KỶ THỨ 10 ĐẾN THẾ KỶ 19
Ông cháu mình, như vậy
Đã có chuyến hành trình
Xuyên suốt mười thế kỷ
Từ buổi đầu bình minh
Cha ông ta dựng nước,
Đến thế kỷ thứ Mười,
Thoát khỏi vòng nô lệ,
Chúng ta được làm người.
Từ hôm nay ông kể
Về lịch sử nước nhà
Chín thế kỷ bảo vệ
Nền độc lập quốc gia.
Thế nào? Chuyến du lịch
Cũng thú vị, đúng không?
Ngược thời gian tìm hiểu
Lịch sử của cha ông.
Lịch sử, các cháu ạ,
Là môn không chỉ hay
Mà cực kỳ cần thiết
Cho các cháu ngày nay.
Khi không biết lịch sử
Là ta không biết mình.
Quên mất gốc dân tộc,
Tức là quên nghĩa tình.
Ông cha ta dựng nước,
Trả giá bằng máu xương.
Ta, những người kế tục,
Quên là trái lẽ thường.
*
Ngày xưa vua Tự Đức
Cấp tiền và cấp nhà
Để ông Lê Ngô Cát
Viết Quốc Sử Diễn Ca.
Đó là bộ sách lớn
Gần bốn nghìn câu thơ
Viết theo thể lục bát,
Nhiều người thuộc đến giờ.
Đã là con dân Việt
Thì phải biết sử mình.
Vua Tự Đức làm thế
Là ông vua thông minh.
Nay ông cũng bắt chước,
Viết Quốc Sử Diễn Ca
Bằng kiểu thơ năm chữ,
Dễ hiểu và nôm na.
Nó như sách tham khảo,
Sách sử, lại bằng thơ,
Viết về thời dựng nước
Cho đến tận bây giờ.
Nhớ nhé, sách tham khảo,
Chứ không phải giáo khoa.
Giúp bổ sung kiến thức
Về lịch sử nước nhà.
Các cháu nhớ thỉnh thoảng
Đọc lại tập thơ này.
Đọc để nhớ lịch sử
Và cả cổ tích hay.
1
BUỔI ĐẦU ĐỘC LẬP
VÀ ĐINH BỘ LĨNH (924 – 979)
Năm Chín Trăm Ba Tám
Ngô Quyền lên ngai vàng,
Chấm dứt mười thế kỷ
Đô hộ của ngoại bang.
Ông nhanh chóng bỏ chức
Tiết Độ Sứ Bắc Phương,
Thiết lập bộ máy mới
Từ dưới lên trung ương.
Một số quan, tướng giỏi
Được điều giữ các châu.
Hoan Châu - Đinh Công Trứ.
Kiều Công Hãn - Phong Châu.
Tiếc là Năm Bốn Bốn,
Ông lâm bệnh, từ trần.
Con cả, Ngô Xương Ngập,
Con thứ, Ngô Xương Văn
Còn trẻ người non dạ,
Bị Tam Kha, họ Dương,
Tiếm quyền, lên ngôi báu,
Tự xưng là Bình Vương.
Bất bình trước việc ấy,
Các phe phái dần dần
Lập nên nhiều cát cứ,
Thành mười hai sứ quân.
Được tướng lĩnh ủng hộ,
Năm Chín Trăm Năm Mươi
Ngô Xương Văn lật đổ
Dương Tam Kha, và rồi
Cho người rước anh cả
Về làm vua với mình.
Nhưng anh em lục đục,
Không yên lòng dân tình.
Mười lăm năm sau đó,
Ngô Xương Văn qua đời.
Các thế lực cát cứ
Vẫn hoành hành nhiều nơi.
Triều đình thì lục đục.
Chỉ khốn khổ người dân.
Đất nước bị chia cắt,
Loạn mười hai sứ quân.
*
Trong bối cảnh như thế,
Xuất hiện một nhân tài.
Bây giờ ông sẽ nói
Con người ấy là ai.
Đó là Đinh Bộ Lĩnh,
Sau thành Đinh Tiên Hoàng,
Người đầu tiên xưng đế
Trong lịch sử Nam Bang.
Sau nghìn năm Bắc thuộc,
Dẹp mười hai sứ quân,
Lập nước Đại Cồ Việt,
Lo vỗ về muôn dân,
Ông là người khẳng định
Chủ quyền nước Nam ta,
Mở đầu các triều đại
Phong kiến của nước nhà.
Ông chấn hưng kinh tế
Bằng cách cho đúc tiền,
Đồng Thái Bình Hưng Bảo,
Loại tiền đồng đầu tiên.
Bảy mươi triều sau đó
Theo ông đúc tiền đồng,
Giúp kinh tế phát triển,
Hàng hóa được lưu thông.
*
Ông người làng Đại Hữu
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
Bố là Đinh Công Trứ,
Suốt đời theo nghiệp binh.
Không may bố mất sớm,
Ông theo mẹ về quê,
Phải nương nhờ ông chú,
Cũng vất vả đủ bề.
Ngày nhỏ Đinh Bộ Lĩnh
Cùng lũ trẻ chăn trâu
Thường chơi trò chiến trận,
Phất cao cờ hoa lau.
Về sau, lũ trẻ ấy
Một số thành bạn hiền,
Theo ông dựng cơ nghiệp
Như Nguyễn Bặc, Đinh Điền.
Dẫu nhà nghèo, còn nhỏ,
Ông thường xưng là vua,
Bắt lũ trẻ phục dịch
Trong các trò chơi đùa.
Nghe người ta kể lại,
Một lần, để “khao quân”,
Ông giết bò của chú,
Rồi cả bọn cùng ăn.
“Bò đâu?” ông chú hỏi.
Ông bèn chỉ chiếc đuôi
Cắm xuống bùn, và nói:
“Bò chui xuống đất rồi!”
*
Sau khi Ngô Quyền mất,
Đất nước suy yếu dần,
Rồi loạn, như đã nói,
Loạn mười hai sứ quân.
Tức là loạn cát cứ,
Mỗi người chiếm một phương.
Lại mất mùa, đói kém,
Người dân khổ trăm đường.
Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh
Tự dấy quân, chiêu binh,
Sau nhập với Trần Lãm
Cát cứ ở Thái Bình.
Khi tướng Trần Lãm chết,
Ông được tôn lên thay,
Lại chiêu binh thêm nữa,
Thế lực lớn từng ngày.
Từ Hoa Lư hiểm trở,
Ông xuất quân, lên đường,
Rồi đánh đâu thắng đó,
Tự xưng Vạn Thắng Vương.
Cuối cùng, ông lần lượt
Dẹp hết các sứ quân,
Thống nhất cả đất nước,
Hợp ý trời, lòng dân.
Ông lên ngôi Hoàng Đế,
Năm Mậu Thìn, tháng Tư,
Tức Chín Trăm Sáu Tám,
Lập đô ở Hoa Lư.
Quốc hiệu Đại Cồ Việt.
Thiết lập các chế triều,
Ban sắc các hàm phẩm,
Chỉnh lý rất nhiều điều.
*
Hoàng Đế Đinh Bộ Lĩnh
Mười hai năm trên ngôi,
Chỉ thọ năm lăm tuổi
Vì chết thảm, than ôi.
Số là do yêu quí
Con út là Hạng Lang,
Lúc ấy mới bốn tuổi,
Ngài cho kế ngai vàng.
Trong khi đó, Đinh Liễn
Là con trưởng của Ngài,
Người lập nhiều công trạng,
Lại bị gạt ra ngoài.
Vậy là xẩy ra họa,
Cái họa của bao người
Khi bỏ trưởng lập thứ,
Thêm bài học cho đời.
Đinh Liễn, lúc tức giận,
Xuống tay giết Hạng Lang,
Còn vua thì bị giết
Bởi tên quan hạng xoàng.
Tên hắn là Đỗ Thích,
Do một đêm nằm mơ
Thấy sao rơi vào miệng,
Nghĩ mình sẽ làm vua,
Hắn giết Đinh Bộ Lĩnh,
Đinh Liễn Nam Việt vương.
Một âm mưu quen thuộc,
Nhơ bẩn và tầm thường.
Tuy nhiên, hai người chết
Có thể có bàn tay
Của một số người khác.
Mà thôi, chuyện sau này.
Bây giờ, trước khi nghỉ,
Ông kể truyền thuyết này,
Cũng về Đinh Bộ Lĩnh,
Được lưu truyền lâu nay.
CON NGỰA ĐÁ
Ngày xưa, ở làng nọ
Có một người đàn bà
Tên gọi là Đàm Thị,
Sống bằng nghề nông gia.
Một hôm ra suối tắm,
Khi cởi hết áo quần,
Thấy có con rái cá
Đang lừng lững đến gần,
Bà sợ quá, ngất xỉu,
Khi tỉnh lại, thấy mình
Nằm cạnh con rái cá,
Người trần truồng, thất kinh,
Bà vội mặc quần áo,
Cuống quít chạy về nhà,
Giấu chồng, không dám kể
Câu chuyện vừa xẩy ra.
Hơn chín tháng sau đó,
Theo lẽ rất bình thường,
Bà sinh một đứa bé
Khôi ngô và dễ thương.
Mấy năm sau, chồng chết,
Bà thấy con trai mình,
Tên là Đinh Bộ Lĩnh,
Khỏe mạnh và thông minh.
Đặc biệt về bơi lội,
Cậu có thể hàng giờ
Lặn sâu, không cần thở,
Mãi không chịu lên bờ.
Còn con rái cá nọ,
Dẫu trốn sâu trong hang,
Có người bắt, làm thịt,
Đem chia cho cả làng.
Đàm Thị không ăn thịt,
Chỉ lấy một ít xương,
Đem phơi khô, hong bếp
Rồi giấu dưới gậm giường.
*
Một ông thầy địa lý,
Người Tàu, từ Nam Kinh,
Đến đây tìm long mạch
Để táng cốt cha mình.
Khi đến dòng suối nọ,
Thấy có ánh hào quang
Chiếu lên sao Thiên Mã,
Ông ta liền vội vàng
Cho tiền Đinh Bộ Lĩnh,
Bảo lặn xuống xem sao.
Lặn ở chỗ sâu nhất,
Nơi nước réo ào ào.
Chàng lặn xuống, chợt thấy
Con ngựa đá khổng lồ.
Nó nhìn chàng giận giữ,
Chiếc miệng há rất to.
Chàng sợ quá, quay lại
Nói với ông người Tàu.
Ông đưa một bó cỏ,
Bảo đem xuống thật mau.
Sau khi nghe chàng nói
Ngựa ăn cỏ, ông này
Liền kêu lên sung sướng:
“Long mạch chính là đây!
Ai táng cốt bố mẹ
Vào nơi này khác thường,
Nhờ long mạch nhất định
Sẽ được phát đế vương!”
Rồi lão đưa hài cốt
Của cha lão cho chàng,
Bảo mang cho ngựa đá,
Hứa thưởng một đồng vàng.
Chàng lặn xuống lần nữa,
Nhét xương bố lão này
Vào một ngách đá hẻm
Mà lão chẳng hề hay.
Hôm ấy về gặp mẹ,
Kể chuyện này lạ kỳ.
Chàng hỏi hài cốt bố,
Bà im, chẳng nói gì.
Rồi bà đưa cái gói
Xương rái cá ngày nào,
Bảo đấy là xương bố,
Đem cho ngựa xem sao.
Đinh Bộ Lĩnh lập tức
Làm theo lời mẹ chàng,
Và rồi, nhờ long mạch,
Sau thành Đinh Tiên Hoàng.
*
Lại nói thầy địa lý,
Nghe tin chàng xưng vương,
Biết rằng mình bị lỡm,
Liền khăn gói lên đường.
Lão đến Đại Cồ Việt,
Xin được vào gặp vua,
Bảo tình xưa, bạn cũ.
Lão được gặp, và thưa:
“Dạ, muôn tâu hoàng thượng,
Cũng nhờ bởi phúc trời
Mà Ngài dựng nên nghiệp,
Thu phục được muôn người.
Nhưng thiết nghĩ ngựa đá
Cần thêm thanh gươm này
Để giúp Ngài trị nước
Và hưng thịnh từ nay.”
Nói đoạn, lão cung kính
Dâng chiếc gươm sáng ngời,
Hai lưỡi đều rất sắc.
Bản tính vốn tin người,
Vua nhận gươm, sai lính
Lặn xuống suối, và rồi
Đeo nó lên cổ ngựa,
Không biết rằng, than ôi,
Ngài đã mắc mưu lão,
Rơi vào thế hiểm nghèo:
Gươm cứa đứt cổ ngựa,
Long mạch cũng đứt theo.
Vậy là vua sơ ý
Giết quí nhân của mình.
Cũng nhanh chóng chấm dứt
Triều đại của nhà Đinh.
2
LÊ ĐẠI HÀNH (941 - 1005) VÀ NHÀ TIỀN LÊ
Năm Chín Trăm Bảy Chín,
Có sự kiện đau lòng -
Đinh Tiên Hoàng bị giết.
Cả Đinh Liễn, con ông.
Vì vua còn nhỏ tuổi,
Lê Hoàn, một tướng tài,
Được chọn giúp ấu chúa,
Luôn thường trực bên ngai.
Bây giờ ông sẽ kể
Về ông tổ Tiền Lê,
Người bắt quân nhà Tống
Chịu thất bại nặng nề.
Sau vua Đinh Bộ Lĩnh
Là vua Lê Đại Hành,
Một ông vua kiệt xuất
Được sử sách lưu danh.
Khởi dựng triều đại mới,
Lo chấn hưng nước nhà,
Bình Chiêm và phá Tống,
Nâng vị thế quốc gia,
Ông là vị tướng giỏi,
Công tâm khi dùng người,
Khôn ngoan trong giao tế,
Để tiếng tốt cho đời.
Theo sử sách ghi lại,
Ông xuất thân nghèo hèn.
Cha ông là Lê Mịch,
Mẹ là Đặng Thị Sen.
Trường Châu là bản quán,
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
Cũng có người nói khác
Về quê gốc, nơi sinh.
Cha mẹ qua đời sớm,
Được chú nuôi, và ông
Lớn lên, theo Đinh Liễn,
Lập được nhiều chiến công.
Ông giúp Đinh Bộ Lĩnh
Dẹp loạn sứ, yên dân,
Được phong Đại Nguyên Soái,
Chức Thập Đạo Tướng Quân.
Lúc ấy ông còn trẻ,
Mới hăm bảy tuổi đời,
Nhưng có tài thao lược,
Biết thu dụng lòng người.
Đinh Tiên Hoàng bị giết,
Triều đình đang bất an,
Ông trở thành nhiếp chính
Cho ấu chúa Đinh Toàn.
Các đại thần nổi loạn,
Phía Nam họa Chiêm Thành,
Phía Bắc có giặc Tống,
Để mất nước sao đành?
Nên tướng Phạm Cự Lạng,
Thái hậu Dương Vân Nga
Tôn ông lên ngôi báu
Để cứu nguy nước nhà.
Ông lên ngôi Hoàng Đế,
Xưng là Lê Đại Hành,
Đặt niên hiệu Thiên Phúc,
Hoa Lư là kinh thành.
Ông khuyến khích nông nghiệp,
Là vị vua đầu tiên
Hàng năm cho mở lễ
Gọi là lễ Tịch Điền.
Ông cho dân đào đắp
Rất nhiều kênh và sông
Để lấy nước tưới ruộng
Và tiện bề lưu thông.
*
Đầu năm Tám Chín Một
Quân Tống đánh Đại Cồ,
Chia hai đường thủy bộ,
Thanh thế đang rất to.
Đường bộ qua xứ Lạng,
Đường thủy theo Bạch Đằng,
Nơi quân ta đóng cọc
Thành thế trận đang giăng.
Ở bến sông Tây Kết,
Chúng thất bại ê chề,
Nhiều dũng tướng bị giết,
Quân bộ đành rút về.
Công đầu của đại thắng
Thuộc về Lê Đại Hành,
Một nhà quân sự lớn,
Còn lưu mãi sử xanh.
Vua đích thân ra trận,
Nhờ thao lược của ông
Mà xác quân Tống chết
Ngập núi và đầy sông.
*
Chỉ một năm sau đó
Vua cử Ngô Tử Canh
Và Từ Mục đi sứ
Sang đất nước Chiêm Thành.
Họ bị Chiêm giữ lại.
Vua tức giận, ngày đêm
Sai chuẩn bị thuyền chiến,
Tự mình đi bình Chiêm.
Trong một thời gian ngắn
Lê Đại Hành thắng to,
Chém vua Chiêm tại trận,
Thành quách đốt thành tro.
Tù binh nhiều vô kể,
Có cả sư, nữ tỳ,
Vàng bạc thu ức vạn,
Không thiếu một thứ gì.
Hăm sáu năm trị quốc,
Vua sáu lần dấy binh
Đánh quân Chiêm quấy phá,
Giữ biên giới yên bình.
*
Vua Lê Đại Hành chết,
Để lại một giang sơn
Hùng cường và thống nhất,
Nhưng thật tiếc, các con
Lại tranh nhau ngôi báu,
Lại huynh đệ tương tàn,
Khiến bỏ bê chính trị
Và dân chúng lầm than.
Rồi đời Lê chấm dứt
Bằng ông vua xấu xa
Là Ngọa Triều Long Đĩnh,
Gian ác và dâm tà.
*
Hôm nay, thay cổ tích,
Ông sẽ kể sơ qua
Về một người nổi tiếng -
Thái Hậu Dương Vân Nga.
Bà là một người đẹp,
Hoàng hậu của hai vua,
Một nhân vật lịch sử,
Về sau sống trong chùa.
THÁI HẬU DƯƠNG VÂN NGA (952 – 1000)
Ngày xưa có cô bé
Mắc cái tật lạ kỳ,
Là đêm thường hay khóc,
Không hiểu lý do gì.
Một hôm có đạo sĩ
Đi ngang qua tình cờ,
Thấy thế liền dừng lại
Rồi đọc mấy câu thơ:
“Nào nín đi, cháu bé.
Việc gì phải khóc hoài.
Mai kia còn gánh vác
Đôi sơn hà trên vai.”
Đứa bé nghe, im bặt.
Từ ngày ấy, lạ ghê,
Ngủ yên không cần dỗ,
Và cũng thôi khóc nhè.
Sau này bé gái ấy
Rất nổi tiếng, vì bà
Là vợ hai vua lớn -
Thái Hậu Dương Vân Nga.
Bà sinh ở vùng đất
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình,
Bố là Dương Thế Hiển,
Thuộc dòng dõi hiển vinh.
Dương là họ của bố.
Còn Vân Nga là gì?
Tên hai làng ghép lại:
Vân Long và Nga My.
Bà nổi tiếng xinh đẹp,
Loại tài sắc vẹn toàn,
Đến mức nhiều giai thoại
Loan truyền trong dân gian.
Bà là hoàng thái hậu
Hai triều vua khác nhau,
Vợ của Đinh Bộ Lĩnh
Và Lê Hoàn về sau.
Đinh Toàn, vị vua cuối
Của triều đại nhà Đinh,
Là con trai thái hậu
Với Tiên Hoàng, chồng mình.
Còn khi bà là vợ
Của vua Lê Đại Hành,
Bà sinh cô công chúa
Là Lê Thị Phất Ngân.
Sau nàng thành hoàng hậu
Vị vua Lý đầu tiên,
Tức vua Lý Thái Tổ,
Nổi tiếng một vua hiền.
Hơn thế, nàng là mẹ
Của vua Lý Thánh Tông,
Một ông vua nhân đức
Từng lập nhiều chiến công.
Ông lập nước Đại Việt,
Lấy ba châu Chiêm Thành,
Phá Tống, xây Văn Miếu
Chấn hưng việc học hành.
Khi Đinh Tiên Hoàng chết,
Thái hậu Dương Vân Nga
Biết đặt lợi ích Nước
Cao hơn lợi ích Nhà.
Vua Đinh Toàn còn nhỏ,
Mà thù trong giặc ngoài.
Bà gạt qua nghi kỵ,
Bắt con mình nhường ngai,
Để một vị tướng giỏi,
Mà sau là chồng bà,
Bình Chiêm và phá Tống,
Chấn hưng lại nước nhà.
Làm xong sứ mệnh lớn,
Cuối đời bà tu hành
Ở chùa Am Tiên Động
Phía đông Hoa Lư thành.
Nghe người ta kể lại,
Bà và Lê Đại Hành
Ngày trẻ có duyên thắm,
Tiếc trời không cho thành.
Nên đôi uyên ương ấy
Phải chờ mãi về sau,
Khi công thành danh toại,
Mới lần nữa gặp nhau.
Âu cũng là trời định,
Nhưng cuối cùng hai người
Đã đi vào lịch sử
Như tấm gương cho đời.
Ở Ninh Bình thành phố
Hiện có hai con đường
Chạy song song thật đẹp,
Mang tên đôi uyên ương.
3
LÝ CÔNG UẨN (974 – 1028)
VÀ ĐỜI NHÀ LÝ
Thời Đinh - Lê, ruộng đất
Thuộc sở hữu xã, làng.
Dân chia đều cày cấy,
Nộp thuế vua, quĩ làng.
Đại Cồ Việt lúc ấy
Có nhiều xưởng thủ công,
Đúc tiền, rèn vũ khí,
Làm dụng cụ nghề nông.
Ngoài ra còn nghề giấy,
Nghề dệt lụa, gốm sành.
Buôn bán đã phát triển
Nhờ tiền đồng lưu hành.
Đạo Phật được truyền bá
Chùa mọc lên nhiều nơi.
Các sư mở lớp học
Dạy chữ cho mọi người.
Nho Giáo cũng xuất hiện,
Phần lớn ở lớp trên.
Dân đã dùng chữ Hán,
Nhưng tiếng nói giữ nguyên.
Lê Tiên Hoàn Hoàng đế
Mất Một Không Không Năm.
Con là Lê Long Đĩnh,
Lên ngôi, thành “Vua Nằm”.
Sở dĩ có tên ấy
Là do ông ta lười
Thường nằm khi triều chính,
Hỗn láo và khinh người.
Bốn năm sau ông chết.
Lý Công Uẩn lên thay.
Bây giờ ông sẽ kể
Về vị vua hiền này.
*
Một trong những vua lớn
Của nước Việt Nam ta
Là vua Lý Thái Tổ,
Vẻ vang sử nước nhà.
Ông lập nên triều Lý
Kéo dài những chín đời,
Mở đầu nước Đại Việt,
Được lòng dân, lòng trời.
Ông sửa sang việc nước,
Dùng chính sách “thân dân”,
Sưu thuế nhẹ và ít,
Còn miễn thuế nhiều lần.
Ông đề cao đạo Phật,
Xây chùa chiền, đắp đê,
Còn cho quan sang Tống
Thỉnh kinh Tam Tạng về.
Ông là người viết chiếu
Dời đô về Thăng Long,
Giúp đất nước phát triển
Theo thế của con rồng.
*
Ông người châu Cổ Pháp
Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Mẹ họ Phạm, ba tuổi,
Kháu khỉnh và thông minh,
Trụ trì chùa Cổ Pháp
Nhận ông làm con nuôi,
Đưa vào chùa dạy dỗ,
Học Phật, học làm người.
Năm ông lên bảy tuổi,
Một thiền sư lừng danh
Có tên là Vạn Hạnh
Nhận làm học trò mình.
Ông được sư Vạn Hạnh
Cho vào hầu vua Lê.
Vua Lê rất yêu quí,
Luôn chăm sóc, vỗ về.
Lớn lên, ông phục vụ
Trong cung Lê Đại Hành,
Làm đến Chỉ Huy Sứ
Bảo vệ Hoa Lư thành.
Vua còn gả công chúa
Là Lê thị cho ông,
Sinh ra Lý Phật Mã,
Rất được vua hài lòng.
Khi vua Đại Hành chết,
Triều đình thật rối ren.
Tiếm ngôi, Lê Long Đĩnh
Thành ông vua yếu hèn.
Rồi Lê Long Đĩnh chết,
Ông được tôn lên thay
Nhờ tướng Đào Cam Mộc
Và Vạn Hạnh, sư thầy.
Triều Lý được thiết lập.
Cung đình lại bình yên,
Quyền lực được củng cố,
Yên vui khắp mọi miền.
Vậy là Lý Công Uẩn,
Ở tuổi ba mươi lăm,
Thành vua Lý Thái Tổ,
Trị vì mười chín năm.
Ông chấn chỉnh chế sắc,
Đặt niên hiệu Thuận Thiên,
Cất nhắc các quan lại,
Toàn xứng đáng, người hiền.
Thấy đất Hoa Lư hẹp,
Toàn núi cao, khe sâu,
Không tiện làm đô hội,
Khó phát triển dài lâu,
Ông xuống chiếu di chuyển
Kinh đô về Đại La,
Mở đầu kỷ nguyên mới
Cho lịch sử nước nhà.
Năm Thuận Thiên thứ nhất,
Một Nghìn Không Trăm Mười,
Đến đất kinh đô mới,
Vua ngước nhìn lên trời
Liền giật mình, chợt thấy
Thấp thoáng bóng con rồng
Đang bay lên, tuyệt đẹp,
Nên đổi thành Thăng Long.
Quan hệ với nước Tống,
Ông khôn khéo nhún nhường,
Vua Tống không sinh sự,
Lại còn phong sắc vương.
Năm Thuận Thiên mười một,
Ông chinh phạt Chiêm Thành,
Giành được thắng lợi lớn,
Thanh thế cũng tăng nhanh.
Vua Chiêm và Chân Lạp
Sang triều cống hàng năm.
Việc bang giao yên trị,
Dân yên ổn làm ăn.
Năm Một Không Hai Tám
Lý Thái Tổ băng hà,
Hưởng thọ năm lăm tuổi,
Phật Mã lên thay cha.
Ông là vị vua tốt,
Hiệu là Lý Thái Tông,
Một vị tướng tài giỏi,
Chuyên đánh Tây dẹp Đông.
Ông xây Chùa Một Cột,
Đào Kênh Lẫm, Thần Phù,
Đối xử rất nhân đạo
Với những người bị tù.
Ông cải cách pháp luật,
Theo hướng nhẹ thì tha,
Soạn Bộ luật Hình sự
Đầu tiên của nước nhà.
*
Khi Lý Thái Tông chết,
Lý Thánh Tông lên thay.
Lịch sử luôn ghi nhớ
Công lao vị vua này.
Vua thứ ba nhà Lý,
Ông là vị minh quân,
Đặt quốc hiệu Đại Việt,
Yêu nước và thương dân.
Ông cho xây Văn Miếu,
Chăm lo việc học hành,
Dám đem quân đánh Tống,
Lấy ba châu Chiêm Thành.
Ba châu ấy rất lớn,
Thuộc vùng đất bây giờ
Là Quảng Bình, Quảng Trị,
Mầu mỡ và nên thơ.
Xã hội luôn ổn định
Dưới triều Lý Thánh Tông.
Quả không phải hổ thẹn
Với hương hồn cha, ông.
*
Hôm nay là ngoại lệ.
Ông sẽ không đọc thơ,
Không kể chuyện cổ tích,
Mà có cái bất ngờ.
Các cháu đoán xem thử,
Ông sẽ kể chuyện gì.
Ông kể chuyện Kinh Thánh.
Phải nói hay cực kỳ.
Nước ta, các cháu biết
Đến gần mười phần trăm
Dân theo đạo Thiên Chúa,
Nếu ông nhớ không nhầm.
Không phân biệt tôn giáo,
Người Việt Nam chúng ta,
Luôn sống rất hòa thuận,
Như anh em một nhà.
Nào, nghe ông kể nhé.
Nghe để biết vì sao
Chúa tạo ra sự sống,
Và tạo nó thế nào.
KINH THÁNH
Kinh Thánh có hai cuốn,
Như ta biết xưa nay -
Cựu Ước và Tân Ước,
Con chiên đọc hàng ngày.
Là Kinh Do Thái Giáo,
Cựu Ước có từ lâu,
Bao gồm rất nhiều Sách
Bắt đầu từ Khởi Đầu,
Từ Thiên Chúa sáng thế,
Đến họ tộc loài người,
Sách Ngũ Kinh, Ngôn Sứ,
Sách Giáo Huấn dạy đời...
Còn cuốn Kinh Tân Ước
Nói về Chúa Ki Tô.
Nội dung gồm bốn quyển
Được viết bởi tông đồ.
Còn có Sách Công Vụ,
Sách Thư các thánh hiền.
Cuối cùng là cuốn sách
Gọi là Sách Khải Huyền.
SÁNG TẠO THẾ GIỚI
Lúc khởi đầu, Thiên Chúa
Tạo ra Đất và Trời.
Không hình hài, trống vắng,
Bóng tối trùm khắp nơi.
Thần khí của Thiên Chúa
Bay trên nước là là.
Ngài phán: Cần Ánh Sáng!
Và Ánh Sáng hiện ra.
Thấy Ánh Sáng là tốt,
Ngài phân chia, tách rời
Ánh Sáng và Bóng Tối
Cũng như Đất và Trời.
Thiên Chúa đặt tên gọi
Như ta biết ngày nay:
Đêm là khi trời tối,
Còn khi sáng là Ngày.
Và đó là kết quả
Ngày Sáng Thế đầu tiên.
Ngày thứ hai Thiên Chúa
Tạo Bầu Trời vô biên.
Ngày thứ ba Thiên Chúa
Tạo nên lớp Đất dày,
Rồi Đại Dương và Biển,
Tất cả các Loài Cây.
Ngày thứ tư, Thiên Chúa
Tạo Mặt Trăng, Mặt Trời
Và các Ngôi Sao sáng
Để có sáng khắp nơi.
Ngày thứ năm, Thiên Chúa
Tạo ra các loài Chim,
Cá và sinh vật biển,
Biết bay, biết lặn chìm.
Ngày thứ sáu, Thiên Chúa,
Làm việc không nghỉ ngơi,
Tạo nên các Loài Vật,
Và cuối cùng, Con Người.
Ngày thứ bảy Ngài nghỉ.
Công việc đã làm xong.
Việc Sáng Thế kết thúc,
Và Ngài rất hài lòng.
Đó là ngày Sabath,
Ngày nghỉ của Chúa Trời,
Ngày thiêng liêng, sau đó
Là ngày nghỉ của Người.
A-ĐAM VÀ Ê-VA
A-đam, như ta biết,
Là con người đầu tiên
Được Chúa vắt từ đất
Rồi hà hơi mà nên.
Con người này đặc biệt,
Vì Thiên Chúa thông minh
Đã tạo nên theo đúng
Hình mẫu của chính mình.
Ngài tạo khu vườn đẹp,
Gọi là Vườn Địa Đàng,
Có nhiều cây xanh tốt,
Nhiều hoa, trái chín vàng.
Chính giữa khu vườn ấy
Có một cây Trường Sinh
Và một cây Tri Thức,
Ai ăn nó, tự mình
Sẽ nhận biết Điều Tốt
Và Điều Không Tốt Lành.
Ngài cho A-đam sống
Ở vườn này tươi xanh.
Ngài dặn, ông có thể
Muốn ăn gì thì ăn,
Nhưng ăn trái Tri Thức,
Sẽ chuốc vạ vào thân.
Rồi Ngài phán: Không tốt
Khi Người Nam một mình.
Ta cho nó Người Nữ,
Dịu dàng và tươi xinh.
Ngài liền làm phép lạ,
Bắt A-đam ngủ say,
Rút chiếc xương sườn nhỏ,
Và từ khúc xương này
Ngài làm nên Người Nữ,
Đặt tên là Ê-va.
Người Nam là nam giới,
Người Nữ là đàn bà.
Và rằng thịt của thịt,
Xương thịt của một người,
Người Nam và Người Nữ
Phải yêu nhau suốt đời.
Trong số các loài vật,
Rắn là loài xấu xa.
Nó xúc xiểm, xu nịnh,
Kẻ thù của đàn bà.
Nó đến tìm Người Nữ,
Xúi bà ăn trái cây
Mọc trên cây Tri Thức,
Vì ăn nó, sau này
Bà sẽ thành thông thái,
Biết phân biệt cho mình
Cái Thiện và Cái Ác,
Như các đấng thần linh.
Ê-va, dẫu còn sợ
Và chưa hết phân vân,
Nhưng do Rắn dụ dỗ,
Cuối cùng bà đã ăn.
Bà ăn trái cây cấm,
Lại còn đem mời chồng.
Ăn xong, họ xấu hổ
Khi thấy mình tồng ngồng.
Họ vội vã bẻ lá
Thay áo, quấn quanh người.
Sau đó, Thiên Chúa gọi,
Họ không dám trả lời.
Nhưng Ngài đã đoán hiểu
A-đam và Ê-va
Đã ăn trái cây cấm,
Nên giờ không dám ra.
Người Nữ đổ cho Rắn.
Người Nam đổ cho bà.
Thiên Chúa rất tức giận,
Và trừng phạt cả ba.
Loài Rắn bị nguyền rủa,
Phải trườn, bò suốt đời,
Luôn luôn bị săn đuổi,
Kẻ thù của loài người.
Hai người bị Chúa phạt
Vì ăn trái cây này.
Họ và con cháu họ
Phải vất vả từ nay
Làm việc để kiếm sống,
Không được ở thiên đường,
Chịu mọi thứ bệnh tật
Và khó nhọc đời thường.
Đàn ông phải tranh đấu
Vật lộn vì miếng ăn.
Đàn bà khi sinh đẻ
Phải đau đớn, nhọc nhằn.
Hơn thế, ăn trái cấm,
Lại còn đưa cho chồng,
Đàn bà phải phụ thuộc
Và hầu hạ đàn ông.
Hai người bị Thiên Chúa
Đuổi khỏi Vườn Địa Đàng,
Xuống sống nơi hạ giới
Giữa trời nắng chang chang.
CHIẾC THUYỀN CỦA NÔ-Ê
Con cháu và chút chít
Của A-đam, Ê-va
Về sau thành hư hỏng,
Độc ác và xấu xa.
Thiên Chúa lấy làm tiếc
Đã tạo ra loài người.
Và rồi Ngài quyết định
Xóa sổ họ trên đời.
Nhưng Ngài không nỡ giết
Một người tốt mọi bề,
Luôn nghe lời Thiên Chúa,
Là ông già Nô-ê.
Ngài bảo ông chuẩn bị
Chiếc thuyền lớn, và rồi
Đưa loài vật lên đó,
Cứ mỗi loài một đôi.
Tức có đực, có cái
Để nhân giống sau này,
Vì Ngài sẽ làm lụt
Liên tục bốn mươi ngày.
Ông Nô-ê lúc ấy
Sáu trăm tuổi có thừa,
Làm đúng điều Chúa dặn,
Rồi sau đấy trời mưa.
Mưa tầm tã không dứt,
Như nước xối ào ào,
Làm ngập hết đồng ruộng,
Cả những ngọn núi cao.
Ông Nô-ê và vợ,
Cùng ba người con trai
Và một đôi đực cái
Của tất cả các loài
Vẫn bình yên vô sự
Khi ngồi trong chiếc thuyền.
Nước dâng cao, dâng mãi,
Nhưng cũng nâng thuyền lên.
Cuối cùng thì nước rút.
Con thuyền của Nô-ê
Trên núi A-ra-rat,
Nước còn trắng bốn bề.
Lênh đênh mười một tháng
Kể từ ngày trời mưa,
Ông thả chim câu trắng
Xem nước rút hết chưa.
Con chim bay một chốc
Lại quay về với ông.
Nước còn chưa rút hết,
Còn phải chờ trong lồng.
Một tuần sau, được thả,
Nó bay đi rất nhanh,
Lúc quay về, miệng ngậm
Một cành ô-liu xanh.
Đợi thêm bảy ngày nữa,
Ngồi trên thuyền, Nô-ê
Lại thả chim câu khác,
Nhưng nó không quay về.
Nghĩa là nước đã cạn.
Ông và cả gia đình
Bước xuống đất, xúc động,
Tạ ơn Chúa lòng lành.
Các loài chim, loài thú
Lần lượt ra từng đôi,
Bắt đầu cuộc sống mới
Rồi phát triển, sinh sôi.
THÁP BA-BEN
Sau khi nước rút hết,
Nô-ê dựng bàn thờ,
Làm lễ tạ ân Chúa.
Chúa hứa từ bây giờ
Sẽ không làm lụt nữa,
Không giết chết loài người.
Nói xong, Ngài liền dựng
Chiếc cầu vồng trên trời.
Chẳng bao lâu sau đó
Các con cháu của ông
Sinh sôi trên mặt đất,
Ngày một đông, thêm đông.
Nói chung một ngôn ngữ,
Từ một gốc mà ra,
Họ tìm được vùng đất
Có tên là Shi-na.
Thấy đất này màu mỡ,
Họ dừng lại ở đây,
Định xây một tòa tháp
Cao tít tận trời mây.
Đó sẽ là biểu tượng
Sức mạnh của loài người,
Quyết tâm và đoàn kết,
Thách thức cả với trời.
Từ trên cao nhìn xuống,
Thiên Chúa không hài lòng:
Con người quá kiêu hãnh,
Cậy mình mạnh và đông.
Ngài làm phép, bắt họ
Không thể nào hiểu nhau
Do không chung ngôn ngữ,
Không ý hợp tâm đầu.
Thiên Chúa còn bắt họ
Phân tán đi khắp nơi.
Việc xây tháp bỏ dở,
Vì người không hiểu người.
4
LÝ THƯỜNG KIỆT (1019 – 1105)
Trong lịch sử dân tộc,
Đời nhà Lý, chín triều,
Đã làm được nhiều việc.
Vâng quả thật rất nhiều.
Bình Chiêm, mở lãnh thổ.
Đánh giặc Tống thành công.
Đạo Phật phát triển mạnh.
Dời đô về Thăng Long.
Đổi tên nước Đại Việt
Năm Một Không Năm Tư.
Vua đứng đầu nhà nước,
Công tâm và nhân từ.
Một chiếc chuông rất lớn
Đặt trước điện Long Trì.
Dân oan cứ đến gõ,
Kêu bất cứ việc gì.
Nước có hăm tư tỉnh.
Quan - tri phủ, tri châu.
Chủ yếu người hoàng tộc
Hay con cái nhà giàu.
Nhà Lý ban bộ luật
Năm Một Không Bốn Ba,
Dạng như luật Hình Sự,
Đầu tiên ở nước ta.
Quân đội gồm hai loại -
Cấm quân và địa phương.
Có cả bộ cả thủy,
Rất chặt chẽ kỷ cương.
Vũ khí gồm giáo mác,
Đao kiếm và cung tên.
Có cả máy bắn đá,
Có xưởng đóng chiến thuyền.
Về ngoại giao, nhà Lý
Hòa hoãn với Bắc Phương.
Với Chiêm Thành, Đại Việt
Giữ quan hệ bình thường.
*
Giữa thế kỷ mười một,
Nhà Tống gặp khó khăn.
Nội tình đầy mâu thuẫn,
Ngân khố luôn nợ nần.
Chúng muốn đánh Đại Việt
Để giải quyết việc nhà,
Nhưng phải chịu thất bại
Trước quân và dân ta.
Bây giờ ông sẽ kể
Về vị tướng thiên tài
Đã đánh bại quân Tống.
Các cháu biết là ai?
Đó là Lý Thường Kiệt,
Một con người tài ba,
Một anh hùng dân tộc
Trong lịch sử nước ta.
*
Ông là tướng nhà Lý,
Đồng thời một hoạn quan,
Có công đánh quân Tống,
Giữ đất nước bình an.
Tên thật là Ngô Tuấn,
Hậu duệ Ngô Quyền xưa,
Ông quê huyện Quảng Đức,
Thuộc Gia Lâm bây giờ.
Bố ông làm Thái úy
Đời vua Lý Thái Tông,
Được vua ban quốc tính,
Do đức và do công.
Năm Một Không Bốn Mốt,
Nhờ khôi ngô, thông minh,
Ông được làm thái giám,
Vua cho theo bên mình.
Sau ông được thăng chức
Nội thị Sảnh đô tri
Lúc mới ba lăm tuổi,
Vinh hiển và quyền uy.
Rồi sau, tiến hơn nữa,
Dưới triều Lý Thánh Tông,
Làm Kiểm hiệu Thái bảo,
Chức quan hàng tam công.
Năm Một Không Sáu Một,
Ở Thanh Hóa, Nghệ An
Các tộc Mường quấy rối,
Vua sai ông trấn an.
Nhờ ông biết thuyết giảng,
Có lý lại có tình,
Cả năm châu, sáu huyện
Đã quy phục triều đình.
Năm Một Không Sáu Chín,
Ông đi đánh Chiêm Thành,
Bắt được vua Chế Củ,
Mở rộng đất nước mình.
*
Khi Càn Đức, bảy tuổi,
Lên ngôi báu, triều đình
Lục đục các phe cánh,
Đất nước chẳng an bình.
Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan phu nhân,
Nhờ thế mà mọi chuyện
May cũng ổn định dần.
*
Tể tướng Tống, An Thạch,
Năm Một Không Bảy Năm,
Xui vua đánh Đại Việt,
Một quyết định sai lầm.
Thấy trước âm mưu giặc,
Không đợi giặc tấn công,
Lý Thường Kiệt chủ động
Cả đường bộ, đường sông
Tiến quân vào đất giặc,
Cùng Tôn Đản tướng quân,
Vượt qua các thành ải,
Chiếm châu Liêm, châu Khâm.
Năm Một Không Bảy Sáu,
Hai cánh quân gặp nhau,
Cùng bắt đầu vây hãm,
Quyết hạ thành Ung Châu.
Đó là một thành lớn,
Ngày nay là Nam Ninh,
Tướng Tô Giám cố thủ
Cùng ba vạn tinh binh.
Tướng giặc Trương Thủ Tiết
Đem quân đến giải vây,
Bị ông chém tại trận.
Sử Tàu chép trận này.
Cuối cùng Lý Thường Kiệt
Phải dùng kế hỏa công,
Bắn các chất dễ cháy
Như bùi nhùi, nhựa thông.
Ông còn bắt dân Tống
Chồng bao cát thật cao
Để quân lính Đại Việt
Vượt tường thành xông vào.
Thành Ung Châu thất thủ
Vào ngày thứ bốn hai.
Tướng Tô Giám tự tử,
Lửa ngùn ngụt trong, ngoài.
Sáu vạn người bị giết.
Cả Khâm Châu, Liêm Châu,
Con số là mười vạn.
Một thất bại thật đau.
Làm cỏ ba châu ấy,
Nhiều cảnh cũng đau lòng,
Lý Thường Kiệt ra lệnh
Quay trở về Thăng Long.
Ông bắt nhiều dân Tống
Cùng đi theo với mình
Rồi cho vào khai khẩn
Vùng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình.
*
Tháng Ba năm Bảy Sáu,
Quân Tống lại đánh ta,
Xui Chiêm Thành, Chân Lạp
Từ phía Nam đánh ra.
Nhưng rồi hai nước ấy
Sợ, không dám xuất quân.
Quân Tống gồm mười vạn,
Hai mươi vạn phu dân.
Hay tin, Lý Thường Kiệt
Liền cấp tốc đề phòng,
Lập các chốt phòng ngự
Cả đường bộ, đường sông.
Ông cho xây chiến lũy
Bên cửa ải Chi Lăng
Ngăn quân Tống tràn xuống
Từ phía Bắc Cao Bằng.
Tuyến phòng thủ đường thủy
Ông lập ở sông Cầu,
Xưa là sông Như Nguyệt,
Chỗ sông hẹp, nước sâu.
Nhờ hai phòng tuyến ấy,
Giặc Tống bị kìm chân,
Quân mười phần chết bảy,
Ý chí cũng nguội dần.
Biết giặc đang thế bí,
Ông sai sứ “nghị hòa”.
Quân Tống liền đồng ý.
Thoát được nạn can qua.
*
Năm Một Một Không Bốn
Và Một Không Bảy Năm,
Hai lần Lý Thường Kiệt
Phải đem quân bình Nam.
Cả hai lần đều thắng,
Chưa nói đến lần đầu
Khi bắt được Chế Củ,
Đổi vua lấy ba châu.
Ông được phong Thái úy,
Bậc khai quốc công thần,
Một anh hùng dân tộc,
Sống mãi cùng nhân dân.
Tháng Sáu năm Ất Dậu,
Tức Một Một Không Năm,
Ở tuổi tám mươi bảy,
Lý Thường Kiệt từ trần.
Ông là vị thái giám
Đầu tiên ở nước ta
Có công với dân tộc,
Giúp bảo vệ sơn hà.
Theo truyền thuyết kể lại,
Trước ba quân, bấy giờ,
Ở phòng tuyến Như Nguyệt,
Ông đã đọc bài thơ.
Bài thơ như lời hịch,
Như một bản tuyên ngôn
Về độc lập dân tộc,
Sống mãi cùng nước non.
*
Bài thơ tứ tuyệt ấy
Vang vọng mãi lòng người.
Bốn câu thơ ngắn gọn
Xuyên suốt đã bao đời.
Nước Nam người Nam ở.
Trời định thế từ lâu.
Đừng tìm cách xâm phạm,
Kẻo lại bị đánh đau.
Không gì đúng hơn thế.
Cũng không gì hay hơn.
Đó là lời cảnh cáo
Nhằm bảo vệ giang sơn.
Đến nay vẫn chưa biết
Ai viết bài thơ này.
Điều ấy không quan trọng.
Quan trọng là nó hay.
Nó nói đúng khí phách
Của con cháu Lạc Rồng,
Bản Tuyên ngôn Độc lập,
Lời thề với non song.
Thái úy Lý Thường Kiệt
Đã đọc vang bài thơ
Trong đền thờ Trương Hống,
Huyện Yên Phong bây giờ.
Tuyến phòng thủ Như Nguyệt
Đứng sừng sững bên sông.
Binh sĩ nghe tướng đọc
Mà thấy náo nức lòng.
Rồi vạn người như một
Tiến lên theo tiếng thơ.
Khiến quân Tống bỏ chạy,
Ô nhục tận bây giờ.
Nhà thơ không xung trận
Trong trận ấy bên sông,
Nhưng với bài tứ tuyệt
Đã góp phần lập công.
*
Lúc nãy ông nhắc đến
Hai từ lạ - “hoạn quan”.
Hoạn quan Lý Thường Kiệt.
Hay là Ngài bị oan?
Vấn đề chưa ngả ngũ,
Được tranh cãi xưa nay.
Tạm thời ông chỉ nói
Đại khái như thế này.
*
Theo sử, Lý Thường Kiệt
Vốn là một hoạn quan.
Một từ không đẹp lắm,
Khiến thiên hạ luận bàn.
Nhiều nhà nho khinh bỉ
Khi nhắc đến tên ông,
Thậm chí có đánh giá
Sai lệch và bất công.
Với ta, Lý Thường Kiệt
Là khai quốc công thần,
Người anh hùng dân tộc,
Sống vì nước, vì dân,
Cho nên không quan trọng
Ông là người thế nào.
Dẫu vậy, thử tìm hiểu
Vấn đề này xem sao.
*
Xưa nay trong lịch sử
Từng có nhiều hoạn quan
Làm khuynh đảo chính sự,
Tàn bạo và mưu gian.
Xưa nhất phải kể đến
Tên hoạn quan Triệu Cao,
Từng giữ chức tể tướng
Thời nhà Tần năm nào.
Khi Tần Thủy Hoàng chết,
Hắn giả di chiếu vua,
Lập con thứ Nhị Thế
Thay con trưởng Phù Tô.
Hai anh em tranh chấp,
Nên cơ đồ nước Tần
Lọt vào tay nhà Hán,
Làm ly tán lòng dân.
Về phần mình, nhà Hán
Có họa mười hoạn quan
Thao túng cả triều chính,
Nên vận nhà Hán tàn,
Để gian thần Đổng Trác
Nắm hết mọi quyền hành,
Mở đường cho Tam Quốc
Dùng dằng thế phân tranh.
Trường hợp Lý Thường Kiệt
Của Đại Việt chúng ta,
Dẫu hoạn quan, tuy vậy,
Là hiền tài, khác xa.
Vì sao Lý Thường Kiệt
Lại trở thành hoạn quan?
Có khá nhiều giả thuyết
Được đưa ra luận bàn.
Một - sinh ra đã thế.
Điều này rất khó tin,
Vì ông, như ta biết,
Từng có một mối tình
Với nàng Dương Hồng Hạc,
Sau là vợ Thái Tông.
Khi biết ông bị hoạn,
Nàng dứt tình với ông.
Hai - hay Lý Thường Kiệt
Tự hoạn để lấy tiền?
Lý Thái Tông, nghe nói,
Thấy mặt ông xinh, hiền,
Nên hứa nếu tự hoạn
Để trở thành hoạn quan
Theo hầu vua sớm tối,
Vua thưởng ba vạn quan.
Điều này khó có thật.
Là con một công hầu,
Tuy bố mẹ mất sớm,
Nhưng nhà ông khá giàu.
Nên không thể có chuyện
Ông bán mình vì tiền.
Với một nhân cách lớn,
Việc ấy là đê hèn.
Lại có người còn nói
Tự hoạn để tiến thân,
Hoặc do vua trừng phạt
Vì tội dám khi quân.
Còn một số thuyết nữa,
Nhưng tất cả xem ra
Không hoàn toàn thuyết phục,
Trừ một thuyết, đó là
Khi vua tuyển thái giám,
Người ta đánh thuốc mê,
Hoạn ông ngoài ý muốn,
Một nỗi đau ê chề.
Chắc kẻ làm việc ấy
Có liên quan ít nhiều
Đến nàng Dương Hồng Hạc,
Một người ông từng yêu.
Không ngẫu nhiên sau đó,
Đúng vào lúc gian nguy,
Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan Nguyên phi.
Giả thuyết là giả thuyết,
Còn chưa rõ thế nào.
Dẫu ông là quan hoạn,
Việc ấy cũng chẳng sao.
Nó không thể che lấp
Tài đức và công danh.
Ông, vị tướng lỗi lạc
Phá Tống, bình Chiêm thành.
*
Thế là ông kể hết
Phần chuyện của hôm nay.
Giờ đến phần cổ tích.
Ông sẽ kể chuyện này.
Đây không phải cổ tích,
Mà truyền thuyết dân gian,
Về một người có thật,
Là Nguyên phi Ỷ Lan.
NGUYÊN PHI Ỷ LAN (1044 – 1117)
Có một truyền thuyết đẹp,
Đúng hay không, bàn sau.
Và theo truyền thuyết ấy,
Có một nàng hái dâu.
Nàng, cô thôn nữ ấy,
Rất xinh đẹp, tất nhiên.
Nết na và chăm chỉ,
Không thể không dịu hiền.
Một hôm, đang dưới bãi
Thì xe vua đi qua.
Ấy là vua tìm vợ,
Vì vua đã, đang già.
Khỏi nói, các cô gái
Tranh nhau đứng trước ngài.
Họ thích làm hoàng hậu
Và quyết không nhường ai.
Thế mà thôn nữ ấy,
Cô gái đang hái dâu,
Vẫn luôn tay, cứ hái,
Thậm chí không ngửng đầu.
Vừa hái dâu vừa hát,
Mà cô hát rất hay,
Đến mức vua dừng lại,
Nghe, và lòng say say.
Từ tò mò, rồi thích,
Rồi yêu cô gái nghèo,
Vua cho người cung kính
Rước kiệu cô về triều.
Rồi lấy nàng làm vợ,
Rồi gì gì, gì gì,
Cuối cùng cô gái ấy
Thành Ỷ Lan chính phi.
Ỷ Lan, vì hôm đó
Cô đứng tựa cây lan.
Vừa hồn nhiên, vừa đẹp.
Cũng có người bảo gian.
Có một nhà viết sử
Vừa viết sách về cô,
Nói bố cô lúc ấy
Làm quan ở kinh đô.
Có thể ông biết trước
Việc vua về vùng ông
Nên sai con phục sẵn,
Như phục chim vào lồng.
Nên cô mới ra bãi
Vờ chăm chú hái dâu,
Cố tình không chú ý,
Cố tình không ngửng đầu.
Vì biết có chú ý
Cũng chẳng ăn thua gì.
Vậy phải làm gì đấy
Thật lãng mạn, ly kỳ.
*
Ngoài đời, bà quả thật
Chuyên trồng dâu nuôi tằm.
Tên là Lê Thị Yến,
Quê ở huyện Gia Lâm.
Vua đã bốn mươi tuổi
Mà chưa có con trai,
Nên gặp được Thị Yến
Vừa xinh vừa có tài
Liền lấy bà làm vợ,
Xây riêng một cung to,
Nay là đình Yên Thái,
Cách không xa Bờ Hồ.
Bà sinh hai hoàng tử
Cho vua Lý Thánh Tông.
Con đầu là Càn Đức,
Sau thành Lý Nhân Tông.
Thế là vua mãn nguyện,
Được như ước, còn gì?
Nên bà được cất nhắc
Thần phi, rồi Nguyên phi.
*
Năm Một Không Sáu Chín
Vua đi đánh Chiêm Thành.
Đem mọi việc quốc sự
Giao cho bà điều hành.
Vua đánh mãi không thắng,
Đang có ý lui quân,
Thì biết tin hoàng hậu
Ở Thăng Long được dân
Và các quan kính trọng
Vì các việc triều đình
Đều được bà làm tốt.
Vua xấu hổ, giật mình.
Đàn bà mà giỏi thế,
Vậy đàn ông thì sao?
Thế là vua quyết định
Lại tung quân đánh vào.
Lần ấy vua thắng lớn,
Lấy thêm được ba châu,
Bắt vua Chiêm, Chế Củ,
Phải uốn gối, cúi đầu.
*
Tháng Giêng năm Nhâm Tý,
Tức Một Không Bảy Hai,
Thánh Tông lâm bệnh chết,
Lý Nhân Tông lên ngai.
Càn Đức mới sáu tuổi,
Còn nhỏ, chẳng biết gì,
Nên xẩy ra cuộc chiến
Giữa hai bà Hoàng phi.
Một bên là Thái hậu
Đang thực nắm quyền hành,
Nhờ có sự ủng hộ
Của Thái sư Đạo Thành.
Còn bên kia, yếu thế,
Là Ỷ Lan Thái phi.
Làm mẹ vua còn nhỏ,
Không có quyền hành gì.
Sau được Lý Thường Kiệt
Đứng hẳn về phe mình,
Ỷ Lan giành thế thắng.
Quên hết cả nghĩa tình,
Bà bắt con, Càn Đức,
Chôn Thái hậu họ Dương,
Bảy mươi sáu thị nữ
Cùng Thánh Tông, thật thương.
Còn Thái sư họ Lý
May không bị giết oan,
Giáng chức thành Tả gián,
Đi coi châu Nghệ An.
Vậy là một thôn nữ,
Hiền dịu và xinh tươi,
Vì quyền lực, đã giết
Bảy mươi bảy con người.
*
Nắm toàn quyền triều chính,
Từ Ỷ Lan Thái phi,
Thành Ỷ Lan Thái Hậu.
Sắp tới bà làm gì?
Lần thứ hai nhiếp chính
Năm Một Không Bảy Tư,
Bà lại mời ra Bắc
Lý Đạo Thành Thái sư.
Bà quên thù hận cũ,
Giao trọng trách cho ông,
Để cùng Lý Thường Kiệt
Lo gánh vác việc công.
Nhờ thế mà đất nước
Được ổn định dài lâu,
Bình Chiêm rồi phá Tống -
Việc này bà công đầu.
Sử cũ còn ghi lại,
Năm Một Một Không Ba,
Bà lấy tiền công quĩ
Và một phần tiền bà
Để chuộc các cô gái
Bị bán cho nhà giàu,
Tìm đàn ông góa vợ
Để họ thành cô dâu.
Vốn là người mộ Phật,
Là người tu tại gia,
Bà xây nhiều chùa, miếu,
Nhất là khi về già.
Có người nói, bởi lẽ
Lòng bà không thảnh thơi,
Hối hận vì đã giết
Bảy mươi bảy con người.
Rất có thể như thế,
Cũng có thể là không.
Lịch sử rất sòng phẳng:
Khen khi bà có công.
Ngược lại, khi có tội,
Phải mang tiếng với đời.
Không ai có thể thoát
Luật trời và luật người.
Bảy mươi tuổi, bà chết,
Ba hầu gái chôn theo,
Những người bà yêu mến,
Tức là những người nghèo.
5
TRẦN THỦ ĐỘ (1194 - 1264)
Xã hội ta thời Lý,
Hơn hai thế kỷ dài,
Có nhiều sự kiện lớn,
Nhiều nhân vật hiền tài.
Từ vua Lý Thái Tổ
Đến vua Lý Chiêu Hoàng,
Chín đời vua cai trị
Với nhiều trang sử vàng.
Bình Chiêm rồi đánh Tống,
Dời đô về Thăng Long,
Xây dựng Quốc Tử Giám,
Phát triển nghề thủ công.
Phật giáo rất phát triển.
Nho giáo cũng gia tăng.
Trong việc cai trị nước
Có phân cấp rõ ràng.
Năm Một Không Bảy Sáu,
Quốc Tử Giám lần đầu
Mở cửa đón vào học
Con cháu của người giàu.
Còn một năm trước đó
Khóa thi tuyển đầu tiên
Được nhà vua cho mở
Để kén chọn người hiền.
Kiến trúc và điêu khắc
Rất phát triển thời này -
Văn Miếu, Chùa Một Cột…
Tồn tại đến ngày nay.
Cũng vào thời nhà Lý
Xuất hiện một dòng thơ,
Gọi là thơ Thiền, Phật,
Rất phổ biến bấy giờ.
Làm nên dòng thơ ấy
Là các sư đời thường,
Như Vạn Hạnh, Lê Thước,
Đoàn Văn Khâm, Lý Trường,
Đỗ Pháp Thuận, Từ Lộ,
Ngô Chân Lưu, Lâm Khu,
Dương Không Lộ, Lê Thuấn,
Vạn Trì bát, Kiều Phù…
Cả vua Lý Thái Tổ
Có bài thơ rất hay,
Nói ngủ, chân đạp đất,
Đầu Ngài gác lên mây.
Đêm mỏi, không dám duỗi,
Chỉ vì sợ ngủ quên
Mà đạp đổ sông núi.
Đúng khí phách người hiền.
Tuy nhiên, từ giai đoạn
Cuối thế kỷ Mười Hai,
Nhà Lý dần suy yếu.
Suốt một thời gian dài
Vua quan lo hưởng lạc
Và bòn vét của dân.
Lại hạn hán, lụt lội,
Mất mùa, dân thiếu ăn.
Dân nghèo đã nổi dậy
Ở Nghệ An, Ninh Bình.
Thái Sư Trần Thủ Độ,
Thâu tóm hết quyền binh.
Bây giờ ông sẽ kể
Về ông Thái Sư này.
Người luôn gây tranh cãi
Khi đánh giá xưa nay.
Chính ông đã êm thấm,
Chuyển từ Lý sang Trần.
Gây dựng triều đại mới.
Dẫu mang tiếng bất nhân
*
Một nhân vật lịch sử
Gây nhiều oán, nhiều ân,
Đó là Trần Thủ Độ,
Thái sư đầu triều Trần.
Cũng ông, người thực sự
Sáng lập triều đại này,
Và bốn mươi năm chẵn
Giữ chặt nó trong tay.
Nhưng ông ác hay thiện,
Chính nghĩa hay gian tà?
Điều này chưa ngả ngũ,
Dù nhiều năm trôi qua.
Ông sinh ở Lưu Xá,
Huyện Hưng Hà, Thái Bình,
Tổ tiên làm nghề cá,
Từ Đông Triều, Yên Sinh.
Nhưng đến đời ông bố
Thì giàu sang vô cùng,
Khi Hoàng Thái tử Sảm
Lấy chị Trần Thị Dung.
Sau Hoàng Thái tử Sảm
Thành vua Lý Huệ Tông.
Nhà Lý đứng vững được
Một phần cũng nhờ ông.
Năm Một Hai Hai Bốn,
Ông được phong chức danh
“Điện tiền Chỉ huy sứ”,
Chỉ huy bảo vệ thành.
Khi Trần Tự Khánh chết,
Ông là người một mình
Nắm hết mọi quyền lực,
Và công việc triều đình.
Triều Lý vào lúc ấy
Đang trên đường suy vong.
Vua ham chơi, tác tráng,
Dân bất ổn, nản lòng.
Mùa màng luôn thất bát.
Chân Lạp và Chiêm Thành
Thường quấy phá biên giới,
Lơ lửng họa chiến tranh.
Sáng suốt và khôn khéo,
Biết trông rộng, nhìn xa,
Ông nghĩ cần thay đổi,
Cho mình, cho nước nhà.
Năm Một Hai Hai Bốn,
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con gái,
Cho dù muốn hay không.
Huệ Tông lên chùa sống,
Lấy pháp hiệu Huệ Quang.
Con gái vua, bảy tuổi,
Hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
Đó là vị vua nữ
Duy nhất của nước nhà,
Nhưng cuộc đời chìm nổi,
Ngẫm mà thương cho bà.
Tiếp đến, Trần Thủ Độ
Đưa Trần Cảnh, cháu ông,
Vào hầu bên nữ chúa,
Rồi sau trở thành chồng.
Chỉ một năm sau đó
Chiêu Hoàng tự dâng ngai
Cho cậu chồng tám tuổi,
Yên cả trong lẫn ngoài.
Vậy là cuộc đảo chính
Đã mỹ mãn thành công,
Nhà Trần kế nhà Lý,
Hoàn toàn theo ý ông.
Phải khen ông tài giỏi,
Thay đổi cả vương triều,
Đất nước không xáo trộn,
Máu cũng chẳng đổ nhiều.
Vì vua còn rất bé,
Ông lại nắm toàn quyền,
Dẹp loạn sứ trong nước,
Dân chúng được bình yên.
Lần kháng chiến thứ nhất
Chống xâm lược nhà Mông,
Đại Việt giành thắng lợi
Một phần nhờ có ông.
Thế giặc lớn, vua sợ,
Mới hỏi ông, thăm dò.
“Chừng nào tôi chưa chết,
Xin bệ hạ đừng lo!”
Thái sư nói câu ấy,
Làm triều đình vững lòng,
Trên dưới dốc toàn lực,
Giúp kháng chiến thành công.
*
Theo sử cũ chép lại,
Trần Thủ Độ là người
Rất công tâm, nghiêm khắc,
Khôn ngoan và hiểu đời.
Một lần vợ ông trách
Khi đi vào cấm cung
Bị lính cờ ngăn lại.
Ông nghe, giận vô cùng,
Liền gọi tên lính ấy,
Định chém đầu tức thì.
Thế mà ông không chém,
Còn khen, thật lạ kỳ.
“Tên lính này, ông nói,
Giữ đúng phép vua ban.
Lính làm thế là tốt,
Sao bà còn phàn nàn?”
Có lần, một công chúa
Xin ông cho người nhà
Một chức quan nho nhỏ.
Ông gật đầu, thế là
Khi người kia đến gặp,
Ông nói: “Anh là người
Được công chúa ưu ái,
Vậy nổi bật ở đời.
Thế thì ta xin phép
Chặt một ngón chân anh
Đánh dấu sự khác ấy.
Chắc anh cũng đồng tình.”
Anh kia nghe, sợ quá,
Liền ra về, tay không.
Từ đấy không hề thấy
Người nào đến nhờ ông.
Lại nữa, một lần nọ,
Có người tâu chân tình:
“Bệ hạ còn ít tuổi,
Thái sư nắm quyền hành,
E gây nên hậu họa.”
Thái Tông đưa người này
Đến gặp Trần Thủ Độ.
Ông nghe rồi khen hay,
Bảo ông ta nói đúng,
Không chém đầu để răn,
Mà còn ban lụa thưởng,
Khen là người trung thần.
*
Vậy là Trần Thủ Độ
Rõ ràng rất có công
Xây dựng vương triều mới,
Đánh thắng giặc Nguyên Mông.
Nhưng nhiều người chỉ trích
Ông là người nhẫn tâm,
Độc ác, vô đạo đức.
Nói thế cũng không nhầm.
Để đề phòng hậu họa,
Ông không ngại giết người.
Giết tôn thất nhà Lý,
Một tội ác tày trời.
Chính ông ép Trần Liễu
Nhường vợ cho em trai.
Vua lấy chị dâu ruột,
Khi chị dâu có thai.
Ông bị chê thất đức
Khi giết Lý Huệ Tông,
Lấy hoàng hậu làm vợ,
Tức lấy chị họ ông.
Ông là người như thế.
Công và tội đan xen.
Thậm chí công và tội
Còn chưa rõ trắng đen.
*
Hôm nay thế là đủ
Lại cổ tích chứ gì?
Yên tâm, ông sẽ kể.
Một chuyện hay cực kỳ.
SỰ TÍCH TRÂU VÀNG HỒ TÂY
Ngày xưa, thời nhà Lý
Khoảng thế kỷ mười ba,
Có pháp sư tài giỏi
Sống ở thành Đại La.
Tên ông là Không Lộ,
Tương truyền người nhà trời,
Giáng trần xuống Đại Việt,
Giúp đời và giúp người.
Ngày ấy nước Đại Việt
Rất thiếu sắt và đồng
Đúc chuông, làm vũ khí,
Làm dụng cụ nhà nông.
Có bao nhiêu vàng bạc,
Đá quý và ngọc châu,
Người phương Bắc vơ vét
Đem hết về nước Tầu.
Nên một hôm, Không Lộ
Lên đường sang Yên Kinh,
Định dùng các phép thuật
Mang đồng về nước mình.
Ông đến gặp vua Tống,
Hỏi xin một ít đồng
Để đem về Đại Việt
Đúc tượng Phật Bắc tông.
“Tôi chỉ dám xin ít,
Chỉ đủ đựng túi này.”
Vua Tống thấy túi bé
Liền đồng ý cho ngay.
Rồi vua sai thái giám
Dẫn pháp sư vào kho,
Cho lấy gì cũng được -
Vàng, đồng hay sắt thô.
Miễn là chỉ được lấy
Đầy một túi, không hơn.
Pháp sư nước Đại Việt
Cúi thấp đầu cảm ơn.
Bước vào kho, Ngài thấy
Một con trâu bằng vàng,
To hơn cả trâu thật,
Nghếch mõm, đứng chặn ngang.
Vào sâu hơn tí nữa
Là một núi đồng đen
Còn quý hơn vàng bạc,
Thứ kim loại nhà thiền.
Rồi pháp sư Không Lộ
Giở phép thuật thần thông,
Mở chiếc túi nhỏ bé
Lấy hết nửa kho đồng.
Viên thái giám hoảng sợ,
Liền chạy báo nhà vua.
Vua Tống ra lệnh chém
Vì tội dám trêu đùa.
Nhà pháp sư Đại Việt
Có tài nghe tiếng người
Cách xa cả mấy dặm,
Dưới đất và trên trời.
Nên ông vội vàng rút,
Chân bước qua tường thành.
Vì đồng nhiều, nặng quá,
Nên không thể đi nhanh.
Chợt một đoàn người ngựa
Gấp rút đuổi theo ông.
Pháp sư cắm cổ chạy,
Bỗng gặp một dòng sông.
Ông lấy chiếc nón lá
Vứt xuống nước, và kìa,
Nó biến thành chiếc mảng
Đưa ông sang bên kia.
Quân nhà Tống bất lực
Đứng nhìn ông qua sông.
Còn pháp sư Không Lộ
Trở về thành Thăng Long.
Số đồng mang về được
Đúc chiếc đại hồng chung
Theo khuôn bằng đất sét,
To và đẹp vô cùng.
Cuối cùng, chuông được dóng.
Thật to và ngân vang.
Bay sang tận phương Bắc.
Vì đồng là mẹ vàng,
Nên trâu vàng nước Tống
Liền chạy về Thăng Long
Thấy thế, sư Không Lộ
Bảo ngừng đánh chuông đồng.
Ông nói nếu đánh tiếp,
Tất cả vàng nước Tàu
Sẽ sang Đại Việt hết,
Và lại sẽ đánh nhau.
Rồi chiếc chuông lập tức
Được lăn xuống sông Hồng,
Con trâu vàng thấy thế,
Liền lao theo mẹ đồng.
Nó vùng vẫy, quằn quại
Liên tục đúng ba ngày,
Thành một vùng sâu hoắm
Bây giờ là Hồ Tây.
Sau đó sư Không Lộ
Lặng lẽ bay về trời.
Ngài trở thành ông tổ
Nghề đúc đồng nhiều nơi.
Đời sau, dân sở tại
Xây một ngôi đền thờ
Để nhớ ơn Không Lộ -
Đền Quan Thánh bây giờ.
6
CÁC VUA TRẦN
Nhà Trần thay nhà Lý
Lo củng cố quốc phòng
Và chấn hưng kinh tế,
Đặc biệt là nghề nông.
Để trao đổi hàng hóa,
Chợ mọc lên khắp nơi,
Hầu như các làng xã,
Luôn nhộn nhịp, đông người.
Nghề thủ công phát triển,
Như nghề gốm, đúc đồng,
Nghề làm giấy, rèn dũa
Các công cụ nhà nông.
Triều đình sai các lộ
Phải đào sông, đắp đê,
Khai khẩn đất hoang hóa
Ngăn nước biển bằng kè.
Biết trước họa xâm lược,
Vua bắt quân thường xuyên
Học binh pháp, luyện võ,
Sử dụng giáo, cung tên.
Thời kỳ đầu cai trị,
Các ông vua đời Trần,
Là người hiền, tài giỏi,
Lo cho nước, cho dân.
Hôm nay ông sẽ kể
Chi tiết về hai ông.
Hai ông vua tài đức -
Thánh Tông và Nhân Tông.
TRẦN THÁNH TÔNG (1240 – 1290)
Thái sư Trần Thủ Độ,
Vốn là một quyền thần,
Thu xếp sự chuyển tiếp
Từ triều Lý sang Trần.
Năm Một Hai Hai Bốn
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con gái,
Rồi ép nàng lấy chồng.
Lấy cháu ông, Trần Cảnh.
Lý Chiêu Hoàng bấy giờ
Vừa mới lên bảy tuổi,
Trẻ con và ngây thơ.
Sau đấy ông lại ép
Nàng nhường ngôi cho chồng,
Cũng trẻ con, bảy tuổi,
Sau thành Trần Thái Tông.
Lớn lên, ông vua ấy
Là một vị vua hiền,
Người có công lãnh đạo
Cuộc chiến chống quân Nguyên.
Thái Tông và hoàng hậu
Mãi vẫn không có con.
Sợ không người nối dõi
Để ngôi báu trường tồn,
Thái sư Trần Thủ Độ
Ép vua lấy chị dâu,
Tức là vợ Trần Liễu,
Lúc ấy đang có bầu.
Rồi họ sinh Trần Hoảng,
Sau thành Trần Thánh Tông,
Một anh hùng dân tộc,
Chiến thắng giặc Nguyên Mông.
Trần Thánh Tông trị quốc
Trong vòng hai mươi năm.
Đất nước luôn thịnh trị,
Không có giặc ngoại xâm.
Ông đặc biệt chú ý
Lo cuộc sống cho dân,
Giảm phu phen, lao dịch,
Tạo điều kiện làm ăn.
Lê Văn Hưu viết sử
Theo chiếu lệnh của ông.
Cuốn Đại Việt sử ký
Cuối cùng đã viết xong.
Bộ sử ba mươi cuốn
Từ xưa đến Chiêu Hoàng.
Tiếc bây giờ thất lạc,
Nhưng là cuốn sử vàng.
Ông mở nhiều trường học,
Đúc chuông, xây chùa chiền,
Lập xưởng đúc vũ khí,
Đóng sẵn các chiến thuyền.
Khi còn nhỏ, Thái tử
Từng theo cha Thái Tông
Nhiều lần ngự thuyền chiến
Tham gia đánh Nguyên Mông.
Ông cho phép vương thất
Cùng dân nghèo khai hoang.
Các vương hầu từ đó
Nhiều người có điền trang.
Ông đều đặn xuống chiếu
Kén chọn các hiền tài
Sung vào nơi Quán, Các,
Không phân biệt trong ngoài.
Năm Một Hai Bảy Tám
Thánh Tông nhường ngôi vàng
Cho Trần Khâm, thái tử,
Để thành Thái thượng hoàng.
Ông lui về Cung Bắc
Rồi xuống tóc, nhập thiền,
Nghiên cứu về Phật Giáo,
Xây dựng nhiều chùa chiền.
Năm Một Hai Tám Bốn
Quân Nguyên lại tấn công.
Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn
Được phụ trách quốc phòng.
Quân Nguyên bị đánh bại
Lần thứ hai, thứ ba,
Đều có công đóng góp
Của Thánh Tông vua cha.
Năm Một Hai Tám Chín,
Khi kết thúc chiến tranh,
Thánh Tông về ở ẩn,
Làm thơ và du hành.
TRẦN NHÂN TÔNG (1258 – 1308)
Anh minh và nhân ái,
Đức vua Trần Nhân Tông,
Một ông vua vĩ đại,
Sống mãi cùng non sông.
Không chỉ vua, hơn thế,
Ngài còn là Phật Hoàng,
Lập Trúc Lâm Yên Tử,
Mở một kỷ nguyên vàng.
Ngài là con trai trưởng
Đức vua Trần Thánh Tông.
Trần Khâm là tên húy,
Anh hùng chống Nguyên Mông.
Năm Một Hai Bảy Tám,
Nhận ngôi từ vua cha,
Đúng lúc giặc Mông Cổ
Lại đe dọa nước nhà.
Thế lực giặc rất lớn,
Không ít người nản lòng,
Nhưng Ngài quyết chủ chiến,
Mở Hội nghị Diên Hồng.
Ngài là người đoàn kết
Sức mạnh toàn quốc gia.
Lòng tự hào dân tộc
Nhờ đó mà thăng hoa.
Được Thánh Tông giúp sức,
Ngài lãnh đạo nhân dân
Đánh thắng quân xâm lược
Liên tục cả hai lần.
Tháng Tư năm Ất Dậu,
Tức Một Hai Tám Năm,
Ngài sai Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Toản mang quân
Đánh giặc ở Tây Kết,
Suýt bắt sống Thoát Hoan,
Rồi sau đó thắng lớn
Ở cửa Hàm Tử Quan.
Năm Một Hai Hai Tám,
Sau trận thắng Bạch Đằng,
Mở Thái Bình Diên Yến,
Ba ngày ba đêm trăng.
Quân Ai Lao lúc đó
Cũng thường quấy nước ta.
Đích thân Ngài gươm giáo
Lên đường chinh phạt xa.
Cương quyết không để mất
Một tấc đất tiền nhân.
Bằng mọi giá phải giữ.
Ngài nói thế nhiều lần.
Để kết tình hòa hiếu,
Ngài gả con Huyền Trân,
Công chúa Ngài yêu quí,
Cho vua Chiêm Chế Mân.
Nước Đại Việt từ đó
Có thêm được mấy châu,
Đất rộng, người thưa thớt
Nhưng tài nguyên rất giàu.
Xong việc, năm Quý Tị,
Tức Một Hai Chín Ba,
Ngài nhường con ngôi báu,
Cùng gánh vác sơn hà.
Năm Một Hai Chín Chín,
Ngài xuất gia tu hành
Ở Vũ Lâm cung cấm,
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
Rồi Ngài đến Yên Tử,
Niệm kinh và tưới hoa,
Lập dòng thiền đất Việt,
Hiệu Trúc Lâm Đầu Đà.
Trong Trúc Lâm Tam Tổ,
Ngài là vị tổ đầu,
Pháp Loa là tổ tiếp,
Huyền Quang tổ về sau.
Năm Một Ba Không Tám,
Tức là năm Mậu Thân,
Ở Ngọa Vân, Yên Tử
Ngài từ giã cõi trần.
Ngài từ người thành Phật
Sau tám năm xuất gia.
Chết, xá lị được giữ
Như báu vật nước nhà.
Tro Ngài được an táng
Và hậu thế tôn thờ
Trong tháp lăng Quí Đức,
Tỉnh Thái Bình bây giờ.
*
Theo sử sách kể lại,
Một lần về Thăng Long,
Ngài rất buồn khi thấy
Con mình, Trần Anh Tông,
Trình Ngài bản danh sách
Hàng trăm quan nhỏ to
Mới được vua cất nhắc,
Tưởng Ngài vui, ai ngờ,
Ngài vứt tờ giấy ấy,
Vỗ vai con, và rồi
Nói: “Nước mình bé nhỏ,
Nhiều quan, lấy ai nuôi?”
Đó là bài học lớn
Về trị nước, yên dân.
Quan nhiều là gánh nặng,
Khiến đất nước nghèo dần.
*
Ngài là vua, là Phật,
Lại còn là nhà thơ.
Ba lăm bài tuyệt tác
Còn lưu đến bây giờ.
Đó là thơ tứ tuyệt
Và một số thơ Đường,
Về thiên nhiên, thiền Phật,
Về lẽ sống đời thường.
*
Theo sử sách kể lại,
Lên Yên Tử, dọc đường
Ngài bị ba tên cướp
Cầm giáo ra chặn đường.
Ngài ôn tồn hỏi chúng,
Mới biết nghèo, làm liều,
Rồi lấy, đem cho chúng
Suất cơm Ngài mang theo.
Khi đến một quả núi
Có hình như mâm xôi,
Định ăn thì sực nhớ
Suất cơm cho mất rồi.
Ngài đành nhờ Bảo Sái,
Người hầu luôn theo Ngài,
Xuống suối lấy nước uống
Thay cơm cho cả hai.
Về sau ở núi ấy,
Có ngôi chùa, trước sân
Ghi hai chữ “Cấm Thực”,
Tức là chùa không ăn.
*
Khi Ngài lên Yên Tử,
Một mình giữa rừng sâu,
Triều đình sợ Ngài khổ,
Cho cung nữ theo hầu.
Ngài không chịu, bảo họ
Nếu muốn, trở về quê.
Nhưng tất cả cung nữ
Nhảy xuống suối Hổ Khê
Để tỏ lòng thương mến
Và trung thành với Ngài.
Con suối ấy sau đó
Đổi thành Giải Oan Đài.
Khi tu ở Yên Tử,
Ngài thường leo hàng ngày
Lên đỉnh núi cao nhất,
Bốn mùa chìm trong mây.
Ngài cho xây ở đấy
Chiếc am nhỏ Ngọa Vân,
Nơi Ngài thiền, đọc sách,
Hưởng cái thú thanh bần.
*
Khi Ngài sắp viên tịch,
Trời mưa gió dầm dề.
Mồng Ba, tháng Mười Một,
Bỗng gió lặng, trời se.
Ngài liền hỏi Bảo Sái:
“Giờ này là giờ gì?”
“Bạch thầy, là giờ Tý”.
“Đã đến giờ ta đi”.
Nói xong, Ngài viên tịch,
Nằm nghiêng như Phật nằm,
Ở ngay trong am núi,
Nơi Ngài tu tám năm.
Pháp Loa, theo di chúc,
Thiêu xác Ngài, lát sau
Thấy nghìn viên xá lị
Lung linh đủ các màu.
*
Giờ các cháu nghe nốt
Chuyện con gái của Ngài
Là Huyền Trân Công chúa
Đã lấy chồng nước ngoài.
*
Mấy trăm năm về trước
Đất nước ta thân yêu
Có tên là Đại Việt,
Diện tích bé hơn nhiều.
Có một vương quốc cổ
Ở miền Trung ngày nay.
Chiêm Thành là tên gọi.
Rất hung hãn nước này.
Còn vùng đất Nam Bộ
Của chúng ta bây giờ
Lại thuộc một nước khác,
Cũng vào loại đáng ngờ.
Thời ấy vua Đại Việt
Có công chúa Huyền Trân,
Không thể nói xinh đẹp,
Mà phải nói tuyệt trần.
Nàng yêu một dũng tướng
Tên là Trần Khắc Chung.
Chàng có tài, còn trẻ,
Cũng yêu nàng vô cùng.
Nghe tiếng nàng xinh đẹp,
Vua Chiêm Thành, Chế Mân,
Liền cho người đem lễ
Dâng vua Việt, cầu thân.
Quà cầu hôn còn có
Hai vùng đất rất to,
Trù phú, dân thưa thớt,
Là Châu Lý, Châu Ô.
Công chúa buồn, đau khổ
Khi nghe tin bố mình
Quyết định gả con gái
Cho vua nước Chiêm Thành.
Yêu Khắc Chung tha thiết,
Nhưng nàng hiểu vua cha
Làm thế là chủ ý
Vì đại sự quốc gia.
Thế là nàng gạt lệ
Chia tay cùng Khắc Chung
Để lên đường Nam tiến,
Vượt muôn núi chập chùng.
Chỉ ít năm sau đó
Vua Chế Mân qua đời.
Theo tục lệ bản xứ,
Hoàng hậu phải là người
Lên dàn thiêu chịu chết
Để hồn đi theo chồng.
Một tục lệ man rợ
Của nhiều nước phương Đông.
Đắc Chung nghe tin dữ
Đem mấy nghìn tinh binh
Đi ngày đêm không nghỉ
Tới kinh đô Chiêm Thành.
Dẫu ở trong lòng địch,
Quân mình ít, địch đông,
Chàng cướp được công chúa,
Đưa về thành Thăng Long.
Từ đó họ hạnh phúc
Ở bên nhau trọn đời.
Gương Huyền Trân Công chúa
Sống mãi trong lòng người.
*
Như thế là ông kể
Đã quá dài hôm nay,
Nên thay cho cổ tích,
Ông có bài thơ này.
Ngắn mà rất ý nghĩa.
Một bài thơ ngụ ngôn
Về con Sói độc ác
Ăn thịt con Nai non.
LÝ DO
Xưa, có một con Sói
Uống nước suối rất ngon.
Cũng uống nước, phía dưới
Là một con Nai non.
Sói muốn bắt ăn thịt,
Chưa thấy lý do nào.
“Ê, thằng nhóc, - nó nói. -
Mày làm đục nước tao!”
“Dạ thưa bác, - Nai nói. -
Bác uống ở phía trên,
Còn em ở phía dưới,
Em đâu dám gây phiền!”
“Không cãi! Nhưng năm ngoái
Cũng vào thời gian này,
Mày chửi tao thậm tệ.
Tao phải ăn thịt mày!”
“Em mới sáu tháng tuổi.
Lúc ấy chưa ra đời,
Vậy làm sao có thể
Chửi mắng hay hại người?”
“Thế thì bố mày chửi.
Hắn chửi tao đuôi dài.”
Rồi con Sói độc ác
Đã ăn thịt con Nai.”
*
Đối với bọn láo lếu,
Một khi muốn làm gì,
Chúng luôn tìm được cớ.
Đúng như vậy, tin đi!
7
BA LẦN CHIẾN THẮNG GIẶC NGUYÊN MÔNG
Nước du mục Mông Cổ,
Đầu thế kỷ Mười Ba
Thành một đế quốc mạnh,
Diện tích rộng bao la.
Với quân đội hùng mạnh
Và thiện chiến, nước này
Xâm lược các nước khác
Khắp từ Đông sang Tây,
Gồm châu Âu, Tây Á,
Rồi như cơn cuồng phong,
Chúng đánh nhà Tây Hạ,
Xuống phía Nam, phía Đông.
Giặc Mông Cổ hiếu chiến.
Hễ chúng đi đến đâu
Là gieo rắc tàn phá,
Chết chóc và buồn đau.
Năm Một Hai Năm Bảy
Vua Mông Cổ liền sai
Một dũng tướng tài giỏi
Là Ngột Lương Hợp Thai
Đem ba vạn binh sĩ
Quyết tâm chiếm nước ta,
Tạo gọng kìm xâm lược
Nước Nam Tống Trung Hoa.
Để đạt mục đích ấy,
Thì việc làm đầu tiên
Là phải thắng Đại Việt
Để từ dưới đánh lên.
Tướng giặc cậy thế mạnh,
Trước khi cho xuất quân,
Sai sứ mang thư dọa
Và dụ hàng vua Trần.
Các vua Trần từ chối,
Còn nhốt sứ trong nhà.
Năm Một Hai Năm Tám,
Chúng đem quân đánh ta.
Hơn ba vạn binh sĩ,
Từ Vân Nam tràn sang.
Chúng làm cỏ mọi thứ,
Đồng ruộng và xóm làng.
Theo sông Thao, đường thủy,
Chúng đánh xuống Việt Trì.
Đến Vĩnh Phúc, quân giặc
Bị ta cản đường đi.
Hai vua của Đại Việt
Là Thái Tông, Thánh Tông
Dẫn quân ra nghênh chiến,
Nhưng do địch quá đông,
Trận ấy ở Vĩnh Phúc,
Quân Đại Việt thua to,
Thua cả trận Phù Lỗ
Ở bên sông Cà Lồ.
Các vua Trần quyết định
Rút khỏi thành Thăng Long,
Làm “nhà không vườn trống”,
Gây khó cho quân Mông.
Nhưng mười ngày sau đó,
Hai vua Trần cùng nhau
Đánh bại quân Mông Cổ
Trong trận Đông Bộ Đầu,
Giờ thuộc đất Hà Nội,
Quận Ba Đình ngày nay.
Năm Một Hai năm Tám,
Giặc rút, hướng Bắc - Tây.
Chỉ trong vòng nửa tháng
Cuộc chiến tranh xẩy ra
Và nhanh chóng kết thúc,
Phần thắng thuộc về ta.
*
Hăm bảy năm sau đó,
Tức Một Hai Tám Năm
Quân Nguyên Mông lần nữa
Đánh ta từ phía Nam.
Năm mươi vạn phía Bắc,
Mười vạn phía Chiêm Thành,
Chúng đưa quân ồ ạt,
Hòng đánh nhanh, thắng nhanh.
Biết trước dã tâm giặc,
Năm Một Hai Tám Hai,
Tức là ba năm trước,
Vua và các tướng tài
Gặp nhau ở Hội nghị
Có tên là Bình Than
Để bàn mưu giữ nước,
Chống bọn giặc hung tàn.
Hai năm sau, sứ Việt
Do Trần Phủ cầm đầu
Sang, tìm kế hoãn chiến,
Nhưng chẳng đi đến đâu.
Biết không thể hòa hoãn,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông
Bèn cho mở Hội nghị
Ở cung điện Diên Hồng.
Khách mời dự Hội nghị
Là các bậc cao niên
Gồm già làng, trưởng lão
Đến từ khắp mọi miền.
Vua mở yến chiêu đãi,
Rồi nói họa Nguyên Mông,
Xin các cụ cho biết:
Ta nên đánh hay không?
Vốn quanh năm chân đất,
Nay được vào hoàng cung,
Được vua ân cần tiếp,
Các cụ vui vô cùng.
Rồi trăm người như một,
Hô to cùng đức vua:
“Đánh! Sát thát! Sát thát!
Đánh đến khi giặc thua!”
Sau Hội nghị, các cụ
Về làng bản của mình
Khích lệ các con cháu
Cùng tham gia việc binh.
Hội nghị Diên Hồng ấy
Thể hiện được lòng dân,
Thề quyết tâm giữ nước
Cùng các vị vua Trần.
Vua Trần có thể quyết
Chủ chiến hay chủ hòa,
Nhưng tôn trọng dân chúng
Hỏi đại sự quốc gia.
Quân và dân như một,
Nhờ thế đã đồng lòng,
Ý chí cả dân tộc
Thắng được họa Nguyên Mông.
Một tấm gương trị nước
Giá trị đến ngày nay.
Muốn bảo vệ Tổ quốc,
Phải nhớ bài học này.
*
Như lần xâm lược trước,
Lần này quân Nguyên Mông
Thắng trận ở Vạn Kiếp,
Lạng Sơn và sông Hồng.
Sau khi vượt biên giới,
Chưa đầy hai mươi ngày,
Thăng Long bị chúng chiếm.
Tình thế quả rất gay.
Các vua Trần tạm rút
Về Nam Định, Ninh Bình,
Rồi sau theo đường biển,
Lên chốt vùng Quảng Ninh.
Ở phía Nam, quân giặc
Đánh ra từ Chiêm Thành,
Liên tiếp giành thắng lợi
Ở xứ Nghệ, xứ Thanh.
Đây cũng là vùng đất
Mà vua tôi nhà Trần
Đã rút về chốt giữ,
Đợi thời và yên dân.
Cũng giống như lần trước,
Quân Nguyên gặp khó khăn,
Vì “tiêu thổ kháng chiến”,
Người và ngựa thiếu ăn.
Tinh thần binh sĩ xuống,
Chỉ huy thì nản lòng.
Từ Thanh Hóa lúc ấy
Quân Đại Việt phản công,
Liên tiếp giành thắng lợi
Ở Hàm Tử, Chương Dương.
Thành Thăng Long giải phóng,
Chặn hết các ngả đường.
Quân Nguyên Mông tháo chạy.
Bị chặn ở sông Cầu.
Cánh phía Nam bị diệt
Ở Tây Kết, Khoái Châu.
Thế là một lần nữa,
Giặc Nguyên Mông lại thua.
Nhưng như cha ông nói:
“Đánh chết, nết không chừa”.
*
Quân Nguyên Mông đại bại,
Lo quân lương, chiến xa,
Đóng thêm nhiều tàu chiến,
Đánh Đại Việt lần ba.
Chúng chia làm ba cánh,
Từ Vân Nam, Quảng Tây
Và Quảng Đông - đường biển -
Hành quân gấp đêm ngày.
Đó là năm Tám Bảy,
Cuộc chiến cũng không lâu,
Từ tháng Chạp năm ấy
Đến tháng Tư năm sau.
Quân giặc năm mươi vạn,
Quân Trần chỉ hai mươi,
Nhưng ta hơn “địa lợi”
Và hơn cả “nhân thời”.
Lại giống hai lần trước,
Chúng chiếm được Thăng Long,
Nhưng thiếu lương, quân đói,
Binh lính lại nản lòng.
Hơn thế, vì bão biển,
Vì thuyền đi lạc đường,
Trần Khánh Dư lại đánh,
Nên mất hết quân lương.
Quân ta do thế yếu,
Về chốt ở Hải Phòng,
Thường tập kích Vạn Kiếp,
Đánh quân thủy trên sông.
Bị đói, bị chia cắt,
Giặc rút khỏi Thăng Long,
Co cụm ở Vạn Kiếp.
Quân Trần chưa tấn công,
Chúng đã chủ động rút,
Đi qua ngả Cao Bằng.
Còn toàn bộ quân thủy
Bỏ mạng trận Bạch Đằng.
Quân giặc lại thất bại,
Cả ba lần, vua Nguyên,
Thế tổ Hốt Tất Liệt,
Vẫn còn chưa chịu yên.
Hắn muốn đánh Đại Việt,
Chờ thời, chờ binh tình.
Có lần đã xuất phát,
Tướng chết mà hoãn binh
Năm Một Hai Chín Bốn,
Định xuất quân, bất ngờ
Hốt Tất Liệt ốm chết,
Mang mộng ấy xuống mồ.
Một trang sử chói lọi.
Ba lần thắng Nguyên Mông,
Một đế quốc tự mãn
Luôn thắng Tây, thắng Đông.
Đây là thắng lợi lớn
Của binh sĩ, nhân dân,
Của đức Trần Hưng Đạo
Và của các vua Trần.
*
Chắc các cháu đã biết
Trần Hưng Đạo Đại vương.
Một anh hùng dân tộc,
Một con người phi thường.
Ngày mai ông sẽ kể
Về vị anh hùng này.
Giờ thì như thường lệ,
Nghe cổ tích hôm nay.
SỰ TÍCH CON THẠCH SÙNG
Xưa, vợ chồng anh nọ
Có tên là Thạch Sùng,
Vừa nghèo vừa hà tiện,
Đến mức gọi điên khùng.
Họ sống trong hang đá
Để đỡ tiền làm nhà.
Cô vợ đi mót lúa,
Mót từng củ khoai hà.
Anh chồng thì đốn mạt,
Giả què để ăn mày.
Tối húi húi cân, đếm
Cái kiếm được trong ngày.
Họ mặc toàn giẻ rách,
Ăn toàn củ với rau,
Luôn bóp mồm bóp miệng,
Để ki cóp làm giàu.
Kiểu tích mây thành bão,
Họ có khá nhiều tiền,
Dù luôn mồm rên rỉ,
Giả nghèo và giả hèn.
Một hôm có thầy bói
Mơ thấy hai con trâu
Húc nhau dưới hồ nước
Đến sứt trán, vêu đầu.
Rồi hai con trâu ấy
Nối đuôi bay lên trời.
“Đó là điềm rất xấu, -
Lão nói với mọi người. -
Sắp tới trời mưa lớn,
Nước ngập hết ruộng đồng,
Dân tình sẽ chết đói,
Vậy biết mà đề phòng.”
Tin vào lời thầy bói,
Thạch Sùng liền vội vàng
Đem tiền mua lương thực
Về chất đầy trong hang.
Và rồi trời mưa thật,
Nước ngập lụt nhiều ngày,
Lúa, hoa màu chết hết,
Ai cũng thành ăn mày.
Thạch Sùng chờ lúc ấy
Đem thóc bán cho người.
Tất nhiên giá cắt cổ,
Mua một, hắn bán mười.
Thành ra sau vụ ấy
Hắn trở nên rất giàu,
Giàu hơn cả quan huyện,
Thậm chí hơn quan châu.
Rồi hắn đốt áo rách,
Thôi không ở trong hang,
Mà xây lâu đài lớn,
Ăn diện như ông hoàng.
Bao nhiêu năm khổ sở,
Chuyên hầu hạ người ta,
Giờ ăn sung mặc sướng,
Người ở đứng đầy nhà.
Hơn thế, hắn tàn nhẫn
Đuổi vợ hắn ra đường
Để lấy nàng công chúa
Vừa trẻ vừa dễ thương.
*
Một hôm, trong buổi lễ
Mừng phong tước quận công
Mà hắn mua, không rẻ,
Quan khách đến rất đông.
Cao hứng và tự đắc,
Hắn bèn thách mọi người
Có ai giàu bằng hắn,
Nhưng mọi người chỉ cười.
Thế mà có một vị,
Một quan to rất giàu,
Nhận lời thách của hắn.
Hai người hẹn hôm sau
Mời đích thân quan phủ
Và một số hiền tài
Làm chứng và phán quyết
Ai thực giàu hơn ai.
Luân phiên, hai người hỏi:
“Ông có cái này không?”
Nếu người kia không có,
Cuộc thi coi như xong.
Sau đó người thua cuộc
Đem hết gia tài mình
Trao cho người thắng cuộc,
Công bằng và phân minh.
Thạch Sùng tin mình thắng,
Nhưng hễ khoe cái gì,
Là ông kia đều có
Và đưa ra tức thì.
Nhưng hắn cũng giàu thật:
Nào chén ngọc, nồi đồng,
Nào bạc vàng, đá quí,
Không có gì là không.
Cuối cùng ông quan lớn
Cho người nhà bê ra
Một chiếc bát sành mẻ.
Thạch Sùng vội vào nhà
Tìm, tìm mãi không thấy
Một chiếc bát thế này.
Trước trong hang nhiều lắm,
Nhưng đập hết, tiếc thay.
Vậy là đành thua cuộc.
Từ một anh rất giàu,
Giờ trở thành tay trắng.
Ôi đau thật là đau.
Ông quan kia thắng cuộc
Đem gia tài Thạch Sùng
Phần phát cho dân chúng,
Phần góp làm của chung.
Thạch Sùng thì tiếc của,
Ngã xuống đất, chết ngay,
Biến thành con bò sát
Kêu “tiếc, tiếc” suốt ngày.
8
TRẦN HƯNG ĐẠO (1232 - 1300)
Tên thật là Quốc Tuấn,
Trần Hưng Đạo đại vương
Là một người đặc biệt,
Tài đức bậc phi thường.
Ông là nhà chính trị,
Nhà quân sự thiên tài,
Góp phần giữ độc lập
Cho thế hệ tương lai.
Ông là con Trần Liễu,
Cháu vua Trần Thái Tông.
Rất khôi ngô, tuấn tú,
Văn và võ tinh thông.
Ông lớn lên đúng lúc
Nước thọ địch bốn bề.
Giặc Nguyên Mông phương Bắc
Đang đêm ngày lăm le.
*
Năm Một Hai Năm Bảy
Đức vua Trần Thái Tông
Xuống chiếu giao chức vụ
Đại Tiết Chế cho ông.
Tiết chế là Tư Lệnh,
Theo cách hiểu thông thường.
Ông đem quân thủy bộ
Ra trấn giữ biên cương.
Sau lần đầu thắng giặc
Ông được đức vua Trần
Phong Quốc công Tiết chế,
Thống lĩnh cả ba quân.
Là vị tổng tư lệnh,
Năm tám tư, mùa đông,
Ông cho duyệt quân ngũ
Bến Hàng Than, sông Hồng.
Rồi bài “Hịch tướng sĩ”,
Một đệ nhất hùng văn,
Được ông đọc dõng dạc
Trước toàn bộ ba quân.
Chỉ một năm sau đó,
Quân Nguyên sang đánh ta.
Kể từ lần thứ nhất,
Hăm bảy năm trôi qua.
Đường bộ và đường thủy,
Hai mũi chúng tấn công.
Đường bộ từ phía Bắc,
Đường thủy từ phía đông.
Từ Nghệ An, Thanh Hóa,
Chúng còn vòng đánh ra.
Để bảo toàn lực lượng,
Cân nhắc địch và ta,
Trần Hưng Đạo quyết định
Tạm rút khỏi Thăng Long,
Làm vườn không nhà trống,
Quân và dân một lòng.
Vào tháng Năm năm ấy,
Từ căn cứ Thiên Trường,
Ông đánh trận Hàm Tử,
Rồi Tây Kết, Chương Dương...
Đội quân Nguyên hùng mạnh,
Như đám mây âm u,
Bị quân Trần quét sạch,
Xua hết bóng quân thù.
Năm Một Hai Tám Bảy
Quân Nguyên lại đánh ta,
Hai năm sau lần trước,
Giờ là lần thứ ba.
Đoàn thuyền lương quân địch
Bị diệt ở Vân Đồn.
Hay tin, Thoát Hoan sợ,
Rút chạy, vãi linh hồn.
Trần Hưng Đạo cho lính
Chốt giữ cửa Bạch Đằng.
Sau Vân Đồn, binh lính
Khí thế đang rất hăng.
Tháng Tư năm Tám Tám,
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi
Bị Đại Việt phá sạch,
Lương thực chẳng còn gì.
Tướng Thoát Hoan nghe thế,
Liền vội vã rút về,
Chui ống đồng mà rút,
Thật nhục nhã, ê chề.
*
Năm Một Hai Tám Chín,
Vua luận công, biểu dương,
Rồi phong Trần Hưng Đạo
Là Hưng Đạo Đại vương.
Ông lui về Vạn Kiếp
An hưởng nốt tuổi già,
Nơi ông được phong ấp,
Cách Chí Linh không xa.
Tháng Sáu năm Canh Tý,
Tức Một Ba Không Không,
Ông lâm bệnh, ốm nặng,
Đích thân Trần Anh Tông
Cùng nhiều đại quan khác
Về thăm hỏi tận nơi.
Nhưng hai tháng sau đó
Ông lặng lẽ qua đời.
Ông dặn con khi chết,
Hãy hỏa táng xác ông,
Đựng cốt trong lọ sứ,
Chôn giữa các gốc thông
Trong góc vườn An Lạc.
Chôn rồi, phủ đất lên,
Lại trồng cây như cũ,
Thật khéo và tự nhiên
Để trường hợp, nếu muốn,
Người của các đời sau
Không thể nào đoán biết
Mộ ông chôn ở đâu.
Ông được dân cả nước
Tôn là Đức Thánh Trần,
Lập đền thờ cúng viếng,
Hương khói đều quanh năm.
TRUYỆN VỀ TRẦN HƯNG ĐẠO
1
Năm Một Hai Ba Bảy,
Trần Thủ Độ bỗng nhiên
Ép cha ông, Trần Liễu,
Nhường vợ là Thuận Thiên
Cho chú ông, Trần Cảnh,
Lúc ấy ngự ngai vàng.
Mà Thuận Thiên công chúa
Là chị Lý Chiêu Hoàng.
Với cái thai ba tháng,
Thuận Thiên thành vợ vua,
Dẫu vua không đồng ý,
Cứ đòi bỏ lên chùa.
Trần Liễu thì uất ức,
Dấy binh nhưng bất thành.
Thủ Độ tha không giết,
Nhờ vua xin cho anh.
Trần Liễu tìm người giỏi
Làm thầy dạy con trai,
Tức là Trần Hưng Đạo,
Mong văn võ toàn tài.
Trước khi chết, ông dặn:
“Con hãy cố vì cha
Mà lấy cả thiên hạ,
Thế mới đẹp lòng ta.”
Tức là ý ông dặn
Con tiếm ngôi về sau.
Hưng Đạo không muốn thế,
Nhưng ghi nhớ trong đầu.
Khi đã nắm toàn bộ
Quyền lực vào tay mình,
Ông giả đò ướm hỏi
Thân tín trong triều đình.
Yết Kiêu và Dã Tượng
Nói là điều không nên.
Ông gật đầu khen ngợi,
Còn thưởng họ nhiều tiền.
Ông hỏi cả con trưởng
Và con thứ điều này.
Người con trưởng phản đối.
Anh con thứ khen hay.
Lập tức ông rút kiếm
Định chém đầu anh ta,
Bảo là phường nghịch tặc,
Không cho nhận là cha.
Rồi lệnh: khi ông chết,
Đậy nắp quan tài xong,
Mới cho anh con thứ
Được đi vào viếng ông.
*
Theo sử cũ ghi lại
Trần Quang Khải và ông
Có mối tư thù nhỏ
Vẫn canh cánh trong lòng.
Trong cuộc chiến lần một,
Trần Thánh Tông cầm quân,
Tể tướng Trần Quang Khải
Đi hộ giá vua Trần.
Thượng hoàng thì có ý
Khi Hưng Đạo ở nhà
Phong ông chức Tể tướng
Nhân Quang Khải đi xa.
Trần Hưng Đạo vội vã
Cúi đầu xin không nghe,
Nói rằng những việc ấy
Chờ Tể tướng quay về.
Một hôm, Trần Hưng Đạo
Đi thuyền tới Thăng Long,
Trần Quang Khải nghe tiếng,
Xuống thuyền chơi với ông.
Quang Khải vốn sợ tắm,
Hai người ăn uống xong,
Hưng Đạo tự cởi áo
Rồi kỳ lưng cho ông.
“Nhờ bác thăm thuyền chiến,
Tôi may mắn hôm nay
Được tắm cho Tể tướng.
Phải ghi nhớ ngày này!”
Trần Quang Khải cúi tạ:
“Được Quốc công kỳ lưng,
Thật là diễm phúc lớn,
Xin mở tiệc ăn mừng.”
*
Sử cũ cũng chép việc
Con trai Hưng Đạo vương
Lấy công chúa Thiên Thụy,
Thế mà trái đạo thường,
Trần Khánh Dư, tướng giỏi,
Lại thông dâm với nàng,
Khiến vua phải xuống chiếu
Đuổi về núi Phượng Hoàng.
Vậy mà khi Mông Cổ
Đánh Đại Việt lần ba,
Hưng Đạo quên chuyện cũ,
Cho vị tướng tài ba
Ra trấn thủ biên giới.
Trần Khánh Dư lập công,
Góp phần làm chiến thắng,
Suốt đời kính phục ông.
Hơn thế, Trần Hưng Đạo,
Đã chọn Trần Khánh Dư
Viết lời tựa cho cuốn
“Vạn Kiếp bí truyền thư”.
*
Năm Một Hai Tám Mốt,
Vua Nguyên sai Sài Xuân
Đi sứ sang Đại Việt.
Thằng này láo, có lần
Cứ ngồi trên lưng ngựa
Đi qua cửa Dương Minh.
Hắn còn dùng roi cứng
Quất vào đầu vệ binh.
Tể tướng Trần Quang Khải
Đến chào hắn, vậy mà,
Bất chấp cả nghi lễ,
Hắn nằm khểnh, không ra.
Hay tin, Trần Hưng Đạo,
Mặc áo vải, cạo đầu,
Đi thẳng đến quán sứ
Xem binh tình ra sao.
Thế mà lạ, lập tức
Hắn đứng dậy, cúi mình
Lễ phép mời uống nước,
Đàm đạo khá thân tình.
Một thằng hầu của hắn
Cầm mũi tên, đứng sau,
Chọc vào Trần Hưng Đạo
Đến chảy cả máu đầu.
Nhưng ông vẫn bình thản,
Nét mặt không đổi thay.
Lúc về, Sài Xuân tiễn,
Còn nhắc mãi chuyện này.
*
Thay cho cổ tích Việt,
Ông sẽ kể bây giờ
Một chuyện của nước Nhật,
Cảm động và bất ngờ.
Câu chuyện này ngày bé
Ông nghe từ mẹ ông.
Thật hay và ý nghĩa,
Nhưng cũng thật đau lòng.
TÌNH MẪU TỬ
Ở nước Nhật ngày trước
Có câu chuyện thế này,
Cảm động và ý nghĩa,
Lưu truyền đến hôm nay.
Hai ông bà già nọ,
Tốt bụng và rất hiền,
Sống bằng nghề đào sắn
Rồi luộc, bán lấy tiền.
Nhà của họ trong núi,
Chỉ là túp lều tranh.
Đã mấy hôm bão tuyết,
Tuyết rơi dày xung quanh.
Khuya, có ai gõ cửa.
Ai nhỉ, vào giờ này?
Ông lão đi ra mở,
Ngọn đèn mờ trên tay.
Đó là một thiếu phụ,
Hai hố mắt rất sâu,
Mặt trắng bệch như tuyết,
Chiếc khăn đen trùm đầu.
Cô mua hai xu sắn
Rồi vội vã bỏ đi.
Ông lão mời vào sưởi,
Nhưng không chịu nói gì.
Đêm thứ hai cũng thế,
Rồi thứ ba, thứ tư,
Đúng giờ, cô lại đến,
Và chỉ mua hai xu.
Hai xu thì quá ít.
Sao lại mua giờ này?
Muốn hỏi mà không được,
Cái cô này thật hay.
Đêm thứ năm, cô đến,
Mua sắn rồi lại đi,
Vội vã như lén lút
Hay che dấu điều gì.
Còn ông già bán sắn,
Tò mò nhìn theo cô,
Chợt thấy tay đang giữ
Chỉ chiếc lá vàng khô.
Không phải tiền mà lá!
A, dám lừa dân nghèo!
Giận dữ, ông gọi vợ,
Rồi hai người đuổi theo.
Họ đi theo cô gái
Đến nghĩa trang, ở đây
Họ mất dấu, thật lạ,
Tuyết rơi, lúc một dày.
Xung quanh thật yên tĩnh,
Tuyết cứ rơi dập dồn.
Chợt họ nghe đâu đó
Có tiếng khóc trẻ con.
Trẻ con? Nơi nghĩa địa?
Thật khó tin điều này,
Nhưng quả có tiếng khóc,
Mà gần, chỉ đâu đây.
Ngạc nhiên và sợ hãi,
Họ liền chạy về nhà,
Vào chùa gặp sư cụ
Rồi mời sư cùng ra.
Đứng cạnh một ngôi mộ,
Sư cụ nói, chắp tay:
Tuần trước có bà chửa
Chết chôn nghĩa trang này.
Rồi ba người xúc tuyết,
Đào đất, họ giật mình
Khi quan tài được mở,
Thấy đứa bé mới sinh
Đang nằm bên cạnh mẹ.
Mẹ nó như ngủ say,
Còn nó vừa ọ ọe,
Vừa mút miếng sắn dây.
Nghĩa là bà mẹ trẻ
Cả khi phải lìa đời,
Vẫn muốn con mình sống,
Khôn lớn để thành người.
Những đồng xu bằng kẽm
Người ta nhét miệng cô,
Đem mua sắn, xu hết,
Đành mua bằng lá khô...
Vị sư già tốt bụng
Ôm đứa bé vào lòng.
Sau này nó khôn lớn
Sẽ trụ trì thay ông.
Thiêng liêng tình mẫu tử,
Thiêng liêng và xót xa.
Sư trụ trì thầm nghĩ.
Nam mô A Di Đà...
9
CÁC DANH TƯỚNG ĐỜI TRẦN
Hôm nay, như đã hứa,
Ông kể về hai người,
Hai danh tướng lỗi lạc,
Sống mãi trong lòng người.
Đó là Trần Bình Trọng,
“Thà làm quỉ nước Nam
Hơn làm vương đất Bắc”.
Quyết chết, không đầu hàng.
Người thứ hai ông kể
Là một người hiền minh -
Tể tướng Trần Quang Khải,
Sử sách mãi lưu danh.
Còn nhiều anh hùng khác
Ở triều đại nhà Trần.
Các cháu cứ đợi đấy,
Có dịp, ông kể dần.
TRẦN BÌNH TRỌNG (1259 – 1285)
Danh tướng Trần Bình Trọng,
Trong kháng chiến lần hai
Chống Nguyên Mông xâm lược,
Đã đem hết sức tài
Bảo vệ hai chủ tướng
Là Thái Tông, Thánh Tông,
Rồi bị giặc bắt sống,
Son sắt một tấm lòng.
Lần ấy giặc Mông Cổ
Đem năm mươi vạn quân
Chia làm hai mũi lớn
Cùng tấn công nhà Trần.
Sau trận đầu thất bại,
Tiết chế Hưng Đạo vương
Quyết định phải tạm rút
Về căn cứ Thiên Trường.
Ông giao Trần Bình Trọng
Một nhiệm vụ nặng nề:
Phải chốt giữ Thiên Mạc
Và các khu liền kề,
Để cầm chân quân địch,
Và giúp hai vua Trần
Cùng chỉ huy kháng chiến,
Rút bí mật, an toàn.
Thoát Hoan sai tướng giỏi
Là Khoan Triệt, Lý Hồng,
Đem tinh binh truy đuổi,
Cả đường bộ, đường sông.
Chính ở bãi Thiên Mạc,
Huyện Khoái Châu, Hưng Yên,
Ông đã cầm chân giặc
Liên tục mấy ngày liền.
Do vậy, giặc mất dấu
Đường rút của vua Trần.
Ta bảo toàn lực lượng
Để phản công khi cần.
Tuy nhiên, trong trận ấy,
Thế giặc mạnh và đông,
Quân ta dần đuối sức,
Giặc bắt sống được ông.
Chúng tìm cách mua chuộc
Để ông khai việc binh.
Ông nhất quyết không chịu,
Còn giục chúng giết mình.
Trần Bình Trọng lần ấy
Để lại cho đời sau
Một câu nói nổi tiếng,
Rằng thà bị chém đầu,
Thà nước Nam làm quỉ
Còn hơn được làm vương
Ở nước giặc phương Bắc.
Một khí phách quật cường.
Biết không thể khuất phục,
Cuối cùng chúng giết ông,
Năm ông hăm sáu tuổi.
Xác quẳng xuống dòng sông.
*
Dòng dõi Trần Bình Trọng
Là từ Lê Đại Hành,
Sinh Hà Nam, nhưng gốc
Huyện Thọ Xuân, xứ Thanh.
Ông xuất thân quí tộc.
Sử chỉ nói vợ ông
Là công chúa Thụy Bảo,
Trước có một đời chồng.
Con ông thành hoàng hậu,
Mẹ vua Trần thứ năm,
Tức Minh Tông hoàng đế,
Có đức và có tầm.
Tài liệu sử cho biết
Rằng tướng Lê Phụ Trần,
Nhờ có công chống giặc,
Trần Thái Tông ban ân
Bằng cách gả Chiêu Khánh,
Tức vợ vua, cho ông,
Sau sinh Trần Bình Trọng.
Đúng là thật lòng vòng.
Dù con ai chăng nữa,
Thì ông cũng là người
Nêu tấm gương trung liệt
Về lẽ sống ở đời.
TRẦN QUANG KHẢI (1241 – 1294)
Ông là một quí tộc,
Một đại thần nhà Trần,
Làm đến chức Tể tướng,
Đánh quân Nguyên ba lần.
Trần Thái Tông là bố,
Mẹ là Lý Ngọc Oanh.
Trong nhà, ông phải gọi
Trần Thánh Tông là anh.
Một lần, khi còn nhỏ,
Ông ốm nặng, Thái Tông
Để áo bào, gươm báu
Cạnh giường bệnh của ông,
Và nói: “Hãy khỏi bệnh.
Nếu khỏi, ta sẽ trao,
Hai thứ này quí giá -
Gươm báu và áo bào.”
Lần ấy, ông khỏi bệnh,
Quả thật vua cho ông
Chiếc áo ngài đang mặc,
Còn gươm báu thì không.
Trần Quang Khải từ bé
Được phong Chiêu Minh Vương,
Lê Văn Hưu dạy dỗ,
Thông tuệ bậc khác thường.
Năm Một Hai Năm Tám,
Vua cho cưới Phụng Dương,
Em gái nuôi, sau đó
Ban ấp ở Thiên Trường.
Năm Một Hai Bảy Mốt
Ông đã là đại thần,
Chức Tướng quốc Thái úy,
Cao hơn Đức thánh Trần.
Khi quân Nguyên xâm lược,
Ông theo lệnh vua cha,
Vào Nghệ An trấn giữ
Không cho giặc đánh ra.
Rồi ông lập công lớn
Trận đánh bến Chương Dương.
Vua xếp ông cao nhất
Khi ban thưởng, tuyên dương.
Ông và Trần Hưng Đạo,
Theo sử, có bất hòa.
Điều ấy rất nghiêm trọng
Với hưng vong nước nhà.
Hưng Đạo, như ta biết,
Đã chủ động làm hiền,
Kỳ lưng cho Quang Khải,
Khi ông xuống thăm thuyền.
Sau lần ấy, hai vị
Bỏ thù riêng, cùng nhau
Gắng công lo việc nước,
Hai vị quan hàng đầu.
Trần Quang Khải nổi tiếng
Còn là một thi nhân.
Ông viết khi rỗi rãi,
Đẹp ý, đẹp cả vần.
*
Nào, bây giờ cổ tích -
Ông có một túi đầy,
Kể cả năm chưa hết,
Mà toàn cổ tích hay.
Nhân tiện ông chiêu đãi
Món dưa hấu hôm nay,
Vừa ăn, ông vừa kể
Sự tích loại quả này.
SỰ TÍCH QUẢ DƯA HẤU
Vào thời xa xưa ấy
Đất nước còn hoang sơ,
Chưa có nhiều quả ngọt,
Trái thơm như bây giờ.
Vua Hùng thứ mười bảy
Có một người con nuôi
Là An Tiêm hoàng tử,
Giỏi, thông minh hơn người.
Vua yêu chàng nhất mực,
Thường ban thưởng nhiều quà.
Thế mà chàng, thật lạ,
Không cảm ơn vua cha.
Ai cũng thích quà tặng,
Nhưng chàng thì khác người.
Chàng nói: “Quà được tặng
Là món nợ ở đời.”
Vua biết chuyện, tức giận
Bèn nói với quần thần:
“Vậy thì ta để nó
Phải tự mình kiếm ăn!”
Thế là một sáng nọ
Cả gia đình, vợ chồng
Bị lính bắt lập tức
Phải ra đi tay không.
Một thanh kiếm cùn gỉ
Phải năn nỉ nhiều lần
Mới được chúng cho phép
Mang theo để phòng thân.
Có một chiếc thuyền lớn
Đang đợi sẵn hai người.
Rồi thuyền đi ra biển,
Mênh mông nước và trời.
Gặp gió, thuyền lướt nhẹ
Đi không nghỉ một ngày
Thì đến hòn đảo nhỏ
Chỉ toàn cát với cây.
Hai người bị bỏ lại
Với năm ngày thức ăn
Ở hòn đảo hoang vắng,
Không nhà cửa, không dân.
Chàng An Tiêm và vợ
Bế con đứng nhìn theo
Bóng con thuyền bé nhỏ
Mất hút giữa nắng chiều.
Thế là họ ở lại
Trên hoang vu đảo này,
Không nhà cửa, đồ đạc,
Biết sống sao qua ngày?
Giỏi lo toan, tháo vát,
An Tiêm đưa gia đình
Vào hang núi ở tạm,
Còn chàng thì một mình
Cầm kiếm dạo quanh đảo.
Đảo toàn đá chỏng chơ,
Chỉ vài loài chim biển
Và cỏ dại lơ thơ.
Tìm mãi, chàng cũng thấy
Mọc dại, không ai trồng,
Một ít rau và trái
Ăn tạm, đỡ đói lòng.
Ngày lại ngày, từ đó
Vợ xuống biển mò ngao.
Cá nhiều, không có lưới,
Chẳng bắt được con nào.
Chàng và thằng con lớn
Làm bẫy bẫy chim rừng
Cũng có hôm bẫy được,
Đốt lửa, nướng thơm lừng.
Lúc đầu thật vất vả
Cùng muôn vàn khó khăn,
Nhưng họ vẫn không nản,
Cuộc sống khá hơn dần.
Bỗng ngày nọ, chàng thấy
Có một con chim gì
Đậu ngoài bãi, chàng đến
Nó liền vội bay đi.
Con chim lớn bỏ lại
Miếng dưa bằng bàn tay.
Vì thấy chim ăn được,
Chàng ăn miếng dưa này.
Ôi, thật mát, thật ngọt!
Chàng nhặt lấy hạt dưa
Đem vùi xuống đất ẩm.
Mấy hôm sau gặp mưa,
Hạt nẩy mầm xanh tốt,
Rồi hé nụ, đâm hoa,
Rồi cuối cùng kết trái,
Thành vườn dưa xùm xòa.
Rồi đến mùa thu hoạch.
Cả nhà bổ dưa ăn.
Dưa đỏ và ngọt lịm,
Quà tặng của thánh thần.
Ruộng dưa chàng thêm rộng.
Được chăm sóc hàng ngày,
Trái càng sai, càng lớn,
Vỏ càng mỏng, ruột dày.
Chàng thường thả xuống biển
Những trái dưa của mình,
Mong ai đấy vớt được,
Dù hy vọng mong manh.
Thế mà rồi bất chợt
Có con thuyền ghé vào.
Họ muốn biết dưa ấy
Ai trồng, và nơi nào.
Từ đấy, đem dưa hấu
Chàng đổi lấy thức ăn
Và những đồ vật khác
Mà gia đình đang cần.
Ngày càng nhiều người biết,
Thuyền tấp nập vào ra.
Cuộc sống thành dễ chịu,
Còn dựng được ngôi nhà.
*
Vua Hùng Vương mười bảy,
Thường hay nhớ thương chàng,
Vẫn nghĩ chàng và vợ
Đã chết ngoài đảo hoang.
Một hôm, đang ngồi nghỉ,
Có người từ phương xa
Dâng vua quả dưa lạ.
Ngài ăn, khen xuýt xoa.
Hỏi thì biết dưa ấy
Vợ chồng An Tiêm trồng,
Vua trầm tư suy nghĩ,
Rồi sai đem thuyền rồng
Và quân lính ra đảo
Đón họ về kinh đô,
Cùng những quả dưa hấu
Rất tròn và rất to.
Từ đấy, dân khắp nước
Trồng loại dưa quí này.
Nhờ An Tiêm và vợ,
Ta có nó ngày nay.
Nhờ phù sa bồi đắp
Thành đất liền, núi non,
Hòn đảo hoang ngày ấy
Nay là huyện Nga Sơn,
Có lẽ cũng vì thế
Mà dưa hấu ở đây
Thuộc vào loại ngon nhất,
Ngọt, vỏ mỏng, ruột dày.
10
BỐN NHÂN VẬT NỔI TIẾNG ĐỜI TRẦN
Đất nước ta thời ấy,
Rất nhiều người tài, hiền,
Trong giáo dục, chính trị
Và y học cổ truyền.
Hôm nay ông sẽ kể
Chuyện ông tổ ngành y
Là Thiền sư Tuệ Tĩnh,
Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi,
Tam tổ Lý Đạo Tái,
Chu Văn An, người thầy,
Những người rất nổi tiếng
Trong giai đoạn sử này.
TUỆ TĨNH (mất năm 1330)
Tuệ Tĩnh là pháp hiệu.
Ông là một thiền sư,
Tên thật Nguyễn Bá Tĩnh,
Tài giỏi và nhân từ.
Ông được tôn ông tổ
Ngành Nam dược nước ta.
Tiếc ông bị giặc bắt,
Sớm đưa về Trung Hoa.
Ông là thầy thuốc giỏi,
Lại vừa một nhà sư,
Viết “Nam dược thần hiệu”
Và “Hồng nghĩa giác tư”.
Ông xuất thân nghèo khổ,
Gia cảnh rất bình thường,
Quê ở xã Cẩm Vũ,
Huyện Cẩm Giàng, Hải Dương.
Khi mới lên sáu tuổi,
Bố mẹ ông qua đời,
Chùa Hải Triều, Giao Thủy,
Nuôi ông lớn thành người.
Năm tròn hăm hai tuổi,
Ông đậu Thái học sinh,
Vẫn ở chùa nghiên cứu,
Bốc thuốc giúp dân lành.
Đến năm ba mươi tuổi,
Ông về chùa Yên Trang,
Làm trụ trì ở đấy,
Nay thuộc huyện Cẩm Giàng.
Tuệ Tĩnh đỗ Hoàng giáp
Năm Một Ba Tám Năm,
Bị đem cống Trung Quốc
Khi tuổi đời năm lăm.
Ông tiếp tục bốc thuốc,
Nổi tiếng, dù ẩn cư.
Vua Minh yêu tài đức,
Phong “Đại y Thiền sư”.
Ông qua đời ở đấy,
Hàng nghìn dặm xa nhà.
Tài, không được cống hiến,
Ngẫm, chạnh lòng xót xa.
Tuệ Tĩnh đặt nền móng
Ngành y dược nước nhà,
Xây dựng thành nếp nghĩ -
Người ta dùng thuốc ta.
Nhờ ông mà cả nước,
Mỗi gia đình, đền chùa,
Có một vườn thuốc nhỏ
Cung cấp thuốc bốn mùa.
Nhiều lương y nổi tiếng
Làm tiếp việc của ông
Hoàng Đôn Hòa là một,
Dưới triều Lê Thế Tông.
Ông dùng các toa thuốc
Của Tuệ Tĩnh sư thiền
Chữa sốt rét cho lính,
Dập dịch vùng Thái Nguyên.
Có một đồ đệ khác,
Là Hải Thượng Lãn Ông,
Viết “Lĩnh Nam Bản Thảo”
Về thuốc Nam, thuốc Đông.
Ông trích nhiều toa thuốc
Của Tuệ Tĩnh Thiền sư,
Cả phần dưỡng sinh khí
Bằng hít thở từ từ.
Ở quê hương Tuệ Tĩnh,
Để ghi nhớ công ơn,
Có đền Thuốc Nam Thánh,
Và đền ở Tân Sơn.
Ông cũng được thờ cúng
Ở Thủy Nguyên, Hải Phòng,
Làm Thành hoàng một xã,
Có cả miếu thờ ông.
Đại danh y dân tộc,
Chết từ lâu, xa nhà,
Triết lý ông vẫn sống:
Người ta dùng thuốc ta!
MẠC ĐỈNH CHI (1280 – 1346)
Tương truyền có bà nọ,
Bị khỉ hiếp, sau này
Đẻ đứa con xấu xí,
Ngắn chân và dài tay.
Nhưng đứa bé, bù lại,
Lại thông minh cực kỳ,
Rất có tài ứng đối.
Đó là Mạc Đỉnh Chi.
Chồng bà giết con khỉ,
Chôn, rồi mối đùn to,
Biết là đất phát tướng,
Nên khi chết dặn dò
Các con cháu từ đó
Chôn xác người thân mình
Ngay trên khu đất ấy,
Sẽ có ngày hiển vinh.
Cuốn “Công dư tiệp ký”
Nói rằng vua nhà Nguyên
Thấy Chi tài mà xấu,
Chắc phải có nhân duyên,
Bèn cho thầy địa lý
Sang dò hiểu xem sao,
Và quả thầy tìm đến
Mộ con khỉ năm nào.
Có thể chuyện ấy đúng,
Cũng có thể là sai,
Nhưng người này quả thật
Là một bậc hiền tài.
Dòng họ ông sau đó
Cũng vinh hiển vô cùng.
Có vị vua nổi tiếng,
Là vua Mạc Đăng Dung.
Ông người làng Lũng Động,
Huyện Nam Sách, Hải Dương,
Tướng mạo không đẹp lắm,
Nhưng trí tuệ phi thường.
Năm một ba không bốn,
Ông đỗ đầu, tuy nhiên,
Vua phải duyệt tướng mạo,
Mới cho làm Trạng nguyên.
Thấy ông thấp và bé,
Đức vua Trần Anh Tông,
Không muốn cho đỗ Trạng,
Nhưng đọc thơ của ông,
Cuối cùng vua đồng ý,
Lại còn ban lời khen
Bài “Sen trong giếng ngọc”,
Tức là “Ngọc tỉnh liên”.
Ông được giữ thư khố,
Có tài và nhân từ,
Được triều đình yêu mến
Rồi thăng chức Thượng thư.
Hai ông tổ, đời Lý,
Làm thượng thư như ông:
Mạc Hiển Tích - bộ Lại,
Mạc Kiến Quan - bộ Công.
Ông hai lần đi sứ
Sang triều đình Bắc phương,
Áp đảo về hùng biện,
Nổi bật tài văn chương,
Đến mức Nguyên Hoàng đế
Phải công nhận tài hiền,
Lấy bút tặng bốn chữ,
Là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.
Nhờ thế mà uy tín
Đại Việt được nâng cao.
Sứ thần các nước khác
Gặp đâu cũng cúi chào.
Có khá nhiều giai thoại
Về tài đối của ông.
Đi sứ, nhờ tài ấy
Mà làm tốt việc công.
Văn chương là một chuyện.
Chuyện khác tốt hơn nhiều.
Đó là ông liêm khiết,
Thượng thư mà vẫn nghèo.
Nghèo đến mức, lần nọ,
Người của vua Minh Tông
Bỏ mười quan tiền cũ
Trước cửa thềm nhà ông.
Thế mà ông, sáng dậy,
Đem tiền ấy vào cung.
Vua cười: “Không ai nhận,
Khanh cứ lấy mà dùng.”
Một tấm gương sáng chói
Về liêm khiết, công minh,
Mà chúng ta, con cháu,
Phải biết để soi mình.
HUYỀN QUANG LÝ ĐẠO TÁI (1254 – 1334)
Huyền Quang Lý Đạo Tái
Là bậc đại thiền minh,
Người Vạn Tải, Nam Sách,
Huyện Gia Bình, Bắc Ninh.
Gia đình ông nghèo khổ,
Bị họ hàng chê cười,
Nên bố mẹ quyết chí
Làm ăn ở đất người.
Ông không được đi học,
Thường lên chùa đứng rình
Để nghe lỏm, học mót,
Mà thuộc chữ, làu kinh.
Lúc ông hai mươi tuổi,
Năm Một Hai Bảy Hai,
Đỗ Trạng nguyên, đầu bảng,
Nổi tiếng về văn tài.
Sau đó ông được bổ
Làm trong viện Nội hàn,
Soạn văn, tiếp sứ Bắc,
Rồi treo áo từ quan.
Vua trọng tài, đức độ,
Gả con gái cho ông,
Nhưng ông muốn thoát tục
Nên cúi bẩm, xin không.
Ông qui y, theo Phật,
Tu ở chùa Hoa Yên
Ở vùng núi Yên Tử,
Nhanh chóng thành sư thiền.
Trước đấy, như ta biết,
Đức vua Trần Nhân Tông
Lên Yên Tử tu luyện,
Lập Trúc Lâm Thiền tông.
Năm Một Ba Không Tám
Ngài viên tịch, Pháp Loa
Nhận từ Ngài y bát
Của dòng Thiền nước nhà.
Năm Một Ba Một Bảy,
Lúc viên tịch, Pháp Loa
Truyền cho ông y bát,
Thành vị Tổ thứ ba.
Vua Anh Tông, lần nọ,
Đã dùng kế mỹ nhân
Để thử thách đạo hạnh
Của Huyền Quang người trần.
Tất nhiên vua thất bại,
Lòng hối hận, đức vua
Bắt mình phải vất vả
Leo lên núi, vào chùa
Xin lỗi Ngài, sau đó
Phong Ngài làm quốc sư,
Một trí tuệ sáng láng,
Một cõi tâm nhân từ.
Năm Một Ba Ba Bốn,
Ở tuổi đời tám mươi,
Ngài viên tịch, để lại
Một tấm gương cho đời.
Huyền Quang Lý Đạo Tái
Còn là một thi nhân
Tinh tế và sâu sắc
Về cõi Phật, đời trần.
May mắn còn giữ được
Một số bài của ông
Mà khi đọc không thể
Không xao xuyến nỗi lòng.
CHU VĂN AN (1292 – 1370)
Chu Văn An tên thật
Đơn giản chỉ Chu An,
Tên chữ là Linh Triệt.
Khi về ẩn, an nhàn
Ông lấy hiệu Tiều Ẩn -
Ông tiều thích ngủ khì,
Quê ở xã Thanh Liệt,
Nay thuộc huyện Thanh Trì.
Ông là người chính trực,
Từng đỗ Thái học sinh,
Nhưng ở nhà dạy học,
Chọn hai chữ yên bình.
Trường mở, đông người học,
Bên kia bờ sông Tô.
Ông có công truyền bá
Các tư tưởng Đạo Nho.
Không ít các trò học
Thành nổi tiếng sau này.
Phạm Sư Mạnh, Lê Quát
Vẫn cung kính thăm thầy.
Nhờ có tài, có đức,
Ông được Trần Minh Tông
Mời làm quan Tế tửu
Quốc Tử Giám, trường công.
Ông thành thầy dạy học,
Của vị vua tương lai
Là Thái tử Trần Vượng,
Dạy cả đức lẫn tài.
Sau khi Minh Tông mất,
Vua Dụ Tông lên thay,
Một ông vua hèn yếu,
Thích đàn hát suốt ngày.
Vua ham chơi như thế
Nên quan nịnh lộng quyền,
Triều chính không ổn định,
Lòng dân cũng không yên.
Ông dâng “thất trảm sớ”,
Tức sớ chém bảy người.
Vua không nghe, thất vọng,
Ông về nhà ngồi chơi.
Ông lui về ở ẩn
Ở vùng núi Phượng Hoàng,
Viết sách và dạy học
Cho lũ trẻ trong làng.
Cuộc đời ông thanh bạch,
Liêm khiết và chí công
Được xem là gương sáng
Vào thời đại của ông.
Ông còn viết nhiều sách:
Thơ gồm hai tập dày,
Chữ Nôm và chữ Hán,
Tinh tế và rất hay.
Cả Tứ “Thư thuyết ước”
Cũng là sách của ông,
Ngoài ra còn mấy cuốn
Thuốc Bắc và thuốc Đông.
Ông là một trong ít
Các học giả, hiền nho
Được thờ ở Văn Miếu
Mãi cho đến bây giờ.
Hiện còn có lăng mộ
Và ngôi đền thờ ông
Nằm lưng chừng Núi Phượng,
Người đến viếng rất đông.
*
Vậy là ta nghe hết
Chuyện về bốn nhân tài.
Có chuyện này kể nốt,
Rồi ta hẹn ngày mai.
CHUYỆN NGƯỜI HỌC TRÒ
CỦA CHU VĂN AN
Chu Văn An mở lớp
Ngay bên bờ sông Tô.
Lớp, nghe nói, không lớn,
Nhưng rất đông học trò.
Trong số học trò ấy,
Ông để ý một người,
Sáng nào cũng đến sớm,
Ghi chép kỹ từng lời.
Ông khen, hài lòng lắm,
Nhưng không biết người này,
Con nhà ai, giàu, đói
Và từ đâu đến đây.
Bèn cho người lặng lẽ
Theo anh kia về nhà,
Nhưng khi đến Đầm Đại
Thì biến mất bất ngờ.
Cái Đầm Đại ngày ấy
Nhiều sen và vân sam,
Bây giờ vẫn chưa lấp.
Đó là hồ Linh Đàm.
Mọi người lấy làm lạ,
Nhưng sáng ngày hôm sau,
Người học trò vẫn đến,
Kinh sử thuộc làu làu.
Một lần, trời hạn lớn,
Lúa ngoài đồng cháy khô.
Chu Văn An buồn bã
Nói với các học trò,
Rằng nếu ai có thể
Thì làm mưa giúp dân.
Người học trò lạ ấy
Đứng trước thầy, phân vân:
“Thưa thầy, con làm được,
Tuy trái với lệnh trời.
Nhưng con nghĩ thà chết,
Không thể không giúp người.”
Rồi người ấy thong thả
Bước ra giữa sân trường,
Sau khi đọc thần chú,
Vung mực khắp bốn phương.
Khi nghiên mực đã cạn,
Anh tung nó lên cao.
Lập tức trời nổi gió
Rồi mưa xối ào ào.
Trời mưa suốt đêm đó.
Phía Đầm Đại chớp lòa
Rồi sấm nổ liên tục.
Sáng tỉnh dậy, người ta
Thấy giữa hồ trôi nổi
Một con thuồng luồng to.
Chu Văn An vội vã
Cho gọi đám học trò
Vớt nó lên chôn cất.
Rồi dân lập miếu thờ.
Cái mộ ấy, nghe nói,
Còn tận đến bây giờ.
Theo truyền thuyết kể lại,
Chỗ rơi xuống chiếc nghiên
Sau gọi là Đầm Mực,
Vì nước nó màu đen.
Còn quản bút rơi trúng
Đất làng Tả Thanh Oai,
Nên về sau đất ấy
Sinh ra lắm hiền tài.
11
CHIẾN THẮNG VÂN ĐỒN VÀ BẠCH ĐẰNG
Ba lần giặc Mông Cổ
Đem quân đánh nước ta.
Ba lần chúng thất bại,
Đất nước được yên hòa.
Thế đấy các cháu ạ,
Ông cha ta trước đây
Đánh ngoại xâm rất giỏi.
Phải ghi nhớ điều này.
Bây giờ, rất vắn tắt,
Ông kể hai chiến công,
Hai trận đánh lịch sử.
Cả hai đều trên sông.
Vân Đồn, trận thứ nhất,
Cắt đường giặc tiếp lương.
Bạch Đằng là trận tiếp,
Một chiến thắng phi thường.
CHIẾN THẮNG VÂN ĐỒN
Đầu Một Hai Tám Tám,
Lần xâm lược thứ ba,
Chiến thuyền giặc hùng hổ
Tiến quân vào nước ta.
Ô Mã Nhi, tướng giặc,
Bảo vệ đoàn thuyền lương
Của tướng Trương Văn Hổ,
Đi phía trước dọn đường.
Ở Vạn Ninh, Móng Cái,
Ta phục, đánh phủ đầu.
Dẫu bị tổn thất nặng,
Chúng vẫn tiến vào sâu.
Thuyền của giặc đi tiếp,
Vẫn còn chưa hoàn hồn,
Bị quân ta chặn đánh
Ở cửa khẩu Vân Đồn.
Tuy nhiên, do lực yếu,
Quân Đại Việt đã thua.
Trần Khánh Dư, là tướng,
Bị triệu về gặp vua.
Theo quân luật thời ấy,
Có thể bị mất đầu.
Ông khất mấy ngày nữa
Sẽ về chịu tội sau.
Đúng như ông dự đoán.
Sau quân đi tiên phong,
Đoàn quân lương sẽ đến,
Thuyền lớn và rất đông.
Ông cho quân mai phục,
Quyết một trận sống còn.
Thuyền của Trương Văn Hổ
Khi đến cửa Vân Đồn
Thì quân của Đại Việt
Từ nhiều phía đổ ra.
Nhanh, nhẹ và thiện chiến,
Gươm giáo vung sáng lòa.
Thuyền giặc lớn và nặng
Nên không kịp trở tay.
Bị đánh chìm phần lớn,
Xác giặc chết phơi đầy.
Nhiều thuyền cùng lương thực
Lọt vào tay quân Trần.
Tướng giặc, Trương Văn Hổ,
Phải bỏ chạy thoát thân.
Mất một đoàn thuyền lớn,
Mười bảy vạn hộc lương,
Quân giặc biết rằng chúng
Đã bị dồn cùng đường.
Nhuệ khí sa sút hẳn,
Sau thất bại nặng nề.
Tinh thần rất bạc nhược,
Chúng chỉ mong quay về.
Hay tin ta đại thắng,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông,
Tha cho tướng phạm lỗi,
Rồi mở tiệc mừng công.
Sau đó, Ngài ra lệnh
Thả tù binh cho về
Với quân ở Vạn Kiếp
Để họ kể chúng nghe
Và gieo rắc sợ hãi,
Khiến chúng càng nản lòng.
Kết quả đúng như vậy.
Thật tài, Trần Thánh Tông.
Trận Vân Đồn lịch sử
Là chiến thắng mở màn
Trận Bạch Đằng quyết định,
Đánh bại giặc hoàn toàn.
CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG
Tháng Một, năm Tám Tám,
Ba đạo quân Thoát Hoan
Chiếm Thăng Long lúc ấy
Bị bỏ trống, hoang tàn.
Sau đó hắn tiến đánh
Các căn cứ nhà Trần.
Lính cướp bóc, đốt phá
Và tàn sát người dân.
Hắn còn cho quân lính
Làm cái việc đau lòng
Là đào bới, phỉ báng
Lăng mộ Trần Thái Tông.
Ô Mã Nhi được lệnh
Đuổi bắt hai vua Trần,
Nhưng âm mưu thất bại
Do vấp phải lòng dân.
Nhiều vị trí xung yếu
Bị quân ta tấn công.
Vì thế cô, lương cạn,
Quân giặc rất nản lòng.
Thoát Hoan quyết định rút
Đến Vạn Kiếp tập trung
Rồi tháo chạy về nước
Theo đường bộ, đường sông.
Thấy thời cơ đã đến,
Vua và tướng nhà Trần
Liền chuẩn bị truy đánh
Bằng sức mạnh toàn dân.
Vua và Trần Hưng Đạo
Phục kích, bủa lưới dăng,
Chờ diệt quân xâm lược
Trên dòng sông Bạch Đằng.
Bạch Đằng là sông lớn,
Hợp lưu của hai sông
Đá Bạc và sông Giá,
Ở Quảng Ninh, Hải Phòng.
Có chỗ rộng nghìn mét.
Chênh lệch thủy triều cao.
Thường các tàu thuyền lớn
Khó ra nhưng dễ vào.
Nắm được lợi thế ấy,
Học theo kế Ngô Quyền,
Chủ tướng Trần Hưng Đạo,
Mai phục, chờ quân Nguyên.
Ông cho đóng cọc nhọn
Ở chỗ đáy sông nông,
Nhử giặc khi nước lớn,
Nước rút, sẽ tấn công.
Tháng Tư năm Tám Tám
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi,
Có quân bộ hộ tống,
Không cảnh giác, cứ đi.
Đến gần chỗ bãi cọc,
Thuyền chiến của nhà Trần
Giả vờ ra khiêu chiến,
Rồi vờ thua nhiều lần.
Thuyền giặc cứ rượt đuổi,
Trúng kế hiểm của ta.
Khi lọt vào bãi cọc
Thuyền quân Trần xông ra.
Hàng nghìn thuyền nhỏ nhẹ,
Hàng vạn lính can trường,
Quân Đại Việt chiến đấu
Thật dũng cảm phi thường.
Bị bất ngờ đánh úp,
Rối đội hình, quân Nguyên.
Tranh nhau chạy ra biển.
Nước rút, cọc nhô lên.
Thế là thuyền thủng đáy,
Dồn lại một đám đông.
Vỡ, đắm hơn già nửa,
Lính chết, xác đầy sông.
Còn những tên sống sót
Tìm cách chạy lên bờ,
Cũng bị bắt hoặc giết
Vì quân Trần đang chờ.
Hơn bốn vạn tướng sĩ
Và bốn trăm chiến thuyền
Đã bị ta tiêu diệt.
Thật đáng đời quân Nguyên.
Nhiều tướng giặc bị bắt -
Ô Mã Nhi đầu hàng.
Kết thúc một trận đánh,
Một trang sử huy hoàng.
Góp công vào chiến thắng
Có tướng Trương Hán Siêu,
Đỗ Hành và Nguyễn Khoái,
Nhiều người nữa, rất nhiều.
Còn cánh quân trên bộ
Do Thoát Hoan chỉ huy
Cũng không thể cứu giúp
Quân tướng Ô Mã Nhi.
Con vua Hốt Tất Liệt,
Hắn là tướng có tài,
Từng chỉ huy quân giặc
Lần xâm lược thứ hai.
Bị vây ở Vạn Kiếp,
Hắn quyết định lần này
Rút theo hướng xứ Lạng
Rồi chạy về Quảng Tây.
Chúng đến thị trấn Chũ,
Tức Bắc Giang bây giờ,
Gặp quân Trần phục kích
Phải tháo chạy bất ngờ.
Khi nhận được tin báo
Ba mươi vạn tinh binh
Quân Đại Việt đang phục
Suốt dọc đường, thất kinh,
Hắn ra lệnh đổi hướng,
Đi về phía Lộc Châu,
Nay cũng thuộc xứ Lạng,
Nhưng vẫn bị đánh đau.
Bị bắn trúng tên độc,
Tên phó tướng tử vong.
Mãi một tháng sau đó
Cuộc rút chạy mới xong.
Vậy là quân Mông Cổ
Lẫn nữa, lần thứ ba,
Đã thất bại thảm hại
Khi xâm lược nước ta.
*
Đó là những chiến thắng
Vẻ vang của cha ông
Mà chúng ta, con cháu
Phải ghi nhớ trong lòng.
Là con dân đất Việt
Thì mọi người chúng ta
Thà hy sinh tất cả
Để bảo vệ nước nhà.
Phải ghi nhớ lời dạy
Của vua Trần Nhân Tông:
“Nhất quyết không để mất
Một ngọn núi, bờ sông!”
*
Giờ đến phần cổ tích.
Các cháu muốn nghe gì?
Thôi thì để ông chọn.
Một truyện hay cực kỳ.
A-LA-ĐANH VÀ CÂY ĐÈN THẦN
Ngày xưa có cậu bé
Tên là A-la-đanh,
Mồ côi bố, nghèo khổ,
Không hề được học hành.
Có một người ngày nọ,
Từ đâu bước vào nhà,
Tự nhận mình là bác,
Ông bác của cậu ta.
Dẫu chưa bao giờ thấy,
Nhưng quả cậu, may sao,
Có ông bác như vậy,
Nên ông được đón chào.
Ngày hôm sau ông bác
Mua cho cậu áo quần,
Đưa đi chơi trong phố.
Hai người thành quen thân.
Thấy con mặc áo đẹp
Lại còn được đi chơi,
Bà mẹ nhờ ông bác
Dạy dỗ cháu thành người.
Đó là lão phù thủy,
Có việc mò đến đây,
Chứ nào phải là bác,
Lợi dụng cậu bé này.
Hắn giả vờ tử tế,
Đưa cậu đi chơi xa,
Đến một hang núi đá
Trong một cánh rừng già.
Hắn ngồi xuống, nhóm lửa,
Rắc ít bột, và rồi
Lẩm bẩm điều gì đó -
Mặt đất nứt làm đôi.
A-la-đanh sợ quá.
“Cháu đừng sợ, không sao.
Hãy lắng nghe ta nói,
Không bỏ sót lời nào.
Cháu hãy cầm bó đuốc
Lần đi sâu xuống hang,
Đến chỗ có lối rẽ
Thì bắt đầu rẽ ngang.
Cháu đi tiếp, hướng phải,
Hơi chênh chếch sang bên,
Thấy một khu vườn nhỏ.
Ở đấy có chiếc đèn.
Cháu hãy thổi tắt nó,
Hãy rót hết dầu ra
Rồi nhanh chóng quay lại,
Đưa chiếc đèn cho ta.
Còn nữa, cháu nhất thiết
Không chạm vào cái gì!”
Hắn dặn kỹ như thế
Rồi để cậu bé đi.
Làm theo lời hắn dặn,
Cậu tìm thấy chiếc đèn,
Hái mấy trái cây lạ
Dọc con đường quay lên.
Lão phù thủy hí hửng
Đứng chờ ở cửa hang.
Thấy chiếc đèn, mừng lắm
Liền đưa tay vội vàng
Định giật lấy, nhưng cậu
Dấu sau lưng chiếc đèn:
“Bác kéo cháu lên đã
Rồi cháu mới đưa đèn!”
Hắn cố giành không được,
Cáu, lẩm bẩm điều gì.
Bỗng cửa hang đóng sập.
Thế là hắn bỏ đi.
A-la-đanh hoảng sợ,
Một mình trong bóng đen,
Cậu sờ soạng, dò dẫm,
Tình cờ chạm chiếc đèn.
Ngay lập tức xuất hiện
Một con quỉ đầy lông:
“Cần gì, hãy sai khiến.
Tôi, nô lệ của ông.”
A-la-đanh liền nói:
“Hãy đưa ta về nhà!”
Chưa định thần, đã thấy
Bên cạnh mẹ cậu ta.
Cậu liền kể cho mẹ
Chuyện về chiếc đèn thần.
Bà mẹ sai con quỉ
Nhanh chóng dọn bàn ăn.
Trong nháy mắt, nào rượu,
Nào thức ăn ê hề.
Hai mẹ con nhà cậu
Được một bữa no nê.
Suốt mấy năm, cứ thế
Họ sống trong no say.
Muốn cái gì cũng có,
Nhà tiền bạc chất đầy.
*
Jas-min là công chúa
Xinh đẹp đến mê hồn.
A-la-đanh nhìn thấy,
Bắt mẹ đến cầu hôn.
Vua thấy lễ rất hậu,
Nhiều vật quí, bạc vàng,
Nên cuối cùng đồng ý
Gả con gái cho chàng.
Chàng cũng nhờ con quỉ
Xây một tòa lâu đài
Rất to và rất đẹp,
Loại có một không hai.
Cũng vì to và đẹp,
Tin về lâu đài này
Đến tai lão phù thủy.
Lão liền tìm đến đây
Giả làm người bán dạo,
Lão đẩy xe và rao:
“Đổi đèn cũ lấy mới!
Có ai đổi không nào?”
Vì không biết giá trị
Chiếc đèn cũ của chồng,
Jas-min đem đổi nó
Lấy chiếc mới bằng đồng.
Và rồi, có được nó,
Lão phù thủy vội vàng
Đưa về quê hương lão
Tòa lâu đài và nàng.
A-la-đanh biết chuyện,
Lên đường đi châu Phi,
Tìm thấy lão phù thủy,
Vượt rất nhiều hiểm nguy.
Ở đấy, nhờ chiếc thảm
Và con khỉ lông đen,
Chàng đã cứu được vợ
Và lấy lại chiếc đèn.
Chiếc đèn thần lập tức
Đưa chàng quay về nhà
Cùng lâu đài và vợ.
Lão phù thủy ranh ma
Đã bị chàng giết chết
Bằng thuốc độc, và rồi
Chàng và nàng công chúa
Sống hạnh phúc suốt đời.
12
HỒ QUÍ LY (1336 – 1407)
Sau chiến tranh, nông nghiệp
Được khôi phục rất nhanh
Nhờ một loạt chính sách
Được các vua ban hành.
Nghề thủ công, buôn bán
Cũng có bước tiến dài.
Vân Đồn thành cảng chính
Buôn bán với nước ngoài.
Dù không bằng thời Lý,
Đạo Phật vẫn thịnh hành.
Nho Giáo rất phát triển.
Trường lớp cũng tăng nhanh.
Chữ Hán dùng phổ biến,
Đặc biệt trong thơ văn.
Tính tự hào dân tộc
Rất cao thời nhà Trần.
Chữ Nôm đã xuất hiện
Cũng vào giai đoạn này.
Nhiều tác phẩm văn học
Còn lưu đến ngày nay.
Ngoài trường Quốc Tử Giám,
Các tỉnh, lộ sông Hồng
Đã bắt đầu xây dựng
Trường công hoặc bán công.
Còn ở các làng xã,
Trường tư cũng mọc lên,
Không kể các lớp học
Có trước ở chùa chiền.
Các kỳ thi đều đặn
Tổ chức theo định kỳ.
Người nghèo mà học giỏi
Đều được phép vào thi.
Thi đậu, tùy năng lực,
Được phân bổ làm quan.
Người thầy nổi tiếng nhất
Là thầy Chu Văn An.
Cuốn Đại Việt Sử Ký
Gồm ba mươi tập dày,
Do Lê Văn Hưu soạn,
Cũng ở thời kỳ này.
Về công trình kiến trúc
Có Hoàng Thành Thăng Long
Với nhiều cung điện lớn
Có ngói men đầu rồng.
Về chùa chiền thời ấy,
Nam Định có Phổ Minh.
Tháp Bình Sơn - Vĩnh Phúc,
Nhiều chùa ở Ninh Bình.
*
Như mọi triều đại khác,
Theo một dạng chu kỳ,
Các vua Trần về cuối,
Hết thời thịnh, đến suy.
Phần lớn hèn, bạc nhược,
Khác với đầu đời Trần,
Vua suốt ngày yến tiệc,
Không còn lo cho dân.
Giữa thế kỷ Mười Bốn
Những chín lần vỡ đê,
Mười năm có nạn đói,
Dân cơ cực đủ bề.
Một loạt cuộc khởi nghĩa
Đã nổi dậy khắp nơi,
Được nông dân hưởng ứng,
Hàng nghìn, hàng vạn người.
Như khởi nghĩa Ngô Bệ
Ở Yên Phụ, Hải Dương.
Nguyễn Kỵ ở Thanh Hóa,
Nguyễn Bổ ở Bắc Giang.
Phạm Sư Ôn, Hà Nội,
Nguyễn Nhữ Cái, Sơn Tây,
Làm nhà Trần đã yếu,
Lại càng thêm lung lay.
*
Cuối thế kỷ mười bốn
Các vương triều nhà Trần
Đã trở nên ruỗng mục,
Thối nát, mất lòng dân.
Có Khu Mật Đại Sứ
Tên là Hồ Quí Ly,
Nắm hết mọi quyền lực,
Chẳng coi vua ra gì.
Cái phải đến đã đến,
Năm Một Nghìn Bốn Trăm,
Ông phế Trần Thiếu Đế,
Rồi lên ngôi âm thầm.
Như vua Lý Nam Đế,
Tổ tiên ông một thời
Người Triết Giang, Trung Quốc,
Sang ta đã nhiều đời.
Hồ Quí Ly quê gốc
Ở Quỳnh Lưu, Nghệ An,
Sau chuyển ra Thanh Hóa,
Rồi vào triều làm quan.
Ông có hai cô ruột
Là hoàng hậu, ân nhân.
Sau hai con của họ
Cũng trở thành vua Trần.
Khi lên ngôi, tên nước
Ông đổi thành Đại Ngu,
Dời đô vào Thanh Hóa,
Huyện Vĩnh Lộc bây giờ.
Sau một năm tại vị,
Ông nhường lại ngai vàng
Cho con trai trị quốc
Để làm Thái thượng hàng.
Theo các tài liệu sử,
Ông là người nhẫn tâm,
Để lo trừ hậu họa,
Chỉ trong vòng một năm,
Tổng cộng ông đã giết
Ba trăm bảy mươi người,
Chủ yếu người hoàng tộc.
Một tội ác để đời.
Dẫu mưu mô, ác độc,
Nhưng vua Hồ Quí Ly
Có rất nhiều cải cách
Mà sử sách còn ghi.
Những cải cách tiến bộ,
Tầm nhìn rộng và xa,
Nếu đem thực hiện hết
Sẽ chấn hưng nước nhà.
Về lĩnh vực hành chính,
Ông đặt nhiều chức quan
Để giám sát các lộ,
Phòng ngừa những việc gian.
Ông thêm chức Liêm phóng
Ở châu, lộ xa gần,
Để báo triều đình biết
Thực tình của người dân.
Về lĩnh vực kinh tế,
Ông cải cách hạn điền.
Giới hạn số ruộng đất
Của tầng lớp có quyền.
Trừ vương hầu, gia tộc,
Ông qui định mỗi nhà
Có không quá mười mẫu,
Cả ruộng gần, ruộng xa.
Về số lượng người ở,
Cũng không được quá nhiều.
Tùy gia sản, thứ bậc
Mà được nuôi bao nhiêu.
Ông phát hành tiền giấy,
Nhằm đẩy mạnh công thương,
Thay đổi chế độ thuế,
Quy định cách đo lường.
Rồi mở thêm trường học,
Bắt sĩ tử đi thi
Phải thi môn toán pháp,
Mới được lên kinh kỳ.
Ông đặc biệt coi trọng
Chữ Nôm của nước nhà,
Sai dịch ra chữ ấy
Các sách cổ Trung Hoa.
Lại còn mở kho thóc
Giá rẻ cho người nghèo.
Chăm lo việc thủy lợi,
Đào sông, đắp đê điều.
Ông đặt sở Quản Tế,
Sở y tế bây giờ,
Rồi cất quan coi sóc
Không chểnh mảng, thờ ơ.
“Quản Tế Thư” được lập,
Kiểu bệnh viện tế bần,
Chữa bệnh bằng châm cứu
Và thuốc Nam cho dân.
Là tài năng kiệt xuất,
Với nghị lực phi thường,
Ông đeo đuổi cải cách,
Tiếc đứt gánh giữa đường.
Hồ Quí Ly biết trước
Dã tâm của nhà Minh,
Nên chuyên tâm chấn chỉnh
Việc công và việc binh.
Ông cải cách quân đội,
Xây thành, lo quốc phòng,
Lập hộ tịch bắt lính,
Đóng cọc các cửa sông.
Ông là người tài giỏi,
Nhưng chỉ là quan văn,
Rất tiếc đã thất bại,
Vì không được lòng dân.
Năm Một Bốn Không Sáu,
Lấy cớ giúp nhà Trần,
Nhà Minh sang xâm lược,
Điều hai mươi vạn quân.
Tướng giặc là Trương Phụ,
Chia nhiều mũi tấn công.
Thế yếu, quân Việt rút
Sang phía Nam sông Hồng.
Thành Thăng Long thất thủ
Trong vòng mấy tháng sau.
Vua rút về Thanh Hóa
Định tính kế dài lâu.
Bị quân địch truy đuổi,
Ông chạy vào Kỳ La,
Bây giờ thuộc Hà Tĩnh,
Rồi cha con ông ta
Bị quân Minh bắt sống
Đưa về nộp Bắc Kinh,
Dọc đường bị sát hại.
Không rõ lắm sự tình.
Cũng có tài liệu nói
Chúng đưa về Quảng Tây,
Bắt lao dịch ở đấy
Rồi chết mòn sau này.
Vậy là triều Hồ mất,
Chỉ tồn tại bảy năm
Nhưng cũng kịp làm được
Một số việc cần làm.
Nước Đại Việt lần nữa
Rơi vào ách ngoại bang,
Phải chờ đến Lê Lợi
Mới độc lập huy hoàng.
*
Hôm nay, thay cổ tích,
Ông sẽ kể chuyện này,
Một chuyện sử có thật,
Được lưu truyền lâu nay.
NGƯỜI VIỆT NAM XÂY
TỬ CẤM THÀNH Ở BẮC KINH
Không phải ai cũng biết
Một người Việt chúng ta
Xây Cố Cung hoa lệ
Cho vua chúa Trung Hoa.
Hơn thế, người Việt ấy
Vốn là một hoạn quan,
Sử sách ít nhắc đến.
Người đó là Nguyễn An.
Là kiến trúc sư trưởng
Xây khu Tử Cấm Thành,
Một nhà đại trị thủy,
Thế mà chẳng lưu danh.
Mãi các nhà sử học
Mới biết ông gần đây.
Hình như sử Trung Quốc
Cố tình quên chuyện này.
Nguyễn An là thợ giỏi,
Quê ở vùng Hà Đông,
Một làng nghề nào đó,
Làng mộc hoặc làng đồng.
Khi mới mười sáu tuổi,
Ông đã theo người thân
Vào xây hoặc tu sửa
Các cung vua nhà Trần.
Năm một bốn không bảy,
Khi diệt xong nhà Hồ,
Quân Minh mang về nước
Nhiều trai Việt khôi ngô.
Sau đó họ bị thiến
Để trở thành hoạn quan.
Trong số những người ấy
Có chàng trai Nguyễn An.
Thấy ông giỏi tính toán,
Có biệt tài xây nhà,
Lại liêm khiết hiếm thấy,
Nên vua nước Trung Hoa,
Lúc ấy là Thành Tổ,
Đặc biệt rất tin dùng.
Vua giao ông phụ trách
Việc xây khu Cố Cung.
Nguyễn An, còn rất trẻ,
Mới ba mươi tuổi đời,
Được toàn quyền sai khiến
Khoảng mười tám vạn người.
Kể từ khâu thiết kế,
Lo vật liệu, thi công,
Đến hoàn thiện mỹ thuật,
Việc gì cũng do ông.
Phải là người nhân cách
Và tài năng cực kỳ
Mới làm nổi điều ấy,
Tránh được lời thị phi.
Một công trình tốn kém
Suốt hàng chục năm ròng,
Khó khăn và vất vả,
Cuối cùng cũng làm xong.
Nguyễn An được vua thưởng
Năm mươi lạng vàng nguyên,
Thêm một trăm lạng bạc
Và một vạn quan tiền.
Chưa kể tám tấn thóc
Và bài vị, sắc phong...
Tất cả để ghi nhận
Công và tài của ông.
Có một con sông lớn
Tên là sông Hoàng Hà,
Thường xuyên gây lũ lụt.
Ngẫm mà lòng xót xa.
Vua nhà Minh lần nữa
Phải nhờ ông ra tay,
Đem tài năng xuất chúng
Trị thủy con sông này.
Đích thân ông gia cố
Các công trình thủy nông.
Phu phen hàng chục vạn
Răm rắp nghe lời ông.
Sau đó ông lại “trị”
Con sông dữ Tắc Dương,
Sông Trạch Chư, Trương Thụ,
Nơi ông chết dọc đường.
Nguyễn An là gương sáng
Về làm việc hết mình,
Về tài năng, đức độ,
Liêm khiết và công minh.
Trên đường đến xây dựng
Đê đập ở Sơn Đông,
Ông chết, có trăn trối
Đừng xây lăng cho ông,
Mà dùng số tiền ấy
Cho dân chúng trong vùng,
Người không may gặp lụt,
Rơi vào cảnh khốn cùng.
Nhân tiện xin nhắc đến
Những người như Nguyễn An,
Các chàng trai Đại Việt
Bị biến thành hoạn quan.
Phạm Hoằng, một thợ giỏi,
Vua Anh Tông nhà Minh
Sai xây Vĩnh An Tự
Tây Nam thành Bắc Kinh.
Đó là một chùa lớn,
Vua hài lòng, gọi ông
Là “Bồng Lai Cát Sĩ”,
Cho khắc tên ghi công.
Thêm một người khác nữa,
Có tên là Vương Cần.
Ông tài giỏi đến mức,
Nghe kể lại, một lần
Người ta bỗng phát hiện,
Rằng ông là hoạn quan
Mà vẫn còn “cái ấy”,
Tội chém, không phải bàn.
Thế mà vua tha chết,
Cho ra sống ngoài đời.
Còn tặng mấy cung nữ,
Rồi có con - mười người!
Tuy nhiên, người giỏi nhất
Lại là Hồ Nguyên Trừng,
Một thiên tài quân sự,
Danh tiếng rất lẫy lừng.
Ông này, như ta biết,
Là con Hồ Quí Ly,
Bị bắt sang Trung Quốc,
Có số phận li kỳ.
Lịch sử đã ghi lại
Rất chính xác, rằng ông,
Lần đầu trên thế giới
Chế tạo súng thần công.
Nhờ loại vũ khí đó
Mà nhà Minh nhiều lần
Đánh bại quân phương Bắc,
Xem ông như vị thần.
Về sau, ông, người Việt,
Làm Thượng thư bộ Công
Của thiên triều Đại Hán.
Kể cũng đáng hả lòng.
13
THÀNH NHÀ HỒ
Hôm nay ông sẽ kể
Câu chuyện Thành Nhà Hồ.
Cũng có khi sử sách
Gọi là Thành Tây Đô.
Đó là bức tường lớn,
Ghép bằng đá mà thành.
Mỗi viên hơn mười tấn,
Có hào nước bao quanh.
Thành có bốn cửa chính,
Là Nam Bắc Đông Tây,
Cổng chính cao mười mét
Bằng đá, cong và dày.
Bốn cạnh đều vuông góc,
Mỗi cạnh nghìn mét dài.
Cao khoảng ba, bốn mét,
Gia cố đất bên ngoài.
Bên trong là cung điện
Và dinh thự vua quan,
Bị thời gian hủy hoại
Nay là bãi hoang tàn.
Rất may còn sót lại
Đôi rồng đá rất to,
Chạm trổ thật tinh tế
Trước chính điện nhà Hồ.
*
Thành Tây Đô xây dựng
Vào cuối đời nhà Trần,
Năm Một Ba Chín Bảy,
Bằng sức của người dân.
Người khởi xướng xây nó
Chính là Hồ Quí Ly,
Lúc ấy nắm quyền lực,
Chẳng coi vua ra gì.
Chỉ ba năm sau đó,
Tức Một Bốn Không Không,
Ông tiếm ngôi, xuống chiếu
Dời đô về quê ông.
Tức là về Thanh Hóa,
Bắt đầu đời nhà Hồ.
Thành mới xây được gọi
Bằng tên mới, Tây Đô.
Thành ở huyện Vĩnh Lộc
Thôn Tây Giai, Xuân Giai,
Xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến,
Đất của người hiền tài.
Theo sử sách ghi lại,
Thành được xây rất nhanh.
Chỉ trong vòng ba tháng,
Mọi cái đã hoàn thành.
Đàn Nam Giao, cung điện,
Tuyến phòng vệ bên ngoài
Được xây tiếp, hoàn thiện
Năm Một Bốn Không Hai.
Là công trình kiến trúc
Tồn tại đến ngày nay,
Bằng đá, rất độc đáo,
Thành nhà Hồ gần đây
Được UNESCO chọn
Và xếp hạng, tôn vinh
Là Di sản Thế giới,
Vẻ vang cho nước mình.
Ông nghĩ sẽ rất tuyệt,
Có tiền thuê ô tô,
Ta làm chuyến du lịch
Tới thăm Thành Nhà Hồ.
Các cháu đồng ý chứ?
Nhất định sẽ có ngày.
Bây giờ, như thường lệ,
Nghe ông kể chuyện này.
Lần nữa, chuyện về Phật,
Giản dị mà thâm sâu.
Rồi các cháu sẽ thấy.
Câu chuyện ấy như sau.
TÌM PHẬT
Xưa có anh chàng nọ
Nghe nói Phật là người
Ba mươi hai tướng tốt
Và vẻ đẹp - tám mươi.
Và rằng ai gặp Phật
Sẽ may mắn lâu dài.
Anh ta xin phép mẹ
Lên đường đi tìm Ngài.
Suốt ba năm ròng rã,
Chịu mưa nắng dãi dầu,
Anh ta tìm khắp chốn
Mà không thấy Phật đâu.
Người băm hai tướng tốt
Và vẻ đẹp - tám mươi
Quả tìm mãi không thấy,
Dù tìm ba năm trời.
Cuối cùng anh ta gặp
Một vị sư rất già,
Đem sự tình kể hết.
Vị sư nói: “Thích Ca
Hiện đang còn tại thế.
Ngài có mặt khắp nơi,
Nhưng ẩn thân, dưới dạng
Bình thường như mọi người.
Do vậy phải nhìn kỹ,
Phải kiên nhẫn lâu dài,
Và thiện tâm, cầu thị
Mới hy vọng gặp Ngài.
Tuy vậy, ta có cách
Giúp con gặp Thích Ca:
Bây giờ con quay lại,
Theo đường cũ về nhà.
Hãy chú ý quan sát,
Để ý thấy chân ai
Vô tình đi lộn dép,
Thì người đó là Ngài.
Anh chàng kia hăm hở
Quay về nhà, dọc đường
Buồn vì thấy tất cả
Đi đúng dép, bình thường.
Đến làng mình, bà mẹ,
Nghe nói con trai về,
Vội vã chạy ra đón,
Nước mắt chảy dầm dề.
Anh chàng không hề biết
Rằng hàng ngày mẹ già
Luôn tụng kinh, niệm Phật
Mong anh sớm về nhà.
Bà nghe tin, vui quá,
Vui và vội, quáng quàng
Xỏ đôi dép, xỏ lộn,
Ra đón con đầu làng.
Anh con đã sụp lạy,
Gặp được Phật Thích Ca
Khi bất ngờ nhìn thấy
Đôi dép dưới chân bà.
14
LÊ LỢI (1385 – 1433)
Năm Một Bốn Không Sáu,
Lấy cớ giúp vua Trần,
Quân nhà Minh xâm lược
Đem hai mươi vạn quân,
Dân phu hàng chục vạn,
Do Trương Phụ cầm đầu,
Hùng hổ đánh Đại Việt,
Và nhanh chóng tiến sâu.
Nhà Hồ thế lực yếu,
Lại không có tướng tài,
Nên liên tiếp thất bại,
Bị giặc đuổi dài dài.
Đầu Một Bốn Không Bảy,
Mất Thăng Long, vua Hồ
Rút quân về quyết định
Cố thủ thành Tây Đô.
Vào tháng Tư năm ấy,
Thế và lực đã suy,
Quân Minh kéo vào đánh,
Lần nữa, Hồ Quí Ly
Rút chạy vào Hà Tĩnh.
Và chỉ hai tháng sau
Ông bị giặc Minh bắt
Rồi đưa về nước Tàu.
Nhà Minh ngay lập tức
Xóa quốc hiệu nước ta,
Đổi thành quận Giao Chỉ,
Một phần nước Trung Hoa.
Chúng đặt nhiều thuế mới
Tăng lao dịch, lao công.
Nhân dân sống khổ cực
Luôn oán trách trong lòng.
Cuối cùng dân nổi dậy
Khởi nghĩa ở nhiều nơi:
Đồ Sơn có Phạm Ngọc,
Phú Thọ - Trần Văn Thôi.
Quảng Ninh có Lê Ngã,
Phạm Chấn ở Đông Triều.
Trần Nguyên Khang xứ Thái,
Ngoài ra còn rất nhiều.
*
Năm Một Bốn Không Bảy,
Trần Ngỗi, con vua Trần,
Được tôn thành hoàng đế,
Làm nức lòng người dân.
Đầu năm sau, Trần Ngỗi
Kéo quân vào Nghệ An,
Nhận được sự giúp đỡ
Của một số cựu quan.
Đó là tướng Đặng Tất
Và tướng Nguyễn Cảnh Chân,
Trước là người thân tín
Của các triều vua Trần.
Đặng Tất ở xứ Huế.
Nguyễn Cảnh Chân phía trong.
Vào cuối năm Không Tám,
Cùng Trần Ngỗi tấn công
Và đã đánh tan tác
Bốn vạn quân nhà Minh
Ở Bô Rô, Nam Định,
Thanh thế lên rất nhanh.
Nhiều người đến tụ nghĩa,
Quyết khôi phục nhà Trần.
Tuy nhiên, sau chiến thắng,
Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân
Đã bị Trần Ngỗi giết,
Do tin lời dèm pha.
Cuộc khởi nghĩa lụi tắt.
Thật tiếc cho nước nhà.
*
Chẳng bao lâu sau đó,
Con Đặng Tất, Cảnh Chân,
Là Đặng Dung, Cảnh Dị,
Bỏ vào xứ Nghệ An.
Họ tôn Trần Quí Khoáng,
Làm vua mới nhà Trần,
Lại dấy binh khởi nghĩa,
Thu phục được lòng dân.
Nghĩa quân đã làm chủ
Một vùng đất kéo dài
Từ Thanh Hóa đến Huế,
Cũng đất người hiền tài.
Năm Một Bốn Một Một,
Giặc tiến đánh xứ Thanh.
Nghĩa quân phải tạm rút
Vào Huế, tuyển thêm binh.
Rồi hai năm sau đó,
Năm Một Bốn Một Ba,
Giặc cho quân đánh Huế,
Thế lực yếu, quân ta
Đã dần dần tan rã.
Nhiều người rời nghĩa binh.
Vua, Đặng Dung, Cảnh Dị
Rơi vào tay quân Minh.
*
Thế là ông kể hết
Về tình hình nước ta
Dưới ách đô hô mới
Của phong kiến Trung Hoa.
Nhưng năm năm sau đó
Tình hình mới khá hơn
Khi xuất hiện Lê Lợi
Cùng khởi nghĩa Lam Sơn.
Bây giờ ông sẽ kể
Về người con xứ Thanh
Đã có công đánh đuổi
Giặc xâm lược nhà Minh.
Sau đó, ông sẽ kể
Theo thứ tự, dần dần
Diễn biến cuộc khởi nghĩa
Và chuyện các trung thần.
*
Giặc nhà Minh phương Bắc
Diệt xong Hồ Quý Ly,
Quyết xóa văn minh Việt,
Không để lại chút gì.
Chúng đốt hết sách vở,
Hoặc chở về Yên Kinh.
Hoạn đàn ông Đại Việt,
Làm điêu đứng dân tình.
Chúng bắt, đưa về nước
Những người giỏi, người tài.
Tịch thu các thư tịch,
Các bia đá, tượng đài.
Lòng muôn dân ta thán,
Đâu cũng thấy bất bình.
Đúng lúc ấy xuất hiện
Vị anh hùng cứu tinh.
Người ấy là Lê Lợi,
Một chúa trại Lam Sơn.
Ông dấy binh khởi nghĩa,
Rửa mối nhục căm hờn.
Năm Một Bốn Một Sáu,
Cùng mười tám hiền tài,
Ông thề quyết đánh giặc
Trong hội thề Lũng Nhai.
Nhiều anh hùng, hào kiệt
Giúp ông dựng cơ đồ:
Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Đinh Lễ, Lê Đa Bồ...
Năm Một Bốn Một Tám,
Ông phong vương cho mình,
Hịch kêu gọi dân chúng
Chống lại ách nhà Minh.
Nghĩa quân ông lãnh đạo
Tạm thất bại ban đầu,
Nhưng giành nhiều thắng lợi
Trong giai đoạn về sau.
Năm Một Bốn Hai Bảy
Cuộc kháng chiến thành công,
Khôi phục nền độc lập,
Vua và dân nức lòng.
Trong năm năm trị nước,
Ông làm được nhiều điều:
Lấy đất người giàu có
Đem chia cho người nghèo.
Soạn lại luật hình sự
Theo mô hình nhà Đường.
Lo chấn hưng văn hóa
Bằng cách xây thêm trường.
Các cơ cấu hành chính
Và bộ máy công quyền
Cũng được điều chỉnh lại
Theo hướng trọng người hiền.
Là anh hùng dân tộc,
Nhà quân sự đại tài,
Cuối đời, vua Lê Lợi
Cũng có nhiều điểm sai.
Ông thay ngôi thái tử,
Quá tin lời người thân,
Mà đang tâm bức hại
Cả những bậc trung thần.
Nguyễn Trãi bị tù tội,
Trần Nguyên Hãn quyên sinh.
Đó không phải là việc
Của đấng vua anh minh.
Năm năm trên ngôi báu,
Năm Một Bốn Ba Ba,
Hưởng thọ bốn tám tuổi
Vua Lê Lợi băng hà.
TRUYỀN THUYẾT VỀ LÊ LỢI
Xung quanh vua Lê Lợi
Và cuộc khởi nghĩa này
Có khá nhiều truyền thuyết
Được lưu truyền xưa nay.
Truyện kể rằng Lê Lợi,
Khi chưa dựng sơn hà,
Có bạn tên là Thận,
Như anh em một nhà.
Thận làm nghề chài lưới,
Một hôm đi ra sông,
Thấy đáy nước phát sáng,
Rất nghi hoặc trong lòng.
Ông quăng lưới bắt cá,
Mãi không thấy cá đâu,
Chỉ vớt được thanh sắt
Dài một thước, sỉn màu.
Định vứt đi, nhưng tiếc,
Ông đem nó về nhà,
Vứt vào trong góc tối,
Đêm phát sáng chói lòa.
Một hôm Lê Lợi đến,
Thấy lạ, hỏi sự tình.
Rồi xin thanh sắt ấy
Đem nó về nhà mình.
Ông cho người rửa sạch,
Đánh bóng lớp gỉ đen,
Thấy trên đó chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận Thiên”.
Hôm sau, bước ra cửa,
Thấy vỏ gươm bằng vàng,
Ông sụp lạy xuống đất
Rất cung kính, mà rằng:
“Nếu đây là gươm báu
Trời ban cho Lợi này,
Thì hãy làm phép lạ,
Cho nhập làm một ngay!”
Ông giơ thanh sắt nhỏ
Trước mặt mình, bất ngờ
Thanh sắt thành gươm sáng
Cho vào vỏ rất vừa.
Đêm hôm ấy bất chợt
Mưa gió to rất lâu.
Sáng dậy, vợ Lê Lợi
Khi đi ra vườn rau
Thấy bốn vết chân lớn,
Rất rộng và rất dài
Bà gọi chồng, muốn hỏi
Dấu chân này của ai.
Rồi hai người lại thấy
Chiếc ấn ngọc đắt tiền,
Trên mặt có chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận Thiên”.
Về sau, lên ngôi báu,
Vua dùng hai chữ này
Làm niên hiệu Đại Việt.
“Thuận ý trời” là đây.
Lê Lợi liền vội vã
Đem nó giấu trong nhà,
Mừng được trời giao ấn,
Lo đại sự quốc gia.
Theo truyền thuyết, Lê Lợi
Luôn mang gươm theo mình,
Dùng nó chém đầu địch,
Đuổi hết giặc nhà Minh.
Khi công thành danh toại,
Vua Lê Lợi một lần
Đi thuyền rồng du ngoạn
Trên mặt hồ Thủy Quân.
Bỗng Rùa Vàng xuất hiện,
Đòi gươm báu, và hồ
Đổi tên thành Hoàn Kiếm,
Ngay trong lòng thủ đô.
*
Truyền thuyết cũng kể lại,
Lê Lợi thời kỳ đầu,
Một lần bị giặc đuổi,
Phải chạy vào rừng sâu.
Ở đấy ông bất chợt
Thấy có một xác người,
Một cô gái, trên cỏ,
Khuôn mặt vẫn còn tươi.
Ông dùng gươm đào huyệt,
Đắp cho nàng nấm mồ,
Khấn, mong nàng phù hộ
Giúp ông dựng cơ đồ.
Khi quân Minh đuổi đến,
Ông trốn vào hốc cây.
Bầy chó cứ sục sạo
Rất lâu bên cây này.
Giặc sinh nghi, dùng kiếm
Đâm xuyên cây, trúng người.
Lê Lợi phải lấy áo
Lau kiếm sạch máu tươi.
Rồi chúng lấy lửa đốt.
Và từ thân cây già
Bất chợt một con cáo
Lông màu trắng chạy ra.
Bầy chó ùa theo đuổi.
Giặc bỏ đi vội vàng.
Lê Lợi may thoát chết,
Sụp lạy trước mộ nàng.
Nàng đã hóa thành cáo,
Chạy trước mặt đám đông,
Để thu hút bầy chó
Và giải cứu cho ông.
Về sau ông lập miếu
Thờ nàng như thờ thần,
Còn truy tặng danh hiệu
Là Hồ Ly Phu Nhân.
Nơi Lê Lợi thoát chết
Bây giờ là cánh đồng,
Có tên là Đồng Chó
Bên cạnh một dòng sông.
Ngày nay con sông ấy
Được gọi là sông Chu,
Nằm không xa Bái Thượng,
Nơi thường nhiều sương mù.
*
Khi hay tin Lê Lợi
Đang chiêu quân đánh Tàu,
Trần Nguyên Hãn cải dạng
Thành một anh bán dầu
Vào Đông Đô tìm cách
Gặp Nguyễn Trãi tiên sinh,
Người đang bị giam lõng,
Kiểm soát bởi quân Minh.
Rồi sau khi bàn luận,
Hai người trốn khỏi thành,
Lặn lội tìm minh chúa
Trong núi rừng xứ Thanh.
Được Nguyễn Trãi hiến kế
Với kế hoạch “Bình Ngô”,
Lê Lợi mời hai vị
Tham gia dựng cơ đồ.
Nguyễn Trãi sai lấy mật
Viết lên nhiều lá cây
Mọc bên sông gần đấy
Tám chữ nho thế này:
Lê Lợi là hoàng đế
Chữ “Lê Lợi vi quân”,
Bầy tôi là Nguyễn Trãi,
Chữ “Nguyễn Trãi vi thần”.
Tất nhiên kiến thấy mật
Liền bu đến rất đông.
Chúng ăn, đục xuyên lá,
Lá rơi xuống dòng sông.
Những chiếc lá có chữ
Nước cuốn đi khắp nơi,
Dân chúng nhặt lên đọc,
Nghĩ đó là ý trời.
Nhờ những chiếc lá ấy,
Người tìm đến đông dần,
Cùng tham gia khởi nghĩa,
Vì “Lê Lợi vi quân”.
*
Lại nữa, một lần nọ,
Giặc đuổi gấp phía sau,
Lê Lợi thấy hai cụ
Đang tát nước ruộng sâu,
Liền nhảy ào xuống ruộng,
Cởi áo, để ngực trần,
Giả làm người mò cá
Như con nhà nông dân.
Giặc kéo đến liền hỏi:
Thấy ai chạy qua không?
Hai cụ đáp: Không biết.
Chúng tôi mải làm đồng.
Thấy Lê Lợi có vẻ
Muốn nghe chuyện, bà già
Quát: Mày lo mò cá
Rồi còn sớm về nhà!
Giặc nghe thế, tưởng thật,
Liền bỏ đi, hai người
Mời về nhà nghỉ tạm,
Lúc ấy đã tối trời.
Trước bữa cơm giản dị,
Hai cụ lạy rồi thưa:
“Chúng tôi, lúc nguy khốn,
Có thất lễ với vua...”
Lê Lợi lạy rất thấp,
Cảm ơn hai cụ già.
Lúc thành vương, quay lại,
Vất vả tìm đến nhà
Thì hai cụ đã chết.
Để ghi nhớ ân sâu,
Ông cho lập miếu cúng,
Còn thụy phong tước hầu.
*
Chắc các cháu đã mệt.
Vậy ông có bài thơ
Đọc cho vui, đợi đấy.
Ông đọc ngay bây giờ.
Bài thơ này rất nhộn
Của một ông người Nga,
Về một người đãng trí
Đi chơi Matxcơva.
MỘT NGƯỜI ĐÃNG TRÍ
Có một người đãng trí
Sống ở phố Họa Mi.
Ông ta đãng trí lắm,
Tin hay không thì tùy.
Một sáng nọ, tỉnh dậy
Ông ta định mặc quần
Thì lại quên, đem áo
Cứ xỏ mãi vào chân.
Cũng vì quên, đôi lúc
Ông ta đội lên đầu
Một chiếc xoong thay mũ
Mà không hề thấy đau.
Bành-tô thì mặc trái
Chân luôn đi lệch giày...
Ông ta, có thể nói,
Đãng trí nhất đời này.
Một hôm ông đãng trí
Lên xe điện ra ga,
Vào nhà ăn mua vé -
Không phải một, mà ba.
Rồi ông ra đường đợi
Định đi Matxcơva,
Thấy một chiếc toa trống
Đứng một mình trên ga.
Ông ta xách hành lý
Leo lên toa, ngồi chờ,
Chờ tàu đi, chờ mãi
Rồi ngủ từ bao giờ.
Nửa ngày sau, ông tỉnh,
Nhìn ra ngoài, ngạc nhiên
Thấy lại chính ga cũ
Cảnh và người thân quen.
Ông nghĩ: Thật kỳ lạ,
Mình đi Matxcơva,
Làm xong bao nhiêu việc
Rồi lại trở vè nhà.
Ấy thế mà như thể
Mình ngủ một giấc say
Như chẳng đi đâu cả,
Như vẫn luôn ở đây.
Con người kia đãng trí
Sống ở phố Họa Mi,
Đãng trí như vậy đấy,
Tin hay không thì tùy.
16
KHỞI NGHĨA LAM SƠN
Vốn là một hào kiệt
Của vùng đất Lam Sơn,
Lê Lợi thấy giặc ác
Mà nung nấu căm hờn.
Ông quyết định khởi nghĩa,
Chiêu mộ người hiền tài.
Nhiều người đã hưởng ứng
Trong Hội thề Lũng Nhai.
Một Hội thề lịch sử,
Sống mãi với non sông.
Tất cả thề giết giặc,
Trên và dưới một lòng.
*
Năm Một Bốn Một Sáu,
Một buổi sáng ban mai,
Lê Lợi và các tướng
Mở Hội Thề Lũng Nhai.
Cùng mười tám vị khác
Chung chí hướng như mình,
Lê Lợi tế trời đất,
Thề chống lại giặc Minh.
Thề có trời chứng dám,
Mười chín người khác nhau,
Nay qui tụ làm một,
Đặt vận nước lên đầu.
Mười chín vị hào kiệt,
Từ gần và từ xa,
Thề thương yêu, đoàn kết
Như anh em một nhà.
Rằng chúng tôi, Lê Lợi,
Cùng Nguyễn Trãi, Lê Ninh,
Đinh Lễ, Lê Nhân Chú,
Trịnh Khả, Lê Văn Ninh...
Thề một lòng giết giặc,
Thề cứu giúp dân lành.
Ai có lòng dạ khác
Sẽ chết bởi thần linh.
Hội thề ấy lịch sử
Đã thu hút nhều người
Về Lam Sơn tụ nghĩa,
Quyết hành đạo thay trời.
Nó cũng là cơ sở,
Bước quan trọng ban đầu
Để Lam Sơn khởi nghĩa
Khoảng gần hai năm sau.
*
Lúc đầu, cuộc khởi nghĩa
Gặp rất nhiều khó khăn.
Phải ba lần lên núi,
Thiếu vũ khí, đói ăn.
Năm Một Bốn Một Tám
Giặc bao vây nghĩa quân
Lê Lai phải liều chết
Để Lê Lợi thoát thân.
*
Theo Đại Việt thông sử,
Quan Nội hầu Lê Lai
Là người tính cương trực,
Có chí và có tài.
Năm Một Bốn Một Tám,
Vua phất ngọn cờ đào,
Bị thua ở Mường Một,
Phải chạy về Trịnh Cao.
Đó là nơi hẻo lánh,
Nhiều thú dữ, ít dân.
Giặc bao vây tứ phía,
Tình thế hiểm nguy dần.
Nghĩa quân thì lính ít,
Lương thực thiếu bất ngờ.
Ở lại sẽ chết hết.
Làm thế nào bây giờ?
Đó là điều day dứt,
Làm phiền lòng Lê Lai,
Khiến bồi hồi nhớ lại
Ngày Hội thề Lũng Nhai.
Cuối cùng ông đề nghị
Đức vua cởi áo bào
Để ông mặc, ra trận,
Mở đường huyết xem sao.
Và rồi, đóng giả chúa,
Cưỡi voi phủ lụa vàng,
Ông cùng năm trăm lính,
Xông vào giặc, thét vang:
“Ta là vua Lê Lợi,
Quyết chiến cùng chúng mày!
Đứa nào không muốn sống,
Hãy nhanh chóng ra đây!”
Rồi tả xung, hữu đột,
Ông chém giết hồi lâu,
Cho đến khi đuối sức,
Bị giặc bắt, chém đầu.
Trong khi đó, Lê Lợi
Và binh tướng của ông
Thoát vây, sau lãnh đạo
Cuộc khởi nghĩa thành công.
Cảm vì lòng trung nghĩa,
Vua Lê Lợi cho người
Tìm xác ông chôn cất,
Lập miếu thờ suốt đời.
*
Để củng cố lực lượng,
Năm Một Bốn Hai Ba
Lê Lợi cho người gặp
Đề nghị giặc tạm hòa.
Quân Minh đã chấp nhận.
Ông quay lại Lam Sơn,
Tuyển binh, tích lương thực,
Vẫn nung nấu căm hờn.
Nhưng quân Minh trở mặt
Tháng Mười Hai năm sau.
Và một giai đoạn mới
Của khởi nghĩa bắt đầu.
*
Nghe theo lời Nguyễn Chích,
Lê Lợi và các quan
Năm hăm bốn, quyết định
Đem quân đánh Nghệ An.
Vào tháng Mười năm ấy,
Ông chiếm đồn Đa Căng.
Ở Trà Lân, xứ Nghệ,
Quân giặc phải ra hàng.
Nhân đà thắng, Lê Lợi
Đánh, mở rộng địa bàn.
Sau chưa đầy một tháng
Giải phóng toàn Nghệ An.
Rồi tháng Tám năm tiếp,
Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân
Đem một đội quân mạnh
Nhằm phía Nam, tiến dần.
Quân khởi nghĩa nhanh chóng
Đánh tan quân nhà Minh,
Thế chẻ tre, giải phóng
Thuận Hóa và Tân Bình.
Vậy là trong mười tháng
Lê Lợi cùng nghĩa quân
Làm chủ từ Thanh Hóa
Đến tận đèo Hải Vân.
*
Tháng Chín năm Hai Sáu,
Đang thừa thắng, quân ta
Quyết định sẽ Bắc Tiến,
Theo ba mũi đánh ra.
Một mũi chiếm Tây Bắc
Ngăn viện binh Trung Hoa.
Mũi thứ hai giải phóng
Vùng đất sông Nhị Hà.
Mũi này sẽ ngăn giặc
Rút về từ Nghệ An.
Mũi thứ ba, mũi chính,
Tiến thẳng ra Đông Quan.
Được nhân dân ủng hộ.
Cả ba mũi thành công.
Giặc Minh bị cô lập,
Chốt trong thành Thăng Long.
*
Năm Một Bốn Hai Sáu,
Vương Thông, tướng nhà Minh,
Sang Đông Quan tiếp viện
Cùng năm vạn chiến binh.
Hắn quyết đánh Cao Bộ,
Thuộc Chương Mỹ ngày nay.
Các tướng của Lê Lợi
Biết trước âm mưu này,
Nên đã sớm ra lệnh
Lên kế hoạch phục binh
Ở Tốt Động, Chúc Động,
Lặng lẽ chờ quân Minh.
Cuối cùng, khi chúng đến
Nghĩa quân liền xông ra,
Phá tan đội hình giặc,
Gươm và giáo sáng lòa.
Quân Đại Việt thắng lớn,
Bắt mười nghìn quân Minh.
Giết tại trận Trần Hiệp,
Là thượng thư bộ Hình.
Các tướng khác bị giết
Có Lý Đằng, Lý Lương.
Vương Thông may chạy thoát,
Phải liều chết mở đường.
*
Tháng Mười, năm Hai Bảy,
Hai tướng giỏi nhà Minh,
Từ biên giới tràn xuống
Cùng mười vạn viện binh.
Một đạo do tướng giỏi
Là Liễu Thăng cầm đầu
Tiến theo đường xứ Lạng,
Quyết đánh mau, thắng mau.
Đạo khác, tướng Mộc Thạnh,
Từ Vân Nam kéo sang,
Cũng hùng hổ không kém,
Tiến theo đường Hà Giang.
Bộ chỉ huy Lê Lợi
Quyết chặn chân Liễu Thăng.
Tìm cách tiêu diệt chúng,
Không cho xuống đồng bằng.
Tướng nghĩa quân, Trần Lựu,
Được lệnh dụ Liễu Thăng
Đưa vào ổ phục kích
Của ta ở Chi Lăng.
Kết quả, trong trận ấy
Liễu Thăng bị chém đầu.
Tướng Lưu Nhân, Lê Sát
Bắt sống vạn lính Tàu.
Sau khi Liễu Thăng chết,
Tướng Lương Minh lên thay.
Rồi hắn cũng bị giết
Khi chưa kịp ra tay.
Quân ta giỏi phục kích,
Diệt ba vạn quân Minh.
Lý Khánh phải tự tử,
Hắn - thượng thư bộ Binh.
Số lính giặc còn lại
Co cụm ở Xương Giang.
Ta đánh từ nhiều hướng.
Rốt cục, chúng đầu hàng.
Tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc
Cũng đầu hàng quân ta.
Hay tin, tướng Mộc Thạnh
Sợ, rút về Trung Hoa.
*
Sau thất bại của tướng
Mộc Thạnh và Liễu Thăng,
Vua Minh phải tuyên bố
Bãi binh - tức đầu hàng.
Theo tinh thần dân tộc:
Quyết chiến nhưng thân hòa.
Thắng giặc vẫn trải chiếu
Cho chúng rút về nhà,
Năm Một Bốn Hai Bảy,
Lê Lợi và Vương Thông
Cùng nhất trí gặp mặt
Ở Đông Quan, sông Hồng.
Cuộc gặp ấy được gọi
Là Hội thề Đông Quan,
Tức là một thỏa thuận
Để giặc rút an toàn
Trong thời gian năm tháng,
Không cướp bóc của dân,
Không tiến hành chiến sự
Dọc đường chúng rút quân.
Về phần mình, Đại Việt,
Để cho chúng được yên,
Cung cấp đủ lương thực,
Xe ngựa và tàu thuyền.
Các tướng giặc kéo đến
Đứng trước dinh Bồ Đề,
Lạy tạ tướng Đại Việt
Rồi lủi thủi ra về.
Hội thề - Hiệp định ấy
Cho phép mười nghìn quân
Của giặc Minh sót lại
Rút về nước dần dần.
Một trang sử chói lọi.
Một “Hội thề” vinh quang.
Ta, cháu con, phải nhớ,
Để sống cho đàng hoàng.
*
Bây giờ lại cổ tích.
Mà cổ tích hôm nay
Ông cam đoan bổ ích,
Thâm thúy và rất hay.
Một truyện rất nổi tiếng
Về khái niệm giàu nghèo.
Cũng có bài học đấy.
Thậm chí còn rất nhiều.
GIÀU, NGHÈO
Xưa, một ông già nọ
Chợt thấy có chàng trai
Ngồi một mình, buồn bã,
Chốc chốc cứ thở dài.
“Sao cháu buồn như vậy,
Trục trặc chuyện tình yêu?”
“Không, cháu đã rất cố
Mà suốt đời vẫn nghèo.”
“Hình như cháu nhầm đấy.
Cháu cũng là người giàu.”
“Ông đừng trêu cháu nữa.
Cháu có đồng nào đâu.”
“Thôi được, nếu cháu muốn,
Ta thỏa thuận thế này:
Cháu cho ta chặt đứt
Cứ mỗi một ngón tay
Ta sẽ đưa cho cháu
Đúng ba lạng vàng ròng.
Hoặc cả bàn tay cháu -
Ba mươi lạng, được không?”
Chàng trai nghe trố mắt:
“Chặt bàn tay? Không đâu!”
“Hay để ta móc mắt,
Một trăm lạng, thừa giàu?
Thế đấy, cháu không muốn.
Cháu là một chàng trai,
Mọi cái đang trước mặt,
Trông dễ coi, có tài.
Liệu cháu có đồng ý
Thành người già như ta
Để đổi lấy nghìn lạng?
Cháu không muốn thật à?
Giờ thì cháu đã biết
Cháu giàu có thế nào.
Chuyện tuổi trẻ túng thiếu
Là bình thường, không sao.”
Chàng trai nghe, chợt hiểu
Mình cũng là người giàu.
Giàu thời gian, tuổi trẻ,
Giàu cả cái trong đầu.
Chàng cúi chào rất thấp,
Cảm ơn ông già này,
Rồi đi, miệng huýt sáo,
Còn vung vẩy đôi tay.
*
Thế đấy, các cháu ạ,
Cái khái niệm nghèo giàu
Chỉ mang tính so sánh,
Không quan trọng lắm đâu.
Các cháu sáng ngủ dậy,
Thấy khỏe mạnh bình thường,
Thức ăn đầy tủ lạnh,
Được ườn èo trên giường,
Tức là đã hạnh phúc
Hơn cả một tỉ người.
Không ít trong số họ
Phải qua đêm ngoài trời.
Đấy là chưa nói việc
Không bị kết án tù
Như hàng triệu người khác
Trong xà lim tù mù.
Các cháu khó tưởng tượng
Mình thuộc tám phần trăm
Người giàu nhất thế giới
Dù chỉ ăn rồi nằm.
Lý do thật đơn giản -
Các cháu đến ngân hàng
Mở tài khoản tiết kiệm,
Với số dư làng nhàng.
Lại nữa, vì biết đọc,
Đọc bài này, rồi cười,
Tức các cháu hạnh phúc
Hơn hai tỉ con người
Không biết đọc, biết viết
Đang sống trên đời này.
Thế đấy các cháu ạ.
Một câu chuyện rất hay.
17
LÊ THÁNH TÔNG (1442 – 1497)
Sau khi giành độc lập,
Đánh đuổi giặc nhà Minh,
Lê Lợi lo xây dựng
Bộ máy nhà nước mình.
Vua nắm mọi quyền lực,
Việc hành chính, việc quân.
Giúp việc vua luôn có
Các quan lớn đại thần.
Triều đình có sáu bộ,
Là bộ Lại, bộ Binh,
Rồi Công, bộ Lễ,
Bộ Hộ và bộ Hình.
Nước chia làm năm Đạo.
Dưới đạo là Phủ, Châu.
Rồi tiếp đến làng, xã.
Mỗi triều có khác nhau.
Quân đội được tổ chức
Kiểu “ngụ binh ư nông”.
Tức thời chiến đánh giặc.
Thời bình về làm đồng.
Lê Thánh Tông cho soạn
Trọn vẹn bộ Luật Hình,
Còn gọi Luật Hồng Đức,
Rõ ràng và nghiêm minh.
Kinh tế được phát triển,
Hài hòa Nông, Công, Thương.
Khai phá đất ven biển.
Nạo vét sông, mở đường.
Lê Lợi cho xây lại
Quốc Tử Giám, trường công,
Cũng là trường đại học
Đầu tiên ở Thăng Long.
Ở các Đạo và Lộ
Có trường riêng của mình.
Ai cũng có quyền học
Và ghi tên thí sinh.
Nhưng có hai đối tượng
Không được học làm quan.
Đó là bọn tội phạm
Và những người hát, đàn.
Là vì vào thời ấy,
Chính quyền quan niệm sai,
Gọi những người đàn hát
Là “xướng ca vô loài”.
Nội dung được giảng dạy -
Sách Đạo Nho giáo điều.
Phật Giáo và Đạo Giáo
Bị hạn chế rất nhiều.
Kỳ thi ở Đạo, Lộ
Được gọi là thi Hương.
Người đậu, thành Hương Cống,
Cũng là bậc khác thường.
Cao hơn là thi Hội,
Tổ chức ở Kinh Thành.
Ai đậu kỳ thi ấy
Được tham dự thi Đình.
Thi Đình chọn tiến sĩ,
Với ba ngôi hàng đầu
Là Trạng Nguyên, Bảng Nhãn
Và Thám Hoa xếp sau.
Những người đậu tiến sĩ
Được nhà vua tặng quà,
Ban áo mũ, tước phẩm,
Vinh quy thăm mẹ cha.
Thời Lê sơ tổ chức
Hăm sáu khoa thi Đình,
Chọn gần nghìn tiến sĩ
Trong vô vàn thí sinh.
Mà thi thời ấy khác,
Khác hẳn thi bây giờ.
Mỗi người một lều chõng,
Và chỉ thi văn, thơ…
Đây là giai đoạn hiếm
Phát triển của non sông,
Đặc biệt dưới triều đại
Của vua Lê Thánh Tông.
Bây giờ ông sẽ kể
Câu chuyện ông vua này.
Một vua hiền, tài giỏi
Loại hiếm có xưa nay.
*
Lê Thánh Tông hoàng đế,
Tên thật Lê Tư Thành,
Một nhà văn hóa lớn,
Một ông vua anh minh.
Ngài đã đưa dân tộc
Lên một kỷ nguyên vàng
Của thời đại phong kiến,
Một trang sử vẻ vang.
Ngài tiến hành cải cách
Nhiều lĩnh vực, nhiều ngành,
Còn mở mang bờ cõi,
Chiếm kinh đô Chiêm Thành.
Mẹ Ngài suýt bị hại
Vì chỉ là tiệp dư,
Nếu không có Nguyễn Trãi
Và Thị Lộ nhân từ.
Hai mẹ con được họ
Đưa đến chùa Huy Văn,
Nay Đống Đa, Hà Nội,
Lánh nạn, sống thanh bần.
Ngẫu nhiên do phe cánh,
Mà Ngài được lên ngôi,
Niên hiệu là Quang Thuận,
Năm Một Bốn Sáu mươi.
Vua liền cho xét lại
Vụ án Lệ Chi Viên.
Minh oan cho Thị Lộ,
Phục danh người đức hiền.
Ngài phục danh, lập miếu
Thờ Nguyễn Trãi ân nhân.
Con cái Trần Nguyên Hãn
Và các vị công thần
Trước từng theo Lê Lợi,
Bị kẻ xấu giết oan,
Giờ được cấp ruộng đất
Và mời ra làm quan.
Những ai trước đổi họ
Thành họ Lê, bây giờ
Có thể dùng họ cũ
Mà không bị nghi ngờ.
Ngài cho sắp xếp lại
Các chức quan trong triều.
Ai đến sáu lăm tuổi
Đều thôi chức, về hưu.
Lệ cha truyền con nối
Các chức tước xưa nay
Cũng bị Ngài hủy bỏ.
Nhiều người ghét việc này.
Quan phải là người giỏi.
Mở thi chọn nhân tài.
Giỏi mới làm được việc -
Đó là lệnh của Ngài.
Vua đặc biệt chú trọng
Làm ruộng và chăn tằm,
Bắt khai hoang, thêm vụ,
Để có ăn quanh năm.
Ngài còn ra chỉ dụ
Tổ chức lễ hạ điền,
Tức xuống ruộng cày cấy.
Quan phải làm đầu tiên.
Ở mỗi đạo, tức tỉnh,
Vua lập nhà Tế Sinh
Nuôi người già đơn độc,
Cấp thuốc lúc bệnh tình.
Ở nơi nào có dịch,
Quan phải đến tận nơi
Bốc thuốc và châm cứu
Cho từng nhà, từng người.
Thời ấy dân mộ Phật,
Thường có lệ quyên tiền
Xây thêm chùa, vua nói
Đó là điều không nên.
Rằng mộ Phật là tốt,
Nhưng nên mộ trong lòng,
Để tiền làm việc khác,
Nhất là những việc công.
Ngài còn cấm người sống
Khi tổ chức ma chay
Không bày trò đàn sáo
Và ăn uống suốt ngày.
Ngài nói, đã nhận lễ
Thì phải cho rước dâu,
Không bắt người ta đợi
Đến ba bốn năm sau.
Để cư xử đúng mực,
Ngài đặt hăm bốn điều,
Các quan phải giảng giải,
Làm trước để dân theo.
Vua bắt mười hai đạo
Vẽ bản đồ đạo nhà,
Có ghi rõ sông núi,
Thành bản đồ quốc gia.
Ngài đích thân xuống chiếu
Yêu cầu Ngô Sĩ Liên
Viết Đại Việt Sử Ký
Mười lăm quyển, nhiều thiên.
Năm quyển thời Bắc Thuộc.
Mười quyển từ Ngô Quyền
Đến vua Lê Thái Tổ,
Viết theo dạng biên niên.
Vua rất trọng giáo dục,
Khuyến khích học Ngũ Kinh,
Thường đứng làm chủ khảo
Trong các kỳ thi Đình.
Ngài lập lệ danh xướng,
Đọc tên các ông Nghè.
Ai đậu thì ở lại,
Ai trượt phải ra về.
Các ông Nghè, Tiến sĩ
Được Ngài mời vào cung,
Ban áo mũ, dự tiệc,
Thật vinh dự vô cùng.
Rồi vinh qui, mũ lọng,
Họ trở về quê nhà,
Cảm ơn thầy dạy dỗ,
Bái tổ tiên, mẹ cha.
Lê Thánh Tông cổ xúy
Việc thi cử, học hành.
Rất nhiều người đỗ đạt
Rồi thành công, thành danh.
Ông là người khởi xướng
Việc dựng bia ghi tên
Các tiến sĩ Văn Miếu,
Để khích lệ người hiền.
Vua cho xây thư viện
Ở khu Thái Học đường,
Ngay phía sau Văn Miếu,
Vốn xưa là ngôi trường.
Ngài còn xây ký túc
Cho người xa tới đây.
Việc ăn ở và học
Ở ngay trong khu này.
Lê Thánh Tông hoàng đế
Còn là một nhà thơ.
Hơn thế, nhà thơ lớn,
Được yêu đến bây giờ.
Thơ Ngài đẹp, ý nhị,
Uyên thâm mà trữ tình,
Như bức tranh thủy mặc,
Ý và lời lung linh.
Cùng hăm bảy vị khác,
Ngài lập Hội Tao Đàn
Gồm nhị thập bát tú,
Câu lạc bộ thơ quan.
Vua tôi thường xướng họa.
Quan có Thân Nhân Trung,
Đỗ Nhuận và Thái Thuận...
Thật tao nhã vô cùng.
Rất ham mê văn học,
Nhưng không quên việc binh,
Vua nhắc phải luyện võ
Ngay cả trong thời bình.
Ngài mở hội thi võ,
Cứ ba năm một lần.
Ai trượt bị giáng chức,
Ai đỗ được thăng quan.
Nhờ thế mà tướng sĩ
Rất ham mê tập tành,
Vừa khỏe, vừa đắc dụng
Khi đất nước chiến tranh.
Gây sự với Đại Việt,
Năm một bốn bảy không,
Cùng mười vạn quân thủy,
Vua Chiêm Thành tấn công.
Hắn còn lén sai sứ
Sang cầu cứu nhà Minh.
Cùng hai mươi vạn lính,
Ngài quyết đánh Chiêm Thành.
Tháng Ba năm bảy mốt
Ngài chiếm được Đồ Bàn.
Kinh đô Chiêm thất thủ,
Lính chết hàng chục ngàn.
Ngài nhập vào Đại Việt
Cả miền Bắc nước Chiêm,
Mãi đến tận vùng đất
Nay là tỉnh Phú Yên.
Năm một bốn bảy chín,
Lại có loạn Ai Lao.
Ngài sai Lê Thọ Vực
Năm hướng đánh sang Lào.
Quân Đại Việt đại thắng.
Ai Lao và Chiêm Thành
Đều chấp nhận cống nạp.
Đất nước được hòa bình.
Một đóng góp quan trọng
Của vua Lê Thánh Tông
Là Bộ luật Hồng Đức,
Biên soạn rất dày công.
So với các luật trước,
Luật này tốt hơn nhiều,
Gồm mười ba chương lớn
Và hơn bảy trăm điều.
Nền tảng của bộ luật
Là tư tưởng Đạo Nho,
Luôn lấy dân làm gốc
Để xây dựng cơ đồ.
Một, giữ nghiêm phép nước.
Hai, chống giặc ngoại xâm.
Ba, chấn hưng nông nghiệp.
Bốn, lo công, thương, lâm.
Năm, bài trừ tham nhũng.
Sáu, bảo vệ thuần phong.
Bảy, bênh vực phụ nữ.
Tám, xét xử khoan hồng.
Ngài nói: “Luật bình đẳng
Với tất cả mọi người,
Với dân chúng cả nước,
Cả ta và các ngươi”.
Có lần Ngài cách chức
Một đô đốc, quan to,
Chỉ vì con người ấy
Có hành vi côn đồ.
Năm một bốn chín bảy
Lê Thánh Tông qua đời,
Hưởng thọ năm lăm tuổi,
Sự nghiệp vẫn sáng ngời.
Là anh hùng dân tộc,
Là một vị anh quân,
Một nhà chiến lược lớn
Với tâm hồn thi nhân,
Vua chấn hưng văn hóa,
Mở mang đất nước mình.
Trong nhị thập bát tú,
Là vì sao lung linh.
*
Các cháu chờ cổ tích?
Ồ, có ngay, có ngay.
Cổ tích nước ngoài nhé?
Tất nhiên là rất hay.
Nhưng hơi dài một chút.
Dài thì dài, hề gì.
Chuyện cổ tích nước Pháp,
Hấp dẫn và ly kỳ.
NGƯỜI ĐẸP VÀ QUÁI VẬT
Ngày xưa ở nước Pháp
Có một lái buôn giàu.
Ông có ba con gái
Tuổi sàn sàn như nhau.
Cô út rất xinh đẹp,
Đẹp đến mức mọi người
Gọi cô là Người Đẹp
Ngay khi mới lên mười.
Khác với hai cô chị
Vốn ích kỷ, đành hanh,
Cô là người tốt bụng,
Trung thực và chân thành.
Một lần, do gặp bão,
Các tàu buôn của ông
Bị chìm hết, rốt cục,
Ông trở thành tay không.
Dọn đến ngôi nhà nhỏ
Ở vùng quê thanh bình,
Họ buộc phải lao động
Để tự nuôi sống mình.
Mấy năm sau, bất chợt
Một trong số con tàu,
Nghe nói vừa cập cảng.
Ông vợi bớt buồn rầu.
Trước khi lên thành phố
Lo việc này, ông ta
Hỏi các cô con gái
Muốn mua gì làm quà.
Hai cô lớn nhanh nhảu
Đòi quần áo, nhẫn, vòng.
Còn Người Đẹp khiêm tốn,
Chỉ xin một bông hồng.
Đến nơi, ông thất vọng:
Người ta giữ tàu này
Để thế nợ, do vậy
Ông quay về trắng tay.
Dọc đường ông bị lạc,
Sâu trong rừng, tối đen,
Cuối cùng ông đến được
Một nơi có ánh đèn.
Lại gần hơn thì thấy
Đó là một lâu đài
Rất cổ và lộng lẫy,
Bên trong không có ai.
Thấy thức ăn, đồ uống
Được dọn sẵn, đang chờ,
Ông ăn rồi đi ngủ,
Dẫu vẫn còn nghi ngờ.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy,
Chợt thấy một vườn hồng,
Nhớ lời Người Đẹp dặn,
Ông liền hái một bông.
Một Quái Vật gớm ghiếc
Xuất hiện ngay tức thì.
Trông nó thật đáng sợ,
Mặt lông lá, đen xì.
Nó bảo nó là chủ
Tòa lâu đài cổ này.
Nó cho ông ăn ngủ,
Thế mà rồi giờ đây
Ông trả ơn bằng cách
Hái hoa trong vườn hồng.
Giờ cái giá phải trả
Lại chính là mạng ông.
Ông lái buôn hoảng sợ,
Kể chuyện con xin hoa.
Quái Vật nghe, cho phép
Ông mang nó về nhà
Với điều kiện Người Đẹp
Phải tự mình đến đây
Để thay cha, hoặc giả
Ông trở lại nơi này.
Nếu con gái ông đến
Là do cô muốn đi.
Không ai được ép buộc,
Ép buộc chẳng ích gì.
Ông lái buôn đồng ý,
Rồi lên ngựa quay về.
Đến nhà, ông thành thật
Kể mọi chuyện con nghe.
Cô con út, Người Đẹp,
Nằng nặc xin thay ông.
Cuối cùng ông chấp nhận,
Dẫu đau đớn trong lòng.
Ông chấp nhận bởi lẽ
Đêm hôm trước ông mơ
Thấy bà tiên báo trước
Điều tốt đẹp đang chờ.
*
Quái Vật tiếp Người Đẹp
Rất lịch sự, đàng hoàng,
Thậm chí còn nói nó
Là nô lệ của nàng;
Rằng nàng là bà chủ
Của cả lâu đài này.
Thức ăn luôn dọn sẵn,
Tủ quần áo chất đầy.
Nó cầu xin Người Đẹp
Hãy lấy nó làm chồng,
Nhưng đêm nào cũng vậy,
Nàng lắc đầu, nói không.
Sau mỗi lần từ chối,
Đêm nàng mơ thấy nàng
Bị một hoàng tử trách
Sao không chịu lấy chàng.
Nàng không nghĩ Quái Vật
Chính là hoàng tử này,
Mà nghĩ có thể nó
Đang giữ chàng đâu đây.
Nàng lặng lẽ tìm kiếm
Khắp nơi trong lâu đài.
Nàng thấy nhiều cái lạ,
Nhưng không tìm thấy ai.
Suốt mấy tháng, cứ vậy,
Nàng sống trong giàu sang
Với rất nhiều đầy tớ
Chờ được hầu hạ nàng.
Nàng muốn gì cũng có,
Có vườn hồng, bầu trời,
Có sách để nàng đọc,
Có đàn để nàng chơi.
Bỗng một hôm Người Đẹp
Tư lự buồn, nhớ nhà.
Nàng xin, và Quái Vật
Cho nàng về thăm cha.
Nhưng nàng phải quay lại
Chính xác sau một tuần.
Rồi nó đưa Người Đẹp
Chiếc nhẫn và gương thần.
Chiếc gương cho nàng biết
Mọi chuyện ở lâu đài.
Còn sờ vào chiếc nhẫn,
Rồi xoay vòng, một, hai,
Lập tức chiếc nhẫn ấy
Đưa nàng về rất nhanh
Với Quái Vật tốt bụng,
Nhẹ nhàng và yên lành.
*
Lại nói bố Người Đẹp
Từ khu rừng về làng,
Được Quái Vật gửi tặng
Một hòm lớn bạc vàng.
Nhớ số vàng bạc ấy,
Hai cô lớn lấy chồng.
Họ tưởng họ hạnh phúc
Nhưng rốt cục lại không.
Anh chồng cô chị cả
Đẹp trai và thông minh,
Nhưng lười biếng, ích kỷ
Chỉ biết chăm lo mình.
Anh chồng của cô thứ
Là một người tài hoa,
Nhưng chỉ mê cờ bạc,
Và lười biếng việc nhà.
Nên khi thấy Người Đẹp
Quay về như nàng tiên,
Người đeo đầy trang sức,
Quần áo loại đắt tiên,
Hai ả rất ghen tỵ,
Liền tìm cách hại nàng,
Để cho bõ ghen ghét,
Để chiếm lấy bạc vàng.
Khi biết được Người Đẹp
Phải về sau một tuần,
Chúng giả vờ quyến luyến
Rồi giở chuyện tình thân
Cứ đòi nàng ở lại,
Dù chỉ thêm một ngày.
Người Đẹp đành đồng ý.
Do dễ tin, thơ ngây
Nàng không biết các chị
Muốn Quái Vật giết mình
Vì nhỡ hẹn quay lại.
Một mưu kế thông minh.
Bất chợt nàng chợt tỉnh,
Liền lấy chiếc gương thần,
Nhìn thì thấy Quái Vật
Đang thoi thóp ngoài sân.
Nàng liền xoay chiếc nhẫn,
Một loáng đến lâu đài,
Thấy Quái Vật gần chết,
Đang rên rỉ, thở dài.
Thấy Người Đẹp, nó nói,
Yếu ớt và dịu dàng:
“Nàng không giữ lời hứa,
Mà tôi thì yêu nàng...”
Người Đẹp ôm nó khóc,
Mắt đẫm lệ, long lanh:
“Đừng chết! Không, đừng chết!
Tôi cũng yêu, yêu anh!
Trước chỉ là tình bạn,
Nhưng bây giờ thì không.
Tôi cần anh để sống.
Tôi lấy anh làm chồng!”
Nàng nói xong, đúng lúc
Giọt nước mắt của nàng
Rơi lên người Quái Vật,
Một tiếng nổ âm vang
Rồi tiếng trống, tiếng nhạc,
Những chùm lớn pháo hoa,
Rơi như mưa xuống đất,
Cả không gian chói lòa.
Người Đẹp bỗng ngơ ngác:
Quái Vật đâu, ở đâu?
Nàng hoảng sợ, lại khóc,
Pháo vẫn nổ trên đầu.
“Thưa Người Đẹp, Quái Vật
Đang quì đây, dưới chân
Một cô gái nhân hậu
Và xinh đẹp tuyệt trần.”
Nàng nhìn xuống, chợt thấy
Một hoàng tử bên nàng,
Ăn mặc thật lộng lẫy,
Dáng điệu thật cao sang.
Hoàng Tử nói, ngày trước
Một phù thủy, tiếc thay,
Biến chàng thành quái vật,
Bắt phải sống nơi này.
Và chỉ khi ai đó,
Yêu thương chàng suốt đời
Thì lời nguyền mới hết,
Và chàng lại thành người.
Bỗng từ trời bay xuống
Một bà tiên mảnh mai.
Hoàng Tử và Người Đẹp
Theo bà vào lâu đài.
“Con vượt qua thử thách
Rất đáng khen, và rồi
Con sẽ thành hoàng hậu,
Ta nghĩ cũng không tồi.
Còn đây, - bà nói tiếp. -
Đây là hai chị con.
Chúng độc ác, ích kỷ,
Không trái tim, tâm hồn.
Vì vậy ta bắt chúng
Thành tượng đồng, đứng đây
Để nhìn con hạnh phúc,
Để ghen tức hàng ngày.”
Rồi và vung chiếc gậy,
Lập tức, tòa lâu đài
Bỗng biến thành cung điện,
Có lính gác trong ngoài.
Tiếp đến là lễ cưới,
Như trong một giấc mơ.
Hai người sống hạnh phúc
Mãi đến tận bây giờ.
18
CÁC NHÂN VẬT NỔI TIẾNG ĐỜI LÊ SƠ
Hôm nay ông sẽ kể
Về một người tài ba,
Là thi hào Nguyễn Trãi,
Làm vẻ vang nước nhà.
Ông là nhà quân sự,
Nhà chính trị đại tài,
Một anh hùng dân tộc,
Có số phận bi ai.
Tiếp đến ông sẽ kể,
Dẫu qua loa vài lời,
Về một số nhân vật
Để tiếng tốt cho đời.
NGUYỄN TRÃI (1380 – 1442)
Khi nói đến Nguyễn Trãi,
Là nói đến người hiền,
Một nhà văn hóa lớn
Và vụ Lệ Chi Viên.
Ông xuất thân cao quí,
Con của Nguyễn Phi Khanh,
Cháu ngoại Trần Nguyên Đán,
Rất giỏi đường học hành.
Ông sinh ở Chí Ngại,
Huyện Chí Linh, Hải Dương,
Sau chuyển về Thường Tín,
Sống cuộc sống dân thường.
Khi nhà Hồ thành lập,
Bố ông ra làm quan,
Đứng đầu Quốc Tử Giám,
Được xem là công thần.
Cùng lúc ấy Nguyễn Trãi
Thi đỗ Thái học sinh,
Được bổ làm Chính Chưởng
Nhờ uyên bác, thông minh.
Khi nhà Hồ sụp đổ,
Cùng nhiều quan hàng đầu
Bố ông bị giặc bắt
Rồi đưa về nước Tàu.
Từ Một Bốn Không Bảy
Ông phiêu bạt đó đây.
Không ai biết Nguyễn Trãi
Làm gì thời gian này.
Năm Một Bốn Một Sáu,
Trong Hội thề Lũng Nhai,
Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi,
Anh tài gặp anh tài.
Ông đã trình Lê Lợi
Ba lời khuyên Bình Ngô,
Hết lòng giúp minh chúa
Xây dựng lại cơ đồ.
Ông là quân sư giỏi,
Một nhà ngoại giao tài,
Người có công rất lớn
Đưa Lê Lợi lên ngai.
Khi công thành danh toại,
Triều nhà Lê, tiếc thay,
Bắt đầu chia phe cánh,
Mâu thuẫn tăng hàng ngày.
Năm Một Bốn Hai Chín,
Trần Nguyên Hãn quyên sinh
Khi Lê Lợi xuống chiếu
Bắt giam người bạn mình.
Nghe lời bọn xu nịnh,
Vua giết bạn thứ hai
Là tướng Phạm Văn Xảo,
Liêm khiết và có tài.
Rồi nhiều công thần khác,
Liên quan hai người này,
Cũng bị giết thê thảm,
Kêu trời, trời có hay.
Đại công thần Nguyễn Trãi
Cũng bị vua giam cầm,
Xem thường, không sử dụng
Và quên lãng nhiều năm.
Khi Lê Thái Tổ mất,
Lê Thái Tông lên thay,
Nguyễn Trãi được trọng dụng,
Dạy cho ông vua này.
Nhưng rồi lại phe cánh,
Lại chước quỉ mưu ma,
Nguyễn Trãi lại thất sủng
Vì những lời gièm pha.
Năm Một Bốn Ba Tám,
Ông lui về Côn Sơn,
Điền trang của ông ngoại,
Giữa rừng thông xanh rờn.
Và rồi cuối cùng đến
Cái án được lưu truyền
Như tiếng kêu oan ức -
Vụ án Lệ Chi Viên.
Năm Bốn Hai, tháng Chín,
Hai mươi tuổi, Thái Tông
Cùng một đoàn bộ xậu,
Đi tuần ở miền Đông.
Đến Chí Linh, Nguyễn Trãi
Mời vua ghé chơi chùa.
Lúc về, nàng Thị Lộ
Ông cho theo hầu vua.
Nguyễn Thị Lộ lúc ấy
Đã bốn mươi tuổi đời,
Là thiếp của Nguyễn Trãi,
Đa tình và xinh tươi.
Phần vì đẹp, khéo nói,
Phần vì tài văn chương,
Bà được vua gần gũi
Và yêu quí khác thường.
Giữa đường vua dừng lại
Ở quán Lệ Chi Viên,
Tức là quán Vườn Vải,
Nghỉ ngơi và định thiền.
Đêm hôm ấy, bất chợt
Vua đổ bệnh, qua đời.
Chỉ một mình Thị Lộ
Luôn túc trực bên người.
Đến nay vẫn chưa biết
Vì sao vua băng hà.
Chỉ hai người, vua chết
Bên bà, hay trên bà?
Rồi bà và Nguyễn Trãi
Bị buộc tội tày trời,
Lệnh tru di tam tộc,
Giết ba họ, ba đời.
Mười mấy ngày sau đó,
Lệnh đã được thi hành.
Nguyễn Trãi cùng ba họ
Bị nhà Lê hành hình.
Một anh hùng dân tộc,
Một khai quốc công thần
Đã bị giết thế đấy,
Vô lý và bất nhân.
Ngẫm mà thương số phận
Của các bậc đại thần
Cái thời mông muội ấy,
Cái thời vua hôn quân.
Phù vua và cứu chúa,
Để đưa vua lên ngai.
Vua nhỏ nhen, quay lại
Giết các bậc hiền tài.
Sau khi Nguyễn Trãi chết,
Các tác phẩm của ông
Bị đốt sạch, phá sạch -
Một cảnh tượng đau lòng.
Những áng thơ tuyệt đẹp
Của một đại thi nhân
Bị biến thành tro bụi
Như xưa ở nước Tần.
Hăm hai năm sau đó,
Lê Thánh Tông lên ngôi,
Minh oan cho Nguyễn Trãi,
Nhưng cũng việc đã rồi.
*
Có truyền thuyết kể lại,
Bố ông, Nguyễn Phi Khanh,
Xưa làm nghề dạy học,
Định cuốc vườn cỏ gianh.
Đêm ông mơ, bất chợt
Có một người đàn bà
Dẫn theo một lũ trẻ
Đến nằn nì xin tha.
Bà xin ông hoãn lại
Thư thư một vài ngày
Để bà tìm chỗ mới
Đi khỏi khu vườn này.
Sáng dậy ông đã thấy,
Lúc dọn vườn, học trò
Giết chết một bầy rắn.
Ông giật mình, thấy lo.
Tối ấy, khi đọc sách
Có con rắn để rơi
Từ trên xà giọt máu,
Rơi xuống đúng chữ “đời”.
Giọt máu trên cuốn sách
Thấm xuống đúng ba trang.
Ông lờ mờ chợt hiểu,
Ngồi lặng yên, bàng hoàng.
Về sau con rắn ấy,
Với ý định trả thù,
Biến thành Nguyễn Thị Lộ,
Đưa ba họ vào tù.
Khi bà Nguyễn Thị Lộ
Bị dìm chết dưới sông,
Bà lại thành con rắn,
Lẩn trốn dưới đám rong.
Theo các nhà sử học,
Truyền thuyết này lạ đời.
Do nhà Lê bịa đặt
Để lừa dối mọi người.
Sự thật thì vụ án
Do nhà Lê gây ra
Do tranh giành quyền lực
Trong nội bộ hoàng gia.
Chỉ oan cho Thị Lộ,
Phi lý và bất ngờ.
Một vụ án oan khuất.
Đau đến tận bây giờ.
TRẦN NGUYÊN HÃN (? – 1429)
Một trong mười chín vị
Dự Hội thề Lũng Nhai,
Ông là một danh tướng,
Có đức và có tài.
Ông chiến đấu dũng cảm,
Không quản ngại hy sinh
Giúp chủ tướng Lê Lợi
Đánh bại giặc nhà Minh.
Thế mà đời oan nghiệt,
Khi kháng chiến thành công,
Chính vị chủ tướng ấy
Đã nỡ lòng giết ông.
Lời thề Lũng Nhai ấy,
Hỡi ôi nay còn đâu?
Thương cho Trần Nguyên Hãn
Dưới chín suối ngậm sầu.
Xuất thân, Trần Nguyên Hãn
Là dòng dõi họ Trần,
Chắt của Trần Quang Khải,
Nguyễn Trãi - bà con gần.
Ông sinh ở Lập Thạch,
Tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.
Có một số học giả
Không nhất trí điều này.
Sách cũ có kể lại
Ông gánh dầu bán rong,
Tìm người chung chí hướng
Bàn kế cứu non sông.
Cuối cùng Trần Nguyên Hãn
Và Nguyễn Trãi tiên sinh
Hội tụ với Lê Lợi
Cùng chống giặc nhà Minh.
“Tang Thương Ngẫu Lục” chép
Rằng Nguyễn Trãi và ông
Lần đầu gặp Lê Lợi
Rất không vui trong lòng
Khi thấy vị chủ tướng
Xé thịt ăn bằng tay,
Nhồm nhoàm và thô lỗ,
Nên họ bỏ đi ngay.
Lần thứ hai, khi đến
Thấy Lê Lợi mải mê
Đọc binh thư không chán,
Họ ở lại, không về.
Hai ông được trọng dụng.
Nguyễn Trãi làm quân sư.
Nguyên Hãn làm soái tướng
Gian khổ chẳng hề từ.
Khi còn ở Thuận Hóa,
Ông đánh bại quân Minh,
Dù quân chúng áp đảo,
Trong trận đánh Tân Bình.
Sau đó là chiến thắng
Trong trận Đông Bộ Đầu
Khi ông và Lê Lợi
Đánh ra Bắc cùng nhau.
Ông cũng là chủ soái
Trận đánh thành Xương Giang,
Một trận đánh quyết định
Khiến giặc phải đầu hàng.
Về chức, sau Lê Lợi,
Trần Nguyên Hãn thứ hai,
Cao hơn cả Nguyễn Trãi,
Tạm gác chuyện đức, tài.
Trong danh sách Đại Việt
Ở Hội thề Đông Quan,
Ông chỉ sau Lê Lợi
Khi hai bên nghị bàn.
Năm Một Bốn Hai Chín,
Ông xin phép nhà vua
Được lui về trí sĩ,
Bên vườn thuốc, sân chùa.
Có sách bảo ông nói,
Rằng Lê Lợi bề ngoài
Giống Việt vương Câu Tiễn,
Nên khó ở với ngài.
Câu Tiễn mép như quạ,
Ranh ma, không thực lòng.
Có thể ông nói thế.
Cũng có thể là không.
Hơn thế, vua khó chịu
Khi thấy ông xây nhà
To đẹp như phủ đệ
Mà nghĩ chắc gian tà.
Vua nghi ông phản nghịch,
Nên ra lệnh bắt ông.
Giữa đường ông tự tử
Bằng cách nhảy xuống sông.
Trước khi chết ông nói:
“Hoàng thượng đã cùng ta
Xưa vào sinh ra tử,
Nay nghe lời gièm pha
Mà bắt ta phải chết.
Hỏi trời, trời biết không?”
Trời chưa kịp đáp lại
Thì nước đã dìm ông.
Về sau, Trần Nguyên Hãn
Được nhà Lê minh oan.
Nhưng con cháu nhất mực
Không chịu ra làm quan.
Lê Lợi là minh chủ,
Có lúc đã không minh,
Nhưng nhân dân yêu quí
Vị tướng giỏi của mình.
Nhiều nơi trong cả nước,
Nhất là vùng Sơn Đông,
Nơi ông đã tự tử,
Dựng đền thờ thờ ông.
NGÔ SĨ LIÊN (thế kỷ 15)
Nhà sử học nổi tiếng,
Ông là người hiền tài,
Thi và đậu tiến sĩ
Năm Một Bốn Bốn Hai.
Ông người làng Chúc Lý,
Huyện Chương Mỹ ngày nay,
Chết, thọ chín tám tuổi,
Tuổi hiếm vào thời này.
Ông là tác giả chính
Bộ Sử ký Toàn Thư
Của đất nước Đại Việt,
Gồm hàng chục vạn từ.
Bộ sử mười lăm quyển,
Gồm từ thời Hồng Bàng
Đến Một Bốn Hai Bảy,
Sử nước nhà vẻ vang.
Như nhiều chí sĩ khác
Sống cùng thời với ông,
Ông theo, giúp Lê Lợi
Cho đến khi thành công.
Nhờ ăn nói tài giỏi,
Ông được vua nhiều lần
Gặp giặc Minh, thương thuyết,
Thay mặt cho nghĩa quân.
Ông và Nguyễn Nhữ Soạn,
Em Nguyễn Trãi Tiên sinh
Được giao việc ghi chép
Việc đời và việc binh.
LƯƠNG THẾ VINH (1441 – 1496)
Lương Thế Vinh đỗ Trạng
Năm Một Bốn Sáu Ba,
Học giỏi, hiểu biết rộng,
Lịch thiệp và tài hoa.
Ông là nhà toán học
Nổi tiếng thời Lê sơ,
Viết Đại Thành Toán Pháp,
Giá trị đến bây giờ.
Ông nghiên cứu về Phật,
Viết Thiền Môn Giáo Khoa,
Về triết lý Phật Giáo
Trong lịch sử nước nhà.
Ông còn viết thơ vịnh
Lúc nghỉ ngơi, an nhàn.
Là một trong hăm tám
Tinh tú Hội Tao Đàn.
Là con người xuất chúng
Với trí tuệ phi thường,
Được nhân dân trìu mến
Gọi ông là Trạng Lường.
*
Ông sinh ở Thiên Bản,
Huyện Vụ Bản bây giờ,
Năm Một Bốn Bốn Một.
Nhỏ, đã biết làm thơ.
Ông nổi tiếng nghịch ngợm
Giỏi về môn thả diều.
Sáng dạ, học rất khá,
Dù thường không học nhiều.
Một lần đang chơi bóng.
Bóng rơi xuống hố sâu,
Không thể lấy lên được,
Mọi người đứng nhìn nhau.
Ông lặng lẽ lấy nước
Đổ xuống hố, tất nhiên,
Nước làm quả bóng nổi.
Chỉ cúi xuống nhặt lên.
*
Có truyền thuyết kể lại,
Sứ nhà Minh, Chu Hy,
Nghe tiếng ông tài giỏi,
Không tin, nhưng hiếu kỳ,
Bèn thách ông có thể
Cân con voi được không.
Ông cho voi bước xuống
Chiếc thuyền lớn trên sông,
Rồi đánh dấu ngấn nước.
Đưa voi lên, rồi thay
Con voi bằng đá hộc,
Đúng đến ngấn nước này.
Bây giờ thì đơn giản,
Cân đống đá là xong.
Sứ Minh nhìn, phục lắm,
Nhưng còn muốn thử ông.
Hắn chỉ một trang giấy
Trong cuốn sách khá dày,
Rồi nhờ ông đo thử
Độ dày tờ giấy này.
Ông đã làm việc đó
Rất nhanh và dễ dàng,
Bằng cách đo cả cuốn
Rồi chia cho số trang.
Vị sứ thần kiêu ngạo,
Chỉ còn biết thở dài:
“Nước Nam tuy nhỏ bé,
Mà thật lắm người tài.
Năm Một Bốn Chín Sáu
Lương Thế Vinh qua đời,
Hưởng thọ năm lăm tuổi.
Một con người tuyệt vời.
*
Hôm nay, thay cổ tích,
Ông có câu chuyện này,
Một chuyện loại dã sử,
Được lưu truyền lâu nay.
TIỀN KIẾP CỦA VUA MINH THẦN TÔNG
Một tiến sĩ Đại Việt
Tên là Nguyễn Tự Cường,
Đầu thế kỷ mười bảy,
Làm Chánh sứ Bắc Phương.
Vua nhà Minh lúc ấy,
Hoàng đế Minh Thần Tông,
Khi xong phần nghi lễ
Hỏi sứ có biết không
Rằng ở nước Đại Việt
Có ngôi chùa Quang Minh.
Nó ở đâu? Lớn nhỏ?
Sứ bèn hỏi sự tình
Thì vua Minh liền đáp
Rằng ông là kiếp sau
Sư trụ trì chùa ấy.
Giờ muốn biết ở đâu.
“Số là ta, vua nói,
Khi mới sinh, trên vai
Đã có dòng chữ, viết
Ta là hậu kiếp ngài.
Ta là một hoàng đế,
Rất muốn biết vì sao,
Bây giờ muốn xóa nó,
Nhưng chưa biết cách nào”.
Sứ Việt đáp: “Nghe nói
Nhà Phật có nước thần,
Một loại nước công đức,
Có thể tẩy vết trần.
Vậy theo thần trộm nghĩ,
Muốn xóa dòng chữ này,
Phải lấy nước chùa ấy,
Cho người mang về đây.”
Về nước, sứ bẩm lại
Chuyện lạ với triều đình.
Triều đình ngay lập tức
Cho tìm chùa Quang Minh.
Thì ra là chùa Bóng,
Ngôi chùa cổ bên đường,
Tên chữ “Quang Minh Tự”,
Nay thuộc tỉnh Hải Dương.
Theo các thư tịch cổ,
Chùa xây vào đời Trần.
Ban đầu qui mô nhỏ,
Nhưng sau mở rộng dần.
Chùa có quang cảnh đẹp,
Có nhiều cây xùm xòa,
Hòn non bộ, hồ nước,
Thu hút khách gần xa.
Xưa, trụ trì chùa ấy
Là Thiền sư Huyền Chân,
Thế danh gọi là Đức,
Một người có đức, ân.
Tương truyền khi sắp tịch,
Phật báo mộng rằng ngài
Sẽ làm vua phương Bắc,
Nhờ đức độ, hiền tài.
Tỉnh dậy, gọi đệ tử,
Kể giấc mơ của ngài,
Dặn sau khi viên tịch
Hãy nhớ viết lên vai
Mấy chữ: “An Nam quốc,
Quang Minh Tự tỳ kheo”.
Các đệ tử ghi nhớ
Và chính xác làm theo.
Vậy là nhà Đại Việt
Không chỉ biết ngôi chùa,
Còn lấy nước của nó
Sang Bắc Triều dâng vua.
Minh Thần Tông hoàng đế
Thưởng ba trăm lạng vàng
Cho sứ thần Đại Việt,
Tiến sĩ Nguyễn Tự Cường.
Ông đem số vàng ấy
Cúng vào chùa Quang Minh
Để lo việc tu bổ,
Bố thí cho dân tình.
Sau, ông được cất nhắc,
Do tài và nhân từ,
Hữu Thị lang bộ Lễ,
Cuối cùng là Thượng thư.
18
MẠC ĐĂNG DUNG (1483 – 1541)
Thời Lê Sơ thịnh trị
Kéo dài mấy mươi năm
Rất tiếc đã kết thúc
Cuối thế kỷ mười lăm.
Cũng bắt đầu từ đó
Nhà Lê suy thoái dần.
Vua quan lo hưởng lạc,
Không quan tâm đến dân.
Như vua Lê Uy Mục,
Đêm nào cũng tiệc tùng,
Khi uống say, cầm kiếm
Rồi chém giết lung tung.
Nội bộ thì chia rẽ,
Các phe phái tranh quyền.
Công thần xưa bị giết,
Lòng dân rất không yên.
Dười triều Lê Tương Dực,
Trịnh Duy Sản cầm đầu
Một phe phái hiếu chiến,
Suốt mười năm đánh nhau.
Năm Một Năm Một Bảy
Dân chết đói đầy đường,
Thậm chí ở vựa lúa
Kinh Bắc và Hải Dương.
Có nhiều cuộc khởi nghĩa.
Bắt đầu là Nguyễn Tuân
Năm Một Năm Một Một,
Thu hút hàng vạn dân.
Có lần quân khởi nghĩa
Đi thành đoàn rất đông,
Từ Sơn Tây kéo xuống
Uy hiếp thành Thăng Long.
Chỉ một năm sau đó,
Trịnh Hưng và Lê Hy
Nổi lên ở xứ Nghệ,
Sau lan ra Bắc Kỳ.
Ở vùng núi Tam Đảo,
Năm Một Năm Một Năm,
Phùng Chương dấy khởi nghĩa,
Cũng gây được tiếng tăm.
Nhưng quan trọng hơn cả
Là Trần Cảo, Quảng Ninh,
Năm Một Năm Một Sáu,
Với rất nhiều nghĩa binh.
Đầu họ được cạo trọc,
Chỉ chừa ba chỏm con,
Gọi là Quân Ba Chỏm,
Danh tiếng nổi như cồn.
Quân và tướng Ba Chỏm
Đã ba lần tấn công,
Trong đó một lần thắng,
Chiếm được thành Thăng Long.
Vua Lê phải bỏ chạy
Vào Thanh Hóa thoát thân,
Rồi tổ chức chiếm lại,
Cuộc khởi nghĩa tắt dần.
Các cuộc khởi nghĩa ấy
Sớm muộn, bị dập tan.
Nhưng chính chúng đã khiến
Nhà Lê chóng suy tàn.
*
Trong bối cảnh tranh chấp
Các phe phái cung đình,
Cùng loạn lạc, khởi nghĩa,
Bất mãn của dân tình,
Xuất hiện một nhân vật,
Có khí phách anh hùng,
Vốn là một võ tướng.
Đó là Mạc Đăng Dung.
Ông nhanh chóng tiêu diệt
Các thế lực bất bình,
Giữ chức ngang tể tướng,
Nắm hết mọi quyền hành.
Năm Một Hai Năm Bảy,
Ông tiếm ngôi, xưng vương.
Bây giờ ông kể chuyện
Về người này phi thường.
*
Theo truyền thuyết kể lại,
Thì xưa Mạc Đăng Dung
Vốn dòng dõi quyền quí
Nhưng sau thành bần cùng.
Ông làm nghề đánh cá,
Bố mẹ nghề chèo đò.
Bến sông ấy rất rộng,
Thường sóng lớn, gió to.
Có một thầy địa lý,
Nghe đâu là người Tàu,
Được hai người cứu sống,
Nên mang nặng ân sâu.
Để trả ơn, họ mách
Phải táng mộ ông bà
Vào chỗ có long mạch,
Sau sẽ thành vương gia.
Mạc Đăng Dung lập tức
Đem cốt tổ tiên mình
Táng vào nơi được chỉ,
Mong có ngày hiển vinh.
Năm sau, thầy địa lý
Quay lại và bảo ông
Đem một quan tiền mới,
Tức đúng một trăm đồng
Ra ngồi trên con dốc
Cách không xa bến đò,
Thấy ai vác chữ “khẩu”
Trên lưng mình, thì cho.
Ông chờ mãi, chỉ thấy
Một ông lão ra sông,
Đeo trên vai chiếc dặm.
Ông cho ba mươi đồng.
Chiều tối, ông lão ấy
Quay về, ông lại cho
Thêm ba lăm đồng nữa,
Rồi đi xuống chèo đò.
Tối về, nghe kể lại,
Thầy địa lý lầm bầm:
“Vậy nhà ông chỉ được
Làm vua sáu lăm năm.”
*
Đức vua Mạc Thái Tổ
Tên húy Mạc Đăng Dung,
Quê nơi nay là đất
Huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.
Theo các tài liệu sử,
Ông là cháu bảy đời
Một trạng nguyên nổi tiếng -
Mạc Đỉnh Chi hơn người.
Ông thời bé nghèo khổ,
Chuyên chài lưới kiếm ăn,
Sau lớn lên, khỏe mạnh,
Đỗ “Lực sĩ xuất thân.”
Rồi thành quân túc vệ
Vào thời nhà Hậu Lê,
Đời vua Lê Uy Mục,
Đang rối ren trăm bề.
Nhờ thông minh, tài giỏi,
Được hoàng gia tin yêu,
Ông nhanh chóng thăng chức
Thành quan lớn trong triều.
Nhà Hậu Lê thời ấy
Yếu hèn và rối tung,
Và dần dần quyền lực
Vào tay Mạc Đăng Dung.
Năm Một Năm Hai bảy,
Ông tiếm ngôi nhà Lê,
Lấy hiệu Mạc Thái Tổ,
Lúc thọ địch bốn bề.
Ông đúc tiền Thông Bảo,
Lo chấn chỉnh triều đình.
Thành Hải Dương được chọn
Làm kinh đô - Dương Kinh.
Năm Một Năm Hai Bảy
Ông nhường con ngai vàng.
Mạc Thái Tông kế vị,
Ông thành Thái thượng hoàng.
Năm Một Năm Bốn Mốt
Mạc Đăng Dung băng hà,
Hưởng thọ năm chín tuổi,
Và trước lúc đi xa
Ông dặn Mạc Phúc Hải
Không lập đàn ma chay,
Mà lo việc xã tắc,
Xây dựng nước sau này.
Như thầy địa lý nọ
Có lần đã lầm bầm,
Các vua Mạc cai trị
Tất cả sáu lăm năm.
*
“Toàn thư” nói nhà Mạc
Đem đất đai nước mình,
Gồm hai châu Quy, Thuận,
Nhục nhã dâng nhà Minh.
Thực ra hai châu ấy
Thủ lĩnh Nùng Trí Cao
Và anh, Nùng Trí Hội,
Dâng Tống từ đời nào.
Người đời sau xác nhận
Ông chỉ nhường ngoại bang
Năm hang động không lớn
Thuộc vùng đất Cao Bằng.
Mà rồi năm hang ấy
Vốn không phải đất mình,
Mà do Đại Việt lấn,
Giờ trả lại nhà Minh.
Ông còn bị chê trách
Vì tự trói, đầu hàng,
Dâng cho giặc đồ cống
Cùng hai bức tượng vàng.
Vì sao ông làm vậy?
Vì nhà Lê, hai lần,
Cầu nhà Minh đánh Mạc,
Mất nước và khổ dân.
Thấy lực mình đang yếu,
Muốn tránh cảnh can qua,
Vua Mạc đành nén nhục,
Quì gối xin giảng hòa.
Nhục, một mình vua chịu,
Mang tiếng xấu với đời,
Nhưng dân tình thoát khỏi
Cảnh máu chảy, đầu rơi.
Sau cái nhục lần ấy,
Tự trói mình xin hòa,
Ông xấu hổ, lâm bệnh
Một năm rồi băng hà.
Giống như Trần Thủ Độ
Và cả Hồ Quý Ly,
Ông tiếm ngôi người khác,
Hoàn toàn không khác gì.
Vua các triều đại trước
Đã mục ruỗng, yếu hèn.
Theo qui luật lịch sử
Thì triều khác sẽ lên.
Tuy nhiên, có điều khác:
Truất ngôi Lê Cung Hoàng,
Mạc Đăng Dung không giết
Các đại thần quy hàng.
Ông cũng không hề giết
Một ai trong hoàng gia.
Một sự kiện hiếm có
Trong lịch sử nước nhà.
Những di sản kiến trúc
Và văn hóa Lê Sơ
Ông không hề phá hủy,
Nên còn mãi đến giờ.
*
Đức vua Mạc Thái Tổ
Có một thanh Long Đao
Bây giờ còn giữ được,
Thật quí giá nhường nào.
Cháu con ông giữ nó
Suốt năm trăm năm qua,
Nay thờ ở Kiến Thụy
Như vật báu quốc gia.
Đao dài hai mét rưỡi,
Nặng gần ba mươi cân,
Cán làm bằng sắt rỗng
Có chạm hình long vân.
Thanh đao của Quan Vũ
Được nói đến nhiều lần,
Tức Long Đao Yển Nguyệt,
Cũng chỉ ba bảy cân.
Châu Á giờ chỉ có
Hai long đao thế này.
Đao kia thuộc nước Tống,
Ở Trung Quốc ngày nay.
*
Hôm nay ông sẽ kể
Câu chuyện cổ tích này.
Chuyện cây hành, cây tỏi
Ta vẫn ăn hàng ngày.
Nói là chuyện hành tỏi,
Nhưng đây là chuyện người.
Chuyện cổ tích là thế,
Luôn có ý dạy đời.
AI MUA HÀNH TÔI
Ngày xưa, một nhà nọ
Có ba người con trai,
Nghèo đến mức bố chết,
Không mua nổi quan tài.
Ba người con buộc phải
Lấy chiếu bọc xác cha,
Chọn lúc mọi người ngủ,
Chôn ngoài bãi tha ma.
Đêm ấy trời rất tối,
Lại lất phất mưa ngâu.
Hai người khiêng xác chết,
Một người cầm đèn dầu.
Xác chết gầy nên nhẹ,
Dọc đường đã tuột rơi
Mà người khiêng không biết,
Nên khi ra đến nơi
Họ chỉ chôn chiếc chiếu
Rồi vội vã về nhà.
Trời tối, đèn lại tắt
Họ vấp phải xác cha.
Họ tưởng đó là xác
Của ai đấy chết đường,
Bèn đem chôn làm phúc
Ngay sát một bờ mương.
*
Đêm ấy người anh cả
Thấy có con rồng già
Đến báo mộng rằng họ
Đã chôn nhầm xác cha
Vào đúng giữa răng nó,
Gây khó chịu và đau.
Nó bảo hãy dời mộ,
Rồi anh sẽ rất giàu.
Anh Cả sáng tỉnh dậy,
Thấy vàng bạc đầy nhà.
Không cho hai em biết,
Lặng lẽ dời mộ cha.
Đêm sau rồng lại đến,
Gặp anh Hai, yêu cầu
Nhanh chóng dời mộ bố,
Rồi cũng sẽ thành giàu.
Sáng dậy anh ta thấy
Kim cương rải đầy nhà.
Cũng không cho ai biết,
Lặng lẽ dời mộ cha.
Thực chất mộ cha họ
Vẫn chưa được dời đi,
Nên đêm tiếp rồng tới
Gặp anh Ba, nằn nì.
Nó xin dời ngay mộ,
Hứa cho lọ nước thần.
Anh Ba dời, việc ấy
Cũng giấu diếm người thân.
Sáng dậy anh chỉ thấy
Một chiếc bình bình thường,
Hình như trong đựng nước.
Anh đặt nó đầu giường.
Trong khi chồng đi vắng,
Nhìn thấy chiếc bình này,
Vì tò mò, cô vợ
Đổ ít nước ra tay.
Lập tức tay cô trắng,
Trắng như lông thiên nga.
Cô lấy nước trong lọ
Đem ra tắm, thế là
Nhờ phép thần nước lạ,
Từ cô gái nông dân
Cô trở thành xinh đẹp
Như nàng tiên giáng trần.
Anh chồng về, kinh ngạc
Thấy vợ đẹp tuyệt vời.
Nên suốt ngày ngồi ngắm,
Một phút cũng không rời.
Việc thì nhiều, do vậy
Cô vợ giận, bảo anh
Lấy chiếc mo cau trắng
Vẽ hình vợ lên tranh.
Anh làm theo, từ đấy,
Cứ đi ra khỏi nhà
Là mang theo tranh vợ,
Ngắm gần rồi ngắm xa.
Một hôm, anh sơ ý
Ném trúng con quạ đen.
Nó trả thù bằng cách
Cắp bức tranh bay lên,
Rồi đem tranh đến thả
Đúng chỗ vua đang ngồi.
Vua nhìn thấy người đẹp,
Mắt long lanh, và rồi
Cho quân đi khắp nước
Tìm người vẽ trong tranh.
Vợ anh Ba vì thế
Đã được đưa vào thành.
Vua thấy cô tuyệt đẹp
Nên đem lòng yêu ngay,
Phong “Tây cung Hoàng hậu”,
Mở yến tiệc đêm ngày.
Thế mà cô rầu rĩ,
Chẳng chịu cười nói gì,
Dù mua vui sẵn có
Đúng một nghìn nô tỳ.
Vua cho mở hội lớn,
Hứa trọng thưởng cho người
Làm “Tây cung Hoàng hậu”
Dù một lần, mỉm cười.
Còn cái chức thủ tể tướng
Sẽ được giành cho ai
Làm được nàng đồng ý
Ngồi chơi cờ với ngài.
*
Từ khi mất vợ đẹp,
Anh Ba khóc suốt ngày,
Không còn vợ để ngắm,
Ngồi đực như thằng ngây.
À mà quên chưa nói.
Cô vợ tắm nước thần,
Nước thải cô đem tưới
Cho luống hành thay phân.
Nên nó tốt kinh khủng:
Củ đúng bằng bình vôi,
Lá dài như đòn gánh,
Đem nấu canh không tồi.
Phần vì do buồn chán,
Phần cũng bởi hết tiền,
Anh Ba đem hành bán
Vào những ngày chợ phiên.
Anh rao to giữa chợ:
“Nào, ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”
Thế mà ngồi cả buổi,
Không ai chịu mua hành.
Hôm sau anh quyết định
Vào bán dạo trong thành.
Anh rao to giữa phố:
“Nào ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”
Tiếng rao dai dẳng ấy
Lọt được vào hoàng cung,
Làm “Tây phương Hoàng hậu”
Vui, thích thú vô cùng.
Vua còn thích gấp bội,
Bèn cho gọi anh vào.
Để kiểm tra, lần nữa
Ngài bắt anh lại rao.
Và lần nữa hoàng hậu
Lại cười khi thấy anh.
Ông vua thì lại nghĩ
Bí quyết ở gánh hành.
Thế là ngài liền bắt
Anh đổi áo cho vua.
Vua thành anh bán dạo,
Vừa rao vừa vui đùa.
Vua bắt chước rất giống:
“Nào ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”
Còn anh Ba lúc ấy
Là vua, ngồi trên ngai.
Anh liền quát quân lính
Tóm cổ, bỏ tù ngài.
Anh làm vua từ đấy.
Vợ vui, cười suốt ngày.
Thỉnh thoảng họ lại nhớ
Những tháng năm đi cày.
Anh Ba thì như cũ,
Ngắm vợ, ngắm cả tranh.
Nhiều hôm ra ngoài phố
Giả làm người bán hành.
Anh lại rao vui vẻ:
“Nào ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”
19
NAM BẮC TRIỀU VÀ ĐÀNG TRONG,
ĐÀNG NGOÀI
Khi vua Lê bị phế,
Hầu hết các cựu thần
Đều đi theo nhà Mạc
Hay bỏ chạy thoát thân.
Nguyễn Kim, một tướng cũ,
Rời bỏ xứ Bắc Hà
Vào Tây Bắc Thanh Hóa
Năm Một Năm Ba Ba.
Ông tìm được dòng dõi
Của vua Lê, và ông
Tôn lên thành vua mới,
Gọi là Lê Trang Tông.
Được vua Lào, Sạ Đẩu,
Cho mượn đất Sầm Châu
Để làm căn cứ tạm.
Và một thời gian sau,
Ông đánh chiếm Thanh Hóa,
Mở rộng đất, dần dần
Lập nên một triều mới,
Đóng đô ở Thọ Xuân.
Với danh nghĩa diệt Mạc
Để khôi phục nhà Lê,
Ông tiến hành cuộc chiến
Gây hậu quả nặng nề.
Cuộc chiến ấy được gọi
Chiến tranh Nam - Bắc triều.
Sáu mươi năm dai dẳng,
Làm đất nước tiêu điều.
Hàng tướng Dương Chấp Nhất
Đầu độc ông, Nguyễn Kim,
Năm Bốn Lăm, sau đó
Trịnh Kiểm lên cầm quyền.
Trịnh Kiểm là con rể,
Một vị tướng có tài,
Quyết tiếp tục đeo đuổi
Cuộc chiến tranh kéo dài.
Năm Một Năm Bốn Sáu
Mạc Hiến Tông qua đời.
Triều đình Mạc chia rẽ
Khi chọn người kế ngôi.
Nam Triều nhân cơ hội
Chiếm Nghệ An nhẹ nhàng.
Năm Bảy Hai, Thuận Hóa
Rơi vào tay Nguyễn Hoàng.
Nguyễn Hoàng là con thứ
Của Nguyễn Kim, về sau
Lập nên các chúa Nguyễn
Miền Nam thời kỳ đầu.
Nhưng rồi Trịnh Kiểm chết
Năm Một Năm Bảy Mươi.
Con, Trịnh Tùng, Trịnh Cối
Đánh nhau để giành ngôi.
Trịnh Cối sang hàng Mạc.
Trịnh Tùng lên thay cha.
Cuộc chiến cứ dai dẳng,
Hết đánh rồi lại hòa.
Cuối cùng nó chấm dứt
Năm Một Năm Chín Hai.
Thành Thăng Long bị chiếm.
Nhà Mạc thua, chạy dài,
Lên Cao Bằng cố thủ,
Sống chung với người Man.
Năm Một Sáu Bảy Bảy
Mới chấm dứt hoàn toàn.
TRỊNH - NGUYỄN PHÂN TRANH
Sau khi Nguyễn Kim chết,
Rể, Trịnh Kiểm lên thay.
Ông cũng là đầu mối
Cuộc phân tranh sau này
Giữa hai họ Trịnh, Nguyễn,
Giữa miền Bắc, miền Nam,
Làm đất nước chia cắt
Suốt hơn một trăm năm.
Ông mồ côi từ bé,
Quê Vĩnh Lộc, xứ Thanh.
Thời nhỏ nghèo, khổ cực,
Cũng chẳng được học hành.
Ông là người có hiếu,
Làm thuê nuôi mẹ già.
Sau lớn lên, kiếm sống,
Lưu lạc ra Bắc Hà.
Ông đầu quân làm lính
Cho tướng quân Nguyễn Kim,
Có tài và dũng cảm,
Được Nguyễn Kim rất tin.
Alexandre De Rodes kể:
“Một lần bị bao vây,
Tướng Nguyễn Kim tuyên bố
Với các tướng thế này:
Ai mở dám đường máu
Cứu được ta, về sau
Ta sẽ gả con gái
Và cho ghi công đầu.”
Trịnh Kiểm liền phi ngựa
Xông vào giặc, tung hoành,
Luôn tả xung, hữu đột,
Cứu được chúa của mình.
Nguyễn Kim, y lời hứa,
Gả con gái cho ông,
Tin yêu, giao trọng trách,
Lập được nhiều chiến công.”
Ông là người độc ác,
Nỡ giết cả Nguyễn Uông,
Tức là giết anh vợ,
Mà không chút xót thương.
Cũng lo anh vợ giết
Mà Nguyễn Hoàng, người em,
Xin vào đánh Thuận Hóa,
Theo lời Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đất Thuận Hóa lúc ấy
Hoang vu và xa xăm,
Do nhà Mạc quản lý.
Kiểm đồng ý, mong thầm
Hoàng sẽ bị giết chết.
Thế mà không, Nguyễn Hoàng
Không những không bị giết,
Còn bám trụ vững vàng.
Hoàng đánh bại quân Mạc,
Thu phục được lòng dân,
Mở rộng vùng chiếm đóng,
Thanh thế càng lớn dần.
Ông bắt đầu bất chấp
Các lệnh từ Thăng Long.
Tự mình cai quản xứ
Sau gọi là Đàng Trong.
*
Một cuộc chiến tranh mới
Thế là đã hình thành.
Chiến trường ác liệt nhất
Là Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Từ Một Sáu Hai Bảy
Đến Một Sáu Bảy Hai
Có bảy lần đánh lớn,
Ác liệt và kéo dài.
Nhân dân rất cơ cực
Vì binh đao, mất mùa.
Hai bên đánh nhau mãi,
Nhưng bất phân thắng thua.
Cuối cùng tạm hòa hoãn.
Đất nước chia làm hai.
Sông Gianh là ranh giới
Đàng Trong và Đàng Ngoài.
*
Ngay sau khi kết thúc
Nam, Bắc Triều chiến tranh,
Trịnh Tùng xây phủ Chúa
Ngay bên cạnh triều đình.
Tùng nắm hết quyền lực.
Vua làm vì, làm hề.
Một dạng cai trị mới -
Chúa Trịnh và vua Lê.
Ở Đàng Trong, đất mới,
Bắt đầu từ Nguyễn Hoàng,
Kiểu cha truyền con nối,
Liên tục và vững vàng,
Các chúa Nguyễn cai trị,
Khai khẩn thêm đất đai.
Tình trạng chia cắt ấy
Cứ mặc nhiên kéo dài
Cho đến khi Nguyễn Huệ
Diệt Đàng Ngoài, Đàng Trong,
Cuối thế kỷ mười tám,
Mới thống nhất non sông.
*
Vậy là ông kể hết,
Dẫu chỉ một đôi điều
Về cuộc chiến được gọi
Giữa Nam và Bắc Triều.
Sau đó là giai đoạn
Chúa Trịnh, Nguyễn phân tranh.
Một trăm năm đất nước
Chia cắt bởi sông Gianh.
Giờ thì ông sẽ kể
Một câu chuyện rất hay
Về ông vua thời đó.
Câu chuyện ấy thế này.
CHÚA CHỔM
Chuyện kể rằng, ngày ấy,
Khi thọ địch bốn bề,
Mạc Đăng Dung thâu tóm
Quyền lực của nhà Lê.
Vua bị ông khống chế,
Rồi bị giam xà lim.
Quan trong triều vì sợ,
Nên cũng đành lặng im.
Có một cô bán rượu,
Trẻ trung, con nhà lành,
Thường đem rượu đến bán
Cho mấy chàng lính canh.
Một hôm cô chợt thấy
Có thêm một tù nhân
Da dẻ rất trắng trẻo,
Dáng điệu rất vương thần.
Hỏi ra thì mới biết
Đó chính là vua Lê,
Nay lỡ vận, phải chịu
Cảnh tù giam ê chề.
Cô động lòng trắc ẩn,
Rồi tìm cách làm quen,
Cho vua uống thả sức
Mà không hề lấy tiền.
Lâu ngày lửa cũng bén
Giữa vua và cô này.
Một lần cô chuốc rượu
Cho lính canh uống say,
Rồi vào ngục tình tự
Với đức vua của mình.
Về sau cô sinh hạ
Một cậu bé rất xinh.
Trước khi vua bị giết,
Ngài trao ấn cho cô,
Dặn mai sau con lớn,
Lo lấy lại cơ đồ.
*
Bỏ nghề, cô bán rượu
Đi nơi khác làm ăn,
Đặt tên con là Chổm,
Cam chịu cảnh thanh bần.
Lớn lên, cậu bé Chổm
Được mẹ cho vào chùa.
Cậu thông minh, học giỏi,
Thích chơi trò làm vua.
Nhưng cậu này rất nghịch,
Bị sư cụ Thạch Toàn
Đánh nhiều mà dạy ít,
Nhưng cậu chẳng thành ngoan.
Một hôm cậu hỏi mẹ:
Bố của cậu là ai?
Cậu muốn biết điều ấy.
Nhưng mẹ cậu thở dài:
“Bố con hổ vồ chết,
Còn họ là họ Lê.
Mẹ cố nuôi con lớn,
Chịu khổ cực trăm bề.”
Chổm nghe, dù còn nhỏ,
Rất đau buồn, thế là
Cậu quyết tâm giết hổ
Để báo thù cho cha.
Trong rừng, một lần nọ,
Thấy hổ con ngủ say,
Cậu lấy đá đập chết,
Bổng mẹ con hổ này
Liền nhảy ra vồ cậu,
May có một ông già
Múa gậy, đánh nó chết,
Rồi trước lúc đi xa
Ông tặng Chổm chiếc gậy,
Giảng dạy rất ân cần
Một vài đường quyền hiểm,
Gọi là để phòng thân.
Cũng bằng chiếc gậy ấy,
Chổm giết con xà tinh
Giúp cho dân trong xứ
Được sinh sống yên bình.
Hai mẹ con nhà Chổm
Lại quay về làng xưa.
Cậu kiếm củi nuôi mẹ
Và thường đến ăn trưa
Ở các quán gần đó.
Có điều không có tiền,
Nên cậu phải ghi nơ,
Mà nợ lâu, tất nhiên.
Nợ đến mức thành chúa,
Và cứ thế dần dần
Cậu trở thành Chúa Chổm,
Một con nợ quen thân.
Ai đòi, cậu cũng nói:
“Ấy, cứ chờ, không sao.
Sau thành vua, tôi trả
Không thiếu một xu nào!”
*
Nguyễn Kim là tướng giỏi
Của triều Lê trước đây,
Trốn sang Lào lánh nạn
Và được vua nước này
Cho mượn một vùng đất
Có tên là Sầm Châu
Để dấy binh khởi nghĩa,
Lo sự nghiệp dài lâu.
Nhằm thu phục dân chúng
Ông rất cần một người
Của nhà Lê ngày trước,
Rồi đi tìm khắp nơi.
Nhưng tìm mãi không thấy,
Nhờ báo mộng, may sao,
Ông tìm thấy Chúa Chổm
Rồi đưa ngay sang Lào.
Thế là từ đấy Chổm
Nghiễm nhiên thành vua Lê.
Rồi Nguyễn Kim chiến thắng,
Rồi xe ngựa quay về.
Khi đi ngang quê cũ,
Một số người nhìn vua,
Thấy quen quen, và họ
Liền nhận ra người xưa.
Thế là nhiều chủ nợ
Đến đòi nợ của mình.
Họ còn theo xa giá
Lên tới tận kinh thành.
“Chúa Chổm, nào Chúa Chổm,
Hãy trả nợ cho tôi.”
Quân lính thấy sự láo
Liền vội vã ra roi.
Nhưng đức vua, con nợ,
Bèn kể rõ sự tình,
Rồi ngài cho trả hết,
Không thiếu một đồng chinh.
Khốn nỗi, đường thì chật,
Mà chủ nợ quá đông,
Ngài vung tay ném xuống
Một trận mưa tiền đồng.
Hãi hùng cảnh chen lấn,
Cảnh tranh nhau dành tiền.
Nhiều người giơ tay chỉ,
Gọi vua đúng theo tên.
Đến nỗi quan hộ giám
Phải ra lệnh như sau:
“Cấm chỉ! Không được chỉ!
Ai chỉ sẽ mất đầu!”
Nơi ấy giờ là phố
Còn mang cái tên này.
Tức là phố Cấm Chỉ,
Một cái tên rất hay.
Nó ở quận Hòa Kiếm,
Gần phố Tống Duy Tân,
Như thời vua nghèo khổ,
Nó là phố hàng ăn.
Tiếc là giờ ở đấy
Người ta vẫn chỉ nhau,
Chủ quán không cho nợ,
Khách nghèo lẫn khách giàu.
Tiếc nữa là Chúa Chổm
Thành cái tên trêu đùa
Của nhiều người mắc nợ
Nhưng không hề thành vua.
20
ĐẠO THIÊN CHÚA,
CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ NÔM
Giữa thế kỷ Mười Sáu,
Từ châu Âu, thương gia
Đến làm ăn, buôn bán
Ở nhiều cảng nước ta.
Bắt đầu các giáo sĩ
Một số nước phương Tây
Đến Đại Việt truyền đạo
Cũng vào thời gian này.
Theo sử sách ghi lại,
Giáo sĩ Bồ Đào Nha
Có mặt sớm hơn cả,
Năm Một Năm Ba Ba.
Đó là đạo Thiên Chúa
Ở Giê-ru-xa-lem.
Chúa Giê-su sáng lập
Cách đây hai nghìn năm.
Đạo có ba nhánh lớn
Là Cơ-đốc, Tin Lành
Và Thiên Chúa Chính thống,
Được truyền bá rất nhanh.
Không ít vua Đại Việt
Ngăn cản nó, không thành.
Các giáo sĩ kiên nhẫn
Làm công việc của mình.
Dần dần đạo Thiên Chúa
Được nhiều người tin theo.
Số con chiên thờ Chúa
Và hành lễ càng nhiều.
Theo số liệu chính thức,
Ở nước ta hiện nay
Tám phần trăm dân số
Là tín đồ đạo này.
Chủ yếu đạo Cơ Đốc,
Tòa thánh ở Rô-ma.
Tín ngưỡng được nhà nước
Tôn trọng ở nước ta.
*
Với các nhà truyền đạo,
Các chúa Nguyễn Đàng Trong
Có tỏ ra ưu ái
Hơn Đàng Ngoài Thăng Long.
Ông nhớ vua Nguyễn Ánh
Nói một câu rất hay
Về đạo Cơ Đốc Giáo.
Đại khái ý thế này:
“Đạo Cơ Đốc tốt đẹp,
Rất hợp với lòng ta.
Nhưng ta không theo được,
Vì một lẽ, đó là
Theo đạo này, thật tiếc,
Chỉ một vợ một chồng.
Ta thì muốn hơn thế,
Dẫu ta nói thực lòng,
Rằng cai trị một nước
Dễ, đơn giản hơn nhiều
So với việc quản lý
Mấy bà vợ ta yêu.”
CHỮ QUỐC NGỮ
Thời ấy, các giáo sĩ,
Để truyền đạo của mình,
Đã chép âm tiếng Việt
Bằng chữ cái La-tinh.
Đây là việc không dễ,
Một quá trình lâu dài,
Có nhiều người góp sức,
Không riêng một mình ai.
Trước hết là giáo sĩ
Fran-si-sco Pi-na,
A-ma-ran, tiếp đến
Là cha Bac-bô-za.
Năm Một Sáu Năm Một
Từ điển Việt - La-tinh
Alexandre de Rodes soạn
Được in và lưu hành.
Ông mượn tiếng Hy Lạp
Các dấu Sắc, Ngã, Huyền
Để diễn tả âm ngữ
Rồi cho đánh lên trên.
Thấy thế vẫn chưa đủ,
Ông tự mình nghĩ ra
Các dấu Nặng và Hỏi
Cho hợp với tiếng ta.
Nhờ thế, chữ Quốc Ngữ
Được hoàn thiện, bấy giờ
Nó được dùng ghi chép
Các văn bản nhà thờ.
Tuy vậy, nhờ có cuốn
Từ điển Việt - Bồ - La,
Hơn trăm năm sau đó
Chữ quốc ngữ nước ta
Mới trở nên hoàn thiện,
Gần giống như ngày nay.
Một chữ viết thuận lợi,
Dễ sử dụng hàng ngày.
Nhân tiện, ông muốn kể
Đôi điều về cuộc đời
Cha Alexandre de Rodes,
Theo ông, rất tuyệt vời.
Ông vốn là người Pháp,
Sinh Một Năm Chín Ba.
Sau lớn, ông nhập đạo,
Dòng Tên ở Rô-ma.
Năm Một Sáu Một Chín
Giáo Hoàng đã phái ông
Đến Đông Dương truyền đạo,
Chủ yếu ở Đàng Trong.
Năm Một Sáu Hai Bốn,
Cùng các cha thừa sai,
Ông đi ra miền Bắc,
Truyền đạo ở Đàng Ngoài.
Bị vua Lê trục xuất
Năm Một Sáu Ba Mươi,
Ông sang Ma Cao sống
Trong suốt mười năm trời.
Sau đó ông được cử
Quay lại xứ Đàng Trong,
Năm Bốn Lăm, lần nữa
Người ta trục xuất ông.
Cuối đời, ông được phái
Truyền đạo ở I-ran.
Chết, thọ sáu ba tuổi
Ở thành Ix-pha-han.
Năm kia ông có việc
Sang I-ran mấy ngày.
Dù bận, nhưng có đến
Viếng mộ ông nơi này.
CHỮ NÔM
Đó là chữ Quốc Ngữ,
Được dùng đã nhiều năm.
Trước chúng ta đã có
Ngôn ngữ riêng, Quốc Âm.
Quốc Âm là thứ chữ
Mà bình thường người ta
Gọi chữ Nôm cho tiện.
Suốt nhiều thế kỷ qua
Các triều vua Đại Việt
Đã dùng thứ chữ này
Làm ngôn ngữ chính thức
Trong ghi chép hàng ngày.
Đó là thứ chữ viết
Được chính quyền, nhân dân
Dựa vào chữ người Hán
Mà phát triển dần dần.
Lúc đầu chỉ đơn giản
Mượn chữ Hán tượng hình,
Gọi là chữ “giả tá”,
Để ghi lại tiếng mình.
Sau đó hai chữ Hán
Được ghép lại, để thành
Một chữ Nôm hai nửa,
Gọi là chữ “hài thanh”.
Nửa chữ gợi hiểu ý.
Nửa chữ gợi đọc âm.
Tuy cồng kềnh một chút,
Nhưng tránh được hiểu lầm.
Hiện các nhà khoa học
Chưa thống nhất với nhau
Việc chữ Nôm chính thức
Hình thành đã bao lâu.
Người thì nói lâu lắm,
Có từ thời Hùng Vương.
Có người nói khiêm tốn,
Mới từ thời nhà Đường.
Hiện ta còn giữ được
Văn bản Nôm rất nhiều,
Cả sử, văn, thơ phú
Của các đời, các triều.
Vua Quang Trung ra lệnh
Các văn bản quốc gia
Không được viết chữ Hán,
Mà viết bằng chữ ta.
Chữ Nôm trong văn học
Được sử dụng cũng nhiều.
Nguyễn Du đã dùng nó
Viết áng thơ Truyện Kiều.
Vậy là chữ Quốc Ngữ
Làm chữ Nôm lu mờ
Và rơi vào quên lãng.
Kể cũng tiếc, bây giờ
Chỉ các nhà nghiên cứu
Và sinh viên khoa văn
Mới học nó để đọc
Và tra cứu khi cần.
*
Giờ thì đến cổ tích.
Biết kể chuyện gì đây?
Gượm đã, để ông nhớ.
À nhớ rồi, chuyện này.
BÀ CHÚA LIỄU HẠNH
Xưa, vào năm Thiên Hựu,
Đời vua Lê Thánh Tông,
Có một người phụ nữ,
Vợ của Lê Thái Công.
Bà ở huyện làng Vân Cát,
Huyện Vụ Bản ngày nay,
Có thai, thai đã lớn,
Sinh nở cũng gần ngày.
Thế mà ốm ngặt ngẹo,
Chạy chữa chẳng ích gì.
Hai vợ chồng buồn lắm,
Thành bán tín, bán nghi.
Một hôm có đạo sĩ
Tự nhiên đến nhà chơi.
Rồi niệm chú, làm phép,
Đưa Thái Công lên trời.
Chủ nhà được mời dự
Một bữa tiệc thiên đình
Do Ngọc Hoàng khoản đãi,
Nhiều tiên nữ rất xinh.
Bỗng một nàng sơ ý
Làm chén ngọc vỡ tan,
Ngọc Hoàng giận, ra lệnh
Đầy nàng xuống trần gian.
Thái Công chợt tỉnh dậy,
Thấy đang ở nhà mình,
Đúng lúc vợ sinh hạ
Một cô bé rất xinh.
Hai vợ chồng sung sướng
Đặt tên là Giáng Tiên,
Nàng lớn lên, xinh đẹp,
Thông minh và dịu hiền.
Nàng rất giỏi đàn sáo,
Còn am hiểu văn chương,
Lại nết na, hiếu thảo,
Mọi cái đều tinh tường.
Đúng năm mười tám tuổi
Nàng lấy chàng Đào Lang,
Con vị quan trí sĩ,
Cùng quê và cùng làng.
Sống với nhau hạnh phúc
Mới chỉ được ba năm
Thì bỗng nhiên nàng chết,
Đúng tháng Ba, ngày rằm.
*
Nàng bay lên thượng giới,
Nhưng Ngọc Hoàng, tiếc thay
Lại bắt xuống hạ giới
Vì chưa hết hạn đày.
Lần này cùng bay xuống
Nàng có thêm bạn đường
Là hai nàng tiên nữ -
Quế Nương và Thị Nương.
Và rồi nàng, y lệnh,
Đến một nơi, bây giờ
Thuộc Phố Cát, Thanh Hóa,
Có cảnh đẹp nên thơ.
Nàng du ngoạn đây đó,
Chuyên làm điều tốt lành.
Giúp những người nghèo khổ,
Giúp đồng ruộng tươi xanh.
Biết ơn, dân sở tại
Bèn cho lập đền thờ
Thờ Công Chúa Liễu Hạnh,
Vẫn còn đến bây giờ.
Danh tiếng nàng từ đấy
Cứ lan dần, lan dần.
Rồi triều đình phong tặng
Làm “Thượng Đẳng Phúc Thần.”
Khi còn ở hạ giới,
Nàng ngao du nhiều nơi,
Nhất là ở xứ Lạng,
Trò chuyện với nhiều người.
Tương truyền nàng từng gặp
Danh sĩ Phùng Khắc Khoan,
Cùng ông này đàm đạo
Văn thơ và chơi đàn.
*
Nghe người ta kể lại,
Vào cuối đời Hậu Lê
Có ông quan già lão
Khi nghỉ trưa bên hè,
Đã tận mắt nhìn thấy
Công chúa bay lên trời
Cùng hai nghìn tiên nữ,
Mây ngũ sắc sáng ngời.
Nghĩa là nàng hết hạn,
Nay trở lại thiên đình.
Trong tiếng nhạc rộn rã
Đang tấu, đưa tiễn mình.
Nàng ra đi, tuy thế,
Lòng vẫn ở với đời,
Trong tín ngưỡng văn hóa,
Trong cả trái tim ngươi.
Nhiều nơi lập đền, miếu.
Nhớ ơn nàng, nhân dân
Gọi nàng là Bà Chúa,
Một “Thượng Đẳng Phúc Thần.”
21
TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585)
Hôm nay ông kể chuyện
Về một người tuyệt vời,
Một nhà thơ, ông trạng,
Buổi Mạc - Lê giao thời.
Vâng, đúng một ông trạng,
Dân gian gọi trạng Trình,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, phải nói,
Cực giỏi và thông minh.
Nào, ông bắt đầu kể.
Cũng không dài lắm đâu.
Các cháu nghe, cố nhớ.
Nào, chúng ta bắt đầu.
*
Có một anh chàng nọ,
Nghèo, chẳng còn gì ăn.
Vợ chau mày, con đói,
Anh ta ngồi bần thần.
Bất chợt, anh ta nhớ,
Hình như xưa tổ tiên
Để lại chiếc ống quyển,
Dặn lúc nào thiếu tiền
Hay tiệt hết đường sống,
Gia cảnh quá bần hàn,
Thì mở ra, trong đó
Có bức thư gửi quan.
Chiếc ống quyển nhỏ bé
Giấu kỹ trên xà nhà,
Qua nhiều đời, ám khói
Được lấy xuống, mở ra.
Bên trong có thư thật.
Anh ta mang bức thư
Đến nhà quan sở tại,
Vẫn chưa rõ thực hư.
Lúc ấy quan đang nghỉ,
Nằm đọc sách trong nhà.
Thấy báo thư Cụ Trạng,
Liền vội vàng đi ra.
Quan vừa đi đến cửa,
Bỗng nhiên có thanh dầm,
Chắc lâu ngày bị mọt,
Rơi đúng chỗ quan nằm.
Quan hoảng hồn, thoát chết,
Liền mở thư ra xem.
Thư có dấu, chữ ký
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bức thư ngắn, chỉ viết:
“Tôi cứu ông vừa rồi.
Vậy xin ông giúp đỡ
Cháu bảy đời của tôi.”
*
Nguyễn Bỉnh Khiêm là Trạng,
Một thi nhân diệu kỳ,
Một đại quan chính trực
Và một nhà tiên tri.
Ông sinh ở Vĩnh Lại,
Nay Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Đúng vào thời thịnh trị
Của vua Lê Thánh Tông.
Tên thật Nguyễn Văn Đạt,
Hiệu Cư Sĩ Bạch Vân,
Mẹ là Nhữ Thị Thục,
Giỏi tướng số, thơ văn.
Bà là con quan lớn,
Khó tính khi kén chồng,
Mãi đến lúc luống tuổi
Mới chịu lấy cha ông,
Tức là Nguyễn Văn Định,
Tài năng loại thường thường,
Có tướng sinh quí tử,
Sau dễ thành đế vương.
Để con thành hoàng đế,
Bà đã bắt bố ông
Mười hai giờ đêm ấy
Mới được vào động phòng.
Bố ông, chắc nóng vội,
Vào sớm hơn ít nhiều,
Nên con bà, thật tiếc,
Chỉ đại thần trong triều.
Sau chuyện ấy, bà giận,
Về với bố mẹ mình,
Rồi lấy ông chồng khác,
Rồi tính giờ, năm sinh,
Bà sinh được Trạng nữa,
Lại Lưỡng Quốc Trạng Nguyên,
Trạng Bùng, Mai Nham Tử,
Phùng Khắc Khoan, đại hiền.
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ nhỏ
Được bà mẹ cầu kỳ
Dạy đến nơi đến chốn,
Không sót một môn gì.
Về sau, khi khôn lớn,
Tìm thầy tận xứ Thanh,
Lương Đắc Bằng, bảng nhãn,
Giúp hoàn thiện học hành.
Ông thầy này uyên bác,
Từng là quan đại thần,
Sau từ quan, chán nản,
Về quê sống thanh bần.
Cậu trò Bắc học giỏi,
Chăm chỉ và thông minh,
Được thầy trước khi chết
Tặng “Thái Ất Thần Kinh”.
Đó là cuốn sách quí
Ông mang từ nước Tàu,
Về Chu Dịch, bói toán,
Bắt phải học thuộc làu.
Thời ấy chính sự loạn,
Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhà,
Không bon chen thi thố
Chín kỳ thi đại khoa.
Khi nhà Mạc thành lập,
Đời ít nhiều tạm yên,
Ông mới ra thi cử,
Lập tức đậu Trạng nguyên.
Năm ấy bốn lăm tuổi,
Ông được bổ làm quan
Đông Các Đại học sĩ,
Lo soạn thảo công văn.
Ông nhanh chóng thăng tiến,
Đến chức Tả Thị lang
Của bộ Hình, bộ Lại,
Bạn của Thái thượng hoàng,
Tức vua Mạc Thái Tổ.
Tiếc là ông vua này
Đã qua đời quá sớm
Để ấu chúa lên thay.
Chính sự lại nát bét,
Đói kém, mất lòng dân.
Ông dâng sớ đòi chém
Mười tám tên lộng thần.
Trong mười tám tên ấy
Có con rể, Phạm Dao.
Thế mới biết quan Trạng
Chính trực đến mức nào.
Vua không chấp thuận sớ.
Năm Một Năm Bốn Hai,
Sau tám năm tại vị,
Ông về với trúc mai.
Nhưng hai năm sau đó
Vua Mạc lại mời ông
Làm Thượng thư bộ Lại,
Tước hiệu Trình Quốc công.
Cũng nhờ tước hiệu ấy
Ông trở thành Trạng Trình.
Một đại thần hòa nhã,
Liêm khiết và công minh.
Bảy ba tuổi, từ chức,
Ông dựng Am Bạch Vân,
Tức là Lều Mây Trắng,
Rồi xây Quán Trung Tân.
Thỉnh thoảng vua có việc
Lại đón ông vào kinh.
Các quyết định quan trọng
Đều hỏi ý Trạng Trình.
Ông mở lớp dạy học
Bên bờ sông Tuyết Giang.
Nhiều học trò vinh hiển,
Thành một danh sách vàng.
Vào cuối năm Ất Dậu,
Tức Một Năm Tám Năm,
Ông qua đời lặng lẽ
Ở tuổi đời chín lăm.
Đích thân Mạc Đôn Nhượng
Cùng các quan đại thần
Về quê ông cúng viếng
Để bày tỏ tình thân.
Vừa là nhà chính trị,
Nhà tiên tri đại tài,
Ông là nhà thơ lớn,
Sáng tác khoảng nghìn bài.
Cả chữ Nôm, chữ Hán,
Thơ ông thật trữ tình,
Về thiên nhiên, sông nước,
Về thế thái, nhân tình.
Về số, ông là nhất
Trong năm trăm năm thơ.
Về chất, cũng loại nhất,
Đọc, không thể hững hờ.
Tuy nhiên, phải thừa nhận
Ông nổi tiếng ở đời
Nhờ những bài sấm ký
Về sự việc, về người.
Thật lạ, nhiều tiên đoán
Lại rất đúng sau này,
Như việc quân Pháp phá
“Tan tành Cổ Am Mây.”
Hay việc ông đoán đúng
Thế chiến lần thứ hai.
“Diễn ra năm Thân - Dậu”,
Tàn khốc và kéo dài.
Năm Một Năm Sáu Tám,
Nghe lời khuyên của ông
Mà Nguyễn Hoàng yên chí
Vào lập nghiệp Đằng Trong.
Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm
Muốn bỏ Lê, lên ngôi,
“Thờ Phật thì ăn oản”,
Ông nói thế, đành thôi.
Trước khi mất, nhà Mạc
Đến hỏi kế dài lâu.
Đáp: “Đất Cao Bằng nhỏ,
Nhưng lợi thế về sau”.
Nhờ thế mà nhà Mạc
Đã chọn vùng đất này
Lập căn cứ, lánh nạn,
Tồn tại thêm nhiều ngày.
TRUYỀN THUYẾT VỀ TRẠNG TRÌNH
Có không ít truyền thuyết
Về Trạng Trình xưa nay.
Nhân tiện ông sẽ kể
Thêm vài chuyện thế này.
Hồi học ở Thanh Hóa
Với Bảng nhãn họ Lương,
Ông được thầy rất quí
Vì thông minh khác thường.
Đến mức trước khi chết
Thầy truyền lại cho ông
Cuốn “Thái Ất” quí giá
Mà thầy đã thuộc lòng.
Cuốn sách rất khó hiểu
Do đạo sĩ Triệu Nga
Rất nổi tiếng Đời Tống
Đúc kết rồi soạn ra.
Thầy có người cùng họ
Làm quan, sống bên Tàu,
Tên là Lương Nhữ Hốt,
Chỗ thân tình từ lâu.
Một lần thầy đi sứ,
Sang gặp lại người này.
Ông cho thầy cuốn sách,
Lưu giữ đến hôm nay.
Thực ra cuốn sách ấy,
Dẫu uyên bác, thông minh,
Bỉnh Khiêm chưa hiểu lắm,
Nhưng luôn giữ bên mình.
Lại nói, rời Thanh Hóa,
Đời loạn, chưa muốn thi,
Ông theo một hảo hán
Tên là Lý Hưng Chi.
Có lần, khi phiêu bạt,
Cùng vị hảo hán này
Ông vượt qua biên giới,
Sống tạm giữa rừng cây.
Một sáng nọ, tỉnh dậy,
Ông thấy một ông già
Dáng dị thường, quắc thước,
Cứ lởn vởn quanh nhà.
Ông già ấy, thật lạ,
Cứ nhìn ông chằm chằm,
Tay mân mê bối rối
Chiếc gậy trúc đang cầm,
Nguyễn Bỉnh Khiêm ra hỏi.
Ông đáp: Đi ngang qua
Thấy có luồng khí lạ
Bốc lên từ mái nhà.
Và rằng ông vất vả
Tìm kiếm khắp đó đây
Một cuốn sách rất quí,
Tìm đã hai năm nay.
Khi ông già được hỏi
Cuốn sách đó là gì,
Ông đáp: Đó là cuốn
“Thái Ất Kinh tiên tri”.
Rằng thầy tôi ngày trước
Đem tặng nó một người
Là sứ thần Đại Việt,
Rồi người ấy qua đời
Trao nó cho môn đệ.
Giờ tôi tìm người này.
Vì thấy có khí lạ,
Nên tôi đã đến đây.
Người ấy có cuốn sách,
Nhưng cũng chẳng làm gì
Khi không có lời giải
Để hiểu lời tiên tri.
Tôi thì có lời giải,
Thầy trao khi qua đời.
Khi tìm được cuốn sách,
Sẽ có ích hai người.
Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe thế,
Liền lẳng lặng vào nhà,
Lấy cuốn sách “Thái Ất”,
Hai tay đưa ông già.
Ông già nhìn thấy nó,
Sụp xuống lạy rất lâu.
Rồi ông chăm chú đọc,
Đọc và giảng từng câu.
Hai người đọc, bàn luận
Bảy ngày bảy đêm dài.
Đọc và hiểu mọi chuyện
Quá khứ và tương lai.
Rồi cả hai vội vã,
Chia tay, người một nơi
Sợ hãi vì phạm thượng
Do hiểu được ý trời.
Ông già lên phương Bắc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm một mình
Về nước, thi, đỗ trạng,
Rồi sau thành Trạng Trình.
*
Có một anh trò giỏi
Đến thăm thầy Trạng Trình.
Hôm ấy ba mươi Tết,
Ông đang ở làng mình.
Hai người đang bàn luận
Về tướng số, tử vi,
Về nhân tình thế thái,
Về sấm ký, tiên tri.
Bỗng ngoài cổng ai đó
Bảo có việc muốn nhờ.
Ông sai anh đầy tớ
Bảo người ấy hẵng chờ.
Rồi thầy trò nhà Trạng
Cùng bấm quẻ tử vi
Để đoán biết người ấy
Sang đây để làm gì.
Cả hai người bốc quẻ,
Trúng “thiết đoản, mộc trường”.
Tức “gỗ dài, sắt ngắn.”
Một quẻ rất bình thường.
“Theo con, người ấy đến
Để hỏi mượn chiếc mai.
Chiếc mai lưỡi sắt ngắn,
Mà cán gỗ lại dài.”
Quan Trạng nghe, liền đáp:
“Theo ý thầy, ông này
Đến để mượn chiếc búa.
Mời ông ta vào đây.”
Và rồi ông hàng xóm
Bước vào, chào hai người,
Hỏi mượn tạm chiếc búa,
Lúc ra về, mỉm cười.
Thấy học trò ngơ ngác,
Thầy Trạng nói ôn tồn:
“Con bấm quẻ rất khá,
Ta có lời khen con.
Nhưng đúng quẻ chưa đủ,
Còn phải đoán, phải suy.
Hôm nay ba mươi Tết,
Hỏi mượn mai làm gì?
Phải chăng là mượn búa?
Cũng “thiết đoản, mộc trường”
Để bổ củi, nấu bánh,
Đơn giản và bình thường.
*
Lúc nãy ông vừa nhắc,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Trình,
Có một người em nữa,
Cũng Trạng, rất thông minh.
Tuy chưa hề đỗ Trạng,
Nhưng dân gọi trạng Bùng,
Ông, một người uyên bác,
Có khí phách anh hùng.
Chắc các cháu còn nhớ,
Đó là Phùng Khắc Khoan,
Người có nhiều giai thoại
Lưu truyền trong dân gian.
Các cháu kiên nhẫn nhé.
Ông kể nốt hôm nay,
Chỉ sơ qua vài nét
Về ông Trạng Bùng này.
PHÙNG KHẮC KHOAN
Phùng Khắc Khoan nổi tiếng
Là một người tài, hiền.
Ông mới đậu Hoàng giáp,
Chưa hề đậu Trạng nguyên,
Nhưng được gọi là Trạng,
Chính xác là Trạng Bùng,
Vì quê ở Thạch Thất,
Và sinh ở làng Bùng.
Nghe người ta nói lại,
Phùng Khắc Khoan là em,
Tuy khác cha, cùng mẹ,
Với Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Được cha dạy từ nhỏ,
Rồi lại theo học anh,
Ông tấn tới nhanh chóng
Trên con đường học hành.
Nhưng dười triều nhà Mạc,
Ông không chịu đi thi.
Trung với triều Lê cũ,
Chỉ ở nhà ngủ khì.
Năm Một Năm Năm Bảy,
Ông đỗ đầu thi Hương,
Lúc đã hăm chín tuổi,
Rồi theo đường quan trường.
Trịnh Kiểm biết ông giỏi,
Cho làm ở Ngự dinh,
Trông coi bốn quân vệ,
Tham dự việc cơ binh.
Vua cho mở thi Hội,
Năm Một Năm Tám Không.
Ông thi đỗ Hoàng giáp,
Làm Thị lang bộ Công.
Năm Một Năm Chín Bảy,
Sáu mươi chín tuổi đời,
Ông được cử đi sứ,
Tài đối đáp hơn người.
Chỉ hai năm sau đó,
Ông được thăng Thượng thư,
Bộ Công rồi bộ Lại,
Rồi về quê nhàn cư.
*
Trong thời gian đi sứ,
Phùng Khắc Khoan nhập tâm
Học cách trồng ngô bắp,
Cách dệt the, nuôi tằm.
Về nước, ông truyền lại
Cho dân chúng trong làng.
Một số nơi, vì thế,
Tôn ông làm Thành hoàng.
Một số giống lúa tốt
Ông cũng lén mang về
Để giúp dân Thạch Thất
Trồng chúng ở đồng quê.
Sau khi thành trí sĩ,
Ông ra đồng hàng ngày
Giúp dân đào kênh, rạch
Vùng xung quanh núi Thầy.
Nhờ thế mà có nước
Tưới cho các cánh đồng
Ở Phùng Xá, Hoàng Xá,
Giúp phát triển nghề nông.
*
Phùng Khắc Khoan, ta biết,
Còn là một nhà thơ,
Cả chữ Nôm, chữ Hán,
Còn lưu đến bây giờ.
Ông cũng là tác giả
“Sấm Thượng thư họ Phùng”,
Người đời chắc vì thế
Gọi ông là Trạng Bùng.
Thơ ông rất tao nhã,
Phong cách không giống ai.
Ông viết nhiều, chỉ tiếc,
Lưu được ba trăm bài.
*
Thay cho chuyện cổ tích
Ông sẽ kể hôm nay
Chuyện ngụ ngôn Esốp.
Nào nghe, chuyện thế này.
CHUYỆN CON ẾCH
MUỐN TO BẰNG CON BÒ
Có một chú Ếch nhỏ
Nói với bố của mình:
“Bố ơi, con vừa thấy
Một quái vật rất kinh.
Nó lớn như ngọn núi,
Hai chiếc sừng rất to...
Ếch bố nói: “Bình tĩnh,
Đó chỉ là con Bò.
Mà Bò thì hiền lắm.
Chỉ to xác thôi mà.
To xác cũng không khó.
Nếu muốn thì cả ta
Cũng có thể lớn vậy,
Vâng, to lớn như Bò.”
Rồi Ếch Bố phùng má
Lấy hơi thổi thật to,
To, to nữa, to mãi...
“To nữa lên, bố ơi!”
Ếch Bố nghe, càng thổi,
Thổi, thổi nữa, và rồi
Con Ếch ngu ngốc ấy
Nổ đánh bùm thật to.
Thế là hết con Ếch
Muốn to bằng con Bò.
*
Chúa sinh ra vạn vật
Kích thước không như nhau,
Nhưng Chúa cho tất cả
Mỗi con một cái đầu.
Không háo danh, khoe mẽ,
Làm tốt chức phận mình,
Không bắt chước ngu ngốc
Mới là người thông minh.
22
KHỞI NGHĨA NÔNG DÂN THẾ KỶ 18
VÀ ĐẠI THẮNG QUÂN THANH
Giữa thế kỷ mười Tám,
Vua Lê ở Thăng Long
Chỉ còn là cái bóng,
Đang trên đường diệt vong.
Trong khi đó Phủ Chúa
Nắm hết mọi thực quyền,
Luôn hội hè, yến tiệc,
Lãng phí rất nhiều tiền.
Bọn tham quan đục khoét.
Dân cơ cực đủ bề,
Phải quanh năm lao dịch,
Lại sưu thuế nặng nề.
Chúa ăn chơi, hưởng lạc,
Đặc biệt là Trịnh Sâm.
Hoạn quan trong phủ Chúa
Lên con số năm trăm.
Bọn này rất hách dịch,
Ngạo mạn và khinh khi.
Mọi người ghê tởm chúng
Nhưng không biết làm gì.
Nông dân bị chiếm ruộng,
Rồi ruộng lại bỏ không.
Nhiều năm liên tiếp vỡ
Đê sông Mã, sông Hồng.
Nông nghiệp bị đình đốn,
Đình đốn cả công, thương.
Hàng vạn người chết đói,
Xác la liệt đầy đường.
Năm Một Bảy Ba Bảy,
Nguyễn Dương Hưng, Sơn Tây,
Mở đầu các khởi nghĩa
Ở Đàng Ngoài lúc này.
Rồi đến Lê Duy Mật
Ở xứ Nghệ, xứ Thanh,
Kéo dài ba thập kỷ,
Làm hoảng sợ triều đình.
Rồi khởi nghĩa Quận Hẻo,
Tức của Nguyễn Danh Phương,
Đánh chiếm vùng Tam Đảo,
Cả Sơn Tây, Tuyên Quang.
Cuộc khởi nghĩa lớn nhất
Với số nghĩa quân đông,
Nguyễn Hữu Cầu lãnh đạo
Ở Đồ Sơn, Hải Phòng.
Ông tiến đánh Kinh Bắc,
Uy hiếp cả Tràng An,
Đánh Sơn Nam, Thanh Hóa,
Rồi đánh chiếm Nghệ An.
Luôn dương cao khẩu hiệu
“Lấy của cải người giàu
Chia cho người nghèo khổ”,
Quận He Nguyễn Hữu Cầu
Được dân chúng hưởng ứng
Và giúp đỡ nhiệt tình.
Nhưng, như nhiều người khác,
Ông bị bắt, xử hình.
Các khởi nghĩa thất bại,
Cuối cùng bị dập tan,
Nhưng đã giúp thúc đẩy
Nhà Chúa Trịnh lụi tàn.
*
Giữa thế kỷ mười tám
Các Chúa Nguyễn Đàng Trong
Đã trở nên tha hóa,
Chỉ bòn rút của công.
Người nắm hết quyền lực
Trong triều đình Phú Xuân
Tự xưng mình “Quốc phó”,
Tên là Trương Thúc Loan.
Lê Quí Đôn có viết,
Hắn tham lam cực kỳ,
“Thu lợi từ năm cửa”,
Giàu, không thiếu cái gì.
Còn dân thì đói khổ,
Tiếng ca thán khắp nơi.
Rồi Chàng Lía khởi nghĩa,
Thu hút được nhiều người.
Đóng chốt ở Bình Định,
Các nghĩa quân của chàng
Làm bọn quan sở tại
Phải lo sợ, kinh hoàng.
Nhưng rồi cuộc khởi nghĩa
Bị dập tắt rất nhanh.
Phải chờ đến Nguyễn Huệ,
Việc đại sự mới thành.
KHỞI NGHĨA TÂY SƠN
Năm Một Bảy Bảy Một
Khi anh em Tây Sơn
Phất cao cờ khởi nghĩa,
Lòng dân ngút căm hờn.
Ba anh em họ Nguyễn
Lập căn cứ lâu dài
Vùng Tây Sơn Thượng Đạo,
Ở An Khê, Gia Lai.
Khi lực lượng đủ mạnh,
Họ đánh xuống đồng bằng,
Lập Tây Sơn Hạ Đạo,
Khí thế càng thêm hăng.
Nghĩa quân đòi công lý,
Bình đẳng cho người dân,
Lấy của người thừa mứa
Chia cho kẻ đói ăn.
Họ cũng đòi xóa nợ,
Bỏ sưu thuế nặng nề.
Nhân dân các dân tộc
Đều đứng lên nhất tề.
Năm Một Bảy Bảy Bảy,
Trong một trận tấn công
Nghĩa quân giết Chúa Nguyễn,
Chấm dứt xứ Đàng Trong.
Chỉ Nguyễn Ánh trốn thoát,
Ra Phú Quốc đợi thời,
Rồi cầu vua Xiêm cứu,
Mang tiếng xấu với đời.
CHIẾN THẮNG RẠCH GẦM – XOÀI MÚT
Năm Một Bảy Tám Bốn,
Quân Xiêm đánh nước ta.
Ba vạn quân đường bộ
Tiến về hướng Cần Thơ.
Hai vạn quân đường thủy
Đi theo hướng Kiên Giang,
Đổ bộ lên Rạch Giá,
Nhanh và khá dễ dàng.
Năm Tám Lăm, tháng Một,
Nguyễn Huệ dẫn đại binh
Tiến thẳng vào Gia Định.
Mỹ Tho là bản doanh.
Ông nghiên cứu trận địa
Quyết định chọn khúc sông
Rach Gầm đến Xoài Mút
Để chuẩn bị tấn công.
Khúc sông rộng nghìn mét,
Sáu nghìn mét chiều dài,
Hai bên bờ rậm rạp,
Tiện bố trí phục mai.
Giữa có hòn đảo nhỏ
Cũng um tùm cỏ cây.
Ông ém quân, đợi sẵn
Chờ địch đi qua đây
Sáng mười chín, tháng Một
Năm Một Bảy Tám Năm,
Nhử địch vào mai phục,
Từ Xoài Mút, Rạch Gầm
Và từ cù lao nhỏ
Quân Nguyễn Huệ tấn công,
Bất ngờ và mãnh liệt.
Không biết trước đề phòng,
Nên chiến thuyền Xiêm Thái
Đã bị đánh tan tành,
Chiếc chìm, chiếc bị cháy.
Trận đánh kết thúc nhanh.
Hơn hai vạn quân thủy,
Sống sót mấy nghìn người,
Theo đường bộ về nước.
Một đòn đau nhớ đời.
Trong đó có Nguyễn Ánh,
Sang Xiêm xin lưu vong,
Nhưng mộng quay về nước
Vẫn ấp ủ trong lòng.
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
Của Nguyễn Huệ Quang Trung
Là trang sử oanh liệt,
Một chiến thắng oai hùng.
Theo Đại Nam Thực Lục:
Quân Xiêm sau trận này,
Nghe hai tiếng Đại Việt,
Hồn vía liền lên mây.
*
Hay tin quân thủy chết,
Quân bộ Xiêm chạy dài.
Nguyễn Huệ đã tính kế
Diệt Chúa Trịnh Đàng Ngoài.
Bấy giờ quân Chúa Trịnh
Đang đóng ở Phú Xuân.
Chúng giở trò quấy nhiễu,
Gây bất bình trong dân.
Năm Một Bảy Tám Sáu,
Ông vượt đèo Hải Vân
Cùng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh
Tiến đánh thành Phú Xuân.
Nhờ đang mùa nước lớn,
Thuyền nghĩa quân tiến nhanh.
Cùng bộ binh nhiều hướng,
Nguyễn Huệ áp chân thành.
Quân Trịnh bị tiêu diệt
Vì bạc nhược, nản lòng.
Thừa thắng, quân Nguyễn Huệ
Chiếm toàn bộ Đàng Trong.
Tiếp đến, ông lập tức
Tiến quân ra Bắc Kỳ
Để “Phù Lê diệt Trịnh”,
Rầm rập bước quân đi.
Tháng Bảy năm Tám Sáu
Ông đánh thành Thăng Long.
Chúa Trịnh bị dân bắt
Và giao nộp cho ông.
Thế là đã chấm dứt
Hai thế kỷ kéo dài
Chính quyền của Chúa Trịnh,
Thường được gọi Đàng Ngoài.
Dòng sông Gianh thơ mộng
Thôi không là dòng sông
Một thời vốn chia cắt
Đằng Ngoài và Đàng Trong.
*
Khi dẹp xong Chúa Trịnh,
Trao quyền cho vua Lê,
Nguyễn Huệ cùng binh tướng
Lên đường trở về quê.
Ông cho Nguyễn Hữu Chỉnh
Giúp trấn thủ Nghệ An
Cùng tướng Nguyễn Văn Duệ
Cai quản cả địa bàn.
Chẳng bao lâu, miền Bắc
Lại rối loạn, vua Lê
Mời Hữu Chỉnh ra dẹp.
Dẹp xong, Chỉnh không về,
Mà ở lại Miền Bắc
Còn tỏ ra lộng hành,
Ra mặt chống Nguyễn Huệ,
Củng cố lực lượng mình.
Hay tin này, Nguyễn Huệ
Lập tức từ Phú Xuân
Cử tướng Vũ Văn Nhậm
Ra trị tên gian thần.
Trị xong Chỉnh, thật tiếc,
Đến lượt Nhậm khinh nhờn,
Cũng có ý thoán nghịch,
Bất tuân lệnh Tây Sơn.
Năm Một Bảy Tám Tám,
Nguyễn Huệ ra Thăng Long,
Diệt Nhậm, vua Lê sợ
Trốn sang bên kia sông.
Nhiều sĩ phu nổi tiếng
Giúp Nguyễn Huệ hết lòng
Giữ chính quyền Miền Bắc
Khi ông ở miền Trong.
Đó là Ngô Thì Nhậm,
Một chí sĩ Bắc Hà,
Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp
Và nhiều người gần xa.
ĐẠI THẮNG QUÂN THANH
Vua Lê, Lê Chiêu Thống,
Muốn giữ ngôi của mình,
Làm một việc dại dột
Là cầu cứu nhà Thanh.
Cuối Một Bảy Tám Tám
Vua Thanh là Càn Long,
Đã sai Tôn Sĩ Nghị
Đánh chiếm thành Thăng Long.
Hai chín vạn quân giặc
Cùng rất nhiều chiến xa,
Chia thành bốn đạo chính,
Tiến sâu vào nước ta.
Quân ta phải tạm rút
Về Tam Điệp - Biện Sơn.
Ngô Thì Nhiệm cấp tốc
Cho báo về Tây Sơn.
Ta lập tuyến phòng ngự -
Quân bộ ỏ Ninh Bình,
Quân Thủy ở Thanh Hóa,
Không cho giặc tiến binh.
Nhận được tin khẩn cấp,
Nguyễn Huệ liền xưng vương,
Hiệu Quang Trung Hoàng đế,
Rất hợp lẽ đạo thường.
Lên ngôi xong, lập tức
Hoàng đế mới Quang Trung
Cho xuất quân Bắc tiến,
Đoàn quân đi điệp trùng.
Đến Nghệ An dừng lại,
Ông tuyển mộ thêm quân,
Rồi duyệt binh hoành tráng,
Làm nức lòng quân dân.
Ông tuyển quân thêm nữa
Khi vừa đến xứ Thanh.
Rồi làm lễ tuyên thệ
Trước quân lính của mình.
Khi tới núi Tam Điệp
Vua Quang Trung hài lòng,
Khen ngợi Ngô Thì Nhậm
Tạm bỏ thành Thăng Long
Để bảo toàn lực lượng,
Chờ vua và viện binh.
Mở tiệc khao tướng sĩ,
Vua nói trước quân mình:
“Ba quân ăn Tết tạm.
Đúng mồng Bảy tháng Giêng
Ta hứa cùng ăn Tết
Ở Thăng Long linh thiêng!”
Lập tức sau đại tiệc,
Đạo quân lớn của ông
Được chia thành năm mũi
Tiến đánh thành Thăng Long.
Ông chỉ huy mũi chính
Đánh thẳng vào Tràng An.
Hai mũi tiếp, hỗ trợ,
Đánh vào phía Tây Nam.
Mũi thứ tư được lệnh
Vội cấp tốc lên đường,
Theo chiến thuật thần tốc,
Đánh về phía Hải Dương.
Quyết không cho giặc rút.
Chỉ giết hoặc bắt hàng,
Mũi thứ năm đợi sẵn,
Đánh chặn ở Lạng Giang.
Đêm ba mươi âm lịch,
Vượt Gián Khẩu, quân ta
Diệt quân tiền tiêu địch
Rồi rầm rập tiến ra.
Đúng đêm mồng Ba Tết,
Ta bí mật bao vây
Đồn Hạ Hồi, Thường Tín,
Rồi diệt gọn đồn này.
Mờ sáng mồng Năm Tết,
Quân ta đánh Ngọc Hồi.
Đây là chốt quan trọng
Xung quanh chôn địa lôi.
Đồn lũy xây kiên cố,
Có chông sắt bốn bên.
Ba vạn lính tinh nhuệ
Canh giữ suốt ngày đêm.
Ta mở đầu trận đánh
Bằng hơn một trăm voi
Xông lên như cơn lốc,
Dẫm nát đồn Ngọc Hồi.
Theo sau đoàn voi ấy
Là bộ binh của ta,
Khiên quấn rơm che ngực,
Cùng gươm giáo sáng lòa.
Quân Thanh không chống nổi,
Liền bỏ chạy tơi bời,
Bị voi dẫm, bị giết.
Đâu cũng thấy xác người.
Cũng vào thời gian ấy,
Một mũi của quân ta,
Đô đốc Long là tướng,
Tấn công đồn Đống Đa.
Giặc trở tay không kịp,
Chết, chưa hết bàng hoàng.
Tướng giăc Sầm Nghi Đống,
Tự tử, không đầu hàng.
Hay tin, Tôn Sĩ Nghị
Liền hồn vía lên mây,
Vượt Nhị Hà bỏ trốn,
Chui lủi suốt nhiều ngày.
Đúng trưa mồng Năm Tết,
Trong chiến bào, oai phong
Vua cùng quân chiến thắng
Tiến vào thành Thăng Long.
Dân Thăng Long náo nức
Chào đòn vua Quang Trung,
Người anh hùng áo vải
Lập chiến tích anh hùng.
*
Thế đấy, các cháu ạ.
Ba mươi vạn quân Thanh
Bị quân dân Đại Việt
Đánh một trận tan tành.
Ông cháu ta phải biết,
Tự hào về cha ông.
Hơn thế, để chiến đấu
Và bảo vệ non sông.
Giờ đến chuyện cổ tích.
Ông sẽ kể hôm nay
Chuyện về nàng tiên cá,
Một câu chuyện rất hay
Của nhà văn Đan Mạch
Tên là An-đec-xen.
Ông đọc nó từ nhỏ
Mà không bao giờ quên.
Câu chuyện này cảm động,
Đẹp khó nói thành lời.
Các cháu nghe sẽ biết
Cái giá được làm người.
NÀNG TIÊN CÁ
Rất sâu dưới đáy biển,
Giữa mịt mù xa khơi,
Có một thế giới đẹp,
Đẹp lung linh, tuyệt vời.
Ở đấy nước xanh thẳm,
San hô đủ các màu.
Cá nhởn nhơ bơi lội
Như chim bay trên đầu.
Như mọc trên mặt đất,
Cây ở đây rất nhiều,
Tôm cá leo lên nghịch,
Chơi những trò đáng yêu.
Các nàng tiên cá hát
Những bài ca du dương,
Hay đến mức thủy thủ,
Để tàu đi lạc đường.
Vua Thủy Tề oai vệ
Sống trong cung của ngài,
Chỉ suốt ngày yến tiệc,
Rất hiếm khi ra ngoài.
Từ ngày vợ vua chết,
Mọi việc trong triều đình
Đều do Thái Hậu quản,
Hợp lý và thông minh.
Bà là người quyền lực,
Tốt bụng nhưng kiêu sa.
Ai bà cũng yêu quí,
Nhất là các cháu bà.
Cháu bà, toàn cháu gái,
Năm nàng, đẹp như tiên,
Tất cả đều nhí nhảnh,
Vui tươi và dịu hiền.
Đặc biệt là nàng út,
Da mịn như cánh hồng,
Mắt như hai viên ngọc,
Luôn mơ màng, xanh trong.
Nàng đẹp còn ở chỗ
Khác con người có chân,
Nàng có cái đuôi lớn,
Tất nhiên đẹp tuyệt trần.
Cả năm nàng tiên cá
Nhởn nhơ chơi suốt ngày
Trong vương quốc của nước,
Ánh sáng và cỏ cây.
Cả năm nàng háo hức
Chờ đến lúc trưởng thành,
Tức đến mười lăm tuổi
Để lên mặt biển xanh.
Lúc ấy, bà Thái Hậu
Sẽ cho phép từng người
Lần đầu rời đáy biển,
Ngoi lên nhìn mặt trời.
Các nàng sẽ được thấy
Thành phố và tàu thuyền,
Cùng núi sông, bến cảng,
Trường học và công viên.
Nàng tiên cá bé nhỏ,
Vì được sinh sau cùng
Nên phải chờ lâu nhất
Ngày được rời thủy cung.
*
Rồi cái ngày ấy đến,
Nàng tiên cá lần đầu
Được Thái Hậu trang điểm
Kỹ càng như cô dâu.
Khi nàng lên mặt nước,
Vầng dương đã xế tà,
Một núi mây đỏ rực
Âm ỉ cháy xa xa.
Như mặt gương, biển lặng.
Một con tàu đứng yên,
Các cột buồm được hạ,
Nhấp nháy những ánh đèn.
Bơi lại gần, nàng thấy
Trên tàu có nhiều người
Ăn mặc rất sang trọng,
Nhiều tiếng hát, tiếng cười.
Nhưng sang trọng hơn cả,
Và xinh đẹp tuyệt vời
Là một chàng hoàng tử
Khoảng mười sáu tuổi đời.
Hôm ấy là sinh nhật,
Nên khi chàng bước ra,
Cả bầu trời rực sáng
Vì đèn và pháo hoa.
Pháo hoa làm nàng sợ,
Vội lặn xuống thật sâu,
Nàng cứ nghĩ như lửa
Thi nhau rơi xuống đầu.
Rồi mọi thứ lắng xuống,
Đèn cũng bớt lung linh,
Nàng thì vẫn đắm đuối
Nhìn Hoàng Tử của mình.
Bỗng mây đen kéo đến,
Trời chợt nổi phong ba,
Sóng chồm lên giận dữ,
Sấm nổ, chớp chói lòa.
Tàu bị sóng đánh vỡ
Đang chìm xuống biển sâu.
Chàng Hoàng Tử xinh đẹp
Cùng chìm với con tàu.
Nàng tiên cá vội vã
Bơi lại để cứu chàng.
Hai người trôi theo sóng
Giữa biển trời mênh mang.
Sáng hôm sau, trời tạnh,
Mặt trời hồng nhô lên.
Hoàng Tử vẫn còn sống
Nhưng đôi mắt nhắm nghiền.
Nàng hôn đôi mắt ấy,
Hôn khuôn mặt thật xinh.
Nàng muốn chàng sống lại
Bằng tình yêu của mình.
Rồi lựa theo con sóng,
Nàng đưa chàng lên bờ.
Đó là một bãi biển
Hoang dã mà nên thơ.
Đặt chàng lên bãi cát,
Nàng theo sóng, lùi ra,
Vừa mừng, vừa lo sợ
Theo dõi chàng từ xa.
Chuông nhà thờ chợt điểm,
Mấy cô gái từ làng
Đi ra biển kéo lưới,
Ngạc nhiên khi thấy chàng.
Rồi nhiều người nữa đến,
Có cả một chiếc xe.
Họ đưa chàng đi mất.
Nàng tiên cá quay về.
*
Rất nhiều lần sau đó
Nàng còn tới nơi này,
Nhưng không thấy Hoàng Tử,
Chỉ thấy trời và mây.
Nàng buồn, luôn tư lự,
Không còn muốn làm gì,
Không cùng bạn bơi lội,
Không nghe sóng thầm thì.
Cuối cùng một cô chị
Biết nỗi buồn lòng nàng,
Dẫn đường, đưa nàng đến
Tận lâu đài của chàng.
Lâu đài của Hoàng Tử
Nằm ngay bên cửa sông,
Xây bằng đá cẩm thạch,
Đủ màu xanh, màu hồng.
Những bậc cầu thang lớn,
Những tấm thảm rất dày,
Những chùm đèn rực rỡ,
Trầm mặc những hàng cây.
Hoàng Tử, đêm thanh vắng,
Thường ra đứng ngoài hiên,
Tiếc là chàng không biết
Có nàng đang kề bên.
Nàng buồn, lên tiếng hát,
Một giọng hát tuyệt vời,
Thật du dương, êm ái,
Thuộc loại hay nhất đời.
Nàng hát cho Hàng Tử,
Thế mà chàng không nghe,
Tưởng đấy là tiếng sóng
Dạt dào trong đêm khuya.
Bỗng nhiên nàng thấy thích
Thế giới của loài người.
Thích được sống như họ
Giữa núi rừng xanh tươi.
Thái Hậu cho nàng biết
Loài người khác mọi loài,
Có linh hồn bất tử
Sống mãi cùng tương lai.
Và rằng các tiên cá
Cũng có được linh hồn
Nếu có người yêu họ
Hơn cha mẹ yêu con.
Từ đấy nàng mơ tưởng
Mong muốn được thành người,
Thành vợ của Hoàng Tử,
Sống hạnh phúc suốt đời.
Cuối cùng nàng quyết định
Nhờ phù thủy giúp nàng.
Một mụ già gớm ghiếc
Suốt đời sống trong hang.
Mụ tự tay chế thuốc,
Do tu luyện lâu ngày,
Có thể làm phép lạ,
Ai cần giúp, giúp ngay.
Vừa thấy nàng, mụ nói:
“Ta biết rồi, đừng lo.
Ôi công chúa xinh đẹp,
Thật điên rồ, điên rồ.
Ngươi muốn được Hoàng Tử
Đem lòng yêu thương ngươi.
Muốn trở thành bất tử
Với linh hồn con người.
Không sao, ta sẽ giúp.
Giá không rẻ lắm đâu,
Và cũng xin nói trước,
Sẽ đau đấy, rất đau.
Ta cho ngươi liều thuốc,
Ngươi sẽ có đôi chân
Thon thẳng và uyển chuyển
Như cô gái người trần.
Nhưng mỗi lần ngươi bước
Như có nghìn mũi chông
Châm chân ngươi, đau lắm.
Ngươi có chịu được không?”
Mụ phù thủy nói tiếp
Khi thấy nàng gật đầu:
“Ngươi hãy nghĩ cho kỹ,
Không vội vàng được đâu.
Vì thành người, mãi mãi
Ngươi sẽ không bao giờ
Quay trở lại với biển,
Dẫu ai cũng mong chờ.
Và nếu chàng Hoàng Tử
Không thực sự yêu ngươi
Như con yêu bố mẹ,
Ngươi sẽ không thành người.
Nếu chàng cưới người khác
Thì rạng sáng hôm sau,
Ngươi chết, thành bọt biển
Trôi giữa sóng bạc đầu...”
Nàng tiên cá chấp nhận
Tất cả những điều này.
Ôi, tâm hồn bất tử,
Ôi, tình yêu mê say.
Đổi lại, mụ phù thủy
Đòi giọng hát của nàng,
Một giọng hát kỳ diệu,
Du dương và dịu dàng.
Vì tình yêu Hoàng Tử,
Vì linh hồn nghìn năm,
Nàng để mụ cắt lưỡi
Và trở thành người câm.
Tay cầm lọ thuốc độc,
Nàng tiên cá dịu hiền
Bơi một vòng từ biệt
Rồi nhẹ nhàng lao lên.
*
Mặt trời còn chưa mọc,
Chàng Hoàng Tử của nàng
Đang trầm ngâm ngắm biển,
Tay tì lên cầu thang.
Nàng uống hết lọ thuốc,
Thấy cháy cổ, và rồi
Như có lưỡi kiếm sắc
Xẻ thân nàng làm đôi.
Nàng ngất, trôi theo sóng,
Tỉnh dậy, thấy mình trần
Và thay cho đuôi cá,
Nàng có một đôi chân.
Nàng vội vàng lấy tóc
Quấn xung quanh che người,
Ngước nhìn lên, chợt thấy
Hoàng Tử đang mỉm cười
“Nàng là ai?” chàng hỏi.
“Từ đâu tới?” Nhưng nàng
Vì câm, không nói được,
Chỉ lắc đầu khẽ khàng.
Hoàng Tử đỡ nàng dậy,
Rồi dìu nàng lên lầu.
Như mụ phù thủy nói,
Nàng thấy đau, thật đau.
Khi mỗi lần cất bước,
Như có nghìn mũi kim
Châm vào chân đau buốt,
Nhưng nàng vẫn lặng im.
Nàng đi bên Hoàng Tử
Dịu dàng như bông hồng
Dáng đi thật uyển chuyển,
Bước mà nhẹ như không.
Hoàng Tử cho nàng diện
Những bộ váy tuyệt vời,
Nàng thành người đẹp nhất,
Không nói mà chỉ cười.
Nhưng nàng có thể nhảy,
Mà nàng nhảy đẹp sao.
Ai nhìn cũng thán phục,
Không thua kém người nào.
Thế mà không ai biết
Cái đau dưới chân nàng,
Cái đau như lửa cháy
Theo bước nhảy nhẹ nhàng.
Khi mọi người đi ngủ,
Nàng ra ngồi, nhúng chân
Xuống nước biển mát lạnh,
Để cái đau nguội dần.
Xa xa phía trước mặt,
Giữa sóng biển bốn bề
Các chị nàng đang đến,
Hát, gọi nàng quay về.
Có đêm nàng còn thấy
Cả Thủy Tề, vua cha,
Và cả bà Thái Hậu...
Ôi, nhớ nhà, nhớ nhà.
Nhưng nàng vẫn ở lại
Mong được Hoàng Tử yêu
Để trở thành bất tử.
Chàng yêu nàng, có điều
Yêu như yêu em gái,
Vì chàng vẫn buồn rầu
Thương nhớ cô gái trẻ
Cứu chàng lần đắm tàu.
Vì nàng câm, không thể
Nói mọi chuyện với chàng,
Cả chuyện cô gái ấy
Chình là nàng, là nàng.
Và cuối cùng đã đến
Cái phải đến, than ôi,
Chàng Hoàng Tử cưới vợ,
Cưới vợ và lên ngôi.
Tiệc cưới đêm vui vẻ,
Nàng khóc, ngồi một mình,
Trân trân nhìn biển cả,
Đợi tia nắng bình minh.
Nàng sẽ thành bọt biển
Tan giữa sóng trùng khơi,
Và cùng tan với nó
Là ước mơ thành người.
Chợt các chị nàng đến,
Mặt buồn bã, lo âu,
Những mái tóc óng mượt
Không còn bay trên đầu.
“Để cứu em, các chị
Trước khi đi đến đây,
Cho phù thủy mái tóc
Để lấy con dao này.
Em hãy cầm lấy nó,
Từ giờ đến bình mình,
Đâm vào tim Hoàng Tử,
Chính xác, không rùng mình.
Khi máu Hoàng Tử chảy
Xuống chân em, tức thì
Chân lại thành đuôi cá,
Bình thường như mọi khi.
Bây giờ em phải chọn
Hoặc là em, hoặc chàng,
Ai là người sẽ chết.
Đừng chần chừ, hoang mang.”
Các chị chàng nói đoạn
Rồi lặn xuống biển sâu.
Nàng cầm con dao sắc,
Lặng lẽ đi lên lầu.
Hoàng Tử và công chúa
Đang ngủ say trong phòng.
Cả hai ngời hạnh phúc.
Còn nàng, nàng thì không.
Nàng buồn bã đứng lặng,
Nhìn hai người hồi lâu.
Kia, mặt trời sắp mọc.
Phải quyết định, mau, mau.
Nàng giơ con dao nhọn,
Chững lại một vài giây,
Rồi vứt nó xuống đất,
Đúng vào lúc rạng ngày.
Nàng gieo mình xuống biển.
Cả người nàng vỡ ra,
Tan thành muôn mảnh nhỏ
Dưới ánh nắng chói lòa.
Một lúc sau, thật lạ,
Nàng cảm thấy dịu dàng
Những tia nắng ấm áp
Đang vuốt ve người nàng.
Nghĩa là nàng chưa chết.
Nàng nhìn thấy mặt trời
Và trăm nghìn sinh vật
Đang bay lượn khắp nơi.
Những sinh vật nhỏ bé,
Trong suốt như thủy tinh,
Vừa bay, chúng vừa hát,
Hữu hình mà vô hình.
Chúng gọi nàng nhập bọn,
Vậy là nàng, cuối cùng
Thành tiên nữ nhỏ bé,
Bay lượn trên không trung.
Nàng tiên cá tội nghiệp
Hy sinh vì tình yêu
Mà không thành bất tử,
Lại đau khổ quá nhiều.
Nhưng giờ là tiên nữ,
Trong ba trăm năm tròn,
Nếu chuyên làm việc thiện,
Nàng sẽ có linh hồn.
*
Một câu chuyện thật đẹp,
Một tình yêu xót xa.
Từ ngày ấy, có thể,
Nhiều năm đã trôi qua.
Có thể nàng tiên cá
Từ lâu đã thành người
Với linh hồn bất tử
Sống vĩnh viễn trên đời.
Mà biết đâu, có thể,
Nàng đang sống đâu đây,
Chuyên tâm làm việc thiện,
Cứu rỗi cuộc đời này.
23
QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ (1753 - 1792)
Hôm qua ông đã nói
Về khởi nghĩa nông dân
Ở thế kỷ mười tám,
Đặc biệt là Tây Sơn.
Cả về các chiến thắng
Ngọc Hồi và Đống Đa.
Một trang sử chói lọi
Trong lịch sử nước nhà.
Giai đoạn lịch sử ấy
Gắn với một anh hùng,
Một con người vĩ đại,
Là Hoàng đế Quang Trung.
Hôm nay ông sẽ kể
Nhiều và chi tiết hơn
Về người anh hùng ấy,
Người con của Tây Sơn.
Đồng thời, trong khi kể,
Nhân thể ông cháu ta
Điểm lại những sự kiện
Đã nói ngày hôm qua.
*
Ba anh em Nguyễn Huệ,
Như sử sách đã ghi,
Quê gốc ở xứ Nghệ,
Dòng dõi Hồ Quý Ly.
Họ đi theo Chúa Nguyễn
Vào lập nghiệp Đằng Trong.
Thời kỳ đầu, nghe nói,
Cũng vất vả, long đong.
Ít ra bố mẹ họ
Phải làm nghề buôn trầu.
Ba trai và năm gái,
Nguyễn Nhạc là anh đầu.
Anh thứ hai - Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ là thứ ba.
Cả ba đều giỏi võ,
Mở lò ở quê nhà.
Mỗi người là sư tổ
Của một môn quyền hay,
Thành Tây Sơn võ phái,
Thuộc Bình Định ngày nay.
*
Năm Một Bảy Bảy Mốt,
Lấy cớ chống cường quyền,
Nguyễn Nhạc làm khởi nghĩa.
Lòng dân đang không yên,
Nên lập tức hào sĩ
Và nhiều người đi theo.
Lấy của kẻ giàu có
Đem chia cho dân nghèo.
Quân Tây Sơn giỏi võ,
Nguyễn Huệ là tướng tài
Nên đánh đâu thắng đấy,
Quân Chúa Nguyễn chạy dài.
Hai năm sau khởi nghĩa,
Anh em nhà Tây Sơn
Đánh đến tận Bình Thuận,
Chiếm được thành Quy Nhơn.
Nhưng giữa năm Bảy Bốn
Từ Gia Định đánh ra,
Chúa Nguyễn chiếm Bình Thuận
Và Gia Khánh, vậy là
Ba anh em Nguyễn Nhạc
Còn vùng đất Phú Yên
Đến vùng đất Quảng Ngãi,
Nhưng một vệt nối liền.
Cũng năm ấy, Chúa Trịnh
Cho đưa ba vạn quân
Vượt sông Gianh, nhanh chóng
Chiếm được thành Phú Xuân.
Chúa Nguyễn nhân dịp ấy
Tiến đánh quân Tây Sơn.
Ba anh em co cụm,
Phải rút về Quy Nhơn.
Tình thế rất nguy ngập.
Cả Đằng Trong, Đằng Ngoài
Đều o ép - phải chọn
Nên hòa, nên đánh ai?
Nguyễn Nhạc đã quyết định
Xin Chúa Trịnh cầu hòa,
Rảnh tay đánh chúa Nguyễn,
Sau thắng, sẽ đánh ra.
Muốn mượn tay Nguyễn Nhạc
Làm kẻ thù yếu dần,
Chúa Trịnh liền đồng ý,
Nhưng không chịu rút quân.
*
Tạm yên ở phía Bắc,
Quyết đánh bại Đằng Trong,
Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ
Cầm quân đi tiên phong.
Tướng Nguyễn Huệ lúc ấy
Còn là chàng thanh niên,
Hăm ba tuổi, quyết định
Phải chiếm lại Phú Yên.
Ông nhanh chóng bắt sống
Tướng giặc Nguyễn Khoa Kiên,
Giết chết nhiều tướng khác,
Có cả Nguyễn Văn Hiền.
Tướng Trịnh, Hoàng Ngũ Phúc,
Thấy Nguyễn Huệ thắng nhanh,
Bèn rút về bám trụ,
Chốt giữ Phú Xuân thành.
Thiên tài của Nguyễn Huệ
Sau trận thắng Phú Yên
Liên tiếp được khẳng định,
Thanh thế ngày càng lên.
Đặc biệt qua các trận
Tiến sâu vào phía trong,
Đánh chiếm thành Gia Định,
Thần tốc và tấn công.
Chỉ trong vòng bảy tháng,
Từ chỗ bị bao vây,
Nguyễn Huệ đảo thế trận,
Luôn đánh Đông dẹp Tây.
Hai Chúa Nguyễn bị giết,
Giải phóng cả toàn miền.
Nguyễn Ánh phải bỏ chạy
Ra Phú Quốc nằm yên.
*
Năm Một Bảy Bảy Tám
Nguyễn Nhạc tự xưng vương,
Lập niên hiệu Thái Đức
Nguyễn Huệ làm Long Nhương.
Năm Một Bảy Tám Sáu
Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân.
Thành Phú Xuân thất thủ,
Càng nức lòng nghĩa quân.
Rồi cũng liền sau đó
Ông đánh ra Thăng Long,
Cử tướng Nguyễn Hữu Chỉnh
Đi trước làm tiên phong.
Tinh thần đang rệu rã,
Các tướng Trịnh bàng hoàng,
Nên chưa đánh đã chạy
Hoặc hạ giáo đầu hàng.
Chúa Trịnh Tông bỏ trốn,
Dân bắt, giải về kinh.
Dọc đường, quá hoảng sợ,
Ông đã tự quyên sinh.
Thần tốc, như vũ bão,
Nguyễn Huệ vào Thăng Long
Như đi vào chỗ trống,
Gặp vua Lê Hiển Tông.
*
Về danh nghĩa, Nguyễn Huệ
Bầy tôi vua Hiển Tông,
Nhưng thực chất quyền lực
Đều nằm trong tay ông.
Rồi qua Nguyễn Hữu Chỉnh,
Trước là một đại thần,
Ông trở thành phò mã,
Lấy công chúa Ngọc Hân.
Chỉ mấy ngày sau đó
Lê Hiển Tông qua đời.,
Thông qua nhiều dàn xếp,
Lê Chiêu Thống lên ngôi.
Tướng Nguyễn Huệ quyết định
Đem công chúa Ngọc Hân
Cùng đại quân trở lại
Đóng ở thành Phú Xuân.
*
Như ta biết, Nguyễn Nhạc
Chia đất nước làm ba,
Nguyễn Lữ vùng Gia Định,
Nguyễn Huệ xứ Bắc Hà.
Việc Nguyễn Huệ tự ý
Đánh chiếm thành Thăng Long
Khi ông chưa cho phép
Khiến ông không hài lòng.
Mâu thuẫn ngày một lớn,
Nghi kỵ và đối đầu,
Và rồi năm Tám Bảy
Hai anh em đánh nhau.
Mà đánh nhau dữ dội,
Tây Sơn đánh Tây Sơn.
Nguyễn Huệ cho đại bác
Nã vào thành Qui Nhơn.
Nguyễn Nhạc thấy yếu thế
Phải nén nhục cầu hòa.
Nghĩ tình anh em ruột,
Nguyễn Huệ trách, rồi tha.
*
Nhân Tây Sơn lục đục,
Cả Đằng Ngoài, Đằng Trong
Liền tập hợp lực lượng
Nhất tề chống lại ông.
Quân Trịnh ở Miền Bắc
Đưa Trịnh Bồng lên ngôi.
Ở Gia Định, Nguyễn Ánh
Cũng chiếm được nhiều nơi.
Nguyễn Huệ lại Bắc tiến,
Lại đánh nhanh, tốc thần.
Sau khi giành thắng lợi,
Đưa quân về Phú Xuân.
Trong khi đó Nguyễn Ánh
Chiếm được vùng Đằng Trong.
Nguyễn Nhạc già, thoái vị,
Nhường ngai vàng cho ông.
*
Năm Một Bảy Tám Tám
Lê Chiêu Thống thỉnh cầu
Vua Càn Long giúp đỡ,
Và một thời gian sau
Tướng Thanh, Tôn Sĩ Nghị,
Dẫn hăm chín vạn quân
Ào ào như thác chảy,
Tiến qua Ải Nam Quan.
*
Vừa lên ngôi hoàng đế,
Lấy niên hiệu Quang Trung,
Nguyễn Huệ lại Bắc tiến,
Đoàn quân đi trùng trùng.
Để tuyển thêm binh lính,
Ông dừng ở Nghệ An,
Cho diễu binh rầm rộ,
Quân số lên trăm ngàn.
Đoàn quân diễu binh ấy
Tiến thẳng ra Bắc Kỳ,
Thế mạnh như vũ bão,
Rầm rập bước chân đi.
Ngày hai mươi tháng Chạp
Tới Tam Điệp, Quang Trung
Hẹn đến ngày mồng bảy
Ăn Tết ở Thăng Long.
Đến ngày mồng năm Tết,
Với chiến thắng Đống Đa,
Tây Sơn đã đại thắng,
Giải phóng cả Bắc Hà.
Chủ tướng Sầm Nghi Đống
Tự vẫn vì buồn lo.
Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy,
Xác giặc chết thành gò.
*
Dẫu chiến thắng oanh liệt,
Để gìn giữ hòa bình,
Nguyễn Huệ vẫn quyết định
Giảng hòa với nhà Thanh.
Nhà Thanh sai sứ giả
Sang phong vương cho ông,
Còn mời sang Trung Quốc
Mừng thọ vua Càn Long.
Theo kế Ngô Thì Nhậm,
Năm Một Bảy Chín Mươi,
Ông cử đoàn sứ giả
Một trăm năm mười người.
Cháu ông, Phạm Công Trị,
Thay ông, giả làm vua,
Dẫn đầu đoàn sứ ấy,
Giặc biết, đành làm ngơ.
Ông còn có ý định
Cầu hôn con vua Thanh,
Đòi lại đất Lưỡng Quảng,
Tiếc là việc không thành.
Ông bị bệnh, chết sớm,
Tháng Chín năm Bảy Hai,
Hưởng thọ bốn mươi tuổi,
Một con người toàn tài.
Bốn năm trên ngôi báu,
Ông làm được nhiều điều,
Đánh đuổi giặc xâm lược,
Thiết lập một vương triều.
Ông chấn hưng nông nghiệp,
Khuyến khích ngành công thương,
Cho tự do tôn giáo,
Xây thêm nhiều tuyến đường.
Ông sửa đổi hành chính,
Sắp xếp lại chức quan,
Chữ Nôm thay chữ Hán
Khi soạn thảo công văn.
*
Vua Quang Trung Hoàng Đế,
Nhà quân sự tuyệt vời,
Người anh hùng dân tộc
Sống mãi trong lòng người.
Theo sử sách chép lại,
Trước khi đánh Thăng Long,
Ông bày ra một cách
Làm quân sĩ nức lòng.
Ông nói với quân sĩ
Sẽ tung trăm đồng tiền,
Nếu tất cả đều sấp,
Ta sẽ thắng, tiến lên!
Trăm đồng tiền, quả thật,
Đều sấp hết, việc này
Làm nức lòng binh sĩ,
Nghĩ trời cho vận may.
Thực ra, vua trước đó
Cho đúc chúng, có điều
Cả hai mặt đều sấp.
Một cú lừa đáng yêu.
*
Còn câu chuyện cổ tích
Ông sẽ kể bây giờ
Là một truyện nổi tiếng
Ông viết lại thành thơ.
Chắc nhiều cháu đã đọc
Hay xem phim truyện này.
Không sao, cứ nghe lại,
Đơn giản vì nó hay.
NÀNG BẠCH TUYẾT VÀ BẢY CHÚ LÙN
Có bà hoàng hậu nọ
Một buổi chiều mùa đông,
Ngồi khâu bên cửa sổ,
Tuyết rơi trắng ngoài đồng.
Vì mải nhìn tuyết trắng,
Bà đâm kim phải tay,
Để ba giọt máu đỏ
Rơi lên lớp tuyết dày.
Bất chợt, bà thầm nghĩ:
“Ước gì trời cho mình
Sinh được cô con gái
Bé nhỏ và thật xinh.
Da nó trắng như tuyết,
Mái tóc dài, thật đen,
Môi đỏ như giọt máu,
Một cô bé dịu hiền.”
Chắc trời nghe lời ước:
Chưa đầy một năm sau
Bà sinh cô con gái
Đúng như lời nguyện cầu.
Bà đặt tên Bạch Tuyết.
Nhưng cô vừa mới sinh
Thì hoàng hậu ốm, chết,
Để cô lại một mình.
Bố cô thương cô lắm,
Thế mà một năm sau
Đã lấy bà vợ khác,
Nói là để giải sầu.
Nhỏ nhen và độc ác,
Mụ vợ mới rất xinh,
Suốt ngày nơm nớp sợ
Người khác xinh hơn mình.
Mụ có chiếc gương nhỏ,
Nhưng là loại gương thần.
Nó chỉ nói sự thật,
Là vật bất ly thân.
Một hôm mụ hỏi nó:
“Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”
Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Người đẹp nhất là bà!”
Mụ nghe, rất thích thú,
Kiêu càng kiêu gấp ba.
Trong khi đó, Bạch Tuyết
Càng lớn lại càng xinh.
Đến năm mười ba tuổi,
Đẹp nghiêng nước, nghiêng thành.
Mụ cầm gương, lại hỏi:
“Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”
Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Trước đẹp nhất là bà,
Giờ so với Bạch Tuyết,
Nhan sắc bà thua xa!”
Mụ nghe gương nói thế,
Liền tái mặt vì ghen.
Từ đấy, thấy Bạch Tuyết,
Mụ giận, tưởng phát điên.
Ngày một thêm kiêu ngạo
Và đố kỵ, mụ ta,
Một hôm bèn cho gọi
Ông lão thợ săn già:
“Ngươi phải đem Bạch Tuyết
Vào sâu trong rừng dày,
Giết chết và sau đấy
Mang gan nó về đây!”
Vốn thương người, ông lão
Không đang tâm giết nàng.
Để lừa mụ hoàng hậu,
Ông giết một con mang.
“Thật đáng đời cho nó!”
Mụ kêu lên vui mừng,
Rồi ngấu nghiến ăn hết
Lá gan con thú rừng.
*
Lại nói nàng Bạch Tuyết,
Một mình giữa rừng cây,
Nàng sợ, nhưng không biết
Phải làm gì lúc này.
Thật lạ là thú dữ
Không hề làm hại nàng.
Cao trên đầu chim hót,
Dưới chân ngập lá vàng.
Nàng cứ đi đi mãi,
Cho đến khi bất ngờ
Thấy một ngôi nhà lá
Bé nhỏ và đơn sơ.
Đi nhiều nên đói, mệt,
Mà cũng đã tối trời,
Nàng quyết định dừng lại,
Xin vào nhà nghỉ ngơi.
Có một điều thú vị:
Mọi cái trong nhà này
Sạch sẽ và bé tí,
Trông thật xinh, thật hay.
Trên chiếc bàn bằng gỗ
Có bảy chiếc đĩa con,
Bảy khăn ăn, bảy bát,
Bảy chiếc thìa tí hon.
Kê sát vách, nàng thấy
Có đúng bảy chiếc giường,
Phủ vải trắng như tuyết,
Sạch sẽ và dễ thương.
Nàng ngồi xuống bàn gỗ,
Bắt đầu uống và ăn,
Nhưng mỗi đĩa một tí,
Không muốn ai mất phần.
Rồi mệt, nàng buồn ngủ.
Giường cái thiếu, cái thừa,
Thử đến chiếc thứ bảy,
Nàng mới thấy thật vừa.
Chủ nhà ấy, tối mịt
Mới về, còn lấm bùn,
Họ làm việc ở mỏ.
Đó là bảy chú lùn.
Ngay lập tức các chú
Thấy có điều khác thường:
“Ai ăn vơi đĩa xúp?”
“Ai làm nhăn vải giường?”
“Ai đã uống cốc rượu?”
“Ai tưới nước cho hoa?”
Họ thắp bảy ngọn nến,
Rồi đi tìm khắp nhà.
Khi thấy nàng Bạch Tuyết,
Bảy chú đứng lặng người -
Một cô gái bé nhỏ,
Thật xinh và thật tươi.
Họ để nàng ngủ tiếp.
Giờ bảy chú sáu giường,
Đành luân phiên nhau ngủ,
Các chú lùn dễ thương.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy,
Bạch Tuyết sợ hết hồn
Khi bất ngờ chợt thấy
Bảy con người tí hon.
Họ ra hiệu đừng sợ,
Hỏi điều nọ, điều này.
Nàng bình tĩnh kể chuyện
Vì sao nàng tới đây.
Họ mời nàng ở lại
Trông nom việc trong nhà,
Lo nấu ăn, giặt dũ,
Trồng rau và tưới hoa.
Thế là nàng Bạch Tuyết
Tìm được nơi nương thân
Với những người bạn mới,
Rất chu đáo, ân cần.
Bảy chú lùn ngoài mỏ
Đến chiều tối mới về.
Nàng nấu sẵn cơm nước,
Lo chu tất mọi bề.
*
Mụ hoàng hậu độc ác
Nghĩ Bạch Tuyết không còn,
Nên mụ là đẹp nhất,
Không người nào đẹp hơn.
Mụ cầm gương, cười hỏi:
““Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”
Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Trước đẹp nhất là bà,
Giờ so với Bạch Tuyết,
Nhan sắc bà thua xa!
Nàng Bạch Tuyết còn sống,
Ở với bảy chú lùn,
Trong ngôi nhà bé nhỏ
Sâu trong rừng gỗ mun!”
Vì gương không nói dối,
Nên mụ biết lão già
Đã không giết Bạch Tuyết,
Chắc thương tình mà tha.
Mụ lồng lên tức giận,
Tìm cách hãm hại nàng.
Cuối cùng nghĩ được kế:
Mụ giả vờ cải trang
Thành bà lão ốm yếu
Chuyên đi bán hàng rong.
Mụ vượt rừng, lội suối,
Đi sâu mãi vào trong.
Khi thấy ngôi nhà nhỏ,
Mụ cất tiếng rao hàng:
“Lão có nhiều hàng quí,
Nhiều áo xanh, áo vàng...”
Thấy bà lão tử tế,
Bạch Tuyết cho vào nhà.
Nàng mua chiếc áo chẽn
May rất đẹp, bằng da.
Vờ giúp nàng mặc áo,
Cúc hàng cúc phía sau,
Mụ lấy sợi dây nhỏ
Xiết cổ nàng thật lâu.
Nàng Bạch Tuyết tắt thở,
Ngã khuỵu xuống sàn nhà.
Mụ thét lên sung sướng:
“Giờ đẹp nhất là ta!”
Bảy chú lùn hoảng sợ
Khi nhìn thấy cảnh này.
Họ đỡ nàng ngồi dậy,
Rồi nới lỏng sợi dây.
Cuối cùng nàng tỉnh lại
Kể hết mọi sự tình.
Các chú dặn cẩn thận
Khi ở nhà một mình.
Và rằng mụ còn đến,
Không mở cửa cho vào,
Không mua bán, đổi chác,
Không nói một lời nào.
Mụ hoàng hậu sung sướng
Khi quay về đến nhà,
Cầm chiếc gương, mụ hỏi:
“Giờ ai đẹp bằng ta?”
Chiếc gương thần lại nói
Nàng Bạch Tuyết đẹp hơn.
“A, con bé còn sống.
Để rồi xem, liệu hồn!”
Rồi mụ lấy quả táo
Tiêm thuốc độc vào trong.
Chỉ nửa đỏ có độc,
Còn nửa xanh thì không.
Mụ cải trang lần nữa
Thành một bà nông dân,
Vượt qua bảy ngọn núi,
Đến được nơi mụ cần.
Mụ gõ cửa, Bạch Tuyết
Liền hỏi:”Bà cần gì?
Tôi sẽ không mở cửa.
Xin mời bà đi đi!”
“Ừ, thì đi,” mụ nói,
“Nhưng mẹ muốn mời con
Cùng ăn chung quả táo,
Nó rất đẹp, rất dòn.”
Mụ bổ đôi quả táo,
Ăn nửa quả màu xanh,
Nửa kia đưa Bạch Tuyết,
Hồng tươi, thật ngon lành.
Tưởng không có thuốc độc,
Nàng ăn và chết liền.
Mụ hoàng hậu độc ác
Vui mừng, kêu như điên:
“Giờ thì thôi, chết hẳn.
Những thằng lùn của mày
Dù có cố đến mấy,
Cũng bó tay lần này!”
Về nhà, mụ lại hỏi:
“Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”
Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Người đẹp nhất là bà!”
Mụ rên lên sung sướng:
“Người đẹp nhất là ta!”
Bảy chú lùn tối ấy,
Cố tìm cách cứu nàng,
Nhưng cứu mãi không được.
Họ đồng thanh khóc vang.
Khóc ba ngày ròng rã,
Rồi họ định đem chôn,
Nhưng thấy nàng tươi, đẹp
Như người sống, có hồn.
Họ đặt nàng Bạch Tuyết
Vào quan tài thủy tinh.
Trông nàng như đang ngủ,
Vô lo và thanh bình.
Họ còn cho khắc chữ,
Những con chữ bằng vàng,
Lên quan tài trong suốt,
Ghi rõ họ tên nàng.
Rồi họ đưa lên núi,
Đặt dưới tán cây xanh.
Các chú lùn lặng lẽ
Luân phiên nhau đứng canh.
Tất cả các loại vật
Cũng đến viếng thăm nàng.
Từ gấu, hổ, sư tử
Đến chim câu, đại bàng...
Thật lạ, nàng đã chết,
Mà sắc mặt vẫn tươi,
Môi đỏ, da như tuyết...
Hình như nàng đang cười.
*
Một hoàng tử nước nọ
Đi săn trong rừng mun,
Lạc đường, xin ghé nghỉ
Nhà của bảy chú lùn.
Chàng ngạc nhiên khi thấy
Chiếc quan tài thủy tinh,
Có công chúa đang ngủ,
Nét mặt rất tươi xinh.
Dẫu biết nàng đã chết,
Nhưng hoàng tử yêu nàng,
Và muốn bằng mọi giá
Đưa nàng về nước chàng.
Thấy chàng yêu thực sự,
Bảy chú lùn cuối cùng
Đồng ý cho hoàng tử
Đưa Bạch Tuyết về cung.
Chàng liền cho thị vệ
Khiêng quan tài đi ngay.
Họ khiêng rất cẩn thận,
Nhưng vấp phải rễ cây,
Chiếc quan tài bị xóc,
Còn Bạch Tuyết bên trong
Đầu dựng lên, lắc mạnh,
Nôn ra miếng táo hồng.
Lập tức nàng sống lại,
Hỏi mình đang ở đâu.
Chàng hoàng tử vui sướng
Kể mọi chuyện từ đầu.
Rồi đúng kiểu hoàng tử,
Chàng đã cầu hôn nàng.
Rồi xe đón Bạch Tuyết
Về vương quốc của chàng.
Tiếp đến là lễ cưới,
Vui mọi nhà, mọi nơi.
Mụ hoàng hậu độc ác
Tất nhiên cũng được mời.
Mụ ăn mặc lộng lẫy.
Trước khi đi khỏi nhà,
Mụ hỏi gương: “Có phải
Đẹp nhất vẫn là ta?”
Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Trước đẹp nhất là bà,
Giờ so với Bạch Tuyết,
Nhan sắc bà thua xa!”
Mụ định không đi nữa,
Hết khóc lại thở dài,
Cuối cùng vẫn tới dự,
Xem cô dâu là ai.
Khi nhìn thấy Bạch Tuyết,
Mụ ngất, ngã xuống sàn.
Còn trái tim độc ác,
Uất ức mà vỡ tan.
Thế là hết đời mụ.
Đúng một mụ đàn bà,
Cứ thích thành đẹp nhất,
Gian xảo và xấu xa.
24
CHIẾN TRANH TÂY SƠN - CHÚA NGUYỄN
Năm Một Bảy Tám Bảy,
Tức Đinh Mùi, mùa thu,
Nguyễn Ánh trở về nước,
Nung nấu sự trả thù.
Ông gom nhặt tướng cũ,
Chiêu mộ người hiền danh,
Được Võ Tánh giúp sức,
Thế lực phát triển nhanh.
Chẳng bao lâu sau đó
Ông đánh chiếm Long Xuyên,
Chiếm Vĩnh Long, Sa Đéc,
Thanh thế ngày càng lên,
Ông lập căn cứ mới
Nay ở vùng Mỹ Tho.
Chuẩn bị lương, khí giới,
Cho quân đi thăm dò.
Năm Một Bảy Tám Tám,
Táo bạo và bất ngờ,
Ông đánh chiếm Gia Định,
Tức Sài Gòn bây giờ.
Tháng Chín, cũng năm ấy,
Tàu chiến Pháp đến đây.
Nguyễn Ánh học từ họ
Cách đánh của phương Tây.
Ông chiếm lại Bình Thuận
Năm Một Bảy Chín Không,
Lo chấn chỉnh kinh tế
Và củng cố quốc phòng.
Nhân Tây Sơn lục đục,
Nguyễn Ánh thường cho quân,
Chủ yếu là quân thủy
Tiến đánh, lấn đất dần.
Sau khi Nguyễn Huệ mất,
Nguyễn Quang Toản lên ngôi,
Lấy niên hiệu Cảnh Thịnh,
Triều chính luôn rối bời.
Vì vua còn quá nhỏ,
Thái sư Bùi Đắc Tuyên
Đảm đương hết công việc
Và ngày càng chuyên quyền.
Đại thần luôn lục đục.
Dân chúng lại bất bình.
Vua sao nhãng triều chính,
Sao nhãng cả việc binh.
Trong khi đó, Nguyễn Ánh
Lo chuẩn bị chiến tranh,
Lại được sĩ quan Pháp
Giúp kỹ thuật, tập tành.
Chuẩn bị xong, Nguyễn Ánh,
Năm Một Bảy Chín Ba
Xuất phát từ Gia Định,
Gồm nhiều mũi đánh ra.
Giữa Một Tám Không Một,
Sau khi chiếm Qui Nhơn,
Ông đánh thẳng ra Huế,
Thủ đô của Tây Sơn.
Thế yếu, Nguyễn Quang Toản
Phải chạy ra Bắc Hà.
Giữa năm sau Nguyễn Ánh
Lại tiếp tục đánh ra.
Ông lần lượt đánh chiếm
Hết Quảng Trị rồi Vinh,
Rồi đánh tiếp Thanh Hóa,
Đến Nam Định, Ninh Bình.
Từ đấy, quân Nguyễn Ánh
Đánh thẳng vào Thăng Long.
Nguyễn Quang Toản hoảng sợ,
Phải bỏ chạy, vượt sông
Định trốn lên mạn ngược,
Nhưng vừa đến Bắc Giang
Đã bị thổ hào bắt,
Vua và tôi đầu hàng.
Họ bị nhốt vào cũi
Giải về thành Thăng Long,
Giao nộp cho Nguyễn Ánh.
Cảnh tượng thật đau lòng.
Sau này ông bị giết
Theo kiểu xưa, nhục hình.
Bị năm voi xé xác,
Ai thấy cũng rùng mình.
*
Nhà Tây Sơn chấm dứt,
Tồn tại không lâu dài,
Từ Một Bảy Bảy Tám
Đến Một Tám Không Hai.
Cũng năm ấy Nguyễn Ánh
Đặt niên hiệu Gia Long,
Lần đầu tiên thống nhất
Trọn vẹn cả non sông.
Ông bỏ tên Đại Việt,
Đặt quốc hiệu Việt Nam.
Thủ đô của nước mới
Được chọn là Phú Xuân.
Năm Một Tám Không Sáu,
Thống nhất xong nước nhà,
Ông lên ngôi hoàng đế
Ở cung điện Thái Hòa.
*
Nhân tiện đây ông muốn
Nói thêm về điều này,
Về Việt Nam, quốc hiệu
Ta đang dùng ngày nay.
Sau chiến thắng, Nguyễn Ánh
Cử sứ sang nhà Thanh
Để kết tình hòa hảo,
Và xin công nhận mình.
Ông xin đổi quốc hiệu
Đại Việt cũ thân thương
Thành Nam Việt, chữ ghép
An Nam và Việt Thường.
An Nam là tên cũ,
Tức nước Nam yên hòa.
Người Hán gọi khi họ
Chinh phục được nước ta.
Việt Thường là nước cổ
Cách đây ba nghìn năm,
Xưa nằm ở vùng đất
Thuộc Hà Tĩnh, Nghệ an.
Nhà Thanh không đồng ý,
Vì nhà Triệu trước đây
Có nước tên Nam Việt,
Sợ nhầm lẫn sau này.
Nên yêu cầu đổi ngược
Thành Việt Nam, thế là
Quốc hiệu Việt Nam ấy
Thành tên gọi nước ta.
*
Sau suốt mấy thế kỷ
Loạn, chiến tranh triền miên,
Đất nước được thống nhất,
Quân chủ và tập quyền.
Lãnh thổ được mở rộng,
Đất nước lại bình an,
Từ biên giới Trung Quốc
Đến tận vịnh Thái Lan.
Nước có ba mươi tỉnh,
Và một phủ, Thừa Thiên.
Dân chúng được khuyến khích
Di dân, lập đồn điền.
Nhiều vùng đất hoang hóa
Được khai khẩn dần dần.
Nông, Công, Thương phát triển,
Dân yên ổn làm ăn.
Ông ban hành bộ luật,
Gọi là luật Gia Long,
Hay Hoàng Việt Luật Lệ,
Biên soạn rất dày công.
Luật gồm hăm hai cuốn,
Ba trăm chín tám điều.
Được xem là tiến bộ,
Dẫu khiếm khuyết còn nhiều.
Dưới thời vua Nguyễn Ánh,
Việt Nam là quốc gia
Thế và lực hùng mạnh,
Làm vẻ vang nước nhà.
Ông làm được nhiều việc.
Tiếc người đời về ông
Còn có cách đánh giá
Thiển cận và bất công.
*
Hôm nay, thay cổ tích,
Ông kể câu chuyện này.
Chuyện một nhà toán học.
Có thật, mới gần đây.
THẰNG HÈN VĨ ĐẠI
Có một nhà toán học
Trẻ tuổi và thông minh,
Tiếc rằng chàng nghèo quá
Nên đã bị người tình
Bỏ rơi, theo người khác,
Theo một chàng sĩ quan.
Cuộc đời vốn vẫn vậy,
Chẳng có gì đáng bàn.
Một lần, hai chàng ấy
Cãi cọ rất gắt gay,
Rồi thách nhau đấu súng,
Hẹn sau hai mươi ngày.
Nhưng đời thật trái khoáy:
Trong hai mươi ngày sau,
Nhiều phương trình toán học
Bỗng xuất hiện trong đầu.
Chàng cắm cúi làm việc,
Chạy đua với thời gian,
Hết tính toán lại viết,
Không rời khỏi chiếc bàn.
Rồi hai mươi ngày hết,
Công trình vẫn chưa xong.
Một công trình vĩ đại,
Chàng ấp ủ trong lòng.
Thôi thì đành chịu nhục.
Phải hoàn tất công trình,
Chàng xin hủy cuộc đấu,
Và đã được người tình
Thẳng thừng ném vào mặt
Một chữ “Hèn” sỗ sàng.
Chữ “Hèn” nhục nhã ấy
Suýt đã giết chết chàng.
Nhưng chàng cố gượng dậy,
Bất chấp lời thị phi,
Lại làm việc, làm việc,
Ngoài ra không biết gì.
Cuối cùng, công trình ấy
Cũng được chàng viết xong,
Một công trình vĩ đại
Chàng thực sự hài lòng.
Chàng tắm rửa sạch sẽ,
Uống một cốc rượu vang,
Cầm khẩu súng thách đấu
Rồi bắn vào tim chàng.
*
“Bàn về toán vũ trụ”,
Công trình toán “dở hơi”,
Được in mấy trăm bản
Sau khi chàng qua đời.
Rồi thiên tài vật lý,
Einstein, một ngày,
Trong cửa hàng sách cũ
Tìm thấy công trình này.
Ông say mê đọc nó,
Quả có một không hai.
Chốc chốc ông ngả mũ
Như cúi chào thiên tài.
Đọc xong ông kinh ngạc,
Suýt nữa thì kêu lên,
Khi thấy chữ “Le Lâche”,
Tên tác giả - Thằng Hèn.
Lát sau ông chữa lại
Thành “Lâche le Grand”,
Tức “Thằng Hèn Vĩ Đại.”
Cũng là một dạng hèn.
*
Câu chuyện chỉ có thế.
Chẳng biết viết thêm gì.
Mà cũng chẳng cần viết.
Ai nghĩ gì thì tùy.
Có cái sai trong đúng,
Có cái đúng trong sai.
Có những người nhỏ bé,
Có những bậc thiên tài.
Có cái hèn hèn thật,
Có cái hèn tạm thời.
Ừ, thì hèn cũng được,
Miễn có ích cho đời.
25
CAO BÁ QUÁT (1809 - 1855)
Sau Khi Nguyễn Ánh mất,
Các vua khác lên thay.
Triều chính không ổn định,
Dân cơ cực thường ngày.
Bệnh dịch và nạn đói
Làm chết hàng nghìn người.
Có nhiều cuộc khởi nghĩa
Đã nổ ra nhiều nơi.
Đó là cuộc khởi nghĩa
Của ông Phan Bá Vành,
Năm Một Tám Hai Một,
Ở Nam Định, Thái Bình.
Tiếp đến là khởi nghĩa
Nông Văn Vân, tri châu,
Ở Cao Bằng trùng điệp,
Dẫu kéo dài không lâu.
Có cuộc khởi nghĩa lớn
Năm Một Tám Ba Ba.
Lê Văn Khôi lãnh đạo,
Ở miền Nam nước ta.
Ông chiếm được Gia Định,
Giết chết Bạch Xuân Nguyên,
Một tên quan gian ác,
Tham lam và lộng quyền.
Chỉ mấy tháng sau đó
Cả Lục Tỉnh đầu hàng.
Tiếc là ông bệnh, chết,
Con đường đi dở giang.
Năm Ba Lăm, tháng Bảy,
Quân vua từ Phú Xuân
Được điều đến đàn áp,
Cuộc khởi nghĩa tan dần.
Một cuộc khởi nghĩa nữa,
Khoảng hai mươi năm sau,
Chu Thần Cao Bá Quát,
Một nhà thơ, cầm đầu.
Bây giờ ông sẽ kể
Về ông nhà thơ này.
Ngang tàng và chí khí,
Mà thơ cũng rất hay.
*
Một hiện tượng kỳ lạ
Trên thi đàn nước ta.
Đó là Cao Bá Quát,
Một nhà thơ tài ba,
Một ông quan chính trực,
Đèo bòng nợ văn chương
Rồi sau thành “tướng giặc”,
Bị giết ở chiến trường.
Ông sinh ở Phú Thị,
Huyện Gia Lâm bây giờ
Bố ông và ông nội
Là thầy thuốc yêu thơ.
Ngày bé ông nghèo khổ
Nhưng nổi tiếng thông minh,
Văn hay và chữ tốt,
Thần đồng tỉnh Bắc Ninh.
Thế mà thi luôn trượt.
Mãi sau ông thi Hương,
Đỗ Á Nguyên Hà Nội,
Nhưng thật tiếc, quan trường
Xếp ông vào cuối bảng
Trong số hai mươi người
Đỗ cử nhân lần ấy.
Bất công và buồn cười.
Sau đó ông vào Huế
Thi Hội, khá nhiều lần,
Nhưng lần nào cũng trượt.
Dù rất giỏi thơ văn.
Năm một tám bốn một,
Được quan tỉnh Bắc Ninh
Tiến cử làm công chức,
Ông khăn gói vào kinh,
Rồi làm chức quan nhỏ
Trong bộ Lễ, thường niên
Ông được làm sơ khảo
Trường thi tỉnh Thừa Thiên.
Một lần chấm, ông tiếc,
Thấy một số bài thi
Viết hay và súc tích
Nhưng vô tình phạm qui.
Thế là cùng Phan Nhạ,
Một người chấm như ông,
Cao Bá Quát chữa lại
Bằng mực pha son hồng.
Việc lộ, ông bị bắt,
Đáng lẽ xử tử hình,
Sau vua xét, hạ xuống
Thành “giảo giam hậu trình”.
Tức tạm giam đợi lệnh.
Ba năm sau, được tha
Để “dương trình hiệu lực”,
Tức chuộc tội, đi xa.
Ông theo Đào Trí Phú,
Lên tàu lớn Phấn Bằng
Sang Nam Dương “hiệu lực”,
Kéo dài gần một năm.
Rồi sau được phục chức
Ở bộ Lễ, nhưng ông
Lần nữa bị sa thải,
Lại quay về Thăng Long.
Năm một tám bốn bảy,
Bỗng có giấy mời ông
Quay lại Huế làm việc,
Một công việc văn phòng,
Là chỉnh lý thơ phú
Cũng có khi sưu tấm,
Nói chung là nhàn nhã
Ngay trong Viện Hàn lâm.
Do bản chất công việc,
Ông làm quen ở đây
Với Miên Trinh, Miên Thẩm.
Hai vị hoàng thân này
Đã mời ông gia nhập
Và đàm đạo đôi khi
Với nhóm thơ của họ,
Gọi là Mạc Vân Thi.
Nhưng ba năm sau đó,
Do mất lòng quan thầy,
Ông bị đổi ra Bắc
Làm giáo thụ Sơn Tây.
Sau đó ông buồn chán,
Treo áo mũ, về nhà,
Mượn cớ cha vừa mất,
Phải phụng dưỡng mẹ già.
Năm Một Tám Năm Bốn,
Trời nắng hạn lâu ngày,
Lại gặp nạn châu chấu,
Dân đói, nhiều ăn mày.
Ông bí mật vận động
Một số người có tiền
Và sĩ phu yêu nước
Khởi nghĩa chống chính quyền.
Từ Quốc Oai, Vĩnh Phúc
Đến Lạng Sơn, Cao Bằng
Có nhiều người hưởng ứng,
Tinh thần cũng rất hăng.
Lại thêm Đinh Công Mỹ,
Bạch Công Trân Sơn Tây,
Các thổ mục giàu có,
Rất ủng hộ việc này.
Việc tụ nghĩa cứ vậy,
Được tiến hành từ từ.
Lê Duy Cự - minh chủ.
Cao Bá Quát - quốc sư.
Thành trì quân khởi nghĩa
Là vùng núi Mỹ Lương,
Kiểu thay trời hành đạo,
Chống áp bức, bạo cường.
Rất tiếc, việc bại lộ
Khi chuẩn bị chưa xong,
Nên cuối năm năm bốn,
Ông buộc phải tấn công.
Lúc đầu nghĩa quân thắng
Ở Tam Dương, Thanh Oai,
Sau quân vua đánh rát,
Phải thua chạy dài dài.
Năm Giáp Dần, tháng Chạp,
Được người Thái, người Mường
Bổ sung vào lực lượng
Ở cứ điểm Mỹ Lương,
Ông chủ động đánh chiếm
Thành Yên Sơn lần hai,
Ngày nay huyện lỵ ấy
Là thị trấn Quốc Oai.
Phó lãnh binh Lê Thuận
Đem quân dàn hàng ngang,
Hai bên đang huyết chiến,
Tên đội Đinh Thế Quang
Cho lính bắn tới tấp
Vào hàng ngũ nghĩa quân.
Cao Bá Quát trúng đạn,
Ngã xuống chết bất thần.
Rồi tướng Nguyễn Văn Thực
Và tướng Nguyễn Kim Thanh
Cũng lần lượt bị bắt,
Chém, đầu bêu ngoài thành.
Hơn trăm quân khởi nghĩa
Đã bỏ mạng lần này
Cùng tám mươi người khác
Bị bắt và đi đày.
Vua Tự Đức từ Huế
Xuống chiếu thưởng, khao quân,
Ra lệnh cắt cắt thủ cấp
Cao Bá Quát nghịch thần
Rồi cho xe bêu riếu
Khắp các tỉnh Bắc Kỳ,
Xong, đưa vào cối giã,
Để nước sông cuốn đi.
Quốc sư Cao Bá Quát
Còn là một nhà thơ,
Một nhà thơ rất lớn,
Nổi tiếng cả bây giờ.
Khi khởi nghĩa thất bại,
Triều đình đốt sách ông.
May mắn còn giữ được
Trong các thư viện công
Tổng cộng, không kể truyện,
Gần nghìn rưởi bài thơ
Chủ yếu thơ chữ Hán,
Ý hay và bất ngờ.
Thơ ông là khí phách
Của một bậc túc nho,
Một tấm lòng yêu nước
Khao khát dựng cơ đồ.
GIAI THOẠI VỀ CAO BÁ QUÁT
Cao Bá Quát từ nhỏ
Đã nổi tiếng thần đồng,
Ăn nói giỏi, chí lớn,
Kinh và sử thuộc lòng.
Lớn lên càng khí phách,
Không khuất phục người nào,
Nhất là bọn ngu dốt
Loại lý trường, cường hào.
Lần nọ, nhân lý trưởng
Đắp đôi voi ngoài đình,
Quát làm bài thơ nhỏ,
Còn ký cả tên mình:
“Đôi voi đắp đẹp đấy,
Đủ cả đuôi, cả vòi.
Sao không thấy “cái ấy”,
Hay ông lý ăn rồi?”
Lão lý trưởng tức lắm,
Nhưng không dám làm gì.
Dính vào bọn con nít,
Người lớn sẽ xầm xì.
Lần nọ, vua Minh Mạng
Kinh lý ra Thăng Long.
Dân đi xem đông đúc,
Quát cũng muốn thấy ông.
Hôm ấy trời oi bức,
Quát xuống tắm Hồ Tây
Đúng lúc Minh Mạng đến,
Dừng kiệu ngắm hồ này.
Cậu giả đò sợ hãi,
Tồng ngồng leo lên bờ.
Vua cho là hỗn láo,
Sai lính trói, bắt chờ.
Cậu khóc, xin tha tội,
Xưng mình học trò nghèo.
Vua nói tội này láo,
Phải đánh đúng mười hèo.
Học trò chắc giỏi chữ,
Vậy câu đối vua ra,
Nếu đối được, đối đúng,
Vua chiếu cố, sẽ tha.
“Dưới hồ, cá đớp cá.”
Vua nói rồi mỉm cười.
Quát lập tức đáp lại:
“Trên bờ, người trói người.”
Minh Mạng biết mình hớ
Để thằng nhóc con này
Đặt mình ngang với hắn,
Nhưng hứa rồi, tiếc thay.
Cao Bá Quát học giỏi,
Nhưng thi trượt đều đều.
Người Thăng Long thời ấy
Gọi Thánh Quát, Thần Siêu.
Số là bọn quan lại,
Ghét, tìm cách dìm ông.
Năm một tám ba một,
Đi thi Ở Thăng Long,
Bài ông làm rất tốt,
Nên được đậu cử nhân,
Thế mà khi thi Hội,
Quan ngửi thấy giọng văn
Đúng của Cao Bá Quát,
Bèn đánh trượt tức thì.
Nhưng ông vẫn không nản
Và tiếp tục đi thi.
Tiếp tục lại thi trượt,
Vì khẩu khí của ông
Quan đọc qua là biết.
Cuối cùng ông nản lòng,
Bỏ về quê nằm khểnh,
Suốt ngay chỉ rong chơi,
Làm thơ hay đọc sách
Và lặng lẽ chờ thời.
*
Ở Thăng Long lúc ấy
Có thầy Nguyễn Văn Siêu,
Nổi tiếng là hay chữ,
Học trò theo rất nhiều.
Một lần Cao Bá Quát
Tò mò đến xem sao.
Tới nơi, đứng tựa cửa
Chốc chốc ghé nhìn vào.
Nguyễn Văn Siêu thấy lạ,
Bèn cho hỏi là ai.
Đáp: Học trò, nhân tiện
Đến ghé thăm thầy tài.
Thế thì hãy đối lại
Vế đối này bây giờ:
“Thầy, chõng tre cót két.”
“Trò, sân gạch thẩn thơ.”
Quát đáp ngay tắp lự,
Vừa chuẩn lại vừa hay.
Siêu phục tài, giữ lại
Rồi đàm đạo suốt ngày.
Từ đó họ thành bạn
Dù tuổi tác chênh nhau,
Thành “Thần Siêu”, “Thánh Quát”,
Rất ý hợp tâm đầu.
Quát tuy còn ít tuổi,
Nhưng kiêu căng, khinh người,
Nói: Xưa này chỉ có
Bốn bồ chữ trên đời.
Hai bồ là của Quát.
Một - của Nguyễn Văn Siêu.
Cả thiên hạ chỉ một,
Mà thế cũng là nhiều.
THAY LỜI KẾT
Đến hôm nay, kết thúc
Chuyến đi của chúng ta,
Ngược thời gian tìm hiểu
Lịch sử nước non nhà.
Suốt hăm bảy thế kỷ,
Kể từ thời Hồng Bàng
Đến thế kỷ Mười Chín,
Nhiều trang sử vẻ vang,
Nhiều chiến công vĩ đại
Của bao lớp cha ông
Đã hy sinh xương máu
Để bảo vệ non sông.
Ta, ông và các cháu
Phải biết mà tự hào.
Vì không biết Quá Khứ
Đã diễn ra thế nào,
Chắc chắn ta không hiểu
Hiện Tại và Tương Lai.
Thế đấy các cháu ạ.
Phải biết vì Ngày Mai.
Những câu chuyện lịch sử
Ông kể các cháu nghe
Đơn giản và dễ hiểu,
Bằng thơ nói, như vè.
Các cháu đọc, cố nhớ.
Nhớ rồi kể cho nhau.
Vừa vui vừa bổ ích.
Cũng chẳng khó lắm đâu.
Chia tay, Ông Tân Béo
Chỉ mong muốn một điều
Là hãy chăm học sử.