vĂn hÓa kÁnh loÓng cỦa ngƯỜi thÁi Ở huyỆn mai chÂu, …
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Duy Thịnh
VĂN HÓA KÁNH LOÓNG CỦA NGƯỜI THÁI
Ở HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Duy Thịnh
VĂN HÓA KÁNH LOÓNG CỦA NGƯỜI THÁI
Ở HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 9229040
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Nguyễn Đăng Nghị
PGS.TS Trịnh Hoài Thu
Hà Nội – 2018
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung
và số liệu trong luận án là hoàn toàn trung thực, trích dẫn đúng quy định. Nếu
có điều gì trái với lời cam đoan trên, tôi xin chịu trách nhiệm.
Tác giả luận án
Nguyễn Duy Thịnh
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GS Giáo sư
HĐND Hội đồng nhân dân
Nxb Nhà xuất bản
NCS Nghiên cứu sinh
NNC Nhà nghiên cứu
PGS Phó giáo sư
PL Phụ lục
Sđd Sách đã dẫn
Tp Thành phố
TS Tiến sĩ
TSKH Tiến sĩ khoa học
tr Trang
TW Trung ương
UBND Ủy ban nhân dân
VD Ví dụ
VHNT Văn hóa nghệ thuật
VHTT Văn hóa thông tin
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ 2
MỤC LỤC ........................................................................................................ 3
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI MAI CHÂU ............................................ 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 14
1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 38
1.3. Khái quát về người Thái Mai Châu ...................................................................... 53
Tiểu kết ............................................................................................................ 61
Chương 2. SINH HOẠT VĂN HÓA KÁNH LOÓNG ................................ 63
2.1. Khảo tả về loóng ...................................................................................... 65
2.2. Hai giai đoạn sinh hoạt văn hóa kánh loóng (1954 – 1992 và 1993 –
2017) ................................................................................................................ 68
2.3. Nghệ thuật kánh loóng .............................................................................. 88
Tiểu kết ............................................................................................................ 97
Chương 3. NHỮNG BIỂU HIỆN TÍN NGƯỠNG VÀ VAI TRÒ PHỤ NỮ
THÁI MAI CHÂU TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA KÁNH LOÓNG ..... ..99
3.1. Những biểu hiện tín ngưỡng ...................................................................... ..99
3.2. Vai trò phụ nữ Thái Mai Châu ................................................................... 113
Tiểu kết .......................................................................................................... 124
CHƯƠNG 4. LÝ GIẢI BIẾN ĐỔI SINH HOẠT VĂN HÓA KÁNH LOÓNG
TRONG SỰ ĐỐI SÁNH VỚI KHẮC LUỐNG ............................................. 126
4.1. Một số biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng ............................. 127
4.2. Sinh hoạt văn hóa khắc luống của người Thái Con Cuông ............................. 131
4.3. So sánh ................................................................................................... 140
4.4. Nguyên nhân và xu hướng biến đổi sinh hoạt văn hóa kánh loóng ................ 149
Tiểu kết .......................................................................................................... 157
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 159
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ......................... 163
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 164
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 184
4
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG, HÌNH TRONG LUẬN ÁN
Sơ đồ 1.1. Khung phân tích ..................................................................................................... 52
Bảng 2.1: Số đo chi tiết của ba chiếc loóng tại địa bàn nghiên cứu ...................................... 64
Bảng 2.2: Động tác và âm thanh của loóng............................................................................ 91
Bảng 4.1: Động tác và âm thanh của luống.......................................................................... 137
Bảng 4.2: Đặc trưng vị trí địa lý, nguồn gốc tộc người, giao lưu văn hóa, kinh tế ...... 141
Hình 2.1: Loóng của bản Văn ................................................................................................. 65
Hình 2.2: Chày để gõ loóng của bản Văn............................................................................... 66
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mai Châu là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Hòa Bình. Đây là nơi
sinh sống của nhiều tộc người như Mường, H’mông, Hoa… Tuy nhiên, Mai
Châu là địa bàn tập trung chủ yếu người Thái sinh sống. Họ giữ vai trò chủ
đạo trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại huyện Mai Châu. Người Thái ở
huyện Mai Châu mang những nét chung của văn hóa Thái nhưng lại có nhiều
đặc trưng riêng do chịu ảnh hưởng các yếu tố văn hóa từ nhiều hướng khác nhau.
Kánh loóng là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất độc đáo, gắn
liền với sự tồn tại, phát triển của người Thái Mai Châu1 nói riêng và cộng
đồng người Thái ở Việt Nam nói chung. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng có ý
nghĩa quan trọng đối với đời sống văn hóa người Thái Mai Châu, phản ánh
đặc điểm xã hội, đời sống tâm linh và thực hành tín ngưỡng, vì thế, hiện
tượng này mang nhiều giá trị về mặt văn hóa.
Những năm gần đây, hoạt động kinh tế du lịch ở Mai Châu phát triển
mạnh mẽ, tạo ra sự chuyển biến sâu sắc về kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phương. Du lịch phát triển đã tác động không nhỏ đến văn hóa truyền thống
của người Thái Mai Châu. Bên cạnh những tác động tích cực, thúc đẩy văn
hóa Thái Mai Châu phát triển, thì du lịch cũng đang đặt văn hóa truyền thống
của người Thái Mai Châu trước nguy cơ biến đổi, bị mai một, pha trộn, không
còn giữ được bản sắc. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng cũng không tránh khỏi
xu hướng biến đổi đó. Ở chiều hướng tích cực, tuy hình thức, ý nghĩa của sinh
hoạt văn hóa kánh loóng đã có nhiều thay đổi, song nó vẫn được duy trì và
tồn tại như một di sản văn hóa quan trọng. Nhiều bản du lịch của người Thái
Mai Châu vẫn giữ được các đội kánh loóng để phục vụ du khách thăm quan.
1 Người Thái Mai Châu: là những người Thái sinh sống lâu đời tại khu vực huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình;
mang nhiều nét đặc trưng riêng trong văn hóa, được định hình bởi các yếu tố địa lý, lịch sử, môi trường của
nơi cư trú. Luận án sử dụng thuật ngữ “Thái Mai Châu” là nói đến nhóm người Thái ở huyện Mai Châu; để
phân biệt với các nhóm Thái ở địa phương khác như Thái Sơn La, Thái Điện Biên, Thái Nghệ An…
6
Mặt khác, sinh hoạt văn hóa kánh loóng cũng thay đổi hoàn toàn về chức
năng, ý nghĩa, cùng với đó là các trường hợp sử dụng, bài bản... dẫn đến nguy
cơ mất đi những giá trị, nét đặc sắc của một hình thức sinh hoạt văn hóa cổ
xưa còn được bảo lưu đến ngày nay.
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu chưa nhận
được sự quan tâm nghiên cứu đúng mức. Không có nhiều các bài viết, công
trình chuyên khảo về hình thức sinh hoạt văn hóa này.
Do đó, thiết nghĩ cần phải có một công trình nghiên cứu tổng thể về sinh
hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu để có thể thấy rõ hơn sự đa
dạng của các giá trị văn hóa Thái. Từ đó, nhận diện được đặc trưng trong văn
hóa của người Thái Mai Châu và những biến đổi thông qua nghiên cứu trường
hợp kánh loóng.
Việc nghiên cứu trường hợp sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người
Thái Mai Châu có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Ở khía cạnh lý luận,
công trình góp phần giải mã một số đặc trưng trong văn hóa Thái như vấn đề
giới, tín ngưỡng, tâm linh, vũ trụ quan... Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu
của luận án sẽ cung cấp cơ sở khoa học cho các chính sách bảo vệ và phát huy
di sản văn hóa Thái trong xã hội Việt Nam đương đại.
Vì thế, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: Văn hóa kánh loóng
của người Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng thể về sinh hoạt văn hóa kánh loóng nhằm tìm hiểu đời
sống xã hội và những giá trị văn hóa đặc trưng của người Thái Mai Châu.
- Giải mã một số đặc trưng trong văn hóa Thái như vấn đề giới, tín
ngưỡng, tâm linh, vũ trụ quan...
7
- Cung cấp cơ sở khoa học cho các chính sách bảo vệ và phát huy di
sản văn hóa Thái trong xã hội Việt Nam đương đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát quy trình chế tác, qua đó nêu lên những đặc điểm cơ bản
trong cấu tạo của loóng.
- Tìm hiểu ý nghĩa, vai trò của loóng đối với đời sống xã hội người
Thái Mai Châu, thông qua các lễ hội, nghi lễ, hoạt động du lịch.
- Làm rõ sự biến đổi của sinh hoạt văn hóa kánh loóng trong bối cảnh
hiện nay về mặt hình thức, chức năng, vai trò, ý nghĩa. Đồng thời, chỉ ra
nguyên nhân và xu hướng biến đổi sinh hoạt văn hóa kánh loóng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Sinh hoạt kánh loóng trong đời sống văn hóa của người Thái ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, có những cứ liệu thực tiễn,
chúng tôi đã khảo sát sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu
tại khu vực người Thái cư trú tương đối tập trung, cụ thể là ở thị trấn Mai
Châu bao gồm các bản: bản Lác, bản Pom Coọng, bản Văn, bản Nà Phòn,
xóm Mỏ, xã Chiềng Châu. Đây là các bản, xóm phát triển mạnh về hoạt động
du lịch. Ngoài ra, chúng tôi khảo sát một số xã cách xa trung tâm huyện Mai
Châu như xã Mai Hạ, xã Vạn Mai, xã Xăm Khòe. Các địa điểm được lựa
chọn để nghiên cứu đảm bảo tính điển hình và đáp ứng sự đa dạng, khách
quan, đa chiều của đối tượng nghiên cứu.
Cùng với đó, Luận án còn tìm hiểu sinh hoạt văn hóa khắc luống của
người Thái ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Từ đó, so sánh với sinh hoạt
văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu.
8
- Về thời gian
Chúng tôi tìm hiểu các khía cạnh liên quan đến sinh hoạt văn hóa kánh
loóng trong khoảng thời gian từ năm 1954 (theo hồi cố của nghệ nhân) cho
đến năm 2017. Trong đó, chúng tôi phân thành hai giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: từ 1954 đến 1992.
+ Giai đoạn 2: từ 1993 đến 2017.
Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, nhân dân các dân tộc huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình và toàn miền Bắc tập trung sản xuất, khắc phục hậu
quả chiến tranh, xây dựng quê hương sau giai đoạn kháng chiến khốc liệt,
gian khổ đánh đuổi thực dân Pháp.
Năm 1993 là thời điểm một số bản du lịch của huyện Mai Châu được
tỉnh Hòa Bình chính thức cấp phép tổ chức hoạt động phục vụ du lịch cho đến
nay. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn máy xay xát và máy tuốt lúa được đưa
vào sử dụng đã thay thế hoàn toàn loóng trong quá trình sản xuất nông
nghiệp. Vì thế, loóng không còn chức năng giã lúa mà chỉ được dùng để gõ
như một nhạc cụ.
Thời điểm từ năm 2013 đến 2017, chúng tôi đi khảo sát, tìm tư liệu
phục vụ cho việc nghiên cứu Luận án.
- Về nội dung
Tìm hiểu ý nghĩa, vai trò của loóng đối với đời sống xã hội người Thái
Mai Châu, thông qua các lễ hội, nghi lễ, hoạt động du lịch.
Làm sáng tỏ diện mạo, chỉ ra những nét đặc trưng, độc đáo trong sinh
hoạt văn hóa kánh loóng.
Làm rõ sự biến đổi của sinh hoạt văn hóa kánh loóng trong bối cảnh
hiện nay về mặt hình thức, chức năng, vai trò, ý nghĩa. Đồng thời, chỉ ra
nguyên nhân và xu hướng biến đổi.
Trong một góc nhìn rộng hơn, Luận án so sánh sinh hoạt văn hóa kánh
loóng của người Thái Mai Châu với khắc luống của người Thái ở huyện Con
9
Cuông, tỉnh Nghệ An để thấy được những điểm tương đồng, khác biệt. Từ đó,
nhận biết rõ hơn các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến đặc trưng trong sinh hoạt
văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu.
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Tại sao người Thái Mai Châu lại đưa sinh hoạt kánh loóng vào các nghi
lễ, lễ hội như lễ mừng cơm mới, lễ Xên bản, Xên mường, lễ chá chiêng...?
Đưa sinh hoạt kánh loóng vào các nghi lễ, lễ hội của người Thái để
biểu hiện điều gì về mặt ý nghĩa tâm linh?
Loóng là nông cụ, nhạc cụ chỉ dành riêng cho người phụ nữ Thái Mai
Châu gõ?
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng được đưa vào phục vụ du lịch từ khoảng
thời gian nào? Có bao nhiêu đội kánh loóng ở các bản tại Mai Châu tham gia
hoạt động phục vụ du lịch?
Hiện nay, người Thái Mai Châu kánh loóng trong những trường hợp nào?
4.2. Giả thuyết khoa học
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng trong các nghi lễ liên quan đến nông
nghiệp là biểu hiện tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ Mặt trời, Mặt
trăng của người Thái Mai Châu.
Ở huyện Mai Châu, chỉ có phụ nữ dân tộc Thái tham gia kánh loóng và
họ là những người sáng tạo nên hình thức nghệ thuật dân gian này.
Hoạt động du lịch là nguyên nhân chủ yếu làm tái tạo vào bảo lưu sinh
hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái tại huyện Mai Châu.
5. Ý nghĩa khoa học và đóng góp mới của đề tài
Đây là công trình khoa học nghiên cứu tổng thể, toàn diện về văn hóa
nghệ thuật đối với sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu.
10
Về phương diện lý luận, công trình góp phần giải mã một số đặc trưng
trong văn hóa Thái như vấn đề giới, tín ngưỡng, tâm linh, vũ trụ quan...
Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp luận cứ cho
việc khẳng định các giá trị của sinh hoạt văn hóa kánh loóng; cung cấp cơ sở
khoa học cho các chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa Thái trong xã
hội Việt Nam đương đại.
6. Phương pháp nghiên cứu
Với nội dung nghiên cứu của luận án, NCS sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Qua việc tập hợp và nghiên cứu các văn bản tài liệu liên quan gồm
công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách, tạp chí (với các thao tác: phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…), NCS kế thừa và vận dụng kết quả những
công trình trước đây, đồng thời phát hiện, khái quát hóa thành luận điểm,
nhận định riêng. Tìm hiểu các số liệu, đánh giá tình hình kinh tế, xã hội, văn
hóa có liên quan đến nội dung mà NCS quan tâm. Những nguồn tài liệu đó là
cơ sở cho sự so sánh, tiếp nối và đi sâu hơn ở luận án này.
Để tìm được nguồn tài liệu lưu trữ, NCS đã đến các thư viện để đọc và
ghi chép những tài liệu thành văn có liên quan đến luận án. Cụ thể là các thư
viện: Thư viện Quốc gia Việt Nam (31 – Tràng Thi – Hai Bà Trưng – Hà
Nội); thư viện Viện Nghiên cứu Văn hóa (27 – Trần Xuân Soạn – Hai Bà
Trưng – Hà Nội); thư viện Học viện Khoa học Xã hội (477 – Nguyễn Trãi –
Thanh Xuân – Hà Nội); thư viện Viện nghiên cứu Đông Nam Á, thư viện Dân
tộc học (số 1 – Liễu Giai – Hà Nội); thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc
gia Việt Nam (32 – Hào Nam – Đống Đa – Hà Nội); thư viện tỉnh Hòa Bình,
thư viện huyện Mai Châu, thư viện Trường Cao đẳng VHNT Tây Bắc.
11
Phương pháp điền dã
Thâm nhập thực tế, quan sát tham dự tại địa điểm nghiên cứu nhằm thu
được những thông tin cần thiết về đời sống, sinh hoạt, sản xuất của người dân.
Thực hiện quan sát để miêu tả, ghi chép chi tiết về những đặc điểm, hình thức
sinh hoạt văn hóa của người Thái Mai Châu có liên quan đến đối tượng
nghiên cứu của luận án. Trong quá trình đi điền dã, NCS đã đến các bản du
lịch tại trung tâm thị trấn Mai Châu như bản Lác, bản Văn, bản Pom Coọng
và các xã ở cách xa trung tâm huyện Mai Châu như xã Nà Phòn, xã Xăm
Khòe, xã Vạn Mai, xã Đồng Bảng… NCS tham dự lễ hội Xên bản, Xên
mường diễn ra vào dịp đầu năm mới và các hoạt động biểu diễn phục vụ du
khách có tổ chức kánh loóng.
Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu để
thu thập thông tin về sinh hoạt văn hóa kánh loóng. NCS đã thực hiện hơn 40
cuộc phỏng vấn khác nhau, sử dụng các câu hỏi định tính đối với các đối
tượng nắm giữ thông tin chính, những người hiểu biết về văn hóa Thái như
một số thầy Mo, người Thái cao tuổi, nghệ nhân, chủ các cơ sở làm du lịch,
thanh niên và cán bộ quản lý văn hóa... Tiến hành phỏng vấn hồi cố từng cá
nhân, thảo luận với từng nhóm đối tượng nhất định theo các nội dung đã được
chuẩn bị, tiến hành ghi chép, chụp ảnh, quay video, nhằm mang lại những
thông tin cần thiết cho việc điều tra, nghiên cứu. Trong quá trình điền dã,
NCS đã phỏng vấn 4 NNC văn hóa dân gian tại huyện Mai Châu, bao gồm:
Khà Văn Tiến, Hà Công Tín, Lò Cao Nhum, Lường Song Toàn. Đây là những
NNC người dân tộc Thái sinh sống tại địa phương, đã có nhiều năm tìm hiểu
về văn hóa Thái và xuất bản nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Bên cạnh
đó, NCS phỏng vấn sâu một số người Thái cao tuổi có hiểu biết về văn hóa
Thái như: ông Khà Văn Ư (72 tuổi; bản Nà Phòn, thị trấn Mai Châu); bà
12
Ngần Thị Tuyết (63 tuổi; bản Nà Phòn, thị trấn Mai Châu); bà Hà Thị Sơn (67
tuổi; Xóm Mỏ, xã Chiềng Châu); bà Hà Thị Tều (82 tuổi; bản Văn, thị trấn
Mai Châu); bà Hà Thị Yên (66 tuổi; bản Văn, thị trấn Mai Châu)… Đây là
những người còn nhớ được nhiều thông tin liên quan đến sinh hoạt văn hóa
kánh loóng.
Phương pháp so sánh
NCS sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu, phân tích mở rộng,
làm rõ vấn đề nghiên cứu trong luận án.
Tiếp cận nghiên cứu liên ngành
Văn hóa học xem xét văn hóa với tư cách là một hiện tượng xã hội tổng
thể, vì thế nó cần phải nghiên cứu cùng một lúc nhiều phương diện của một
hiện tượng và bằng các cách tiếp cận khác nhau. Loóng là một nông cụ, đồng
thời cũng là nhạc cụ gắn liền với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian
như lễ hội, nghi lễ, tín ngưỡng, vui chơi giải trí, sinh hoạt cộng đồng… Do
đối tượng nghiên cứu là một hiện tượng tổng thể, nên muốn hiểu nó một cách
toàn diện và sâu sắc phải sử dụng những phương pháp nghiên cứu của các
chuyên ngành khác nhau. Ngoài phương diện nghệ thuật, cần phải xem xét cả
những phương diện khác (kinh tế, xã hội, lịch sử, địa lý…) trong đó các hình
thức sinh hoạt văn hóa kánh loóng đó phát sinh, tồn tại, phát triển hay biến
diệt. NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu, cơ sở lý luận của các ngành Lịch
sử học, Dân tộc học, Nhân học và Âm nhạc học để giải quyết vấn đề nghiên
cứu của luận án. Lịch sử học được áp dụng giúp cho Luận án có căn cứ, thông
tin về lịch sử tộc người Thái Mai Châu – chủ nhân của sinh hoạt văn hóa kánh
loóng, trong đó bao gồm lịch sử cư trú, lịch sử văn hóa, lịch sử hoạt động
kinh tế, xã hội; lịch sử về giao lưu với những tộc người khác trong khu vực cư
trú…; Dân tộc học tìm kiếm sự mô tả toàn diện, chi tiết và phân tích về sinh
hoạt văn hóa kánh loóng dựa trên nghiên cứu điền dã. Chúng tôi phải tham
gia vào đời sống của người Thái Mai Châu trong khoảng thời gian dài, quan
13
sát những điều xảy ra, lắng nghe và đặt câu hỏi. Mục đích là đưa ra những mô
tả sâu, chi tiết. Dân tộc học được áp dụng để mang lại sự khám phá định tính
các giá trị và ý nghĩa của sinh hoạt văn hóa kánh loóng; Ngành nhân học có
thế mạnh đặc biệt trong việc nghiên cứu “những quá khứ đã mất”. Nghiên cứu
nhân học văn hóa ở các xã hội cổ sơ, cổ truyền giúp chúng ta hiểu rõ hơn
những quy luật, sự vận hành của một hiện tượng văn hóa ở thời kỳ đó. Dựa
trên những quan sát, các sự kiện, ngành nhân học khắc phục được những hạn
chế của tự biện. Các phương pháp chính của ngành nhân học văn hóa là: quan
sát tham dự, phỏng vấn và quan sát cá nhân, quan sát hành vi hệ thống – trực
tiếp…; Từ góc độ ngành Âm nhạc học sẽ góp phần làm rõ những quy luật âm
nhạc của kánh loóng, trong đó bao gồm những đặc trưng về tiết tấu, hình thức
diễn tấu, kỹ thuật diễn tấu, bài bản, tính chất âm nhạc… Những đặc trưng
mang tính quy luật trong âm nhạc kánh loóng là biểu hiện về thẩm mỹ, quan
niệm, tính sáng tạo của người Thái Mai Châu.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo
(15 trang) và Phụ lục (42 trang), luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát
về người Thái Mai Châu (48 trang)
Chương 2: Sinh hoạt văn hóa kánh loóng (35 trang)
Chương 3: Những biểu hiện tín ngưỡng và vai trò phụ nữ Thái Mai
Châu trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng (26 trang)
Chương 4: Lý giải biến đổi sinh hoạt văn hóa kánh loóng trong sự đối
sánh với khắc luống (32 trang)
14
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI MAI CHÂU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tài liệu đề cập đến loóng và đuống
Chúng tôi tìm hiểu và thấy rằng, cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu, tổng thể về loóng của người Thái Mai Châu. Các
công trình đi trước chỉ giới thiệu về loóng với tư cách là một nhạc cụ nằm
trong hệ thống nhạc cụ của người Thái. Hoặc khi các tác giả nghiên cứu về lễ
hội của người Thái, có nhắc đến sinh hoạt kánh loóng như một hoạt động
mang tính góp vui, giải trí ở trong phần hội. Ngoài ra, có một số bài viết dưới
dạng bài báo giới thiệu về sinh hoạt kánh loóng đăng trên các tạp chí. Nhìn
chung, các bài viết dạng này chỉ mang tính chất miêu tả, giới thiệu khái quát
về sinh hoạt kánh loóng. Với tình hình nghiên cứu như vậy, chúng tôi sẽ xem
xét những vấn đề xung quanh chiếc loóng được các nhà nghiên cứu đi trước
đề cập tới. Tất cả góc cạnh đó, dù ít hay nhiều, chúng tôi cũng tổng hợp để
phác họa rõ tình hình nghiên cứu. Cùng với đó, loóng là một nhạc cụ, nông cụ
phổ biến trong đời sống của đồng bào dân tộc Thái vùng Tây Bắc và miền núi
Nghệ An, Thanh Hóa. Trong luận án, chúng tôi có sự so sánh giữa sinh hoạt
văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu với khắc luống1 của người Thái
tại khu vực huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An để có cái nhìn tổng thể về hình
thức sinh hoạt văn hóa này. Bên cạnh đó, trong đời sống của người Mường
cũng rất phổ biến một nông cụ, nhạc cụ đồng dạng với loóng, được gọi là
đuống. Những nghiên cứu về đuống của người Mường cũng được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập tới. Người Mường Hòa Bình và người Thái Mai Châu sinh
sống cạnh nhau từ lâu đời, có lịch sử, văn hóa gắn bó chặt chẽ, có nhiều ảnh 1. Khắc luống: cách gọi của người Thái tại Nghệ An đối với hình thức sinh hoạt văn hóa “gõ máng”. Đây
cũng giống với sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu.
15
hưởng, tác động qua lại lẫn nhau. Vì thế, việc tổng hợp những nghiên cứu về
đuống là rất cần thiết, phần nào đó sẽ bổ sung cho quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu về loóng.
Tất cả tư liệu đề cập đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng mà chúng tôi có
được giới hạn từ 1972 đến năm 2014. Như vậy, ngoài việc làm rõ tình hình
hình nghiên cứu về loóng của người Thái Mai Châu, chúng tôi sẽ tìm hiểu cả
những công trình nghiên cứu về loóng tại các khu vực Thái khác và những
nghiên cứu về đuống của người Mường. Việc tìm hiểu sâu, rộng tài liệu, công
trình nghiên cứu đi trước có liên quan đến đối tượng nghiên cứu trong luận án
sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tìm ra khoảng trống trong nghiên cứu về loóng
của người Thái Mai Châu.
1.1.1.1. Nghiên cứu về loóng của người Thái Mai Châu
Tìm hiểu tài liệu đề cập đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người
Thái Mai Châu, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về hình thức sinh hoạt văn hóa này. Có một số bài viết về văn hóa
Thái Mai Châu trong đó dành một vài dòng để nói về sinh hoạt văn hóa kánh
loóng. Cũng có một số bài dành dung lượng nhiều hơn, mô tả, giới thiệu chi
tiết hơn, tuy nhiên, đó là dạng bài tạp chí hoặc khi các tác giả viết về một lễ
hội nào đó của người Thái thì có điểm qua sinh hoạt văn hóa kánh loóng như
một hoạt động ở trong lễ hội đó.
Năm 1972, sinh hoạt văn hóa kánh loóng được đề cập đến trong cuốn
Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình do Bùi Văn Kín chủ biên cùng với các tác
giả Mai Văn Trí, Nguyễn Phụng. Đây là cuốn sách tổng hợp về địa chí, lịch
sử, kinh tế, văn hóa tỉnh Hòa Bình. Phần đề cập đến kánh loóng, tác giả viết:
Múa loóng là điệu múa thường múa vào những ngày mừng cơm mới
hoặc mừng trong bản bắn được thú rừng. Điệu múa còn múa vào
những đêm nguyệt thực, xưa ta gọi là “gấu ăn trăng”. Đêm “gấu ăn
16
trăng” thì hầu hết cả vùng Thái ở Hòa Bình đều gõ múa. Đôi khi còn
múa vào những ngày có đám cưới, hoặc đám ma. Điệu múa chủ yếu
là tiết tấu, gồm động tác giã gạo, đập chầy, chuyền tay chầy, gõ cối.
Đội hình chuyển động vòng quanh cái cối giã lúa dài khoảng 4 đến 5
mét (cối là một cây gỗ tròn đục thành máng dài, cho lúa vào đó giã
thành gạo). Tính chất điệu múa rộn ràng, khỏe, biểu hiện vui mừng
phấn khởi, lạc quan là chủ yếu vì ngoài động tác chuyển động lại kết
hợp với trống, chiêng, mõ, tiếng chầy đập chầy, tiếng chầy đập cối…
tạo thành một loại tiết tấu rất phức tạp và âm thanh rất gần. Ngoài ra
còn có cả tiếng hú reo trong cao trào múa [73, tr.37].
Như vậy, các tác giả chỉ dành một đoạn ngắn để nói về sinh hoạt văn
hóa kánh loóng của người Thái tại khu vực Hòa Bình. Trước hết, kánh loóng
được gọi là múa loóng, có nghĩa đây là một điệu múa. Ngoài ra, các tác giả
cũng đề cập đến một số động tác diễn tấu, cách thức tổ chức, tính chất điệu
múa này. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng phần giới thiệu về kánh loóng trong
cuốn sách này rất vắn tắt, sơ sài, chưa phản ánh rõ các vấn đề liên quan về
hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo này.
Năm 1988, Sở VHTT Tỉnh Hà Sơn Bình xuất bản cuốn sách Tìm hiểu
văn hóa cổ truyền của người Thái Mai Châu. Trong đó, tập hợp các bài khảo
cứu của nhiều tác giả như Hà Trọng Sinh, Nguyễn Hữu Thức, Hà Sủm, Đặng
Văn Tu, Nguyễn Dấn, Khà Tiến, Lò Cao Nhum. Mỗi bài viết đã đề cập đến
từng góc cạnh khác nhau trong đời sống văn hóa của người Thái Mai Châu, từ
vấn đề lịch sử cư trú, các lễ nghi phong tục, trang phục, ẩm thực… Trong số
các bài viết, có hai bài nhắc đến loóng. Tác giả Nguyễn Hữu Thức khi tìm
hiểu về lễ cơm mới của người Thái Mai Châu có viết: “Còn ở đầu chái nhà
sàn, các thiếu nữ Thái cầm chày theo nhịp của người cầm cái các cô diễn lại
động tác giã gạo. Cùng với tiếng kể mo đều đều là tiếng trầm bổng của chày
17
đánh máng có lót rơm ở dưới và tiếng thậm thịch của những bước chân cô gái
nhún nhảy” [110, tr.122]. Chúng ta thấy rằng những người thiếu nữ Thái Mai
Châu đã tổ chức giã gạo (kánh loóng) trong lễ cơm mới. Họ vừa giã vừa nhún
nhảy, có lẽ vì thế nhìn như họ đang múa. Tác giả Lò Cao Nhum khi viết về
xòe cũng có nhắc đến loóng:
Xòe đánh máng dành cho đàn bà, con gái. Cứ ba cặp một, mỗi cặp
cầm hai chày gõ vào thành máng dùng để giã lúa, tạo ra những
tiếng chắc giòn và khỏe, nhịp điệu mỗi lúc một nhanh, mạnh. Xòe
đánh máng thường là tùy hứng nhưng chủ yếu đánh vào dịp vui tập
thể, khi có nguyệt thực, chị em đánh máng để xua đuổi “ếch ăn
trăng” theo quan niệm cũ [110, tr.197].
Lò Cao Nhum gọi kánh loóng là đánh máng. Theo tác giả, đây là một
điệu xòe (có nghĩa là múa), được dùng trong những ngày vui và khi có “ếch
ăn trăng” (nguyệt thực). Tính chất của điệu Xòe đánh máng thì giòn, khỏe,
nhanh, mạnh. Chúng tôi nhận thấy phần đề cập đến kánh loóng ở hai bài viết
này rất ít. Hai tác giả chỉ giới thiệu sơ qua về một hình thức sinh hoạt văn hóa
được xuất hiện trong lễ cơm mới, ngày vui và khi nguyệt thực.
Năm 1998, Hà Sủm hoàn thành và xuất bản cuốn sách Hà Sủm những
bài viết chọn lọc.Tác giả đã tìm hiểu về các vấn đề như Trang phục người
Thái Mai Châu, Văn nghệ dân gian Thái Mai Châu, Khèn bè… Trong số các
bài viết, có một bài đề cập đến quan niệm cổ xưa của người Thái Mai Châu về
sinh hoạt văn hóa kánh loóng với tiêu đề là Ếch ăn trăng. Đây là một câu
chuyện kể mang màu sắc thần thoại nhằm giải thích hiện tượng Nguyệt thực
của người Thái Mai Châu. Họ cho rằng Nguyệt thực chính là lúc Ếch và mặt
trăng đánh nhau quyết liệt. Người dưới mặt đất hò reo vang dậy khích lệ, cổ
vũ ếch. Ở cuối câu chuyện, tác giả có viết: “Về sau các bản Thái hễ thấy mặt
trăng tự dưng bị khuyết, mọi người đều kéo nhau xuống dưới sàn, đàn bà gõ
18
mõ, đập chày vào máng giã gạo, đàn ông đánh thanh la, chiêng trống ầm ĩ”
[111, tr.183]. Bài viết đã cho thấy quan niệm cổ xưa của người Thái Mai
Châu đối với một hiện tượng tự nhiên đó là Nguyệt thực. Đồng thời, quan
niệm đó còn gắn với sự xuất hiện của một nông cụ - máng giã gạo. Bài viết
không tìm hiểu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng, nhưng đã đề cập đến một
quan niệm cổ xưa có liên quan đến nhận thức của người Thái Mai Châu về
hình thức sinh hoạt văn hóa này. Đây là một điểm đáng chú ý, chúng tôi sẽ sử
dụng làm căn cứ để phục vụ cho quá trình nghiên cứu sâu hơn về sinh hoạt
văn hóa kánh loóng.
Năm 2002, Đại học Quốc gia Hà Nội - Chương trình Thái học Việt
Nam đã xuất bản cuốn sách Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn
ngữ Thái ở Việt Nam. Cuốn sách tổng hợp nhiều bài nghiên cứu về lịch sử,
văn hóa, xã hội người Thái. Trong cuốn sách này, Võ Thị Thường có bài viết
về lễ “cha chiêng” của người Thái Mai Châu, trong đó có nhắc đến loóng. Tác
giả viết: “Phần hội nhộn nhịp trong tiếng chày gõ vào máng lúa (tẳm đuống)” [135,
tr.594]; “Trong cha chiêng, không những có múa, hát, mà còn diễn kịch và những
hình thức âm nhạc đậm nét văn hóa Thái – Mường như điệu đánh đuống hoặc nhạc
lễ pi mùn…” [135, tr.595]. Tác giả gọi hình thức sinh hoạt văn hóa kánh loóng là
tẳm đuống, được dùng trong phần hội, sau các nghi lễ cầu cúng. Bài viết của Võ
Thị Thường không đi sâu tìm hiểu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng, mà chỉ đề cập
sơ qua, coi đó như một hoạt động trong lễ “cha chiêng”. Như vậy, thông qua bài
viết, chúng ta thấy trong lễ “cha chiêng”, người Thái Mai Châu cũng có tổ chức
kánh loóng.
Năm 2007, Nxb Văn hóa Dân tộc phát hành cuốn sách Văn hóa truyền
thống một số tộc người ở Hòa Bình do Nguyễn Thị Thanh Nga chủ biên,
trong đó Chương 2 viết về văn hóa truyền thống của người Thái Mai Châu.
Tác giả đã giới thiệu khái quát các đặc trưng trong văn hóa người Thái Mai
19
Châu, từ lịch sử nguồn gốc, hoạt động kinh tế, đời sống tinh thần, các nghi lễ
trong việc cưới hỏi, tang ma, các lễ hội diễn ra hàng năm… Khi đề cập về
nghệ thuật dân gian của người Thái Mai Châu, tác giả có nhắc đến việc sử
dụng loóng:
Xòe đánh máng: Là loại xòe chỉ dành riêng cho phụ nữ. Cách xòe như
sau: một tốp 6 người chia thành 3 cặp, mỗi cặp gồm hai chày gõ vào
thành chiếc máng giã lúa, nhịp đánh cứ nhanh và mạnh dần. Hình thức
này thường được phụ nữ Thái Mai Châu gõ khi có nguyệt thực, họ đánh
máng để cổ vũ cho ếch chiến đấu với mặt trăng chiếm lại cây đũa thần
(theo truyện Ếch ăn trăng của người Thái Mai Châu) [98, tr.267].
Tác giả cũng gọi kánh loóng là đánh máng và coi đây là một điệu Xòe. Cách
gọi tên và quan điểm này giống với tác giả Lò Cao Nhum và Nguyễn Hữu Thức
như chúng tôi đã nhận xét ở phần trên. Nguyễn Thị Thanh Nga đề cập đến cách
thức tổ chức cũng như tính chất của điệu “xòe đánh máng”. Đồng thời, bài múa này
tác giả cho biết được dùng khi có Nguyệt thực.
Năm 2010, Hà Thị Tô Thắm đã bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ:
Âm nhạc dân gian Thái Huyện Mai Châu Hòa Bình. Đây là một công trình
nghiên cứu về âm nhạc dân gian Thái Mai Châu dưới góc độ Âm nhạc học.
Trong Luận văn, tác giả giới thiệu các thể loại dân ca và hình thức diễn
xướng, các loại nhạc cụ, cấu tạo cũng như kỹ thuật diễn tấu của từng loại.
Qua đó, tác giả đã phân tích về thang âm, tiết tấu, quãng, kỹ thuật diễn tấu…
Trong phần nghiên cứu về nhạc cụ, tác giả có đề cập đến một loại có tên là loóng:
Từng cặp chày gõ vào thành máng tạo ra những tiếng chắc và khỏe,
nhịp điệu nhanh, mạnh. Đánh máng thường hay tùy hứng, nhưng
chủ yếu trong những dịp vui vẻ tập thể, khi có nguyệt thực, chị em
đánh máng để xua đuổi “ếch ăn trăng”. Ngày xưa “kéng loóng” chỉ
dành cho phụ nữ nhưng ngày nay cả nam giới cũng tham gia. Hiện
20
nay “kéng loóng” ở Mai Châu đã trở thành một nét sinh hoạt văn
hóa độc đáo vào những dịp vui như ngày tết, ngày lễ thanh niên
nam nữ tổ chức “kéng loóng” [119, tr.34].
Tác giả còn mô tả về hình dáng, chức năng, bài bản của loại nhạc cụ
này... Qua xem xét các ví dụ trích dẫn của công trình, chúng tôi nhận thấy tác
giả chưa nghiên cứu toàn diện tại khu vực huyện Mai Châu. Do cách tiếp cận
vấn đề nghiên cứu dưới góc độ Âm nhạc học nên tác giả chỉ dừng lại ở việc
phân tích về tiết tấu, tính chất âm nhạc, cấu trúc bài bản. Đồng thời, loóng
cũng không phải đối tượng nghiên cứu trọng tâm của công trình nên chỉ được
điểm qua như một loại nhạc cụ trong hệ thống các nhạc cụ của người Thái
Mai Châu. Tác giả chưa xem xét loóng ở góc độ văn hóa học.
Năm 2011, Nguyễn Tuệ Chi đã bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ:
Đuống của người Mường xã Kim Thượng, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Đây
là luận văn nghiên cứu về đuống của người Mường xã Kim Thượng, huyện
Tân Sơn, Phú Thọ dưới góc nhìn văn hóa học. Tác giả đã sưu tầm những bài
chàm đuống cơ bản tại khu vực này, qua đó nghiên cứu về cách thức diễn tấu,
quan niệm về văn hóa, các giá trị của Chàm đuống… Trong chương 3, mục
Sự đa dạng và thống nhất của đuống, tác giả có giới thiệu một số nét cơ bản
về loóng của người Thái Mai Châu, từ đó so sánh với đuống của người
Mường để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nhạc cụ này.
Như vậy, loóng không phải đối tượng nghiên cứu của công trình mà chỉ là sự
so sánh, mở rộng thêm nhằm khẳng định sự đa dạng của các hiện tượng văn
hóa. Cùng một nông cụ, nhạc cụ đồng dạng nhưng ở mỗi tộc người lại có
quan niệm, bài bản khác nhau. Khi giới thiệu về loóng, Nguyễn Tuệ Chi cho
biết người Thái gọi hình thức sinh hoạt văn hóa này là khua loóng. Đồng thời,
chỉ ra một số đặc điểm về mặt cấu tạo, cách thức tổ chức, quy tắc diễn tấu,
những dịp diễn ra hoạt động khua loóng. Đặc biệt, tác giả đã đề cập đến thực
21
tế sinh hoạt khua loóng trong giai đoạn hiện nay. Nguyễn Tuệ Chi cho rằng
khua loóng có nhiều thay đổi so với xưa kia, cụ thể như: “sử dụng loóng chủ
yếu với mục đích vui chơi chứ yếu tố tâm linh không còn nhiều, sử dụng dưới
hình thức sinh hoạt văn nghệ quần chúng, diễn tấu dưới bàn tay của các diễn
viên không chuyên được tuyển từ các bản làng và phục vụ cho khách tham
quan du lịch” [29, tr.54]. Mặc dù phần giới thiệu về loóng chỉ chiếm dung
lượng ít và chủ yếu để so sánh, mở rộng thêm cho nghiên cứu trọng tâm của
tác giả về đuống của người Mường. Tuy vậy, một số thông tin, nhận định của
tác giả về loóng là rất đáng chú ý. Chúng tôi sẽ tham khảo, đối chiếu để đi sâu
hơn trong đề tài nghiên cứu của mình.
Năm 2013, Hoàng Nga có một bài viết về loóng đăng trên tạp chí Điện
tử Hòa Bình. Tác giả tìm hiểu lễ hội Xên bản, Xên mường của người Thái Mai
Châu, trong đó có một hoạt động ở phần hội mà tác giả gọi là keeng loóng.
Bài viết đề cập đến hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực gắn với sinh hoạt
keeng loóng. Tác giả viết:
Xưa kia khi chưa có sự hiểu biết khoa học cứ thấy hiện tượng nhật
thực, người dân cho rằng ông Ta Nghèn (tức mặt trời) bị con gấu
gặm và thấy hiện tượng nguyệt thực cho rằng nàng Bươn (tức mặt
trăng) bị con ếch nhà trời gặm. Con người ở trần gian là anh em
phải có trách nhiệm giúp đỡ các Mường thoát nạn. Vì vậy, cả làng
trên, làng dưới, nhà nào có loóng đều phải mang ra gõ, tạo âm thanh
dồn dập, tưng bừng để xua đuổi con ếch hay con gấu giúp đỡ ông
Ta Nghèn, nàng Bươn. Cũng chính từ đó mà keeng loóng trở thành
hoạt động tinh thần quen thuộc của người Thái Mai Châu [185].
Như vậy, qua câu chuyện kể mang màu sắc thần thoại này đã cho thấy
quan niệm cổ xưa của người Thái Mai Châu. Họ gắn hiện tượng tự nhiên với
một nông cụ lao động phổ biến trong đời sống. Từ đó, làm nảy sinh một hình
22
thức sinh hoạt văn hóa độc đáo, gắn liền với nhiều hoạt động trong cuộc sống
người Thái nơi đây. Đồng thời, tác giả cũng giới thiệu khái quát chức năng
của việc keeng loóng, cách thức diễn tấu và một số quan niệm của người Thái Mai
Châu. Bài viết chỉ giới thiệu, miêu tả khái quát về sinh hoạt văn hóa của một tộc
người. Tác giả chưa đi sâu tìm hiểu những vấn đề xung quanh các quan niệm, lý do
tồn tại của sinh hoạt keeng loóng. Ngoài ra, bài viết cũng chỉ giới thiệu hoạt động
keeng loóng trong phạm vi lễ hội Xên bản, Xên mường. Trong khi đó, hoạt động
này còn được diễn ra ở nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa khác như lễ chá chiêng, lễ
mừng cơm mới, tang ma… Đáng chú ý, tác giả cho biết người Thái Mai Châu hiện
nay còn keeng loóng trong những dịp như Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân. Ở đây
có sự thay đổi về không gian diễn tấu keeng loóng. Hiện nay, Đảng bộ, chính quyền
địa phương thường tổ chức ngày Đại đoàn kết toàn dân nhằm khích lệ, kêu gọi sự
đoàn kết trong cộng đồng dân cư, cùng chung sống vui vẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Người
Thái Mai Châu đã keeng loóng trong ngày này để góp vui, tạo không khí vui vẻ,
đoàn kết.
Như vậy, điểm qua các tài liệu có đề cập đến loóng của người Thái Mai
Châu, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu sinh hoạt
văn hóa kánh loóng một cách tổng thể, đa chiều. Rõ ràng, còn nhiều khoảng
trống trong nghiên cứu về loóng. Có nhiều vấn đề các tác giả đi trước chỉ nêu
ra hiện tượng mà không có sự giải thích thấu đáo. Bản chất cốt lõi của sinh
hoạt văn hóa kánh loóng cũng chưa công trình nào trả lời được.
Như đã trình bày ở trên, trong quá trình triển khai luận án, chúng tôi có
so sánh giữa sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu với khắc
luống của người Thái tại huyện Con Cuông, Nghệ An. Cùng với đó, loóng là
một nông cụ, nhạc cụ có từ lâu đời, phổ biến trong đời sống của một số tộc
người khu vực Đông Nam Á. Vì thế, việc tổng quan những tài liệu có đề cập
về loóng tại các khu vực có dân tộc Thái sinh sống hay đuống của người
23
Mường là cần thiết, giúp cho vấn đề nghiên cứu trong luận án, các giả thuyết
hay nhận định chặt chẽ, rõ ràng hơn.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về loóng tại các vùng Thái khác
Loóng được đề cập đến trong cuốn sách Tìm hiểu nông cụ cổ truyền
Việt Nam của Ngô Đức Thịnh.Tác giả đã giới thiệu về chiếc cối của các dân
tộc như Tày, Thái, Mường vẫn thường dùng để giã lúa. Trong đó, tác giả có
hình ảnh minh họa cụ thể cho mỗi loại cối của từng tộc người. Ngoài những
loại cối mà các dân tộc vẫn dùng chày tay để giã, tác giả còn giới thiệu những
chiếc cối sử dụng sức nước và cối xay. Chúng tôi nhận thấy, Ngô Đức Thịnh
chủ yếu nghiên cứu chiếc cối giã lúa dưới góc độ nông cụ trong sản xuất nông
nghiệp.
Khi giới thiệu về loóng, tác giả đã viết:
Cối hình thuyền, làm từ thân cây khoét rỗng ít phổ biến hơn loại cối
hình trụ đứng, thường gặp ở người Tày, Thái, Mường gọi là
“loóng”. Loóng có lòng khoét sâu khoảng 30cm, dài 2m, một hoặc
hai đầu còn khoét lỗ tròn, dùng chứa thóc hay các tạp chất. Loóng
sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau. Khi đập lúa, người ta
chắn phên rồi đập lúa và loóng, dùng chày giã tách hạt, dùng loóng
giã thóc tách vỏ trấu, làm trắng gạo… Số người giã có thể từ hai trở
lên, đứng ở hai phía loóng dùng đồng thời hay xen nhau giã chày
vào lòng loóng. Thường có những nhịp điệu khi giã loóng, có lúc
sau khi nện chày vào lòng cối, người giã rút chày lên, đập chày vào
thành loóng, tạo nên tiếng đệm nghe như hòa tấu nhạc cụ. Ngoài sử
dụng loóng giã thóc gạo, khi đón hay tiễn khách quý, khi làng có
người chết, khi báo tin… người ta giã loóng không. Tiếng loóng
hợp thành các giai điệu khác nhau thích hợp với từng trường hợp.
Thư tịch cổ Trung Quốc, khi mô tả về phong tục cổ của cư dân
24
nước ta cũng nói tới, khi làng có người chết, người ta giã cối làm
lệnh, báo cho mọi người tới thăm viếng [125, tr.250].
Bài viết không đề cập cụ thể đến loóng của người Thái Mai Châu mà
chỉ giới thiệu về loóng của người Thái nói chung. Nội dung chủ yếu mô tả về
cấu tạo, cách thức sử dụng, ngoài ra còn nhắc đến một số chức năng, quan
niệm của người Thái khi gõ loóng như đón tiếp khách quý, khi có người chết,
khi báo tin… Tác giả ngoài việc xem xét loóng với tư cách một nông cụ sử
dụng cho việc giã lúa thì phần nào đó đã coi loóng như một loại nhạc cụ.
Điểm đáng chú ý trong phần giới thiệu của Ngô Đức Thịnh về loóng chính là
việc loóng được nói tới trong “thư tịch cổ Trung Quốc”. Điều này cho thấy
trong phong tục cổ của cư dân nước ta, loóng đã được sử dụng phổ biến, đồng
thời gắn với một số hoạt động liên quan đến tâm linh.
Có một số cuốn sách đã dành dung lượng khoảng hai trang để giới
thiệu về loóng như Âm nhạc dân gian xứ Nghệ do Lê Hàm chủ biên, [52,
tr.321 – 322]; Âm nhạc dân gian dân tộc Thái ở Nghệ An của Dương Hồng
Từ, [147, tr.247 – 248]; Văn hóa vật chất của người Thái ở Thanh Hóa Nghệ
An của Vi Văn Biên, [18, tr.242 - 243]; Đời sống văn hóa dân tộc Thái của
hai tác giả Phạm Hổ Đấu và Trần Thị Liên, [44, tr.53 - 54]. Đây là những
cuốn sách nghiên cứu về văn hóa và âm nhạc của người Thái tại vùng Thanh
Hóa, Nghệ An. Tuy mỗi phần trong các tài liệu này có đề cập đến một loại
nông cụ - nhạc cụ được gọi là luống, nhưng nội dung rất đa dạng, thể hiện sự
độc đáo, phong phú của loại hình sinh hoạt văn hóa này.
Trong cuốn Âm nhạc dân gian xứ Nghệ do Lê Hàm chủ biên, tác giả
cho rằng: “Bộ khắc gõ chiếm một vị trí không kém phần quan trọng so với bộ
cồng chiêng. Khắc gõ không thể thiếu trong âm nhạc của các dân tộc miền
núi, nhất là ở người Thái vào dịp vui chơi, hội hè” [52, tr.321]. Tên của loại
hình sinh hoạt văn hóa này được tác giả giới thiệu: “Khắc gõ chủ yếu là khắc
25
luống còn gọi là tung loọng, tức là dùng chày giã gạo gõ vào thành cối dài”
[52, tr.321]. Tác giả đã mô tả tính chất của điệu khắc luống: “không khí vui
tươi, rộn ràng, nhịp nhàng làm tăng thêm hưng phấn khi múa nhảy của người
tham gia” [52, tr.321]. Cùng với đó, tác giả cũng chỉ ra 3 cách gõ của người
Thái vùng xứ Nghệ, đó là: “khắc lóng” hội, “khắc phắt phùm” (theo kiểu dệt
vải), “khắc to cáy” (theo kiểu chọi gà). Theo Lê Hàm, người Thái xứ Nghệ
thường khắc luống trong những ngày vui, ngày hội, khi có đám ma và đám cưới.
Tác giả còn ký âm các bài khắc luống ra trên khuông nhạc. Phần giới thiệu về luống
của Lê Hàm rất ngắn gọn, khái quát, chủ yếu là mô tả, xem xét luống với tư cách là
một loại nhạc cụ. Tuy nhiên, các thông tin tác giả đưa ra rất đáng chú ý, phản ánh
những biểu hiện cơ bản một loại hình sinh hoạt văn hóa của người Thái xứ Nghệ.
Trong cuốn Âm nhạc dân gian dân tộc Thái ở Nghệ An [147] của
Dương Hồng Từ, tác giả đã nghiên cứu về âm nhạc dân gian của người Thái
tại vùng Nghệ An, trong đó, có đề cập đến một loại nhạc cụ gõ được gọi là
loóng. Có thể thấy Dương Hồng Từ chỉ xem xét loóng ở góc độ Âm nhạc học.
Tác giả ký âm tiết tấu của một số bài bản như Tùng loọng tên phan (như chân
con nai nhảy), Tùng loọng phắt phưm (như tiếng thoi dệt vải), Tùng loọng tò
cáy (giã theo kiểu con gà chọi, chỉ dùng trong đám tang). Cùng với đó, tác giả
miêu tả về cách chế tác, cấu tạo, cách diễn tấu. Dương Hồng Từ cũng cho biết
người Thái Nghệ An gọi hình thức sinh hoạt văn hóa này là khắc luống.
Ngoài ra, theo tác giả, một số khu vực Thái tại Nghệ An còn gọi là Tùng
loọng, Quành loong. Do cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu ở góc độ Âm nhạc
học nên tác giả chỉ tập trung mô tả về cách thức diễn tấu, tính chất âm nhạc,
các vị trí âm thanh trên luống và một số bài bản đã được ký âm. Những vấn
đề về văn hóa, các quan niệm của người Thái Nghệ An đối với sinh hoạt
khắc luống không được Dương Hồng Từ nghiên cứu, đề cập đến. Tuy vậy,
chúng tôi sẽ tham khảo những vấn đề khắc luống của người Thái Nghệ An đã
26
được tác giả giới thiệu, để làm cơ sở đối chiếu với sinh hoạt kánh loóng của
người Thái Mai Châu.
Trong cuốn Văn hóa vật chất của người Thái ở Thanh Hóa Nghệ An
[18] của Vi Văn Biên, tác giả xếp luống vào nhóm công cụ lao động của
người Thái vùng Thanh Hóa, Nghệ An. Vi Văn Biên cho rằng đây là một
công cụ lao động mang tín hiệu truyền thông, bởi có thể truyền tải được âm
thanh, dùng để báo tin vui, buồn cho mọi người trong bản. Tác giả cũng đề
cập đến một số hình thức sử dụng luống của người Thái vùng này. Họ tổ chức khua
luống vào những ngày vui như đám cưới, ngày Tết, mừng nhà mới, Xên mường,
trai gái vui chơi… Ngoài ra, người Tày Dọ1 còn khua luống trong đám ma, người
Tày Thanh không có tập tục này. Tác giả cũng mô tả khái quát cách thức tổ chức
bài khua luống trong đám cưới và đám ma. Từ số lượng người tham gia, vai trò của
từng nhóm, động tác thực hiện, các vị trí âm trên luống… Có thể nói, điểm đáng
chú ý trong phần đề cập đến khua luống của Vi Văn Biên là đã xếp luống vào
nhóm công cụ lao động có chức năng truyền thông tin. Đây có thể coi là một
chức năng cổ xưa nhất của loại nông cụ này.
Trong cuốn Đời sống văn hóa dân tộc Thái [44], hai tác giả Phạm Hổ
Đấu và Trần Thị Liên nghiên cứu văn hóa người Thái vùng Thanh Hóa. Khi
đề cập đến sinh hoạt khua luống, tác giả coi đây là một hình thức diễn xướng
dân gian. Hai tác giả đã mô tả khái quát cách thức tổ chức bài khua luống, từ
số lượng người tham gia, vị trí tạo âm thanh trên luống… Đồng thời, theo hai
tác giả, người Thái vùng Thanh Hóa thường khua luống trong các dịp như lễ
rước dâu, ngày cưới, ngày Tết.
Nhìn chung, những tài liệu dành khoảng hai trang để giới thiệu về
sinh hoạt khua luống chỉ dừng lại ở việc mô tả khái quát về một hình
thức sinh hoạt văn hóa. Các tác giả chưa nghiên cứu, phân tích, đi sâu về
1. Người Thái vùng Thanh Hóa, Nghệ An lại phân thành các nhóm là Tày Dọ, Tày Thanh, Tày Mười.
27
hiện tượng văn hóa này. Mặc dù vậy, mỗi tác giả cũng đưa ra một số
điểm đáng chú ý xung quanh sinh hoạt khua luống của người Thái vùng
Thanh – Nghệ.
Năm 2012, Hội nghị Thái học toàn quốc lần thứ 6 đã được tổ chức tại
Thanh Hóa. Các bài nghiên cứu, tham luận được tổng hợp trong cuốn sách
Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái – Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội
nhập và phát triển. Nhiều vấn đề liên quan đến tộc người Thái, từ lịch sử
nguồn gốc, văn hóa, kinh tế, xã hội đến hội nhập và phát triển đã được trao
đổi, phân tích, đánh giá cụ thể. Tác giả Phan Đăng Nhật có bài viết về sử thi
Thái sưu tầm tại Nghệ An. Khi nói về Tầng trời cao trong quan niệm của
người Thái, tác giả viết: “Ngoài ao rồng, còn có Nong U lúc – U lá, Nong
Hành Cốp Căm (nơi có con ếch ăn mặt trăng):
Ếch ăn trăng, nạ dòng gõ mõ
Gái gõ chày cứu lấy nàng trăng [88, tr.110]
Phan Đăng Nhật đã có những nghiên cứu rất công phu về sử thi của
người Thái. Chúng ta biết rằng, sử thi của mỗi tộc người luôn chứa đựng tri
thức, quan niệm, tâm thức của họ trong xã hội cổ xưa. Trong đoạn sử thi trên,
tác giả đề cập đến quan niệm rất phổ biến trong đời sống người Thái liên quan
đến hoạt động mà tác giả gọi là gõ chày, đó là hiện tượng ếch ăn trăng. Từ
đây, chúng ta thấy rằng quan niệm này trong sử thi của người Thái vùng Nghệ
An cũng có phần tương đồng với quan niệm của người Thái Mai Châu. Người
Thái Mai Châu xưa kia vẫn có quan niệm mỗi khi Nguyệt thực (ếch ăn trăng),
tất cả bản sẽ mang loóng ra gõ. Trong đoạn sử thi của Phan Đăng Nhật, dù chỉ
có vài dòng nhưng đã đưa ra một điểm rất đáng chú ý. Người Thái tại vùng
Nghệ An cũng gắn một hoạt động liên quan đến nông nghiệp với một hiện
tượng tự nhiên là Nguyệt thực.
28
Năm 2012, Sách Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái – Kadai ở Việt
Nam truyền thống, hội nhập và phát triển [80] (Hội nghị Thái học toàn quốc
lần thứ 6) được xuất bản. Hai tác giả Phạm Đức Lương và Mai Văn Tùng có
bài viết về Nhạc cụ cổ truyền của người Thái ở Thanh Hóa. Bài viết đã giới
thiệu về các loại nhạc cụ như Khèn bè, Pí Khúi, Pí một, Trống chiêng… Trong
đó, đề cập về các khía cạnh như cấu tạo nhạc cụ, cách chế tác, không gian thể
hiện. Trong số các nhạc cụ được đề cập tới, có một loại mà các tác giả gọi là
luống. Hai tác giả nói đến nguồn gốc xuất xứ nhạc cụ này, mô tả cấu tạo, chất
liệu, cách chế tác, chức năng sử dụng trong lao động và trong các sinh hoạt
văn hóa liên quan. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một bài viết giới thiệu chung về
nhạc cụ của người Thái Thanh Hóa trong đó có luống. Hai tác giả không đi
sâu vào lý giải những vấn đề xung quanh hiện tượng khua luống [80, tr.271].
Năm 2015, sách Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái – Kadai ở Việt
Nam những vấn đề phát triển bền vững [97] (Hội nghị quốc gia Thái học Việt
Nam lần thứ 7) được xuất bản. Hai tác giả Nông Văn Nảo và Lò Thị Phào có
bài viết về “Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu” (Cốm mới) của người Thái Trắng ở
Mường So, Lai Châu. Bài viết đã giới thiệu ý nghĩa, mục đích của lễ hội, các
bước chuẩn bị, trình tự các hoạt động trong phần lễ và phần hội. Trong đó, ở
phần hội, tác giả viết:
Nói là giã cốm, nhưng không cho cốm vào máng, cốm làm lễ, cốm
ăn đều giã cối tròn dùng tay giã hoặc chân đạp. Giã máng là cả hội
từng tốp, từng tốp thay nhau. Bên nam và bên nữ mỗi người cầm
đòn chày đứng hai bên máng giã đúng nhịp điệu: Cùng, cùng, cùng,
các, cùng. Ba tiếng cùng mọi người đều giã xuống đáy, tiếng các là
mỗi cặp đối diện gõ ngọn chày vào nhau. Cứ độ ba mươi phút lại
thay tốp khác [97, tr.347].
29
Qua đây, chúng tôi thấy một số điểm đáng chú ý như có cả nam và nữ cùng
tham gia giã máng. Việc họ cùng nhau giã máng chỉ là hành động mang tính chất
biểu trưng bởi trong máng không hề có cốm. Từng tốp nam nữ thay nhau giã máng
là biểu hiện một ý niệm của người Thái nơi đây. Có thể đây là hành động cầu mong
mùa màng tươi tốt, bội thu, làng bản ấm no, hạnh phúc.
Ngoài ra, có một số bài viết đáng chú ý về loóng đăng trên các tạp chí
địa phương như Độc đáo sinh hoạt khua luống của người Thái Trắng ở Lai Châu
(Tiểu Phong); Loỏng - Bộ gõ độc đáo của đồng bào Thái (Dạ Ngân); Điệu
khắc luống, tín ngưỡng phồn thực của đồng bào Thái (Kiều Nga). Những bài
viết dạng này chủ yếu cũng mô tả khái quát về hình dạng, chức năng, một số
quan niệm xung quanh hiện tượng văn hóa này.
Như vậy, qua sự tổng hợp các bài viết, công trình nghiên cứu đi trước
có đề cập đến loóng của người Thái tại một số khu vực khác như Thanh Hóa,
Nghệ An, Lai Châu, chúng ta thấy một thực tế là chưa có công trình nào đi
sâu vào nghiên cứu sinh hoạt văn hóa này. Nói cách khác, chưa có công trình
nào chọn loóng làm đối tượng nghiên cứu chính. Ở mỗi công trình kể trên,
loóng chỉ chiếm dung lượng khiêm tốn. Đồng thời, các tác giả cũng chỉ dừng
lại ở việc giới thiệu khái quát về loóng mà chưa có những nghiên cứu, phân
tích sâu những vấn đề liên quan.
1.1.1.3. Những nghiên cứu về đuống của người Mường
Sách Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu lý luận phê bình âm nhạc Việt Nam thế
kỷ XX, tập 3 (2003), có hai bài viết về đuống. Bài thứ nhất của Vi Văn Tuyên: “Tục
Đâm đuống Thanh Sơn” [159, tr.241 – 243]; Bài thứ hai của Trịnh Lại: “Đuống –
nhạc cụ gõ của dân tộc Mường” [159, tr.297 – 300]; Đây là hai bài viết được nhóm
biên soạn chọn lọc từ các nguồn tài liệu khác nhau để đưa vào cuốn sách này. Thực
chất, bài “Tục Đâm đuống Thanh Sơn” của Vi Văn Tuyên đã được in trong Tạp chí
Văn hóa Vĩnh Phú, số 5 (1974); bài “Đuống – nhạc cụ gõ của dân tộc Mường” của
30
Trịnh Lại được in trong Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 2 (1976). Có thể nói,
đây là hai bài viết đề cập đến đuống sớm nhất mà chúng tôi được biết.
Trong bài viết “Tục Đâm đuống Thanh Sơn” của Vi Văn Tuyên, tác giả đã
dành 2 trang để giới thiệu về tục Đâm đuống của người Mường ở Thanh Sơn, Phú
Thọ. Theo Vi Văn Tuyên, người Mường khu vực này thường tổ chức Đâm đuống
vào những ngày vui như ngày Tết, hội mùa, mừng ngày dọn về nhà mới hoặc đám
cưới. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến các vấn đề như vị trí tạo âm thanh,
cách thức tổ chức gõ. Đặc biệt, từ những âm thanh, nhịp điệu của tiếng chày gõ vào
đuống, tác giả nói đến ý nghĩa của mỗi âm điệu đó. Ví dụ khi gõ loại nhịp ba, có ý
nghĩa như: Vui xuân mới! Cơm cơm trắng, cơm cơm nhà! Hoặc nhịp hai kết hợp
nhịp ba, có ý nghĩa: Cơm trắng, cơm nhà! Cơm cơm trắng, cơm nhà! Đây là một ý
niệm hết sức độc đáo mà chúng tôi chưa thấy tài liệu nào đề cập đến. Theo đó, mỗi
tiếng gõ vào đuống sẽ tương ứng với một từ. Họ mong ước điều gì thì họ ngầm tư
duy đến lời cầu khẩn. Những lời đó là những cụm từ được biểu hiện thông qua
những tiếng chày giã vào đuống. Qua đó, tác giả nhận định tục Đâm đuống trong
ngày xuân của người Mường để cầu mong cho lúa tốt được mùa, cối lúa luôn đầy,
có bát cơm trắng dẻo thơm. Từ những biểu hiện của hình thức sinh hoạt văn hóa
này, Vi Văn Tuyên cho rằng tục Đâm đuống là một tập quán tốt đẹp, đồng thời còn
là một hình thức nghệ thuật âm nhạc. Đây là một bài viết ngắn gọn, khái quát về tục
Đâm đuống của người Mường ở Thanh Sơn. Tuy nhiên, bài viết này xuất hiện sớm
(1974), vì thế những thông tin tác giả đưa ra mang nhiều ý nghĩa. Đó là những nét
đặc trưng về tục Đâm đuống trong giai đoạn còn chưa bị tác động của kinh tế thị
trường. Thời điểm đó, đuống vẫn là nông cụ phổ biến trong đời sống đồng bào dân
tộc Mường. Những bài bản, quan niệm, hình thức tổ chức liên quan đến Đâm
đuống vẫn còn đậm bản sắc văn hóa cổ truyền của người Mường.
Tìm hiểu bài viết “Đuống – nhạc cụ gõ của dân tộc Mường” của Trịnh Lại,
chúng tôi nhận thấy một số vấn đề sau:
31
Trịnh Lại đã khảo sát, nghiên cứu đuống của người Mường tại huyện Phù
Yên (Sơn La). Tác giả gọi sinh hoạt văn hóa này là Đánh đuống (hoặc gọi là đâm
đuống). Bài viết có dung lượng 4 trang. Bài viết của Trịnh Lại cho thấy sự tỉ mỉ, chi
tiết của tác giả trong quá trình nghiên cứu. Điều đó thể hiện ở việc tác giả đã vẽ
hình, cấu tạo của đuống với các số đo rất chi tiết, cụ thể, từ chiều dài, rộng, sâu, đáy,
mặt của lòng đuống, độ dầy của thành đuống…Trịnh Lại đã ký âm 03 bài đuống
thành âm hình tiết tấu, bao gồm các bài mừng cơm mới, giã lúa thường ngày, gấu
ăn trăng (nguyệt thực). Tác giả cũng lý giải quá trình hình thành sinh hoạt âm nhạc
dân gian này của người Mường. Điểm đáng chú ý trong bài viết của Trịnh Lại, đó là
việc tác giả đã khẳng định về chức năng nhạc cụ của đuống:
Đuống là một nhạc cụ gõ không định âm giống như chiêng, cồng,
trống cái… Âm thanh của đuống do chày đánh vào đuống tạo nên:
Nghe tiếng đuống, ta có thể phân biệt được ba âm thanh khác nhau.
Chày giã vào lúa nghe trầm, gõ vào thành đuống nghe thanh hơn,
đến khi chày gõ vào chày, tiếng nghe lại sắc gọn. Ba âm thanh này
lúc dàn trải lúc quyện vào nhau. Có khi chỉ nghe thấy tiếng trầm
hoặc tiếng sắc gọn, có khi tiếng thanh lại nổi lên trên nền của tiếng
trầm giữ nhịp, cảm giác của người nghe có lúc tưởng như đuống
phát ra “giai điệu” âm nhạc thực thụ [159, tr.298].
Thời điểm năm 1976 khi tác giả viết bài này, đuống vẫn là nông cụ quan
trọng, phổ biến trong đời sống đồng bào Mường. Chức năng chính của đuống vẫn
là giã lúa. Việc tác giả sớm đặt ra vấn đề đuống với chức năng một nhạc cụ là một
dấu mốc quan trọng, có ý nghĩa đối với sự phát triển, tồn tại của nông cụ này.
Theo Trịnh Lại, ngoài việc sử dụng đuống trong các dịp hội đầu xuân,
mừng cơm mới, gấu ăn trăng, người Mường còn gõ đuống như một dạng hiệu
lệnh báo cho dân bản biết một ngày lao động mới đã tới, tất cả dân bản tập
trung đi đào mương, đắp phai, hoặc vỡ đất khai hoang trồng chè… Đây cũng
32
là một chức năng rất đáng chú ý mà chúng tôi không thấy các tác giả khác đề
cập đến.
Năm 1989, Lê Ngọc Canh và Tô Đông Hải đã hoàn thiện, xuất bản
cuốn sách Nhạc cụ gõ cổ truyền Việt Nam. Đây là tài liệu nghiên cứu về các
loại nhạc cụ gõ cổ truyền của Việt Nam. Trong đó, hai tác giả đã dành 5 trang
để giới thiệu về chiếc đuống của người Mường [25, tr.84 – 88]. Theo nhóm
tác giả: “Đuống là một nhạc cụ phổ biến ở vùng Thái, Mường và được nhân
dân ưa thích… Người Mường gọi là Đuống, người Thái gọi là Loóng. Người
Mường gọi hình thức sử dụng nhạc cụ này là Đâm Đuống hoặc Chằm Đuống.
Người Thái gọi là Kẻng Loóng” [25, tr.84]. Hai tác giả cũng cố gắng tìm hiểu,
lý giải nguồn gốc loại nhạc cụ độc đáo này: “Đuống là một loại nhạc cụ ra đời
từ rất sớm, ít ra là cùng thời với trống đồng” [25, tr.85]. Nhóm tác giả dựa vào
những hình khắc vẽ trên trống đồng Đông Sơn ghi lại hình người giã gạo và
cho rằng hình ảnh đó có thể giải thích là cảnh giã gạo hoặc cũng có thể là đâm
đuống. Họ cho rằng: “Cách đánh trống đồng ngày nay còn tồn tại ở vùng
Mường (Thanh Sơn, Vĩnh Phú), cho ta thấy nó cũng tương tự như cách đâm
đuống” [25, tr.85]. Do cách tiếp cận đuống từ góc độ nhạc cụ học nên nhóm
tác giả tập trung vào mô tả cấu tạo của đuống, môi trường sử dụng, phương
pháp sử dụng, tính chất âm nhạc. Một số điểm đáng chú ý trong phần giới thiệu về
đuống của Lê Ngọc Canh và Tô Đông Hải, đó là: Về phương pháp tổ chức đâm
đuống, người Mường phân nhóm người tham gia thành hai bè, một bè do người làm
“cái” thực hiện và một bè do những người làm “con” thực hiện. Người làm “cái” là
người chỉ huy, điều khiển việc thay đổi tiết tấu của đuống. Người làm “con” thường
được tổ chức thành từng đôi. Về mặt âm nhạc, các tác giả cũng đã ký âm một số
dạng tiết tấu tiêu biểu của các bài đuống.
Sách Lịch sử âm nhạc dân gian cổ truyền của Nguyễn Viêm có giới
thiệu về đuống (1996); [158, tr.63 – 64]; Tuy nhiên, phần đề cập đến đuống
33
rất sơ sài, không có thông tin gì mới so với các bài viết về đuống đã được giới
thiệu từ những thời điểm trước đó.
Cuốn sách ảnh Người Mường trên đất tổ Hùng Vương [85] (Bùi Tuyết
Mai chủ biên), giới thiệu đuống như một sinh hoạt văn hóa âm nhạc. Tuy
nhiên, việc giới thiệu đuống mới dừng lại ở mức khái quát và có đưa ra một
số âm hình tiết tấu đuống.
Năm 2005, UBND Tỉnh Hòa Bình đã hoàn thành cuốn sách Địa chí
Hòa Bình. Đây là một tài liệu quan trọng, mang nhiều giá trị. Cuốn sách đã
tổng hợp những vấn đề về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa xã hội, các tộc
người của Tỉnh Hòa Bình. Trong phần viết về nghệ thuật dân gian của người
Mường, các tác giả có đề cập ngắn gọn đến tục đâm đuống: “Người Mường
Hòa Bình cũng có múa đâm đuống, còn người Thái Mai Châu thì gọi là múa
keng loóng. Điệu múa này động tác đơn giản nhưng ngoài việc đâm vào
đuống, những người múa còn nhảy múa xung quanh trước khi giã vào đuống
như mô phỏng những động tác giã gạo ngày thường” [146, tr.750]. Như vậy,
tục đâm đuống của người Mường được xem như một điệu múa.
Năm 2005, Nxb Đại học Sư phạm xuất bản cuốn Giáo trình Âm nhạc
cổ truyền Việt Nam do Nguyễn Thụy Loan chủ biên. Trong cuốn giáo trình
này, phần viết về đuống chiếm dung lượng rất nhỏ. Tác giả viết:
Đuống: là chiếc máng gỗ và chày dọc vốn dùng để giã gạo của
người Mường. Có vùng người Mường gọi là luống. Người Thái –
tùy từng vùng cũng có thể gọi là luống hoặc loóng. Từ rất xa xưa
công cụ lao động này đã được sử dụng như một nhạc cụ để hòa tấu
trong một số dịp sinh hoạt văn hóa tinh thần. Đã hình thành nhiều
bài bản đuống với nội dung và mục đích khác nhau [78, tr.31].
34
Tác giả có ảnh minh họa cho sinh hoạt này đồng thời gọi tên là đâm
đuống, khua luống, keng loóng, queng loóng… Rõ ràng, tác giả chỉ giới thiệu
khái quát về đuống của người Mường và xem xét ở góc độ nhạc khí.
Năm 2009, bài viết Tục đâm đuống ở Vĩnh Phú của Dương Duy Thiện, in
trong Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3 cũng nhắc đến tục đâm đuống và giới thiệu
về cách diễn tấu nhưng chỉ ở mức độ sơ lược.
Năm 2011, có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về đuống rất đáng
chú ý, đó là Luận văn Thạc sĩ ngành Văn hóa học của Nguyễn Tuệ Chi có tên:
Đuống của người Mường ở xã Kim Thượng, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Có
thể nói, đây là một công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về sinh hoạt chàm
đuống của người Mường. Những thông tin, luận điểm của tác giả có giá trị
khoa học cao, giúp ích nhiều cho những ai nghiên cứu về đuống và loóng,
trong đó có chúng tôi. Tác giả đã xem xét chàm đuống ở góc độ âm nhạc học,
nghệ thuật học và các vấn đề về văn hóa. Nguyễn Tuệ Chi với nền tảng là
người học cơ bản về lý luận âm nhạc, vì thế phần nghiên cứu về chàm đuống
từ góc độ âm nhạc học và nghệ thuật học được phác họa rất chi tiết, khoa học.
Tác giả đã ký âm các bài bản ra trên khuông nhạc, chỉ rõ các động tác, kỹ
thuật, tư thế, cách thức tổ chức chàm đuống. Từ góc độ văn hóa, tác giả cũng
đã chỉ ra những quan niệm, nhận thức của người Mường về sinh hoạt chàm
đuống. Theo Nguyễn Tuệ Chi, người Mường ở Tân Sơn, Phú Thọ thường
chàm đuống trong ngày Tết, lễ mừng cơm mới, đám cưới, tang ma. Tác giả
cũng gợi mở những vấn đề mới rất thú vị như việc so sánh với loóng của
người Thái Mai Châu hay một số nhầm lẫn trong nhận thức về sinh hoạt văn
hóa này. Đồng thời, luận văn cũng làm rõ những giá trị về nghệ thuật, văn hóa
và khả năng ứng dụng của đuống trong đời sống hiện nay. Tuy rằng tác giả đã có
những nghiên cứu rất tỉ mỉ, công phu về chàm đuống, nhưng có thể nói còn nhiều
vấn đề, ý nghĩa sâu xa trong sinh hoạt văn hóa này chưa được làm rõ. Ví dụ như
35
việc chàm đuống biểu hiện quan niệm, tín ngưỡng gì trong tâm thức người Mường
hay những biến đổi của nó. Tuy nhiên, đây vẫn là một công trình nghiên cứu giá trị.
1.1.2. Một số nhận xét
1.1.2.1. Những kết quả đáng chú ý
Các tư liệu đã cho thấy những giá trị của sinh hoạt văn hóa kánh loóng Thái
Mai Châu trong kho tàng văn hóa truyền thống của người Thái nói chung và dân
tộc Việt Nam nói riêng. Về nội dung, các vấn đề đã được đề cập tới bao gồm:
Kánh loóng Thái Mai Châu dưới góc độ Văn hóa dân gian (chức năng,
quan niệm, ý nghĩa của kánh loóng trong đời sống người Thái Mai Châu).
Kánh loóng Thái Mai Châu dưới góc độ Nhạc khí học (chất liệu chế
tác, âm sắc, độ vang…).
Kánh loóng Thái Mai Châu dưới góc độ Âm nhạc học (tiết tấu, cách
thức diễn tấu, kỹ thuật diễn tấu…).
Chúng tôi nhận định rằng sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái
Mai Châu đã được xem xét dưới các góc độ như văn hóa dân gian, nhạc khí
học, âm nhạc học là trong một phạm vi hẹp. Bởi như đã trình bày, hầu hết
những phần đề cập đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng đều chiếm một dung
lượng nhỏ trong các công trình nghiên cứu. Có tài liệu đề cập nhiều nhất cũng
chỉ 3 trang (Luận văn Thạc sĩ của Hà Thị Tô Thắm). Còn đa số các tác giả
dành một vài dòng viết về sinh hoạt văn hóa kánh loóng. Thực chất, các bài
viết chỉ mô tả hiện tượng kánh loóng. Nếu cho rằng những bài viết tiếp cận
sinh hoạt văn hóa kánh loóng từ các góc độ nghiên cứu như nêu ở trên thì có
nghĩa các tác giả phải sử dụng hệ thống lý thuyết, cơ sở lý luận của các ngành
khoa học đó để giải quyết vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra những quy luật, ý
nghĩa sâu xa của hình thức sinh hoạt văn hóa này. Tuy nhiên, các nhà nghiên
cứu đi trước chưa làm được điều đó. Cụ thể như tác giả Hà Thị Tô Thắm đã
cố gắng tiếp cận sinh hoạt kánh loóng từ góc độ âm nhạc học bằng cách ký
36
âm các âm hình tiết tấu, chỉ ra kỹ thuật diễn tấu… Tuy nhiên, những điểm tác
giả đưa ra còn sơ sài, chưa làm rõ các quy luật âm nhạc, cấu trúc bài bản, tính
chất… Những phần viết đề cập đến sinh hoạt kánh loóng từ góc độ văn hóa
dân gian chỉ dừng lại ở việc mô tả hiện tượng văn hóa này. Việc mô tả đó
cũng không chi tiết, sơ sài, thậm chí có hiện tượng bị nhầm lẫn giữa sinh hoạt
kánh loóng của người Thái Mai Châu với chàm đuống của người Mường.
Đối với những phần đề cập đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng ở một số
vùng Thái khác và chàm đuống người Mường đều có dung lượng lớn hơn so
với phần tìm hiểu về kánh loóng của người Thái Mai Châu. Có những công
trình nghiên cứu về âm nhạc của người Thái vùng Nghệ An như Âm nhạc dân
gian xứ Nghệ của Lê Hàm; Âm nhạc dân gian dân tộc Thái ở Nghệ An của
Dương Hồng Từ, trong đó phần đề cập đến loóng khá chi tiết. Các công trình
khác tìm hiểu về loóng từ góc độ văn hóa cũng được mô tả chi tiết, có nhiều
phân tích đáng chú ý như Tìm hiểu nông cụ cổ truyền Việt Nam của Ngô Đức
Thịnh, Văn hóa vật chất của người Thái ở Thanh Hóa Nghệ An của Vi Văn
Biên… Đặc biệt, có công trình nghiên cứu chuyên sâu về đuống, một nông cụ
- nhạc cụ đồng dạng với loóng với nhiều giá trị đó là Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Tuệ Chi. Trong luận văn này, Nguyễn Tuệ Chi đã xem xét đuống của
người Mường ở cả góc độ văn hóa học và âm nhạc học. Những kết quả
nghiên cứu về loóng và đuống ở các vùng khác rất có giá trị, là cơ sở để luận
án đối chiếu, làm rõ hơn sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu.
Văn hóa Thái nói chung đã được nghiên cứu sâu, có nhiều nhà nghiên
cứu tiêu biểu về lĩnh vực này như Cầm Trọng, Đặng Nghiêm Vạn, Tô Ngọc Thanh,
Vi Văn An, Nguyễn Hữu Thức, Dương Đình Minh Sơn… Tuy nhiên, ở phạm vi
một khía cạnh chuyên biệt về một hiện tượng văn hóa như sinh hoạt văn hóa
kánh loóng thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu một cách sâu sắc, triệt để.
37
1.1.2.2. Một số hạn chế
Kánh loóng của người Thái Mai Châu chưa được nghiên cứu một cách
có hệ thống, thiếu cơ sở lý luận.
Văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu hầu như chỉ được mô tả
qua các biểu hiện của nó mà chưa được phân tích, làm rõ căn nguyên tồn tại,
tức là gốc rễ của biểu hiện đó.
Những phân tích về khía cạnh âm nhạc kánh loóng của người Thái Mai
Châu còn nhiều hạn chế, thiếu mối liên hệ với bản sắc tộc người nên không
thấy được ý nghĩa sâu xa và các giá trị của nó.
Hầu hết đều là những bài viết giới thiệu sơ lược nằm trong các công
trình nghiên cứu tổng hợp về văn hóa người Thái, hoặc âm nhạc của họ. Chưa
có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu riêng về sinh hoạt văn hóa
kánh loóng. Chỉ có duy một luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về đuống của người
Mường, một nông cụ - nhạc cụ đồng dạng với loóng (của Nguyễn Tuệ Chi).
Tuy nhiên, như đã nhận xét về công trình này ở phần trên, mặc dù tác giả đặt
ra một số vấn đề mới rất có giá trị, nhưng cũng còn nhiều ý nghĩa trong sinh
hoạt chàm đuống chưa được làm rõ.
Sau thời gian thu thập tư liệu và đọc gần như toàn bộ các văn bản đề
cập đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng, chúng tôi sơ bộ có những nhận xét
trên. Những nhận xét đó nhằm làm rõ diện mạo chân thực về sinh hoạt văn
hóa kánh loóng, đồng thời tìm ra những khoảng trống trong các nghiên cứu đi
trước để tiếp tục tìm hiểu sâu hơn, đa chiều hơn trong luận án này.
1.1.2.3. Những vấn đề đặt ra
Qua những vấn đề đã chắt lọc được từ các tư liệu về sinh hoạt văn hóa
kánh loóng, chúng tôi nhận thấy cần có một cái nhìn tổng thể để thấy rõ sự
độc đáo, các giá trị của hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian này. Cần phải áp
38
dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành cho từng vấn đề để đưa ra
diện mạo chân thực về sinh hoạt văn hóa kánh loóng.
Như vậy, những vấn đề cần giải quyết của luận án:
Nghiên cứu những biểu hiện của kánh loóng về mặt văn hóa để nhận
biết được tâm thức, quan niệm cổ xưa của người Thái Mai Châu.
So sánh sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu với
khu vực Thái khác (người Thái ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ an) để thấy sự
tương đồng, khác biệt trong cùng một loại hình sinh hoạt văn hóa.
Làm rõ sự biến đổi, những yếu tố tác động, nguyên nhân và xu hướng
biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng.
Nghiên cứu sâu về nghệ thuật kánh loóng, chỉ ra các quy luật âm nhạc,
kỹ thuật diễn tấu…
1.2. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái ở
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình từ góc độ văn hóa học. Để giải quyết những
vấn đề nghiên cứu đã đặt ra, luận án cần sử dụng và làm rõ một khái niệm,
thuật ngữ và quan điểm trong nghiên cứu về văn hóa của các NNC đi trước.
1.2.1. Các khái niệm và thuật ngữ cơ bản
1.2.1.1. Các khái niệm cơ bản
- Văn hóa
Trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về văn hóa của
nhiều nhà nghiên cứu xuất phát từ quan điểm nghiên cứu và góc độ tiếp cận
khác nhau. Hiện nay, có khoảng 200 đến 400 định nghĩa về văn hóa [51,
tr.223]. Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án, NCS sử dụng
khái niệm của nhà bác học Xô Viết N.N.Trêbôxarốp: “Văn hóa là toàn bộ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên nhằm thỏa mãn chính
các nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của con người” [51, tr.223].
39
- Văn hóa học
Theo Nguyễn Tri Nguyên:
Văn hóa học là một thuật ngữ tập hợp nhằm bao quát một ngành
nghiên cứu văn hóa nhằm cố gắng đạt tới sự liên kết các phương
thức quan sát khác nhau của nhiều chuyên ngành và có tham vọng
khái quát hóa các vấn đề như: lịch sử tinh thần, triết học, khoa học
ngữ văn, nghệ thuật học, xã hội học, khoa học lịch sử, nhân học và
tâm lí học. Trong văn hóa học con người chiếm vị trí trung tâm với
tư cách là thực thể sáng tạo văn hóa. Văn hóa học nghiên cứu tồn
tại và hoạt động con người, xã hội và những sáng tạo văn hóa [102,
tr.11].
1.2.1.2. Về thuật ngữ kánh loóng
Trước khi đi đến thống nhất một cách gọi chung cho thuật ngữ kánh
loóng được sử dụng trong luận án, chúng tôi tạm gọi theo cách hiểu, cách
nhìn trực quan đối với sinh hoạt văn hóa này của người Thái Mai Châu là gõ
máng. Có nghĩa rằng, đây là động tác cầm chày gõ vào chiếc máng người
Thái Mai Châu thường dùng để giã lúa.
- Thuật ngữ kánh loóng trong các tư liệu
Năm 1972, sinh hoạt gõ máng được đề cập đến trong cuốn Góp phần
tìm hiểu tỉnh Hòa Bình do Bùi Văn Kín chủ biên cùng với các tác giả Mai
Văn Trí, Nguyễn Phụng. Nhóm tác giả đã gọi hình thức sinh hoạt văn hóa này
của người Thái là múa loóng. Ở đây, với cách gọi là múa loóng đã có sự kết
hợp giữa tiếng Việt và tiếng Thái, trong đó múa là tiếng Việt, loóng là tiếng
Thái. Đồng thời, các tác giả đã coi sinh hoạt gõ máng là một điệu múa của
người Thái.
40
Năm 1988, trong cuốn sách Tìm hiểu văn hóa cổ truyền của người Thái
Mai Châu, tác giả Lò Cao Nhum1 khi viết về Xòe đã gọi một điệu múa của
người Thái là xòe đánh máng. Đây cũng là cách kết hợp giữa tiếng Việt và
tiếng Thái. Xòe là tiếng Thái, có nghĩa là múa. Đánh máng là tiếng Việt, có
nghĩa tác giả muốn nói đến việc cầm chày gõ hoặc giã vào máng chuyên dùng
giã lúa. Với cách gọi như vậy, Lò Cao Nhum cũng coi sinh hoạt gõ máng là
một điệu múa.
Năm 2002, Đại học Quốc gia Hà Nội - Chương trình Thái học Việt Nam đã
xuất bản cuốn sách Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái ở
Việt Nam. Võ Thị Thường có bài viết về lễ “cha chiêng” của người Thái Mai Châu
Hòa Bình, trong đó có đoạn tác giả viết: “Phần hội nhộn nhịp trong tiếng chày gõ
vào máng lúa (tẳm đuống)”. Đuống chính là cái máng giã lúa. Đây là cách gọi của
người Mường để chỉ cái máng. Tẳm đuống nghĩa là gõ máng hoặc giã máng. Võ
Thị Thường đã có sự nhầm lẫn giữa cách gọi sinh hoạt gõ máng người Mường với
người Thái Mai Châu. Điều này cũng có thể lý giải do hai tộc người Thái Mai Châu
và Mường Hòa Bình sinh sống cạnh nhau từ lâu đời, vì thế một số từ ngữ nhầm lẫn
hoặc vay mượn, ảnh hưởng của nhau cũng là điều dễ hiểu.
Năm 2005, UBND Tỉnh Hòa Bình đã hoàn thành cuốn sách Địa chí
Hòa Bình. Trong phần viết về nghệ thuật dân gian của người Mường, các tác
giả có đề cập đến tục đâm đuống: “Người Mường Hòa Bình cũng có múa đâm
đuống, còn người Thái Mai Châu thì gọi là múa keng loóng” [146, tr.750].
Các tác giả đã có sự phân biệt cách gọi sinh hoạt gõ máng của người Mường
và người Thái. Với người Thái Mai Châu, sinh hoạt gõ máng được gọi là keng
loóng. Cách gọi này chúng tôi thấy rất phổ biến trong cộng đồng người Thái
tại Mai Châu.
1 Lò Cao Nhum: Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa người dân tộc Thái sinh sống tại Mai Châu.
41
Năm 2007, trong cuốn sách Văn hóa truyền thống một số tộc người ở
Hòa Bình, Nguyễn Thị Thanh Nga có đề cập đến sinh hoạt gõ máng. Tác giả
gọi là xòe đánh máng. Cách gọi này giống với nhà nghiên cứu Lò Cao Nhum như
chúng tôi đã trình bày.
Năm 2010, trong luận văn Thạc sĩ của Hà Thị Tô Thắm, tác giả đã gọi
sinh hoạt gõ máng là kéng loóng [119, tr.34]. Cách gọi này gần giống với
cách gọi của nhóm tác giả trong cuốn Địa chí Hòa Bình. Tác giả Hà Thị Tô
Thắm là người dân tộc Thái sinh ra tại Mai Châu, hiện đang giảng dạy âm
nhạc tại trường Cao đẳng VHNT Tây Bắc.
Năm 2011, trong luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Tuệ Chi, tác giả cho biết
người Thái ở huyện Thường Xuân, Thanh Hóa và huyện Mai Châu, Hòa Bình
gọi sinh hoạt gõ máng là khua loóng. Cách gọi này của Nguyễn Tuệ Chi
không giống với các tác giả khác khi tìm hiểu về sinh hoạt gõ máng của người
Thái Mai Châu. Có thực tế là người Thái vùng Thanh Hóa thường gọi sinh
hoạt gõ máng là khua loóng, như tác giả Vi Văn Biên đã nói đến trong cuốn
sách Văn hóa vật chất của người Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An. Tuy nhiên,
tại khu vực Thái Mai Châu, các nhà nghiên cứu và cả trong dân gian, chúng
tôi không thấy gọi sinh hoạt gõ máng là khua loóng.
Năm 2013, Hoàng Nga có bài viết đề cập đến loóng đăng trên tạp chí
Điện tử Hòa Bình. Tác giả đã tìm hiểu lễ hội xên bản, xên mường của người
Thái Mai Châu, trong đó có một hoạt động ở phần hội mà tác giả gọi là keeng
loóng. Đây chính là sinh hoạt gõ máng.
Như vậy, qua khảo sát các tư liệu, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên
cứu đi trước đều thống nhất gọi cái máng dùng để giã lúa của người Thái Mai
Châu là loóng. Tuy nhiên, riêng động từ gõ thì mỗi người lại gọi một cách
khác nhau. Võ Thị Thường gọi là tẳm, Nguyễn Tuệ Chi gọi là khua. Lò Cao
Nhum và Nguyễn Thị Thanh Nga lại gọi hình thức sinh hoạt gõ máng là xòe
(múa). Cách gọi như vậy của các tác giả đều chưa đúng với cách người Thái
42
hiểu hoặc không đúng nghĩa của động từ gõ. Chúng tôi chú ý tới cách gọi
động từ gõ gần giống nhau của các tác giả Hà Thị Tô Thắm, Hoàng Nga và
nhóm tác giả trong cuốn Địa chí Hòa Bình. Động từ gõ được gọi bằng các từ
như keng, kéng, keeng. Ba cách gọi động từ gõ vừa nêu cơ bản là thống nhất.
Sở dĩ có sự khác nhau về thanh bằng, thanh sắc là do ngữ âm của mỗi khu vực
người Thái Mai Châu sinh sống. Tuy nhiên, trong dân gian, người Thái Mai
Châu lại không nói như trong các tài liệu đã viết. Để làm rõ hơn điều này,
chúng tôi sẽ tiếp tục khảo sát tại một địa điểm ở huyện Mai Châu để có thể đi
đến một cách gọi phổ biến nhất động từ gõ.
- Thuật ngữ kánh loóng trong dân gian
Theo bà Hà Thị Xiểng ở bản Chiềng Châu, khu vực này gọi gõ máng là
keeng loóng. Bà Hà Thị Tều - đội loóng bản Văn nói rằng khu vực bản Văn
gọi là kành loóng. Theo bà Hà Thị Ưm - đội loóng bản Pom Coọng cho biết
khu vực này cũng gọi là kành loóng. Còn anh Hà Công Quân, người ở bản
Pom Coọng cho biết, khu vực Mai Thượng bao gồm xã Đồng Bảng, trung tâm
thị trấn, đến Nà Sài thường gọi là kành loóng. Từ khu vực xã Mai Hạ đi vào
trong theo quốc lộ 15 lại gọi là keeng loóng. Ngoài ra, có một số ý kiến rất
đáng chú ý khác như: Bà Hà Thị Nhuồn - đội loóng xóm Tân Tiến, xã Xăm
Khòe cho biết, khu vực này lại gọi gõ máng là kánh loóng. Từ trung tâm thị
trấn đi theo quốc lộ 15 khoảng 10 km, sau đó rẽ vào đường liên xã đi tiếp
khoảng 10 km nữa thì đến xã Xăm Khòe. Khu vực này cũng có bản làm du
lịch tên là bản Bước. Bà Nhuồn cho biết thêm, người Thái Mai Châu từ khu
vực xã Mai Hạ đi sâu vào trong các xã Vạn Mai, Mai Hịch, Xăm Khòe, Bao
La, Piềng Vế, thường gọi gõ máng là kánh loóng. Còn người Thái ở khu vực
trung tâm thị trấn lại gọi là kành loóng. Bà Hà Thị Phóng, ở bản Bước, xã
Xăm Khòe nói rằng khu vực này cũng gọi gõ máng là kánh loóng. Theo ông
Khà Văn Tiến, ở bản Nà Phòn, xã Nà Phòn cho biết từ khu vực xã Chiềng
43
Châu đến trung tâm thị trấn, người Thái gọi gõ máng là kánh loóng. Từ xã
Vạn Mai đi vào vùng trong, người Thái lại gọi là kánh loóng. Ý kiến của ông
Khà Văn Tiến giống với bà Hà Thị Nhuồn và Hà Thị Phóng như đã giới thiệu
ở trên.
Cùng với việc tham khảo ý kiến của những người Thái cao tuổi, chúng tôi
cũng hỏi một số NNC văn hóa tại địa phương để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Theo
NNC Khà Văn Tiến ở xóm Nghẹ, xã Vạn Mai cho biết khu vực này gọi gõ máng là
kành loóng. NNC Lường Song Toàn cũng cho rằng người Thái ở khu vực thị trấn
Mai Châu thường gọi gõ máng là kành loóng.
Như vậy, có thể nhận thấy người Thái Mai Châu gọi từ gõ cũng có sự
khác nhau. Tùy theo từng khu vực, có nơi gọi là kành, kánh hoặc keeng. Tuy
nhiên, phổ biến hơn cả là hai cách gọi kành và kánh. Từ keeng trong dân gian
lại không phổ biến, mà chỉ thấy xuất hiện nhiều trong các tư liệu. Ở đây, rất
có thể một số nhà nghiên cứu đã viết theo từ tượng thanh, tức là khi nghe âm
thanh phát ra từ động tác gõ chày vào máng. Dựa theo ý kiến của một số nhà
nghiên cứu văn hóa tại địa phương và những người Thái có hiểu biết về sinh
hoạt gõ máng, chúng tôi thấy rằng phần lớn người Thái tại khu vực trung tâm
thị trấn và các bản du lịch như bản Văn, bản Lác, bản Pom Coọng gọi từ gõ là
kành (khu vực này trước đây gọi là vùng Mường Thượng). Trong khi đó, từ
khu vực xã Mai Hạ đi sâu vào vùng trong (trước đây gọi là vùng Mường Hạ)
theo quốc lộ 15 đến các xã như Vạn Mai, Mai Hịch, Xăm Khòe, Bao la, Piêng
Vế, Cun Pheo, người Thái lại gọi từ gõ là kánh.
Các khu vực dân cư có ngữ âm khác nhau cũng là điều tự nhiên. Chúng
tôi lựa chọn cách gọi đối với từ gõ của người Thái Mai Châu để sử dụng trong
luận án theo tiêu chí phổ biến, đồng thời là từ gốc và cổ hơn. Tiếp tục tìm
hiểu, chúng tôi được biết vùng Mường Hạ gồm các xã Mai Hạ, Vạn Mai, Mai
Hịch, Xăm Khòe, Bao La, Piêng Vế, Cun Pheo là vùng đất cổ. Theo NNC Lò
44
Cao Nhum, khu vực Mai Hạ trước đây là trung tâm của vùng Thái Mai Châu,
nơi con cả của Tạo Mường ở. Hiện nay, vùng này cũng ít bị tác động bởi các
hoạt động kinh tế, du lịch. Trong khi đó, vùng Mường Thượng gồm xã Đồng
Bảng, trung tâm thị trấn, xã Chiềng Châu… đã có nhiều biến đổi trong kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Như vậy, có thể thấy giữa hai từ kành và kánh, thì từ kánh được sử
dụng phổ biến ở vùng Mượng Hạ, đồng thời đây cũng là từ cổ. Chúng tôi sẽ
sử dụng cụm từ kánh loóng là một thuật ngữ chỉ động tác gõ máng của người
Thái Mai Châu.
- Các thuật ngữ liên quan đến kánh loóng sử dụng trong luận án
Loóng: chiếc máng bằng gỗ người Thái Mai Châu sử dụng để giã lúa và
diễn tấu như một nhạc cụ.
Kánh loóng: hành động cầm chày gõ vào máng trong lao động cũng như
diễn tấu trong lễ nghi, tín ngưỡng.
Văn hóa kánh loóng: tổng thể mối liên hệ của con người với loóng thông
qua việc sử dụng loóng với nhiều mục đích, chức năng khác nhau, gắn bó lâu dài
với đời sống thường ngày cũng như đời sống tín ngưỡng của con người.
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng: là những hoạt động của con người thông qua
việc sử dụng loóng với nhiều mục đích, chức năng khác nhau, gắn bó lâu dài với
đời sống thường ngày cũng như đời sống tín ngưỡng của con người.
Nghệ thuật kánh loóng: tổng thể những phương thức, hình thức, thủ pháp, kỹ
thuật diễn tấu kánh loóng.
Âm nhạc kánh loóng: những bài bản âm nhạc bao gồm các nguyên tắc âm
nhạc như tiết tấu, loại nhịp, âm sắc, tốc độ, sắc thái.
Kánh loóng Thái Mai Châu: hiện tượng chỉ giới hạn trong phạm vi một tộc
người, tại một địa điểm, cụ thể là gõ máng của người Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình.
45
Trong luận án, chúng tôi sẽ sử dụng những từ ghép với kánh loóng trong các
trường hợp sau:
- Văn hóa kánh loóng Thái Mai Châu.
- Nghệ thuật kánh loóng Thái Mai Châu.
1.2.2. Các quan điểm trong nghiên cứu
Để lý giải những vấn đề liên quan đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng,
chúng tôi dựa vào các quan điểm trong nghiên cứu văn hóa của một số nhà
nghiên cứu đi trước. Cụ thể là quan điểm về tính nguyên hợp trong văn hóa dân
gian và biến đổi văn hóa. Chúng tôi sẽ vận dụng hai quan điểm này để tìm hiểu,
nhìn nhận một số khía cạnh của vấn đề nghiên cứu.
1.2.2.1. Về tính nguyên hợp trong văn hóa dân gian
Quan điểm về “tính nguyên hợp” trong văn hóa dân gian đã được nhiều
NNC đề cập đến, tiêu biểu như Đinh Gia Khánh, Nguyễn Thụy Loan, Lê
Ngọc Canh.
Theo Đinh Gia Khánh:
Việc tiếp cận thẩm mỹ văn hóa dân gian sẽ không được chính xác
nếu không nhận thức đầy đủ về một đặc điểm cơ bản của văn hóa
dân gian là tính nguyên hợp. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu cần
lý giải một cách chu đáo thì mới tìm hiểu được một cách chính xác
văn hóa dân gian [68, tr.11].
Đinh Gia Khánh cho rằng:
Nói rằng đặc điểm cơ bản của văn hóa dân gian là tính nguyên hợp
(syncrétisme) tức là nói rằng qua nghệ thuật ấy, người ta nhận thức
về hiện thực như là một tổng thể chưa bị chia cắt... Khi nói rằng văn
hóa dân gian có tính nguyên hợp, chúng ta hiểu rằng văn hóa dân
gian trong khi phản ánh thế giới, luôn luôn là một nhận thức nguyên
hợp về tổng thể vốn có của thế giới [68, tr.12].
46
Để nghiên cứu một tác phẩm folklore, cần phải phân tích, tách chỉnh
thể nguyên hợp ấy ra thành các thành tố để có thể đi sâu tìm hiểu nội dung
cũng như cấu trúc của từng thành tố, sau đó phải được nâng cao bằng quá
trình tổng hợp. Do đó, Đinh Gia Khánh đã nhấn mạnh: phương pháp tổng hợp
là một phương pháp có tầm quan trọng đặc biệt với folklore học. Đinh Gia
Khánh là một trong những nhà nghiên cứu ở Việt Nam sớm đặt ra tầm quan
trọng của “tính nguyên hợp” trong văn hóa dân gian. Ông nhấn mạnh đây là
vấn đề quan trọng hàng đầu cần lý giải một cách chu đáo thì mới tìm hiểu
được một cách chính xác văn hóa dân gian. Theo Đinh Gia Khánh, khi tìm
hiểu “tính nguyên hợp” của văn hóa dân gian cần xem xét văn hóa dân gian
trên ba bình diện như đã nêu ở trên.
Theo quan điểm của Nguyễn Thụy Loan:
Xét cho cùng thì dường như mọi hiện tượng văn hóa nghệ thuật (cổ
cũng như mới) đều có mối quan hệ với những yếu tố liên đới đa
chiều: chủ thể sáng tạo, hoàn cảnh sáng tạo, môi trường tồn tại,
mục đích, đối tượng phục vụ và thưởng thức, trong một số trường
hợp là mối quan hệ với những thành tố nghệ thuật khác nhau... và
đương nhiên trong đó cũng có sự kế thừa ở những mức độ khác
nhau những thành tựu nghệ thuật của những thời đại khác nhau, của
một số địa phương khác nhau mà nó có mối quan hệ giao lưu trong
quá khứ hoặc trong hiện tại... [79, tr.99].
Quan điểm của Nguyễn Thụy Loan cũng tương đồng với các quan điểm
của Đinh Gia Khánh khi nhấn mạnh đến tính “chỉnh thể nguyên hợp” trong
văn hóa dân gian: “...dường như mọi hiện tượng/ sản phẩm văn hóa nghệ
thuật đều nằm trong một chỉnh thể nguyên hợp của nó mà từ đó chúng nảy
sinh và tồn tại” [79, tr.99]... Tuy nhiên, Nguyễn Thụy Loan đã đề cập một
cách chi tiết, cụ thể hơn từng khía cạnh các yếu tố tạo nên “chỉnh thể nguyên
47
hợp” đó như chủ thể sáng tạo, hoàn cảnh sáng tạo, môi trường tồn tại, mục
đích, đối tượng phục vụ và thưởng thức, trong một số trường hợp là mối quan
hệ với những thành tố nghệ thuật khác nhau... Bên cạnh đó, theo quan điểm
này, tác giả cũng bao quát cả yếu tố thời gian, đó là các sản phẩm văn hóa
nghệ thuật cổ truyền cũng như mới.
Khi nhận xét về nghệ thuật biểu diễn dân gian, Lê Ngọc Canh cho rằng:
Ngược theo dòng lịch sử tiến hóa của loài người, chúng ta thấy
rằng, nghệ thuật biểu diễn dân gian vốn tồn tại từ thời nguyên thủy
và kế tiếp phát triển trong các thời đại sau này. Nó có vai trò quan
trọng trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật. Có thể nói, những động
tác, điệu bộ, tiếng hú, hò reo, nhịp đập, vỗ là những yếu tố của nghệ
thuật biểu diễn đầu tiên của loài người. Nghệ thuật ca, múa, nhạc
“dân gian nguyên thủy” là một trong những thành tố đầu tiên của
văn hóa dân gian. Chúng là những loại hình sáng tạo rất sớm của
loài người và vốn tồn tại trong tính chỉnh thể nguyên hợp của văn
hóa dân gian [22, tr.223].
Từ đây, Lê Ngọc Canh đã nhận định: “Nghệ thuật biểu diễn dân gian thể
hiện rõ nét tính chỉnh thể nguyên hợp của văn hóa dân gian” [22, tr.223].
Quan điểm của Lê Ngọc Canh nhấn mạnh đến yếu tố nghệ thuật biểu diễn
dân gian, một thành tố trong văn hóa dân gian. Tác giả xem xét các hiện tượng văn
hóa nghệ thuật dân gian như những tác phẩm được hội tụ các yếu tố như ca, múa,
nhạc, diễn xướng. Các yếu tố này luôn hòa quyện, kết hợp với nhau trong một
chỉnh thể nguyên hợp không thể tách rời.
1.2.2.2. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng nhìn từ quan điểm về tính nguyên hợp
Tìm hiểu các quan điểm của từng tác giả về “tính nguyên hợp”, chúng
tôi thấy rằng có nhiều cách diễn giải, tiếp cận khác nhau, điều này xuất phát
từ chính đặc điểm của folklore chứa đựng nhiều thành tố. Tuy nhiên, các quan
48
điểm đều thống nhất đó là cần xem xét các hiện tượng folklore trong một
chỉnh thể nguyên hợp. Từ đó, mới lý giải được những vấn đề xung quanh mỗi
hiện tượng văn hóa.
Như chúng tôi đã trình bày, sinh hoạt văn hóa kánh loóng là một hiện
tượng văn hóa nghệ thuật dân gian. Kánh loóng được trình diễn trong các nghi
lễ, lễ hội của người Thái Mai Châu. Vì thế, trong sinh hoạt văn hóa này chứa
đựng các yếu tố về âm nhạc dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian, tín
ngưỡng dân gian. Các yếu tố này đã gộp lại với nhau trong một “chỉnh thể
nguyên hợp”. Nếu tách rời sinh hoạt kánh loóng ra khỏi những nghi lễ thì
không lý giải được ý nghĩa, vai trò của loóng đối với tâm thức của người Thái
Mai Châu trước đây. Họ kánh loóng trong các nghi lễ để giải quyết vấn đề gì?
Tại sao lại gõ loóng mà không phải một nông cụ nào khác?... Tất cả những
câu hỏi này cần phải soi chiếu từ đặc trưng về “tính nguyên hợp” của văn hóa
dân gian thì mới có thể giải thích được. Có nghĩa rằng không chỉ xem xét
kánh loóng đơn thuần ở góc độ âm nhạc mà phải đặt trong bối cảnh cụ thể, đó
là các nghi lễ, tín ngưỡng, từ đó có thể hiểu người Thái Mai Châu quan niệm,
mong ước điều gì qua các nghi thức mang tính tâm linh. Như quan điểm của
Đinh Gia Khánh cho rằng: “việc tiếp cận thẩm mỹ văn hóa dân gian sẽ không
được chính xác nếu không nhận thức đầy đủ về một đặc điểm cơ bản của văn
hóa dân gian là tính nguyên hợp” [68, tr.11].
Chúng tôi nhận thấy cần thiết phải dựa vào các quan điểm về “tính
nguyên hợp” trong văn hóa dân gian để lý giải vấn đề nghiên cứu. Mỗi quan
điểm của các nhà nghiên cứu đi trước nhấn mạnh đến một khía cạnh khác
nhau của từng hiện tượng văn hóa dân gian. Lê Ngọc Canh đề cao yếu tố nghệ
thuật biểu diễn; Tô Đông Hải lại nhấn mạnh đến yếu tố âm nhạc dân gian.
Ngoài ra, có một số quan điểm xem xét các hiện tượng văn hóa ở nhiều chiều
bao hàm các yếu tố cấu thành. Chúng tôi sẽ dựa theo các quan điểm này để có
49
thể làm rõ vai trò của từng thành tố trong hiện tượng văn hóa kánh loóng, mối
liên hệ, tác động qua lại giữa các thành tố đó. Từ đó, sẽ thấy được bản chất,
các vấn đề cốt lõi của sinh hoạt văn hóa kánh loóng.
1.2.2.3. Về biến đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa là một vấn đề từ lâu đã được rất nhiều học giả trên thế
giới và trong nước quan tâm nghiên cứu. Thuyết Truyền bá văn hóa (đại diện
là G.Eliot, Smith 1911, W.Rivers 1914) với luận điểm cho rằng: Biến đổi văn
hóa là sự vay mượn hoặc truyền bá các đặc trưng văn hóa từ xã hội này sang
xã hội khác; Thuyết Vùng văn hóa với đại diện là C.L.Wissler, A.L.Kroeber
đã chỉ ra sự biến đổi văn hóa diễn ra đa chiều và nhiều cấp độ tùy thuộc vào
việc cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi
trường và sự chuyên môn hóa của cộng đồng đó là gì? [27, tr.10] Đặc biệt,
các nhà lý thuyết hiện đại hóa như Ronald Inglehart và Wayne E.Baker trong
công trình Hiện đại hóa, biến đổi văn hóa và duy trì các giá trị truyền thống
[176] đã đưa ra quan điểm: từ Karl Marx tới Daniel Bell đã cho rằng sự phát
triển kinh tế, xã hội sẽ mang tới những biến đổi văn hóa phong phú; sự vượt
trội của các động lực kinh tế, chính trị đã khiến cho văn hóa biến đổi.
Các nhà nghiên cứu ở trong nước cũng có nhiều quan niệm về sự biến
đổi văn hóa. Theo Nguyễn Duy Bắc: “Một cách hiểu rộng nhất, đó là một sự
thay đổi so sánh với một tình trạng văn hóa hoặc một nền văn hóa có trước
dưới tác động của những nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội” [12, tr.36]. Các
nhà nghiên cứu nhân học nói riêng và khoa học xã hội nói chung tương đối
thống nhất ở luận điểm: “sự biến đổi văn hóa là xu hướng tất yếu trong quá
trình toàn cầu hóa và sự biến đổi ấy đã và đang diễn ra rất đa dạng, ở nhiều
cấp độ và theo nhiều chiều hướng khác nhau” [12, tr.77].
Theo quan điểm của Lương Văn Hy về sự thay đổi của người nông dân,
làng quê trong quá trình xây dựng nông thôn mới và chuyển đổi cơ cấu kinh
50
tế, những đổi thay về chính trị, xã hội đến đời sống văn hóa. Tác giả cho rằng:
“Sự cải cách kinh tế, nâng cao đời sống nông dân là nguyên nhân quan trọng
để các lễ nghi được tăng cường, các lễ nghi cũ được khôi phục, các lễ nghi
mới được cập nhật và sáng tạo ...” [62].
Lê Hồng Lý cho rằng: “biến đổi văn hóa là do sự thay đổi chính trị với
những đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã dẫn đến những đổi mới to
lớn về kinh tế và kéo theo nó là văn hóa” [83, tr.371].
Khi bàn về lý thuyết nghiên cứu các giá trị và hệ giá trị tổng quát văn
hóa truyền thống Việt Nam, trong công trình mang tên Bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Ngô
Đức Thịnh đã đề cập đến việc tiếp thu và xây dựng một hệ thống các lý thuyết
về văn hóa và hệ giá trị văn hóa, coi đó như là công cụ phương pháp luận để
nhận thức hệ giá trị văn hóa Việt Nam. Theo tác giả, giá trị văn hóa cũng như
bản sắc văn hóa, hình thành và định hình trong lịch sử, là yếu tố khá bền
vững. Tuy nhiên, các giá trị đó không phải là bất biến, mà luôn biến đổi theo
sự phát triển của xã hội.
Như vậy, quan điểm của các nhà nghiên cứu về biến đổi văn hóa đều
thống nhất đây là xu hướng tất yếu của mỗi nền văn hóa trong bối cảnh toàn
cầu hóa như hiện nay. Dù muốn hay không, chúng ta đều phải chấp nhận nó
như một lẽ tự nhiên. Việc nhận diện những biến đổi, đánh giá các yếu tố tích
cực hay tiêu cực từ sự biến đổi đó là nhiệm vụ quan trọng mà trong luận án
chúng tôi cần giải quyết. Chúng tôi lựa chọn một số luận điểm (hạt nhân hợp
lý) nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa là điểm tựa cho lý luận nghiên cứu của
luận án.
51
1.2.2.4. Biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng nhìn từ quan điểm
về biến đổi văn hóa
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng cũng nằm trong xu hướng biến đổi của văn
hóa với sự chi phối của bối cảnh kinh tế, xã hội theo một quy luật tự nhiên,
nhưng có đặc trưng riêng gắn với trường hợp cụ thể của huyện Mai Châu. Hiện
nay, qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy sinh hoạt văn hóa kánh loóng đã có một
số thay đổi rõ ràng. Bài bản trước đây chỉ dùng trong lễ tang, lễ mừng cơm mới thì
nay được dùng trong việc biểu diễn phục vụ khách du lịch, phục vụ các hội nghị;
Việc diễn tấu kánh loóng trong lễ xên bản, xên mường (lễ hội lớn nhất của người
Thái) ngày nay chỉ còn mang tính hình thức bởi không nghe rõ âm thanh, do ban tổ
chức bật nhạc hiện đại phát trên loa công suất lớn át hết tiếng kánh loóng. Có thể
nhận thấy sinh hoạt văn hóa kánh loóng đã thay đổi cả về không gian diễn tấu,
chức năng, người nghe... Cùng với đó, một số bạn trẻ chưa nắm rõ cách thức
diễn tấu, bài bản kánh loóng nên khi tham gia gõ không đúng.
Vận dụng các quan điểm về biến đổi văn hóa, chúng tôi nhận thấy phù
hợp với trường hợp sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu,
đặc biệt trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang chuyển đổi từ xã hội truyền
thống sang xã hội hiện đại, trong xu hướng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Áp dụng quan điểm này giúp
chúng tôi nhận diện sự biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người
Thái Mai Châu. Điều đó cho chúng ta có cái nhìn hoàn chỉnh hơn về tính đa
dạng và sự tồn tại đan xen, hỗn dung của những yếu tố cũ và mới trong hiện
tượng văn hóa này từ truyền thống đến hiện đại.
Những luận điểm trên của các học giả là cơ sở để chúng tôi tiếp cận
nghiên cứu sự biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái
Mai Châu. Từ đó, có thể nhận biết được sự thay đổi của sinh hoạt văn hóa
kánh loóng, vai trò của kánh loóng trong đời sống người Thái hiện nay như
52
thế nào? Sự thay đổi bắt đầu từ khi nào? Những yếu tố nào tác động đến sự
biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng, nguyên nhân và xu hướng biến đổi...
Khi đề cập đến vấn đề biến đổi văn hóa, NCS quan tâm đến lý luận cho rằng
biến đổi văn hóa cần được nghiên cứu trong bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị và xã
hội cụ thể, trong những tương tác giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, giữa trong
nước và quốc tế. Luận án nghiên cứu tổng thể sinh hoạt văn hóa kánh loóng của
người Thái Mai Châu, trong đó làm rõ những vấn đề về sự biến đổi của hình thức
sinh hoạt văn hóa này xét trong bối cảnh huyện Mai Châu phát triển kinh tế du lịch.
Do vậy, NCS xác định, lựa chọn hạt nhân hợp lý trong những quan điểm về biến
đổi văn hóa để triển khai nghiên cứu của luận án này là: Sự biến đổi văn hóa dưới
tác động của quá trình phát triển kinh tế, cụ thể ở đây là sự phát triển hoạt động
kinh tế du lịch.
Áp dụng cơ sở lý luận trên vào nghiên cứu sinh hoạt văn hóa kánh loóng của
người Thái Mai Châu, NCS đưa ra sơ đồ khung phân tích cụ thể như sau:
Sơ đồ 1.1. Khung phân tích
53
1.3. Khái quát về người Thái Mai Châu
1.3.1. Lịch sử tộc người và địa bàn cư trú
Người Thái tại tỉnh Hòa Bình chủ yếu sinh sống ở huyện Mai Châu,
chiếm 95,15% tổng số người Thái trong toàn tỉnh. Theo Nguyễn Thị Thanh
Nga, người Thái Mai Châu là tộc người được hình thành từ một nhóm Thái
Trắng nơi đầu nguồn sông Hồng (vùng đất Mường Hước Pước Khà thuộc
huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai ngày nay) di cư đến Hòa Bình và chọn mảnh đất
Mai Châu làm nơi dừng chân lập nghiệp. Đến nay, thời gian họ định cư ở Mai
Châu đã được hơn 600 năm. Đây cũng là thời gian các nhóm Thái ở vùng
biên giới Việt - Hoa biến động và tìm cách tràn xuống vùng Tây Bắc trong đó
có Hoà Bình, rồi tràn sang Trung Lào và Hạ Lào.
Về môi trường cảnh quan nơi cư trú, Mai Châu là một trong 9 huyện
miền núi của tỉnh Hòa Bình. Phía đông huyện Mai Châu tiếp giáp các huyện
Tân Lạc và Đà Bắc (Hòa Bình), phía nam giáp huyện Quan Hóa (Thanh Hóa)
và phía bắc giáp huyện Mộc Châu (Sơn La). Theo số liệu thống kê năm 2015,
huyện Mai Châu có tổng diện tích tự nhiên là 57.127,98 ha; dân số 54.537
người.Từ thời xưa, Mai Châu đã từng được coi là ngã ba đường tỏa đi nhiều
nơi. Từ đây, theo quốc lộ 6 ngược lên Tây Bắc, xuôi theo sông Mã xuống
Biển Đông hoặc ngược dòng sông Mã sang tỉnh Hủa Phăn (Lào), cũng từ đây
có thể xuôi về Châu thổ sông Hồng... Vì thế, Mai Châu là vùng đất sớm giao
lưu văn hóa với miền núi và miền xuôi, giao lưu với nước bạn Lào. Điều đó
đã tạo cho Mai Châu có sắc thái văn hóa riêng so với các vùng khác ở Việt Nam.
Cảnh quan môi trường ở Mai Châu rất đẹp, với núi non hùng vĩ, thảm
rừng được bảo vệ luôn giữ màu xanh tươi. Ngoài ra, Mai Châu từ lâu đã nổi
tiếng với những di tích, danh thắng, là điểm thu hút đông đảo khách du lịch
như: hang Khoài, hang Láng, hang Chiều, hang Bộ Đội, bản Lác (Chiềng
Châu), bản Bước (Xăm Khòe), xóm Hang Kia (Hang Kia)...Vì vậy, Mai Châu
từ lâu đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
54
Theo số liệu được công bố trên Trang Thông tin điện tử huyện Mai Châu,
năm 2016, dân số huyện Mai Châu khoảng trên 55.000 người. Trong đó, người
Thái chiếm đa số gần 60%, người Mường chiếm 14,05%, người Kinh chiếm
14,01%, người Mông chiếm 9,6%, người Dao chiếm 2,02%, còn lại là đồng
bào các dân tộc khác chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Sự cộng cư này tạo nên một diện
mạo đa dạng, sinh động, đặc sắc cho nền văn hóa thung lũng Mai Châu nói
chung và văn hóa Thái Mai Châu nói riêng. Ngoài thị trấn Mai Châu tập trung
đông dân cư, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của huyện, hiện nay ở
huyện cũng đã hình thành những tụ điểm dân cư theo hướng đô thị hóa như:
Co Lương (Vạn Mai), Đồng Bảng (Đồng Bảng)..., những khu dân cư này
phân bố chủ yếu dọc theo quốc lộ 15; đây là những hạt nhân làm chuyển biến
tích cực cho kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Mai Châu.
1.3.2. Đời sống kinh tế
Dựa vào những đặc điểm về tự nhiên, địa vực cư trú, tập quán và kỹ
thuật sản xuất thì kinh tế trồng trọt là yếu tố quyết định sự tồn tại xã hội cổ
truyền của người Thái Mai Châu. Người Thái là một trong những cư dân biết
làm ruộng nước sớm ở Đông Nam Á. Họ đã đạt trình độ cao trong kỹ thuật
sản xuất lúa nước, như cách dẫn nước vào ruộng, cách thức khai khẩn đất đai
và cơ cấu các loại cây trồng thích hợp. Cũng giống như các nhóm Thái khác,
người Thái Mai Châu sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Mọi hoạt động
sản xuất đều xoay quanh việc làm ra thóc gạo.
Hiện nay, Mai Châu đang thực hiện các giải pháp đột phá để đẩy mạnh
phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Khai thác tiềm năng để phát triển du lịch
sinh thái, văn hóa. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; khuyến khích các thành phần kinh
tế phát triển.
55
Theo số liệu kinh tế, xã hội được đăng trên Trang Thông tin điện tử
huyện Mai Châu, ngành chăn nuôi ở Mai Châu chủ yếu phát triển theo quy
mô hộ gia đình. Các loại gia súc thường được nuôi là trâu, bò, lợn theo
phương thức chăn thả tự nhiên ở các bãi cỏ hoặc dưới tán rừng là chính. Năm
2015, tổng đàn gia súc của huyện đạt 39.444 con, đàn gia cầm đạt 187.532
con; sản xuất nuôi trồng thủy sản tương đối ổn định, tổng diện tích ao hồ nuôi
trồng thủy sản toàn huyện đạt 75,22 ha, nuôi ca lồng đạt 330 lồng, sản lượng
thủy sản khai thác đạt 118,5 tấn. Hình thành các mô hình chăn nuôi như: nuôi
gà thả vườn, nuôi cá ao, nuôi bò, nuôi lợn sinh sản… Cho đến nay, huyện Mai
Châu luôn duy trì số cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn.
Các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp không ngừng mở rộng về quy
mô sản xuất, tăng sản lượng các mặt hàng. Toàn huyện có 637 cơ sở sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đã tiêu thụ khối lượng lớn nguồn nguyên
vật liệu của địa phương, giải quyết việc làm tại chỗ, góp phần tăng thu nhập
cho 2.376 lao động.
Hiện nay, những giá trị trong văn hóa Thái đã góp phần mạnh mẽ thúc
đẩy phát triển kinh tế du lịch tại huyện Mai Châu. Du khách đến với Mai
Châu có thể thưởng thức những ẩm thực rất hấp dẫn của người Thái như thịt
nướng, cá đồ chua, cơm lam...; du khách được sống trong không gian lễ hội,
nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật độc đáo như múa xòe, nhảy sạp,
hát đối đáp, thổi khèn bè, kánh loóng, uống rượu cần...
Du lịch được coi là thế mạnh của huyện Mai Châu với một số địa danh
du lịch văn hoá nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả đối với du khách
nước ngoài như bản Lác (Chiềng Châu), bản Củm (Vạn Mai), bản Pom
Coọng (thị trấn Mai Châu)... Huyện Mai Châu hiện có 119 nhà nghỉ từ khách
sạn 3 sao cho tới homestay. Hiện tại huyện đã thu hút được một số nhà đầu tư
vào các dự án như Mai Châu Ecolodge, Sol Bungalows... và đang có một vài
56
dự án du lịch sinh thái được triển khai tại xã Tân Mai, xã Noong Luông với
tổng mức đầu tư hàng chục tỷ đồng; khi hoàn thành hứa hẹn đây sẽ là điểm
đến hấp dẫn cho du khách trong nước và quốc tế với địa thế đẹp, hấp dẫn.
Với 800 ha diện tích mặt nước, hồ sông Đà là một danh lam thắng cảnh
đẹp, có thể thu hút nhiều khách du lịch đến với Mai Châu. Phát huy thế mạnh
tiềm năng về du lịch làng nghề, Ủy ban nhân dân huyện đã quan tâm chỉ đạo
công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, thường xuyên tăng cường
công tác xúc tiến đầu tư, quảng bá hình ảnh về văn hoá, bản sắc dân tộc, huy
động nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng dịch vụ du
lịch trên địa bàn. Ủy ban nhân dân huyện đã xây dựng Đề án Phát triển du lịch
huyện Mai Châu giai đoạn 2015-2020, tầm nhìn 2030; triển khai thực hiện
công trình hạ tầng du lịch huyện Mai Châu với tổng mức đầu tư 40 tỷ đồng
nhằm củng cố, tăng cường khai thác các tiềm năng về du lịch. Trong 6 tháng
đầu năm 2016 huyện Mai Châu đã đón 145.890 lượt khách đến tham quan, du
lịch, trong đó khách quốc tế là 46.163 lượt người, tổng doanh thu đạt trên 36
tỷ đồng.
1.3.3. Đời sống tâm linh
Về tín ngưỡng, tôn giáo, người Thái không theo một tôn giáo cụ thể
nào, mặc dù văn hóa của họ ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo. Tín ngưỡng dân
gian của người Thái gắn với quan niệm vạn vật hữu linh: mỗi ngôi nhà, bờ
suối, gốc cây, hòn đá, cánh rừng, các đồ vật xung quanh... đều có hồn ngụ ở đó
và chịu sự cai quản của then Luông. Quan niệm của người Thái cũng cho rằng
có hai thế giới song song tồn tại là Mường người và Mường trời. Mường
người là thế giới thực mà người Thái đang sinh sống. Mường trời là vùng
rộng lớn của cõi trời, nơi ở của các Then, trong đó Then Luông là Then đứng
đầu Mường trời.
57
Phong tục
Về đám cưới, người Thái ít bị ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo như người
Việt nên trong xã hội Thái, luôn khuyến khích việc trai gái đi lại làm quen với
nhau. Sau khi chọn được bạn đời, đôi nam nữ báo hai bên gia đình làm quen.
Việc hai gia đình đi lại phải nhờ vai trò của ông mối. Để tiến hành cưới phải
qua các bước như Đi dạm tiếng, Đi dạm hỏi, Xin ngày cưới... Trong ngày cưới,
có nhiều thủ tục như Nhà trai phải mang đồ sang nhà gái làm bữa cơm xin
dâu, Trong ngày xin dâu nhà trai phải chú trọng vai trò của ông cậu (lúng ta)
của cô gái... Xong phần lễ, các thành viên nhà trai, nhà gái vào mâm cơm, vui
uống rượu cần, cùng nhau hát khắp chúc mừng. Sau đó là cuộc hát đố thi tài,
tạo nên không khí vui vẻ, sinh động cho ngày cưới. Xưa kia, sau khi cưới,
chàng trai phải về ở rể nhà gái từ một đến ba năm. Tập quán này khẳng định sự
tôn trọng gia đình nhà gái của gia đình nhà trai trong xã hội Thái thời trước.
Về Tang lễ, người Thái xưa kia, khi gia đình có người mất, tang lễ
được tiến hành qua các bước sau: Lễ tắm xác, lễ liệm, lễ nhập quan, tạ ơn
công cha mẹ, lễ chính, lễ đưa tang, lễ đưa cơm cuối cùng, lễ rửa nhà. Trong
phần lễ chính, ông mo kể lai lịch người chết, nói với linh hồn người chết hãy
nhận lấy thức ăn, đồ dùng, công cụ sản xuất để mang về “mường ma” làm vốn
liếng. Khi đưa tang, trống chiêng, gõ máng (loóng) để mở đường.
Các nghi lễ nông nghiệp
Lễ xên bản xên mường: Xên trong tiếng Thái nghĩa là cúng. Xên bản
xên mường nghĩa là cúng bản cúng mường với mục đích cầu phúc cho bản
mường. Trước kia, ở Mai Châu, cứ hai năm người ta lại tổ chức hội Xên bản
một lần, năm thứ ba sau đó, hội Xên mường sẽ được tổ chức. Hội Xên bản là
ngày hội của mọi người dân sinh sống trong bản, đó cũng là một lễ nghi nông
nghiệp cầu cho mùa màng tốt tươi. Người ta cúng cầu thần phù hộ và xua
đuổi thần trùng. Trước ngày tổ chức hội Xên bản, dân bản cử người đến quét
58
dọn, sửa sang lại các miếu thờ công cộng và dọn vệ sinh chung trong bản,
thậm chí ở ngoài đồng ruộng, họ cũng tiến hành dọn dẹp sạch cỏ, đắp bờ cho
vuông vắn, đẹp đẽ.
Lễ cơm mới (khau mờ): Theo Nguyễn Hữu Thức, trước năm 1945,
người Thái Mai Châu không ăn Tết Nguyên đán như người Việt, mà họ tổ
chức một lễ nghi lớn gọi là lễ cơm mới (khau mờ). Lễ cơm mới mỗi năm
được tổ chức một lần trong khoảng thời gian từ tháng Chạp đến tháng ba (tức
là kết thúc vụ mùa đến mở đầu mùa làm rẫy). Ngày tổ chức lễ cơm mới
không thống nhất chung cho các gia đình người Thái mà tùy thuộc vào
hoàn cảnh của người được cắt cử làm lễ. Sau khi chuẩn bị chu đáo mọi mặt
gia chủ chọn ngày lành tháng tốt để làm [110, tr.117]. Ngày làm lễ cơm mới
là niềm vui của cả cộng đồng dòng họ sống trong bản, trong mường, nhưng
trách nhiệm lớn lao, vinh hạnh hơn cả là cô con dâu trong gia đình đăng cai
làm lễ.
Khi miêu tả về lễ Kin kháu mờ (Ăn cơm mới) của người Thái Mai
Châu, Lường Song Toàn viết:
Bắt đầu phần lễ thì ông mo hướng dẫn cho các nàng dâu trong nhà,
mặc áo, váy lễ (thường mặc khi có đám tang), đầu chít khăn đen
nhuộm chàm, vai đeo túi thiêng, dùng một cái mẹt hoặc cái sàng lấy
lúa đang phơi ở gác bếp đem xuống máng thường dùng để giã lúa gọi
là “Lóong”, giã xong rồi thì giã bằng cối giã đạp bằng chân sau đó
sảy thành gạo rồi đem về nhà ngâm. Đây là nghi thức tượng trưng,
thực ra mọi thứ đã được chuẩn bị từ trước rồi [144, tr.155].
Các cô con dâu phải đảm nhiệm nhiều phần việc quan trọng của ngày tổ
chức lễ cơm mới như giã gạo, đồ xôi… Lễ cơm mới là ngày vui chơi giải trí.
Có nhiều trò chơi được tổ chức như đánh lẻ, đánh khăng, đánh quay… Đặc
biệt, những người phụ nữ Thái Mai Châu còn chơi đánh máng (gõ loóng). Lễ
59
cơm mới chỉ diễn ra trong một ngày một đêm và bó hẹp trong một dòng họ
nhưng đó là niềm vui trọn vẹn của mọi nhà sau một năm làm ăn vất vả để
nghỉ ngơi vui chơi, chế biến sản phẩm nông nghiệp, tỏ lòng thành kính với
tổ tiên. “Ngày ấy là khoảng khắc giao cảm của mùa cũ và mùa mới, giao
cảm giữa trời và đất, giao cảm giữa cõi sống và cõi chết” [111, tr.122].
Hiện nay trong đời sống xã hội Mai Châu, lễ cơm mới và tết đón mừng
xuân mới đã nhập với nhau làm một.
Ngoài ra, người Thái Mai Châu còn có nhiều nghi lễ liên quan đến
nông nghiệp như lễ cúng ruộng (xên ná), lễ cúng nương (xên háy)…
1.3.4. Lễ hội dân gian
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng không thể thiếu đối
với mỗi dân tộc. Vào mùa xuân, những lúc nông nhàn, đồng bào lại tổ chức lễ
hội để thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh. Người Thái Mai Châu cũng vậy,
những sinh hoạt lễ hội tồn tại từ rất lâu đời đã trở thành tập tục của đồng bào.
Tiêu biểu như Lễ hội chá chiêng, lễ trồng cột mường (tọc đắc mường), lễ
uống rượu cần đoán số (í khặc í khì), lễ vỗ gọi nàng trong sọt (tộp nàng
đúng), lễ nhóm lửa (khíp phày), hội cầu mưa...
Về lễ chá chiêng, trong các lễ hội của người Thái Mai Châu, chá
chiêng là một nghi lễ rất độc đáo. Theo Võ Thị Thường1 khi tìm hiểu về lễ
chá chiêng của người Thái Mai Châu đã cho rằng, đây là lễ quan trọng nhất
của người hành nghề Mùn. Các ông Mùn là đệ tử của các Phi mùn (thần linh,
tổ tiên, ma…). Sau một thời gian thực hành chữa bệnh cho mọi người, ông
Mùn tổ chức lễ chá chiêng để tạ ơn Phi mùn và các lực lượng siêu nhiên phù
trợ. Chá chiêng thường được tổ chức ba hay bốn năm một lần vào mùa xuân.
1 Võ Thị Thường (2002), Lễ “Cha chiêng” của người Thái Mai Châu, Hòa Bình, In trong sách Văn hóa và lịch sử các
dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.583 – 595.
60
Dân làng đến dự phải mang theo gạo, rượu… để góp vào bữa liên hoan
chung. Đồng thời, thông qua ông Mùn, những người đến dự muốn tạ ơn Phi
mùn đã chữa khỏi bệnh cho họ. Đặc trưng của lễ chá chiêng là tính chất “hội”
của nghi lễ. Khó có thể tách bạch rạch ròi giữa phần “lễ” và “hội”. Trong
phần “hội”, luôn nhộn nhịp trong tiếng chày gõ vào máng giã lúa. Họ múa,
hát, uống rượu cần, cứ thế cho đến hết đêm.
Lễ hội cầu mưa được tổ chức theo từng bản vào khoảng tháng ba,
tháng tư khi thời tiết khô hạn và diễn ra trong những đêm trăng có quầng
đỏ, quầng vàng, điềm báo đại hạn. Tham gia dự hội là tất cả dân bản
nhưng đông vui nhất là nam nữ thanh niên. Họ mặc áo mưa, đội mũ nón đi
thành từng đoàn vừa đi vừa hát bài “cầu mưa xuống”, còn tầng lớp trung
niên và người già ở tại nhà sàn đón tiếp. Đoàn người kéo nhau đi xung
quanh bản, vào từng nhà và ngôi nhà đầu tiên mà họ đến là nhà có người
già cao tuổi nhất. Sau khi đi khắp lượt các nhà trong bản, đoàn trở về nơi
xuất phát, châm đuốc diễu hành qua bản một vòng sau đó đi ra suối chia
thành từng tốp nam nữ đối mặt nhau thi tát “nước vàng”, “nước bạc” vào
người. Khi ai nấy ướt sũng, lạnh cóng mới chịu trở về nhà. Vào dịp tổ
chức hội cầu mưa, hầu như mọi sinh hoạt của người dân đều hướng vào
việc cầu mưa. Trai gái yêu nhau cũng tạm gác lại những lời hát tỏ tình,
giao duyên giành lời ao ước cho hạt mưa rơi xuống.
1.3.5. Văn nghệ dân gian
Người Thái Mai Châu có vốn văn học nghệ thuật rất phong phú và
đặc sắc. Họ là chủ nhân của kho tàng văn học dân gian với các bộ sử thi
hàng ngàn trang như “ẳm ệt luông”, “ẳm ệt nọi”, mo “khay, phác, phạ”
(mở họng trời), những tác phẩm cổ viết về phong tục, luân lý, truyện kể và
các thể loại văn học dân gian như tục ngữ, truyện thơ, truyện cổ tích,
truyện ngụ ngôn...
61
Về âm nhạc dân gian, người Thái Mai Châu có vốn dân ca rất đa
dạng và phong phú với nhiều thể loại như: mo, khắp, pháng, sắng, xềnh,
sươn... Ngoài ra còn có các bài hát gắn với phong tục như hát cầu mưa,
hát mừng đám cưới, hát hỏi vợ...; những bài hát gắn với cuộc sống sinh
hoạt của người dân như hát vui gây cười, hát ru, hát đố, hát đồng dao...
Hệ thống nhạc cụ của người Thái Mai Châu cũng rất độc đáo như:
trống, chiêng, loóng, tính tẩu, khèn bè, các loại pí (sáo Thái)...
Người Thái Mai Châu còn rất nổi tiếng với nghệ thuật múa Xòe.
Ngoài những đặc điểm chung của Xòe giống như các khu vực Thái khác,
Xòe của người Thái Mai Châu còn có nhiều nét riêng như sự duyên dáng,
khoẻ khoắn, có tính địa phương: xòe ống bổng dành cho đàn ông mừng
thắng lợi sau mỗi cuộc đi săn; xòe chá, xòe vòng với những nét mềm mại,
trữ tình gây cảm xúc mạnh mẽ tới người xem. Từ xòe vòng, người ta nâng
cao thành những điệu xòe hấp dẫn như: xòe khăn, xòe hoa, xòe trống
chiêng... Ngoài ra, còn có các loại xòe đơn lẻ như: xòe đánh máng, xòe
đánh trống, xòe đánh chiêng, xòe kiếm...
Tiểu kết
Trong chương 1, chúng tôi đã đề cập đến những vấn đề tổng quan tình hình
nghiên cứu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng, cơ sở lý luận và khái quát về người
Thái Mai Châu Hòa Bình.
Sau thời gian thu thập tư liệu và đọc gần như toàn bộ các văn bản liên
quan, chúng tôi sơ bộ có một số nhận xét về sinh hoạt văn hóa kánh loóng.
Những nhận xét đó nhằm làm rõ diện mạo chân thực về sinh hoạt văn hóa
kánh loóng, đồng thời tìm ra những khoảng trống trong các nghiên cứu đi
trước để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu sâu, đa chiều hơn trong luận án này.
Về mặt cơ sở lý luận, chúng tôi làm rõ một số khái niệm về văn hóa,
văn hóa học và thuật ngữ “kánh loóng”. Đồng thời, chúng tôi sẽ dựa theo các
62
quan điểm về “tính nguyên hợp” trong văn hóa dân gian để có thể làm rõ vai
trò của từng thành tố trong hiện tượng văn hóa kánh loóng và mối liên hệ, tác
động qua lại giữa các thành tố. Từ đó, sẽ thấy được bản chất cốt lõi của sinh
hoạt văn hóa kánh loóng. Cùng với đó, luận án dựa theo các quan điểm về
“biến đổi văn hóa”. Đây là cơ sở để chúng tôi tiếp cận nghiên cứu những biến
đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu. Qua đó, sẽ
nhận biết được sự biến đổi, vai trò của kánh loóng trong đời sống người Thái
hiện nay như thế nào? Thời điểm bắt đầu sự thay đổi? Những yếu tố tác động
đến sự biến đổi trong sinh hoạt kánh loóng, nguyên nhân và xu hướng biến đổi.
Giới thiệu về người Thái Mai Châu Hòa Bình, chúng tôi điểm qua các
mặt trong đời sống của họ bao gồm các vấn đề như lịch sử tộc người, địa bàn
cư trú, đời sống kinh tế, cơ cấu xã hội truyền thống, đời sống tâm linh, lễ hội
dân gian. Trong đó, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến đời sống tâm linh, lễ
hội dân gian của người Thái Mai Châu bởi những vấn đề này liên quan chặt
chẽ đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng. Ngoài ra, chúng tôi cũng làm rõ yếu tố
phát triển kinh tế du lịch tại huyện Mai Châu. Đây chính là nguyên nhân chủ
yếu tác động đến văn hóa truyền thống của người Thái nói chung và sinh hoạt
văn hóa kánh loóng nói riêng.
63
Chương 2
SINH HOẠT VĂN HÓA KÁNH LOÓNG
2.1. Khảo tả về loóng
2.1.1. Chất liệu làm loóng
Loóng là loại công cụ được làm bằng nguyên liệu có sẵn ở trong rừng. Để
làm được một cái loóng tốt và bền, người Thái phải tìm những cây gỗ to, nhiều năm
tuổi, đủ độ già. Loóng phải đảm bảo cứng, chắc, khi gõ vào phải có tiếng vang xa,
không bị mối mọt để khi gõ không bị vỡ và sử dụng được lâu dài.
Người Thái Mai Châu thường chọn gỗ vàng tâm, lát, nhãn rừng, xâng… để
làm loóng. Theo anh Hà Công Quân [PL 4,1, tr.190], gỗ vàng tâm có đặc điểm
ít bị mòn, trơn như được đánh bóng, càng giã lại càng bóng, không bị nứt nẻ
mối mọt. Còn ông Khà Văn Tiến [PL 4, 2, tr.190] ở bản Nà Phòn cho biết, gỗ
lát có thớ chồng chéo, bùng nhùng, vì thế bền, chắc, không bị nứt, vỡ. Ngoài
ra, gỗ lát còn rất mịn. Khi gõ chày vào tạo ra tiếng kêu to, giòn, vang. Những
loại gỗ này rất phù hợp để làm loóng.
Hầu hết những chiếc loóng còn lại đến nay ở Mai Châu đều đã được
làm cách đây từ 30 đến 40 năm, thậm chí lâu hơn nữa như loóng của gia đình
ông Hà Văn Cấp (70 tuổi) ở bản Bước, xã Xăm Khòe được làm bằng gỗ lát từ năm
1940 [ảnh 17, PL 8, tr.204]. Hoặc như loóng của bản Pom Coọng, theo ông Hà
Công Nhôi [PL 4, 2, tr.190] cho biết là được làm bằng gỗ xâng từ năm 1955
[ảnh 15, PL 8, tr.204]. Đã rất lâu rồi không có người Thái nào lên rừng tìm gỗ
để làm loóng mới. Bởi ngày nay rất khó tìm được gỗ tốt như xưa, hoặc nếu có thì
cũng không được tự do chặt cây để làm loóng. Vì thế, những chiếc loóng còn tồn tại
đến nay mà vẫn thường xuyên được sử dụng là những chiếc có chất gỗ rất tốt. Trải
qua khoảng thời gian dài, chịu sự tác động của thời tiết, mối mọt và cả sự tác động
của quá trình lao động mà vẫn bền, đẹp, chắc chắn.
64
2.1.2. Cấu tạo loóng
Người ta dùng một cây gỗ to, chặt khúc và khoét rỗng lòng để làm
loóng. Loóng là một cái máng với chiều dài không có một quy định cụ thể nào
mà phụ thuộc vào chiều dài và đường kính của cây gỗ, nếu cây gỗ dài thì làm
dài mà nếu cây gỗ ngắn thì làm ngắn. Hoặc do điều kiện kinh tế, số lượng
người trong mỗi gia đình mà người Thái làm cái loóng to hay nhỏ để đáp ứng
được việc giã gạo cho đủ ăn. Tiến hành khảo sát, đo đạc chi tiết loóng của
một số gia đình tại Mai Châu có kết quả theo bảng sau:
Bảng 2.1: Số đo chi tiết của ba chiếc loóng tại địa bàn nghiên cứu
Các chi tiết của loóng Loóng của
bản Văn
Loóng nhà ông
Vì Văn Cường
(bản Lác 2)
Loóng của
bản Pom
Coọng
Phía ngoài loóng
Chiều dài
Chiều dài (Phần đầu có cối nhỏ giã gạo)
Chiều cao (Phần đầu loóng)
Chiều cao (Phần giữa loóng)
Chiều cao (Phần đuôi loóng)
Chiều rộng (Phần đầu loóng)
Chiều rộng (Phần giữa loóng)
Chiều rộng (Phần đuôi loóng)
Chiều rộng đáy (Phần đầu loóng)
Chiều rộng đáy (Phần giữa loóng)
Chiều rộng đáy (Phần đuôi loóng)
2,78m
0,72m
0,35m
0,33m
0,32m
0,53m
0,37m
0,35m
0,27m
0,22m
0,22m
2,93m
0,70m
0,39m
0,36m
0,38m
0,45m
0,31m
0,33m
0,09m
0,10m
0,09m
3,47m
0,80m
0,35m
0,39m
0,38m
0,52m
0,39m
0,32m
0,08m
0,09m
0,09m
Trong lòng loóng
Chiều dài miệng
Chiều rộng miệng (Phần đầu loóng)
Chiều rộng miệng (Phần giữa loóng)
Chiều rộng miệng (Phần đuôi loóng)
Độ sâu lòng (Phần đầu loóng)
Độ sâu lòng (Phần giữa loóng)
1,8m
0,27m
0,27m
0,27m
0,22m
0,27m
2,05m
0,25m
0,23m
0,23m
0,22m
0,22m
2,34m
0,29m
0,28m
0,23m
0,27m
0,27m
65
Độ sâu lòng (Phần đuôi loóng)
Độ dày thành
0,25m
0,05m
0,23m
0,05m
0,24m
0,06m
Cối tròn (Phần đầu loóng)
Đường kính
Chiều sâu
0,16m
0,14m
Không có 0,16m
0,12m
Chày
Chiều dài
Đường kính đầu chày
Chiều dài chỗ tay cầm (Được khoét
nhỏ hơn hai đầu chày)
1,3m
0,04cm
0,12m
1,3m
0,05m
0,10m
1,27m
0,03m
0,09m
Chúng tôi xin minh họa bằng 2 hình vẽ dưới đây:
Hình 2.1: Loóng của bản Văn
67
Qua việc đo đạc cụ thể như trên, chúng tôi thấy rằng các chỉ số của 3
chiếc loóng là xấp xỉ nhau. Số đo khác biệt đáng kể nhất là độ dài tổng thể
của loóng, nhưng độ chênh lệch không lớn. Chi tiết này có lẽ phụ thuộc vào
nhu cầu riêng của từng gia đình. Nếu gia đình nào đông người, cần nhiều gạo
ăn thì người ta phải làm loóng dài hơn để giã được nhiều gạo.
Ngoại trừ chiều dài của loóng có sự chênh lệch rõ nhất, các số đo khác
của 3 chiếc loóng gần như tương đương nhau. Ví dụ như độ dày thành có số
đo lần lượt của 03 chiếc loóng là 0,05m – 0,05m – 0,06m; Độ sâu lòng (Phần
đầu loóng): 0,22m – 0,22m – 0,27m; Chiều cao phía ngoài (Phần đầu loóng):
0,35m – 0,39m – 0,35m;... Các số đo khá tương đương nhau giữa 3 chiếc loóng cho
thấy dường như có một kinh nghiệm chung trong cách chế tác loóng của người
Thái Mai Châu. Trải qua thời gian rất dài sử dụng, người Thái đã đúc kết được cách
chế tác loóng phù hợp với công việc lao động của họ.
Nhìn bề ngoài loóng hơi giống hình một con thuyền độc mộc. Phần
được khoét rỗng trong lòng theo kiểu bé dần tính từ miệng đi xuống đáy của
loóng. Tuy nhiên, chiều rộng ở miệng loóng lại khá đều nhau. Chiều rộng của
đáy loóng lại rất hẹp. Vì thế, nếu nhìn ở phần đầu của loóng, chúng ta sẽ thấy
từ mặt trên đi xuống đáy được làm theo kiểu như hình tam giác với cạnh đáy
chính là mặt trên của loóng. Chiều cao phía ngoài của loóng cũng được làm
ngắn dần. Độ sâu của lòng có hơi hướng sâu dần tính từ đầu đến đuôi loóng.
Việc người Thái làm loóng bé dần và sâu dần tính từ đầu đến đuôi loóng giúp
cho việc giã lúa được tiện lợi hơn. Tức là khi giã lúa, hạt thóc sẽ dồn dần về
phía cuối của loóng. Ở phần đầu của loóng, người Thái để chiều rộng lớn hơn
thân loóng. Trên mặt của phần đầu có khoét một lỗ nhỏ để làm cối giã gạo.
Chiều rộng phía ngoài của loóng được làm bé dần tính từ đầu loóng. Với chức
năng là công cụ lao động, loóng càng dài thì năng suất lao động càng cao vì
giã được nhiều lúa.
68
Khi chế tác loóng, có lẽ người Thái Mai Châu chỉ tính làm sao tạo ra
một nông cụ bền chắc phục vụ việc giã lúa. Có một điều rất ngẫu nhiên, nông
cụ đó lại trở thành nhạc cụ với những đặc trưng như kêu vang, khỏe, chắc, có
các loại âm khác nhau... Từ chất liệu gỗ cho đến cấu tạo hợp lý đã giúp cho
những chiếc loóng trở nên bền chắc qua thời gian.
2.2. Hai giai đoạn sinh hoạt văn hóa kánh loóng (1954 – 1992 và
1993 – 2017)
2.2.1. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng giai đoạn 1954 – 1992
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng gắn với đời sống người Thái Mai Châu từ
rất lâu đời. Người Thái là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nên loóng gắn
liền với quá trình sản xuất nông nghiệp của họ từ sớm. Việc xác định những
đặc trưng, biểu hiện sinh hoạt văn hóa kánh loóng trong xã hội cổ xưa của
người Thái là rất khó khăn, cần nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Vì thế, luận án
lựa chọn giai đoạn lịch sử của người Thái Mai Châu đó là từ năm 1954 đến
1992 để nghiên cứu về hình thức sinh hoạt văn hóa này. Năm 1954, miền Bắc
hoàn toàn giải phóng sau giai đoạn đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp. Người
Thái Mai Châu cùng với nhân dân toàn miền Bắc tích cực sản xuất, xây dựng
quê hương, đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh. Tuy rằng giai đoạn này,
miền Bắc vẫn phải làm hậu phương chi viện cho chiến trường miền Nam tiếp
tục đánh đuổi đế quốc Mĩ xâm lược cùng với nhiều sự kiện lịch sử của đất
nước, nhưng về cơ bản, người Thái Mai Châu vẫn giữ được nếp sinh hoạt văn
hóa cổ truyền trong đời sống của họ. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng được diễn
ra phổ biến trong đời sống của người Thái Mai Châu giai đoạn này. Từ những
hoạt động sản xuất nông nghiệp cho đến các nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục,
đều ít nhiều có sử dụng loóng. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều người Thái cao
tuổi hiện nay lữu giữ được nhiều thông tin. Chúng tôi sẽ tìm hiểu, làm rõ các
mặt liên quan đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng trong giai đoạn này.
69
2.2.1.1. Quan niệm của người Thái Mai Châu về sinh hoạt văn hóa
kánh loóng
Trước đây, loóng là một nông cụ rất quan trọng trong đời sống đồng
bào dân tộc Thái nói chung và người Thái Mai Châu nói riêng. Tùy điều kiện
kinh tế mà mỗi gia đình có thể sở hữu từ 1 đến 2 chiếc loóng. Là cư dân sống
chủ yếu dựa vào trồng lúa nước nên vai trò của loóng trong mỗi gia đình
người Thái là rất cần thiết. Sau khi thu hoạch lúa về, người Thái tích trữ ở
trên sàn nhà. Đến khi cần có gạo nấu cơm, họ mang lúa cho vào máng giã
thành gạo. Loóng thường được để ở gầm nhà sàn, nơi thuận tiện cho việc giã
lúa. Đồng thời, để loóng ở đó sẽ tránh bị mưa nắng làm hư hỏng. Có thể nói,
loóng là một trong những nông cụ quan trọng nhất trong đời sống của người
Thái trước đây.
Có một chuyện kể rất phổ biến trong cộng đồng người Thái Mai Châu
liên quan đến loóng, đó là chuyện Ếch ăn trăng (Cộp kin bươn). Đây chính là
hiện tượng nguyệt thực. Trước đây, mỗi khi có nguyệt thực, tất cả các bản
người Thái đều mang loóng cùng với các vật dụng khác ra gõ. Người Thái
quan niệm rằng, nguyệt thực chính là lúc ông Mặt Trời giao cấu với bà Mặt
Trăng. Nếu cứ để như vậy sẽ sinh ra nhiều Mặt Trời, từ đó gây ra hạn hán. Vì
thế, phải gõ loóng thật mạnh để xua đuổi tách Mặt Trời và Mặt Trăng ra. Đây
là một quan niệm rất cổ xưa, có lẽ liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp của
người Thái.
Trước đây, các bản người Thái thường ở cách xa nhau. Các loại thú dữ
như hổ, báo... có rất nhiều. Chúng thường rình bắt các loại gia súc nuôi trong
gia đình như lợn, gà... Thậm chí, chúng còn bắt cả con người. Phụ nữ Thái
thường dạy sớm giã lúa lấy gạo nấu cơm ăn cho mỗi ngày. Đó cũng là lúc các
loại thú dữ rình bắt người. Việc cầm chày giã mạnh vào loóng ít nhiều cũng
tạo ra tiếng động mạnh, có thể khiến các loại thú dữ sợ sệt. Vì thế, trong quan
70
niệm cổ xưa của người Thái, việc gõ loóng với ý nghĩa xua đuổi thú dữ cũng
tồn tại khá phổ biến.
Người Thái Mai Châu trước đây thường kánh loóng trong nhiều hình
thức nghi lễ, tín ngưỡng như lễ xên Bản, xên Mường, lễ mừng cơm mới, lễ chá
chiêng, tang ma, đám cưới. Người Thái cũng quan niệm khác nhau ở trong
mỗi hình thức nghi lễ, tín ngưỡng mà có sinh hoạt kánh loóng. Cụ thể như lễ
xên Bản, xên Mường, kánh loóng xuất hiện mang ý nghĩa góp vui trong phần
hội. Lễ này thực chất là một lễ nghi nông nghiệp cầu cho mùa màng tươi tốt
có từ thời xa xưa trong sinh hoạt văn hóa của người Thái. Đối với lễ mừng cơm
mới, kánh loóng cũng là để làm vui khi gia đình thu hoạch lúa mới về. Lễ này mang
ý nghĩa tạ ơn thần linh đã giúp cho mỗi gia đình có thóc gạo mới để ăn. Việc kánh
loóng trong lễ chá chiêng cũng là để làm vui trong phần hội. Lễ này là dịp các con
nuôi đến tạ ơn ông Mo vì đã chữa cho khỏi bệnh. Còn kánh loóng trong tang ma là
để đưa linh hồn người đã khuất về Mường Trời. Kánh loóng trong đám cưới cầu
cho đôi trai gái sớm có con đàn cháu đống. Như vậy, có thể thấy người Thái Mai
Châu xưa kia kánh loóng trong rất nhiều hình thức sinh hoạt nghi lễ, tín ngưỡng,
theo đó là một loạt các quan niệm khác nhau.
Thật khó để xác định được rằng từ khi nào người Thái coi loóng với tư
cách một nhạc cụ. Chỉ có thể thống nhất một điểm rằng các loại nhạc cụ gõ là
những loại cổ xưa nhất của con người. Có lẽ loóng của người Thái cũng nằm
trong số nhạc cụ cổ xưa như vậy. Khi người Thái gõ loóng trong các nghi lễ,
lễ hội, tang ma... với ý nghĩa góp vui hoặc đưa tiễn linh hồn người đã mất thì
chức năng nhạc cụ được xác định. Khi gõ trong các hoạt động mang tính tâm
linh, người Thái không cho lúa vào loóng. Chính vì vậy, quan niệm của người
Thái về loóng với tư cách một loại nhạc cụ cũng là quan niệm rất cổ xưa.
71
2.2.1.2. Các trường hợp sử dụng loóng
Trong lao động và sinh hoạt đời thường
Trước đây, loóng là một nông cụ rất quan trọng trong đời sống của
người Thái Mai Châu. Họ vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, vì thế họ
đã sáng tạo ra các công cụ phục vụ cho quá trình sản xuất cây lúa từ rất sớm.
Loóng được hình thành cũng xuất phát từ mục đích để tạo ra hạt gạo. Giã lúa
là một trong nhiều khâu của quá trình làm ra hạt gạo, bao gồm: cày bừa - gieo
mạ - cấy lúa - chăm sóc lúa - gặt lúa - phơi lúa - giã lúa - giã thóc. Trong quá
trình vừa nêu, giã lúa và giã thóc là hai khâu cuối có liên quan đến loóng. Gia
đình nào cũng phải có một cái loóng, chức năng chính là dùng để giã lúa. Bên
cạnh đó, có thể được dùng để giã ngô, khoai, sắn hoặc giã men làm rượu.
Người Thái Mai Châu trước đây sau khi thu hoạch lúa về, thường để ở
trên gác nhà sàn. Mỗi lần cần gạo nấu cơm, những người phụ nữ lại mang một
vài bó lúa xuống gầm nhà sàn, nơi có loóng để giã thành gạo. Họ thường giã
lúa vào buổi sáng sớm. Mỗi lần họ chỉ giã đủ cho gia đình ăn trong khoảng 2
ngày. Đầu tiên họ giã các bó lúa để lấy thóc. Sau đó, họ đưa thóc cho vào
chiếc cối nhỏ ở đầu loóng để giã tách vỏ thóc ra thành gạo. Thông thường,
việc giã lúa trong mỗi gia đình do những người phụ nữ đảm nhiệm, đàn ông
hầu như không tham gia. Nếu các gia đình có công việc như đám tang, mừng
cơm mới... thì những người phụ nữ ở trong bản sẽ sang giã lúa giúp. Mỗi gia
đình khi làm cỗ sẽ cần nhiều gạo, vì thế việc giã lúa sẽ phải chuẩn bị từ ngày
hôm trước. Việc có nhiều người cùng giã lúa chính là lý do căn bản tạo nên
hình thức sinh hoạt văn hóa kánh loóng.
Quá trình giã lúa, với mục đích là để tách được hạt thóc ra khỏi cây lúa.
Khi để lúa vào loóng thì lúa sẽ nằm ở vị trí đáy của loóng. Vì vậy, khi giã lúa
sẽ phải hướng phần đầu của chày xuống đáy loóng. Thỉnh thoảng, lại gõ chày
vào thành loóng để cho rơi ra những hạt thóc hoặc cọng lúa dính ở đầu chày.
72
Giã được một lúc thì người Thái lấy chày gạt, xoay từng bó lúa để xem đã
tách hết thóc chưa. Nếu vẫn còn thóc thì họ tiếp tục giã cho đến khi nào tách
hết hạt thóc ra. Sau khi giã lúa xong, họ sẽ bốc từng nắm thóc đưa vào cối nhỏ
ở phần đầu của loóng để giã tách vỏ thóc. Cối này cũng nhỏ nên chỉ có hai
đến ba người cùng giã. Nhìn chung, việc giã lúa trong lao động cũng không
có gì phức tạp, khó khăn. Phụ nữ Thái dù còn ít tuổi, mỗi khi nhìn bà hoặc mẹ
giã lúa là đều vào làm giúp được ngay.
Vào những ngày xuân, ngày vui, mừng nhà mới... người Thái cũng
kánh loóng. Cùng với những hoạt động khác như hát khắp, múa xòe, thổi pí,
thổi khèn bè... thì kánh loóng cũng là một hoạt động không thể thiếu. Có thể
nói, việc nhiều người cùng gõ vào loóng sẽ tạo nên những âm hưởng rất sôi
động, không kém gì trống chiêng. Mỗi khi xuân về, người Thái lại chuẩn bị
cho mình những bộ quần áo mới thật đẹp. Họ cùng nhau tập trung ở sân rộng
của bản để vui chơi. Ngày xuân có rất nhiều các hoạt động như múa, hát, đàn,
trò chơi dân gian, uống rượu cần... Trong các hoạt động đó, kánh loóng cũng
là một phần quan trọng góp vui vào không khí ngày xuân. Bên cạnh đó, người
Thái cũng đi đến thăm hỏi làng xóm, họ hàng trong ngày xuân. Sau khi cùng
nhau ăn uống chúc tụng đầu năm, họ lại đàn, hát vui chơi kánh loóng. Các cô
gái dân tộc Thái vốn đã rất duyên dáng trong bộ váy áo truyền thống, thì họ
càng đẹp hơn khi khi cùng nhau kánh loóng. Hình thức sinh hoạt văn hóa đó
cũng thể hiện tài năng của người phụ nữ Thái bởi chơi kánh loóng theo những
bài đã được thống nhất với nhau cũng là việc rất khó.
Mỗi gia đình khi làm được căn nhà mới là điều rất vui mừng. Họ tổ
chức mời làng xóm, họ hàng sang ăn uống chia vui cùng với gia đình. Sau khi
ăn uống xong, họ lại cùng nhau vui chơi. Có thể là hát Khắp, múa Xòe hoặc
kánh loóng. Tiếng loóng vang vọng tạo nên không khí vui tươi, hân hoan, như
lời chia vui, cầu chúc cho gia chủ may mắn, khỏe mạnh, mọi việc thuận lợi.
73
Có thể nói, trong những ngày vui trước đây của người Thái, kánh loóng
là một sinh hoạt không thể thiếu. Với những thế mạnh về âm lượng và màu
sắc âm thanh, kánh loóng luôn mang đến sự thích thú, hứng khởi đối với mỗi
người Thái.Việc họ cùng nhau kánh loóng trong dịp vui, sinh hoạt đời thường
chỉ mang ý nghĩa như một hoạt động góp vui. Ở đây không mang ý niệm linh
thiêng nào khác.
Trong nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục
Khi có nguyệt thực (Ếch ăn trăng)
Mỗi khi có nguyệt thực, tất cả các bản Thái Mai Châu đều mang loóng
ra gõ. Họ gõ thật mạnh để xua đuổi con Ếch đi. Thời gian gõ phụ thuộc vào
thời gian xảy ra nguyệt thực. Thông thường, người Thái sẽ gõ cho đến khi nào
Ếch nhả mặt trăng ra (hết nguyệt thực) thì mới dừng lại. Họ sẽ chọn một vài
cái loóng to, vang nhất của bản rồi mang ra giữa bản cùng nhau gõ. Cũng có
thể, họ tổ chức gõ ngay tại sân mỗi gia đình.
Trong đám cưới
Đám cưới là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mỗi người Thái.
Vì lẽ đó, họ đã có những quy ước nhất định được xã hội chấp thuận trong việc
tổ chức cưới xin. Người Thái ít bị ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo nên xã hội
khuyến khích việc trai gái đi lại làm quen nhau. Việc hai gia đình gặp gỡ làm
quen nhau phải nhờ vai trò ông mối. Quyền quyết định chọn rể là của nhà gái.
Nhà trai qua lại nhà gái ít nhất ba lần, bao gồm các bước như Đi dạm tiếng
(Pay tham đo), Đi dạm hỏi (Pay xo khoản hụ), Xin ngày cưới.
Trong ngày xin dâu, nhà trai coi trọng những ông cậu (lung ta) của cô
dâu. Ông cậu được xếp ngồi mâm trên và có quyền bắt bẻ nhà trai điều này,
điều nọ. Đây là tàn tích về quyền lực mẫu hệ còn rớt lại trong xã hội phụ
quyền Thái hiện nay. Trong ngày cưới sau các nghi lễ như lễ rửa chân, khấn
tổ tiên, đôi trai gái cùng uống rượu cần, ăn thịt gà... thì họ chính thức trở
74
thành vợ chồng. Xong lễ, các thành viên nhà trai nhà gái cùng ngồi vào mâm
cơm, vui uống rượu cần. Lúc này họ hát Khắp chúc mừng, hát đố thi tài...
Vào ngày cưới của người Thái Mai Châu trước đây, việc có kánh loóng
hay không cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Lường Song
Toàn1 cho biết người Thái Mai Châu không kánh loóng trong đám cưới. Còn
theo ông Khà Văn Tiến2 lại nói người Thái xưa kia có kánh loóng trong đám
cưới. Khi chúng tôi hỏi những nhà nghiên cứu và một số người Thái cao tuổi
là có kiêng kỵ gì việc kánh loóng trong ngày cưới hay không thì họ cho biết là
không kiêng. Cùng với đó, chúng tôi tìm hiểu tại sao người Thái Mai Châu
không kánh loóng trong ngày cưới thì không ai trả lời được. Chúng tôi thấy
rằng, một nông cụ, nhạc cụ quan trọng với đời sống người Thái xưa kia, luôn
xuất hiện trong nhiều sinh hoạt như các lễ hội, ngày vui mà lại không có trong
ngày cưới thì cũng là điều lạ lùng. Ngày cưới của người Thái xưa đương
nhiên bao giờ cũng có những hoạt động vui chơi, giao lưu như đàn, hát, múa
xòe, trò chơi dân gian... Trong các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian này,
có lẽ không có hình thức nào tạo được không khí sôi nổi như việc kánh loóng.
Với đặc điểm là có nhiều người cùng cầm chày gõ vào loóng, sẽ tạo ra âm
lượng rất lớn. Trong đó, khi họ kết hợp lại với nhau tạo ra nhiều chùm tiết tấu
rất sinh động, có nhiều khoảng âm sắc trầm, trung, cao kết hợp nghe như có
giai điệu. Chính những nét độc đáo này đặt ra câu hỏi tại sao một số người
cho rằng xưa kia người Thái không kánh loóng trong ngày cưới. Trong khi
đó, nhìn sang tộc người Mường Hòa Bình (tiếp giáp với Mai Châu) và người
Thái ở Quan Hóa (thuộc Thanh Hóa, tiếp giáp Mai Châu) thì thấy người
Mường và người Thái ở hai khu vực này tổ chức kánh loóng và chàm đuống3
trong ngày cưới rất phổ biến. Đây là một hoạt động không thể thiếu trong
1 Lường Song Toàn: sinh năm 1947; Địa chỉ: Thị trấn Mai Châu, Hòa Bình. Phỏng vấn ngày 2/5/2016.
2 Khà Văn Tiến: sinh năm 1953; Địa chỉ: Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu. Phỏng vấn ngày
1/5/2016. 3. Người Mường gọi sinh hoạt gõ máng là chàm đuống.
75
ngày cưới đối với người Thái ở Quan Hóa và người Mường Hòa Bình xưa.
Trong ngày cưới, lúc đón dâu về đến cửa, nhà trai sẽ kánh loóng và chàm
đuống rất sôi nổi, nhiệt tình. Hoạt động này mang ý nghĩa cầu mong cho vợ
chồng sẽ sớm có con đàn cháu đống. Đây cũng là ước vọng muôn đời của con
người và của mỗi tộc người. Chính bởi lý do này, cùng với việc so sánh sinh
hoạt kánh loóng của người Thái Mai Châu với các tộc người lân cận đã cho
phép chúng tôi đi đến nhận định: rất có thể xưa kia người Thái Mai Châu
cũng kánh loóng trong ngày cưới. Nhưng vì thời gian trôi qua, nhiều yếu tố
tác động đã làm mất đi sinh hoạt này trong đám cưới của họ.
Theo ông Khà Văn Tiến1 cho biết, khi gia đình nào có đám cưới, ngay từ
ngày hôm trước khi tổ chức lễ cưới, hàng xóm đã sang cùng giúp gia đình giã lúa
lấy gạo. Đám cưới cần nhiều gạo để làm cỗ mời khách và gia đình thông gia nên
việc giã gạo rất quan trọng. Có khi các gia đình phải mượn thêm một vài cái loóng
và nhiều người cùng giã mới đủ số gạo cần cho làm cỗ. Vì thế, không khí buổi giã
gạo chuẩn bị cho ngày cưới cũng rất sôi nổi, vui vẻ, khẩn trương.
Trong tang ma
Trong tang ma, vai trò của ông Mo rất quan trọng. Theo Hà Sủm, trong
phần lễ chính có các hoạt động của ông mo như:
Ông mo kể lai lịch người chết “ẳm óc chẩu xứa”, nói với linh hồn người
chết hãy nhận lấy thức ăn, đồ dùng, công cụ sản xuất để về “mường ma”
làm vốn liếng, tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Sau cùng mo “dẫn
đường” linh hồn người chết đến nhập nhà mồ. Con cháu và dân làng
khóc tiễn biệt người thân lần cuối cùng. Trống, chiêng, kèn đưa đám nổi
lên [111, tr.93].
Theo Nguyễn Hữu Thức: “Tang lễ của người Thái nhất thiết phải có
nghi lễ mo dẫn hồn người mất về Mường Trời. Ông mo là nhân vật trung gian
1. Khà Văn Tiến: sinh năm 1953; Địa chỉ: Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu. Phỏng vấn ngày
1/5/2016.
76
chuyển tiếp hồn người ở cõi sống về cõi Mường Phi (Mường Ma)” [134,
tr.84]. Như vậy, có thể thấy rõ vai trò ông Mo trong tang lễ của người Thái
Mai Châu rất quan trọng.
Theo nhà nghiên cứu Lường Song Toàn1, trong đám ma bố hay mẹ
chồng, thường tổ chức kánh loóng vào ngày cuối trước khi đưa tang, do con
dâu và những người con dâu trong họ thực hiện. Khi kánh loóng, họ phải mặc
trang phục truyền thống. Thời điểm kánh loóng thường vào ban đêm với ý
nghĩa đưa hồn về Mường Trời. Còn theo ông Khà Văn Tiến ở bản Nà Phòn,
trong tang ma của người Thái Mai châu, sau khi ông mo làm xong thủ tục, các
con dâu đi xuống sân. Tất cả con dâu bước qua loóng ba lần, sau đó bắt đầu
gõ. Họ gõ khoảng hai đến ba phút thì dừng. Chỉ có con dâu gõ, phụ nữ ngoài
không được gõ. Nhà nào con dâu ít thì nhờ các dâu trong họ sang giúp. Gõ
loóng xong thì ông mo đưa con dâu lên nhà.
Như vậy, có thể thấy trước đây việc kánh loóng trong tang ma của
người Thái là rất phổ biến. Việc này do các con dâu đảm nhiệm dưới sự chỉ
đạo của các ông Mo. Về hình thức, thời điểm tổ chức kánh loóng có thể còn
những ý kiến khác nhau, nhưng ý niệm và vai trò của hoạt động này trong
tang ma là thống nhất. Kánh loóng trong tang ma để đưa hồn người đã khuất
lên Mường Trời. Đối với người Thái, sau khi chết đi, linh hồn phải lên được
Mường Trời thì mới tái sinh. Vì thế, việc kánh loóng trong tang ma xưa kia là
rất cần thiết và quan trọng.
Trong lễ xên bản, xên mường
Trước đây, cứ hai năm người Thái Mai Châu tổ chức hội xên bản, đến
năm thứ ba sẽ tổ chức hội xên mường. Ngày hội xên bản, dân làng không tổ
chức vui chơi. Nhưng đến kỳ mở hội xên mường thì không khí rất sôi nổi, nhất
là những năm mùa màng tươi tốt, đời sống dân làng no đủ. Trong hội xên
mường có các hoạt động như tổ chức một đám rước từ nhà Tạo Mường ra sân
1 Lường Song Toàn: phỏng vấn ngày 2/5/2016.
77
làng, đi đầu là tạo mường cùng các chức sắc, đi phía sau là đoàn nam nữ thanh
niên khiêng giàn trống chiêng cùng khèn, sáo chơi rất sôi nổi, rạo rực lòng
người. Hội xên mường thường kéo dài trong 3 ngày. Mỗi ngày có những hoạt
động khác nhau. Trong đó, bao giờ cũng có các hoạt động vui chơi như múa
xòe, thi bắn súng, bắn cung, ném còn, chọi gà, thi hát đối đáp, thi thổi khèn
sáo… Trong các hoạt động vui chơi, văn nghệ đó, không thể thiếu được việc tổ
chức kánh loóng. Những cô thiếu nữ Thái trong trang phục truyền thống, cùng
nhau kánh loóng tạo nên không khí rất vui vẻ, sôi động, hấp dẫn. Họ có thể
kánh loóng liên tục cả buổi, người nào mệt thì người khác vào gõ thay. Việc
kánh loóng trong hội xên mường cũng là một hoạt động vui chơi giải trí nên
hoàn toàn tự nhiên, không bị bó buộc trong khuôn khổ lễ nghi nào cả.
Trong lễ mừng cơm mới
Theo Nguyễn Hữu Thức, trước năm 1945, người Thái ở Mai Châu
không ăn Tết Nguyên đán như người Việt. Thường trong một năm, lễ nghi lớn
nhất trong mỗi gia đình là lễ cơm mới. Theo ông Hà Công Nhôi1 cũng cho
biết, ngày xưa người Thái ăn mừng cơm mới rất to như ngày Tết. Xưa kia, họ
trồng lúa mỗi năm một vụ nên chỉ tổ chức mừng cơm mới một lần. Lễ cơm
mới người Thái gọi là khau mờ. Đây là lễ đánh dấu khép lại chu trình sản xuất
của một năm, mở ra một chu trình làm ăn mới, thường được tổ chức trong
khoảng thời gian từ tháng Chạp đến tháng 3 Âm lịch. Ngày khau mờ là niềm
vui lớn của cả cộng đồng, dòng họ sống trong bản, trong mường nhưng trách
nhiệm lớn lao, vinh hạnh hơn cả là cô con dâu trong gia đình người làm lễ.
Con dâu phải tổ chức, quán xuyến mọi công việc như mang lúa đi giã thành
gạo, nấu nướng làm cỗ, mời khách… Trong lễ cơm mới, không thể thiếu các
hoạt động vui chơi, văn nghệ. Trẻ em thì tụ tập chơi đánh lẻ, đánh khăng,
đánh quay. Người lớn thì hát khắp, múa xòe và không thể thiếu việc kánh
1. Ông Hà Công Nhôi, 65 tuổi, người ở bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu. Phỏng vấn ngày 12/2/2017.
78
loóng. Cũng theo Nguyễn Hữu Thức: “Còn ở đầu trái nhà sàn, các thiếu nữ
Thái cầm chày theo nhịp của người cầm cái, các cô diễn lại động tác giã gạo.
Cùng với tiếng mo kể đều đều là tiếng trầm bổng của chày đánh máng có lót
rơm ở dưới và tiếng thập thịch của những bước chân cô gái nhún nhảy” [110,
tr.122]. Khi miêu tả về lễ Kin kháu mờ (Ăn cơm mới) của người Thái Mai
Châu, Lường Song Toàn đã viết:
Bắt đầu phần lễ thì ông mo hướng dẫn cho các nàng dâu trong nhà, mặc
áo, váy lễ (thường mặc trong khi có đám tang), đầu chít khăn đen
nhuộm chàm, vai đeo túi thiêng, dùng một cái mẹt hoặc cái sàng lấy lúa
đang phơi ở gác bếp đem xuống máng thường dùng để giã lúa gọi là
“Loóng”, giã xong rồi thì giã bằng cối giã đạp bằng chân sau đó sảy
thành gạo rồi đem về nhà ngâm. Đây là nghi thức tượng trưng, thực ra
mọi thứ đã được chuẩn bị từ trước rồi [144, tr.155].
Trong lễ chá chiêng
Theo ông Hà Công Nhôi1, lễ chá chiêng từ lâu đã không còn được tổ
chức. Cách đây khoảng hơn 20 năm, ông Hà Sủm nguyên là Giám đốc Sở
Văn hóa Thông tin tỉnh Hòa Bình đã thực hiện một dự án làm lại lễ chá
chiêng. Kể từ đó cũng không thấy ai tổ chức nữa.
Võ Thị Thường có bài viết về lễ “cha chiêng” của người Thái Mai
Châu Hòa Bình, trong đó có đoạn tác giả viết: “Phần hội nhộn nhịp trong
tiếng chày gõ vào máng lúa (tẳm đuống)” [135, tr.583].
Xưa kia, ở các bản Thái thường xuất hiện những ông Mùn. Thông
thường, ông Mùn vừa làm thầy Mo, vừa biết nhiều bài thuốc chữa bệnh, hiểu
biết về văn học nghệ thuật. Để ràng buộc những người dân được ông chữa
khỏi bệnh, cứ một đến hai năm, ông Mùn lại mở hội chá chiêng một lần. Hội
chá chiêng thường được tổ chức vào tháng Giêng. Ngày lễ này, những người
1. Hà Công Nhôi: sinh năm 1952; Địa chỉ: Số nhà 47, bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu. Phỏng vấn ngày
1/5/2017.
79
được chữa bệnh đều phải đến nhà thầy Mùn tạ ơn. Trong lễ chá chiêng, ngoài
phần nghi lễ ra, có rất nhiều sinh hoạt văn nghệ như ca hát, múa khăn, múa
tập thể, múa kiếm, trò diễn, hái hoa kếp boóc, gõ trống chiêng... Trong đó
cũng có phần kánh loóng. Việc người Thái Mai Châu kánh loóng trong lễ chá
chiêng cũng diễn ra trong phần vui hội. Loóng được đặt ở giữa sân, trong
vòng những người làm lễ và ở ngay cạnh thầy Mo. Việc kánh loóng cũng phải
theo sự chỉ đạo của ông Mo. Kánh loóng trong chá chiêng thường kéo dài
trong khoảng 30 đến 40 phút. Theo ông Hà Công Nhôi, bài kánh loóng trong
chá chiêng cũng chỉ có một kiểu đánh. Số người gõ bao giờ cũng là chẵn đứng
thành từng đôi. Khi kánh loóng có kết hợp với trống chiêng, boóng mu (ống
tre rỗng hai đầu) và nhảy múa.
2.2.1.3. Các hình thức sử dụng kánh loóng
Qua những trường hợp sử dụng loóng của người Thái Mai Châu, chúng
tôi thấy có 2 hình thức sau:
Sử dụng đơn lẻ: Đây là hình thức sử dụng phổ biến của người Thái Mai
Châu. Trong sinh hoạt lao động cũng như các nghi lễ, tín ngưỡng, người Thái Mai
Châu chủ yếu chỉ sử dụng riêng một chiếc loóng. Bản thân việc kánh loóng khi có
sự kết hợp của nhiều người cùng làm đã rất khó đều nhau. Có lẽ vì lý do này mà
hiếm khi thấy việc kánh loóng kết hợp với các nhạc cụ hay công cụ nào khác.
Sử dụng kết hợp với nhạc cụ gõ khác: Trước đây, người Thái Mai Châu
có kết hợp kánh loóng với trống, chiêng nhưng cũng không phổ biến. Trong
một số nghi lễ, tín ngưỡng, ở phần vui hội chúng ta có thể bắt gặp hình thức
này, thậm chí họ kết hợp cả múa sạp. Khi có Nguyệt thực, người Thái Mai
Châu mang loóng ra gõ cùng với các công cụ khác như xoong, nồi... Tất cả
những vật dụng nào có thể tạo ra tiếng động mạnh thì họ mang ra gõ. Âm
thanh tạo ra càng to càng tốt.
80
2.2.1.4. Ứng xử của người Thái Mai Châu với loóng
Coi loóng là dụng cụ quan trọng trong gia đình: Trước đây, loóng là
một dụng cụ rất quan trọng, cần thiết trong mỗi gia đình người Thái Mai
Châu, vì chức năng chính là giã lúa. Nếu không có loóng thì việc giã lúa lấy
gạo sẽ rất khó khăn. Với vai trò quan trọng như vậy, loóng được người Thái
ứng xử cũng có những nét đặc biệt. Phải chọn ngày đi vào rừng tìm gỗ làm
loóng. Khi làm xong, cũng phải chọn ngày để kéo về. Ngày kéo loóng mới về
là ngày vui của riêng gia đình nhưng cũng là niềm vui của làng xóm.
Loóng thường được đặt ở gầm nhà sàn, nơi thuận tiện cho việc giã lúa,
đồng thời tránh mưa nắng hắt vào sẽ làm hỏng. Một số gia đình còn làm thêm
mái che ở phía trước hoặc bên cạnh nhà sàn là nơi để loóng. Trong khu vực
mái che này, họ để một số vật dụng khác nữa như cối giã gạo bằng chân, nia
để sẩy gạo... Cũng xuất phát từ dụng cụ tạo ra hạt gạo để ăn, nên người Thái
cũng tránh việc dẵm chân hoặc ngồi lên loóng.
Coi loóng có hồn: Người Thái Mai Châu cũng giống như nhiều tộc
người khác trên đất nước ta, đều có quan niệm tín ngưỡng vạn vật hữu linh.
Tức là tất cả mọi vật đều có linh hồn. Loóng cũng được coi như vậy. Trong
gia đình người Thái, những dụng cụ lao động cũng như gia súc như trâu bò...
họ đều rất coi trọng. Trước đây, vào ngày Tết họ còn làm mâm cơm cúng mời
hồn của các dụng cụ về ăn Tết.
Xem loóng như một phương tiện đưa linh hồn người đã khuất về
Mường Trời: Trước đây, trong đám tang của người Thái Mai Châu, bắt buộc
có tục lệ con trai cả quăng chài1, con dâu kánh loóng. Con trai cả phải quăng
chài vào sàn nhà và nói “ôi mẹ tôi (bố tôi) chết rồi”, sau đó trống chiêng nổi
lên. Hành động của người con trai cả như một sự thông báo với làng bản việc
1 Quăng chài: là tục lệ khi nhà có người mất. Trài là một công cụ để đánh bắt cá ngoài sông, suối.
81
gia đình nhà mình có tang. Từ đó, họ hàng, người trong làng bản sẽ sang giúp
đỡ các công việc tang lễ.
Việc con dâu phải kánh loóng trong tang ma đã đặt ra những vấn đề cần
lý giải về vai trò, ý nghĩa của việc kánh loóng trong lễ tang. Tại sao người
Thái Mai Châu đưa sinh hoạt kánh loóng vào trong tang ma? Phải chăng để
mong cho hồn người chết no đủ hay để đưa hồn người chết lên Mường Trời
rồi sau đó mới được tái sinh? Hiện nay, trong tang ma của người Thái Mai
Châu không còn kánh loóng nữa. Trong quá trình đi điền dã, chúng tôi đã hỏi
một số nhà nghiên cứu văn hóa tại địa phương và các cụ già người Thái về
vấn đề tại sao lại người Thái lại kánh loóng trong tang ma, thì phần lớn chưa
có câu trả lời rõ ràng. Các nhà nghiên cứu cũng chưa giải thích được cụ thể
vấn đề này.
Trước hết, cần phải xác định việc kánh loóng trong tang ma có thể coi
là một thể loại nhạc nghi lễ phong tục. Xưa kia, con người đã biết đưa âm
nhạc dân gian vào các phong tục, nghi lễ như tang ma, cưới hỏi, cúng tế… để
làm vui hoặc tô điểm thêm cho không khí mỗi buổi lễ được trang trọng, linh
thiêng hoặc biểu đạt những ý niệm nào đó trong niềm tin của mỗi tộc người.
Để lý giải vấn đề ý nghĩa của việc kánh loóng trong tang ma, chúng tôi
sẽ đi từ vai trò của ông Mo trong tang lễ trong việc đưa hồn về Mường Trời.
Theo Nguyễn Hữu Thức: “Tang lễ của người Thái nhất thiết phải có nghi
lễ Mo dẫn hồn người mất về Mường Trời. Ông Mo là nhân vật trung gian
chuyển tiếp hồn người ở cõi sống về cõi Mường Phi (Mường Ma)” [134, tr.84].
Họ là người thay mặt cho người dương trần tiếp xúc với người âm, là
người chủ xướng, tổ chức và hướng dẫn thực hiện các trình thức, lễ thức của
đám tang từ đầu cho đến cuối. Họ là người diễn xướng áng mo dài hơi với
nhiều bài Mo, những cung đoạn khúc triết lâm ly khác nhau để dẫn các linh
hồn từ thế giới này đến một thế giới khác một cách tuần tự và logic.
82
Hà Sủm viết:
Ông mo kể lai lịch người chết “ẳm óc chẩu xứa” nói với linh hồn
người chết hãy nhận lấy thức ăn, đồ dùng, công cụ sản xuất của con
cháu để về “mường ma” làm vốn liếng, tiếp tục sống ở thế giới bên
kia. Sau cùng mo “dẫn đường”, linh hồn người chết đến nhập nhà
mồ. Con cháu và dân làng khóc tiễn biệt người thân lần cuối cùng.
Trống, chiêng, kèn đưa đám nổi lên [111, tr.93].
Trong Ẳm Ệt của người Thái Mai Châu có phần mo đưa hồn người chết
về Mường Trời. Phần này gọi là mo lên trời, trong đó có kể các chặng đường
mà hồn phải đi qua. Có đoạn:
…Chỗ nào xấu Mo bắc cầu
Nơi nào sợ Mo đi trước
Chĩa mũi gươm đi trước dẫn đường
Chặng khó đoạn xấu ta đi qua
Đoạn dài đi hết buổi ta vượt
Đi đến nơi
Mường Ma giã gạo cối đá, cối cát
Ma giã gạo hốc đá trên cao
Chặng này ta đi qua
Khỏi chặng này ta đi đến…[112, tr.817]
Áng mo lên trời là một áng mo dài hơi nhất và cũng vô cùng quan trọng
trong quá trình diễn ra lễ tang, đồng thời cũng là phần kết thúc các trình thức,
lễ thức của cuộc lễ. Toàn bộ diễn xướng mo lễ tang kể từ lúc khởi đầu cho
đến phần kết thúc là một chuỗi những diễn biến và các sự kiện rất logic. Tất
cả đều được thần thoại hóa trong suốt chặng đường từ mường trần gian qua
mường long vương âm phủ của vua thủy tề rồi lên mường trời thấp đến
83
mường trời cao. Tất cả đều được ghi lại trong cuốn Ẳm Ệt sử thi dân tộc Thái
Mai Châu.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu đi trước đã nhận định, vai trò của
ông mo trong tang lễ người Thái đặc biệt quan trọng. Ông mo tổ chức mọi
công việc, các nghi thức, thủ tục cần thiết và đặc biệt là phải hát những áng
mo để đưa hồn về Mường Trời.
Trong tang ma Thái Mai Châu, sau khi ông mo làm xong thủ tục, các
con dâu xuống sân và mỗi người cầm một cái chày. Đến giờ chuẩn bị kánh
loóng, ông mo nói với hồn loóng cho các con dâu được bước qua loóng và
kánh loóng. Tất cả con dâu bước qua loóng ba lần sau đó bắt đầu gõ. Họ gõ
khoảng hai đến ba phút thì dừng. Chỉ có con dâu gõ, phụ nữ ngoài không
được gõ. Nhà nào con dâu ít thì nhờ các dâu trong họ sang giúp. Kánh loóng
xong thì ông mo đưa con dâu lên nhà.
Chúng ta có thể nhận thấy, kánh loóng cũng là một hoạt động, một thủ
tục, hay một bước quan trọng nằm trong chuỗi các thao tác tổ chức của ông
mo, để giúp cho linh hồn người đã khuất được thanh thản, no đủ, vui vẻ, và
đặc biệt lên được tới Mường Trời để rồi tái sinh. Loóng là một nông cụ rất
quan trọng trong việc tạo ra hạt gạo nuôi sống con người. Mỗi gia đình đều
phải có loóng. Loóng gắn bó mật thiết với đời sống người Thái.
Ngoài chức năng của một nông cụ, loóng còn là một nhạc cụ có thể tạo
ra những âm hưởng rất sinh động, tinh tế, giàu sức biểu cảm. Chính những âm
hưởng đó đã góp phần khắc vào niềm tin của người Thái về một chức năng
trong tang ma. Không phải tự nhiên mà trong nhiều loại nhạc cụ của người
Thái, họ đã chọn loóng để gõ trong tang ma. Rõ ràng, loóng có ưu thế vượt
trội về âm lượng, âm sắc, khoảng âm khá rộng. Đặc biệt, những âm hình tiết
tấu mà người Thái gõ trên loóng rất đa dạng, có tính chất thúc dục, tạo một
cảm giác muốn nhún nhảy, bước đi, thậm chí như muốn “bay” lên. Hơn nữa,
một cảm nhận chung khi nghe kánh loóng là sự vui tươi, lạc quan, thể hiện
84
niềm tin, khát vọng, mong ước những điều tốt đẹp sẽ đến với người đã khuất
ở trên Mường Trời.
Chính sự quan trọng của loóng trong đời sống người Thái với tư cách
một nông cụ và những hiệu ứng về mặt tính chất âm nhạc với tư cách một
nhạc cụ đã khiến họ lựa chọn loóng gõ trong tang lễ.
Theo Vi Văn Biên, khi nghiên cứu về văn hóa vật chất của người Thái
Thanh Hóa – Nghệ An, cũng đề cập đến việc người Thái khu vực này Khua
luống trong đám tang:
Khi gia đình nào có người chết thì 6 người xuống gầm sàn khua
một hồi luống dài theo điệu 2 lần thúc chày vào lòng luống, một lần
đập chày vào thành luống (đầu chày không được đập vào nhau);
trong khi khua không được kết hợp giã gạo. Trong quá trình làm
ma, khi thầy mo mời hồn người chết ăn hoặc thầy mo đưa hồn
người chết lên đến (cổng trời) đều khua luống để hồn người chết
nhớ [18, tr.243].
So sánh giữa văn hóa của người Thái vùng Thanh - Nghệ với vùng Thái
Tây Bắc, tác giả viết:
Sự tương đồng về văn hóa giữa các nhóm Thái có được là do họ
đều có cội nguồn chung, về ngôn ngữ và văn hóa chung… Người
Thái Thanh Hóa, Nghệ An về nguồn gốc, họ có lịch sử di cư, do
vậy trong hành trang mà họ mang theo có cả những phong tục
truyền thống văn hóa dân tộc tồn tại hàng ngàn năm, gồm những tập
tục, ma chay, cưới xin, thờ cúng, hội hè… khó nhầm lẫn với các
dân tộc khác [18, tr.303].
Theo Dương Hồng Từ, khi nghiên cứu về âm nhạc dân gian dân tộc
Thái Nghệ An cũng đã đề cập đến Khắc luống trong tang ma:
85
Người Thái quan niệm người chết tức là linh hồn về sống với tổ
tiên, về nơi họ phải về, ở đó là thế giới của thần tiên, là nơi ở của
ông trời, ở đó quang cảnh thật đẹp đẽ, đời sống thật sung sướng, do
đó khi có người chết người thân phải làm lễ tiễn hồn vía về với tổ
tiên và với quan niệm như thế âm nhạc trong lễ tang của người Thái
ngoài các bài bi ai còn có các bài rộn ràng vui tươi, có nơi còn tổ
chức Khắc luống… [147, tr.27].
Như vậy, theo Vi Văn Biên, trong quá trình làm ma, khi thầy mo mời
hồn người chết ăn hoặc thầy mo đưa hồn người chết lên đến (cổng trời) đều
khua luống để hồn người chết nhớ. Còn theo Dương Hồng Từ, người Thái
Nghệ An Khắc luống trong tang ma cũng để tiễn hồn vía người đã khuất về
với tổ tiên. Những qua niệm này của người Thái vùng Thanh – Nghệ cũng
tương đồng với người Thái Tây Bắc.
Qua phân tích, lý giải việc người Thái Mai Châu kánh loóng trong tang
ma, cũng như xem xét sinh hoạt này trong tang ma của người Thái khu vực
Thanh – Nghệ, chúng tôi cho rằng, mục đích, ý nghĩa của sinh hoạt này nhằm
giúp cho linh hồn người đã khuất được thanh thản, no đủ, vui vẻ, và đặc biệt
là sẽ lên được tới Mường Trời để rồi tái sinh.
2.2.2. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng giai đoạn 1993 – 2017
Năm 1993 là dốc mốc quan trọng làm thay đổi diện mạo sinh hoạt văn
hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu. Tỉnh Hòa Bình chính thức có văn
bản chỉ đạo tập trung phát triển huyện Mai Châu thành khu du lịch trọng điểm
của tỉnh. Đồng thời, thời điểm này máy xay xát và máy tuốt lúa đã thay thế
hoàn toàn loóng trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Loóng lúc này không
còn chức năng là nông cụ mà chính thức trở thành một loại nhạc cụ gõ được
đưa vào biểu diễn phục vụ du khách thăm quan. Vì thế, sinh hoạt văn hóa
kánh loóng trong giai đoạn này có những thay đổi so với trước đây. Chúng tôi
86
sẽ nghiên cứu, làm rõ những biểu hiện để thấy được sự biến đổi của hình thức
sinh hoạt văn hóa này.
2.2.2.1. Quan niệm mới về sinh hoạt văn hóa kánh loóng
Hiện nay, loóng chỉ còn chức năng duy nhất đó là một nhạc cụ dùng để
biểu diễn trong một số hình thức sinh hoạt văn hóa. Chức năng giã lúa đã
không còn nữa. Cùng với đó, những quan niệm về sinh hoạt kánh loóng cũng
có sự thay đổi. Các quan niệm cũ như loóng là vật dụng quan trọng, Ếch ăn
trăng, xua đuổi thú dữ, làm vui trong các nghi lễ tín ngưỡng... thì nay đã
không còn nữa hoặc rất mờ nhạt. Hiện nay, có một quan niệm mới khá phổ
biến tại Mai Châu, người Thái coi sinh hoạt kánh loóng là hình thức biểu diễn
để phục vụ du lịch và một số ngày vui. Không gian diễn tấu mới này không
phải là những nghi lễ hay lễ hội như xưa. Người Thái Mai Châu không còn
giữ các quan niệm cũ khi họ sinh hoạt kánh loóng. Ngày nay, họ chỉ biết rằng
kánh loóng tạo nên những âm thanh vui tai, khiến cho người nghe thích thú,
đồng thời mang lại cho họ thu nhập. Vì thế, họ lập ra các đội loóng, cùng
nhau luyện tập gõ cho thành thạo để mỗi khi có dịp là cùng nhau kánh loóng.
2.2.2.2. Những trường hợp sử dụng loóng
Những trường hợp đã hoàn toàn mai một: người Thái Mai Châu trước
đây thường kánh loóng trong lao động, hoặc trong các dịp vui, ngày Ếch ăn
trăng (Nguyệt thực), tang lễ, đám cưới, mừng cơm mới, lễ chá chiêng, xên
bản, xên mường. Đến giai đoạn này, gần như tất cả trường hợp này đã không
còn kánh loóng nữa. Có thể nói, các trường hợp kánh loóng trong lao động và
các phong tục, nghi lễ, tín ngưỡng đã hoàn toàn bị mai một. Chỉ còn duy nhất
lễ xên bản, xên mường là vẫn kánh loóng. Tuy nhiên, vai trò của sinh hoạt
kánh loóng trong lễ này cũng không còn quá quan trọng và hình thức biểu
hiện cũng có sự biến đổi. Chúng tôi sẽ trình bày kỹ vấn đề này trong phần sau.
Những trường hợp mới được sử dụng: Hiện nay, việc kánh loóng phục
vụ khách du lịch là phổ biến hơn cả. Thực chất, trong các chương trình chính
87
biểu diễn văn nghệ phục vụ du khách tại các bản làm du lịch, người Thái
không đưa loóng vào. Họ chỉ kánh loóng khi có yêu cầu riêng. Điều này theo
một số người Thái1 tại đây lý giải rằng bản thân chiếc loóng rất to và nặng,
không tiện để di chuyển lên khu vực có sân khấu nhỏ để biểu diễn cho du
khách nghe. Bên cạnh đó, để kánh loóng cần đến nhiều người cùng làm. Vì
thế, cũng khó thực hiện khi kinh phí tổ chức toàn bộ chương trình văn nghệ
không có nhiều. Những chiếc loóng còn lại đến nay thường được để ở nhà văn
hóa hoặc khu vực các bản du lịch. Khi có khách yêu cầu, họ sẽ di chuyển
loóng ra khu vực sân rộng để kánh loóng.
Bên cạnh việc kánh loóng phục vụ du lịch, chính quyền, đoàn thể ở Mai
Châu cũng chú trọng đưa sinh hoạt kánh loóng vào những ngày vui như ngày
Đại đoàn kết toàn dân, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, phục vụ một số Hội nghị của
UBND huyện. Trong những ngày này, người Thái tổ chức kánh loóng như
một tiết mục văn nghệ biểu diễn trong chương trình.
2.2.2.3. Các hình thức sử dụng loóng
Giai đoạn này, qua tìm hiểu những trường hợp sử dụng loóng của người
Thái Mai Châu, chúng tôi thấy có 2 hình thức sau:
Sử dụng đơn lẻ: Đây là hình thức sử dụng phổ biến của người Thái Mai
Châu hiện nay. Trong việc phục vụ khách du lịch, những ngày vui, ngày Đại
đoàn kết toàn dân, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, các Hội nghị của UBND Huyện,
người Thái Mai Châu chủ yếu chỉ sử dụng một chiếc loóng.
Sử dụng kết hợp với nhạc cụ gõ khác: Hiện nay, người Thái Mai Châu
có kết hợp kánh loóng với trống, chiêng nhưng cũng không phổ biến. Ở một
số đội kánh loóng, chúng tôi vẫn thấy hình thức này, thậm chí họ kết hợp cả
múa sạp. Tuy nhiên, việc kết hợp kánh loóng với trống, chiêng chỉ mang tính
hình thức. Hiệu quả âm thanh của sự kết hợp này là không tốt, nghe rất lộn
1 Hà Công Quân: số nhà 47, bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu; Phỏng vấn ngày 3/5/2017.
Lò Thị Kiết: bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu; Phỏng vấn ngày 3/5/2017.
88
xộn. Bởi những âm hình tiết tấu của việc kánh loóng do nhiều người cũng gõ
đã rất khó đều, đôi khi còn bị lệch nhịp. Khi kết hợp thêm trống chiêng gõ
cùng mà không theo quy tắc âm nhạc nào lại càng làm rối hơn. Có lẽ, sự kết
hợp này chỉ mang tính hình thức. Sự góp thêm của trống chiêng chỉ thêm
phần sôi nổi cho các cuộc vui hội.
2.2.2.4. Ứng xử của người Thái Mai Châu với loóng
Hiện nay, ứng xử của người Thái Mai Châu đối với loóng cũng có
nhiều thay đổi. Trước đây, loóng là một vật dụng quan trọng trong mỗi gia
đình người Thái. Gia đình nào cũng có ít nhất một chiếc loóng. Họ để ở gầm
sàn nhà, nơi không bị mưa nắng hắt vào làm hỏng loóng. Có một số gia đình
còn làm thêm mái che riêng cho loóng. Bên cạnh đó, họ còn coi loóng cũng
có hồn giống như các vật dụng khác xung quanh đời sống của họ (tín ngưỡng
vạn vật hữu linh). Đặc biệt, họ còn coi loóng như một phương tiện đưa hồn
người đã khuất về Mường Trời. Hiện nay, tất cả những quan niệm này đã
không còn nữa. Người Thái Mai Châu giờ đây chỉ coi loóng như một nhạc cụ
dùng để biểu diễn văn nghệ. Khi không dùng thì họ lại để gọn vào một góc
của sân nhà, nơi có mái che. Những chiếc loóng là của chung của mỗi bản thì
để ở sân khu vực nhà văn hóa hoặc ở góc sân của bản. Nhìn chung, người
Thái Mai Châu đều có ý thức rằng những chiếc loóng còn tồn tại đến nay đều
rất có giá trị. Họ hiểu rằng muốn làm một cái loóng mới là rất khó khăn, thậm
chí không có điều kiện để làm. Nhiều gia đình cũng muốn đi tìm mua để có
thể sở hữu một chiếc loóng còn đẹp, chắc chắn. Như vậy, ứng xử với loóng
cũng có thay đổi rõ rệt. Trước đây, vì loóng quan trọng, cần thiết phục vụ cho
lao động nên gia đình nào cũng sở hữu. Hiện nay, họ muốn sở hữu loóng như
để lưu lại một nông cụ cổ ít nhiều có giá trị đối với việc phục vụ du lịch.
2.3. Nghệ thuật kánh loóng
Như trên đã nêu, ngoài chức năng là một công cụ lao động, loóng là
một loại nhạc cụ độc đáo. Trải qua thời gian dài gắn liền với đời sống người
89
Thái, sinh hoạt văn hóa kánh loóng đã trở thành một hình thức nghệ thuật.
Trong đó đã định hình các yếu tố như cơ cấu tổ chức người diễn tấu, điều
kiện diễn tấu, phương thức, kỹ thuật diễn tấu, nguyên tắc âm nhạc, bài bản.
Tất cả yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên những âm hưởng giàu cảm xúc,
cuốn hút người nghe, thể hiện tài năng của người kánh loóng.
2.3.1. Về cơ cấu tổ chức người diễn tấu
Bài dùng trong lễ mừng cơm mới, số người gõ thường là chẵn, trong đó
có 2 người đóng vai trò giữ nhịp, những người còn lại chia làm từng cặp đứng
đối diện dọc theo hai thành loóng. Số người gõ ít hay nhiều phụ thuộc vào
chiều dài của loóng. Ở bài này, hình thức gõ và số người tham gia được người Thái
Mai Châu phân định như sau: 2 người trong vai trò giữ nhịp được gọi là “Tô mé”
nghĩa là “Cái”, những người còn lại được gọi là “Au lục” nghĩa là “Con”. Hai người
trong vai trò làm “Cái” bao giờ cũng gõ trước mấy nhịp lấy đà, sau đó những người
gõ trong vai trò “Con” sẽ vào sau. Tất cả mọi người đều đứng gõ, trong đó những
người “Con” đứng hướng nhìn về phía “Cái” giữ nhịp.
Bài dùng trong lễ tang, số người tham gia cũng là chẵn, được chia làm
từng cặp. Khi tham gia các cặp đó đứng thành hai hàng quay mặt vào nhau
dọc theo thành loóng. Hai người gõ ở vị trí đầu của loóng trong vai trò giữ
nhịp được gọi là “Cái”. Những người còn lại chia làm từng cặp gõ những âm
hình tiết tấu chính của bài. Hai người làm “Cái” bao giờ cũng gõ trước mấy
nhịp, sau đó những đôi làm “Con” vào sau.
2.3.2. Về điều kiện diễn tấu
Để tổ chức được một cuộc diễn tấu kánh loóng, phải đáp ứng được các
điều kiện sau:
Tiêu chuẩn của loóng: Để chọn một chiếc loóng đưa ra diễn tấu đó là
phải chắc, vang, không bị nứt, vỡ, hình thức đẹp, có chiều dài đủ để nhiều
người đứng gõ (thường là 10 người).
90
Có đủ số chày: Khi kánh loóng, mỗi người sẽ cầm một chày để gõ.
Không có quy định cụ thể về số người chơi vì phụ thuộc vào độ dài của loóng.
Nếu chiếc loóng dài sẽ có nhiều người cùng chơi và ngược lại. Như vậy, trong
quá trình chuẩn bị kánh loóng, nhóm người tham gia đã phải xác định rõ
chiều dài của loóng, từ đó họ tập hợp đủ số người chơi kèm theo số chày cho
mỗi người.
Có đủ số người biết kánh loóng: Để diễn tấu kánh loóng, nhất thiết
phải có đủ số người biết gõ. Có thể nói, nếu không biết gõ thì không thể đứng
vào đội hình người chơi kánh loóng. Khi kánh loóng, người chơi thường đứng
thành từng đôi quay mặt vào nhau. Có những động tác khó như va hai đầu
chày vào nhau. Nếu không biết gõ sẽ rất dễ va chày vào mặt hoặc tay người
cùng chơi. Diễn tấu kánh loóng có những nguyên tắc về âm nhạc. Mặc dù
những người tham gia không hiểu về nguyên tắc âm nhạc nhưng họ lại có
cách thức riêng để có thể gõ những âm hình tiết tấu phức tạp mà vẫn đều
nhau, không bị lệch nhịp.
2.3.3. Phương thức và kỹ thuật diễn tấu
2.3.3.1. Phương thức diễn tấu
Phổ biến nhất là những người gõ đứng thành từng đôi quay mặt vào
nhau. Tập thể nhiều người cùng gõ đòi hỏi phải tuân theo những quy định
chặt chẽ. Những người tham gia diễn tấu phải nắm vững quy định này. Chỉ
cần một người hoặc một đôi gõ sai là cả đội hình kánh loóng sẽ lộn xộn ngay.
Tư thế diễn tấu: Diễn tấu loóng có thể ở nhiều tư thế như đứng thẳng,
cúi khom lưng vừa phải, cúi khom lưng thấp xuống.
Động tác diễn tấu: Có 5 động tác cơ bản là: Giã (đâm thẳng đầu chày
xuống giữa lòng loóng hoặc thành loóng ở phía đối diện người chơi), Gõ (gõ
cạnh đầu chày vào thành loóng ở cùng phía người chơi), Chọi (dùng hai cạnh
của đầu chày chọi với nhau), Dập (đặt chày nằm ngang loóng dập xuống mặt
loóng), Va (đặt chày nằm ngang loóng rồi va hai chày vào nhau).
91
Như vậy, có 6 loại âm thanh có thể tạm được mô tả bằng các từ tượng
thanh như sau:
- Âm thanh Giã vào lòng loóng: Truỵch (âm thanh trầm, đục).
- Âm thanh Gõ hoặc Giã vào thành loóng: Kang (âm thanh tầm trung,
chắc, gọn).
- Âm thanh Chọi cạnh đầu chày vào nhau: Cắc (âm thanh đanh, sắc, gọn).
- Âm thanh Dập chày xuống ngang mặt trên loóng: T’rụp (âm thanh
tầm trung, không gọn).
- Âm thanh Va hai chày vào nhau: T’rách (âm thanh tầm trung, không gọn).
Riêng đối với âm thanh do Chọi cạnh đầu chày vào nhau, người Thái sử
dụng cả hai đầu trên và dưới của chày. Chúng tôi gọi hai động tác Chọi cạnh đầu
chày vào nhau ở đầu trên và dưới của chày là: Cắc trên và Cắc dưới.
Với âm sắc của các âm thanh này, chúng tôi thể hiện trên khuông nhạc
như sau:
Truỵch Kang Cắc trên Cắc dưới T’rụp T’rách
Bảng 2.2: Động tác và âm thanh của loóng
STT Động tác Vị trí tạo âm
thanh
Màu sắc âm
thanh
Âm
thanh
Vị trí các âm
thanh trên khuông
nhạc
1 Giã
Lòng và thành
loóng (phía đối
diện người chơi)
Trầm, đục Truỵch
2 Gõ Thành loóng (phía
gần người chơi) Trung, chắc Kang
3
Chọi
Hai cạnh đầu
chày
Đanh, sắc,
gọn
Cắc trên
Cắc dưới
92
4 Dập Ngang mặt trên
của loóng
Trung,
không gọn T’rụp
5 Va Hai thân chày Trung,
không gọn T’rách
Như vậy, chỉ với 6 âm thanh tạo ra từ chiếc loóng, người Thái Mai
Châu đã sáng tạo ra nhiều âm hình tiết tấu khác nhau, gắn với ý nghĩa, tính
chất, đặc điểm của từng loại hình sinh hoạt văn hóa như đã nêu ở trên.
2.3.3.2. Kỹ thuật diễn tấu
Kỹ thuật diễn tấu kánh loóng không quá phức tạp. Chỉ cần hiểu cách
thức thực hiện sẽ làm được. Thông thường, người chơi dùng hai tay cầm ở
phần giữa của chày. Một số chiếc chày khá dài và nặng, vì thế, khi gõ người
chơi phải dùng một lực tương đối mạnh thì mới có thể tạo ra những âm thanh
khỏe khoắn, chắc gọn. Nếu Gõ vào thành loóng hoặc Chọi chày vào nhau thì
người chơi phải đứng thẳng để thực hiện. Còn khi Giã xuống vị trí lòng
loóng, đòi hỏi người chơi phải cúi xuống một chút thì mới Giã tới vị trí này.
Đối với hai người gõ trong vai trò giữ nhịp (Cái), họ thường đứng ở đầu
hoặc giữa loóng. Trong tất cả các đôi tham gia kánh loóng, chỉ có hai người
trong vai trò làm Cái có tư thế, cách cầm chày khác những đôi còn lại. Hai
người làm Cái sẽ cúi khom lưng. Hai chiếc chày được đặt ngang mặt loóng.
Mỗi người dùng hai tay cầm hai cạnh đầu chày. Cách tạo âm thanh là Dập
ngang thân chày xuống mặt loóng và Va hai thân chày vào nhau. Động tác tạo
âm này hoàn toàn giống cách người Thái gõ cho mọi người chơi nhảy sạp.
Trong các cách tạo âm thanh, có thể nói động tác Chọi hai cạnh đầu
chày vào nhau là khó nhất. Khi thực hiện động tác này, hai người chơi cần để
hai chày gần nhau theo phương thẳng đứng. Khoảng cách giữa hai chày
khoảng 20cm. Người chơi sẽ phải Chọi liên tục một chùm tiết tấu từ hai cạnh
đầu chày. Lúc này, đòi hỏi người chơi phải rất tập trung, khéo léo, xử lý gọn
93
gàng, nhẹ nhàng mà vẫn tạo được âm thanh chắc, gọn. Nếu thực hiện động tác
này không khéo léo có thể va chày vào tay hoặc mặt, đồng thời phần đầu chày
phía dưới rất dễ va phải thành loóng.
2.3.4. Các nguyên tắc âm nhạc của kánh loóng
Từ việc mô tả các âm thanh của loóng ra trên khuông nhạc, là cơ sở để
chúng tôi ký âm những âm hình tiết tấu của các bài bản kánh loóng. Phân tích
những bài bản này từ góc độ âm nhạc học cho chúng tôi thấy những nguyên
tắc âm nhạc sau:
- Bài dùng trong Lễ mừng cơm mới [PL 5, tr.193]
Chúng tôi ký âm bài bản kánh loóng ra trên khuông nhạc. Có thể thấy
rõ là có sự phân chia thành 3 bè khác nhau cùng vang lên trong quá trình kánh
loóng. Bè 1 và bè 2 là do những người trong vai trò “Con” sẽ gõ. Về mặt tiết
tấu, có thể thấy hai bè này hoàn toàn giống nhau. Tức là đều sử dụng tiết tấu
nghịch phách, chùm 3 nốt nhạc có móc kép trước, chùm 2 nốt móc đơn. Tuy
nhiên, người Thái đã rất khéo léo khi kết hợp hai bè này. Sự khéo léo, tinh tế
ấy thể hiện ở chỗ, mặc dù gõ âm hình tiết tấu giống nhau, nhưng âm sắc lại
khác nhau. Khi bè 1 gõ âm trầm (truỵch) thì bè 2 gõ âm trung (kang) và
ngược lại. Tức là luôn kẹp hai âm trầm và trung cùng vang lên. Hai bè này
liên tục thay đổi, lặp lại hai loại âm sắc này. Có thể nói, sự kết hợp cùng lúc
hai âm thanh trầm và trung chính là âm hưởng chủ đạo của bè 1 và bè 2.
Với bè 1 và bè 2, âm hình tiết tấu chủ đạo:
Mỗi đôi người gõ kánh loóng ở bè 1 và bè 2, sau khi gõ hai nhịp âm
hình tiết tấu như trên đây bằng âm trầm (truỵch), họ lại gõ đúng hai nhịp vẫn
tiết tấu như vậy nhưng bằng âm trung (kang). Âm hình tiết tấu chủ đạo này cứ
lặp đi lặp lại như vậy thành chu kỳ.
Bè 3 là những người trong vai trò làm “Cái” sẽ gõ. Bè này chơi âm
hình tiết tấu móc đơn trì tục. Bè 3 sử dụng hai âm là âm trầm (truỵch) và
94
trung (kang). Đặc điểm của bè 3, chỉ đơn thuần gõ đều đặn, giữ nhịp ổn định
cho các bè “Con” chơi những âm hình tiết tấu phức tạp hơn.
Âm hình tiết tấu chủ đạo của bè 3:
Âm hình tiết tấu này cứ lặp đi lặp lại đều đặn.
Mối tương quan giữa bè 3 với bè 1 và bè 2 cũng tạo nên những sắc thái,
đặc trưng âm nhạc.
Khi bè 3 gõ xuống âm trầm thì bè 1 và 2 nghỉ. Sau đó bè 3 gõ âm trung
(kang) trùng với bè 1 (truỵch) và 2 (kang). Giữa bè 3 với bè 1 và 2 tạo nên
một cảm giác như đối đáp lại với nhau. Theo chúng tôi thấy, chính sự kết hợp
theo cách thức như thế này đã tạo nên âm hưởng đặc trưng của bài kánh loóng
trong lễ mừng cơm mới.
- Bài dùng trong lễ tang [PL 5, tr.193]
Âm hình tiết tấu chính của bài kánh loóng trong lễ tang là ở bè 1 và bè
2. Những người chơi bè này trong vai trò là “Con”. Điểm đặc trưng của bài
loóng trong tang lễ chính là động tác Chọi hai cạnh đầu dùi vào nhau.
Từng đôi người chơi sử dụng hai cạnh đầu dùi Chọi vào nhau. Đây là
động tác khó thực hiện. Đòi hỏi người chơi phải khéo léo, nắm vững kỹ thuật,
quy tắc thực hiện.
95
Xét tổng thể bài kánh loóng trong tang lễ, âm hình chủ đạo chính là nét
tiết tấu sau:
Chúng tôi nhận thấy giữa bè 1 với bè 2 có sự kết hợp tinh tế giữa những
âm trầm, âm cao của loóng và chày.
Âm hình tiết tấu đặc trưng của bài kánh loóng này:
Đây chính là nét tiết tấu chính của bài kánh loóng do các cặp làm
“Con” gõ. Nhưng các cặp không gõ đồng thời một lúc mà chia ra theo một
nguyên tắc. Một cặp sẽ gõ trước 4 ô nhịp, đến ô nhịp thứ 5 của nét tiết tấu này
thì cặp thứ hai mới bắt đầu gõ. Điểm thú vị là cặp thứ hai lại gõ đúng nét tiết
tấu này nhưng họ vào sau cặp trước 4 ô nhịp. Chính nguyên tắc này tạo nên sự
đối nhau giữa tiết tấu móc đen và móc đơn của hai bè. Nói một cách khác,
việc kết hợp hai “giai điệu” như vậy chồng lên nhau tạo cảm giác như một
dạng “phức điệu”. Điều này thể hiện thẩm mỹ cao về âm nhạc của người Thái
Mai Châu một sự sáng tạo rất thú vị, tinh tế, sinh động.
Bè 3 do 2 người đảm nhiệm, có vai trò giữ nhịp cũng được gọi là “Cái”,
chỉ gõ âm hình tiết tấu trì tục, đều đặn để tạo một bè nền ổn định, như một
điểm tựa vững cho các bè khác. Hai người chơi bè này để chày nằm ngang
loóng khi gõ nhìn hình thức gần giống cách người Thái đánh trong múa sạp.
Bè này chỉ có hai âm thanh đó là Va dùi vào nhau và Dập xuống mặt của
loóng. Nhìn chung âm hưởng của bè này chỉ mang tính chất, chức năng của
một bè giữ nhịp.
96
Âm hưởng chủ đạo của bè 3:
Mối tương quan giữa bè 3 với bè 1 và 2 trong bài kánh loóng này
không có gì đặc biệt. Âm hưởng bè 3 có khoảng âm trung. Khi vang lên sẽ
kẹp cùng các âm trầm, cao của bè 1 và 2. Khi bè 1 và 2 vang lên nghe đã rất
đầy đặn, sự xuất hiện của bè 3 đôi khi hơi mờ nhạt.
2.3.5. Bài bản kánh loóng
Số lượng bài: Xưa kia, trong mỗi hình thức sinh hoạt văn hóa của
người Thái Mai Châu như lễ cơm mới, lễ chá chiêng, lễ xên bản, xên mường,
tang ma… thường có một bài kánh loóng riêng. Tuy nhiên, hiện nay nhiều bài
kánh loóng đã mất đi. Người Thái tại Mai Châu chỉ còn biết gõ 2 bài là kánh
loóng trong lễ mừng cơm mới và trong tang ma.
Tên gọi: Các bài kánh loóng hiện nay tại Mai Châu đã không còn giữ
được tên nữa. Chúng tôi đã hỏi một số nhà nghiên cứu văn hóa tại địa phương
cũng như nhiều người Thái cao tuổi biết về kánh loóng, nhưng đều không biết
tên gọi các bài nữa.
Loại nhịp: cả 2 bài kánh loóng đều có nhịp 2/4.
Cao độ của loóng: Ngoài phần tiết tấu, về âm thanh, loóng còn có
những độ cao khác nhau. Các cao độ này không thể xác định theo một thang
âm cụ thể nào, chỉ có thể xác định tương đối theo âm vực: trầm - trung - cao.
Cấu trúc âm nhạc: Có thể nhận thấy, 2 bài kánh loóng của người Thái
Mai Châu còn lại đến nay chỉ là dạng 1 câu nhạc (8 nhịp) được nhắc lại. Sự
nhắc lại ở đây cũng là nguyên dạng, không có thay đổi.
Trường hợp sử dụng: Xưa kia, mỗi bài kánh loóng được sử dụng cho
mỗi trường hợp cụ thể. Ngày nay, người Thái Mai Châu chỉ còn giữ được hai
bài là kánh loóng trong lễ cơm mới và trong tang lễ. Tuy nhiên, chính trong
hai lễ này bây giờ họ không tổ chức kánh loóng nữa. Họ sử dụng cho các
97
trường hợp mới như phục vụ du lịch, ngày Đại đoàn kết toàn dân, ngày Quốc
tế phụ nữ 8/3…
Tiểu kết
Trong chương 2 của luận án, các vấn đề trọng tâm được đề cập đến
gồm sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu trong giai đoạn
1954 – 1992 và 1993 – 2017; đồng thời luận án cũng chỉ ra các đặc trưng cơ
bản trong nghệ thuật kánh loóng.
Chúng tôi tìm hiểu sâu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái
Mai Châu trong giai đoạn 1954 – 1992, bao gồm các vấn đề cấu tạo loóng,
những quan niệm về sinh hoạt văn hóa kánh loóng, các trường hợp, hình thức
sử dụng loóng và ứng xử của người Thái Mai Châu với loóng. Tất cả vấn đề
này phản ánh rõ mối liên hệ giữa cộng đồng người Thái với loóng. Từ đó, cho
thấy tầm quan trọng của loóng đối với xã hội cổ truyền của người Thái Mai
Châu. Loóng có mặt trong nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, thể hiện những
quan niệm, cổ xưa và sự ứng xử của đồng bào với loóng.
Cùng với đó, chúng tôi tìm hiểu về những biểu hiện của sinh hoạt văn
hóa kánh loóng trong giai đoạn từ 1993 – 2017. Từ đó, cho chúng ta thấy rõ
sự biến đổi về nhiều mặt hình thức sinh hoạt văn hóa này. Những biến đổi thể
hiện ở các mặt như có một số quan niệm mới về sinh hoạt văn hóa kánh
loóng, các trường hợp sử dụng, sự ứng xử. Những biểu hiện của sinh hoạt văn
hóa kánh loóng trong đời sống người Thái Mai Châu giai đoạn này khác giai
đoạn trước rất nhiều. Sự thay đổi đó xuất phát từ những yếu tố khách quan,
điều kiện địa lý, hoạt động kinh tế du lịch, môi trường sống. Đó cũng là điều
hiển nhiên bởi các hiện tượng văn hóa dân gian cần có sự thay đổi để có thể
thích nghi, phù hợp với nhu cầu, thẩm mỹ, nhận thức của người Thái hiện nay.
Mục 2.3, chúng tôi đã trình bày chi tiết về nghệ thuật kánh loóng.
Trong đó, bao gồm các yếu tố cơ cấu tổ chức người diễn tấu, điều kiện diễn
98
tấu, phương thức và kỹ thuật diễn tấu, các nguyên tắc âm nhạc và bài bản
kánh loóng. Tất cả yếu tố này phản ánh tính nghệ thuật trong diễn tấu kánh
loóng. Rõ ràng, người Thái trải qua một thời gian rất dài, đã chắt lọc, sáng tạo
nên một hình thức nghệ thuật độc đáo. Thể hiện qua những tiết tấu đa dạng,
âm hưởng sinh động, sôi nổi.
99
Chương 3
NHỮNG BIỂU HIỆN TÍN NGƯỠNG VÀ VAI TRÒ PHỤ NỮ
THÁI MAI CHÂU TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA KÁNH LOÓNG
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng phản ánh những nét đặc trưng, độc đáo
trong quan niệm của người Thái Mai Châu. Đó là những biểu hiện về tín
ngưỡng và vai trò người phụ nữ Thái trong hình thức sinh hoạt văn hóa này.
3.1. Những biểu hiện tín ngưỡng
Tìm hiểu sinh hoạt văn hóa kánh loóng, chúng tôi nhận thấy có biểu
hiện một số tín ngưỡng cổ xưa của người Thái Mai Châu. Trong đó, có tín
ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ Mặt Trời, Mặt Trăng.
3.1.1. Tín ngưỡng phồn thực
3.1.1.1. Một số biểu hiện tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa Thái
Trong đời sống tâm linh của người Thái, cây hoa có vai trò rất quan
trọng. Ở các lễ hội Kin chiêng boóc mạy, Chá Mùn, Chá Một không thể thiếu
cây hoa. Biểu tượng cây hoa có nhiều lớp nghĩa, trong đó có nghĩa biểu tượng
về phồn thực. Theo Hoàng Anh Nhân:
Cây hoa rực rỡ sắc màu ấy, người xưa gửi gắm ẩn ý phần trên được
biểu hiện là dương vật, phần dưới biểu hiện là âm vật, giữa hai phần
ấy là trứng, là các loại động vật, là tô tem, là các công cụ làm ăn
sinh sống. Như vậy cây hoa là nơi biểu hiện tín ngưỡng phồn thực,
là loại tín ngưỡng xa xưa của con người [137, tr.129].
Cầm Trọng khi mô tả về lễ xên lẩu nó (cúng rượu măng) của người
Thái đã viết:
Bất thình lình, một đoàn múa với hình nộm dương vật làm bằng
khúc gỗ xuất hiện, cả cuộc vui rú lên như báo hiệu một cơn cuồng
loạn. Sau đó cuộc vui được phân thành nam, nữ đôi bên. Mỗi người
cầm một khúc lõi cây chuối để múa gọi là xe co cuổi (múa cây
100
chuối)… Khi tiến sát gần nhau, nam đâm thẳng cây chuối ra trước
mặt, nữ dương cây chuối lên đỡ. Cứ mỗi lần một cặp nam nữ đụng
chạm cây chuối, mọi người lại kêu đồng thanh ba tiếng: Xê! Xê!
Xê! Cuối cùng cuộc vui kết thúc bằng động tác đâm chuối và đỡ
chuối loạn xạ [142, tr.62].
Đỗ Đình Hãng và Vũ Trường Giang khi tìm hiểu về các lễ hội của
người Thái cũng nhận định:
Tín ngưỡng phồn thực là một hiện tượng rất phổ biến ở nhiều lễ hội.
Ở các lễ hội truyền thống của người Thái, tín ngưỡng phồn thực xuất
hiện nhiều và khá phong phú ở hội chơi hang và một số hội đầu
xuân. Tín ngưỡng phồn thực biểu hiện ở vật thờ cúng, ở biểu trưng
cây cỏ và được phản ánh trong các trò chơi, trò diễn mang tính nghi
lễ phong tục. Có thể thấy rất rõ qua các trò chơi tung còn, một trò
chơi không thể thiếu trong nhiều lễ hội [53, tr.25].
Như vậy, chúng ta thấy rằng, trong đời sống tâm linh của người Thái,
hiện vẫn còn lưu giữ lại khá rõ nét những biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực.
Có những công cụ tượng trưng cho sinh thực khí nam hoặc nữ được hóa thân
vào các vật thiêng, đồ thờ cúng dùng trong các nghi lễ. Bên cạnh đó, xuất hiện
cả những hành động, trò diễn tượng trưng cho việc giao phối được thực hiện
bởi các đôi nam nữ ở phần hội.
Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu hay còn gọi là lễ hội Cốm đã có từ lâu đời của
người Thái. Họ tổ chức lễ hội này để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng
bội thu, vạn vật sinh sôi phát triển, đồng thời lễ hội cũng là nơi giao lưu tình
cảm, gắn kết cộng đồng. Trong lễ hội Cốm, ngoài những khâu chuẩn bị lễ vật,
ở phần hội, không thể thiếu được sinh hoạt giã cốm.
Theo Nông Văn Nảo, Lò Thị Phào:
101
Nói là giã cốm, nhưng không cho cốm vào máng, cốm làm lễ, cốm
ăn đều giã cối tròn dùng tay giã hoặc chân đạp. Giã máng là cả hội
từng tốp, từng tốp thay nhau. Bên nam và bên nữ mỗi người cầm
đòn chày đứng hai bên máng giã đúng nhịp điệu: cùng, cùng, cùng,
các, cùng. Ba tiếng cùng mọi người đều giã xuống đáy, tiếng các là
mỗi cặp đối diện gõ ngọn chày vào nhau. Cứ độ ba mươi phút lại
thay tốp khác [97, tr.357].
Nông Văn Nảo, Lò Thị Phào còn cho rằng:“Lễ hội cốm là lễ hội mang
đậm ý nghĩa của tín ngưỡng phồn thực, ở lễ hội này ta sẽ cảm nhận được sự
giao hòa của đất trời, sự hòa quện của âm dương và sự giao lưu của vạn vật”
[97, tr.357].
Như vậy, cần khẳng định rằng trong đời sống văn hóa dân tộc Thái, tín
ngưỡng phồn thực vẫn tồn tại một cách rất sinh động, phong phú. Được biểu
hiện rõ ràng, trang trọng qua các nghi lễ, trò diễn trong lễ hội của họ.
3.1.1.2. Kánh loóng một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực
Người Thái có câu: thóc lúa ngồi trên, bạc tiền ngồi dưới (khẩu nặm
năng nưa, ngấn cắm năng tẩu). Điều đó đã cho thấy tầm quan trọng của cây
lúa đối với đời sống của người Thái xưa kia. Trải qua hàng chục thế kỷ trên
đồng ruộng nước, hệ thống thủy lợi của người Thái đã được tóm lược trong
câu: mương, phai, lái, lin. Đây là một sự sáng tạo trên cơ sở những kinh
nghiệm tích lũy được để dẫn nước tưới ruộng theo phương pháp thủ công.
Những biện pháp về thủy lợi thô sơ này đã xuất hiện cùng với việc ổn định
nơi cư trú, lập bản, dựng mường của người Thái.
Nông nghiệp phát triển cũng là cơ sở có nhiều các nghi lễ xuất hiện để
cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Hàng năm, vào dịp đầu
xuân, người Thái Mai Châu thường tổ chức lễ xên bản, xên mường. Đây là
thời điểm khởi đầu một năm, chuẩn bị cho vụ mùa mới, nên người Thái tổ
102
chức cúng lễ để cầu xin các loại ma như ma trời, ma đất, các vị thần, linh hồn
tổ tiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, không có sâu bệnh phá hoại mùa màng,
không có chim muông phá ruộng vườn, mọi người ai cũng khỏe mạnh, cộng
đồng vui vẻ đoàn kết. Trước đây, để chuẩn bị cho lễ xên bản, xên mường, tất
cả người Thái trong các bản cùng nhau làm các công việc cần thiết để ngày lễ
được đầy đủ, chu đáo, trang trọng. Vào ngày lễ chính thức, bao giờ cũng chia
ra thành phần lễ và phần hội. Ở phần lễ, sẽ có ông mo trong vai trò chủ tế đọc
lời mo mời thần linh về chứng giám cuộc lễ. Trong phần hội, có các trò chơi
dân gian được tổ chức rất sôi nổi, vui vẻ như bắn nỏ, đánh trống chiêng, ném
còn, hát khắp, đố chữ, thưởng thức các món ăn, đồ uống dân tộc. Và đặc biệt,
trong phần hội không thể thiếu sinh hoạt kánh loóng.
Sau mỗi vụ mùa, người Thái Mai Châu thường tổ chức lễ mừng cơm
mới (kin khau mờ). Trong lễ mừng cơm mới, người Thái sẽ chuẩn bị các đồ lễ
như giã gạo làm bánh, đánh bắt cá ngoài suối, đồ xôi ngũ sắc... Bắt đầu phần
lễ, ông mo thực hành các nghi lễ cúng mời tổ tiên, các vị thần về ăn cỗ. Trong
lúc ông mo cúng thì tất cả mọi người tổ chức các trò chơi dân gian như đánh
cù quay (Tó sáng), đánh trống chiêng, ném còn... Ở đầu sàn nhà, các thiếu nữ
Thái cầm chày theo nhịp của người cầm cái, các cô diễn lại động tác giã gạo.
Cùng với tiếng kể mo đều đều là tiếng trầm bổng của chày đánh máng có lót
rơm ở dưới và tiếng thập thịch của những bước chân cô gái nhún nhảy.
Phỏng vấn một số người Thái và các NNC văn hóa tại địa phương,
chúng tôi được cho biết:
“Trong lễ mừng cơm mới, nhiều người phụ nữ dân tộc Thái trong các
gia đình cùng nhau kánh loóng. Việc cầm chày giã vào lòng loóng là thể hiện
tín ngưỡng của chúng tôi, cầu cho mưa thuận gió hòa, mong vụ mùa sau bội
thu, bản mường no đủ”. [Bà Ngần Thị Tuyết, PL4.2, STT10, tr191].
103
“Trước đây, người Thái Mai Châu thường kánh loóng trong lễ Xên bản,
Xên mường, lễ mừng cơm mới, lễ chá chiêng. Chúng tôi thường kánh loóng
trong phần vui hội, sau các nghi lễ cầu cúng của thầy mo. Việc kánh loóng là
thể hiện tín ngưỡng mang tính tâm linh của dân tộc Thái chúng tôi”. [Bà Hà
Thị Tều, PL4.2, STT8, tr191].
“Người Thái Mai Châu tổ chức kánh loóng trong lễ khau mờ (mừng
cơm mới) có ý nghĩa cầu mong mùa màng tươi tốt, bội thu. Đó là biểu hiện tín
ngưỡng nông nghiệp”. [NNC Khà Văn Tiến, PL4.1, STT2, tr190].
“Người Thái Mai Châu kánh loóng trong các nghi lễ liên quan đến
nông nghiệp. Đó là biểu hiện tín ngưỡng phồn thực”. [NNC Lường Song
Toàn, PL4.1, STT1, tr190].
Chúng ta thấy rằng, trong các nghi lễ, lễ hội liên quan đến nông nghiệp
của người Thái Mai Châu, bao giờ cũng có sinh hoạt kánh loóng. Người Thái
Mai Châu gắn hành động giã cối trong lễ mừng cơm mới với tín ngưỡng phồn
thực. Tuy nhiên, cần phân tích sâu hơn, rộng hơn vấn đề này để lần ra dấu vết
về tín ngưỡng dân gian cổ xưa của một tộc người qua lớp sương mù lịch sử.
Thử tìm hiểu một công cụ có chức năng gần với loóng của người Thái –
đó là cối giã gạo của người Việt, từ quan niệm cổ xưa của người Việt về biểu
tượng cối giã gạo này, để đối chiếu, xem xét những điểm chung, chúng ta có
thể nhận biết rõ những vấn đề đằng sau sinh hoạt kánh loóng của người Thái.
Theo Lý Khắc Cung:
Dấu tích xưa nhất của tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ là
từng tượng đôi trai gái giao phối hồn nhiên trên nắp thạp đồng Đào
Thịnh. Trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ... bao quanh các
cánh sao – biểu tượng mặt trời – cũng có hình âm vật, dương vật.
Động tác giã cối được chạm khắc trên mặt trống đồng, thạp đồng
cũng là hình ảnh mờ nhạt của hành vi tính giao nam nữ [36, tr.12].
104
Cùng chung quan điểm, Trần Ngọc Thêm đã nói cụ thể hơn: “Thời xa
xưa, chày và cối – bộ công cụ thân thiết của người nông nghiệp Đông Nam Á
– đã là những vật tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo
là tượng trưng cho việc giao phối” [123, tr.130].
Cũng theo Trần Ngọc Thêm:
Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người Việt cổ
lớn tới mức chiếc trống đồng - biểu tượng sức mạnh và quyền lực
của người xưa đồng thời cũng là biểu tượng toàn diện của tín
ngưỡng phồn thực. Trước hết, hình dáng trống đồng được phát triển
từ chiếc cối giã gạo. Thứ hai, cách đánh trống đồng theo lối cầm
chày dài mà đâm lên mặt trống được khắc trên chính các trống đồng
và còn được bảo lưu ở người Mường hiện nay là mô phỏng động tác
giã gạo – động tác giao phối [122, tr.131].
Như vậy, quan điểm của các NNC đều có chung nhận định về mối liên
hệ giữa chày và cối với tín ngưỡng phồn thực. Tuy nhiên, cần phân tích, lí
giải sâu hơn vấn đề này, để hiểu được mối liên hệ giữa một nông cụ với một
tín ngưỡng dân gian cổ xưa. Trước hết, chúng ta có thể thống nhất rằng đối
với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước tại khu vực Đông Nam Á cổ, những
quan niệm, tín ngưỡng dân gian cơ bản là tương đồng với nhau. Do vậy, khi
các nhà nghiên cứu có đưa ra nhận định về quan niệm chày và cối với tín
ngưỡng phồn thực của người Việt hay của cư dân Đông Nam Á thì loóng của
người Thái cũng không nằm ngoài nhận định này. Bởi các tộc người cùng
sinh sống trên một cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ, có sự tiếp xúc, gắn bó
lâu đời dẫn đến họ có cùng phương thức sản xuất, trồng trọt, quan niệm, tâm
thức cũng là điều dễ hiểu.
Cùng với đó, theo quan điểm của Trịnh Sinh khi lý giải mối quan hệ
giữa văn hóa Đông Sơn với người Thái cổ từ góc độ khảo cổ học và ngôn ngữ
105
học, tác giả đã cho rằng: “… ngay từ thời văn hóa Đông Sơn, người Thái cổ đã
có mặt tại nước ta từ thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên. Sau đó, những lớp
người Thái đến sau tiếp tục di cư bổ sung…” [108, tr.112]. Cũng theo Trịnh
Sinh: “Nghiên cứu về các di tích phân bố văn hóa Đông Sơn, có thể giúp chúng
ta hiểu rõ hơn về một cộng đồng đã có mặt từ thời gian này và đóng góp vào sự
hình thành người Việt. Đó là cộng đồng người Thái cổ” [108, tr.110].
Từ mối liên hệ khăng khít giữa người Việt và người Thái cổ xưa trên
đất nước ta, cùng với việc các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy nhiều trống đồng,
thạp đồng ở những vùng có nhiều người Thái sinh sống. Đã có thể cho chúng
ta đi đến nhận định rằng những dấu vết về sinh hoạt kánh loóng vẫn còn được
lưu lại trên các trống đồng cổ. Hay nói cụ thể hơn, sinh hoạt kánh loóng của
người Thái biểu hiện tín ngưỡng phồn thực đậm nét, xuất hiện từ thời cổ xưa,
gắn chặt với đời sống cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Ở đây một vấn đề cũng cần bàn thêm, đó là việc chúng tôi có sự đồng
nhất về hình ảnh cối giã gạo của người Việt cổ được lưu lại trên trống đồng
với loóng của người Thái. Đây đều là những nông cụ, được cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước xưa kia sử dụng trong quá trình lao động. Chúng tôi
không có tham vọng giải thích rõ vấn đề hình ảnh cối giã gạo còn lưu giữ lại
trên trống đồng Đông Sơn có phải là loóng hay không? Bởi rất rõ ràng, cối
giã gạo và loóng hoàn toàn khác nhau về hình dạng và một số chức năng. Đặc
biệt, loóng đã được người Thái phát triển thành nhạc cụ gõ. Còn cối giã gạo
không được coi là nhạc cụ. Tuy vậy, với cách nhìn nhận các nông cụ này dưới
góc độ tín ngưỡng phồn thực, thì dù là cối hay loóng cũng đều là những hình
ảnh sinh động, tượng trưng cho sinh thực khí. Hơn thế nữa, chúng ta biết
rằng, vào thời kỳ cổ xưa, các công cụ của con người thường mang tính
nguyên hợp, đa năng. Lâu dần, cùng với sự phát triển của xã hội, chúng mới
dần được chuyên biệt hóa. Chúng tôi không khẳng định hình ảnh cối giã gạo
106
trên trống đồng Đông Sơn là loóng với tư cách một nhạc cụ gõ. Mà chỉ dám
đặt giả thuyết để nghiên cứu rằng vào thời kỳ Đông Sơn, rất có thể người Việt
cổ và người Thái cổ cùng sử dụng một nông cụ đồng dạng với nhau đó là
loóng. Trải qua thời gian, bao thăng trầm của lịch sử, người Việt đã không
còn sử dụng một dạng nông cụ giống như loóng nữa. Nhưng do vị trí địa lý,
văn hóa, phong tục tập quán... đã cho phép người người Thái bảo lưu được
một nông cụ cũng như một hình thức sinh hoạt văn hóa cổ xưa này.
Theo Đỗ Lai Thúy:
Những hình ảnh, biểu tượng, ám chỉ của tín ngưỡng phồn thực (âm
vật, dương vật, hành vi tính giao) đã trở thành những mẫu cổ tồn tại
trong “vô thức tập thể”, trong kho ký ức chung của cả cộng đồng
người Việt. Trong diễn trình lịch sử, gặp khi có điều kiện thuận lợi,
chúng lại xuất hiện trong các loại hình văn hóa dân gian và các sáng
tác cá nhân [133, tr.20].
Từ một ký ức chung của cộng đồng người trên đất nước ta về những
biểu tượng, hình ảnh của tín ngưỡng phồn thực, đã xuất hiện rất đa dạng,
phong phú các hình thức biểu hiện ở mỗi tộc người. Kánh loóng cũng là một
hình thức như vậy. Trở lại với sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái
Mai Châu, việc kánh loóng trong sinh hoạt văn hóa tâm linh là một hành vi thị
phạm bằng một hình thức nghệ thuật để cầu mong sự sinh sôi nảy nở. Có lẽ,
trong nhiều cách thức, công cụ để tượng trưng cho hành động tính dục, thì
kánh loóng biểu hiện rõ ràng, sinh động hơn cả. Chúng ta biết rằng, những
hình thức sinh hoạt văn hóa gắn với nghi lễ tín ngưỡng thường mang theo dấu
tích cổ xưa của một tộc người. Bên cạnh đó, theo chúng tôi, các nhạc cụ gõ là
loại có lịch sử lâu đời, nếu như không muốn nói là lâu đời nhất. Trong số
nhạc cụ hiện nay còn dùng ở các tộc người, thì nhạc cụ gõ thường gắn với
sinh hoạt cộng đồng, nghi lễ, phong tục mang tính chất biểu tượng và linh
107
thiêng, mà thường lĩnh vực linh thiêng ấy đều gắn với cái cổ, cái nguyên sơ.
Kánh loóng rõ ràng là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian gắn với tín
ngưỡng cổ xưa, quan trọng trong đời sống, nhận thức của người Thái Mai
Châu. Chính vì thế, trải qua hàng nghìn năm, sinh hoạt văn hóa kánh loóng
vẫn tồn tại.
Tín ngưỡng phồn thực thuở nguyên sơ vốn là một quan niệm gắn bó rất
chặt chẽ với quan niệm tín ngưỡng nông nghiệp, là tín ngưỡng cơ bản nhất
của cư dân trồng trọt, nó rất phong phú và đã ảnh hưởng sâu đậm tới sinh hoạt
xã hội ở nông thôn. Nó không phải là hiện tượng dâm tục mà là ước vọng
cơm no áo ấm ngàn đời của cư dân luôn phải “trông trời, trông nước, trông
mây” để làm nông nghiệp.
Qua sự lý giải trên, thấy rằng sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người
Thái Mai Châu biểu hiện tín ngưỡng phồn thực rất đậm nét. Đây là một tín
ngưỡng dân gian cổ xưa phổ biến trong cộng đồng cư dân nông nghiệp trồng
lúa nước. Việc người Thái Mai Châu vẫn bảo lưu được hình thức sinh hoạt
văn hóa độc đáo này thể hiện được những giá trị văn hóa của một tộc người.
Từ một công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, họ đã phát triển thành một
nhạc cụ sử dụng trong các nghi lễ quan trọng trong đời sống tâm linh. Điều đó
thể hiện tính thẩm mỹ, sự sáng tạo, ước vọng cổ sơ của người Thái Mai Châu.
3.1.2. Tín ngưỡng thờ Mặt Trời, Mặt Trăng
Người Thái tại Mai Châu Hòa Bình vẫn quan niệm rằng sinh hoạt kánh
loóng ra đời từ hiện tượng Ếch ăn trăng, tiếng Thái thường gọi là Cộp kin
bươn. Đây là hiện tượng nguyệt thực. Xưa kia, mỗi khi có nguyệt thực, tất cả
các bản Thái đều mang loóng ra gõ. Ở trường hợp này, tiết tấu kánh loóng sẽ
rất nhanh, nhộn nhịp. Cũng chính từ đó mà kánh loóng trở thành hoạt động
tinh thần quen thuộc của người Thái Mai Châu.
108
“Xưa kia, mỗi khi có Nguyệt thực, tất cả bản mường đều mang loóng
ra gõ để xua đuổi Ếch ăn Mặt Trăng”. [Bà Ngần Thị Tuyết, PL4.2, STT10,
tr191].
Thần thoại giải thích nguyệt thực là những chuyện kể nằm trong hệ
thống thần thoại về Mặt Trời, Mặt Trăng hết sức phổ biến ở Việt Nam và trên
thế giới. Có nhiều thần thoại lý giải việc xuất hiện nguyệt thực trong những
nền văn hóa cổ xưa, khi loài người chưa có đủ kiến thức khoa học để chỉ ra
những nguyên nhân thực sự.
Theo truyền thuyết của người Inca (một nền văn minh cổ ở Nam Mỹ)
thì khi nguyệt thực xảy ra là lúc có một con báo jaguar (báo đốm Nam Mỹ)
tấn công và ăn Mặt Trăng. Mặt Trăng bị chảy máu nên mới trở nên đỏ sẫm
như vậy. Họ còn sợ rằng sau khi ăn Mặt Trăng, con báo sẽ lao xuống Trái Đất
và ăn thịt người. Vậy nên mỗi lần thấy hiện tượng này, người Inca thường tập
trung nhau lại, vung giáo hướng về Mặt Trăng đồng thời gây ra nhiều tiếng
động, tiếng hò hét... để xua đuổi con báo [191].
Ở phương Đông, bản thân từ thực trong nguyệt thực (và cả nhật thực) ở
tiếng Việt là lấy lại từ tiếng Hán (và chuyển thể sang Hán-Việt) có nghĩa là ăn
hay bị ăn. Theo truyền thuyết của người Trung Quốc thì nguyệt thực là khi có
một con rồng nuốt Mặt Trăng, và muốn nó nhả ra thì cần phải gây nhiều tiếng
động để đuổi nó đi [191].
Chúng ta nhận thấy, xuyên suốt các câu chuyện kể là motif có một con
vật xấu xí hoặc to lớn, dữ tợn ăn Mặt Trăng. Đồng thời, khi xảy ra hiện tượng
nguyệt thực, tộc người nào cũng cố gắng tạo nên những tiếng động mạnh mẽ
bằng các công cụ cổ xưa để xua đuổi con vật ăn Mặt Trăng đó đi.
Tìm hiểu thần thoại về Mặt Trời, Mặt Trăng của người Thái Mai Châu
có ý nghĩa làm sáng tỏ cách lý giải nguyên sơ về một hiện tượng tự nhiên, qua
đó thấy được tâm thức của người Thái cổ xưa. Ngoài ra, chuyện kể còn ẩn
109
chứa những quan niệm liên quan đến tín ngưỡng, phong tục gắn với cội nguồn
văn hóa chung của các dân tộc ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Thanh Trâm có một nghiên cứu rất công phu chuyện
thần thoại về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực của các tộc người tại Việt
Nam và khu vực Đông Nam Á. Trong kết quả nghiên cứu, tác giả đã nhận
định rằng qua câu chuyện kể của các tộc người về hiện tượng tự nhiên này là
biểu hiện tính dục và đề cao vai trò Mặt Trăng, Mặt Trời. Chúng tôi đặc biệt
chú ý đến một nhận định của tác giả khi cho rằng phong tục, nghi lễ được
thực hiện của các tộc người khi có hiện tượng nhật thực, nguyệt thực là biểu
hiện tín ngưỡng thờ Mặt Trăng, Mặt Trời. Tác giả cho rằng:
Hầu hết thần thoại ở các dân tộc Việt Nam và Đông Nam Á đều kể
mỗi khi có nhật thực, nguyệt thực, người trần gian khua chiêng,
đánh trống, giã cối không và hò hét ầm ĩ khiến những kẻ "ăn" mặt
trời, mặt trăng sợ phải bỏ đi, vì người ta sợ mặt trời, mặt trăng bị
che lấp sẽ có hại đến mùa màng. Motif này, một mặt giải thích
nguyên nhân nhật thực, nguyệt thực chỉ xảy ra trong một khoảng
thời gian ngắn, mặt khác, có thể thấy là sự du nhập motif dân tộc
học vào chuyện kể. Xuất phát từ vai trò to lớn của mặt trời, mặt
trăng, nỗi sợ hãi trước sự biến mất của mặt trời, mặt trăng sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến mùa màng và đời sống con người, những cư
dân sản xuất nông nghiệp lúa nước đã thực hành nghi lễ xua đuổi kẻ
"ăn" mặt trời, mặt trăng mỗi khi có hiện tượng nhật thực, nguyệt
thực. Phong tục này rõ ràng xuất phát từ tín ngưỡng thờ mặt trời,
mặt trăng, một tín ngưỡng nông nghiệp phổ biến ở Đông Nam Á…
Trong thần thoại giải thích nhật thực, nguyệt thực, tục đánh chiêng,
trống, giã cối không, hò hét ầm ĩ nhằm xua đuổi kẻ che lấp mặt trời,
mặt trăng đã in hình lên chuyện kể một cách sinh động, nguyên sơ.
110
Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của tín ngưỡng, phong tục dân gian
lên truyện kể cũng như sự phổ biến của nghi lễ thờ mặt trời, mặt
trăng trong đời sống sinh hoạt văn hóa của các dân tộc [136, tr.285].
Tác giả cũng tổng kết những nét tương đồng trong các chuyện thần
thoại về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực của các tộc người khu vực Đông
Nam Á:
Tục đánh chiêng, trống, giã cối không, hò hét đuổi kẻ "ăn" mặt trời,
mặt trăng ở nhiều dân tộc cũng đều đi vào chuyện kể, tạo thành sự
gắn kết giữa thần thoại và tín ngưỡng, nghi lễ dân gian. Có thể thấy,
những điểm tương đồng này xuất phát từ cội nguồn văn hóa chung
của cư dân Đông Nam Á thời tiền sử. Theo các tài liệu văn hóa học,
Đông Nam Á là một khu vực lịch sử văn hóa thống nhất trong đa
dạng, có chung cơ tầng văn hóa nông nghiệp lúa nước. Các dân tộc
cư trú ở khu vực này đều có chung những tín ngưỡng, phong tục, lễ
hội liên quan đến cây lúa nước như tín ngưỡng hồn lúa, tín ngưỡng
thờ nước, tín ngưỡng thờ mặt trăng, mặt trời… Hình thành từ cơ
tầng văn hóa bản địa đó, văn học dân gian của các dân tộc trong khu
vực có nhiều truyện kể và motif tương đồng như huyền thoại về nạn
hồng thủy, motif quả bầu, huyền thoại về nguồn gốc của lửa, motif
giải thích nhật thực, nguyệt thực [136, tr.286].
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh Trâm về các chuyện thần thoại
của Việt Nam và các nước Đông Nam Á liên quan đến hiện tượng nhật thực,
nguyệt thực, tác giả đã đưa ra một số nhận định rất có giá trị. Trong đó, đáng
chú ý khi Nguyễn Thanh Trâm lý giải rằng hiện tượng tự nhiên này được gắn
với câu chuyện kể là thể hiện tín ngưỡng thờ Mặt Trăng, Mặt Trời. Chúng tôi
cũng đồng quan điểm với tác giả ở nhận định như vậy. Bởi đối với cư dân
nông nghiệp trồng lúa nước thì Mặt Trời, Mặt Trăng không chỉ đem lại sự
111
sống cho con người mà còn ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng, phát
triển và năng suất của cây trồng. Theo quan niệm phổ biến trên thế giới, Mặt
Trời là nguồn năng lượng duy trì sự sống, là biểu tượng của ánh sáng và
quyền uy, còn Mặt Trăng lại tác động đến nước, đến chu kỳ sinh trưởng của
sinh vật dưới nước và vì vậy được xem là ngọn nguồn và biểu tượng của sức
sinh sản. Chính vì thế, việc người xưa tôn thờ Mặt Trời, Mặt Trăng và gắn với
các câu chuyện kể là một quan niệm rất cổ xưa. Nó thể hiện sự nhận thức,
niềm tin, tín ngưỡng dân gian từ thủa xa xưa của loài người.
Như đã nói ở trên, người Thái Mai Châu thường kánh loóng khi có hiện
tượng nguyệt thực (ếch ăn trăng).Trong câu chuyện kể liên quan đến kánh
loóng, bao giờ cũng được người Thái kể lại gắn với hiện tượng nguyệt thực
mà họ gọi là Ếch ăn trăng. Thậm chí, người Thái còn cho rằng sinh hoạt kánh
loóng ra đời từ hiện tượng nguyệt thực (ếch ăn trăng). Từ đây, chúng ta có thể
nhận thấy trong tâm thức của người Thái, hiện tượng nguyệt thực và kánh
loóng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phỏng vấn một số người Thái và các NNC văn hóa tại địa phương,
chúng tôi được cho biết:
“Mỗi khi có Nguyệt thực, người Thái chúng tôi cảm thấy lo sợ một
điều không may sắp xảy đến, ảnh hưởng đến mùa màng, cuộc sống. Vì thế,
các bản Thái mang loóng và các vật dụng khác ra gõ càng to càng tốt. Gõ đến
khi nào Mặt Trời và Mặt Trăng tách ra thì mới dừng lại”. [Bà Hà Thị Tều,
PL4.2, STT8, tr191].
“Nguyệt thực là lúc con Ếch ăn Mặt Trăng. Hiểu đầy đủ có nghĩa là con
Ếch ăn nằm với Mặt Trăng. Nếu cứ để như vậy sẽ sinh ra nhiều Mặt Trời. Khi
đó sẽ rất nóng và ảnh hưởng đến mùa màng. Vì vậy, cần gõ loóng để xua đuổi
con Ếch đi”. [NNC Hà Công Tín, PL4.1, STT3, tr190].
“Xưa kia, khi có Nguyệt thực, người Thái Mai Châu thường cho rằng
đó là hiện tượng Ếch ăn Trăng. Mỗi khi như vậy, tất cả các bản Thái đều
112
mang loóng ra gõ rất sôi nổi. Tôi nghĩ rằng, thực chất đây là hiện tượng tự
nhiên phổ biến. Người Thái chúng tôi là cư dân nông nghiệp, sinh sống, nuôi
trồng phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Mặt Trăng và Mặt Trời rất quan trọng đối
với quá trình sản xuất nông nghiệp. Vì thế, mỗi khi Nguyệt thực, người Thái
rất lo sợ ảnh hưởng đến mùa màng”. [NNC Lường Song Toàn, PL4.1, STT1,
tr190].
Như vậy, có thể nhận thấy người Thái quan niệm tương đối thống nhất
về hiện tượng Nguyệt thực. Thực chất, họ đều lo sợ Nguyệt thực sẽ ảnh hưởng
đến mùa màng. Vấn đề ở đây cần lý giải tại sao khi có Nguyệt thực, người
Thái Mai Châu lại mang loóng ra gõ?
Khi xem xét loóng của người Thái Mai Châu, về mặt trực quan, chúng
ta thấy rằng loóng là một công cụ có kích thước to và rộng. Thông thường,
chiều dài của loóng có thể đến 3m, chiều rộng 0,5m. Khi có nhiều người cùng
cầm chày giã vào lòng loóng sẽ tạo nên những âm thanh đầy sức mạnh, rung
chuyển làng bản, núi rừng. Khi giã xuống đáy loóng sẽ tạo nên những âm
trầm, đục nghe như tiếng sấm rền. Khi gõ vào thành loóng tạo ra tiếng nghe
đanh thép như tiếng sét. Những âm thanh như sấm với sét đầy sức mạnh, rất
dễ tạo cho con người liên tưởng đến sự kết nối với trời đất, thần linh, các đấng
siêu nhiên. Vào thời kỳ cổ xưa, nhận thức của con người về thế giới tự nhiên
còn hạn chế, có thể loóng là một công cụ có sức mạnh để con người sử dụng
vào những nghi lễ, quan niệm cổ xưa.
Nguyệt thực là một hiện tượng tự nhiên, ít nhiều có ảnh hưởng đến quá
trình sản xuất của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Loóng lại là một công
cụ phục vụ nông nghiệp. Trong rất nhiều công cụ thời kỳ cổ xưa, con người
đã chọn một nông cụ gắn bó mật thiết với quá trình tạo ra hạt gạo nuôi sống
họ để gõ khi có nguyệt thực. Đằng sau những âm thanh rộn ràng, linh hoạt,
thúc giục mạnh mẽ đó là những ước vọng về sự sinh sôi, nảy nở, mùa màng
tươi tốt, bội thu. Ước vọng không bị thiên nhiên tác động, ảnh hưởng đến sinh
113
trưởng của cây trồng. Từ những điều mong ước đó đã dẫn đến việc người
Thái cổ xưa tôn thờ Mặt Trăng, Mặt Trời, những yếu tố tự nhiên ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc sống của họ.
Như vậy, chuyện kể về hiện tượng nguyệt thực của người Thái Mai
Châu gắn với sinh hoạt văn hóa kánh loóng cũng thuộc nhóm những chuyện
kể lý giải hiện tượng nhật thực, nguyệt thực phổ biến tại Việt Nam và các
nước Đông Nam Á. Qua nghiên cứu của Nguyễn Thanh Trâm cũng như sự lý
giải mối liên hệ giữa câu chuyện kể của người Thái Mai Châu, đã cho phép
chúng tôi nhận định rằng: sinh hoạt văn hóa kánh loóng biểu hiện tín ngưỡng
thờ Mặt Trăng, Mặt Trời, một tín ngưỡng phổ biến trong đời sống cư dân
nông nghiệp.
3.2. Vai trò phụ nữ Thái Mai Châu
Tìm hiểu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái huyện Mai
Châu, chúng tôi nhận thấy chỉ phụ nữ tham gia kánh loóng. Vấn đề này chứa
đựng những quan niệm của người Thái cổ xưa về việc phân công lao động
theo giới cũng như những điều cấm kỵ. Việc phân công lao động này bởi lý
do gì? Biểu hiện như thế nào qua sinh hoạt văn hóa kánh loóng? Chúng tôi sẽ
cố gắng lý giải những vấn đề trên, từ đó góp phần làm rõ hơn vai trò người
phụ nữ Thái Mai Châu qua sinh hoạt văn hóa kánh loóng.
Trong những ngày vui, lễ hội như xên bản, xên mường, lễ chá chiêng,
đám cưới, tang ma, lễ mừng cơm mới... những người phụ nữ Thái Mai Châu
đều kánh loóng. Phụ nữ tham gia kánh loóng không phụ thuộc vào tuổi tác,
công việc hay địa vị xã hội. Ai có thể biết gõ thì đứng vào đội hình để thực
hiện. Thông thường, những phụ nữ tuổi trung niên có nhiều kinh nghiệm hơn
trong việc kánh loóng có thể truyền dạy cho lớp thiếu nữ trẻ qua những buổi
lao động hoặc các dịp lễ hội. Theo nhiều người Thái Mai Châu cho biết, khởi
thủy sinh hoạt văn hóa kánh loóng xuất phát từ việc những người phụ nữ cùng
114
giúp nhau giã lúa trong những ngày mỗi gia đình cần nhiều gạo để lo công
việc như ma chay, cưới hỏi... Trong quá trình cùng giã lúa như vậy, sự va đập
giữa chày với loóng, hoặc chày va vào chày đã gợi cho người phụ nữ Thái
những ý tưởng ban đầu về các âm hình tiết tấu. Rõ ràng, nếu cùng nhau giã
lúa, có kết hợp tiết tấu sẽ khiến cho quá trình lao động bớt mệt nhọc. Như
vậy, quá trình người phụ nữ giã lúa, đã làm nảy sinh một hình thức sinh hoạt
văn hóa.
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng biểu hiện nhiều nét đặc trưng, độc đáo
trong văn hóa của người Thái Mai Châu, đồng thời, còn gắn chặt với vai trò
người phụ nữ. Có một vấn đề chúng tôi muốn tìm hiểu, đó là tại sao chỉ có
phụ nữ tham gia kánh loóng? Phải chăng vì họ là người đảm nhiệm công việc
nội trợ, dẫn đến việc giã lúa lấy gạo nấu cơm là do họ thực hiện? Có lý do nào
khác đằng sau vấn đề này không? Việc phân công lao động theo giới, hay
những vấn đề về vai trò người phụ nữ trong xã hội cổ xưa đều rất đặc biệt, đã
được nhiều học giả nghiên cứu. Có những điều khác biệt mà trong xã hội
ngày nay, khi thấy hiện tượng như vậy, chúng ta cảm thấy khó hiểu và không
giải thích được. Nếu lý giải được vấn đề này, có thể sẽ hé mở phần nào quan
niệm, nhận thức của người Thái cổ xưa về những sinh hoạt trong xã hội
nguyên thủy.
3.2.1. Tìm lời giải từ trong đời sống xã hội cổ xưa
Để lý giải vấn đề này, trước tiên chúng tôi đi từ việc trồng trọt của
người Thái. Cầm Trọng đã cho rằng: “Trên cơ sở những đặc điểm về tự nhiên,
về địa vực cư trú, về tập quán và kỹ thuật sản xuất v.v... rõ ràng kinh tế trồng
trọt là yếu tố quyết định sự tồn tại xã hội cổ truyền của người Thái. Và lúa trở
thành sản phẩm chủ đạo của nền sản xuất” [140, tr.91]. Kỹ thuật làm ruộng
nước theo phương pháp cổ truyền của người Thái đã đạt tới trình độ phát triển
nhất định. Tiêu biểu cho kỹ thuật sản xuất có thể nói đến hệ thống thủy lợi
được tóm tắt trong câu thành ngữ: mương, phai, lái, lin.
115
Với một tộc người có lịch sử lâu đời, đồng thời đã đạt được những
thành quả đáng kể trong kỹ thuật canh tác nông nghiệp, rõ ràng người Thái đã
phải trải qua một quá trình hình thành, phát triển rất lâu dài mới tích lũy được
những kinh nghiệm như vậy. Từ việc đời sống người Thái gắn liền với cây lúa
là cơ sở nảy sinh các tín ngưỡng dân gian, quan niệm và cả những điều cấm
kỵ trong sinh hoạt và sản xuất.
Tìm hiểu Ẳm Ệt1 của người Thái Mai Châu, nơi còn lưu giữ nhiều vấn
đề về lịch sử xã hội, các triết lý dân gian, những nhận thức giản đơn về vũ
trụ... chúng tôi nhận thấy trong đó có nhắc đến nhiều về kẻng lóng2 và chày
cối. Như trong chuyện Sinh ra con người (Ẳm óc cần), có đoạn: “Biết Kẻng
lóng máng lợn, máng chó lên không?” [112, tr.602]. Theo như nhóm tác giả
cuốn sách, có chú thích rằng kẻng lóng có nghĩa là trẻ con người Thái xưa,
hay dùng que làm chày, khua máng cho lợn ăn, bắt chước người lớn kẻng lóng.
Hoặc như trong chuyện Sinh ra mo (Ẳm óc mo), cũng có đoạn: “Còn Kẻng – lóng
mang cho lợn cho chó ăn” [112, tr.666]. Cũng theo nhóm tác giả, ở đây kẻng lóng
được chú thích có nghĩa là lấy chày giã gạo gõ theo nhịp vào máng chày lúa. Chúng
tôi cho rằng, việc kẻng lóng được nhắc đến trong Ẳm Ệt biểu hiện hai vấn đề: Thứ
nhất, đây là sinh hoạt lao động quan trọng, phổ biến trong đời sống người Thái cổ.
Thứ hai, dường như từ rất xa xưa, người Thái đã định hình được một hình thức sinh
hoạt văn hóa nghệ thuật - kánh loóng.
Chúng tôi đặc biệt chú ý tới câu chuyện sử thi Thái có nhắc đến
người phụ nữ với việc giã lúa. Như trong chuyện Mở họng trời (khay pác
phạ), có đoạn:
Ở Mường Trời, Mường Mây cao xa
Nó ở sân nhà Then, gái giã gạo
Nó ở sân nhà Then, gái chày lúa 1Ẳm Ệt: Sử thi thần thoại dân tộc Thái Mai Châu. 2Kẻng Lóng: cũng đồng nghĩa với từ Kành Loóng (gõ máng).
116
Hết năm nó vỗ cánh gáy
Trên cối: Gái nhà Then hay giã gạo
Lên trên máng chày lúa nhà Then nó gáy... [112, tr.585]
Trong quan niệm của người Thái, vũ trụ có bốn mường: Mường Trời,
Mường Trời giữa, Mường Lúm (mường trần gian), dưới đất có Mường Lúng
Lỉnh. Người Thái luôn tin rằng ở dưới Mường trần gian có cái gì thì trên
Mường Trời cũng có cái đó. Trong đoạn sử thi trên, người Thái kể rằng, trên
Mường Trời có “gái giã gạo”, “gái chày lúa”, “gái nhà Then hay giã gạo”.
Điều đó có nghĩa rằng ở Mường Trần gian cũng có hoạt động của người phụ
nữ Thái gắn với việc giã gạo, giã lúa. Chúng tôi tìm trong Ẳm Ệt, không thấy
chỗ nào có ghi chép về việc đàn ông kánh loóng hoặc những hoạt động gắn
với chày và cối. Trong đoạn trích của sử thi trên đây, phần nào đã thấy được
vai trò người phụ nữ Thái cổ xưa trong sinh hoạt lao động giã lúa. Trở lại vấn
đề liên quan đến vai trò người phụ nữ Thái trong việc giã lúa. Ngày nay, theo
cách hiểu thông thường, đương nhiên do người phụ nữ lo công việc nội trợ
nên việc giã lúa lấy gạo nấu cơm là phần việc của họ. Trong xã hội nguyên
thủy, liệu đã có sự phân định rạch ròi vai trò nội trợ của người phụ nữ như
hiện nay chưa? Việc phân công lao động này xuất phát từ vai trò người phụ
nữ trong cộng đồng hay bởi một quan niệm nào khác?
“Việc kánh loóng từ xưa đến nay chỉ có người phụ nữ Thái thực hiện.
Đàn ông không bao giờ kánh loóng. Có thể do chúng tôi thường lo việc nấu
nướng nên phải giã lúa (kánh loóng)”. [Bà Ngần Thị Tuyết, PL4.2, STT10,
tr191].
“Từ xưa chỉ có phụ nữ kánh loóng. Đàn ông không ai kánh loóng. Có
thể xưa kia người Thái đã có sự phân công lao động theo giới. Vì vậy, kánh
loóng là việc chỉ người phụ nữ thực hiện; đàn ông không tham gia”. [NNC
Khà Văn Tiến, PL4.1, STT2, tr190].
117
3.2.2. Vấn đề phân công lao động theo giới
Khi bàn về việc phân công lao động theo giới trong xã hội nguyên thủy,
Robert Lowie1 đã cho rằng: “Sự phân công lao động này, trong một chừng
mực lớn, là theo ước lệ, nghĩa là nó không gắn chút nào với đặc điểm sinh lý
của hai giới” [154, tr.102]. Điều này có nghĩa rằng, sự phân công lao động
theo giới không phải do nam giới có sức mạnh, sự nhanh nhẹn lớn hơn phụ nữ
hay ngược lại. Cũng theo Robert Lowie: “Theo nhiều khả năng, đàn bà là
những người đầu tiên trồng trọt, bởi vì trong các cộng đồng người đi săn, luôn
luôn phụ nữ phải cung cấp thức ăn thực vật” [154, tr.104]. Robert Lowie nhận
định: “… các hình thức nguyên thủy của việc canh tác luôn luôn phó thác cho
nữ giới” [154, tr.103].
Như vậy, trong xã hội nguyên thủy, dường như việc phân công phụ nữ
trồng trọt, đàn ông đi săn là rất phổ biến. Điều này cũng chỉ cho chúng ta
thấy, ngay từ buổi đầu bình minh của xã hội loài người, đã có sự phân công
lao động theo giới. Khi con người biết sản xuất, trồng trọt, sự phân công này
càng trở nên rõ ràng hơn. Vậy điều gì khiến cho con người từ thời nguyên
thủy đã có ý thức trong việc phân công lao động theo giới?
Tiếp tục tìm hiểu, chúng ta thấy giã lúa là một trong nhiều khâu của
quá trình làm ra hạt gạo: gieo mạ - cấy lúa - chăm sóc lúa - gặt lúa - phơi lúa
- giã lúa - giã thóc, từ đây mới có hạt gạo để nấu cơm. Trong quá trình vừa
nêu, giã lúa là khâu gần cuối. Cho đến ngày này, những phần việc của quá
trình vừa nêu vẫn do phụ nữ thực hiện. Người đàn ông chỉ làm các công việc
như làm cỏ, dẫn nước vào đồng, cày, bừa. Những phần việc còn lại đều do
phụ nữ làm. Chúng ta thấy rằng, phần việc của phụ nữ đều liên quan, tiếp xúc
với cây lúa. Điều này gợi cho chúng ta thấy trong nhận thức, nguồn gốc xa
1 Robert Lowie: Nhà nhân học người Mỹ.
118
xưa của con người, phải có điều gì đó rất đặc biệt, mới dẫn đến sự phân công
lao động giữa nam và nữ rạch ròi đến vậy.
Trở lại với việc trồng cây lúa nước của người Thái cổ xưa. Chúng ta
thử tìm hiểu xem sự phân công lao động trong sản xuất cây lúa biểu hiện như
thế nào?
Theo Cầm Trọng, khi nhận định về sinh hoạt bầy và tabu1 giới trong
sản xuất của người Thái nguyên thủy, đã cho rằng:
Và đến những năm gần đây, việc cấy lúa vẫn là thứ lao động dành
riêng cho đàn bà. Đặc biệt ở nhiều nơi còn giữ “thói quen” không để
những đàn ông lạ mặt bén mảng tới trong khi tập đoàn chị em cấy
lúa. Nếu ai cố tình đi qua đám chị em đương cấy ấy, thì lập tức bị tấn
công, dưới dạng bông đùa, cợt nhả một cách sỗ sàng… Họ vơ lấy
bùn ném rồi trát lên toàn thân ông ta. Người đàn ông lọt vào đám
đông đó, nhiều khi hết đường chạy, và bị họ xô đẩy ngã lăn ra đất.
Bọn đàn bà xúm lại, cù cho anh ta một trận nên thân [140, tr.43].
Theo Đinh Gia Khánh, khi nghiên cứu về văn hóa dân gian Việt Nam
và các nước trong khu vực Đông Nam Á cổ xưa, đã cho rằng có rất nhiều
điểm tương đồng nhau. Cụ thể như việc an táng người chết, ở nhà sàn, tục
uống rượu cần, lễ đâm trâu… Chúng tôi chú ý tới một điểm tương đồng khi
tác giả cho rằng ở Đông Nam Á, trong tâm thức của các dân tộc rất phổ biến
niềm tin về “hồn cây lúa”. Ở các tộc người vùng Đông Nam Á có những tục
rất cổ về vấn đề này. Khi nói đến quan niệm của cư dân ở Java về cây lúa
nước, Đinh Gia Khánh cho rằng:
Ở Giava (Java), từ lâu, cây lúa nước được gắn với sự phồn thực và
nữ tính. Và cây lúa nước được coi là hiện thân của nữ thần Dewi
sri. Vì cây lúa là hiện thân của nữ thần cho nên có nhiều sự cấm kỵ
1Tabu: nghĩa là cấm kỵ.
119
đối với đàn ông, trong sự tiếp xúc với cây lúa. Đàn ông không được
gần nữ thần. Đàn ông phải cày, bừa, tức là làm đất chuẩn bị cho
việc trồng lúa. Nhưng họ không được động đến cây lúa. Việc gieo
hạt giống, nhổ mạ, cấy lúa, tưới bón cho lúa thì chỉ có phụ nữ mới
được làm [66, tr.160].
Tìm hiểu về người Thái tại Thái Lan, chúng tôi cũng thấy có hiện
tượng như vậy. I.V.Ivanova cho rằng:
Theo phong tục khắp nơi trong nước thì nhất thiết đàn ông không
được tham gia công việc đập lúa. Nếu trong gia đình người nội trợ
đau yếu và không có con gái lớn thì các cô gái bên láng giềng được
người đàn ông mời sang đập lúa. Có thể là trong quá khứ xa xưa khi
người phụ nữ còn là sức lao động chính trong nông nghiệp thì có
một số công việc nhà nông là đặc quyền của phụ nữ. Cùng với thời
gian có một phần lớn các quy tắc cấm đàn ông không được làm
nhiều việc trong số đó đã mất hiệu lực và cũng có một vài quy tắc
còn được giữ lại trong nông dân Thái cho đến ngày nay (đập lúa và
trong một vài vùng có cả gặt hái nữa). Những điều cấm kỵ đó có thể
xem là tàn dư, vì rằng xuất phát từ những điều kiện sinh hoạt của
người Thái ngày nay, chính họ cũng khó giải thích [63, tr.45].
Như vậy, theo quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trước, người Thái
xưa kia đã có sự cấm kỵ khắt khe đối với người đàn ông trong việc tiếp xúc
với cây lúa. Đàn ông không được đến gần khu vực phụ nữ cấy lúa, không
được tiếp xúc với cây lúa, và cho đến bước cuối cùng là đập lúa, đàn ông
cũng không được làm. Từ đây, phần nào đã trả lời cho chúng ta vấn đề tại sao
người đàn ông xưa kia không tham gia đập lúa. Không hẳn vì đó là công việc
nội trợ của phụ nữ, mà còn có những cấm kỵ đối với người đàn ông trong sinh
hoạt lao động này.
120
Vậy việc cấm kỵ này mang ý nghĩa gì? Nghiên cứu những điều cấm kỵ,
các nhà khoa học thường dùng thuật ngữ tabu (ta – bou). Trong tiếng Thái,
các hiện tượng cấm kỵ được gọi là căm.
Cầm Trọng đã lý giải về căm với ý nghĩa từ buổi đầu rằng: “Một điều
nổi bật dễ nhìn thấy là phần lớn những điều căm như thế, bằng cách này hay
cách khác đều có liên quan tới quan hệ nam nữ” [140, tr.31]. Trong nghiên
cứu, Cầm Trọng đã đưa ra những nhận định sau: “Ý nghĩa của chữ căm là ở
quan hệ tính giao, không phải ở chỗ phân công lao động. Và cũng chính vì nội
dung căm như thế mới có thể gọi là tabu với nghĩa đầu tiên này” [140, tr.32].
“…tabu giới trong sản xuất đã dẫn tới tình trạng phải cách ly giữa đàn ông với
đàn bà trong nhiều ngày và sự thu hẹp lại thời gian tạp giao bừa bãi” [140,
tr.41]. “Tabu giới trong sản xuất đã làm cho thời gian cách ly giữa đàn ông,
đàn bà lâu ra. Đó cũng là điều kiện khách quan để nảy sinh sự phân công lao
động theo giới” [140, tr.42]. Cùng với đó, Cầm Trọng lại cho rằng: “… Điều
cần chú ý, chúng tôi nhắc lại, người ta chỉ tấn công người lạ mặt, còn những
người đàn ông cùng vùng, cùng bản, ra gặp, thậm chí cùng lao động với họ,
chẳng có hiện tượng gọi là dók như thế” [140, tr.46].
Như vậy, theo quan điểm của Cầm Trọng, quá trình lao động liên quan
đến cây lúa của người Thái cổ xưa, có việc cấm kỵ đàn ông lạ mặt tiếp xúc
phụ nữ. Vì thế, việc không để cho đàn ông tham gia đập lúa đâu đó vẫn còn
lưu lại trong quan niệm của người Thái ngày nay, có thể coi là tàn dư của việc
cấm kỵ đối với những người đàn ông lạ mặt. Như Cầm Trọng đã nhận định,
khởi thủy việc cấm kỵ không phải cấm tất cả đàn ông, mà chỉ cấm những
người đàn ông lạ mặt. Trải qua thời gian, ý niệm này dần bị “hòa lại”, “trộn
lẫn” một cách tự nhiên mà bản thân người Thái sau này cũng không nhận thức
rõ nguyên nhân sâu xa của việc cấm kỵ. Từ vấn đề phân công lao động theo
giới trong xã hội nguyên thủy, đến việc cấm kỵ những người đàn ông lạ mặt
121
tiếp cận phụ nữ trong quá trình lao động, đã dẫn tới phụ nữ có đặc quyền
riêng trong việc tiếp xúc cây lúa.
Có một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu thêm, đó là nhiều nhà khảo cổ học
khi nghiên cứu về trống đồng Đông Sơn, đã cho rằng trên mặt trống đồng, có
hình ảnh đôi nam nữ cầm chày giã gạo. Rõ ràng, đây là minh chứng cho thấy
thời kỳ nguyên thủy, đàn ông có tham gia hoạt động giã gạo. Phải lý giải thế
nào về hiện tượng này khi chúng ta nói trong xã hội nguyên thủy đã có sự
phân công lao động theo giới, bên cạnh đó là chuyện cấm kỵ đàn ông lạ mặt
tiếp cận quá trình lao động của phụ nữ? Có một vấn đề cần nói thêm, trong cơ
tầng văn hóa Đông Nam Á cổ, cư dân trồng lúa nước có nhiều nét tương đồng
về tập quán sản xuất nông nghiệp. Vì thế, người Thái hay cư dân Việt Mường
cổ xưa cũng đều sử dụng những nông cụ đồng dạng để giã lúa, gạo là chày và
cối. Chúng tôi cho rằng, những hình ảnh hai người cầm chày giã vào cối còn
lưu lại trên trống đồng Đông Sơn không chỉ phản ánh lịch sử văn hóa người
Việt Mường, mà ở đó phần nào đó còn phản ánh cả lịch sử những tộc người
trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ, trong đó có người Thái.
Theo Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn:
Lối giã gạo bằng chầy tay như người Lạc Việt cũng là một tục lệ
phổ biến ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Giã gạo còn có ý
nghĩa thiêng liêng, quan trọng. Truyền thuyết của ta nói rằng “Khi
có người chết thì giã cối, xóm giềng nghe tiếng thì đến giúp
nhau”(Lĩnh Nam chích quái). Trong nghi thức tế lễ của người Na –
ga ở Át – xam giã gạo là một khâu quan trọng, thường do hai người
con trai và con gái chưa cưới làm việc đó. Nghi thức tế lễ của người
Mường cũng có cảnh giã gạo in hệt như cảnh hình dung trên trống
đồng [167, tr.239].
122
Cũng theo Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn: “Hình thức giã gạo bằng
chày tay được khắc hình trên trống đồng Việt Nam và ngày nay còn thịnh
hành ở người Mường và ngưởi Việt… giống như hình trên trống đồng và tục
trai gái giã gạo trong các buổi lễ ở người Mường hiện nay” [167, tr.206]. Hai
học giả còn cho rằng: “Tiếp theo là một cặp hai người đối diện nhau, tay cầm
chày dài, đầu cắm lông chim như đang giã xuống chiếc cối khoét rộng. Hai
người đó, một người mặc váy lông chim, một người hình như ở trần truồng
hoặc chỉ đóng khố, búi tóc, như một cặp trai gái” [167, tr.139].
Qua những nhận định của Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn, chúng tôi
nhận thấy rõ ràng hình ảnh hai người cầm chày giã gạo còn lưu giữ lại trên
trống đồng Đông Sơn là một đôi trái gái. Dường như đôi trai gái cùng nhau
giã gạo đó xuất hiện trong các nghi lễ tâm linh. Những nghi lễ cổ xưa này
thường liên quan đến nông nghiệp, để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng
bội thu. Tín ngưỡng phổ biến của cư dân nông nghiệp cổ xưa là tín ngưỡng
phồn thực. Có lẽ xuất phát từ tín ngưỡng phồn thực, nên cư dân Đông Sơn đã
để cho đôi nam nữ “diễn” động tác giã gạo trong các nghi lễ nông nghiệp. Khi
thực hiện một nghi lễ mang tính phồn thực để cầu cho cây trái sinh sôi, nảy
nở, mùa màng bội thu, việc nam nữ đứng gần nhau kết hợp cùng “diễn” động
tác giã gạo không ảnh hưởng gì đến việc cấm kỵ như quan điểm của Cầm
Trọng đã nói. Thậm chí, với ý nghĩa, tinh thần của buổi lễ, việc bố trí nam nữ
cùng giã gạo càng tăng thêm sự sinh động, gây sự kích thích, một yếu tố cốt
lõi cần thể hiện rõ trong nghi lễ này. Và như vậy, rất có thể đàn ông thời
nguyên thủy chỉ được tham gia việc giã gạo trong các nghi lễ nông nghiệp.
Còn trong quá trình lao động họ không được tham gia. Đó có thể coi là đặc
quyền riêng của người phụ nữ Thái cổ xưa.
123
3.2.3. Liên hệ việc cấm kỵ đàn ông trong sinh hoạt kánh loóng
Giã lúa cần sự góp sức của nhiều người phụ nữ cùng thực hiện trên một
công cụ là loóng. Khi cùng tham gia, mỗi người sử dụng riêng một cái chày.
Giống như gặt lúa, phơi lúa... giã lúa cần nhiều người cùng tham gia, nhưng
khác ở chỗ mỗi người đó phải cùng thực hiện công việc trên một công cụ lao
động. Khi nói đến giã lúa, có nghĩa rằng đây là công việc lao động, là quá
trình cầm chày giã vào loóng có để sẵn lúa. Việc giã lúa nhằm tách hạt thóc ra
khỏi cây lúa. Còn kánh loóng như đã nói, nghĩa là gõ máng. Đây là sinh hoạt
văn hóa mà người phụ nữ Thái cùng nhau cầm chày gõ vào loóng tạo nên
những tiết tấu sinh động. Lúc này, kánh loóng không phải là việc lao động
nữa mà người Thái đã coi đó như diễn tấu một nhạc cụ gõ. Cùng một hành
động cầm chày giã vào loóng nhưng mang hai ý nghĩa, mục đích khác nhau.
Điều này cũng xuất phát từ chức năng kép của loóng - vừa là một nông cụ,
đồng thời cũng là một nhạc cụ. Tuy vậy, việc giã lúa hay kánh loóng cũng
đều phản ánh vai trò người phụ nữ Thái trong sinh hoạt này. Hai hoạt động có
sự liên quan chặt chẽ, là sự phát triển tiếp nối. Khởi thủy là việc giã lúa, sau
đó được phát triển thành sinh hoạt kánh loóng. Vì vậy, kánh loóng sẽ mang
một số quy tắc, quan niệm như giã lúa.
Đến đây, chúng ta có thể nhận định rằng, việc chỉ có phụ nữ tham gia
kánh loóng là do trong xã hội nguyên thủy của người Thái, đã có sự phân
công lao động theo giới. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân từ việc cấm kỵ đàn
ông lạ mặt tiếp xúc với phụ nữ đang lao động, nhằm tránh sự tạp giao bừa bãi.
Đó cũng là những điều ít nhiều còn lưu lại qua sinh hoạt văn hóa kánh loóng
đến tận ngày nay. Hay nói một cách khác, ngày nay, chúng ta chỉ thấy phụ nữ
Thái tham gia kánh loóng, đó có thể là tàn dư của việc cấm kỵ đàn ông lạ mặt
tiếp xúc phụ nữ trong quá trình lao động liên quan đến cây lúa.
124
Sự phân công lao động và cấm kỵ này tồn tại lâu bền trong suốt lịch sử
phát triển của tộc người Thái cũng bởi vai trò người phụ nữ trong gia đình và
xã hội. Trải qua thời kỳ mẫu hệ đến ngày nay, phụ nữ vẫn nắm giữ việc điều
tiết mọi sinh hoạt trong gia đình trong đó có việc nội trợ. Chính vì vậy, việc
giã lúa hay kánh loóng vẫn luôn là sinh hoạt do người phụ nữ Thái đảm
nhiệm. Xác định được vấn đề này rất có giá trị trong việc khẳng định thêm
rằng chính những người phụ nữ Thái đã sáng tạo nên một hình thức nghệ
thuật dân gian. Họ đã biến một nông cụ trong lao động trở thành một nhạc cụ
gõ. Những tiết tấu phức tạp, sinh động, có tính tổ chức chặt chẽ trong diễn tấu
đã thể hiện tính thẩm mĩ rất cao của những người phụ nữ Thái. Đó là một sự
sáng tạo nên những giá trị văn hóa. Cùng với đó, họ còn góp phần bảo lưu bản
sắc văn hóa tộc người. Điều này được minh chứng rất rõ khi một nông cụ tồn
tại suốt từ thời kỳ xã hội nguyên thủy cho đến tận ngày hôm nay.
Tiểu kết
Trong chương 3, chúng tôi nghiên cứu, luận giải hai vấn đề chính đó
là những biểu hiện tín ngưỡng và vai trò phụ nữ Thái Mai Châu qua sinh
hoạt văn hóa kánh loóng.
Trong đời sống của người Thái Mai Châu trước đây, loóng gắn liền
với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa và sản xuất nông nghiệp. Bản chất của
việc người Thái Mai Châu đưa loóng vào các sinh hoạt văn hóa liên quan
đến nông nghiệp thực chất là thể hiện niềm tin, tín ngưỡng tâm linh của họ.
Như đã phân tích, lý giải trong nội dung chương 3, sinh hoạt văn hóa kánh
loóng biểu hiện tín ngưỡng phồn thực và thờ Mặt Trăng, Mặt Trời. Trước
đây, đời sống của cư dân nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên.
Họ luôn mong ước thời tiết mưa thuận, gió hòa, không có thiên tai, bão lũ
ảnh hưởng đến mùa màng; cây trái phát triển, vạn vật sinh sôi nảy nở. Vì
thế, hàng năm người Thái tổ chức nhiều nghi lễ, lễ hội để cầu phúc cho bản
125
mường ấm no, hạnh phúc. Trong các sinh hoạt văn hóa đó, họ thường đưa
loóng vào gõ vừa để tạo không khí sôi nổi, hân hoan trong ngày vui hội;
đồng thời cũng thể hiện niềm tin, tín ngưỡng tâm linh.
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng còn thể hiện vai trò người phụ nữ trong
đời sống xã hội của người Thái Mai Châu. Việc chỉ có phụ nữ tham gia kánh
loóng là do trong xã hội nguyên thủy của người Thái đã có sự phân công lao
động theo giới. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân từ việc cấm kỵ đàn ông lạ
mặt tiếp xúc với phụ nữ đang lao động, nhằm tránh sự tạp giao bừa bãi. Đó
cũng là những điều ít nhiều còn lưu lại qua sinh hoạt văn hóa kánh loóng đến
tận ngày nay. Hay nói một cách khác, ngày nay, chúng ta chỉ thấy phụ nữ
Thái tham gia kánh loóng, đó có thể là tàn dư của việc cấm kỵ đàn ông lạ mặt
tiếp xúc phụ nữ trong quá trình lao động liên quan đến cây lúa.
Xác định được vấn đề những biểu hiện tín ngưỡng và vai trò phụ nữ
Thái Mai Châu qua sinh hoạt văn hóa kánh loóng là kết quả có giá trị, góp
phần giải mã đặc trưng trong văn hóa của người Thái Mai Châu.
126
Chương 4
LÝ GIẢI BIẾN ĐỔI SINH HOẠT VĂN HÓA KÁNH LOÓNG
TRONG SỰ ĐỐI SÁNH VỚI KHẮC LUỐNG
Từ những biểu hiện trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng đã đặt ra một
số vấn đề cần lý giải để thấy được các nguyên nhân, yếu tố tác động và xu
hướng biến đổi. Để làm rõ hơn những vấn đề liên quan đến biến đổi, chúng
tôi đã so sánh với trường hợp khắc luống1 của người Thái ở huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An. Việc so sánh giữa sinh hoạt văn hóa kánh loóng với
khắc luống sẽ chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của cùng một hình thức sinh
hoạt văn hóa. Qua đó, cho thấy các nguyên nhân, yếu tố tác động đến đặc
trưng trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu.
Chúng tôi lựa chọn đối tượng để nghiên cứu so sánh là người Thái ở
huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Tại khu vực này, người Thái vẫn giữ được
một số hoạt động liên quan đến sinh hoạt văn hóa khắc luống mang nhiều yếu
tố, đặc trưng riêng. Cùng với đó, theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy khu vực
Thái ở huyện Con Cuông có nhiều điểm khác biệt với Thái Mai Châu về phát
triển kinh tế, sự giao lưu văn hóa, lịch sử tộc người... Những điểm này phần
nào đó có sự tác động, ảnh hưởng đến đặc trưng trong sinh hoạt văn hóa khắc
luống và kánh loóng. Về mặt không gian, chúng tôi lựa chọn sinh hoạt văn
hóa khắc luống của người Thái tại khu vực Con Cuông làm đối tượng để đối
chiếu, so sánh với kánh loóng của người Thái Mai Châu. Về mặt thời gian,
chúng tôi tìm hiểu về sinh hoạt văn hóa khắc luống của người Thái Con
Cuông từ năm 1954 đến 2017, trong đó cũng lấy mốc năm 1993 để phân
thành hai giai đoạn nghiên cứu. Từ đó, sẽ cho thấy rõ hơn các nguyên nhân,
yếu tố tác động, xu hướng biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng của
người Thái Mai Châu. 1 Khắc luống: Dùng chày gõ vào chiếc máng dùng để giã lúa. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa tương tự
như kánh loóng của người Thái Mai Châu Hòa Bình.
127
4.1. Một số biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng
Qua nghiên cứu, tìm hiểu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng ở hai giai
đoạn khác nhau, chúng tôi đã nhận thấy một số biến đổi. Sự biến đổi thể hiện
ở một số mặt như quan hệ sở hữu, diễn tấu, những biểu hiện tín ngưỡng.
4.1.1. Biến đổi văn hóa kánh loóng nhìn từ góc độ quan hệ sở hữu
Từ sở hữu tư nhân đến sở hữu tập thể: Trước đây, mỗi gia đình người
Thái Mai Châu đều sở hữu ít nhất một chiếc loóng. Kể từ khi có máy tuốt lúa
và xay xát gạo thì loóng không còn được dùng để giã lúa nữa. Nhiều gia đình
chặt làm củi hoặc để không lâu ngày bị hỏng nên họ vứt bỏ đi. Chính vì thế,
hầu như các gia đình người Thái Mai Châu đã không còn sở hữu riêng loóng
nữa. Phần lớn những chiếc loóng hiện nay là chung của cả bản. Chúng thuộc
sở hữu của tập thể cả cộng đồng dân cư mỗi bản. Loóng được đặt ở sân nhà
văn hóa hoặc góc sân rộng của các bản.
Từ sở hữu trong cộng đồng đến sở hữu ngoài cộng đồng: Theo chúng tôi
tìm hiểu, một số người Kinh yêu thích văn hóa Thái đã sưu tầm các dụng cụ
lao động của người Thái để lưu giữ trong gia đình. Trong đó, họ có sưu tầm
cả loóng. Ngoài ra, một số đơn vị nghệ thuật cũng sưu tầm, sở hữu loóng để
dàn dựng các tiết mục văn nghệ. Chính vì vậy, có sự biến đổi về sở hữu từ
trong cộng đồng đến ngoài cộng đồng. Sự biến đổi này tuy chưa phải phổ biến
những cũng có tồn tại. Đặc biệt, hiện nay việc tìm những cây gỗ tốt để làm
loóng mới là gần như không có. Vì thế, những chiếc loóng được làm bằng gỗ tốt
còn bền đẹp rất có giá trị. Nhiều người muốn tìm mua lại loóng để phục vụ việc tổ
chức hoạt động văn nghệ ở trong và ngoài cộng đồng người Thái Mai Châu.
4.1.2. Biến đổi một số yếu tố liên quan đến diễn tấu loóng
Một số yếu tố liên quan đến diễn tấu loóng như mục đích, môi trường diễn
tấu đều ít nhiều có sự biến đổi.
128
4.1.2.1. Về mục đích diễn tấu
Hiện nay, người Thái Mai Châu tổ chức kánh loóng phục vụ khách du
lịch, ngày Đại đoàn kết toàn dân, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, một số Hội nghị
của Huyện. Xét từng trường hợp sử dụng sẽ thấy có sự biến đổi lớn về mục
đích diễn tấu so với trước đây.
“Hiện nay, tại Mai Châu, người Thái vẫn thường xuyên kánh loóng.
Chúng tôi kánh loóng trong nhiều dịp, đặc biệt trong lễ lớn nhất của người
Thái là Xên bản, Xên mường, không bao giờ thiếu kánh loóng. Ngoài ra,
chúng tôi còn biểu diễn kánh loóng phục vụ khách du lịch”. [Ông Khà Văn Ư,
PL4.2, STT16, tr191].
Với việc kánh loóng phục vụ khách du lịch, mục đích rất rõ ràng để tạo
thu nhập. Người chơi kánh loóng bỏ công sức biểu diễn kánh loóng cho khách
du lịch nghe và du khách phải trả phí theo một mức nhất định.
“Các đoàn thể của huyện Mai Châu cũng thường xuyên đưa sinh hoạt
kánh loóng vào biểu diễn trong những ngày vui như ngày Đại đoàn kết toàn
dân, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3...”. [NNC Lò Cao Nhum, PL4.1, STT4, tr190].
Việc kánh loóng trong các ngày Đại đoàn kết toàn dân, ngày Quốc tế
phụ nữ 8/3, một số Hội nghị của Huyện là theo sự chỉ đạo của các tổ chức
đoàn thể, cơ quan. Tại huyện Mai Châu, lãnh đạo các tổ chức đoàn thể, cơ
quan ban ngành đều nhận thức rõ sự độc đáo của hình thức sinh hoạt kánh
loóng. Vì thế, nếu có chương trình nghệ thuật chào mừng các dịp như vậy họ
sẽ yêu cầu đưa loóng tham gia biểu diễn. Lúc này, mục đích của việc kánh
loóng cũng thay đổi. Trước đây, họ kánh loóng trong các nghi lễ, lễ hội có
tính chất linh thiêng. Đến nay, họ kánh loóng trên sân khấu với mục đích biểu
diễn phục vụ khán giả hoặc góp vui vào các chương trình.
129
4.1.2.2. Về môi trường diễn tấu
Môi trường diễn tấu kánh loóng có nhiều thay đổi so với trước đây. Sự
thay đổi thể hiện ở không gian diễn tấu, thời điểm, thời gian diễn tấu và
chương trình có diễn tấu kánh loóng.
Không gian diễn tấu
Theo chúng tôi tìm hiểu, hiện nay người Thái thường tổ chức kánh
loóng ở một số không gian sau:
- Trong lễ xên bản, xên mường, loóng được đặt tại phía trước sân khấu
chính của buổi lễ. Trên sân khấu có các tiết mục múa, hát, nhảy sạp, thổi khèn
bè... Phía dưới sân khấu có rất đông khán giả là người Thái cũng như một số
tộc người khác cũng đến xem tham dự.
- Loóng đặt tại sân nhà văn hóa hoặc sân rộng giữa các bản. Người Thái
diễn tấu kánh loóng phục vụ khách du lịch tại các địa điểm này. Thông
thường, mỗi lần biểu diễn cũng chỉ cho một nhóm du khách khoảng 5 – 7
người xem.
- Loóng được đặt trên sân khấu phục vụ hội nghị.
Thời điểm và thời gian diễn tấu
Theo bà Lò Thị Kiết1, hiện nay thời điểm và thời gian diễn tấu kánh
loóng cũng không quy định cụ thể. Thông thường, nếu các hội nghị diễn ra
vào đầu giờ sáng hoặc chiều thì người Thái tổ chức kánh loóng đầu tiên. Sau
đó mới bắt đầu vào chương trình hội nghị. Ngoài ra, khi có du khách yêu cầu
lúc nào thì đội văn nghệ sẽ tập hợp lại để biểu diễn phục vụ.
1. Bà Lò Thị Kiết, (51 tuổi), Đội loóng bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu (phỏng vấn ngày
1/5/2017).
130
Chương trình có diễn tấu kánh loóng
Theo bà Ngần Thị Tuyết1, các chương trình văn nghệ phục vụ du khách
tại một số địa điểm du lịch không đưa tiết mục kánh loóng vào. Vì cái loóng
rất to, nặng, không tiện di chuyển đến khu vực biểu diễn. Loóng thường được
đặt cố định tại Nhà văn hóa của bản. Nếu có khách yêu cầu thì mời đến nơi có
đặt loóng để biểu diễn cho họ xem. Tại đây, khi kánh loóng có thể diễn tấu
riêng hoặc kết hợp với trống chiêng và múa xòe. Cùng với đó là các tiết mục
khác trong chương trình biểu diễn như hát Khắp, các điệu múa Thái... Kánh
loóng cũng là một tiết mục nằm trong chương trình văn nghệ. Thông thường
các đội văn nghệ đưa tiết mục kánh loóng vào giữa chương trình. Đây cũng là
tiết mục được du khách cũng như bản thân cộng đồng người Thái Mai Châu
rất yêu thích. Kánh loóng kết hợp trống, chiêng, múa tạo nên không khí sôi
nổi, vui tươi.
4.1.3. Biến đổi về biểu hiện tín ngưỡng liên quan đến kánh loóng
Như đã phân tích, lý giải trong chương 3 của luận án, trước đây, người
Thái Mai Châu tổ chức kánh loóng trong các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan
đến nông nghiệp như lễ mừng cơm mới, xên bản xên mường, nguyệt thực... là
biểu hiện tín ngưỡng phồn thực và thờ Mặt Trời, Mặt Trăng. Trải qua thời
gian, không còn nhiều nghi lễ, tín ngưỡng được tổ chức trong đời sống sinh
hoạt của người Thái hiện nay. Người Thái Mai Châu chỉ còn giữ được lễ xên
bản xên mường, thường tổ chức vào dịp đầu xuân năm mới. Cùng với sự mai
một các nghi lễ, tín ngưỡng nông nghiệp kéo theo việc sinh hoạt văn hóa kánh
loóng cũng mất đi ý nghĩa, những biểu hiện về mặt tín ngưỡng. Hiện nay,
người Thái Mai Châu kánh loóng trong những trường hợp mới, không phải là
không gian nghi lễ như trước đây. Họ kánh loóng chỉ để làm vui, tạo không
1. Bà Ngần Thị Tuyết, (63 tuổi), Đội phó đội văn nghệ bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu (phỏng
vấn ngày 1/5/2017).
131
khí sôi nổi, sinh động. Không còn những ý niệm về tín ngưỡng thông qua việc
kánh loóng như trước đây.
4.2. Sinh hoạt văn hóa khắc luống của người Thái Con Cuông
4.2.1. Vài nét về người Thái Con Cuông
Vùng núi phía tây Nghệ An là nơi cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu
số như Thái, Thổ, Mường, Dao, Mông, Ơ đu... Trong đó, người Thái chiếm số
lượng lớn nhất và đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội ở khu vực này. Ở Nghệ An, địa bàn có đông người Thái là các huyện:
Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Nghĩa
Đàn. Như vậy, có thể nhận thấy đây là một vùng đất rộng lớn, tập trung đông
người Thái sinh sống từ lâu đời.
Con Cuông là huyện miền núi phía tây nam của tỉnh Nghệ An. Phía
đông giáp huyện Tân Kỳ và Quỳ Hợp, phía tây giáp tỉnh Bulikhămxay của
Lào với đường biên giới dài 68 km, phía nam giáp huyện Anh Sơn và phía
bắc giáp huyện Tương Dương. Con Cuông là địa bàn sinh sống của các dân
tộc như Thái, Việt, Thổ, Hoa. Trong đó, người Thái chiếm số lượng đông
nhất, khoảng 64,2% dân số toàn huyện.
Người Thái Con Cuông vẫn giữ được nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa
độc đáo trong đó có khắc luống1.
4.2.2. Quan niệm của người Thái Con Cuông về sinh hoạt văn hóa
khắc luống
Quan niệm của người Thái Con Cuông trước đây về sinh hoạt văn hóa
khắc luống
Người Thái Con Cuông có một số quan niệm liên quan đến sinh hoạt
văn hóa khắc luống như sau:
1 Khắc luống: Là cách gọi của người Thái tại Nghệ An đối với hình thức sinh hoạt văn hóa “gõ máng”. Đây
cũng giống với sinh hoạt kánh loóng của người Thái Mai Châu.
132
Luống là một nông cụ rất quan trọng trong đời sống đồng bào dân tộc
Thái huyện Con Cuông Nghệ An. Tùy điều kiện kinh tế mà mỗi gia đình có
thể sở hữu từ 1 đến 2 chiếc luống. Là cư dân sống chủ yếu dựa vào trồng lúa
nước nên vai trò của luống trong mỗi gia đình người Thái là rất cần thiết. Có
thể nói, luống là một trong những nông cụ quan trọng nhất trong đời sống của
người Thái Con Cuông trước đây.
Có một chuyện kể rất phổ biến trong cộng đồng người Thái Con Cuông
liên quan đến luống, đó là chuyện Ếch ăn trăng (Cốp cán ky bươn). Đây chính
là hiện tượng nguyệt thực. Trước đây, mỗi khi có nguyệt thực, tất cả các bản
người Thái Con Cuông đều mang luống cùng với các vật dụng khác ra gõ để
xua đuổi con Ếch ngậm mặt trăng.
Trong quan niệm trước đây của người Thái Con Cuông, việc khắc
luống với ý nghĩa xua đuổi thú dữ cũng tồn tại khá phổ biến.
Người Thái Con Cuông trước đây thường khắc luống trong nhiều hình
thức nghi lễ, tín ngưỡng như tang ma, đám cưới, ngày lễ Tết, ngày vui của
bản, mường, mừng cơm mới... Họ cũng quan niệm khác nhau ở trong mỗi
hình thức nghi lễ, tín ngưỡng mà có sinh hoạt khắc luống. Khắc luống trong
tang ma là để đưa linh hồn người đã khuất về Mường Trời. Khắc luống trong đám
cưới cầu cho đôi trai gái sớm có con đàn cháu đống. Như vậy, có thể thấy người
Thái Con Cuông trước đây khắc luống trong rất nhiều hình thức sinh hoạt nghi lễ,
tín ngưỡng, theo đó là một số quan niệm khác nhau.
Quan niệm của người Thái Con Cuông hiện nay về sinh hoạt văn hóa
khắc luống
Hiện nay, luống chỉ còn một chức năng duy nhất đó là một nhạc cụ
dùng để biểu diễn trong một số hình thức sinh hoạt văn hóa. Chức năng giã
lúa không còn nữa. Những quan niệm về sinh hoạt khắc luống cũng có sự
133
thay đổi. Các quan niệm cũ về sinh hoạt khắc luống như luống là vật dụng
quan trọng, nguyệt thực, xua đuổi thú dữ, làm vui trong các nghi lễ tín
ngưỡng... thì nay đã không còn nữa hoặc rất mờ nhạt. Chúng tôi nhận thấy,
người Thái tại Con Cuông không có quan niệm mới nào xung quanh sinh hoạt
khắc luống. Có thể nói, hiện nay họ chỉ coi đó là một nhạc cụ gõ sử dụng
trong một số dịp vui hoặc ngày Tết.
4.2.3. Các trường hợp sử dụng luống
Các trường hợp sử dụng luống trước đây
Chúng tôi xin giới hạn mốc thời gian người Thái huyện Con Cuông
trước đây sử dụng luống là vào khoảng những năm 1993 trở về trước. Bởi đây
là giai đoạn bắt đầu xuất hiện máy tuốt lúa, máy xay xát gạo khiến cho chức
năng giã lúa của luống mất dần. Từ đó, làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của sinh
hoạt văn hóa khắc luống trong đời sống người Thái Con Cuông.
Trước đây, người Thái Con Cuông thường khắc luống trong lao động
đời thường. Đó là giã lúa để lấy gạo nấu cơm. Ngoài ra, họ còn khắc luống
trong các nghi lễ, lễ hội, tín ngưỡng linh thiêng như ngày Tết, ngày vui, tang
ma, đám cưới, ngày hội của bản, mường, ngày nguyệt thực, mừng cơm mới...
Các trường hợp sử dụng luống hiện nay
Hiện nay, sinh hoạt khắc luống tại Con Cuông ít được sử dụng. Trong
lao động, người Thái đã không còn dùng luống để giã lúa nữa. Trong các nghi
lễ linh thiêng như tang ma, đám cưới, mừng cơm mới, nguyệt thực... cũng
không còn khắc luống. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy hiện nay người Thái Con
Cuông thỉnh thoảng còn khắc luống trong dịp Tết, vui xuân1. Nhìn chung,
sinh hoạt khắc luống tại Con Cuông chỉ còn xuất hiện ở một vài nơi. Số người
biết khắc luống cũng không nhiều.
1 Thông tin do ông Lang Văn Dậu (50 tuổi), bà Lữ Thị Duyến (55 tuổi) ở thôn Kẻ Mẻ, Xã Mậu Đức, huyện
Con Cuông cung cấp (phỏng vấn ngày 26/2/2016).
134
4.2.4. Một số yếu tố trong nghệ thuật khắc luống của người Thái
Con Cuông
4.2.4.1. Cơ cấu tổ chức người diễn tấu
Trong sinh hoạt văn hóa khắc luống của người Thái Con Cuông Nghệ
An, quy định về số người gõ khá đa dạng. Có những bài nhiều người gõ, họ
đứng thành từng đôi quay mặt vào nhau. Trong những bài này, không giới hạn
số người gõ mà chỉ phụ thuộc vào độ dài của luống. Cũng có bài chỉ 5 người gõ
hoặc 2 người gõ. Như vậy, thấy rằng, tại Con Cuông khi người Thái khắc
luống, có bài số người gõ là lẻ và có bài quy định số người gõ ít. Đây cũng là
điểm khác biệt rõ ràng so với cơ cấu tổ chức kánh loóng của người Thái Mai Châu.
Theo bà Lữ Thị Duyến cho biết, việc phân chia vai trò trong đội hình
những người khắc luống là mờ nhạt, không rõ. Về cơ bản, chúng tôi nhận
thấy có hai bộ phận gõ hai dạng âm hình tiết tấu khác nhau. Tuy nhiên, người
Thái Con Cuông chỉ biết gõ như vậy mà không coi bộ phận nào là “Cái” hoặc
“Con” giống như trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái Mai Châu.
4.2.4.2. Phương thức diễn tấu
Phổ biến nhất là những người gõ đứng thành từng đôi quay mặt vào nhau.
Tư thế diễn tấu: Diễn tấu luống có thể ở nhiều tư thế như đứng thẳng,
khom lưng vừa phải, cúi khom lưng thấp, cúi gập lưng thấp xuống hơi
nghiêng thân trên về bên phải.
Động tác diễn tấu: Có 6 động tác cơ bản là: Giã (giã thẳng đầu chày
xuống lòng luống hoặc thành luống ở phía đối diện người chơi), Đâm (đâm thẳng
đầu chày vào thành phía ngoài luống và mặt phía trên thành luống ), Gõ (gõ cạnh
đầu chày vào thành trong của luống ở cùng phía người chơi, gõ cạnh đầu chày vào
thành ngoài của luống, đặt chày dọc theo lòng trong và gõ vào thành luống,), Chọi
(dùng cạnh đầu chày phía dưới chọi với nhau), Dập (đặt dùi nằm ngang luống dập
xuống mặt luống), Va (đặt chày nằm ngang luống rồi va hai chày vào nhau).
135
Chúng tôi sẽ sử dụng các từ tượng thanh cũng như ký hiệu trên khuông
nhạc như mô tả về âm thanh của loóng để biểu hiện âm thanh của luống. Như
vậy, cũng có 6 loại âm thanh được mô tả bằng các từ tượng thanh như sau:
- Âm thanh Giã vào lòng luống hoặc thành luống ở phía đối diện người
chơi: Truỵch (Âm thanh trầm, đục).
- Âm thanh Đâm, Gõ hoặc Giã vào thành phía ngoài hoặc mặt phía trên
thành luống: Kang (Âm thanh tầm trung, chắc, gọn).
- Âm thanh Chọi cạnh đầu chày phía dưới vào nhau: Cắc (Âm thanh
đanh, sắc, gọn).
- Âm thanh Dập chày xuống ngang mặt trên luống: T’rụp (Âm thanh
tầm trung, không gọn).
- Âm thanh Va hai chày vào nhau: T’rách (Âm thanh tầm trung, không gọn).
Trong cách khắc luống của người Thái Con Cuông, bài luống sạp có
động tác Giã xuống lòng luống ở 3 vị trí khác nhau, đó là ở chính giữa lòng
luống, ở trong lòng phía đầu và cuối luống (Giã vào giữa hai chày của hai cặp
người chơi đứng ở đầu và cuối luống). Đây cũng là điểm khác biệt giữa khắc
luống so với kánh loóng. Ngoài ra, trong các bài khắc luống khác, động tác
Giã xuống lòng luống vẫn làm theo cách như kánh loóng (Giã xuống lòng
luống, không Giã vào giữa hai chày của những cặp người chơi bên cạnh) .
Chúng tôi minh họa trên khuông nhạc các vị trí của động tác Giã này
như sau:
- Giã xuống lòng luống (không Giã vào giữa hai chày của những cặp
người chơi bên cạnh):
- Giã xuống chính giữa lòng luống (bài Luống sạp):
- Giã xuống lòng phía cuối luống (bài Luống sạp):
136
- Giã xuống lòng phía đầu luống (bài Luống sạp):
- Giã xuống thành trong của luống (phía đối diện người chơi):
Ngoài ra, so với kánh loóng thì khắc luống có thêm một số vị trí tạo âm
thanh. Đó là Đâm chày vào thành phía ngoài luống và mặt phía trên thành
luống. Chúng tôi đặt hai vị trí âm thanh này trên khuông nhạc như sau:
- Đâm chày vào thành phía ngoài luống:
- Đâm chày vào mặt phía trên thành luống:
Trong bài luống đơn lại có những vị trí tạo âm theo cách khác. Đó là
đặt toàn bộ thân chày dọc theo thành phía trong của luống để gõ. Chúng tôi
đặt vị trí âm này trên khuông nhạc như sau:
Gõ cạnh đầu chày vào thành ngoài của luống (bài luống đơn). Chúng tôi
đặt vị trí âm này trên khuông nhạc:
Mặc dù vị trí tạo âm thanh khi khắc luống của người Thái Con Cuông
có khác người Thái Mai Châu ở một số điểm trên nhưng hiệu quả, màu sắc
âm thanh tạo ra từ đây cũng vẫn trong khoảng âm trung.
137
Bảng 4.1: Động tác và âm thanh của luống
STT Động tác Vị trí tạo âm thanh Màu sắc âm
thanh
Âm
thanh
Vị trí các âm
thanh trên
khuông nhạc
1 Giã
Lòng luống
Trầm, đục Truỵch
Thành trong của luống (phía đối
diện người chơi) Trầm, đục Truỵch
2 Gõ
Thành trong của luống (phía
gần người chơi) Trung, chắc Kang
Thành trong của luống (phía
gần người chơi); (đặt toàn bộ
thân chày dọc theo thành trong
của luống để gõ).
Trung, chắc,
không gọn K’rang
Thành ngoài của luống (gõ cạnh
đầu chày). Trung, chắc Kang
3 Đâm
Thành ngoài của
luống (gõ đầu chày). Trung, chắc Kang
Mặt phía trên thành luống Trung, chắc Kang
4 Chọi Cạnh đầu chày phía dưới Đanh, sắc, gọn Cắc dưới
5 Dập Ngang mặt trên của luống Trung,
không gọn T’rụp
6 Va Hai thân chày Trung,
không gọn T’rách
138
4.2.4.3. Kỹ thuật diễn tấu
Kỹ thuật diễn tấu khắc luống khá đa dạng. Về cách cầm chày, người
chơi có thể dùng một tay hoặc hai tay để cầm. Cũng giống như chiếc chày
người Thái Mai Châu dùng để kánh loóng, chày người Thái Con Cuông dùng
khắc luống khá dài và nặng. Vì thế, khi gõ người chơi phải dùng một lực
tương đối mạnh thì mới có thể tạo ra những âm thanh khỏe khoắn, chắc gọn.
Nếu Gõ vào thành luống hoặc Chọi chày vào nhau thì người chơi phải đứng
thẳng để thực hiện. Còn khi Giã xuống vị trí lòng luống, người chơi phải cúi,
khom lưng xuống một chút thì mới Giã tới vị trí này. Khi thực hiện động tác
Đâm chày vào thành ngoài của luống có trong các bài luống khàu, luống xen
ven, luống đơn, người chơi phải quay mặt dọc theo chiều dài của luống, cúi
khom lưng thấp xuống, đặt chày ngang mặt trên của luống, hướng đầu chày
về thành luống, toàn bộ thân chày hơi chếch cao dần về phía đuôi. Động tác
này khó thực hiện hơn động tác đứng thẳng để gõ. Bởi cúi khom thấp xuống
sẽ nhanh bị mỏi. Đồng thời, để chày nằm ngang gõ sẽ cần nhiều lực hơn là để
chày thẳng đứng rồi Giã xuống lòng luống.
Trong bài Luống sạp, có hai đôi đặt chày nằm ngang mặt trên của
luống, thực hiện động tác như những người gõ sạp trong hình thức nhảy sạp
của người Thái. Hai đôi này đứng ở đầu và cuối luống. Về tư thế, cách cầm
chày của hai đôi này khác những bài khắc luống còn lại. Những đôi người gõ
sẽ cúi khom lưng. Hai chiếc chày được đặt ngang mặt loóng. Mỗi người dùng
hai tay cầm hai cạnh đầu chày. Cách tạo âm thanh là Dập ngang thân chày
xuống mặt loóng và Va hai thân chày vào nhau. Động tác tạo âm này hoàn
toàn giống cách người Thái gõ cho mọi người chơi nhảy sạp.
Đối với động tác Chọi cạnh đầu chày vào nhau ở trong bài luống chọi
gà, người Thái Con Cuông chỉ sử dụng cạnh đầu chày phía dưới. Vì thế, động
tác này có phần dễ hơn động tác Chọi cả hai đầu chày với nhau mà người
139
Thái Mai Châu thường làm. Khi thực hiện động tác này, người chơi cần để
hai chày gần nhau theo phương thẳng đứng. Khoảng cách giữa hai chày
khoảng 20cm. Người chơi sẽ phải Chọi liên tục một chùm tiết tấu từ cạnh đầu
chày phía dưới. Biên độ dao động của đầu chày dưới là vừa phải, không đưa
rộng quá sẽ dễ va phải thành trong của luống.
Trong bài Luống đơn, có một động tác gõ cũng rất độc đáo. Một người
sẽ để chày dọc theo lòng trong của luống. Khi gõ sẽ dùng toàn bộ thân chày
gõ vào mặt trong thành luống ở phía gần người chơi. Để thực hiện được động
tác này, người chơi phải cúi gập lưng thấp xuống. Vì thế, cũng sẽ nhanh bị
mỏi lưng. Biên độ dao động của chày phải hẹp để tránh bị va phải thành luống
phía đối diện người chơi. Do cách đặt chày như vậy, nên lực gõ cũng phải sử
dụng nhiều hơn thì mới có thể tạo ra âm thanh chắc, khỏe.
Bài bản: Hiện nay, người Thái Con Cuông vẫn giữ được 5 bài khắc
luống. Trong đó, các bài bản này đều còn tên gọi bao gồm: luống khàu, luống
xen ven, luống sạp, luống chọi gà, luống đơn.
Về nhịp: Phần lớn các bài kánh loóng đều sử dụng nhịp 2/4. Chỉ có bài
luống xen ven kết hợp giữa nhịp 2/4 và 3/4.
Về cao độ của luống: Âm thanh của luống cũng không có những cao độ
xác định theo một thang âm cụ thể nào mà chỉ có thể xác định tương đối theo
âm vực: trầm - trung - cao.
Về cấu trúc âm nhạc: Có thể nhận thấy, 5 bài kánh loóng của người
Thái Con Cuông còn lại đến nay chỉ là dạng 1 câu nhạc được nhắc lại. Sự
nhắc lại ở đây cũng có thay đổi về vị trí tạo âm. Như bài luống chọi gà, đầu
tiên là Gõ vào thành trong của luống phía gần người chơi và Chọi hai cạnh
đầu chày vào nhau. Sau đó, nhắc lại nguyên âm hình tiết tấu nhưng vị trí âm
chuyển sang Đâm chày vào mặt phía trên thành luống.
140
Về trường hợp sử dụng: Xưa kia, mỗi bài khắc luống được sử dụng cho
từng trường hợp cụ thể như khắc luống trong ngày Quỷ ăn trăng (nguyệt
thực), tang ma, mừng cơm mới, lễ xăng khan, ngày Tết, vui xuân. Nói chung,
các trường hợp xưa kia có khắc luống thì ngày nay gần như không còn làm
nữa. Theo bà Lữ Thị Duyến1 cho biết, hiện nay người Thái Con Cuông cũng
không còn tổ chức khắc luống nhiều như xưa. Thỉnh thoảng tổ chức khắc
luống trong ngày Tết, vui xuân.
4.3. So sánh
4.3.1. Một số vấn đề về vị trí địa lý, nguồn gốc tộc người, giao lưu văn
hóa, kinh tế
Như đã trình bày về đặc điểm vị trí địa lý, nguồn gốc tộc người, sự giao
lưu văn hóa, kinh tế của người Thái Mai Châu và Thái Con Cuông, chúng tôi
nhận thấy một số điểm khác biệt giữa hai khu vực Thái này.
1 Bà Lữ Thị Duyến (57 tuổi), thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An (phỏng vấn 2/2016)
141
Bảng 4.2: Đặc trưng vị trí địa lý, nguồn gốc tộc người, giao lưu văn hóa, kinh tế
Địa phương MAI CHÂU CON CUÔNG
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Huyện miền núi của tỉnh Hòa
Bình.
Huyện miền núi, biên giới của
tỉnh Nghệ An.
Không có đường biên giới. Có đường biên giới chung với
Lào dài 55,5 km.
- Phía Bắc giáp huyện Mộc
Châu Sơn La.
- Phía Nam giáp huyện Quan
Hóa Thanh Hóa.
- Phía Đông giáp các huyện
Tân Lạc và Đà Bắc.
- Phía Bắc giáp huyện Tương
Dương.
- Phía Nam giáp huyện Anh Sơn.
- Phía Đông giáp huyện Tân Kỳ
và Quỳ Hợp.
- Phía Tây giáp tỉnh
Bulikhămxay của Lào.
NGUỒN GỐC
TỘC NGƯỜI
Nguồn gốc từ Bắc Hà, Lào
Cai.
Người Thái ở Con Cuông có
cùng một cội nguồn với người
Thái Tây Bắc.
GIAO LƯU
VĂN HÓA
Là vùng đệm, giao lưu văn
hóa mạnh mẽ với miền núi,
miền xuôi và tộc người
Mường.
Giao lưu, ảnh hưởng nhiều văn
hóa Lào.
KINH TẾ
Phát triển du lịch (Từ lâu đã
là điểm du lịch hấp dẫn với
du khách trong và ngoài
nước).
Chưa có phát triển du lịch.
Nông nghiệp, chăn nuôi.
Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn
nuôi.
142
Từ bảng 4.2, có thể nhận thấy nhiều điểm khác biệt giữa hai khu vực
Mai Châu và Con Cuông. Về vị trí địa lý, huyện Con Cuông có đường biên
giới chung với Lào dài 55,5 km, trong khi đó huyện Mai Châu lại không có
đường biên giới. Đây là một điểm khác biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến
đời sống, văn hóa, xã hội của hai khu vực Thái. Về vấn đề giao lưu văn hóa,
Huyện Mai Châu là một khu vực rất đặc biệt, nơi đây từ lâu đã diễn ra sự giao
lưu mạnh về văn hóa. Đặc biệt, người Thái Mai Châu sinh sống cạnh người
Mường Hòa Bình nên có nhiều nét văn hóa chịu ảnh hưởng của tộc người
Mường. Trong khi đó, người Thái Con Cuông do sinh sống tiếp giáp với nước
Lào nên ảnh hưởng nhiều yếu tố của văn hóa Lào. Một điểm khác biệt nữa đó
là hoạt động kinh tế. Trong khi khu vực Thái Mai Châu phát triển mạnh về
kinh tế du lịch thì khu vực Thái Con Cuông chưa có điều này. Có thể nói, đây
là điểm khác biệt đáng chú ý nhất, có tác động, ảnh hưởng mạnh đến mọi mặt
đời sống, tạo nên sự khác biệt căn bản về văn hóa giữa hai khu vực Thái.
Những khác biệt trong đặc điểm vị trí địa lý, sự giao lưu văn hóa, hoạt động
kinh tế giữa hai khu vực Thái là cơ sở để nhận biết sự tương đồng và khác biệt trong
trường hợp cụ thể đó là sinh hoạt kánh loóng và khắc luống.
4.3.2. Về các quan niệm
Như đã trình bày về các quan niệm liên quan đến sinh hoạt văn hóa
kánh loóng Thái Mai Châu và khắc luống Thái Con Cuông. Có nhiều
điểm tương đồng, khác biệt trong quan niệm của người Thái giữa hai khu
vực. Chúng tôi đã tổng hợp những điểm chính trong quan niệm của người
Thái Mai Châu và Thái Con Cuông về sinh hoạt văn hóa kánh loóng và
khắc luống trong bảng 7.1 [PL 7, tr.196].
Về sự tương đồng
Trước đây, trong quan niệm của người Thái giữa hai khu vực về sinh
hoạt văn hóa kánh loóng và khắc luống có nhiều nét tương đồng với nhau.
Đối với sản xuất nông nghiệp, họ đều coi loóng và luống là những nông cụ
cần thiết, quan trọng. Đồng thời, người Thái hai khu vực đều cho rằng tiếng
143
động phát ra từ nông cụ này có tác dụng xua đuổi thú dữ và xua đuổi Ếch hay
Quỷ ăn Mặt Trăng. Trong tín ngưỡng, phong tục, họ đều đưa loóng và luống
vào để gõ với những ý niệm, mong ước về sự may mắn, ấm no, hạnh phúc...
Đồng thời, họ đều coi loóng và luống là nhạc cụ khi gõ tạo nên không khí rất
sôi nổi, vui vẻ trong những ngày Tết, ngày vui của cộng đồng. Như vậy, có
thể khẳng định, trong quan niệm của người Thái Mai Châu và Thái Con
Cuông xưa kia về sinh hoạt văn hóa kánh loóng - khắc luống có nhiều điểm
tương đồng.
Hiện nay, giữa hai khu vực Thái cũng có điểm tương đồng trong quan
niệm về kánh loóng và khắc luống. Cả hai khu vực Thái đều không còn sử
dụng loóng và luống để giã lúa nữa mà coi đây là một loại nhạc cụ. Họ đều
quan niệm nhạc cụ này khi gõ sẽ tạo nên không khí sôi nổi, vui vẻ trong
những ngày Tết, ngày vui của cộng đồng.
Về sự khác biệt
Trước đây, có thể nói không có sự khác biệt trong quan niệm giữa hai
khu vực Thái về sinh hoạt kánh loóng và khắc luống. Sự khác biệt chỉ ở tên
gọi của một số nghi lễ liên quan. Ví dụ, người Thái Mai Châu thường gọi hiện
tượng nguyệt thực là Ếch ăn trăng thì người Thái Con Cuông lại gọi là Quỷ
ăn trăng. Ở đây, họ đều nghĩ rằng khi nguyệt thực là lúc có một con vật xấu
xí ăn mặt trăng. Hay lễ chá chiêng của người Thái Mai Châu thì người Thái
Con Cuông gọi là lễ xăng khan. Thực chất, hai lễ này đều có ý nghĩa để tạ ơn
thầy Mo đã giúp đỡ, chữa bệnh.
Hiện nay, nhiều quan niệm xưa về loóng và luống giữa hai khu vực
Thái đã không còn nữa. Thay vào đó là một số quan niệm mới. Tại Mai Châu,
đồng bào Thái coi loóng là một hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật độc
đáo, hấp dẫn. Từ đó, họ đưa vào nhiều hoạt động như ngày Quốc tế phụ nữ
8/3, ngày Đại đoàn kết toàn dân, phục vụ khách du lịch. Trong khi đó, tại Con
Cuông, người Thái cũng coi luống là một nhạc cụ có sức hấp dẫn, nhưng
phạm vi, mức độ sử dụng, phát triển nhạc cụ này hạn chế hơn Thái Mai Châu
144
rất nhiều. Hàng năm, chỉ vào dịp Tết, ngày xuân thì họ mang luống ra gõ.
Những ngày trong năm, ít khi người Thái Con Cuông tổ chức khắc luống.
Xu hướng biến đổi
Từ những quan niệm về sinh hoạt văn hóa kánh loóng và khắc luống
giữa hai khu vực Thái trong quá khứ cũng như hiện tại, chúng tôi đã rút ra
một số xu hướng biến đổi. Đối với sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người
Thái Mai Châu, một số quan niệm xưa kia liên quan đến sản xuất nông
nghiệp, xua đuổi các thế lực gây hại, tín ngưỡng, phong tục thì đến nay đã
không còn. Tuy nhiên, tại Mai Châu, xu hướng quan niệm về kánh loóng như là
một hình thức nghệ thuật dân gian độc đáo, hấp dẫn lại phổ biến và ngày một phát
triển trong giai đoạn hiện nay. Trong khi đó, các quan niệm trong sinh hoạt khắc
luống của người Thái Con Cuông lại có xu hướng mất dần. Những quan niệm xưa
về khắc luống đến nay còn lại rất ít. Người Thái Con Cuông chỉ còn giữ quan niệm
luống là một nhạc cụ khi gõ sẽ tạo nên không khí sôi nổi, vui vẻ, rộn ràng.
Qua sự so sánh về các quan niệm của người Thái Mai Châu và Thái
Con Cuông liên quan đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng và khắc luống, chúng
tôi đã chỉ ra một số điểm tương đồng và khác biệt. Cùng với đó là xu hướng
biến đổi của hình thức sinh hoạt văn hóa này. Để làm rõ hơn sự biến đổi trong
sinh hoạt kánh loóng của người Thái Mai Châu, chúng tôi sẽ tiếp tục so sánh
một số vấn đề khác như các trường hợp, mục đích và nghệ thuật diễn tấu.
4.3.3. Về các trường hợp, mục đích diễn tấu loóng, luống
Chúng tôi đã tổng hợp các trường hợp, mục đích diễn tấu loóng, luống trong
bảng 7.2 [PL 7, tr.196].
* Giai đoạn 1954 - 1992
Về những điểm tương đồng: Sinh hoạt hoạt văn hóa kánh loóng và khắc
luống giữa hai khu vực Thái có nhiều điểm tương đồng về các trường hợp sử
dụng. Cùng với đó là sự tương đồng về mục đích diễn tấu.
145
Về những khác biệt: Khác biệt duy nhất chỉ có một trường hợp sử dụng
kánh loóng của người Thái Mai Châu mà người Thái Con Cuông không làm đó
là trong lễ Xên bản, xên mường. Từ xưa đến nay, người Thái Mai Châu vẫn tổ
chức lễ Xên bản, xên mường. Trong thời gian chiến tranh chống Pháp và Mỹ, lễ
này tại Mai Châu không được tổ chức. Sau khi hòa bình lập lại, đất nước hoàn
toàn giải phóng, chính quyền và bà con dân tộc Thái đã khôi phục lại lễ Xên
bản, xên mường, được tổ chức thường xuyên vào ngày mồng 9 tháng Giêng
(Âm lịch) hàng năm. Trong khi đó, tìm hiểu tại khu vực Thái Con Cuông,
chúng tôi không thấy đồng bảo Thái tổ chức lễ nào tương đồng với lễ Xên bản,
xên mường.
* Giai đoạn 1993 - 2017
Về những điểm tương đồng: Giữa hai khu vực Thái không có sự tương
đồng về trường hợp kánh loóng và khắc luống.
Về những khác biệt: Sinh hoạt kánh loóng và khắc luống giữa hai khu
vực Thái hoàn toàn khác biệt về các trường hợp sử dụng. Tại Mai Châu, người Thái
sử dụng kánh loóng trong các trường hợp mới như ngày Đại đoàn kết toàn dân,
Quốc tế phụ nữ 8/3, biểu diễn trong các hội nghị của huyện, xã, phục vụ khách du
lịch. Trong khi đó, tại Con Cuông, người Thái không khắc luống trong những dịp
như vậy. Họ chỉ còn khắc luống trong mỗi dịp Tết, đầu xuân.
Xu hướng biến đổi
Tại Mai Châu, chúng tôi nhận thấy xu hướng biến đổi mạnh về các
trường hợp sử dụng kánh loóng. Có nhiều trường hợp mới người Thái đưa
kánh loóng vào gõ. Trong khi nhiều trường hợp xưa có kánh loóng thì đến
nay đã mất dần. Chỉ còn duy nhất trường hợp kánh loóng trong lễ Xên bản,
xên mường. Cùng với sự biến đổi về trường hợp sử dụng dẫn đến biến đổi về
mục đích diễn tấu. Xưa kia, đồng bào Thái Mai Châu tổ chức kánh loóng
ngoài ý nghĩa để tạo không khí vui vẻ trong mỗi nghi lễ, lễ hội thì họ còn gửi
vào đó những mong ước về sự ấm no, hạnh phúc, may mắn... Hiện nay, mục
146
đích đó đã không còn. Kánh loóng ngày nay chỉ có ý nghĩa góp vui trong mỗi
chương trình tham gia. Đồng thời, những người gõ cũng để kiếm thêm thu
nhập từ việc kánh loóng.
Tại Con Cuông, nhiều trường hợp trước đây có tổ chức khắc luống thì
đến nay đã mất dần. Không có trường hợp mới nào người Thái đưa khắc
luống vào sử dụng. Họ chỉ còn gõ trong dịp Tết, đầu xuân với mục đích tạo
không khí vui vẻ.
Như vậy, căn cứ vào các trường hợp, mục đích sử dụng kánh loóng và
khắc luống giữa hai khu vực Thái, chúng tôi đúc rút ra một số điểm tương
đồng và khác biệt. Từ đây, đã cho chúng ta thấy xu hướng biến đổi của cùng
một hình thức sinh hoạt văn hóa cũng khác nhau. Trong khi ở Mai Châu, sinh
hoạt kánh loóng phát triển mạnh, nở rộ các hoạt động liên quan thì tại Con
Cuông, khắc luống lại có xu hướng thu hẹp và mất dần.
4.3.4. Về một số yếu tố trong nghệ thuật diễn tấu
Chúng tôi đã tổng hợp một số yếu tố trong nghệ thuật diễn tấu kánh
loóng và khắc luống của người Thái Mai Châu và Thái Con Cuông ở bảng 7.3
[phụ lục 7]. Qua đó, chúng tôi đã rút ra những điểm tương đồng và khác biệt
như sau:
Về những điểm tương đồng
- Tư thế diễn tấu: có 3 tư thế diễn tấu giống nhau gồm a.b.c.
- Vị trí tạo âm: có 5 vị trí tạo âm giống nhau gồm a.b.c.g.k.
- Kỹ thuật diễn tấu: có 5 kỹ thuật giống nhau gồm a.b.c.đ.e.
- Đặc điểm âm nhạc: giống nhau về loại nhịp 2/4 và cao độ.
Về những khác biệt
- Cơ cấu tổ chức người diễn tấu: Khắc luống Thái Con Cuông có cơ
cấu, phân bổ số người diễn tấu đa dạng hơn kánh loóng Thái Mai Châu.
Trong đó, tại Con Cuông có thể số người diễn tấu là lẻ hoặc dùng ít người (2
người). Điều này trong kánh loóng Thái Mai Châu không có.
147
- Tư thế diễn tấu: khác nhau ở tư thế d. (Kánh loóng Thái Mai Châu
không có).
- Vị trí tạo âm: khác nhau ở các vị trí d.đ.e.f.h.i. (Kánh loóng Thái Mai
Châu không có).
- Kỹ thuật diễn tấu: khác nhau ở kỹ thuật d. (Kánh loóng Thái Mai
Châu không có).
- Bài bản: khác nhau về số lượng và tên gọi. Trong đó, khắc luống Thái
Con Cuông còn giữ được nhiều bài hơn và còn có tên gọi.
- Đặc điểm âm nhạc: khác nhau ở loại nhịp ¾ và cấu trúc bài bản.
Trong đó, khắc luống Thái Con Cuông có nhịp ¾ mà kánh loóng Thái Mai
Châu không có. Cấu trúc bài bản của khắc luống Thái Con Cuông cũng đa
dạng, phong phú hơn ở chỗ khi nhắc lại mỗi câu nhạc có thay đổi vị trí tạo
âm. Đồng thời, có những đoạn mở đầu, kết thúc bài là những động tác giã lúa
lao động thuần túy.
Qua so sánh một số yếu tố trong nghệ thuật diễn tấu kánh loóng Thái
Mai Châu và khắc luống Thái Con Cuông, chúng tôi rút ra một số nhận định
như sau:
Cơ cấu tổ chức người diễn tấu khắc luống Thái Con Cuông đa dạng
hơn kánh loóng Thái Mai Châu.
Tư thế diễn tấu khắc luống Thái Con Cuông nhiều hơn kánh loóng Thái
Mai Châu.
Vị trí tạo âm trong khắc luống Thái Con Cuông nhiều hơn kánh loóng
Thái Mai Châu.
Kỹ thuật diễn tấu khắc luống Thái Con Cuông nhiều hơn kánh loóng
Thái Mai Châu.
Bài bản khắc luống Thái Con Cuông nhiều hơn kánh loóng Thái Mai Châu.
Đặc điểm âm nhạc trong khắc luống Thái Con Cuông phong phú hơn
kánh loóng Thái Mai Châu.
148
4.3.5. Nhận xét chung
Khu vực Thái Con Cuông còn bảo lưu được nhiều bài bản khắc luống với
hình thức diễn tấu đa dạng. Các bài bản khắc luống vẫn có tên gọi. Vị trí tạo âm
thanh trong mỗi bài cũng nhiều hơn, độc đáo hơn so với kánh loóng Thái Mai
Châu. Qua so sánh, có thể khẳng định nghệ thuật khắc luống Thái Con Cuông
phong phú, đa dạng hơn so với kánh loóng Thái Mai Châu. Tuy khu vực Thái
Con Cuông không phát triển du lịch, chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi sự yếu tố kinh
tế, nhưng vẫn giữ được những nét độc đáo trong nghệ thuật khắc luống. Đây
cũng là một hiện tượng văn hóa đáng chú ý. Rõ ràng, tại một khu vực miền núi
biên giới, người Thái Con Cuông còn giữ được nhiều giá trị đặc sắc, cổ xưa
trong văn hóa. Khắc luống là một minh chứng cụ thể. Đó là sự khẳng định yếu tố
vị trí địa lý, môi trường đã góp phần định hình bản sắc văn hóa.
Khu vực Thái Mai Châu diễn ra sự giao lưu mạnh mẽ nhiều luồng văn
hóa khác nhau. Kinh tế có sự thay đổi, phát triển mạnh đặc biệt là du lịch.
Sinh hoạt văn hóa kánh loóng đã biến đổi nhiều. Do có sự phát triển mạnh về
du lịch, chủ trương của Đảng ủy, UBND huyện Mai Châu tập trung khai thác,
bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Từ đó, nhiều hình thức sinh hoạt văn
hóa đã được người Thái nơi đây bảo lưu, phục hồi trong đó có kánh loóng.
Tuy nhiên, có một số thay đổi trong mỗi hình thức sinh hoạt văn hóa Thái để
phù hợp với đời sống hiện nay. Kánh loóng Thái Mai Châu đã biểu hiện rõ
điều này. Qua phần giới thiệu về sinh hoạt kánh loóng hiện nay, chúng tôi
nhận thấy có nhiều thay đổi về mục đích diễn tấu, địa điểm diễn tấu. Đồng
thời, bài bài kánh loóng cũng không giữ được nhiều. Người Thái Mai Châu
chỉ giữ được 2 bài kánh loóng. Nghệ thuật kánh loóng cũng không phong phú,
đa dạng như khắc luống Thái Con Cuông.
Như vậy, có thể nhận thấy, yếu tố vị trí địa lý, lịch sử cư trú, giao lưu
văn hóa, phát triển kinh tế du lịch đã dẫn đến sự khác biệt rõ rệt trong cùng
một hình thức sinh hoạt văn hóa của người Thái giữa hai khu vực. Qua so
149
sánh, chúng tôi nhận thấy rõ hơn sự biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh
loóng của người Thái Mai Châu.
4.4. Nguyên nhân và xu hướng biến đổi sinh hoạt văn hóa kánh loóng
Từ những biểu hiện của sự biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh
loóng, đồng thời qua đối chiếu, so sánh với trường hợp khắc luống của người
Thái Con Cuông, có thể nhận thấy những yếu tố tác động, nguyên nhân và xu
hướng biến đổi.
4.4.1. Nguyên nhân của biến đổi
4.4.1.1. Thay đổi trong kỹ thuật sản xuất nông nghiệp
Theo bà Khà Thị Mếnh1, máy tuốt lúa được đưa vào sử dụng khoảng
năm 1990. Sau đó, máy xay xát cũng được đưa vào phục vụ việc xay xát thóc
gạo cho cộng đồng người Thái Mai Châu. Thời gian đầu, cả huyện chỉ có 1, 2
chiếc máy xát. Người Thái ở các bản phải tuốt lúa xong sau đó chở thóc ra
chỗ có máy xát để xát gạo.
Có thể nói, sự xuất hiện của máy tuốt lúa và máy xay xát gạo chính là
yếu tố then chốt tác động mạnh vào sự tồn tại của loóng. Hai loại máy này
được chế tạo và đưa vào sử dụng, phục vụ quá trình lao động của người nông
dân trong khoảng những năm 90 thế kỷ trước. Từ đó, hầu hết người nông dân
Thái đều thay đổi cách giã thóc lúa truyền thống. Rõ ràng khi sử dụng hai loại
máy này, hiệu quả, năng suất lao động cao hơn cách giã thóc lúa bằng loóng
rất nhiều. Máy tuốt lúa và may xay xát đều sử dụng động cơ và chạy bằng
điện. Sau khi gặt lúa xong, người nông dân sẽ cho từng bó lúa vào máy tuốt
lúa để tách hạt thóc ra. Mỗi chiếc máy tuốt lúa có thể đủ chỗ cho hai đến ba
người cùng làm. Khi máy tuốt lúa chạy, người nông dân đưa từng bó lúa vào
để tuốt chỉ trong khoảng thời gian ngắn đã có thể đã xong một bó lúa. Cứ như
vậy quá trình lao động diễn ra rất nhanh và bớt mệt nhọc hơn nhiều so với
1. Bà Khà Thị Mếnh (68 tuổi), người ở bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu. Là thành viên đội loóng
của bản (phỏng vấn ngày 2/5/2017).
150
cách giã lúa bằng loóng. Sau khi tuốt lúa xong, họ đổ thóc vào từng bao và cất
gọn trên sàn nhà. Khi cần gạo để ăn, người Thái sẽ mang thóc đến gia đình
nào có máy xay xát để thuê người ta xay. Thời điểm xuất hiện máy xay xát,
đó là một công cụ lao động khá đắt tiền, không phải gia đình nào cũng có thể
sở hữu được. Có khi cả bản chỉ có vài chiếc. Vì thế, đã có giai đoạn một số
gia đình làm thêm dịch vụ xay xát gạo để kiếm thu nhập. Tuy rằng không sở
hữu máy xay xát trong mỗi gia đình, nhưng không vì thế mà người Thái dùng
loóng để giã thóc. Họ vẫn mang thóc đến gia đình có máy xay xát để thuê
người ta xay.
Quá trình thay đổi kỹ thuật sản xuất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng
và trên phạm vi rộng. Những chiếc loóng không được sử dụng nữa nên nhiều
gia đình đã chặt ra làm củi. Một số gia đình để loóng ở gầm nhà sàn và chứa
các vật dụng khác. Trải qua quãng thời gian dài không còn vai trò trong sản
xuất nông nghiệp, loóng đã bị mất đi rất nhiều. Cho đến nay, việc sở hữu
loóng ở mỗi gia đình người Thái Mai Châu là rất hiếm. Chỉ còn loóng là của
chung cả bản. Như vậy, yếu tố thay đổi trong kỹ thuật sản xuất nông nghiệp
đã tác động đến sự biến đổi trong sinh hoạt kánh loóng. Sự tác động chủ yếu
biểu hiện ở góc độ trong lao động đời thường. Cùng với đó là làm mất dần
loóng trong cộng đồng người Thái Mai Châu.
4.4.1.2. Phát triển du lịch
Tại Mai Châu, từ những năm 1960 đã là một tập thể điển hình về kinh
tế - xã hội (nuôi thả cá, xây dựng đường, cầu vào bản, làm nhà và ở theo nếp
sống mới...), nên khi đó được các chuyên gia nước ngoài (Ba Lan, Liên Xô)
biết và đến thăm quan. Rồi sau đó những người lính Pháp cũng là những du
khách khám phá nét đẹp, cảnh quan sinh thái nơi đây. Từ những năm 80 thế
kỷ trước, Mai Châu là nơi nghỉ dưỡng vào mỗi dịp cuối tuần của các công
nhân người Nga đến xây dựng thủy điện Hòa Bình.
151
Hoạt động du lịch ở Mai Châu được manh nha từ những năm 1980,
nhưng đến năm 1993 mới chính thức được chính quyền tỉnh cấp phép hoạt
động. Đến năm 1994, chính quyền huyện có chủ trương xây dựng thành địa
điểm du lịch, từ đó bắt đầu thu tiền dịch vụ của khách. Mai Châu trở thành
một điểm du lịch trọng điểm của tỉnh Hòa Bình. Khách du lịch khi đến Hòa
Bình phần lớn lựa chọn điểm chính trong chuyến đi của họ là Mai Châu.
Ngày 11/12/2014, UBND tỉnh Hòa Bình đã ban hành Quyết định
2060/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh
Hòa Bình giai đoạn 2014 – 2020, tầm nhìn đến 2030, với định hướng: phát
triển du lịch tỉnh Hòa Bình phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
và du lịch cả nước, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh
và các ngành kinh tế khác. Trong đó, quan điểm chỉ đạo của tỉnh đối với hoạt
động phát triển du lịch tại Mai Châu như sau:
Phát triển du lịch điểm du lịch quốc gia Mai Châu phù hợp với Chiến
lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, vùng Trung du miền
núi Bắc bộ; các Quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, du lịch tỉnh Hòa Bình;
đảm bảo thống nhất với các Chiến lược, Quy hoạch phát triển ngành và lĩnh
vực liên quan.
Phát triển du lịch điểm du lịch quốc gia Mai Châu bền vững, phù hợp
với bối cảnh, xu thế phát triển du lịch cả nước và tỉnh Hòa Bình; gắn việc bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị tự nhiên, giữ vững quốc
phòng, an ninh; đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; giữ gìn cảnh quan và bảo vệ
môi trường. Đồng thời, phát triển du lịch đảm bảo các lợi ích kinh tế, xã hội
cho cộng đồng địa phương.
Phát triển du lịch bền vững trên cơ sở tài nguyên tự nhiên sẵn có, lấy du
lịch văn hóa làm nền tảng để phát huy tính đặc thù tài nguyên du lịch.
152
Kinh tế du lịch đã tạo ra những tác động tích cực đối với văn hóa người
Thái Mai Châu. Từ phát triển du lịch, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của
người Thái được lựa chọn, khai thác tạo thành những sản phẩm phục vụ du
khách. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng cũng trong xu hướng đó. Cùng với
những sản phẩm thổ cẩm, ẩm thực, lễ hội... sinh hoạt văn hóa kánh loóng đã
trở thành món ăn tinh thần vô cùng độc đáo đối với du khách thăm quan.
Du khách đến Mai Châu cũng dần đa dạng và số lượng nhiều hơn, gồm
cán bộ, sinh viên, học sinh... Du khách người nước ngoài đến Mai Châu thăm
quan du lịch cũng rất nhiều. Họ đến từ các nước như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật,
Hàn Quốc, Thái Lan... Hàng năm, các địa điểm du lịch tại Mai Châu đón
khách từ nửa cuối tháng 7 năm trước đến hết tháng 4 năm sau. Sức hấp dẫn
của cảnh quan và bản sắc tộc người nơi đây đã thu hút khách du lịch ngày một
đông, trong đó khách nước ngoài chiếm ưu thế.
Theo Bùi Thanh Thủy: “Du lịch cộng đồng – Bản Lác, Mai Châu được
các nhà nghiên cứu nhắc tới như là hình mẫu của loại hình du lịch này từ
những năm 90 của thế kỷ trước” [132, tr.34].
Từ sự phát triển du lịch tại Mai Châu đã kéo theo nhiều loại hình dịch
vụ được mở ra để phục vụ du khách như nhà nghỉ, nhà hàng, đồ lưu niệm...
Các chương trình văn nghệ cũng được chú trọng để đưa vào phục vụ. Nhiều
đội văn nghệ được thành lập với những chương trình biểu diễn hấp dẫn mang
đậm bản sắc văn hóa người Thái. Trong đó có các hình thức biểu diễn như
múa, hát dân ca, thổi Khèn, Pí, nhảy sạp... Mỗi chương trình văn nghệ biểu
diễn khoảng một đến hai tiếng. Với giá trọn gói là 500.000 nghìn đồng. Các
đội văn nghệ không đưa sinh hoạt kánh loóng vào chương trình biểu diễn
chính thức. Thông thường, chỉ khi nào có khách yêu cầu thì các đội văn nghệ
mới tổ chức kánh loóng phục vụ. Các bản du lịch tại Mai Châu hiện nay đều
có đội kánh loóng.
153
“Khi có đoàn khách du lịch yêu cầu, chúng tôi sẽ tập hợp cả nhóm để
kánh loóng. Loóng thường được đặt ở nhà văn hóa của bản hoặc trong sân của
một vài hộ gia đình làm du lịch. Vì loóng rất to và nặng nên ít khi di chuyển
sang vị trí khác để gõ mà thường gõ ngay tại nơi đặt loóng. Khi kánh loóng,
tất cả phụ nữ tham gia đều phải mặc trang phục truyền thống của người Thái.
Chúng tôi cũng thường xuyên được yêu cầu kánh loóng cho du khách thưởng
thức”. [Ông Khà Văn Ư, PL4.2, STT16, tr191].
“Kinh phí cho việc kánh loóng cũng không quy định cụ thể. Có thể là
200.000, 300.000 hoặc 500.000 . Mỗi đoàn du khách đưa bao nhiêu thì chúng
tôi nhận và cho vào quỹ của cả nhóm”. [Ông Khà Văn Ư, PL4.2, STT16,
tr191].
Khi kánh loóng biểu diễn phục vụ du khách, người Thái Mai Châu
thường chơi hai bài là kánh loóng trong lễ cơm mới và kánh loóng trong tang
lễ. Có thể họ kết hợp thêm trống, chiêng hoặc cả múa vào bài kánh loóng. Đối
với tiết mục này, các du khách đều biểu hiện sự thích thú, lạ lẫm. Khi được
xem và nghe những tiết tấu sôi nổi của bài kánh loóng, ngay lập tức họ đưa
máy ảnh, máy quay hoặc điện thoại ra để ghi lại. Sau khi đội văn nghệ biểu
diễn xong, một số du khách còn đến hỏi, tìm hiểu những thông tin về hình
thức sinh hoạt văn hóa độc đáo này.
Có thể nói, chính sự phát triển du lịch tại Mai Châu đã tác động đến sự
tồn tại cũng như làm thay đổi không gian, mục đích diễn tấu của sinh hoạt văn
hóa kánh loóng. Có một thời gian khá dài, kể từ khi máy xay xát được đưa
vào sử dụng thay thế cho cách giã lúa truyền thống, cũng đồng thời sinh hoạt
kánh loóng ít được biểu diễn. Cùng với đó là các nghi lễ, lễ hội có kánh loóng
cũng không còn được tổ chức nữa. Chính những yếu tố này đã khiến một giai
đoạn sinh hoạt kánh loóng bị mai một. Kể từ khi du lịch phát triển, người dân
thấy được giá trị của những hình thức sinh hoạt văn hóa cổ truyền nên họ đã
154
chú trọng gìn giữ, phát huy. Các đội kánh loóng cũng vì thế được hồi sinh.
Người Thái tổ chức tập luyện thường xuyên. Những người phụ nữ nhiều tuổi
còn nhớ cách thức, bài bản kánh loóng truyền dạy lại cho lứa trẻ để cùng nhau
chơi. Các đội kánh loóng được tổ chức khá quy củ. Họ cũng có những người
đội trưởng phụ trách việc chung. Khi có chương trình, người đội trưởng sẽ
báo với các thành viên để chuẩn bị cho việc kánh loóng. Khi ra biểu diễn, họ
đều mặc trang phục truyền thống và trang điểm rất đẹp.
Như chúng tôi đã nói, trước đây người Thái Mai Châu thường kánh
loóng trong các dịp lễ hội, nghi lễ linh thiêng của họ. Ngày nay, những bài
bản trong các nghi lễ đó lại được đưa ra biểu diễn phục vụ du khách. Chính
điều đó biểu hiện rõ sự thay đổi về không gian và mục đích diễn tấu. Về
không gian diễn tấu, rõ ràng không có sự linh thiêng. Hiện nay, có thể các đội
kánh loóng ở sân bản hoặc sân Nhà văn hóa. Du khách tập trung đứng xung
quanh để quan sát. Về mục đích diễn tấu cũng để có thêm thu nhập.
Văn hóa và môi trường kinh tế là những phương diện khác nhau của
đời sống xã hội, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ. Trong mối quan hệ
đó, cơ sở kinh tế sẽ quyết định nội dung, tính chất, hình thức, biểu hiện của
văn hóa. Khu vực huyện Mai Châu có điều kiện thuận lợi về địa lý, khí
hậu, môi trường để phát triển kinh tế du lịch. Các giá trị trong văn hóa Thái
Mai Châu tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với du khách khi đến thăm quan,
nghỉ dưỡng tại đây. Người Thái tự ý thức rất rõ điều này, cùng với định
hướng của chính quyền địa phương nên nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa
độc đáo được khôi phục để phục vụ hoạt động kinh tế, qua đó, đảm bảo
nguồn thu nhập ổn định cho một bộ phận người dân, đóng góp vào sự phát
triển của xã hội. Sinh hoạt văn hóa kánh loóng cũng trong xu hướng này.
Nhiều đội kánh loóng ở các bản được thành lập, tự tập luyện để biểu diễn
phục vụ du khách. Tuy vậy, do mục đích của hoạt động kánh loóng đã khác
155
so với trước đây nên dẫn đến sự thay đổi trong tính chất, ý nghĩa, biểu hiện
của hình thức sinh hoạt văn hóa này.
Như vậy, sự phát triển du lịch tại Mai Châu là một yếu tố tác động đến
sinh hoạt kánh loóng. Đó là làm tái tạo lại một hình thức sinh hoạt văn hóa cổ
xưa của người Thái Mai Châu. Cùng với đó là sự sáng tạo, thay đổi để thích
ứng với yêu cầu trong đời sống xã hội hiện nay.
4.4.1.3. Về công tác quản lý
Trong công tác quản lý, ngành văn hóa ở địa phương còn chưa đánh
giá chưa đúng về vai trò, vị trí của sinh hoạt văn hóa kánh loóng đối với
đời sống người Thái Mai Châu và trong hoạt động du lịch. Từ đó, dẫn đến
thiếu những chủ trương và sự chỉ đạo cụ thể để bảo tồn, phát huy hình thức
sinh hoạt văn hóa này.
Bên cạnh đó, họ cũng chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, giá trị tư
tưởng của sinh hoạt văn hóa kánh loóng, để có thể khôi phục những hình
thức kánh loóng theo các quan niệm, phong tục của người Thái Mai Châu
trước đây. Việc đầu tư cho sưu tầm, bảo vệ và phổ biến các giá trị của sinh
hoạt văn hóa kánh loóng chưa được chú trọng, thiếu tính hệ thống. Nhiều
hoạt động chưa sát thực với điều kiện thực tế địa phương, còn mang tính tự
phát, phong trào, cho nên chưa phát huy được hiệu quả và các giá trị của
hình thức sinh hoạt văn hóa này đối với hoạt động du lịch.
4.4.1.4. Về quá trình hội nhập quốc tế
Quá trình hội nhập quốc tế cũng có những tác động không nhỏ tới
văn hóa truyền thống của người Thái Mai Châu nói chung và sinh hoạt văn
hóa kánh loóng nói riêng. Xu hướng hội nhập diễn ra nhanh chóng, mạnh
mẽ dẫn đến một bộ phận người Thái Mai Châu vội vã tiếp nhận văn hóa
dân tộc khác (kể cả văn hóa nước ngoài) một cách tùy tiện và có thái độ
chối bỏ văn hóa truyền thống của dân tộc mình; đặc biệt là lớp thanh niên
156
trẻ tuổi, họ không còn hứng thú với việc lắng nghe, thưởng thức hoặc diễn
tấu kánh loóng trong mỗi dịp diễn ra các sinh hoạt văn hóa truyền thống.
Đây cũng là một nguyên nhân chủ yếu khiến cho việc bảo tồn và phát huy
hình thức sinh hoạt văn hóa kánh loóng gặp nhiều khó khăn.
4.4.2. Xu hướng biến đổi của sinh hoạt kánh loóng
Có hai xu hướng trái ngược nhau dưới đây:
4.4.2.1. Xu hướng thu hẹp
Thu hẹp phạm vi biểu hiện của sinh hoạt kánh loóng Thái Mai Châu
Nhiều trường hợp sử dụng loóng cổ truyền không còn hoặc ít được thực
hiện. Nhiều quan niệm về văn hoá kánh loóng bị mai một (chẳng hạn quan
niệm Ếch ăn trăng...), bị rơi vào quên lãng. Từ đó văn hoá kánh loóng Thái sẽ
thu hẹp dần phạm vi biểu hiện của nó. Có lẽ dần dần, văn hoá kánh loóng
Thái Mai Châu chỉ còn được biểu hiện qua việc diễn tấu trong các chương
trình văn hoá nghệ thuật.
Thu hẹp phạm vi chủ thể
Hiện nay, xuất hiện xu hướng giảm dần sự nhỏ lẻ, rải đều loóng ở nhiều
chủ sở hữu, dần chỉ còn ít nhà có loóng. Những người biết diễn tấu âm nhạc kánh
loóng trong cộng người Thái Mai Châu ngày một ít. Ngoài ra, một bộ phận không
nhỏ người Thái Mai Châu dần quên lãng, hoặc thờ ơ với văn hoá kánh loóng. Đây
là một thực tế mà chúng tôi nhận ra qua những lần điền dã.
4.4.2.2. Xu hướng mở rộng
Mở rộng phạm vi diễn tấu
Như trên đã nêu, có thể thấy, diễn tấu bài bản âm nhạc kánh loóng Thái
Mai Châu có xu hướng mở rộng phạm vi ở nhiều khía cạnh như các trường
hợp diễn tấu, mục đích diễn tấu, đối tượng diễn tấu, không gian diễn tấu. Cụ
thể như ngày nay tại Mai Châu, người Thái kánh loóng trong các dịp như
ngày Đại Đoàn kết toàn dân, ngày Quôc tế phụ nữ 8/3, phục vụ du lịch...
Xu thế loóng tách khỏi cộng đồng tộc người
157
Có thể coi sự tách khỏi cộng đồng tộc người của loóng là một xu hướng
mở rộng. Sự hiện diện của loóng, từ nhiều dạng thức, ở bên ngoài cộng đồng
Thái Mai Châu, đã dần trở nên rõ rệt hơn. Chẳng hạn: Loóng trở thành đồ trưng
bày hoặc biểu diễn trong một số cơ sở như Viện Âm nhạc, Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam, Trường Cao đẳng VHNT Tây Bắc, Đoàn Nghệ thuật các Dân tộc tỉnh
Hòa Bình... Loóng được khai thác, sử dụng cho âm nhạc chuyên nghiệp. Xu thế
này còn mờ nhạt nhưng rồi tương lai sẽ ngày một rõ hơn.
Tiểu kết
Đối với những vấn đề liên quan đến biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh
loóng, chúng tôi đã lý giải và chỉ ra các nguyên nhân, xu hướng biến đổi của
hình thức sinh hoạt văn hóa này. Bằng phương pháp so sánh với trường hợp
sinh hoạt văn hóa khắc luống của người Thái ở Con Cuông đã góp phần làm
rõ hơn các vấn đề liên quan đến biến đổi của kánh loóng.
Về nguyên nhân biến đổi, có thể thấy rõ nhất đó là sự thay đổi trong kỹ
thuật sản xuất nông nghệp và quá trình phát triển du lịch tại Mai Châu. Từ đó,
dẫn đến những xu hướng biến đổi trong đó có những trường hợp sinh hoạt
văn hóa kánh loóng bị thu hẹp lại, nhưng cũng có nhiều trường hợp mới phát
sinh. Qua so sánh, đối chiếu với trường hợp khắc luống của người Thái Con
Cuông, Nghệ An đã cho thấy sự tương đồng, khác biệt của cùng một hình
thức sinh hoạt văn hóa. Do tác động, ảnh hưởng từ vị trí địa lý, đặc điểm hoạt
động kinh tế, sự giao lưu văn hóa dẫn đến những biểu hiện khác nhau trong
quan niệm, trường hợp sử dụng, nghệ thuật diễn tấu... Nguyên nhân của sự
khác biệt chủ yếu do quá trình phát triển kinh tế du lịch tại huyện Mai Châu
đã tạo nên diện mạo, những đặc điểm trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng có
nét riêng so với khắc luống của người Thái Con Cuông.
Nghiên cứu sự biến đổi trong sinh hoạt văn hóa kánh loóng góp phần
làm rõ nhận thức của người Thái Mai Châu hiện nay đối với hình thức sinh
hoạt văn hóa này. Những nét đặc trưng, độc đáo trong sinh hoạt văn hóa kánh
158
loóng còn được bảo lưu đến nay thể hiện các giá trị về mặt văn hóa. Mặc dù
có nhiều thay đổi trong quan niệm, các trường hợp, hình thức diễn tấu kánh
loóng để phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội hiện nay, tuy nhiên
không làm mất đi những giá trị cốt lõi của một hình thức sinh hoạt văn hóa cổ
xưa còn được bảo lưu đến ngày nay. Đó là sự sáng tạo nên một hình thức
nghệ thuật trình diễn dân gian, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa tinh
thần của cộng đồng người Thái Mai Châu. Đồng thời, hiện nay hình thức sinh
hoạt văn hóa kánh loóng đang góp phần tạo nên những nét đặc trưng, độc đáo
của văn hóa Thái, thu hút nhiều du khách đến với Mai Châu thăm quan, du
lịch, đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
159
KẾT LUẬN
Chúng tôi đã tìm hiểu các tài liệu đề cập đến loóng và thấy rằng, cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, tổng thể về loóng của
người Thái Mai Châu. Các công trình đi trước chỉ giới thiệu về loóng với tư
cách là một nhạc cụ nằm trong hệ thống nhạc cụ của người Thái. Hoặc khi
các tác giả nghiên cứu về lễ hội của người Thái, có nhắc đến sinh hoạt kánh
loóng như một hoạt động mang tính góp vui, giải trí ở trong phần hội. Ngoài
ra, có một số bài viết dưới dạng bài báo giới thiệu về sinh hoạt văn hóa kánh
loóng đăng trên các tạp chí. Nhìn chung, các bài viết dạng này chỉ mang tính
chất miêu tả, giới thiệu khái quát về sinh hoạt văn hóa kánh loóng. Rõ ràng,
còn nhiều khoảng trống trong nghiên cứu về loóng. Có những vấn đề các tác
giả đi trước chỉ nêu ra hiện tượng mà không có sự giải thích thấu đáo. Bản
chất cốt lõi của sinh hoạt văn hóa kánh loóng là gì cũng chưa công trình nào
trả lời được.
Chúng tôi tìm hiểu về sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người Thái
Mai Châu trong giai đoạn 1954 - 1992. Trong đó, bao gồm các vấn đề cấu tạo,
quan niệm, các trường hợp sử dụng và ứng xử của người Thái Mai Châu với
loóng. Tất cả những vấn đề này phản ánh rõ mối liên hệ giữa cộng đồng
người Thái với loóng. Từ đó, cho thấy tầm quan trọng của loóng đối với đời
sống của người Thái Mai Châu trước đây. Nghiên cứu về cấu tạo loóng,
chúng tôi nhận thấy số đo các chiếc loóng của người Thái Mai Châu khá
tương đương nhau. Dường như có một kinh nghiệm chung trong cách chế tác
loóng. Trải qua thời gian dài sử dụng, người Thái đã đúc kết được cách chế
tác loóng phù hợp với công việc lao động của họ. Đối với các quan niệm về
sinh hoạt văn hóa kánh loóng, chúng tôi nhận thấy có nhiều quan niệm khác
nhau. Cụ thể như loóng là một nông cụ quan trọng trong mỗi gia đình, Ếch ăn
160
trăng (nguyệt thực), xua đuổi thú dữ, gắn với các nghi lễ linh thiêng phản ảnh
mong ước khát vọng của người Thái về sự ấm no, hạnh phúc, mưa thuận gió
hòa... Cùng với những quan niệm liên quan đến loóng là các trường hợp kánh
loóng. Người Thái Mai Châu trước đây thường kánh loóng trong lao động,
những dịp vui tụ tập đông người, ngày nguyệt thực, đám cưới, tang ma, xên
bản, xên mường, lễ mừng cơm mới, lễ chá chiêng. Sự ứng xử với loóng của
người Thái xưa cũng có nhiều điểm đáng chú ý. Đương nhiên, họ luôn coi
loóng là một nông cụ thân thiết, gần gũi, quan trọng trong gia đình. Cùng với
đó, người Thái cũng coi loóng có “hồn”. Đồng thời, đồng bào còn coi loóng
như một phương tiện đưa linh hồn người đã mất về Mường Trời.
Tìm hiểu về những biểu hiện của sinh hoạt văn hóa kánh loóng trong
gia đoạn từ 1993 - 2017, chúng tôi thấy rõ sự biến đổi về nhiều mặt hình thức
sinh hoạt văn hóa này. Những biến đổi thể hiện ở các mặt như có một số quan
niệm mới về sinh hoạt văn hóa kánh loóng, các trường hợp sử dụng, sự ứng
xử. Đặc biệt, chúng tôi đã chỉ ra sự biến đổi nhìn từ góc độ quan hệ sở hữu và
một số yếu tố liên quan đến diễn tấu loóng. Những biểu hiện của sinh hoạt
văn hóa kánh loóng trong giai đoạn này khác trước đây rất nhiều. Sự biến đổi
đó xuất phát từ những yếu tố khách quan, điều kiện địa lý, kinh tế du lịch, môi
trường sống. Đó cũng là điều hiển nhiên bởi các hiện tượng văn hóa dân gian
cần có sự thay đổi để có thể thích nghi, phù hợp với nhu cầu, thẩm mỹ, nhận
thức của con người hiện nay.
Luận án đã giải mã được một số đặc trưng trong văn hóa Thái như tín
ngưỡng, tâm linh, vấn đề giới... Về những biểu hiện tín ngưỡng, chúng tôi dựa
trên dữ liệu thu được tại địa bàn nghiên cứu, đồng thời căn cứ vào những
quan điểm của các học giả đi trước để phân tích, lý giải. Từ đó, cho thấy thực
chất sinh hoạt văn hóa kánh loóng biểu hiện tín ngưỡng dân gian đậm nét.
161
Trong đó, gồm có tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ Mặt Trời, Mặt
Trăng. Đây là những tín ngưỡng dân gian cổ xưa phổ biến trong cộng đồng cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước. Việc người Thái Mai Châu gắn một hình
thức sinh hoạt văn hóa với tín ngưỡng dân gian thể hiện những giá trị văn hóa
của một tộc người. Từ một công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, họ đã phát
triển thành một nhạc cụ sử dụng trong các nghi lễ quan trọng trong đời sống
tâm linh. Điều đó thể hiện tính thẩm mỹ, sự sáng tạo, ước vọng cổ sơ của
người Thái Mai Châu.
Về vai trò người phụ nữ Thái Mai Châu trong sinh hoạt văn hóa kánh
loóng, chúng tôi đã phân tích, lý giải và đi đến nhận định việc chỉ có phụ nữ
tham gia kánh loóng là do trong xã hội nguyên thủy của người Thái, đã có sự
phân công lao động theo giới. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân từ việc cấm
kỵ đàn ông lạ mặt tiếp xúc với phụ nữ đang lao động, nhằm tránh sự tạp giao
bừa bãi. Đó cũng là những điều ít nhiều còn lưu lại qua sinh hoạt văn hóa
kánh loóng đến tận ngày nay. Hay nói một cách khác, ngày nay, chúng ta chỉ
thấy phụ nữ Thái tham gia kánh loóng, đó có thể là tàn dư của việc cấm kỵ
đàn ông lạ mặt tiếp xúc phụ nữ trong quá trình lao động liên quan đến cây lúa.
Xác định được vấn đề này rất có giá trị trong việc khẳng định thêm rằng chính
những người phụ nữ Thái đã sáng tạo nên một hình thức nghệ thuật dân gian.
Họ đã biến một nông cụ trong lao động trở thành một nhạc cụ gõ. Những tiết
tấu phức tạp, sinh động, có tính tổ chức chặt chẽ trong diễn tấu đã thể hiện
tính thẩm mĩ rất cao của những người phụ nữ Thái. Đó là một sự sáng tạo nên
những giá trị văn hóa. Cùng với đó, họ còn góp phần bảo lưu bản sắc văn hóa
tộc người. Điều này được mình chứng rất rõ khi một nông cụ tồn tại suốt từ
thời kỳ xã hội nguyên thủy cho đến tận ngày hôm nay.
Từ việc chỉ ra những vấn đề liên quan đến sự biến đổi trong sinh hoạt
162
văn hóa kánh loóng, nguyên nhân, xu hướng biến đổi của hình thức sinh hoạt
văn hóa này, luận án đã cung cấp cơ sở khoa học cho các chính sách bảo vệ
và phát huy di sản văn hóa Thái trong xã hội Việt Nam đương đại. Về nguyên
nhân của biến đổi, có thể thấy rõ nhất đó là sự thay đổi trong kỹ thuật sản
xuất nông nghệp và quá trình phát triển du lịch tại Mai Châu. Từ đó, dẫn đến
những xu hướng biến đổi trong đó có những trường hợp sinh hoạt kánh loóng
bị thu hẹp lại, nhưng có cũng có nhiều trường hợp mới được phát sinh. Ngoài
ra, để làm rõ hơn yếu tố tác động đến sinh hoạt văn hóa kánh loóng của người
Thái Mai Châu, chúng tôi so sánh với khắc luống Thái Con Cuông để thấy sự
tương đồng, khác biệt của cùng một loại hình sinh hoạt văn hóa. Do tác động,
ảnh hưởng từ vị trí địa lý, đặc điểm hoạt động kinh tế, sự giao lưu văn hóa
dẫn đến những biểu hiện khác nhau trong quan niệm, trường hợp sử dụng,
nghệ thuật diễn tấu.
163
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Duy Thịnh (2014), “Loóng, nhạc cụ gõ độc đáo của người
Thái ở Mai Châu”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (365), tr.101 – 104.
2. Nguyễn Duy Thịnh (2016), “Sinh hoạt kành loóng của người Thái ở
Mai Châu”, Tạp chí Văn hóa học, (5), tr.61 – 66.
3. Nguyễn Duy Thịnh (2017), “Tại sao chỉ có phụ nữ Thái Mai Châu
tham gia kành loóng”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, (2), tr.14 – 19.
4. Nguyễn Duy Thịnh (2017), “Tìm hiểu ý nghĩa việc Kánh loóng trong lễ
tang của người Thái Mai Châu”, Tạp chí Văn hóa học, (2), tr.47 – 50.
164
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Vi Văn An (1999), Thiết chế Bản – Mường truyền thống của người Thái ở
miền Tây Nghệ An, Luận án Tiến sĩ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Tái bản, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
3. Dương Viết Á (2009), Mấy vấn đề văn hóa âm nhạc Việt Nam, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
4. Dương Viết Á (2000), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
5. A.A.Belik (2000), Văn hóa học những lý thuyết nhân học văn hóa, Bản
dịch, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
6. Huỳnh Công Bá (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Tp Huế.
7. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Tp Huế.
8. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Tp Huế.
9. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mai Châu (1988), Ký ức kháng chiến Mai
Châu, Xí nghiệp in Hà Sơn Bình.
10. Baker, Chris (2011), Nghiên cứu văn hóa: lý thuyết và thực hành, Đặng
Tuyết Anh dịch, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
11. Trần Thế Bảo (1993), Lòng bản – Yếu tố mô hình trong âm nhạc truyền
thống Việt Nam, Luận án PTS, Nhạc viện Tp Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Từ điển Bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội.
13. Đặng Xuân Bảng (1997), Sử học bị khảo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
14. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
165
15. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Chí Bền (2013), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và
thành tố, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
17. Đặng Việt Bích (2011), Tìm hiểu văn hóa Việt Nam (Tập tiểu luận), Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
18. Vi Văn Biên (2006), Văn hóa vật chất của người Thái ở Thanh Hóa và
Nghệ An, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
19. Trần Bình (2015), Văn tế trong nghi lễ gia đình của người Thái ở Mai
Châu, Hòa Bình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
20. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc thực trạng và những
vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Trần Văn Bính (chủ biên) (2006), Đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
22. Lê Ngọc Canh (1999), Văn hóa dân gian Việt Nam – Những thành tố,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
23. Lê Ngọc Canh (2003), Nghệ thuật âm nhạc và múa dân tộc Mường Vĩnh
Phú, In trong sách Hợp tuyển Nghiên cứu – Lí luận – Phê bình âm
nhạc Việt Nam thế kỉ XX, (3), Viện Âm nhạc, Hà Nội.
24. Lê Ngọc Canh (2009), Phương pháp nghiên cứu khoa học văn hóa nghệ
thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
25. Lê Ngọc Canh, Tô Đông Hải (1989), Nhạc cụ gõ cổ truyền Việt Nam,
Viện Văn hóa dân gian, Hà Nội.
26. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện
nay, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
166
27. Nguyễn Thị Phương Châm, Trương Thị Minh Hằng (2010), Những xu
hướng biến đổi văn hóa ở nông thôn và đô thị Việt Nam thập niên
đầu thế kỷ XXI (2001 – 2010), Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên
cứu văn hóa, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
28. Nguyễn Đổng Chi (1956), Lược khảo về thần thoại Việt Nam, Nxb Văn
sử địa, Hà Nội.
29. Nguyễn Tuệ Chi (2011), Đuống của người Mường xã Kim Thượng,
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH
Việt Nam, Hà Nội.
30. Nguyễn Tuệ Chi (2016), Bản sắc tộc người, di sản văn hóa và du lịch:
Nghiên cứu trường hợp người Mường và người Thái ở Hòa Bình,
Luận án Tiến sĩ, Học viện KHXH Việt Nam, Hà Nội.
31. Nguyễn Đức Từ Chi (1995), Người Mường ở Hoà Bình, Hội Sử học Việt
Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
32. Nguyễn Đức Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
33. Hoàng Xuân Chinh (1989), Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam, UBKHXH
Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Hà Nội.
34. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
35. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
36. Lý Khắc Cung (2010), Văn hóa phồn thực Việt Nam, Nxb Dân trí, Hà Nội.
37. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Văn hóa tín ngưỡng của một số dân tộc trên đất
Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
38. Chu Xuân Diên (1995), Văn hóa dân gian và phương pháp nghiên cứu
liên ngành, Trường Đại học Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh xuất bản,
Tp HCM.
167
39. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, Viện Văn hóa và
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
40. Vũ Cao Đàm (2011), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội.
41. Thế Đạt (2003), Du lịch và du lịch sinh thái, Nxb Lao động, Hà Nội.
42. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia
Tp Hồ Chí Minh, Tp HCM.
43. Bế Viết Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã
hội ở miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Phạm Hổ Đấu, Trần Thị Liên (2011), Đời sống văn hóa dân tộc Thái,
Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
45. Emile Durkheim (1993), Các quy tắc của phương pháp xã hội học, Bản
dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. E.B.Tylor (2000), Văn hóa nguyên thủy, Bản dịch, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, Hà Nội.
47. Tuấn Giang (2006), Giá trị nghệ thuật của diễn xướng dân gian Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
48. Lê Sĩ Giáo (1998), “Về bản chất tên gọi Thái trắng, Thái đen ở Việt
Nam”, Tạp chí Dân tộc học, (3), tr.6 – 10.
49. Vũ Quang Hà (chủ biên) (2003), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
50. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2003), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
51. Mai Văn Hai, Phạm Việt Dũng (2010), Xu hướng biến đổi trong văn hóa
và lối sống ở Việt Nam, Thông tin khoa học xã hội, số 2.
52. Lê Hàm (chủ biên) (2000), Âm nhạc dân gian xứ Nghệ, Hội Văn nghệ
dân gian Nghệ An.
168
53. Đỗ Đình Hãng, Vũ Trường Giang (2006), “Lễ hội truyền thống của người
Thái Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, số 2,
tr.25 – 30.
54. Nguyễn Thị Hiền (1999), “Quan niệm mới về folklore và văn bản
hóa”,Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.
55. Nguyễn Thị Hiền (2000), “Một số phương pháp nghiên cứu folklore ở
phương Tây”,Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 3, tr. 105-126.
56. Phạm Đình Hổ (2012), Vũ trung tùy bút, Bản dịch, Nxb Trẻ, Tp.HCM.
57. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu
văn hóa văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Huế (chủ biên) (2013), Thần thoại các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Quyển 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
59. Trần Thị Huệ (2004), “Bản Lác, điểm du lịch văn hóa dân tộc người Thái
Mai Châu Hòa Bình”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr.66.
60. Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn minh Việt Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
61. Trịnh Lan Hương (2016), Vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian
trong sáng tác ca khúc ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện
KHXH Việt Nam, Hà Nội.
62. Lương Văn Hy (1993), Cải cách kinh tế và tăng cường lễ nghi tại hai
làng ở miền Bắc Việt Nam 1980 – 1990, In: The challenge of
reform in Indochina, Cambridge: Havard, Institute for
Internationnal Developmet, Havard University, p.2549.
63. I.V.Ivanova (1973), Các dân tộc Thái của Thái Lan, Người dịch: Lê
Quang Thiêm,Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Vũ Ngọc Khánh (2006), Kho tàng thần thoại Việt Nam, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
169
65. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Kho tàng diễn xướng dân
gian Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
66. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn
hóa Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
67. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
68. Đinh Gia Khánh (1989), Văn hóa dân gian là một nghệ thuật nguyên hợp,
In trong sách Văn hóa dân gian – Những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
69. Đinh Gia Khánh (2000), “Phương pháp tổng hợp trong việc nghiên cứu
Folklore”, trong Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm nghiên cứu văn
hóa văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
70. Đinh Gia Khánh (2008), Nghiên cứu văn hóa dân gian: Phương pháp,
lịch sử, thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
71. Vũ Khiêu (2000), Văn hóa Việt Nam xã hội và con người, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
72. Lương Quỳnh Khuê (2008), Bản sắc văn hóa Mường cổ truyền và xu
hướng biến đổi hiện nay (Qua khảo sát văn hóa Mường tỉnh Hòa
Bình) (Đề tài cấp Bộ).
73. Bùi Văn Kín (chủ biên) (1972), Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình, Ty
Văn hóa Thông tin Hòa Bình.
74. Nguyễn Quang Lê (2014), Bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người
Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
75. Trần Gia Linh (2013), Huyền thoại mẹ và tín ngưỡng phồn thực trong
văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb Thời đại, Hà Nội.
76. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2006), Nhạc lễ dân gian người Việt ở Nam Bộ,
Luận án Tiến sĩ, Thư viện Viện VHNT quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
170
77. Nguyễn Thụy Loan (1993), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nxb Âm nhạc.
78. Nguyễn Thụy Loan (2006), Giáo trình Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
79. Nguyễn Thụy Loan (2006), “Cần tìm hiểu để làm rõ thêm khái niệm
nguyên hợp trong văn hóa dân gian”, trong Thông báo Văn hóa dân
gian 2005, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
80. Phạm Đức Lương, Mai Văn Tùng (2012), “Nhạc cụ cổ truyền của người
Thái ở Thanh Hóa”, In trong sách Cộng đồng các tộc người ngữ hệ
Thái – Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội nhập và phát triển, Hội
nghị Thái học toàn quốc lần thứ VI, Thanh Hóa.
81. Hoàng Lương (2004), Luật tục với việc bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa truyền thống một số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội.
82. Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái những vấn đề về lý luận và
thực tiễn phát triển ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín
ngưỡng, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
84. Bùi Tuyết Mai (chủ biên) (1999), Người Mường ở Việt Nam, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
85. Bùi Tuyết Mai (chủ biên) (2001), Người Mường trên đất tổ Hùng Vương,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
86. Quán Vi Miên (2015), Văn hóa Thái tìm hiểu và khám phá, Tập 1, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
87. Lưu Xuân Mới (2003), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
88. Phan Đăng Nhật (2012), Một bản anh hùng ca/ sử thi Thái đặc sắc sưu
tầm ở Nghệ An, In trong sách Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái
171
– Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội nhập và phát triển, Hội nghị
Thái học toàn quốc lần thứ VI, Thanh Hóa.
89. Phan Đăng Nhật (chủ biên) (2013), Sử thi Thái, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
90. Nhiều tác giả (1988), Fônclo Bâhnar, Sở Văn hóa Thông tin Gia Lai –
Kon Tum.
91. Nhiều tác giả (1990), Văn hóa dân gian những phương pháp nghiên cứu,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
92. Nhiều tác giả (1993), Văn hoá dân tộc Mường, Sở Văn hoá Thông tin,
Hội văn hoá các dân tộc tỉnh Hoà Bình, Hoà Bình.
93. Nhiều tác giả (2007), Văn hóa học những phương pháp nghiên cứu, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
94. Nhiều tác giả (2010), Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam:
những cách tiếp cận nhân học, Quyển 1 và quyển 2, Nxb Đại học
quốc gia Tp Hồ Chí Minh, Tp HCM.
95. Vũ Dương Ninh (chủ biên) (2007), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục.
96. Đức Ninh (chủ biên) (2008), Về một số vấn đề văn hóa dân gian
(folklore) Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
97. Nông Văn Nảo, Lò Thị Phào (2015), Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu (cốm mới)
của người Thái trắng ở Mường So, In trong sách Cộng đồng Thái –
Kadai Việt Nam những vấn đề phát triển bền vững, Hội nghị quốc
gia Thái học Việt Nam lần thứ VII, Lai Châu.
98. Nguyễn Thị Thanh Nga (2007), Văn hóa truyền thống một số tộc người ở
Hòa Bình, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
99. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
172
100. Nguyễn Tri Nguyên (2000), Văn hóa - tiếp cận từ vấn đề và hiện
tượng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
101. Nguyễn Tri Nguyên (2006), Văn hóa – tiếp cận lý luận và thực tiễn,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
102. Nguyễn Tri Nguyên (2010), Văn hóa học – những phương diện liên
ngành và ứng dụng, Nxb Đại học công nghiệp Tp HCM.
103. Đặng Thị Oanh (2011), Văn hóa Thái những tri thức dân gian, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
104. Phùng Đăng Quang (2005), Nhạc khí dân tộc S’tiêng, Nxb Trẻ, Tp HCM.
105. J. H. Fichter (1974), Xã hội học, bản dịch của Trần Văn Đĩnh, in lần hai,
Nxb Hiện đại, Sài Gòn.
106. John Kleinen (2007), Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ,
Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, (bản dịch).
107. Ngô Xuân Sao (2012), “Bản sắc văn hóa của người Thái Thanh Hóa qua tìm
hiểu một số biểu tượng trong mo”, In trong sách Cộng đồng các tộc
người ngữ hệ Thái – Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội nhập và phát
triển, Hội nghị Thái học toàn quốc lần thứ VI, Thanh Hóa.
108. Trịnh Sinh (2015), “Người Thái và văn hóa Đông Sơn”, In trong sách Cộng
đồng Thái – Kadai Việt Nam những vấn đề phát triển bền vững, Hội
nghị quốc gia Thái học Việt Nam lần thứ VII, Lai Châu.
109. Hoàng Sơn (1996), Tìm hiểu nhạc cụ dân tộc thiểu số Việt Nam, Luận
án Phó Tiến sĩ, Thư viện VHNTQG Việt Nam, Hà Nội.
110. Sở Văn hóa Thông tin Hà Sơn Bình (1987), Tìm hiểu văn hóa cổ truyền
của người Thái Mai Châu.
111. Hà Sủm (1998), Hà Sủm những bài viết chọn lọc, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
173
112. Hà Sủm (chủ biên) (2001), Ẳm Ệt sử thi thần thoại dân tộc Thái - Mai
Châu, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình, UBND Huyện Mai Châu.
113. Quách Thế Tản (2000), Văn hóa Hòa Bình thế kỷ XX, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
114. Nguyễn Thị Hồng Tâm (2017), Biến đổi văn hóa truyền thống của
người Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong phát triển du
lịch, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.
115. Tô Ngọc Thanh (1979), “Mấy ý kiến về đặc trưng nguyên hợp trong
nghiên cứu Phôn – cơ – lo”, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 5.
116. Tô Ngọc Thanh (1995), Giới thiệu một số nhạc cụ dân tộc thiểu số Việt
Nam, Nxb Văn nghệ, Tp HCM.
117. Tô Ngọc Thanh (1998), Âm nhạc dân gian Thái Tây Bắc, Nxb Âm nhạc,
Hà Nội.
118. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử âm nhạc Việt Nam (Từ thời Hùng Vương
đến thời Lý Nam Đế), Nxb Tp Hồ Chí Minh, Tp HCM.
119. Hà Thị Tô Thắm (2010), Âm nhạc dân gian Thái Mai Châu tỉnh Hòa
Bình, Luận văn Thạc sĩ, Học viện ÂNQG Việt Nam.
120. Bùi Quang Thắng (2006), Hành trình vào văn hóa học, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
121. Bùi Quang Thắng (Chủ biên) (2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
122. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Tái bản, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
123. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb
Tp.HCM.
124. Ngô Đức Thịnh (1990), Quan niệm về folklore, Nxb KHXH Việt Nam, Viện
VHDG, Hà Nội.
174
125. Ngô Đức Thịnh (1996), Tìm hiểu nông cụ cổ truyền Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
126. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (1999), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
127. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
128. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore một
số thuật ngữ đương đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
129. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới -
một số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
130. Ngô Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến
đổi, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
131. Dương Duy Thiện (2009), “Tục đâm đuống ở Vĩnh Phú”, Tạp chí Văn
hoá dân gian, (3).
132. Bùi Thanh Thủy (2012), Văn hóa các tộc người thiểu số tỉnh Hòa Bình
với việc phát triển du lịch văn hóa, Luận án Tiến sĩ, Viện VHNT
Việt Nam, Hà Nội.
133. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
134. Nguyễn Hữu Thức (2012), Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái
Mai Châu, Nxb Lao động, Hà Nội.
135. Võ Thị Thường (2002), Lễ “Cha chiêng” của người Thái Mai Châu, Hòa
Bình, In trong sách Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ
Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.583 – 595.
136. Nguyễn Thanh Trâm (2013), Thần thoại giải thích nhật thực, nguyệt
thực ở Việt Nam và Đông Nam Á, In trong Thông báo văn hóa 2011
– 2012 của Viện nghiên cứu văn hóa, Nxb Tri thức, Hà Nội.
175
137. Lê Huy Trâm, Hoàng Anh Nhân (2001), Lễ tục – lễ hội truyền thống xứ
Thanh, Nxb Văn hóa Dân tộc.
138. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
139. Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
140. Cầm Trọng (1987), Mấy vấn đề cơ bản về lịch sử kinh tế xã hội cổ đại người
Thái Tây Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
141. Cầm Trọng, Phan Hữu Dật (1995), Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
142. Cầm Trọng (chủ biên) (2002), Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong
nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
143. Cầm Trọng (2005), Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
144. Lường Song Toàn (2016), Tín ngưỡng dân gian người Thái huyện Mai
Châu – Tỉnh Hòa Bình, Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, tr.155.
145. Lê Văn Toàn (chủ biên) (2016), Vấn đề nghiên cứu và đào tạo âm nhạc
dân tộc học Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
146. Tỉnh ủy – HĐND – UBND Tỉnh Hòa Bình (2005), Địa chí Hòa Bình,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
147. Dương Hồng Từ (2005), Âm nhạc dân gian dân tộc Thái ở Nghệ An,
Nxb Nghệ An, Nghệ An.
148. Từ điển Bách khoa toàn thư (1996), tập 1, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
149. Từ điển Tiếng Việt (1995), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
150. Từ điển văn hóa Việt Nam (1993), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
176
151. Lê Thị Hoài Phương (Chủ biên) (2009), Hợp tác quốc tế về văn hóa
trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
152. Jean Chavelier, Alain Gheer brant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới, Nxb Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du.
153. Pierre Gressin (1994), Tỉnh Mường Hoà Bình, Nxb Lao động - Sở
VHTT Hoà Bình, Hà Nội.
154. Robert Lowie (2008), Không gian văn hóa nguyên thủy nhìn theo lý
thuyết chức năng, Bản dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.
155. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết Nhân học, Nxb Đại học quốc
gia Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
156. Đặng Nghiêm Vạn và các tác giả (1977), Tư liệu về lịch sử và xã hội
dân tộc Thái, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
157. Đặng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (1994), Truyện cổ
các dân tộc ít người Việt Nam, Tập 4, Nxb Văn học, Hà Nội.
158. Nguyễn Viêm (1996), Lịch sử âm nhạc dân gian cổ truyền, Viện nghiên
cứu âm nhạc.
159. Viện Âm nhạc (2003), Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu lý luận phê bình
âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX, tập 3, Hà Nội.
160. Viện Dân tộc học (1980), Bản lĩnh bản sắc dân tộc, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
161. Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian: Những lĩnh vực
nghiên cứu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
162. Viện VHNT quốc gia Việt Nam (2014), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế 10
năm thực hiện công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Unesco,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
163. Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian – những phương pháp
nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
177
164. Hồ Sĩ Vịnh (Chủ biên) (1993), Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa, Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật xuất bản, Hà Nội.
165. Trần Quốc Việt (2015), Âm nhạc dân gian của người Bố Y ở Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ, Học viện KHXH Việt Nam, Hà Nội.
166. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam truyền thống và hiện đại, Viện Âm nhạc.
167. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (biên soạn) (1959), Lịch sử chế độ cộng
sản nguyên thủy ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
168. Trần Quốc Vượng (1996), “Văn hóa Hòa Bình – văn hóa thung lũng”,
Tạp chí Khảo cổ học, (2), tr.1 – 5.
169. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Tái bản,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
170. Trần Quốc Vượng (2002), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
171. V.M.Mezhuev (2012), Tư tưởng văn hóa khái luận về triết học văn hóa,
Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
II. Tài liệu tiếng Anh
172. Alan W. Barton, Theresa Selfa (2010), Community development and
Natural Landcapes.
173. Christoph Wulf (2011), The performativity and dynamics of intangible
cultural heritage.
174. Esteban Ruiz Ballesteros, Macarena Hernandez Ramirez (2006),
Identity and community – Reflections on the development of mining
heritage tourism in Southern Spain.
175. Hart Clive (1967), Kite: an historical survey, London.
176. Inglehart, Rolald và Wayne E.Baker (2000), Modernization, Cultural
Change and Persistence of Traditional Values, American
Sociological Review, Vol.65. No.1.
178
177. Midgley (1986), Community participation - Social development and the
state, Methuen, London.
178. N.N (1894), A Musical Kite, Paris.
179. Streeter Tal (1972), The art of Japanese kite, Tokyo.
180. UNWTO (2011), Study on tourism and intangible cultural heritage.
181. UN (1972), Popular participation: Emerging trends in community
development.
182. Wang XiaoYu (1996), Chinese Kites: Their Arts and Crafts,
Shangdong Friendship Publishing House.
183. Wright G N (1859), The Chinese Empire illustrated.
III. Tài liệu trên mạng internet
184. A. Radcliffe - Brown, Bàn về khái niệm chức năng trong khoa học xã
hội, Đinh Hồng Phúc dịch (2013) từ nguồn: A. R. Radcliffe-Brown.
1965. Structure and Function in Primitive Society. New York: The
Free Press, pp. 178-187, http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-
hoc/phan-khoa-triet-hoc/khoa-hoc-luan/ban-ve-khai-niem-chuc-
nang-trong-khoa-hoc-xa-hoi_205.html.
185. Hoàng Nga (2013), Độc đáo điệu keeng loóng của người Thái Mai
Châu,<http://www.baohoabinh.com.vn/16/76789/Doc_dao_dieu_ke
eng_loong__cua_nguoi_thai_Mai_Chau.htm>, truy cập ngày
05/03/2016.
186. Kiều Nga (2014), Điệu khắc luống, tín ngưỡng phồn thực của đồng bào
Thái, <http://congannghean.vn/van-hoa-giao-duc/201403/dieu-
khac-luong-tin-nguong-phon-thuc-cua-dong-bao-thai-457340/>, truy
cập ngày 05/03/2016.
179
187. Dạ Ngân (2011), Loỏng - Bộ gõ độc đáo của đồng bào Thái,
<http://www.baomoi.com/Loong-Bo-go-doc-dao-cua-dong-bao-
Thai/c/5614784.epi>, truy cập ngày 05/03/2016.
188. Đặng Thị Oanh, Tính nguyên hợp với việc nghiên cứu tác phẩm văn học
dân gian, http://www.cdsplaocai.edu.vn/in-1425364544.htm, truy
cập ngày 2/7/2016.
189. Tiểu Phong (2012), Độc đáo sinh hoạt khua luống của người Thái Trắng ở
Lai Châu, <https://phiatruoc.wordpress.com/2012/04/20/d%E1%BB%99c-
dao-sinh-ho%E1%BA%A1t-khua-lu%E1%BB%91ng-c%E1%BB%A7a-
ng%C6%B0%E1%BB%9Di-thai-tr%E1%BA%AFng-%E1%BB%9F-lai-
chau/>, truy cập ngày 05/03/2016.
190. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc,
<http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu/Traodoi/2007/
2441/Van-hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.aspx> truy cập ngày
2/7/2016.
191. Trí Thức Trẻ (2015). Khoa học lý giải sự ảnh hưởng của hiện tượng
Nguyệt thực đến con người, <http://genk.vn/kham-pha/khoa-hoc-ly-
giai-su-anh-huong-cua-hien-tuong-nguyet-thuc-den-con-nguoi-
20150404094631008.chn>, truy cập ngày 05/03/2016.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
VĂN HÓA KÁNH LOÓNG CỦA NGƯỜI THÁI
Ở HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội – 2018
181
MỤC LỤC
PHỤ LỤC 01: Hệ thống bản đồ ............................................................................................ 182
PHỤ LỤC 02: Tóm tắt truyền thuyết về nguyên ủy dòng họ Tạo tới Mai Châu .............. 185
PHỤ LỤC 03: Danh sách các đội Kánh loóng .................................................................... 187
PHỤ LỤC 04: Danh sách những người cung cấp thông tin cho đề tài luận án ................. 190
PHỤ LỤC 05: Bài bản Kánh loóng của người Thái Mai Châu .......................................... 193
PHỤ LỤC 06: Bài bản Khắc luống của người Thái Con Cuông ....................................... 194
PHỤ LỤC 07: Các loại bảng................................................................................................. 196
PHỤ LỤC 08: Hình ảnh ........................................................................................................ 204
182
PHỤ LỤC 01
HỆ THỐNG BẢN ĐỒ
Bản đồ 1.1: Hành chính Tỉnh Hòa Bình
[Nguồn: Sách Địa chí Hòa Bình của UBND tỉnh Hòa Bình, Nxb CTQG]
185
PHỤ LỤC 02
TÓM TẮT TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUYÊN ỦY DÒNG HỌ
TẠO TỚI MAI CHÂU
Tổ tiên nhà Tạo khi xưa ở Mường Hước Pước Khà hay gọi tắt là
Mường Pước Khà vì ở đó cỏ gianh mọc nhiều. Vì thiếu đất, ba anh em cùng
mẹ rủ nhau xuôi sông Hồng xuống tìm đất lập mường. Hai anh em đi thuyền
đồng nên đi nhanh. Anh cả và mẹ đi thuyền da nên đi chậm. Lái thuyền nản,
lâu ngày lại cắt miếng da nấu ăn nên thuyền lại chậm thêm. Anh em xuôi
xuống đồng bằng đã có người Kinh ở, còn bên ven sông có người Mường,
bèn ngược lên thác Bờ. Đến đó anh cả đổi thuyền đồng, để mẹ đi thuyền da
với em.
Hai em đến Ngòi Chò thì nghỉ (Chò là nghỉ), tức chỗ Suối Rút hiện
nay. Thấy cây có dấu của anh, hai em định theo anh lên ngược. Nhưng đến
bãi Xang (chỗ Suối Rút rẽ vào Mai Châu) thấy đàn sáo bay từ Mai Châu bay
ra, hai em không theo anh cả nữa, rẽ vào Mai Châu, bãi Xang mang tên từ đó.
Ban đầu, hai em đến xóm Đậu thấy rộng kêu “Ái chà chà” (nên nay
còn có tên là Xóm Aí) bèn nghỉ lại. Hai em bỏ thuyền theo ven đồi đi lên. Đi
lâu, khát nước, hai em cúi xuống vũng nước uống, cắm giáo đồng bên cạnh.
Cây giáo đổ, tuột lưỡi, tìm không thấy. Chỗ đó giờ mang tên xóm Tòng. Khi
tới xóm Vãng, mẹ hỏi đây là đâu? Con đáp không rõ chỉ thấy có mỏ nước ở
giữa (tiếng Thái là Pó Vãng Cang). Nên nay có tên là xóm Vãng. Khi đến
Chiềng Xại đánh vỡ cong. Nên Chiềng Xại còn có tên là xóm Cong. Hai anh
em tới Bó Luông, thấy có nguồn nước làm ruộng được, nhưng ruộng lại hẹp,
nên đi tiếp xuống Chiềng Châu đất rộng, hai anh em bèn đặt tổ tiên ở đó. Em
út là ông Dát không vừa ý, xin mẹ và anh đi xa hơn nữa. Mẹ và anh ưng cho,
mổ con bò sừng sắt, sừng đồng tiễn chân. Người em theo sông Mã xuống
thấy đã có dòng Lò Khăm và họ Phạm ở đó. Xuôi là hay đấy, hay đấy. Người
186
em bèn dừng lại và đặt tên đất ở đó là Mường Lầu, Mường Khòng. Lầu là
chúng ta, Khòng là luật tức theo luật của Mai Châu. Vì tổ tiên người Mường
Lầu, Mường Khòng là em út nên ngày nay Thái Mai Châu thường gọi người
Thái Thanh Hóa là chú. Lúc đầu, theo tục lệ, nếu Mường Khoòng mổ trâu
thường nộp đùi cho anh cả. Vì anh cả ở xa, anh hai lại ở với mẹ, nên tạo
Mường Khoòng vẫn mang nộp biếu tạo Mai Châu.
Một lần, tạo sai hai người em đem đùi trâu nộp anh, một người mặc áo
đen, một người mặc áo trắng. Người áo đen khiêng đằng trước, người áo
trắng khiêng đằng sau. Đường xa khát nước, ngồi nghỉ. Người áo đen tần mẩn
lấy dao khắc vào dòn càn nào ngờ thành chữ nghĩa như sau: “Em mổ trâu làm
lễ hạ điền cho hai người đem biếu, xin ông Hai giết người áo đen còn tha
người áo trắng trở về”. Khi đến nơi, tạo anh xem, thấy lạ đánh cong họp
mường, ai cũng nói chữ ghi rõ ràng như vậy. Tạo anh bèn đem người áo đen ra giết.
Người áo trắng sợ chạy mất, càng gọi càng chạy. Nên tạo Hai không dặn dò gì
được cho tạo út cả. Được tin, tạo út lên hỏi anh, thấy đúng chữ mình viết. Tạo đòi
người áo trắng lên hỏi biết là hai người khiêng đều không biết chữ, người áo đen
ghi thành vậy ắt điềm trời. Từ đó, tạo út thay đùi trâu chỉ nộp đùi lợn.
Người anh cả có một cô con gái rất đẹp, không gả chồng, lại lấy làm vợ lẽ.
Họ hàng ở Chiềng Châu, Lầu, Khoòng khinh không nhận họ nữa. Người anh hai ở
Chiềng Châu có ba con trai, cho con cả ăn Mường Pa, con hai ăn Chiềng Xại, con
thứ ba ăn Mường Hịch. Khi đó, ở Mai Hạ, có Xá Khả đại tức là người Mán Hoa ở.
Tạo Xá xây bờ thành rất chắc để đề phòng, chiếm đất. Đánh nhiều lần không được,
Mường Thượng bày mưu thi bắn tên cắm bào bờ thành. Xá thật thà bắt tên đồng rơi
cả. Thái khôn bắn tên nhẹ bịt sáp ong nên dính vào thành. Tạo Xá thua phải lên
Phai Dôm ở núi cao sau Nà Phòn hiện nay ở [Nguồn: 135, tr 227].
187
PHỤ LỤC 03
DANH SÁCH CÁC ĐỘI KÁNH LOÓNG
Đội kánh loóng bản Văn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Thời điểm 08.01.2017.
STT Họ và tên Năm sinh Địa chỉ
1 Hà Thị Yêu 1951 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
2 Hà Thị Tều 1935 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
3 Lò Thị Ón 1955 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
4 Hà Thị Tứn 1961 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
5 Lò Thị Uôn 1961 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
6 Hà Thị Páy 1950 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
7 Ngần Thị Nhiềm 1955 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
8 Lò Thị Siêu 1957 Bản Văn, thị trấn Mai Châu.
Đội kánh loóng bản Lác 2, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Thời điểm 08.01.2017.
1 Hà Thị Xiểng 1963 Bản Chiềng Châu, thị trấn Mai Châu.
2 Vì Thị Dương 1971 Bản Lác 2, thị trấn Mai Châu.
3 Mạc Thị Thu 1983 Bản Chiềng Châu, thị trấn Mai Châu.
4 Hà Thị Thủy 1993 Bản Chiềng Châu, thị trấn Mai Châu.
5 Bùi Thị Linh 1993 Xóm Hịch, xã Mai Hịch, thị trấn Mai Châu.
6 Hà Thị Trang 1989 Bản Chiềng Châu, thị trấn Mai Châu.
7 Mạc Thị Quyến 1982 Bản Chiềng Châu, thị trấn Mai Châu.
8 Vì Thị Dương 1983 Bản Chiềng Châu, thị trấn Mai Châu.
9 Hà Thị Hoan 1984 Bản Chiềng Châu, thị trấn Mai Châu.
10 Hà Thị Dựng 1982 Bản Lác 2, thị trấn Mai Châu.
188
Đội kánh loóng bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Thời điểm 11.2.2017.
1 Hà Thị Ửm 1952 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
2 Lò Thị Ăn 1955 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
3 Hà Thị Ứn 1961 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
4 Hà Thị Sơn 1956 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
5 Khà Thị Xiên 1955 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
6 Lục Thị Sình 1956 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
7 Lường Thị May 1952 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
8 Lục Thị Tấm 1961 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
9 Khà Thị Hạnh 1956 Bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu.
Đội kánh loóng bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Thời điểm 11.2.2017.
1 Hà Thị Dung 1966 Bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu.
2 Hà Thị Thóa 1965 Bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu.
3 Hà Thị Thích 1964 Bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu.
4 Hà Thị Quảng 1973 Bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu.
5 Hà Thị Vinh 1967 Bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu.
6 Hà Thị Danh 1971 Bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu.
Đội kánh loóng bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Thời điểm 01.05.2017.
1 Lò Thị Coi 1940 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
2 Lò Thị Xật 1958 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
3 Khà Thị Mếnh 1949 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
4 Hà Thị Út 1954 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
5 Hà Thị Yên 1949 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
189
6 Hà Thị Nhiếm 1946 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
7 Lò Thị Kiết 1966 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
8 Hà Thị Dâm 1954 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
9 Khà Thị Cúi 1959 Bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, huyện Mai Châu.
Đội khắc luống thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
Thời điểm 23.02.2016.
1 Lữ Thị Duyến 1961 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
2 Lang Thị Hoa 1963 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
3 Lang Thị Máy 1969 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
4 Lò Thị Mai 1959 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
5 Lang Thị Điều 1967 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
6 Lang Thị Loan 1962 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
7 Lò Thị Luyện 1959 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
8 Lang Thị Liệu 1961 Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
190
PHỤ LỤC 04
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
CHO ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
4.1. Danh sách nhà nghiên cứu
STT Họ và tên Năm
sinh
Nghề nghiệp Địa chỉ Thời điểm
1 Lường Song
Toàn
1947 Nhà nghiên cứu
văn hóa dân
gian.
Thị trấn Mai Châu,
Hòa Bình. 12/8/2014
2 Khà Văn
Tiến
1944 Cán bộ văn hóa
huyện (đã nghỉ
hưu).
Xóm Nghẹ, xã Vạn
Mai, huyện Mai
Châu.
11/2/2017
3 Hà Công
Tín
1949 Công an (đã nghỉ
hưu).
Xóm Mỏ, xã Chiêng
Châu, huyện Mai
Châu.
21/1/2016
4 Lò Cao
Nhum
1955 Cán bộ của Hội
Văn học Nghệ
thuật tỉnh Hòa
Bình (đã nghỉ
hưu).
Bản Lác 1, thị trấn
Mai Châu. 12/2/2017
5 Bùi Chí
Thanh
1933 Giảng viên (đã
nghỉ hưu).
Phường Chăm Mát,
tp Hòa Bình. 20/8/2015
6 Hà Văn Đức 1957 Giảng viên (đã
nghỉ hưu).
Tổ 17, phường
Chăm Mát, tp Hòa
Bình.
15/6/2015
7 Lê Hoàng 1959 Nhà nghiên cứu
văn hóa dân
gian.
Khối 1, thị trấn Con
Cuông, Nghệ An. 20/2/2016
4.2. Danh sách người Thái
STT Họ và tên Năm
sinh
Nghề nghiệp Địa chỉ Thời điểm
1 Hà Công
Quân
1975 Kinh doanh phục
vụ du lịch.
Số nhà 47, bản Pom
Coọng, thị trấn Mai
Châu.
11/2/2017
2 Hà Công
Nhôi
1952 Nghề nông Số nhà 47, bản Pom
Coọng, thị trấn Mai
Châu.
12/2/2017
3 Hà Thị
Ửm
1952 Nghề nông Bản Pom Coọng, thị
trấn Mai Châu. 11/2/2017
191
4 Hà Thị
Nhuồn
1961 Nghề nông Xóm Tân Tiến, xã
Xăm Khòe, huyện Mai
Châu.
11/2/2017
5 Hà Thế
Nhiên
1957 Nghề nông Xóm Tân Tiến, xã
Xăm Khòe, huyện Mai
Châu.
11/2/2017
6 Hà Thị
Phóng
1950 Nghề nông Bản Bước, xã Xăm
Khòe, huyện Mai
Châu.
11/2/2017
7 Hà Thị
Sơn
1950 Nghề nông Xóm Mỏ, xã Chiềng
Châu, huyện Mai
Châu.
20/2/2015
8 Hà Thị
Tều
1935 Nghề nông Bản Văn, thị trấn
Mai Châu. 8/1/2017
9 Khà Văn
Tiến
1953 Nghề nông Bản Nà Phòn, xã Nà
Phòn, huyện Mai
Châu.
12/2/2017
10 Ngần Thị
Tuyết
1954 Nghề nông Bản Nà Phòn, xã Nà
Phòn, huyện Mai
Châu.
4/3/2017
11 Lò Thị Kiết 1966 Nghề nông Bản Nà Phòn, xã Nà
Phòn, huyện Mai
Châu.
1/3/2017
12 Khà Thị
Mếnh
1949 Nghề nông Bản Nà Phòn, xã Nà
Phòn, huyện Mai
Châu.
1/3/2017
13 Hà Thị
Yêu
1951 Nghề nông Bản Văn, thị trấn Mai
Châu. 20/8/2016
14 Lò Thị Coi
1940 Nghề nông Bản Nà Phòn, xã Nà
Phòn, huyện Mai
Châu.
20/8/2016
15 Hà Thị
Nhiếm
1946 Nghề nông Bản Nà Phòn, xã Nà
Phòn, huyện Mai
Châu.
20/8/2016
16 Khà Văn
Ư
1944 Nghề nông Bản Nà Phòn, xã Nà
Phòn, huyện Mai
Châu.
16/5/2015
17 Lò Văn
Nhoi
1964 Nghề nông Xóm Đồng Bảng, xã
Đồng Bảng, huyện
Mai Châu.
16/5/2015
18 Hà Thị
Xiểng
1963 Nghề nông Bản Chiềng Châu, thị
trấn Mai Châu. 20/8/2016
19 Lang Văn 1969 Nghề nông Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu 20/2/2016
192
Dậu Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ
An.
20 Lữ Thị
Duyến
1961 Nghề nông Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu
Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ
An.
20/2/2016
21 Lò Thị
Mai
1959 Nghề nông Thôn Kẻ Mẻ, xã Mậu
Đức, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ
An.
20/2/2016
22 Lường Văn
Nghiệp
1957 Nghề nông Xã Môn Sơn, huyện
Con Cuông, tỉnh
Nghệ An.
20/2/2016
23 Hà Thái
Linh
1981 Giáo viên bậc
Tiểu học.
Xóm Chiềng Sại, thị
trấn Mai Châu. 20/8/2015
193
PHỤ LỤC 05
BÀI BẢN KÁNH LOÓNG CỦA NGƯỜI THÁI MAI CHÂU
1. Bài dùng trong lễ tang
2. Bài dùng trong Lễ mừng cơm mới
194
PHỤ LỤC 06
BÀI BẢN KHẮC LUỐNG CỦA NGƯỜI THÁI CON CUÔNG
1. Bài Luống khàu
2. Bài Luống xen ven (Hoa sen)
3. Bài luống sạp
196
PHỤ LỤC 07
CÁC LOẠI BẢNG
Bảng 7.1: CÁC QUAN NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN LOÓNG THÁI MAI CHÂU VÀ LUỐNG
THÁI CON CUÔNG
Địa phương
Thời điểm
MAI CHÂU CON CUÔNG
Sản xuất
nông
nghiệp
Xua đuổi thế lực
gây hại
Loại hình nghệ thuật
dân gian độc đáo,
hấp dẫn
Tín ngưỡng,
phong tục
Sản xuất
nông
nghiệp
Xua đuổi thế lực
gây hại
Loại hình
nghệ thuật
dân gian độc
đáo, hấp dẫn
Tín ngưỡng,
phong tục
Giai đoạn
1954 - 1993
Loóng cần
thiết cho
sản xuất
nông
nghiệp.
Để xua
đuổi
thú dữ.
Bắt
nguồn từ
chuyện
Ếch ăn
trăng
(nguyệt
thực) để
không
ảnh
hưởng
mùa
màng.
Kánh loóng mang đến
không khí vui tươi, sôi
nổi cho các nghi lễ,
phong tục như trong
ngày vui, đầu xuân, lễ
chá chiêng.
Kánh loóng trong
một số nghi lễ, lễ
hội, phong tục
còn mang ý nghĩa
linh thiêng, phản
ánh các ý niệm
của người Thái
như lễ cơm mới,
tang ma, đám
cưới, lễ xên bản,
xên mường.
Loóng cần
thiết cho
sản xuất
nông
nghiệp.
Để xua
đuổi
thú dữ.
Bắt nguồn
từ chuyện
quỷ ăn
trăng
(nguyệt
thực) để
không ảnh
hưởng mùa
màng.
Khắc luống
mang đến không
khí vui tươi, sôi
nổi cho các nghi
lễ, phong tục
như trong ngày
vui, đầu xuân, lễ
xăng khan.
Khắc luống
trong một số
nghi lễ, lễ hội,
phong tục còn
mang ý nghĩa
linh thiêng, phản
ánh các ý niệm
của người Thái
như lễ cơm mới,
tang ma, đám
cưới, lễ lở
ngoạt.
197
Giai đoạn
1993 - 2017
Không
còn
Không
còn
Không
còn
Kánh loóng mang đến
không khí vui tươi, sôi
nổi cho lễ hội như lễ
xên bản, xên mường,
ngày Đại đoàn kết toàn
dân, Quốc tế phụ nữ 8 –
3, chào mừng các Hội
nghị, phục vụ khách du
lịch.
Không còn Không còn Không
còn
Không còn Khắc luống
mang đến không
khí vui tươi, sôi
nổi cho ngày vui
đầu xuân.
Không còn
198
Bảng 7.2: CÁC TRƯỜNG HỢP, MỤC ĐÍCH DIỄN TẤU LOÓNG, LUỐNG
TẠI MAI CHÂU VÀ CON CUÔNG
Địa phương
Thời điểm
MAI CHÂU CON CUÔNG
Các trường hợp sử
dụng loóng
Mục đích diễn tấu Các trường hợp sử
dụng luống
Mục đích diễn tấu
Giai đoạn
1954 - 1993
Ếch ăn trăng (nguyệt
thực).
Xua đuổi con Ếch ăn mặt trăng (sợ ảnh
hưởng đến mùa màng).
Quỷ ăn trăng (nguyệt
thực).
Xua đuổi con Quỷ ăn mặt trăng (sợ ảnh
hưởng đến mùa màng).
Lễ xên bản, xên
mường.
Cầu phúc cho bản, mường. Không có
Lễ chá chiêng. Tạ ơn thầy Mo. Lễ xăng khan Tạ ơn thầy Mo.
Ngày Tết, đầu xuân.
Tạo không khí vui vẻ trong ngày Tết,
đầu xuân.
Ngày Tết, đầu xuân. Tạo không khí vui vẻ trong ngày Tết, đầu
xuân.
Đám cưới. Giã lúa lấy gạo làm cỗ và tạo không khí
vui vẻ trong ngày cưới, mong cô dâu chú
rể sớm có nhiều con.
Đám cưới. Giã lúa lấy gạo làm cỗ và tạo không khí
vui vẻ trong ngày cưới, mong cô dâu chú
rể sớm có nhiều con.
Tang ma. Đưa hồn về Mường Trời. Tang ma. Đưa hồn về Mường Trời.
Mừng cơm mới. Tạo không khí vui vẻ trong ngày tổ
chức mừng cơm mới.
Mừng cơm mới.
Tạo không khí vui vẻ trong ngày tổ
chức mừng cơm mới.
199
Địa phương
Thời điểm
MAI CHÂU CON CUÔNG
Các trường hợp sử
dụng loóng
Mục đích diễn tấu Các trường hợp sử
dụng luống
Mục đích diễn tấu
Giai đoạn
1993 - 2017
Không có.
Ngày Tết, đầu xuân. Tạo không khí vui vẻ trong ngày Tết, đầu
xuân.
Lễ xên bản, xên
mường.
Tạo không khí vui vẻ trong chương
trình.
Không có.
Ngày Đại đoàn kết
toàn dân.
Tạo không khí vui vẻ trong chương
trình.
Không có.
Một số Hội nghị của
Bản, Xã, Huyện.
Tạo không khí vui vẻ trong chương
trình.
Không có.
Ngày Quốc tế phụ nữ 8 – 3. Tạo không khí vui vẻ trong chương
trình.
Không có.
Phục vụ khách du lịch. Kiếm thu nhập. Không có.
200
Bảng 7.3: SO SÁNH MỘT SỐ YẾU TỐ TRONG NGHỆ THUẬT DIỄN TẤU KÁNH LOÓNG
THÁI MAI CHÂU VÀ KHẮC LUỐNG THÁI CON CUÔNG HIỆN NAY
Địa phương
Nghệ thuật
diễn tấu
MAI CHÂU CON CUÔNG
CƠ CẤU TỔ CHỨC
NGƯỜI DIỄN TẤU
Số lượng người tham gia diễn tấu tùy thuộc độ dài
của loóng, nhưng bao giờ cũng là chẵn và đứng
theo từng đôi đối diện.
Số lượng người gõ có quy định cụ thể:
- Có bài số lượng người tham gia diễn tấu tùy thuộc
độ dài của luống, nhưng là chẵn và đứng theo từng
đôi đối diện.
- Có bài 05 người gõ.
- Có bài 02 người gõ.
Phân chia số người gõ thành hai nhóm “Cái” và
“Con”:
- “Cái” là một đôi người diễn tấu đứng ở đầu
loóng.
- “Con” đứng thành từng đôi đối diện nhau dọc
theo hai thành loóng.
Sự phân chia số người gõ thành “Cái” và “Con” khá
mờ nhạt.
201
TƯ THẾ DIỄN TẤU a. Đứng thẳng. Đứng thẳng.
b. Cúi khom lưng vừa phải. Cúi khom lưng vừa phải.
c. Cúi khom lưng thấp. Cúi khom lưng thấp.
d. Không có Quay mặt dọc theo chiều dài của luống, cúi khom
lưng thấp, hơi nghiêng thân trên về bên phải.
VỊ TRÍ TẠO ÂM a. Giữa lòng loóng. Giữa lòng luống.
b. Thành trong của loóng (phía đối diện người diễn tấu).
Thành trong của luống (phía đối diện người diễn tấu).
c. Thành trong của loóng (phía gần người diễn
tấu).
Thành trong của luống (phía gần người diễn tấu).
d. Không có Thành trong của luống (phía gần người chơi); (đặt toàn
bộ thân chày dọc theo thành trong của luống để gõ).
đ. Không có Thành ngoài của luống (gõ cạnh đầu chày).
e. Không có Thành ngoài của luống (gõ đầu chày).
f. Không có Mặt phía trên hai thành luống.
g. Cạnh đầu chày phía dưới. Cạnh đầu chày phía dưới.
h. Cạnh đầu chày phía trên. Không có
i. Mặt trên của phần đầu loóng. Mặt trên của phần đầu và mặt trên hai thành luống.
k. Phần thân chày. Phần thân chày.
202
KỸ THUẬT DIỄN TẤU
a.
Cách sử
dụng
chày khi
diễn
tấu.
- Cầm chày bằng hai tay.
- Tay phải cầm giữa thân chày,
tay trái cầm ở vị trí cách điểm
giữa thân chày về phía dưới
khoảng 30cm.
- Hướng đầu chày, cạnh đầu chày,
thân chày vào đúng các vị trí tạo
âm.
- Cầm chày bằng một tay và hai tay.
- Tay phải cầm giữa thân chày, tay trái cầm ở vị trí
cách điểm giữa thân chày về phía dưới khoảng
30cm.
- Hướng đầu chày, cạnh đầu chày, thân chày vào đúng
các vị trí tạo âm.
b. Dùng nhiều lực để gõ. Dùng nhiều lực để gõ.
c.
Biên độ dao động giữa chày với các vị trí tạo
âm vừa phải, để không va vào chày người
khác gõ.
Biên độ dao động giữa chày với các vị trí tạo âm vừa
phải, để không va vào chày người khác gõ.
d. Không có Đặt chày dọc theo lòng trong để gõ toàn bộ thân chày
vào thành trong của luống.
đ.
Người trong vai trò “Cái” phải gõ đều, chắc
nhịp để
làm điểm tựa cho các đôi “Con”.
Người trong vai trò giữ nhịp phải gõ đều, chắc nhịp để
làm điểm tựa cho các đôi khác gõ.
e. Những đôi trong vai trò “Con” khi gõ phải
nghe theo
nhịp của “Cái” để đảm bảo gõ chắc nhịp.
Những đôi tham gia diễn tấu khi gõ phải nghe tiết tấu
của người giữ nhịp để đảm bảo chắc nhịp.
203
BÀI BẢN
Số
lượng
2 bài. 05 bài.
Tên gọi Không có.
Có.
ĐẶC ĐIỂM ÂM NHẠC
Loại
nhịp
Nhịp 2/4 Nhịp 2/4 và ¾ (2/4 nhiều; ¾ ít).
Cao độ Không xác định. Chỉ có 03 loại âm là
trầm – trung – cao.
Không xác định. Chỉ có 03 loại âm là trầm – trung –
cao.
Cấu trúc
bài bản
Chỉ là một câu nhạc (8 nhịp) được nhắc
lại nguyên dạng.
Chỉ là một câu nhạc được nhắc lại nhưng có thay đổi về
vị trí tạo âm. Ngoài ra, còn có một vài nhịp mở đầu, kết
thúc bài (không phải âm hưởng chính của bài, chỉ như
động tác giã lúa).
204
PHỤ LỤC 08
HÌNH ẢNH
Ảnh 01: Đội loóng bản Văn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 02: Loóng của bản Văn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
205
Ảnh 03: Loóng của bản Văn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 04: Kánh loóng kết hợp trống chiêng do đội loóng bản Văn, thị trấn Mai Châu
thực hiện (chụp ngày 8/1/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
206
Ảnh 05: Nhà sàn người Thái ở bản Văn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 06: Sân rộng giữa bản Văn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
207
Ảnh 07: Đội Loóng ở Bản Lác 2, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày
08/01/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 08: Loóng của nhà anh Vì Văn Cường ở Bản Lác 2, thị trấn Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
208
Ảnh 09: Loóng của nhà anh Vì Văn Cường ở Bản Lác 2, thị trấn Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 10: Chày để kánh loóng của nhà anh Vì Văn Cường ở Bản Lác 2, thị trấn Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017); ((Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
209
Ảnh 11: Đường đi trong bản Lác 2, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 8/1/2017);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 12: Người Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình kánh loóng trong lễ Xên bản,
xên mường (chụp ngày 9/2/2014); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
210
Ảnh 13: Người Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình kánh loóng trong lễ Xên bản,
xên mường (chụp ngày 9/2/2014); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 14: Đội loóng bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày
11/2/ 2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
211
Ảnh 15: Loóng của bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày
11/2/ 2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 16: Đội loóng bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
(chụp ngày 11/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
212
Ảnh 17: Loóng của nhà ông Hà Văn Cấp ở bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 11/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 18: Điểm du lịch bản Bước, xã Xăm Khòe, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
(chụp ngày 11/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
213
Ảnh 19: Loóng của bản Lác 1, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, đặt tại gầm sàn Nhà
văn hóa của bản (chụp ngày 12/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 20: Nhà văn hóa bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Nơi
thường tổ chức văn nghệ (chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
214
Ảnh 21: Loóng của bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Đặt tại gầm nhà sàn (Nhà văn hóa của bản); (chụp ngày 1/5/ 2017); (Người chụp ảnh:
Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 22: Chày dùng để kánh loóng của bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình (chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
215
Ảnh 23: Đội Loóng bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
(chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 24: Đội Loóng và đội múa bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
(chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
216
Ảnh 25: Kánh loóng kết hợp múa phục vụ khách du lịch tại bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị
trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp lại từ ảnh gốc của bà Ngần Thị Tuyết ở bản Nà Phòn);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 26: Kánh loóng kết hợp múa tại bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình (chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
217
Ảnh 27: Kánh loóng kết hợp trống chiêng, múa tại bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 28: Đội loóng xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An (chụp ngày 25/ 2/2016);
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
218
Ảnh 29: Đội loóng xã Mậu Đức, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An (chụp ngày 26/2/2016); (Người
chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 30: Đội loóng xã Mậu Đức, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An (chụp ngày 26/2/2016)
(Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
219
Ảnh 31: Nhà nghiên cứu Khà Văn Tiến (80 tuổi), xóm Nghẹ, xã Vạn Mai, huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 11/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 32: Nhà nghiên cứu Lò Cao Nhum (62 tuổi), bản Lác 1, thị trấn Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình (chụp ngày 12/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
220
Ảnh 33: Ông Hà Công Nhôi, (65 tuổi), bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa
Bình (chụp ngày 12/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 34: Anh Hà Công Quân, (42 tuổi), bản Pom Coọng, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa
Bình (chụp ngày 12/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
221
Ảnh 35: Ông Khà Văn Tiến, (64 tuổi), bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình (chụp ngày 12/2/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 36: Bà Ngần Thị Tuyết, (63 tuổi), bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình (Đội phó đội văn nghệ của bản); (chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh:
Nguyễn Duy Thịnh)
222
Ảnh 37: Ông Khà Văn Úc, (59 tuổi), bản Nà Phòn, xã Nà Phòn, thị trấn Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình (Đội trưởng đội văn nghệ của bản); (chụp ngày 1/5/2017); (Người
chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 38: Nhà nghiên cứu, NSƯT Bùi Chí Thanh (Sinh năm 1933), phường Chăm
Mát, TP Hòa Bình; (chụp ngày 1/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
223
Ảnh 39: Nhà nghiên cứu Lường Song Toàn (Sinh năm 1947), xóm Chiềng Sại, thị
trấn Mai Châu (chụp ngày 14/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 40: Nhà nghiên cứu Hà Công Tín (Sinh năm 1948), xóm Mỏ, xã Chiềng Châu,
thị trấn Mai Châu (chụp ngày 14/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
224
Ảnh 41: Anh Hà Thái Linh (Sinh năm 1981), xóm Chiềng Sại, thị trấn Mai Châu
(chụp ngày 14/5/2017); (Người chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)
Ảnh 42: Đội văn nghệ bản Lác múa phục vụ khách du lịch (chụp ngày 1/5/2017); (Người
chụp ảnh: Nguyễn Duy Thịnh)