ĐẦu tƯ xÂy dỰng cƠ bẢn Ở viỆt...

23
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM: - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 1 Bùi Mạnh Cường Phần 1 VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các tài sản cố định (TSCĐ) và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. ĐTXDCB là một hoạt động kinh tế. ĐTXDCB của nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong những năm qua nhà nước đã giành hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm cho ĐTXDCB. ĐTXDCB của nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động ĐTXDCB của nền kinh tế ở Việt Nam. ĐTXDCB của nhà nước đã tạo ra nhiều công trình, nhà máy, đường giao thông, … quan trọng, đưa lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội thiết thực. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả ĐTXDCB của nhà nước ở nước ta còn thấp thể hiện trên nhiều khía cạnh như: đầu tư sai, đầu tư khép kín, đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng ... Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các TSCĐ. Trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Khác với đối tượng lao động ( nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm ....) các tư liệu lao động ( như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiên vận tải,...) là những phương tiện vật chất mà con ngươì sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động là các TSCĐ. Đó là các tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, TSCĐ vô hình....Thông thường một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải đồng thời 1 Nguồn: Cổng thông tin phòng chống tham nhũng,Thanh tra Chính phủ: http://chongthamnhung.thanhtra.gov.vn

Upload: others

Post on 11-Jun-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP1

Bùi Mạnh Cường

Phần 1

VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các tài sản cố định (TSCĐ) và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. ĐTXDCB là một hoạt động kinh tế.

ĐTXDCB của nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong những năm qua nhà nước đã giành hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm cho ĐTXDCB. ĐTXDCB của nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động ĐTXDCB của nền kinh tế ở Việt Nam. ĐTXDCB của nhà nước đã tạo ra nhiều công trình, nhà máy, đường giao thông, … quan trọng, đưa lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội thiết thực. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả ĐTXDCB của nhà nước ở nước ta còn thấp thể hiện trên nhiều khía cạnh như: đầu tư sai, đầu tư khép kín, đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng ...

Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các TSCĐ. Trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Khác với đối tượng lao động ( nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm ....) các tư liệu lao động ( như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiên vận tải,...) là những phương tiện vật chất mà con ngươì sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động là các TSCĐ. Đó là các tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, TSCĐ vô hình....Thông thường một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn cơ bản: Phải có thời gian sử dụng tối thiểu và phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định. Tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với giá cả của từng thời kỳ.

Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là những công cụ lao động nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động. TSCĐ được chia thành hai loại: TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình). Để có được TSCĐ, chủ đầu tư có thể thực hiện bằng nhiều cách như: xây dựng mới, mua sắm, đi thuê,...

Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các TSCĐ được gọi là ĐTXDCB. XDCB chỉ là một khâu trong hoạt động ĐTXDCB. XDCB là các hoạt động cụ thể để tạo ra TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt,...).

Vốn của dự án ĐTXDCB nói chung được cấu thành bởi các nguồn sau:

Thứ nhất là nguồn vốn của nhà nước. Nguồn vốn này bao gồm:

+ Ngân sách nhà nước cấp phát.

1 Nguồn: Cổng thông tin phòng chống tham nhũng,Thanh tra Chính phủ: http://chongthamnhung.thanhtra.gov.vn

Page 2: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

+ Vốn của các doanh nghiệp nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bao gồm vốn từ khấu hao cơ bản để lại, từ lợi nhuận sau thuế, từ đất đai, nhà xưởng còn chưa sử dụng đến,... được huy động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; vốn góp của nhà nước trong liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài.

+ Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước mà Chính phủ cho vay theo lãi suất ưu đãi bằng nguồn vốn tự có hoặc nhà nước đi vay để cho vay lại đầu tư vào các dự án thuộc lĩnh vực được ưu tiên trong kế hoạch nhà nước đối với một số doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

+ Vốn vay nợ, viện trợ từ bên ngoài của Chính phủ thông qua kênh hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trên thực tế, một phần vốn này sẽ đưa vào ngân sách đầu tư, còn phần ODA cho các doanh nghiệp vay lại thì đưa vào nguồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.

Thứ hai là nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân và nguồn vốn đóng góp tự nguyện của dân cư vì lợi ích cộng đồng, kể cả đóng góp công lao động, của cải vật chất để xây dựng các công trình phúc lợi.

Thứ ba là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp của nước ngoài tại Việt Nam là nguồn vốn do nước ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của Việt Nam, nhưng không tham gia công việc quản lý trực tiếp. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Inverstment – FDI) ở Việt Nam là nguồn vốn nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức tự đầu tư 100% vốn hoặc liên doanh. Ngoài ra còn có nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức phi chính phủ (Non- Government Organization – NGO).

ĐTXDCB của nhà nước là hoạt động đầu tư của nhà nước, bao gồm các dự án ĐTXDCB được hoạch định trong kế hoạch nhà nước và được cấp phát bằng nguồn vốn ngân sách của nhà nước, đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.

Phần 2

ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC

1. Đặc điểm của sản phẩm và quá trình xây dựng cơ bản

Sản phẩm của ĐTXDCB là những công trình xây dựng như nhà máy, công trình công cộng, nhà ở, cầu cống, sân bay, cảng biển,... thường là gắn liền với đất đai. Vì thế, nên trước khi đầu tư các công trình phải được quy hoạch cụ thể, khi thi công xây lắp thường gặp phải khó khăn trong đền bù giải toả giải phóng mặt bằng, khi đã hoàn thành công trình thì sản phẩm đầu tư khó di chuyển đi nơi khác.

Sản phẩm của ĐTXDCB là những TSCĐ, có chức năng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ khác cho xã hội, thường có vốn đầu tư lớn, do nhiều người, thậm chí do nhiều cơ quan đơn vị khác nhau cùng tạo ra.

Sản phẩm ĐTXDCB mang tính đặc biệt và tổng hợp, sản xuất không theo một dây chuyền sản xuất hàng loạt, mà có tính cá biệt. Mỗi công trình đều có điểm riêng có nhất định. Ngay trong một công trình, thiết kế, kiểu cách, kết cấu các cấu phần cũng không hoàn toàn giống nhau.

Với những công trình công nghệ cao, có vòng đời thay đổi công nghệ ngắn như các công trình thuộc lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, điện tử, .. thì việc thay đổi công nghệ, kiểu dáng, hình thức, công năng luôn luôn xảy ra. Giá thành của sản phẩm XDCB rất phức tạp và thường xuyên thay đổi theo từng giai đoạn.

Sản phẩm ĐTXDCB không chỉ mang ý nghĩa kinh tế kỹ thuật mà còn mang tính nghệ thuật, chịu nhiều ảnh hưởng của nhân tố thượng tầng kiến trúc, mang màu sắc truyền thống dân

Page 3: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

tộc, thói quen, tập quán sinh hoạt,...Sản phẩm ĐTXDCB phản ánh trình độ kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ văn hoá nghệ thuật của từng giai đoạn lịch sử nhất định của một đất nước.

Quá trình thực hiện ĐTXDCB thiếu tính chất ổn định, luôn bị biến động thể hiện trên các mặt sau: Rất nhiều trường hợp thiết kế phải thay đổi trong quá trình thực hiện do yêu cầu của chủ đầu tư; Do địa điểm xây dựng các công trình luôn luôn thay đổi đối với các nhà thầu thi công xây lắp nên phương pháp tổ chức sản xuất và biện pháp kỹ thuật cũng luôn thay đổi cho phù hợp với mỗi nơi. Trong XDCB, sản phẩm luôn đứng im gắn liền với đất. Con người, máy móc luôn di chuyển làm cho máy móc chóng hỏng, sản xuất dễ bị gián đoạn, làm tăng chi phí do phải xây dựng nhiều công trình tạm. Vật liệu xây dựng số lượng nhiều, trọng lượng lớn, nhất là phần thô nên nhu cầu vận chuyển lớn, chi phí vận chuyển cao không trực tiếp tạo thêm giá trị cho sản phẩm. Những đặc điểm như vậy đòi hỏi đơn vị thi công xây lắp phải có phương pháp, cách thức cung ứng vật tư thiết bị hợp lý đảm bảo tiến độ thi công. Khi thi công không thể dự trữ vật liệu và bán thành phẩm có khối lượng lớn để đảm bảo sản xuất như các ngành công nghiệp khác. Nơi làm việc, lực lượng lao động, điều kiện làm việc không ổn định. Do vậy nếu bố trí thiếu hợp lý có thể dẫn đến tình trạng ngừng việc, chờ đợi, năng suất lao động thấp, tâm lý tạm bợ, tùy tiện trong làm việc và sinh hoạt của cán bộ công nhân ở công trường.

Quá trình XDCB bị tác động nhiều bởi yếu tố tự nhiên. Nhiều yếu tố tự nhiên có thể ảnh hưởng mà không lường trước được như tình hình địa chất thuỷ văn, ảnh hưởng của khí hậu thời tiết, mưa bão, động đất, ...

Trong ĐTXDCB, chu kỳ sản xuất thường dài và chi phí sản xuất thường lớn. Vì vậy nhà thầu dễ gặp phải rủi ro khi bỏ vốn không thích hợp. Chọn trình tự bỏ vốn thích hợp để giảm mức tối đa thiệt hại do ứ đọng vốn ở công trình xây dựng dở dang là một thách thức lớn đối với các nhà thầu.

Một dự án ĐTXDCB thường do nhiều đơn vị cùng tham gia thực hiện. Để thực hiện một dự án ĐTXDCB thường có nhiều hạng mục, nhiều giai đoạn. Trên một công trường xây dựng có thể có nhiều đơn vị tham gia, các đơn vị này cùng hoạt động trên một không gian, thời gian, trong tổ chức thi công cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau.

2. Đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước

Trong ĐTXDCB của nhà nước, vốn là vốn của nhà nước mà không phải là của tư nhân, do vậy rất khó quản lý sử dụng, dễ xảy ra thất thoát, lãng phí, tham nhũng. Ở đây quyền sở hữu về vốn không trùng hợp với quyền sử dụng và quản lý vì thế trách nhiệm quản lý vốn không cao. Động lực cá nhân đối với việc sử dụng hiệu quả đồng vốn không rõ ràng, mạnh mẽ như nguồn vốn tư nhân. Vì vậy việc quản lý hiệu quả vốn trong ĐTXDCB của nhà nước rất khó khăn, phức tạp.

Về lĩnh vực đầu tư, ĐTXDCB của nhà nước thường nhằm vào lĩnh vực ít được thương mại hoá, không thu hồi vốn ngay, ít có tính cạnh tranh.

Về mục tiêu đầu tư, ĐTXDCB của nhà nước thường ít nhắm tới mục tiêu lợi nhuận trực tiếp. Nó phục vụ lợi ích của cả nền kinh tế, trong khi ĐTXDCB của tư nhân và đầu tư nước ngoài thường đề cao lợi nhuận.

Về môi trường đầu tư, ĐTXDCB của nhà nước thường diễn ra trong môi trường thiếu vắng sự cạnh tranh. Và nếu có sự cạnh tranh thì cũng ít khốc liệt hơn khu vực đầu tư khác.

Phạm vi đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước: Nhìn trong tổng thể việc đầu tư của toàn xã hội, mỗi một nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định phải tự định đoạt cho mình phạm vi ĐTXDCB để đạt được mục tiêu mà nhà nước ấy đặt ra. Nhà nước phải quyết định ĐTXDCB ở đâu, công trình nào, nhằm mục đích gì, để giải quyết những vấn đề gì. Nhà nước cũng phải xác định rõ ràng phạm vi nào dành cho các nguồn đầu tư khác ngoài ĐTXDCB của

Page 4: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

nhà nước, quyết định các chính sách ưu tiên ưu đãi, thuế khoá để khuyến khích, điều tiết vĩ mô ĐTXDCB.

Nhìn chung nhà nước chỉ nên đầu tư vào những nơi có sự thất bại của thị trường, khi mà khu vực vốn khác không thể đầu tư, không muốn đầu tư và không được phép đầu tư, khi nhà nước cần giải quyết các vấn đề xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng. Việc đầu tư theo vùng miền và theo các ngành kinh tế cũng phải được nhà nước tính đến. Việc định đoạt phạm vi ĐTXDCB của nhà nước khác biệt với việc xác định phạm vi đầu tư của khu vực tư nhân ở chỗ nhà nước phải giữ vai trò điều tiết, khắc phục thất bại thị trường, giải quyết vấn đề kinh tế xã hội cùng với việc tính toán lợi ích chung. Trong lúc đó khu vực đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài nhìn chung chỉ chú trọng đến lợi ích kinh tế.

Phạm vi đầu tư trong từng lĩnh vực trong từng thời điểm lịch sử sẽ khác nhau. Nó được quyết định bởi mục tiêu kinh tế xã hội của từng thời kỳ và được dẫn dắt định đoạt bởi chính trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường.

3. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước:

Có nhiều phương pháp để đánh giá hiệu quả đầu tư. Phương pháp thống kê đánh giá hiệu quả đầu tư là một phương pháp thường dùng trong ĐTXDCB. Theo phương pháp này, đánh giá hiệu quả của đầu tư thường làm theo 2 bước, đó là đánh giá khái quát và đánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua một hệ thống các chỉ tiêu thống kê. Đánh giá khái quát là bước xem xét mức độ đáp ứng những nhiệm vụ chính trị- kinh tế- tài chính - xã hội mà ngành, địa phương, cơ sở phải đảm nhiệm trong từng năm, từng thời kỳ kế hoạch của đầu tư. Phương pháp để sử dụng ở bước này là so sánh tương quan giữa các chỉ tiêu phản ánh tình hình thực hiện đầu tư theo tổng mức, theo các tiêu thức phân tổ với những thành quả trong sản xuất kinh doanh của cơ sở, trong phát triển kinh tế của từng ngành, phát triển kinh tế xã hội của địa phương và của đất nước. Đánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ thống chỉ tiêu thống kê ở buớc 2 được thực hiện theo nguyên tắc chung là lần lượt so sánh các kết quả do đầu tư đưa lại với chi phí vốn đầu tư đã thực hiện để thu được các kết quả đó. So sánh kết quả tính được với định mức hoặc kế hoạch, với các thời kỳ trước, với các công cuộc đầu tư cùng tính chất. Chẳng hạn nếu gọi E0 là chỉ tiêu hiệu quả định mức, E1 là chỉ tiêu hiệu quả thực tế, trong đó: E1= Kết quả đạt được/chi phí vốn tương ứng. Nếu E1 ≥ E0 thì công cuộc đầu tư là có hiệu quả và ngược lại.

Các kết quả đầu tư đưa lại cho nền kinh tế rất đa dạng. Nó có thể là lợi nhuận thuần, mức tăng năng suất lao động, là số lao động có việc làm do đầu tư đưa lại, là mức tăng thu nhập cho người lao động, tăng thu cho ngân sách, tăng GDP, tăng năng lực sản xuất và sản lượng của nền kinh tế, ...Do đó để phản ánh hiệu quả hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi một chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. Trong đó chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền được sử dụng rộng rãi nhất. Có thể sử dụng các hệ thống chỉ tiêu sau đây:

Một là hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính còn gọi là hiệu quả hạch toán kinh tế. Chỉ tiêu này được sử dụng để xem xét hiệu quả của đầu tư đối với từng dự án đầu tư hoặc đầu tư của doanh nghiệp. Đối với từng dự án đầu tư, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của đầu tư gồm có : Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án ; chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư, còn gọi là hệ số thu hồi vốn đầu tư ; chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn tự có ; chỉ tiêu số lần quay vòng của vốn lưu động ; chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư dự án (thời gian thu hối vốn càng ngắn thì hiệu quả của dự án càng cao) ; chỉ tiêu mức chi phí thấp nhất trong trường hợp các điều kiện khác nhau (đời dự án, doanh thu thuần...) tính cho toàn bộ công cuộc đầu tư của dự án ; chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ IRR ; chỉ tiêu điểm hoà vốn. Đối với doanh nghiệp, thường các chỉ tiêu của hiệu quả tài chính của chủ đầu tư được xem xét bao gồm : Chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi nhuận ròng của vốn đầu tư từng năm hoặc bình quân năm thời kỳ nghiên cứu ; chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi tăng thêm của vốn tự có của doanh nghiệp do đầu tư từng năm hoặc bình quân năm thời kỳ

Page 5: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

nghiên cứu ; chỉ tiêu số lần quay vòng tăng thêm của vốn lưu động từng năm hoặc bình quân năm thời kỳ nghiên cứu ; chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư giảm kỳ nghiên cứu t so với kỳ trước ( t-1) ; chỉ tiêu mức hoạt động hoà vốn giảm ; Mức tăng năng suất lao động của doanh nghiệp từng năm hoặc bình quân năm thời kỳ nghiên cứu so với kỳ trước do đầu tư; Đánh giá tổng hợp hiệu quả của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp.

Hai là hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả KTXH của hoạt động đầu tư đạt được phân biệt theo hai góc độ:

Góc độ thứ nhất là hiệu quả KTXH của đầu tư được xem xét trên góc độ của doanh nghiệp bao gồm : Mức đóng góp cho ngân sách ; số chỗ làm việc tăng thêm từng năm và cả đời dự án ; số ngoại tệ thực thu từ hoạt động đầu tư từng năm và cả đời dự án ; tổng chi tiền nội tệ tính trên một đơn vị ngoại tệ thực thu ; Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư từng năm và bình quân cả đời dự án ; Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động thể hiện ở chỉ tiêu bậc thợ bình quân thay đổi sau khi đầu tư với trước khi đầu tư và mức thay đổi này tính trên 1000 đ vốn đầu tư ; Tạo thị trưòng mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường do tiến hành đầu tư ; Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất thể hiện ở mức thay đổi cấp bậc công việc bình quân sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư và mức thay đổi này tính trên 1000 đ vốn đầu tư ; Nâng cao trình độ quản lý của lao động quản lý thể hiện ở sự thay đổi mức đảm nhiệm quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý TSCĐ của lao động, quản lý sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư ; Các tác động đến môi trường ; Đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.

Góc độ thứ hai là đối với các cấp quản lý vĩ mô của nhà nước, của địa phương và của ngành: Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm ký hiệu là NVA. Đối với các dự án đầu tư liên doanh, NVA gồm 2 bộ phận: Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm quốc gia. Giá trị này là phần giá trị tăng được sử dụng trong nước; giá trị tăng thuần tuý được chuyển ra nước ngoài ; chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư ; chỉ tiêu mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ ; chỉ tiêu ngoại hối ròng ( tiết kiệm ngoại tệ) ; các chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế ; Những tác động khác của dự án như ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng, tác động đến môi trường, nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, những tác động về xã hội, chính trị và kinh tế.

Ba là, để đánh giá hiệu quả các công cuộc đầu tư phúc lợi công cộng không nhằm các lợi ích kinh tế trực tiếp ở cấp cơ sở hoặc ở cấp quản lý vĩ mô, thì các nhà kinh tế còn sử dụng các chỉ tiêu kinh tế sau đây: Suất đầu tư tính cho một đơn vị năng lực phục vụ tăng thêm ; hệ số huy động các kết quả của đầu tư so với toàn bộ vốn đầu tư thực hiện các kỳ trước chưa được huy động và vốn đầu tư thực hiện kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt nhưng luôn nhỏ hơn 1 ; Tốc độ thực hiện đầu tư phản ánh số lượng, năng lực phục vụ được huy động hoặc mức vốn đầu tư được thực hiện trong một đơn vị thời gian. Chỉ tiêu này càng lớn tốc độ thực hiện đầu tư càng nhanh.

Những yếu tố ánh hưởng đến hiệu quả của hoạt động ĐTXD cơ bản của nhà nước:

1. Quy hoạch

Quy hoạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả của hoạt động ĐTXDCB. Nếu quy hoạch sai sẽ dẫn đến lãng phí công trình đầu tư. Thực tế ĐTXDCB trong những năm qua cho thấy, nếu quy hoạch sai sẽ dẫn đến tình trạng các công trình không đưa vào sử dụng được hoặc thua lỗ kéo dài phải phá sản. Ví dụ như các nhà máy đường, cảng cá, chợ đầu mối,... Quy hoạch dàn trải sẽ làm cho việc ĐTXDCB manh mún, nhỏ lẻ, ít hiệu quả. Nhưng nếu không có quy hoạch thì hậu quả lại càng nặng nề hơn. Nhà nước không những chỉ quy hoạch cho ĐTXDCB của nhà nước mà còn phải quy hoạch ĐTXDCB chung, trong đó có cả ĐTXDCB của tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài. Khi đã có quy hoạch cần phải công khai quy hoạch để người dân và các cấp chính quyền đều biết. Trên cơ sở quy hoạch, về ĐTXDCB của nhà nước,

Page 6: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

nhà nước cần phải đưa vào kế hoạch đầu tư, khuyến khích các khu vực vốn khác tham gia đầu tư để tránh tình trạng quy hoạch treo.

2. Hệ thống các chính sách pháp luật về đầu tư xây dựng

Hệ thống các chính sách pháp luật về đầu tư xây dựng nói chung và ĐTXDCB nói riêng phải được thể chế hoá. Các văn bản quy phạm pháp luật tạo ra hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động ĐTXDCB. Hệ thống các chính sách pháp luật có ảnh hưởng sâu rộng và trực tiếp đến hoạt động ĐTXDCB và do vậy có ảnh hưởng to lớn đến hiệu quả của hoạt động ĐTXDCB. Hệ thống chính sách pháp luật vừa thiếu vừa yếu sẽ dẫn đến tình trạng có nhiều kẽ hở tạo điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng thất thoát, lãng phí trong ĐTXDCB. Hệ thống chính pháp pháp luật đầy đủ nhưng không sát thực, chồng chéo, nhiều thủ tục phiền hà cũng làm nản lòng các nhà đầu tư và do vậy gián tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ĐTXDCB.

Các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và các văn bản quy phạm pháp luật về ĐTXDCB được xây dựng nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Do vậy các chính sách pháp luật cũng được bổ sung sửa đổi khi mà bản thân nó không còn đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới đã thay đổi. Để có thể quản lý ĐTXDCB được tốt, nhà nước phải luôn luôn cập nhật sự thay đổi của tình hình ĐTXDCB để từ đó bổ sung sửa đổi hệ thống chính sách pháp luật về ĐTXDCB cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ĐTXDCB.

3. Năng lực bộ máy và quản lý hành chính nhà nước

Năng lực tổ chức bộ máy có ảnh hưởng quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động ĐTXDCB. Năng lực tổ chức bộ máy ở đây bao gồm năng lực con người và năng lực của các tổ chức tham gia vào lĩnh vực ĐTXDCB. Nếu năng lực con người và tổ chức bộ máy yếu thì không thể có hiệu quả cao trong ĐTXDCB. Tổ chức bộ máy tham gia vào hoạt động ĐTXDCB rất rộng, từ khâu lập quy hoạch kế hoạch, đến khâu chuẩn bị đầu tư, tổ chức đấu thầu, thi công, nghiệm thu quyết toán, đưa công trình vào sử dụng,...

Công tác quản lý hành chính nhà nước trong ĐTXDCB cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt động đầu tư. Thực tế cho thấy nếu quản lý nhà nước yếu kém, hành chính quan liêu, thủ tục hành chính rườm rà sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu tư và hậu quả là hiệu quả hoạt động đầu tư thấp. Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động ĐTXDCB cần phải đổi mới quản lý hành chính nhà nước.

4. Môi trường cạnh tranh trong đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước

Trong ĐTXDCB của nhà nước thường tính cạnh tranh không cao. Về nguyên tắc, nhà nước thường ĐTXDCB vào những vùng, miền, lĩnh vực mà đầu tư tư nhân không muốn làm, không thể làm, không được làm. Nhà nước thường đầu tư vào những nơi mà lợi ích kinh tế xã hội nói chung được coi trọng hơn lợi ích kinh tế thuần tuý. Vì vậy, môi trường cạnh tranh trong ĐTXDCB của nhà nước về lý thuyết nhìn chung thường ít khốc liệt, thiếu minh bạch. Tuy nhiên, nếu thiếu vắng sự cạnh tranh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động ĐTXDCB. Nhà nước cần phải tạo ra một môi trường cạnh tranh thực chất trong lĩnh vực ĐTXDCB của nhà nước để tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.

Phần 3

NHỮNG HẠN CHẾ CẦN ĐƯỢC KHẮC PHỤC

ĐTXDCB của nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư xây dựng cơ bản của toàn xã hội

Trong hơn 10 năm qua, vốn đầu tư của nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Vốn dành cho ĐTXDCB của nhà nước cũng chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng vốn ĐTXDCB nói chung. Điều này thể hiện năng lực huy động vốn khu vực ngoài nhà nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho ĐTXDCB còn yếu. Nhà nước vẫn còn bao cấp khá

Page 7: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

nặng trong ĐTXDCB. Tổng vốn dành cho ĐTXDCB có tăng nhưng khó tạo ra sự phát triển đột phá nếu nguồn vốn đầu tư nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng đầu tư xã hội.

ĐTXDCB của nhà nước vẫn còn hướng đến cả những lĩnh vực mà nhà nước không nhất thiết phải đầu tư

Theo các báo cáo hàng năm của Chính phủ công bố trên Website Chinhphu.vn và niên giám thống kê 2005 của Tổng cục Thống kê và những phân tích ở trên, ta thấy nhà nước vẫn còn ĐTXDCB vào cả những lĩnh vực mà nhà nước không nhất thiết phải đầu tư như sản xuất đường ăn, xi măng, sắt thép,... Nếu những khu vực này nhà nước để cho các khu vực kinh tế khác như tư nhân, đầu tư nước ngoài thực hiện sẽ có hiệu quả hơn. Nhà nước chỉ nên quy hoạch, định hướng, thu thuế và thực hiện quản lý nhà nước. Vì nhà nước vẫn còn đầu tư vào những lĩnh vực mà đáng ra nhà nước không nên đầu tư nên xảy ra tình trạng kém hiệu quả trong các lĩnh vực này, ĐTXDCB của nhà nước trở nên dàn trải, lấn sân khu vực đầu tư khác ngoài nhà nước và lãng phí nguồn lực. Trong lúc đó, đáng lẽ ra với nguồn vốn đầu tư còn khiêm tốn, nhà nước phải xác định được chính xác quy mô, phạm vi của ĐTXCB của nhà nước là cung cấp hàng hoá công, an ninh quốc phòng, một số hàng hoá đặc biệt, khắc phục thất bại thị trường, điều tiết vĩ mô, cân đối vùng miền,... Từ việc xác định đó, nhà nước tập trung sức để giải quyết tốt ĐTXDCB trong phạm vi cần đầu tư. Với các khu vực còn lại ĐTXDCB của nhà nước phải mang tính hỗ trợ, khuyến khích, dẫn dắt đầu tư đúng hướng tạo nên tính hệ thống, cân đối và hiệu quả trong ĐTXDCB nói chung.

Đầu tư sai, đầu tư dàn trải, đầu tư khép kín.

Đầu tư sai là vấn đề nhức nhối làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả đầu tư đuợc nêu ra rất nhiều trong những năm gần đây. Nhiều công trình dự án chưa thực sự phải cần thiết đầu tư, chưa đến thời điểm đầu tư hoặc không nhất thiết phải bố trí vốn nhà nước đầu tư đã gây lãng phí không nhỏ. Quy mô, địa điểm của nhiều dự án ĐTXDCB của nhà nước xác định không đúng dẫn đến tình trạng phải liên tục bổ sung vốn, đầu tư xong thiếu nguyên liệu để sản xuất, đầu tư xong không có nơi tiêu thụ sản phẩm. Đây là sản phẩm của tư duy quan liêu bao cấp nặng nề, quyết định đầu tư duy ý chí, làm kinh tế theo kiểu phong trào. Nếu gõ cụm từ “đầu tư sai” vào các trang tìm kiếm trên internet sẽ có trên 500 trang tin đề cập đến. Đọc các trang này ta thấy đầu tư sai mang lại hậu quả xấu rất lớn. Nhiều tỉ đồng đã thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả trong hơn 12.000 dự án đầu tư, từ đánh bắt xa bờ, mía đường, xi măng lò đứng, cho tới đại công trường ở Hà Giang. Từ năm 2002, với chương trình 1 triệu tấn đường, cả nước rộ lên phong trào trồng mía, xây dựng nhà máy đường. Đến nay cả nước đã xây dựng 44 nhà máy đường, tổng công suất thiết kế là 82.950 tấn mía/ngày. Tổng số vốn đầu tư, mở rộng, xây dựng mới các nhà máy lên tới 10.050 tỉ đồng, trong đó có hơn 6.677 tỉ đồng thiết bị và hơn 3.372 tỉ đồng xây lắp. Tổng sản lượng đường đạt trên một triệu tấn. Tuy nhiên đến thời điểm này, tình trạng tài chính của các nhà máy đường trên toàn quốc hết sức thê thảm với số nợ khoảng trên 5.000 tỉ đồng và đa số mất khả năng chi trả. Trong số nợ này có tới khoảng 1.000 tỉ đồng vay nước ngoài. Đa số các doanh nghiệp đã không trả được nợ nước ngoài. Hệ thống Ngân hàng thương mại cũng đã phải đứng ra trả thay khoản nợ bảo lãnh và cho vay nhận nợ bắt buộc của 16 doanh nghiệp trên 17,4 triệu USD. Từ khi bắt đầu chương trình mía đường, đại đa số các doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ triền miên. Đến hết năm 2002, lỗ lũy kế của 36 doanh nghiệp là trên 2.000 tỉ đồng. Rất nhiều nhà máy chỉ sau một vài năm hoạt động đã lỗ trên 50% vốn đầu tư, thậm chí có những nhà máy lỗ trên 100% vốn đầu tư. Nhà máy đường Quảng Bình lỗ 136,6 tỉ/141,1 tỉ đồng vốn. Nhà máy đường Kiên Giang lỗ 170,6 tỉ/161,1 tỉ đồng vốn đầu tư. Nhà máy đường Sơn Dương lỗ 119,6 tỉ/107,8 tỉ đồng vốn đầu tư. Trong số 44 nhà máy đường trên cả nước, chỉ có 29 nhà máy hoạt động trên 80% công suất thiết kế; 8/44 nhà máy đạt từ 50-80% công suất; có tới 5 nhà máy (Cam Ranh, Bình Thuận, Quảng Bình, Trị An, Quảng Nam) đạt dưới 50% công suất. Kết quả kiểm tra của các cơ quan chức năng cho thấy hầu hết các địa phương đều tìm cách "thu nhỏ" nhà máy khi lập dự án, giảm mức đầu tư xuống mức rất thấp để có được quyết định thành lập nhà máy. Sau khi có quyết định, được cấp vốn, họ lại xin điều chỉnh mức đầu tư để “thổi phình” nhà

Page 8: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

máy lên. Có những dự án nhà máy đường phải điều chỉnh nhiều lần, tăng đến 60%, thậm chí 100% tổng vốn đầu tư: Nhà máy đường Phụng Hiệp tăng từ 134,2 tỉ đồng lên đến hơn 210 tỉ đồng; Nhà máy Linh Cảm tăng từ 98,4 tỉ lên đến 122,6 tỉ đồng; Nhà máy Vị Thanh tăng từ 81,3 tỉ lên đến 173,6 tỉ đồng. Nguyên nhân cơ bản là do việc chuẩn bị đầu tư không tốt, duy ý chí, không tuân theo các quy luật của nền kinh tế thị trường nên quyết định đầu tư sai. Ví dụ, các nhà máy đường Linh Cảm (Hà Tĩnh) và Thừa Thiên-Huế đã đầu tư sai. Sau khi được di dời vào Trà Vinh và Phú Yên đã hoạt động khả quan hơn. Chọn Linh Cảm nhà đầu tư đã chủ quan không điều tra, không quy hoạch, không nghiên cứu cụ thể. Vùng Linh Cảm là vùng trồng lúa rất tốt. Người dân ở đây trồng ba vụ/năm: hai lúa và một màu, thu được khoảng 35-40 triệu đồng/ha. Nhưng nếu trồng mía, năng suất cao nhất là 80 tấn/ha. Với giá mía 220.000 đồng/tấn thì chỉ được gần 20 triệu đồng/ha. Trồng mía thu nhập chỉ bằng 1/2-1/3 cây trồng khác thì người nông dân không trồng mía. Không có mía thì nhà máy không có nguyên liệu. Nhà máy đường Linh Cảm khi đi vào sản xuất vụ đầu tiên chỉ chạy được có 15 ngày, như thế thì không thể tồn tại được. Lãng phí do việc đầu tư sai từ việc đầu tư 9 cảng cá gồm: Cà Mau (Cà Mau), Trần Đề (Sóc Trăng), Tắc Cậu (Kiên Giang), Côn Đảo, cảng Cát Lở (Bà Rịa - Vũng Tàu), Phan Thiết (Bình Thuận), Thuận Phước (Đà Nẵng), Sông Gianh (Quảng Bình), Thuận An (Thừa Thiên-Huế) rất lớn. Các cảng cá này được đầu tư xây dựng với mục đích tăng thêm nơi trú ngụ cho 3.500 tàu thuyền, tăng khả năng khai thác hải sản qua cảng là 35.000 tấn/năm, tăng năng lực đánh bắt để khai thác có hiệu quả nguồn lợi hải sản ở vùng biển xa bờ, góp phần bảo vệ nguồn lợi, vệ sinh môi trường, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Với những khoản đầu tư khổng lồ nhưng kết quả thanh tra đã xác định việc tư vấn thiết kế và quyết định đầu tư xây dựng một số cảng cá chưa hợp lý về vị trí, qui mô công trình và đầu tư mua sắm thiết bị chưa phù hợp với nhu cầu thực tế đã gây lãng phí trên 52 tỉ đồng. Cảng cá Cà Mau xây dựng do vị trí xây dựng không phù hợp nên cảng đã phải chuyển đổi hình thức từ cảng cá sang chợ cá. Sau hơn ba năm bàn giao, cảng cá Cà Mau không có tàu đánh bắt thủy hải sản cũng như các loại tàu khác có công suất 60-300CV cập cảng, chỉ có gần 2.000 lượt tàu thuyền thương mại và du lịch nhỏ cập cảng để trung chuyển hàng hóa, bằng 1,21% công suất thiết kế, trong đó hàng thủy sản đạt 4,43% công suất Ngoài ra, 18,471 tỉ đồng đầu tư cho các cảng cá mua sắm xe gắn cầu, xe nâng hàng, canô gắn máy cũng trở nên lãng phí do hầu hết tàu thuyền cập cảng là tàu đánh bắt vừa và nhỏ của ngư dân, hàng hóa chủ yếu là hàng hải sản với số lượng ít, không qua khâu trung chuyển khi cập cảng. Ba trong số chín cảng cá bị thanh tra được xác định là có vấn đề về chất lượng do tài liệu đầu vào (thủy văn, khí tượng, địa hình...) phục vụ việc thiết kế không đủ độ tin cậy nên giải pháp kỹ thuật và kết cấu công trình chưa hợp lý khiến công trình chưa đảm bảo tính ổn định.. Cảng cá Trần Đề cũng chỉ đạt hiệu quả khai thác 3,1% so với năng lực thiết kế và không thể sử dụng khai thác được do cao trình thiết kế sai, kết cấu bất hợp lý của hầu hết hạng mục công trình. Ngoài 9 cảng cá ra, cảng Sài gòn được đầu tư nâng cấp trên 512,6 tỷ đồng ( thời điểm năm 2000), vừa làm xong đã phải di dời gây lãng phí nghiêm trọng. Trong công nghiệp sản xuất chế biến phục vụ nông nghiệp có Nhà máy ươm tơ Yên Lạc là một ví dụ. Sau gần hai năm xây dựng với kinh phí gần 10 tỉ đồng, Nhà máy ươm tơ tự động Yên Lạc (Vĩnh Phúc) được coi là nhà máy ươm tơ hiện đại nhất miền Bắc, chính thức đi vào hoạt động ngày 1/7/2003. Nhà máy nằm giữa vùng trồng dâu nổi tiếng nhất tỉnh Vĩnh Phúc với sản lượng kén hằng năm tới gần 1.000 tấn. Thế nhưng nếu tính thời gian sản xuất liên tục thì một năm nhà máy chỉ hoạt động được mấy tháng, còn thì “trùm mền”. Vì sao? Vì giá thu mua kén của nhà máy không cạnh tranh được với tư thương, gần một năm chỉ mới chỉ thu mua và sản xuất được 50 tấn kén. Trong thương mại dịch vụ nhiều quyết định đầu tư sai dẫn đến sử dụng không hiệu quả, lãng phí lớn như hệ thống chợ ở Hà Nội. Chợ đầu mối Đền Lừ, chợ đầu mối Hải Bối (huyện Đông Anh) đầu tư hàng chục tỷ đồng làm xong không có người sử dụng .Hà Nội có 72 chợ được xây dựng thì có 58 chợ đã hoàn thành với tổng kinh phí được cấp trên 100 tỷ 789 triệu đồng và 189.746m2 đất. Trong đó, có 4 chợ sử dụng chưa được hiệu quả với tổng kinh phí xây dựng lên tới 17,689 tỷ đồng và 38.119m2 đất so với 12 chợ đã được đưa vào sử dụng. Tình hình trên cũng xảy ra ở nhiều dự án đầu tư xây dựng nhà máy chế biến rau quả, hải sản như ở Hải Phòng, Bắc Giang, Quảng Ngãi, Kiên Giang công suất khai thác của các nhà máy này rất thấp.Việc xây dựng nhiều khu công nghiệp ở một số địa

Page 9: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

phương như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương do không gắn với quy hoạch xây dựng nhà ở cho công nhân nên đã làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội; việc quy hoạch nhiều nhà máy trong đô thị dẫn đến quá tải nay phải có kế hoạch di chuyển sang địa phương khác... Nhìn chung trong toàn quốc việc bố trí đầu tư rất dàn trải. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & đầu tư, khoảng 1.430 ( khoảng 13%) dự án thuộc nhóm B và C bố trí quá thời gian quy định, trong đó khoảng 250( 14,2% ) dự án nhóm B bố trí vốn kéo dài quá 4 năm ( các bộ, ngành khoảng 110 dự án, địa phương khoảng 140 dự án) ; có 1.180 ( 12,9% ) dự án nhóm C bố trí vốn kéo dài quá 2 năm( bộ, ngành là 145 dự án, địa phương 1.035 dự án). Tình trạng dàn trải trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố đã xảy ra liên tục từ năm 1996 đến nay. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm, gây lãng phí lớn và dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, chậm được khắc phục. Bình quân vốn bố trí cho một dự án qua các năm có xu hướng giảm dần. Một số Bộ, ngành và địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư. Chỉ tính riêng các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn cân đối ngân sách nhà nước do Trung ương quản lý, năm 2001 có 357 dự án thiếu thủ tục đầu tư, năm 2002 có 598 dự án, năm 2003 có 365 dự án và năm 2004 có 377 dự án. Nhiều dự án khởi công chỉ có quyết định đầu tư, chưa có quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, như Bộ Giao thông Vận tải (17 dự án), Bộ Y tế (11 dự án), Bộ Công an (10 dự án).

ĐTXDCB của nhà nước còn mang tính chất khép kín và thiếu cơ chế giám sát. Khép kín trong nội bộ ngành và khép kín trong ĐTXDCB nhà nước.

Lãng phí, thất thoát, tiêu cực, tham nhũng:

Trong những năm vừa qua, các báo cáo của Quốc hội, Chính phủ về ĐTXDCB đều nhấn mạnh đến thất thoát, đặc biệt là trong ĐTXDCB của nhà nước. Thất thoát trong ĐTXDCB đã làm cho công trình không có đúng giá trị thực theo quyết toán. Các dạng thất thoát chủ yếu trong ĐTXDCB thường bao gồm :

+ Thất thoát do quản lý không tốt nên dẫn đến việc rút ruột công trình;

+ Thất thoát do thiết kế không đúng, quá dư so với thực tế thi công;

+ Thất thoát do kéo dài thời gian thi công;

+ Thất thoát trong bàn giao đưa công trình vào sử dụng, thanh quyết toánLãng phí trong ĐTXDCB là một trở lực phát triển đất nước. Trong kỳ họp Quốc hội năm 2005, theo báo cáo của Bộ Tài chính, mặc dù không có thống kê, song con số thất thoát trong ĐTXDCB khoảng 20-30%. Từ con số này lấy năm 2005 làm ví dụ : tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cả nước, theo tính toán của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) vào khoảng trên 50 tỉ USD. Trong thực tế, mỗi năm Chính phủ dành riêng cho việc đầu tư khoảng 30% GDP (tương đương 16-17 tỉ USD). Nếu con số thất thoát chiếm 30% tổng số tiền đầu tư, tính ra số tiền thất thoát trong ĐTXDCB mỗi năm không nhỏ hơn 2 tỉ USD! Khoản tiền đó đủ để xây dựng một nhà máy lọc dầu cỡ như Dung Quất. Tất nhiên, đây mới chỉ là con số ước đoán, nhưng chắc rằng nó cũng có ý nghĩa trong việc xem xét số tiền thất thoát trong ĐTXDCB, đặc biệt là ĐTXDCB của nhà nước.

Lãng phí thường bao gồm :

+ Do quy hoạch sai;

+ Do công trình được xây dựng không phù hợp về địa điểm và thời gian;

+ Do quy mô công trình không phù hợp với yêu cầu sử dụng;

+ Do công trình không đảm bảo chất lượng;

+ Không phù hợp giữa nội dung và hình thức;

Page 10: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

+ Công trình xây dựng không đảm bảo cảnh quan và môi trường;

+ Công trình được xây dựng thiếu đồng bộ, sử dụng không hết công suất;

+ Chậm đưa vào sử dụng;

Theo tính toán của giáo sư David Dapice, Trường Đại học Harvard tại hội thảo về kinh nghiệm 20 năm đổi mới của Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội: tổng GDP của Việt Nam trong vài năm trở lại đây đạt khoảng 50 tỉ USD/năm; trong đó luồng vốn nước ngoài (thu ngoại tệ từ dầu thô, đầu tư trực tiếp nước ngoài và tài trợ ODA) chiếm 25-30% GDP. Trên thực tế, mỗi năm, tổng vốn đầu tư chiếm 30% GDP. Với số tiền này, nếu đầu tư khôn ngoan, mỗi năm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phải đạt con số 9-10%, chứ không chỉ dừng lại ở mức 7-8% như thời gian qua. Dẫn chứng cho vấn đề này, giáo sư David Dapice đưa ra ví dụ: trong năm 2005, Chính phủ đã giao cho Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) số tiền 750 triệu USD từ việc phát hành trái phiếu Chính phủ, nhằm mở rộng các nhà máy đóng tàu. Thế nhưng, trong khi ở Ấn Độ, số tiền đầu tư cho 1 nhà máy đóng tàu cỡ 120.000 tấn chỉ hết 90 triệu USD, thì Vinashin lại tiêu tốn đến 150 triệu USD. Như vậy, với cùng một thời gian đóng tàu 18 tháng, cùng một giá bán, việc đóng tàu của Việt Nam phục vụ vào mục đích bán (số lượng) hơn là lợi nhuận từ vốn. Đây là những con số chưa được kiểm định nhưng cũng là những con số để chúng ta suy ngẫm.

Chính những công trình, dự án có số phận như: chậm hoàn thành, đầu tư không đúng, dàn trải, không kịp thời đưa vào khai thác sử dụng... một mặt làm thất thoát tiền bạc nhưng mặt khác còn trầm trọng hơn nữa là lực cản của sự phát triển của nền kinh tế đất nước, làm giảm tốc độ tăng trưởng.

Ngoài việc thất thoát, lãng phí xảy ra ở hầu hết các công trình ĐTXDCB của nhà nước, thì việc tiêu cực tham nhũng xảy ra thường xuyên. Nó trở thành chuyện bình thường trong các công trình ĐTXDCB của nhà nuớc. Tiêu cực tham nhũng làm cho chất lượng công trình giảm sút, làm hư hỏng cán bộ, làm nản lòng các nhà đầu tư và mất niềm tin của nhân dân. Giả sử nếu tỷ lệ thất thoát tham nhũng ở các công trình đầu tư của nhà nước trong năm 2005 là 10% thì giá trị thất thoát là 17.500 tỷ đồng. Số vốn này đủ để xây dựng mới khoảng 5 nhà máy xi măng công suất trên 1,2 triệu tấn/ năm/1 nhà máy. Nếu tính chung cho cả vốn đầu tư toàn xã hội thì với tỷ lệ thất thoát này sẽ là 33.500 tỷ đồng. Lượng thất thoát này đủ để xây dựng 3 nhà máy thuỷ điện Yaly hoặc 3 công trình đường dây 500KV. Theo báo cáo của Ðoàn giám sát Quốc hội, trong số 1.505 dự án về xây dựng được kiểm tra, có 176 dự án vi phạm quy định về thẩm định dự án; 198 dự án, công trình vi phạm quy chế đấu thầu; 802 dự án, công trình thi công sai thiết kế, sai chủng loại vật tư, thiết bị, không phê duyệt khối lượng phát sinh, vi phạm các quy định về trình tự thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng, về quản lý chất lượng, nghiệm thu, thanh toán công trình; 415 dự án, công trình vi phạm về thiết kế, khảo sát; 720 dự án, công trình vi phạm quy định trong giai đoạn đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Trong hai năm 2002 - 2003, thanh tra chuyên ngành xây dựng đã tổ chức thanh tra 31 dự án xây dựng với tổng vốn đầu tư là 17.300 tỷ đồng, thì cả 31 dự án đều có sai phạm với số tiền thất thoát, lãng phí lên đến 2.070 tỷ đồng. Báo cáo của Tổng hội Xây dựng Việt Nam về 59 công trình xây dựng có biểu hiện lãng phí, thất thoát cho thấy, có 27% các công trình do chất lượng kém, phải bổ sung kinh phí mới sử dụng được; 36% các công trình không sử dụng được do chọn địa điểm xây dựng không thích hợp, chất lượng kém (đặc biệt là các công trình của chương trình 135); 25% các công trình do quyết toán khống làm thất thoát gần 300 tỷ đồng, riêng Công trình đường Thạch Yên - Công Sự của tỉnh Kiên Giang thất thoát tới 58,6% vốn đầu tư...Từ năm 2001 đến nay, lực lượng công an đã liên tục phát hiện, điều tra nhiều vụ án tham nhũng lớn trong lĩnh vực ĐTXDCB, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, như: Vụ xây dựng khu vui chơi giải trí Thủy cung Thăng Long - Hà Nội; vụ xây dựng tuyến đường Nậm Pục - Pắc Ma của huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu; vụ Lã Thị Kim Oanh và đồng bọn ở Công ty Tiếp thị và Thương mại nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; vụ tham ô, cố ý làm trái tại Công ty Dịch vụ kỹ thuật dầu khí Vietsovpetro; vụ tham ô, cố ý làm trái trong thi công xây dựng Kho cảng Thị Vải, và gần

Page 11: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

đây là vụ lừa đảo trong đầu tư xây dựng của Nguyễn Ðức Chi, Chủ tịch HÐQT Công ty liên doanh Rusalka - Nha Trang…Lãng phí, thất thoát, tiêu cực, tham nhũng xảy ra ở tất cả các giai đoạn của quá trình ĐTXDCB của nhà nước, từ khi bắt đầu chuẩn bị đầu tư cho đến lúc đưa công trình vào sử dụng ở các mức độ khác nhau.

Ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, sai phạm chủ yếu xảy ra trong việc xác định dự án đầu tư, lập và thẩm định dự án.

Ở giai đoạn thực hiện đầu tư tiêu cực tham nhũng, thất thoát lãng phí xảy ra ở tất cả các khâu. Từ việc cấp giấy phép, cấp và giao đất cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, đền bù giải toả, tái định cư, tư vấn khảo sát thiết kế, cho đến việc việc mua sắm trang thiết bị, xây lắp và cả trong vận hành, nghiệm thu, quyết toán. Về giao và cho thuê đất, thường xảy ra các dạng sai phạm sau:

Một là quá dễ dãi, bỏ qua nhiều thủ tục để giao đất, cho thuê đất để trục lợi, làm thất thoát, lãng phí đất đai của nhà nước. Hai là, gây khó dễ trong việc giao đất, cho thuê đất để bắt buộc các chủ đầu tư phải chi phí tiêu cực. Ba là xin đất, dùng đất công chưa sử dụng để rồi sử dụng sai mục đích, chia lô bán nền, sang nhượng trái phép kiếm lời làm cho quỹ đất của nhà nước ngày càng ít đi và đưa đất đai vào sử dụng không đúng mục đích, hiệu quả kém.

Về giấy phép xây dựng, nhìn chung các công trình ĐTXDCB của nhà nuớc, doanh nghiệp có vốn nước ngoài thường tuân thủ việc xin giấy phép xây dựng, còn các công trình đầu tư của tư nhân có nhiều sai phạm trong việc cấp phép. Mặc dù số công trình xây dựng không có giấy phép hoặc sai phép đã giảm hẳn so với trước, tuy nhiên đến năm 2004 số công trình xây dựng không phép, sai phép vẫn chiếm tỷ lệ lớn (trên 20%), có địa phương tỷ lệ này còn lên tới 50%.

Về thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư, chuẩn bị mặt bằng xây dựng trong thời gian qua cũng có nhiều thiếu sót. Trong đền bù xây dựng, thường có những hiện tượng tiêu cực sau : Hoặc là nhà nước đền bù không tương xứng ( cao hoặc thấp) so với giá trị của nhà đất tại thời điểm đền bù gây ra khiếu kiện, tiêu cực, tham nhũng. Hoặc là thông đồng khai khống diện tích, đơn giá để chia nhau hưởng lợi. Hoặc là tiền đền bù không đến 100% với ngưòi dân. Một Km đường Kim Liên- Ô Chợ Dừa phải đền bù hết 750 tỷ đồng (đắt nhất thế giới) là điều khó có thể chấp nhận được. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chưa giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi. Đền bù giải phóng mặt bằng không những ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thi công của các công trình xây dựng, mà còn tác động mạnh đến chất lượng và giá thành công trình. Không ít trường hợp, giải phóng mặt bằng đã ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội. Đoạn đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ là một ví dụ. Đây là đoạn đường cao tốc đầu tiên của Việt Nam được đầu tư hiện đại và đồng bộ, với chi phí 20 tỷ đồng/km. Do chậm trễ trong khâu giải phóng mặt bằng nên Ban quản lý phải chọn giải pháp là rút ngắn thời gian chờ lún của nền đường. Cho đến nay, mặc dù đoạn đường này đã đưa vào khai thác nhưng vẫn phải tiếp tục theo dõi lún sụt trên toàn tuyến. Xử lý mỗi điểm lún sụt là cả một vấn đề, vừa cản trở giao thông vừa tốn kém. Một số dự án khác như đường vành đai 3, cầu Thanh trì, nút giao thông Ngã tư Sở (Hà Nội) đều phải chậm tiến độ do giải phóng mặt bằng.

Về nhà tái định cư phục vụ cho ĐTXDCB còn rất thiếu, Hà Nội là một ví dụ. Theo tính toán của các chuyên gia, nhu cầu tái định cư năm 2006 là 6.400 căn hộ và 1.200 thửa đất. Như vậy, năm nay Hà Nội vẫn còn thiếu 2.444 căn hộ. Thực tế vừa qua cho thấy nhà tái định cư triển khai rất chậm chạp, kéo dài thời gian dẫn đến hậu quả nhiều dự án dở dang, không tái định cư được nên kéo theo đó là không thể giải phóng mặt bằng. Thời gian thi công công trình kéo dài làm thất thoát, lãng phí kéo theo chủ đầu tư và nhà thầu phải bỏ thêm chi phí đầu tư.

Về mua sắm trang thiết bị và công nghệ trong quá trình thực hiện ĐTXDCB trong thời gian qua có rất nhiều sai sót. VNPT là một ví dụ điển hình, trong đó có vụ Nguyễn Lâm Thái cung cấp trang thiết bị bưu chính viễn thông. Vụ này đã có 37/64 bưu điện tỉnh, thành phố sai phạm và hậu quả là ngân sách nhà nước đã bị thất thoát trên 40 tỉ đồng. Trong ngành giáo dục, theo kết quả kiểm tra bước đầu riêng chương trình xây dựng trường học, cơ quan chức năng cho biết sai phạm 27,6 tỷ đồng. Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã phát hiện hàng loạt sai phạm trong việc

Page 12: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

mua thiết bị lãng phí tiền tỷ tại Lạng Sơn, Quảng Ngãi, Phú Yên,...UBND tỉnh Lạng Sơn đã ép chương trình mục tiêu quốc gia phải dùng hàng "địa phương", vượt thẩm quyền nên 735 phòng học đã phải dùng cửa nhựa, chi phí tăng thêm so với dùng cửa gỗ khoảng 3,66 tỷ đồng nhưng chất lượng kém hơn. Trong chương trình 1 triệu tấn mía đường, việc nhập thiết bị của Trung Quốc có sự thông đồng để nâng giá hàng triệu USD trên một dây chuyền. Những thiết bị này của Trung Quốc tuy mới nhưng đã lạc hậu về công nghệ. Cùng nhập thiết bị của Trung Quốc, cùng công suất (1.000 tấn mía/ngày) nhưng giá nhập chênh nhau hàng chục tỉ đồng: Nhà máy đường Sơn La 65 tỉ đồng; Nhà máy đường Kon Tum nhập 70 tỉ; Bình Thuận 75,2 tỉ và Trị An là 76 tỉ đồng... Nhiều nhà máy nhập dây chuyền thiết bị của Úc, giá đắt gấp đôi của Trung Quốc, nhưng nhiều năm không hoạt động được như thiết kế, bị lỗ lớn. Nhà máy đường Quảng Nam nhập dây chuyền của Úc trị giá 12 triệu USD, chi phí xây dựng hết 172 tỉ đồng và hiện đang lỗ tới 123 tỉ đồng. Nhà máy đường Quảng Nam các đối tác đã giao máy móc thiết bị cũ, không đúng chủng loại, không đúng danh mục hợp đồng và công suất thiết kế nhưng vẫn tự ý nhận và lắp đặt đã gây thiệt hại cho Nhà nước 143.830 USD và hơn 1,5 tỉ đồng. Tại dự án mở rộng Nhà máy đường Quảng Ngãi được Thủ tướng phê duyệt với mức đầu tư 218,736 tỉ đồng, qua mua sắm trang thiết bị đã gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước trên 20 tỉ đồng. Giám đốc đơn vị này còn mua của Trung tâm ứng dụng công nghệ mới TP Hồ Chí Minh 4 mô-tơ điện do Nhật sản xuất, theo dự toán là 5 tỉ đồng, nhưng thực tế mua chỉ 2,5 tỉ đồng và dù mua với giá do Nhật sản xuất nhưng khi vận hành mới phát hiện xuất xứ các linh kiện là ở Việt Nam. Trong ngành hàng không, Cụm cảng hàng không miền Trung (CCHKMT) sai trái trong việc mua sắm trang thiết bị, phụ tùng thay thế trị giá hàng tỉ đồng mà không có sự tham gia của các phòng ban chức năng liên quan. Trong ngành dầu khí, tại Vũng Tàu trong dự án nhà ở block 140 chỗ, Interpet Việt Nam đã lập hợp đồng giả để giành quyền mua thiết bị. Công ty Interpet đã mua bán vật tư thiết bị trôi nổi và lắp đặt cho dự án. Và từ đó, đã cho ra đời các phụ lục, hóa đơn chứng từ nâng khống giá thiết bị, vật tư để rút tiền nhà nước. Chẳng hạn, chỉ một dàn bơm treo, thực tế mua của nhà máy Z751 Bộ Quốc phòng chỉ 200 triệu đồng, nhưng đã nâng giá lên hơn 100 ngàn USD. Tại Tổng Công ty Than Việt nam (TVN), việc mua sắm trang thiết bị trong 5 năm mất hàng triệu USD. Thanh tra tại 11 đơn vị thành viên của TVN và kiểm tra dự án xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương (Lạng Sơn), cơ quan chức năng đã phát hiện từ năm 1999 - 2004, TVN đã đầu tư mua sắm trang thiết bị với tổng trị giá 7.354.445 triệu đồng, trong đó có 3.203.053 triệu đồng mua thiết bị không lắp đặt. Xem xét 132 gói thầu với tổng giá trị gần 1.438 tỷ đồng mua sắm thiết bị không lắp đặt, phát hiện nhiều gói thầu chỉ định thầu sai quy định. Cụ thể, Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc TVN quyết định chỉ định thầu, mua sắm trực tiếp 71 gói thầu có giá trị lớn hơn 1 tỷ đồng (tổng giá trị 636.247 triệu đồng và 30.808.611 USD), đáng lẽ ra theo quy định buộc phải tổ chức đấu thầu. Tổng giám đốc TVN phê duyệt kế hoạch đấu thầu 37 gói thầu với giá trị trên 532 tỷ đồng khi không có ủy quyền của HĐQT. Một số giám đốc doanh nghiệp thành viên dưới quyền cũng chỉ định thầu 5 gói thầu có giá trị trên 1 tỷ đồng với tổng giá trị hơn 12 tỷ đồng. Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc TVN cho các đơn vị thành viên được áp dụng kết quả xét thầu của các đơn vị khác, dẫn đến hậu quả nhiều thiết bị được mua sắm không phải là thiết bị do trúng thầu, do đấu giá và làm tăng tổng mức đầu tư, với số tiền chênh lệch được phát hiện lên tới 292.565 USD. Đối với các gói thầu có tổ chức đấu thầu, đã phát hiện nhiều sai phạm lớn, như việc tổ chuyên gia xét thầu tại một số đơn vị của TVN làm việc rất tùy tiện: chấm điểm theo tập thể, các thành viên trong tổ chuyên gia không có bảng chấm điểm riêng, không có biểu điểm chi tiết, chấm sai, dẫn đến việc trình Tổng giám đốc TVN phê duyệt kết quả sai, làm tăng vốn các giá trị gói thầu lên, gây thiệt hại 260.556 USD. Việc đầu tư mua sắm trang thiết bị trong 5 năm còn vấp phải những sai phạm khác, như vi phạm pháp lệnh hợp đồng kinh tế; mua sắm thiết bị không đúng với quyết định đầu tư; mua thêm và quản lý vật tư, phụ tùng miễn phí kèm thiết bị không đúng quy định; quyết định đầu tư vượt thẩm quyền; xét thầu và chào hàng cạnh tranh không đủ số lượng nhà thầu tham gia; phê duyệt kết quả đấu thầu sai... Dự án Hệ thống đánh đống kho chứa than và tiêu thụ than năm 2004 tại Công ty tuyển than Cửa Ông có tổng vốn đầu tư 572.898 triệu đồng và được chia làm 8 gói thầu. Trong đó, gói thầu số 5 là thiết kế, cung cấp thiết bị chính lắp đặt, chạy thử, đào tạo, chuyển giao công nghệ (453.216 triệu đồng) bằng hình

Page 13: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

thức đấu thầu quốc tế rộng rãi, không điều chỉnh giá. Không hề có nhà thầu liên danh FLSMIDTHA.S/ PVDDRILLLUNG/MVT, nhưng vẫn được công nhận trúng thầu. Tại Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương (tổng mức đầu tư 124,26 triệu USD, với 5 gói thầu), khi kiểm tra việc thực hiện gói thầu số 3, đã phát hiện tình trạng giá bỏ thầu của nhà thầu đều vượt giá kế hoạch, khiến Bộ Công nghiệp phải điều chỉnh 18 nội dung của hồ sơ mời thầu nhằm giảm giá gói thầu (giảm chiều cao ống khói từ 120 m xuống 100 m; bỏ lõi thép và thang máy trong ống khói; bắt buộc tuốc bin chế tạo tại các nước G7...). Việc thay đổi các nội dung trên đã làm thay đổi mã hiệu hàng hoá, nơi sản xuất, trình độ sản xuất và giá của thiết bị, nhưng điều đáng nói hơn là, TVN không trình Bộ Công nghiệp điều chỉnh tiêu chuẩn xét thầu. Bên cạnh đó, việc đàm phán với đối tác cũng có nhiều điểm sai quy định, khiến tiến độ thực hiện kéo dài thêm 2,5 tháng làm phát sinh tăng về khoản lãi tiền vay, chi phí tư vấn, chi phí quản lý không đúng là 9.471 triệu đồng và 56.971 USD. Theo đánh giá của ngành chức năng, tổng số vi phạm tại TVN làm phát sinh chi phí không đúng quy định lên tới trên 1 triệu USD và 544 triệu đồng. Ở Bộ Giao thông Vận tải, tại các công trình do PMU 18 làm chủ đầu tư, trong thời gian qua các phương tiện thông tin đại chúng đã nêu ra hàng loạt các sai phạm về mua sắm trang thiết bị cho thấy thất thoát tham nhũng từ việc mua sắm trang thiết bị, đấu thầu với giá trị hàng chục triệu USD. Về vụ rút ruột công trình nhà A2 Kim Giang, khu đô thị mới, khu căn hộ cao cấp, lún nứt cầu Văn thánh 2, Nguyễn Hữu Cảnh, công trình nước sạch TP Hồ Chí Minh, đường lăn đầu tây sân bay Nội Bài, Xi măng Bút Sơn, Hoàng Mai, ... cho thấy việc mua sắm trang thiết bị và công nghệ có rất nhiều kẽ hở, thất thoát, tiêu cực, cố ý làm trái cần được chấn chỉnh. Việc mua sắm các trang thiết bị của các nhà thầu nước ngoài hiện nay chưa có cơ chế thanh tra kiểm tra.

Về giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác sử dụng cũng có nhiều sai sót nghiêm trọng, thể hiện trên tất cả các khâu: Nghiệm thu, bàn giao công trình, thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình, vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình, bảo hành công trình, quyết toán vốn đầu tư, phê duyệt quyết toán. Ở các công trình ĐTXDCB của nhà nước, những hội đồng nghiệm thu thường mang tính hình thức. Thành phần hội đồng nghiệm thu mang tính đại diện. Chất lượng công trình được xem xét qua loa, hình thức rồi cho nghiệm thu nên nhiều công trình mới đưa vào sử dụng đã hư hỏng xuống cấp nghiêm trọng. Việc nghiệm thu công trình đường ống, kho chứa, cảng xuất LPG Thị Vải mà chủ đầu tư là Petro Việt Nam là một ví dụ điển hình cho kiểu nghiệm thu này. Độ sụt lún của công trình Thị Vải là hoàn toàn không thể chấp nhận được (độ lún từ 1,98m đến 2,85m), vẫn cho nghiệm thu. Việc kết thúc công trình XDCB ở nước ta trong những năm qua cũng còn lỏng lẻo. Nhiều công trình xây dựng xong chưa làm hoàn chỉnh các thủ tục kết thúc công trình đã đưa vào sử dụng. Công tác bảo hành, bảo trì chưa được chú trọng đúng mức, trách nhiệm của đơn vị xây lắp trong việc bảo hành còn hình thức, mặc dù theo quy định thì rất cụ thể.

Về vận hành công trình, thực tế trong nhiều năm qua cho thấy nhiều công trình khi hoàn thành đã không đưa vào vận hành sử dụng ngay gây lãng phí. Việc đặt ra vấn đề bảo trì còn yếu vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng công trình.

Về bảo hiểm cho công trình xây dựng, nhiều công trình đã không thực hiện nội dung này hoặc cố tình không thực hiện.

Về quyết toán vốn đầu tư, thực trạng phổ biến là dự toán thấp, bỏ thầu thấp nhưng khi quyết toán thì xin quyết toán cao với nhiều lý do khác nhau. Hoặc trước lúc quyết toán, chủ đầu tư đã làm nhiều văn bản hành chính để xin thay đổi tổng mức đầu tư phục vụ cho việc quyết toán sau này. Một tình trạng sai phạm rất khó xử lý gần đây là tình trạng treo quyết toán. Các chủ đầu tư sau khi xây dựng xong nếu quyết toán ngay theo quy định sẽ bị kiểm toán, thanh tra chỉ ra sai phạm, nhưng nếu chưa quyết toán, treo quyết toán trong một thời gian thì các cơ quan thanh tra kiểm tra, kiểm toán đành bó tay. Điển hình là xây dựng sửa chữa Nhà hát lớn Hà Nội phục vụ hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp.

Về thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư, trong những năm qua thực hiện còn nhiều kẽ hở và mang tính hình thức. Nhiều thủ tục rườm rà tưởng chừng như rất chặt chẽ nhưng

Page 14: ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM:ttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/… · Web viewĐánh giá hiệu quả cụ thể đạt được thông qua hệ

thực ra vừa lỏng lẻo, vừa có kẽ hở để các cán bộ thực thi có phẩm chất xấu lợi dụng tiêu cực tham nhũng. Việc không quy định thật rõ và chế tài cụ thể đối với các đơn vị kiểm toán, các cơ quan và đặc biệt là cá nhân về trách nhiệm của mình trong việc thẩm tra và quyết toán đã không đủ sức răn đe tiêu cực tham nhũng và cố ý làm trái. Vì vậy chất luợng của thẩm tra quyết toán, các báo cáo kiểm toán không cao và phần nào mang tính hình thức.

Về việc hoàn trả vốn đầu tư, nhà nước quy định thu hồi vốn đầu tư là nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các dự án đầu tư có quy định thu hồi vốn. Do còn ảnh hưởng nặng nề của tư duy quan liêu bao cấp, vì vậy nhiều dự án không trả được vốn vay hoặc kinh doanh đã được nhà nước xem xét khoanh nợ, giãn nợ và có thể bù lỗ. Vì vậy đã tạo ra những tiền lệ xấu, không xác định được trách nhiệm cá nhân và chủ đầu tư. Đồng vốn của nhà nước bị thất thoát lãng phí là điều khó tránh khỏi. Vì vậy nhiều công trình dự án không hiệu quả kéo dài, vốn nợ đọng từ đời giám đốc này qua đời giám đốc khác. Số nợ đọng vốn ĐTXDCB từ nguồn vốn nhà nước ở mức cao, kéo dài, vẫn tiếp diễn và có xu hướng gia tăng. Theo số liệu tổng hợp chưa đầy đủ, tổng số nợ vốn ĐTXDCB có liên quan đến nguồn vốn ngân sách nhà nước đến hết năm 2003 là 11.000 tỷ đồng, vượt quá khả năng chi trả của ngân sách. Trong đó, khối các Bộ, ngành Trung ương nợ 3.500 tỷ đồng; Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có số nợ vốn ĐTXDCB lớn nhất. Bộ Giao thông Vận tải nợ 2.124,3 tỷ đồng, chưa kể số nợ vay tín dụng ưu đãi đến hạn phải trả trên 308 tỷ đồng và vốn ứng trước theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên 362 tỷ đồng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nợ 1.012 tỷ đồng. Bên cạnh đó, khối các tỉnh, thành phố nợ 7.500 tỷ đồng. Tình trạng nợ đọng vốn đầu tư còn xảy ra ở các dự án, công trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư khác ngoài ngân sách nhà nước. Tính đến 31/12/2003 đã có 1.551 dự án nợ quá hạn vốn vay của Quỹ hỗ trợ phát triển với tổng số nợ trên 1.185 tỷ đồng, số lãi treo của các dự án này trên 950 tỷ đồng. Tính đến 30/6/2004, số dư nợ vốn XDCB 5 ngân hàng thương mại nhà nước của các đơn vị thi công là 24.498 tỷ đồng, trong đó nợ quá hạn là 1.344 tỷ đồng. Đặc biệt, 2 chương trình đánh bắt xa bờ và mía đường có số nợ quá hạn và lãi treo chiếm tới 40% nợ quá hạn và lãi treo của toàn hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển.