vai trß cña nhµ níc trong viÖc kÕt hîp gi÷a t¨ng trëng ...hcma.vn/uploads/2014/5/4/luan an...

176
Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh NguyÔn ThÞ Kh¬ng Vai trß cña nhµ níc trong viÖc kÕt hîp gi÷a t¨ng trëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«I trêng sinh th¸I ë níc ta hiÖn nay Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã s: 62 22 80 05 luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Người hướng dn khoa hc: 1. PGS,TS TrÇn thµnh 2. PGS,Ts nguyÔn minh hoµn Hµ néi - 2014

Upload: others

Post on 15-Jan-2020

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh

NguyÔn ThÞ Kh­¬ng

Vai trß cña nhµ n­íc trong viÖc kÕt hîpgi÷a t¨ng tr­ëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«I tr­êng

sinh th¸I ë n­íc ta hiÖn nay

Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS

Mã số : 62 22 80 05

luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS TrÇn thµnh2. PGS,Ts nguyÔn minh hoµn

Hµ néi - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận

nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình

khoa học nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Khương

MỤC LỤCTrang

MỞ ĐẦU 1Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 61.1. Các công trình nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với

bảo vệ môi trường sinh thái 61.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tăng trưởng

kinh tế và vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái 20Chương 2: KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂNBỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰKẾT HỢP ĐÓ 28

2.1. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái -yêu cầu của sự phát triển bền vững 28

2.2. Vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảovệ môi trường sinh thái 49

Chương 3: VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒCỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNGKINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI ỞVIỆT NAM HIỆN NAY 70

3.1. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi cần phải có tính đồng bộ về chínhsách, chiến lược, pháp luật trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảovệ môi trường sinh thái, với tình trạng còn thiếu, chưa đồng bộ 70

3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, kiểmtra, giám sát việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trườngsinh thái, với hiệu quả thực tế còn bất cập, nhiều hạn chế 84

3.3. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữanhà nước cùng các tổ chức, các lực lượng xã hội trong kết hợptăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tìnhtrạng phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ 97

Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAOVAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNGTRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINHTHÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 113

4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chínhsách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp tăngtrưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 113

4.2. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý,điều hành của bộ máy nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinhtế với bảo vệ môi trường sinh thái 126

4.3. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tạo rasự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc kết hợptăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 136

KẾT LUẬN 149DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 151DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153PHỤ LỤC 165

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CN : Công nghệ

CT - XH : Chính trị - xã hội

ĐT : Đào tạo

GD : Giáo dục

KH : Khoa học

KT - XH : Kinh tế - xã hội

MT : Môi trường

MTST : Môi trường sinh thái

Nxb : Nhà xuất bản

PTBV : Phát triển bền vững

TN - MT : Tài nguyên - môi trường

TNTN : Tài nguyên thiên nhiên

TTKT : Tăng trưởng kinh tế

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷ thứ ba và đang đứng

trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái

TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thế giới đương đại. Tình

trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệsinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tế cũngnhư toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh MT, nănglượng, lương thực trên phạm vi toàn cầu.

Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều

nguyên nhân: sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến

TNTN; sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do

trong các chính sách phát triển, các quốc gia thường chỉ chú trọng, ưu tiên chomục tiêu TTKT mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệ MTST. Để bảo vệ MTST,

chống biến đổi khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần

phải tiến hành là thiết lập hài hoà mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.

Đây cùng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc

gia đang theo đuổi trong thế kỷ XXI.

Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, do tác

động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu

vào khai thác TNTN và các yếu tố MT, nên chất lượng MTST ở Việt Nam thời

gian qua suy giảm nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, xuống

cấp về chất lượng, nhiều nguồn TNTN bị suy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm

bảo nguồn cung… Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT -

XH, ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an

ninh lương thực, an ninh MT và sức khỏe cộng đồng, đe dọa nghiêm trọng tới

tiến trình PTBV ở Việt Nam.

Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh

CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát

2

triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “pháttriển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến

bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mội trường” [53, tr.162] đã ra đời. Nhờ thực hiện

mô hình này, nền kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta được hình

thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia

có nền kinh tế tăng trưởng cao trong khu vực.

Đặc biệt, những thành tựu mà TTKT đem lại đã giúp nước ta có được sựtiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Các vấn

đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa… từng

bước được giải quyết. Tuy nhiên, không phải là không có những hạn chế trong

việc thực hiện mô hình phát triển mới. Trong hàng loạt các hạn chế, yếu kém thì

việc “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn

lãng phí” [55, tr.166], “môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơiđã đến mức báo động” [55, tr.169] đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá làmột trong những hạn chế lớn nhất. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân gây

ra, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăngtrưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển

kinh tế vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác TNTN; nhiều

ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm MT

nghiêm trọng; gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên

MT. Trong khi đó, thể chế, chính sách về bảo vệ MT và PTBV vẫn chưatheo kịp với yêu cầu phát triển KT - XH của đất nước. Hệ thống tổ chức

quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địaphương. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho bảo vệ môi

trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu

kém, còn thiếu cương quyết và chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm

pháp luật bảo vệ môi trường.

Đảng và Nhà nước ta khẳng định, hạn chế nêu trên, nếu không được giải

quyết một cách thỏa đáng, sẽ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực

3

hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, mà còn đe dọa nghiêm trọng tới sự tăng trưởng

của nền kinh tế, gây ra nhiều hiểm họa khôn lường cho đời sống của nhân dân.

Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát

triển KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong thời gian tới

có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi Nhà

nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải tiếp tục củng cố chính

sách, công cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt công tác tổ chức, thực hiện

thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản lý kinh tế và quản lý TN - MT,

đầu tư tài chính cho công tác bảo vệ TN - MT, nâng cao nhận thức cho quần

chúng nhân dân về ý nghĩa của kết hợp TTKT với bảo vệ MTST…

Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của nhà

nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất phát từ

những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của Nhà nước

trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ triết học của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong kết

hợp TTKT với bảo vệ MTST, luận án phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc

nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, qua đó,

đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong

kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST và

những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với

bảo vệ MTST.

- Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò

của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.

4

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà nước

trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết

hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.

2.3. Phạm vi nghiên cứu

Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết

học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan

trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản thể

hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

ta về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong

khi thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình khoa

học có liên quan.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với

các phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp -

diễn dịch, điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh...

5. Đóng góp mới của luận án

- Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò

của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

5

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước

ta trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

6. Ý nghĩa của luận án

- Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng và

Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn,

nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.

- Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao vai

trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT với

bảo vệ MTST.

- Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên

cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với bảo

vệ MTST.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận án gồm 4 chương, 10 tiết.

6

Chương 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG

KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

1.1.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tếTăng trưởng kinh tế là chủ đề được bàn luận khá nhiều trong thời gian

qua dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường…Trên khía cạnh kinh tế học, khái niệm TTKT thường được hiểu theo

nhiều khía cạnh khác nhau: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế (sản phẩm

hàng hóa, dịch vụ) của một quốc gia theo một thời gian nhất định [58]; TTKT

là mở rộng quy mô sản xuất sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm

năng hiện thực: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [146]; TTKT là sự

tăng lên của sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước do sự tăng lên của

thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người [132]; TTKT là một khái

niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền

kinh tế trong một thời gian nhất định. Các chỉ tiêu để đánh giá TTKT thường

được sử dụng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân

(GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng

hợp khác [127], [144].

Đi sâu hơn nữa về TTKT, nhiều công trình đã có những luận chứng sâu

sắc về quá trình TTKT ở Việt Nam, qua đó đề ra các giải pháp giúp nâng cao

tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế ở nước ta, tiêu biểu như các công trình sau:

Trong công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần

Thọ Đạt [57] và “Mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần Văn Tùng[147] đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các mô hình TTKT trên thế giới như:Mô hình tăng trưởng trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổđiển mở rộng, tăng trưởng nội sinh. Các nghiên cứu này còn chỉ rõ những nội

dung cơ bản của các lý thuyết TTKT, lý thuyết TTKT dưới dạng các mô hình

7

toán học và tập trung phân tích quá trình tăng trưởng ở các khu vực, các quốc

gia trên thế giới và ở nước ta hiện nay. Về mô hình TTKT ở nước ta hiện nay,

các nghiên cứu đều khẳng định cho đến nay mô hình TTKT trong nước vẫn

tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định và

khai thác TNTN là chính. Mô hình này, ở phương diện tích cực đã đem lại

nhiều lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh, song, mô hình

kinh tế đó còn để lại nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế lớn nhất là làm cho

kinh tế tăng trưởng chưa thật sự bền vững.

Bài viết “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010”,được biên soạn theo tài liệu của các cơ quan Trung ương, Tạp chí Lý luận

chính trị [148] đã khẳng định, “trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010, nước ta

đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, ước tính tăng trưởng GDP

đạt khoảng 7,2%/năm. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là một trong những nước

có sự tăng trưởng nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới” [148,

tr.48], “tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh có ý nghĩa rất quan trọng giúp nước ta

thoát khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào thời kỳ mới, gia nhập nhóm

nước đang phát triển có thu nhập trung bình” [148, tr.48]. Tuy nhiên, bài báo

cũng khẳng định, nền kinh tế trong nước vẫn kéo dài tình trạng tăng trưởng chủyếu vào các yếu tố phát triển theo theo chiều rộng. TTKT trong những năm quanghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Bên cạnh đó, mức tiêu hao

năng lượng ở nước ta còn khá cao, năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tếthấp; đặc biệt những hạn chế về lĩnh vực xã hội còn nhiều: chẳng hạn thành tựu

xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng giữa

các vùng và các tầng lớp dân cư, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, việc “quản

lý, bảo vệ tài nguyên còn buông lỏng; một số tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là

những tài nguyên không có khả năng tái tạo đang bị khai thác với công nghệ lạc

hậu, gây lãng phí và đứng trước nguy cơ cạn kiệt” [148, tr.54].

Tác giả Nguyễn Thị Doan trong bài viết “Một số giải pháp nhằm nângcao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” [44] cho rằng, trong

8

những năm đổi mới, “so với các quốc gia, nước ta đứng vào hàng các quốc

gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Cùng với tăng trưởng kinh tếcao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện” [44, tr.61]. Tuy

nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh, “tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu vẫn

theo bề rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định, tài nguyên thô và số lượng

lao động; cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức

cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc” [44,

tr.61]. Do đó, Việt Nam cần phải thay đổi mô hình TTKT từ tăng trưởng theo

bề rộng là chủ yếu sang tăng trưởng bền vững theo chiều sâu, TTKT phải dựa

trên nền tảng coi trọng chất lượng. Về lâu dài, cần triệt để chuyển từ tăngtrưởng nhờ tăng quy mô vốn đầu tư, khai thác TNTN và sức lao động sang

tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ, giảm các ngành tiêu hao nhiều

năng lượng, TNTN, tăng các ngành sử dụng năng lượng sinh học, năng lượng

gió. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp chiến lược như đẩy nhanh tốc độchuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn; GD, ĐT nguồn

nhân lực chất lượng cao; phát triển KH và CN để KH, CN trở thành động lực

phát triển đất nước, cần mạnh dạn đổi mới tư duy trong quản lý, điều hành,

điều tiết nền kinh tế của Nhà nước; tăng cường giám sát, kiểm tra việc sửdụng vốn của Nhà nước và xử lý dứt điểm các kết luận sau thanh tra, kiểm tra.

Nghiên cứu dưới góc độ tăng trưởng bền vững, các tác giả Hoàng Đức

Thân, Đinh Quang Ty trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, côngbằng xã hội ở Việt Nam” [127]; tác giả Nguyễn Phú Trọng trong cuốn “Vềcác mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lênchủ nghĩa xã hội ở nước ta” [144] đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa

TTKT với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như mối quan hệ giữa

TTKT với tiến bộ, công bằng xã hội, mối quan hệ giữa TTKT với phát triển

văn hoá, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, mối quan

hệ giữa TTKT với bảo vệ MT... Các tác giả cho rằng, đó là những mối quan

hệ cơ bản, phức tạp, có liên quan đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc, đòi

9

hỏi Nhà nước ta phải có những biện pháp để giải quyết thỏa đáng. Trong nội

dung về mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MT, các tác giả khẳng định, ởnước ta, kể từ khi đổi mới, kinh tế có sự tăng trưởng khá, song vấn đề MT lại

ngày một xuống cấp. Nhà nước cần phải có những chính sách, chiến lược hợp

lý để giải quyết dứt điểm tình trạng này.

Các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt trong nghiên cứu “Tốc độvà chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” [102] đã hệ thống hóa những

vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tốc độ, chất lượng TTKT ở Việt

Nam. Qua việc phân tích thực trạng, chất lượng TTKT ở nước ta giai đoạn

cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, các tác giả cho rằng, những yếu tố thểhiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là: tổng giá trị sản xuất,

tổng sản phẩm quốc nội, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu

người và một số các tiêu chí định tính khác như: xóa đói giảm nghèo, phúc lợi

xã hội, công bằng xã hội, môi trường môi sinh. Cũng trong cuốn sách này, các

tác giả đã chỉ ra và phân tích những giải pháp cơ bản để thúc đẩy kinh tế Việt

Nam tăng trưởng đạt chất lượng và hiệu quả cao.

Như vậy, qua nghiên cứu một số công trình khoa học về TTKT, cho

thấy, nhìn chung, các nghiên cứu đều tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm

TTKT, chỉ ra các mô hình TTKT khác nhau trên thế giới và mô hình kinh tế mà

Việt Nam đang theo đuổi. Các nghiên cứu còn làm rõ các nhân tố ảnh hưởng

đến quy mô TTKT trên thế giới và ở Việt Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản

nhằm thúc đẩy quá trình TTKT ở nước ta giai đoạn CNH, HĐH đất nước.

1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường sinh thái, về bảo vệ môi

trường sinh thái

Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề được đề cập đến khá

nhiều trong thời gian qua ở nước ta trên các bình diện khác nhau.

Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo

vệ MTST. Nhằm bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, đảm bảo quyền con người

10

được sống trong MT trong, sạch, đẹp, phục vụ sự nghiệp PTBV đất nước,

Đảng và Nhà nước đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết

về MTST và bảo vệ MTST. Trong một loạt các văn bản quy phạm pháp luật

như “Luật Bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn thi hành”; “ Luật Bảo vệmôi trường năm 2005”; “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia”… Đảng và

Nhà nước ta đã khẳng định nhiều nội dung quan trọng về MTST cũng nhưbảo vệ MTST. Theo đó, bảo vệ MTST được quan niệm là bảo vệ các yếu tố tựnhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống,

sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và các giống loài động thực vật.

Thực chất của bảo vệ MTST là bảo vệ MT nước, MT không khí, bảo vệTNTN, bảo tồn đa dạng sinh học… [20], [27], [31], [33], [111], [113], [105].

Tác giả Nguyễn Minh Hằng trong bài viết “Môi trường sinh thái - vấnđề của mọi người” [62] khẳng định, MTST là một mạng lưới chỉnh thể có

mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống

trong phạm vi toàn cầu. Trong quá trình sinh sống vì nhiều lý do khác nhau,

con người đã làm suy thoái MTST, thể hiện rõ nhất ở sự suy thoái tầng ôzon,

gây “hiệu ứng nhà kính”, ô nhiễm nguồn nước sạch. Các giải pháp cơ bản mà

tác giả nêu ra nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm MTST là: xây dựng ý thức

sinh thái, kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình

sản xuất…Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm trong bài viết “Khía cạnh triết học - xã

hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [138] cho rằng, MTST hay

MT sống vốn là MT tự nhiên, là đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên,

trực tiếp là của sinh thái học - sinh học. Nói đến MTST là nói đến môi trường

tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn và thực chất vấn đềMTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Theo tác

giả, cùng với sự phát triển của xã hội, dưới tác động của con người, MTST

đang ngày càng biến đổi theo chiều hướng xấu. Do vậy, để bảo vệ MTST, cần

phải có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm về sự phát triển, thay đổi quan

11

niệm về tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; đồng thời kết

hợp với việc ngăn chặn, loại bỏ các tệ nạn trong xã hội; đưa vấn đề giáo dục

MT trở thành một nội dung quan trọng trong GD và ĐT.

Tác giả Nguyễn Văn Kim trong bài viết “Mối quan hệ giữa phát triểnvà bảo vệ môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản” [80] lại khẳng định, chính

con người là tác nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm MT, làm mất cân

bằng sinh thái. Phân tích sự phát triển kinh tế của Nhật Bản trong những nămđầu thế kỷ XX có ảnh hưởng tới MTST, tác giả cho rằng, sự tập trung quá

mức các ngành sản xuất và dân cư vào những khu vực địa lý nhất định đã dẫn

đến tình trạng mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm MT sống. Từ đây, tác giảđưa ra một số kinh nghiệm của Nhật Bản trong bảo vệ MT và phát triển kinh

tế như luật hóa các chính sách về MT, động viên nhân dân tham gia bảo vệMT, có lối sống hòa hợp với nhiên nhiên. Cũng trong bài viết này, tác giả còn

khẳng định, Việt Nam nên coi kinh nghiệm của Nhật Bản như một bài học đểphát triển kinh tế và bảo vệ MT bền vững.

Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái và xâydựng môi trường văn hoá trong lịch trình thế kỷ XXI” [74] đã làm rõ vai trò

vô cùng quan trọng của MTST trong quá trình phát triển kinh tế. Theo tác giả,

do nhu cầu tăng năng suất lao động người ta đã từng coi việc khai thác vô hạn

độ MT là hành động tích cực. Kết quả là có nhà máy, công trường, có thêm

việc làm cho người lao động, song, các giá trị văn hoá bị xuống cấp, sức khoẻcon người giảm sút thì lại không được chú ý thích đáng. Theo tác giả bài viết thì

giá trị của hệ sinh thái có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con người, các giá trị này

tuy “im lặng” nhưng nếu con người lạm dụng quyền lực của mình, tác động thô

bạo vào chúng thì cái giá phải trả là rất lớn. Do đó, tác giả khẳng định, việc giáo

dục đạo đức sinh thái là rất cần thiết để MT và con người phát triển một cách

hài hoà.

Đi sâu nghiên cứu về đạo đức sinh thái, tác giả Phan Thị Hồng Duyên

trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con

12

người và giới tự nhiên” [46] lại thể hiện sự bức xúc về vấn đề MT và bảo vệMT hiện nay ở nước ta. Theo tác giả, Việt Nam cần thiết phải PTBV, nghĩa làphải tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ MT. Tác giả cũngcho rằng việc bảo vệ MT để nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển KT -

XH không thể chỉ bằng những văn bản, chỉ thị mà giáo dục đạo đức sinh thái

cũng là một trong những biện pháp có tác dụng lâu dài và quan trọng. Giáo

dục đạo đức sinh thái phải được tiến hành từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành,

với mọi đối tượng từ những người dân, đến những người làm công tác lãnh

đạo, quản lý, hoạch định đường lối, chiến lược phát triển KT - XH của đất

nước. Quan niệm này hoàn toàn đúng và có ý nghĩa quan trọng đối với sựphát triển của đất nước ta trong cả hiện nay lẫn mai sau.

Tác giả Vũ Trọng Dung trong cuốn sách “Đạo đức sinh thái và giáodục đạo đức sinh thái” [45] quan niệm “môi trường sinh thái là tất cả những

điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể, của con người”[45, tr.153]. Theo tác giả thì các nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng ô

nhiễm MTST là các vấn đề về công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa, sự phát triển

dân số… Không chỉ nhấn mạnh một phương diện quan trọng trong việc giải

quyết vấn đề ô nhiễm MTST đó là giáo dục đạo đức sinh thái, tức là giáo dục

thái độ, ý thức, hành vi tôn trọng và yêu quý thiên nhiên, giữ gìn và bảo vệMTST cho mọi chủ thể, tác giả còn khẳng định sự thống nhất giữa nghĩa vụđạo đức với nghĩa vụ pháp lý trong việc giữ gìn và bảo vệ MTST là đòi hỏi

cấp bách đối với mỗi người và đó cũng là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn

đề ô nhiễm MTST ở Việt Nam hiện nay.

Tác giả Nguyễn Danh Sơn trong bài viết “Một số vấn đề về bảo vệ tàinguyên và môi trường trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở nước ta” [71] nhấn

mạnh, tài nguyên và MT là một yếu tố nền tảng của PTBV. Nguy cơ suygiảm, cạn kiệt tài nguyên, suy thoái MT đang hiện hữu và đe dọa đến tiến

trình PTBV của nước ta. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của

biến đổi khí hậu mà một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do

13

nạn cạn kiệt TNTN. Do đó, các quyết định phát triển và quản lý phát triển

trong thời gian tới ở nước ta cần phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu.

Để thực hiện việc này, cần thiết phải bảo vệ TN - MT, cần hướng quá trình

phát triển vào việc tăng trưởng xanh, phát triển xanh.

Như vậy, thông qua nghiên cứu các công trình khoa học trên, có thểthấy, MTST là tổng hợp các yếu tố vật chất tự nhiên và các loại TNTN, chúng

giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Do vậy, việc bảo vệMTST là hết sức quan trọng. Bảo vệ MTST là bảo vệ các yếu tố tự nhiên và

các loại TNTN. Bảo vệ MTST không những tạo điều kiện cho kinh tế tăngtrưởng ngày một bền vững hơn, mà còn giúp cho con người ngày một tiếp cận

với cuộc sống văn minh hơn, tốt đẹp hơn.

1.1.3. Các nghiên cứu về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệmôi trường sinh thái

Ở Việt Nam, trong những năm qua, vấn đề về phòng chống ô nhiễm

MTST, khai thác bền vững nguồn TNTN, gắn TTKT với bảo vệ MTST cùng

nhiều vấn đề liên quan đã trở thành nội dung quan trọng trong các chiến lược,

các hội nghị, hội thảo về phát triển, các công trình nghiên cứu khoa học của

nhiều cấp bộ, ngành từ trung ương đến địa phương.

Trong các Chiến lược quan trọng ban hành từ năm 2010 đến nay như:“Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đếnnăm 2020” [20]; “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020”[27]; “Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [30];

“Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu” [31]; “Chiến lược Bảo vệ môitrường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [33]; “Chiến lượcphát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” [34]; “Chiến lược quốcgia về tăng trưởng xanh” [35]… Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh tới PTBV

như là sự gắn kết chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Tất cả các Chiến lược

đã có đều khẳng định PTBV trên khía cạnh gắn TTKT với bảo vệ MTST là nội

dung hết sức quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta thời kỳ

14

đẩy mạnh CNH, HĐH. Nội dung này phải được coi là sự nghiệp của toàn

Đảng, toàn dân; toàn thể các bộ, ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến

địa phương cũng như mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức xã hội.

Những năm gần đây, còn có khá nhiều hội nghị, hội thảo khoa học quốc

tế và trong nước bàn luận khá sôi nổi về vấn đề gắn TTKT với bảo vệ MTST,

về PTBV như: “Hội nghị quốc tế Động thái dân số, biến đổi khí hậu và pháttriển bền vững” [15]; Hội thảo “Toàn cầu hoá và ảnh hưởng đối với khu vựcchâu Á - Thái Bình Dương: khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hoá” [65]; “Hộinghị cấp cao ASEAN lần thứ 23” [66]; Hội thảo “Xây dựng và phát triển bềnvững” [72], Hội thảo “Phát triển năng lượng bền vững” [149]... Các hội

nghị, hội thảo này đã đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng của PTBV và gắn

TTKT với bảo vệ MTST ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các

vấn đề như: tình hình, thách thức đang đặt ra hiện nay cho tiến trình PTBV

chung của thế giới trong đó có Việt Nam; nỗ lực và tăng cường ý nguyện chính

trị của cộng đồng quốc tế để cùng nhau xây dựng cương lĩnh hành động, thực

hiện các cam kết, giải quyết những vấn đề cấp thiết của các nước đang phát triển

nhằm thúc đẩy toàn diện tiến trình PTBV của thế giới; xem xét, giải quyết các

hoạt động xây dựng trong sự PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường; đánh giá tổng

quát về tình hình năng lượng tại Việt Nam, chỉ ra những thách thức mà Việt

Nam đang phải đối mặt như: khai thác đa dạng và hiệu quả các nguồn tự nhiên

trong nước, phát triển các dự án mới, phát triển năng lượng đi kèm với bảo vệMT, thành lập thị trường công nghệ cạnh tranh, thúc đẩy chương trình nănglượng nông thôn... được bàn luận khá sôi nổi tại các hội thảo này.

Phát triển bền vững, gắn TTKT với bảo vệ MTST còn là chủ đề của

nhiều bài viết và công trình nghiên cứu khoa học theo các hướng khác nhau

của các tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, Nguyễn Văn Kim, Chu Thái Thành,

Trương Mạnh Tiến, Bùi Văn Dũng…Trong rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như:“Sự kết hợp giữa các

mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”

15

[136]; “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở ViệtNam” [138]; “Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trườngsinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp” [139];

“Xây dựng đạo đức sinh thái - một trách nhiệm của con người đối với tự nhiên”[142]… tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm đã đề cập tới nhiều phương diện khác

nhau của vấn đề bảo vệ MTST. Theo tác giả, nói đến MTST là nói đến môi

trường tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn; thực chất của vấn

đề MTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Khi

nghiên cứu về mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái, tác giả khẳng định, mục

tiêu sinh thái là sự khai thác hợp lý các nguồn TNTN, bảo vệ và không ngừng

cải thiện chất lượng môi trường sống. Trên cơ sở luận giải về sự tác động qua lại

giữa con người và tự nhiên, tác giả đề cập một cách sâu sắc tới sự tác động của

quá trình TTKT đối với MTST, qua đó khẳng định rằng, để gắn kết TTKT với

bảo vệ MTST, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau như sử dụng

cơ chế lợi ích, xây dựng các chính sách xã hội về bảo vệ môi trường, đổi mới

công nghệ để khai thác, sử dụng hợp lý TNTN, bảo vệ MTST…Tác giả Nguyễn Đình Hòa trong bài viết “Công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống”[67] khẳng định, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận, một nội

dung quan trọng của tiến trình hiện đại hóa ở các nước đang phát triển. Ởnước ta các vấn đề về MT sống nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn hiện nay đang trở nên phức tạp cả về quy mô và tính chất.

Nguy cơ cạn kiệt một số nguồn TNTN do các hoạt động sản xuất và dân sinh,

vấn đề ô nhiễm MT do tác động của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn; nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học chủ yếu do các hoạt động sản xuất

và dân sinh… phải được coi là những vấn đề cấp bách và phải có những biện

pháp khắc phục. Các biện pháp được tác giả đưa ra nhằm PTBV khu vực

nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là:

Phát triển, ứng dụng KH và CN cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; phát

16

triển nguồn nhân lực chất lượng cao; quán triệt mục tiêu bảo vệ MT trong xây

dựng, triển khai thực hiện các chính sách, dự án phát triển kinh tế.

Tác giả Trần Đắc Hiến trong bài viết“Ô nhiễm môi trường ở nước tahiện nay - Thực trạng và một số giải pháp khắc phục” [64] cho rằng, một

trong những vấn đề gây bức xúc dư luận trong thời gian qua là ô nhiễm MT.

Nguyên nhân của tình trạng này được khẳng định là do các hoạt động sản xuất

và sinh hoạt của con người như nước, chất thải của các khu công nghiệp, các

làng nghề, các khu đô thị đổ trực tiếp ra MT. Trên cơ sở đó, tác giả kết luận:

các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần phải có

những điều chỉnh kịp thời theo hướng chú trọng công tác bảo vệ MT; công tác

tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân bảo vệ MT và thực hiện điều chỉnh

quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, làng nghề… phải được coi là các

giải pháp chủ đạo để giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường ở nước ta trong

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

Tác giả Chu Thái Thành trong bài viết “Mấy vấn đề về phát triển bềnvững” [124], xuất phát từ khía cạnh PTBV trên cơ sở kết hợp giữa TTKT với

bảo vệ MTST, tác giả đã coi phát triển kinh tế, dân số, TNTN và bảo vệMTST là bốn trụ cột của một căn nhà. Tác giả khẳng định phát triển kinh tếphải gắn với bảo vệ MTST, đó là đòi hỏi tất yếu khách quan của PTBV và sựnghiệp CNH, HĐH đất nước. Một số giải pháp cho vấn đề PTBV được tác giảđề cập tới trong bài viết này là: thực hiện chiến lược quốc gia về tài nguyên

MT; thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ TN - MT, giữ gìn đa dạng sinh

học; chấm dứt tình trạng làm suy thoái tài nguyên, quy hoạch cơ cấu sản xuất

để đảm bảo gắn TTKT với bảo vệ MTST.

Ngoài các bài viết dưới dạng tạp chí, còn có nhiều công trình nghiên

cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Dưới đây làmột trong số các công trình đó.

Luận án tiến sỹ khoa học kinh tế với tiêu đề “Sự phát triển của thươngmại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề

17

bảo vệ môi trường sinh thái” của tác giả Trương Mạnh Tiến [131]. Các vấn

đề được tác giả đề cập trong luận án là:

Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phù hợp với chuyên ngành kinh tếhọc, tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về tự do thương mại và

bảo vệ MTST ở nước ta. Thông qua nghiên cứu về nền kinh tế thị trường và

quá trình tự do hoá thương mại, tác giả phân tích liên kết xã hội - kinh tế -

môi trường sinh thái và chỉ ra rằng quá trình TTKT chỉ có thể đạt được khi có

sự bền vững về MTST. Theo tác giả, con đường khả thi duy nhất để TTKT

lâu bền là cân bằng các nguồn lực kinh tế, sinh thái, con người.

Trên cơ sở đánh giá những hậu quả về mặt MT của các chính sách kinh

tế như tự do hoá thương mại gây ra. Tác giả Trương Mạnh Tiến cho rằng, quy

mô hoạt động thương mại tăng, sẽ dẫn đến việc sử dụng các nguồn TNTN và

ô nhiễm MTST cũng tăng theo. Trong khi khẳng định bảo vệ MTST “được

hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện

môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quảxấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng

hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên” [131, tr. 40], tác giả đồng thời

nhấn mạnh tự do hoá thương mại và bảo vệ MTST phải được thừa nhận nhưmột tất yếu khách quan nhằm đảm bảo thúc đẩy kinh tế tăng trưởng qua hoạt

động tự do hoá thương mại và bảo vệ nguồn vốn đầu vào cho quá trình tăngtrưởng đó.

Nghiên cứu của tác giả Trương Mạnh Tiến cũng chỉ ra những ảnh

hưởng của quá trình phát triển tự do thương mại tới MTST trong thời kỳchuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. Sau khi phân tích thực trạng

nền kinh tế và hoạt động thương mại, cùng với thực trạng MTST ở nước ta,

tác giả đã rút ra kết luận, sự phát triển tự do thương mại trong điều kiện kinh

tế thị trường ở nước ta có ảnh hưởng rõ rệt tới MTST. Các hoạt động tự do

hoá thương mại như nhập rác thải công nghiệp, xuất khẩu gỗ, thuỷ hải sản…đã để lại nhiều hậu quả về MTST. Nhu cầu sử dụng chất đốt, năng lượng,

18

nguyên liệu cho các ngành công nghiệp gia tăng đều là nguyên nhân chính

làm cho MTST bị ô nhiễm, TNTN bị khai thác triệt để.

Từ các nội dung trên, tác giả Trương Mạnh Tiến đã chỉ ra các mục tiêu,

chiến lược phát triển thương mại đến năm 2010, nêu lên các giải pháp cơ bản

để bảo vệ MTST trong điều kiện tự do hoá thương mại ở nước ta như: Hoànthiện cơ chế quản lý và chính sách nhà nước ở tầm vĩ mô; hoàn thiện cơ chếquản lý, chính sách và biện pháp về MT và thương mại; thành lập hội đồng

doanh nghiệp vì sự PTBV; củng cố bộ máy tổ chức bảo vệ MT ở trung ương vàđịa phương; đẩy mạnh công tác GD, ĐT, bảo vệ môi trường…

Luận án tiến sỹ triết học “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảovệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47], tác giả Bùi Văn Dũng đã luận

giải sâu sắc các vấn đề sau:

Ở nội dung nghiên cứu thứ nhất: “Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi

trường sinh thái” [47, tr.11], tác giả Bùi Văn Dũng đã nêu ra và so sánh hai

khái niệm TTKT, phát triển kinh tế. Từ đó, đi tới kết luận, các nhân tố quyết

định tới sự TTKT là: số lượng, chất lượng nguồn nhân lực; số lượng, chất

lượng nguồn tài nguyên; mức độ tích luỹ vốn và sự đổi mới công nghệ.

Nội dung nghiên cứu thứ hai của tác giả Bùi Văn Dũng là: “phát triển

lâu bền: sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường” [47,

tr.48], tác giả đã chứng minh phát triển lâu bền là sự thống nhất giữa TTKT

với bảo vệ môi trường. Qua việc làm rõ mâu thuẫn giữa TTKT và bảo vệ MT,

tác giả khẳng định hệ thống “tự nhiên - con người - xã hội” vốn có sự gắn bó

mật thiết với nhau trong một chỉnh thể, song lại có sự khác nhau qua từng giai

đoạn. Ở thời kỳ đầu trong sự phát triển của nền văn minh loài người, các lực

lượng tự nhiên gần như thống trị con người, sau đó, do sự phát triển của công

cụ lao động con người đã học cách chế ngự tự nhiên, thiết lập “sự thống trị”của mình đối với tự nhiên, làm xuất hiện mâu thuẫn giữa con người và tựnhiên, biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn này trong nền sản xuất vật chất là mâu

thuẫn giữa TTKT với bảo vệ MT. Để giải quyết mâu thuẫn giữa TTKT với

19

bảo vệ MT cho sự phát triển lâu bền, tác giả đưa ra năm giải pháp cơ bản, đólà: thay đổi thái độ và hành động của con người; duy trì tỷ lệ tăng dân số một

cách hợp lý; xoá bỏ nghèo nàn; mở rộng cách mạng KH và CN vào sản xuất;

hoà bình và hợp tác toàn cầu; xoá bỏ chế độ người áp bức bóc lột người.

Nội dung thứ ba mà tác giả Bùi Văn Dũng nghiên cứu là “Mối quan hệgiữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47,tr.107]. Trong nội dung này, tác giả đã vạch rõ những thuận lợi và khó khăncho sự phát triển lâu bền ở Việt Nam. Về thuận lợi, tác giả cho rằng đó là: sựtăng trưởng nhanh của nền kinh tế từ khi đổi mới, nguồn nhân lực dồi dào…Còn về khó khăn, thách thức, theo tác giả đó là điều kiện cạnh tranh gay gắt

trên thế giới, yêu cầu về thể chế kinh tế, về phát triển nhanh và bền vững…Luận án còn đưa ra một số giải pháp có ý nghĩa quan trọng để nước ta có thểkết hợp tốt TTKT với bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền trong thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Các giải pháp đó là: thống nhất quan điểm về sựphát triển, xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách và pháp luật bảo vệ môi

trường; thực hiện tốt chính sách dân số; đổi mới công nghệ và giải pháp vềgiáo dục, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường cho quần chúng nhân dân.

Như vậy, qua khảo sát các công trình khoa học trên, có thể rút ra các

nội dung cơ bản đã được các nhà khoa học nghiên cứu, giải quyết là:

Các công trình nghiên cứu đã có các hiểu đồng nhất về khái niệm

MTST. Trong các công trình trên, khái niệm MTST còn được hiểu là môi

trường tự nhiên, môi trường sinh thái - nhân văn. Một số tác giả còn đồng

nhất MTST với khái niệm môi trường.

Các công trình nghiên cứu đều khẳng định hoạt động sản xuất vật chất,

sinh hoạt và các hoạt động nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là nguyên nhân

cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm MTST và cạn kiệt các nguồn TNTN.

Các công trình nghiên cứu đã tập trung phân tích và đưa ra một số giải

pháp cơ bản để có thể kết hợp một cách tốt nhất TTKT với bảo vệ MTST.

Giải pháp mà các công trình nghiên cứu hướng vào là hoàn thiện cơ chế chính

20

sách, pháp luật về TTKT và về bảo vệ MTST; giải pháp về nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực; giải pháp về phát triển KH và CN; giải pháp về giáo

dục ý thức đạo đức sinh thái cho nhân dân, đặc biệt là các chủ doanh nghiệp.

Những vấn đề trên là những gợi mở quan trọng để luận án nghiên cứu vềcác khái niệm TTKT, khái niệm MTST, bảo vệ MTST. Kết quả nghiên cứu của

các công trình trên còn là cơ sở để luận án đi sâu phân tích về mối quan hệ biện

chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST dựa trên cách tiếp cận triết học.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC

TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

1.2.1. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng

kinh tếCó thể khẳng định, nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với TTKT là

một trong những hướng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của khá nhiều

nhà khoa học trong những năm gần đây. Điều đó thể hiện ở số lượng ngày càng

nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình nghiên cứu luận văn thạc sỹ,

luận án tiến sỹ, các loại sách tham khảo, chuyên khảo dưới góc độ nhiều

chuyên ngành khác nhau như triết học, kinh tế học, kinh tế chính trị học... Cụ thểlà các công trình sau: “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Namhiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Hậu [63]; “Vai trò định hướng xã hội chủnghĩa của nhà nước đối với phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” của tác

giả Lê Thị Hồng [69]; “Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tếcủa Việt Nam” của tác giả Mai Lan Hương [76]; “Vai trò nhà nước đối vớiviệc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhậpkinh tế quốc tế hiện nay” của tác giả Trần Thị Thu Hường [78]; “Quản lý nhànước về kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Ngô Quang Minh [101]; “Thểchế kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốctế ở Việt Nam” của hai tác giả Lương Xuân Quỳ và Đỗ Đức Bình [121]; “Vaitrò của nhân tố chủ quan trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển

21

nền kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Trần Thành [125]; “Về vai trò củanhà nước trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Lê Nguyễn Hương Trinh[143]; “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mớiđi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của tác giả Nguyễn Phú Trọng [144]…Nghiên cứu các các công trình này, tác giả luận án rút ra những kết luận sau:

Các khái niệm về TTKT, kinh tế thị trường, toàn cầu hoá kinh tế, hội

nhập kinh tế quốc tế… đã được nhiều công trình nghiên cứu đặt ra và giải

quyết một cách công phu, nghiêm túc. Mặc dù các công trình đã tiếp cận khái

niệm TTKT theo nhiều hướng khác nhau, song, nhìn chung đều thống nhất ởnội dung: TTKT và phát triển kinh tế là hai khái niệm không đồng nhất với

nhau. TTKT và phát triển kinh tế luôn gắn liền với việc phát huy vai trò của

nhà nước nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế và nâng cao chất

lượng cuộc sống [63], [69], [78], [101], [121], [125], [143], [144]…Các nghiên cứu đã tập trung làm rõ sự thay đổi vai trò của Nhà nước ta

từ khi đất nước thực hiện đổi mới mô hình phát triển kinh tế. Nền kinh tế thịtrường luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng, hoàn thiện

theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vai trò, chức năng quản lý của nhà

nước ngày càng được điều chỉnh theo xu thế phát triển [63], [69], [76], [78]…Tác giả Nguyễn Phú Trọng khẳng định, việc nhà nước quản lý nền kinh tế thịtrường, không những hướng tới mục đích hạn chế các khuyết tật của kinh tế thịtrường, mà còn duy trì sự ổn định để kinh tế thị trường hoạt động và phát triển.

Ngày nay, có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau trên thế giới, mặc dù

mức độ và hình thức can thiệp của nhà nước vào các mô hình kinh tế có khác

nhau, nhưng đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước [144].

Các nghiên cứu còn khẳng định, nhà nước có tác động lớn tới TTKT.

Thông qua các thể chế kinh tế, nhà nước đã tạo ra một hành lang pháp lý, một

sân chơi ngày càng bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường,

thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khơidậy các tiềm năng, sức sáng tạo của các nguồn lực vào phát triển kinh tế, tạo

22

ra các thành tựu to lớn về TTKT. Các tác giả quả quyết, nhờ có vai trò kinh tếcủa nhà nước mà nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng nổi bật, GDP

không ngừng nâng cao, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng tích

cực, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi

trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng khôngphải là không có những hạn chế trong việc thực hiện vai trò quản lý kinh tếcủa nhà nước [69], [76], [78], [121], [122]…

Một số nghiên cứu còn cho thấy, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc

tế là một xu thế khách quan và điều đó dẫn đến hầu hết mọi nền kinh tế tham

gia vào guồng quay của nó. Việt Nam đã hội nhập với kinh tế thế giới, do đó,không thể thiếu bàn tay can thiệp của nhà nước. Để nâng cao vai trò nhà nước

trong hội nhập kinh tế quốc tế, các công trình đều cho rằng Nhà nước cần

thực hiện tốt các giải pháp: tiếp tục triển khai chủ trương đa phương hóa, đadạng hóa quan hệ quốc tế, hội nhập sâu và đầy đủ hơn với kinh tế quốc tế; đẩy

mạnh tăng cường thu hút vốn đầu tư; hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp

với những cam kết quốc tế; tiếp tục đổi mới phương thức và chức năng quản

lý kinh tế của nhà nước phù hợp với các nguyên tắc quốc tế…[76], [78].

Các nghiên cứu còn chỉ ra rằng so với yêu cầu phát triển của đất nước

trong bối cảnh mới, bên cạnh ưu điểm, vai trò của nhà nước trong điều tiết

nền kinh tế còn bộc lộ nhiều yếu kém. Chẳng hạn, hệ thống luật pháp còn

thiếu và chưa đồng bộ so với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường; một sốchính sách ban hành chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế với

các mục tiêu bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ MTST; sự quản lý của nhà

nước ở các thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường KH và CN…còn lúng túng, thiếu tính chuyên nghiệp. Đó được coi là những nguyên nhân

cơ bản làm cho kinh tế tăng trưởng chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế chuyển

dịch chưa hợp lý, sự phát triển thiếu tính bền vững: hiệu quả sử dụng vốn

thấp, tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm MTST vẫn còn

phổ biến, sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội gia tăng [63],

[69], [76], [78], [121], [122], [126], [141]…

23

Từ việc phân tích các ưu, khuyết điểm trong năng lực quản lý kinh tế của

nhà nước, các nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp khác nhau nhằm thúc đẩy

hiệu lực, hiệu quả vai trò của nhà nước trong tổ chức điều hành nền kinh tế.

Các giải pháp đó phần lớn tập trung vào vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy, nhận

thức về nền kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập; hoàn thiện hệ thống pháp luật,

chính sách kinh tế đồng bộ, phù hợp với cơ chế thị trường; cải cách, hoàn thiện

thể chế hành chính… [63], [68], [69], [102], [121], [126], [141]…

1.2.2. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi

trường sinh thái

Do vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của MTST đối với nền sản xuất xã

hội và với sức khoẻ của con người nên vấn đề bảo vệ MTST và vai trò của

nhà nước trong việc bảo vệ MTST đã trở thành đối tượng nghiên cứu của

nhiều chuyên ngành với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Dưới dạng các bài báo

có: “Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường” của tác giảLê Thị Thanh Hà [59]; “Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm hoạ thiên nhiênnghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái” của tác giảNguyễn Thị Ngọc Lan [81]; “Quản lý, bảo vệ môi trường - hiện trạng và giảipháp” của tác giả Trần Thanh Lâm [83]; “Vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệmôi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)” của tác giả Phạm

Hữu Nghị [104]...

Ở cấp độ rộng hơn, có các nghiên cứu dưới dạng sách tham khảo, chuyên

khảo, luận án: “Những tác động của yếu tố văn hoá - xã hội trong quản lý nhànước đối với tài nguyên - môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đạihóa” của tác giả Hoàng Hữu Bình [5]; “Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề bảovệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nôngthôn” của tác giả Lê Thị Thanh Hà [60]; “Chủ động ứng phó với biến đổi khíhậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường - Một số vấn đề lý luậnvà thực tiễn”, của Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương [71];“Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế” của tác giả Trần Thanh Lâm [84];

24

“Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường” của hai tác giả Nguyễn

Thị Thơm và tác giả An Như Hải [128]; “Quản lý nhà nước đối với tài nguyênvà môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn” của

tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm [141]... Những vấn đề tác giả luận án rút ra qua

nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học này là:

Các công trình khoa học trên đều tập trung tìm hiểu chủ thể giữ vai

trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy quá trình bảo vệ MTST là nhà nước

và đưa ra các quan niệm khác nhau về quản lý nhà nước đối với TN - MT.

Quan niệm thứ nhất: Quản lý MT là sự tác động liên tục, có tổ chức và

hướng đích của chủ thể quản lý MT lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến

hành các hoạt động phát triển trong hệ thống MT và khách thể quản lý MT,

sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng, cơ hội nhằm đạt được mục tiêu

quản lý MT đã đề ra, phù hợp với pháp luật hiện hành. Quan niệm thứ hai:

Quản lý nhà nước đối với TN - MT là một quá trình mà ở đó, nhà nước sửdụng cách thức, công cụ, phương tiện khác nhau, vận dụng những quy luật

vận động khác nhau của thế giới vật chất, tác động đến các hoạt động của

con người nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa TN - MT và phát triển, với

mục đích thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người, đồng thời đảm bảo

chất lượng MT sống... Quản lý TN - MT không chỉ là hoạt động liên tục,

có tổ chức mà phải thường xuyên, lâu dài. Quản lý TN - MT có nhiều hình

thức khác nhau, song quản lý nhà nước về TN - MT giữ vai trò quan trọng

nhất. Các nghiên cứu khẳng định ở Việt Nam TNTN là tài sản quốc gia,

thuộc sở hữu toàn dân nhưng do Nhà nước là chủ đại diện. Nhà nước không

thể giao quyền quản lý TNTN và MT cho bất kỳ đối tượng nào khác, quyền

và trách nhiệm đó phải thuộc về nhà nước [59], [61], [84], [104], [128].

Một số nghiên cứu xuất phát từ phân tích thực trạng của lực lượng sản

xuất ở nước ta đã khẳng định, quản lý nhà nước về TN - MT còn phụ thuộc

vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó, với tư cách là chủ thể sởhữu cao nhất và duy nhất về TNTN cũng như các thành phần MT, Nhà nước

25

ta phải thực hiện chức năng tổ chức quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát

việc khai thác, sử dụng TNTN và các điều kiện tự nhiên nhằm sử dụng hợp lý,

tiết kiệm TNTN và bảo vệ MTST để phát triển KT - XH ở cả hiện tại lẫn

trong tương lai [59], [61], [84], [104], [128], [141].

Các nghiên cứu đều tập trung phân tích, chỉ ra thực trạng hiệu lực, vai

trò quản lý của Nhà nước về TN - MT ở nước ta. Các nghiên cứu đều cho

thấy Nhà nước ta giữ vai trò quan trọng trong việc đề ra chủ trương, chínhsách, pháp luật, hướng dẫn các cá nhân và tổ chức thực hiện pháp luật về TN -

MT; tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý TN -

MT từ cấp trung ương đến địa phương và thực hiện việc thanh tra, kiểm tra,

giảm sát việc thực hiện pháp luật TN - MT [59], [61], [71], [84], [104], [141].

Các nghiên cứu còn đưa ra quan điểm, mục tiêu và những giải pháp chủyếu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về MT ở Việt Nam như: tiếp

tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách bảo vệ MT; tăng cường chế tài

xử phạt vi phạm pháp luật về bảo vệ TN - MT; tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổchức bộ máy quản lý nhà nước về TN - MT ở các cấp; nâng cao ý thức trách

nhiệm bảo vệ MT cho quần chúng nhân dân, sử dụng hợp lý các nhân tố kinh

tế và con người trong quản lý nhà nước về TN - MT; xây dựng ý thức sinh

thái cho nhân dân... [5], [59], [61], [71], [81], [84], [104], [128], [141].

Kết luận chương 1Những vấn đề: TTKT, bảo vệ MTST và vấn đề liên quan tới vai trò của

nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST đã được các nhà nghiên

cứu tiếp cận và giải quyết dưới nhiều góc độ khác nhau. Sau khi nghiên cứu

các công trình đó, tác giả luận án rút ra được những kết luận sau:

Một là: Các công trình khoa học trên đều có ý nghĩa nhất định về mặt

lý luận và thực tiễn. Những giá trị khoa học của các công trình này đã tạo ra

những gợi mở quan trọng để tác giả luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo

hướng mới. Các giá trị khoa học của các công trình được luận án tiếp thu, kếthừa bao gồm các nội dung:

26

Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tiễn, các công trình khoa học đã công

bố và đưa ra được bức tranh sinh động về mối quan hệ biện chứng giữa TTKT

với bảo vệ MTST. Đặc biệt, các nghiên cứu đã chứng minh lý luận của chủnghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa con người với tự nhiên thông qua hoạt

động thực tiễn sản xuất vật chất và bảo vệ MTST một cách sinh động. Kết

quả khoa học của các công trình này là tư liệu quan trọng và hữu ích để luận

án đề xuất cách tiếp cận mới về mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST.

Các công trình đã nghiên cứu phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của

nhà nước trong TTKT cũng như trong quản lý TN - MT. Các nghiên cứu đã đisâu lý giải vai trò của nhà nước với tư cách là chủ thể có quyền lực cao nhất

và duy nhất có khả năng bảo đảm quản lý sử dụng nguồn TNTN trong nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Do đó, Nhà nước

phải được coi là chủ thể tiên quyết đề ra các chủ trương, chính sách, pháp luật

để dẫn dắt nền kinh tế tăng trưởng và bảo vệ MTST vì sự PTBV đất nước.

Những giá trị khoa học này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, là tiền

đề để luận án phân tích sâu sắc hơn cơ sở triết học của vai trò nhà nước trong

việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST.

Các công trình nghiên cứu đã đề xuất những giải pháp quan trọng mà

nhà nước cần phải làm để thực hiện tốt chức năng “bà đỡ” của mình. Một sốgiải pháp về xây dựng chính sách, pháp luật đồng bộ, về quản lý điều hành

kinh tế, môi trường, giải pháp về giáo dục ý thức môi trường, đạo đức sinh

thái... là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất những giải pháp

cơ bản giúp Nhà nước kết hợp đồng bộ TTKT và bảo vệ MTST.

Hai là: Vấn đề kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST và chỉ ra vai tròcủa Nhà nước trong việc kết hợp đó là một vấn đề hết sức mới mẻ. Tất cả các

công trình nghiên cứu trước đó đã nghiên cứu và giải quyết theo hai hướng

chủ yếu hoặc là chỉ ra vai trò của nhà nước trong TTKT, hoặc là chỉ ra vai trò

của nhà nước trong bảo vệ MTST. Việc nghiên cứu vai trò của nhà nước

trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST với cách tiếp cận triết học thì

27

hầu như chưa có công trình nào chỉ ra một cách hệ thống. Do đó, hướng

nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề này trong luận án là hoàn toàn mới mẻ. Đểgóp phần làm sâu sắc thêm một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước

về các vấn đề KT - XH, luận án đi sâu vào ba nội dung cơ bản sau:

Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đã có, luận án góp phần

làm rõ hơn quan hệ biện chứng giữa TTKT và bảo vệ MTST cũng tính tất yếu

của việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST.

Chỉ ra những nội dung thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT

với bảo vệ MTST và những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà

nước Việt Nam trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở nước ta hiện nay.

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước

Việt Nam trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST.

28

Chương 2KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ

2.1. KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến

tăng trưởng kinh tếTăng trưởng kinh tế là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học.

Mặc dù xuất hiện khá sớm trong lịch sử, nhưng chỉ khi phương thức sản xuất

tư bản chủ nghĩa thiết lập được địa vị thống trị, thì khi ấy khái niệm TTKT

mới thực sự được định hình rõ nét. Trong điều kiện đó, những thành quả kinh

tế của nhân loại nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng đã tạo ra bước

chuyển biến mạnh mẽ trong toàn bộ đời sống xã hội. Chính C.Mác là người

nhận thức rõ điều này khi ông viết:

Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một

thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơnlực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Sự chinh

phục những lực lượng thiên nhiên, sự sản xuất bằng máy móc, việc

áp dụng hoá học vào công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu

chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng

lục địa nguyên vẹn, việc khai thông các dòng sông cho tầu bè đi lại

được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, có thế kỷnào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất nhưthế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội! [91, tr.603].

Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học tư sản đã dành

nhiều thời gian nghiên cứu quá trình tăng trưởng của nền kinh tế tư bản chủ

29

nghĩa và đưa ra các quan niệm khác nhau về TTKT. Trong tác phẩm “Của cảicủa các dân tộc”, Adam Smith cho rằng, TTKT là tăng đầu ra theo đầu người,

hoặc tăng sản phẩm lao động; nguồn gốc của TTKT là tích lũy tư bản [theo

57]. Còn David Ricardo, trong tác phẩm nổi tiếng “Các nguyên tắc của chínhtrị kinh tế học và thuế khóa” cho biết, các yếu tố cơ bản của TTKT là đất đai,lao động và vốn, trong đó đất đai là yếu tố quan trọng nhất, là giới hạn của sựtăng trưởng [theo 57]. Kế thừa tư tưởng của D.Ricardo, C.Mác khẳng định

không chỉ có đất đai, sức lao động, vốn mà tiến bộ kỹ thuật cũng là một trong

các yếu tố thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Nếu D.Ricardo nhấn mạnh tới yếu tốđất đai như là yếu tố quan trọng hàng đầu của TTKT thì C.Mác lại đặc biệt

quan tâm đến yếu tố sức lao động, vì theo ông đó là yếu tố tạo ra giá trị thặng

dư. C.Mác cho rằng, muốn tăng tổng sản phẩm xã hội tạo nên TTKT thì phải

tăng quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tăng cường bóc lột giai cấp công

nhân. Tuy nhiên, ông cũng thấy rằng, lao động cơ bắp của người công nhân là

có giới hạn, vì vậy, để tăng giá trị thặng dư, các nhà tư bản còn phải tăng năngsuất lao động nhờ vào quá trình cải tiến công cụ, kỹ thuật.

Thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản vào những năm đầu thế kỷ XX,

đặc biệt là cuộc khủng hoảng 1929-1933, một số lý thuyết về TTKT tiếp tục

được bổ sung và phát triển. John Maynard Keynes là được coi là người đặt nền

móng cho các lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại. Trong tác phẩm “Lý thuyếtchung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, ông cho rằng, vấn đề việc làm ảnh

hưởng mạnh mẽ đến vấn đề tăng, giảm của thu nhập và tiêu dùng. Trong

trường hợp thu nhập giảm, cầu tiêu dùng giảm tương đối, sẽ ảnh hưởng đến

tình hình sản xuất, đầu tư được thu hẹp và nạn thất nghiệp theo đó sẽ gia tăng.Vì vậy, để điều chỉnh sự thiếu hụt của cầu tiêu dùng, cần phải tăng đầu tư. Mỗi

sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo cầu bổ sung về công nhân và tư liệu sản

xuất, khi việc làm gia tăng, thu nhập quốc dân cũng tăng theo [theo 57].

Đến cuối những năm 50 của thế kỉ XX, cuộc cách mạng KH và CN

hiện đại bắt đầu phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng, nhà kinh tế học

30

Mỹ Rober Solow, trên cơ sở nghiên cứu kinh tế xã hội tư bản đã khẳng định

các yếu tố cơ bản của TTKT gồm có vốn, lao động, tiến bộ CN. Trong đó, yếu

tố quyết định đến sự TTKT phải là tiến bộ CN mà kinh tế tri thức là nền tảng

ban đầu. Theo R.Solow thì thành tựu kiến thức cũng như việc áp dụng những

thành tựu ấy vào cải tiến công cụ lao động sẽ làm tăng năng suất lao động, sản

phẩm sản xuất ra cũng tốt hơn, đa dạng hơn. R.Solow cũng cho rằng, có được

sự tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn, người ta phải nhờ vào sựtiến bộ của KH và CN [theo 57].

Từ cuối những năm 1980 đến nay, lý thuyết tăng trưởng mới - mô hình

tăng trưởng nội sinh ra đời với mục đích thúc đẩy TTKT. Mô hình này đề cao

vai trò tác động của chính phủ đến TTKT ở cả hai trường hợp tốt và xấu. Chính

sách của chính phủ có thể tác động đến tăng trưởng dài hạn, bởi lẽ những hành

vi đánh thuế, bảo hộ sở hữu trí tuệ, điều chỉnh, duy trì pháp luật và trật tự… có

thể tác động tới các hoạt động sáng chế, phát minh [theo 57].

Như vậy, TTKT là khái niệm đã thực sự được bàn đến từ thế kỷ XVIII.

Từ đó đến nay khái niệm này luôn được bổ sung, phát triển theo các hướng

khác nhau. Mặc dù có điểm chung là cố gắng chỉ ra căn nguyên cơ bản của

TTKT, song hầu hết các quan điểm trên mới chỉ nhấn mạnh đến những yếu tốkinh tế đơn thuần, ít cắt nghĩa về sự tác động của các yếu tố xã hội đến nhịpđộ tăng trưởng của nền kinh tế.

Ở Việt Nam, khái niệm TTKT được hiểu theo nhiều lát cắt khác nhau

Theo lát cắt kinh tế, TTKT “là khái niệm diễn tả động thái của kinh tế phát

triển, đó là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng qua thời gian của một

nước, hay là mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất, di chuyển giới hạn khảnăng sản xuất qua thời gian” [44, tr.14]. Hiểu theo nghĩa rộng, TTKT “là sựtăng thêm về quy mô, sản lượng hàng hoá và dịch vụ trong một thời kì nhất

định (thường là một năm). Đó là kết quả được tạo ra bằng tất cả các hoạt động

dịch vụ của nền kinh tế” [68, tr.37]. Hiện nay, một số nhà khoa học còn cho

rằng, TTKT “là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về

31

quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Các chỉ tiêu đểđo tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc

nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP và GNP bình quân đầu

người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác” [144, tr.155].

Điểm giống nhau của các định nghĩa trên là đều có chung một nhận

định: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế trong một thời kì nhất định. Các

chỉ tiêu GDP, GNP, GDP bình quân đầu người thường được sử dụng để đánhgiá về mức độ tăng trưởng cao hay thấp của nền kinh tế. Nếu tốc độ tăngGDP, GNP, GDP bình quân đầu người thời kì sau cao hơn thời kì trước thì

nền kinh tế có sự tăng trưởng và ngược lại nền kinh tế đang sút giảm.

Như vậy, theo các quan niệm trên, khái niệm TTKT mới chỉ nói lên

mặt lượng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. TTKT chưa phải là phát

triển kinh tế. Phát triển kinh tế là “sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng

của nền kinh tế quốc dân trong một thời kì nhất định. Các chỉ tiêu phản ánh

phát triển kinh tế là hiệu quả của nền kinh tế, hiệu quả đầu tư, cơ cấu kinh tế,

khả năng cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước khác trong khu vực và

thế giới” [127, tr.17]. Với nghĩa này, TTKT và phát triển kinh tế nằm trong

mối quan hệ tác động qua lại với nhau. TTKT phản ánh sự đi lên về mặt

lượng của nền kinh tế, còn phát triển kinh tế cho thấy cả mặt chất trong quá

trình đi lên của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần, cơ bản đểphát triển kinh tế. Nếu không có TTKT thì sẽ không có phát triển kinh tế.

TTKT giúp cho sản phẩm làm ra ngày một nhiều, việc làm và thu nhập trong

xã hội tăng lên, xã hội có thêm điều kiện vật chất để đảm bảo các vấn đề an

sinh xã hội như GD và ĐT, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ MTST… Nhưng,nếu kinh tế có sự tăng trưởng mà nạn thất nghiệp tăng, MTST bị hủy hoại,

các tệ nạn xã hội gia tăng thì không thể có phát triển kinh tế.

Từ đó, có thể thấy rằng, điều kiện đủ cho kinh tế phát triển là quá

trình TTKT phải gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo tính cân đối,

tính hiệu quả, tính mục tiêu cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,

32

TTKT ở giai đoạn trước sẽ không cản trở quá trình TTKT ở giai đoạn sau.

Nói cách khác, trong TTKT phải vừa có sự gia tăng về mặt số lượng, vừa

đạt được sự gia tăng cần thiết về mặt chất lượng. Để có được điều này, sựgia tăng của nền kinh tế nhất thiết phải dựa trên việc khai thác các nguồn

lực sẵn có từ tự nhiên và xã hội.

Xuất phát các quan niệm trên có thể rút ra kết luận: Tăng trưởng kinhtế là sự gia tăng không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng của nền kinh tếtrong một thời kỳ nhất định dựa trên việc khai thác các nguồn lực tự nhiên

và xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, để có thể tăng trưởng nhanh

và ở mức độ cao, mọi nền kinh tế phải dựa trên các trụ cột cơ bản như nguồn

nhân lực chất lượng cao, áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng

hiện đại, nguồn TNTN dồi dào…Nguồn nhân lực: Ngay từ thế kỷ XVIII, các nhà kinh tế học tư sản hiện

đại đã nhận thấy, nguồn lực để sản xuất ra của cải vật chất chỉ có thể là lao

động và tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất đai. Còn chủ nghĩa Mác - Lênin

ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi phân tích phương thức sản xuất

tư bản chủ nghĩa, đã khẳng định chính người lao động mới là nhân tố giữ vai

trò quyết định trong sản xuất ra của cải vật chất. Đúng như quan niệm của chủnghĩa Mác - Lênin, ngày nay, mặc dù trình độ kinh tế phát triển đã khác xa so

với các giai đoạn trước nhưng nguồn lực con người vẫn là một trong các yếu

tố quyết định, ưu thế của nguồn lực con người dần được khẳng định trên thực

tế. Lý thuyết hiện đại về sự tăng trưởng của nền kinh tế và sự phát triển thần

kỳ của nhiều nước, vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Hàn

Quốc, Đài Loan cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nhiều nước

công nghiệp mới, các nước ASEAN, Trung Quốc là những minh chứng sống

động cho việc khẳng định tầm quan trọng thiết yếu của nguồn nhân lực. Tất

nhiên, cái cấu thành nên giá trị nội tại của nguồn nhân lực là ở chất lượng của

nó. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở tri thức, trí tuệ, chất xám

hay năng lực cơ bắp, mặc dù đó là những yếu tố cực kỳ quan trọng. Trong

33

nhiều trường hợp, chất lượng nguồn nhân lực còn thể hiện ở tinh thần dám

nghĩ, dám làm, khả năng lao động sáng tạo và các phẩm chất đạo đức nhưlòng dũng cảm, trung thực, yêu lao động…

Công nghệ hiện đại: Yếu tố này bao gồm cả những tiến bộ về KH và

CN trong sản xuất và trong tổ chức quản lý sản xuất. Trong những thập kỷqua, loài người đã chứng kiến sự thay đổi chưa từng thấy của KH và CN.

Chúng đi sâu vào mọi ngõ ngách của nền sản xuất, trở thành lực lượng sản

xuất trực tiếp. Nhờ đó mà nhiều quốc gia tiến hành mở rộng quy mô sản xuất,

đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, trở thành các nước phát triển mạnh. Sự phát

triển của KH và CN không chỉ đem lại nhiều khả năng tái sinh và bảo vệ các

nguồn TNTN, mà còn giúp con người tạo ra những vật liệu mới thay thế cho

các nguồn TNTN đang ngày càng khan hiếm để đẩy nhanh tốc độ tăngtrưởng. Tất nhiên, sự phát triển của KH và CN cũng có thể tiềm ẩn những

nguy cơ bất lợi cho MTST, bởi lẽ, việc ứng dụng các thành tựu của KH và

CN hiện đại vào sản xuất nếu không được kiểm duyệt nghiêm ngặt sẽ có nguy

cơ trở thành nhân tố tàn sát MTST nhanh hơn.Kết cấu hạ tầng hiện đại: Đây là tiền đề để mở rộng năng lực sản xuất của

nền kinh tế, giúp kinh tế tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, muốn xây dựng được kết

cấu hạ tầng hiện đại, phải có tiềm năng về kinh tế nghĩa là phải có nguồn vốn đủlớn và sử dụng vốn có hiệu quả. Đối với các nước đang phát triển như ở Việt

Nam, nguồn vốn cho TTKT có được từ tích luỹ nội bộ nền kinh tế và đi vay. Việc

sử dụng hiệu quả nguồn vốn này sẽ đem đến khả năng tăng trưởng nhanh cho nền

kinh tế. Nhưng, nếu việc huy động nhanh cả hai nguồn vốn này không cẩn thận sẽlàm phương hại đến MTST. Vì lẽ, để đẩy nhanh nguồn vốn, có thể phải chấp nhận

bóc lột TNTN. Đây là nghịch lý mà trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có

bàn tay can thiệp của nhà nước để lựa chọn hướng đi đúng đắn nhất, vừa duy trì sựtăng trưởng của nền kinh tế, vừa không làm tổn hại đến MTST.

Tài nguyên thiên nhiên: Để sản xuất vật chất, con người phải khai thác,

sử dụng những dạng vật chất khác nhau trong tự nhiên như: đất đai, rừng,

34

biển, khoáng sản… Do sự phát triển của KH và CN, nhiều loại vật liệu nhân

tạo mới như tơ, sợi hoá học, các loại chất dẻo xuất hiện thay thế nguyên liệu

truyền thống. Song, không vì thế mà giá trị của các nguồn TNTN bị mất đi.Xét đến cùng, nguyên vật liệu dùng để sản xuất ra các loại vật liệu nhân tạo

mới cũng được lấy từ tự nhiên. Việc khai thác các nguồn TNTN, do đó, sẽđem đến nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Đương nhiên, kinh tế chỉ có thểtăng trưởng vững chắc nếu TNTN được khai thác một cách hợp lý.

Ngoài các nhân tố trên, ngày nay, các nhân tố cấu thành quan hệ sản

xuất và một số nhân tố khác như thể chế kinh tế, hệ thống chính trị, đặc điểm

cộng đồng dân cư… cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy

kinh tế tăng trưởng. Song, xét đến cùng, các yếu tố về nguồn nhân lực,

TNTN, khoa học kỹ thuật vẫn được coi là những nguồn lực chủ yếu, quyết

định mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu các nguồn lực này được đảm

bảo, nền kinh tế sẽ có sự tăng trưởng bền vững.

2.1.1.2. Khái niệm môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh tháiĐể tìm hiểu khái niệm môi trường sinh thái, trước hết cần hiểu về khái

niệm môi trường.

Môi trường là khái niệm được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên

cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, môi

trường được định nghĩa “bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất

nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng

tới đời sống sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên”[70, tr.940]. Hiểu theo nghĩa rộng, môi trường là khái niệm “chỉ toàn bộ các

điều kiện vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các cơthể sống, bao gồm tất cả những gì đang tồn tại khách quan, là toàn bộ thế giới

với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu của nó” [45, tr.7]. Luật Bảo vệmôi trường (2005) của nước ta thì cho rằng, môi trường “bao gồm các yếu tốtự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời

sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” [113, tr.8].

35

Theo quan niệm của UNESCO, MT của con người bao gồm toàn bộ các hệthống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đôthị, hồ chứa...) và những cái vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ thuật...), trong

đó con người bằng lao động, tiến hành khai thác các loại tài nguyên nhằm

thoả mãn những nhu cầu của mình. Với nghĩa này, MT sống đối với con

người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng, phát triển mà còn là khung cảnh

của cuộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của con người.

Như vậy, MT là khái niệm có nội hàm rộng lớn. Từ khái niệm này người

ta chia ra thành các khái niệm hẹp hơn như “môi trường tự nhiên”, “môi trường

xã hội”, “môi trường nhân tạo”, “môi trường sinh thái”, “môi trường sinh thái

nhân văn”… Mỗi khái niệm đó lại được nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.

Không thể đi sâu vào từng khái niệm, luận án chỉ đề cập tới những khái niệm

điển hình nhất, được nhiều người thừa nhận và có mối liên quan chặt chẽ tới

đối tượng nghiên cứu trong luận án.

Môi trường xã hội, hiểu một cách chung nhất là tổng thể các mối quan

hệ giữa các cá nhân con người, giữa các cộng đồng người với nhau và hợp lại

thành quốc gia, xã hội. Từ đó hình thành nên luật lệ, thể chế, quy định, các

hình thức tổ chức, các thể chế KT - XH… khác nhau.Môi trường nhân tạo là khái niệm dùng để chỉ MT do con người tạo ra,

bao gồm những nhân tố vật lý, sinh học, xã hội… Các yếu tố này luôn nằm

trong mối quan hệ với nhau, chịu sự chi phối của con người và phục vụ cho

cuộc sống của con người cũng như của cộng đồng xã hội trong mỗi giai đoạn

lịch sử nhất định.

Môi trường tự nhiên là khái niệm dùng để chỉ các nhân tố, các hiện

tượng tự nhiên và các loại TNTN bao quanh cuộc sống của con người nhưbầu khí quyển, nước, động vật, thực vật, thổ nhưỡng, khoáng sản, không khí.

Các yếu tố này luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Chúng tồn tại

khách quan ngoài ý muốn của con người, có ảnh hưởng đến cuộc sống của

con người và ít nhiều chịu sự chi phối của con người.

36

Ngay từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất đã bị chi phối bởi MT

tự nhiên và chính bản thân con người cũng chinh phục lại MT tự nhiên. Bởi

vậy, ngày nay không có cái gọi là MT tự nhiên (theo nghĩa “nguyên thủy”,

thuần túy nữa), mà phải được hiểu như là “môi trường tự nhiên - xã hội”

hay “môi trường tự nhiên - người hóa”.

Một khái niệm khác được hiểu trong mối tương quan với khái niệm

MT tự nhiên là môi trường sinh thái. Đây cũng là khái niệm được tiếp cận

theo nhiều cách khác nhau. Trên cơ sở khẳng định vai trò của MT đối với

con người và xã hội, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm định nghĩa MTST là “tất

cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến

sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội” [138, tr.208]. Ở

khía cạnh khác, MTST còn được gọi là môi trường sinh thái tự nhiên hay

môi trường sinh thái - nhân văn, đó “là môi trường của sự sống hay sinh

quyển, nó bao gồm một phần của tự nhiên có tồn tại sự sống” [4, tr.13].

Để làm rõ sự khác nhau giữa khái niệm MTST với khái niệm môi

trường sinh thái - nhân văn, tác giả Hoàng Duy Chúc cho rằng “môi trường

sinh thái là môi trường sống hay cái nhà ở của sinh vật, bao gồm tất cả các

điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể” [39, tr.3]; còn

“môi trường sinh thái nhân văn là tổng hợp tất cả những điều kiện tự nhiên và

xã hội, cả vô cơ lẫn hữu cơ, có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại

và phát triển của xã hội” [39, tr.3-4].

Như vậy, dù hiểu theo khía cạnh nào thì MTST vẫn được quan niệm

như một chỉnh thể trọn vẹn có quan hệ với sự ổn định và phát triển của xã hội.

Đó là nơi cung cấp cho con người các sản phẩm vật chất với tính cách là yếu

tố đầu vào và chứa đựng các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. MTST

không chỉ bao gồm các hợp chất vô cơ mà còn có cả các hợp chất hữu cơ có

sẵn từ tự nhiên hoặc được tạo ra từ con người. Nếu trong quá trình sản xuất,

con người chỉ biết khai thác triệt để các nguồn lợi từ tự nhiên mà không biết

37

tái tạo, phục hồi, không kiểm soát chặt chẽ đầu ra của quá trình sản xuất, các

chất thải độc hại được xả thẳng ra MT, sẽ dẫn đến huỷ hoại MTST.

Xuất phát từ những quan điểm trên, có thể nhận định: (1) Nói đến MTST

là nói đến một bộ phận của giới tự nhiên có tồn tại sự sống; (2) MTST được

cấu thành từ các yếu tố vô cơ (đất, nước, TNTN...) và hữu cơ (động - thực

vật…); (3) MTST còn được gọi là môi trường sống nếu xét nó trong mối tươngquan với sự sống, sự tồn tại của đối tượng vật chất sống nhất định; (4) MTST

còn được gọi là “môi trường tự nhiên”, “môi trường sinh thái tự nhiên”.

Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài luận án, tác giả quan niệm rằng môi

trường sinh thái được hiểu là MTST tự nhiên với tính cách là nơi cung cấp

các yếu tố đầu vào cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Theo đó, môi trườngsinh thái bao hàm các loại động, thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và đặc biệt

là các loại TNTN như đất đai, các loại khoáng sản, nước... và đây cũng chínhlà các yếu tố mà luận án sẽ đề cập tới và giải quyết ở các nội dung sau.

Ngày nay, MTST đã và đang nguy cơ bị lạm dụng nhiều hơn để phục

vụ cho TTKT, vượt ra khỏi khuôn khổ của nó, MTST biến đổi đã đem đến

nhiều bất lợi cho con người trên cả phương diện sinh hoạt lẫn sức khỏe. Do

đó, bảo vệ MTST đang trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu.

Ở nước ta, thuật ngữ “Bảo vệ môi trường sinh thái” được Đảng và Nhà

nước đề cập từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và được nhắc lại trong Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Khi chưa xuất hiện thuật ngữ này, người ta

thường sử dụng thuật ngữ “Bảo vệ môi trường”, được hiểu là:

Tập hợp các biện pháp giữ gìn, sử dụng và phục hồi một cách

hợp lý sinh giới (vi sinh vật, động vật, thực vật) và môi sinh (đất,

nước, không khí, lòng đất, khí hậu), nghiên cứu thử nghiệm thiết bịsử dụng tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ ít có và không có

phế liệu… nhằm tạo ra không gian tối ưu cho cuộc sống của con

người. Bảo vệ môi trường địa lý là những vấn đề trước mắt và lâu dài

mà toàn thể các cộng đồng phải giải quyết ở quy mô toàn cầu; nhằm sử

38

dụng hợp lý thiên nhiên, hoàn thiện trang thiết bị và các quá trình công

nghệ, kiểm tra tình trạng và nguồn gây ô nhiễm môi trường, bảo vệ các

danh lam thắng cảnh và các công trình văn hóa [70, tr.160].

Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) ở nước ta quy định: “Hoạt động

bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp;

phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường, ứng phó sự cố môi trường;

khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sửdụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”[113, tr.8-9]. Ở khái niệm này, bảo vệ MT không chỉ là khái niệm mang tính

hành động của con người nhằm tác động trực tiếp vào MT, khắc phục sự ô

nhiễm, suy thoái MT mà còn bao hàm cả việc khai thác, sử dụng hợp lý và tiết

kiệm TNTN, bảo tồn đa dạng sinh học.

Bảo vệ MT còn được một số nhà nghiên cứu quan niệm là giữ cho con

người không bị đầu độc bởi tất cả các yếu tố độc hại phát sinh từ sự suy thoái,

ô nhiễm MT, là tập hợp các biện pháp nhằm quản lý, duy trì, sử dụng hợp lý,

phục hồi và nâng cao hiệu quả sử dụng MT tự nhiên, giữ cho cuộc sống của

con người và thiên nhiên có sự hài hòa phù hợp.

Trên thực tế còn xuất hiện hai cách hiểu khác nhau về vấn đề bảo vệ môi

trường. Cách thứ nhất cho rằng bảo vệ MT là phải giữ gìn, tái tạo những gì đã có

của MT. Còn cách thứ hai khẳng định bảo vệ MT là phải giữ nguyên hiện trạng tựnhiên mà không khai thác gì cho phát triển kinh tế. Cả hai khuynh hướng này đều

có khía cạnh đúng nhưng chưa thật đầy đủ. Vì hai lý do: Thứ nhất, trong cuộc

sống, khó có thể buộc con người chỉ có giữ gìn, tái tạo mà lại không khai thác tựnhiên. Để sinh tồn và phát triển, con người phải khai thác tự nhiên. Đây là quy luật

tất yếu của xã hội loài người. Thứ hai, giữa khai thác và bảo vệ MT có mối quan

hệ với nhau. Do vậy, khai thác các thành tố từ MT phải đi đôi với bảo vệ chúng.

Như vậy, có thể thấy, MT được bảo vệ ở đây là MT tự nhiên. Bảo vệMT tự nhiên là bảo vệ các nguồn lực có từ tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học

và khai thác hợp lý các nguồn TNTN cho tăng trưởng.

39

Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu trong luận án và hiểu MTST trong

mối tương quan với MT tự nhiên, là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá

trình sản xuất, có thể đi tới kết luận: Bảo vệ môi trường sinh thái là hoạt động

của con người nhằm khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp

lý, đảm bảo cân bằng sinh thái trên cơ sở giữ gìn sự trong sạch, tái tạo và cải

thiện môi trường, ngăn chặn các hậu quả xấu do tăng trưởng kinh tế gây ra

cho môi trường sinh thái.

Như vậy, bảo vệ MTST không chỉ là giữ nguyên không khai thác, mà

trái lại, phải hướng vào việc khai thác, sử dụng hợp lý nguồn TNTN sao cho

việc khai thác đó tạo ra được những điều kiện cần thiết cho phục hồi, tái tạo

TNTN, đáp ứng nhu cầu sản xuất vật chất và đảm bảo cân bằng hệ sinh thái tựnhiên. Các hoạt động sản xuất trong nền kinh tế luôn gây ra những hậu quả xấu

cho MTST. Do đó, bảo vệ MTST, một mặt, là phải tìm ra những hướng phát

triển kinh tế phù hợp, mặt khác, phải tìm cách ngăn chặn những hậu quả xấu

mà quá trình TTKT gây ra cho MTST.

2.1.2. Quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi

trường sinh thái

2.1.2.1. Vai trò và tác động của tăng trưởng kinh tế đối với bảo vệ môitrường sinh thái

Con người và xã hội loài người không chỉ thoả mãn nhu cầu sống của

mình bằng các vật phẩm có sẵn trong tự nhiên mà buộc phải tiến hành sản

xuất vật chất. Theo C.Mác, sản xuất vật chất không chỉ là cơ sở cho sự sinh

tồn của con người mà còn là hành vi lịch sử đầu tiên của họ: “hành vi lịch sửđầu tiên là, việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc

sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” [90, tr.40]. Sản xuất vật chất cũng

đồng thời là cơ sở để hình thành nên các quan hệ: chính trị, đạo đức, tôn

giáo… “tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đềcủa mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làmra lịch sử”” [90, tr.39-40].

40

Chính trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, mối quan hệ giữa con

người với tự nhiên được hình thành và “chừng nào mà lịch sử loài người còn

tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau” [90, tr.25].

Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên là mối quan hệ giữa một bên là chủthể, còn bên kia là khách thể, trong đó, chủ thể thổi hồn vào khách thể đểchúng trở nên có ý nghĩa với con người. Sự tác động của con người vào tựnhiên không mù quáng như thế giới loài vật mà là sự tác động có ý thức, nhưC.Mác đã từng khẳng định “việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể,

việc cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cáchlà một sinh vật có tính loài có ý thức, nghĩa là một sinh vật đối xử với loài

như với bản chất của chính mình” [96, tr.136-137].

Trong quá trình sản xuất vật chất, TTKT là cách thức chủ yếu, là nhu

cầu bắt buộc của mọi quốc gia nhằm từng bước xóa đói, giảm nghèo (phát

triển kinh tế làm nền tảng cho sự phát triển xã hội). Để thúc đẩy kinh tế tăngtrưởng, các quốc gia đã tác động tới các yếu tố của lực lượng sản xuất. Có thểkhẳng định, tất cả các nhân tố của lực lượng sản xuất thúc đẩy kinh tế tăngtrưởng đều tác động tới MTST ở các khía cạnh khác nhau. Sự tác động của

TTKT lên MTST trước hết phụ thuộc vào chủ thể của quá trình sản xuất vật

chất, đó là “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại” [86, tr.430].

Là chủ thể tiến hành sản xuất vật chất, trên phương diện quan hệ với MTST,

người lao động vừa tạo ra những điều kiện để gìn giữ MTST, nhưng đồng thời

lại vừa là tác nhân đem tới những bất lợi cho MTST. Có thể coi đây là những

điểm khác biệt giữa con người và thế giới loài vật trong mối quan hệ với

MTST. Tuy nhiên, điểm khác biệt căn bản nhất là ở chỗ, nhờ có năng lực

nhận thức nên trong quá trình sản xuất, người lao động có thể tiên đoán được

những hậu họa của môi sinh để chủ động định hướng điều chỉnh hoạt động

của mình. Cùng với sự trợ giúp đắc lực của tiến bộ KH và CN, con người

không ngừng tạo ra công cụ lao động mới, thay đổi cách thức tác động vào tựnhiên, cải biến những vật vô tri, vô giác trong tự nhiên thành của cải vật chất

41

để thỏa mãn nhu cầu của mình. Chính trong quá trình đó, người lao động đã

ghi dấu ấn của mình lên MTST theo các hướng khác nhau, khi thì thân thiện,

khi lại tìm cách “bóc lột” MTST.

Với tư cách là con người xã hội, người lao động luôn tìm kiếm cho

mình những lợi ích, những phương tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu về sự tồn tại

và phát triển của mình và xã hội. C. Mác đã đúc kết quy luật ấy qua chân lý:

con người ta phải có cái ăn, mặc, ở rồi mới lo tới việc làm nghệ thuật hay

chính trị. Như vậy, có thể thấy, khi những nhu cầu tối thiểu của người lao

động không được thỏa mãn hay khi họ đang bị nghèo đói mà nói tới bảo vệMTST thì đó sẽ là cái trống rỗng, vô ích. Tất nhiên, một cách biện chứng, khó

có thể khẳng định chắc chắn rằng một khi lợi ích tối thiểu của người lao động

được đảm bảo thì họ sẽ có ý thức bảo vệ MTST. Bởi lẽ, không có lợi ích nào

là lợi ích cuối cùng cũng như không có nhu cầu nào là nhu cầu có giới hạn đối

với con người. Khi lợi ích và nhu cầu này được thỏa mãn, ngay lập tức lại

xuất hiện những lợi ích và nhu cầu khác cao hơn. Đây cũng chính là cái thúc

đẩy con người ở mọi thế hệ, mọi thời đại cho đến cả loài người hoạt động, lao

động không ngừng nghỉ. Trong quá trình lao động để thỏa mãn nhu cầu của

mình, con người đã tác động tới tự nhiên, tìm mọi cách khai thác TNTN, thậm

chí khai thác vượt ra khỏi khuôn khổ giới hạn chịu đựng giới tự nhiên, gây

nên những biến đổi xấu cho MTST. Và hậu quả mà con người nhận được từsự khai thác vô hạn độ các nguồn lực từ tự nhiên là những cơn bão, những

trận động đất, sóng thần kinh hoàng liên tiếp xảy ra. Chính vì vậy, khi con

người gây hại cho MTST và bị MTST “trả thù” thì con người lại tìm mọi cách

dàn hòa với nó. Kiểm soát tự nhiên, bảo vệ MTST là cái đích mà con người

ngày nay đang hướng tới.

Trong xã hội hiện đại, để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, người lao động

đã tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế, qua đó thúc đẩy sự gia tăng bảo vệMTST. Sự xuất hiện của kinh tế công nghiệp, kinh tế dịch vụ thay thế cho

kinh tế nông nghiệp đã thay đổi phương thức tác động của con người đối với

42

MTST. Với khối óc và đôi bàn tay của mình, con người đã tạo ra công cụ lao

động hiện đại, dùng nó để khai thác TNTN một cách hiệu quả hơn. Đồng thời

với quá trình đó, người lao động còn tạo ra những nguyên liệu mới thay thếcho những nguyên liệu truyền thống vốn phải lấy trực tiếp từ tự nhiên. Lẽ dĩnhiên, để có được những thành quả đó, người lao động phải có đầy đủ những

năng lực phẩm chất đạo đức và nghề nghiệp cần thiết. Như vậy, có thể thấy

rằng sự tác động của TTKT đối với việc bảo vệ MTST nằm ngay trong chính

bản thân những người lao động.

Nguồn TNTN với tư cách là đối tượng lao động, cũng là một trong

những nhân tố quy định sự tác động của TTKT đối với việc bảo vệ MTST.

Đối với mỗi quốc gia, nguồn tài nguyên “vô hình” và “hữu hình” trở thành

điều kiện cơ bản để phát triển. Thực tế quá trình TTKT trên thế giới cho thấy,

TNTN là nguồn lực vô cùng quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất. Trong

cuộc sống, nếu con người khai thác quá mức nguồn TNTN, không những sẽlàm cho chúng bị cạn kiệt dần, mà còn dẫn đến ô nhiễm MT và mất cân bằng

trong hệ sinh thái. Ngược lại, nếu con người biết được giá trị và khai thác hợp

lý các nguồn TNTN, thì chúng dần được phục hồi, MTST sẽ không bị ô

nhiễm và hệ sinh thái sẽ được cân bằng.

Như đã từng thấy, việc sử dụng công nghệ hiện đại để khai thác TNTN là

tiêu chí quan trọng để có được sự tăng trưởng của kinh tế. Trong nhiều thập kỷqua, con người không ngừng đổi mới công cụ lao động, ứng dụng thành tựu của

khoa học để khai thác TNTN. Sự phát triển dựa trên thành tựu của KH và CN

hiện đại, vừa đem lại cho con người một cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ,

vừa giúp cho đôi bàn tay con người vươn ra xa hơn, đem đến khả năng khai tháctài nguyên hiệu quả hơn và đặc biệt, ít nhiều giúp cho chúng được bảo tồn, được

tái tạo. Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ hiện đại vào khai thác TNTN, nếu

không được kiểm soát chặt chẽ, có thể sẽ đem đến những bất lợi cho MTST.

Như vậy, TTKT chỉ có thể tác động tới bảo vệ MTST thông qua các

yếu tố: người lao động, TNTN, khoa học và công nghệ. Đó cũng đồng thời là

43

các yếu tố cơ bản quyết định tới sự tăng trưởng của nền kinh tế và ảnh hưởng

tới quá trình bảo vệ MTST. Ngoài ra, các yếu tố thuộc về quan hệ sản xuất,

kết cấu hạ tầng, thể chế kinh tế, hệ thống chính trị, đặc điểm cộng đồng dân

cư… cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ MTST. Tất nhiên,

mọi yếu tố đều phải thông qua vai trò của Nhà nước mới có thể phát huy tác

dụng trong việc bảo vệ MTST.

2.1.2.2. Vai trò của môi trường sinh thái và sự tác động của bảo vệ môi

trường sinh thái lên tăng trưởng kinh tế

Trong hệ thống con người - tự nhiên - xã hội, khó có thể xác định đâu

là yếu tố quan trọng nhất, bởi lẽ giữa chúng luôn có sự tác động qua lại lẫn

nhau. Mỗi yếu tố đều giữ một vị trí, vai trò nhất định tới yếu tố còn lại. Ngày

nay, TTKT giữ vai trò hết sức to lớn đối với sự thay đổi về cấu trúc và xu

hướng bền vững của MTST. Ngược lại, MTST cũng giữ vai trò quan trọng

đối với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Do đó, nếu MTST được bảo vệ

sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và ngược lại,

nếu MTST không được bảo vệ sẽ là một trong những nguyên nhân cản trở sự

tăng trưởng của kinh tế. Khi đề cập đến vai trò không thể thiếu của môi

trường tự nhiên đối với sản xuất, trong “Bản thảo kinh tế - triết học” (1844),

C.Mác viết:

Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì nếu không có giới tự

nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu,

trong đó lao động của anh ta được thực hiện, trong đó hoạt động lao

động của anh ta triển khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản

xuất ra sản phẩm. Giới tự nhiên cung cấp cho lao động tư liệu sinh

hoạt theo nghĩa là không có vật để cho lao động tác động vào thì lao

động không thể sống được; mặt khác chính giới tự nhiên cũng cung

cấp tư liệu sinh hoạt theo nghĩa hẹp hơn, nghĩa là cung cấp tư liệu

để tồn tại về thể xác cho bản thân người công nhân [96, tr.130].

44

Từ quan điểm trên của C.Mác, có thể khẳng định MTST giữ vai trò là

tiền đề, điều kiện tiên quyết cho sự hình thành, phát triển của con người cũngnhư nền sản xuất vật chất của xã hội. Vai trò của MTST đối với đời sống con

người và nền sản xuất vật chất của nhân loại còn được thể hiện ở chỗ, nó cung

cấp những điều kiện vật chất - tức nguồn TNTN sẵn có để con người tiến hành

sản xuất ra của cải, duy trì sự sinh tồn và phát triển. Ở thời kỳ bình minh của

nhân loại, các loại TNTN trở thành những yếu tố không thể thiếu để con người

tồn tại. Tất nhiên, ban đầu, bản thân giới tự nhiên chỉ “là cái kho chứa, mà

trong đó con người - cũng là tiền đề với tính cách là sản phẩm của tự nhiên -

kiếm được những sản phẩm sẵn có của tự nhiên để tiêu dùng” [93, tr.55]. Trải

qua các thời đại kinh tế khác nhau, từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công

nghiệp và hiện nay là kinh tế tri thức, con người vẫn tìm cách có được những

thứ mà mình bắt gặp trên con đường chinh phục tự nhiên. Cho dù sau này loài

người đã biết chế tạo ra các loại tư liệu lao động và đối tượng lao động phục vụcho sản xuất, nhưng rõ ràng, vật liệu để tạo ra chúng, cũng phải lấy từ MTST.

Các sản phẩm được tạo ra trong các hoạt động sản xuất… đều có nguồn gốc từtự nhiên. Hơn nữa, trong cuộc sống, có nhiều nhiều loại hàng hóa do con người

tạo ra rất hoàn hảo nhưng vẫn không thể thay thế được các dạng vật chất có sẵn

trong tự nhiên. Về điều này, C.Mác đã từng viết:

Trừ ngành công nghiệp khai thác là ngành tìm được đối tượng

lao động của nó trong giới tự nhiên - như ngành mỏ, săn bắn, đánhcá, v.v. (ngành trồng trọt cũng thế, nhưng chỉ khi nào người ta khai

thác lần đầu tiên những đất hoang mà thôi), - còn tất cả các ngành

công nghiệp khác thì đều dùng nguyên liệu, tức là một đối tượng lao

động đã được lao động lọc qua rồi, và bản thân đã là một sản phẩm

lao động [94, tr.271-272].

Qua đó cho thấy, sẽ không thể có TTKT nếu thiếu các yếu tố đầu vào

cho quá trình sản xuất tồn tại dưới dạng TNTN và ở đây, MTST đã thực hiện

chức năng cung cấp đối tượng lao động để các hoạt động sản xuất diễn ra bình

45

thường. Tuy nhiên, để duy trì vai trò tích cực này của MTST đối với TTKT,

con người cần phải bảo vệ MTST.

Nếu MTST được bảo vệ, sẽ có tác động tích cực tới TTKT. Bởi lẽ, khi ấycác nguồn TNTN không bị cạn kiệt, có điều kiện tái sinh, đầu vào cho các hoạtđộng sản xuất tất yếu sẽ được duy trì và ổn định. Nhưng ngược lại, nếu MTSTkhông được bảo vệ, TNTN bị khai thác bừa bãi, sẽ ngày một cạn kiệt dần, khôngcó điều kiện tái sinh; lúc đó, đầu vào của nền kinh tế không ổn định, con người sẽkhông còn đủ đối tượng lao động để tiến hành sản xuất và nền kinh tế tất yếukhông thể tăng trưởng. Bảo vệ MTST, vì lẽ đó, phải được coi là nhiệm vụ hàng

đầu và con người buộc phải thực hiện nhiệm vụ đó, C.Mác đã từng chỉ rõ:

Chỉ có con người là mới đạt được đến chỗ in cái dấu của mình lên

giới tự nhiên, không chỉ bằng cách di chuyển các loài thực vật và động

vật từ chỗ này sang chỗ khác, mà còn làm biến đổi cả diện mạo, khí

hậu của nơi họ ở, thậm chí còn làm biến đổi cả cây cỏ và các thú vật

tới một mức độ mà kết quả của hoạt động của họ chỉ có thể biến mất,

khi nào toàn bộ trái đất tiêu vong [93, tr.475].

Tuy nhiên, việc bảo vệ MTST phải được nhìn nhận ở từng đối tượng cụthể, mà trước hết phải bắt đầu từ chính người lao động. Bởi lẽ, người lao động

là chủ thể tác động trực tiếp vào MTST để tìm kiếm đối tượng lao động phục

vụ cho quá trình sản xuất. Ở giai đoạn đầu họ chỉ thích ứng với MTST, nhưngcàng về sau, cùng với sự hỗ trợ của các yếu tố kỹ thuật, người lao động đã

chuyển từ thích ứng sang chinh phục và cải tạo MTST. Tùy theo mục đíchcủa mình, họ sẽ tác động tới MTST theo các hướng khác nhau. Nếu trong quá

trình lao động, con người không biết bảo vệ MTST, khai thác bừa bãi nguồn

TNTN, họ sẽ không còn đủ đối tượng lao động để sản xuất cho dù TNTN có

phong phú và đa dạng đến đâu đi chăng nữa. Trong tự nhiên, TNTN được

chia thành hai loại. Thứ nhất là loại TNTN không được tái tạo như các loại

khoáng sản, đá quý, dầu mỏ, chất đốt… Đối với các loại TNTN này, trong

quá trình sản xuất, nếu con người khai thác thường xuyên, liên tục thì đương

46

nhiên chúng sẽ cạn kiệt và mất đi hoàn toàn. Các nhà khoa học đã dự báo,

một số kim loại quý như vàng, bạc… chỉ còn giá trị khai thác trong khoảng

vài ba thập kỷ nữa. Loại thứ hai là nguồn TNTN có thể tái tạo, phục hồi

được sau một vài lần khai thác, sử dụng như đất đai, nguồn nước, động -

thực vật, vi sinh vật… Đối với loại tài nguyên này, nếu con người chỉ biết

khai thác mà không bảo vệ, thì chúng sẽ cản trở các hoạt động sản xuất và

gây nên nhiều dịch bệnh hiểm nghèo cho con người. Tất cả những điều này

cho thấy, MTST ảnh hưởng rõ rệt tới việc cung cấp đối tượng lao động cho

người lao động, do đó, người lao động đóng vai trò là nhân tố tích cực nhất

trong bảo vệ MTST.

Hiện nay, khi TTKT là cách thức chủ yếu trong chiến lược phát triển

của các quốc gia trên thế giới, thì vấn đề đặt ra là phải duy trì sự ổn định của

MTST. Cơ sở của vấn đề này là trong quá trình phát triển kinh tế, con người

phải loại bớt những tác động xấu đến MTST bằng cách tìm ra những phươngthức phù hợp để tác động đến đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên. Lôgic

tất yếu của sự phát triển là kinh tế càng tăng trưởng, TNTN sẽ càng bị mất

dần đi. Để giá trị của TNTN mang tính trường tồn, đòi hỏi con người vừa phải

khai thác một cách hợp lý, vừa phải thường xuyên có sự tái chế trong các hoạt

động kinh tế. Đây là yêu cầu cấp thiết đặt ra để có được những giá trị bền

vững trong cuộc sống.

2.1.3. Sự cần thiết kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi

trường sinh thái đảm bảo phát triển bền vững

Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ MTST là hai nhiệm vụ quan

trọng xuyên suốt, luôn đồng hành với nhau trong quá trình phát triển KT - XH

của các quốc gia, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi vấn đề ô nhiễm

MTST diễn biến hết sức phức tạp, các nguồn TNTN cho TTKT đang ngàycàng cạn kiệt, bị khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí. Trong phạm vi khuôn

khổ của một quốc gia, sự cần thiết phải kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST

đảm bảo PTBV do những điều kiện sau đây quyết định:

47

Một là: TTKT, nâng cao chất lượng cuộc sống là mục tiêu phấn đấu

của nhiều quốc gia. Để thực hiện các mục tiêu đó, các quốc gia ít nhiều đều

phải dựa vào MTST. Bằng hoạt động sản xuất, con người đã không ngừng

khai thác các nguồn TNTN, do đó, ngày càng làm cho MTST giảm sút về chất

lượng [phụ lục 12]. Một trong những thảm họa mà con người phải gánh chịutrong thế kỷ XXI là ô nhiễm MTST. Những yếu tố thuộc về MTST nhưTNTN, đất, nước, không khí, hệ thực vật, động vật… đang từng bước có

những biến đổi bất lợi cho con người. Mối đe dọa này đã vượt ra ngoài khuôn

khổ của mỗi quốc gia. Trên phạm vi toàn cầu, sự biến đổi ngày một xấu đicủa MTST diễn ra ở tất cả các thành tố của nó với các cấp độ nặng, nhẹ khác

nhau và do nhiều nguyên nhân chi phối, trong đó có nguyên nhân cơ bản là do

TTKT gây nên. Vì vậy, thách thức lớn được đặt ra cho các quốc gia là làm sao

thiết lập được sự cân bằng giữa nhu cầu TTKT với nhu cầu bảo vệ MTST, tức

là phát triển kinh tế phải tính đến yếu tố MT. Việc thực hiện các mục tiêu KT

- XH phải hướng vào việc khai thác có hiệu quả TNTN, tạo ra những tiền đềđể vừa duy trì sức tăng trưởng của nền kinh tế, vừa duy trì sự cân bằng của hệsinh thái tự nhiên. Với ý nghĩa này, việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệMTST trở thành một nhu cầu cấp thiết và sống còn của các quốc gia. Các

quốc gia cần phải tự giác nhận thức được tính cấp thiết này để có những hành

động thiết thực vì sự PTBV.

Hai là, TTKT và bảo vệ MTST là hai mục tiêu được đặt ra để PTBV,

song việc thực hiện hai mục tiêu này lại thường nảy sinh những mâu thuẫn

đòi hỏi phải giải quyết. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa

một bên là cần phải khai thác các thành phần của MTST để thúc đẩy kinh tếtăng trưởng với bên kia là phải bảo vệ MTST để có được PTBV. Trong cuộc

sống, nếu con người không chú ý giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn này mà chỉtập trung thực hiện mục tiêu kinh tế, coi trọng yếu tố kinh tế, không chú ý đến

mục tiêu bảo vệ MTST, tăng sức ép hoặc gây ra những nguy cơ huỷ hoại đối

với MTST, thì đến một lúc nào đó MTST sẽ đem đến những bất lợi cho

48

TTKT cũng như đời sống của con người. Ngày nay, con người đã nhận ra cái

giá quá đắt phải trả cho sự tăng trưởng đơn phương về kinh tế. Môi trường

toàn cầu tiếp tục trở nên tồi tệ. Suy thoái đa dạng sinh học tiếp diễn, trữ lượng

cá tiếp tục giảm sút, sa mạc hóa cướp đi ngày càng nhiều đất đai màu mỡ, tác

động tiêu cực của biến đổi khí hậu đã thể hiện rõ ràng. Các nước đang pháttriển trở nên dễ bị tổn hại hơn. Ô nhiễm không khí, nước và biển tiếp tục lấy

đi cuộc sống thanh bình của hàng triệu người. Trên thế giới, tất cả các thành

tố của MTST đã và đang bị đe dọa nghiêm trọng từ các hoạt động sản xuất và

sinh sống của con người [phụ lục 13].

Việt Nam từng được coi là một trong những quốc gia có nguồn TNTN

tương đối phong phú, nhưng kể từ khi thực hiện chủ trương CNH, HĐH với

phương châm ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp khai

khoáng, TNTN ở Việt Nam đang đứng trên bờ vực của sự suy giảm nghiêm

trọng. Việc khai thác quá mức các nguồn TNTN đã để lại nhiều hậu quả nặng

nề, các loại khoáng sản bị cạn kiệt, đất đai trở nên khô cằn, tài nguyên nước bịô nhiễm, nhiều loài động vật, thực vật có nguy cơ tuyệt chủng [phụ lục 11].

Nếu cứ tiếp diễn như vậy, trong tương lai TNTN ở nước ta sẽ cạn kiệt, các thếhệ kế tiếp sẽ không có đối tượng lao động để tiến hành sản xuất. Để bảo đảm

cho các thế hệ tiếp theo có tiền đề tăng trưởng, các thế hệ hiện tại cần phải

khai thác hợp lý TNTN, phải bảo vệ MTST. Điều này chỉ có thể thực hiện dựa

trên sự gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST, do vậy, kết hợp giữa TTKT với

bảo vệ MTST là một yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển ngày nay.

Ba là, kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST là yếu tố cơ bản quyết

định tới bền vững về xã hội. Tức là phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội, xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm mục tiêu cao

nhất của sự phát triển. Ở đây, vị trí trung tâm của con người nổi lên với tưcách là mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã hội. Mục tiêu của PTBV không

chỉ ở chỗ phải tạo ra nhiều hàng hóa, của cải mà còn phải nâng cao chất lượng

cuộc sống cho con người. Sẽ là không công bằng và cũng không thể thực hiện

49

được việc quan tâm tới các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn các nhu cầu

của họ nếu chúng ta bỏ qua nhu cầu của các thế hệ con người hiện nay. Khi

con người còn chưa được đáp ứng những nhu cầu trước mắt, họ sống trong

nghèo đói, đó là nguy cơ lớn đe dọa MTST. Do đó, TTKT là tạo ra những

điều kiện tốt nhất để xoá đói, giảm nghèo, qua đó góp phần bảo vệ MTST.

Như vậy, để TTKT nhất định phải khai thác TNTN với tư cách là đối

tượng lao động. Song, việc khai thác quá mức TNTN sẽ làm gia tăng ô

nhiễm MTST. Môi trường bị ô nhiễm, sẽ cản trở quá trình tăng trưởng của

nền kinh tế. Do đó, để phát triển hài hòa, cân đối thì vấn đề tất yếu khách

quan đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải kết hợp chặt chẽ TTKT với bảo vệMTST. Nếu quốc gia nào đó tìm cách tách rời hoặc đối lập giữa hai yếu tốnày thì không những kinh tế không phát triển, MTST không được bảo vệmà các chính sách về PTBV đặt ra cũng sẽ không thể thực hiện được.

2.2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNGTRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để làm rõ vai trò của nhà nước trong

kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST. Luận án này tìm hiểu vai trò của nhà

nước trên các phương diện: nhà nước đề ra hệ thống pháp luật, xây dựng

chính sách, chiến lược; tổ chức, kiểm tra, giám sát thực hiện và tập hợp, lôi

cuốn mọi tầng lớp dân cư tham gia vào kết hợp TTKT với bảo vệ MTST.

2.2.1. Vai trò của nhà nước trong việc đề ra hệ thống chính sách, chiếnlược, pháp luật kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Thực tế phát triển kinh tế thị trường ở nhiều quốc gia cho thấy,

TTKT mặc dù là cơ sở của sự phát triển KT - XH nói chung, song không

phải khi nào nó cũng diễn ra cùng chiều với những yêu cầu phát triển xã

hội và bảo vệ MTST nếu vai trò của nhà nước không được phát huy. Trên

thế giới, trong một thời kì khá dài, cách tiếp cận phát triển KT - XH lấy

mục tiêu kinh tế làm trung tâm, đã gây nên áp lực lớn đối với các nguồn

TNTN và MTST. Người ta đã không tính đến, hoặc tính đến một cách

50

không đầy đủ lợi ích cho các thế hệ kế tiếp. Đối tượng lao động sẵn có

ngày càng cạn kiệt dần, sức sản xuất cho thế hệ tương lai đang trên đà giảm

mạnh, đặc biệt MTST bị ô nhiễm nặng nề là nguy cơ lớn đe dọa nền sản

xuất vật chất của nhân loại. Những trả giá này buộc con người phải nhận

thức lại: Trái Đất không phải là nguồn tài nguyên vô tận, con người không

thể thống trị hay khai thác đối tượng lao động trong tự nhiên theo ý muốn.

Việc thừa nhận các giới hạn của Trái Đất, đổi mới cách tiếp cận “làmchủ tự nhiên” sang “sống hòa hợp với tự nhiên”, phát triển theo xu hướng bền

vững, không thể được tiến hành bởi các cá nhân hay cộng đồng riêng lẻ mà

phải được tiến hành trên phạm vi quốc gia trong đó nhà nước phải là người đềxướng, thực thi và tổ chức thực hiện. Với tư cách là chủ thể có quyền lực cao

nhất, nhà nước sẽ đề ra hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật và sử dụng

có hiệu quả các công cụ đó để quản lý, kiểm tra, giám sát quá trình phát triển

KT - XH, đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc vừa TTKT, vừa sử dụng tiết kiệm

TNTN, bảo vệ MTST.

Vai trò của nhà nước trong việc đề ra hệ thống chính sách về kết hợpTTKT với bảo vệ MTST

Các chính sách gắn TTKT với bảo vệ MTST được coi là công cụ cơbản chỉ đạo toàn bộ hoạt động bảo vệ MTST trong quá trình TTKT trên phạm

vi một vùng, một quốc gia và thường mang tính dài hạn trong khoảng từ 10

năm đến 20 năm. Thông thường, mỗi quốc gia sẽ dựa vào điều kiện thực tiễn

của nước mình để đề ra hệ thống chính sách phù hợp. Các chính sách cơ bản

mà nhà nước cần xây dựng và tổ chức thực hiện để đạt mục tiêu gắn TTKT

với bảo vệ MTST bao gồm:

Thứ nhất là chính sách về phát triển nguồn nhân lực:Con người là yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên lực lượng sản

xuất. Về điều này, C.Mác đã từng nhấn mạnh: “Trong tất cả những công cụsản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách

mạng” [91, tr.257]. Sau C.Mác, Lênin cũng đã khẳng định: “Lực lượng sản

51

xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động. Nếu

họ còn thì chúng ta sẽ cứu vãn và khôi phục lại được tất cả” [86, tr.430].

Xuất phát cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn phát triển ởnhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, cho đến nay, nhân tố con người là

yếu tố quyết định mọi quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Việc

đảm bảo kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST càng đòi hỏi ở mức độ sâu

sắc vai trò chủ thể, động lực của nhân tố con người.

Vai trò có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng nguồn nhân lực đảm

bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa TTKT và bảo vệ MTST được xác định ở chỗ,

quá trình toàn cầu hóa kinh tế cùng với kinh tế tri thức đã và đang tiếp diễn ởnhiều nước trên thế giới, có tác dụng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh,

song, cũng đã đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết, trong đó có vấn đềkhai thác bền vững nguồn TNTN, bảo vệ MTST. Để PTBV, các quốc gia cần

có những con người lao động năng động, nhạy bén, có tri thức và phẩm chất

đạo đức tốt. Cùng với nó là sự thay đổi nhanh chóng của KH và CN, của mối

tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực trên thế giới đòi hỏi mỗi quốc

gia phải có nguồn nhân lựccó chất lượng để đề ra và thực hiện các quyết sách

lớn nhằm giảm thiểu những bất lợi, gia tăng cơ hội khai thác hợp lý TNTN đểTTKT. Bên cạnh đó, việc thực hiện công nghiệp hóa, tái cấu trúc nền kinh tế,

xây dựng kinh tế xanh đang trở thành xu thế phổ biến trên thế giới…Với các lý do quan trọng nêu trên, việc xây dựng nguồn nhân lực, đặc

biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao cho PTBV nói chung và cho sự nghiệp

gắn TTKT với bảo vệ MTST nói riêng là hết sức cần thiết. Hiện nay, nhiều

quốc gia trên thế giới đã đưa ra các chiến lược quan trọng về phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao. Theo đó, việc ưu tiên, chú trọng công tác GD và ĐTluôn được các nước đặt lên hàng đầu, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất trong

chính sách phát triển của mình.

Thứ hai là chính sách về khoa học và công nghệ:Khoa học và công nghệ giữ vai trò thúc đẩy lực lượng sản xuất phát

triển, tạo tiền đề cho kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững và có tác dụng tích

52

cực trong bảo vệ MTST. Trước đây, C.Mác từng khẳng định, đến giai đoạn

công nghiệp, việc sản sinh ra sự giàu có thực sự không phụ thuộc nhiều vào

thời gian lao động mà phần lớn phụ thuộc vào tình trạng chung của KH và sựtiến bộ kỹ thuật hay sự vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đúng nhưdự đoán của Mác, ngày nay trên khắp thế giới, KH và CN đã và đang trởthành lực lượng sản xuất trực tiếp, có những đóng góp ngày càng to lớn

trong việc tạo ra năng suất lao động.

Trên khía cạnh khai thác TNTN cho phát triển kinh tế, thành tựu của

KH và CN đã kéo theo sự xuất hiện các loại máy móc hiện đại. Trang thiết

bị được vật hóa từ tri thức khoa học ngày một nhiều hơn đã giúp con người

có khả năng phát hiện, khai thác hợp lý hơn các loại TNTN. Việc chuyển

giao, ứng dụng các thành tựu của KH và CN còn góp phần đẩy mạnh quá

trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng tăngdần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông

nghiệp, từng bước hình thành một số ngành kinh tế có trình độ công nghệcao. Và như vậy, TTKT sẽ không lệ thuộc hoàn toàn vào việc khai thác

TNTN, áp lực đối với kinh tế tài nguyên sẽ giảm, TNTN sẽ có đủ thời gian

để phục hồi sau mỗi chu trình sản xuất. Nhờ cơ chế tuần hoàn vật chất do

KH và CN đem lại, các chất thải còn được tái chế liên tục, không bị thải ra

môi trường xung quanh, MTST, vì thế, trở nên trong lành hơn. Ngoài ra,

thành tựu của KH và CN còn cho phép các nhà quản lý có thêm thông tin,

phương tiện để tuyên truyền các kiến thức bảo vệ MTST, tạo nền tảng đểnhà nước xây dựng cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý và là cầu nối

quan trọng giữa nhà nước với thế giới trong việc bảo vệ MTST.

Ngày nay, các quốc gia đã có nhiều động thái tích cực nhằm hướng sựphát triển của KH và CN vào thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh trên cơ sởbảo vệ MTST. Một số quốc gia còn nhận thức rằng, việc loại bỏ hệ thống sản

xuất, tiêu dùng cũ, thay vào đó cách thức sản xuất, hệ thống thiết bị mới an

toàn là điều kiện cần thiết để vừa có được sự tăng trưởng, vừa có thể bảo vệ

53

MTST. Một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan... luôn

chú ý đầu tư cho hợp tác nghiên cứu, triển khai KH và CN trong các lĩnh vực

năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, công nghệ giảm

thiểu phát thải khí nhà kính… do đó, đã góp phần không nhỏ trong việc tiết

kiệm và sử dụng ngày càng hiệu quả TNTN.

Tuy nhiên, việc ứng dụng các thành tựu của KH và CN vào sản xuất ở

các nước phát triển còn nguy cơ đem đến những hậu quả xấu cho MTST ở các

nước kém phát triển hơn. Do chỗ, quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế

quốc tế lan rộng khắp toàn cầu là dịp để các nước phát triển và các vùng lãnh

thổ công nghiệp mới tăng cường “thanh lý”, “chuyển giao” những công nghệ

không còn phù hợp sang các nước đang phát triển để đầu tư công nghệ mới.

Quá trình này tạo thành một vòng chu chuyển công nghệ lạc hậu: những công

nghệ nào không còn đáp ứng được tiêu chuẩn bảo vệ MT sẽ được chuyển dần

từ những nước có tiêu chuẩn bảo vệ cao nhất sang các nước có tiêu chuẩn bảo

vệ thấp hơn. Các nước phát triển lại đẩy công nghệ lạc hậu của mình sang các

nước kém phát triển. Việc sử dụng công nghệ lạc hậu thường xuyên, lâu dài ở

các nước đang và kém phát triển chắc chắn sẽ làm ô nhiễm MTST. Do vậy,

chính phủ, các nhà quản lý ở các nước này cần phải nhận thức đầy đủ các hậu

quả về MTST khi nhập khẩu công nghệ đã qua sử dụng và cần thiết phải sử

dụng công nghệ hiện đại bằng các con đường tự phát minh, sáng chế, chuyển

giao công nghệ hoặc nhập khẩu công nghệ mới. Đó chính là con đường thiết

yếu để duy trì sự tăng trưởng nhanh và bền vững.

Thứ ba là chính sách về xây dựng cơ cấu kinh tế và phân bổ nguồn TNTN:

Tài nguyên thiên nhiên là bộ phận không thể thiếu để mỗi quốc gia có

thể tăng trưởng và phát triển. Hiện nay, nguồn nhân lực KH và CN giữ vai trò

vô cùng to lớn, nhưng rõ ràng là nếu TNTN ít hoặc không có, nền kinh tế sẽ

gặp rất nhiều khó khăn. TNTN rất quan trọng nhưng không phải là thứ vô tận,

vĩnh cửu. Do đó, trong quá trình chỉ đạo phát triển sản xuất, nhà nước cần

54

phải nhận thức và phân biệt rạch ròi vai trò, vị trí của từng loại tài nguyên,

trên cơ sở đó xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.

Trước đây, chủ nghĩa tư bản với đặc trưng chủ yếu là chế độ chiếm hữu

tư nhân về tư liệu sản xuất, việc chạy theo lợi nhuận tối đa và kiểu tổ chức sản

xuất có tính tự phát, vô chính phủ đã lũng đoạn mọi nguồn lực TNTN. Không

chỉ ở chính quốc, chủ nghĩa tư bản còn tìm mọi cách vơ vét nguồn lực tự

nhiên ở các quốc gia khác, làm cho TNTN trên thế giới bị khai thác cạn kiệt,

MTST trở nên ô nhiễm nặng nề. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị

trường có nhiều biến động khó lường, cộng với tính chất, quy mô của các

cuộc khủng hoảng sinh thái cục bộ và toàn cầu, một số quốc gia tư sản đã

nhận thức rõ vị trí, vai trò của MTST nói chung và của đối tượng lao động là

nguồn TNTN nói riêng trong hệ thống kinh tế. Từ đó, có những điều chỉnh

nhất định, hình thành các mô hình tăng trưởng, hướng quá trình sản xuất vật

chất vào việc khai thác, bảo vệ bền vững TNTN (việc chuyển quá trình quản

lý các nguồn TNTN từ hình thức tư bản tư nhân sang hình thức độc quyền nhà

nước là một thí dụ điển hình). Không chỉ đối với các quốc gia phát triển, các

quốc gia đang phát triển hiện nay cũng nhận thức được tầm quan trọng của

TNTN và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Việc cơ cấu nền kinh tế

thường được các quốc gia triển khai trên ba phương diện là cơ cấu ngành, cơ

cấu vùng và cơ cấu theo thành phần, trong đó cơ cấu kinh tế ngành là bộ phận

quan trọng nhất.

Sự phát triển của các cuộc cách mạng KH và CN hiện đại là cơ sở để

các quốc gia nhìn nhận và tìm cách xây dựng cơ cấu kinh tế ngành hợp lý.

Theo đó, các quốc gia đều xác định, cơ cấu kinh tế tiến bộ vừa là tiêu chuẩn,

vừa là điều kiện để tăng trưởng, phát triển kinh tế. Quá trình CNH, HĐH, do

đó, cũng là một quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế.

Trong thời đại kinh tế công nghiệp, một cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ

sẽ phải có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây

55

dựng và dịch vụ; giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai

khoáng. Đặc biệt, trình độ kỹ thuật của nền kinh tế phải không ngừng tiến bộ,

phù hợp với xu thế phát triển của KH và CN, cho phép khai thác tối đa mọi

tiềm năng để phát triển. Và quan trọng hơn cả, là phải tạo dựng được cơ cấu

kinh tế “mở”. Với nghĩa này, việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ bị quy

định bởi nhiều yếu tố, trong đó, nguồn TNTN sẵn có giữ vai trò quan trọng,

có ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi và dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Những quốc

gia giàu có về TNTN như Nga, Hoa Kỳ, Trung Quốc có thể xây dựng một nền

kinh tế bao gồm rất nhiều ngành nghề khác nhau. Những nước có trữ lượng

giàu mỏ lớn như Iran, Iraq, Kuwait, Libya, Nigeria cũng là những nước có

ngành công nghiệp dầu mỏ chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Ở

những quốc gia nghèo TNTN như Nhật Bản, những ngành kinh tế tiêu tốn

nhiều TNTN sẽ không có điều kiện phát triển, những ngành kinh tế có hàm

lượng khoa học cao được chú trọng phát triển.

Bên cạnh việc xây dựng cơ cấu kinh tế theo ngành, các quốc gia còn

dựa trên các điều kiện về không gian và lãnh thổ để xây dựng cơ cấu kinh tếtheo vùng. Các vùng kinh tế trong một quốc gia có những tiềm năng khácnhau về tài nguyên, lao động, vốn, kết cấu hạ tầng…Vì vậy, xây dựng cơ cấu

vùng kinh tế hợp lý cho phép khai thác các lợi thế, tiềm năng đặc biệt là lợi

thế về TNTN để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh.

Cơ cấu kinh tế, xét theo hình thức sở hữu và quan hệ kinh tế là cơ cấu

các thành phần kinh tế. Theo Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì tương ứng với mỗi quy mô,

trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có những kiểu quan hệ sản xuất phù hợp.

Do vậy, sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan,

phổ biến ở các quốc gia phát triển thấp. Quá trình xây dựng cơ cấu kinh tếnhiều thành phần vừa có tác dụng tích cực đối với sự tăng trưởng của nền

kinh tế, vừa tạo ra những điều kiện cần thiết cho phục hồi, tái tạo và bảo vệ

56

MTST. Bởi lẽ, với các hình thức sở hữu khác nhau tương ứng với từng thành

phần kinh tế sẽ làm tách biệt chủ thể sở hữu, chủ thể sử dụng TNTN, gắn

trách nhiệm của họ vào khai thác TNTN, bảo vệ MTST. Bên cạnh đó, nó còn

cho phép khai thác những lợi thế và tiềm năng tự nhiên của từng vùng, từng

miền, lợi thế về vốn, cách thức tổ chức, kinh nghiệm sản xuất để thúc đẩy

kinh tế tăng trưởng và khai thác TNTN hiệu quả hơn. Sự cạnh tranh giữa các

thành phần kinh tế còn là động lực quan trọng để cải tiến kỹ thuật, phát triển

lực lượng sản xuất, tạo ra những điều kiện cần thiết cho khai thác, quản lý, sửdụng các nguồn TNTN hiện có, trên cơ sở đó bảo vệ MTST. Tất nhiên, để có

được những ưu thế trên, trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nhà nước phải

xác định được các thành phần kinh tế cơ bản, chủ đạo định hướng cho các

thành phần kinh tế khác.

Vai trò của nhà nước trong việc đề ra hệ thống chiến lược về kết hợpTTKT với bảo vệ MTST

Thông thường các chiến lược mà nhà nước đề ra để gắn kết TTKT với

bảo vệ MTST rất đa dạng, bao gồm cả các chiến lược chuyên biệt cho lĩnhvực bảo vệ MTST lẫn chiến lược kết hợp các lĩnh vực với bảo vệ MTST nhưchiến lược phát triển KT - XH, chiến lược bảo vệ MT, chiến lược tăng trưởng

xanh, chiến lược phát triển năng lượng…Các chiến lược này là sự cụ thể hóa các chính sách gắn TTKT với bảo

vệ MTST ở một mức độ nhất định. Chiến lược thường xem xét mối quan hệgiữa các mục tiêu do chính sách đã xác định và các nguồn lực, các biện pháp

để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Với ý nghĩa này, nhà nước có vai trò hết

sức quan trọng trong việc đề ra và tổ chức thực hiện các chiến lược. Với tưcách là cơ quan quyền lực cao nhất, Nhà nước sẽ quyết định việc xây dựng

các chiến lược, huy động các nguồn lực tài chính, con người cũng như cácnguồn lực khác để thực hiện tốt các chiến lược đề ra.

Vai trò của nhà nước trong việc đề ra hệ thống pháp luật kết hợp TTKTvới bảo vệ MTST

57

Với tư cách là công cụ điều chỉnh vĩ mô, hệ thống pháp luật về kết hợp

TTKT với bảo vệ MTST bao gồm hai loại là Luật Quốc tế và Luật Quốc gia.

Luật Quốc tế về kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST là tổng thể các

quy tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau

và giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế trong việc tham gia các hoạt động

sản xuất kinh doanh phải đảm bảo nguyên tắc bảo vệ MTST trong và ngoài

phạm vi quốc gia. Việc các quốc gia tham gia vào hệ thống Luật Quốc tế về kết

hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST giữ vai trò quan trọng trong tiến trình hội

nhập. Nó vừa có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho mỗi quốc gia bước trên con

đường PTBV, vừa có tác dụng nâng cao tính ổn định của sự phát triển trên

phạm vi toàn thế giới; ngoài ra, còn giúp các nước học hỏi kinh nghiệm, giúp

đỡ nhau để cùng phát triển. Điều quan trọng nhất là khi tham gia vào những

quy định chung của quốc tế, các quốc gia sẽ có cơ sở pháp lý cần thiết để điều

chỉnh hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với thông lệ quốc tế.

Cho đến nay, trên thế giới, Luật Quốc tế về kết hợp TTKT với bảo vệMTST chưa được đặt ra thành văn bản riêng biệt mà được lồng ghép trong

các Công ước quốc tế trên một số lĩnh vực như: Công ước về bảo vệ di sảnvăn hóa và thiên nhiên thế giới; Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biểndo tàu biển; Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu; Côngước chống sa mạc hóa... Thực hiện theo các Công ước này đồng nghĩa với

việc các quốc gia đã tham gia tích cực vào bảo vệ MTST. Tuy nhiên, với

những biểu hiện tiêu cực mà TTKT gây ra cho MTST đòi hỏi cộng đồng thếgiới phải sớm có một Công ước riêng, quy định cụ thể việc kết hợp TTKT với

bảo vệ MTST trên phạm vi toàn cầu.

Thực tế cho thấy, giữa nhu cầu bức bách của cuộc sống và yêu cầu bảo

vệ MTST, con người thường lựa chọn nhu cầu của cuộc sống trước mắt hơnlà bảo vệ MTST, dẫn đến những vi phạm của các cá nhân và tổ chức trong

khai thác tài nguyên, huỷ hoại MT sống. Các chế tài hình sự, hành chính, dân

sự mà các cơ quan có thẩm quyền đưa ra là phương thức cơ bản nhất vừa để

58

ngăn ngừa, triệt tiêu sự liều lĩnh của các tổ chức, cá nhân khi khai thác TNTN,

vừa nâng cao ý thức bảo vệ MTST cho công dân. Chính bởi vậy mà việc nhà

nước thiết lập hệ thống Luật Quốc gia về kết hợp TTKT với bảo vệ MTST có

ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là tổng thể các quy phạm pháp luật, các

nguyên tắc pháp lí của một quốc gia điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các

chủ thể trong nước đối với các hoạt động kinh tế có liên quan đến MTST

nhằm kết hợp hài hòa giữa TTKT và bảo vệ MTST.

Hệ thống pháp luật của nhà nước về kết hợp TTKT với bảo vệ MTST

bao gồm hệ thống luật chuyên ngành được ban hành đầy đủ, rõ ràng, điều

chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong các hoạt động sản xuất có

liên quan đến MTST. Ngoài ra, nhà nước còn phải xây dựng các quy định vềtiêu chuẩn MT. Tiêu chuẩn MT có quan hệ mật thiết với sự PTBV, nó phản ánh

trình độ KH và CN, trình độ tổ chức quản lý và tiềm lực kinh tế của quốc gia;

đồng thời, là cơ sở pháp lí cho việc xác định, truy cứu trách nhiệm đối với

những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST trong TTKT.

Quá trình sản xuất tất yếu dẫn tới hiện tượng tranh chấp giữa các tổchức, cá nhân với nhau và giữa các tổ chức, cá nhân với các doanh nghiệp,

các cơ quan nhà nước về khai thác, sử dụng các loại TNTN và các thành phần

MT với tư cách là đối tượng lao động. Để các tranh chấp này không diễn ra,

nhà nước còn phải xây dựng đồng bộ hệ thống các quy định, quy chế vềquyền và nghĩa vụ khi khai thác, sử dụng TNTN. Đó là những văn bản dưới

luật, nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn thực hiện các nội dung của các bộ luật,

ngành luật liên quan đến TTKT và bảo vệ MTST.

Yêu cầu cơ bản của hệ thống pháp luật về gắn kết TTKT với bảo vệMTST là phải có những quy định tạo ra khuôn khổ, giới hạn cho các hoạt

động kinh tế, ngăn ngừa được những tác động tiêu cực của kinh tế lên MTST;

việc thực thi hệ thống pháp luật cũng như tinh thần, thái độ, trách nhiệm và

thực tiễn thực hiện pháp luật của các cơ quan, các cán bộ, công chức nhà nước

phải thật sự khách quan, công tâm... Các yêu cầu này cùng với việc tổ chức

59

thực hiện đồng bộ chúng là cơ sở quan trọng để nhà nước thực hiện tốt vai trò

quản lý trong gắn TTKT với bảo vệ MTST.

2.2.2. Vai trò của nhà nước trong tổ chức thực hiện việc kết hợp

tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Vai trò của Nhà nước trong tổ chức bộ máy thực hiện gắn TTKT vớibảo vệ MTST

Việc tổ chức bộ máy kết hợp TTKT với bảo vệ MTST và chỉ đạo bộmáy đó hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện để nhà nước vừa tăng cường

sức mạnh, vừa đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu, chiến lược về PTBV.

Đương nhiên, để có được thành công, yêu cầu cơ bản là bộ máy này phải

được thiết lập cả về chiều dọc lẫn chiều ngang, từ trung ương tới địa phương,bao phủ mọi địa bàn, mọi ngành và được phân công, phân cấp quản lý rõ

ràng. Đặc biệt, phải tinh gọn, trong sạch, có quyền lực thật sự vững mạnh đểthực thi tốt nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra.

Bảo vệ MTST trong TTKT phải được coi là một lĩnh vực KT - XH quan

trọng, qua đó nhà nước xác định nhiệm vụ, ra quyết định và thực thi các quyết

định từ cấp trung ương cho đến địa phương nhằm tạo ra mối liên kết theo chiều

dọc từ trên xuống dưới để bảo vệ MTST trong TTKT. Thực hiện sự phân cấp,

phân công rõ ràng giữa các bộ phận trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý

MTST trong TTKT ở các cấp giữ vai trò quan trọng. Kinh nghiệm về quản lý,

bảo vệ MT của rất nhiều nước cho thấy, nếu nhà nước phân công rõ ràng chức

năng, nhiệm vụ đối với từng bộ phận quản lý nhà nước sẽ tránh được sự chồng

chéo giữa các bộ phận, các cấp với nhau; triệt tiêu việc tranh giành quyền lực,

bệnh thành tích; sự thờ ơ, né tránh hoặc không nhận trách nhiệm về mình. Từđó, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của từng bộ phận, từng cấp, đảm bảo

cho cả bộ máy hoạt động tốt và đạt hiệu quả cao.

Vai trò của nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên tráchlàm công tác gắn TTKT với bảo vệ MTST

Như đã chỉ ra, việc nhà nước tiến hành thành lập bộ máy chuyên trách

quản lý việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở các cấp là rất cần thiết.

60

Song, để duy trì sự hoạt động có hiệu quả của bộ máy đó thì việc nhà nước xây

dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý việc kết hợp giữa

TTKT với bảo vệ MTST lại là phương diện vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng

lớn đến sự thành công trong hiệu lực quản lý nhà nước về MT. Vì rằng, trong

bộ máy quản lý, nếu cán bộ đủ về số lượng, có năng lực, có những phẩm chất

cần thiết thì họ sẽ biết đề ra và tổ chức thực hiện những chiến lược, kế hoạch,

biện pháp về gắn TTKT với bảo vệ MTST. Còn ngược lại, nếu đội ngũ mỏng,

yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì không thể đáp ứng được các đòi hỏi

của thực tiễn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh cuộc cách mạng KH và CN phát

triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng được đề cao, thì vấn đề xây dựng đội

ngũ cán bộ chuyên trách quản lý việc gắn TTKT với bảo vệ MTST có đủ nănglực để áp dụng những thành tựu của KH và CN vào quản lý TN - MT, tham gia

hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp, tổ chức quản lý, thực hiện là một

trong những tiêu chí quan trọng, quyết định sự thành bại của tiến trình PTBV.

Những lý do trên là cơ sở buộc nhà nước phải tiến hành xây dựng đội

ngũ cán bộ với những phẩm chất tốt mới đáp ứng được công việc đặt ra trong

bối cảnh mới. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, nhà nước thực hiện quy

hoạch gắn với đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao.

Như vậy, nhà nước thường xuyên có được lực lượng cán bộ có tay nghề cao,

để đảm bảo tính kế cận liên tục về con người, phù hợp với yêu cầu thực tiễn,

với đặc thù quản lý nhà nước về TTKT kết hợp với bảo vệ MTST.

Vai trò của nhà nước trong việc huy động nguồn vốn; thực hiện triểnkhai, nghiên cứu KH và CN; hợp tác quốc tế trong gắn TTKT với bảo vệ MTST

Trong tiến trình gắn TTKT với bảo vệ MTST, nguồn vốn là hết sức

quan trọng, vốn không chỉ là nhân tố thúc đẩy quá trình tăng trưởng, phát

triển kinh tế của mọi quốc gia, mà còn là tiền đề vật chất để bảo đảm cho

công tác bảo vệ MTST được thực thi có hiệu quả.

Thực tế cho thấy, chỉ khi nào các quốc gia có đủ nguồn vốn nhất định

thì mới có thể đầu tư vào xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng vật chất, đổi

61

mới, áp dụng KH và CN vào trong quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm mới

thân thiện và không gây ô nhiễm MTST. Ngoài ra, để thực hiện các nội dung

bảo vệ MTST cũng cần phải có nguồn vốn đủ lớn chi dùng cho các lĩnh vực

như nâng cao năng lực thể chế về bảo vệ MTST, xây dựng, hoàn thiện hệthống pháp luật, thực hiện các dự án bảo vệ MTST, thực hiện công tác giáo

dục, tuyên truyền nhận thức về gắn TTKT với bảo vệ MTST...

Với khoản kinh phí lớn như vậy, không có tổ chức hay cá nhân nào có

thể cung ứng được mà nhiệm vụ này phải thuộc về nhà nước. Chỉ có nhà nước

mới là người có đầy đủ quyền hạn và chức năng thu các khoản thuế, phí từcác hoạt động sản xuất kinh doanh để đầu tư cho công tác bảo vệ MTST.

Đồng thời cũng chỉ có nhà nước mới có đủ tư cách pháp nhân huy động, tiếp

nhận, phân phối hiệu quả, cung ứng đầy đủ và kịp thời các nguồn vốn vay,

vốn viện trợ... để phục vụ cho công tác gắn TTKT với bảo vệ MTST.

Hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ MTST không chỉ phụ thuộc vào

nguồn vốn mà còn phụ thuộc vào công tác nghiên cứu, triển khai, ứng dụng

KH và CN trong lĩnh vực gắn TTKT với bảo vệ MTST.

Ở khía cạnh tích cực, công tác này đem lại cho con người sức mạnh kỳdiệu để cải tạo tự nhiên, tăng năng suất lao động, bảo vệ MTST. Việc ứng

dụng những thành tựu KH và CN hiện đại vào sản xuất không những làm

tăng hiệu quả sử dụng vốn, giúp kinh tế tăng trưởng nhanh, mà còn có lợi

cho việc khai thác TNTN, hướng việc khai thác TNTN vào bảo vệ MTST.

Ngày nay, việc các quốc gia có thể tái cấu trúc nền kinh tế, xây dựng kinh

tế xanh, kinh tế tuần hoàn vật chất thân thiện với môi trường, một mặt,

cũng là nhờ cả vào thành tựu của KH và CN. Với tất cả những ưu điểm đó,

đòi hỏi các quốc gia phải thường xuyên tiến hành nghiên cứu, tranh thủứng dụng ngày càng nhiều hơn và ở mức cao hơn những thành tựu của

khoa học cũng như công nghệ hiện đại vào thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và

bảo vệ MTST. Để làm được điều này, tất nhiên, nhà nước phải ưu tiên chocác chính sách phát triển KH và CN, phát huy vai trò của nhân tố con

62

người để tạo ra động lực cho KH - CN phát triển và tham gia tích cực vào

quá trình gắn TTKT với bảo vệ MTST.

Việc mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ MT cũnglà một trong những động thái tích cực khẳng định rõ chức năng xã hội của nhà

nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST.

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chức năng xã hội

của nhà nước vào các lĩnh vực KT - XH cho thấy, nhìn từ góc độ chung nhất,

nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng trong quản lý, điều hành, duy trì sựphát triển của xã hội. Chức năng xã hội của nhà nước không chỉ nói lên tính

hiệu quả, nhân văn trong hoạt động quản lý, điều hành và thỏa mãn các nhu

cầu của người dân, mà việc thực hiện tốt chức năng xã hội còn là cơ sở để nhà

nước đảm bảo cho chức năng giai cấp hoạt động hiệu quả. Về vấn đề này,

Ăngghen đã từng nói “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trịchính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực

hiện chức năng xã hội đó của nó” [93, tr.253]. Bảo vệ MTST là một nội dung

quan trọng thuộc chức năng xã hội của nhà nước nhằm bảo vệ nguồn TNTN,

đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng, đồng thời cũng đảm bảo quyền của con

người được sống trong một môi trường lành mạnh, được hưởng thụ những gì

tốt đẹp nhất mà tự nhiên ban cho. Ở một nghĩa nào đó thì bảo vệ MTST trong

TTKT không phải là một sự ban ơn, mà là nghĩa vụ mà nhà nước phải thực

hiện để duy trì chức năng thống trị chính trị của mình.

Trong quá trình thực hiện chức năng xã hội, để giải quyết tốt mối quan

hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST, nhà nước phải mở rộng giao lưu, hợp tác,

học hỏi kinh nghiệm từ các nước đi trước. Hành động này, một mặt giúp nhà

nước nâng cao vai trò của mình đối với xã hội, mặt khác giúp nhà nước thực

hiện tốt chính sách mở cửa và giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm MTST toàn cầu.

Những kinh nghiệm về xây dựng nền kinh tế tuần hoàn vật chất, trong đó việc

sử dụng sản phẩm tái chế là nhân tố hàng đầu để vừa bảo vệ MTST, vừa thúc

đẩy kinh tế tăng trưởng của một số quốc gia phát triển như Australia, Nhật

63

Bản hay xu hướng tăng trưởng xanh của Hàn Quốc, Đức, Anh, Pháp, Hà Lan

với nhiều nội dung quan trọng thể hiện sự cam kết mạnh mẽ hướng tới nền

kinh tế xanh là những bài học quý giá mà các nước kém phát triển buộc phải

học hỏi nếu muốn kết hợp tốt TTKT với bảo vệ MTST.

Trong khuôn khổ của việc giao lưu hợp tác quốc tế trên lĩnh vực gắn

TTKT với bảo vệ MTST, còn có các chương trình, hội nghị quốc tế mà Chính

phủ các nước tham gia ký kết. Hành động này vừa có thể tạo ra khuôn khổ pháp lý

chung mang tính quốc tế quan trọng cho sự hợp tác, phát triển và bảo vệ MTST

giữa các nước trên thế giới, đồng thời vừa đem lại những điều kiện thuận lợi đểcác quốc gia có thêm nguồn lực cho công tác phòng chống ô nhiễm MTST. Tham

gia ký kết các công ước, điều ước quốc tế còn giúp cho các quốc gia thực hiện tốt

nghĩa vụ quốc tế với tư cách là nước thành viên. Từ đó, các quốc gia sẽ có thêm

những điều kiện ràng buộc về mặt pháp lý quốc tế để xây dựng hệ thống pháp

luật, xây dựng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước của quốc gia mình về kết hợp

giữa TTKT với bảo vệ MTST đầy đủ, chặt chẽ hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trên thực tế, việc tham gia mở rộng giao lưu, hợp tác, học hỏi kinh

nghiệm lẫn nhau giữa các quốc gia chỉ được thực hiện hiệu quả bởi bàn tay

nhà nước. Vì lẽ, chỉ có nhà nước với chức năng đối nội, đối ngoại mới có đủquyền lực cũng như khả năng giải quyết các vấn đề nảy sinh giữa TTKT và

bảo vệ MTST ngoài phạm vi quốc gia. Nhà nước, với tư cách là cơ quanquyền lực cao nhất, là thiết chế đại diện cho nhân dân, sẽ dựa vào điều kiện

thực tiễn của quốc gia mình để xác định những mục tiêu, chiến lược, sách lược,

từ đó tiến hành thương lượng, đàm phán, gửi đơn gia nhập và ký kết các các

công ước quốc tế để duy trì sự phát triển bền vững cho quốc gia.

2.2.3. Vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra,

giám sát thực hiện việc hiện kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệmôi trường sinh thái

Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát được coi là khâu không thểthiếu nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về

64

TNTN và các thành phần môi trường trong TTKT. Nhà nước cần phải thực

hiện tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệMTST là xuất phát từ các lý do sau:

Thanh tra, kiểm tra, giám sát là một khâu trong chu trình quản lý nhà

nước về kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST, đảm bảo gắn kết chặt chẽ giữa

hai trụ cột cơ bản của PTBV. Qua đó, nhà nước sẽ nắm được tình hình thực

hiện việc TTKT và bảo vệ MTST của quốc gia, so sánh với các tiêu chí PTBV

của thế giới, từ đó, xây dựng lại hoặc xây dựng mới chiến lược phát triển KT -

XH cho phù hợp với các tiêu chí quốc tế.

Khi thực hiện chức năng xã hội, nhà nước phải ban hành các quy phạm

pháp luật, các quyết định, quy định về chống ô nhiễm và làm suy giảm MTST

trong TTKT. Nhưng để biết các văn bản đó đề ra có phù hợp với thực tiễn hay

không, nhất thiết nhà nước phải tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra,

giám sát. Công việc này phải được nhà nước phân cấp và tiến hành trên cơ sởgiao quyền cho một cơ quan cao nhất. Song, để đạt hiệu quả, nhà nước phải

phân định rõ phạm vi thẩm quyền giữa các cơ quan trung ương và địaphương, tăng cường kiểm soát của cấp trên đối với cấp dưới trong thực thi

nhiệm vụ của cán bộ làm công tác quản lý TNTN và bảo vệ MTST.

Hoạt động thanh tra còn giúp phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành

vi vi phạm pháp luật về gắn TTKT với bảo vệ MTST. TTKT là mục tiêu quan

trọng mà các chủ thể kinh tế muốn đạt được, vì thế, họ sẵn sàng hy sinh mục

tiêu sinh thái. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhiều chủ thể kinh tế còn

tìm mọi cách đối phó với các cơ quan pháp luật bằng nhiều cách khác nhau đểđạt mục đích kinh tế. Pháp luật dù rất nghiêm minh nhưng người thực hiện đôikhi lại không mang tính chuẩn mực. Do vậy, nhất thiết phải có cơ quan thanh tra,kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật của các tổ chức, cá nhân.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát về gắn TTKT với bảo vệ MTST

còn nhằm phòng ngừa, phát hiện những kẽ hở trong cơ chế quản lý, chính

sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp

65

khắc phục; phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của

hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình phát triển kinh tế.

Thanh tra, kiểm tra, giám sát là công cụ quan trọng, hữu hiệu trong

phòng, chống các loại tội phạm liên quan đến TTKT và bảo vệ MTST, trong

đó có các loại tội phạm liên quan đến cán bộ quản lý nhà nước như tội thiếu

trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tham nhũng... Với phạm vi của mình,

các cơ quan thanh tra nhà nước sẽ phát hiện các hành vi thiếu trách nhiệm gây

hậu quả nghiêm trọng, tham nhũng, làm thất thoát tài sản của nhà nước để từđó có những biện pháp chấn chỉnh, ngăn chặn kịp thời. Thông qua việc thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan thanh tra còn thể hiện vai trò

“dự báo”, phát hiện khiếm khuyết trong cơ chế, chính sách làm phát sinh

những vấn đề tiêu cực, báo cáo kịp thời để nhà nước điều chỉnh cơ chế, chính

sách phù hợp với thực tiễn.

Như vậy, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệMTST trong TTKT trở thành phương thức đảm bảo pháp chế, tăng cường kỷluật nhà nước, nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước, phòng ngừa và đẩy

lùi nguy cơ ô nhiễm MTST do TTKT gây ra. Do vậy, nhà nước phải có những

biện pháp cần thiết để thực hiện tốt công tác này.

2.2.4. Vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội,

nâng cao trách nhiệm xã hội của cá nhân để thực hiện kết hợp tăngtrưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Trong xã hội hiện đại, TTKT là điều thiết yếu để phát triển, nhưng kinhtế cũng không phải là cứu cánh, nó phải hướng tới phát triển toàn diện xã hội,

làm cho mọi người đều được hưởng những giá trị văn hóa của xã hội và được

sống trong MTST nhân văn. Bởi thế, chính sách kinh tế phải gắn với chính

sách PTBV về xã hội và MT. Mọi kế hoạch, dự án, chính sách phát triển kinh

tế đòi hỏi phải tính đến mục đích, hệ quả xã hội và MT. Cũng như vậy, việc

giải quyết các vấn đề xã hội và MT không thể tách rời kinh tế, vượt trước các

66

điều kiện, các nguồn lực mà nền kinh tế có thể đáp ứng. Để phát triển kinh tếvà bảo vệ MTST cần có một nhà nước đủ mạnh, thành thạo trong quản lý, đồng

thời tăng cường chức năng xã hội của chính nhà nước đó với một đội ngũ cánbộ công chức tận tụy, trong sạch, với một nền hành chính công minh bạch,

năng động, hiệu quả. Song, nhiều khi vấn nạn quan liêu, tham nhũng, vô tráchnhiệm lại xảy ra ở ngay trong đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Giải pháp

cho vấn đề này đòi hỏi phải có sự đồng thuận của toàn xã hội, nâng cao trách

nhiệm xã hội của cá nhân vào giám sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy quản lý

nhà nước về kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST.

Với tư cách là những hệ giá trị cơ bản của xã hội, đồng thuận xã hội sẽtạo ra nền tảng văn hóa trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST,

tạo nên sức mạnh của sự liên kết và hợp tác giữa các cá nhân, cộng đồng

dựa trên nguyên lý công bằng về lợi ích (mọi người đều được quyền hưởngnhững giá trị của MTST, do đó phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệMTST), từ đó có những đóng góp thiết thực vào bảo vệ MTST. Bảo vệMTST sẽ đem lại lợi ích cho toàn thể xã hội và chỉ khi nào có sự tham gia,

đồng sức, đồng lòng của toàn thể xã hội vào công tác bảo vệ MTST thì

MTST mới được bảo vệ an toàn. Nếu tình trạng đồng thuận xã hội không

diễn ra sẽ dẫn đến tình trạng mất ổn định, rối loạn, đình đốn trong các hoạt

động sản xuất và bảo vệ MSTS.

Bên cạnh việc tạo ra sự đồng thuận xã hội, nhà nước cũng cần phải

nâng cao trách nhiệm xã hội của các cá nhân trong kết hợp TTKT và bảo vệMTST. Trách nhiệm xã hội của cá nhân được hiểu như là nghĩa vụ mà mỗi cá

nhân phải gánh vác, thực hiện, là nghĩa vụ mà cá nhân không những phải làm

mà còn phải làm tốt, không những buộc phải làm mà còn phải chịu sự giám

sát của người khác. Với nghĩa này, nếu trong quá trình tham gia sản xuất và

bảo vệ MTST, mọi cá nhân trong xã hội luôn nhận thức đầy đủ về trách

nhiệm của mình và có ý thức tự giác trong việc thực hiện bổn phận, trách

nhiệm xã hội của mình, đặc biệt nếu cá nhân có tinh thần độc lập, tự chủ, tự

67

giác và sáng tạo, sẵn sàng hợp tác với các cá nhân khác thì chắc chắn kinh tếsẽ phát triển và MTST sẽ được bảo vệ.

Thực tế cho thấy rằng, trong xã hội có giai cấp và nhà nước, sẽ còn có

những lực lượng xã hội đối lập nhau về mặt lợi ích. Khi mỗi lực lượng xã hội

theo đuổi mục đích riêng của mình dễ làm cho nhận thức, quan điểm của họvề TTKT và về bảo vệ MTST đối lập nhau. Chẳng hạn, các nhà hoạt động bảo

vệ MTST thì chỉ quan tâm đến việc làm thế nào để có thể bảo vệ MTST một

cách tốt nhất, thậm chí phải hy sinh cả TTKT. Song các doanh nghiệp, các cơsở sản xuất kinh doanh thì vì lợi ích kinh tế mà sẵn sàng bỏ qua các giá trị của

MTST, thờ ơ, không quan tâm đến bảo vệ MTST. Còn về phía người dân thì

đa phần né tránh vấn đề môi trường.

Như chúng ta đã biết, hoạt động của con người luôn hướng tới lợi ích

nhất định, đó là động lực trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động. Thông qua

hoạt động tìm kiếm lợi ích đáp ứng nhu cầu của mình mà con người có quan

hệ với nhau và có quan hệ với MTST. Trong TTKT, chính lợi ích vật chất mà

con người mong muốn đạt được khi tiến hành khai thác TNTN là nguyên

nhân tiềm ẩn nguy cơ mất gây an toàn cho MTST. Trong nền kinh tế thịtrường với phương châm lợi ích kinh tế được đặt lên hàng đầu, đã xuất hiện

những lợi ích cục bộ như “lợi ích nhóm”, “lợi ích tập đoàn”, “lợi ích nhiệm

kỳ”. Những lợi ích này dẫn các cá nhân với tư cách là chủ thể sản xuất đến

chỗ vô cảm, “nhắm mắt làm ngơ” trước thực trạng MTST ngày một xấu dần,

đó được coi là những vấn nạn đang lan tràn trên phạm vi rộng, ảnh hưởng tiêu

cực tới PTBV.

Vậy làm thế nào để điều hoà được lợi ích giữa các nhóm xã hội khác

nhau, làm thế nào để mọi người đều phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ MTST.

Giải pháp đưa ra là trong hoạt động tổ chức thực hiện việc kết hợp giữa TTKT

và bảo vệ MTST, nhà nước phải có những nỗ lực để phát huy sự đồng thuận

của toàn xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân vào bảo vệ MTST

thông qua việc ban hành những quy định chung. Các quy định này sẽ buộc các

68

doanh nghiệp, mọi tổ chức CT - XH và mọi người dân phải thực hiện trách

nhiệm của mình trong việc bảo vệ MTST. Tất nhiên, gắn liền với việc đưa racác quy định chung bắt buộc, nhà nước còn phải tạo điều kiện lôi cuốn, khuyến

khích mọi người cùng tham gia, thực hiện. Bởi lẽ, nếu các quy định này thực

hiện không đồng đều, không nhất quán, có người nỗ lực thực hiện nhưng có kẻlại thờ ơ, né tránh thì mục đích đặt ra sẽ chỉ là con số không. Nói như vậy,

nghĩa là nhà nước buộc phải tạo ra sự đồng thuận và đòi hỏi sự tự giác của tất

cả mọi người, mọi tầng lớp dân cư. Đồng thuận và tự giác là biểu hiện cao

nhất của sự chung sống. Nếu không có đồng thuận và tự giác thì không có sựcùng nhau gánh vác trách nhiệm và không thể có sự ổn định, phát triển lâu

bền. Để có đồng thuận và tự giác của mọi người trong kết hợp TTKT với bảo

vệ MTST thì điều có ý nghĩa tiên quyết đối với nhà nước là phải tạo ra được

cơ chế dân chủ, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở một cách thực sự.

Tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội, nâng cao trách nhiệm xã hội của

cá nhân trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST phải được thể hiện

ngay trong tư duy, nhận thức của các nhà lãnh đạo và nhất thiết phải được thểhiện trong hệ thống pháp luật, chính sách của nhà nước. Đồng thời phải được

thực thi nhất quán ở mọi ngành, mọi cấp, mọi địa phương. Đồng thuận xã hội

trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST đảm bảo cho mọi chính sách, pháp

luật về kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST hợp lòng nhân dân, thuận ý nhân

dân, được nhân dân ủng hộ và giúp đỡ, bảo vệ.

Kết luận chương 2Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ MTST là hai mặt của PTBV, giữa hai

mặt này không triệt tiêu nhau mà có sự tác động qua lại biện chứng với nhau.

TTKT là điều kiện, tiền đề cần thiết để bảo vệ MTST và ngược lại bảo vệMTST sẽ tạo nền tảng để kinh tế tăng trưởng bền vững hơn. Tuy nhiên, trong

quá trình phát triển, vì nhiều lý do khác nhau, nhất là vì lợi ích kinh tế trước

mắt, con người đã tách chúng ra thành hai lĩnh vực khác nhau. Kinh tế ngày

một phát triển nhưng MTST lại ngày một xấu đi, ô nhiễm trên diện rộng, ảnh

69

hưởng nghiêm trọng đến đời sống của loài người. Do vậy, rất cần kết hợp chặt

chẽ TTKT với bảo vệ MTST.

Ngày nay, để giải quyết các vấn đề cấp thiết mà nhân loại gặp phải

trong phạm vi quốc gia đòi hỏi phải có sự tham gia của nhà nước như một tất

yếu không thể thiếu. Đối với kết hợp TTKT với bảo vệ MTST đảm bảo PTBV

thì nhà nước giữ một trọng trách vô cùng quan trọng, đòi hỏi nhà nước phải

tham gia quản lý nhà nước đồi với TN - MT. Đó là quá trình nhà nước sửdụng các cách thức, công cụ, phương tiện khác nhau, tác động đến các hoạt

động sản xuất kinh doanh của con người nhằm làm hài hoà quan hệ giữa TN -

MT và phát triển kinh tế sao cho thoả mãn nhu cầu, lợi ích của con người,

đồng thời đảm bảo chất lượng môi trường sống.

Nhà nước tham gia vào kết hợp TTKT với bảo vệ MTST là một quá

trình thường xuyên, lâu dài. Trong đó, việc nhà nước xây dựng hệ thống chính

sách, chiến lược, pháp luật một cách đồng bộ cùng với công tác tổ chức thực

hiện, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và tạo sự đồng thuận xã hội, nâng

cao trách nhiệm xã hội của cá nhân trong gắn kết TTKT với bảo vệ MTST có

ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng nhanh và MTST được

bảo vệ ngày một tốt hơn. Tất nhiên, để có được thành công đó, các chính sách,chiến lược, pháp luật cùng hệ thống công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và việc

phát huy vai trò của nhân dân mà nhà nước ban hành phải được đưa vào cuộc

sống, thực thi trên thực tế. Hạn chế ở mức thấp nhất và tiến tới triệt tiêu các cănbệnh hình thức, thành tích, cá nhân trong quá trình giải quyết việc kết hợp TTKT

với bảo vệ MTST.

70

Chương 3VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC

TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆMÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Sau gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước, nền kinh tế Việt Nam đã thực sự khởi sắc, duy trì tốc

độ tăng trưởng cao, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Bước vào giai đoạn

cách mạng mới “phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại” [55, tr.31], cùng với xu thế vận động của thời

đại, yêu cầu thực tiễn của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đề ra đường lối phát

triển đất nước theo xu hướng mới. Mười năm trở lại đây, xu hướng PTBV ởnước ta đã bắt đầu hình thành và đạt kết quả khả quan: kinh tế tăng trưởng

cao, các mục tiêu phát triển KT - XH đạt kết quả tốt, MTST được cải thiện. Tuy

nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều

thách thức. Hàng loạt mâu thuẫn nảy sinh từ mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệMTST đòi hỏi chúng ta phải nhận thức, tìm cách giải quyết để đưa đất nước phát

triển ngày một bền vững hơn.

3.1. MÂU THUẪN GIỮA ĐÒI HỎI PHẢI CÓ TÍNH ĐỒNG BỘ VỀ CHÍNHSÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINHTẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI TÌNH TRẠNG CÒN THIẾUĐỒNG BỘ

3.1.1. Sự bất cập, thiếu đồng bộ giữa các chính sách, chiến lược về kếthợp giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái

Để TTKT kết hợp chặt chẽ với bảo vệ MTST, các chính sách, chiến lược mà

nhà nước đưa ra phải có tính đồng bộ và đảm bảo tính thực tiễn cao. Tuy nhiên,

thực tế ở nước ta trong nhiều năm qua cho thấy, các chính sách, chiến lược về kết

hợp giữa đẩy nhanh tốc độ TTKT với bảo vệ MTST còn có nhiều hạn chế, thiếu

tính đồng bộ, đặc biệt là chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Điều đó được thểhiện cụ thể ở những nội dung sau:

71

Thứ nhất: Sự bất cập, thiếu đồng bộ trong việc xây dựng và triển khaicác chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Có nhiều chính sách tham gia vào đảm bảo cho TTKT có thể gắn kết

chặt chẽ với bảo vệ MTST. Song, tiêu biểu là các chính sách kinh tế và các

chính sách xã hội.

Về các chính sách kinh tế:Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, sự hoạt động của các khu vực

kinh tế giữ vai trò quan trọng không chỉ trong TTKT mà còn đối với vấn đềbảo vệ MTST. Vì vậy, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách nhằm thúc đẩy

các khu vực kinh tế này phát triển theo hướng ngày càng bền vững. Các chính

sách thuế, ưu đãi đầu tư, tài chính - tín dụng, chính sách đất đai... cùng với

các văn bản quy phạm pháp luật đi kèm đã có những tác dụng tích cực trong

việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh [phụ lục 1], [phụ lục 2] và tạo điều

kiện cho tái tạo, bảo vệ MTST [phụ lục 3]. Trong các chính sách tài chính,

chính sách ưu đãi đầu tư, Nhà nước đưa ra những quy định cụ thể các chế độưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính… cho các hoạt động bảo vệ MTST,

các sản phẩm thân thiện MTST cũng như các hoạt động kết hợp hài hòa giữa

bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho TTKT.

Trong chính sách đất đai, với quan điểm coi đất đai là tài nguyên quan

trọng, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất

quản lý, nhà nước quy định rõ ràng, cụ thể các quyền của đại diện chủ sở hữu

và quyền thống nhất quản lý của Nhà nước. Theo đó, tất cả các khu vực kinh

tế chỉ được quyền sử dụng đất chứ không được quyền sở hữu. Ngoài ra, Nhà

nước còn đưa ra các yêu cầu về phân bổ, sử dụng đất đai đúng mục đích, tiết

kiệm, có hiệu quả. Đặc biệt, Nhà nước còn yêu cầu quá trình khai thác, sửdụng đất đai phải gắn liền với quá trình bảo vệ MTST.

Đối với chính sách thuế, Nhà nước quy định các khu vực kinh tế và các

cơ sở sản xuất, kinh doanh có nghĩa vụ nộp thuế bảo vệ MTST. Chính sách

thuế ra đời không chỉ tạo hành lang pháp lý đồng bộ, ổn định mà còn có tác

dụng điều chỉnh các hành vi tác động tiêu cực đến MTST và giúp Nhà nước

72

có được nguồn kinh phí để đầu tư xây dựng các biện pháp cải thiện, bảo vệMTST. Với mục đích khuyến khích phát triển kinh tế đi liền với giảm thiểu

ô nhiễm môi trường, chính sách thuế phần nào đã đáp ứng yêu cầu TTKT theo

hướng ngày một bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như ý thức

bảo vệ MTST cho mọi người dân và các doanh nghiệp.

Việc thực hiện chính sách kinh tế đối với các khu vực kinh tế đã nói lên

vai trò quan trọng của nhà nước trong PTBV. Tuy có những bước tiến trong

ban hành và thực hiện chính sách nhưng trong thực tế vẫn nảy sinh không ít

khó khăn, phức tạp. Chẳng hạn, chính sách đất đai xác định Nhà nước là đại

diện chủ sở hữu cao nhất về đất đai, nhưng thực tế cho thấy Nhà nước không là

người sử dụng đất đai. Quyền sử dụng đất đai được Nhà nước giao cho các chủthể khác. Trong những năm qua, với sự phân cấp khá mạnh cho các chính

quyền địa phương, trong khi thiếu các thiết chế ràng buộc trách nhiệm, cơ chếgiám sát chưa đầy đủ, địa vị pháp lý của người sử dụng đất đai chưa được tôn

trọng... một số tổ chức, cá nhân đã “lạm dụng” để thực hiện quyền năng đầy đủcủa chủ sở hữu. Không ít trường hợp quyền sở hữu về đất đai do một nhóm nhỏchi phối, làm phương hại đến lợi ích quốc gia, ảnh hưởng đến cuộc sống của

nhân dân, dẫn tới tình trạng khiếu kiện kéo dài, phát sinh xung đột xã hội. Đặc

biệt, nguồn lực lớn nhất đất nước đã bị sử dụng lãng phí, gây thất thoát lớn

cho ngân sách nhà nước. Hay đối với các nguồn TNTN khác như nước,

khoáng sản... chính sách cho các nguồn tài nguyên này còn thiếu nhiều biện

pháp về tổ chức, quản lý, phân phối cho các khu vực kinh tế, làm cho các nguồn

tài nguyên đó bị các cá nhân được Nhà nước ủy quyền quản lý nhân danh nhà

nước ra sức tàn phá, trục lợi. Mục tiêu kinh tế đã được các doanh nghiệp đặt lên

hàng đầu lấn át mục tiêu sinh thái, hủy hoại và làm biến dạng MTST [phụ lục 4].

Về các chính sách xã hội:Nhóm chính sách xã hội có tác động đến TTKT và bảo vệ MTST bao gồm

chính sách về xóa đói giảm nghèo, chính sách giải quyết việc làm, chính sách GD

và ĐT, chính sách KH và CN...

73

Chính sách xóa đói giảm nghèo: Thực tiễn cho thấy rằng, ở các nước

có tỷ lệ dân số sống trong nghèo đói cao thì các chính sách của nhà nước về

đảm bảo an sinh xã hội một cách bền vững cho các đối tượng người nghèo và

yếu thế là hướng đi tốt nhất để vừa thúc đẩy TTKT vừa bảo vệ MTST. Bởi lẽ,

nghèo đói làm cho con người sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên cố

định của địa phương, gia tăng tốc độ khai thác và huỷ hoại TNTN.

Với đặc thù của Việt Nam hiện nay là nước đang phát triển, tỷ lệ dân số

sống trong nghèo đói vẫn ở mức cao [phụ lục 5]. Điểm đặc biệt đối với nước

ta là hầu hết các hộ nghèo sống tập trung ở những vùng dễ gây tổn thương

nhất cho MTST như vùng rừng núi và nông thôn. Điều này tạo ra không ít rào

cản cho sự nghiệp bảo vệ MTST. Nâng cao mức thu nhập cho người nghèo

thông qua các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, do vậy, không chỉ cần thiết

đối với TTKT mà còn tạo điều kiện để người nghèo tham gia tích cực vào

việc giữ gìn, bảo vệ MTST.

Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đưa ra nhiều chính sách, chiến

lược về xoá đói, giảm nghèo như Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa

đói giảm nghèo (năm 2002), Chương trình 135, 327; Chương trình định canh

định cư, Chương trình tín dụng cho người nghèo vay vốn... Đặc biệt, năm 2008,

Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững

đối với 61 huyện nghèo với các mục tiêu: năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống

dưới 40%, tạo sự chuyển biến trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế

nông thôn; nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông

nghiệp, bảo vệ, phát triển rừng. Mục tiêu cụ thể đến năm 2015 là tăng cường

năng lực cho cộng đồng dân cư để phát huy hiệu quả các công trình cơ sở hạ

tầng, từng bước phát huy lợi thế về địa lý, khai thác hiệu quả TNTN...

Tuy trọng tâm của các chiến lược, chương trình trên là tập trung vào

việc xoá đói giảm nghèo, giải quyết những bức xúc của người nghèo, song ở

đó Nhà nước đã lồng ghép các vấn đề bảo vệ MTST theo hướng vừa đưa ra

74

các biện pháp nhằm tăng cường năng lực TTKT cho người nghèo, vừa tuyên

truyền, giáo dục họ xóa bỏ quan niệm không phải vì nghèo đói mà tiến hành

xâm hại, phá vỡ tính ổn định của tự nhiên. Mặc dù còn có những hạn chế nhất

định, nhưng việc lồng ghép chương trình xóa đói, giảm nghèo với các chương

trình về bảo vệ MTST đã tạo thành phong trào sôi nổi, sâu rộng và huy động

được nguồn lực tổng hợp để thực hiện tốt việc xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt

là phát huy được sức mạnh của cả cộng đồng trong bảo vệ MTST ở nước ta.

Chính sách giải quyết việc làm: Ở nước ta, quá trình chuyển đổi sang

nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh CNH, HĐH dẫn tới xu hướng chuyển dịch

cơ cấu kinh tế diễn ra rất nhanh chóng. Vốn là một nước nông nghiệp, phần

lớn dân số sống ở nông thôn, tác động trực tiếp của biến đổi cơ cấu kinh tế

(giữa các ngành và bản thân lĩnh vực nông nghiệp) đã dẫn đến dư thừa một số

lượng lao động lớn. Bên cạnh đó, một số chính sách kinh tế khác của Nhà

nước sau khi nước ta gia nhập WTO hay các chính sách về cổ phần hóa các

doanh nghiệp nhà nước, các chính sách về đất đai... cũng là nguyên nhân gây

nên tình trạng thất nghiệp ở một bộ phận người lao động. Khi chưa có hoặc

mất việc làm, vì mưu sinh thì đây sẽ trở thành bộ phận không nhỏ góp phần

vào tàn phá MTST. Do đó, giải quyết việc làm là mở rộng điều kiện, cơ hội

tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, mức sống cho người

lao động. Đây không chỉ là bản chất nền kinh tế thị trường theo định hướng xã

hội chủ nghĩa mà còn là một trong những giải pháp cơ bản để bảo vệ MTST.

Ngay từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà

nước đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề lao động - việc làm. Bước đi đầu tiên

trong chính sách giải quyết việc làm của Nhà nước là Chương trình quốc gia

về giải quyết việc làm (năm 1992) với mục tiêu hỗ trợ cho các đối tượng vay

vốn với lãi suất thấp để tạo việc làm. Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành các

Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm giai đoạn 1995 - 2005, Chương

trình mục tiêu quốc gia về việc làm trong 5 năm 2006 - 2010, Giải pháp hỗ

75

trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất

nông nghiệp (năm 2005), Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến

năm 2010 (năm 2007) và gần đây nhất là vào ngày 16/11/2012, Thủ tướng

Chính phủ ban hành Chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề

cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp…

Cùng với các chương trình trên, Nhà nước còn ban hành một loạt các

chính sách hỗ trợ, thúc đẩy tạo việc làm cho người lao động như thành lập

Ngân hàng Chính sách xã hội, chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao

động... Thông qua các chính sách này, nhiều người trong độ tuổi lao động đã

tìm được việc làm [phụ lục 6]. Số lượng lao động có việc làm tăng, không chỉ

là điều kiện để cải thiện cuộc sống cho người lao động, thực hiện công bằng

xã hội mà áp lực đối với việc khai thác TNTN để sinh tồn đối với nhóm người

thất nghiệp sẽ giảm đi và MTST chắc chắn sẽ được cải thiện rõ rệt.

Chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ: Thực tế trên thế

giới thời gian qua cho thấy, chỉ số phát triển con người (HDI), chất lượng

nguồn nhân lực tăng, KH và CN có bước đột phá mới là những nhân tố quan

trọng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng trên cơ sở bảo vệ MTST. Trong những năm

gần đây, chỉ số phát triển con người ở nước ta có sự thay đổi theo chiều hướng

tiến bộ [phụ lục 7]. Có được thành tựu to lớn đó là nhờ vào các chính sách,

chiến lược phát triển GD và ĐT mà Nhà nước đưa ra.

Kể từ năm 2001 cho đến nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một loạt

các chính sách nhằm thúc đẩy GD và ĐT phát triển. Các Chiến lược phát

triển giáo dục 2001 - 2010, Chiến lược Phát triển giáo dục 2011 - 2020, Luật

Giáo dục cùng một loạt các quyết định, thông tư, chỉ thị về phát triển toàn

diện GD và ĐT được ban hành, phần nào đã đáp ứng được yêu cầu, thực tiễn

phát triển của đất nước. Trên lĩnh vực bảo vệ MTST, các chính sách về GD và

ĐT đã góp phần đáng kể trong cải thiện mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ

MTST. Các đề án Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục

76

quốc dân, Định hướng phát triển nguồn nhân lực trên các lĩnh vực cụ thể và

phát triển nhân lực cho ngành tài nguyên môi trường… là những nội dung

quan trọng trong chính sách phát triển GD và ĐT mà Nhà nước đưa ra và tổ

chức thực hiện có hiệu quả, nhờ đó góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm

của người dân trong việc bảo vệ MTST.

Mặc dù có nhiều đổi mới, song cũng phải thừa nhận một cách khách

quan rằng, chất lượng GD và ĐT của nước ta chưa đáp ứng yêu cầu của

PTBV. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn nhiều hạn chế, chưa

chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội, xu hướng thương mại hóa

và sa sút đạo đức trong giáo dục chưa được khắc phục là những nguyên nhân

cơ bản đe dọa tới sự nghiệp bảo vệ MTST ở nước ta giai đoạn sau này.

Việc nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu KH và CN vào sản xuất có vai

trò quan trọng trong cuộc sống, có ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đối với TTKT

mà còn có giá trị nội tại trong việc bảo vệ MTST. Để PTBV, Nhà nước ta đã ban

hành nhiều chính sách KH và CN. Một loạt văn bản quan trọng như Chiến lược

phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010, Chương trình Xây

dựng các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển KT - XH

nông thôn, miền núi giai đoạn 1998-2002, các chương trình khoa học trọng

điểm... ra đời đã thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng theo hướng tiến bộ. Đặc

biệt là tạo ra nhiều cơ hội để Việt Nam hình thành nền kinh tế xanh, kinh tế tuần

hoàn vật chất thân thiện và bảo vệ MTST. Bên cạnh những thành tựu đạt được,

chính sách KH và CN ở nước ta cũng còn có hạn chế nhất định, như “chưa thực

sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội” [55, tr.168]; hiệu quả gắn các chính sách KH và CN

vào lĩnh vực bảo vệ MTST chưa cao, chưa thực sự được coi trọng.

Tóm lại, những kết quả đạt được trong TTKT và bảo vệ MTST cho

thấy việc nhà nước ban hành các chính sách xã hội cùng với nỗ lực của nhà

nước trong chỉ đạo, điều hành thực hiện các chính sách đó nói lên tầm quan

77

trọng đặc biệt, thể hiện vai trò không thể thiếu của Nhà nước trong gắn kết

TTKT với bảo vệ MTST. Dù đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng vai trò

của Nhà nước trong việc ban hành, chỉ đạo thực hiện các chính sách đó vẫn

còn những hạn chế nhất định, đòi hỏi Nhà nước phải tích cực, chủ động hơn

nữa để đề ra các chính sách hợp lý hơn, tạo điều kiện cần và đủ để TTKT và

bảo vệ MTST được gắn kết ngay trong từng bước phát triển của đất nước.

Thứ hai: Sự bất cập trong việc việc xây dựng và triển khai các chiến

lược về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Từ khi tiến hành đường lối CNH, HĐH đất nước đến nay, Nhà nước đã

đề ra và tổ chức thực hiện nhiều chiến lược khác nhau. Ở một mức độ nhất

định các chiến lược này đều đề cập đến vấn đề bảo vệ MTST nói chung và

gắn TTKT với bảo vệ MTST nói riêng. Tiêu biểu là: Chiến lược Bảo vệ môi

trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (2003), Chiến

lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 (2006), Chiến lược khoáng

sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (2011), Chiến lược phát triển bền

vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (2012), Chiến lược quốc gia về tăng

trưởng xanh (2012), Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (2011), Chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 tại Đại hội XI, Chiến lược Bảo

vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (2012)…

Sự ra đời của các chiến lược trên tạo ra những điều kiện cần thiết, khuyến

khích các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước đầu tư lao động, vốn, áp dụng các

thành tựu KH và CN vào khai thác, bảo vệ TNTN để thúc đẩy TTKT. Càng về

sau, vấn đề kết hợp TTKT với bảo vệ MTST càng được các chiến lược đề cập rõ

nét hơn, gắn với thực tiễn hơn. Những vấn đề như: yêu cầu các tổ chức, cá nhân,

khi phát triển kinh tế phải đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm

các nguồn TNTN, nhất là các loại tài nguyên không tái tạo; khôi phục tài nguyên

tái tạo được; duy trì khả năng chịu đựng cũng như tính đa dạng của Trái Đất;

thay đổi thái độ, thói quen của mỗi người khi sử dụng TNTN… đã trở thành các

78

mục tiêu cụ thể trong các chiến lược. Chính điều này đã dẫn tới các kết quả khả

quan: một số chiến lược sau khi ban hành và tổ chức thực hiện đã có tác dụng

trực tiếp, tác động mạnh tới lợi ích của các chủ thể kinh tế, nhờ đó, có tác dụng rõ

trong việc nâng cao khả năng sử dụng hợp lý và tiết kiệm tối đa các nguồn tài

nguyên, làm giảm thiểu tới mức thấp nhất những tác động gây ô nhiễm MT và sử

dụng lãng phí TNTN. Các Chiến lược về Phát triển bền vững, Tăng trưởng xanh,

Bảo vệ môi trường quốc gia… đã khuyến khích các chủ thể kinh tế và mọi người

dân có ý thức, thái độ và hành vi tích cực, thân thiện hơn trong việc bảo vệ MTST.

Như vậy, việc nhà nước xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược

về bảo vệ MTST nói chung, chiến lược gắn TTKT với bảo vệ MTST nói riêng,

nhìn chung là đạt hiệu quả đối với công tác bảo vệ MTST. Tuy nhiên, vẫn còn

có một số hạn chế nhất định trong công tác ban hành, tổ chức thực hiện các

chiến lược. Chất lượng của các chiến lược mặc dù được nâng cao, song vẫn còn

tồn tại một số hạn chế, còn có sự chồng chéo lên nhau. Bên cạnh đó, việc tổ

chức thực hiện các chiến lược chưa được đồng đều giữa các địa phương trong

toàn quốc. Công tác soạn thảo, ban hành các chiến lược còn chậm so với yêu

cầu của thực tế, dẫn tới tình trạng nhiều chiến lược vừa mới ban hành nhưng

chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn đã không còn phù hợp nữa. Ngoài

ra, công tác thanh tra kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chiến lược còn chưa

nghiêm minh, nhiều sai phạm chưa được xử lý kịp thời…

Những thiếu sót trên đòi hỏi Nhà nước phải nhìn nhận lại một cách

khách quan, nghiêm túc, trên cơ sở đó có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp

với yêu cầu thực tế đặt ra, nhằm từng bước hoàn thiện mục tiêu gắn TTKT

với bảo vệ MTST mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đặt ra.

3.1.2. Sự bất cập và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật trong

việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái

Những thảm họa về MTST xuất hiện do TTKT gây nên đòi hỏi Nhà

nước ta phải tiếp tục củng cố công cụ pháp luật và sử dụng một cách có hiệu

79

quả công cụ này để quản lý, kiểm soát quá trình phát triển. Chỉ có như vậy với

đảm bảo được nguyên tắc vừa TTKT, vừa đảm bảo sử dụng hiệu quả, tiết

kiệm TNTN, bảo vệ MTST. Với tinh thần này, thời gian qua Nhà nước ta đã

ban hành nhiều quy định pháp lý để điều chỉnh quan hệ giữa TTKT và bảo vệ

MTST, hướng các nỗ lực của các nhân, cộng đồng vào quỹ đạo chung nhằm

lành mạnh hóa MTST, chống suy thoái, cạn kiệt các nguồn TNTN.

Trên lĩnh vực pháp lý quốc tế, kể từ năm 1972, sau Hội nghị quốc tế về

“Môi trường con người” được tổ chức tại Thụy Điển (Hội nghị Stockholm), có

rất nhiều văn bản Luật quốc tế về MT được Nhà nước ta tham gia soạn thảo và

ký kết. Nhìn một cách khái quát, các văn bản này mặc dù chủ yếu đề cập tới

vấn đề bảo vệ môi trường, nhưng vấn đề gắn kết TTKT với bảo vệ MTST cũng

đã được thể hiện ở các góc độ khác nhau. Trong xu thế toàn cầu, hội nhập kinh

tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào các Hội nghị quốc tế, ký kết các Công

ước quốc tế về bảo vệ MTST và PTBV. Tại Hội nghị Trái Đất I ở Rio de

Janeiro - Braxin (năm 1992), chúng ta đã ký cam kết quốc tế về vai trò hợp tác

của các quốc gia trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, đảm bảo các hoạt

động phải được kiểm soát, không gây tác động xấu đến MT dựa trên việc bảo

vệ nguồn TNTN, hạn chế sử dụng năng lượng gây ô nhiễm MT. Hội nghị Trái

Đất II được tổ chức tại Johannesburg - Nam Phi (năm 2002), Chính phủ Việt

Nam tham dự với tư cách là nước thành viên đã đưa ra các nguyên tắc về gắn

TTKT với bảo vệ MTST hướng tới mục tiêu PTBV.

Trong các Hội nghị quốc tế mà Việt Nam tham gia phải kể tới khóa họp

đặc biệt của Đại hội đồng Liên hiệp quốc tổ chức năm 1997. Tại đây, Chính

phủ Việt Nam đã ký kết nhiều công ước quốc tế thể hiện sự quan tâm và hợp

tác của Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế về bảo vệ toàn diện nguồn

TNTN và MTST trên phạm vi toàn cầu như: Công ước về thay đổi khí hậu, đa

dạng sinh học, chống sa mạc hóa, Công ước về luật biển, Công ước kiểm

soát, vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hại và tiêu hủy chúng... Có

80

thể khẳng định, việc ký kết các Công ước này đã thể hiện sự nhận thức đúng

đắn, sâu sắc của Việt Nam về vấn đề toàn cầu mà nhân loại đang rất quan

tâm, đặc biệt là trong việc thực hiện gắn kết TTKT với bảo vệ MTST.

Thực tế cho thấy, việc TTKT có được gắn kết chặt chẽ với bảo vệ

MTST hay không, không chỉ nhờ vào sự ký kết các hiệp định, hiệp ước của

các tổ chức quốc tế mà còn nhờ vào hệ thống luật quốc gia. Có thể thấy, trong

hệ thống pháp luật Việt Nam không có văn bản pháp luật nào hướng vào điều

chỉnh riêng cho vấn đề kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST. Tuy nhiên,

trong một số bộ luật chuyên ngành của các lĩnh vực kinh tế, môi trường, Nhà

nước đã lồng ghép và giải quyết nhiều vấn đề về quan hệ giữa TTKT và bảo

vệ MTST, do đó, việc gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời

gian qua đạt nhiều thành tựu đáng kể. Văn bản pháp luật đầu tiên thể hiện

quan điểm này là Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Điều 29

trong Hiến pháp nêu rõ “Các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh

tế, tổ chức xã hội và mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước

về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái.

Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt và hủy hoại môi trường”. Với quan

điểm này, Hiến pháp 1992 thể hiện bước đi tiên phong trong việc đặt ra và

thực hiện quan điểm PTBV ở Việt Nam theo hướng phải sử dụng hợp lý

TNTN và bảo vệ MTST trong quá trình phát triển.

Bước đột phá, thể hiện quan điểm kế thừa Hiến pháp 1992 về khai thác,

sử dụng hợp lý TNTN cho TTKT là Luật Bảo vệ môi trường năm 2003,

(Quốc hội nước ta thông qua tại kỳ họp thứ 4, khóa IX, ngày 27/12/1993).

Với 7 chương, 55 điều, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đã đề cập tới

ảnh hưởng của tăng trưởng, phát triển kinh tế lên việc khai thác, sử dụng

TNTN và bảo vệ MTST. Luật yêu cầu các tổ chức, cá nhân trong quá trình

quản lý, khai thác TNTN vào mục đích kinh tế phải có nghĩa vụ phòng,

chống, khắc phục sự suy thoái TNTN, bảo vệ MTST. Cụ thể, Điều 12 quy

81

định các tổ chức, cá nhân khi “khai thác các nguồn lợi sinh vật phải theo

đúng thời vụ, địa bàn, phương pháp và bằng công cụ, phương tiện đã được

quy định, đảm bảo phục hồi về mật độ và giống loài, sinh vật, không làm

mất cân bằng sinh thái” [105, tr.21]. Điều 20 quy định “Tổ chức, cá nhân

khi tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, cất giữ các loại

khoáng sản và các chế phẩm, kể cả nước ngầm phải áp dụng công nghệ phù

hợp, thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, đảm bảo tiêu chuẩn môi

trường” [105, tr.42]. Luật còn quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan

quản lý nhà nước về bảo vệ MT; nêu rõ các hình thức khen thưởng đối với

các tổ chức, cá nhân có thành tích và xử phạt các tổ chức, cá nhân có hành

vi vi phạm pháp luật về bảo vệ MT. Sau khi ra đời, Luật Bảo vệ môi trường

năm 1993 trở thành công cụ pháp lý quan trọng mà nhờ đó khâu tổ chức

quản lý TNTN của Nhà nước trở nên dễ dàng hơn. Đồng thời, buộc các tổ

chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng TNTN phải có ý thức bảo vệ, nhất là

đối với các loại TNTN quý hiếm.

Qua một thập kỷ, sự vận động phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ

đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước cộng với xu thế phát triển của thời đại đã đặt

vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT ở nước ta vào một hoàn cảnh mới. Điều này

buộc Nhà nước phải nhìn nhận lại những điểm chưa thật phù hợp của Luật bảo

vệ môi trường năm 1993 và tiến hành sửa đổi. Ngày 29/11/2005, tại kỳ họp thứ

8, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, gồm 15

chương, 136 điều. So với luật Bảo vệ môi trường năm 1993, Luật này có nhiều

điểm cụ thể hơn, đặc biệt việc gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST đã được

thể hiện một cách rõ ràng. Ngay ở điều 4, Luật khẳng định “Bảo vệ môi trường

phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát

triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi

trường khu vực và toàn cầu” [113, tr.11]. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005

còn quy định rõ chính sách của Nhà nước ta về bảo vệ môi trường là “Sử dụng

82

hợp lý, tiết kiệm TNTN, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy

mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải” [113, tr.12]. Ngoài ra, Luật

còn có các quy định cụ thể, rõ ràng về bảo tồn, sử dụng hợp lý TNTN, bảo vệ

môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh (chương IV, Chương V).

Sau khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực, Chính phủ và

các cơ quan chuyên trách ở Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản dưới luật

hướng dẫn thi hành thực hiện. Trong đó có các văn bản quy định rất rõ về

khai thác, sử dụng TNTN đảm bảo PTBV, như: Nghị định số 149/2004/NĐ-

CP của Chính phủ Quy định việc cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng

tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; Nghị quyết liên tịch số

01/2005/NQLT-HPN-BTNMT của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Bộ Tài

nguyên và môi trường về Việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục

vụ PTBV; Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg Chính phủ ban hành Chương trình

hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/

2004 của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,

HĐH đất nước, Nghị định số 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ về Việc quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường...

Việc chỉ đạo gắn TTKT với bảo vệ MTST còn được Nhà nước thể hiện

cụ thể trong các đạo luật về sử dụng hợp lý các thành phần của MTST (sử

dụng hợp lý TNTN) hoặc bảo vệ MT cụ thể ở một địa phương, một ngành

như Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm, Luật Biển, Luật Đất đai, Luật

Khoáng sản... cùng hàng loạt các luật, pháp lệnh trong lĩnh vực kinh tế, dân

sự, hình sự như Luật Du lịch, Luật Xây dựng, Luật Khoa học và công nghệ,

Luật Đầu tư, Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự...

Tất cả các văn bản pháp luật trên đều quy định rõ trách nhiệm pháp luật

đối với các tổ chức, cá nhân khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở mọi khu vực

kinh tế nước đều phải có nghĩa vụ bảo vệ MTST, phải có các dự án đánh giá

tác động MT và các biện pháp khắc phục sự cố MT. Có thể nói, hệ thống các

83

văn bản pháp luật đó đánh dấu những bước đi quan trọng trong việc thực hiện

lịch trình thế kỷ XXI của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam, nhờ đó, có những

bước đi khá bền vững; MTST bước đầu được nhìn nhận và đánh giá khoa học

hơn trong mối tương quan với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Giá trị nội tại

của các nguồn TNTN càng ngày càng được đề cao.

Song, có một thực tế còn tồn tại là mặc dù số lượng văn bản pháp luật

về bảo vệ MT rất nhiều, nhưng lại vắng bóng hệ thống pháp luật chuyên

ngành về kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST. Trong các văn bản pháp luật

về bảo vệ MT mặc dù có đề cập tới vấn đề bảo vệ MT, bảo tồn và khai thác

hợp lý TNTN trong các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh nhưng đó vẫn

chưa phải là vấn đề cơ bản, trọng tâm. Mặt khác, một số văn bản pháp luật đó ra

đời còn tồn tại những quy định bất cập, không phù hợp với thực tế đời sống xã

hội, đôi khi còn chồng chéo, mâu thuẫn. Nền kinh tế Việt Nam đang trong xu thế

mở cửa và hội nhập, nhiều loại hình kinh doanh với các hình thức, cấp độ và

công nghệ khác nhau được triển khai ồ ạt, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật về

MT phù hợp. Song trên thực tế, các quy định pháp luật về MT hiện hành chưa

đáp ứng và chưa theo kịp thực tiễn, nhiều điểm chưa phù hợp với hệ thống pháp

luật quốc tế liên quan đến bảo vệ MT và PTBV mà Việt Nam ký kết hoặc tham

gia. Một số chuyên gia cũng cho rằng, điểm hạn chế cơ bản của Luật Bảo vệ môi

trường 2005 là chưa có tư tưởng chỉ đạo rõ ràng trong việc kết hợp một cách

có hiệu quả giữa ba mặt kinh tế, xã hội và bảo vệ MT của sự PTBV. Đó là

những vấn đề thực tế đang đặt ra, đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm và có

những biện pháp xử lý phù hợp.

Hiện nay, vấn đề môi trường sinh thái ở nước ta đang có những diễn

biến phức tạp và ngày càng xấu dần, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn

kiệt; nhiều dự án đầu tư, các cơ sở sản xuất kinh doanh - dịch vụ hầu như

không tuân thủ các quy định về đánh giá tác động môi trường; môi trường

sống của các giống loài động - thực vật đang bị thu hẹp dần; sức khỏe của

84

hàng triệu người dân đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng ô nhiễm

môi trường sinh thái… Để khắc phục những hạn chế trên, Nhà nước phải

đứng ra xây dựng hệ thống pháp luật về gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với

bảo vệ môi trường sinh thái một cách đồng bộ, khoa học và có tính khả thi.

Đó cũng là tiền đề để đưa đất nước vững bước đi lên trên con đường phát

triển bền vững.

3.2. MÂU THUẪN GIỮA YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC

THỰC HIỆN, KIỂM TRA, GIÁM SÁT VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH

TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI HIỆU QUẢ THỰC TẾ CÒN

BẤT CẬP, NHIỀU HẠN CHẾ

3.2.1. Sự yếu kém trong gắn kết giữa các ngành, các cấp của hệthống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong gắn tăng trưởng kinh tếvới bảo vệ môi trường sinh thái

Để bảo vệ MTST trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều biến

động, ngoài việc áp dụng chính sách pháp luật, Nhà nước còn thành lập các

cơ quan chuyên trách quản lý kinh tế và quản lý TN - MT.

Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, ở nước ta, bộ máy quản lý

nhà nước về MT được tổ chức từ cấp trung ương đến địa phương và được kết

cấu theo ngành và theo lãnh thổ. Để đảm bảo chức năng tổ chức, quản lý việc

gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST được thống nhất trên phạm vi cả nước,

Nhà nước đã giao nhiệm vụ quản lý TNTN và bảo vệ MTST cho các bộ, ngành

liên quan, trước hết là Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trong hơn 10 năm qua, Bộnày đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc giúp Chính phủ quản lý tốt hơnvấn đề TN - MT cũng như hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách quản lý nhà

nước về TN - MT đáp ứng yêu cầu PTBV, hội nhập quốc tế. Với cơ cấu tổ chức

hoạt động vững mạnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa thực hiện nhiệm vụđưa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về sử dụng, bảo vệTNTN đến với mọi người dân; vừa giúp Nhà nước nắm bắt, trao đổi, thực hiện

công khai thông tin, dân chủ cơ sở về quản lý, sử dụng TNTN. Sự phối hợp chặt

85

chẽ giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành khác như Bộ Công

nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công an… trongquản lý, bảo vệ TNTN cho TTKT còn góp phần nâng cao tính minh bạch trong

công tác quản lý, chống thất thoát TNTN khi khai thác và sử dụng.

Ngoài quản lý phòng chống ô nhiễm MT theo ngành, trong những nămqua, Nhà nước ta còn quản lý theo lãnh thổ. Ở nước ta, tình trạng ô nhiễm MT

diễn ra ở nhiều khu vực. Việc quản lý theo lãnh thổ, do đó, có tác dụng điều

tiết trực tiếp tới những nơi ô nhiễm, giúp xử lý tình trạng ô nhiễm diễn ra

nhanh và đạt kết quả tốt hơn. Về quản lý ô nhiễm MT theo lãnh thổ, Nhà

nước đã giao nhiệm vụ cụ thể cho Uỷ ban nhân dân các cấp. Các cấp chính

quyền tỉnh, huyện có nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ MT tại địaphương. Theo đó, Nhà nước đã thành lập các Sở Tài nguyên và Môi trường ởcấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi trường

ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và có cán bộ kiêm nhiệm

quản lý MT ở xã, phường, thị trấn. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ban

quản lý khu công nghiệp, doanh nghiệp lớn đã có phòng, ban, bộ phận hoặc

bố trí cán bộ chuyên trách về MT. Sự hoạt động của các cơ quan này trongnhiều năm qua đã có tác dụng tích cực trong việc giúp Nhà nước phát hiện, xửlý nhiều điểm nóng ô nhiễm MT trên phạm vi cả nước.

Như vậy, những nỗ lực cố gắng của Nhà nước ta trong việc xây dựng

bộ máy nhà nước quản lý về TN- MT đã góp phần rất lớn vào việc khắc phục

ô nhiễm MTST trước các hoạt động kinh tế đang diễn ra. Tuy nhiên, sau

nhiều năm hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy và năng lực làm việc của cán bộviên chức bộ máy quản lý nhà nước về TN - MT còn bộc lộ nhiều hạn chế:

Một là: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về MTST còn

chồng chéo, hoạt động không hiệu quảVấn đề đặt ra đối với PTBV trong nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN ở nước ta hiện nay là phải bảo vệ được MTST. Muốn vậy, phải có bộmáy quản lý nhà nước về MT đủ mạnh. Song, thực tế cho thấy, bộ máy này ở

86

nước ta hiện nay chưa đạt yêu cầu và chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, ở nước ta, hiện nay, có tới 90% số cơsở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không có thiết bị máy móc hiện đại để xử lý

chất thải trước khi thải ra MT, hơn 70% các khu công nghiệp, 90% các khu

dân cư và khu đô thị không có hệ thống xử lý chất thải tập trung. Hầu hết các

làng nghề đều trong tình trạng báo động về ô nhiễm MTST, trong đó, nhiều

cơ sở sản xuất của các làng nghề này thuộc diện gây ô nhiễm MT nghiêm

trọng cần xử lý triệt để. Các bãi chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp

thường không được xử lý đúng quy trình, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh

không thực hiện các yêu cầu về PTBV, hậu quả là nhiều dòng sông, không

khí, đất đai… bị ô nhiễm nặng [phụ lục 11]. Tình trạng này diễn ra ở mọi nơitừ thành thị tới nông thôn, mang tính thường xuyên, liên tục, đặt ra yêu cầu

cần phải có một bộ máy với số lượng cán bộ làm công tác quản lý TN - MT

đủ lớn, phủ rộng ở mọi địa bàn, mọi cấp, từ trung ương đến địa phương.Tuy nhiên, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước về TN - MT ở nước

ta rất ít, lại tập trung chủ yếu ở cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Còn

cấp đơn vị hành chính thấp hơn như xã, phường hầu như không có hoặc có

không đáng kể. Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về bảo vệ MT ở cấp địa phương. Đây là những lực

lượng giữ vai trò nòng cốt trong công tác quản lý, bảo vệ MT ở cấp địaphương. Nhưng, điều đáng nói là việc quản lý, bảo vệ MT ở cấp địa phươngchưa thực sự là mối quan tâm của lãnh đạo một số tỉnh, thành. Có rất nhiều

nơi các quan chức địa phương còn chạy theo quan điểm cực đoan trong phát

triển kinh tế, đánh đổi mọi giá để có TTKT cao, xem nhẹ các vấn đề vềMTST, nhiều quy hoạch phát triển địa phương chưa gắn với công tác bảo vệMTST. Nhiều tỉnh, thành trong cả nước ra sức “mời gọi”, “ưu tiên” cho cácchương trình đầu tư, mở các dự án, các khu công nghiệp nhưng lại không tính

đến MTST hoặc nếu có tính đến MTST thì lại không đầy đủ, mang tính hình

87

thức theo kiểu “miễn là có”. Ngoài ra, hiện trạng tất cả các doanh nghiệp khi

xin vào các khu công nghiệp đều có đánh giá tác động MT, hứa hẹn thực hiện

đầy đủ những quy định về bảo vệ MTST, nhưng ít doanh nghiệp thực thi bởi

không có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của địa phương. Đây là những mặt yếu

kém trong công tác quản lý nhà nước về MTST ở nước ta hiện nay. Đã đến lúc

cần phải có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời những yếu kém này.

Tính đến nay, ở nước ta có tới hàng trăm đơn vị, tổ chức kinh tế, xã hội

đang hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến công tác bảo vệ MTST.

Nhà nước giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các bộ, ngành

khác như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, BộKhoa học và công nghệ, Bộ Y tế... quản lý việc bảo vệ MTST. Sự gắn kết của

các bộ, ngành trong nhiều năm qua đã giúp cho công tác bảo vệ MTST ở nước

ta có nhiều tiến triển theo chiều hướng tích cực. Tính từ năm 2003 đến nay, BộTài nguyên và Môi trường cùng với Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp và xửlý dứt điểm nhiều cơ sở gây ô nhiễm MT nghiêm trọng trên phạm vi cả nước;

cùng với Bộ Tài chính tính toán, đề ra các mức thuế, phí hợp lý buộc các doanh

nghiệp phải đóng góp, tạo ra nguồn kinh phí cần thiết để xử lý ô nhiễm MT;

hoặc cùng với Bộ Y tế tiến hành rà soát tác động của ô nhiễm MT lên vật nuôi

và sức khỏe của con người, đề xuất những biện pháp chấn chỉnh kịp thời...

Thành quả đóng góp của các bộ, ngành trong việc bảo vệ MTST là

không nhỏ, song vẫn có những hạn chế nhất định. Tình trạng chồng chéo vềchức năng, thẩm quyền giữa các bộ, ngành là thách thức đặt ra trong việc gắn

TTKT với bảo vệ MTST ở nước ta. Việc giao nhiệm vụ về bảo vệ MTST,

việc phân cấp quản lý không rõ ràng giữa các Bộ, ngành tạo ra sự đùn đẩy, né

tránh trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho nhau khi xảy ra các các sự cố về MTST.

Lấy đơn cử việc quản lý tài nguyên nước: Trên thực tế, Nhà nước giao cho BộTài nguyên và Môi trường là cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước,

quản lý lưu vực sông trong phạm vi cả nước. Song, trong khi đó, quản lý nhà

nước về sử dụng nước cho các ngành thì do các bộ khác chịu trách nhiệm.

88

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đảm trách quản lý nhà

nước đối với việc cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, nước sinh hoạt nông

thôn, Bộ Công thương - quản lý nhà nước về việc cấp nước cho công nghiệp,

thủy điện, Bộ Xây dựng - quản lý nhà nước về cấp nước cho đô thị, các khu

công nghiệp… Sự chồng chéo này làm cho chức năng, quyền hạn của các cơquan quản lý tài nguyên nước gặp nhiều khó khăn. Vào các mùa mưa lũ haycác đợt hạn hán, hiện tượng tranh giành nhau xả nước hay giữ nước giữa các

bộ không phải là không xảy ra. Rõ ràng, kiểu quản lý “cha chung không aikhóc” này sẽ tạo ra tình trạng thiếu năng lực làm chủ, dẫn đến tình trạng mất

kiểm soát trong công tác quản lý TN - MT ở nước ta.

Một ví dụ nữa về sự chồng chéo, hoạt động không hiệu quả giữa các cơquan nhà nước trong quản lý TN - MT ở nước ta hiện nay là việc quản lý vấn đềbiển đảo. Cho đến nay vẫn còn khoảng 15 bộ, ngành và lĩnh vực dịch vụ đangkhai thác và trực tiếp quản lý nhà nước về biển, hải đảo ở mức độ khác nhau trong

phạm vi thẩm quyền ngành như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, BộNông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, ngành

Dầu khí… Với cách quản lý theo ngành song lại thiếu các công cụ chính sách và

kỹ thuật quản lý liên ngành, liên vùng trong khai thác, sử dụng và phát triển tài

nguyên biển, hải đảo nên đã để lại nhiều bất cập như hiệu quả kinh tế biển đạt

được còn thấp, thiếu bền vững, vấn đề ô nhiễm MT nước biển, suy thoái các hệsinh thái dưới lòng đại dương và ven biển không được giải quyết triệt để…

Hai là: Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu vềsố lượng, kém về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, không thực hiện hết

chức trách, nhiệm vụ được giao

Về số lượng: Nhìn chung cán bộ làm công tác quản lý bảo vệ MTST ởnước ta quá ít [Phụ lục 9]. Số lượng cán bộ mỏng là nguyên nhân cơ bản dẫn tới

những khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về TN - MT ở nước ta hiện nay.

Nhằm đưa những vụ án vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST ra ánh sáng,

bắt đối tượng vi phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, tháng 6 năm

89

2006, Nhà nước quyết định thành lập Cục Cảnh sát môi trường nay là Cục

Cảnh sát phòng chống tội phạm về MT trực thuộc Bộ Công an. Từ khi thành

lập đến nay, lực lượng này đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc vi phạm pháp

luật về MT. Sáu tháng đầu năm 2013, bằng công tác nghiệp vụ, Cảnh sát phòng

chống tội phạm về MT đã phát hiện 6347 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệMTST, tổ chức đấu tranh, triệt phá 39 chuyên án, chuyển cơ quan điều tra khởi

tố 86 vụ, 172 đối tượng, phạt hành chính trên 71 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm2012, số vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST của các doanh nghiệp đã

tăng 55, 95% [42]. Với những chiến công mà lực lượng Cảnh sát phòng chống

tội phạm về MTST đem lại đã góp phần không nhỏ vào công tác phòng chống

tội phạm về MTST, nâng cao ý thức về bảo vệ MTST cho quần chúng nhân

dân. Tuy nhiên, với những diễn biến phức tạp về MTST trong điều kiện nền

kinh tế thị trường như hiện nay thì lực lượng cảnh sát MTST vẫn chưa đủ để có

thể phát hiện và giải quyết tất cả các vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST.

Nhìn chung, số lượng cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ quản lý nhà

nước về môi trường và phòng chống tội phạm môi trường ở nước ta còn ởmức khiêm tốn, không đáp ứng đủ các yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Sự thiếu

hụt lực lượng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước vềMTST. Đây chính là một nguyên nhân khác làm cho tình trạng ô nhiễm

MTST ngày càng gia tăng, tội phạm về môi trường ngày một hoạt động nhiều

hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới TTKT và chất lượng sống của con người.

Về chất lượng: Bên cạnh sự thiếu hụt về số lượng thì chất lượng của đội

ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về gắn TTKT với bảo vệ MTST ởnước ta hiện nay còn có nhiều khiếm khuyết. Biểu hiện trước hết là về năng lực

chuyên môn. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2010 tỷ lệcán bộ, công chức, viên chức có trình độ đại học trở lên ở cấp trung ương làkhoảng 92%, ở cấp địa phương là khoảng 50% trong tổng số cán bộ, công

chức, viên chức làm việc trong ngành TN - MT. Thực tế cho thấy, đội ngũ này

chưa cân đối về ngành nghề cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Một số

90

khảo sát về đội ngũ cán bộ quản lý TN - MT trong cả nước cho thấy, đa sốđược đào tạo các vấn đề liên quan đến môi trường nhưng không được đào tạo

về quản lý MT. Mặt khác, ở cả ba cấp quản lý nhà nước là cấp tỉnh, huyện, xã,

cán bộ làm công tác quản lý TN - MT chủ yếu làm việc trong lĩnh vực quản lý

đất đai. Ở một số lĩnh vực quan trọng như quản lý tài nguyên nước, địa chất,

khoáng sản... hầu như không có cán bộ quản lý TN - MT, nhất là ở cấp xã.

Bên cạnh trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của

một bộ phận cán bộ, công chức ngành TN - MT cũng để lại nhiều vấn đề đánglo ngại. Khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, đa phần cán bộlàm công tác quản lý TN - MT có thu nhập thấp, các chế độ chính sách chưathỏa đáng với công sức lao động. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới

tình trạng suy thoái đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm công tác này. Vì lợi

ích trước mắt, nhiều cán bộ đã làm ngơ hoặc tiếp tay cho các hành vi phá hoại

MTST, cá biệt, còn có người cố tình bao che cho doanh nghiệp vi phạm pháp

luật về bảo vệ TN - MT trong thời gian khá dài, chỉ khi các cơ quan chức

năng vào cuộc điều tra mới phát hiện ra. Thực trạng này là một mảng tối trong

công tác bảo vệ MTST ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, Nhà nước cần phải có

những biện pháp chấn chỉnh ngay trong thời gian tới.

Để giá trị của TN - MT là những giá trị chung có ý nghĩa lâu dài đối

với sự phát triển lâu bền của đất nước cả trong hiện tại lẫn tương lai, cần phải

tăng cường năng lực quản lý nhà nước đối với TN - MT từ trung ương đến địaphương. Muốn vậy, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và nâng cao hơn nữa đạo

đức nghề nghiệp, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước

về TN - MT phù hợp với thực tiễn nền kinh tế thị trường đang đặt ra hiện nay.

3.2.2. Công tác đầu tư nguồn vốn, khoa học và công nghệ đảm bảo chogắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đạt hiệu quả

Về công tác đầu tư nguồn vốn

Nguồn tài chính cho nhiệm vụ bảo vệ MTST là yếu tố quan trọng giúp

công tác bảo vệ MTST có những cải thiện tích cực. Ở nước ta, nguồn tài chính

91

này được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như: ngân sách nhà nước; từ các tổ chức

thế giới như Đầu tư trực tiếp (FDI), Quỹ khí hậu xanh, Quỹ môi trường toàn cầu

(GEF), Qũy thích ứng biến đổi khí hậu (AF)… và các khoản đóng góp dưới dạng

thuế, phí môi trường và các nguồn khác.

Nhà nước xác định tài chính chi cho công tác bảo vệ MTST là nguồn

chi thường xuyên. Từ năm 2006 đến nay, ngân sách cho bảo vệ MT đã được

bố trí thành một nguồn riêng với qui mô không thấp hơn 1% tổng chi ngân

sách Nhà nước hàng năm. Nguồn chi này đã hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ công

tác bảo vệ MT ở các Bộ, ngành, địa phương [phụ lục 8]. Nhờ vào nguồn vốn

chi cho các hoạt động bảo vệ MT mà một số Chương trình mục tiêu quốc gia

có nội dung bảo vệ MT được triển khai như Chương trình nước sạch, vệ sinh

MT nông thôn, Chương trình trồng 5 triệu ha rừng, Chương trình cải thiện

nhà vệ sinh cho hộ nghèo… đem lại kết quả khả quan trong giải quyết, xử lý,

hạn chế tình trạng ô nhiễm MT ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước.

Tuy nhiên, mức đầu tư hiện nay được các nhà quản lý đánh giá là quá

thấp so với yêu cầu thực tế của nhiệm vụ bảo vệ MT và còn mang tính dàn

trải. Mặc dù Nhà nước quy định rõ việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải sửdụng kinh phí sự nghiệp MT đúng mục đích, đúng chế độ, chịu sự kiểm tra,

kiểm soát của cơ quan chức năng có thẩm quyền song thực tế cho thấy, tại một

số địa phương, việc sử dụng nguồn chi thường xuyên cho sự nghiệp MT chưađúng mục đích, chưa hiệu quả. Tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ MT từ các nguồn

thu liên quan đến MT còn thấp. Bên cạnh đó, việc bố trí các nguồn vốn ODA,

vốn tín dụng trong kế hoạch ngân sách hằng năm cho công tác xã hội hóa vềMT chưa rõ ràng. Việc quản lý các nguồn vốn về bảo vệ MTST còn bị buông

lỏng, tạo cơ hội cho tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí nảy sinh.

Để nguồn vốn chi cho hoạt động bảo vệ MTST thực sự hiệu quả, Nhà

nước cần hình thành cơ chế để huy động nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ tài

nguyên, môi trường theo hướng tính đúng, tính đủ chi phí đầu tư và chi trả,

coi đây là giải pháp đột phá khắc phục tình trạng thiếu nguồn lực tài chính

đầu tư cho công tác bảo vệ TNMT.

92

Về khoa học và công nghệKinh nghiệm phát triển ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam

đã chứng minh rằng, KH và CN là nguồn lực không thể thiếu trong quá trình

phát triển KT - XH. Đối với tiến trình PTBV ở nước ta hiện nay, KH và CN

giữ vai trò là yếu tố cơ bản thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Đặc biệt, việc ứng

dụng các thành tựu của KH và CN không chỉ cho phép chúng ta khai thác tối

đa nguồn TNTN để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng mà còn có tác dụng nhất

định trong việc bảo vệ MTST. Bàn về vai trò của KH và CN đối với PTBV,

Nghị quyết Đại hội XI khẳng định: “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then

chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và

môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức

cạnh tranh của nền kinh tế” [55, tr.78].

Nhận thức được tầm quan trọng của KH và CN đối với quá trình thúc

đẩy kinh tế tăng trưởng và bảo vệ MTST, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,

HĐH, Nhà nước đã nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của KH và CN

vào thực tiễn, nhờ đó có tác dụng tích cực trong nâng cao năng suất, hiệu quảkinh tế và bảo vệ MTST. Hàng năm, Nhà nước đều tập trung đầu tư chiều sâu

cho các cơ quan nghiên cứu khoa học từ nguồn đầu tư phát triển và từ kinh

phí sự nghiệp khoa học. Từ năm 2000 đến nay, tổng kinh phí đầu tư cho KHvà CN đã tăng lên 2% chi ngân sách nhà nước, trong đó, khoảng 57% dành

cho hoạt động sự nghiệp và 43% dành cho đầu tư phát triển. Nhờ vậy, hoạt

động KH và CN từng bước được triển khai, ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnhvực và đem lại hiệu quả cao.

Trong lĩnh vực gắn TTKT với bảo vệ MTST, việc chuyển giao, ứng

dụng rộng rãi những thành tựu của KH và CN đã góp phần đẩy mạnh quá

trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hình thành một số ngành kinh tế có trình

độ công nghệ cao thân thiện với MT. Đối với việc khai thác TNTN, nhờ sửdụng công nghệ hiện đại, quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên ngày càng hiệu

quả, tiết kiệm, tạo tiền đề để MTST được tái tạo và phục hồi một cách nhanh

93

nhất. Cho đến nay, Nhà nước đã đầu tư nhiều công nghệ mới vào bảo vệ MTST

như công nghệ cấp nước sinh hoạt cho vùng ngập lũ, công nghệ xử lý nước thải

cho các làng nghề, công nghệ xử lý rác thải, chất thải rắn. Bên cạnh đó, hướng

nghiên cứu sử dụng công nghệ sạch, công nghệ tái chế, sử dụng chất thải, khí

thải cũng được chuyển giao và áp dụng kịp thời vào thực tiễn sản xuất, nhờ đó,

nhiều sản phẩm mới có giá trị kinh tế cao và thân thiện với MTST đã ra đời

thay thế cho các sản phẩm gây ô nhiễm MTST.

Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác triển khai, nghiên cứu, ứng

dụng KH và CN vào thực tiễn ở nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể là

sự phát triển của KH và CN chưa tương xứng với sự nghiệp PTBV, không

đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước, đặc biệt, KH và CN

chưa tham gia toàn diện vào việc khắc phục tình trạng ô nhiễm MTST xảy ra

trầm trọng trong thời gian qua. Mặc dù Nhà nước đã ưu tiên nguồn vốn cho

phát triển, ứng dụng và triển khai, nhưng tiềm lực KH và CN của nước ta vẫn

thấp. Tỷ lệ công nghệ và thiết bị hiện đại sử dụng trong các ngành khai thác

TNTN còn ở mức khiêm tốn. Mức tiêu hao, lãng phí một số nguồn lực tài

nguyên như năng lượng, nguyên vật liệu rất cao, chưa phù hợp với những tiêu

chí đặt ra trong PTBV. Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong

một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu

dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung, trình độ công nghệ của các ngành sản

xuất khác ở nước ta thường lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ so với nhiều quốc gia

phát triển trên thế giới. Tình trạng này vừa hạn chế năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp cũng như nền kinh tế chung trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc

tế và khu vực, vừa là nguyên nhân gây biến đổi trầm trọng cho MTST ở nước ta.

Những yếu kém trên được ghi nhận bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Trước hết là do những yếu kém, bất cập về chất lượng đào tạo trong lĩnh vực

giáo dục, dẫn tới nguồn nhân lực KH và CN ngày càng không đáp ứng được

yêu cầu của sự nghiệp PTBV, lúng túng, bị động trong nghiên cứu cũng nhưđề xuất các giải pháp ngăn ngừa, đối phó, thích ứng trước các tác động mau lẹcủa TTKT và những biến đổi của MTST. Bên cạnh đó, công tác đầu tư tài chính

94

cho KH và CN phục vụ bảo vệ MTST còn ở mức khiêm tốn (khoảng 0,6%

GDP). Trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu, triển khai KH và CN trong

lĩnh vực bảo vệ MTST ở nhiều nơi, do đó, còn sơ sài, thiếu máy móc hiện đại,

không đồng bộ. Sự liên kết giữa nghiên cứu, triển khai KH và CN trong lĩnh vực

bảo vệ MTST chưa được chặt chẽ, còn nhiều lỗ hổng. Mặc dù quan điểm coi KH

và CN là nền tảng, động lực phát triển đất nước, là yếu tố cơ bản cho phát triển

nhanh và bền vững đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng nhưngtrên thực tế chưa được các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ và

triển khai trong thực tiễn phát triển KT - XH; trong khi đó, Nhà nước lại không

có cơ chế giám sát thực hiện các chủ trương này nên nhiều doanh nghiệp vẫn sửdụng công cụ lạc hậu gây ô nhiễm MTST vào trong quá trình sản xuất. Tình hình

đó làm cho ô nhiễm MTST ngày càng gia tăng, khó kiểm soát.

Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo

được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, là động lực thúc đẩy sự nghiệp

CNH, HĐH. Chỉ có phát triển khoa học và công nghệ, chúng ta mới có thể phát

triển bền vững. Do đó, Nhà nước cần có chính sách quan tâm đặc biệt đến phát

triển khoa học và công nghệ, nên coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu

tư cho phát triển bền vững.

3.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa tăngtrưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đáp ứng yêu cầu

thực tiễn đặt ra

Công tác quản lý nhà nước về kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ởnước ta chỉ đạt hiệu quả cao khi có công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Bởi

lẽ, việc Nhà nước đề ra hệ thống pháp luật, chính sách chỉ là bước đầu. Việc

sử dụng rộng rãi và phát huy có hiệu quả quá trình thanh tra, kiểm tra, giám

sát là biện pháp hữu hiệu để đưa luật pháp, chính sách vào thực hiện đúng và cóhiệu quả. Thực tế đã chứng minh rằng, khi ý thức của người dân chưa cao, nếu

không có các hoạt động này thì pháp luật, chính sách chỉ dừng lại ở lý thuyết mà

không thể biến thành hành động thực tiễn. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám

sát không những giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện ra những tổ

95

chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST, đưa ra hướng xử lý thích hợp,

mà còn giúp Nhà nước phát hiện những vấn đề còn bỏ ngỏ, hoặc những điểm

chưa phù hợp trong hệ thống pháp luật, chính sách hiện có, qua đó đề xuất

những phương án sửa đổi, bổ sung phù hợp.

Trong nhiều năm qua, Nhà nước rất chú trọng tới công tác thanh tra,

kiểm tra, giám sát bảo vệ MT và coi đó là nhiệm vụ cơ bản trong hoạt động

quản lý nhà nước về bảo vệ MTST. Tinh thần này được thể hiện trong nhiều

văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, rõ nhất là trong Luật Bảo vệmôi trường năm 2005. Tại Điều 126, trách nhiệm kiểm tra, giám sát bảo vệMT được Nhà nước giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Quốc phòng,

Bộ Công an và Ủy ban nhân dân các cấp. Còn trách nhiệm thanh tra, kiểm tra,

xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ MT được Nhà nước giao cho Bộ Tài

nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Thuỷ sản, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông

vận tải, Bộ Y tế và Uỷ ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện.

Qua thực tế về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kết

hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát

việc thực hiện pháp luật về bảo vệ MT ở nước ta cho thấy, nhìn chung các

công tác này ở nước ta từng bước được củng cố và tăng cường, việc triển

khai, thực hiện bước đầu đạt được hiệu quả tích cực. Năng lực thanh tra, kiểm

tra, giám sát của cán bộ, công chức có sự thay đổi dần chiều hướng tiến bộ.

Bước đầu, đã có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước,

giữa các bộ, ngành với nhau. Năng lực quản lý nhà nước nhờ đó được tăngcường, tạo sự tin tưởng trong quần chúng nhân dân, góp phần đẩy mạnh công

tác bảo vệ MTST trong tình hình kinh tế có nhiều thay đổi.

Tuy nhiên, nói một cách công tâm thì công tác thanh tra, kiểm tra, giám

sát việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST và thực thi pháp luật bảo vệ MTST

của các cơ quan quản lý ở nước ta thời gian qua vẫn chưa cao. Ở nhiều nơi, các

cấp chính quyền hoặc là chưa nhận thức đầy đủ, hoặc là chưa thực sự quan tâm

thích đáng đối với công tác bảo vệ MTST, dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu

96

trách nhiệm trong việc thanh tra, giám sát bảo vệ MTST. Các Sở, Phòng Tài

nguyên và Môi trường ở các địa phương chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của

mình. Nhiều cán bộ thanh tra của Bộ, Sở, Phòng Tài nguyên và Môi trường chưachấp hành nghiêm túc công tác thanh tra, kiểm tra được quy định trong Luật Bảovệ môi trường năm 2005. Việc thanh tra, giám sát về bảo vệ môi trường của các

cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình

thức, chiếu lệ. Có những cơ sở sản xuất kinh doanh nhiều năm liền không thực

hiện nghĩa vụ bảo vệ MTST, gây ô nhiễm MT nghiêm trọng, mặc dù đã được

người dân sở tại nhiều lần tố cáo, song, vẫn không được các cơ quan có thẩm

quyền coi trọng. Thậm chí, nhiều nơi còn có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm,

làm ngơ, dung túng cho các vi phạm pháp luật bảo vệ MTST.

Công tác thanh tra, kiểm tra ở hai cấp huyện và xã còn quá yếu, cán bộlàm công việc này chưa thực hiện hết chức trách, nhiệm vụ được giao. Thực

tế cho thấy, các quy định trách nhiệm thanh tra đối với cấp xã chỉ tồn tại trên

văn bản, giấy tờ, còn trên thực tế thì gần như không hề hoạt động. Do đó, sựbất bình và mất lòng tin của người dân vào các cơ quan nhà nước, tình trạng

khiếu kiện vượt cấp, thái độ coi thường pháp luật của các đối tượng gây ô

nhiễm MTST ngày càng gia tăng. Nhà nước đã chú trọng tới công tác đào tạo

cán bộ quản lý về bảo vệ MTST, nhưng đa phần trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ của đội ngũ này còn nhiều hạn chế, cộng với phương tiện, kỹ thuật phục vụcông tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa đầy đủ nên trong nhiều trường hợp

đoàn thanh tra không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của doanh

nghiệp khi họ thải các chất độc hại ra môi trường.

Bảo vệ MTST trong TTKT là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với cả hệthống chính trị, các ngành và mọi công dân. Do vậy, ngoài lực lượng cán bộđược Nhà nước uỷ quyền làm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc bảo

vệ MTST, thì các tổ chức CT - XH, mọi đoàn thể và người dân cũng được

quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệ MTST.

Ở nước ta, vai trò của các đoàn thể trong bảo vệ MTST được thể hiện

cụ thể trong hệ thống pháp luật, rõ nhất là trong Luật Bảo vệ môi trường năm

97

2005. Điều 124 Luật này quy định rõ trách nhiệm giám sát việc thực hiện

pháp luật về bảo vệ MT của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành

viên. Có thể nói, trên phương diện lý luận, vai trò của các đoàn thể và quần

chúng nhân dân trong bảo vệ MTST đã được thể hiện nhất quán. Tuy nhiên,

trên thực tế thì lại có nhiều điểm bất cập. Chẳng hạn, ở nhiều nơi, tình trạng ô

nhiễm MTST diễn ra trầm trọng, được các tổ chức đoàn thể phát hiện kịp thời,

song, khi họ lên tiếng thì lại không được các cấp chính quyền quan tâm giải

quyết. Hoặc, đối với nhân dân, do tiếng nói chưa đủ mạnh và không có các

thiết chế đại diện nên nhiều khi có tham gia giám sát nhưng lại không được

quyền quyết định. Tình trạng đó đòi hỏi Nhà nước phải có cơ chế, chính sách

phù hợp để phát huy quyền làm chủ của các tổ chức CT - XH và quần chúng

nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát bảo vệ MTST.

Thực tế bảo vệ môi trường sinh thái ở các quốc gia trên thế giới đã chỉra rằng, chỉ khi nào có sự tham gia đông đảo của các tổ chức và mọi công dân

vào kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động thực thi pháp luật về bảo vệmôi trường sinh thái của các chủ thể sản xuất, thì khi đó, công tác thanh tra,

kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi

trường sinh thái mới đạt hiệu quả thiết thực và vai trò quản lý của Nhà nước

về môi trường mới được tăng cường.

3.3. MÂU THUẪN GIỮA ĐÒI HỎI CẦN PHẢI CÓ SỰ PHỐI HỢP CHẶT CHẼCỦA NHÀ NƯỚC VỚI CÁC TỔ CHỨC, CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG KẾTHỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI,VỚI TÌNH TRẠNG PHỐI HỢP CÒN LỎNG LẺO, CHƯA CHẶT CHẼ

3.3.1. Những hạn chế trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của

các doanh nghiệp về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi

trường sinh thái

Ở nước ta, Nhà nước là người đại diện cho nhân dân quản lý và bảo vệMTST nhằm hướng tới mục tiêu PTBV. Việc tăng cường vai trò quản lý của

Nhà nước trở thành nhiệm vụ hết sức cần thiết. Tuy nhiên, chủ thể trực tiếp có

98

những tác động mạnh mẽ lên MTST trước hết lại thuộc về các doanh nghiệp,

các cơ sở sản xuất. Do đó, để bảo vệ MTST nhất định phải có sự phối hợp

giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đã có đóng góprất nhiều cho nền kinh tế quốc dân [phụ lục 10] cũng như công tác bảo vệMTST. Nhiều công ty, xí nghiệp đã kiên quyết không sử dụng những nguyên

vật liệu trực tiếp dẫn đến huỷ hoại MTST. Điển hình là một số ngành công

nghiệp sản xuất đồ gỗ đã ký hợp đồng với người dân trồng cây lấy gỗ để sản

xuất sản phẩm chứ không thu mua gỗ từ rừng nguyên sinh. Ngày càng có

nhiều công ty tiến hành thu mua phế thải từ các ngành sản xuất khác để tái

chế ra sản phẩm mới. Nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh đã đăng ký nhãn sinh

thái, có những cam kết về bảo vệ MTST trong sản xuất kinh doanh, cam kết

vệ sinh an toàn thực phẩm, tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ MTST

trong những ngày lễ lớn, có trách nhiệm nộp thuế và xử lý ô nhiễm MTST.

Với mục tiêu giải quyết vấn đề môi trường trong công nghiệp và nâng cao

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, rất nhiều công ty đã áp dụng giải pháp

sản xuất sạch hơn, xây dựng hệ thống xử lý chất thải. Nhờ đó giảm đáng kểmức tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm

lượng chất thải và cải thiện tình trạng ô nhiễm MTST… Đó là những mặt tích

cực không thể phủ nhận của các doanh nghiệp trong nỗ lực bảo vệ MTST.

Bên cạnh đó, cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa làm tốt trách nhiệm môi

trường trong sản xuất kinh doanh. Không ít các doanh nghiệp đã tỏ ra thờ ơ,lãnh đạm trước thực trạng MTST ngày càng xấu đi trên diện rộng.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã và đang hoạt

động theo quy luật chung vốn có của nó với đặc trưng bản chất là kinh doanh

và điều tiết của nguyên tắc chi phí nhỏ - lợi nhuận lớn. Do đó, nhiều chủ thểkinh doanh bị chi phối bởi lợi nhuận đã bất chấp tất cả, dùng mọi thủ đoạn đểđạt được lợi ích kinh tế, bỏ qua các nguyên tắc bảo vệ MTST. Số liệu điều tra

của các cơ quan Nhà nước cho thấy, có tới 90% số cơ sở sản xuất kinh doanh,

99

dịch vụ không xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường, nhiều khu công

nghiệp, khu dân cư không có hệ thống xử lý nước thải, các làng nghề đều

trong tình trạng báo động về ô nhiễm MTST…Tình trạng gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp được cắt

nghĩa bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết là do các doanh nghiệp sửdụng công nghệ sản xuất lạc hậu. Nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp, đặc biệt là

các làng nghề truyền thống nhiều năm liền sử dụng công nghệ lạc hậu trong

sản xuất, gây tiêu tốn tài nguyên, năng lượng và phát sinh chất thải có hại cho

môi trường. Theo đánh giá của các tổ chức nước ngoài, các doanh nghiệp có

công nghệ cao ở nước ta chỉ chiếm khoảng 20%, trong khi tỷ lệ đó ở một sốnước trong khu vực là khá cao, như ở Malaysia là hơn 50%, Singapore hơn70%. Có tình trạng này là do trong số hàng nghìn các doanh nghiệp hiện đanghoạt động ở nước ta, chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp có quy mô lớn, có khảnăng về tài chính để đầu tư trang thiết bị hiện đại vào sản xuất, còn lại 70% là

doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tài chính hạn chế, tiềm lực kinh tế không

đủ mạnh, thường buộc phải sử dụng công nghệ lạc hậu trong sản xuất.

Như vậy, để bảo vệ MTST, điều thiết yếu trước tiên là các doanh

nghiệp phải sử dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất. Để các doanh nghiệp

thực hiện điều đó, ngoài việc hỗ trợ về tài chính, Nhà nước cần phải có những

quy định chặt chẽ về việc sử dụng máy móc, công nghệ sạch, công nghệ thân

thiện với môi trường trước khi cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh

nghiệp, buộc các chủ doanh nghiệp phải cam kết thực hiện trách nhiệm môi

trường ngay từ khi bắt đầu tiến hành sản xuất, kinh doanh.

Một vấn đề quan trọng không thể không đề cập tới khi nói về trách

nhiệm xã hội của các cá nhân trong vấn đề bảo vệ MTST trong mối quan hệvới TTKT ở nước ta hiện nay là vấn đề lợi ích. Không thể phủ nhận mặt tích

cực của kinh tế thị trường đối với việc làm thỏa mãn nhu cầu lợi ích cho cá

nhân và cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, sự ra đời của kinh tế thị trường ở nước

ta trong những năm qua đã làm xuất hiện tình trạng đề cao lợi ích kinh tế. Đó

100

không chỉ là lợi ích cá nhân, mà còn là lợi ích nhóm, lợi ích tập đoàn, lợi ích

nhiệm kỳ. Chính các lợi ích này đã hủy hoại sự kết hợp chặt chẽ giữa TTKT

với bảo vệ MTST.

Thực tế cho thấy, ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường mặc dù vẫn còn

sơ khai nhưng đã đẻ ra nhiều khuyết tật, trong đó có vấn nạn ô nhiễm MTST.

Trong hàng loạt các nguyên nhân gây ô nhiễm MTST, có nguyên nhân thuộc

về lợi ích. Hẳn chúng ta đều biết rằng, sự quản lý điều tiết của nhà nước chưachặt chẽ, thấu đáo đã tạo kẽ hở cho những hành vi vô đạo đức của một bộphận không nhỏ người lao động, người sử dụng lao động và cán bộ quản lý.

Họ đề cao lợi ích kinh tế, sùng bái đồng tiền, coi nhẹ hoặc không quan tâm

đến lợi ích chính trị - tinh thần.

Đối với người lao động, nền kinh tế thị trường tác động làm cho họnhiều khi chỉ quan tâm đến làm thế nào để mức thu nhập ngày càng cao. Cho

nên có những người dùng mọi cách, kể cả những hành động bất hợp pháp nhưbao che và làm việc cho giới chủ trong khai thác lậu tài nguyên, không hợp

tác với các tổ chức CT - XH và các cơ quan công quyền để đưa những vụ vi

phạm pháp luật về ô nhiễm môi trường ra ánh sáng. Ngay cả khi các cơ quanchức năng phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm luật môi trường,

những người lao động này còn tìm cách bao che cho giới chủ chỉ vì lời hứa

hẹn tăng lương, tăng thưởng.

Đối với các cơ quan công quyền và các nhà quản lý, do tình trạng quản

lý chồng chéo giữa các cơ quan nhà nước trong bảo vệ MTST, do năng lực

làm việc và đặc biệt do đạo đức xuống cấp nên một bộ phận không nhỏ cán

bộ, đảng viên, thậm chí cả một cơ quan tiếp tay cho các hành vi vi phạm pháp

luật môi trường. Đơn cử như trường hợp ô nhiễm sông Thị Vải do nhà máy

bột ngọt Vedan gây ra. Người dân kêu cứu nhiều năm liền nhưng các cấp

chính quyền không giải quyết. Qua nhiều lần lên tiếng và kiện tụng, doanh

nghiệp chỉ phải bỏ kinh phí ra đền bù cho nông dân là sự việc coi như xongxuôi, còn việc khắc phục hậu quả ô nhiễm nguồn nước, đất đai, hệ sinh thái

101

dòng chảy thì lại không được các cơ quan thực thi pháp luật đề cập tới. Hay,

có doanh nghiệp móc nối với cán bộ quản lý TN- MT để họ làm ngơ cho cácsai phạm về bảo vệ MTST của doanh nghiệp. Tình trạng cán bộ thanh tra đikiểm tra các cơ sở gây ô nhiễm, sau khi được doanh nghiệp “lại quả”, đã bỏqua toàn bộ các sai phạm của doanh nghiệp về gây ô nhiễm MTST không

phải là không có ở nước ta trong thời gian qua. Từ phân tích này cho thấy, rõ

ràng là vì lợi ích mà người ta sẵn sàng bỏ qua các tiêu chí về môi trường, gây

ô nhiễm môi trường trầm trọng.

Đối với các doanh nghiệp, thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp

trong kinh doanh chỉ đặt lợi nhuận lên trên hết, tìm mọi cách né tránh vấn đềmôi trường, không trung thực trong kê khai trách nhiệm bảo vệ MTST. Đểtình trạng ô nhiễm MTST không xảy ra, việc thực hiện trách nhiệm môi

trường nói riêng và trách nhiệm xã hội nói chung của các doanh nghiệp là rất

cần thiết. Bên cạnh việc buộc các doanh nghiệp sử dụng máy móc, thiết bịthân thiện, không gây ô nhiễm MTST, Nhà nước cần phải luật pháp hoá vấn

đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Bởi lẽ, nhiều khi gây ra những tác

hại xấu cho MTST không hẳn là do doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu

trong sản xuất mà còn do họ cố tình vi phạm pháp luật để đạt được lợi ích

kinh tế cá nhân.

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta, các hành vi cố ý gây ô

nhiễm MTST ngày càng nhiều nhưng lại không được xử lý triệt để. Lỗi này là

do hệ thống luật pháp ở nước ta còn có những quy định khá lỏng lẻo hoặc quy

định không rõ ràng về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Hệ thống pháp

luật về bảo vệ MTST đã được hình thành về cơ bản nhưng vẫn còn nhiều bất

cập, nhiều quy định còn chung chung, mang tính nguyên tắc; còn thiếu hoặc

đã có quy định nhưng chưa đầy đủ về bảo vệ MT đất, nước, không khí, về tái

chế chất thải, về khắc phục ô nhiễm, cải tạo, phục hồi MTST, về tiêu dùng

bền vững; chưa có cơ sở pháp lý về quy hoạch MTST, phân vùng chức năngsinh thái làm căn cứ để hoạch định chiến lược phát triển KT - XH, lập quy

102

hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng; chưa tạo ra hành lang pháp lý và MTST

thuận lợi để khuyến khích phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ MT và sản

phẩm thân thiện với MTST; thiếu các cơ chế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm

MTST gây ra, giải quyết tranh chấp, xung đột về MTST. Đặc biệt, trong ngành

Luật Môi trường và các ngành luật có liên quan đến bảo vệ MTST, thì hầu nhưchưa có ngành luật nào đề cập đến vấn đề lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích

tập đoàn và các chế tài xử phạt tương ứng trong lĩnh vực gây ô nhiễm MTST.

Mặc dù trong Bộ Luật hình sự đã có các quy định về tội phạm MTST

nhưng lại chưa đầy đủ, cụ thể, rõ ràng nên khó thực hiện trên thực tế. Nhiều

quy định về xã hội hóa hoạt động bảo vệ MTST mới chỉ dừng lại ở nguyên

tắc, thiếu cơ chế phù hợp để thực hiện nên chưa phát huy được hiệu quả. Bên

cạnh đó, cơ chế, chính sách bảo vệ MTST của Nhà nước chậm đổi mới, chưađồng bộ với thể chế thị trường. Các loại thuế, phí về môi trường mới chỉ bước

đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh

tế điều tiết vĩ mô, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, thúc đẩy các hoạt động

KT - XH theo hướng hài hòa, thân thiện với môi trường.

Qua nhiều vụ thực phẩm nhiễm độc, xuất hiện những dòng sông đen,những vùng gây ô nhiễm MTST ở mức độ gây ảnh hưởng tiêu cực cho con

người và động vật. Ví dụ như vụ xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải

làm ô nhiễm MTST, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của hàng trăm hộnông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị cơ quan chức năng phát giácnăm 2009, vụ chôn hóa chất độc hại xuống đất của công ty Nicotex Thanh

Thái ở Thanh Hóa vào bị người dân phát hiện năm 2013… cho thấy năng lực

pháp lý của Nhà nước ta còn rất hạn chế và có quá nhiều lỗ hổng, không bám

sát thực tế, mâu thuẫn hoặc chồng chéo lên nhau. Khi phát hiện những vi

phạm pháp luật về môi trường, các cơ quan chức năng thường bị động, không

có đủ căn cứ pháp lý để xử lý hoặc không thể xử lý được vì nhiều khi muốn

xử lý triệt để phải xử lý toàn bộ hệ thống các cơ quan liên quan từ trung ươngđến địa phương.

103

Đó cũng là nguyên do mà khi nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về bảo

vệ MTST xảy ra, các cơ quan công quyền thường né tránh, đổ lỗi, “đá bóng”cho nhau, không nhận trách nhiệm. Một số sự kiện xảy ra trong thực tế đã

minh chứng điều đó. Trước tiên là sự kiện nhà máy Vedan xả nước thải ra

sông Thị Vải. Khi phát giác việc nhà máy không xây dựng bể chứa chất thải

mà xả thẳng ra sông Thị Vải, gây ô nhiễm nguồn nước, thiệt hại về kinh tếcho hàng ngàn hộ nông dân trồng lúa và hoa màu, Bộ Tài nguyên và Môi

trường cho rằng trách nhiệm quản lý đã giao cho địa phương, địa phương phải

chịu trách nhiệm, còn địa phương lại quy trách nhiệm cho Bộ. Hoặc vụ Công

ty xử lý và chế biến chất thải Phú Thọ đã không làm tròn trách nhiệm trong

xử lý chất thải. Các chất thải công nghiệp thải ra không được công ty chôn

lấp, xử lý theo đúng quy trình. Nước thải được thải ra môi trường, ngấm vào

đất làm cho hàng chục hécta đất nông nghiệp của địa phương bị bỏ hoang

không thể sản xuất được, cá tại các ao hồ khu vực cận kề cũng bị chết, không

thể tiếp tục thả nuôi. Khi thanh tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường phát

hiện ra, phía công ty đã đổ lỗi cho tỉnh Phú Thọ không cấp đủ kinh phí để đầu

tư vào quy trình xử lý chất thải và đánh giá tác động môi trường, còn phía

Tỉnh lại cho rằng lỗi đó là thuộc về Công ty…Và rất nhiều các vụ việc vi

phạm pháp luật khác đã cho thấy năng lực tuân thủ các quy định pháp luật vềbảo vệ MTST của các doanh nghiệp ở nước ta còn quá yếu.

Nguyên nhân của tình trạng trên không chỉ do lỗi cố tình vi phạm của

các doanh nghiệp, hay do hệ thống pháp luật chưa đủ mạnh, mà phần cơ bản là

do chính sách, năng lực còn hạn chế của các cơ quan nhà nước trong việc cấp

giấy phép, quản lý tình trạng ô nhiễm MTST và công tác thẩm định báo cáo

đánh giá tác động môi trường. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước

đã đưa ra khá nhiều văn bản chỉ đạo việc bảo vệ MTST, song việc nhận thức,

tiếp thu, coi trọng các văn bản đó dường như chưa được đề cao trong mục tiêu,

chiến lược phát triển KT - XH của các cấp, bộ, ngành. Ở một số nơi, các nhàquản lý thường coi trọng mục tiêu TTKT, bỏ qua mục tiêu MT. Trong chỉ đạo,

104

điều hành, tư tưởng “ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ yêu cầu bảo vệmôi trường” còn khá phổ biến ở nhiều cấp ủy và chính quyền các cấp.

Một trong những quy định bắt buộc của Nhà nước đối với các doanh

nghiệp khi đăng ký kinh doanh là phải có những cam kết trong bảo vệ MTST.

Công việc này được Nhà nước giao cho các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tuy

nhiên, thực tế cho thấy ở nước ta, các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường

còn thờ ơ với công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường cũngnhư các cam kết bảo vệ MTST trong khi cấp giấy phép cho các doanh

nghiệp. Các văn bản này được phê duyệt và xác nhận là một trong những cơsở để cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xem xét việc cấp giấy phép.

Song, kết quả thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng về hồ sơ cấp

giấy phép trong một số lĩnh vực, điển hình là lĩnh vực khai thác khoáng sản

cho thấy, các thủ tục về bảo vệ MTST đối với các dự án khai thác thường

được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, thẩm định xem nhẹ, có nội dung

sơ sài, hình thức, không phản ánh được đầy đủ những tác động môi trường

của các dự án, không đề ra được các biện pháp hợp lý và hiệu quả để khắc

phục ô nhiễm môi trường.

Sự yếu kém về năng lực, không chú trọng việc thống kê các con số vi

phạm pháp luật về bảo vệ MTST của các cơ quan quản lý cũng là nguyên nhân

dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm môi trường.

Một loạt các sự kiện về vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST ở các khu công

nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp xảy ra trên phạm vi cả nước, đã được dư luận lên

tiếng chỉ trích rất nhiều nhưng có rất ít các cơ quan lên tiếng nhận trách nhiệm vềmình. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp không làm tròn trách nhiệm môi trường

của mình nhưng cũng rất ít cơ quan chức năng thống kê đầy đủ con số các doanh

nghiệp thiếu trách nhiệm xã hội, thiếu văn hoá, đạo đức trong kinh doanh.

Như vậy, sự bất cập về chính sách, pháp luật, sự yếu kém về năng lực

quản lý của các cơ quan nhà nước về bảo vệ MTST… là những nguyên nhân

cơ bản gây nên tình trạng thờ ơ, thiếu trách nhiệm môi trường của các doanh

105

nghiệp ở nước ta hiện nay. Để bảo vệ MTST trong TTKT, Nhà nước cần phải

có những biện pháp khắc phục triệt để các nguyên nhân này.

3.3.2. Những hạn chế trong việc nâng cao nhận thức về pháp luật,

chính sách của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về kết hợp giữa

tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Việc huy động sức mạnh của cộng đồng trong bảo vệ MTST vừa giữ

vai trò tạo ra sự đồng thuận xã hội, làm hậu thuẫn cho các hoạt động quản lý

nhà nước về tài nguyên và môi trường cũng như các hoạt động bảo vệ môi

trường, vừa góp phần giải quyết những xung đột về lợi ích giữa các lĩnh vực

KT - XH, giữa các chủ thể trong việc hưởng thụ, sử dụng các thành phần môi

trường. “Sức ép cộng đồng” còn là một dạng của chế tài thương mại trong

công tác bảo vệ MTST. Sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ MTST tạo

thêm nguồn lực tại chỗ, cung cấp lực lượng giám sát môi trường nhanh và

hiệu quả, giúp cho các cơ quan quản lý môi trường giải quyết kịp thời những

vấn đề nảy sinh từ thực trạng ô nhiễm môi trường.

Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc huy động cộng đồng trong tham

gia bảo vệ MTST đã được Đảng, Nhà nước ta khẳng định trọng nhiều văn bản

pháp lý quan trọng. Ngày 15/11/2004 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số

41-NQ/TW về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại

hoá đất nước”, Nghị quyết nêu rõ: Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa

vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống

văn hóa, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp

truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với tự nhiên của cha ông ta. Luật

Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng khẳng định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

và các tổ chức thành viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có

trách nhiệm tuyên truyền, vận động các thành viên của tổ chức và nhân dân

tham gia bảo vệ môi trường; giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi

trường” [55, tr.133]. “Cơ quan quản lý Nhà nước các cấp có trách nhiệm tạo

106

điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia

bảo vệ môi trường” [55, tr.133]. Trong Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi

trường (giai đoạn 2001 - 2010), một trong những điểm hết sức quan trọng

được Nhà nước khẳng định là: Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hóa bảo

vệ môi trường bằng luật pháp, bằng các văn bản pháp lý để huy động cộng

đồng tham gia vào các hoạt động quản lý môi trường các cấp. Đại hội Đảng

lần thứ X của Đảng cũng nhấn mạnh rằng, để tăng cường công tác bảo vệ, cải

thiện MTST, bảo vệ TNTN, cần thiết phải “hoàn chỉnh hệ thống pháp luật,

tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức và trách nhiệm của

mọi người dân, của toàn xã hội đối với việc phòng ngừa ô nhiễm, bảo vệ và

cải thiện môi trường” [54, tr.223]. Tư tưởng về nâng cao vai trò, sự tham gia

của nhân dân trong bảo vệ môi trường còn được nhấn mạnh trong Đại hội

Đảng lần thứ XI: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,

toàn xã hội và của mọi công dân” [55, tr.42].

Ở nước ta, mọi cộng đồng, mọi tầng lớp dân cư đều nằm trong Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể CT - XH hoặc xã hội nghề nghiệp như Hội Liên hiệp

phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên cộng sản HồChí Minh… có tổ chức từ trung ương tới cở sở thôn, làng, tổ dân phố, khu

dân cư, xã, phường. Mọi thông tin, các cuộc vận động, các hoạt động của

cộng đồng khi được thông qua sự vận động của Mặt trận và các tổ chức đoànthể sẽ đạt kết quả cao. Những thành tựu về bảo vệ MTST ở nước ta hiện nay

đã khẳng định vai trò hết sức to lớn của Mặt trận và các đoàn thể. Trong

những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát huy vai trò tập hợp, đoànkết, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ MTST. Năm 2004, BanThường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với

Bộ Tài nguyên và Môi trường ký Nghị quyết Liên tịch số 01 về việc phối hợp

thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Ngoài ra, nhằm đáp ứng

yêu cầu bảo vệ môi trường trong tình hình mới, năm 2012, Ban thường trực

107

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ký kết với Bộ Tài nguyên

và Môi trường Chương trình phối hợp thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực tàinguyên và môi trường giai đoạn 1012-2016.

Các nghị quyết, chương trình, chiến lược trên đã góp phần quan trọng

vào việc nâng cao nhận thức, động viên nhân dân tham gia bảo vệ MTST.

Mặt trận và các tổ chức thành viên cũng đã quan tâm vận động nhân dân tham

gia xây dựng nhiều hoạt động thiết thực về bảo vệ MTST. Một số mô hình

điển hình của các tổ chức CT - XH, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp… đã

ra đời và có nhiều hoạt động tích cực tới bảo vệ MTST. Chẳng hạn như Môhình Đoạn đường phụ nữ tự quản; Mô hình Phân loại, xử lý rác thải tại giađình của Hội Liên hiệp phụ nữ; Quy định về bảo vệ môi trường nông nghiệp,nông thôn và vận động nông dân tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môitrường của Hội Nông dân; tổ chức các cuộc hội thảo về MT, thực hiện các đềtài khoa học, các đề án và chuyển giao công nghệ về MT và xử lý ô nhiễm

môi trường ở đô thị và môi trường nông thôn, tư vấn phản biện, giám định xã

hội về xây dựng các văn bản pháp luật, quy chế về bảo vệ môi trường, các đềán, dự án, công trình xử lý chất thải rắn, nước thải, đưa công nghệ sinh học

vào xử lý MT có hiệu quả của Hội Khoa học và kỹ thuật; nhiều phong trào

hữu hiệu hưởng ứng các ngày lễ bảo vệ MTST như Tuần lễ quốc gia nước

sạch - vệ sinh MT, ngày Môi trường thế giới, các phong trào tình nguyện vì

MT của các lực lượng xã hội khác như Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh,

các nhóm, các câu lạc bộ tình nguyện vì môi trường cũng đã được triển khai

và đem lại nhiều thành công trong sự nghiệp bảo vệ MTST.

Mặc dù đã có những thành tựu nhất định, song, trên thực tế vai trò của

các tổ chức đoàn thể tham gia bảo vệ MTST ở nước ta còn chưa được rõ nét,

chưa tạo ra được sự đồng thuận giữa các quy định pháp luật, chính sách của

nhà nước và các tổ chức đoàn thể. Trong hệ thống các ngành luật liên quan tới

bảo vệ MT chỉ có một số rất ít ngành luật như Luật Bảo vệ môi trường, Luật

Tài nguyên nước là có điều quy định về vai trò giám sát, về trách nhiệm của

108

Mặt trận, các tổ chức thành viên và nhân dân trong bảo vệ MT. Ngay cả trong

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm2030, cũng mới chỉ quy định về nguyên tắc vai trò của Mặt trận và các tổchức đoàn thể trong hoạt động giám sát, chứ chưa có những quy định cụ thểvề trình tự, quy trình, cơ chế, chính sách tạo điều kiện để hệ thống Mặt trận

các cấp tham gia giám sát. Đây là những khó khăn trong công giám sát thực

hiện pháp luật về bảo vệ MTST trong hệ thống Mặt trận các cấp và các thành

viên. Những khó khăn này đã cản trở sự tham gia bảo vệ MTST của các tổchức đoàn thể trong giai đoạn hiện nay.

Việc tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng dân cư vào công tácbảo vệ MTST là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của công

tác bảo vệ MTST. Vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ MTST đã được

xây dựng thành những văn bản mang tính pháp lý của Nhà nước. Tuy nhiên,

trên thực tế, quyền tham gia vào công tác chung về bảo vệ MTST của các

cộng đồng dân cư ở nước ta còn có nhiều hạn chế. Chẳng hạn, vai trò của

cộng đồng trong việc tham gia vào những quyết sách, xây dựng những dự án

về bảo vệ MTST còn mờ nhạt và chỉ mang tính hình thức.

Trong chương 3, mục 2 phần “Đánh giá tác động môi trường”, LuậtBảo vệ môi trường năm 2005 quy định: “Ý kiến của Ủy ban nhân dân xã

phường, thị trấn, đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án; các ý kiến

không tán thành việc đặt dự án tại địa phương hoặc không tán thành đối với

các giải pháp bảo vệ môi trường phải được nêu ra trong báo cáo đánh giá tác

động môi trường” [113, tr.27]. Luật là vậy, song, thực tế lại cho thấy ý kiến

của cộng đồng không được xuyên suốt mà bị phân khúc rõ trong các dự án.

Thường thì ở giai đoạn lập kế hoạch đánh giá tác động MT, phần đa các chủdự án, các cơ quan chức năng có tham vấn ý kiến cộng đồng, nhưng chỉ mang

tính hình thức. Các dự án tiến hành tham vấn cộng đồng nhằm khai thác kiến

thức bản địa thì hầu như chưa có. Ở giai đoạn thẩm định báo cáo và giai đoạn

báo cáo được đưa vào thực thi thì vai trò của cộng đồng gần như bị triệt tiêu.

109

Do đó, cộng đồng không thể phát hiện những sai phạm của dự án, doanh

nghiệp cũng như không thể khiếu nại, tố cáo, đòi bồi thường thiệt hại. Ở rất

nhiều nơi, cộng đồng dân cư và các tổ chức CT - XH không được tham gia

vào đánh giá tác động MT trong các dự án được triển khai tại địa phương.Nguyên nhân làm cho những quy định pháp luật của Nhà nước về vai trò

của cộng đồng trong bảo vệ MTST không được thực hiện trên thực tế, trước

hết, thuộc về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước. Họ có phần thờ ơ,buông lỏng trong việc thực thi pháp luật bảo vệ MT, không tuyên truyền hay

phổ biến pháp luật bảo vệ MT tới từng người dân. Ở nhiều địa phương, nhất là

các vùng núi xa xôi, hẻo lánh các văn bản pháp lý của nhà nước về bảo vệ MT

khi về đến cơ sở thì nằm lại trên bàn làm việc của các nhà quản lý mà không

được triển khai tới cộng đồng dân cư. Có nhiều quy định về bảo vệ MT mà

người dân không biết. Điều này tạo ra một khoảng cách xa giữa việc ban hành

và thực thi luật, hình thành tâm thế coi thường luật ở người dân.

Bên cạnh đó, còn một bộ phận không nhỏ các cấp lãnh đạo đã không

tin tưởng vào năng lực bảo vệ MTST ở cộng đồng, không trao cho cộng đồng

cái quyền mà lẽ ra họ được hưởng, đó là quyền được hiểu biết đầy đủ vềMTST cũng như quyền tham gia vào các quyết sách bảo vệ MTST. Chính

thực trạng này đã làm cho mối quan hệ giữa các cấp lãnh đạo, quản lý nhà

nước với cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ MTST không đạt hiệu quả. Cán

bộ quản lý nhà nước không thật sự tin tưởng vào vai trò của cộng đồng. Cộng

đồng thì nghi ngờ năng lực quản lý của cán bộ nhà nước, thường có cảm giác

yếu thế, thiếu tin tưởng vào sự hỗ trợ của các cơ quan công quyền.

Ở các nước phát triển, các thiết chế đại diện cho nhân dân như các tổchức phi chính phủ, nhóm lợi ích, hiệp hội… giữ vai trò rất lớn, là những tổchức dân sự đứng ra bênh vực quyền lợi cho nhân dân. Trong khi đó, ở nước

ta, số lượng những tổ chức này rất ít và vai trò thì lại hết sức mờ nhạt. Đâycũng là nguyên nhân của thực trạng trước tình trạng ô nhiễm MTST do các

doanh nghiệp gây nên, dân cư tổ chức khiếu kiện đều không thành công hoặc

110

không gây được tiếng vang lớn, dẫn đến sự thiếu tin tưởng của người dân vào

các cơ quan công quyền của nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân. Rõ

ràng là Nhà nước chưa thực sự làm tròn trách nhiệm của mình trong cả quản

lý lẫn tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ MTST.

Trong khi đó, về phía cộng đồng, việc không hiểu hoặc cố tình không

hiểu các quy định pháp luật về bảo vệ MTST lại là một phương diện khác dẫn

tới tình trạng những quy định pháp luật của Nhà nước về vai trò của cộng

đồng trong bảo vệ MTST không được thực hiện trên thực tế. Ở nhiều nơi,nhất là những nơi mà cuộc sống có nhiều khó khăn về kinh tế, dân cư sống

chủ yếu dựa vào MTST, vì mưu sinh, họ cố tình bỏ qua các quy định bảo

vệ MTST, tham gia vào tàn phá MTST. Những người nghèo ở vùng núi

phía Bắc hay Tây Nguyên vì không có đất canh tác nên đã phá rừng làm

rẫy để trồng trọt, với phương thức du canh, du cư không bền vững dẫn tới

hủy hoại MTST. Những người nghèo ở vùng biển thì lại sử dụng những

phương tiện đánh bắt thô sơ, gây cạn kiệt nguồn lợi thủy hải sản. Còn

người nghèo ở đô thị, phải sống ở những nơi “ổ chuột”, sử dụng nhiên liệu

rẻ tiền, vứt rác thải bừa bãi ra MT xung quanh, gây ô nhiễm cục bộ.

Ở một số vùng, cộng đồng còn nhận thức sai lệch về giá trị trường tồn

của MTST khi quan niệm TNTN là nguồn lực vô tận, là của “trời cho”, nênmặc sức khai thác, không nghĩ tới việc cần phải để dành hay tái tạo, phục hồi.

Ngoài ra, quan niệm uống rượu ngâm động vật hay ăn thịt động vật quý hiếm

còn có tác dụng bồi bổ, trường thọ… cũng tiếp tay cho các hành vi tàn sát môi

sinh. Những hành vi này đã được nhiều tổ chức bảo vệ môi trường lên tiếng

phản đồi từ rất lâu, song, Nhà nước vẫn chưa tìm ra được những phương ánhữu hiệu để bảo vệ. Lỗ hổng trong quản lý động vật hoang dã ở nước ta cần

phải được Nhà nước nhìn nhận và khắc phục trong thời gian sớm nhất để bảo

toàn đa dạng sinh học và bảo vệ các giống loài động, thực vật quý hiếm.

Sự thờ ơ với các hành vi vi phạm pháp luật MT, chưa thật sự chủ động

tham gia vào các hoạt động bảo vệ MTST của một bộ phận không nhỏ dân cư

111

là một phương diện khác trong nhận thức chưa đúng của cộng đồng về bảo vệMTST. Tư tưởng “đèn nhà ai nhà nấy rạng” đã ăn sâu vào nếp nghĩ của nhiều

người, nhiều gia đình dẫn tới thái độ thờ ơ, vô cảm với vấn đề bảo vệ MTST.

Việc xả rác ra nơi công cộng, khu du lịch, vui chơi, giải trí… được coi như“chuyện thường ngày” mà hiếm thấy có những hành vi phản đối hay nhắc nhở,

nhiều người mặc nhiên cho rằng, đó là nhiệm vụ của những người làm công tác

vệ sinh môi trường hoặc là nhiệm vụ của các cấp lãnh đạo quản lý, mình không

nên xen vào kẻo “mang vạ vào thân”… và nhiều sự thờ ơ khác xuất hiện ngày

một nhiều trong công tác bảo vệ MTST ở nước ta. Có các hành vi này là do

Nhà nước chưa có những cơ chế hay những biện pháp hữu ích để bảo vệ những

người đứng ra can ngăn những hành vi gây ô nhiễm môi trường.

Như vậy, sự tham gia của cộng đồng vừa là quốc sách, vừa là động lực

quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ MTST. Nhiều kinh nghiệm thành công vềbảo vệ MTST trên thế giới đã chứng minh chính sách xã hội hóa trong bảo vệMTST là một trong những chính sách đúng đắn nhất. Do vậy, Nhà nước cần

sớm triển khai xây dựng chính sách này để MTST được bảo vệ toàn diện hơn.

Kết luận chương 3Suốt chặng đường gần 30 năm đổi mới, thực hiện CNH, HĐH, thông

qua việc phát huy mọi nguồn lực nội sinh cho phát triển, trong đó, lợi thế vềTNTN đóng vai trò quan trọng, đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng KT - XH,

tốc độ TTKT ngày càng cao. Những khởi sắc của nền kinh tế đã tạo nên xu

thế ổn định, phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày được

nâng cao, đặc biệt, sự tăng trưởng của nền kinh tế còn góp phần không nhỏvào công tác bảo vệ MTST. Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược PTBV, việc

giải quyết mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST đang đặt ra nhiều thách

thức, đó là: mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế trước mắt trong đầu tư, phát triển

với sử dụng hợp lý và tái tạo TNTN; mâu thuẫn giữa yêu cầu TTKT, giải

quyết việc làm với PTBV của đất nước; mâu thuẫn giữa tổ chức, năng lực

quản lý, cơ chế chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập với đòi hỏi quản

112

lý MTST một cách nề nếp, hiệu quả; mâu thuẫn giữa kết cấu hạ tầng, kỹthuật, ngân sách cho bảo vệ MTST rất hạn chế với khối lượng, mức độ ô

nhiễm chất thải ngày càng tăng…Để giá trị của TN - MT nói riêng và giá trị của MTST nói chung là

những giá trị chung của quốc gia, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển

lâu bền của đất nước trong hiện tại và tương lai. Vì thế tăng cường năng lực

quản lý nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST từ trung ương đến

địa phương là việc làm hết sức cấp bách và quan trọng. Đây còn là điều kiện

thiết yếu cho sự phát triển KT - XH bền vững ở nước ta. Nhận thức được tầm

quan trọng đó, trong nhiều năm trở lại đây, Nhà nước ta đã quan tâm và đưara nhiều biện pháp để giải quyết những mâu thuẫn giữa TTKT và bảo vệMTST, song, kết quả vẫn chưa được như mong đợi. Thực tế này đòi hỏi Nhà

nước phải có các giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục triệt để các mâu thuẫn

đó, tạo cơ hội cho kinh tế tăng trưởng nhanh hơn và giải quyết triệt để những

vẫn nạn về ô nhiễm MTST, đảm bảo cân đối hài hoà giữa TTKT và bảo vệ tài

nguyên - môi trường.

113

Chương 4MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ

CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG HỆ THỐNGCHÍNH SÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢPTĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

4.1.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chiến lược về gắn

tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Yêu cầu cơ bản nhất để mỗi quốc gia có thể làm tốt công tác gắn TTKT

với bảo vệ MTST là xây dựng được hệ thống chính sách, chiến lược chuyên

biệt cho lĩnh vực này. Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, cán cân phát triển kinh tế ởnước ta đã lệch hẳn sang một bên, thiên về tăng trưởng kinh tế là chủ yếú.

Nhiều vấn đề xã hội, nhất là ô nhiễm MTST đang ngày càng gây bức xúc

trong nhân dân. Để cân bằng giữa TTKT và bảo vệ MTST, việc Nhà nước ta

phải tiến hành xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chiến lược về gắn

TTKT với bảo vệ MTST là rất cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Về xây dựng và hoàn thiện chính sách về gắn tăng trưởng kinh tế với

bảo vệ môi trường sinh thái

Có nhiều chính sách tham gia vào gắn kết TTKT với bảo vệ MTST,

trong đó có hai chính sách được coi là quan trọng nhất. Đó là chính sách về đàotạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chính sách khoa học và công nghệ.

Xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - yêu cầu cơ bảncho sự phát triển nhanh và bền vững

Theo các nhà khoa học, một nền công nghiệp hiện đại được cấu thành

từ bốn yếu tố cơ bản: máy móc, thiết bị, con người, thông tin và quản lý. Máy

móc, thiết bị là phần cứng, là yếu tố cơ bản của nền công nghiệp nhưng không

114

thể coi là yếu tố quyết định duy nhất của một nền sản xuất mới, hiện đại. Bên

cạnh máy móc, thiết bị, yếu tố thông tin, quản lý, đặc biệt là yếu tố con người

giữ vai trò quan trọng, quyết định tới sự phát triển. Ở nước ta, để tiến hành

CNH, HĐH, phát triển kinh tế thì việc sử dụng đồng bộ các yếu tố trên là vô

cùng cần thiết. Trong khi máy móc, thiết bị còn thô sơ, lạc hậu, công nghệhiện đại chưa nhiều thì các yếu tố về con người, thông tin, quản lý lại đang làtiềm năng to lớn. Có thể coi đó là cơ hội tốt để đất nước tạo ra được những

thành quả KT - XH cao, đáp ứng mục tiêu PTBV.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Việt Nam khoá VII về CNH, HĐH đã nhấn mạnh “phát huy nguồn lực

con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Quan điểm

này còn được tiếp tục quán triệt ở nhiều Hội nghị quan trọng sau này của Đảng.

Tại Đại hội XI, Đảng đã khẳng định “phát triển và nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là

yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, cơ cấu

lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan

trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [55, tr.130].

Lấy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững

phải được hiểu ở cả hai khía cạnh: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực

của sự phát triển. Do vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực của Nhà nước,

một mặt, vừa phải bảo đảm khai thác và sử dụng tốt nhất tiềm năng sức lao

động, đặc biệt là “lao động chất xám”, “lao động có hàm lượng trí tuệ cao” làmđộng lực mạnh mẽ cho quá trình CNH, HĐH và PTBV.

Việt Nam đang trong quá trình thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước, trong khi các nguồn lực để TTKT còn yếu và thiếu thì TNTN là nguồn

lực đóng vai trò quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Về lôgic,

sử dụng TNTN để TTKT là hoàn toàn hợp quy luật, song, để đảm bảo PTBV

cần phải khai thác hợp lý các nguồn TNTN. Tình trạng quản lý, khai thác

TNTN ở nước ta được đánh giá là “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên

115

thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng, khai

thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi nhưng chưa có giải

pháp hữu hiệu để ngăn chặn kịp thời” [55, tr.166]. Để khắc phục hạn chế này

phải có đủ những nguồn lực cần thiết, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng

cao. Nguồn nhân lực này được đánh giá ở cả 3 khâu: nguồn lực cán bộ quản

lý, khai thác TNTN, nguồn lực KH và CN tạo ra phương tiện hiện đại đảm

bảo khai thác bền vững TNTN và nhân lực lao động kỹ thuật trực tiếp tiến

hành khai thác TNTN. Nhìn tổng thể, cả ba nhóm nguồn nhân lực này ở nước

ta vừa yếu về kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ, vừa thiếu hụt trầm trọng về sốlượng. Để có được đội ngũ những con người vừa có năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt phục vụ cho việc kết hợp giữa TTKT với

bảo vệ MTST, Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là: Hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực khai thác và

bảo vệ TNTN: Cần rà soát, đánh giá, phân loại, xây dựng và hoàn thiện quy

hoạch phân nguồn cán bộ để có hướng đào tạo. Việc phân nguồn cán bộ, nhất là

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế và cán bộ quản lý TN - XH nhất thiết

phải dựa trên mục tiêu, chương trình dài hạn, đảm bảo tính liên tục, kế cận.

Hai là: Nguồn nhân lực KH và CN đảm trách việc nghiên cứu tạo ra

phương tiện cho khai thác TNTN trước mắt phải được ưu tiên ở một số ngành

nghề chủ đạo như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệkhai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên…

Ba là: Đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp tiến hành khai thác TNTN

cần phải được tiến hành rà soát, đánh giá lại tiêu chuẩn nghề nghiệp, xác định

nhu cầu về số lượng, cơ cấu, chất lượng để có những biện pháp giáo dục, đạo

tạo mới hoặc đào tạo lại, đáp ứng nhu cầu sản xuất.

Bốn là: Phát triển hệ thống GD và ĐT nói chung và đào tạo nguồn nhân

lực cho PTBV nói riêng: Trên cơ sở của việc đánh giá, phân loại, xây dựng và

hoàn thiện quy hoạch nguồn nhân lực phục vụ cho mục tiêu gắn kết giữa

TTKT và bảo vệ MTST, Nhà nước cần phát triển hệ thống các cơ sở đào tạo,

116

nghiên cứu khoa học phục vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Các bậc

học và chương trình học cần được đổi mới theo hướng đa dạng hoá, mở rộng

quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, tiếp cận trình độ đào tạo tiên tiến trong

khu vực và quốc tế. Khuyến khích các tổ chức giáo dục quốc tế đầu tư vàolĩnh vực dạy nghề cho người lao động, nhất là đội ngũ lao động trực tiếp làm

việc trong các ngành nghề liên quan tới việc bảo vệ MTST.

Năm là: Việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho PTBV phải

được xác định cụ thể theo hướng: Đối với nhân lực lãnh đạo, quản lý phải được

đào tạo không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà còn gắn với đào tạo về đạo đức,

tác phong lãnh đạo, quản lý, trình độ lý luận chính trị cao cấp. Đối với cán bộkhoa học công nghệ, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ họ thường

xuyên đi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ ở các nước phát triển, đồng thời

giáo dục kỹ năng làm việc, nghiên cứu khoa học suốt đời. Đối với lao động kỹthuật, Nhà nước cần mở rộng quy mô và chất lượng đào tạo nghề ở các cấp, từsơ cấp đến đại học thông qua các hình thức đào tạo chính quy và vừa làm vừa

học. Đồng thời với giáo dục tri thức nghề nghiệp, đội ngũ lao động này cần phải

được giáo dục đào tạo về phẩm chất đạo đức của người công dân thế hệ mới.

Sáu là: Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng, thực hiện các cơ chế, chính

sách khuyến khích công tác đào tạo và các chính sách thu hút, sử dụng nguồn

nhân lực chất lượng cao cho PTBV, đặc biệt là gắn TTKT với bảo vệ MTST.

Các chính sách mà Nhà nước cần quan tâm, chú trọng là:

Chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng và thăng tiến: xây dựng và hoàn

thiện những phương pháp tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực làm việc trong

hệ thống PTBV một cách khách quan, chính xác để có được đội ngũ lao động

có chất lượng cao ngay từ đầu. Việc bố trí phân công công việc phải dựa trên

năng lực, tính chất công việc và các chức danh người lao động. Việc bổnhiệm cán bộ phải có căn cứ khoa học, nhất quán và linh hoạt.

Chính sách về tiền lương và đãi ngộ về mặt xã hội: thực chất đây làviệc sử dụng cơ chế lợi ích như một công cụ để điều chỉnh hoạt động của các

117

chủ thể. Những hoạt động trong khai thác TNTN cho quá trình sản xuất và

tiêu dùng đều nhằm thoả mãn nhu cầu và để đạt đến lợi ích của con người. Do

vậy, việc sử dụng cơ chế lợi ích nhất là lợi ích về kinh tế sẽ có tác dụng nhưmột công cụ vừa thúc đẩy các hoạt động tích cực, vừa ngăn chặn các hoạt

động tiêu cực mà con người gây ra cho MTST. Các chính sách tiền lươngphải được đổi mới theo hướng gắn mức độ hưởng thụ với khả năng đóng góp,

trách nhiệm và hiệu quả trong công việc. Ngoài ra, mở rộng, cải tiến các chếđộ bảo hiểm xã hội, mạng lưới an sinh xã hội cần được tiến hành kịp thời

nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bổ nguồn lực chất lượng cao một

cách hợp lý theo ngành, theo lĩnh vực.

Các chính sách hỗ trợ trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng, triển

khai, chính sách khuyến khích, phát triển nhân tài trong các hoạt động khai thác

TNTN… có tác dụng quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao cho khai thác TNTN và bảo vệ MTST trong TTKT. Do

vậy, Nhà nước cần phải có những chính sách đặc thù, đổi mới hệ thống cơ chế,

chính sách đối với hỗ trợ nghiên cứu khoa học cũng như sử dụng nhân tài một

cách hợp lý như chính sách phát hiện tài năng, chính sách tuyển chọn, tạo nguồn

tài năng…Phát triển KH và CN là yếu tố góp phần bảo vệ MTST trong TTKTKinh nghiệm ở các nước trên thế giới và ở nước ta cho thấy, KH và CN

là nguồn lực không thể thiếu trong quá trình phát triển KT - XH nói chung. Ởphương diện gắn TTKT với bảo vệ MTST, việc áp dụng thành tựu của KH và

CN vào sản xuất và bảo vệ MTST càng là đòi hỏi cấp bách. KH và CN không

chỉ là yếu tố cơ bản thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, cho phép khai thác tối

đa nguồn lực từ tự nhiên để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng mà còn là yếu tố cơbản tham gia vào tái sinh nguồn TNTN, bảo vệ MTST.

Ở Việt Nam, trong một thời gian khá dài trước thời kỳ đổi mới, vai trò

của KH và CN trong phát triển KT - XH chưa được đặt ra và giải quyết thỏa

118

đáng. Đến nay, tầm quan trọng của KH và CN nói chung và trong gắn TTKT

với bảo vệ MTST nói riêng được Đảng, Nhà nước ta nhận thức, giải quyết một

cách thấu đáo hơn. Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng khẳng định “Khoa học và

công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện

đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,

tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế” [55, tr.78].

Có thể nói, sự phát triển của KH và CN ở nước ta trong thời gian qua

đã góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế và

bảo vệ MTST. Việc chuyển giao, ứng dụng rộng rãi những thành tựu KH và

CN đã góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hình

thành một số ngành kinh tế có trình độ công nghệ cao. Việc tiếp thu, ứng dụng

công nghệ sản xuất hiện đại vào khai thác TNTN làm cho quá trình khai thác, sửdụng TNTN ngày càng hiệu quả, tiết kiệm. Đặc biệt, việc sử dụng các công nghệhiện đại như công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, áp dụng những quy

trình canh tác mới trong sản xuất cây trồng và vật nuôi, vừa có tác dụng cải tạo

MTST, vừa giúp kinh tế tăng trưởng nhanh hơn.

Tuy nhiên, đi sâu vào thực tiễn cho thấy, KH và CN ở nước ta chưathực sự phát huy và xứng đáng với vị trí “quốc sách hàng đầu”. Tiềm lực khoa

học được các tổ chức khoa học trong nước và quốc tế đánh giá là chưa cao,vừa yếu về số lượng, vừa kém về chất lượng. Tỷ lệ công nghệ, thiết bị hiện

đại sử dụng trong các ngành khai thác TNTN vẫn còn ở mức khiêm tốn, dẫn

tới tình trạng tiêu hao, lãng phí năng lượng, nguyên vật liệu còn ở mức cao,

chưa góp phần cải thiện MTST.

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và bảo vệ MTST,

Đảng, Nhà nước ta khẳng định cần thiết phải gắn các thành tựu của KH và CN

vào trong từng ngành, từng lĩnh vực. Cụ thể, trong công nghiệp, cần “chú trọng

phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, nănglượng tái tạo và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm nănglượng, nguyên liệu. Từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp

119

môi trường” [55, tr.112]. Đối với nông nghiệp, cần “đẩy nhanh áp dụng tiến bộkhoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng

dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình

sản xuất đạt năng suất, chất lượng và đạt hiệu quả cao” [55, tr.115].

Để bảo vệ MTST, nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã triển khai

xây dựng nền kinh tế dựa trên trình độ phát triển của KH và CN, thân thiện

với môi trường - đó là kinh tế xanh (kinh tế ít các-bon) và kinh tế tuần hoàn

dựa trên cơ sở hệ thống công nghệ xanh, công nghệ tái tạo để tiết kiệm TNTN

và bảo vệ MTST. Với chức năng bảo vệ và cải thiện MTST, các nền kinh tếnày sẽ cho ra đời những sản phẩm xanh, có ý nghĩa cao trong bảo vệ môi

trường như trang thiết bị, hàng hóa tiêu dùng xanh…Với những ưu điểm mà nền kinh tế xanh và nền kinh tế tuần hoàn vật

chất đem đến cho MTST, đòi hỏi Nhà nước ta phải sớm bắt tay vào xây dựng

các nền kinh tế này. Để làm được điều đó, trước hết, Nhà nước phải nhanh

chóng xây dựng phương thức sản xuất tuần hoàn thực sự trong toàn bộ các

ngành công nghiệp sản xuất, đặc biệt là các ngành công nghiệp xử lý TNTN

như luyện kim, kim loại màu, công nghệ hóa học, công nghệ vật liệu xây

dựng… Cùng với đó, Nhà nước còn phải chuyển đổi các ngành công nghiệp

truyền thống tiêu tốn nhiều nguyên liệu, gây ô nhiễm MTST như công nghiệp

nhuộm màu trong sản xuất vải, công nghiệp sản xuất đồ da dụng… sang các

ngành ít tiêu hao nguyên vật liệu và ít gây ô nhiễm môi trường hơn. Đối với

các ngành sản xuất thủ công, manh mún, “sản xuất bẩn” cũng cần phải sớm

được chuyển đổi sang các ngành sản xuất bằng công nghệ hiện đại, “sản xuất

sạch” hơn. Song song với sự chuyển đổi các ngành kinh tế này, Nhà nước cần

phải thay đổi cơ chế, chính sách để “nuôi dưỡng” những ngành công nghiệp

mới dựa trên cơ sở của công nghệ xanh như: công nghiệp xử lý, chế biến rác

thải; công nghệ năng lượng, vật liệu mới… để giúp cấu trúc kinh tế đặt trọng

tâm vào giảm thiểu các-bon, làm xanh - sạch công nghệ, xây dựng kết cấu

kinh tế thân thiện với môi trường.

120

Việc xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn - cơ sở để bảo vệMTST một cách toàn diện, lâu dài nhất - không hề đơn giản và dễ thực hiện.

Chúng ta chỉ có thể thực hiện trong trường hợp có được hệ thống KH và CN

hiện đại. Để có được hệ thống KH và CN hiện đại đó, Nhà nước cần thực hiện

một số giải pháp sau đây:Thứ nhất: Thực tế cho thấy, ở nước ta, KH và CN chưa thực sự phát

huy vai trò “quốc sách hàng đầu” trong đổi mới nền kinh tế theo xu hướng

bền vững là do cơ chế, chính sách, pháp luật dành cho phát triển KH và CN

nói chung và đội ngũ cán bộ KH, CN nói riêng còn nhiều hạn chế. Do vậy,

việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp để xây dựng, sử dụng

và phát huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật hiện có; nâng cao

tính cạnh tranh trong hoạt động của các cá nhân, các tổ chức khoa học; tạo

động lực cho KH và CN phát triển… là những nhiệm vụ có ý nghĩa then chốt

hàng đầu. Chỉ khi nào Đảng và Nhà nước ta làm được điều đó, thì khi ấy KH

và CN mới thực sự có chỗ đứng vững vàng, phục vụ đắc lực cho công cuộc

PTBV đất nước.

Thứ hai: Cần có cơ chế, chính sách để “Tăng nhanh năng lực khoa học,

công nghệ có trọng tâm, trọng điểm… Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ, tổ chức, cơchế quản lý, cơ chế hoạt động khoa hoc, công nghệ, phát huy vai trò, hiệu quảcủa các tổ chức khoa học, công nghệ chủ lực trong việc thực hiện các nhiệm vụkhoa học công nghệ trọng điểm… Xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu

hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học, công nghệ” [55, tr.132-

135]. Các chính sách mà Đảng và Nhà nước cần thực hiện để tăng nhanh tiềm

lực khoa học công nghệ ở đây chính là các chính sách về ưu đãi, chính sách tài

chính, chính sách giao lưu, hợp tác quốc tế… đặc biệt là chính sách sử dụng,

đãi ngộ nhân tài trong lĩnh vực KH và CN.

Thứ ba: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, thực hiện hóa lĩnhvực khoa học công nghệ đi đôi với xóa bỏ cơ chế quan liêu, độc quyền trong

nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ; tạo ra những điều kiện, môi

121

trường cạnh tranh bình đẳng trong nghiên cứu, triển khai, ứng dụng KH và

CN cũng là một biện pháp khá quan trọng để phát huy vai trò của KH và CN

trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST.

Thứ tư: Việc nghiên cứu, triển khai, ứng dụng KH và CN trong công

tác gắn TTKT với bảo vệ MTST không được tiến hành một cách tràn lan, dàn

trải mà phải được tiến hành một cách có trọng tâm, trọng điểm. Nhiệm vụ của

Nhà nước là phải xác định được các khu vực, các ngành nghề cần được ưutiên nguồn tài chính, cơ chế, chính sách để phát triển KH và CN. Một số khu

vực, ngành nghề như khai thác TNTN, xử lý rác thải… là các ngành có thểđem lại sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế, song đồng thời cũng là các ngành

có nguy cơ gây hại cho MTST nhiều nhất. Do đó, các ngành này phải được

Nhà nước ưu tiên cho việc nghiên cứu, ứng dụng, triển khai KH và CN.

Về xây dựng, hoàn thiện các chiến lược về gắn tăng trưởng kinh tếvới bảo vệ môi trường sinh thái

Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã rất quan tâm tới vấn đề TTKT

gắn với bảo vệ MTST. Hàng loạt các chiến lược liên quan tới vấn đề này nhưChiến lược Tăng trưởng xanh, Chiến lược Phát triển bền vững, Chiến lược

Khoáng sản, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia… đã ra đời. Tuy nhiên,

còn không ít những hạn chế đang tồn tại: số lượng các chiến lược có tăng lênsong chất lượng chiến lược vẫn chưa cao, chưa đáp ứng những đòi hỏi của thực

tiễn bảo vệ MTST trong TTKT. Trên thực tế, các chiến lược mới chỉ bàn đến

vấn đề gắn TTKT và bảo vệ MTST ở một góc độ nhỏ, thiếu tính phổ quát. Hơnnữa, các chiến lược, quy hoạch về phát triển kinh tế và về bảo vệ MTST thường

được xây dựng độc lập, không có sự gắn kết với nhau, mâu thuẫn hoặc chồng

chéo lên nhau; việc thực hiện gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST trong các

chiến lược, quy hoạch cũng còn khó khăn, không đạt hiệu quả mong muốn.

Do đó, yêu cầu khách quan để vừa có được TTKT, vừa bảo vệ được

MTST là Nhà nước cần khẩn trương ban hành chiến lược chuyên biệt về gắn

TTKT với bảo vệ MTST. Đây là việc làm khó khăn, mất nhiều thời gian và

122

công sức nhưng nhất định phải thực hiện. Trước mắt, khi chưa có chiến lược

này, Nhà nước nên rà soát, chỉnh sửa các chiến lược về phát triển kinh tế, các

chiến lược về bảo vệ môi trường đã có theo hướng gắn kết chặt chẽ với nhau

và gắn TTKT với bảo vệ MTST. Trong các chiến lược này, Nhà nước nên tập

trung vào công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các

làng nghề, các khu đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹlưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó đưa ra những chính sách phù hợp,

hạn chế tới mức thấp nhất sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các chiến lược.

Nhà nước cũng cần đưa ra các chương trình hành động về MTST trong

các chiến lược đã có. Trong đó, việc xác định rõ trách nhiệm của các bộ,

ngành, đơn vị liên quan và cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành đểquản lý việc tổ chức, thực hiện hiệu quả các chiến lược là vấn đề quan trọng

hàng đầu để bảo vệ MTST. Bên cạnh đó, cần thực hiện công khai, minh bạch

các chiến lược; tạo mọi điều kiện để mọi tổ chức xã hội và mọi người dân

tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của các chiến lược.

4.1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về gắn tăngtrưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Giá trị của tài nguyên và môi trường là những giá trị chung của quốc

gia, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển lâu bền của đất nước. Vì thế,

tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ TNTN và môi trường từtrung ương đến địa phương là việc làm hết sức cấp bách và quan trọng. Đâycũng là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển KT - XH lâu bền. Khuyến khích

bảo vệ TNTN, ngăn chặn tình trạng ô nhiễm MTST, tạo điều kiện thúc đẩy

kinh tế tăng trưởng chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở xây dựng được hệthống pháp luật, chính sách, chiến lược đồng bộ. Hệ thống này sẽ có tác dụng

ngăn ngừa các chủ thể kinh tế hủy hoại MTST, không để họ vì mục đích kinhtế mà huỷ hoại MTST. Đồng thời, nó còn giúp mọi người có cơ hội bình đẳng

trong hưởng thụ nguồn TNTN được khai thác và cùng tham gia vào bảo vệMTST một cách tích cực, tự giác.

123

Việc bảo vệ MTST trong TTKT cần có hệ thống pháp luật đủ mạnh và

minh bạch, đảm bảo các chế tài nghiêm khắc, đủ sức răn đe các vi phạm của

các tổ chức, cá nhân về bảo vệ MTST. Tuy nhiên, ở nước ta việc hoạch định

hệ thống pháp luật về bảo vệ MTST vẫn chưa thật đầy đủ và đồng bộ. Hiện

nay, trong nước đang lưu hành hàng trăm văn bản khác nhau về bảo vệ MTST

và bảo tồn TNTN. Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 - văn bản

pháp luật quan trọng nhất, còn có nhiều ngành luật khác nhau như Luật Bảovệ và phát triển rừng, Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước... Những vănbản pháp luật này được coi là những tiền đề cơ bản cho việc phát triển, hoàn

thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ MTST và TTKT ở nước ta hiện nay.

Mặc dù các văn bản pháp luật hướng dẫn khai thác hợp lý TNTN và bảo

vệ MTST rất nhiều song chưa thực sự phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường,

chưa gắn kết chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Một số văn bản dưới luật

có nội dung chồng chéo, thậm chí, đây là lĩnh vực còn bỏ ngỏ. Hệ thống thuếbảo vệ, kiểm toán môi trường quy định chi tiết chế độ bảo hiểm, trách nhiệm bồi

thường thiệt hại môi trường, các chính sách về phân loại chất thải, chính sách cụthể để khuyến khích các ngành công nghiệp môi trường, quản lý chất thải, kiểm

soát ô nhiễm, khắc phục sự cố môi trường còn thiếu nhiều quy định quan trọng

và chưa đồng bộ. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật quản lý các loại tài nguyên

quý như tài nguyên biển, rừng… vừa yếu kém, vừa có nhiều lỗ hổng. Trong xu

thế hội nhập quốc tế hiện nay, không ít vấn đề mà các nhà khoa học và các cơquan chức năng tỏ ra lo ngại như việc du nhập các loài, giống mới, tiếp cận

nguồn gen… chưa được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản pháp luật.

Việc ban hành và thực thi pháp luật về môi trường ở Việt Nam nhiều

năm qua còn cho thấy tính ổn định của các văn bản pháp luật chưa cao. Trongkhi nhiều văn bản không còn phù hợp với thực tế chậm được điều chỉnh thì

cũng có những văn bản vừa ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung. Bất

cập lớn nhất trong hệ thống pháp luật về môi trường ở nước ta hiện nay là còn

nương nhẹ với các hoạt động vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Nếu so

124

mức phạt mà các doanh nghiệp phải nộp do vi phạm pháp luật về bảo vệ môi

trường với việc đầu tư thiết bị xử lý môi trường thì mức phạt thấp hơn nhiều

so với đầu tư công nghệ. Do đó, các doanh nghiệp luôn chọn giải pháp nộp

phạt thay cho đầu tư công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường. Đây là một nguyên

nhân khác dẫn tới hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường không đạt

được mục đích như các nhà làm luật mong đợi.

Với những vấn đề đã nêu thì điều quan trọng có ý nghĩa đầu tiên là Nhà

nước phải chủ động cho ra đời một ngành luật chuyên biệt về bảo vệ MTST

trong TTKT với những quy định và các chế tài mạnh đủ sức săn đe các hànhvi vi phạm pháp luật. Trước mắt, khi chưa đưa ra được hệ thống pháp luật

chuyên biệt này, Nhà nước nên rà soát lại các văn bản pháp luật môi trường

đã có, chỉnh sửa theo hướng tạo ra sự gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST

và phải đảm bảo được các yêu cầu sau:

Thứ nhất: Hệ thống pháp luật về môi trường phải đủ mạnh, các chế tài

phải thật sự nghiêm khắc, đủ sức răn đe các hành vi vi phạm pháp luật. Hệthống pháp luật phải đa dạng các hình thức xử lý vi phạm, bao gồm cả cưỡng

chế hành chính và xử lý hình sự tùy theo mức độ vi phạm. Điều cốt yếu nhất

trong việc đưa ra các quy định pháp luật về xử phạt ô nhiễm MTST là các quy

định về xử phạt phải thật sự có “giá trị”. Tất cả các hình thức vi phạm và xửphạt phải kịp thời và đảm bảo tính nghiêm túc. Mức phạt tiền phải đo được

mức độ tội phạm, nghĩa là số tiền phạt phải lớn hơn gấp nhiều lần lợi nhuận

mà doanh nghiệp có được do vi phạm nguyên tắc bảo vệ MTST. Áp dụng các

biện pháp mạnh như không cấp phép hoặc thu hồi giấy phép vĩnh viễn đối với

các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Thứ hai: Nhà nước cần tham khảo luật môi trường của các nước phát

triển trong khi sửa đổi ban hành luật. Điều dễ nhận thấy ở các nước phát triển

là ngành luật môi trường của họ quy định rõ những chế tài xử phạt (trong đómức phạt tiền thường rất cao), người gây ô nhiễm môi trường còn phải chịutrách nhiệm tái tạo môi trường như trước lúc nó chưa bị xâm phạm. Đây là

125

hướng gợi mở quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam đểđưa ra những chính sách hợp lý về bảo vệ MTST trong TTKT. Việc áp dụng

các nguyên tắc của kinh tế thị trường vào bảo vệ MTST cũng là một trong

những biện pháp mà Nhà nước cần cân nhắc trong khi hoạch định chính sách,

chẳng hạn nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền hay nguyên tắc người

sử dụng, hưởng lợi từ môi trường cũng phải trả tiền... là những nguyên tắc có

ý nghĩa cao trong bảo vệ MTST.

Thứ ba: Vì lợi ích kinh tế, các doanh nghiệp sẵn sàng nộp thuế, nộp

phạt để khai thác TNTN. Bởi vậy, Nhà nước cần phải xây dựng, hoàn thiện

cũng như công khai hóa quy định pháp lý đối với sự tham gia của các thành

phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế ngoài nhà nước vào các hoạt động

khác liên quan đến bảo vệ MTST. Bên cạnh đó, Nhà nước còn phải đề ra các

quy định như thực hiện hạch toán môi trường ở cấp doanh nghiệp; ban hành

các văn bản quy phạm pháp luật; điều chỉnh hệ thống kế toán báo cáo thống

kê hiện hành của các doanh nghiệp theo hướng bổ sung các mục có liên quan

tới đầu tư và bảo vệ môi trường; quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp

trong báo cáo các hoạt động tuân thủ luật môi trường; minh bạch hóa thông

tin về môi trường của từng doanh nghiệp; thể chế hóa các quy định về trách

nhiệm của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường; đưa trách nhiệm xã hội của

doanh nghiệp vào làm tiêu chí để đánh giá sự tăng trưởng. Đề ra và thực hiện

tốt các quy định này sẽ góp phần tăng cường năng lực của Nhà nước trong

quản lý TN - MT ở nước ta hiện nay.

Thứ tư: Hệ thống pháp luật về gắn TTKT với bảo vệ MTST phải có

những quy định cụ thể về yêu cầu, nội dung, phương thức, chế độ kiểm tra,

giám sát, kế toán và kiểm toán thích hợp nhằm đảm bảo mục tiêu, yêu cầu và

hiệu quả của các hoạt động quản lý TNTN và bảo vệ MTST. Gắn liền với các

yêu cầu này là yêu cầu về công khai, minh bạch các quy định luật pháp ra

ngoài xã hội để Nhà nước và nhân dân cùng tham gia vào giám sát việc thực

thi pháp luật của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh.

126

Thứ năm: Một trong những nguyên nhân làm cho bức tranh MTST ở

nước ta ngày càng trở nên ảm đạm và tiêu điều là do các tiêu chuẩn về môi

trường ở nước ta chưa ngang bằng với tiêu chuẩn của các nước phát triển. Do

vậy, đã đến lúc Nhà nước cần xem xét, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các tiêu

chuẩn về môi trường và nâng các tiêu chuẩn này lên ngang tầm với các tiêu

chí của các nước công nghiệp mới. Để pháp luật về môi trường ở nước ta

không chỉ đủ để răn đe mà còn tương thích với luật môi trường thế giới.

Trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh và hội nhập, Nhà nước cần phải ban hành

hệ thống quy chuẩn quốc gia về xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm tại các

khu công nghiệp, khu chế xuất và ban hành mới các quy chuẩn về xây dựng

hệ thống quan trắc ô nhiễm tại các doanh nghiệp.

Thứ sáu: Các hoạt động khai thác TNTN thường để lại hậu quả nặng nề

cho MTST. Do vậy, Nhà nước cần điều chỉnh hệ thống các ngành luật,

hoàn thiện các quy định về quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn, kiểm tra, xác

nhận cơ sở tái chế, tiêu hủy, chôn lấp chất thải… Ở một mức độ nhất định,

các hoạt động khai thác còn gây tổn thất một lượng không nhỏ TNTN, điều

đó đòi hỏi Nhà nước còn phải hoạch định các quy định về bảo vệ, tái tạo và

phục hồi các loại TNTN nhất là tài nguyên không tái tạo, đảm bảo lợi ích lâu

dài cho các thế hệ mai sau.

4.2. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ, HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

4.2.1. Hoàn thiện và tăng cường cơ chế tổ chức bộ máy nhà nước

bảo vệ môi trường sinh thái gắn với tăng trưởng kinh tế

Hoàn thiện và tăng cường cơ chế tổ chức bộ máy nhà nước bảo vệ môi

trường sinh thái gắn với tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng để MTST

vẫn được bảo vệ mà kinh tế lại không bị giảm sút. Để làm được điều này, Nhà

nước ta cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

127

Một là: Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về gắn tăng trưởng kinh tếvới bảo vệ môi trường sinh thái

Nắm bắt được vai trò quan trọng của bộ máy quản lý nhà nước về môi

trường trong PTBV, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Nhà nước đã thiết

lập đồng bộ bộ máy quản lý nhà nước về môi trường ở cả trung ương và địaphương. Bộ máy quản lý nhà nước về môi trường dù đã được kiện toàn nhiều lần

song cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất giữa các ngành, các cấp. Việc phân

công nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn phân tán, chồng chéo

và thiếu tính hợp lý, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao; các

vấn đề liên ngành, liên vùng, xuyên quốc gia chưa được giải quyết hiệu quả;

chưa ngang tầm với yêu cầu bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,

HĐH nhất là trước bối cảnh khí hậu và MTST có những biến đổi phức tạp nhưhiện nay. Lực lượng cán bộ chuyên trách về môi trường tại các doanh nghiệp tuy

đã được bổ sung, phát triển nhưng nhìn chung chưa đáp ứng đủ, do đó, công tác

giám sát nội bộ và thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở các doanh nghiệp còn

nhiều yếu kém… Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ tới công tác bảo

vệ MTST. Trong thời gian tới, để khắc phục những hạn chế đó, Nhà nước cần

tập trung vào việc kiện toàn và tăng cường hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà

nước về TN - MT từ trung ương đến địa phương theo hai hướng chuyên môn,

chuyên sâu và theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang.

Theo chiều dọc, đối với bộ máy quản lý nhà nước về TN - MT ở cấp

tỉnh phải được tăng cường cả về cơ cấu tổ chức lẫn nhân lực, cơ sở vật chất và

trang thiết bị kỹ thuật cho tương xứng với chức năng và nhiệm vụ được giao.

Đối với những nơi chưa có Chi cục bảo vệ môi trường trực thuộc Sở Tài

nguyên và Môi trường, Nhà nước cần khẩn trương đôn đốc, tổ chức thành lập,

giao quyền quản lý nhà nước về TN - MT ở địa phương cho các Chi cục bảo

vệ môi trường. Còn đối với bộ máy quản lý nhà nước về TN - MT ở cấp

huyện, xã, Nhà nước cũng cần phải xúc tiến thành lập Phòng Tài nguyên và

Môi trường ở những nơi chưa có, thiết lập bộ phận chuyên trách quản lý môi

128

trường ở cấp xã, thậm chí nếu cần phải thiết lập thêm ở cấp thôn, xóm, làng,

bản. Tránh tình trạng thừa hoặc thiếu giữa các vùng miền, địa phương, đồng

thời khắc phục tình trạng kiêm nhiệm không chuyên trách của cán bộ làm

công tác quản lý TN - MT.

Theo chiều ngang, cần thành lập các bộ phận chuyên trách quản lý TN -

MT ở mọi nơi, đặc biệt là ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, các tổng công

ty, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, cùng với quá

trình thúc đẩy kinh tế tăng trưởng thì những nơi này thường gây ra tình trạng

ô nhiễm môi trường nhiều nhất và với cấp độ nặng nhất. Do đó, tăng cường

bộ phận chuyên trách quản lý TN - MT ở các cơ sở này sẽ giúp Nhà nước phát

hiện sớm các hành vi gây ô nhiễm môi trường, từ đó có các biện pháp chấn

chỉnh và xử lý kịp thời, tránh tình trạng “chờ được vạ thì má đã sưng” trong

xử lý ô nhiễm môi trường.

Hai là: Tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các lực lượng

chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái

Kiện toàn và tăng cường hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước vềTN - MT từ trung ương đến địa phương là rất quan trọng, song nó chỉ có ý

nghĩa khi các lực lượng tham gia công tác bảo vệ MTST biết nâng cao vai trò,

trách nhiệm mà Nhà nước giao phó. Thực tế cho thấy rằng, nếu ở nơi nào bộmáy quản lý nhà nước về TN - MT được đảm bảo; cán bộ, công chức thực thi

nhiệm vụ quản lý, bảo vệ TN - MT có ý thức trách nhiệm đối với công việc

được giao thì ở nơi đó MTST sẽ ngày càng được cải thiện theo chiều hướng

tích cực. Còn ngược lại, ở những nơi mà bộ máy quản lý nhà nước về TN -

MT không đảm bảo, cán bộ, công chức không có ý thức trách nhiệm đối với

công việc được giao thì ở nơi đó MTST ngày càng trở nên tồi tệ.

Để tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các cơ quan làmnhiệm vụ bảo vệ MTST, trước hết, Nhà nước phải tăng cường công tác đàotạo, nâng cao trình độ, đặc biệt là trình độ chuyên môn và quản lý cho các lực

lượng thực thi nhiệm vụ bảo vệ MTST. Tăng cường công tác đào tạo có thể

129

thông qua nhiều biện pháp từ đào tạo dài hạn đến ngắn hạn, tập huấn, hội

thảo, hội nghị… Nội dung đào tạo phải được thể hiện ở mọi lĩnh vực về quản

lý, bảo vệ TN - MT và phương pháp phải đảm bảo gắn lý thuyết với thực tiễn,

tránh việc đào tạo chỉ mang tính hình thức. Việc làm này phải được tiến hành

thường xuyên, liên tục, có hệ thống và phải được tiến hành đối với tất cả các

cán bộ làm công tác TN - MT ở mọi cấp, nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn,

bởi họ là những người tiếp xúc trực tiếp, đầu tiên với hiện trạng MTST.

Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các lực lượng làm nhiệm vụ bảo

vệ MTST còn được thể hiện ở việc Nhà nước phải tiến hành rà soát, đánh giá,xác định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện

chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ MTST. Đảm bảo tính thống nhất đối

với công tác quản lý môi trường, khắc phục tình trạng thực hiện các tác

nghiệp quản lý TN - MT theo nhiều cấp, hạn chế việc phân tán chức năngquản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo các ngành quản lý KT - XH nhưhiện nay. Đây là việc vô cùng quan trọng, sẽ giúp Nhà nước biết rõ vai trò của

từng lực lượng trong quản lý, bảo vệ TN - MT. Từ đó khắc phục tình trạng bỏtrống hoặc chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan với nhau

trong quản lý, bảo vệ TN - MT, đồng thời giúp Nhà nước dễ quy trách nhiệm

cụ thể cho từng bộ phận khi có sự cố môi trường xảy ra. Tránh tình trạng đổlỗi cho nhau giữa các cơ quan nhà nước thực thi nhiệm vụ bảo vệ TN - MT.

Có nhiều nhà khoa học cảnh bảo rằng, ở nước ta, nếu Nhà nước không có

những chính sách định hướng rõ ràng đối với tình trạng nhập khẩu các thiết bị,máy móc đã qua sử dụng thì Việt Nam sẽ trở thành “bãi thải” cho các nước tiên

tiến trên thế giới thải ra những máy móc, thiết bị đã lạc hậu gây ô nhiễm môi

trường. Vấn đề này không chỉ đòi hỏi Nhà nước phải nhận thức rõ mà còn là

minh chứng cho tình trạng chồng chéo lên nhau giữa các cơ quan nhà nước trong

việc quản lý rác thải. Trong thực tế, đã từng xảy ra hiện tượng, có những

container hàng hóa đã qua sử dụng ở các nước phát triển nhập về, Bộ Tài nguyên

và Môi trường cho rằng ảnh hưởng đến môi trường và không được nhập vào

130

nhưng Hải quan Việt Nam lại vẫn đồng ý cho nhập vào trong nước. Tình trạng

này đòi hỏi Nhà nước cần phải xây dựng và ban hành ngay quy chế phối hợp cụthể giữa các cơ quan ban ngành có liên quan trong việc bảo vệ môi trường.

Trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tránh tình trạng

cùng một vấn đề nhưng mỗi cơ quan lại xử lý theo các phương án khác nhau.Khi có những vấn đề liên ngành, liên lĩnh vực cần phải phối hợp giải

quyết, Nhà nước cần giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm chính, còn các cơquan khác tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ tham gia giải quyết theo

quy định của pháp luật. Chẳng hạn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đảm nhiệm

chức năng kiểm soát ô nhiễm; quản lý chất thải và cải thiện môi trường; bảo

tồn đa dạng sinh học; bảo vệ môi trường lưu vực sông, vùng ven biển; thẩm

định và đánh giá tác động môi trường; quan trắc và thông tin môi trường... BộY tế chịu trách nhiệm về quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm; Cục Cảnh sát

phòng chống tội phạm môi trường có trách nhiệm điều tra các hành vi gây ô

nhiễm MTST… Khi có tình trạng ô nhiễm xảy ra liên quan đến cả ba cơ quannày thì Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm trước

Nhà nước về xử lý vi phạm, còn Bộ Y tế và Cục Cảnh sát phòng chống tội

phạm môi trường sẽ có trách nhiệm giúp Bộ Tài nguyên và Môi trường làm rõ

các hành vi vi phạm để làm căn cứ xét xử trước pháp luật.

Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các lực lượng làm nhiệm vụ bảo

vệ MTST còn đòi hỏi Nhà nước phải biết đánh giá, coi trọng năng lực, chất

lượng làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý TN - MT.

Tiếp tục rà soát trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ các đơn vị trực thuộc,

kể cả cán bộ lãnh đạo để đề xuất bố trí, phân công công việc bảo đảm sự hợp

lý về năng lực với trọng trách được giao, không chỉ chú trọng công tác đàotạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, xây dựng các tiêu chí chức danh chuyên môn

nhằm nâng cao vai trò của cán bộ trong quá trình thực thi công vụ mà còn

thực hiện cơ chế khen thưởng, kỷ luật kịp thời để kích thích tinh thần, ý thức

trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác quản lý TNTN và bảo vệ

131

MTST. Những cán bộ, công chức có thành tích cần được động viên, khích lệkịp thời. Còn những cán bộ, công chức vi phạm trách nhiệm và đạo đức nghềnghiệp cần phải được xử lý nghiêm minh. Thực hiện được điều này đòi hỏi

Nhà nước phải thành lập được bộ quy tắc, có được các chế tài phù hợp với

chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý TN - MT.

Giáo dục, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức có ý

nghĩa quan trọng trong việc tăng cường năng lực, trách nhiệm cho các lực lượng

cán bộ làm công tác quản lý TN - MT. Trong bối cảnh hiện nay, sự xuống cấp vềtư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức thực thi công việc bảo vệMTST không phải là không có. Ở nhiều nơi trên toàn quốc vẫn đang âm thầm

diễn ra hiện tượng cán bộ nhận tiền hối lộ của doanh nghiệp để bao che, tiếp tay

cho các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Như Đại hội Đảng lần thứXI khẳng định thì đó “đang là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của

Đảng và của chế độ”, tạo kẽ hở cho sự hình thành các mối quan hệ lợi ích theo

kiểu đường dây, cục bộ địa phương… Do đó, Nhà nước cần có những biện pháp

để giáo dục ý thức đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức công tác trong

ngành TN - MT. Các biện pháp đó là tuyên truyền, giáo dục cán bộ, công chức

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tiến hành nêu gươngngười tốt, việc tốt; dùng biện pháp hành chính, pháp luật để kiên quyết loại trừnhững cán bộ không có phẩm chất đạo đức ra khỏi ngành TN - MT…

Như vậy, hiện đại hóa công tác quản lý, cải cách cơ chế quản lý chia sẻlợi ích cộng đồng, tăng cường điều kiện tiếp cận thông tin, minh bạch trong

quản trị và sự tham gia của công chúng là những đổi mới căn bản để đảm bảo

sự cân bằng trong quản lý TN - MT và cũng là những giải pháp để bảo vệMTST ở nước ta hiện nay.

4.2.2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết

hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Như đã khẳng định, thanh tra, kiểm tra, giám sát là một chu trình không

thể thiếu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kết hợp giữa

132

TTKT với bảo vệ MTST. Mục đích của hoạt động này chính là nhằm phòng

chống, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm về bảo vệ MTST trong các

hoạt động kinh tế, góp phần bảo đảm cho các ngành luật về bảo vệ MTST đivào cuộc sống. Song, để các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thực sự có

hiệu quả, Nhà nước phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là: Trong nhiều trường hợp, bộ phận thanh tra, kiểm tra, giám sát

chuyên ngành sẽ giúp Nhà nước có thêm cơ sở pháp lý để xử lý các vụ vi

phạm pháp luật về bảo vệ MTST. Do vậy, Nhà nước nên thiết lập hệ thống

thanh tra, kiểm tra, giám sát chuyên ngành về MTST ở mọi cấp từ trung ươngđến địa phương thay cho chỉ có ở cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay.

Hai là: Chất lượng của cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, giám

sát là nhân tố quan trọng đảm bảo cho việc kết hợp giữa TTKT và bảo vệMTST được thực thi trên thực tế. Vì vậy, Nhà nước cần có các chính sách đểcác cán bộ đảm nhiệm công việc này được học tập, nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ một cách thường xuyên, liên tục, đáp ứng được những thay

đổi không ngừng mà thực tế TTKT đặt ra.

Ba là: Nhà nước cần sửa đổi và bổ sung những quy định cần thiết vềthanh tra công tác gắn TTKT với bảo vệ MTST trong Luật Thanh tra và các

ngành luật khác có liên quan, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho các hoạt động

thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST diễn

ra theo đúng trình tự, đảm bảo tính khách quan, công bằng và đạt hiệu quảthiết thực.

Bốn là: Nhà nước cần phân rõ trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, giám sát

và quyền hạn xử lý về bảo vệ MTST cho các cơ quan thẩm quyền nhà nước,

tránh trường hợp trùng lắp hoặc chồng chéo lên nhau giữa các cơ quan nhànước trong khi tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp

giữa TTKT với bảo vệ MTST.

Năm là: Gắn liền với thanh tra chuyên ngành, Nhà nước cần tiếp tục

củng cố lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường. Trong nhiều

133

năm qua, hoạt động của lực lượng cảnh sát môi trường đã có đóng gópnhiều vào sự nghiệp bảo vệ MTST ở nước ta. Nhiều vụ vi phạm pháp luật

bảo vệ MTST đã được lực lượng này phát hiện, đưa ra ánh sáng và được xửlý nghiêm minh. Điều này đã củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân

đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, việc

củng cố lực lượng này là rất quan trọng. Nhà nước nên phân công công

việc rõ ràng cho lực lượng cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ MTST ở từng lĩnhvực, từng địa bàn để họ có thể phát huy hết năng lực của mình trong tìm

tòi, phát hiện và xử lý những hành vi gây ô nhiễm MTST.

Sáu là: Nhà nước cũng cần có những cơ chế, chính sách để phát huy

vai trò của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể và mọi công dân được tham gia vào

kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cán bộ nhà nước thực hiện việc

thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST.

4.2.3. Xây dựng nguồn tài chính đủ mạnh để thực hiện việc gắn

tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Tài chính là một trong những công cụ quan trọng nhất thúc đẩy mạnh

mẽ công tác bảo vệ MTST dưới những tác động của TTKT. Ở nước ta, việc

hình thành mục chi riêng ngân sách nhà nước về sự nghiệp MT từ năm 2006đã tạo chuyển biến to lớn trong công tác bảo vệ MTST. Tuy nhiên, nếu đemso sánh tỷ lệ đầu tư cho MT (giả định là 1%) so với mức thiệt hại MT hàng

năm (được các nhà nghiên cứu tính toán vào khoảng 3-5% GDP) thì mức đầu

tư này vẫn được coi là quá thấp so với yêu cầu thực tế của nhiệm vụ bảo vệMTST. Đã nhiều năm nay, các cơ quan quản lý môi trường từ cấp trung ươngđến địa phương gặp không ít khó khăn trong việc huy động các nguồn lực

phát triển cho bảo vệ MTST do sự đầu tư ngân sách của nhà nước quá thấp.

Nhiều điểm nóng, vấn đề bức xúc về MTST, cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng

chưa được đầu tư kinh phí để xử lý triệt để. Nguồn kinh phí cấp cho các

ngành kỹ thuật và trang thiết bị xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại còn

thấp. Việc phân bổ ngân sách còn dàn trải, phân tán, chưa đồng đều giữa các

134

ngành các ngành dịch vụ, công nghệ bảo vệ MTST… Để hoạt động bảo vệMTST được triển khai có hiệu quả, theo chúng tôi, Nhà nước cần tập trung

vào các giải pháp sau:

Một là: Nhà nước cần bổ sung những quy định của pháp luật về thu, chi

tài chính bảo vệ MTST trong TTKT theo hướng phù hợp với thực tế. Đảm

bảo mọi nguồn thu đều phù hợp với những quy định của pháp luật.

Hai là: Trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp và phải bảo đảm

nguồn tài chính cho rất nhiều mục tiêu ưu tiên khác như phát triển cơ sở hạ tầng

đồng bộ, hiện đại; bảo đảm chính sách an sinh xã hội; thực hiện cải cách tiền

lương… nguồn chi cho bảo vệ MTST có hạn, thì Nhà nước cần hình thành cơchế để huy động nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ TN - MT từ các tổ chức quốc tế,

chính phủ các nước và huy động các nguồn lực tài chính trong xã hội nhằm khắc

phục tình trạng thiếu nguồn lực tài chính, giảm gánh nặng đầu tư từ ngân sách

nhà nước. Trong đó, việc tạo các điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính để các

tổ chức, cá nhân tham gia vào các loại hình xã hội hóa công tác tài chính cho sựnghiệp bảo vệ MTST có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Ba là: Nhà nước phải bảo đảm tỷ lệ chi ngân sách cho sự nghiệp môi

trường và chi đầu tư phát triển bảo vệ MTST công cộng tăng theo GDP hàng

năm. Đảm bảo tăng theo từng giai đoạn và tăng tương ứng với sự nghiệp gắn

TTKT với bảo vệ MTST.

Bốn là: Nhà nước cần rà soát các nguồn vốn ODA, vốn tín dụng cấp

cho công tác xã hội hóa về môi trường sinh thái. Song, điều quan trọng nhất ởđây là Nhà nước phải bảo đảm các nguồn vốn đó được cân đối và bố trí hợp lý

với thực tiễn gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước

ta hiện nay. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải có những cơ chế hữu hiệu

để quản lý các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường sinh thái theo hướng

tiết kiệm, hiệu quả. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc sử dụng các

nguồn tài chính phải đảm bảo tính công minh, khách quan, kịp thời phát hiện

những khoản chi không đúng, từ đó có biện pháp xử lý thích hợp.

135

4.2.4. Tăng cường học hỏi, giao lưu hợp tác quốc tế về bảo vệ môi

trường sinh thái gắn với tăng trưởng kinh tếĐể phòng chống ô nhiễm MTST, Nhà nước khẳng định cần phải

“phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế” [55,

tr.137]. Việt Nam là một trong những nước tham gia hợp tác khá nhiều với

các tổ chức quốc tế như: UNDP, UNEP, FAO, WTO, UNICEP, IUCN và

chính phủ các nước Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Canada, Hà Lan, Cộng

hòa liên bang Đức, Nhật Bản, Đan Mạch, ký kết nhiều công ước quốc tế vềbảo vệ môi trường, về PTBV. Các tổ chức quốc tế và chính phủ đã hợp tác,

giúp đỡ Việt Nam dưới các hình thức viện trợ, trợ giúp kỹ thuật trong công

tác quản lý và bảo vệ TNMT Có sự giúp đỡ hợp tác đó, Việt Nam đã nâng

cao năng lực, có được nguồn vốn trong việc giải quyết các vấn đề về môi

trường. Do đó, quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ MTST thời

gian qua ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, để đápứng tốt những đòi hỏi của tiến trình PTBV, Nhà nước cần có những giải

pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác quốc tế về gắn TTKT với

bảo vệ MTST, cụ thể là các giải pháp sau:

Một là: Duy trì mối quan hệ hợp tác truyền thống, tích cực hơn nữa

trong các hoạt động nghiên cứu, ký kết và cam kết thực hiện đầy đủ các công

ước quốc tế, nghị định thư quốc tế về bảo vệ MTST; thực hiện đầy đủ,

nghiêm túc các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý và bảo vệ MTST qua các tiêu

chuẩn ISO và nhiều tiêu chuẩn về vệ sinh, an toàn lương thực, thực phẩm.

Hai là: Mở rộng hợp tác hơn nữa với các quốc gia, các tổ chức quốc tếkhác để thu hút và khai thác hiệu quả các nguồn hỗ trợ vào công tác bảo vệMTST ở nước ta hiện nay.

Ba là: Có những chính sách khuyến khích, hợp tác với các tổ chức, cá

nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhằm nâng cao năng lực và hiệu

quả công tác bảo vệ môi trường trong nước. Nhà nước cần tập trung tạo điều

kiện thuận lợi cho các đối tượng này đầu tư, hỗ trợ hoạt động đào tạo nguồn

136

nhân lực, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, bảo tồn thiên nhiên

và các hoạt động khác trong lĩnh vực bảo vệ MTST.

Bốn là: Cải thiện và nâng cao vị trí, vai trò của Việt Nam về bảo vệ môi

trường trong khu vực cũng như trong phạm vi quốc tế. Gắn liền với giải pháp

này Nhà nước cần nhanh chóng sửa đổi, tiến tới dần hoàn thiện hệ thống

chính sách, tạo điều kiện đẩy mạnh hợp tác với các nước láng giềng và khu

vực để giải quyết các vấn đề quản lý, khai thác TNTN và bảo vệ MTST.

4.3. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆCTẠO RA SỰ ĐỒNG THUẬN CỦA TOÀN XÃ HỘI NHẰM THỰC HIỆN TỐT VIỆCKẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

4.3.1. Tuyên truyền, nâng cao ý thức tự giác, ý thức trách nhiệm

bảo vệ môi trường sinh thái cho các tầng lớp dân cưĐể TTKT và bảo vệ MTST kết hợp chặt chẽ với nhau còn phải có sự

hưởng ứng và tham gia tích cực của các cá nhân trong cộng đồng, mọi thành

viên trong xã hội. Nhưng để có hành động đúng trong quá trình khai thác

TNTN và bảo vệ MTST, trước hết, mọi người dân phải nhận thức đúng đắn, có

tư duy tích cực, tự giác trong các hoạt động khai thác TNTN và bảo vệ MTST.

Sự hình thành ý thức của người dân về khai thác, bảo vệ TNTN phụ thuộc

rất lớn vào công tác giáo dục. Thông qua giáo dục kiến thức về MTST một cách

có hệ thống, mỗi cá nhân và toàn thể cộng đồng sẽ hiểu được quan hệ tương tác,hỗ trợ lẫn nhau giữa các mặt sinh học, kinh tế, văn hoá, xã hội trong cuộc sống.

Từ đó, hình thành ở họ tri thức, thái độ, kỹ năng thực tế để cùng tham gia có hiệu

quả, có trách nhiệm vào việc tiên đoán, giải quyết các vấn đề về MTST cũng nhưquản lý chất lượng MTST. Giáo dục nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân

dân về bảo vệ MTST trong các hoạt động sản xuất còn giúp mọi người thấy

được tầm quan trọng của MTST đối với quá trình sản xuất vật chất, với sự tồn

tại, phát triển của mỗi con người trong cả hiện tại và tương lai.Tất nhiên, để thực hiện được mục tiêu trên, Nhà nước phải xây dựng,

đổi mới chương trình giáo dục, đưa nội dung giáo dục về MTST đến mọi đối

137

tượng trong xã hội. Trong nhà trường, quá trình này phải được tiến hành một

cách thường xuyên, có hệ thống, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường

và xã hội. Việc giáo dục kiến thức về MTST cho nhân dân còn được tiến hành

thông qua hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng, qua các hoạt

động tham quan, du lịch, hội hè, qua các hình thức văn học, nghệ thuật…Với

việc đa dạng hóa các loại hình giáo dục bảo vệ MTST, mọi người dân có được

tri thức về sự tác động của TTKT tới MTST. Qua đó, họ tự giác điều chỉnh

nhận thức, hành vi của mình trong việc tác động tới tự nhiên, biết cách ngănngừa các hành vi vi phạm và làm tổn hại đến MTST. Khi hiểu được lợi ích

của việc bảo vệ MTST, con người sẽ dần xoá bỏ các thói quen, tập tục trong

hoạt động sản xuất có hại đến MTST, cùng nhau hướng đến xây dựng MTST

trong lành. Với ý nghĩa đó, giáo dục MTST cho nhân dân góp phần điều tiết

sự phát triển, hướng tới PTBV, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng và từng

người trong quan hệ với tự nhiên.

Việc vận dụng những tri thức về bảo vệ MTST vào hoạt động thực tiễn

sản xuất của con người chỉ có hiệu quả, tích cực khi mỗi chủ thể hành động có

ý thức trách nhiệm đối với kết quả hành động của mình. Do đó, trong giáodục nâng cao nhận thức cho nhân dân về kết hợp giữa TTKT với bảo vệMTST cần phải chú ý liên kết chặt chẽ giữa giáo dục ý thức với tổ chức cam

kết thực hiện. Nghĩa là, một mặt, cần giáo dục ý thức về bảo vệ MTST cho

nhân dân, song, mặt khác, cũng cần phải có những cam kết, buộc mọi người

phải hành xử theo nội dung kiến thức đã được học. Đây chính là cầu nối quan

trọng để lý thuyết và thực tiễn về bảo vệ MTST gắn kết được với nhau.

Trên thực tế, có thể khẳng định và tìm được nguyên nhân của tình

trạng nhiều người dân chưa hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa các hoạt

động của con người và môi trường, đó là do họ thiếu thông tin hoặc không

có được những thông tin chính xác. Do vậy, họ không thể đóng góp ý kiến

và tham gia hành động vào PTBV. Để khắc phục những hạn chế, nâng cao

ý thức bảo vệ MTST cho nhân dân, Nhà nước cần thiết lập cổng thông tin

138

điện tử, đường dây nóng… đặt ở nhiều nơi, nhất là những khu vực mà tình

trạng khai thác TNTN diễn ra thường xuyên hay những điểm nóng về ô

nhiễm MTST, để người dân có thể cung cấp những thông tin cần thiết, góp

phần xây dựng, củng cố quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà

nước về PTBV.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều biến động, nhiều giá trịđạo đức, giá trị nhân văn - nhân bản bị xem nhẹ, thay vào đó là “lối trả tiền ngay,

lạnh lùng, không tình, không nghĩa”, thì việc xây dựng nhận thức cho nhân dân

về bảo vệ MTST trong các hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải được xác

định bởi phạm vi của việc giáo dục đạo đức sinh thái cho nhân dân. Đạo đức

sinh thái là một phương diện khác trong đời sống đạo đức cá nhân. Trên cơ sở ý

thức và hành vi, đạo đức sinh thái sẽ xác lập những hệ quy chuẩn, xây dựng bộquy tắc định hướng cho hành vi của con người trong quan hệ với tự nhiên nhằm

giảm thiểu những tác hại môi trường do chính con người gây ra.

Với ý nghĩa này, việc xây dựng và giáo dục đạo đức sinh thái cho nhân

dân là một trong những biện pháp văn hoá quan trọng, nhằm tạo ra cái tốt, cái

thiện trong cách ứng xử của con người với tự nhiên mà Nhà nước cần phải

quan tâm trong quản lý TN - MT. Việc làm đầu tiên của Nhà nước là cần tập

trung xây dựng và giáo dục các chuẩn mực đạo đức sinh thái như: gắn đạo

đức với trách nhiệm tái tạo, phục hồi MTST; chuẩn mực về khai thác, sử dụng

hợp lý TNTN và bảo vệ MTST… Quá trình giáo dục đạo đức sinh thái còn phải

gắn liền với việc xây dựng tình cảm, thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm, cách ứng xửcó văn hoá của con người đối với MTST, thường xuyên hướng những hành động

của con người vào thiết lập mối quan hệ hài hoà thật sự với giới tự nhiên.

4.3.2. Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc

gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái

Bên cạnh việc tạo lập sự đồng thuận giữa phương thức lãnh đạo của

Đảng và sự quản lý của Nhà nước thì việc gắn kết vai trò chủ đạo của Nhà

nước với các nhân tố chủ quan như nhà doanh nghiệp, cá nhân, cộng đồng...

139

cũng giữ vai trò không kém phần quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăngtrưởng nhanh và bảo vệ, phục hồi MTST.

Để TTKT kết hợp chặt chẽ với bảo vệ MTST thì trách nhiệm xã hội của

doanh nghiệp (Corporola Social Responsibility) là rất lớn. Đó là sự cam kết

của doanh nghiệp về PTVB để cả doanh nghiệp và xã hội đều phát triển. Đâylà yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cho sự nghiệp PTBV

ở Việt Nam hiện nay. Khi cạnh tranh trên thương trường ngay càng khốc liệt,

những yêu cầu, đòi hỏi từ người tiêu dùng ngày càng cao, xã hội có cái nhìn

đa chiều hơn đối với doanh nghiệp về bổn phận và trách nhiệm của họ trước

cộng đồng thì doanh nghiệp muốn phát triển phải luôn tuân thủ những chuẩn

mực cơ bản nhất không chỉ trong sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận

cao mà còn phải tuân thủ những chuẩn mực về bảo vệ TNMT.

Thực tế cho thấy, trong sản xuất các doanh nghiệp luôn tiêu thụ nguồn

lực lớn nhiên liệu các yếu tố đầu vào. Nếu doanh nghiệp có trách nhiệm với

xã hội thì họ sẽ tự nhận thức được các yếu tố đầu vào và sản phẩm sản xuất ra

có “sạch” không, có đáp ứng mọi nhu cầu bảo vệ MTST không, để từ đó điều

chỉnh quá trình sản xuất của mình theo hướng thân thiện với MTST. Đáng

tiếc là ở Việt Nam hiện nay, còn nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được trách

nhiệm của mình trong bảo vệ MTST. Họ mặc định rằng, đó là trách nhiệm

của các cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, cần phải thay đổi trách nhiệm

của từng cá nhân, tổ chức, đặc biệt, phải gắn kết trách nhiệm của doanh

nghiệp với trách nhiệm xã hội.

Đó là nhiệm vụ mà Nhà nước phải đứng ra đảm nhiệm, hướng dẫn các

doanh nghiệp nhận thức đúng đắn về lợi ích của việc khai thác hợp lý TNTN,

bảo vệ MTST, gắn việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với trách

nhiệm bảo vệ MTST. Tháng 7/2000, Liên Hiệp quốc đã đưa Bộ quy tắc ứng

xử về trách nhiệm xã hội của các công ty đa quốc gia, trong đó nêu lên cácquy tắc căn bản nhất về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với con người và

trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với môi trường. Nhà nước ta nên coi

140

Bộ quy tắc này như một căn cứ có giá trị pháp lý để buộc các doanh nghiệp

phải nâng cao trách nhiệm bảo vệ MTST đối với xã hội và đảm bảo an toàn

môi trường toàn cầu. Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp

trong bảo vệ MTST, Nhà nước nên kết hợp các giải pháp sau:

Thứ nhất: Tăng cường tuyên truyền đối với các doanh nghiệp về nghĩavụ và lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm doanh nghiệp. Phân định rõ ràng

trách nhiệm của Nhà nước với trách nhiệm doanh nghiệp trong việc xử lý các

vụ việc vi phạm về pháp luật bảo vệ môi trường.

Thứ hai: Nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa con người - môi

trường sinh thái cho các nhà quản lý doanh nghiệp. Giúp cho hành vi, ý thức

bảo vệ MTST của họ chuyển từ những giá trị mang tính tự phát sang những giá

trị mang tính tự giác.

Thứ ba: Nâng cao ý thức cho các doanh nghiệp về mối quan hệ giữa

nhà sản xuất với người tiêu dùng. Về thực chất, đó là hành động giúp các

doanh nghiệp buộc phải sản xuất ra những sản phẩm “sạch”, thân thiện, đáp ứng

nhu cầu của người tiêu dùng trên cả hai phương diện sức khoẻ và bảo vệ MTST.

Để giúp các doanh nghiệp có được suy nghĩ và hành động đúng gắn sản xuất

với bảo vệ MTST, Nhà nước cần phải ban hành các chính sách hỗ trợ các doanh

nghiệp khi họ thực hiện trách nhiệm môi trường.

Thứ tư: Nhà nước nên có các biện pháp để giáo dục, tuyên truyền ý

thức bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất, kinh doanh cho các doanh

nghiệp. Biến ý thức bảo vệ MTST của các doanh nghiệp từ chỗ chỉ tuân thủtheo pháp luật tới những đòi hỏi về đạo đức mà các doanh nghiệp thường

xuyên tự giác, tự nguyện hành động. Đi đôi với việc làm này, Nhà nước cần

có các biện pháp đủ mạnh để xử lý vi phạm của các doanh nghiệp nếu họkhông thực hiện trách nhiệm bảo vệ MTST trong sản xuất, kinh doanh.

Thứ năm: Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, xã hội không phải là tập

hợp giản đơn của các cá nhân mà là biểu hiện sinh động của những mối liên

hệ giữa các cá nhân với nhau, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa

141

những con người”. Có thể coi đây là quan điểm nền tảng để khẳng định rằng

đối với việc bảo vệ MTST, mỗi cá nhân trong cộng đồng đều phải có trách

nhiệm như nhau. Do vậy, ngoài việc gắn kết trách nhiệm của doanh nghiệp,

Nhà nước cũng cần phải phát huy vai trò của cá nhân, nâng cao trách nhiệm

cá nhân trong kết hợp giữa TTKT và bảo vệ MTST.

Xét về phương diện kinh tế, ở nước ta, thời gian gần đây cho thấy,

TTKT chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư… các cân đối vĩ mô chưavững chắc, tốc độ TTKT không cao. Còn xét về phương diện khai thác

MTST, thì “quản lý, khai thác, sử dụng TNTN hiệu quả chưa cao, còn lãng

phí. Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn

xảy ra ở nhiều nơi” [55, tr.166], “Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống

cấp, một số nơi đã đến mức bảo động” [55, tr. 169], đặc biệt chúng ta “Chưachủ động nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quảcủa thiên tai còn nặng nề” [55, tr.169]. Hạn chế này, tất nhiên còn có thể do

nhiều nguyên nhân khác, song nguyên nhân chủ quan thuộc về trách nhiệm

của cá nhân các chủ thể kinh tế là quá rõ ràng. Sự thiếu trách nhiệm của cá

nhân trong lao động sản xuất không những không đem lại hiệu suất cao trong

lao động mà còn cản trở việc bảo vệ MTST. Không ít các cá nhân với tư cáchchủ thể sản xuất kinh doanh quay lưng trước thực trạng môi trường sống ngày

càng xuống cấp trầm trọng; gian lận trong sản xuất kinh doanh, làm hàng

nhái, hàng giả; nhẫn tâm với quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng khi

cung cấp cho thị trường những sản phẩm kém chất lượng, làm ô nhiễm môi

trường sống. Trước thực trạng này, Nhà nước cần phải có những biện pháp

nhằm gắn trách nhiệm cá nhân với các hoạt động sản xuất kinh doanh và yêu

cầu về bảo vệ MTST. Các biện pháp đó có thể là:

Thứ năm: Nhà nước đã trao cơ hội sản xuất, kinh doanh cho mọi cá nhân,

do đó, Nhà nước cũng phải đưa ra các biện pháp buộc mọi cá nhân, nhất là các

chủ doanh nghiệp, các nhà quản lý phải nâng cao và phát huy trách nhiệm cá

nhân đối với cộng đồng trong bảo vệ MTST. Biện pháp mà Nhà nước sử dụng

142

để đạt hiệu quả cao nhất là thông qua cơ chế lợi ích, bởi “chính lợi ích là cái liên

kết các thành viên của xã hội” [89, tr.183] lại với nhau, và, “con người độc lập

chỉ liên hệ với người khác thông qua cái nút là lợi ích” [89, tr.172].

Thứ sáu: Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường đề cao tự do cá nhân,

là môi trường dễ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta chấp

nhận kinh tế thị trường nghĩa là chúng ta chấp nhận cả những mặt tiêu cực của

nó, biết rõ mối quan hệ giữa lợi ích và đạo đức trong sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh những chủ thể sản xuất kinh doanh có đạo đức, có trách nhiệm, biết

bảo vệ MTST thì vẫn còn có những người vì lợi ích cá nhân mà tiến hành tàn

sát và gây ô nhiễm nặng nề cho MTST. Thực trạng này đã và đang báo động

trong xã hội ta ngày nay, đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng pháp luật để điều

chỉnh lợi ích cá nhân, phát huy lợi ích tập thể, xã hội.

Bên cạnh việc sử dụng pháp luật, Nhà nước còn cần phải sử dụng cảđạo đức để điều chỉnh lợi ích cá nhân. Nhà nước có thể sử dụng biện pháp này

thông qua việc giáo dục ý thức đạo đức, trách nhiệm xã hội cho mọi cá nhân,

giúp họ nhận thức được giá trị của việc đặt lợi ích chung của cộng đồng, quốc

gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, để từ đó họ “ra sức làm cho lợi ích riêng

của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người” [90, tr.16].

Thứ bẩy: Việc sử dụng cơ chế lợi ích còn yêu cầu Nhà nước phải có

những biện pháp nâng cao trách nhiệm của cá nhân là người đứng đầu các

doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên, môi

trường. Có những cơ chế, chính sách quy trách nhiệm cụ thể và có những biện

pháp xử lý nghiêm minh đối với những cá nhân là người đứng đầu cố tình làm

sai nguyên tắc của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ MTST vì lợi ích cá nhân.

Thứ tám: Mở rộng, phát huy dân chủ trong gắn kết giữa TTKT và bảo

vệ MTST cũng là một trong những nội dung mà Nhà nước cần phải quan tâm

để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và bảo vệ MTST. Như Hồ Chí Minh đã từng

nói, Đảng và Nhà nước ta cần làm cho dân biết hưởng quyền làm chủ, biết

dùng quyền làm chủ, từ đó họ dám nói, dám làm và như thế, Nhà nước mới

143

vững mạnh. Đối với quá trình kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, mở rộng và

phát huy dân chủ sẽ tạo điều kiện để tất cả mọi người, mọi nhà không phân

biệt địa vị, tôn giáo... được hưởng lợi từ MTST, và do đó, họ có nghĩa vụ bảo

vệ MTST theo nguyên tắc MTST là tài sản công, có giá trị hữu ích, gắn bó

mật thiết với lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Biện pháp để Nhà nước phát

huy quyền làm chủ của nhân dân trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST là tạo

mọi điều kiện để nhân dân sử dụng quyền làm chủ của mình tham gia vào

khai thác, bảo vệ MTST để mưu cầu lợi ích cá nhân và bảo toàn lợi ích cộng

đồng. Trong các hoạt động thường ngày, các cấp chính quyền nhà nước phải

xem trọng những sự vụ người dân khiếu kiện liên quan tới bảo vệ MTST.

Không chỉ dừng lại ở đó, Nhà nước còn phải công khai, minh bạch, làm rõ

đúng - sai những điều người dân thắc mắc.

Kiên quyết chống lại nạn tham nhũng, quan liêu, tâm tính tư thù cánhân của cán bộ chính quyền các cấp khi giải quyết các vấn đề liên quan đến

khai thác, sử dụng, gây ô nhiễm MTST là một biện pháp quan trọng khác đểnâng cao quyền làm chủ của nhân dân trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST.

Vì lợi ích, nhiều cán bộ sẵn sàng “nhận tiền” của các doanh nghiệp để bao

che, tiếp tay cho các hành vi vi phạm của họ. Đây chính là một trong những

nguyên nhân của tình trạng mặc dù người dân đã phát hiện, đã tố cáo hành vi

gây ô nhiễm MTST của doanh nghiệp lên các cơ quan công quyền trong nhiều

năm liền nhưng không được giải quyết, chỉ đến khi người dân quá bức xúc, tựý “hành xử” thì mới được Nhà nước quan tâm, giải quyết. Phát huy dân chủcho nhân dân là “phải để họ có tiếng nói thực sự” và chỉ khi nào điều này trởthành hiện thực, Nhà nước mới phát huy được một lực lượng đông đảo giám

sát, ngăn ngừa các hành vi hủy hoại, gây ô nhiễm MTST.

Như vậy, việc kết hợp giữa TTKT và bảo vệ MTST là rất cần thiết. Đólà yêu cầu khách quan, không chỉ để kinh tế tăng trưởng, mà ở ý nghĩa sâu xa,

nó còn bảo đảm mục tiêu chính trị mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Điều

này không thể đến một cách tự nhiên mà phải thông qua sự tác động có chủ

144

đích của kiến trúc thượng tầng chính trị mà trước hết là Nhà nước với các

nhân tố khác của nó cùng với toàn thể quần chúng nhân dân.

4.3.3. Kết hợp giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, cáchiệp hội trong gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Bảo vệ MTST là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành vàliên vùng rất cao. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷĐảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước, sự tham gia tích cực của các tổ chức

CT - XH như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… và

các hiệp hội như Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hội Liên hiệp các Hội

Khoa học và kỹ thuật, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường… Về thực chất, đâylà một nội dung quan trọng trong xã hội hóa công tác bảo bảo vệ MTST.

Vai trò của các tổ chức CT - XH, các hiệp hội trong bảo vệ MTST được

Nhà nước quán triệt trong nhiều văn bản pháp quy quan trọng. Gần đây nhất là

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010 và định hướng đến 2020.

Chiến lược xác định xã hội hóa công tác bảo vệ MTST là một trong 8 giải pháp

trọng tâm để đạt được các mục tiêu về môi trường. Chiến lược nhấn mạnh sự cần

thiết phải xác lập các cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính, hình sự và

thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với cả các đối tác nhà nước cũng nhưcác đối tác tư nhân khi tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, đề cao vai trò của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội trong

thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệ MTST.

Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai thực hiện các chiến lược, kết quảthu được cho thấy, công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường ở nước ta còn gặp

nhiều bất cập. Nhà nước chưa xây dựng được các quy định pháp lý để khuyến

khích các tổ chức CT - XH, các hiệp hội tham gia sâu rộng vào công tác bảo

vệ môi trường. Trong lĩnh vực xử lý, phục hồi các điểm ô nhiễm MTST chưathấy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức và các hiệp hội bảo vệ MTST tiếp

cận, tham gia tìm giải pháp khắc phục. Vẫn còn những đối xử chưa thực sựbình đẳng giữa các doanh nghiệp với các tổ chức, các hiệp hội trong quá trình

145

thanh tra, kiểm tra, xử lý các điểm nóng ô nhiễm MTST. Những bất cập này

đòi hỏi Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách để phát huy hơn nữa vai trò,

trách nhiệm của các tổ chức CT - XH, các hiệp hội trong lĩnh vực bảo vệMTST. Theo chúng tôi, Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau đây:

Thứ nhất: Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tưnhiều hơn trong bảo vệ MTST. Để đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút sự tham

gia rộng rãi hơn nữa của các tổ chức CT - XH và các hiệp hội vào bảo vệMTST. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã và đang tích cực xây dựng,

ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ trong bảo vệ môi trường. Các chính

sách này được quy định trong một số văn bản: Luật Bảo vệ môi trường2005; Nghị định số 04/2009/NĐ-CP về Ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệmôi trường; Quyết định 130/2007/ QĐ-TTg về Một số cơ chế, chính sáchtài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch (CDM); Các quỹbảo vệ môi trường ở Việt Nam… Các chính sách này ra đời đã có tác dụng

rõ rệt đối với công tác bảo vệ MTST. Tuy nhiên, để bảo vệ MTST cần phải

có nguồn tài chính đủ mạnh. Do vậy, tăng cường công tác tài chính cho các

tổ chức CT - XH và các hiệp hội để họ làm tốt công tác bảo vệ MTST là

việc làm cần thiết. Các chính sách về tài chính mà Nhà nước đưa ra cần

công khai, rõ ràng; đặc biệt, Nhà nước cần có các cơ chế kiểm tra, giám sát

nguồn tài chính đó để chúng được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.

Thứ hai: Trong điều kiện nguồn tài chính cấp cho những tổ chức làm

công tác bảo vệ MTST còn hạn hẹp, Nhà nước nên tổ chức các buổi truyền

thông, diễn đàn kêu gọi các tổ chức, hiệp hội đầu tư vào các công trình, dự án,

hoạt động bảo vệ MTST. Tăng cường cơ chế trao đổi thông tin liên quan đến

lĩnh vực bảo vệ MTST, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hiệp hội có

những đóng góp hữu ích cho công tác bảo vệ MTST.

Thứ ba: Việc bảo vệ MTST không chỉ có quan hệ tác động hỗ trợ đối

với sự phát triển KH - XH bền vững mà trong quá trình đó, luôn luôn phátsinh những xung đột về lợi ích giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội; giữa các chủ

146

thể trong việc hưởng thụ, sử dụng các thành phần môi trường với việc thực

hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Do vậy, Nhà nước phải đóng vai trò là

người tạo dựng, gắn kết các tổ chức CT - XH với các doanh nghiệp và mọi

người dân để cùng chia sẻ lợi ích từ MTST, cùng nhau bảo vệ MTST. Nhà

nước nên sử dụng biện pháp tăng cường năng lực cho các tổ chức, hiệp hội đểhọ nhận biết sâu sắc vai trò, vị trí, quyền lợi, trách nhiệm của mình trong bảo

vệ MTST. Các hình thức chủ yếu để tăng cường năng lực cho các tổ chức, các

hiệp hội là: tổ chức các khoá tập huấn, tổ chức các đợt tham quan học tập đểtrao đổi, học tập kinh nghiệm, gửi các đại diện đi tham quan học tập các mô

hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường ở trong và ngoài nước.

Thứ tư: Tăng cường quyền tiếp cận thông tin, đối thoại cho các tổ chức,

hiệp hội, giúp họ có đủ những thông tin cần thiết để đi đến sự đồng thuận hơntrong quá trình thảo luận, tham gia ý kiến góp ý với Nhà nước về gắn TTKT

với bảo vệ MTST.

Thứ năm: Tăng cường thể chế, cơ chế chính sách cho các tổ chức chính

trị và các hiệp hội trong lĩnh vực bảo vệ MTST. Để thực hiện nhiệm vụ bảo

vệ MTST, trong cộng đồng đã lập ra một số tổ chức khác nhau với vai trò

là “hạt nhân” và mang tính “tự quản” như câu lạc bộ, ban điều hành, tổ, nhóm

phụ nữ, cựu chiến binh... theo sự hướng dẫn và chỉ đạo từ các tổ chức đoànthể của mình. Nhà nước đã có những văn bản pháp lý công nhận quyền của

cộng đồng tham gia công việc chung như Nghị định 80/NĐ-CP của Chính

phủ về Quy định Giám sát đầu tư của cộng đồng, Pháp lệnh 34 của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội về dân chủ cơ sở ở xã phường... Tuy nhiên, chính quyền

các cấp cơ sở vẫn cần tiếp tục xác định một mô hình thể chế cấp cộng đồng

chuẩn và các cơ chế chính sách liên quan để hoàn thiện khung thể chế - chính

sách cấp cộng đồng, nhằm thực hiện tốt nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra và dân hưởng lợi. Trong đó, ưu tiên giao thêm quyền cho

các tổ chức, các hiệp hội, khuyến khích vật chất, đảm bảo lợi ích cho các tổchức này để họ làm tốt công việc của mình.

147

Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách để xây dựng mối quan hệ

phối hợp giữa các tổ chức CT - XH, các hiệp hội với nhau để thiết lập sự đồng

thuận và cùng chung chí hướng trong bảo vệ MTST. Đây cũng là yêu cầu

thiết yếu đảm bảo tạo ra nguồn lực đủ lớn để giải quyết các vấn đề môi trường

trong điều kiện kinh phí còn hạn hẹp. Nhà nước phải xây dựng được mạng

lưới rộng rãi giữa các tổ chức, hiệp hội tham gia bảo vệ MTST, trên cơ sở đó,

kết nối các cơ quan, đơn vị, cá nhân, cộng đồng trong và ngoài nước nhằm

góp phần phát huy hiệu quả tổng hợp các nguồn lực phục vụ cho việc duy trì

bền vững mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ MTST.

Kết luận chương 4

Thực hiện gắn kết TTKT với bảo vệ MTST là một trụ cột quan trọng

trong PTBV. Ở tầm vĩ mô, đó còn là nội dung có ý nghĩa chiến lược trong sự

nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Để đạt được mục tiêu gắn

kết giữa TTKT với bảo vệ MTST, cần phải có nhiều giải pháp khác nhau. Ở

mỗi giai đoạn lịch sử, từng giải pháp sẽ có vai trò, vị trí khác nhau trong tổng

thể chiến lược TTKT gắn với bảo vệ MTST. Do đó, việc ưu tiên giải pháp nào

cần thiết phải được nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng gắn với quan điểm lịch

sử - cụ thể nhất định.

Trong chương 4, để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước

về gắn TTKT với bảo vệ MTST, luận án đã nêu và phân tích một số nhóm

giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế đặt ra từ việc thực hiện vai

trò của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở nước ta hiện

nay. Các nhóm giải pháp mà luận án nêu ra, bao gồm:

Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính sách, chiến

lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST;

Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành

của chức bộ máy nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTMT;

148

Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sựđồng thuận của toàn xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT với

bảo vệ MTST.

Theo chủ kiến của tác giả luận án, trong điều kiện thực tế về gắn TTKT

với bảo vệ MTST đang hiện hữu ở Việt Nam hiện nay, thì việc Nhà nước sửdụng đồng bộ các giải pháp trên sẽ nâng cao vai trò của Nhà nước trong gắn

TTKT với bảo vệ MTST; đảm bảo rằng việc khai thác TNTN và các thành

phần môi trường sinh thái sẽ không chỉ giúp cho nền kinh tế có sự tăng trưởng

vững chắc, mà MTST, qua đó, sẽ có thêm điều kiện để tái tạo và phục hồi.

Như một yêu cầu thiết yếu, để thực hiện được các giải pháp nêu trên,

cần đặc biệt chú trọng đến chức năng quản lý của Nhà nước. Chỉ có Nhà nước

cùng với bộ máy của nó mới có thể thực hiện gắn kết đồng bộ cùng một thời

điểm các giải pháp đó để vừa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, vừa bảo vệ MTST

theo mối quan hệ biện chứng và gắn bó mật thiết với nhau.

149

KẾT LUẬN

Trong quá trình phát triển KT - XH nói chung, TTKT nói riêng đã nảy

sinh nhiều vấn đề về tài nguyên, môi trường và bảo vệ MTST. Các vấn đề này

chính là những trở ngại, thách thức của quá trình phát triển. Nếu chúng ta

vượt qua được các trở ngại, thách thức đó, gắn chặt sự tăng trưởng của kinh tếvới bảo vệ MTST, đất nước sẽ đạt tới trạng thái PTBV. Tuy nhiên, đó là cảmột quá trình lâu dài và đầy gian khổ, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng của

mọi người, mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến địa phương, mà trước hết là

ở vai trò quản lý của Nhà nước trong kết hợp chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệMTST. Vai trò ấy của Nhà nước biểu hiện ở chỗ thông qua khả năng điều

khiển, chi phối của Nhà nước đối với các hành vi của các cá nhân, tổ chức

trong các hoạt động kinh tế, MTST sẽ được bảo vệ và phục hồi.

Về mặt phương pháp luận, có thể đánh giá vai trò của Nhà nước trong

việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST theo nhiều phương diện, lát cắt

khác nhau. Song, trong luận án này, chúng tôi đánh giá vai trò của Nhà nước

trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST trên bốn nội dung, đó là: Vai

trò của Nhà nước trong việc đề ra hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược

về kết hợp giữa TTKT và bảo vệ MTST; Vai trò của Nhà nước trong việc tổchức thực hiện việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST; Vai trò của Nhà

nước trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện việc hiện kết

hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST; Vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sựđồng thuận xã hội để thực hiện việc kết hợp giữa TTKT và bảo vệ MTST.

Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo

vệ MTST theo bốn nội dung nêu trên được đánh giá cụ thể và khẳng định kểtừ khi tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước Nhà nước đã có rất nhiều nỗlực, cố gắng trong việc đề ra hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật; tiến

hành tổ chức thực hiện và tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội vào kết hợp

giữa TTKT với bảo vệ MTST. Ở một phương diện nhất định, Nhà nước đã

khẳng định được vai trò to lớn của mình trong các nội dung trên. Nhưng, cũng

150

phải thấy rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, vai trò quản lý của Nhà

nước ta trong việc giải quyết mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST cũngcòn nhiều hạn chế, như: nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước còn những lỗhổng chưa được khắc phục, nội dung một số chính sách, chiến lược còn chồng

chéo lên nhau, công tác tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát thực

hiện việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST còn nhiều sai sót, chưa đápứng yêu cầu thực tiễn đặt ra…

Để khắc phục tình trạng này, cần phải kết hợp nhiều giải pháp. Trong

khuôn khổ có hạn, luận án mới chỉ đề cập đến ba giải pháp có tính nguyên tắc,

đó là: Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật, chính sách, chiến lược về gắn TTKT với bảo vệ MTST; Nhóm giải

pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của tổ chức bộmáy nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTMT; Nhóm giải pháp

nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội

nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Đây là cácnhóm giải pháp có ý nghĩa then chốt đối với sự PTBV ở đất nước ta không chỉtrong hiện tại mà còn cả mai sau.

Vấn đề vai trò của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST là

một nội dung phong phú, đa dạng và phức tạp. Những vấn đề mà luận án

nghiên cứu mới chỉ là tiếp cận bước đầu, trên thực tế còn nhiều nội dung mà

tác giả còn phải nghiên cứu, luận giải và làm rõ hơn như: vai trò của Nhà

nước trong việc xây dựng lực lượng sản xuất đảm bảo cho kết hợp chặt chẽgiữa TTKT với bảo vệ MTST; vai trò của Nhà nước trong việc củng cố quan

hệ sản xuất đảm bảo cho kết hợp TTKT với bảo vệ MTST; vai trò của Nhà

nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST trong hội nhập kinh tế quốc tế…

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

A. Các công trình đã đăng trên các tạp chí:

1. Nguyễn Trường Kháng - Nguyễn Thị Khương (đồng tác giả) (2010), “Giáo

dục ý thức phát triển bền vững về môi trường sinh thái cho sinh

viên”, Tạp chí Giáo dục, (số 238), tr.57 - tr.63.

2. Nguyễn Thị Khương (2010), “Giáo dục ý thức phát triển bền vững về môi

trường sinh thái cho sinh viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên”, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, (số6), tr.8-11.

3. Nguyễn Thị Khương (2011), “Vai trò quản lý của Nhà nước trong việc phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay”, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, (số 4),

tr.87-90.

4. Nguyễn Thị Khương (2011), “Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên với việc giáo dục đạo đức học môi trường cho sinh viên”,

Tạp chí Giáo dục, (số 6), tr.60-62.

5. Nguyễn Thị Khương (2012), “Tính tất yếu của việc kết hợp giữa tăng

trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay,

Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 188), tr.69-71.

6. Nguyễn Thị Khương (2012), “Gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường

sinh thái vì mục tiêu phát triển bền vững: những vấn đề lý luận và thực

tiễn ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học TháiNguyên, (số 12), tr.71-74.

7. Nguyễn Thị Khương (2013), “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai

trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với

bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dụclý luận, (số 207), tr.49-52

152

B. Các công trình tham gia đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo khoa học:

1. Nguyễn Thị Khương (2011), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi

trường tự nhiên ở các tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp

Đại học.

2. Nguyễn Thị Khương (2011), Đạo đức học môi trường và vai trò của nhà

trường sư phạm trong việc giáo dục đạo đức học môi trường cho thế

hệ trẻ, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Đại học sư phạm, tr.411-415.

3. Nguyễn Thị Khương (2013), Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về mối

quan hệ giữa con người với tự nhiên trong một số tác phẩm của hai

ông, Kỷ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên, tr.85-88.

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Quý An (1992), “Những quan điểm chú ý về môi trường và phát triển

tại hội nghị Ri-ô 92”, Tạp chí Thông tin, Môi trường, (3).

2. Vũ Đình Bách, Nguyễn Văn Công, Nguyễn Văn Định (Đồng chủ biên)

(1998), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình côngnghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

4. Trần Lê Bảo (Chủ biên) (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Vănhóa - thông tin, Hà Nội.

5. Hoàng Hữu Bình (Chủ biên) (2006), Những tác động của yếu tố vănhóa - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trườngtrong quá trình CNH, HĐH, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 về tăng cườngcông tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đạihóa đất nước, www.cpv.org.vn.

7. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết 41/NQ-TW về bảo vệ môi trường trongthời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, www.cpv.org.vn.

8. Bộ Chính trị (2009), Chỉ thị số 29/CT-TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiệnnghị quyết 41/NQ-TW về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ côngnghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, www.tuyengiao.vn.

9. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triểnnhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.

10. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2012), Tổng hợp các số liệu phát triển kinh tế -xã hội các năm, Hà Nội, tại website www.mpi.gov.vn.

11. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, website: www.molisa.gov.vn.

12. Bộ Tài nguyên và Môi trường, website: http//monre.gov.vn.

154

13. Bộ Thương mại (1998), Môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường (1995) (Việt - Anh), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Chính phủ Cộng hòa Nam Phi (2011), Hội nghị quốc tế Động thái dânsố, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, tổ chức tại Pretoria,

Cộng hòa Nam Phi.

16. Chính phủ Việt Nam (1995), Chương trình quốc gia về giải quyết việclàm giai đoạn 1995 - 2005, www.chinhphu.vn.

17. Chính phủ Việt Nam (2000), Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch vàvệ sinh nông thôn đến 2020, www.chinhphu.vn.

18. Chính phủ Việt Nam (2002), Chiến lược toàn diện về tăng trưởng vàxóa đói giảm nghèo, www.chinhphu.vn.

19. Chính phủ Việt Nam (2003), Chiến lược phát triển khoa học và côngnghệ Việt Nam đến năm 2010, www.chinhphu.vn.

20. Chính phủ Việt Nam (2003), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc giađến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, www.chinhphu.vn.

21. Chính phủ Việt Nam (2004), Chiến lược Ứng dụng và phát triển côngnghệ thông tin tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và địnhhướng đến năm 2020, www.chinhphu.vn.

22. Chính phủ Việt Nam (2004), Định hướng chiến lược phát triển bền vữngở Việt Nam, www.chinhphu.vn.

23. Chính phủ Việt Nam (2005), Chương trình hành động của Chính phủthực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ chínhtrị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đấtnước, www.chinhphu.vn.

24. Chính phủ Việt Nam (2006), Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hànhmột số điều của Luật bảo vệ môi trường, www.chinhphu.vn.

25. Chính phủ Việt Nam (2006), Chương trình mục tiêu quốc gia về việclàm trong 5 năm 2006 - 2010, www.chinhphu.vn.

155

26. Chính phủ Việt Nam (2006), Giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho laođộng vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp,www.chinhphu.vn.

27. Chính phủ Việt Nam (2006), Chiến lược quốc gia về tài nguyên nướcđến năm 2020, www.chinhphu.vn.

28. Chính phủ Việt Nam (2007), Chiến lược về phòng, chống và giảm nhẹthiên tai đến 2020, www.chinhphu.vn.

29. Chính phủ Việt Nam (2008), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh vàbền vững đối với 61 huyện nghèo, www.chinhphu.vn.

30. Chính phủ Việt Nam (2011), Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầmnhìn đến năm 2030, www.chinhphu.vn.

31. Chính phủ Việt Nam (2011), Chiến lược Quốc gia về Biến đổi khí hậu,

www. chinhphu.vn.

32. Chính phủ Việt Nam (2012), Chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đàotạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp,

www.chinhphu.vn.

33. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc giađến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, www.chinhphu.vn.

34. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược Phát triển bền vững Việt Namgiai đoạn 2011 - 2020, www.chinhphu.vn.

35. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng xanh,

www. chinhphu.vn.

36. Chính phủ Việt Nam (2012), Quy định việc cấp giấy phép thăm dò, khaithác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước,

www.chinhphu.vn.

37. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Biện chứng của tự nhiên và giá trị hiệnthời của nó, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), “Để phát triển con người một cách bền

vững”, Tạp chí Triết học (1/164).

156

39. Hoàng Duy Chúc (2004), Tập bài giảng Môi trường và con người (Sinhthái - nhân văn), Hà Nội.

40. Chương trình phát triển Liên hiệp quốc, Website: www.undp.org.vn.

41. Hoàng Đình Cúc (2009), “Phát triển bền vững ở Việt Nam: một số vấn

đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Triết học, (8).

42. Cục Cảnh sát môi trường, website: www.canhsatmoitruong.gov.vn.

43. Cục Môi trường (2002), Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972-1992-2002, Hà Nội.

44. Nguyễn Thị Doan (2010), “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4).

45. Vũ Trọng Dung (2009), Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái(Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Phan Thị Hồng Duyên (2008), “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển

bền vững cho con người và giới tự nhiên”, Tạp chí Triết học, (1).

47. Bùi Văn Dũng (1999), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệmôi trường cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học,

Viện Triết học, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấphành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị về tăng cường công tácbảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BanChấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấphành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy BanChấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà

Nội.

57. Trần Thọ Đạt (Chủ biên) (2005), Các mô hình tăng trưởng kinh tế, Nxb

Đại học kinh tế quốc dân.

58. Lê Cao Đoàn, (1993) Phát triển kinh tế: lịch sử và học thuyết, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Lê Thị Thanh Hà (2011), “Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc

bảo vệ môi trường”, Tạp chí Triết học, (8).

60. Lê Thị Thanh Hà (2013), Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề bảo vệ môitrường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,nông thôn, Nxb Chính trị - Hành chính.

61. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2005), Quản lý môi trường cho sựphát triển bền vững, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

62. Nguyễn Minh Hằng, “Môi trường sinh thái - vấn đề của mọi người”,http//www.hcmush.edu.vn.

63. Nguyễn Văn Hậu (2013), “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ởViệt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).

64. Trần Đắc Hiến (2009), “Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay - Thực

trạng và một số giải pháp khắc phục”, Tạp chí Triết học, (11).

65. Hiệp hội các hội đồng nghiên cứu Khoa học xã hội châu Á (AASSREC)

(2007), Toàn cầu hoá và ảnh hưởng đối với khu vực châu Á - TháiBình Dương: khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hoá, Hội thảo.

66. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (2013), Hội nghị cấp cao ASEANlần thứ 23, tổ chức tại Brunei

158

67. Nguyễn Đình Hòa (2004), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp

nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống”, Tạp chíTriết học, (8).

68. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Kinh tế chính trị Mác- Lênin và một số vấn đề về tổ chức, quản lý kinh tế ở Việt Nam,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

69. Lê Thị Hồng (2001), Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nướcđối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹTriết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

70. Hội đồng biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển Báchkhoa Việt Nam, Tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

71. Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2013), Chủ động ứng phóvới biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường -Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Hội khoa học và chuyên gia Việt Nam tại Pháp, Xây dựng và phát triểnbền vững, Hội thảo Pháp - Việt CIGOS2013 (2013) tổ chức tại Lyon

- Pháp

73. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Bộ Tài nguyên và môi trường (2005),

Nghị quyết liên tịch về Việc phối hợp hành động bảo vệ môi trườngphục vụ PTBV.

74. Đỗ Huy (2007), “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây dựng môi trường

văn hóa trong lịch trình thế kỷ XXI”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2).

75. Đỗ Huy (2009), “Một số vấn đề cần quan tâm trong việc giải quyết mối

quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện

tiến bộ và công bằng xã hội”, Tạp chí Triết học, (12).

76. Mai Lan Hương (2012), Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tếquốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), “Trách nhiệm môi trường - một phươngdiện của trách nhiệm xã hội”, Tạp chí Triết học, (8).

159

78. Trần Thị Thu Hường (2010), Vai trò Nhà nước đối với việc xây dựngnền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tếquốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

79. S.V.Kalesnik (1970), Các quy luật định lý chung của trái đất, Nxb

Mátxcơva.80. Nguyễn Văn Kim (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ

môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,(316).

81. Đỗ Thị Ngọc Lan (2011), “Từ cảnh báo của Ăng ghen về thảm họa thiên

nhiên nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh

thái”, Tạp chí Lý luận chính trị (7).

82. Vi Thị Hương Lan (2012), Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiệncông bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận án Tiến

sĩ Triết học, Hà Nội.

83. Trần Thanh Lâm (1998), “Quản lý, bảo vệ môi trường - hiện trạng và

giải pháp”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (21).

84. Trần Thanh Lâm (2006), Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, Nxb

Lao động, Hà Nội.

85. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.86. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Tập 38, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.88. Liên hiệp quốc (2012), Hội nghị Liên hiệp quốc về Phát triển bền vững

(Rio+20), tổ chức tại Brazil

89. C. Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

90. C. Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

91. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

160

92. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

93. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

94. C.Mác-Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

95. C.Mác-Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, Tập 32, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

96. C.Mác-Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

97. Trần Văn Miều (2004), Tuổi trẻ Việt Nam với sự nghiệp bảo vệ môi

trường, Hà Nội, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

98. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Ngô Quang Minh (2010), “Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện

nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2).

102. Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt (Đồng chủ biên) (2006), Tốc độ và chất

lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Đại học kinh tế quốc

dân Hà Nội.

103. Ngân hàng thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi

- Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

104. Phạm Hữu Nghị (2005), “Vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệ môi

trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, (2).

105. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Luật bảo vệ môi trường và văn

bản hướng dẫn thi hành, Hà Nội.

161

106. S.S.Park (1992), Tăng trưởng và phát triển - Tổng sản phẩm vật chất vàchiến lược về lao động, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung

ương, Trung tâm Thông tin tư liệu, Hà Nội.

107. Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (Đồng chủ biên) (2012), Pháttriển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đạihoá và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Quốc hội (1995), Hiến pháp Việt Nam (năm 1992), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

109. Quốc hội (1996), Luật Khoáng sản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Quốc hội (2003), Luật Thủy sản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Quốc hội (2003), Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

112. Quốc hội (2003), Luật Xây dựng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

116. Quốc hội (2005), Luật Đất đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Quốc hội (2012), Luật Biển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Quốc hội (2013), Luật Khoa học và Công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

119. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2000), Mối quan hệ giữa con người và tự nhiêntrong sự phát triển xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

120. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2003), Con người và phát triển con người trong quanniệm của C. Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

121. Lương Xuân Quỳ, Đỗ Đức Bình (Đồng chủ biên) (2010), Thể chế kinh tếcủa Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốctế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

122. Tô Thị Tâm (2001), Sự tác động của Nhà nước đối với thị trường trong quátrình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế.

162

123. Nguyễn Văn Thanh (2009), “Xây dựng mô hình kinh tế sinh thái hiện

đại trong chiến lược phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (802).

124. Chu Thái Thành (2004), “Mấy vấn đề phát triển bền vững”, Tạp chí Consố và sự kiện, (7).

125. Trần Thành (2012), “Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc định hướng xã

hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay”, Tạp chíTriết học, (10).

126. Hồ Bá Thâm, Đinh Thị Hồng Diễm (Đồng chủ biên) (2012), Toàn cầuhoá, hội nhập và phát triển bền vững từ góc nhìn triết học đươngđại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

127. Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty (Đồng chủ biên) (2010), Tăng trưởngkinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

128. Nguyễn Thị Thơm và An Như Hải (Đồng chủ biên) (2011), Nâng cao hiệulực quản lý nhà nước về môi trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

129. Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (Chủ biên) (1998), Văn hóa, lối sốngvới môi trường, Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn về phát triển, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

130. Trần Văn Thuật (2002), “Một số vấn đề phát triển miền núi hiện nay”,Tạp chí Dân tộc và miền núi, (24).

131. Trương Mạnh Tiến (1996), Sự phát triển của thương mại tự do trongđiều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề bảo vệmôi trường sinh thái, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Kinh tế.

132. Tìm hiểu một số thuật ngữ khái niệm trong các môn lý luận Mác - Lênin

(1992), Nxb Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội

133. Nguyễn Cảnh Toàn (2003), “Tổ chức sao cho giáo dục bảo vệ môi

trường có hiệu quả”, Báo Giáo dục và thời đại, (2).

134. Tổng cục môi trường, Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010,http//vea.gov.vn.

163

135. Tổng cục thống kê, website: www.gso.gov.vn

136. Phạm Thị Ngọc Trầm (1996), “Sự kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế và

sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí

Triết học, (5).

137. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái, vấn đề và giải pháp,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

138. Phạm Thị Ngọc Trầm (1998), “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề

MTST ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (6).

139. Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), “Về cách tiếp triết học - xã hội đối với

hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề,

nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Triết học, (6).

140. Phạm Thị Ngọc Trầm (2005), “Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng

có hiệu quả hơn nhân tố xã hội - nhân văn trong quản lý nhà nước về

tài nguyên thiên nhiên và môi trường”, Tạp chí Triết học, (8).

141. Phạm Thị Ngọc Trầm (Chủ biên) (2006), Quản lý nhà nước đối với tài

nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã

hội - nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

142. Phạm Thị Ngọc Trầm (2009), “Xây dựng đạo đức sinh thái - Một trách

nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên”, Tạp chí Triết học, (6).

143. Lê Nguyễn Hương Trinh (2006), “Về vai trò của nhà nước trong nền

kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, (11).

144. Nguyễn Phú Trọng (2011), Về giải quyết các mối quan hệ lớn cần được

giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước

ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

145. Phan Quang Trung (2006), “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát

triển xã hội với bảo vệ môi trường”, Tạp chí Khoa học công nghệ, (6).

146. Trường Đại học kinh tế quốc dân, Bộ môn Kinh tế phát triển (1995),

Kinh tế phát triển (Những vấn đề lý luận), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

164

147. Trần Văn Tùng (2002) Mô hình tăng trưởng kinh tế, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

148. “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010” (2010),Tạp chí Lý luận chính trị biên soạn theo tài liệu của các cơ quanTrung ương, (4).

149. Viện Khoa học năng lượng (2013), Hội thảo Phát triển năng lượng bềnvững (SED3).

150. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung

tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

151. Website: www.hawacom.vn.

152. Website: www.vea.gov.vn.

153. Website: www.undp.org.vn

154. Website: www.vietnamnet.vn.

165

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Mức tăng GDP hàng năm (2005 - 2013)

(Tỷ lệ: %)

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Tỷ lệ 8,44 8,23 8,46 6,31 5,32 6,78 5,89 5,03 5,4

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê [135]

Phụ lục 2

Thu nhập bình quân đầu người theo các năm

(Đơn vị tính: USD)

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Bình quân 715 723 817 1018 1026,8 1168 1300 1540 1960

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê [135]

Phụ lục 3

Diện tích rừng trồng tập trung ở Việt Nam

Giai đoạn Diện tích rừng trồng

1990 - 1995 743 nghìn ha

1996 - 2000 1.096 nghìn ha

2001 - 2005 1,3 triệu ha

2006 - 2010 2 triệu ha

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục môi trường [152]

166

Phụ lục 4

Diện tích rừng bị huỷ hoại hàng năm ở Việt Nam

(Đơn vị: nghìn ha)

Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Diện tích rừng

bị cháy

1,5 12,3 - 4,8 7,6 2,4 5,1 1,7

Diện tích rừngbị chặt phá

2,8 5,1 2,0 7,0 10,3 3,1 1,3 2,2

Nguồn: Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam [127]

Phụ lục 5

Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam

(Đơn vị: %)

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Tỷ lệ 22 15,5 14,75 13,5 12,3 10,7 11,76 9,64

Nguồn: Tổng hợp từ website www.molisa.gov.vn [11]

Phụ lục 6

Số lao động đang làm việc trong năm ở Việt Nam

(Đơn vị: triệu người)

Năm 1990 1995 2000 2005 2010 2011

Số lượng 29,45 33,03 37,08 42,77 49,15 50,35

Nguồn: Tổng hợp từ website www.molisa.gov.vn [11]

167

Phụ lục 7

Xếp hạng chỉ số phát triển con người của Việt Nam

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Các nước tham

gia xếp hạng

177 177 182 177 182 169 187 187

Xếp hạng của

Việt Nam

108 109 116 105 116 113 128 127

Nguồn: Tổng hợp từ website: www.undp.org.vn [153]

Phụ lục 8

Nguồn vốn chi hàng năm cho công tác bảo vệ môi trường

(Đơn vị: tỷ đồng)

Trung ương Địa phương

Năm Tổng số Vốn % trong

tổng đầu

Vốn % trong

tổng đầu

Phần trăm

trong tổng chi

ĐTPT từ

NSNN

2006 1429,0 230 16 1990 84 1,8

2007 1815,4 400 22 1415,4 78 1,9

2008 1775,4 330 18,5 1445,4 81,5 1,8

2009 2109,7 420 19,9 1689,7 80,1 2,1

2010 2468,9 450 18,2 2018,9 81,8 2,1

2011 2954,3 580 19,6 2374,3 80,4 2,1

Tổng 12.552,7 2410 19 10142,

7

81 2,0

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư [10]

168

Phụ lục 9

Tỷ lệ cán bộ làm công tác quản lý môi trường ở một số quốc gia

(Đơn vị: số người/1 triệu dân)

Quốc gia Việt Nam Trung Quốc Thái Lan Malaixia Singapore

Số người 13 20 30 100 330

Nguồn: Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt [102]

Phụ lục 10

Theo số liệu quyết toán thu ngân sách Nhà nước năm 2007 thì số thu từ

hoạt động khai thác dầu khí chiếm 24% tổng thu ngân sách nhà nước (khoảng

hơn 78 tỷ đồng), thu từ hoạt động thuế tài nguyên cho ngân sách là hơn 23 tỷ

đồng, chiếm hơn 7,3% tổng thu ngân sách và hơn 13,1% tổng thu nội địa. Từ

đây có thể thấy chính nguồn thu từ các hoạt động khai thác TNTN có vai trò

to lớn đối với nền kinh tế.

Trong những năm gần đây, đóng góp của ngành khai khoáng chiếm tới

hơn 10% GDP. Theo số liệu quyết toán thu ngân sách năm 2007 thì số thu từ

dầu khí đã tăng lên tới 24% tổng số thu ngân sách, thu từ thuế tài nguyên

chiếm 7,32% tổng thu ngân sách. Năm 2009, doanh thu từ xuất khẩu khoáng

sản đạt 8,5 tỷ USD, trong đó riêng dầu thô đạt 6,2 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khá

lớn, khoảng 25%, trong doanh thu ngân sách nhà nước.

Nguồn: Tổng hợp tại các trang web: monre.gov.vn, vietnamnet.vn [12], [154]

Phụ lục 11

- Theo đánh giá của Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi

trường Việt Nam, phần lớn hồ, ao, kênh, mương, các đoạn sông trong các đô

thị, khu dân cư, đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, một số chỉ số như nồng độ oxy

169

sinh học (BOD), chất rắn lơ lửng đã vượt quy chuẩn cho phép đến hàng chục

lần. Cụ thể hàm lượng BOD (mg/l) trên sông Cầu là 5-10mg/l; sông Nhuệ-

Đáy 5-10mg/l; sông Sài Gòn 7-15mg/l; sông Đồng Nai 4-6mg/l.

- Phần lớn các đô thị trên cả nước và hơn 35% khu công nghiệp, khu

chế xuất chưa có hệ thống xử lý chất thải tập trung, hoặc có nhưng không đáp

ứng yêu cầu

- Ô nhiễm ở các làng nghề tồn tại từ rất lâu nhưng chưa có biện pháp

khắc phục và giải quyết hiệu quả. Chỉ tính đến tháng 7/2011, cả nước có

3.355 làng nghề, trong đó có 1.318 làng nghề được công nhận. Qua khảo sát

52 làng nghề điển hình, có tới 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng,

27% làng nghề ô nhiễm vừa và mức độ ô nhiễm của các làng nghề đều có xu

hướng gia tăng.

- Hầu hết chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị và nông thôn chưa được phân

loại tại nguồn. Vẫn còn trên 60% số xã ở khu vực nông thôn chưa tổ chức thu

gom rác thải.

- Hàng năm ước tính tổng lượng phân bón vô cơ sử dụng trong canh tác

nông nghiệp vào khoảng 2,5-3 triệu tấn, trong đó có đến 50-70% không được

cây trồng hấp thụ thải ra môi trường. Riêng lượng thuốc bảo vệ thực vật tồn

lưu cần tiêu hủy trên cả nước khoảng 90 tấn, 75 tấn bao bì đựng thuốc bảo vệ

thực vật vẫn còn tồn đọng từ trước đến nay.

- Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, ô nhiễm môi trường tại Việt

Nam những năm qua gây thiệt hại cho nền kinh tế tới 5,5% giá trị GDP.

Nguồn: Tổng hợp từ www.canhsatmoitruong.gov.vn [42]

Phụ lục 12

- Theo Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên hoang dã thế giới (WWF), sự cạn

kiệt tài nguyên của Trái Đất do chính con người gây nên. Nhân loại hiện đang

170

sử dụng vượt quá 50% nguồn TNTN mà Trái Đất có thể cung cấp. Từ năm

2008, nhân loại đã cần tới 18,2 tỷ héc ta đất nhưng Trái Đất chỉ có 12 tỷ héc

ta đất có thể canh tác. WWF cảnh báo kể từ năm 1970 đến năm 2008, 28% đa

dạng sinh học của Trái Đất đã biến mất. Đa dạng sinh học ở các khu vực nhiệt

đới đã giảm tới 61% và ở các khu vực ôn đới giảm 31%.

- Nghiên cứu mới nhất của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc

(UNEP) cho biết, mỗi năm thế giới mất tới 13 triệu hécta rừng nhiệt đới,

tương đương diện tích của Hy Lạp.

- Theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), năm

2010 có tới 30,6 tỷ tấn CO2 phát thải vào bầu khí quyển, chủ yếu do hoạt

động đốt nhiên liệu hóa thạch, tăng 1,6 tỷ tấn so với năm 2009.

Nguồn: Tổng hợp từ website www.canhsatmoitruong.gov.vn [42]

Phụ lục 13

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân

loại trong thế kỷ 21. Nó đang ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, TN - MT

và cuộc sống của con người. Biến đổi khí hậu làm cho:

1. Mực nước biển dâng: do nhiệt độ trên trái đất ngày càng tăng, khiến

các tảng băng tan nhanh hơn. Nằm ở giữa Australia và quần đảo Hawaii (Mỹ)

trên Thái Bình Dương, phần lớn lãnh thổ Tuvalu (gồm 9 đảo san hô vòng)

cách mực nước biển chưa tới 0,9 m. Nơi cao nhất của nước này chỉ cách mực

nước biển 4,5 m. Vì thế mà Tuvalu đang đối mặt với nguy cơ bị nước biển

nhấn chìm do tình trạng ấm lên toàn cầu.

2. Băng tan: diện tích của các dòng sông băng trên toàn thế giới đang

dần bị thu hẹp lại. Vùng lãnh nguyên (vùng đất cao nơi cây cối không thể sinh

trưởng và phát triển) từng bị lớp băng vĩnh cửu bao phủ, nay dưới tác động

của nhiệt độ cao, lớp băng đã tan chảy và sự sống của các loài thực vật trên

171

vùng đất này cũng đã xuất hiện. 80% diện tích băng trên đỉnh Kilimanjaro tại

Tanzania đã biến mất trong 50 năm qua.

3. Nắng nóng: Trong 50 năm trở lại đây, tần suất xảy ra các đợt nắng

nóng đã tăng từ 2- 4 lần. Nhiều khả năng trong 40 năm tới, số lượng các đợt

nắng nóng sẽ tăng 100 lần. Theo các chuyên gia, nắng nóng sẽ làm tăng số vụ

cháy rừng, các loại bệnh dịch, và mức nhiệt độ trung bình trên hành tinh trong

tương lai cũng sẽ tăng theo.

4. Bão và lũ lụt: Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 30 năm gần

đây, những cơn bão mạnh cấp 4 và cấp 5 đã tăng lên gấp đôi. Những vùng

nước ấm đã làm tăng sức mạnh cho các cơn bão. Chính mức nhiệt cao trên đại

dương và trong khí quyển, đẩy tốc độ cơn bão đạt mức kinh hoàng. Việt Nam

mất hàng trăm sinh mạng và hàng triệu USD mỗi năm do thiên tai lũ lụt, hậu

quả của biến đổi khí hậu.

5. Hạn hán: Các chuyên gia ước tính tình trạng hạn hán sẽ tăng ít nhất

66% do khí hậu ngày càng ấm hơn. Hạn hán xảy ra thường xuyên sẽ thu hẹp

nguồn cung cấp nước, làm giảm chất lượng các sản phẩm nông nghiệp, khiến

nguồn cung ứng lương thực toàn cầu trở nên bấp bênh. Hội đồng liên chính

phủ về biến đổi khí hậu tại châu Phi cho rằng, tới năm 2020, sẽ có 75 - 250

triệu dân châu Phi không có nước sử dụng và sản lượng nông nghiệp của châu

lục này cũng sẽ giảm 50%.

6. Dịch bệnh: Nhiệt độ ngày càng tăng kết hợp với lũ lụt và hạn hán

đang trở thành mối đe dọa với sức khỏe dân số toàn cầu. Bởi đây là môi

trường sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều

sinh vật mang bệnh khác phát triển mạnh.

7. Thiệt hại kinh tế: Bão lụt cùng với những tổn thất trong ngành nông

nghiệp đã gây thiệt hại hàng tỷ USD. Bên cạnh đó, các chính phủ cũng cần

một lượng tiền lớn để xử lý và kiểm soát sự lây lan dịch bệnh.

172

Năm 2005, cơn bão lịch sử đã đổ bộ vào Louisiana, khiến mức thu nhập

của người dân nơi đây giảm 15% trong những tháng sau cơn bão, và thiệt hại

về tài sản ước tính khoảng 135 tỷ USD. Theo dự đoán của Viện nghiên cứu

Môi trường và phát triển toàn cầu tại Đại học Tufts, Mỹ, chi phí cho cuộc

chiến chống biến đổi khí hậu tới năm 2100 sẽ đạt 20 ngàn tỷ USD.

8. Giảm đa dạng sinh học: Nhiệt độ gia tăng đã đẩy nhiều loài sinh vật

tới bờ vực suy giảm số lượng hoặc tuyệt chủng. Nếu mức nhiệt độ trung bình

tăng từ 1,1ºC - 6,4ºC, 30% loài động thực vật hiện nay sẽ có nguy cơ tuyệt

chủng vào năm 2050.

9. Hủy diệt hệ sinh thái: Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và

lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ

sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng sạch,

thực phẩm và sức khỏe. Cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều đang phải

hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng

axit hóa đại dương. Sự biến mất của các rạn san hô diễn ra đặc biệt nghiêm

trọng ở Sri Lanka, Kenya, Maldives, Tanzania.

Nguồn: website: www.hawacom.vn