vắc xin phòng covid-19: tổng quan nguyên lý thiết kế một
TRANSCRIPT
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
57
Vắc xin phòng COVID-19: Tổng quan nguyên lý thiết kế một số nhóm
vắc xin đã được chấp thuận Lê Ngọc Khánh°, Nguyễn Khắc Tiệp°, Nguyễn Thị Thanh Duyên, Đàm Thanh Xuân*
Bộ môn Công nghiệp Dược, Trường Đại học Dược Hà Nội
*Tác giả liên hệ: [email protected]
°: Tác giả đóng góp ngang hàng trong nghiên cứu
(Ngày gửi đăng: 30/6/2021 – Ngày duyệt đăng: 23/8/2021)
SUMMARY
At the end of 2019, a novel coronavirus designated as SARS-CoV-2 emerged and
rapidly caused a global pandemic. Safe and effective vaccines against COVID-19 are
now considered a best solution to overcome the pandemic. Various vaccine platforms
from traditional approaches such as live attenuated virus, inactivated virus, protein
subunit to novel technologies including viral vector, RNA and DNA vaccines, have been
developed. WHO and countries around the world have already approved some of them
for emergency use. This review summarizes published research in COVID-19 vaccine
development with a focus on describing the design strategy and analyzing the strengths
and shortfalls of four approved vaccine types (inactivated virus, protein subunit, viral
vector and mRNA vaccines).
Từ khóa: COVID-19, bất hoạt, mRNA, tiểu đơn vị protein, vắc xin, vector virus.
Đặt vấn đề Khởi đầu từ cuối năm 2019, đại dịch COVID-19 đã gây nên cuộc khủng hoảng
về y tế và sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới. Để đối phó với đại dịch, các nỗ lực sản
xuất vắc xin được diễn ra trên toàn cầu: Chỉ ba tháng kể từ khi dịch bùng phát, ứng viên
vắc xin đầu tiên đã được thử nghiệm trên người và sau một năm rưỡi đã có 21 vắc xin
được chấp thuận ở ít nhất một quốc gia [1]. Quá trình nghiên cứu, quy trình cấp phép
lưu hành khẩn cấp cho các vắc xin này đã được rút ngắn đáng kể, tuy nhiên vẫn đảm
bảo tính hiệu quả và an toàn. Bài tổng quan này đề cập đến các xu hướng tiếp cận công
nghệ trong phát triển các vắc xin phòng COVID-19.
Giới thiệu về SARS-CoV-2
Virus SARS-CoV-2 là 1 trong 7 chủng coronavirus gây bệnh trên người (trong đó có
SARS và MERS) và có bộ gen tương đồng 79,5 % so với chủng SARS-CoV [2]. Virus
này chứa 4 protein cấu trúc là protein gai S, vỏ E, nucleocapsid N và màng M, trong đó
protein S đóng vai trò quan trọng trong quá trình gắn kết, dung hợp và xâm nhập của
virus vào vật chủ [3], [4].
Hình 1. A. SARS-CoV-2 xâm nhập vào tế bào người nhờ gắn kết với thụ thể ACE2.
B. Protein gai S và vùng gắn thụ thể (RBD – Receptor Binding Domain) [5].
Protein S là một glycoprotein ở dạng trimer, bao phủ gần như toàn bộ vỏ của
virus, với cấu trúc như hình chiếc gai nhọn hướng ra bên ngoài. Vùng gắn thụ thể
(RBD) trên protein này giúp virus nhận diện và gắn vào thụ thể bề mặt ACE2
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
58
(angiotensin-converting enzyme 2) trên tế bào vật chủ. Sau khi tương tác với thụ thể
ACE2 này, sự thay đổi cấu trúc của protein S giúp virus có thể xâm nhập dễ dàng vào tế
bào vật chủ. Với cấu trúc như vậy, protein S và vùng RBD là một trong những thành
phần đầu tiên của virus mà hệ miễn dịch nhận biết được. Đồng thời protein S cũng là
kháng nguyên chính có tác dụng kích thích tốt phản ứng miễn dịch của cơ thể. Do đó,
hiện nay hầu hết các vắc xin được thiết kế để tạo ra kháng nguyên protein S sau khi sử
dụng. Ngày 7/2/2020, Việt Nam là quốc gia thứ ba trên thế giới phân lập và nuôi cấy
thành công SARS-CoV-2, góp phần quan trọng trong nghiên cứu, phát triển vắc xin
phòng COVID-19 [6].
Quy trình chung phát triển vắc xin
Nghiên cứu và phát triển vắc xin là một quá trình phức tạp và tốn kém. Ngoài
việc cần có hiểu biết rõ ràng về tác nhân gây bệnh, phân lập được chúng, còn cần đầu tư
thời gian, kinh phí nghiên cứu và phát triển, tiến hành thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm
sàng rộng rãi, nghiêm ngặt trước khi được phê duyệt sử dụng. Quy trình chung trong
nghiên cứu và phát triển vắc xin gồm các giai đoạn chính như hình 2. Thời gian phát
triển một vắc xin thông thường từ 12 - 15 năm; tuy nhiên, đối với vắc xin phòng
COVID-19, quá trình nghiên cứu và thử nghiệm được tiến hành gần như đồng thời, giúp
cho thời gian này được rút ngắn đáng kể [7]. Dù vậy, vắc xin vẫn phải đảm bảo tính an
toàn, tính sinh miễn dịch và có hiệu quả bảo vệ.
Hình 2. Quy trình phát triển vắc xin thông thường và vắc xin COVID-19 [8].
Các xu hướng thiết kế vắc xin phòng COVID-19
Để phát triển vắc xin phòng COVID-19, các nhà sản xuất đã sử dụng cả công nghệ
truyền thống cũng như tiếp cận các công nghệ mới cho phép rút ngắn thời gian phát
triển và dễ dàng nâng cấp quy mô sản xuất. Đa phần công bố khoa học gần đây phân
loại các vắc xin phòng COVID-19 đã được cấp phép thành 4 nhóm chính là vắc xin i)
mRNA; ii) vector virus; iii) tiểu đơn vị protein và vi) bất hoạt toàn tế bào [9], [10];
trong đó 2 nhóm đầu là vắc xin tiếp cận công nghệ mới.
Vắc xin mRNA
Nguyên lý thiết kế
Vắc xin mRNA có bản chất là ARN thông tin với trình tự nguyên bản hoặc tái tổ
hợp, mã hóa protein quyết định kháng nguyên của mầm bệnh. Do đặc tính kém bền của
mRNA, vắc xin nhóm này thường được bao bọc bởi chất mang nano (thường là nano
lipid) có tác dụng bảo vệ đồng thời hỗ trợ vận chuyển mRNA vào tế bào chất. Trong tế
bào chất, quá trình dịch mã mRNA được thực hiện tại ribosom để tạo ra kháng nguyên
của mầm bệnh. Như vậy thay vì cung cấp kháng nguyên như các vắc xin truyền thống,
vắc xin mRNA cung cấp thông tin mã hóa kháng nguyên dưới dạng ARN thông tin, sử
dụng chính tế bào vật chủ để sinh ra kháng nguyên [9]. Đến nay chưa có vắc xin mRNA
cho người nào được cấp phép trừ 2 vắc xin phòng COVID-19 (bảng 1).
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
59
Hình 3. Nguyên lý sản xuất vắc xin mRNA từ SARS-CoV-2 [5].
Bảng 1. Một số ứng cử viên vắc xin mRNA [1]
Vắc xin Nhà sản xuất Trình tự mRNA Tình trạng
Thử nghiệm Phê duyệt mRNA-1273
Moderna (Mỹ)
Tái tổ hợp Pha 4 WHO 53 quốc gia
BNT162b2 Pfizer – BioNTech (Mỹ – Đức)
Tái tổ hợp Pha 4 WHO 88 quốc gia
CVnCoV CureVac (Đức) Nguyên bản Pha 3
Ưu nhược điểm của vắc xin mRNA
Vắc xin mRNA có khả năng kích thích miễn dịch mạnh mẽ và toàn diện hơn vắc xin
truyền thống nhờ tạo ra kháng nguyên nội sinh có đầy đủ các bước gấp cuộn, có cấu
trúc hoàn chỉnh, tương tự mầm bệnh sống [11]. Bản chất là mRNA nên thời gian tồn tại
trong cơ thể ngắn và tránh được nguy cơ tích hợp vào hệ gen vật chủ [12]. Do đó, vắc
xin mRNA được kỳ vọng là an toàn và ít phản ứng có hại [13]. Quá trình sản xuất
mRNA xuất phát từ một khuôn ADN, các giai đoạn có thể thực hiện khép kín in vitro,
không cần sự hiện diện của vi sinh vật. Quy trình sản xuất không phức tạp, có khả năng
nâng cấp lên quy mô lớn, thời gian nhanh và linh hoạt hơn so với vắc xin protein hoặc
vắc xin mầm bệnh truyền thống [13].
Tuy nhiên mRNA rất kém bền với RNAse và nhiệt độ, do đó đa số vắc xin nhóm này
cần bảo quản và vận chuyển ở nhiệt độ âm sâu, gây khó khăn cho quá trình phân phối
vắc xin [9], [13], [14]. Bên cạnh đó, do lịch sử phát triển quá ngắn nên chưa có đầy đủ
dữ liệu về tính an toàn của vắc xin này.
Một số ví dụ về vắc xin mRNA
Tổng quan này chỉ đề cập tới các đại diện vắc xin mRNA đã được cấp phép hoặc
đang được thử nghiệm pha 3. Các vắc xin này đều có bản chất là mRNA mã hóa protein
S. Trong 2 loại vắc xin đã được cấp phép là mRNA-1273 (Moderna) và BNT162b2
(Pfizer – BioNTech), trình tự mRNA được tái tổ hợp để định hướng tạo ra protein S có
cấu trúc ổn định nhằm đảm bảo kích thích miễn dịch tốt nhất. mRNA trong cả 2 vắc xin
này đều được bao bọc bởi màng tiểu phân nano lipid (lipid nanoparticle – LNP) được
tạo thành từ 4 loại lipid khác nhau [15]. Theo dữ liệu thử nghiệm, mRNA-1273 có hiệu
quả bảo vệ tránh lây nhiễm đến 94,1% và hiệu quả phòng bệnh chuyển nặng đến 100%
[16], còn BNT162b2 có hiệu quả bảo vệ tránh lây nhiễm đến 95% [17], đồng thời kháng
thể tạo ra có khả năng trung hòa cả các biến chủng alpha và beta [1]. Vắc xin của
Moderna cần được bảo quản từ -25℃ đến -15℃, không được bảo quản ở nhiệt độ dưới -
40℃ [18]; trong khi đó vắc xin của Pfizer yêu cầu bảo quản ở -80°C đến -60°C và có
hạn dùng 6 tháng. Hiện nay, các công ty vẫn tiếp tục nghiên cứu để tăng độ ổn định của
vắc xin [19] và theo khuyến nghị mới nhất của FDA, BNT162b2 có thể được bảo quản
ở 2-8°C trong 1 tháng, thay vì 5 ngày như trước đây [20].
Một đại diện khác là vắc xin CVnCoV (CureVac), sử dụng đoạn mRNA nguyên
bản và hiện đang được thử nghiệm pha 3. Ưu thế của vắc xin này là có thể bảo quản ở tủ
lạnh (5°C) trong ít nhất 3 tháng và ở nhiệt độ phòng trong 24 giờ [1]. Tuy nhiên dữ liệu
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
60
thử nghiệm pha 3 của CVnCoV cho thấy vắc xin này chỉ đạt hiệu quả bảo vệ tránh lây
nhiêm khoảng 48% [21]. Điều này có thể do CVnCoV sử dụng trình tự mRNA nguyên
bản nên kháng thể tạo ra có cấu hình và hiệu quả kích thích miễn dịch không ổn định
như mRNA-1273 và BNT162b2.
Vắc xin vector virus
Nguyên lý thiết kế
Vắc xin vector virus được thiết kế dựa trên virus không gây bệnh hoặc đã được giảm
độc lực, mang trình tự gen tái tổ hợp mã hóa kháng nguyên đặc hiệu của mầm bệnh
[12]. Khi tiêm chủng, vector virus sẽ xâm nhập vào tế bào người nhận, biểu hiện kháng
nguyên đặc hiệu của mầm bệnh, kích thích hệ thống miễn dịch sinh kháng thể. Có ba
loại vector chính thường được sử dụng trong các vắc xin vector virus bao gồm (i) RC
(replication-competent) - vector có khả năng sao chép, (ii) RD (replication-defective) -
vector không có khả năng sao chép và (iii) SC (single cycle) - vector đơn chu kỳ, có khả
năng sao chép nhưng không có khả năng lắp ráp để tạo nên các virus con [22], [23].
Hình 4. Nguyên lý sản xuất vắc xin vector virus từ SARS-CoV-2 [5].
Ưu nhược điểm của vắc xin vector virus
Vector virus là một nền tảng đã được nghiên cứu tương đối đầy đủ, với quy trình sản
xuất quy mô lớn đã được thiết lập, có tính hiệu quả và linh hoạt giúp phát triển vắc xin
trong bối cảnh đại dịch. Do chỉ cần sử dụng các đoạn gen mã hóa kháng nguyên để đưa
vào vector, nên không cần làm việc trực tiếp với mầm bệnh sống, đảm bảo an toàn trong
quá trình sản xuất. Việc sử dụng tế bào vật chủ để biểu hiện kháng nguyên cho phép tạo
nên protein kháng nguyên với cấu trúc hoàn chỉnh, kích thích miễn dịch đầy đủ và mạnh
mẽ nên vắc xin có thể sử dụng với liều lượng nhỏ, không cần chất bổ trợ. Ngoài ra vắc
xin vector virus có thể bảo quản ở nhiệt độ của chuỗi cung ứng lạnh thông thường [12],
[13].
Một số khía cạnh cần được xem xét khi phát triển vắc xin vector virus bao gồm tính
an toàn khi sử dụng ở người, khả năng nhân lên của virus hoặc sự tồn tại lâu dài của
virus trong cơ thể người. Ngoài ra, nếu cơ thể đã từng tiếp xúc với các virus tương tự thì
miễn dịch sẵn có có thể làm giảm hiệu quả của vắc xin [12], [13].
Một số ví dụ về vắc xin vector virus
Hầu hết các vắc xin vector virus phòng COVID-19 đều sử dụng vector adenovirus
giảm độc lực có nguồn gốc từ người hoặc động vật, có khả năng biểu hiện tốt protein S
của SARS-CoV-2. Vì là virus giảm độc lực, không có khả năng sao chép và sinh sản
nên có tính an toàn cao, tuy nhiên nhiều vật chủ có thể có sẵn kháng thể với vector này
do adenovirus thuộc nhóm virus gây bệnh phổ biến ở người và động vật.
Trong các vắc xin đã được phê duyệt khẩn cấp, chỉ có AZD1222 đang ở pha 4 thử
nghiệm lâm sàng. Đây cũng là vắc xin đầu tiên được phê duyệt tại Việt Nam. Theo dữ
liệu thử nghiệm tại Anh, Brazil và Nam Phi, hiệu quả bảo vệ tránh lây nhiễm của vắc
xin này là 67,1%, có thể lên đến 81,3% nếu thời gian giữa hai mũi tiêm trên 12 tuần
[24]; đối với thử nghiệm tại Mỹ, hiệu quả bảo vệ tránh lây nhiễm đạt được 76% [25].
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
61
AZD1222 sử dụng vector adenovirus ChAdOx1 có nguồn gốc từ tinh tinh, còn ba vắc
xin khác trong nhóm này (bảng 2) sử dụng vector virus từ người. Hầu hết các vắc xin
đều thiết kế cùng một vector cho hai mũi tiêm, chỉ riêng Sputnik V sử dụng Ad26
(vector adenovirus týp huyết thanh 26) cho mũi 1 và Ad5 (vector adenovirus týp huyết
thanh 5) cho mũi 2 [26] với hy vọng đáp ứng miễn dịch mạnh hơn và lâu dài hơn. Kết
quả thử nghiệm pha 3 cho thấy Sputnik V có độ an toàn cao, hiệu quả bảo vệ tránh lây
nhiễm đạt 91,6 % [24].
Trong khi đa phần vắc xin phòng COVID-19 đề xuất tiêm hai mũi với khoảng cách
21 – 28 ngày thì Ad26.COV2S (Mỹ), Convidicea (Trung quốc) và Sputnik Light (Nga)
chỉ cần tiêm một mũi. Một số nghiên cứu về vắc xin sử dụng vector Ad26 (có trong
Ad26.COV2S và Sputnik Light) đã chỉ ra rằng có thể đạt được miễn dịch bảo vệ hiệu
quả chỉ sau một lần tiêm. Đồng thời vector Ad26 ít bị miễn dịch sẵn có tác động, trong
khi Ad5 bị ảnh hưởng nhiều, mặc dù cơ chế cho hiện tượng này vẫn chưa được giải
thích rõ ràng [27].
Ở nước ta, Viện vắc xin và sinh phẩm y tế (IVAC) cũng đang nghiên cứu sản xuất
vắc xin Covivac dựa trên công nghệ vector virus, sử dụng vector Newcastle Disease
Virus (họ Paramyxoviridae) đã được tái tổ hợp và được nuôi cấy trên trứng gà có phôi.
Hiện Covivac đang được tiến hành thử nghiệm pha 2 [1].
Bảng 2. Một số ứng cử viên vắc xin vector virus [1]
Vắc xin Nhà sản xuất Vector và nguồn gốc
Tình trạng Thử nghiệm Phê duyệt
AZD1222 (ChAdOx1-nCoV-19)
Đại học Oxford và công ty AstraZeneca (Anh)
ChAdOx1 từ tinh tinh
Pha 4 WHO 110 quốc gia
Convidicea (Ad5-nCoV)
Công ty CanSino và Viện CNSH Bắc Kinh (Trung Quốc)
Ad5 từ người
Pha 3 Trung Quốc
Ad26.COV2S Công ty Janssen trực thuộc Johnson & Johnson (Mỹ)
Ad26 từ người
Pha 3 WHO 49 quốc gia
Sputnik V (Gam-COVID-Vac)
Viện Gamaleya và công ty Generium (Nga)
Ad26, Ad5 từ người
Pha 3 68 quốc gia
Vắc xin tiểu đơn vị protein
Nguyên lý thiết kế
Vắc xin tiểu đơn vị protein (vắc xin protein) là vắc xin sử dụng kháng nguyên có bản
chất là protein từ mầm bệnh để kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể. Các protein
này có thể được phân lập từ mầm bệnh, tổng hợp hóa học hoặc sản xuất nhờ công nghệ
tái tổ hợp [28].
Hình 5. Nguyên lý sản xuất vắc xin tiểu đơn vị protein từ SARS-CoV-2 [5].
Để sản xuất được kháng nguyên tái tổ hợp dựa trên trình tự RNA đã biết của SARS-
CoV-2, trình tự DNA (tương ứng với trình tự RNA) mã hóa cho protein của virus được
sao chép và đưa vào một plasmid. Sau đó plasmid này sẽ được đưa vào các tế bào biểu
hiện để sản xuất ra các protein kháng nguyên.
Ưu nhược điểm của vắc xin protein
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
62
Ưu điểm lớn nhất của vắc xin protein là tính an toàn do không chứa virus sống cũng
như các thành phần gây bệnh khác. Độ ổn định của vắc xin này cũng tốt hơn nhiều vắc
xin mRNA, do đó, quá trình phân phối vắc xin có nhiều thuận lợi [13].
Tuy nhiên, nhược điểm của vắc xin protein là hiệu quả kích thích miễn dịch không
mạnh như vắc xin sống hoặc giảm độc lực; do đó vắc xin protein thường phải được sử
dụng ở liều cao, kết hợp với chất bổ trợ và phải được tiêm nhắc lại hoặc định kỳ. Ngoài
ra, việc sản xuất được protein với cấu trúc hoàn chỉnh như của virus đồng thời có khả
năng kích thích miễn dịch tốt đòi hỏi quá trình nghiên cứu phức tạp với nhiều giai đoạn
từ xác định đoạn gen cần sử dụng, vận chuyển gen vào tế bào biểu hiện, biểu hiện
protein cho đến quá trình tách chiết và tinh chế kháng nguyên [13].
Một số ví dụ về vắc xin protein
Trong cấu trúc của SARS-CoV-2, protein gai S là một glycoprotein bao phủ gần như
toàn bộ vỏ của virus. Đây là kháng nguyên đặc hiệu và có tác dụng kích thích tốt đối với
hệ miễn dịch của cơ thể. Trên protein S, vùng gắn thụ thể (RBD) lại là vùng dễ được hệ
miễn dịch nhận biết nhất. Do cấu trúc và đặc tính đó, protein S và vùng RBD là kháng
nguyên được lựa chọn hàng đầu để sử dụng trong các vắc xin protein [29]. Ngoài ra,
kháng nguyên là các protein hoặc các peptid khác của virus cũng được chú ý phát triển.
Hiện nay, đã có 32 ứng cử viên thuộc nhóm vắc xin protein được thử nghiệm pha 3, 2
trong số đó được phê duyệt sử dụng khẩn cấp (EpiVacCorona của Nga và Zf2001 của
Trung Quốc) [1].
Bảng 3. Một số ứng cử viên vắc xin protein [1]
Vắc xin Nhà sản xuất Công nghệ
sản xuất Tình trạng
Thử nghiệm Phê duyệt NVX-CoV2373 Novavax (Mỹ) Tái tổ hợp Pha 3 Nanocovax Nanogen (Việt Nam) Tái tổ hợp Pha 2/3 Zf2001 Anhui Zhifei Longcom Biophar. (Trung
Quốc) Tái tổ hợp Pha 3 Trung Quốc
Uzbekistan Finlay-FR-2 Instituto Finlay de Vacunas (CuBa) Tái tổ hợp Pha 3 EpiVacCorona Vector Institute (Nga) Tổng hợp
hóa học Pha 3 Nga
Turkmenistan UB-162 Vaxxinity (Mỹ) Tổng hợp
hóa học Pha 3
Trong các vắc xin sử dụng protein S, vắc xin NVX-CoV2373 (Mỹ) được cho là vắc
xin có triển vọng nhất với hiệu quả bảo vệ tránh lây nhiễm đến 89,7% đối với SARS-
CoV-2 [30]. Để đảm bảo tính ổn định và cấu trúc kháng nguyên cũng như hiệu suất biểu
hiện, vắc xin này sử dụng protein S đột biến tại acid amin số 986, 987 và 682-685. Vắc
xin Nanocovax của Việt Nam sử dụng protein S với đột biến loại bỏ vùng xuyên màng
được sản xuất bằng công nghệ tái tổ hợp trên tế bào buồng trứng của chuột hamster
Trung Quốc [1]. Protein S cũng được sử dụng trong các vắc xin của Clover (Trung
Quốc), Sanofi (Pháp), Vaxine (Úc), Shionogi (Nhật Bản), SK Bioscience (Hàn Quốc)
[1].
Các vắc xin sử dụng kháng nguyên RBD được cho là có thể tạo ra kháng thể trung
hòa virus với chất lượng tốt và độ an toàn cao, tuy nhiên, do cấu trúc nhỏ nên khả năng
kích thích miễn dịch bị hạn chế [31]. Đáng chú ý là Zf2001 (Trung Quốc), sử dụng dạng
dimer của RBD nhằm tăng kích thước kháng nguyên, dự kiến tiêm 3 mũi và đã được
cấp phép khẩn cấp tại Trung Quốc và Uzbekistan. Một hướng tiếp cận khác là vắc xin
FINLAY-FR-2 (CuBa) là RBD được gắn với giải độc tố uốn ván nhằm tăng hiệu quả
kích thích miễn dịch. Một số vắc xin chứa RBD khác gồm AdimrSC-2f (Đài Loan),
KBP-COVID-19 và AKS-452 (Mỹ) [29], [31].
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
63
Các vắc xin sử dụng kháng nguyên từ các protein hoặc peptid khác của SARS-CoV-2
thường là vắc xin đa giá để có thể kích thích tốt miễn dịch, cũng như tăng hiệu quả với
các chủng đột biến và/hoặc các chủng corona khác. Trong số đó, EpiVacCorona là vắc
xin đã được sử dụng tại Nga từ tháng 1/2021 và được cấp phép khẩn cấp tại
Turkmenistan. Vắc xin này có điểm đặc biệt là sử dụng ba đoạn peptid thuộc protein S
nhưng được tổng hợp hóa học thay vì tái tổ hợp. Mặc dù cho kết quả triển vọng tại Nga,
nhưng dữ liệu về hiệu quả và độ an toàn của vắc xin này chưa được công bố rộng rãi.
Các vắc xin đa giá khác là UB-162 (Mỹ), IMP CoVac-1 (Đức), ReCOV (Trung Quốc),
CoVepiT (Pháp) [29], [31].
Vắc xin bất hoạt
Nguyên lý thiết kế
Vắc xin bất hoạt đã có truyền thống lâu đời với các loại vắc xin phòng bại liệt, ho gà,
cúm, tả, viêm gan A đã được sản xuất hay gần đây nhất là các vắc xin phòng SARS-
CoV-1 [32] và MERS-CoV [33] đang được nghiên cứu. Vắc xin nhóm này sử dụng
chính mầm bệnh đã bị bất hoạt bằng hóa chất, nhiệt hoặc bức xạ làm kháng nguyên.
Ưu, nhược điểm của nhóm vắc xin bất hoạt
Các vắc xin bất hoạt có nhiều ưu điểm như quy trình sản xuất tương đối đơn giản,
vắc xin có độ ổn định cao và điều kiện bảo quản dễ dàng, không yêu cầu nhiệt độ lạnh
sâu do chứa tác nhân gây bệnh đã chết.
Nhược điểm thường thấy ở các vắc xin bất hoạt là trong quá trình sản xuất cần có
công đoạn nuôi cấy tác nhân gây bệnh trong thời gian tương đối dài, do đó yêu cầu phải
có cơ sở vật chất đảm bảo an toàn sinh học. Một hạn chế nữa của vắc xin này là tính
sinh miễn dịch không cao nên thường phải sử dụng liều cao hoặc có chất bổ trợ và phải
tiêm nhắc lại.
Một số ví dụ về vắc xin bất hoạt
Hiện có hơn 20 ứng cử viên vắc xin phòng COVID-19 tiếp cận phương pháp bất hoạt
SARS-CoV-2, 8 trong số đó đã được cấp phép khẩn cấp bao gồm 4 của Trung Quốc, 2
của Ấn Độ, 1 của Kazakhstan, 1 của Iran [1]. Đa phần các nhà sản xuất lựa chọn dòng tế
bào Vero để tăng sinh SARS-CoV-2, sử dụng tác nhân bất hoạt là β-propionolacton.
Các vắc xin này hầu hết sử dụng nhôm làm chất bổ trợ [34] và cần được tiêm 2 liều
[35].
Bảng 4. Một số ứng cử viên vắc xin bất hoạt [1]
Vắc xin Nhà sản xuất Tế bào SX/
Chất bất hoạt Tình trạng
Thử nghiệm Phê duyệt BBIBP Sinopharm (Trung Quốc) Tế bào Vero
β-propionolactone Pha 3 WHO
53 quốc gia
WIBP-CorV Sinopharm (Trung Quốc) Tế bào Vero β-propionolactone
Pha 3
Trung Quốc
Covaxin (BBV152)
Bharat Biotech (Ấn Độ) Tế bào Vero β-propionolactone
Pha 3 9 quốc gia
KoviVac Trung tâm Chumakov - Viện Hàn lâm khoa học Nga (Nga)
Tế bào Vero β-propionolactone
Pha 3 Nga
Coronavac Sinovac (Trung Quốc) Tế bào Vero β-propionolactone
Pha 4 WHO 29 quốc gia
QazVac (QazCovid-in)
Viện NC các vấn đề an toàn sinh học - RIBSP (Kazakhstan)
Chưa rõ Formaldehyt
Pha 3 Kazakhstan
SARS-CoV-2 Vaccine
Minhai (Trung Quốc) Tế bào Vero Pha 3 Trung Quốc
Vắc xin BBIBP của Sinopharm Bắc Kinh sử dụng chủng HB02 chọn lọc từ mẫu dịch
tỵ hầu của bệnh nhân COVID-19. Thử nghiệm pha 3 cho thấy hiệu quả bảo vệ 78,1%
với trường hợp có triệu chứng và 100% với trường hợp nghiêm trọng, tuy nhiên vắc xin
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
64
này vẫn chưa khẳng định được hiệu quả đối với nhóm người trên 60 tuổi và nhóm có
các bệnh tiềm ẩn khác [17]. 3 vắc xin bất hoạt còn lại của Trung Quốc sử dụng chủng
sản xuất khác [35] trong đó WIBP-CorV của Sinopharm Vũ Hán có hiệu quả 72,8% với
trường hợp có triệu chứng và 100% với trường hợp nghiêm trọng [17].
Về nguyên tắc, quá trình phát triển vắc xin phòng COVID-19 nhóm bất hoạt dường
như có nhiều thuận lợi do không cần đầu tư nghiên cứu kháng nguyên đích là protein
gai S như 3 nhóm còn lại, hơn nữa việc nâng cấp quy mô sản xuất có thể tận dụng dây
chuyền công nghệ sẵn có, tuy nhiên việc nuôi cấy tác nhân gây bệnh nguy hiểm như
SARS-CoV-2 tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Nhóm vắc xin mRNA với công nghệ bọc
LNP được coi là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay tuy có một số lợi thế nhưng vấn đề
bản quyền lại là rào cản lớn nhất cho các nước đang phát triển tiếp cận công nghệ sản
xuất vắc xin này. Hơn nữa việc tiếp nhận công nghệ và chuẩn bị trang thiết bị dây
chuyền, máy móc cũng như nguyên vật liệu sản xuất vắc xin mRNA không thể đơn giản
và nhanh chóng.
Kết luận
Tổng quan này dựa trên các công bố khoa học gần đây nhất về tình hình nghiên cứu
phát triển vắc xin trên thế giới cũng như ở Việt Nam để giới thiệu về 4 nhóm vắc xin đã
được cấp phép khẩn cấp. Khi dịch bệnh chưa kết thúc kèm theo sự xuất hiện nhiều biến
chủng, vắc xin trở thành lối thoát gần như duy nhất. Ước tính cần tới 11 tỷ liều vắc xin
cho toàn cầu, vì vậy hầu như tất cả các nhà nghiên cứu đều nỗ lực hết sức để sản xuất
vắc xin phòng COVID-19. Với tác nhân gây bệnh rất nguy hiểm và chưa biết rõ như
SARS-CoV-2, rất cần phát triển các vắc xin thuộc nhiều nền tảng khác nhau để có thể
đối phó với dịch bệnh. Do vậy, ngoài 4 nhóm vắc xin nêu trên, chắc chắn trong thời
gian tới sẽ có thêm nhiều loại vắc xin khác được chấp thuận. Việc tìm hiểu và có cái
nhìn tổng quan về các công nghệ cơ bản trong sản xuất vắc xin là một vấn đề cần thiết
đối với các cán bộ ngành y dược. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 World Health Organization (WHO), https://www.who.int/publications/m/item/draft-
landscape-of-covid-19-candidate-vaccines (accessed Jun. 13, 2021).
2 R. Lu et al., Lancet, vol. 395, no. 10224, pp. 565–574, Feb. 2020, doi: 10.1016/S0140-
6736(20)30251-8.
3 D. Wrapp et al., Science (80-. )., vol. 367, no. 6483, pp. 1260–1263, Mar. 2020, doi:
10.1126/science.abb2507.
4 S. Beeckmans et al., Front. Mol. Biosci., vol. 8, p. 347, May 2021, doi:
10.3389/fmolb.2021.671923.
5 G. Forni et al., Cell Death Differ., vol. 28, no. 2, pp. 626–639, Feb. 2021, doi:
10.1038/s41418-020-00720-9.
6 T. L. Dao et al., Travel Med. Infect. Dis., vol. 37, p. 101822, Sep. 2020, doi:
10.1016/J.TMAID.2020.101822.
7 S. Han, Clin. Exp. Vaccine Res., vol. 4, no. 1, p. 46, 2015, doi: 10.7774/cevr.2015.4.1.46.
8 The conversation.com, https://theconversation.com/where-are-we-at-with-developing-a-
vaccine-for-coronavirus-134784 (accessed Jun. 17, 2021).
9 J. S. Tregoning et al., Clinical and Experimental Immunology, vol. 202, no. 2. pp. 162–192,
Nov. 01, 2020. doi: 10.1111/cei.13517.
10 M. Bakhiet et al., Cytokine and Growth Factor Reviews, vol. 58. Elsevier Ltd, pp. 16–29,
Apr. 01, 2021. doi: 10.1016/j.cytogfr.2020.11.001.
11 N. Pardi et al., Nat. Rev. Drug Discov., vol. 17, no. 4, pp. 261–279, Mar. 2018, doi:
10.1038/nrd.2017.243.
12 S. P. Kaur et al., Virus Research, vol. 288. Elsevier B.V., Oct. 15, 2020. doi:
10.1016/j.virusres.2020.198114.
Nghiên cứu Dược & Thông tin thuốc, 2021, Tập 12, Số 4, trang 57-65
65
13 Y. Der Li et al., J. Biomed. Sci., vol. 27, no. 1, pp. 1–23, 2020, doi: 10.1186/s12929-020-
00695-2.
14 N. C. Kyriakidis et al., npj Vaccines, vol. 6, no. 1, pp. 1–17, Dec. 2021, doi:
10.1038/s41541-021-00292-w.
15 Y. H. Chung et al., ACS Nano, vol. 14, no. 10, pp. 12522–12537, Oct. 2020, doi:
10.1021/ACSNANO.0C07197.
16 L. R. Baden et al., https://doi.org/10.1056/NEJMoa2035389, vol. 384, no. 5, pp. 403–416,
Dec. 2020, doi: 10.1056/NEJMOA2035389.
17 European Medicines Agency, 2021.
18 U.S. Food and Drug Administration (FDA), Accessed: Jun. 14, 2021. [Online]. Available:
https://www.cdc.gov/vaccines/covid-19/
19 D. J. A. Crommelin et al., J. Pharm. Sci., vol. 110, no. 3, pp. 997–1001, Mar. 2021, doi:
10.1016/j.xphs.2020.12.006.
20 U.S. Food and Drug Administration (FDA), https://www.fda.gov/news-events/press-
announcements/fda-brief-fda-authorizes-longer-time-refrigerator-storage-thawed-pfizer-
biontech-covid-19-vaccine (accessed Jun. 14, 2021).
21 CureVac, 2021. https://www.curevac.com/en/2021/06/30/curevac-final-data-from-phase-
2b-3-trial-of-first-generation-covid-19-vaccine-candidate-cvncov-demonstrates-protection-
in-age-group-of-18-to-60/ (accessed Aug. 01, 2021).
22 S. M. Vrba et al., Vaccines, vol. 8, no. 4. MDPI AG, pp. 1–31, Dec. 01, 2020. doi:
10.3390/vaccines8040680.
23 S. J. Draper et al., Nature Reviews Microbiology, vol. 8, no. 1. Nat Rev Microbiol, pp. 62–
73, Jan. 2010. doi: 10.1038/nrmicro2240.
24 D. Y. Logunov et al., Lancet, vol. 397, no. 10275, pp. 671–681, Feb. 2021, doi:
10.1016/S0140-6736(21)00234-8.
25 Astra Zeneca, https://www.astrazeneca.com/content/astraz/media-centre/press-
releases/2021/azd1222-us-phase-iii-primary-analysis-confirms-safety-and-efficacy.html
(accessed Aug. 01, 2021).
26 D. Y. Logunov et al., Lancet, vol. 396, no. 10255, pp. 887–897, Sep. 2020, doi:
10.1016/S0140-6736(20)31866-3.
27 T. W. Geisbert et al., J. Virol., vol. 85, no. 9, pp. 4222–4233, May 2011, doi:
10.1128/jvi.02407-10.
28 V. Vetter et al., Ann. Med., vol. 50, no. 2, pp. 110–120, 2018, doi:
10.1080/07853890.2017.1407035.
29 J. Pollet et al., Adv. Drug Deliv. Rev., vol. 170, pp. 71–82, 2021, doi:
10.1016/j.addr.2021.01.001.
30 P. T. Heath et al., N. Engl. J. Med., p. NEJMoa2107659, Jun. 2021, doi:
10.1056/NEJMOA2107659.
31 L. Dai et al., Nat. Rev. Immunol., vol. 21, no. 2, pp. 73–82, 2021, doi: 10.1038/s41577-020-
00480-0.
32 M. Bolles et al., J. Virol., vol. 85, no. 23, pp. 12201–12215, Dec. 2011, doi:
10.1128/jvi.06048-11.
33 A. S. Agrawal et al., Hum. Vaccines Immunother., vol. 12, no. 9, pp. 2351–2356, Sep. 2016,
doi: 10.1080/21645515.2016.1177688.
34 P. L. Iversen et al., Lancet Infect. Dis., vol. 21, no. 6, pp. 746–748, Jun. 2021, doi:
10.1016/S1473-3099(21)00020-7.
35 H. Wang et al., Cell, vol. 182, no. 3, pp. 713-721.e9, Aug. 2020, doi:
10.1016/j.cell.2020.06.008.