tựa tác gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/bai viet/noi san xuan at mui 2015 (ndc-lnh...

76

Upload: trinhtruc

Post on 20-May-2018

220 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

Page 1: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ
Page 2: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Tựa Tác Giả Trang

Thư Ngõ Đầu Xuân

Ban chấp hành

01

Sớ Táo Quân

Năm Ất-Mùi nói chuyện Dê

Nguyễn Đức Tăng

02

03-08

Năm Mùi nói chuyện Dê

Hàn lâm Nguyễn Phú Thứ

08-12

Có nên đặt vấn đề về khả năng diễn đạt của tiếng Việt Nguyễn – Bảo - Hưng 12-19

Phái yếu và tôi Lê Tấn Lộc- 19-23

Màu tím nhớ nhung …

Trần Bạch Vân

23-25

Truyện ngắn:

Bà Huyện Thanh Quan - Mắm Miền Nam - Mênh mang

nỗi nhớ Được của - Lục Bình Trôi - Dòng Sông và Quê

Hương.Tao ngô cô nhân- Tinh cô ban âu ven câu My Thuân-

Truyên Thây Lazarro Phiên

Âu Dương Trong Lễ 25-33

Một tấm lòng... Mười Trí 33-38

Nghệ Danh Của Những Ngôi Sao Sáng Hồ Trường An 38-41

Những khoảng trời riêng Đỗ Bình 41-46

Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa

Thư Long 46-52

Bông Tràm Nguyễn Phương 52-53

Thái Dương Hệ dẩn chứng Thuyết Bảo-Hòa. Liên-khôi-Chương (LKC) 54-61

Tui hoc Võ

Trần Kim Điệp

61-64

Trang Thơ:

Mẹ Việt Nam - Tiếng rao tàu hủ mùng một Tết - Nhớ trường

xưa - Bài thơ không tựa - Khi Anh Về Em Có Hỏi - Chớ Hỏi -

Sự Đời - Hỏi Làm Chi - Nhớ Quê Hương - Ảo Ảnh-Nỗi Buồn

- Ngày trở lại - Chiêu Xuân Phuong Nam - Mưa Cuối Đông

Nho truong xua-Tim lai nguoi em Tiên su-Tiêng ai hat-Pense à

toi-Mai nho em.

Mặc nhân TVC - Trần Đông

Quang Hòa - Phùng Nhân - Võ

Nhựt Ngộ - Người trượng phu -

Âu Dương Trong Lễ

65-71

Ke O Người Đi – Tin Buôn Ban Chấp Hành 72

Tin Nội bộ: Lời kêu gọi (Học bổng, tài chánh v…v…)

Tân Ban Chấp Hành 2014-2016

Trọng Lễ Âu Dương

Ghi chép và biên soạn

Hội Ái Hữu Lê Ngoc Hân & Nguyễn Đình Chiểu MỹTho - Âu Châu

Địa Chỉ : 23, rue Serpolet, 95490 Vauréal. France

Tél 01 34 21 09 17- Email : thiphia@aol.

Page 3: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 1

Lời cảm tạ - Đầu Năm khai bút

Một năm mới lại đến với chúng ta, không biết tự

bao giờ, từ nghìn xưa gần như là bất di bất dịch.

Mà năm Ất Mùi năm nay lại không giống năm Ất

Mùi của 60 năm về trước, chúng ta có kẻ chào

đời trước năm Ất Mùi hay vào năm Ất Mùi, của

60 năm về trước vẫn còn mạnh khoẻ trên hành

tinh đau khổ này, có kẻ ra đời vài năm sau,hoặc

vài ba chục năm sau sau năm Ất Mùi của 60

năm về trước cũng đã ra về với lòng đất Mẹ. Ôi !

Trong vòng 60 năm đã xảy ra biết bao cảnh

thương hải tang điền, ruộng dâu hóa bể, thế giới

vô thường biến hoá khôn lường…

Chúng ta có Nước, có Đất, có Nhà, lại phải mang

thân viễn xứ đã trên một phần ba thế kỷ. Kẻ chốn

chương đài người lữ thứ (Một câu thơ của Bà

Huyện Thanh Quan)

Nhưng chúng ta vẫn luôn luôn hi vọng được trở

lại cuộc sống nơi làng xưa cảnh cũ, với những

hình ảnh thân thương đã in sâu trong nội tâm của

chúng ta.

Trong chiều hướng đó, chúng tôi những thành

viên trong Ban Chấp Hành, Ban Biên Tập, Ban

Tài Chánh cố gắng duy trì tờ Nội San của chúng

ta để làm sợi dây liên lạc, thắt chặt tình thân hữu

giữa những Người đồng cảnh, cố gắng nói lên

những mong ước, những hoài bảo của chúng ta và

không đành buông xuôi mặc cho dòng đời cuốn

trôi…

Chúng tôi là những thành viên “cây nhà lá vườn “

không phải là những văn nhân thi sĩ chuyên

nghiệp nhưng chẳng ngại chông gai gởi những

tâm tình đến quý Bạn Đồng Môn và quý thân

hữu, bạn bè, tri kỷ bốn phương để chia xẻ cùng

nhau nỗi buồn lưu vong….

Mong quý Bạn bỏ qua nếu có những sai lầm

trong cách hành văn hoặc vài ba lỗi chính tả v.v..

ngoài ý muốn.

Nhân dịp bước sang Năm Ất Mùi, chúng tôi

Thi Phia, Âu Dương Trọng Lễ và Jean Souppaya

đồng kính chúc quý Bạn một Năm Mới An

Khang….

Page 4: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Hôi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 2

Sớ Táo Quân

Muôn tâu Ngọc Hoàng

Hôm nay là ngày

Hăm ba tháng Chạp

Giáp-Ngọ sắp tàn

Ất-Mùi sắp đến

Thần Táo đại diện

Ái Hữu Ngọc Hân –

Đình Chiểu – Mỹ Tho

Dâng Sớ tâu trình

Tình hình Pháp quốc

Trong năm Giáp-Ngọ.

Ngọc-Hoàng đã rõ

Tổng Thống Hollande

Từ ngày nhậm chức

Tuyên bố với dân

Rằng năm 2013

Còn phải khó khăn

Đến năm 2014

Bắt đầu thay đổi.

Ba năm còn lại

Của cuối nhiệm kỳ

Sẽ thấy tốt đẹp !

Nhưng cho đến nay

Tình hình Pháp quốc

Vẫn còn khó khăn.

Thất nghiệp gia tăng,

Vật giá leo thang,

Trộm cướp lộng hành,

Khủng bố đe dọa,

Chính sách thuế khóa

Đánh vào nhà giàu

Gây hậu quả xấu.

Giới trẻ đỗ đạt

Nghĩ tới tương lai

Muốn đi khỏi nước,

Thất thoát nhân tài.

Cư dân nhập lậu

Ngày càng thêm đông

Làm mất an ninh,

Gây thêm gánh nặng

Cho xã hội Pháp

Vốn đã khó khăn

Nợ công chồng chất.

Nhiều dự án Luật

Lợi bất cập hại

Đã gây tranh cãi

Giữa các phe phái.

Nhiều cuộc biẻu tình

Đình công phản đối

Đũ các thành phần :

Bảo vệ môi trường

Nào ngành Y, Dược,

Nghiệp đoàn Taxi,

Nghiệp đoàn Vận tải,

Sinh viên, học sinh,

Luật Sư, Quan Tòa,

Cảnh-Sát, Hiến-Binh...

Pháp cũng bực mình

Về vụ BNP Paríbas

Phải trả tiền phạt

8,9 tỷ đô la

Về tội giao dịch

Hơn 100 tỷ đô

Với các quốc gia

Bị Mỹ cấm vận..

Theo giới quan sát

BNP Paríbas

Tài chánh đủ mạnh

Để trả tiền phạt.

Nhưng việc đình chỉ

Một số bộ phận

Của BNP Paríbas

Ở trên đất Mỹ

Cũng tác động xấu

Đến Ngân hàng nầy.

Giới chức Mỹ buộc

BNP Paríbas phải

Sa thải nhân viên

Có dính líu đến.

Tổng Giám đốc BNP

Gởi đến nhân viên

Văn thư trấn an :

“Sự khó khăn nầy

Sẽ không ảnh hưởng

Tương lai chúng ta”.

Trước đây Hollande

Từng nêu việc nầy

Với Tổng Thống Mỹ

Trong bữa ăn tối

Tại thủ đô Paris

Xin giảm mức phạt

Và nêu lý do :

“Sự việc quan trọng

Không riêng nước Pháp

Mà cả Âu Châu.

Nếu BNP suy yếu”.

Nhưng OBAMA tỏ ý

Đứng ngoài vấn đề

Liên quan pháp lý.

Điều đáng chú ý :

Pháp thủng Ngân sách

Vượt mức 3%.

Đã hai lần tránh

“Cú sét” Bruxelles

Năm 2011 và 2013,

Nay thêm lần nữa.

May được Hội Đồng

Cho hưởng đặc ân

Triển hạn 4 tháng

Với nhận định rằng:

“Nền kinh tế Pháp

Đứng hàng thứ 5

Của các nước mạnh

Ở trên thế giới

Và hàng thứ 2

Của Khối Âu Châu”.

Tổng Thống Hollande

Trong lời chào mừng

Gởi tới quốc dân

Nhân ngày đầu năm

Cũng chỉ hứa hẹn

Cũng với tâm trạng

“Xấu che, tốt khoe”.

Trong năm 2015

Pháp có hai lần

Bầu cử địa phương

Thêm Đại hội Đảng

Chuẩn bị chạy đua

Vào Điện Élysée

Vào năm 2017.

Trong năm vừa qua

Đời sống riêng tư

Của Tổng Thống Hollande

Chẳng mấy an lành

Bởi chuyện cuốn sách

“Merci pour le moment”

Của Valerie Trierweiller

Không ngại vạch trần

Đời tư của Hollande

Khiến ông vuốt mặt

“Thủ khẩu như bình”.

Lại thêm chuyện tình

Hollande – Gayet

Cũng gây xôn xao

Trong làng báo chí.

Hồi tháng 1/2014

Tạp chí Closer

Tung nhiều hình ảnh

Cho thấy Hollande

Đi xe gắn máy

Mũ trùm kín mặt

Bí mật tới nhà

Nữ nghệ sĩ Gayet

Mà thời điểm đó

Hollande đang sống

Với Valerie Trierweiller!

Những ngày vừa qua

Pháp cũng bàn luận

Vấn đề thừa nhận

“Quốc gia Palestine”

Dân biểu F. Lefèbvre

Lên tiếng cảnh giác :

“Xin hãy coi chừng

Rước họa vào thân!

Được lòng Palestine,

Gây thù Do-Thái”.

Ông Maire Sarcelles

Tán đồng ý kiến

Vì vùng Sarcelles

Có đông Do-Thái

Nên ông cũng ngại...

Từ ngày phiến quân

Ở Syrie và Irak

Tuyên bố thành lập

Nhà nước Hồi giáo

(Gọi là “Islamic State)

Đã gây lo ngại

Cho cả thế giới.

Thủ lãnh nhóm nầy

Abu Bakr Al-Baghdadi

Kêu gọi Hồi giáo

Ở trên thế giới

Cam kết ủng hộ

Nhà lãnh đạo mới

Và phải bãi bỏ

Chế độ dân chủ

Cùng “những rác rưới”

Từ ở phương Tây.

Chúng đã tuyên bố

Thực hiện chiến thuật

“Gây sốc và sợ”!

Mỹ đã nhận định

Mức độ nguy hiểm

Của tổ chức nầy

Còn hơn Al-Qaeda

Của Osama Bin-Laden!

Giáo Hoàng Françis

Kêu gọi quốc tế

Phải có hành động

Chống quân khủng bố.

Dư luận cho rằng

Thời kỳ khủng bố

Có thể mở ra

Xuyên các quốc gia.

Và y như rằng

Mới chỉ một tuần

Bước vào năm mới

Pháp đã gặp nạn

Khủng bố Hồi giáo

Ngay tại Paris

Và vùng phụ cận

Gây cảnh đổ máu

Bắn giết dã man !

Dân chúng uất hận

Biểu tình đầy đường

Hơn triệu rưởi người.

Các vị lãnh đạo

Gồm năm mươi nước

Cũng đã có mặt

Bày tỏ quyết tâm

Chống quân khủng bố!

Lực lượng an ninh

Truy tìm thủ phạm

Và đã bắn hạ

Ba tên khủng bố.

Tình hình Pháp quốc

Tâu mãi chẳng hết

Táo xin trình qua

Sinh hoạt của Hội

LNH-NĐC-Mỹ Tho :

Các Anh các Chị

Tuy tuổi khá cao

Vẫn còn cố gắng

Tổ chức Đại hội

Tháng 6-2014

Bầu Ban Chấp hành

Nhiệm kỳ 2014-2016

Và đã lưu nhiệm :

Hội trưởng : Thị Phia

Hội Phó : Trọng Lễ

Tài chánh : Jean Tài.

Năm hết, Tết tới

Hội còn chuẩn bị

Phát hành Báo Xuân.

Sớ tâu đã dài

Táo xin chấm dứt.

Cung chúc Ngọc Hoàng

Long thể bình an

Vạn niên trường thọ.

Cẩn tấu,

Táo Tăng-Đức

Page 5: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 3

Năm Ất-Mùi nói chuyện Dê

Nguyễn Đức Tăng

Năm Giáp-Ngọ chấm dứt, chúng ta bước

sang năm mới Ất-Mùi là năm con Dê, năm thứ 32

của vận niên lục giáp hay là vòng hoa giáp –

(cycle sexagésimal) thứ 78, tính từ năm 2.637

trước Công nguyên.

Dê tiếng Hán là Dương và được gọi là Mùi,

đứng vào hàng thứ 8 trong 12 con giáp, là con vật

được loài người thuần dưỡng từ xa xưa, có thể

trước thời đại đồ đá, cách đây hơn hai vạn năm.

Từ thời thượng cổ, con người đã biết săn bắt thú

rừng để ăn thịt. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy

những bức tranh dê khắc trên những vách đá

trong các hang động, những nét vẽ thô sơ ghi lại

cảnh đoàn người săn bắt thú rừng, trong đó có dê

nhiều nhất. Những hình ảnh đó đã phản ảnh sinh

động cuộc sống chăn nuôi dê sớm nhất của loài

người. Từng bức tranh là từng trang sử cho chúng

ta thấy cách chăn dê theo đàn được xếp thành

hàng dài, người chăn dê có khi chỉ một người, khi

thì nhiều người, khi thì đi bộ, khi thì cưỡi ngựa.

Qua câu :”Ai bảo rằng anh chẳng có con dê nào,

anh có cả đàn 300 con” ở trong Thi-Tiểu Nhã- Vô

Dương, có thể thấy được đàn dê được chăn lúc

bấy giờ lớn biết bao. Đến đời Xuân thu chiến

quốc, người chăn nuôi gia súc ngày càng nhiều.

Vào thời Hán Vũ Đế có người tên gọi là Bốc

Thức, từng một mình đi vào núi sâu chăn dê hơn

mười năm, đàn dê của ông lên đến hàng ngàn

con, là người nuôi dê rất thành công, sau này

được chăn dê cho Thiên tử, đàn dê nuôi con nào

cũng to béo mạnh khỏe, tỷ lệ sinh sản cao.

Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, do chiến tranh

gây nên, ngành chăn nuôi bị tổn thất lớn, nhưng ở

Bắc Ngụy vẫn có những phát triển đáng kể. Bài

dân ca “Sắc Lặc ca” thời Bắc triều đã miêu tả

cảnh thịnh vượng của ngành chăn nuôi lúc đó

:”Sông Sắc Lặc, dưới Âm Sơn, bầu trời bao la

bao trùm vạn vật. Trời mênh mông, đất mênh

mông, gió đưa ngọn cỏ lao xao, thấp thoáng đàn

dê ẩn hiện đó đây”.

Ông Giả Tư Hiệp người nước Đông Ngụy đã viết

quyển “Tề dân yếu thuật” trong đó có “Thiên

nuôi dê” ghi lại kinh nghiệm chăn dê của ông.

Vào thời Tùy Đường, đất nước thái bình, dân

chúng được an cư lạc nghiệp, số lượng và giống

dê cũng gia tăng mạnh, dê được đưa từ ngoài vào

để tạo nhiều giống lai tốt như giống dê Hà tây, Hà

Đông, Sa Uyển, Khang Cư…Ngành chăn nuôi

thời kỳ nầy được miêu tả :”Nhìn khắp ấp lộ, bò

dê khắp chốn”. Cuộc sống của dân chúng đời

Tống là “Nam nông, bắc mục”, ngành chăn nuôi

phía bắc, nhất là khu vực dân tộc thiểu số chiếm

vị trí quan trọng. Khi Tô Tụng đi sứ Khiết Đan đã

thuật lại tình hình lúc đó như sau : “Một đàn dê

có hàng ngàn vạn con, súc vật cực thịnh”. Lục Du

từng viết bài “Mục dương ca” nói về cách chăn

dê như sau :“Thả dê quá sớm dê sẽ bị thương tổn.

Một con bệnh chẳng sao, cả đàn ngã bệnh thì

khốn. Mặt trời lên, sương phủ đồng cỏ xanh, đàn

dê rãi khắp núi đồi, mục đồng tay cầm thanh tre

nhỏ, vịnh mấy vần thơ trốn thảo mục”. Vào thời

Nguyên, Minh, Thanh, ngành nuôi dê không

những phát triển ở vùng phía bắc Trung nguyên

mà cả vùng tây nam cũng rất phát triển. Trong

Page 6: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 4

“Điền hải ngu hành chí” có ghi :”Dê nuôi ở Điền

Trung rất nhiều, mỗi ngày đưa đến giao dịch ở

tỉnh thành có đến vài trăm con, quanh năm cứ thế,

đôi lúc cũng có giống dê đuôi to đến từ Di Tây”.

Ông văn Thiên Tường đời Tống có bài thơ “Vịnh

dê”, trong đó có nói đến các nhân vật như Vệ

Giới, Sơ Bình, Hán Tô Khanh...Vệ Giới là người

Tấn, có dáng mạo thanh tú, thường đi lại trong

thành Lạc Dương bằng một cổ xe bạch dương.

Còn Sơ Bình là chỉ Hoàng Sơ Bình. Theo “Thần

tiên truyện” của Cát Hồng, Hoàng Sơ Bình chăn

dê ở trên núi Kim Hoa hơn bốn mươi năm vẫn

chưa lần nào về thăm nhà, anh của ông tìm đến

chẳng thấy dê đâu, bèn hỏi ông dê đâu sao không

thấy, Sơ Bình liền nói “Dương khởi”, tức thì đá

trắng đều biến thành mấy vạn con dê. Ngày nay ở

một số nơi như Hồng Kông, Ma Cao, người ta tin

rằng Hoàng Sơ Bình có khả năng “gọi đá hóa dê”

nên truyền tụng thành vị “Hoàng Đại Tiên” có

khả năng cầu gì được nấy. Cuối bài thơ nói đến

Hán Tô Khanh chính là Tô Vũ chăn dê 19 năm ở

Bắc Hải. Ông là người đời Tây Hán, giữ chức

Trung Lang tướng đi sứ sang Hung Nô, không

ngờ bị vua Hung Nô uy hiếp buộc hàng phục, Tô

Vũ nhất mực không nghe nên bị lưu đày đến Bắc

Hải chăn dê và hẹn đến bao giờ dê đực đẻ con thì

Tô Vũ mới được tha về. Chuyên “dê đực đẻ con”

chẳng khác nào “trạch đẻ ngọn đa”, không bao

giờ xẩy ra, nên coi như Tô Vũ lãnh án chung

thân. Trong suốt thời gian bị lưu đày Tô Vũ vẫn

một mực giữ khí tiết của một vị quan nhà Hán,

cho đến 19 năm sau, khi Chiêu Đế cùng Hung Nô

giao hảo ông mới được tha về nước. Hình ảnh của

Tô Vũ được vẽ ở gác Kỳ Lân để nêu công trạng

và gương trung nghĩa cho người đời noi theo. Các

văn nhân thi sĩ đời sau có nhiều bài ngợi ca tấm

lòng yêu nước của ông và câu chuyện chăn dê của

Tô Vũ đã trở thành tiêu biểu cho tinh thần yêu

nước, bất khuất.

Dê là con vật hiền lành nên thường là đối tượng

của của những nhà săn bắt. Các nhà khảo cổ đã

tìm thấy nhiều dụng cụ cổ để săn thú như rìu

đồng, cán dao…có khắc hình ảnh con dê.

Vào thời xưa chữ “dương” (dê) với chữ “tường”

(điều may mắn, tốt lành) được dùng là một.

Trong “Thuyết văn” viết :”Dương tường dã” (dê

là điều tốt lành). Chữ “Dương” và chữ “Thị” kết

hợp lại thành chữ “tường”. Quan niệm “dương-

tường” đã đi sâu vào lòng người, trở thành biểu

tượng cho “cát tường”. Trong “Xuân thu phồn lộ

- chấp chí” của Đổng Trọng Thư đời Hán có đoạn

viết : “Dê có sừng nhưng không sử dụng bừa bãi,

chỉ để phòng thân, như kẻ hiếu nhân. Khi bị bắt

không kêu la, bị giết không gào khóc, như kẻ chết

vì nghĩa. Khi bú mẹ nó luôn quỳ xuống như

người con hiếu lễ.

Dê nuôi ở Việt Nam hình vóc cao chừng 50

phân, mình dẹp, chân nhỏ, tai đứng, lông nhiều

màu sắc, sừng rỗng, nhọn, dài từ 8 đến 15 phân

và cong về phía sau. Dê đực mình ngắn, nhỏ, vạm

vỡ, cổ và sống lưng có lông dài, cứng, có chòm

râu cằm rậm, sừng dài, khi về già sừng có thể

xoắn lại. Dê cái trông đầy đặn, hiền hậu. Dê Ấn

Độ có thân dài trông mảnh khảnh, cao từ 80 đến

90 phân, tai to và rủ xuống, vú to, sừng ngắn hay

không sừng, lông màu sẩm đen hay xám nhạt. Dê

Mông Cổ thân vừa phải, to hơn dê ta nhưng nhỏ

hơn dê Ấn Độ, tai thẳng và mảnh, sừng dài,

thẳng, hơi chếch về phía sau, lông có màu trắng

đen, đặc biệt lông có hai lớp : lông thô dài cứng

bên ngoài, lông tơ mềm bên trong, có thể dùng

làm len.

Dê thuộc loài động vật nhai lại. Dê ăn cỏ và nhiều

loại lá cây hoang dại, kể cả một số lá đắng mà

nhiều loài thú khác không ưa, nhưng dê lại sợ ăn

trên những cánh đồng có phân bón. Dê sống thích

hợp với các vùng, nhất là vùng trung du và miền

núi. Dê ưa chạy nhảy và ưa leo cao, kể cả những

chỗ nguy hiểm như mõm đá, vách núi cạnh vực

sâu. Tại châu Phi dê được thả rông ban ngày ở

thảo nguyên, tối đến được dẫn vào chuồng để

tránh thú dữ.

Dê rất dễ nuôi, tự kiếm thức ăn và không đòi hỏi

chăm sóc đặc biệt. Bởi thế ngạn ngữ Pháp có câu

:”On n’a jamais vu chèvre morte de faim” ngụ ý

nói “người dễ ăn, không khi nào chết đói”. Hay là

“Où la chèvre est attachée, il faut qu’elle broute”

với hàm ý khuyên người “nên yên phận, thinh

thiên chi mệnh”.

Page 7: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 5

Dê nuôi trong 6 tháng có thể đẻ. Dê chửa khoảng

20-23 tuần, thường đẻ tới 2 con, có khi 3 con,

hiếm khi đẻ 1 con. Một năm dê có thể đẻ 2 lần.

Dê con mới sinh ra đã biết tìm vú mẹ, sau 3 ngày

đã biết chạy tung tăng. Dê mau lớn, khoảng 2

tháng đã mọc sừng. Dê cái động đực vào hai mùa

Xuân và Thu. Vào mùa nầy nếu không gặp đực

dê thường bị ốm. Nếu ít đực quá thì dê sinh sản

kém, nếu nhiều đực quá thì cũng hại cái. Dê đực

trái lại sinh dục sung sức, một dê đực từ 2 đến 8

tuổi có thể phục vụ cho 30 đến 50 dê cái. Cho nên

không lấy làm lạ khi đọc chuyện ngụ ngôn về bầy

dê và thỏ nhốt chung chuồng, khi được hỏi ước

nguyện của mình thì phía dê đực bày tỏ ước

muốn là tất cả những con dê trong chuồng đều

biến thành dê cái.

Tôi đã từng thấy tận mắt mỗi buổi sáng khi người

ta mở cửa chuồng, chú dê đực đứng chận ngay

trước cửa, chị dê cái nào mon men bước ra cũng

bị chú dê đực đòi “đóng hụi chết”. Có lẽ vì thế

mà người đời thường dán nhãn cho những người

đàn ông hay chọc ghẹo đàn bà con gái, ham mê

sắc dục là có máu dê, có máu 35, là dê cụ, dê

xồm, ông già dê,... nghĩ cũng chẳng oan chút nào.

Dê là loài vật hữu ích đối với loài người, ngoài

việc nuôi dê để lấy sữa, còn để ăn thịt, lấy phân

bón. Ở thành phố Ai Cập người ta thường gặp

phụ nữ dẫn từng đàn dê đi khắp phố phường để

rao bán sữa dê vắt tại chỗ. Tại nhiều nước, người

ta dùng dê kéo xe cho người già và trẻ em hoặc

để chăn cừu ở miền núi cao. Dê xua cừu rất khéo,

ít khi để xẩy ra tai nạn, mặc dù cừu ăn ở các

chỏm núi hiểm trở.

Dê cũng thuộc loài vật tinh khôn. Người nào

thường cho ăn thì dê mến và nhận biết ngay

người nầy từ xa và cất tiếng ‘be’ để chào đón.

Người ta còn dùng dê để kéo xe, nếu được vỗ về

dê sẽ ngoan ngoãn kéo xe hàng giờ, nếu bị ngược

đãi, đánh đập vô cớ dê sẽ ù lì. Đôi khi bị phạt roi

dê không kêu la, nhưng nếu bị đánh bất công dê

kêu “be” ầm lên để phản đối.

Dê cũng thường chọi nhau rất hăng, có khi cuộc

chiến kéo dài hàng nửa giờ, không riêng dê đực

mà cả dê cái. Chúng dùng sức húc vào mắt,

miệng, bụng của đối thủ, nếu không có sừng thì

húc đầu không. Chuyện kể một người bộ hành

ngồi ngủ gật trên khúc gỗ, một chú dê đực kiếm

ăn gần đó nhìn thấy đầu người cứ gật gù, lúc sang

phải, lúc sang trái, dê cho đấy là một cử chỉ khiêu

khích, bèn nổi giận và lùi lại lấy đà rồi cúi đầu

xông tới húc người ngủ gật lăn kềnh ! Tuy vậy,

đôi khi dê cũng tỏ ra nhút nhát, dễ hoảng sợ và

vùng chạy trước mọi vật lạ, trước thú dữ. Khi dê

nhìn thấy đôi mắt hung dữ của con báo ngoài

chuồng thì dê nhốn nháo, xô đẩy nhau và trèo hay

chui bừa vào khe chuồng. Những người nuôi dê

nhận xét đôi khi dê có tính bướng, cáu gắt bất

thường, thích làm trái ý người, người muốn theo

đường nầy dê lại chạy đường khác. Phải chăng vì

vậy người Pháp có câu : “Prendre la chèvre” để

ám chỉ sự hay cáu gắt, hay quạu ?.

Hình tượng liên quan đến dê cũng sớm xuất hiện

trong tranh khắc đá có niên đại từ thời nguyên

thủy. Các di vật minh chứng cho điều nầy đã

được tìm thấy ở Ninh Hạ, Nội Mông, Thanh Hải,

Tây Tạng và Tân Cương. Các nhà nghiên cứu còn

tìm thấy các tác phẩm làm bằng gốm màu thuộc

thời đại đồ đá mới. Viện bảo tàng của Trung quốc

ở Thượng Hải hiện cất giữ một vò rượu bằng

đồng có hình 4 con dê được đúc nổi, nhìn về 4

hướng. Năm 1968, tại núi Nguyệt thuộc tỉnh Hà

Nam, Trung quốc, các nhà khảo cổ khai quật

được một bình đựng rượu vuông, nặng 34,5kg

trang trí hình 4 con dê, được xem là tác phẩm kiệt

xuất, tiêu biểu cho nghệ thuật đúc đồng đen đời

Thương và là tác phẩm có một không hai trên thế

giới. Cũng năm 1968, trong một ngôi mộ có từ

thời Tây Hán ở Mãn Thành – Hà Bắc, người ta

tìm thấy một chiếc đèn bằng đồng được tạo hình

con dê đang ở tư thế quỳ. Sở dĩ người xưa hay tạo

hình dê với tư thế quỳ vì họ cho rằng dê quỳ là

thể hiện sự biết lễ, biết nghĩa.

Trong các tác phẩm mỹ thuật, người Trung quốc

xưa chọn những đề tài liên quan tới dê vì họ cho

rằng như vậy sẽ gặp may mắn, điềm cát với “Tam

dương khai thái” để ca tụng một năm mới bắt

đầu. Cụm từ nầy có nguồn gốc từ Kinh Dịch.

Trong Kinh Dịch, tháng mười thuộc quẻ Khôn

thuần Âm, tháng mười một thuộc quẻ Hạ nhất

Page 8: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 6

dương (dương khí) xuất hiện, tháng mười hai

thuộc quẻ Lâm nhị dương xuất hiện, tháng giêng

thuộc quẻ Thái tam dương xuất hiện. Điều nầy

thể hiện mùa đông đang tàn, mùa xuân đang tới,

Dương thịnh Âm suy. Đấy là điềm Cát, may mắn,

thuận lợi. Chữ Dương vừa có nghĩa là mặt trời,

vừa chỉ con dê, bởi vậy trong nghệ thuật, người ta

thường tạo hình mang ý nghĩa “Tam dương khai

thái”. Hình tượng nghệ thuật ba con dê dưới ánh

mặt trời cũng có cùng ý nghĩa. Trong Viện bảo

tàng Cố Cung, Trung quốc, còn lưu giữ 4 chữ

“Tam dương khai thái” khắc trên ngà voi, được

bảo vệ nghiêm ngặt, vì đó là tác phẩm thuộc loại

quốc bảo của Trung Hoa. Trên núi Ngũ Dương

trong công viên Việt Tú Sơn ở Quảng Châu,

người ta tạc tượng Ngũ dương (5 con dê) bằng đá

hoa cương. Đến năm 1959 công trình hoàn thành

với chiều cao 11 thước, rất nổi tiếng và tên tuổi

nó gắn liền với thành phố Quảng Châu.

Trong hội họa dê được thể hiện không nhiều, chỉ

có một số rất ít bức họa dê đặc sắc là bức “Tứ

Dương Đồ” (tranh 4 con dê) của Trần Cự Trung

người Tống vẽ trên lụa, có tô màu và bức “Nhị

Dương Đồ Quyển” (tranh 2 con dê) của Triệu

Mạnh Phủ đời Nguyên.

Trong điển tích Trung Hoa, có nói về Dương Xa

(xe dê). Theo sách Tấn thư, Tấn Vũ Đế sống xa

hoa trụy lạc, có rất nhiều cung phi mỹ nữ. Đêm

đêm muốn tính chuyện ái ân, nhà vua thường

dùng xe có dê kéo trong hậu cung, mặc cho dê

muốn dừng ở phòng nào thì dừng, theo kiểu may

ai nấy hưởng. Các phi tần muốn xe dê dừng trước

phòng mình nên dùng lá dâu rải trước cửa, vì biết

dê vốn thích ăn lá dâu. Khi ngang qua cửa, dê

thấy lá dâu như mèo thấy mỡ, dê sẽ ngừng xe lại

và người cung phi ấy được hân hạnh “chạm mặt

rồng”.

Chuyện xe dê trong Cung oán ngâm khúc cũng có

đề cập tới : “Phải duyên hương lửa cùng nhau

Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào”.

Trong “Dê cỏn buồn sừng” có ghi giai thoại : Hồ

Xuân Hương một hôm đi thăm chùa Trấn Quốc

về, đang thơ thẩn dạo trên bờ Hồ Tây ngắm cảnh

chiều tà thì có mấy thầy khóa lẽo đẽo theo sau.

Thấy người đàn bà đơn thân độc mã, các thầy

khóa bèn buông ra những lời tán tỉnh cợt nhã.

Xuân Hương vẫn lặng thinh, các thầy được thể

tuôn ra ồ ạt các thứ văn chương tầm thường, nữ sĩ

hết nhịn được bèn quay lại tặng cho các thầy khóa

mấy câu thơ :

“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây cho chị dạy làm thơ

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”.

Còn nhiều chuyện cổ tích, nhiều giai thoại có đề

cập đến dê như: Công chúa lấy chồng dê; Con dê

sáng; Dê và sói; Dê cái, lũ dê con, cáo và sói;

Dionysos và đoàn sơn dương tùy tùng; Thần Pan

và những mối tình tuyệt vọng; Pan thi tài với

Apollon; Hai con dê và cái chũm chọe; Người

bán thịt dê; Mất dê; Tả Từ cứu sống đàn dê chết;

Truyện chồng dê v.v...

Có những thành ngữ liên quan đến dê:

•- “Thập dương cửu mục”: ví với quan nhiều

dân ít;

•- “Linh dương treo sừng”: ví với đạt đến lãnh

vực nghệ thuật hàm súc cao siêu;

•- “Lối nhỏ ruột dê”: ví con đường nhỏ hẹp;

•- “Kỳ lộ vong dương”: (mất cừu nơi lối rẽ) ví

với do tình hình phức tạp mà mất phương hướng;

•- “Dương chất hổ bì”: (da hổ ruột dê) ví với

chỉ có bề ngoài;

•- “Trăm năm chẳng qua như xương dê luộc

chín” : chỉ thời gian thấm thoát;

•- “Lông dê cũng chỉ lấy nơi mình dê” : ví với

tiêu xài ở đâu cũng vẫn lấy từ nơi đó mà thôi;

Ngoài các tác phẩm văn chương, dê còn xuất hiện

trên tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống. Tranh

“Bịt mắt bắt dê” của Đông Hồ thể hiện một đôi

trai gái khoác áo tơi, quần xắn cao đến gối, cổ

chân mỗi người đeo lục lạc, mắt bịt kín, lần mò

tìm bắt chú dê cũng bịt mắt, khoác áo tơi, cũng

đeo lục lạc. Trò chơi được sắp đặt trên một

khoảng đất có rào vây quanh, giữa sân đào một

Page 9: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 7

cái hố. Người và vật không phân biệt được tiếng

sột soạt của áo tơi và tiếng nhạc của lục lạc nên

ôm lầm nhau hoặc sa xuống hố, gây nên tiếng

cười thích thú cho người xem. Tranh vẽ sinh

động, hóm hỉnh, diễn tả cảnh vui chơi ngày xuân

kỳ thú.

Bức tranh “Bịt mắt bắt dê” của Hàng Trống thì

người dự cuộc chơi là 6 em nhỏ với một con dê,

trên tranh có câu “Lục hợp đồng xuân”. Tranh

phản ảnh ước mơ về một cuộc sống thanh bình

với những hình ảnh gần gũi, thân thuộc, diễn tả

qua lối vẽ cụ thể và hóm hỉnh.

Theo phong tục tập quán của Trung quốc, ở Hồ

Bắc, Hồ Nam, Chiết Giang, Hà Bắc lấy ngày

mùng 4 tháng Giêng Âm lịch là ngày của dê. Vào

ngày đó người ta xem thời tiết ra sao để dự đoán

sự thịnh hay suy của ngành nuôi dê năm đó. Nếu

trời nắng tốt thì thịnh, trời âm u thì suy và ngày

đó người ta kiêng kỵ giết mổ, la mắng hay đánh

đập dê.

Dân tộc Hán ở vùng Hồ Bắc có tục cưới xin “Gùi

rượu dê”. Họ nhà trai dùng bò heo làm sính lễ,

xếp giò dê, rượu thịt vào một giỏ gùi đến nhà gái,

chia cho bà con bạn bè bên nhà gái. Dân tộc Thổ

ở Thanh Hải thì có tục lệ vào ngày cưới, khi nhà

trai đến nhà gái rước dâu phải tặng cho nhà gái

một con dê trắng, coi như vật thế chân của cô

dâu, nó sẽ ở lại nhà gái để sinh sản và mang lại

điều tốt lành cho hai họ. Dân tộc Tích Bá có tục

“tranh xương dê”. Họ đặt một khúc xương đùi dê

ở giữa cô dâu chú rể, sau đó đôi tân lang, tân

nương cùng uống rượu mừng, đến ly thứ ba, anh

chị em hai họ bắt đầu giành nhau khúc xương dê

đó, nếu nhà trai giành được thì chú rể sẽ là người

cần mẫn giỏi giang, biết lo cho vợ con, gia đình

luôn hạnh phúc; còn nếu nhà gái giành được thì

cô dâu sẽ là người đảm đang, vén khéo lo cho gia

đình hòa thuận, hưng vượng.

Về món ăn, có món “toàn dương” là món

ăn truyền thống của dân tộc Mông Cổ và dân tộc

Ca Dắc. Khi món ăn mang lên bàn tiệc, thịt dê

được xếp vào mâm từng miếng lớn thành hình

con dê, đầu dê được dùng để đãi khách. Còn ở

những vùng phía Bắc, vào mùa đông có món

“chần thịt dê” còn gọi là “ lẫu dê” ngon nổi tiếng.

Lại còn có món thịt dê xâu nướng bán dạo bên lề

phố, vốn là món ăn vặt của người Tân Cương, về

sau được tràn vào nội địa.

Một số món ăn hấp dẫn được chế biến từ

thịt dê như : tái dê, cà-ri dê và xin quý độc giả

nhớ về món “dê hà nàm tìm thuốc bắc” ở một

tiệm Tàu trên đại lộ Nguyễn Hoàng, Chợ Lớn

trước năm 1975, được cho là món ăn bổ dưỡng,

nhưng có thể bị “viêm...màn túi”, vì khá đắt tiền.

Lâu nay tại Pháp có tiệm ăn của người Hoa “La

Paillote d’Asie” (địa chỉ : 2, rue Albert, Paris 13è)

thường ngày có món lẫu dê gia truyền. Cách đây

mấy năm, tình cờ trong một buổi sáng chạy bộ,

tôi gặp cụ thân sinh của bà chủ tiệm cho biết gia

đình trước đây có đến 4 nhà hàng chuyên bán lẫu

dê ở Cao Miên, với bí quyết gia truyền, chỉ truyền

lại cho con cháu nên không dám dùng người

ngoài.

Nói đến thịt dê, cần phải nói thêm về món

“sơn dương trùng” là một trong 7 món ăn mà Từ

Hy Thái Hậu thết đãi các Sứ thần Tây phương, có

ghi trong điển cố như sau :

Theo lệnh của Tây Thái Hậu, các thợ săn

Hồ Bắc sau gần một tháng lặn lội rừng sâu núi

thẳm, bắt được 6 con dê núi đang mang thai tại

một cánh rừng vùng Thiên Tân. Đàn dê nầy được

mang về chăm sóc chu đáo, ngày ăn toàn cỏ từ

Vân Nam và Quảng Tây tải về. Đây là loại cỏ quý

“Đông trùng hạ thảo”(mùa đông thì nó là một loại

sâu như sâu dâu, mùa hạ thì từ đầu con sâu mọc

ra một loại cây cỏ), là vị thuốc bổ can thận. Nhờ

ăn các loại cỏ quý nầy lại thêm các lá dược thảo

khác, 6 con dê núi này càng béo tốt, đẻ ra các dê

con mạnh khỏe, to lớn. Dê con vừa đúng hai

tháng, người ta chọn lấy 14 con giao cho đầu bếp

cạo lông, móc ruột, rồi ngâm vào thùng gỗ lớn

đựng nước gừng và rượu quý. Qua ngày thứ hai,

dê được vớt ra bỏ vào bể bằng sứ chứa sữa dê

tươi và nước sâm nhung. Ngâm tiếp hai ngày,

người ta lấy hoa sen (đã được ghim kim vàng

xuyên đến cuốn hoa) cắm vào mình dê rồi để vậy

ngâm đến ngày thứ 10, thấy xuất hiện những con

trùng trắng muốt đầy trong hoa sen. Đầu bếp nhặt

lấy trùng sơn dương nầy chế biến thành thức ăn

Page 10: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 8

rất bổ khỏe, trị các bệnh lao phổi, tê bại, bán thân

bất toại.

Năm Mùi nói chuyện Dê cũng xin được nói

qua về những người tuổi Mùi. Từ thuở xa xưa ở

Trung Hoa, phụ nữ sinh năm Mùi được gọi chệch

tuổi. Nếu sinh ở những tháng đầu năm, người đó

được coi là tuổi Ngọ; nếu sinh ở những tháng

cuối năm, được coi là tuổi Thân. Vì người Trung

Hoa thời xưa quan niệm phụ nữ tuổi Mùi thường

sát phu và “phòng không”. Nhưng tại Việt Nam

thì chị em phụ nữ lại than rằng :”Người ta tuổi

Ngọ, tuổi Mùi. Em đây ngậm ngùi thân phận tuổi

Thân !”

Như vậy, số phận của những người kết hợp

với người tuổi Mùi việc đoán định hợp hay xung

khắc cũng thật khó chính xác. Vì có khi tam hợp

biến thành tam tai, dù người xưa đã dựa vào tam

hợp và tứ hành xung để coi tuổi khi muốn kết hợp

vợ chồng :

Tam hợp : Hợi, Mão, Mùi.

Tứ hành xung : Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Ngoài ra, sự đoán định về tuổi Mùi kết hợp

với các tuổi khác tốt hay xấu còn tùy thuộc vào

Thập Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh,

Tân, Nhâm, Quý).

Theo thiển ý, việc đoán định số phận tốt

xấu qua tuổi tác cũng còn tùy thuộc vào phước

đức của mỗi người tạo được trong cuộc sống, vì

người đời đã có câu :”Đức năng thắng số”. Vậy

xin mọi người, bất cứ tuổi nào, cứ việc ăn ở hiền

lành, cố tạo nhiều phước đức trong cuộc sống. Cứ

nghĩ rằng “Ở hiền thì lại gặp lành, áo rách tan

tành Trời lại vá cho” và cứ tin là “Có đức mặc

sức mà ăn” để luôn sống vui, sống khỏe, sang

năm mới được khang an, hạnh phúc, vạn sự cát

tường.-

NGUYỄN Đức Tăng

NĂM MÙI

Nói chuyện Dê

(Ất Mùi từ 19-02-2015 đến 07-02-2016)

Bức tượng hình 5 con Dê tại Quảng Châu

(Trích dẫn tác phẩm Tử-Vi & Địa-Lý Thực-

Hành của Gs Hàn Lâm Nguyễn-Phú -Thứ)

Sau năm Giáp Ngọ chấm đứt, thì đến năm Ất Mùi

được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm

thứ tư, 18-02-2015 để cầm tinh đến 24 giờ đêm

07-02-2016. Năm Ất Mùi này thuộc hành Kim và

mạng Sa Trung Kim, năm này thuộc Âm, có can

Ất thuộc mạng Mộc và có chi Mùi thuộc mạng

Thổ. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của

Ngũ Hành, thì năm này "Can khắc Chi " tức

Trời khắc Đất. Bởi vì : Mạng Mộc = Ất khắc

mạng Thổ = Mùi (mạng Mộc tức Trờì được khắc

xuất, mạng Thổ tức Đất bị khắc nhập). Do vậy,

năm này xem như là năm xấu nhứt tổng quát,

không thể thực hiện gì kết quả như ý. Trường hợp

này, giống như những người có : mạng Mộc gặp

năm mạng Kim - mạng Kim gặp năm mạng Hỏa -

mạng Hỏa gặp năm mạng Thủy và mạng Thủy

gặp năm mạng Thổ. Được biết năm Mùi vừa qua

là năm Quý Mùi thuộc hành Mộc, nhằm ngày thứ

bảy, 01-02-2003 đến 21-01-2004.

Page 11: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 9

Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông

xuất hiện được minh định quảng bá từ năm 61

của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637

trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 +

2015 = 4652, rồi đem chia cho 60 năm, thì có kết

quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 32 năm

bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt

đầu từ năm 1984 đến năm 2043. Do vậy, năm Ất

Mùi 2015 này là năm thứ 32 của Vận Niên Lục

Giáp 78 và năm Mùi kế tiếp sẽ là năm Đinh Mùi

thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ bảy tính từ 06-

02-2027 đến 25-01-2028.

Năm Mùi tức Dê cũng là Dương, cho nên

trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở

luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới

có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :

-Mùi là con Dê đứng hạng thứ 8 của 12 con

vật trong Thập Nhị Địa Chi, nó đứng sau con tuấn

mã oai hùng đã từng xong pha ra trận mạc đánh

đuổi ngoại bang phương Bắc xâm chiếm đất nước

chúng ta. Trong ngôn ngữ Pháp thường dùng Le

Bouc n.m = Con Dê đực - Le Chevreau n.m = Dê

đực con và La Chèvre n.f = Con Dê cái (Chữ La

chèvre n.f để chỉ con Dê rất đúng vì Dê thuộc

âm).

- Giờ Mùi : là giờ bắt đầu từ 13 giờ đến đúng

15 giờ xế trưa.

- Tháng Mùi = là tháng sáu của năm âm

lịch. (Bởi vì, tháng Giêng là tháng Dần, tháng hai

là tháng Mão(Mẹo), tháng ba là tháng Thìn, tháng

tư là tháng Tỵ, tháng năm là tháng Ngọ và tháng

sáu là tháng Mùi).

Ngoài ra, còn có tên như sau :

- Dương = Con Dê.

- Sơn dương = Con Dê rừng.

- Linh dương giác = Con Dê này, có cặp

sừng có ngấn như khu ốc, thường dùng để trị bịnh

bang trái.

- Dâm dương hoác = Loại cây rau cỏ, thường

dùng trị bồi bổ và tăng cường cơ thể .v.v.

Trong dân gian cũng có câu: "Treo đầu Dê bán

thịt Chó" ngụ ý nói không thành thật.

Viết đến đây, tôi nhớ lại sự tích Dương Xa,

được truyền khẩu như sau : Thời xa xưa vào đời

nhà Tấn bên Tàu, có vua Vũ Đế là một trong

những vua có nhiều cung phi mỹ nữ nhứt, không

biết mỗi đêm chọn ai để chung vui, nên bèn sắm

một chiếc xe khảm vàng ngọc rất sang trọng do

một đoàn Dê kéo cho vua đi một vòng trong cung

thành, xe này được đặt tên Dương Xa, hễ xe Dê

này ngừng nơi nào, thì vua sẽ nghỉ đêm nơi đó.

Các cung phi mỹ nữ biết ý nhà vua, nên trước

cửa phòng thường treo lá Dâu, để cho Dê đến ăn,

bởi vì loài Dê bên Tàu thích ăn lá Dâu, còn ở

Việt - Nam loài Dê lại thích ăn lá Sua Đủa hơn.

Có phải chăng, từ đó hễ nói đến con Dê thường

gọi ông thầy?

Nhân đây, xin trích đoạn liên quan trong tác

phẫm Cung Oán Ngâm Khúc " của Ôn Như Hầu

Nguyễn Gia Thiều như sau :

...Trên chín bệ mặt trời gang tấc

Chữ xuân riêng sớm trực trưa chiều

Phải duyên hương lửa cùng nhau

Xe Dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Ngoài ra, khi nói chuyện Dê có rất nhiều,

đặc biệt chuyện :"Vợ chồng Bá Lý Hề và năm bộ

da Dê" đã được truyền khẩu trong dân gian, xin

trích dẫn sơ lược như sau : Ông Bá Lý Hề tự là

Tỉnh Bá, quê quán nước Ngu, trên 30 tuổi mới

cưới vợ là Bà Đổ Thị và sanh được một đứa con

trai, Ông vốn có học cao, nhưng vận bất phùng

thời, lại có chí lớn, vì thế sống rất đạm bạc. Đỗ

Thị biết ý chồng, nhưng chưa có cơ hội tiến thân,

nên khuyên chồng nên tạm thời dẹp tình riêng mà

ra đi để tìm đường tiến thân. Trước khi đi, Bà còn

bắt con gà độc nhứt để nấu cháo thiết đãi Ông,

nhưng khổ thay nhà quá nghèo, không có củi để

nấu, Bà bèn gỡ tấm vách nhà làm củi. Khi ăn

xong, Ông ra đi để lại nhà nghèo, vợ con bơ vơ,

qua thời gian ít lâu mẹ con Bà cũng bỏ quê hương

tìm đường tha phương cầu thực. Trong khi đó,

Ông cũng long đong lận đận đi khắp nơi, cuối

Page 12: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 10

cùng gặp Tần Mục Công cho người sang nước Sở

mang theo năm bộ da Dê tức ngũ dương bì làm lễ

mọn để chuộc Ông và cuối cùng còn phong bá

chức thượng khanh nắm giữ quyền bính trong

nước. Riêng vợ con của Ông cũng trôi giật sang

Tần làm nghề giặt thuê. Cứ mỗi lần xe Ông Bá

Lý Hề đi ngang, Bà Đỗ Thị thường tránh né

không dám nhìn. Một hôm trong dinh Ông thiếu

người giặt thuê, cho nên Bà xin vào làm, rồi từ đó

Bà lân la với phường ca nhạc và cuối cùng Bà

được khảy đàn, ca hát rất bi ai, kể lại cuộc đời

nghèo khó đau khổ của gia đình cho Ông nghe.

Ông nghe xong, rất sửng sốt vì đúng gia cảnh

Ông thuở hàn vi, Ông bèn cho gọi Bà lại gần thì

nhận ra Bà chính là người vợ của Ông, vợ chồng

Ông ôm nhau khóc than thật bi ai, khiến mọi

người đều xúc động. Từ đó, gia đình Ông được

sum hợp sống trong hạnh phúc giàu sang phú

quý.

Có người còn cho biết thịt Dê ăn rất bổ và

tráng dương, nhứt là lấy Dòn Bín hầm với thuốc

Bắc ăn sẽ bổ thận, mấy bà vợ sẽ hài lòng, từ đó

nhứt là mấy Ông nghe có lý, nên đua nhau tìm

mua thịt quý này để ăn, bởi vì : "Ông ăn Bà khen

". Do vậy, những con Dê từ từ trong tương lai sẽ

bị diệt chủng và sau cùng được thay thế Ngầu Bín

Bò hayDòn Bín Trừu, nhưng nghe đâu không

hiệu nghiệm bằng? Không biết có đúng vậy hay

không?

Nhân đây, nói về Tết năm con Dê cầm tinh,

xin trích dẫn một trong những món ăn liên quan

đến con Dê, trong dịp Bà Từ Hi Thái Hậu, đời

nhà Thanh Trung Hoa, khoản đãi phái đoàn sứ

thần thuộc các quốc gia Tây Phương, nhân dịp

mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị

11 tháng 6 ngày trước, có 1750 người phục vụ,

tốn kém 98 triệu hoa viên thời bấy giờ tương

đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực

khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu giờ

giao thừa Tết nguyên đán năm Canh Tý.

Đó là món Sơn Dương Trùng như sau :

Sơn dương là Dê núi, trùng là con dòi.

Tương truyền rằng: Bà Tây Dương Thái

Hậu xuống chiếu đòi các thợ săn chuyện nghiệp

tỉnh Hồ Bắc vào rừng phải tìm cho được một cặp

Sơn Dương thật lớn. Sau thời gian băng rừng trèo

núi cả tháng ở Thiểm Tây, đoàn thợ săn mới bắt

được ba cặp Sơn Dương, trong số có ba con cái

đều mang thai, nên được Bà Từ Hi Thái Hậu,

trọng thưởng 50 lượng vàng mỗi con. Dê núi

(Sơn Dương) sau đó được thả trong một khu

vườn rộng đầy cỏ non xanh tốt. Cỏ lạ nuôi dê có

được chất bổ dưỡng gan thận được vận tải đến

mỗi ngày từ Vân Nam và Quảng Tây, cỏ này tên

là "Đông Trùng Hạ Thảo" bởi mùa Hạ cỏ mịn

như nhung còn sang mùa Đông thì trong cỏ quí

có dược tính cùng với cỏ non, lá cây thuốc ...nên

sinh con khỏe mạnh và to lớn khác thường.

Đầu bếp làm thịt 14 con Dê Núi tuổi chưa

quá hai tháng, cạo lông, bỏ hết tim gan phèo phổi

rồi cho mỗi con vào thùng gỗ để ngâm rượu quí

và nước gừng trong một ngày. Ngày thứ hai mang

ra, rồi bỏ ngâm chúng nó vào thùng sữa tươi và

nước sâm nhung khác. Ngày thứ ba dùng dùi

vàng để đâm xuyên lủng qua gương sen và cuống

hoa quỳ trắng (Phan Bạch Quỳ = Hoa Sen trắng

của Đại Hàn thường nở vào mùa Đông) để cắm

hoa vào mình Sơn Dương rồi tiếp tục ngâm như

vậy đến ngày thứ mười thì tự nhiên xuất hiện lúc

nhúc những con dòi trắng nõn. Đầu bếp lấy dòi ấy

chế biến thành món ăn sơn dương trùng, món này

trị các bịnh bán thân bất toại, tê liệt và lao phổi

đại tài. (tài liệu này do Mọt Sách sưu tầm và

tường thuật).

Trong mấy mươi năm gần đây xuất hiện

bịnh thường gọi chung là Bò Điên, nhưng thật ra

bịnh này có thể truyền nhiễm từ giống vật như :

Bò, Trừu, Dê ... và cuối cùng sang người ăn các

giống vật bị điên. Bịnh này có tên khoa học là

ESB = Encéphalopathies Spongiformes

Bovines, là một bịnh truyền nhiễm do một vi thể

không phải là vi trùng (microbe, bactérie) hay

siêu khuẩn (virus), mà do một phân tử là Protéin

Prion = PrP tạo thành để phá hủy trong não bộ.

Bịnh này do các nhà thực phẩm gia súc biến

chế từ xác các gia súc đem nghiền nát làm bột

thực phẩm, để đem trở lại nuôi các gia súc.

Nhưng vì muốn lợi lộc nhiều, nên giảm bớt độ

nung nóng và khử trùng từ 130 độ C xuống còn

Page 13: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 11

80 độ C, làm cho không thể tiêu diệt được vi thể

Prion truyền nhiễm. Từ đó, tạo nên chứng bịnh

Bò, Trừu, Dê ... điên và đưa đến tác hại sanh

mạng con người, cho nên việc tìm Dòn Bín càng

ngày càng khó khăn hơn.

Khi bàn đến tuổi Dê, chúng ta nên nhớ rằng Dê

nằm trong nhóm tứ mộ là : Thìn, Tuất, Sửu, Mùi,

chúng nó khắc kỵ nhau, cho nên gọi là nhóm tứ

xung. Tuy nhiên, nếu chúng ta xét cho kỷ thì

chúng nó khắc kỵ trực tiếp từng cặp: Thìn & Tuất

và Sửu & Mùi. Trái lại, còn nhóm nhị hạp là:

Ngọ Mùi và tam hạp là: Hợi, Mão, Mùi (xin xem

trở lại ở trước đã dẫn).

Bởi vì, trong Thập Thiên Can có 5 can

dương là : Giáp, Bính, Mậu, Canh và Nhâm phải

lần lượt kết hợp với 6 chi dương là : Tý, Dần,

Thìn, Ngọ, Thân và Tuất.

Ngoài ra, 5 can âm là : Ất, Đinh, Kỷ, Tân

và Quý phải lần lượt kết hợp với 6 chi âm là :

Sửu, Mão(Mẹo), Tỵ, Mùi, Dậu và Hợi.

Năm Quý Mùi có can âm.Vậy, chúng ta thử

tìm hiểu trong 5 can âm kết hợp với chi âm để

được tương sanh?

Trước hết, chúng ta tìm xem trong 5 can âm

thuộc hành gì? Xin trích dẫn bảng kê như sau :

5 CAN ÂM Thuộc Hành Gì ?

Can Ất thuộc Hành Mộc

Can Đinh thuộc Hành Hỏa

Can Kỷ thuộc Hành Thổ

Can Tân thuộc Hành Kim

Can Quý thuộc Hành Thủy

Và 6 chi âm thuộc hành gì?

Xin trích dẫn bảng kê như sau đây :

6 CHI ÂM Thuộc Hành Gì ?

Chi Sửu thuộc Hành Thổ (*)

Chi Mão (Mẹo) thuộc Hành Mộc

Chi Tỵ thuộc Hành Hỏa

Chi Mùi thuộc Hành Thổ (*)

Chi Dậu thuộc Hành Kim

Chi Hợi thuộc Hành Thủy

(*) Thuộc nhóm Tứ Mộ, nên có cùng hành là

Thổ.

Chúng ta đã biết 5 can âm và 6 chi âm thuộc

hành gì rồi. Từ đó, chúng ta áp dụng luật Ngũ

Hành để có được tương sanh hay bị tương khắc,

thì thấy các can âm kết hợp với các chi âm được

tương sanh như sau :

Can Ất (Mộc) + Chi Tỵ (Hỏa) = Ất Tỵ (1)

Can Đinh (Hỏa) + Chi Sửu hay Mùi (Thổ) = Đinh

Sửu(2)

Can Kỷ (Thổ) + Chi Dậu (Kim) = Kỷ Dậu(3)

Can Tân (Kim) + Chi Hợi (Thủy) = Tân Hợi(4)

Can Quý (Thủy) + Chi Mão (Mộc) = Quý Mão(5)

Bởi vì,

(1) Mạng Mộc sanh mạng Hỏa

(2) Mạng Hỏa sanh mạng Thổ

(3) Mạng Thổ sanh mạng Kim

(4) Mạng Kim sanh mạng Thủy

(5) Mạng Thủy sanh mạng Mộc

Riêng năm hay tuổi Quý Mùi hay Ất Mùi

không nằm trong 5 cặp tương sanh, thì nó rớt vào

5 cặp tương khắc, đúng như đã dẫn khởi đầu bài

«NĂM MÙI NÓI CHUYÊN DÊ " cho nên trong

dân gian thường nói :

"Người ta tuổi Tí tuổi Mùi,

Sao em lận đận một đời tuổi Thân "

thì không đúng lắm, bởi vì mỗi tuổi đều có 5 tuổi

tốt và 5 tuổi xấu, ví như năm hay tuổi Quý Mùi

hay Ất Mùi đã dẫn. Ngoài ra, có người cho rằng

người tuổi Mùi ưa mùi mẫn, nên rất thảnh thơi,

Page 14: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 12

còn người tuổi Thân có đồng âm với tủi thân, nên

phần số phải vất vả, cơ cực lầm than cho cuộc

đời, giải thích ngang xương như vậy có tánh cách

trào lộng cho vui chớ không có chứng minh khoa

học chánh xác của nó.

Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn

thời gian 10 năm những năm con Dê vừa qua và

sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà

con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải

sanh đúng năm Mùi hay không như dưới đây :

Tên Năm Thời Gian Hành Gì?

Đinh Mùi 13-02-1907 đến 01-02-1908 Thủy

Kỷ Mùi 01-02-1919 đến 19-02-1920 Hỏa

Tân Mùi 17-02-1931 đến 05-02-1932 Thổ

Quý Mùi 05-02-1943 đến 24-01-1944 Mộc

Ất Mùi 24-01-1955 đến 11-02-1956 Kim

Đinh Mùi09-02-1967 đến 29-01-1968 Thủy

Kỷ Mùi 28-01-1979 đến 15-02-1980 Hỏa

Tân Mùi 15-02-1991 đến 03-02-1992 Thổ

Quý Mùi 01-02-2003 đến 21-01-2004 Mộc

Ất Mùi 19-02-2015 đến 07-02-2016 Kim

Nhân dịp bước sang năm Ất Mùi kính chúc

tất cả quý bà con đồng hương được An Lạc và

mọi nhà được Thịnh Đạt Như Ý.

Hàn Lâm NGUYỄN-PHÚ-THỨ

Mừng Xuân Ất Mùi 2015

NGUYỄN BẢO HƯNG

Lời giới thiệu

«Ngôn ngữ là công cụ của nhà văn, nhà thơ

cũng như búa, đục, cây đinh chạm trổ với nhà

điêu khắc. Nhà điêu khắc, dẫu thiên tài, nếu thiếu

công cụ tinh vi, cũng không thể hiện được tài

năng sáng tạo của mình. Ngược lại, một nghệ sĩ

nghiệp dư, cho dù có sắm được bộ đồ tinh xảo

nhất, cũng chỉ làm ra những tác phẩm tầm tầm

mà thôi. » Liệu tiếng Việt có thể là công cụ đắc

dụng cho nỗ lực sáng tạo văn học hay không ?

Đó là vấn đề cấp thiết mà chúng tôi cho rằng đã

đến lúc cần đặt ra và mong được sự tham gia góp

ý đông đảo. Tên người viết dường như còn xa lạ ;

nhưng xa lạ chưa hẳn đồng nghĩa với non kém vì

tác giả, trước 1975, đã từng cộng tác với Đài

Tiêng Nói Tự Do tại Sài Gòn và, mới đây, với

Ban Việt Ngữ Đài RFI ở Pháp. Bên cạnh những

lập luận vững vàng có giải thích, có phân tích, có

chứng minh và chỉ thuần dựa trên văn bản, bạn

đọc cũng nên để ý tới cách dùng câu chữ của tác

giả. Hình thức văn phong ở đây cũng có thể là

một dạng biểu hiện cho « thiên tài ngôn ngữ »

Việt : hàm súc, hóm hỉnh, ý vị trong cách diễn tả,

nhưng cũng có thể rất trí tuệ khi cần diễn ý.

ĐỖ BÌNH

***

Tiếng Việt thường được coi thuộc loại ngôn ngữ

thiên về biểu cảm hơn là diễn ý. Sự đánh giá này

có lẽ do đặc tính của tiếng Việt là cụ thể, đầy đủ

âm sắc rất thuận lợi cho việc sử dụng hình tượng,

thanh âm để diễn tả cảm tình cảm nghĩ với âm

hưởng sắc thái đặc biệt (avec nuances et

resonnances particulières). Nếu đặc điểm này có

đóng góp đáng kể cho nghệ thuật thi ca, trái lại,

trong trao đổi hàng ngày nó thường được xử dụng

dưới hình thức ám chỉ, ví von để gợi ý, tỏ tình,

khen tặng một cách tế nhị kín đáo, hoặc để nói

bóng nói gió, nói xỏ xiên với ngụ ý chê bai

nhưng không gây mất lòng . Đặc điểm này có thể

được coi là sở trường riêng của tiếng Việt và làm

nên điều mà ta có thể coi như thuộc về thiên tài

ngôn ngữ (le génie de la langue) của tiếng Viêt.

Nhưng tiếc thay cái yếu tố thiên tài ngôn ngữ ấy,

thay vì nên khai thác làm sở trường, người ta lại

biến nó thành sở đoản, chỉ đem ra vận dụng trong

Page 15: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 13

các giao tiếp hàng ngày, đặc biệt trong cách nói

trào lộng hài hước nhằm chê bai nhạo báng, hoặc

nói bóng nói gió, nói xỏ nói xiên để khích bác

châm chọc. Hậu qủa là tiếng Việt bị đánh giá

thấp, cho là thiếu khả năng để trình bày mạch lạc

hay diễn tả ý tưởng thâm trầm sâu sắc. Thành

kiến này là do thói quen sử dụng chữ nghĩa cẩu

thả bừa bãi mà ta có thể phát hiện dễ dàng trên

một số trang mạng hay các trang báo hàng ngày.

Trong sinh hoạt văn nghệ, tiếng Việt lại thường

được khai thác tiêu cực như là thứ ngôn ngữ

châm biếm hài hước để chọc cười thiên hạ (Thí

dụ như cặp bài trùng M.C Nguyễn Ngọc Ngạn –

Cao Kỳ Duyên với những mẩu chuyện đàn bà

ghen tuông trong các băng video Thúy Nga, hay

cặp Hoài Linh – Vân Sơn nhái lai giọng Quảng,

giọng Bắc trong các cuộn băng Asia… để, mỗi

lần, lại đánh thức nơi khán giả tới dự buổi thâu

băng những tràng cười phản xạ dễ dãi). Thành

kiến này, chẳng những không bị phản bác, lại còn

được một vài học giả uyên bác tỏ ý tán đồng.

Trong một bài mang tựa đề « Văn học trong một

nước mù chữ » đăng trên tạp chí Hợp Lưu số 38,

tháng 12/97&1/98, nhà phê bình Nguyễn Hưng

Quốc có nhận định về tình trạng nhếch nhác, kém

phát triển của văn học Việt Nam. Theo ông

nguyên nhân chủ yếu là do văn học Việt nam

mang đặc tính truyền khẩu hơn là thành văn.

« Khuynh hướng truyền khẩu này, (nếu) một mặt

làm phát triển tính chất cụ tượng trong tiếng Việt,

(thì) mặt khác, lại làm giảm bớt tính chất duy lý

trừu tượng của nó… Điều này khiến chúng ta

không những không có một nền triết học hoàn

chỉnh mà cũng không có, hoặc có rất ít, những

thể loại văn học thiên về tư duy trừu tượng như

văn chính luận, biên khảo, lý luận và phê bình

văn học. » (Bdd, HL số 38, tr. 74). Tiếp theo đó

ông Nguyễn Hưng Quốc còn tìm cách giải thích

nguyên nhân của tình trạng kém cỏi này trong

một bài viêt chung với Hoàng Ngọc Tuấn mang

tựa đề « Viết, giữa truyền thống và nhu cầu sáng

tạo » đăng trên tạp chí VĂN số 37&38, tháng

Giêng&Hai-2000 (tr.13-30). Theo nhận định của

hai vị học giả, văn học nước ta sở dĩ trì trệ, không

phát triển được trước hết là do tiếng Việt là thứ

ngôn ngữ thực dụng chỉ thích hợp cho thói quen

« nói bóng nói gió, nói cạnh nói khóe ; ngay cả

khi chửi nhau thì cũng thích xỏ xiên hơn là đốp

vào mặt. » (Bdd, Văn số 37&38 tr. 14) . Tệ hại

hơn nữa, hai ông Quốc và Tuấn còn cho rằng

« tiếng Việt đã được giữ gìn và phát triển với tư

cách là ngôn ngữ của một dân tộc nô lệ » (Bdd,

tr. 17) Và, với một ngôn ngữ nô lệ như thế, ta

khó mà xây dựng được một nền văn học có tầm

vóc quôc tế ; bởi vì, theo hai ông, « … ở một

phương diện nào đó, trước khi viết ra một bài thơ

hay một bài văn, chúng ta đã bị viết bởi chính cái

ngôn ngữ mà chúng ta đang sử dụng. Chúng ta là

tác phẩm của ngôn ngữ trước khi và trong khi là

tác giả. Điều này giải thích tại sao phong cách

của một người viết thường khác nhau khi họ sử

dụng hai ngôn ngữ khác nhau : sự khác nhau ở

đây không xuất phát từ cá tính hay trình độ của

người viết mà chủ yếu xuất phát từ ngôn ngữ. »

(Bdd, tr. 26). Nhận định này, tôi e rằng có phần

chủ quan và hơi vội vã. Rất có thể hai ông

Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc Tuấn đã bị

chi phối ít nhiều bởi phát biểu của một sinh viên

mà hai ông đã trích dẫn trong phần mở đầu cho

bài viết : « Viết văn bằng tiếng Việt mà viết rõ

ràng như tiếng Anh thì…dở lắm thầy ơi ! » (Bdd,

Văn số 37&38 tr. 14). Tôi cho rằng đây là một

ngộ nhận đáng tiếc dễ dẫn đến sự rẻ rúng tiếng

Việt, coi nó không phải là thứ ngôn ngữ có khả

năng dáp ứng được nhu cầu sáng tạo. Hậu quả là

các thế hệ con cháu người Việt ở hải ngoại ngày

càng lơ là, bỏ rơi tiếng mẹ đẻ. Riêng với các em

muốn theo đuổi sự nghiệp văn chương , dường

như đang manh nha một phong trào khuyền khích

các em nên viết thẳng bằng thứ tiếng quốc gia nơi

các em trưởng thành, làm như chỉ sáng tác bằng

tiếng nước người các em mới phát triển được tài

năng của mình.(1) Ngôn ngữ là công cụ của nhà

văn, cũng như búa, đục, cây đinh chạm trổ với

nhà điêu khắc. Nhà điêu khắc dẫu thiên tài, nếu

thiếu dụng cụ tinh vi, cũng không thể hiện dược

hết tài năng sáng tạo của mình. Ngược lại, một

nghệ sĩ nghiệp dư, cho dù có sắm được bộ đồ

nghề tinh xảo nhất, cũng chỉ làm ra những tác

phẩm tầm tầm mà thôi. Nhà văn Cao Hành Kiện

nay mang quốc tịch Pháp, hiện sống tại Pháp và

có những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp. Nhưng,

nếu tôi nhớ không lầm, tác phẩm LINH SƠN đem

lại cho ông giải thưởng văn học Nobel dường như

được viết ra bằng tiếng Hoa rồi sau đó mới được

dịch ra đủ thứ tiếng trên thế giới thì phải(2). Ngày

nay tiếng Pháp được coi là ngôn ngữ của một nền

văn hóa cao. Nhưng trong suốt thời kỳ Trung cổ

tiếng Pháp bị hàng giáo phẩm và giới viện sĩ rẻ

rúng, coi là ngôn ngữ tầm thường, dung tục chỉ

dành cho giới bình dân thất học. Khi cần soạn

bài giảng hay viết sách, các giới này đều thảo

bằng tiếng la tinh. Phải chờ tới thời Phục Hưng

(la Renaissance) khi Du Bellay đại diện thi đoàn

La Pleiade soạn ra bản « Défense et Illustration

de la langue française » (1549 ) để bênh vực và

minh sáng cho tiếng Pháp, tiếng Pháp mới được

đưa vào trước tác, và từ đó công hiến cho kho

Page 16: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 14

tàng văn học thế giới không ít tác phẩm có giá trị.

Qua gương nhóm La Pleiade, ta có nên đặt câu

hỏi : tiếng Việt liệu có là công cụ hữu hiệu cho

phép nhà văn, nhà thơ phát huy được tài năng

sáng tạo của mình hay không ? Hay, để làm nên

những tác phẩm có tầm vóc quốc tế, ta phải kêu

gọi tới sự chi viện của các lý thuyết văn học

ngoại lai hoặc cầu viện tới một thứ tiếng nước

ngoài ? Theo nhận xét của tôi, tiếng Việt không

phải chỉ có giỏi về ăn nói ngụ ý hàm súc (hay

chua ngoa móc méo) đâu. Trái lại, nếu ta chịu

khó suy nghĩ đắn đo, cân nhắc thận trọng trong

cách sử dụng câu chữ, ta sẽ thấy tiếng Việt có

thừa khả năng đáp ứng cho yêu cầu phân tích

chính xác hay diễn đạt tư duy trừu tượng chắc gì

các ngôn ngữ được coi thuộc loại trí tuệ nhất đã

qua mặt nổi.

Cách đây khá lâu tôi có người quen đi thăm

Việt Nam về mua tặng cuốn « Nguyễn Bính, thơ

và đời », của Nhà xuất bản Văn Học Hà Nội –

1998. Tôi lịch sự tiếp nhận, nhưng rồi lại dem

xếp ngay vào tủ sách, bụng bảo dạ : Ôi dào, tập

thơ lục bát thuộc loại vần điệu à ới dành cho các

bà mẹ ru con, lúc nào đọc mà chả được. Mãi tuần

qua, gặp dịp mấy ngày nghỉ lễ bắc cầu, tôi mở tủ

sách định chọn một cuốn để đọc giải trí. Không

hiểu sao bàn tay tôi như dược ai hướng dẫn tự

động mò tới hàng kệ có xếp cuốn « Nguyễn

Bính » và tôi cũng ngoan ngoãn cầm lấy. Tôi cho

rằng đây là một phản xạ thuộc về chức năng

nhằm đáp ứng một nhu cầu ngấm ngầm của cơ

thể. Có lẽ thời gian gần đây tôi phải động não quá

nhiều để tìm cách giải mã các vần điệu mang hình

thức phá thể cách tân, nào là những khoảng ngắt

không gian bằng gạch chéo slash, những con chữ

bị tách lìa, những câu bị đứt đoạn xuống hàng

bất ngờ để, hoặc làm mới ngữ nghĩa hay gây hiệu

quả xốc, hoặc tạo ra hơi thở khi lên xuống nhịp

nhàng lúc rồn rập hổn hển cho đúng với mạch

điệu của mốt sống văn minh dậm dật đua đòi…,

thành thử đầu óc mệt phờ. Chắc vì thế tôi đâm

hoài niệm đôi ba vần thơ trong sáng bình dị để

tâm thần được phần nào thư giãn (cũng như cái

bao tử của ta, có lúc anh ách do thừa mứa những

món chiên xào béo bổ, bỗng dưng thèm được một

bữa rau muống luộc chấm tương bần, lại có thêm

bát nước rau văt chanh tươi để khi húp vào,

khiếp, mới thấy nó mát cái ruột làm sao !) Tình

cờ mở sách rơi đúng trang 34-35, gặp bài thơ

mang tựa đề « Chân quê » thấy có vẻ gần gũi

thân quen nên quyết định thử đọc chơi. Vì chỉ có

ý đọc chơi nên tôi sẽ không đọc với cặp mắt hau

háu của nhà phê bình để phân tích, phẩm bình giá

trị thi tính của bài thơ. Trái lại tôi sẽ đọc rất

buông thả, để mặc cho trí tưởng tượng nương

theo lời chữ, vần điệu à ới mà tự do bay bổng.

Như cái thuở là thằng cu tí còn mặc quần thủng

đít tóc để chỏm trái đào, những lúc nằm rúc nách

mẹ tôi một tay ngón cái đút miệng tay kia rờ tí

mẹ, cặp mắt riu riu theo tiếng võng đu đưa kẽo

kẹt và, tùy theo lời ru của mẹ : khi thì « cái ngủ

mày ngủ cho ngoan », khi thì « trăm năm trong

cõi người ta », khi thì « em ơi ! em ở lại nhà »,

lang bang nhớ tới các mẩu chuyện lúc thì Thạch

Sanh, lúc thì Cô gái quàng khăn đỏ, lúc thì Công

chúa ngủ trong rừng… để rồi ngủ quên lúc nào

không hay. Vậy là tôi đã chọn đọc bài thơ này

không phải như là một bài thơ, mà như là nghe kể

một câu chuyện bằng văn vần theo truyền thống

một dân tộc mà thực chất, theo nhận định của

Nguyễn Hưng Quốc ký tên Nguyễn Ngọc Tuấn,

không phải là một dân tộc thi sĩ mà chỉ được

tiếng huyền thoại về một nước thơ (Nguyễn Ngọc

Tuấn : Huyền thoại về một nước thơ – Hợp Lưu

số 18 tháng 8&9 năm 1994, tr.64-75) :

Hôm qua em đi tỉnh về

Đợi em ở mãi con đê đầu làng

A, ra đây là lời kể lể của một chàng trai nông

thôn đi đón người yêu thăm tỉnh về. Anh không

chỉ ra đầu làng nơi hai người vẫn thường hẹn hò,

mà leo len tận bờ đê để có thể thấy nàng từ xa.

Anh hồi hộp mong ngóng lắm, phần nhớ nàng,

phần thấp thỏm về chuyến di của nàng. Thời nay,

người ta từ Mỹ từ Pháp về Việt Nam cứ xoành

xoạch như đi chợ ấy ; nhưng vào thời Nguyễn

Bính chỉ đầu thôn với cuối thôn cũng cho là xa

rồi. Vậy mà nàng lại ra tận tỉnh cơ, là nơi anh

nghe nói có nhiều cám dỗ lắm, làm sao anh không

bồn chồn cho được. Thế rồi bóng ai thấp thoáng

chân đê. Nhìn vào dáng đi, đúng là nàng. Nhưng

bóng người càng tiến gần, anh đâm ngờ ngợ. Qua

dáng đi thì đúng là nàng, nhưng sao cách ăn vận

lại không phải là nàng. Rồi khi nhận ra đúng là

nàng, anh bật miệng than :

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi

Quan sát nàng từ đầu tới chân anh tự hỏi :

Nào đâu cái yếm lụa sồi ?

Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân ?

Nào đâu cái áo tứ thân ?

Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen ?

Page 17: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 15

Trời đất ơi, thế này có khổ thân tôi không cơ

chứ ! Em mới ra tỉnh có một ngày mà đã vội đua

đòi cách ăn mặc dân thành thị. Em mà đi về thêm

vài lượt nữa tránh sao khỏi bị mấy thằng bẻm

mép láu tôm láu cá trổ tài tán tỉnh dụ khị em, tìm

cách cuỗm em đi để hại đời em. Khi đó chắc là

anh chỉ biết ngước mắt lên trời mà than : « Mất

em rồi, xa em rồi ! Chiều hôm nay trên đê vắng,

anh di về chỉ có anh ! » Và, cho dù một buổi

chiều cuối đông mưa dầm gió bấc, nàng có khăn

gói quả mướp quay về thì người đẹp mà anh vẫn

trăm nhớ ngàn thương, khi ấy, chắc cũng chỉ như

bông hoa đã tàn nhụy đã phai mà thôi. Ý nghĩ này

làm anh quíu quá nên anh vội lên tiếng nài nỉ

bằng lời lẽ bộc trực của một tâm hồn cục mịch :

Nói ra sợ mất lòng em

Van em em hăy giữ nguyên quê mùa

Như hôm em đi lễ chùa

Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.

Và để tranh thủ được nàng hơn nữa, anh không

ngần ngại cầu viện tới bố mẹ ; rồi còn dùng lối

nói vè dân gian tính mượn sức mạnh quần chúng

gây áp lực :

Hoa chanh nở giữa vườn chanh

Thầy u mình với chúng mình chân quê.

Nhưng vừa đọc tới hai chữ « chân quê » tôi giật

mình đánh thót một cái : Bỏ mẹ !Hỏng mất rồi.

Cái kịch bản tôi đang dàn dựng theo trí tưởng

tượng, thế là không đứng vững được ! Phải chi

Nguyễn Bính viết câu thơ đó như sau : « Thày u

mình với chúng mình nhà quê » thì câu chuyện

được xuôi buồm thuận gió biết mấy. Đằng này

ông lại chơi khăm, ông định xỏ tôi, ông đi dùng

hai chữ « chân quê » mói đâm ra rắc rối cái sự

đời. Đành rằng nhà quê hay chân quê đều nói lên

bản sắc đồng quê, nhưng chúng lại không đồng

nghĩa vì hai từ ghép này bộc lộ hai tâm trạng

phản ánh hai trình độ nhận thức khác nhau. Nhà

quê có thể coi như đồng nghĩa với quê mùa :

chúng cùng mang âm hưởng của một sự đánh giá

thấp, một ngụ ý chê bai dè bỉu ; đồng thời chúng

còn biểu lộ một thái độ an phận thủ phần. Chân

quê, trái lại, là sự kết hợp của chữ « chân » gốc

hán với chữ « quê » gốc việt. Mà chữ « chân »

khi ghép với một chữ nào đó thường đem lại cho

chữ được ghép chung với nó một phẩm tính, một

giá trị làm cho chữ đó trở nên sáng giá, thí dụ như

chân lý, chân chính, chân phương, chân thực,

chân chất, chân thiện mỹ… Bởi vậy tôi không tin

là từ chân quê có thể dược thốt ra từ một nông

dân cục mịch như trong kịch bản tôi đang dàn

dựng. Thế là mặc dầu đã định bụng nghỉ chơi với

trí tuệ một bữa, nhận thức này buộc tôi phải đọc

lại chăm chú hơn để tìm hiểu ý nghĩa bài thơ cho

đúng với quan niệm sáng tạo của Nguyên Bính.

Nhờ sẵn chủ ý đọc lại với tinh thần cảnh giác

nên vừa gặp chữ « mãi » trong câu :Đợi em ở mãi

con đê đầu làng, tôi hửi ngay ra có cái mùi khang

khác. Bình thường ta hay dùng chữ mãi làm trạng

tự thời gian và chữ tận làm trạng từ nơi chốn, như

lời thỏ thẻ sau đây của cô gái với người tình

(nghe đâu là một việt kiều cao cờ cũng yêu nước

lắm thì phải) mà có lần tôi nghe lóm được : « Anh

hứa đi, anh hứa yêu em mãi mãi đi (và mua tặng

em chiếc nhẫn hột xoàn mười li đi), rồi em

nguyện sẽ theo anh tới tận góc bể chân trời ».

Vậy mà trong câu thơ Nguyễn Bính lại viết : Đợi

em ở mãi con đê đầu làng. Như vậy nhân vật là

tác giả câu này đã chọn chữ mãi với dụng ý hẳn

hoi, nhằm nhấn mạnh tới yếu tố thời gian. Không

phải thời gian vật lý mà là thời gian tâm lý : chữ

mãi gợi ý cho ta về một sự chờ đợi lâu dài, lâu

thiệt là lâu. Nhưng thế nào mới gọi là lâu ? Nửa

giờ ? Một giờ hay nửa ngày ? Điều này không

quan trọng. Khi người ta nôn nóng trông đợi một

điều gì thì chỉ cần khoảnh khắc cũng đã thấy lâu

rồi. Bằng chữ mãi để bộc lộ sự sốt sắng nhiệt tình

của mình đồng thời cũng là hình thức kể công, tác

giả câu nói, nếu không là con cháu ông đồ, ít ra

phải có lui tới sân Trình cửa Khổng nên cũng võ

vẽ ăn mày được đôi ba chữ nghĩa thánh hiền. Sự

kiện này có thể kiểm chứng nếu ta để ý tới hai

chữ rộn ràng ở câu thơ kế tiếp : Khăn nhung quần

lĩnh rộn ràng. Trước hết là cách dùng chữ táo bạo

có thể coi như phá thể cách tân của nó : Thông

thường ta quen dùng hai chữ rộn ràng như tính từ

đi kèm một danh từ chỉ hành động (bước chân

rộn ràng) hay với một danh từ chỉ tâm trạng (lời

ca rộn ràng), hầu như chẳng bao giờ với một

danh từ chỉ sự vật (tấm áo rộn ràng). Vậy mà

trong câu thơ Nguyễn Bính lại có ý sử dụng hai

chữ rộn ràng làm động từ chứ không phải tính từ.

Cách sử dụng làm thay đổi bản chất và chức năng

của loại từ (từ tính từ sang động từ) có hai tác

dụng : một là, khiến cho câu chuyện đang ở trạng

thái tĩnh chuyển sang trạng thái động, đang ở thể

kể chuyện và mô tả biến sang hoạt cảnh ; hai là,

bộc lộ được tâm trạng của cô gái khiến ta nắm bắt

được hai phản ứng tâm lý khác nhau giữa nhân

vật nông dân cục mịch trong kịch bản một và nhà

nho nông dân trong lịch bản hai. Trong câu thơ

khăn nhung quần lĩnh rộn ràng, bốn chữ khăn

nhung quần lĩnh được nêu lên trước tiên biểu hiện

Page 18: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 16

cho cái gì đập ngay vào mắt người đứng đợi. Bởi

vậy anh nông dân chất phát mới tá hỏa tam tinh

khi thấy người yêu thay đổi hẳn cách trang phục

và, sẵn mang mặc cảm thua kém, anh vội van xin

nàng hãy giữ nguyên quê mùa để chịu cho anh

cưới hỏi mà về ăn ở với anh. Nhà nho nông dân

trái lại, nhờ có kiến thức hơn nên sáng suốt hơn,

rành tâm lý hơn, bình tĩnh hơn. Anh không chỉ dò

xét người yêu qua cách ăn vận mà còn qua dáng

đi bộ tịch của nàng. Giả dụ cô gái đã ăn phải bả

xa hoa thành phố rồi, khi nhìn thấy bộ mặt đưa

đám của anh nông dân thế nào cô cũng làm bộ

ngúng nguẩy và nguýt xéo một cái ra điều mắng

vốn : Nỡm chưa ! Đây có bảo đấy đi đón đây đâu

mà đấy đến đứng đây làm gì ? Trường hợp cô

nàng dại dột chẳng may đã lỡ bị với ai mất rồi, thì

khi giáp mặt người tình chắc cô sẽ không tránh

khỏi lúng túng trong một vài cử chỉ che dấu

ngượng ngùng. Đằng này hai chữ rộn ràng cho ta

thấy cô gái không chỉ chân bước le te mà hai má

còn ửng hồng, khuôn mặt tươi rói. Nàng như vừa

muốn làm cho chàng trai phải lé mắt với bộ trang

phục tỉnh thành của mình vừa muốn nói rằng :

Ngó em đi nè ! Em ăn bận đẹp dzầy là dzì anh đó

, là muốn được anh thương em nhiều hơn, anh có

biết hông ! Vậy là những bước chân rộn ràng của

cô gái đủ trấn an chàng trai nông thôn về mối tình

chung thủy của nàng rồi. Ấy thế mà anh nông nho

vẫn than : « Em làm khổ tôi ! » Tại sao vậy ? Tuy

cùng một câu than, nhưng lời than của anh nông

dân và của anh nông nho lại không cùng một nội

dung nên phản ánh hai tâm trạng khác nhau. Anh

nông dân sẵn có mặc cảm quê mùa nên khi thấy

người yêu súng sính trong bộ áo tỉnh thành, anh

ta chỉ lo đến chuyện mất nàng. Lời than của anh

nông nho trái lại biểu lộ một tâm trạng vừa giận

vừa thương : Nhìn khuôn mặt hân hoan rạng rỡ

của người yêu anh hiểu rằng nàng học cách ăn

mặc tỉnh thành chỉ vì muốn làm đẹp để được anh

yêu nhiều hơn. Vì vậy anh mới thương nàng, và

càng thương nàng anh lại đâm ra giận nàng, hay

đúng ra buồn phiền vì nàng : Em yêu ! Anh biết

rằng con tim em không hề lỗi nhịp với anh nhưng

nó lại trật nhịp với tim anh mất rồi ! Khổ quá !

Hai đứa mình đã bao lần hẹn hò tâm tình với

nhau bên bờ giếng cuối thôn hay bụi tre đầu ngõ

mà em vẫn chưa hiểu được lòng anh. Anh thương

em là thương ở cái nội dung cái nết hay làm chứ

đâu chỉ ở cái hình thức nhan sắc của em. Ai đẹp

bằng em là anh đã hết biết rồi, em còn bày đặt

đua đòi bắt chước làm chi ! Vả lại mấy cổ có gì

hơn em đâu mà em phải băt chước. Xí…, đời

thuở nhà ai con gái con đứa gì mà lười như hủi

ấy. Thêu thùa bếp núc chẳng chịu học, chỉ thích

ăn cơm tháng thôi. Bao nhiêu thì giờ đều dành

cho việc sửa mắt sửa mũi với lại shopping. Ai mà

dám rước mấy của nợ ấy về, rồi sẽ có ngày phải

đem thóc giống đi bán lấy tiền để ăn cho mà coi.

Bởi vậy tuy thốt ra cùng một lời kêu gọi :

Nói ra sợ mất lòng em

Van em em hãy giữ nguyên quê mùa

Như hôm em đi lễ chùa

Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.

nhưng hai chữ quê mùa lại có một ý nghĩa khác.

Chúng cần được hiểu như một kêu gọi thách đố,

một biểu hiện của tự tin tự hào về phẩm chất của

mình : Không việc gì em phải mang mặc cảm quê

mùa với mấy cô gái tỉnh thành ấy cả. Mấy cổ lên

mặt chê bai em chứ sức mấy họ bằng em được.

Em phải biết : cái ngày hội đầu xuân em đi lễ

chùa ấy mà, em còn nhớ không ? Lần đầu gặp em

xinh xắn trong bộ áo tứ thân với chiếc khăn mỏ

quạ và tấm yếm lụa sồi là anh đã phải lòng em

ngay rồi đấy ! Và, tuy cũng ngần ấy lời nhắn

nhủ như anh nông dân :

Hoa chanh nở giữa vườn chanh

Thầy u mình với chúng mình chân quê

Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.

nhưng với anh nho sinh, hai chữ chân quê đã

khiến câu hoa chanh nở giữa vườn chanh không

còn là một câu vần vè ví von thường tình nữa .

Nó biến bốn câu thơ kết này thành một lời nhắn

nhủ đậm đà thi tính, giàu màu sắc, ánh sáng và

hương vị như muốn nhắc nhở cô gái quê rằng chỉ

có trong bộ y phục nông thôn mộc mạc nàng mới

bộc lộ trọn vẹn cái đẹp tự nhiên thôn dã. Nhờ vậy

mà hai câu cuối :

Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.

một lần nữa cho phép ta xác nhận rằng tác giả câu

chuyện bằng văn vần này đúng là một anh đồ

nông dân bắc bộ phủ. Sau khi tâm sự và nhắn nhủ

người yêu rồi, anh còn tập làm Cao Bá Quát, trầm

ngâm triết lý ba xu theo kiểu « thế sự thăng trầm

quân mạc vấn » : Nếu người yêu của anh có đua

đòi lối ăn mặc thành thị, xét cho cùng, chẳng có

gì đáng trách cả. Nàng cũng chỉ ứng xử theo

phương châm sống « người sao ta vậy » thường

tình ở đời mà thôi. Nhưng cũng vì thế anh mới

ngậm ngùi luyến tiếc cho nàng đã thiếu tự tin

không biết tự hào với vẻ đẹp thuần khiết đồng nội

Page 19: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 17

của mình, làm hư hao phần nào hình ảnh người

yêu lý tưởng trong trái tim anh. Kết qủa là ở hai

câu kết, câu thơ lục không chỉ có là một lập lại

truyền thống vần vè : ý của nó được quyện với ý

của trạng từ ít nhiều trong trong câu bát để tạo ra

một âm hưởng buồn khơi dậy nơi người đọc một

cảm xúc mênh mang diệu vợi. Và cũng bởi có

một cảm xúc buồn diệu vợi còn đọng lại nơi tôi

nên, tuy có biết tác giả Nguyễn Bính đã chết, nay

đã chết rồi và mặc dù có được nghe nhiều người

nhắc đến tên các ông nào là Michel Foucault, nào

là Roland Barthes, nào là Jacques Derrida v.v…,

tôi vẫn không sao ngắt nổi một cành hoa thạch

thảo để bắt nhà thơ Nguyễn Bính phải chết theo.

Và sở dĩ tôi không đành lòng đi ngắt một cành

hoa thạch thảo bởi vì nếu không có Nguyễn Bính

thì làm sao có bài thơ Chân quê, và nếu không có

bài thơ Chân quê làm sao tôi lại có được cảm

xúc mênh mang buồn diệu bữa nay. Bởi vậy càng

đọc bài Chân quê và suy ngẫm về cái từ được

chọn làm tựa đề, tôi càng thấy tác giả qủa là một

nhà thơ sáng tạo. Chỉ với hai chữ Chân quê thôi,

Nguyễn Bính đã thay đổi hẳn diện mạo bản văn :

Thay vì chỉ là một câu chuyện kể theo truyền

thống dân gian bằng những vần điệu du dương à

ới để ru em, tôi lại tìm thấy ở Chân quê một bài

thơ đúng với nghĩa « ‘thơ’ trong nhiều ngôn ngữ

Tây phương (poetry, poésie, poesía, Poesia,

poesia) hàm ý hành động sáng tạo gắn liền với tri

thức và kỹ thuật tinh luyện chuyên biệt trong

phạm vi ngôn từ » theo quan điểm của Nguyễn

Hưng Quốc & Hoàng Ngọc Tuấn trong bài viết

đã dẫn (Viết, giữa truyền thống và nhu cầu sáng

tạo –Văn số 37&38, tr.23). Tôi sẽ không đề cập

tới vần điệu hay nhạc điệu là những yếu tố sẵn có

trong thể lục bát. Ở đây tôi chỉ đề cập tới sự cách

tân và tính sáng tạo trong kỹ thuật vận dụng ngôn

ngữ để làm mới ngữ nghĩa. Trên đây tôi đã có dịp

phân tích ý nghĩa đặc biệt của các từ mãi, rộn

ràng, quê mùa để minh chứng về kỹ thuật vận

dụng ngôn ngữ của Nguyễn Bính. Nay tôi chỉ

muốn nhấn mạnh thêm về tính sáng tạo của hai

chữ « chân quê » khiến tôi phải đọc lại bài thơ từ

đầu và, nhờ đó phát hiện ra cách sử dụng đặc biệt

mấy từ trên giúp tôi diễn dịch bài thơ theo một

hướng mới làm thay đổi hẳn nội dung, ý nghĩa,

giá trị bản văn . Nếu tôi hiểu không sai lắm, thì

dường như do đặc tính này, ta cũng có thể tìm

thấy ở « Chân quê » một ti tí tân hình thức, một ti

tí hủy cấu trúc hay một ti tí hậu hiện đại gì đó thì

phải.

Trước hết ta không thể phủ nhận từ này là một

sáng tạo của Nguyên Bính bởi lẽ nó không chỉ

mới lạ ở thời Nguyễn Bính, mà ngay cả bây giờ

cũng ít thấy trường hợp sử dụng nó trong những

bài thơ hay truyện viết về đồng quê. Tuy chỉ cần

thay thế chữ nhà (quê) bằng chữ chân (quê) là ý

nghĩa và giá trị bài thơ thay dổi hẳn, nhưng việc

làm không dễ dàng như ta tưởng. Trái lại nó đòi

hỏi người thực hiện công việc đó phải có vừa một

kiến thức tầm vóc vừa một kỹ thuật tinh luyện

trong phạm vi ngôn từ mới biết kết hợp chữ chân

với chữ quê thành từ chân quê khiến bài thơ bỗng

trở nên sáng giá. Bởi vậy ta có thể nói hai chữ

chân quê trong trường hợp sử dụng này phải là

thành quả tư duy của cả một quá trình phân tích

và tổng hợp nên mới đạt được mức trừu tượng

hóa cao đến thế. Tôi không rành tiếng Anh, tiếng

Đức, tiếng Nga hay tiếng Nhật nên không biết các

ngôn ngữ này có một hay hai từ nào tương xứng

để dịch được trọn ý từ chân quê trong câu thơ của

Nguyễn Bính hay không ? Riêng về phần tôi sẽ

vô cùng lúng túng nếu có ai nhờ tôi dịch câu thơ

này ra tiếng Pháp. Phải chi Nguyễn Bính dùng hai

chữ nhà quê như mọi người, tôi sẽ dịch dễ dàng

câu thơ : « Thầy u mình với chúng mình nhà

quê » ra : « Nos parents et nous deux, nous

sommes tous des campagnards ». Nhưng để dịch

hai chữ chân quê của Nguyễn Bính lúc đầu tôi có

ý sửa câu dịch thành : »Nos parents et nous deux,

on est paysans de souche » và nghĩ rằng cụm từ

paysans de souche nói lên được cái ý nguồn gốc

trong nghĩa hán của từ chân , đồng thời từ

paysans để đánh dấu sự khác biệt với từ

campagnards thường dược dùng với ngụ ý dè bỉu

(sens péjoratif). Nhưng khi đọc lại câu vừa sửa,

tôi thấy cần phải thêm một vài chữ nữa để bổ

nghĩa như sau : « Nos parents et nous deux, on est

paysans de souche et on en est fiers », có thế một

người Pháp chính gốc mới nhìn ra được cái ý của

niềm tự hào về nguồn gốc nông dân tiềm ẩn trong

chữ chân. Nhưng tự hào về cái gì cơ chứ ? Thế là

tôi lại thấy có thêm vào mấy chữ « …et on en est

fiers » vẫn chưa dủ, vì trong từ chân còn có ý nói

lên cái đẹp, cái khía cạnh tích cực, ở đây là phẩm

chất con người và đời sống thuần thôn dã : siêng

năng, bình dị, lương thiện, sống hòa hợp với thiên

nhiên… Mà muốn câu dịch diễn tả trọn vẹn ý

nghĩa cái hay cái đẹp nằm trong câu thơ của

Nguyễn Bính chắc là tôi còn phải thêm lời giải

thích. Nhưng dịch câu thơ có tám chữ mà phải lời

lẽ lòng thòng đến thế thì nó đâm ra là thẩn mất

rồi, đâu còn là thơ được nữa. Bởi vậy tôi rất

mong có những vị thuộc thành phần học thức

uyên bác rành ngoại ngữ, bất cứ ngoại ngữ nào dù

là tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Pháp,

tiếng Nhật hay tiếng … Congo cũng được, xin

Page 20: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 18

mấy vị hãy làm ơn làm phúc cũng như làm giàu

(đẻ con không sợ trọc đầu) dịch dùm tôi câu thơ

trên của Nguyễn Bính ra một thứ tiếng nước

ngoài. Nhưng phải dịch cho ra thơ mới được cơ ;

còn dịch để biến nó thành thẩn là tôi hổng có chịu

đâu ...Ứ… Ừ… ! Nếu chỉ với đôi ba từ quí vị

dịch lột được ý hai chữ chân quê của Nguyễn

Bính, tôi sẵn sàng mua cặp gà mái dầu (gà lành

thứ thiệt nuôi tại chuồng nhà chứ không phải thứ

gà mắc dịch cúng gia cầm đâu nhá) để xin tôn

vinh làm sư phụ.

Bài « Chân quê » của Nguyễn Bính được viết

ra vào năm 1936, tức là vào thời điểm nhân dân ta

vừa thoát khỏi họa một ngàn năm nô lệ giặc tầu

lại rơi ngay vào vòng kiềm tỏa của một trăm năm

đô hộ giặc tây (nhưng may quá còn chưa lâm vào

cảnh ba mươi năm nội chiến từng ngày). Dưới

ánh sáng của các lý thuyết cách tân văn học hiện

đại, « Chân quê » chỉ đáng coi thuộc loại văn học

truyền khẩu trong một nước mù chữ mà trình độ

dân trí, ở thời điểm này, đa số chỉ tới mức bình

dân học vụ là cùng. Có lẽ vì vậy Nguyễn Bính đã

chọn hầu như toàn những lời lẽ trong sáng giản dị

nhất để bài thơ có thể phổ biến rộng rãi trong dân

gian. Lời lẽ giản dị trong sáng đến độ Hoàng Tấn

có lần trước mặt Nguyễn Bính đã phải thốt lên :

« Bài thơ trần trụi tới mức như con nhộng, ai mà

chẳng hiểu » (Nguyễn Bính – Một vì sao – trích

hồi ký Hoàng Tấn, trong cuốn Nguyễn Bính –Thơ

và Đời, tr.152). Đáp lại, Nguyễn Bính đã nhân

dịp bày tỏ quan niệm sáng tác thơ của mình :

« Tôi chủ trương thơ Việt viết cho người Việt,

trước hết phải mang sắc thái và phong cách Việt,

do đó giản dị là một điều cốt lõi. (Giản dị đây

không đồng nghĩa với dễ dãi tầm thường… ») –

[Bdd, tr. 153 ]. Về quan niệm sáng tác này,

Hoàng Tấn đã có cơ hội kiểm chứng sau một thời

gian được chung sống với nhà thơ : «Nếu với thơ,

Bính đắn đo suy nghĩ có khi đến quên ăn quên

ngủ vì một từ, viết nháp nhiều lần, sửa chữa kỹ

lưỡng từng câu từng chữ, trước khi đưa in viết

sạch sẽ nắn nót bao nhiêu, thì trong cuộc sống

Bính bạt mạng buông thả bấy nhiêu. » (Bdd,

tr.160) . Các sự kiện trên đây đều do Hoàng Tấn

thuật lại trong hồi ký, nên tôi không dám chắc

phát biểu của Nguyễn Bính có đúng là nguyên

văn hay không. Riêng về phần câu : Giản dị đây

không đồng nghĩa với dễ dãi tầm thường, trong

trích đoạn hồi ký được in lại, không có chỉ dấu

nào cho biết phần phát biểu của Nguyễn Bính tới

đâu là chấm dứt nên, mặc dù đọc đi đọc lại tới ba

bốn lần, tôi vẫn không dám quyết đoán câu này là

lời giải thích thêm của Nguyễn Bính hay là một

nhận xét riêng của tác giả hồi ký. Dầu vậy dựa

trên bài « Chân quê » và một số bài thơ khác của

Nguyễn Bính, tôi cho rằng những điều Hoàng

Tấn ghi nhận về Nguyễn Bính là khả tín và phản

ánh được trung thực quan niệm sáng tác của nhà

thơ. Từ đó tôi rút ra hai hệ luận như sau : Một là,

văn chương Viêt Nam cho tới thời Nguyễn Bính

nói chung, nếu quả đúng chỉ thuộc loại văn

chương truyền khẩu gồm những bài hát vè, những

chuyện kể vần điệu du dương à ới để ru em mà

thôi, thì với những bài hát vè như bài « Chân

quê » dân tộc ta, may mắn thay, tuy không phải là

một dân tộc thi sĩ, nhưng ít ra cũng có một vài

người thuộc loại Nguyễn Bính có mang chút ít

tâm hồn thơ ; hai là, vào thời điểm của Nguyễn

Bính nhân dân ta phải sống dưới sự kìm kẹp của

thực dân Pháp nghĩa la còn là một dân tộc nô lệ

nên chỉ có thể nói thứ tiếng nô lệ mà thôi, theo

đánh giá của Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc

Tuấn (bdd). Nhưng với cách vận dụng đầy sáng

tạo của Nguyễn Bính qua bài « Chân quê », tôi

tin rằng bất cứ nhà bác học thực dân phú lang xa

mũi lõ mắt xanh tóc hung nào là thành viên của

Viễn Đông học viện (Ecole de l’Extrême-Orient)

nếu có đọc bài thơ này và nắm được ý nghĩa của

hai chữ chân quê trong câu thơ Nguyễn Bính thì,

dù tự cho mình có sứ mạng đến khai hóa cho đám

dân ngu cu thâm bản xứ, ông ta với tinh thần

phục thiện, chắc cũng phải ngả nón cúi đầu xin

chào thua mà thôi. Bởi vậy tôi không tin có thứ

ngôn ngữ nô lệ của một dân tộc nô lệ và thứ ngôn

ngữ tự do dành cho các dân tộc tự do, mà chỉ có

những đầu óc nô lệ với quán tính tư duy nô lệ nên

bắt chữ nghĩa phải mang thân phận nô lệ do cung

cách phát biểu mang tinh thần nô lệ hay do căn

bệnh làm biếng suy nghĩ tìm tòi của mình mà ra.

Cũng vì vậy, ai muốn nói gì thì nói, tôi vẫn cứ

yêu tiếng nước tôi như thường. Tiếng nước tôi ?

Vâng tiếng nước tôi là thứ tiếng mà tôi chót yêu

từ khi mới ra đời (người ơi !). Còn cái được gọi là

nước tôi í à, thì nay nó lại nằm tại Pháp, tại, Đức,

tại Mỹ, tại Nga, tại Úc…nghĩa là ở tận đẩu đâu,

tại một nơi nào đó trên địa cầu, chứ không còn

thuộc về mảnh đất mang hình chữ S bên bờ Thái

Binh Dương nữa. Và cũng bởi nước tôi nay

không còn là mảnh đất mang hình chữ S nằm

bên bờ Thái Bình Dương nên tôi lại càng thèm

được nhận (vơ) tiếng Việt là tiếng nước tôi hơn

bao giờ hết…

NGUYỄN – BẢO - HƯNG

Page 21: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 19

(1) Không riêng gì các thế hệ con cháu

người Viêt hải ngoại, mới đây thôi nhà văn

Dương Như Nguyện, đồng thời cũng là luật sư,

thẩm phán, giáo sư đại học có cho biết mình « là

một con người nhạy cảm, một con người sáng

tạo, lãng mạn và thích mạo hiểm, nhiều cá tính,

nhưng vẫn trung thành với thông lệ và truyền

thống ». Trước đó nhà văn tự nhận mình « vẫn

luôn có khiếu về ngôn ngữ kể cả tiếng mẹ đẻ ».

Thế nhưng tác phẩm của bà « Daughters of the

River Huong » (Con gái sông Hương) lại được

viết ra bằng tiếng Anh, và bà đã trả lời phỏng vấn

của Lý Đợi qua điện thư (email) cũng bằng tiếng

Anh. (Coi : Dương Như Nguyện « Lịch sử trở

thành kẻ hiếp dâm, mà văn hóa là nạn nhân bị

hãm hiếp » - Lý Đợi thực hiện - TALAWAS, 07-

03-2008, mục Văn Học Việt Nam.)

(2) Ấn bản tiếng Pháp : « La Montagne de

l’Ame », traduit du chinois par Noel et Liliane

Dutrait, Éditions de l’Aube, 1995 et 2000 pour la

traduction française.

**********************

Sổ tay hành trình

Mọi trùng hợp về nhân vật,

cảnh ngộ, nếu có, đều ngẫu nhiên.

Bài viết vừa hư vừa thực. Nhân vật xưng tôi

không nhất thiết là tác giả.

«Nhi nữ tạo anh hùng. Anh hùng tạo thời thế»,

người xưa nhận định như vậy. Tôi nghĩ có lẽ cổ

nhân «quên» một vế rất quan trọng. Để khởi đầu

nhận định, không trật. Để nối tiếp cũng không

sai: (Thời thế tạo nhi nữ). Nhi nữ tạo anh hùng.

Anh hùng tạo thời thế.( Thời thế tạo nhi nữ)!

Nhưng với riêng tôi -xuyên qua kinh nghiệm tiếp

xúc với nữ phái- vế «anh hùng tạo thời thế»

không ổn lắm. Trái lại, tôi dần dần nghiệm ra

dường như «nhi nữ tạo thời thế» cho «anh hùng»

dương oai diệu võ hoặc cam thân làm gà què ăn

quẩn cối xay mới thật xác thực. Nói kiểu bình

dân: đàn bà dựng rạp, trang trí sân khấu, «làm

bàn» cho đờn ông, tùy tình thế, biểu diễn theo bài

bản, chủ đề đã mớm ý trước. Người xưa đã chẳng

nhìn nhận «giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ» sao?

Tôi không có ý tranh luận nữ phái quan trọng,

«đáng kể» hơn nam phái hay ngược lại. Tôi chỉ

muốn ghi nhận một sự việc không chối cãi được:

nam, nữ khác nhau. Họ khác phái mà! Nam muốn

thành nữ, hay ngược lại, đều phải nhờ phẫu thuật

chuyển đổi phái. Hiện tượng chuyển phái giờ đây

khá thịnh hành. Có điều các «đấng» đổi giống

nầy -transsexuel(le) - dẫu hình hài thay đổi toàn

diện vẫn chẳng bao giờ có khả năng truyền giống

hay sinh sản như nam, nữ «trời cho»! Chung

cuộc, nam-nữ vẫn đời đời khác phái và nhờ vậy

giống người chưa tuyệt chủng! Trừ phi có ngẫu

biến (mutation) trong quá trình tiến hóa

(évolution) vạn vật, cho tới nay loài người chưa

thuộc nòi lưỡng tính (hermaphrodite), có khả

năng tự mình gieo giống cho mình rồi thụ thai

truyền giống , sinh sôi nẩy nở.

Một vài nhận xét xa xưa của phái yếu - yếu thật

chăng?- về tôi rất bất ngờ, tới nay vẫn còn lưu lại

trong tôi nhiều vết tích như «vết thù hằn trên lưng

ngựa hoang», vừa đau nhói vừa tức cười. Còn

nhớ và cố vẽ lại các vết hằn nầy là do vừa rồi đi

tham dự sinh hoạt linh hướng, tôi nghe vị chủ trì,

một tu sĩ kể rằng: Ngày xưa khi còn trai tráng, vì

nhà nghèo, người vừa đi học vừa kèm trẻ tư gia,

tạm trú khu bình dân Chợ Cầu Muối. Ngày hai

buổi đi về bình thường, không động chạm ai,

không mích lòng ai hết. Thế mà trong đám đệ tử

nghèo có đứa thương tình báo cho người biết nên

dọn đi chỗ khác ngay vì…có mấy tên du đãng

cho rằng «cái bản mặt (của người) kênh kênh

thấy phát ghét, muốn đục cho phù mỏ»!

Đã có lần, trong một tiệm ăn bình dân khu Hàng

Xanh, tôi cũng suýt bị một tay anh chị cao bồi

hương thôn «chém lã đầu» vì hắn thấy bộ mặt tôi

«khinh khỉnh», đang lúc tôi bàn luận về «tiểu

thuyết mới-nouveau roman» với hai cây viết thân

hữu mới xuất hiện trên văn đàn. Trời thần ơi! Bộ

Page 22: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 20

mặt tôi dễ gây ngộ nhận lắm sao? Thỉnh thoảng

tôi cũng soi gương thử coi cái bản mặt mình có gì

đặc biệt quá chăng mà hết du đãng đòi «phụp» tới

người đẹp muốn bộp tai, ưa nặng lời bôi bác? Bà

con thử nghĩ…

Tôi kiểm điểm rất rõ để chắc chắn mình chưa hề

có lời nói hay cử chỉ nào «thất thố» với người

đẹp, vợ anh bạn nhạc sĩ thời danh, thập niên 50-

60, ở Sàigòn. Thế mà… Một bữa tình cờ gặp

nàng ngoài phố, kéo nhau vào quán Cái Chùa, tôi

bia 33, nàng trà sữa, trao đổi cầm kỳ thi họa pha

trộn chút triết lý hiện sanh vớ vẩn…Đột nhiên

nàng cười ruồi, «chi» cho tôi một câu toé phở:

- Toa cũng spirituel - duy linh đáo để nhỉ! Lâu

nay moa cứ tưởng toa purement matérialiste -

thuần duy vật thôi chứ!».

Tôi chỉ còn nước ngửa mặt lên trời cười ba tiếng,

thầm phân bua với thế sự nhân gian:

- Làng nước ơi, nó nói nặng, nó «pác-lê-lua»

tôi! Phần nào thôi chớ em! Tội nghiệp thằng bé…

Hai mươi năm sau, trên Xứ Tuyết, sa cơ thất thế,

chịu đấm ăn xôi mưu sinh để trường tồn; văn-

chương-thi-phú-triết-học-nghệ-thuật đem chôn

giấu hết, tôi cùng một số bạn lưu vong hợp tác

mở hãng may, do một người đẹp -lại phái yếu! -

mang tên một loài hoa quí, vợ một ông bạn trong

nhóm cầm đầu. Tôi nhớ kỹ mình rất cẩn trọng

trong lời ăn tiếng nói, trong mọi cử chỉ thường

nhật với «bà chủ tịch». Một bận đi giao hàng quá

gay go, mệt lã, nàng đề nghị tôi đi ăn vì cả hai đói

gần xỉu. Nàng đang theo học tu thiền với ông

Bảy, ông Tám gì đó, nhưng coi bộ chưa mấy gì

«thiền» lắm. Nàng hỏi, tôi đáp. Hỏi mới dám

thưa, không tự ý phát biểu linh tinh.

Bỗng nhiên nàng cười nhẹ rồi nghiêm chỉnh

«ban» cho tôi một nhận xét đổ mồ hôi hột giữa

mùa đông buốt giá:

- Xem ra anh cũng có chiều thanh cao, cũng

ngưỡng vọng «Tuyệt Đối» dữ há! Bây giờ tôi mới

nhận ra, chớ từ lúc biết anh tới giờ tôi cứ đinh

ninh anh sống chỉ để nhằm thỏa mãn nhu cầu vật

chất, theo đuổi lạc thú thấp hèn, chẳng hề có ý

hướng thượng.

- Trời hỡi! Em nỡ (nặng lời) đến thế sao… Sao

em không (tiếc) một lời nào! Tôi chỉ còn biết cúi

mặt xuống đất khóc ba tiếng, ngao ngán thở dài,

rồi «lạnh lùng» lau mắt đi (anh), lầm bầm tự thán!

Thôi thì âu cũng là dịp tốt cho tôi «phản tỉnh»,

cảnh giác nhiều hơn nữa trong lời ăn tiếng nói, cử

chỉ hành động. Nhưng chẳng lẽ cảnh giác đến độ

câm nín, bất động, ù lì? Chưa chắc tôi có thể tự

thắng vượt tới mức «siêu» như thế: không ai sửa

chữa được tính tình, vì đó là tính khí, là khí huyết

bẩm sinh. Bởi khí huyết trời cho, tôi mắc phải cái

chứng mà bạn bè gọi là «nhu cầu xúc giác kỳ dị -

besoin maniaque du toucher» của các nhân vật

trong truyện Dostoïevky: Tôi cần tiếp xúc như

cần dưỡng khí. Do đó dễ gây hiểu lầm tôi quá

«vồn vã», quá «sốt sắng», quá «bặt thiệp» với tha

nhân, nhất là quá «lịch duyệt - galang» với phái

yếu.

Hay tôi thử chỉnh trang, thử «vỗ đồng» cái bản

mặt thoạt trông rất «dễ nhợn» của tôi xem có thể

khá hơn chăng?

Trong quá khứ, lúc còn trai trẻ, tôi cũng đã thử

«chăm sóc» sắc diện, «chỉnh đốn» cung cách,

ngôn từ nhưng chẳng đi đến đâu! Cũng lãnh thẹo

dài dài:

Phái yếu, một hoa khôi thuở lưu bút ngày xanh -

đương lúc cảm tình hai đứa ngày càng tươi đẹp -

không rõ bị con gì cắn, đột ngột «phang» cho tôi

gục trước bạn bè : Gối rơm giữ phận gối rơm, Có

đâu dưới thấp mà chồm lên cao! Để rồi sau đó

tìm đến xin tôi tha thứ đã hạ nhục tôi chí cốt. Lúc

chia tay, nàng ngậm ngùi «phán»: Anh cao cả quá

! Từ gối rơm đến cao cả! Chẳng còn biết đường

nào mà lần…Tại cái bản mặt của tôi nữa chăng?

Khi thấy phát ớn (gối rơm!), khi thấy dễ mến mộ

(cao cả!). Hay vì tâm trạng người đẹp thay đổi

như thời tiết đột biến đổi thay? Allez donc savoir!

Cho dù cẩn trọng cách mấy tôi vẫn có thể bị

giông tố bất chợt phủ chụp xuống đầu!

Thấm đòn gối-rơm-cao-cả, tôi bèn «quay về với

chính mình», điều chỉnh tầm nhìn để chỉnh trang

thái độ cho được politiquement correct (đoan

chính?) với nữ phái. Người đẹp, một thục nữ

trông rất mực hiền hậu, tôi đã để ý từ lâu nhưng

chưa dám hở môi - muốn nói mà sao vẫn nghẹn

lời - vì đang «suy tư» sắp xếp chữ nghĩa sao cho

vừa phải phép vừa lịch lãm.

- Thưa chị! Tôi hằng hi vọng được hân hạnh và

vinh dự mời chị luân vũ…

- Cái gì? Nhảy đầm à? Tôi đập anh bể đầu bây

giờ!

Than ôi, vận xui vẫn còn bám riết tôi! Uổng phí

bao công lao «uốn lưỡi bảy lần trước khi nói»,

đến khi cóc mở miệng lại ăn nói vô duyên, trật

chìa! Thế nhưng động mà qua. Tôi có bị đập phun

máu đầu thật sau đó, nhưng không phải bởi người

đẹp tôi yêu, có đôi bàn tay mỹ miều mà bởi ông

anh đặc trách giáo huấn tôi quơ cây cọc giăng

mùng xáng xuống đầu thằng em khó dạy!

Thế nhưng chẳng bao giờ tôi có thể tưởng tượng

nổi nhờ biến cố tươm máu đó mà nàng trở thành

người-bạn-đồng-hành-suốt-đời của tôi!

Nghe tin tôi bị «đập bể đầu» nàng xúc động ghé

thăm tôi nơi phòng trọ sinh viên. Và mọi sự khơi

nguồn từ đó…Hãy tìm hiểu giùm tôi chuyển biến

Page 23: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 21

lạ lùng nầy của phái yếu. Allez donc savoir

pourquoi!

Cũng từ đó tôi bắt đầu để ý kỹ càng hơn tâm lý tế

nhị (hay phức tạp?) của người nữ. Không đến nỗi

cả quyết con gái nói có là không, con gái nói

không là có, nhưng càng lúc tôi càng nghĩ rằng,

cho dù nữ và nam phái có cùng một tính khí

(tempérament) đi nữa, phản ứng (réaction) nữ

phái vẫn khác biệt phản ứng nam phái; phản ứng

bọn đàn ông con trai thường dễ tiên đoán vì đơn

giản hơn phản ứng đám đàn bà con gái, thường

khó tiên liệu vì hơi «rối rắm», nếu không muốn

nói là «lắc léo»…Sự việc sau đây, phần nào minh

chứng cho nhận xét thô triển nầy:

Vốn dĩ dễ động tâm vì bản chất «siêu» nhạy cảm,

«mầm» hành-hiệp-giữa-đàng-thấy-sự-bất-bằng-

mà-tha (sao) ít nhiều đã sẵn luân lưu trong huyết

quản, một lần nữa - sau nhiều phen hăng say ra

tay «trừ gian diệt bạo» thương tích đầy mình, trầy

vi tróc vẩy - tôi lại nhắm mắt nhắm mũi lao đầu

vào binh vực kẻ cô thế bị hiếp đáp. Nhứt là lần

nầy phái yếu đơn chiếc lại là cựu học sinh một

trường nữ trung học danh tiếng, kế cận trường tôi

theo học khi xưa, nên coi như chúng tôi đồng

«cửa Khổng sân Trình» miệt Tiền Giang. Kết quả

ngoài sức tưởng tượng của tôi và của người-bạn-

đồng-hành-suốt-đời của tôi : Tôi bị nguyên tập

đoàn XXX chuyên hà hiếp, lấn áp hợp lực tấn

công, bức hại, với sự bí ẩn trở mặt tiếp tay của

chính «nạn nhân» đã kêu cứu tôi bảo vệ.

Đau nhứt là câu «chém ngọt» lạnh tanh, để đời

của phái yếu vô cùng bí hiểm nầy về «cuồng hiệp

sĩ» tôi, sau khi tôi bị đòn hội chợ :

- Vậy tôi phải làm tất cả theo đúng ý anh muốn,

hoàn toàn nghe theo lời anh thì anh mới vừa

lòng? Bộ anh muốn chúng ta make love chăng?

Tự cho mình quyền ăn nói hồ đồ, sỗ sàng, phách

lối đến thế, tôi đành… hết ý. Do đâu con người

thoắc trông đoan trang thùy mị, liễu yếu đào tơ

rất có biệt tài làm-dáng-đức-hạnh nầy - một cách

bắt chước nhạt nhẽo coquetterie vertueuse kiểu

Andromaque, người đã khéo léo õng-ẹo-nghiêm-

trang để thủ tiết thờ chồng, bảo vệ con, nhưng

thiếu hẳn chiều sâu - lại có thể «sáng tác» những

suy diễn quái đản đến mức trơ trẽn, thô tục quá

cỡ như vậy? Tôi kinh hãi đến rụng rời, buồn nôn.

Lần nầy «gối rơm» tôi, tuy không bị hạ nhục

trước bá quan văn võ, nhưng còn thê thảm gấp

vạn lần lúc tôi lãnh đạn «giữ phận gối rơm» mấy

mươi năm về trước. Chưa bao giờ tôi bị lừa

phỉnh tới mức «siêu đẳng» như thế! Bởi lần nầy

phái yếu không chỉ ngấm ngầm hạ bệ mà còn

rạch toang gối rơm cho rơm rạ tung tóe trông như

ruột gan đổ nuồi rướm máu của chính tôi, kẻ

«đơn thân hành hiệp» bị «đâm sau lưng» khi lâm

trận!

Thôi thế thì thôi đành… xếp giáp qui hàng, vẫy

tay vĩnh biệt phái yếu! Còn gì nữa đâu mà bảo

nhau đợi chờ…khi tình (người) bây giờ đau như

ngọn roi quất vào tim vết bầm tím...Niềm cảm

thông sâu sắc giữa người khác phái và tôi có lẽ sẽ

chẳng bao giờ thành tựu.

Quả thật tôi thất vọng ê chề : Cảnh khốn nạn

trong đời người, không gì bằng thất vọng(…)

Chân trời góc bể biết đâu là nhà; có khi phải ngồi

xuống bên đường mà khóc… Nhưng nghĩ cũng

buồn cười. Lúc tôi sống thiên về tâm linh thì bị

phái yếu hiểu lầm chuyên hưởng thụ vật chất.

Bây giờ trước cao trào «giải phóng (tình dục cho)

phụ nữ», nếu tôi ọ ẹ lên tiếng, chắc chắn sẽ bị dán

cho cái nhãn «duy tâm lẩm cẩm, bảo thủ, phản

động, ngoan cố, *macho* lỗi thời, sống lạc thực

trong thế giới tâm linh huyền ảo»! Còn một nhãn

hiệu nữa, trong những ngày tới không chừng sẽ

được phe nữ «đóng kịch đạo mạo» đóng dấu lên

trán tôi : duy thực ! Cho đủ bộ bình tích!

Đến bao giờ tôi mới thoát khỏi tai nạn bị phái đẹp

hiểu lầm đây? Tôi lại chạnh nhớ bài học thuộc

lòng thuở còn bé: «Đến lúc tuổi càng cao, kinh

lịch càng lắm, bấy giờ mới biết sự đời là khó, tài

mình là hèn (…) chân đã mỏi, dặm đường còn xa,

lòng hi vọng cứ mỗi ngày một lạt…»

Ngán ngẫm cuộc đời chi nói nữa, Bên đầm say

hát nhởn nhơ chơi! Tại sao không? Chi bằng láo

láo lơ lơ vậy, Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi!

Nên lắm. Khỏi rắc rối, lôi thôi. Cho khoẻ cái thân

già. Sau vố «gối rơm bị đổ ruột» tôi trốn lánh tối

đa giao dịch với thế nhân, hướng cơn ghiền tiếp

xúc trầm kha của mình tới thiên nhiên : băng rừng

lội suối tìm hoa thơm cỏ lạ, lắng nghe tiếng chim

hót líu lo trên cành, tiếng ếch nhái trững giỡn lõm

bõm trong ao đầm, tiếng pha lê vỡ nhẹ khi hoa lá

bắt đầu ngoi mình dưới lớp tuyết băng, chuẩn bị

đón mùa xuân tới…Hạnh phúc cũng dễ ợt nhỉ?

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Không

do tôi chủ xướng, tự nhiên tôi lại có dịp tiếp xúc

với phái yếu! Đặc biệt, lần nầy phái đẹp thuộc

một dòng tu tại thế.

Tôi chưa hề có dịp tiếp xúc với giới nữ tu. Nghe

đâu nàng đã dang dở tình duyên, sống đơn lẻ,

khiết tịnh, một thân trơ trọi nuôi nấng dạy dỗ cho

đàn con ăn học đến nơi đến chốn. Hoàn cảnh

tương tợ như người đẹp có biệt tài làm-dáng-đức-

hạnh đã đâm toạt gối rơm tôi. Nhưng phúc đức

thay nàng có lòng yêu người vô bờ bến và là mẫu

mực vị tha được anh chị em nhìn nhận, yêu

chuộng. Tôi trọng nàng như «sư phụ» trong việc

tu tập theo đường lối dòng Phanxicô. Nhưng nàng

Page 24: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 22

quí tôi như một người anh tinh thần. Với tôi nàng

không khác đứa em gái thân thuộc trong gia đình.

Chúng tôi thường xuyên trao đổi kinh nghiệm học

hỏi, quan điểm về đạo và đời. Đôi khi tranh luận

cũng gay cấn lắm, nhưng vẫn trong tình huynh đệ

tương nhượng, hiệp thông, hòa nhã. Qua nàng tôi

tìm lại được sự an bình trong tiếp xúc với tha

nhân. Cũng qua nàng tôi phục hồi lòng tự tin và

niềm tin yêu người khác, nhất là với nữ phái :

Nàng thường nhắc nhở tôi nên quên đi những

hoài niệm thương động để có thể thay đổi toàn

diện cách nhìn phái yếu, khuyến khích tôi đọc

Kinh Hoà Bình khi gặp phiền muộn trong giao

tiếp và thuyết phục tôi «Hãy yêu thương đi, rồi

muốn làm gì thì cứ làm!» (Saint Augustin).

Nạn nhân đau thương bị ruồng rẫy tàn nhẫn, nàng

tuyệt nhiên không để tâm oán hận đời, trái lại

toàn nghĩ điều tốt và chỉ giữ kỷ niệm vui về

người chung quanh. Những vết thương xưa cũ

của tôi từ từ lành lặn, thẹo vết cũng tan biến dần

trước sự hồn nhiên quên lãng nỗi đau xót đã qua

của nàng. Giao tiếp tinh túy, phong phú, ngoại

hạng với phái yếu thánh thiện nầy khơi mào cho

một vài tiếp xúc lạ thường khác - cũng không do

tôi chủ định, cũng rất bất ngờ, nhưng bất ngờ

thích thú- liên quan tới hai người nữ, «con cái»

công chúa Lê Ngọc Hân…Viễn tượng có vẻ lạc

quan - lạc quan bi đát? - hứa hẹn thiện hảo. Có lẽ

vận hên đã bắt đầu trở lại tìm tôi…

- Thưa anh. Tất cảm kích trước sự đón nhận nhiệt

tình của anh dành cho bài viết Gối Rơm., qua

điện thư anh gửi cho anh N.H. và anh ấy chuyển

tiếp đến tôi. Đó là niềm an ủi vô biên cho người

viết… E.mail đánh đi, tôi yên chí đấng mày râu

nầy chắc cũng đã từng «nếm thử thương đau»

trong cảnh ngộ méo mặt như gối rơm tôi khi xưa.

Ai ngờ…

- Thưa anh, tôi là phái nữ, điện thư hồi báo viết!

Tôi tái xác nhận Gối Rơm là bài viết hay nhứt mà

tôi chưa từng được đọc. Không ngờ tác giả bài

đăng trên một Đặc San Ái Hữu ở Hoa Kỳ cách

đây tám năm lại là anh, cũng là cựu học sinh

Nguyễn Đình Chiểu-Lê Ngọc Hân như tôi…

Vài lần trao đổi mail sau đó, chúng tôi nhận ra

ngay «cùng một tần số» về nhiều điểm. Tuy lúc

tôi theo học Nguyễn Đình Chiểu - lúc bấy giờ là

Le Myre de Vilers - trường Nữ Lê Ngọc Hân

chưa ra đời, nhưng tôi chia sẻ được kỷ niệm vui

buồn qua các bài viết của nàng về trường cũ bạn

xưa LNH. Ngược lại nàng cũng hòa nhập vào

dòng hoài niệm xanh NĐC của tôi. Không bao

lâu, nàng «tôn» tôi làm Đại Huynh, tôi cảm kích

«nhận» nàng làm Hiền Muội. Chúng tôi mail qua

mail lại hay chuyện trò viễn liên y như các nhân

vật trong truyện kiếm hiệp. Vui hết sức, thân

thiện hết sức. Hào hứng nhứt là chúng tôi có khả

năng đọc giữa những hàng chữ (lire entre les

lignes) để thấu hiểu ý nghĩa thâm sâu của một bài

viết mà thoạt nhìn dường như tác giả chỉ viết giễu

cợt cho vui thôi.

Thế nhưng tôi vẫn tự nhắc nhở chớ có quá «sốt

sắng», cần giữ chừng mực trong tương quan với

người khác phái hầu tránh ngộ nhận như trước

đây đã hăng hái lâm trận hành hiệp! Nhưng chắc

«sự cố» nầy không xảy ra đâu. Vì trên một bình

diện nào đó Hiền Muội tôi cũng có nhiều điểm

tương đồng với «sư phụ» tôi. Nếu tôi hừng hực

lửa như hoả diệm sơn cuồng nộ thì nàng như

nước dòng sông xanh tươi mát êm ả điều hoà thời

tiết cho cỏ cây hoa lá không bị thiêu đốt thường

xuyên! Vả lại, dù muốn dù không, khoảng cách

tuổi tác cũng như khoảng cách địa lý phần nào

cũng đặt Đại Huynh và Hiền Muội trong tư thế

«kính nhi viễn chi». Thêm một giao tiếp thượng

đẳng cho tôi với phái yếu trong hành trình tứ

phương tìm bạn tri âm kết nghĩa đệ huynh...

- Thưa anh. Được biết anh có viết cho một Đặc

San ở Cali, tôi mạo muội xin anh đóng góp bài

cho Đặc San LNH Xuân Đinh Hợi của chúng

tôi, dự trù phát hành vào tháng 2 năm 2007…

Thêm một cơ duyên tiếp xúc với phái yếu đồng

môn với Hiền Muội, con dòng cháu giống LNH,

lấy đích danh Công Chúa làm bút hiệu. Khác với

Hiền Muội, «Công Chúa» rất ít liên lạc điện thư

với tôi, nhưng chúng tôi thông hiểu những khó

khăn, «rắc rối» trong công tác phục vụ một hội

đoàn người Việt xa xứ, nhất là trong lãnh vực

giao tế, đặc biệt trong sinh hoạt văn nghệ và báo

chí. Tuy không nhiều lời qua các mail trao đổi,

chúng tôi mặc nhiên hỗ trợ tinh thần cho nhau để

kiên nhẫn tiếp tục «ăn cơm nhà vác ngà voi». Có

lẽ tôi không cường điệu nếu nhìn nhận giữa

chúng tôi hình như có sự tương thân (cùng yêu

thích văn học-nghệ thuật), tương kính (quí nhau

vì quan điểm và lập trường trong đối xử với anh

chị em đồng môn và thân hữu xa gần). Cũng như

với Hiền Muội, Công Chúa và tôi cũng có khoảng

cách địa lý và tuổi tác, rất thuận tiện để kính nhi

viễn chi !

Sổ tay hành trình của tôi giờ đây ghi dấu thêm

các tiếp xúc thanh lịch với phái yếu mà sự không

tiếp cận là một đảm bảo an toàn trong tương quan

anh em trân quí. Sau vụ «Andromaque» dỏm, tôi

tưởng đã vĩnh viễn kinh sợ người khác phái . Hai

người nữ LNH kế tiếp đã xóa tan định kiến «ưa

nhí-nhảnh-điệu-hạnh» của tôi về phái yếu và tái

phục hồi niềm hứng khởi tiếp tục lên đường tìm

bạn đồng tâm, đồng lực, đồng hành để phát triển

Page 25: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 23

lòng ái hữu đích thực giữa những tâm hồn đồng

điệu trong khung cảnh tình đồng liêu thân

thương…Phải chăng tôi đang được tạo hóa «đền

bù» những« thua thiệt» xa xưa với… nữ phái?

Nghĩ cho cùng tôi nên cảm ơn tất cả những người

nữ đã cho tôi cơ may được tiếp xúc. Mỗi người

một vẻ, khi nhẹ nhàng, khi nghiệt ngã, họ đã tôi

luyện tôi nên người «trưởng thành»: chấp nhận

mọi việc với nụ cười. Bởi vì: khôn, chết; dại,

chết; biết, sống… Nhưng rồi cũng phải chết thôi.

Điểm đến sau cùng của thân phận làm người.

So, take it easy!

Thôn trang Rêu-Phong, Xuân Đinh Hợi

Lê Tấn Lộc-

************

Trần Bạch Vân

Mổi màu sắc đều có vẻ đẹp đặc biệt của nó. Mổi

người chúng ta thường yêu thích riêng một màu

nào đó, và khi chợt gặp lại ở một dáng dấp, trong

một khung cảnh gợi nhớ, kỷ niệm lại bừng sống

dậy nơi ta.

Loại màu « pastel », xanh lơ, hồng nhạt, phơn-

phớt, dịu dàng, mát mắt, đẹp đấy chứ ; thế mà khi

đi sắm y trang, tôi lại nghiêng về màu chocolat,

màu café, màu gạch nung, thôi thì tôi có đủ loại

gamme nầy. Nhưng cái màu tôi yêu sâu đậm nhất

là màu tím với đủ sắc độ của nó, cái màu sao gợi

nhớ, gợi thương, cái màu gợi cho tôi biết bao là

kỷ niệm !

Chiếc áo tím đầu tiên tôi có là một « áo bà ba tím

» mặc Tết, lúc tôi học cở lớp tư (tại sao lại chọn

màu tím cho trẻ nhỏ, chắc là để đở lấm lem). Áo

vừa rộng, vừa dài (chắc để trừ hao cho năm tới),

mặc vào như mặc áo khính. Thật thế, năm sau tôi

nhổ giò, áo bề dài thì vừa nhưng tay tôi cũng dài

ra chứ, thế là tay áo ngắn ngủn và áo vẩn rộng vì

con bé vẩn còn ốm nhom. Hình ảnh đó còn mải

trong tôi, mổi khi Tết đến nhìn trẻ con bây giờ

với những y phục xinh xắn, tươi vui.

Còn hình ảnh êm đềm, trìu mến của chiếc áo dài

nhung tím sậm mà bà tôi rất thích, thật khó quên.

Tết đến, trời hơi se lạnh, bà mặc để di lể chùa,

thăm viếng bạn bè. Bà thường dẩn tôi theo, tập tôi

quen với cảnh lể Phật, ăn chay trong chùa từ nhỏ.

Tôi rất sung sướng được đi theo bà, nắm cánh tay

bà, sờ vào áo nhung mềm mại, mát tay, êm ái

nầy. Nghỉ lại, thật là một trời thương nhớ !

Và « màu mực tím học trò » thời tiểu học, cái

màu dể thương làm sao… Còn nhớ trên bàn học

có sẳn bình mực tím, chúng ta có những cây viết

với nào ngòi viết lá tre, ngòi flamand, ngòi viết

rond v.v. giờ « écriture » thầy dạy viết sao cho có

nét : nét thon, nét dày, viết chữ hoa. (Bởi thế, nhờ

giờ tập nầy thưở nhỏ mà các cô, các bác, người

nào cũng viết chữ thật đẹp.) Màu mực tím thân

yêu nầy cũng thường lấm vào đầu mấy ngón tay,

có khi lại dấy vào áo nũa ! Tan giờ học về nhà, lại

bị mẹ mắng cho.

Màu tím theo mình với chiếc áo tím hoa cà mẹ

may thêm cho, khi đậu vào trung học Mỹtho “

Collège Le Myre de Villers ”, học chung với nam

sinh.(Các bạn gái Mỹtho về sau hân hạnh có riêng

truờng nữ Lê Ngọc Hân). Chỉ học nửa năm, thời

cuộc bất an, mẹ bắt trở vê quê Cáibè, đành mất

một năm học. Năm sau vào được trường nữ trung

học Gia Long, thế là mình có chiếc áo dài màu

tím để mặc “sortie” cuối tuần, hoăc khi lễ lạc. Đó

là « màu áo tím nữ sinh », màu truyền thống của

trường. Dầu sau nầy nữ sinh mặc áo dài trắng, «

trường áo tím » vẫn in đậm nét trong tâm khảm

người miền Nam ; và bây giờ khi có đại hội, tiệc

Xuân, hợp ca, trình diễn, các cựu nữ sinh « áo tím

» hay « áo trắng » vẫn mặc chiếc áo dài tím, cài

thêm một hoa mai vàng, trông thướt-tha duyên-

dáng làm sao ! Thảo nào lúc xuân thì, các nàng có

biết bao nhiêu là kẻ trồng cây si …Ôi màu tím

ngọt ngào, màu tím thân thương là cả một trời dĩ-

vãng sống lại cho tất cả các cựu nữ sinh, nay tản-

mát ra khắp phương trời, như đàn

chim nương theo cánh gió lập tổ ấm ở muôn

phương …

Về màu tím, ta có cả một gamme sắc tím, với

nhiều sắc độ khác nhau, tím tươi thắm nhẹ nhàng,

tím thấm-đậm nồng-nàn, từ tím phơn-phớt hồng,

tím phơn-phớt xanh như hoa lilas, tím lấm-tấm

trắng như hoa sầu đâu, Hoa sầu đâu tím vừa đủ

độ thắm tươi, kết thành chùm nhỏ mượt-mà, óng-

Page 26: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 24

ả nhưng hương hơi hắc ; hoa tím còn có tên gọi

hoa soan :

Hôm ấy tôi đi ửng nắng vàng

Bời bời ngõ cũ tím hoa soan…

Nguyễn Bính- «Trở về quê cũ »

Hoa cà, hoa rau muống, hoa rau lang, hoa tường

vi với màu tím dịu dàng, đầm-thấm như những cô

gái quê. Hoa pensée, hoa violette tím ngát, đậm-

đà.

Hoa iris tím, hoa lan orchidée tím, xoè các tai

hoa như những cánh bướm, trông đài các, vương

giả…Hoa lan rừng tím điểm trắng, cạnh những

hoa trắng phơn-phớt tím ; hoa lan màu tím như

cát-tường-lan, kim-chi-lan, chu-đình-lan.

Mấy giàn bông giấy tím điểm nhụy vàng trang trí

cho nhiều ngôi biệt thự. Những hàng rào lưới

thép cho dây bìm-bìm leo, hoa tím mịn-màng, e

thẹn, nở ló ra các mắt lưới hình thoi thật duyên-

dáng.

Hoa lục bình với màu tím phơn-phớt trội hẳn trên

đám lá xanh, xoay xoay theo dòng nước chảy,

như người con gái ngoan an phận « mười hai bến

nước biết là về đâu » …Còn biết bao nhiêu loài

hoa khác với sắc tím thật nên thơ…

Và « Hoa bằn-lăn » của Tế Hanh :

Bằn lăn soi bóng ven hồ

Xuân đi Thu đến bao giờ nở hoa

Hoa ơi có phải vì ta.

Mà hoa tím cả trời xa trời gần.

Tôi có dịp đi Nam Phi (Afrique du Sud) đến

thành phố Prétoria, hai bên đường trồng cây

Jacaranda - phượng tím, gặp mùa hoa nở một

màu tím rực, trên là nền trời trong xanh điểm lơ-

thơ vài lụa mây trắng, tạo thành một bức tranh

diễm tuyệt, khiến người ngơ ngẩn dậy hồn thơ…!

(Afrique du Sud nổi tiếng có một trời ánh sáng lý

tưởng để các nhiếp ảnh gia chụp kiểu y trang với

người mẫu, dành cho các nhà tạo thời trang nổi

tiếng, nên họ thường chọn « Le Cap » để thực

hiện những bức ảnh độc-đáo… )

Jacaranda mùa hoa tím nở

Tím cả vòm trời, tím cả lối đi

Tôi yêu hoa tím trong niềm nhớ

Thơ-thẩn lặng nhìn hoa tím rơi…

BV

Hoa sim tím tươi mát, hương thơm thoang-

thoảng. Trái sim chín mọng, tím than, thơm ngọt-

ngào. Biết bao văn sĩ, thi sĩ nói về màu tím như «

màu tím hoa sim » của thi sĩ Hữu Loan, một bài

thơ bất hủ từ hơn nửa thế kỷ nay, được phổ nhạc,

một bài thơ sống thật, vừa kể chuyện tình buồn

của tác giả, vừa tả tình cảnh tấm thân trai trong

thời loạn. Đó là những cảm xúc đau thương khi

hay tin người vợ trẻ 16 tuổi - vốn là học trò củ

mà ông kết hôn và chỉ sống với nhau có 2 tuần

rồi lại phải trở về đơn vị - đã bị nước cuốn trôi 3

tháng sau đó!

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

Áo nàng màu tím hoa sim…

Chiều hành quân

Qua những đồi sim

Những đồi sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

Tím chiều hoang biền-biệt…

Chiều hoang tím

Tím thêm màu da-diết…

Và có “chiều tím” khi hoàng hôn xuống, trên bải

biển với cát trắng phau, chúng ta lặng ngắm ráng

vàng dần dần trở thành hồng, hồng sậm ; cam,

cam sậm ; tím, tím sậm ; rặng núi mờ ảo xa xa ;

vài chim nhạn bay mau về tổ ; mặt trời đỏ rực

phản chiếu xuống nước ; sóng gợn lăn-tăn, như

run-rẩy cảm-xúc trước cái đẹp tuyệt-vời của bức

tranh thiên-nhiên đang chuyển màu linh-động !

Hoàng hôn lặn xuống

Mây hồng tím trôi

Hồn thơ lưng cạn

Tình bạn tràn đầy

(Tạo.Liêng.Ngàn)

HọaTâm tư lắng xuống

Theo dòng nước trôi

Muộn phiền vơi cạn

Tình thương đong đầy ….B.V

Mây chiều bảng-lảng tím hoàng hôn

Sóng gợn lăn-tăn ửng ráng hồng

Rặngnúi xa...xanh mờ ảo-ảo

Vài con chim nhạn lướt trên không… B.V

Xuân Diệu cũng thả hồn thơ về hoa tím tương tư

trong bài “Hoa tím”:

Sớm trông mặt đất thương xanh núi

Chiều vọng chân mây nhớ tím trời

Page 27: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 25

Hoa tím tương tư đã nở đầy

Mời em dạo bước tới vườn đây

Em xem, yêu mến em gieo hạt

Hoa tím tương tư đã nở đầy

Màu tím lan xa mấy dặm đường, cái khung trời

tím ấy đã là nguồn cảm hứng tạo nên thi phẩm “

Màu thời gian ” trong Thi Nhân Việt nam, xuất

bản năm 1941 của Đoàn phú Tứ :

Màu thời gian không xanh

Màu thời gian tím ngắt

Sau khi ngắm chiều tà đầy thơ mộng, chúng ta

hảy thưởng thức mấy bài ca thật thấm-thía, nhất

là với giọng đặc biêt trầm-trầm quyến rủ của Hà

Thanh như bài « Tà áo tím » của Hoàng Nguyên,

tà áo tím sao luyến-thương, sao vấn-vương đến

nổi gây ngất-ngây trong lòng nhạc sĩ, nhờ thế mà

chúng ta có được bản nhạc tuyệt tác sau đây:

Một chiều lang-thang bên giòng Hương giang

Tôi gặp một tà áo tím

Nhẹ thấp-thoáng trong nắng vương…

Màu áo tím sao luyến thương

Màu áo tím sao vấn vương…

Rồi lòng bâng khuâng theo tà áo ấy

Màu áo tím hôm nào

Tinh quyến luyến ban đầu

Để rồi chiều chiều, tôi di bên giòng Hương giang

Mong tìm lai tà áo ấy

Mà áo tím nay thấy đâu!

Người áo tím nay thấy đâu!

Giòng nước vẫn trôi cuốn mau…

Rồi chợt nghe tin theo làn gió nhắn

Người áo tím qua cầu

Và áo tím phai màu

Để giòng Hương giang hờ-hững cũng nao-nao.

Và lòng tôi cũng thật nao-nao khi viết về “màu

tím nhớ nhung”, màu tím vấn-vương, màu tím

luyến thương, cái sắc màu nhớ ấy . . .

.Bạch Vân

Trọng Lễ Âu Dương

***

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng

trong thời kỳ cuối thế kỷ 18đến thế kỷ 19. Bà

sáng tác thơ rất ít, nhưng hầu hết các tác phẩm

của Bà đều có giá trị lớn. Qua hai bài thơ :: « Qua

Đèo Ngang » và « Chiều hôm nhớ nhà »

Bà đã bộc lộ tài năng độc đáo của mình, sâu lắng,

hoài cổ, buồn nhớ trong nỗi niềm tâm sự cùng với

nghệ thuật đặc sắc « tức cảnh sanh tình » thật

trang nhã, dịu dàng, phong phú…

Trước hết điểm nổi bật trong thơ của Bà là nghệ

thuật « tả cảnh ngụ tình »với ngôn ngữ thật cao

quý mà đượm buồn… » Ở cả hai bài thơ, ta đều

bắt gặp một quang cảnh buồn, hoang vắng, cô

tịch. Đó là cảnh hoàng hôn tím sẳm, có cái không

gian và thời gian buồn, gợi nhớ nhất trong ngày.

Cảnh « đèo ngang bóng xế tà» tịch mịch, cô liêu,

rồi cảnh trời « bảng lảng bóng hoàng hôn ». Nếu

chứng kiến cảnh hoàng hôn ấy, có lẽ ai cũng đều

có tâm trạng buồn, cảm nhận cái buồn chẳng

riêng gì đối với nhà thơ nữ nhạy cảm như Bà

Huyện Thanh Quan. Ở đây sự vật lại quá vắng vẻ,

hoang lạnh, cô đơn. Nếu ở Đèo Ngang tác giả chỉ

thấy:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Thì cái buổi « chiều hôm nhớ nhà » cũng hoang

vắng đến lạnh lùng :

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Đó là âm thanh duy nhất gợi cho ta cảm giác rõ

rệt về âm thanh. Ta nghe thấy tiếng ốc, nhưng nó

lại quá xa xôi « xa đưa », lúc nhặt lúc khoan,

nghe càng buồn tẻ. Cái âm thanh đó chỉ làm sâu

thêm nỗi lạnh lẽo của Nữ Sĩ. Ở cả hai bài thơ, ta

cùng Bà Huyện Thanh Quan chỉ thấy, chỉ nghe

được cái quang cảnh buồn vắng ấy, cái âm thanh

mơ hồ ấy, gợi một nỗi u hoài mênh mang.

Cả hai bài thơ đều có hình ảnh con người, nhưng

chỉ thoáng bóng thôi, và quang cảnh chỉ có thế.

Đó là những người dân quê nghèo, vất vả làm ăn,

sinh hoạt của họ thật là tẻ nhạt, thiếu sinh động :

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà(Qua Đèo Ngang )

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

(Chiều Hôm Nhớ Nhà)

Bà Huyện Thanh Quan đã xử dụng biện pháp đảo

ngữ ở mức cao nhất làm nổi bật bóng dáng con

người trong cảnh, nhưng cảnh vẫn buồn, vẫn cô

Page 28: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 26

tịch, vẫn đìu hiu. Bởi vì buổi hoàng hôn là lúc

mọi hoạt động của con người đã lắng xuống,

không còn sôi động như mọi thời điểm khác. Vã

lại, ở đây vắng vẻ quá, chỉ có tiều vài chú, chợ

mấy nhà ; ngư ông lại ở mãi tận phố xa. Vì thế

thi sĩ không thể vui vẻ, không thể hững hờ trước

cảnh được, Bà đã bộc lộ nỗi niềm mãnh liệt nhất

và sâu kín nhất trong tâm hồn Bà.

Những nỗi niềm tâm sự « Đó là nỗi u hoài, nỗi

nhớ sâu lắng ẩn trong tâm hồn Bà. Bà nhớ về thời

xa xưa, thời kỳ vàng son của chế độ phong kiến,

thời kỳ mà Bà cho là đẹp nhất. Bà luôn hoài cổ để

chối bỏ thực tại và bày tỏ sự chán ghét thực tại.

Đó là nỗi nhớ nước, nhớ nhà Bà luôn giấu kín

trong lòng. Trước cảnh vật quá phù hợp với tâm

trạng mình, Bà bộc lộ :

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

(Qua Đèo Ngang)

Bước qua đèo ngang vào buổi chiều tịch mịch, Bà

nghe được tiếng chim « quốc» kêu và cảm nhận

nó ứng với tâm trạng mình. Tâm trạng của người

mất nước, luôn níu giữ những hoài niệm xưa ?

Tiếng quốc kêu như cũng ứng với tiếng gọi tha

thiết, mảnh liệt nhất trong tâm tư tình cảm của

Bà, tiếng gọi gởi về Đất Nước. ? Còn tiếng gia

gia như gợi nhớ niềm thương gởi về cố hương xa

vời vợi nhất là trước cảnh chiều tà gợi nhớ này :

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liểu sương sa khách bước dồn (Chiều hôm

nhớ nhà)

Chiều xế bóng, mặt trời sắp từ giã trời xanh, ngay

cả những chú chim cũng mỏi cánh, bay về tổ,

những người đi đường vội vã về nhà. Chỉ có Bà

Huyện Thanh Quan nhớ lắm, thương lắm, muốn

gặp lại cố hương, nhưng đành bất lực, bởi vì :

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Bà xa cách với Quê Hương quá, cũng như xa

cách với thời đại ngày xưa. Thế nên khi dừng

chân ngắm cảnh đèo Ngang, Bà đã thố lộ :

Một mảnh tình riêng ta với ta

(Chiều hôm nhớ nhà)

Mảnh tình riêng đó chỉ riêng Bà và cảnh biết thôi.

Bà và cảnh tuy hai mà một, bởi vì có chung một

tâm trạng. Tức cảnh, Bà bộc lộ được niềm tâm sự

của mình, môt tâm sự hoài cổ, đầy nuối tiếc,

muốn níu giữ những kỷ niệm xa xưa. Chính nét

đặc sắc đó, về nội dung cũng như về nghệ thuật «

tức cảnh sanh tình »Trong thơ Bà đã năng vượt

lên, có một phong cảch riêng, Tóm lại Bà có một

phong cảnh thơ rất đặc biệt.

Qua hai tác phẩm « Qua Đèo Ngang » và «

Chiều hôm nhơ nhà » Bà Huyện Thanh Quan đã

khẳng định tài hoa thơ phú của mình. Hai bài thơ

chứa một niềm tâm sự hoài cổ, nuối tiếc thời xưa

được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả cảnh để bộc

lộ tình của tác giả. Cả hai mặt nội dung và nghệ

thuật hoà quyện vào nhau thật nhuần nhuyễn,

điêu luyện, mang một sắc thái riêng biệt, đặc sắc.

Điều đó đã giải thích vì sao tuy chỉ có một số ít

tác phẩm để lại, Bà vẫn được xếp vào hàng ngũ

những thi sĩ tài hoa vào bậc nhất thời đại phong

kiến, và cho đến nay, thơ Bà vẫn lắng đọng mãi

trong lòng người đọc.

Trọng Lễ Âu Dương

Lời tác giả : Hôm nay ngồi viết lại câu chuyện

mắm», lòng tôi cảm thấy tràn đầy kỷ niệm,

thương nhớ vu vơ. Những ai ở tuổi đời ngoài 60,

đã từng sống ở các vùng nông thôn miền Nam,

nhất là các bạn quê ở vùng đồng bằng châu thổ

Cửu Long Giang thì làm sao mà quên được các

mùi mắm ? ít nhiều đã từng nếm qua hương vị

các loại mắm khác nhau ?…Tôi nhớ thuở xa xưa,

mỗi năm đến kỳ bãi trường về nhà ở đồng quê,

tôi thường lợi dụng thời gian rảnh rỗi quý báu

này để đi câu cá, săn chim, bẫy chuột đồng v.v…

khi được nhiều cá thì làm mắm, làm khô, rộng cá

vào ao bên hè để dành. Ngoài sự đam mê, tôi còn

cho đó là một thú tiêu khiển rất lý thú… của tuổi

thơ (vì tuổi dại khờ, nên tôi không nghĩ rằng mình

làm như vậy là phạm tội sát sanh quá nhiều) lại

còn im lặng trước sự phản đối tiêu cực về phía

gia đình. Cả nhà liệt tôi vào hạng con hư, không

tương lai, vì sự gắn bó quá tha thiết với đồng quê

ruộng rẫy, nhưng bù lại được bà con hàng xóm,

láng giềng, gồm mọi thành phần trong làng xã,

nhất là các cô thôn nữ với nét đẹp mộc mạc trữ

tình, ngây thơ, ngọt ngào, thường đón tôi trên

đường về để chia lại vài ba con cá… ai nấy đều

yêu mến, bênh vực tôi, khiến lòng tôi rất cảm

động và ghi ân… rồi đến ngày tựu trường, tôi lại

phải khăn gói ra đi lên tỉnh học ; nhớ buổi tiễn

Page 29: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 27

đưa ở bến tàu Cà Mau-MỹTho sao mà buồn vậy

?họ coi tôi như là người hàng xóm dễ thương,

nguời anh, hay sẽ là người bạn đời trong tương

lai… ? nhưng tất cả đều tan tác theo dòng thời

gian nghiệt ngã thế sự thăng trầm….tôi không

còn cơ hội nào để được gặp lại họ… buồn quá !

Đi câu, đôi khi lội bộ, khi thì bằng xuồng ba lá,

có lúc cỡi trâu.. từ xóm này qua làng nọ, có lúc

nhằm những buổi trưa hè, lội bộ qua độ năm

mười nhà, thì đã có hơn phân nửa số nhà đã đến

giờ cơm trưa, thoang thoảng mùi mắm kho, mắm

chưng, mắm sống v.v… khiến tôi phải dừng chân

lại theo lời mời của các chủ nhân để chia xớt

cùng họ bữa cơm trưa với mắm thật đậm đà, rồi

mới tiếp tục cuộc hành trình… Ôi ! cái hạnh phúc

quá đơn giản, bé nhỏ, mà nay hồi tưởng lại, mình

cảm thấy như nó quá xa tầm tay, tựa như một

giấc mơ.

Cách đây mấy năm, tôi có trở về thăm lại làng

xưa, đường phố cũ, nhất là muốn thăm lại các cô

bạn gái để biết số phận của họ hiện tại như thế

nào ? sau những cuộc thương hải tang điền ; còn

ở quê nhà hay đã theo chồng con phiêu bạt nơi

xứ lạ quê người, hoặc đã sống đời viễn xứ như

tôi ; còn trên cõi thế vô thường phù du và đau khổ

này hay đã ra đi về lòng đất Mẹ ?… Ở liền hai

ngày đêm, tôi chỉ may mắn gặp được một người

duy nhất, đã từng quen biết với mình vào thời xa

xưa… lòng ngậm ngùi xúc động trước cảnh « bể

dâu », nên qua sáng ngày thứ ba, tôi ngồi xuồng

gắn máy về Bạc Liêu, quá giang xe đò về

SàiGòn, để rồi từ thủ đô yêu quý của quê hương

đáp máy bay trở lại Paris với nỗi buồn mênh

mang.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng chua

nước mặn…, từ ngã Bảy chạy dài theo kinh

Phụng Hiệp-Quảng Lộ cho đến tận mũi Cà Mau,

nơi làng quê nhà nào cũng có chứa mắm ít nhiều :

Mắm lốc, mắm sặc,, mắm rô, mắm trê v.v…Bất

cứ chợ tỉnh, chợ huyện hay chợ làng, chợ lớn, chợ

nhỏ, đều có bán mắm quanh năm. Người phụ nữ

thôn quê miền Nam, hầu như mười người thì có

đến tám, chín người biết làm mắm. Bởi thật ra

làm mắm rất đơn giản. Cá làm sạch vảy, rửa sạch,

trộn đều với muối hột màu xám xám, trộn thính

và một vài gia vị khác, rồi sắp cá vào lu hoặc

khạp, ém gài cho chặt chẽ, rồi đậy kín lại. Sáu

tháng sau con cá muối trở thành con cá mắm, và

có thể ăn được rồi. Nhưng muốn làm cho ngon,

cho không trở, là một nghệ thuật bài bản rất công

phu. Phần đông người xa xứ, những ai sinh

trưởng ở vùng đồng bằng sông Cửu, hay ở tận

miệt Cà Mau Bạc Liêu xa xôi, dù người làng quê

hay dân ở chợ, hể nghe nhắc đến món mắm :

mắm kho, mắm sống, mắm « và » rau, là đã cảm

thấy nhớ và thèm cái mùi thơm, cái hương vị

quyến rủ, rồi bụng lại thấy đói và nội tâm lại hiện

ra không biết bao nhiêu là hình ảnh, kỷ niệm của

một thời nào đó, khiến cho lòng bồi hồi xúc

động…

Mắm có tự bao giờ, và từ đâu sinh ra món mắm ?

đến nay vẫn chưa có lời giải thích .Mắm có thể là

sản phẩm của ông bà ta ngày xưa, trong những

năm tháng nhọc nhằn mở đất khai hoang miền

Nam, vùng đất rộng người thưa, đến mùa nước,

tôm cá đàn đàn lũ lũ, ăn không hết, nên phải nghĩ

ra phương cách để dành, làm khô, ủ mắm dự trữ

cho những năm trái mùa thất bát.

Đến bữa ăn, nồi cơm bốc hơi nghi ngút, trên mâm

đã có sẵn bông súng, cọng măng non, bông điên

điển, rau dừa, rau nhúc v.v…để dầm vào tô mắm

kho với con lóc, con rô, con sặc, vài trái ớt hiểm

đỏ ói, trong khi ngoài trời mưa rơi rả rít. Có nhiều

cơn mưa kéo dài đến mấy ngày đêm. Bữa ăn tuy

đơn sơ đạm bạc, nhưng ngon đến nỗi bụng đã no

mà miệng còn thấy đói. Có phải vì thế mà câu ca

dao của người xưa vẫn còn nghe da diết trong

lòng, mỗi lần về quê xứ mắm :

Con cá làm ra con mắm

Vợ chồng nghèo thương lắm mình ơi….

Ăn mắm có nhiều cách, đơn giản có, cầu kỳ cũng

có. Ở làng quê đồng bái thường là mắm kho chấm

bông súng, bông điên điển, bông lục bình, rau

nhúc, rau dừa, rau mác, cọng năng non, cây chuối

non xắt trộn với rau thơm. Có thứ cho vào loại

chén riêng biệt của mỗi người để và rau. Các

vùng như Long An, Mỹ Tho kho mắm và rau có

thêm thịt ba rọi xắt lát mỏng, khứa cá lóc, giờ

chót lại còn nêm thêm nước cốt dừa cho béo.

Riêng món mắm sống, cắn ăn như mắm cá trèm,

mắm sặc,mắm rô, mắm trê v.v… hay xé ra từng

miếng nhỏ, bỏ xương, kèm theo rau thơm, húng

cây, húng lũi, dắp cá, tía tô, lá quế, đọt xoài, đọt

tầm ruột, đọt mận, còn thêm các rau dại mọc theo

bờ ruộng, xung quanh bờ ao, hè nhà…Rồi còn

nào là chuối sống, khế chua, dưa leo, ớt, tỏi, hành

v.v.. hơn nữa, nếu có một ít bánh tráng, vài lác

Page 30: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 28

thịt ba rọi với ít ly đế thì còn gì sung sướng cho

bằng. Dân nhậu coi món mắm sống là mồi dễ bắt

nhất. Trưa bụng đói, lục nồi cơm nguội, bốc một

nắm, kẹp một con mắm sặc ăn vào là cảm thấy

ngon lạ lùng. Cơm nguội, mắm sống, là ký ức, là

kỷ niệm của lớp trẻ đồng quê miền Nam như tôi

thuở xưa. Còn mắm chiên, mắm chưng, lại có

hương vị khác. Cắt đôi con mắm lóc cho vào

chảo mỡ đã phi tỏi, rồi vớt ra dĩa, rưới thêm tí mỡ

lên con mắm, cho vào nồi chưng cách thủy.

Miếng mắm đỏ hồng, cho vào miệng cảm nhận

được đủ mùi vị thơm , bùi, béo. Còn mắm «

chưng » với thịt bằm trộn với trứng vịt hoặc trứng

gà thì có rất nhiều chất đạm, dễ tiêu hóa, thích

hợp với mọi khẩu vị, có thể kèm theo rau thơm,

dưa chuột, chẳng kém món ăn nào !

Mắm ngày nay không còn là một món ăn chỉ

thông dụng với bạn nghèo.Mắm đã lên ngôi và

sáng giá. Nơi thành thị, món mắm đã được nâng

lên thành một nghệ thuật ẩm thực, cả đối với một

số đông kiều bào, ăn mắm : nhớ nhà, nhớ nước.

Nhiều tiệm cơm, nhà hàng, món mắm đã trở

thành một đặc sản, chế biến cách thức nấu thành

nhiều món như : lẩu mắm, bún mắm, mắm tép

chua với thịt ba rọi và rau sống v.v..

Mắm, món ăn độc đáo của vùng quê Nam Việt,

đặc điểm của những con người đi tiên phong

trong việc mở mang bờ cõi phía Nam cho nước

ViệtNam thành hình chữ « S » ngày hôm nay :

tính trước, liệu sau, ăn bữa trước, lo bữa sau,

không dễ bằng lòng với thực tại. « Mắm », nét

sống tuyệt vời của miền Nam, cũng gần như món

« fromage » của PhápQuốc.

Ơ quê miền Nam Việt Nam, các vùng đồng bằng

sông Cửu Long, vào những ngày kề cận Tết, các

nhà nông, đến đêm thường hay xả nước ra các

mương hoặc kinh lạch bao xung quanh ruộng,

đồng thời đặt vó bằng lưới mùng để hứng tép .

Thôi thì vô số tép nhỏ, tép lớn, theo dòng nước

tuông ra đầy lưới. Tép nhỏ dùng để làm mắm

ruốc, còn tép bạc lớn hơn thì để dành làm mắm

tép chua. Ở vùng biển thì có mắm « ba khía » ,

mắm cá cơm, mắm nghêu v.v…Mỗi thứ, mỗi

loại đều có hương vị riêng biệt đầy quyến rủ của

nó. Có những món ăn, cần phải nêm thêm vào

chút ít nước mắm cá cơm, mắm nghêu hay mắm

hào thì mới đúng hương vị, thơm và ngon

hơn.Nói đến mắm thì không thể quên món mắm

« thái » đặc biệt ở vùng Châu Đốc và vài vùng

khác ở miền Nam. Mắm được làm với thịt nạc cá

lóc đã được rút sạch xương với sự pha chế rất

công phu. Sau khi trở thành con mắm, giở hũ ra,

nhìn những miếng mắm đỏ trong, lẫn lộn với

những sợi đu đủ, những miếng dưa chuột, lát tỏi,

thì đã thấy bắt thèm, thèm cái mùi vị thơm ngon

lạ lùng của món mắm này. Còn món mắm ruột thì

gần giống như là món mắm thái ?

Thuở thiếu thời, tác giả học ở thành phố Mỹ Tho.

Mỗi năm đến kỳ bãi trường về quê, được gia đình

khuyến khích : tự làm cá, ướp mắm vào hũ, để

đến kỳ hè sau về nhà, chiết mắm ra, đem so sánh

thành quả với những nhà làm mắm chuyên

nghiệp, xem mình đã đạt đến đâu ; một kỷ niệm

êm đềm của thời xa xưa, mà giờ đây, sống nơi

đất khách quê người, mỗi lần nhớ lại câu chuyện

này thì lòng không tránh khỏi bứt rứt ai hoài và

bồi hồi thương nhớ quê nhà.

Làm sao quên được trời quê Mẹ

Trìu mến nhớ thương suốt cuộc đời !

(Thơ TLAD)

(Trích trong Thi Tập Quê Hương và Tình Yêu)

của tác giả được ra mắt vào ngày 04 10 09

tạiThánh Đường Sainte Anne – 11 rue Martin

Bernard 75013 Paris) có đông đảo nam nữ nghệ sĩ

đến từ Mỹ Quốc tham dự.

Trọng Lễ Âu Dương

(Vùng đất phì nhiêu, chim trời cá nước của Miền Nam)

Thân mến tặng Anh Chị Nguyễn Hữu Đồng và

các cháu

Bạn đồng môn ở Nguyễn Đình Chiễu MỹTho và

cũng là Bạn cùng quê.

Thuở bé thơ, tuổi học trò, khi có ngày nghỉ học

hoặc ngày lễ, tôi thường hay bơi xuồng ba lá lang

thang trong các bưng năng mênh mông bát ngát

để tìm trứng chim trích và câu cá rô, có khi bỏ cả

buổi cơm trưa, nên thường bị rầy hoài… Chim

trích, màu xanh vẹt, rất đẹp, có thói quen, sáng

sớm thì bay đi tìm mồi khắp nơi, khi no rồi thì trở

về làm tổ trên các bưng năng để đẻ và ấp trứng;

mỗi ổ trứng chim trích thường có khoảng từ 8 đến

10 trứng, có thể thay thế cho trứng gà, trứng vịt.

(đặc biệt là chim trích chỉ làm tổ trên các ngọn

năng gập lại) Trứng chim trích có phân lượng

bằng phân nửa trứng gà, có những món ăn, thay

vì dùng một trứng gà, thì ta dùng hai trứng chim

Page 31: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 29

trích, vả lại mùi vị trứng chim trích rất thơm ngon

đậm đà do đến từ thiên nhiên hoang dã. Còn

những bưng năng thì mênh mông bát ngát, nước

hơi sâu và vì là nước phèn nên trong vắt đến độ

nhìn thấy tận đáy; lúc thả mồi câu cá, ta thấy rõ

ràng từng con cá cắn mồi câu, đợi cho chắc chắn

rồi mới giật cần lên, nhờ thế nên ít khi bị sẩy cá

(thường chỉ câu được có cá rô, thỉnh thoảng mới

được vài con trê hay con lóc). Đây là thời tuổi

còn quá trẻ nên chưa ý thức được nỗi đau của các

con cá vì tham mồi nên mắc phải lưởi câu; (

người sống ở đời dù được ấm no mà vẫn còn

tham, sân si , nên thường mắc phải lưởi câu sân

si, danh lợi, tiền tài… thì há gì các con cá ?

Những bưng năng thường tự mọc (và năng non

thuộc về một trong những món ăn ngon nhất nhì

của rau cỏ đồng quê Miền Nam, năng non xào

dừa hay luộc chín chấm nước mắm kho hay cá

thịt kho là những món ăn không thể quên được

của những ai đã từng gắn bó với vùng Châu Thổ

sông Cửu Long, vùng sông nước Miền Nam mến

yêu và cũng đã từng nếm qua mùi vị của món

năng non này. Các bưng năng tự mộc kề bên các

thửa ruộng nằm dọc theo hai bên bờ kinh Phụng

Hiệp-Quảng Lộ, từ Ngã Bảy chạy dài đến Cà

Mau, qua các chợ lớn, chợ nhỏ nằm rải rác theo

hai bên bờ kinh : Ngã Bảy, Ngã Năm, Vĩnh Phú,

Phước Long, Xã Thoàng, Ngã Tư Phó Sinh, nơi

có thêm hai nhánh sông: rẽ mặt về phía Cạnh Đền

để ra sông Cái Lớn; và rẽ trái về phía Giá Rai;

(Ngã Tư Phó Sinh là Quê Nội của bạn tôi: Anh

Nguyễn Hữu Đồng : vừa là bạn cùng quê mà

cũng vừa là bạn đồng môn ở Nguyễn Đình Chiễu

MỹTho) sau đó, còn đi qua một chợ nhỏ nữa có

tên là Đầu Sấu rồi mới đến vùng sông nước Cà

Mau. Khi bạn thấy trên mặt nước sông của con

kinh phân ranh rõ rệt hai màu nước, màu xanh lơ

như biển cả và màu vàng xám đục ngầu của đất

bồi đất phù sa, là bạn biết mình đã đến vùng sông

nước Cà Mau, tuy nước đục nhưng mặn như nước

biển, đêm tối, ta liệng một cục đá xuống nước thì

thấy tung toé lên những ngôi sao …

Thời gian, ở quê, tôi rất thích nghe tiếng bìm bịp

kêu chiều, tiếng quốc kêu đêm, tiếng gà gáy sáng,

gáy trưa, tiếng ve sầu vang rân trong những trưa

hè oi ả, về đêm thì tiếng ểnh ương, ếch nhái, côn

trùng vang lên như một khúc đại hoà tấu thiên

nhiên của miền đồng quê giữa đêm trường tĩnh

lặng.

Sau này sang Pháp vào năm 1974, đến Paris thì

được Office HLM cho thuê một căn nhà trong

một chung cư có nhiều sắc dân đã ở đó. Ở chung

cư độ hai năm trời, không được nghe tiếng gà

gáy, tiếng côn trùng nỉ non trong đêm trường

thanh vắng, lòng đã buồn, cảnh vật lại thảm đạm

hơn, nên tôi có ý định mua một căn nhà thuộc

Village de Stains để có một mảnh vuờn nho nhỏ.

Tôi đã đặt biết bao hi vọng khi mua được căn nhà

này, nào là sẽ nuôi vài ba con gà trống để sáng

trưa nghe tiếng gáy của nó mà hồi tưởng đến quê

hương. Vừa dọn nhà xong độ một tuần lễ thì tôi

lăn xăn đi chợ tìm mua cho được hai con gà trống

rất đẹp, tiếng gáy lanh lãnh và thật to. Sự vui

mừng của tôi chưa được trọn vẹn thì có ông bạn

hàng xóm đến gõ cữa nhà tôi với lời khuyên xây

dựng như sau: Anh bạn ơi !:có hai cách một cách

là anh bạn làm thịt hai con gà, hai là đem tặng

chúng nó cho một người ở nhà quê (dù mới mua

hai con gà được mấy hôm, nhưng mục đích chính

của tôi không phải là mua gà để ăn thịt); tôi đã

coi hai con gà như là bạn của mình vậy, nay nỡ

lòng nào làm thịt nó mà ăn cho đành ? Anh bạn

láng giềng lại nói tiếp : theo luật lệ ở vùng mình

thì anh không được phép nuôi gà để mỗi sáng

chúng nó cũng gáy vang rân làm chòm xóm ngũ

không được, nếu anh không tin lời tôi, thì sớm

muộn gì anh cũng sẽ được Cảnh sát gọi. Quả

đúng như lời anh bạn láng giềng đã cảnh cáo tôi

từ lúc mới dọn về đây. Nhưng vì thương hai con

gà quá, nên tôi chần chờ mãi, không nỡ nào ăn

thịt chúng nó cho đành, nên tôi tìm đến một ông

bạn, người ở vùng Antilles thuộc Pháp để tặng

không cho ông hai con gà với điều kiện : là ông

nuôi, chớ không được ăn thịt chúng nó trong một

ngày gần đây; ông chấp nhận lời thỉnh cầu của tôi

và quyết định mang hai con gà này đến gởi nuôi

tại nhà một người em ở vùng quê hẻo lánh, cách

Paris trên 200 cây số.

Chuyện lạ : Hổm rày vợ tôi vắng nhà, tôi không

biết lúc ở nhà bà cho các con chim ăn như thế

nào, có một điều làm tôi rất ngạc nhiên là khi tôi

chăm lo thức ăn cho các con chim thì có một sự

thể như thế này : Sáng tinh sương, tôi thấy một

bầy chim gồm có : chim sẻ, chim sáo, với mấy

con cu đất, đang nhởn nhơ trong vườn, thấy thế

nên tôi vội đổ một lon gạo trắng vào một cái mâm

để trên bàn đàng sau nhà, độ một giờ sau, tôi mở

cữa ra thấy mâm gạo trắng vẫn cũng còn y

nguyên, tôi nghĩ có lẽ chim không thích ăn gạo

trắng, nên sau đó tôi đổi lại, đổ vào mâm một

chén cơm; chim cũng vẫn dửng dưng, tôi lại thay

thức ăn lần thứ ba nữa, thay vì gạo trắng, cơm

trắng, thôi thì bận này mình cho chúng nó ăn nửa

chén gạo lứt (riz complet) :không kết quả gì, cũng

như hai lần trước. Tôi nghĩ: À có lẽ chim này

không thích những thức ăn Đông Phương, nên tôi

vội vã đi tìm mua một ổ bánh mì baguette, đem

về nhà, chẻ phân hai theo chiều dài, ngâm nước

Page 32: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 30

cho mềm, rồi để lên mâm vào chổ mà tôi đã để

cơm gạo mà chim đều chê, tôi đóng cữa nhà sau,

vào nhà nghe xong hai bản tân nhạc, rồi mới mở

cữa ra thì nhận thấy bầy chim sẽ, sáo và cu đất đã

ăn sạch sành sanh ổ bánh mì. Biết thế, nên từ đấy

về sau, mỗi lần ăn bánh mì còn dư thì tôi cất vào

một bao bì riêng để dành cho bầy chim kén ăn

này..Tôi cũng không thể giải đáp một cách chính

xác về hiện tượng này ! theo khoa học hay tâm

linh ?

Thôi không nghe được tiếng gà gáy, thì sáng sáng

mình nghe tạm tiếng chim sẽ, chim sáo, cu đất để

mà hồi tưởng đến quê nnhà

Trọng Lễ Âu Dương

Kính tặng Bác Sĩ Trần Thị Mỹ

Hôm thứ hai tuần qua, cũng như các lần trước,

thỉnh thoảng, mỗi tuần một lần, tôi thường đến

tiệm primeurs ở Villetaneuse, nơi có bán nhiều

loại trái cây ở vùng Viễn Đông, nào là : trái thơm

(khóm, dứa) đậu bắp, bưởi, khế, gừng, khoai

lang, khoai môn, khoai sọ v.v… với giá thật phải

chăng. Những loại trái cây này, thường khơi động

trong ký ức tôi hình ảnh trìu mến của các chợ bán

rau cải cây trái ở quê nhà, từ chợ làng, chợ huyện

cho đến các chợ vùng ven đô của thành phố

SàiGòn tôi yêu : nào là chợ Bến Thành, Vườn

Chuối, Bàn Cờ,Thái Bình, An Đông, Nguyễn Tri

Phương,Tân Định, Đa Kao, Phú Nhuận, Bà

Chiểu, Cây Quéo, Tân Bình, Gò Vấp…và xa hơn

chút nữa là An Sương, Hốc Môn, Thủ Đức v.v…

Ôi ! những tên chợ nghe sao mà thân thương quá,

giống như một cặp tình nhân, vì hoàn cảnh phải

xa nhau, cách trở quan san, nhưng mỗi lần nghe

ai nhắc đến tên người yêu thì lòng không tránh

khỏi bồi hồi xúc động, tình cảm của tôi với các

danh xưng của các xóm làng, chợ búa ở quê nhà

cũng như thế.

Sau khi mua xong vài cây trái đến từ vùng Viễn

Đông, tôi ra lấy xe để về nhà thì nhặt được một

cái bóp của ai làm rớt cạnh kề xe tôi, mở bóp ra

thì thấy có 5 tờ giấy bạc 200, 5 tờ giấy bạc 50 và

5 tờ giấy bạc 20, tổng cộng là 1.350 euros, thêm

một số tiền lẻ và những giấy tờ linh tinh khác, có

lẽ của một cặp vợ chồng khách du lịch đến Pháp.

Lòng tham không đáy và không tính toán, tôi cất

ngay cái bóp vào hộc xe và lái xe về nhà. Bây giờ

là đến lúc trong con người tôi có sự giằn co mãnh

liệt giữa cái « thiện » và cái « ác » ; từ ý muốn

giữ lại số tiền lượm được, để xây xài cho thỏa

thích, và với số tiền này mình có thể mua vé máy

bay đi một tour du lịch sang ViệtNam, Thailand

?; nhưng mà nội tâm lại cảm thấy lương tâm bị

cắn rứt, tôi tự tra vấn lương tâm ?: Tại sao mình

thấy tiền thì mê mẩn, mất cả lương tri, đó không

phải tiền do mình làm ra, mà lại sanh tham lam

đến quá độ như thế này ? Lòng bỗng dưng nhớ

đến những câu triết lý của Phật Pháp: « Trong

cuộc đời phù du và mộng ảo này, dù ta được mọi

sự ưu đải của đời cũng chỉ là đưa tay bắt bóng, rốt

cuộc lại chỉ là tay không » vậy thì mình quá tham

lam, ích kỷ mà làm chi ? trong lúc mình vui

sướng ăn xài hoang phí vì số tiền lượm được, thì

có những kẻ vì sự bất lương của mình mà phải

buồn rầu đau khổ tột cùng ?

Lòng bỗng hoang mang xao động, lo lắng trăm

chiều, lương tâm thúc đẩy, nên tôi lấy hết can

đảm lái xe trở lại gian hàng bán trái cây, thì gặp

được một cặp vợ chồng người mất bóp tiền, với

hai đứa con thơ (có lẽ người đến từ Bồ Đào Nha)

đang đi tìm cái bóp trong trạng thái hốt hoảng, vô

vọng , lo lắng ; tôi đến chận người chồng lại và

hỏi : Phải đây là cái bóp của ông ? tôi vừa nhặt

được khi nãy, không biết của ai ? tôi dự định đem

gởi lại cho ông chủ cửa hàng bán trái cây để nhờ

trao lại cho khổ chủ, nhưng nếu đây thật là cái

bóp mà ông bà đang tìm thì xin hãy nhận lại, và

kiểm soát coi tiền còn đủ ? Vợ chồng người mất

bóp này nói không rành tiếng Pháp, nhưng cũng

hiểu được ý tôi, nên họ mừng rạng rỡ, thiếu điều

muốn quỳ xá tôi, miệng thì lắp bắp : merci

beaucoup, merci beaucoup, lại còn nói thêm : « tố

chìa, nỉ hảo » có lẽ họ lầm tưởng tôi là người

Tàu, nhưng tôi nói ngay với họ bằng câu tiếng

Pháp rằng : tôi không phải là người Tàu, mà tôi là

người Việt Nam, ông bà có biết nước Việt Nam ?

chớ riêng tôi thì biết rõ xứ Bồ Đào Nha, nằm ở

hướng nào theo địa đồ Âu Châu và vị thế của Bồ

Đào Nha trong cộng đồng Âu Châu. Sau đó, hai

vợ chồng rất cảm động, cứ lặp đi, lặp lại hoài hai

tiếng «Việt Nam, Việt Nam » khiến tôi nghe mà

lòng rất xúc động, muốn rơi lệ ! sau đó họ lại trân

trọng mời tôi dùng cơm trưa với họ, nhưng tôi từ

chối.

Đây là một hành động hoàn toàn theo bản năng

lương thiện và theo sự suy luận của lương tri. Tôi

rất vui mừng vì đã làm được một sự việc mà có

sự dằn co giữ dằn trong nội tâm và kết quả là cái

« phải, cái thiện » đã thắng. Nếu Bà Ngoại tôi còn

ở thế gian vô thường này ; Bà sẽ không tiếc vài

giọt nước mắt vui mừng cho đứa cháu ngoại đã

biết nghe lời khuyên dạy của Bà, những lời giáo

Page 33: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 31

huấn nghiêm túc của Bà dạy tôi trong suốt

khoảng thời gian ở cạnh Bà vào tuổi ấu thơ…

Trọng Lễ Âu Dương

Từ ngày Ba thăng chức giám đốc, nhà Thúy một

ngày một thay đổi. Từ căn nhà từng năm, ở quận

Năm Sàigòn-Chợlớn, mỗi lần leo lên, leo xuống

cầu thang thật là mệt nhọc và rất mỏi chân; bây

giờ Ba đã mua được một cuộc đất ở Bà Chiểu, và

xây lên một biệt thự thật khang trang. Mẹ Thúy

cũng bận rộn suốt cả ngày, áo quần đẹp và đúng

mốt hơn. Thời gian bà dành ra để chăm sóc chị

em Thúy giảm dần, và vì thế, chuyện tìm một “

người Ở “để làm tất cả công việc trong nhà đã trở

thành một nhu cầu thiết yếu. Cả nhà họp nhau bàn

tính, sực nhớ tới con bé Lục Bình, là đứa chị em

họ, bà con xa lơ, xa lắc của Thúy, đã được đưa từ

miền quê, vùng đồng chua nước mặn, liên tiếp

mấy năm mất mùa ra để phục vụ, và họ đồng

chung ý đặt cho Lục Bình cái tên mới là “Lục

Bình Trôi “, một cách thuê “người ở “mà các nhà

giàu mới, các nhà mới tập làm sang ở thủ đô,

thường ưa dùng làm đề tài để khoe khoang địa vị,

tiền bạc…

Có Lục Bình Trôi rồi, Ba Má Thúy được rảnh

rang nhiều hơn trong công cuộc làm ăn, đua đòi

ăn diện cùng bè bạn. Họ thường đi từ suốt sáng

đến tối mịt mới về , phó mặt tất cả việc nhà cho

Lục Bình Trôi. Chị em Thúy lại cảm thấy thoải

mái hơn, không phải làm việc gì, cũng ít bị la rầy

như lúc trước, và điều mà chúng thích nhất, là có

đứa “ Ở “để sai vặt.

Con Lục Bình Trôi 15 tuổi, bằng tuổi Thúy,

nhưng hai đứa khác nhau một trời, một vực. Thúy

thì hồng hào, trắng trẻo, đẹp gái, có vẻ lớn hơn

trước tuổi, còn Lục Bình Trôi thì người nhỏ thó,

lại đen đúa, chỉ đứng đến cổ Thúy. Chân tay thô

kệch, móng tay vàng khè màu đất sét, do lội

ruộng, gặt lúa, đào mương, bắt ốc, hái rau

v.v…Má nó ở quê thường nói với hàng xóm láng

giềng rằng vì nó làm việc quá nhiều nên không

lớn được…

Có lẽ vì thế mà Thúy toàn nói trổng với nó, ngay

cả thằng Kiêu, em Thúy, mới 12 tuổi, nhưng cũng

nhất định không gọi Lục Bình Trôi là chị, mà chỉ

xưng hô mầy tao…

Nhà rộng, con Lục Bình Trôi được ở hẳn một căn

phòng dưới tầng một. Ba Má Thúy ở tầng hai,

còn tầng ba, thì để dành cho chị em Thúy. Mỗi

buổi sáng, con Lục bình Trôi leo thang lên hai

tầng lầu, hỏi từng người thích ăn sáng món gì để

nó đi mua, và gom lấy quần áo của mọi người

đem đi giặt. Ôm một đống quần áo xuống lầu, nó

giặt đỏ cả tay, rồi lại phải nhọc nhằn bê lên sân

thượng để phơi.

Có nhiều lúc nhìn thấy con Lục Bình Trôi, mặt

mày buồn xo, căm lặng làm quá nhiều việc một

mình cũng tội tội, nên Thúy xin Má: Má ơi ! hay

là Má mua một cái máy giặt về để đỡ tay cho con

Lục Bình Trôi đi Má, Má Thúy trừng mắt: việc gì

đến cô, nó ăn được, thì phải làm được, cô định

dạy khôn tôi phải không?

Người hành hạ con Lục Bình Trôi nhiều nhất

trong nhà là thằng Kiêu. Nó bắt chước theo phim

ảnh, đi học về là nằm ngửa trên giuờng, bắt con

Lục Bình Trôi cởi giày, sai con Lục Bình Trôi đi

mượn sách vở, ra chợ mua đủ các thứ hàng.

Ở được nửa năm, con Lục Bình Trôi nhớ nhà,

nhớ ruộng nước phèn chua, nhớ dòng sông quê

Mẹ, nhớ ngọn gió chiều hắt hiu đưa đẩy mấy

ngọn bần bên bờ rạch, nhớ tiếng bìm bịp kêu

chiều, nhớ con sông nước ròng, nước lớn, nhớ lục

bình trổ hoa màu tim tím, lững lờ, mặc cho dòng

nước cuốn trôi…, nhưng nhớ nhất là câu Má

thường nói với nó: hẩm hiu có Mẹ có con, nên

Lục Bình Trôi xin phép má Thúy cho về thăm

nhà vài ngày. Má Thúy từ chối, lại còn mát mẻ

cay cú: Mầy ở đây sướng như tiên, ăn uống phủ

phê, mưa không đến mặt, nắng chẳng tới đầu, tính

về quê đặng chổng mông lên làm ruộng à ? Mà ở

nhà Má mày hàng tháng đều nhận được tiền của

mầy gởi về, có chắc gì còn nhớ đến mầy ? Con

Lục Bình Trôi im lặng, cúi đầu ra đi. Ra khỏi

phòng Má, Thúy thấy nó thở dài, len lén chùi

nước mắt, khi nó đi mất dạng rồi, Má thì thầm với

Ba: Cho nó về quê, chẳng may nó bỏ đi luôn thì

sao ? Rước đứa lạ về, gặp đứa gian tham, ăn cắp

đồ đạc, chỉ thiệt cho mình.

Mấy tháng gần đây, trong nhà Thúy có chuyện,

má Thúy thỉnh thoảng kêu mất tiền, ít thì vài ba

trăm, nhiều thì đôi ba ngàn. Mọi con mắt nghi

ngờ đều đổ xô về phía con Lục Bình Trôi. Má

Thúy đã bắt đầu lên tiếng. Trong nhà bầu không

khí nặng nề khó thở. Một hôm má Thúy vờ sai

con Lục Bình Trôi ra chợ mua mấy thứ lặt vặt, rồi

ở nhà đóng cửa lại, lục tung đồ đạc của nó, nhưng

không tìm thấy gì: Chắc nó đã tẩu tán về quê cho

má nó, mẹ Thúy lẩm bẩm. Bắt đầu từ hôm đó,

Page 34: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 32

Thúy để ý đến con Lục Bình Trôi nhiều hơn. Cái

mặt nó sao tự nhiên mình thấy đáng ghét quá.

Thứ đồ con gái mắt một mí, thôi đúng rồi, các cụ

ta ngày xưa đã chẳng nói: Mắt một mí không đỉ

thì gian… đây mà …

Con Lục Bình Trôi thì hình như cảm nhận được

sự nghi ngờ, khinh miệt của mọi người trong gia

đình đối với mình, nhưng nó vẫn im lặng, cắm cúi

làm việc, và âm thầm như một hình bóng cô đơn.

Có một đêm, Thúy học bài khuya, ra lan can

hứng chút ít gió mát cho đở buồn ngủ, chợt tai

văng vẳng nghe đâu đây, như có tiếng người,

Thúy nhìn xuống dưới sân, thấy con Lục Bình

Trôi đang ngồi thui thủi một mình, chấp tay trước

ngực, khóc thút thít và gọi Má nó…

Rồi điều gì đến sẽ đến: một hôm má Thúy chẳng

nói bóng, nói gió gì nữa, mà chỉ thẳng vào mặt

con Lục Bình Trôi: Đồ ăn cắp, đồ mất dạy, thật là

nuôi ong tay áo, ra khỏi nhà tao ngay, Thúy thấy

người con Lục Bình Trôi run lên từng đợt, từng

đợt, môi mím chặt lại, cố kềm nước mắt. Biết có

giải thích cũng vô ích, chẳng ai quan tâm, nên nó

lẳng lặng xách chiếc túi cũ kỹ mang đến từ quê

nhà, bỏ vào đó mấy bộ quần áo sờn vai, rách

túi.., riêng những thứ của nhà Thúy, nó xếp gọn

vào một góc để lại. Khi nó vừa khuất khỏi hàng

rào nhà; Thúy chợt động lòng, thấy tội nghiệp nó

quá, định chạy theo an ủi, dúi cho nó chút ít tiền,

nhưng Má đã kéo cửa rào khóa lại.

Con Lục Bình đi hôm trước, thì mấy ngày sau,

thằng Kiêu bị cảnh sát bắt quả tang đang tụ năm,

tụ bảy với bọn du thủ, du thực, cờ gian bạc lận,

rượu chè hút sách ở một nhà gần đó. Mọi việc đã

tỏ rõ: Thằng Kiêu chính là thủ phạm của những

vụ mất cắp tiền bạc ở nhà. Má Thúy vật vã khóc

lóc thảm thiết, nhưng tuyệt nhiên không nhắc nhở

gì đến con Lục Bình Trôi. Bà đã hổ thẹn ? vì đã

vu oan và trút tất cả oán hờn, thù hận trên đầu

đứa cháu nghèo và vô tội…

Còn Thúy, hình ảnh của con Lục Bình Trôi, tay

xách chiếc túi cũ kỹ đi bơ phờ, lặng lẽ, cam phận,

lang thang dọc theo hè phố cũ cứ hiện về trong

tiềm thức của nó. Trong sâu lắng của tâm hồn,

Thúy cảm nhận mình có một phần lỗi trong việc

Má chưởi mắng và đuổi việc oan ức, bất công đối

với con Lục Bình Trôi.

Mỗi lần có dịp ra phố, Thúy luôn luôn để ý coi có

may mắn gặp lại con Lục Bình Trôi để nói vài

câu xin lỗi ? Một hôm đi chợ cùng Má, Thúy

thấy xa xa có dáng một đứa con gái gánh rau rất

giống con Lục Bình Trôi, Thúy vội giật tay Má:

Má ơi, ai kìa, hình như là chị Lục Bình đó Má à !

Lần đầu tiên nó đã bỏ chữ Trôi, và gọi Lục Bình

Trôi là chị Lục Bình theo đúng nghĩa bà con vai

vế họ hàng. Má vội kéo tay Thúy: nói bậy nè, con

Lục Bình Trôi đã về quê rồi. Như có linh tính,

Thúy quay lại đuổi theo con bé gánh rau khi nãy

gọi to : Chị Lục Bình ơi, chị Lục Bình ơi !….em

đây nè…Nghe tiếng Thúy gọi, con bé gánh rau đi

mau hơn, rồi mất hút theo dòng người ở cuối chợ.

Thúy dừng lại, ngậm ngùi…hai dòng lệ tuôn trào,

thương cho người chị bà con xa nghèo … và cảm

thương cho phận gái long đong…

(Thương tặng các em bé gái ViệtNam trên các

nẻo đường Đất Nước, vì hoàn cảnh nghèo khó

phải cam tâm sống kiếp tôi đòi tủi nhục)

Trọng LễÂu Dương

(Tản mạn Tháng Tư)

Dòng sông quê hương, dòng sông của tuổi thơ,

dòng sông đã ấp ủ tôi trong tình yêu thương, dòng

sông màu phù sa, xám vàng của màu lúa chín,

của những buổi chiều vàng nhạt nắng.. ! Phải

chăng con sông này không chỉ bồi đấp từ phù sa

mà còn bồi đấp từ tình yêu thương tha thiết ?

Đêm đêm văng vẳng bên sông tiếng hát buồn

buồn « ầu ơ » , của mẹ ru con, tiếng hò của cô

lái đò, tiếng mái chèo khua nước, như là tiếng của

trái tim, tiếng của yêu thương nhẹ nhàng mà đằm

thắm kỳ lạ. Còn nói gì đây khi nghe thấy, cảm

xúc được câu hò Đồng Tháp, mượt mà, trữ tỉnh

vào một đêm trăng sáng ở ven sông ?. Cũng dòng

sông này, những buổi sáng trời trong trẻo, mát

lành, buổi chiều hoàng hôn ngự trị lại hồng rực

lên ánh sáng đỏ chói, còn về đêm khi vầng trăng

đã lơ lửng trên bầu trời xanh thì dòng sông lại lấp

lánh mơ hồ huyền bí… Lẳng lặng, bạn còn nghe

văng vẳng từ xa xa tiếng đàn kìm, tiếng sáo diều

ai oán xót xa, du dương, réo rắt, lúc bổng lúc

trầm, như từ tận đáy sông vọng đến. Đó chính là

lúc sông đang hát đấy ; sông đang hát lên những

khúc tình ca, hát về cuộc đời mình, hát về quê

hương.. Chỉ có thế thôi, chỉ đơn giản là tiếng

nước chảy lững lờ mang theo các mảng lục bình

về nơi vô định, mà sao mình nghe nặng tình như

thế, lòng con người làm sao tránh khỏi rung động

trước những tình cảm đó ! Dòng sông đã nuôi tâm

hồn trẻ thơ của tôi, sẳn sàng mở rộng vòng tay

đón tôi vào lòng nước trong lành mát ruợi. Tuổi

thơ tôi từng tắm mát trong dòng sông mến thương

này, nên nay dù sống lưu lạc bất cứ ở nơi nào,

Page 35: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 33

lòng tôi cũng không bao giờ quên được dòng

sông quê hương ! Dòng sông mà vào tuổi ấu thơ,

sáng sáng Ngoại tôi bơi xuồng ba lá đưa tôi đến

trường tiểu học của làng

Dòng sông lặng lẻ nước phù sa

Soi bóng hương quê dưới nắng tà

Dăm ba thôn nữ quên cài tóc

Chung xuồng ba lá chất đầy hoa

Tôi nhớ quê tôi quá thiết tha !

Đêm nghe lá rụng lòng xót xa

Mong ngày trở lại trời quê Ngoại

Trong cảnh nhân hoà đất nước ta…

Trọng Lễ Âu Dương

***

Trọng Lễ Âu Dương

Trên đường về quê cũ

Bỗng gặp lại người xưa

Chiếc đò như quá nhỏ

Giữa hoang vắng ban trưa

Dòng sông nước lững lờ

Lục bình trôi bơ vơ

Lòng chan hoà kỷ niệm

Một quá khứ mộng mơ

Bây giờ hai thứ tóc

Tình cờ như mây trời

Hợp tang là dịnh mệnh

Như thuyền giữa trùng khơi

Cánh nhạn về nơi đâu?

Cho ta nhắn nỗi sầu

Ánh tà dương bảng lảng

Một hoài niệm thâm sâu….

Nhân một chuyến đò qua sông Cửu

Nhìn lục bình lờ lững trổ hoa

Ngoài trời rả rít mưa rơi

Sương khuya phố vắng đầy vơi nỗi buồn

Lá thu lả tả sân vườn

Nhớ sao là nhớ sân trường quê tôi

Trời Âu cách trở xa xôi

Bao năm cách biệt khôn nguôi khối sầu

Mùa hoa phượng nở còn đâu ?

Chỉ là ký ức khơi màu nhớ thương

Nhớ làng quê nhớ phố phường

Nhớ sông, nhớ nước, nhớ mương « súng » đồng

Nhớ đầm ruộng ấu mênh mông

Chiều tàn em vẫn chưa xong một ngày

Nỗi vui gặp gở ngày mai

Tặng anh thúng ấu : nhớ ai, nhớ hoài

Thời gian, ngày lại qua ngày

Người đi, đi mãi không quay trở về!

Mùa hái ấu trái xum xê

Em còn cắt dấu mang về cho ai?

Trọng Lễ Âu Dương,

(cảm tác sau khi nghe tâm sự của cô bán ấu)

Ai có dịp đi qua Đất Thánh làng Phước Lễ, tỉnh

Bà Rịa sẽ thấy một nghĩa trang điêu tàn hoang

vắng, nằm bên cạnh ngôi đền thờ của những kẻ «

Tử Vì Đạo ». Trong đó có ngôi mộ với chiếc

thánh giá đơn sơ : Nơi an nghỉ của thầy Lazaro

Phiền.

Thầy Phiền quê tại vùng Đất Đỏ, cha là một

người đạo dòng, gốc ở tỉnh Quảng Bình, vào sinh

sống và lập nghiệp tại Bà Rịa đã lâu năm. Năm

Phiền lên ba, mẹ qua đời, chàng sống hẳm hiu với

cha. Thời gian đó giáo dân bị tàn sát và cầm tù rất

nhiều. Mãi đến năm 1862, khi Tây đến đánh

chiếm được Biên Hoà, thì có nhiều giáo dân đã bị

bắt giam tại một nhà tù ở Bà Rịa, cho đến khi Tây

chiếm được Bà Rịa hoàn toàn ; lúc ấy tại nhà

giam có hơn 300 tù nhân, nhưng đều bị thảm sát,

nhà ngục bị thiêu hủy, chỉ còn lại 10 người trốn

thoát được sống sót, trong số đó có thầy Lazaro

Phiền. Sau đó, thầy Lazaro Phiền được một quan

ba người Pháp đem về Gia Định và giao cho một

linh mục nuôi để học chữ Pháp và La Tinh.

Lúc học ở trường d’Adran, Phiền kết bạn với một

người tên là Vêro Liểu, con trai ông trưởng họ

Page 36: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 34

đạo ở Cầu Kho lúc họ học chung ở trường này,

Phiền thường được cha mẹ Verô Liểu tới thăm,

và mỗi chuyến đi thăm đếu có dắt theo con cháu

gái em bạn dì của Vêro Liểu. Ngày qua tháng lại

Phiền thầm yêu tha thiết cô cháu gái ấy, nhưng

vẫn giữ kín trong lòng. Một thời gian sau, cha

Verô Liểu biết mối tình này, nên ông chấp thuận

gả đứa cháu gái cho Phiền.

Đám cưới xong, hai vợ chồng sống rất hạnh phúc

và ở tạm nhà của Verô Liểu. Sáu tháng sau, Phiền

được đề cử làm thông ngôn cho Pháp tại Bà Rịa.

Tại đây vợ một quan ba Pháp, người Việt, đem

lòng yêu Phiền, nhưng bị thầy cự tuyệt, nên nàng

tức giận bèn viết một thư nặc danh vu khống

Verô Liểu tư tình với vợ thầy. Được thư tố cáo,

không cần suy xét cho chính chắn, Phiền chỉ nuôi

chí trả thù. Vào dịp Verô Liểu lui ghe về SàiGòn

và nhân dịp thầy Phiền được lệnh dẫn lính đến

phục kích một vụ cườp thuyền. Phiền sắp xếp

thành một tai nạn bắn lầm để giết chết Verô Liểu.

Kết quả được như ý muốn. Verô Liểu chết. Về

đến nhà thầy lại dùng cỏ độc bỏ vào siêu thuốc

cho vợ uống để trừng trị nốt đôi gian phu dâm

phụ. Vợ thầy Phiền bị thuốc độc hành hạ, hơn

mười một tháng mới chết . Nhưng trước khi tắt

hơi , vợ thầy vẫn bình tĩnh và nói lời sau cùng

với thầy : Tôi biết tại làm sao mà tôi phải chết,

nhưng tôi cũng cầu xin Chúa tha thứ tội cho thầy.

Mười một năm sau, sau khi vợ chết thầy Phiền trở

lại Bà Rịa thăm lại cảnh cũ người xưa, tình cờ

thầy nhận được một lá thư thú tội của vợ ông

quan ba Tây ngày nào. Nội dung bức thư cho biết

hơn mười ba năm trước, nàng vừa thấy thầy

Phiền trong một bữa cơm tại đồn là đã nãy lòng

yêu thầy tha thiết, nhưng bị thầy cự tuyệt, nàng

cho rằng mình bị khinh khi, nên tìm cách trả thù,

đồng thời hi vọng cướp lại được tình yêu thầy

Phiền, kẻ mà nàng thầm yêu trộm nhớ ngày đêm.

Với lòng gian ác đó, nàng tìm cách giả chữ viết

của Verô Liểu, viết thư hò hẹn tư tình với vợ

thầy, rồi sai người lén bỏ vào túi áo của vợ thầy

bức thư đó, lại viết thêm thư nặc danh tố cáo với

Phiền để ám hại hai người. Việc hại người thành

công, nhưng nàng lại không được toại nguyện, vì

Phiền quá buồn bả, chán ngán nhân tình thế thái

nên đi tu.

Đọc xong bức thư thú tội này, thầy Lazaro Phiền

chết điếng trong lòng, ăn năn thì đã muộn, người

vợ hiền lành của thầy đã chết đi trong tức tủi vì

tội lỗi tày trời của thầy, tại sao mình lại quá hàm

hồ nóng nảy, và một nỗi ân hận vô biên đeo đuổi

theo thầy trong suốt thởi gian còn lại trên trần

thế.

Tiểu sử nhà văn Nguyễn Trọng Quản : « 1865-

1911 », tên thật và cũng là bút hiệu. Người tỉnh

Bà Rịa, là học trò và cũng là con rể của văn hào

Trương Vĩnh Ký.

Trọng Lễ Âu Dương

(Tài liệu tham khảo: Tiến Trình Văn Nghệ

Miền Nam – Nguyễn Q.Thắng)

Mười Trí

Sáng nay dậy sớm hơn mọi khi, ngồi nhâm nhi

chén trà ngó ra vườn nhãn sau hè oằn trái, những

chùm nhãn xuồng, nhãn hạt tiêu trái bóng lưởng

no tròn sắp chín đong đưa trong gió, tỏa hương

thơm ngạt ngào hòa lẫn trong ánh nắng dịu hiền

của buổi ban mai, tiếng chim kêu rối rít gọi đàn

làm hai Đực thấy lòng khoan khoái làm sao.

Từ khi anh đốn mấy công dừa của mình, bắt

chước người ta lập nên vườn nhãn, trong lòng lúc

nào cũng phập phồng lo sợ, hổng biết có nên thân

nên hình gì hông, nay thì nỗi lo âu đã hết, chắc ăn

như bắp rồi còn gì nữa mà phải lo với âu, nhãn

trái chiếng của anh trúng mùa thấy bắt ham, tiền

kể như vài ba hôm nữa là bỏ vô túi. Nghĩ tới đây,

Hai Đực vui ra mặt, Cái công khó nhọc chăm sóc

vun trồng phân phướng bấy lâu nay được đền bù

xứng đáng. có vậy mới được chớ… Ngồi hứng

chí nghĩ bâng quơ thấy vợ đang lui cui vo gạo

ngoài sàn nước nấu cơm cho mấy đứa nhỏ ăn dằn

bụng để đi học, anh thỏ thẻ:

- Lúc trước tui mà nghe theo lời ông tư Kiên ở

xóm trên bây giờ chắc tức hộc máu, một hai ổng

cản biểu nên giữ lại vườn dừa. Cái ông già gì cổ

lỗ sĩ quá chừng, hổng biết theo thời thế gì hết,

nay cả xóm ai nấy đều hốt bạc, còn ổng trớt he,

có vậy cho ổng sáng mắt ra, hết làm tài khôn…

Page 37: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 35

Chị vợ lui cui bưng nồi cơm vô nhà để lên lò

ràng, cho củi vào lấy bó lá dứa đốt lửa lên mồi

cho cháy, rồi quay ra nhìn anh nói:

- Cổ lỗ cái gì! Trồng dừa ít công chăm sóc, chỉ

cần mần cỏ, móc mương bồi năm một hai lần ,

mỗi tháng tới lứa giựt gom về bán là xong, còn

trồng nhãn phải bón phân, phải tưới hàng ngày,

khi nhãn trỗ bông tượng trái phải mua lưới về

bao, khi nhãn sắp chín phải xịt thuốc trừ sâu...ôi

thôi đủ thứ. Ổng già rồi xoay trở sao cho xuể.

Nếu cái gì cũng mướn hết lấy gì ăn nên ổng mới

nói vậy. Hơn nữa người ta khá giả có con ở nước

ngoài hỗ trợ tội gì phải chịu cực khổ, đâu phải

như mình làm mướn kiếm cơm từng bữa chớ cái

gì mà cổ lỗ sĩ với hổng cổ lỗ sĩ. Ông sao khéo

nghĩ.

Hai Đực để tách trà đang uống xuống bàn cãi

lại vợ:

- Nói như bà thì tui nói mần chi, Đằng nầy ổng cứ

làm kỳ đà cản mũi, đi hết đầu trên tới xóm dưới

nói nào là bấy lâu nay quê mình nổi tiếng xứ dừa,

cây dừa là cây công nghiệp, tuy hổng có giá bằng

nhãn như bây giờ nhưng ăn bền, cho lá chụm, cho

thân làm nhà… cây dừa là bóng mát quê hương,

biểu tượng của quê nhà, ôi thôi ổng nói đủ thứ.

Mình phải theo thời chớ, trồng cái gì có tiền

nhiều thì trồng, để còn ngóc đầu lên với thiên hạ

chớ. Biểu tượng con khỉ khô gì để đói meo râu,

nghèo xơ xác à? Tui nghe ổng nói thêm bắt mệt.

Chị vợ cười xoà:

- Thì ổng nói gì ổng nói, ông làm gì ông làm, ai

biểu ông nghe đâu mà mệt với hổng mệt.Có nghe

ông nói tui bắt mệt thì có.

Nghe vợ nói vậy anh Hai lườm một cái hỏi lại:

- Tui nói gì đâu mà bà bắt mệt?

- Thì cứ nhắc đi nhắc lại chuyện của ông tư Kiên

hoài thấy bắt mệt chứ sao.

Nói rồi chị quay vô buồng kêu mấy đứa nhỏ

dậy đánh răng, thay quần áo, ăn cơm để đi học,

chị còn phải bưng mấy chục hột gà ra chợ Rạch

Miễu bán, mua chút ít thịt cá về cho mấy đứa

nhỏ đổi món. Thấy con ăn kham khổ hoài cũng

tội.

Rồi hổng biết cao hứng sao, Hai Đực quay

sang vợ nói:

- Bán xong đợt nhãn nầy tui sắm Honda để đi đây

đi đó cho có với người ta à bà!

Nghe chồng nói vậy, chị Hai xí một tiếng kéo

dài:

- Xí! Chưa chi đã muốn học làm sang, ông mà đi

đâu đòi sắm xe với cộ?

Hai Đực cười hề hề:

- Có tiền thì mình sắm cho có với người ta, rồi lâu

lâu bà có đi đâu tui chở bà đi hổng sướng hơn

hông. Chi bằng hễ có chuyện cần là phải đi

Honda ôm. Mỗi lần thấy bà đeo đít mấy thằng

chạy Honda ôm tui đây phát nóng.

Chị Hại lại xí một tiếng kéo dài:

- Xí! Tui già rồi ai thèm. Đừng làm bộ mượn cớ

ghen ông ơi. Cám ơn ông có lòng tốt lo cho tui,

chớ cái bản mặt ông mà chạy xe gắn máy đố cha

ai dám ngồi. Đi nhậu về chạy xe đạp còn té lên té

xuống u đầu sứt tráng hoài, chạy xe Honda chỉ có

nước đem xác về chôn.

Hai Đực cố cãi lại vợ:

- Chạy xe đạp khác, chạy xe Honda tui kỹ hơn,

ngu sao chạy ẩu cho chết để vợ con lại cho

thằng khác nó xài à!

Chị Hai lắc đầu lia lịa:

- Nói xàm gì nữa đây! Thần men nhập vô rồi, trời

cản hổng được nữa ở đó mà kỹ.

- Nhưng đó là mơ ước

của tui bấy lâu nay đó

bà à!.

Chị Hai nhìn anh trừng

mắt:

- Sao hổng mơ có được

ngôi nhà đẹp như nhà

ông Tư Kiên? Ông bà

mình thường nói, sống

có nhà, thác có mồ sao

ông không mơ? Mơ chi xe Honda, hơn nữa xe để

lâu nó mục chớ tiền hổng có mục. Tui định kỳ

nầy sửa lại nhà cho khang trang, và cho thằng Tí

nghỉ bán vé số luôn, Chớ để thằng nhỏ sáng đi

học, trưa về bán vé số hoài sợ hổng có thì giờ

nhiều học hành để theo kịp người ta. Mình cả đời

làm mướn, sắm được mấy công đất đây là phước

lắm rồi, nay có điều kiện, nên cho con có chút ít

chữ nghĩa mà vươn lên với đời.

Chị Hai nói chí lý quá, Hai Đực ngồi gục gặc

đầu cười hề hề:

- Tui nói là nói vậy chớ bây giờ tiền chưa vô một

cắc lấy đâu để sắm xe mà bà cãi y như rằng.

Chị Hai cũng cười:

- Thì ông nói, tui cũng nói cho ông nghe vậy thôi

chớ tui có cãi cọ gì đâu, mới sáng chưa chi muốn

kiếm chuyện hả? Ông nầy lảng nhách chưa.

Nói rồi chị ngúych yêu anh hai một cái , đi

thẳng ra nhà sau cho gà vịt ăn, để rồi còn đi chợ.

Anh Hai cũng đứng dậy xách cuốc ra sau vườn, ai

lo công chuyện nấy.

******

Trưa trời nắng gắt, chị Hai đi chợ về trông hớt hơ

hớt hải, vội vã như có chuyện gì gấp lắm, vừa tới

cửa chưa kịp vào nhà đã ong óng nói vọng vô:

Page 38: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 36

- ông ơi ông ơi! Thôi chết rồi ông ơi, cái điệu nầy

mình chết là cái chắc.

Làm cả buổi ngoài vườn, đói bụng vô bếp lui

cui lục lọi kiếm cơm ăn, nãy giờ hơi bực mình

sao con vợ đi chợ cà kê dê ngỗng gì ngoài ngoải

mà trưa trờ trưa trật chưa chịu về nấu cơm, bỗng

nghe tiếng ơi ới của vợ ngoài cửa, cái gì mà chết

chết, nổi nóng anh Hai lớn tiếng:

- bà biết bây giờ là mấy giờ rồi hông? Tui đói

bụng gần chết, trong bếp chẳng có gì ăn. Hổng

mau vô nấu cơm ở đó mà chết chết với sống

sống. Tui thấy bà còn đi đứng nói năng xong

xõng đó chớ chết chóc gì đâu mà chết?

Chị Hai mặt mày tái mét nhìn chồng nói như

muốn khóc:

- Chết đói cả lũ đến nơi ở đó ông còn nói giả

ngộ. Ngoài chợ hồi sáng nầy giá nhãn bán lẻ từ

mười mấy ngàn, nay xuống chỉ còn hai ngàn đồng

một ký, hổng bằng cái lẻ của hôm qua, tui đi dọ

khắp nơi rồi, kể cả chợ Bên tỉnh, chợ Mỹ Tho chỗ

nào cũng vậy. Còn vựa thì hổng chỗ nào chịu thu

mua nữa hết, nhãn mình lại sắp chín tới nơi. Giá

lại bèo, Cái điệu nầy bây giờ bán ra gom lại hổng

đủ trả phân nửa tiền mua phân...

Nói tới đây chị làm thinh nhìn chồng rưng

rưng nước mắt. Anh Hai nghe qua rịn mồ hôi

tráng, bủn rủn tay chân, sững sờ nhìn vợ trân trân

thì thào như người sắp chết:

- Thiệt vậy hả bà?

Chị vợ đưa tay áo lên quẹt nước mắt:

- Bộ ông tưởng tui nói giỡn chơi sao! Hồi nãy tui

có ghé qua nhà chị Tám Thắm, ảnh chỉ cũng đang

chết đứng chết ngồi, chạy kiếm mối bán đổ bán

tháo mong lấy lại được đồng nào hay đồng nấy,

nhưng có chỗ nào chịu mua đâu. Ông thử nghĩ

coi, giá bán lẻ hai ngàn, giá sỉ tại gốc trừ chi phí

cho người hái, tiền chuyên chở còn bao nhiêu?

Cho không chưa chắc mối chịu tới hái. Chết chắc

cả lũ rồi ông ơi.

Anh hai khoác tay lia lịa:

- Thôi bà đừng nói nữa, tui điên lên mất.

Quên mất tiêu mình đang đói bụng, anh ra sau

hè nhìn vườn nhãn, không biết nghĩ sao lại trở vô

nhà lấy xe đạp dông mất, chị Hai cũng chẳng

buồn hỏi chồng đi đâu, lòng dạ nào đâu nữa mà

hỏi. Mới hồi sáng hai vợ chồng còn năng nổ bàn

tính chuyện sửa nhà mua xe, chiều về thì tan tành

theo mây khói...

Nhá nhem tối mới thấy Hai Đực chân thấp

chân cao đẩy xe về nhà, dựng vô vách, leo lên

võng nằm hát nghêu ngao: - ” Uống rượu không

say nào hay ”được một hồi là nghe tiếng ngáy

pho pho.... Chị hai chỉ còn biết nhìn chồng dậm

cẳng kêu trời:

- Trời ơi là trời! Chết đói tới nơi hổng lo, chỉ biết

lo ăn với nhậu. Vui sướng gì đó, sao tui bạc phần

bạc phước quá vầy nè trời...

Chị có biết đâu rằng tuy bề ngoài là vậy chớ trong

lòng anh cũng đang chết đứng chết ngồi có thua

kém gì chị đâu, nông dân thật thà chất phác lại

đụng chuyện như vầy, bây giờ biểu tính, làm sao

ảnh tính. Phải chi tính chuyện làm mương phát

vườn , hay cuốc lật đất ruộng thì lẹ lắm, còn mấy

cái vụ nầy chỉ có nước phó mặc cho trời.

Chừng hai Đực tĩnh rượu, trời đã nửa khuya, rón

rén bước vô buồng ngủ, thấy vợ vẫn còn nằm

trằn trọc trên giường, anh nói khẽ:

- Bà chưa ngủ sao! Tui chán quá rồi. Thời buổi gì

kỳ cục quá, nay vầy mai khác làm sao người ta

biết để sống đây. Như má mầy biết đó, mấy năm

trước, nhãn còn non èo, hột chưa tượng cơm mà

lái buôn Trung Quốc nó vô lục lọi giành giựt mua

mười mấy ngàn một ký, nhiều người trồng một

vài cây chơi quanh nhà, tự nhiên hốc bạc, thấy

vậy tui mới ham. Bây giờ tới phiên mình, ai mà

dè cớ sự thế nầy! Phải chi chết được, tui chết

phức cho rồi. Phải chi hồi trước nghe lời ông Tư

thì đâu đến nỗi.

Chị Tư ngồi bật dậy, thều thào:

- Còn ông nữa, nhà có chuyện hổng lo, còn đi

nhậu cho đã rồi về ngồi đó mà phải chi với hổng

phải chi. Sắp chết đói tới nơi làm sao tui nhắm

mắt cho được. Còn ông vui sướng lắm sao mà bỏ

đi nhậu, tui tính nát nước rồi, hổng còn cách nào

hơn là ngày mai tui với ông tới nhà ông tư Kiên,

nhờ giúp đỡ.

Nghe vợ nói vậy, hai Đực hơi áy náy trong lòng:

- Tuy là ổng tốt bụng, nhưng hồi trước ổng cản

mình hổng nghe, bây giờ có chuyện lại đi nhờ

ổng, biết ổng có chịu giúp hông.

- Cùgn đường rồi cứ nhờ chớ biết sao!

To nhỏ một hồi, hai vợ chồng mới nằm xuống

ngủ, kẻ tặc lưỡi, người thở dài, thật tội nghiệp

cho người nông dân thời nhà nước đổi mới.

***

Thằng Tí chạy xe đạp khá nhanh, quanh cái rẹt,

quẹo vô nhà ông Tư Kiên, dựng xe lên hàng mái

đầm, rồi đến lu nước mưa mở nắp sẵn, có cái gáo

dừa để phía trên, múc một gáo đưa lên miệng ực

một hơi, hả họng khè ra như người ta uống rượu.

Ông Tư ngồi trong nhà cười thành tiếng :

- Bộ khát dữ lắm sao mầy múc nước hổng gạt

lăng quăng vậy mậy?

Thằng Tí vừa thở khè khè vừa nói:

- Chết chóc gì ba thứ đó ông!

Nói rồi nó để gáo dừa lại chỗ cũ, bước vô thềm

nhà, đến gần ông Tư nói:

Page 39: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 37

- Bữa nay ngoài xã mình có chuyện lạ.

Ông Tư nhướng mắt:

- Chuyện gì mà lạ?

Nó tỏ vẻ thán phục:

- Hổng biết ai chơi ngon, mở quán cơm chay bán,

mỗi phần ăn muốn trả bao nhiêu cũng được. còn

nếu hổng có tiền ăn không.

- Rồi mầy có ghé đó ăn thử chưa?

Nghe Ông Tư hỏi, thằng Tí trả lời có vẻ hơi tiếc:

- Có biết đâu mà ghé! Tui nghe tụi bán vé số

chung đường nó nói, tới nơi hết giờ người ta dẹp

rồi, ngày mai tui canh giờ thế nào cũng đến ăn

thử cho biết.

Từ khi vợ chồng Hai Đực bị xổng tay trên vì

nhãn, thằng Tí cũng vạ lây, phải nghỉ học luôn,

ngày ngày đi bán vé số phụ giúp ba má nó trả nợ

tiền phân, kiếm phụ được đồng nào hay đồng nấy.

May nhờ ông tư Kiên thấy hoàn cảnh túng thiếu

của ba má nó, rủ lòng thương giúp vốn trồng lại

dừa chuối. Nên nó biết ơn ông Tư lắm, ngày nào

đi ngang qua nhà ông tư, nó đều ghe vô uống

nước, có khi kể cho ông nghe những chuyện nó

gặp bên ngoài.

Lếu láo nói chuyện với ông Tư một hồi rồi nó

cáo từ, ra hàng lu lấy xe đạp tiếp tục đi bán cho

hết mấy cùi vé số còn lại. Ông tư nhìn theo lắc

đầu thương cho thằng bé thông minh giỏi giắn

nhưng không có điều kiện đi học…

Thằng Tí canh đúng mười một giờ trưa, đạp xe

ra chợ Rạch Miễu, tới quán cơm chay Thiện Tâm,

đứng sắp hàng lấy tài, đa số khách hàng là đồng

nghiệp của nó với dân lao động chân tay trong

chợ. Nó nhủ thầm:

Mới mở hôm qua,

mà bữa nay đông

nghẹt…tin đâu mà

lẹ quá! Hay thiệt.

Rồi nó nghĩ lại,

chắc cũng như

mình, nghe tin từ

bạn bè nói đây chớ

có gì đâu hay. Chờ

tới khi người ta ra phát vé trong đó ghi số thứ tự

để vô ăn cơm, nó vô cùng kinh ngạc khi thấy

người phụ giúp trong quán toàn là những người

quen trong xóm. Nào chị Tám Ấn con chú hai

Ngọc, thím Tư Lành, dì ba Được, dì bảy Nga, cô

hai Thôi… Chị Tám Ấn lãnh phần phát vé, thấy

thằng Tí chị cười tươi hỏi:

- Ủa! Mầy cũng biết nên tới đây ăn cơm hả Tí?

Thằng Tí gục gặc đầu:

- Dạ! Mấy đứa bạn nó chỉ. Mà ai là chủ quán?

Làm sao chị biết để xin vô làm được ở đây hay

quá vậy chị Tám?

- Hay cái gì mà hay, tao làm thiện nguyện phụ

giúp chủ quán thôi chớ có tiền bạc gì đâu mà hay.

Còn ai là chủ quán, mầy còn nhỏ, có ăn được rồi,

biết để làm gì!

Bộ còn nhỏ, biết những người có tấm lòng tốt

hổng được à! Nó muốn cãi lại với chị Tám hết

sức, nhưng chị Tám đã quay qua người khác tiếp

tục phát vé, có rảnh đâu nói chuyện lâu với nó

cho được. Chừng bước vô trong quán, tới chỗ

người ta phát cơm, nó đưa vé, lãnh một khay thức

ăn, bỗng nghe có tiếng ai quen quen kêu:

- Tí! Tí! Lại đây ngồi với ông nè!

Nó giựt mình. Ái cha! Ông Tư Kiên cũng đến đây

ăn cơm chay nữa, nó trố mắt ngạc nhiên nhìn ông

hỏi:

- Ủa! Ông vô hồi nào vậy? Sao hồi nãy đứng sắp

hàng tui hổng thấy ông? Ông cũng ăn cơm chay

bình dân nữa à! Tui tưởng…

- Tưởng cái gì mậy! Con Tám Ấn thấy tao già cả,

nên cho vô ăn trước, mầy ở ngoài hổng thấy chớ

có gì đâu là lạ. Ngày hôm qua nghe mầy nói nên

tao ra ăn thử.

Thằng Tí lặp bặp:

- Tui tưởng ông có tiền , bao giờ bước tới đây…

Ông Tư cười trừ rồi đưa tay vuốt đầu thằng Tí:

- Bộ giàu rồi hổng biết ăn cơm chay bình dân à!

-

Đi lại phía bàn ông tư đang ngồi, để cái khay lên.

Bây giờ mới nhìn thẳng vào khay thức ăn gồm có

ba món, một xào, một kho, một canh, và khoảng

chừng một tô cơm trắng nóng hổi , nó gục gặc

đầu chép miệng:

- Chà! Đã quá! Lâu dữ mới ăn được bữa cơm

ngon như vầy.

Nói rồi nó cấm cúi ăn ngon lành.

Nhìn thằng Tí vừa ăn vừa thò muỗng múc canh

húp, ông Tư khẽ hỏi:

- Mầy thấy sao! Có vừa miệng hông?

Thằng Tí gật đầu:

- Ngon quá sá cỡ! Ước gì bữa nào cũng được ăn

như vầy.

Page 40: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 38

Mâm cơm chay đạm bạc, đậu hủ kho, tô canh rau

tập tàng chớ phải cao lương mỹ vị gì đâu, vậy mà

cũng có người mơ ước…Ông Tư đưa tay vò đầu

nó với cử chỉ thân mật:

- Thì người ta mở cửa, mầy cứ tới ăn, chớ có ai

cấm cản mầy đâu mà mơ với ước.Thôi mầy ở lại

ăn nghen, ông đi trước có công chuyện một chút.

Nói rồi ông đứng dậy bước ra khỏi quán ăn…

Trông ông có vẻ gì như vui lắm. Và từ đó, bữa

trưa nào nó cũng tạc qua quán chay để ăn, khi bán

được thì trả tiền cơm đôi ba ngàn, cũng còn rẻ

chán, khi nào bán hổng được, thì bấm bụng ăn

“chùa”. nhờ vậy cũng đỡ được phần nào bữa đói

bữa no.

Quán cơm mở được mấy tháng, thằng Tí lấy làm

lạ, không hiểu tại sao ông Tư là người có con

Việt kiều, vườn đất cũng có, tiền bạc dư thừa, của

ăn, của để lại ngày nào cũng ra chỗ dành cho

người nghèo khổ nầy ăn. Biết trước như vậy nó

đâu có nói cho ông biết làm chi.Thường ngày

ổng chơi ngon lành trong xóm lắm mà, ai túng

thiếu gì cần giúp là ổng giúp ngay, cho mượn chớ

hổng bao giờ thấy ổng cho vay lấy lời, đâu phải

người hà tiện đâu. Đối với ổng, sá gì bữa cơm

như vầy mà cũng chen chân với người nghèo ăn

cho được. một lần , hai lần ăn cho biết hổng nói

làm chi, đằng nầy bữa nào hổng gặp ổng thì thôi,

còn hể gặp là thấy ổng vô trước người ta hết, ngồi

trên bàn uống nước xỉa răng, hình như ăn no nê

rồi thì phải, và thấy nó, ổng đều kêu lại ngồi kế

bên. Có bữa, nó cố tình né tránh, rồi theo dõi coi

ông Tư kiên bước ra có trả tiền hông, nhưng

mười lần như một, hổng bao giờ thấy ổng trả một

ten.

Bữa nay nó cố tình tới quán sớm hơn mọi khi,

đạp xe lảng vảng trước cửa coi ông Tư tới chưa,

thấy chị Tám Ấn đứng trước quày phát vé lui cui

làm gì đó, nó bước vào. chị Tám ngạc nhiên hỏi:

- Chưa tới giờ mở cửa sao mầy tới sớm vậy Tí?

Không trả lời câu hỏi của chị Tám, nó quay

đầu nhìn trước nhìn sau rồi hỏi ngược lại:

- Ông Tư Kiên tới chưa chị?

- Chưa! Bữa nay hổng biết ổng có bận hay bịnh gì

hông mà chưa thấy ổng ra. Mà mầy hỏi ổng để

làm gì? Muốn gặp thì ghé nhà ổng gặp, cần gì

phải ra đây!

Thằng Tí nhăn mặt:

- Hổng phải, tại vì tui lấy làm kỳ!

Chị Tám đang viết, ngưng tay, nhìn thẳng vô mắt

thằng Tí, chau mày:

- Có gì đâu mà kỳ?

Ấp a ấp úng một hồi nó mới trả lời:

- Thì…Thì ổng giàu thấy mồ mà ngày nào cũng

ra đây giành ăn cơm chay với người nghèo khó.

Chị Tám như bị điện giựt, bật nhanh ra khỏi chỗ

đứng, lấy tay bụm miệng nó lại, với cử chỉ như

sợ bị ai nghe được, rồi nói nhỏ:

- Ấy chết! Mầy đừng có nói bậy, Ông Tư nào

giành ăn cơm chay.

Thằng Tí kéo tay chị ra khỏi miệng với vẻ giận

dữ:

- Chị sợ cái gì mà sợ kỳ vậy! Chính miệng ổng

nói với tui là chị thấy ổng già, phát vé cho vô ăn

trước. Tui tưởng ổng chỉ ăn cho biết thôi, ai ngờ

bữa nào ổng cũng ra đây ăn, tui để ý thấy ổng ăn

cơm không trả tiền. Bộ chị thấy ổng giàu rồi nịnh

lấy lòng hả?

Nghe thằng Tí nói vậy, hình như bị chạm tự ái,

chị Tám phát cáu:

- Mầy hổng biết gì đừng có hỗn. Ông Tư là chủ

quán nầy đó!

Nói rồi biết mình bị lỡ lời, chị Tám đưa tay lên

bụm lấy miệng mình, quay qua quay lại nhìn dáo

dác như sợ có ai đó nghe được, chị đưa ngón tay

trỏ ấn mạnh lên tráng thằng Tí nói tiếp:

- Cũng tại tao bị mầy chọc tức nên mới lỡ lời.

Ông Tư hổng muốn ai biết ổng là chủ quán, nên

biểu mọi người phải giữ kín. Nay mầy biết rồi thì

cũng rán giữ mồm giữ miệng đừng để ổng biết

ổng buồn, người ta có lòng tốt.

Thằng Tí nghe chị Tám nói vậy lửng thửng

bước ra khỏi quán quên cả tiếng chào từ biệt, Nó

đã biết trước ông Tư không phải hạng người như

vậy, mà sao nó lại nghĩ xấu cho ổng. Tiếng chị

tám hình như còn vang đọng bên tay “ Ổng bữa

nay bận hay bịnh gì đó nên giờ nầy chưa thấy ra”.

Nhảy phóc lên xe, đạp nhanh tới nhà ông Tư,

quẹo nhanh cái rẹt rồi dựng xe lên hàng mái đầm

như mọi khi, nhưng không đến lu uống nước mà

chạy thẳng vô nhà. Thấy nó ông Tư vui vẻ lên

tiếng:

- Ủa! sao bửa nay về sớm vậy mậy? Hổng ghé

quán ăn cơm chay sao?

Nhưng Ông lấy làm lạ, bữa nay thằng nầy có hơi

kỳ, hỏi nó mà nó làm thinh đứng nhìn ông chớ

không vồn vã như mấy lần trước. Một hồi lâu nó

mới lên tiếng, lễ phép xưng con, hổng phải tui

như mọi khi:

- Dạ! Con có ghé quán, nghe chị Tám nói hổng

biết ông có bịnh gì hông mà hổng thấy ông ra,

nên con về ghé thăm ông.

Nghe nó nói vậy, ông Tư cười ngất:

- Tao mà bịnh hoạn gì, ở tuổi nầy mà bịnh là kể

như đi đứt. Bữa nay bận coi chừng nhà cho bà

Tư mầy đi công chuyện.

Thằng Tí đứng cúi đầu rưng rưng nước mắt nói

nhỏ:

Page 41: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 39

- Con xin lỗi ông Tư… Và con cũng cám ơn ông

Tư…

Thằng nhỏ nầy bữa nay gặp chuyện gì về đây có

vẻ trịnh trọng, còn bày đặc xin lỗi, xin phải, rồi

cám ơn ông nữa. Lòng thắc mắc chưa kịp hỏi, nó

kể hết đầu đuôi câu chuyện và xin ông Tư đừng

giận Chị Tám Ấn tội nghiệp. Nghe xong ông tư

cười xòa, thằng nầy tuổi còn nhỏ mà biết chuyện

ghê:

- Lỡ rồi thì thôi, chớ giận hờn gì con.

Nói rồi ông Tư đưa tay lên xoa đầu nó, hình như

đó là thối quen của ông mỗi khi trò chuyện với

nó. Nó ngẩn đầu lên nhìn ông thì thầm:

- Còn chuyện nầy con không thể nào hiểu nổi.

Ông Tư làm điều tốt, chớ đâu phải xấu xa gì. Sau

lại phải giấu không cho ai biết?

Ông tư đưa tay vuốt chòm râu bạc trắng, mắt

đâm chiêu nhìn vào khoảng trời xa xa nói:

- Thế gian nầy mà, không khéo người ta lại nói

tao có tiền, biết mình gần ngày xuống lỗ, bỏ ra

bày trò làm phước để mua chỗ trên thiên đàng

chớ tốt làng gì thì cũng ngặt. Miệng lưỡi người

đời ở thời mạt pháp nầy biết đâu mà lường trước

được. Hơn nữa, chuyện mình làm mình biết, cần

gì phải cho người khác biết. Lớn lên, lăng lóc với

đời có trí khôn rồi con sẽ hiểu, Bây giờ ông có

nói nhiều con cũng chẳng hiểu được đâu.

Thằng Tí cảm động ôm chầm lấy ông thỏ thẻ:

- Con hiểu chớ ông! Sau nầy lớn lên… nhất định

con sẽ bắt chước ông để sống.

Ông Tư mỉm miệng cười thỏa mãn… Ngoài trời,

buổi trưa bắt đầu gay gắt nắng.

Mười Trí

Hồ Trường An

Chị Ngọc Dung thân,

Tôi bắt đầu viết bài văn nầy vào ngày đầu tiên

của mùa xuân, tức là ngày 21 tháng 4 dương lịch.

Cây cối chưa trổ búp non lộc mới. Tuy nhiên, các

cây lê đã trổ bông theo câu thơ của Nguyễn Du

"cành lê trắng điểm một vài bông hoa ". Chim én

và các loại di điểu từ các xứ nhiệt đới phương

Nam cũng trở về. Loáng thoáng đâu đó có tiếng

chim sơn ca. Còn lũ họa mi phải đợi vào mùa hè.

Xuân của đất trời. Xuân của lòng người. Cái

tên có chữ lót Xuân cho đàn ông đàn bà đều là

đẹp như nhau. Xuân Phát ( danh hài ), hai anh

em Xuân Lôi và Xuân Tiên (đều là nhạc sĩ ) có

tên đẹp, tài hay nhưng sắc vóc tầm thường. Còn

về phụ nữ thì có Xuân Dung ( nữ kịch sĩ ), Xuân

Trang (con gái của Xuân Dung, nổi danh vũ

sexy), Xuân Mai (thần đồng ca nhạc) nổi tiếng

như cồn. Chắc chị Dung không thể quên Hồ Xuân

Hương mà thi sĩ Xuân Diệu tấn phong bà bằng 4

tiếng "Bà Chúa Thơ Nôm".

Và thuở thực tập Dược Khoa, tôi có theo anh

Nguyễn Văn A đến nhà của nữ kịch sĩ Xuân

Dung. Chị chào hỏi tôi qua loa. Nhà chị ở con

hẻm đường Phạm Ngũ Lão. Đây là dẫy nhà của

nghệ sĩ thuộc các môn trình diễn. Đó là nhà của

nữ danh ca Tâm Vấn. Thuở đó, chị Tâm Vấn còn

chung sống với học giả Thanh Nghị. Cậu quý tử

của ông ta là nam ca sĩ Hoàng Hạc ( mẹ của Hạc

là cố thê của ông Thanh Nghị ), lại có thêm nhà

của hai cô nữ vũ công môn sexy là Kim Xuân và

Kim Thu, vốn là con của ông Lưu Vân Trình,

giám đốc đoàn cải lương Nam Hồng. Hai chị em

Kim Xuân và Kim Thu có vóc dáng cân đối,

nhưng thân hình không bốc lửa. Chính con gái

của soạn giả Charlot Miều là Thu Thủy. Cô mới

là con cháu hậu duệ của thần Vệ Nữ. Cô vào

nghề vũ sexy vào năm 1963 gì đó nhờ khuôn mặt

thanh tú, lưng thon, đùi dài và chân dài. Thân

hình và vóc dáng Thu Thủy thon thả và mềm mại.

Trong khi đó Xuân Trang có thân hình mập đẹp,

một loại phụ nữ sex- appel trong chiếc áo dài và

ngồn ngộn sức sống ở bộ ngực vươn cao. Cô vẫn

giữ đường cong tuyệt mỹ trong chiếc may-ô. Tôi

không ngờ cô trang điểm khéo, biết ăn mặc, nhứt

là trong chiếc may-ô xanh biếc sọc xiêng, chẳng

những khai thác thân thể đẹp, dễ khơi nhục cảm

của phái mạnh. Thu Thủy múa may bằng những

động tác chậm rãi, thướt tha thì Xuân Trang múa

may bằng những động tác sôi nổi

Anh A tốt nghiệp hai môn hòa âm và đối

điểm, dạy môn âm nhạc cho trường Đạt Đức ở

gần chợ Bà Chiểu. Anh cũng dạy ký âm pháp cho

cô thứ nữ của chị Xuân Dung học. Cô này chưa

vào tuổi hoa niên. Nhưng cô có làn da khá trắng

trẻo, mắt ướt môi tươi. Còn chị Xuân Dung thuở

đó trạc tứ tuần, da ngăm đen, môi tro mặt bùn.

Nhưng khi lên sân khấu, hay chường mặt trên

màn ảnh chị rất đậm đà, son thắm phấn mịn. Tôi

không sao quên nhân dáng chải chuốc của chị

trong vở tuồng ca kịch "Ả Đào Say" trên sân khấu

đoàn ca vũ nhạc kịch Hoàng Thi Thơ.Và còn

phim " Đôi Mắt Người Xưa " nữa chớ. Chính nhờ

cuốn phim nầy chị đoạt giải thưởng Nữ Diễn

Page 42: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 40

Viên Vai Phụ Xuất Sắc Nhất trong Đại Hội Điện

Ảnh Á Châu năm 1963.

Lần thứ hai, tôi theo anh Nguyễn Văn A đến

nhà chị Xuân Dung để xem anh A dạy cô thứ nữ

học. Cô trưởng nữ của chị ra chào khách và mời

khách dùng trà. Vóc vạc cô cao lớn, da ngăm đen

như da của mẹ. Nhưng cô có ngực cao eo nhỏ sau

lần vải phin màu xám nhạt. Anh A hỏi Xuân

Dung :

-- Chị không cho cháu nầy học âm nhạc ở lớp

kịch nghệ hay âm nhạc tại trường Quốc Gia Âm

Nhạc & Kịch Nghệ sao?

Xuân Dung cười cười :

-- Con bé này mà học cái gì ? Nó đâu có

thông minh như em của nó.

Tôi nghĩ rằng cô trưởng nữ nầy là một cô gái

tuy có thân thể sexy nhưng quê dốt, không biết

mình có cái lợi khí để chài bẫy phái mạnh. Nhưng

tôi lầm, không hiểu chị Xuân Dung có lầm như

tôi không. Đâu chừng hai năm sau cô trưởng nữ

kia trèo lên sân khấu để trình vũ sexy. Mặt cô

trang điểm đậm đà theo sự đòi hỏi của sân khấu,

thân hình bốc lửa của cô được gói trong 7 lớp

voan có đủ bảy màu khác nhau. Trông cô giống

như cô đào Rita Hayworth múa voan trong phim

"Salomé". Cô là địch thủ đáng sợ của Thu Thủy.

Còn Tuyết Nhung, Phương Uyên có cặp đùi hơi

ngắn, nhằm nhò chi với cặp đùi của cô.

* * *

Lại thêm một tuần nữa, tức là thứ sáu, các bạn

ở Paris, cách tỉnh Troyes 170 cây số đến thăm tôi.

Ngồi chung quanh mâm trà bánh tôi cùng các

bạn bè săn tìm những tên đẹp của những người

đẹp dù đó là những tên phổ thông.

Bánh gồm có bánh da lợn xanh trong như

bích ngọc ôm lấy cái nhưn đậu màu ngà. Bánh

ếch bột trắng mịn ôm cái nhưn dừa tẩm đường

thốt nốt màu nâu đỏ. Trà do người bạn đem từ

Việt Nam về biếu xén, nước trà vàng lợt giống

như trà Ô Long nhưng lại thơm ngát hương sen.

Ngoài khung cửa gương trong, ánh thiều

quang sẫm dần một cách chậm chạp uể oải.

Hôm đó, cô bạn gái tên là ThúyVân bảo tôi :

- May một điều là ba em dẫu mê đọc đi đọc

lại truyện "Kim Vân Kiều'", tuy nhiên, khi em

mới sanh ra đời, ba em không đặt cho tôi cái tên

Thúy Kiều. Chị Hai Thúy Loan của em vốn ưa

nói tục nói trây thường bảo tôi rằng : " Tía không

lấy cái tên Thúy Kiều sợ xui xẻo mà vì ổng sợ cái

tên Kiều sẽ bị mấy tên du côn trời ơi đất hỡi

ghép vào chữ Tâu hay chữ Tặc vào tên Kiều. Mầy

thử nói lái hai chữ Kiều Tâu hay nói lái hai chữ

Kiều Tặc thử coi có bi hài không ?

Chuyện chi qua cái miệng véo von của cô

cũng trần ai lai khổ cả. Tôi thử nói lái :

- Kiều Tâu là Cầu Tiêu. Còn Kiều Ông Tặc là

C... Ông Tiều.

Uý chu choa ơi ! Tiều là dân Triều Châu,

người Hán qua Việt Nam làm nghề trồng rẫy.

Danh ca Trường Vũ thuộc dân Triều Châu . Tên

Thúy có thể ghép tên

của đản bà như Thúy Nga (nữ danh ca, vợ của

nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ ), Thúy Diệm (vợ cũ của

nhà văn Viên Linh), Thúy Minh ( vợ của nhà văn

Trần Long Hồ). Tên cúng cơm của nhà thơ nữ Vũ

Thi An là Thúy Ái, còn hai ngưòi chị của V'ũ Thi

An tên là Thúy Loan và Thúy Hòa. Người Bắc thì

gọi là Thúy, còn người Nam gọi là Túy . Nữ nghệ

sĩ chúng ta có Túy Hoa, Túy Phượng, Túy Hồng

(cả ba đều là ca sĩ kiêm kịch sĩ ). Về văn chương

có nhà văn nữ Túy Hồng, một trong 5 nhà văn nữ

ở miền Nam Việt Nam là Trùng Dương, Nhã Ca,

Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy

Vũ.

Còn các nữ nghệ sĩ có cái tên Kiều đứng đầu

coi như là chữ lót, chúng ta có Kiều Mộng Thu

(nhà thơ nữ kiêm nữ dân biểu Quốc hội dưới

chánh thể Việt Nam Cộng Hòa ), Kiều Mỹ Duyên

( nhà văn nữ), Kiều Phượng Loan ( nữ kịch sĩ),

Kiều Lệ Mai ( nữ nghệ sĩ môn ca kịch cải lương),

Kiều Oanh ( nữ kịch sĩ kiêm nữ danh hài ), Kiều

Hạnh ( nữ kịch sĩ ). Ngoài ra còn có nhóm Tứ

Kiều ở phố Hàng Bông ( thuộc Hà Nội) vào thuở

Tiền Chiến. Đó là 4 chị em Kiều Dinh, KiềuVinh,

Kiều Hinh và Kiều Hương. Ba cô Kiều Dinh,

KiềuVinh, Kiều Hinh cùng một cha một mẹ.

Nhưng Kiều Hương thì đồng cha với 3 chị Kiều

kia, nhưng khác mẹ. Kiều Vinh và Kiều Hương

chỉ nổi tiếng là nhờ nhan sắc. Trong khi đó Kiều

Dinh có tài đóng kịch ăn đứt nữ nghệ sĩ Song

Kim ( vợ của nhà thơ Thế Lữ ) và Kiều Hạnh.

Kiều Dinh lấy nghệ danh là Giáng Kiều, thành

công những vai chính trong các kịch bản của Vi

Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Vũ Đình Long và nhứt

là vở kịch "Lôi Vũ" của Tào Ngu. Khi di cư vào

Nam, Giáng Kiều phát phì nên rời khỏi trường

thoại kịch. Còn Kiều Hinh kết hôn vói nam danh

ca Anh Ngọc, lấy nghệ danh là Giáng Hương. Chị

nổi tiếng ngâm thơ và đóng kịch lai rai, đóng

phim thỉnh thoảng.

Quên, tôi cần phải kể nhân vật Kiều Nguyệt

Nga trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ đồ

Nguyễn Đình Chiểu. Và tôi cũng cần phải kể

nhân vật Kiều Loan trong tác phẩm kịch thơ "

Kiều Loan" của Hoàng Cầm. Lại còn có chị Kiều

Loan, con gái của Hoàng Cầm, cũng nổi tiếng về

Page 43: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 41

ngâm thơ. Chị có đóng vai Kiều Loan, tác phẩm

của bố mình rất xuất sắc.

Kiều nào Kiều nấy không nổi tiếng bằng Kiều

Chinh mà các ông các bà thời thượng gọi là Kiều

ảnh hậu. Đây là một minh tinh xi-nê-ma, có kiến

thức tổng quát (la conaissance générale ) thật

phong phú về văn chương nghệ thuật.Tôi không

hiểu nghĩa sâu sắc của hai tiếng Kiều Chinh là gì.

Chinh phục cuộc đời bằng nhan sắc chăng ?

Nhưng tôi thích hai tiếng Kiều và Chinh nhập

thành một danh hiệu; nó ngồ ngộ, đọc lên thì

chúng lạ tai và du dương lắm lắm.

Nhân qua cái tên Thúy Kiều, chúng tôi moi

móc cái tên Thúy Vân. Tôi đã đề cặp cái tên Thúy

rồi, và cái tên Vân thì ít có ai dùng tới. Chúng ta

có các nghệ sĩ cải lương là Quái Kiệt Ba Vân,

một nghệ sĩ ca lịch sân khấu cải lương thành công

trong Phê ( người điên ) của vở ca kịch cải lương

là " Khi Người Điên Biết Yêu" và vai thầy Ba

Chà của vở "Vó Ngựa Truy Phong". Chúng ta

cũng nên nhắc tới nghệ sĩ Tám Vân, em ruột của

Ba Vân, dám đảm nhiệm các vai mà Ba Vân bỏ

lại sân khấu Năm Châu để "đầu quân" cho gánh

hát Phụng Hảo (do nữ nghệ sĩ Bảy Phùng Há đảm

nhiệm chức giám đốc). Quên, chúng ta phải nhớ

đến ký giả kiêm nhà văn Phi Vân, tác giả truyện

"Đồng Quê " rất nổi tiếng. Ông mở rộng con

đường văn chương để cho Bình Nguyên Lộc, Sơn

Nam có được chân bước thảnh thơi.

Còn những cái tên khởi đầu bằng chữ Vân, về

bên nữ giới có nhà văn nũ Vân Trang, sáng chói

trên nguyệt san Bách Khoa trải qua 5 năm cuối

của thập niên 50 bắt qua 5 năm đầu của thập niên

60. Chị em bà nổi tiếng đẹp và lừng danh nổi

tiếng ở Hậu Giang, giỏi về thơ Đường luật. Chị

thứ nhứt của bà là Trung Nguyệt bút danh Bảo

Nguyệt. Đó là một nhà cách mạng trong phong

trào chống Pháp, nhưng không ngã về phe Cộng

Sản Viêt Minh. Chị thứ nhì là Huệ Minh, vợ của

nhà chí sĩ Hồ Hửu Tường. Người chị thứ ba là

Trung Tín, lấy bút hiệu là Hàn Xuân, tác giả

quyển "Lòng Mẹ Nở Hoa" . Người chị thứ tư là

Trung Nghĩa lấy bút hiệu là Mộng Trung, cộng

tác với tập san Bách Khoa với những lá thư viết

về chuyện đời sống của mình ở Pháp, viết về

những chuyến đi của Tiến sĩ Âm nhạc Trần Văn

Khê. Bà cho xuất bản "Giọt Thời Gian" ( tập

thơ), "Hôn Nhơn Dị Chủng" (bút khảo về hôn

nhân không hạnh phúc của gái Việt trai Việt kết

hôn với thanh niên thiếu nữ Âu Mỹ). Sau hết là

Huệ Trang tức là nữ sĩ Vân Trang, tác giả tập

truyện " Một Bức Thơ Tình". Bà Vân Trang là vợ

của Giáo sư Thiên Giang một trong bộ ba Thiên

Giang, Thê Húc, Tam Ích, nổi danh trong giới

văn hóa giáo dục.

Thỉnh thoảng trên tập san Viên Giác, Cỏ

Thơm, chúng ta bắt gặp một bài thơ của nữ sĩ

Vân Nương. Bà là một thành viên trong Thi Đoàn

Quỳn Dao rất nổi tiếng trong nước ở vào thập

niên 60. Bà cho xuất bản hai thi tập"Tơ Sương"

và "Con Đường Lý Tưởng" ( phóng tác con

đường cầu đạo của Thiện Tài Đồng Tử trong

Kinh Hoa Nghiêm).

Phải kể thêm 3 cô Vân, con của nhạc sĩ

Dương Thiệu Tước và nữ ca sĩ Minh Trang. Đó là

Vân Quỳnh, Vân Hoà, Vân Khanh. Ba cô cùng

người chị khác cha của mình là Quỳnh Giao lập

nên Tứ Ca Bốn Phương. Vân Quỳnh lại có đóng

vai quan trọng trong phim "Đất Khổ" do Hà Thúc

Cần xăn tay áo làm nhà sản xuất, làm nhà đạo

diễn, làm luôn người viết kịch bản. Chưa hết

đâu. Ông còn đóng vai cụ già chơi trống bỏi,

đảm nhiệm chức làm chồng của Vân Quỳnh.

Đàn ông cũng có tên lót bằng chữ Vân. Minh

tinh thoại kịch và điện ảnh đẹp sắc vóc, đó là

nghệ sĩ Vân Hùng, một người đồng diễn lý tưởng

của nữ nghệ sĩ Kim Cương. Trong ban tam ca

AVT có Lữ Liên, Tuấn Đăng và Vân Sơn. Anh

Vân Sơn hát hay và giễu giỏi, đã tự trầm mình tự

tử trên nhánh sông Thị Nghè sau khi Cộng Sản

chiếm đoạt Miền Nam Việt Nam. Ở hải ngoại

cũng có danh hài Vân Sơn, cháu của nam tài tử

Nguyễn Chánh Tín, kêu Tín bằng cậu.

Gần 10 giờ đêm, các viễn khách từ giả Cổ Nguyệt

Đường chủ nhân để về Paris. Tôi tắm rửa rồi vào

giường với quyển "Truyện Thúy Kiều". Ôn lại

những nghệ sĩ có cái tên Xuân, tên Thúy, tên

Vân. Tôi chợt nhớ một cụ già người Huế đã

hãnh diện :

-- Phụ nữ xứ Huế có tên chi cũng đep. Tên

Hồng Nghê nì, tên Lục Hà nì, tên Diệm Mi nì,

tên Bồng Thu nì, Tuyết Phiến nì... Chu choa ơi,

tên mô đọc lên cũng nghe lảnh lót. Những cái tên

Xuân, Thúy, Kiều, Vân tách ra cũng du dương

ngọt ngào. Người Hà Nội chê răng đành, người

Sài Gòn phủ nhận răng được. Bởi rứa muốn đặt

tên đẹp cho con gái vừa mới chào đời thì cha mạ

phải nương theo tên các cô Xẩm Hương Cảng

đóng phim mà khai trong khai sanh. Mỹ Vân

(Viên Mỹ Vân), Vân Thường (Trần Vân

Thường), Man Hoa ( Chu Man Hoa), Luyến (Lưu

Luyến), Hương Lan ( Lý Hương Lan)...

Viên Mỹ Vân xuất sắc trong phim "Máu

Nhuộm Hồng Hải Đường", Chu Man Hoa xuất

sắc trong phim "Lòng Mẹ" phóng tác theo vở

kịch "The Fan" /"Chiếc Quạt" của Ocar Wilde.

Lưu Luyến chuyên thủ vai đào phụ, nhung là một

Page 44: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 42

nghệ sĩ lớn, rất xuất sắc trong phim "Đôi Chim

Giang Hồ". Còn Trần Vân Thường xuất sắc trong

"Ánh Sáng Đô Thành" và phim "Hoa Mộc Lan

Tòng Chinh". Lý Hương Lan vốn có cha Mãn

Châu, mẹ Trung Hoa. Cô vừa đóng phim Tàu vừa

đóng phim Nhựt. Phim do điện ảnh Nhựt và điện

ảnh Hồng Kông phối hợp thực hiện phim "Bạch

Xà Thanh Xà", mời cô thủ vai chánh (vai Bạch

Xà). Khi các đạo diễn ở Hoa-lệ-ước mời cô cùng

Kim Ô Phương Tử ( người Âu Mỹ gọi là Kyo

Machiko) và Lý Lệ Hoa (người Âu Mỹ gọi là Lili

Hua) sang Mỹ đóng phim thì cô lấy cái tên

Shirley Yamaguchi, thủ vai chánh trong phim "La

Maison de Bambou".

Riêng tôi, tôi không ưa cái tiếng Văn lót cho

cái tên của bất cứ nam nhân nào. Chẳng hạn

Nguyễn Văn Tường là tên của đại thần triều đình

Huế. Nguyễn Văn Vĩnh, học giả. Tôi không ưa

tiếng Thị lót cho cái tên của bất cứ phụ nữ nào.

Khốn nỗi tôi lại yêu văn chương của các bà nhà

văn nữ có cái bút hiệu lót chữ Thị. Đó là chị

Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn

Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Nguyễn

Thị Minh Ngọc, Trần Thị NgH (Trần Thị Nguyệt

Hồng), Trần Thị Kim Lan, Ngô Thị Kim Cúc, Lê

Thị Huệ, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Ngọc

Nhung, Phan Thị Trọng Tuyến, Dư Thị Diễm

Buồn... Bút hiệu của các bà Thị nầy đã đẹp, văn

chương của họ cũng đẹp luôn.

Tôi không ưa trai Văn gái Thị vì đó là do lịnh

vua Gia Long truyền ra cho dân chúng Trung Kỳ

và dân chúng Nam Kỳ đặt tên con. Triều đại nhà

Nguyễn đã chấm dứt hồi nào rồi, dân gian chúng

ta hơi đâu mà nịnh nọt Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia

Long . Phải vậy không các chư vị độc giả?

Hồ Trường An

Đỗ Bình

Nhũng đề tài muôn thuở: «tình yêu và quê

hương» là nguồn sáng tác vô tận của nghệ sĩ; nhất

là đối với những ai đã từng trải qua chiến tranh và

ngục tù, hay chứng kiến sự thăng trầm của đất

nước, có lẽ khó mà quên được những mất mát,

chia ly, đổ vỡ. Từ trong sâu thẳm của nỗi buồn,

vết hằn quê hương đã bật lên cung bậc chất chứa

những đau thương minh họa bằng hình nốt, tiết

tấu gieo thành bản hòa tấu mang chung giai điệu :

«Tiếng nấc nghẹn của tâm hồn!»

Hành trrình vào cõi thơ là làm một cuộc phiêu lưu

vô tận. Thơ bắt nguồn từ cảm xúc tâm hồn, nơi ẩn

chứa những mối tình thiêng liêng sâu kín nhất.

Phải chăng làm thơ là đi giữa cõi mộng và thực

để đời trổ nhánh đâm hoa và đưa thực vào mộng

cho hồn vơi đi những nỗi đau trần thế.

Thi nhân nặng nợ với tình thơ nào khác chi kiếp

tằm nhả tơ ? Người nghệ sĩ ước mơ lớn nhất của

họ là để lại cho đời dăm ba tác phẩm, hay ít bài

thơ đắc ý. Dù mai sau tác giả có đi vào quên lãng

thì những vần thơ trác tuyệt đó cũng dệt cho đời

những đóa hoa muôn sắc. Hồn thơ tựa làn khói,

mùi hương; mà hương thì vô ảnh người đời chỉ

cảm nhận chứ không thấy được hình tướng.

Nhưng ngay cả lúc hữu hình, hồn thơ hóa thể

thành sợi khói, vầng mây…chúng ta đều nhìn

thấy nhưng nào ai nắm bắt được ? Phải đợi đến

lúc con tim rung cảm thúc đẩy, hồn thơ nhập vào

thi nhân thơ mới bật. Thơ vốn sãn trong thiên

nhiên, hàm chứa nhiều tính chất trong trời đất.

Ngôn ngữ của thơ đôi khi ẩn trong văn, nhạc và

hội họa, nhưng hình ảnh và nhạc điệu của ngôn

ngữ thơ lại rất khác với văn xuôi mà chỉ có những

tâm hồn thơ mới cảm nhận được.

Bước vào cõi thơ là lắng nghe tiếng đời thỏ thẻ,

tiếng lòng thi nhân khát vọng. Tùy theo tâm cảnh,

cảm xúc, tư duy về đối tượng mà sắc màu trong

mỗi tâm hồn nghệ sĩ cảm nhận có thể khác với

màu sắc ngoài thiên nhiên khi diễn tả. Thi hào

Nguyễn Du đã giải bày qua câu thơ Kiều:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! “

Ngôn ngữ của thơ đôi khi ẩn trong văn, nhạc và

hội họa, nhưng hình ảnh và nhạc điệu của ngôn

ngữ thơ lại rất khác với văn xuôi mà chỉ có những

tâm hồn thơ mới cảm nhận được. Nhà thơ không

làm công việc của nhà lý luận, nhà khoa học, nhà

thần học hay triết gia…để tìm cái mới lạ trong thế

giới hiện hữu, cái huyền bí của vũ trụ..vv..nhưng

thi nhân có thể sống với tôn giáo, luân lý qua tâm

linh để phát hiện thêm lẽ đạo của cuộc đời, và

sống triết qua thơ ? Thi sĩ Bùi Giáng đã thở bằng

thơ trong bài đi vào cõi thơ, thi sĩ minh họa : «

…Cõi thơ là cõi bồng phiêu ».

Nhập vào thơ là sống trong cõi phiêu bồng.

Cây khô cành mục làm sao có thể nở hoa? Thơ

cũng thế chỉ nở rộ ở những tâm hồn nghe được

tiếng thở của con tim và biết cách diễn tả. Nhưng

Page 45: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 43

nghe được mới chỉ là cảm nhận giữa người và thơ

cùng có chung một tần số. Muốn diễn tả những

rung cảm đó qua thơ cần phải có thi hứng, mà thi

hứng là do thiên phú, nhưng từ thi hứng đến nghệ

thuật là bước khá dài, đòi hỏi nhiều nghiên cứu

học hỏi. Thơ có thể là vần hay không vần, nhưng

đó chỉ là một trong những chất liệu dự phần của

cấu trúc trong quá trình hoàn thành thơ. Một

chuỗi câu, nhóm từ, cắt ráp kiểu tiền chế được kết

lại, nếu chỉ dựa vào vần dễ biến thành bài vè. Và

một số câu , nhóm từ không vần nếu không có

các yếu tố khác phụ thêm để hoàn chỉnh thơ, cũng

biến thành đọan văn xuôi thiếu mạch lạc và trong

sáng.

Thơ và nhạc là hai nghệ thuật riêng biệt nhưng

rất khắn khít nhau làm say đắm lòng người. Thơ

là nghệ thuật của «lờì», nhạc là nghệ thuật của

«âm thanh». Trong thơ có chứa:Tư tưởng, triết lý,

tôn giáo, hội họa, âm nhạc… ngoài những chất

liệu như ngôn từ, hình tượng, vần điệu, niêm luật,

ẩn dụ, hoán dụ…trong cấu trúc để hình thành nên

thơ, riêng thơ Việt Nam và thơ Trung Hoa còn có

thêm chất họa và nhạc.

Âm nhạc là một môn nghệ thuật dùng âm thanh

làm ngôn ngữ để diễn đạt tư tưởng và tình cảm

con người. Ngày nay người ta còn dùng âm nhạc

trị bệnh tâm thần(musicothérapie).

Nghe những giai điệu dìu dặt khoan thai người

thưởng lãm có cảm giác lạc vào cõi thiên thai, thơ

mộng. Riêng thơ chưa có một định nghĩa nào là

mẫu mực, « người ta chỉ cảm thơ là một môn

nghệ thuật của nghệ thuật, phát xuất từ cảm xúc

tâm hồn. »

Nói đến ca khúc, người ta thường có thói quen

nghe nhạc qua cảm âm dựa trên lời ca mà ít chú ý

đến thẩm âm, phần cấu trúc gồm giai điệu, tiết

tấu, hay cách phối khí hòa âm vv… . « Thơ phổ

nhạc là nghệ thuật đem thêm âm hòa với âm

thanh sãn có trong thơ, hoặc thay đổi âm thanh

của thơ chuyển thể thành những nốt nhạc để hát.

Nhưng đọc thơ, hát thơ hay còn gọi là ngâm thơ

hoàn toàn khác với nhạc thơ. Ðọc và hát thơ

không cần áp dụng những quy tắc kỹ thuật cũng

như mỹ thuật quá phức tạp của âm nhạc, vì nhạc

trong thơ là những âm phát từ thanh bằng trắc của

câu thơ ; trong khi thơ trong nhạc hay còn gọi là

tính nhạc gồm những hình tượng, ngôn ngữ được

ngắt nhịp theo tiết tấu riêng để diễn tả giai điệu

toàn bài chuyên chở tứ thơ.

Thơ hiện diện trong mọi thời đại, vào thời ly loạn

xa xưa thơ đã giãi bày nỗi niềm của người thiếu

phụ tiễn chồng ra sa trường rồi trở về sống với

nỗi cô đơn phòng vắng, phải gánh chịu bao đau

thương ngậm ngùi ! Trong tác phẩm Chinh Phụ

Ngâm của Đặng Trần Côn và ĐoànThị Điểm là

những áng thơ đẹp đã diễn tả về tâm cảnh ấy. Thi

nhân đã dùng ngôn ngữ hình tượng họa lên một

bức tranh tuyệt tác:

“..Ngoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.”

Thơ tình là thể thơ dễ làm nhưng khó hay ! Bài

thơ tình được đời khen là tuyệt vời rất khó, bài

thơ phải đạt cả nội dung lẫn hình thức.

“Em về mấy thế kỷ sau

Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không? ”

(Bùi Giáng)

Không phải lúc nào thi nhân cũng làm thơ trữ tình

êm ả, thổn thức lời dịu ngọt chuyện lứa đôi hạnh

phúc hay đau khổ, nhưng đời mà thiếu Tình như

trái tim thiếu máu, tách thơ trữ tình ra khỏi thi

nhân thì nhà thơ chỉ còn là cành khô, lá úa! Thơ

tình “lứa đôi” là những trái mộng đầu đời ai cũng

có thể hái, chắt chiu kỷ niệm, gom nhặt cảm xúc

trang trải lên trang giấy học trò thành nhiều bài

thơ tình có bài hay, có bài dở, nhưng thiếu tính

độc đáo, cho nên thời gian đã gạn lọc rồi mang

những cảm xúc thơ ấy bay theo gió về một cõi

mơ ! Để thành một bài thơ tình xuất sắc, độc đáo

rất khó ! Cái khó ở đây cả nội dung lẫn hình thức.

Ở tuổi mới lớn những tâm hồn mơ mộng có thể

làm được nhiều thơ tình đầy cảm xúc nhưng nặng

chất học trò. Người làm thơ chưa đủ ngôn ngữ

chắt lọc, hiểu biết sâu rộng về cấu trúc thơ để có

thể diễn đạt được những cái hay cái đẹp của thi ca

vào trong cõi tình. Có người cắt xén những ca từ

của những nhạc phẩm hoặc cóp nhặt những mẫu

chuyện tình trong các tiểu thuyết Âu Á, hay của

những bài thơ khác rồi cắt dán, vá víu gọi là sáng

tạo?! Trong muôn vàn bài thơ tình làm từ thuở

học trò cũng chỉ có một số ít bài hay đã đến với

giới thưởng ngoạn, và số ít người làm thơ đó

chính là thi sĩ với những bài thơ tình mang tính

độc đáo. Để diễn tả thơ tình người làm thơ

thường dùng nhiều thể thơ khác nhau, nhưng với

lục bát hay ngũ ngôn dễ kể lể hơn. Loại thơ ngũ

ngôn tứ tuyệt rất khó diễn đạt vì quá ít chữ và

câu lại ngắn nên nhà thơ thường dùng thể thơ 5

chữ nhiều đoạn để diễn tả. Thể thơ này dễ làm

nhưng lại khó diễn tả hay vì điệp ngữ, trùng ý !

Do đó nhà thơ phải chọn chữ lồng ý để mạch thơ

được liên tục không lập lại những ý, câu chữ ở

những đoạn trên. Một bài thơ được làm ra từ

hứng cảm nhiều khi nhà thơ không mấy chú trọng

hoặc cố y mang những chất liệu âm nhạc hội họa

Page 46: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 44

tư tưởng vào thơ, nhưng trong thơ vẫn có, vì

những môn nghệ thuật ấy đã được nhà thơ học

hỏi, hoặc cảm nhận từ lâu. Nó đã in sâu vào tiềm

thức của nhà thơ, và khi làm thơ dù không cố

tình nó vẫn tuôn ra theo mạch cảm hứng của thơ.

Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp viết bài Chùa Hương

năm 1934 là bài thơ tình xuất sắc. Nhà thơ diễn tả

tâm trạng người thiếu nữ ở tuổi chớm dậy thì của

đầu thế kỷ 20 trước, thời đó xã hội còn nặng chất

phong kiến, trai gái chưa dám đối diện tỏ tình, thế

mà cô bé mười lăm đã dám thỏ thẻ tiếng lòng khi

gặp tiếng sét ái tình. Bài thơ được lồng trong

phong cảnh đẹp nửa tiên nửa trần thật tuyệt vời.

Hai câu chót của bài thơ diễn tả cái tâm đích thực

của tình yêu qua lời nguyện cầu. Nàng chẳng cầu

xin khỏe mạnh, giàu có tiền tài hay học hành tấn

tới, mà chỉ xin: « Sao cho em lấy được chàng».

Bài thơ này về sau đã được bao nhạc sĩ phổ thành

nhạc còn truyền tụng mãi đến hôm nay. Vì bài

thơ dài, xin minh họa vài nét :

Chùa Hương

Hôm nay đi chùa Hương.

Hoa cỏ mờ hơi sương

Cùng thầy me em dậy.

Em vấn đầu soi gương….

Em tuy mới mười lăm

Mà đã lắm người thăm…

Nhưng em chưa lấy ai,

Rằng em còn bé lắm,

Ý đợi người tài trai…

Phơn phớt áng mây hồng.

Giòng sông nước đục lờ.

Ngâm nga chàng đọc thơ!

Thầy khen hay, hay quá!

Em nghe ngồi ngẩn ngơ.…

Em đi, chàng theo sau,

Em không dám đi mau,

Ngại chàng chê hấp tấp,

Số gian nan không giàu…..

Ôi! Chùa trong đây rồi!

Động thẳm bóng xanh ngời.

Gấm thêu trần thạch nhũ,

Ngọc nhuốm hương trầm rơi…

Làn gió thổi hây hây.

Em nghe tà áo bay,

Em tìm hơi chàng thở!

Chàng ôi, chàng có hay?...

Ngun ngút khói hương vàng,

Say trong giấc mơ màng,

Em cầu xin Giời Phật

Sao cho em lấy chàng.

Trong khi đó thơ tâm linh là một loại thơ ẩn chứa

ý tưởng huyền bí cao siêu, ngôn ngữ thơ chân

phương nhưng sâu sắc. Về lãnh vực tâm linh,

ngay cả những vị chức sắc, cao tuổi trong tôn

giáo mà vẫn còn đang nghiên cứu học đạo ; thì

người làm thơ làm sao diễn đạt được sự huyền bí

cao siêu về tâm linh ? Một khi chưa hiểu hay

không hiểu được những kỳ bí trong con người và

vũ trụ thì không thể cảm được lẽ đạo để biến

thành nghệ thuật thi ca ? Trừ phi nhà thơ đó là

người chịu khó nghiên cứu đạo, uyên thâm tư

tưởng, hoặc được thượng đế ban cho một cảm

nhận đặc biệt như «Mở Huệ Nhãn» bên Phật

Giáo, và «Mặc Khải Hồng Ân» bên Thiên Chúa

Giáo..vv…

Thời nào cũng vậy người đi học, đỗ đạt thì nhiều

nhưng kẻ sĩ thì hiếm ?! Nhất là khi đất nước có

chiến tranh hay bị giặc ngoại xâm, chỉ có kẻ sĩ

mới dám dấn thân và lên tiếng. Thơ quê hương

đất nước luôn bàng bạc trong mỗi con người, tùy

theo thời thế hoàn cảnh đã tác động sự rung cảm

của thi nhân. Thi sĩ Tản Đà đã trải tấm lòng qua

bài thơ đầy tình tự quê hương:

“Nước non nặng một lời thề

Nước đi đi mãi không về cùng non...”

(Thề Non Nước)

Thơ nhập vào hồn thiêng sông núi, chuyển biến

theo vòng thế sự, hòa với sự thăng trầm của dòng

lịch sử dân tộc. Hồn thơ hừng hực như hỏa diệm

sơn, cuồn cuộn thác lũ, ý thơ sắc bén như ngàn

gươm đao, mạnh hơn vạn quân. Bài thơ là ngọn

lửa kích động tinh thần yêu nước, là ý chí đấu

tranh chống ngoại xâm. Xưa danh tướng Lý

Thường Kiệt đã viết bài Nam Quốc Sơn hà như

một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc:

« Nam quốc sơn hà nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. »

Dòng lịch sử thế giới ghi lại, có một thời dấu vó

ngựa của đoàn quân Mông Cổ đã tung bụi mờ

khắp muôn dặm, làm bạt vía trời Âu Á . Thế giặc

thuở đó như sóng vỡ tiến vào nước ta, vua tôi nhà

Trần một lòng giữ nước quyết chống ngoại xâm.

Hưng Đạo Vương đã soạn ra một quyển binh thư

Yếu Lược. Bài Hịch Tướng Sĩ, vua tôi nhà Trần

đã cùng nhau một lòng đẩy lui được đoàn quân

ngoại xâm.

Bài Bình Ngô Đại Cáo của thiên tài Nguyễn Trãi

không những là khúc ca hùng tráng của dân tộc

mà còn làm rạng rỡ nền văn học cổ điển nước

nhà:

“Tốt năng dĩ đại nghĩa, nhi thắng hung tàn,

Page 47: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 45

Dĩ chí nhân, nhi địch cường bạo.”

(Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân mà thay cường bạo.)

Ngày xưa tráng sĩ Đặng Dung đã giải bày tấm

lòng trung liệt qua câu thơ đầy khí tiết:

“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.”

(Thù chưa trả xong đầu đã bạc,

Dưới trăng bao độ tuốt gươm mài.)

Thi sĩ Nguyễn Bá Trác mang nỗi sầu đất nước đã

gởi tâm sự mình qua bài Hồ Trường:

“…Vỗ gươm mà hát

Nghiêng bầu mà hỏi

Thiên hạ mang mang ai người tri kỷ

Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.…

Nào ai tỉnh nào ai say ?

Chí ta ta biết, lòng ta, ta hay…. »

Nhiều khi thi nhân bị người đời gán cho là những

kẻ thương vay khóc mướn, điều ấy có quá khắt

khe chăng; vì nhà thơ nào phải là tượng đá? Hồn

thơ sẽ xanh rêu chết yểu nếu chẳng còn rung cảm

trước những biến đổi buồn vui của ngoại cảnh để

hòa với nhịp sống thiên nhiên, chia sẻ nỗi đau

của tha nhân, hay tự xoa dịu niềm đau của chính

bản thân mình? Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã tả về

đất nước và thân phận những con người trước

sóng nước hãi hùng của biển cả vào giai đoạn

giữa thế kỷ 20 qua bài Phương Xa :

«.. Lũ chúng ta, đầu thai nhầm thế kỷ

Một đôi người u uất nỗi trơ vơ,

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị

Thuyền ơi thuyền ! xin ghé bến hoang sơ…»

Có nhiều khi thơ là tiếng uất nghẹn, lời than từ

đáy ngục tù, nơi giam hãm những tâm hồn yêu tự

do. Thơ là nơi trú ngụ của những tâm hồn đau

khổ, là tiếng vọng vào đời ngân lên tiếng nói chân

chính của con tim để giải oan cho những tâm hồn

thanh cao bị bạo lực truy bức đến chỗ khốn cùng!

Nhờ có thơ thi nhân trong thân phận người tù đã

nương vào con chữ tìm chỗ dựa để hồn chấp cánh

bay cao thoát vực sâu đầy tối tăm! Dù trong mọi

hoàn cảnh, kể cả lúc nghiệt ngã nhất thơ và thi

nhân vẫn là bạn đồng hành chia xẻ những buồn

vui. Thơ như dòng suối mát giúp tâm hồn thi

nhân vượt thoát những sầu muộn. Nhà thơ chân

chính luôn có tâm hồn thanh cao độ lượng nên đã

biết yêu thiên nhiên và đồng loại. Nhà thơ Hà

Thượng Nhân dù ở trong cảnh ngộ tù đày khốn

cùng, vẫn hát tiếng hát tình nguời :

« Chúng ta đói khổ cách nào

Nắm tay chấp cái gian lao vẫn cười

Mùa xuân cây cỏ xanh tươi

Xác tù, lòng vẫn lòng người tự do.

Chia nhau từng hạt bo bo

Thương mình nghĩ lại thương cho kẻ thù

Mình tù hay họ là tù ?...”

(Xuân Trong Tù)

Ngục tối có thể giam hãm xác thân người tù

nhưng ngục tối không thể giam hãm được tâm

hồn, ý chí những người bất khuất. Từ những đau

thương thi nhân đã diễn tả những xúc cảm đó

thành những ngọn lửa hừng hực cháy trong lòng

người tự do. Ngày nay thơ là bạn đồng hành với

những người xa xứ. Thơ chia xẻ niềm đau, nổi

nhớ và sự cô đơn diễn tả tâm trạng kẻ xa quê,

nhưng chốn phồn hoa đầy vật chật đã dần làm

khô héo đi tính lãng mạn, phải nặng nợ với tình

thơ lắm thi nhân mới ôm cái nghiệp dĩ vào thân

lắng hồn mình vào ngoại cảnh để thấy hoa cười

trong nắng mai, sợi buồn giăng cỏ úa, và nghe cả

tiếng thở dài của thời gian. Nhà thơ Phương Triều

mang kiếp ly hương, thấm nỗi sầu viễn xứ ngẫm

chuyện thế nhân và ngậm ngùi nhìn xuân trôi, thi

sĩ đã để hồn thơ lai láng hòa nhập trong ngữ

nghĩa theo nhịp con tim, khéo léo trong cách sử

dụng con chữ như những tiếng thì thầm vọng từ

một cõi mơ để diễn tả cái chiều sâu của bài thơ

mà không chú trọng về mặt chải chuốt, bóng bẩy

làm đẹp ngôn từ, nhưng lại rất tỉ mỉ khi chọn

nghĩa ngữ, và sắp xếp câu thơ thành một thông

điệp riêng của tiếng lòng gởi tặng đời. Thơ của

ông là một thế giới riêng biệt. Nhà thơ khéo sử

dựng nhạc tính trong thơ bằng một lối gieo vần

ngắt nhịp ghép từ qua những âm kép làm giai

điệu thêm phong phú. Ngôn ngữ trong thơ là

những hình ảnh thắm màu sắc quê hương bao

gồm những đau thương lẫn mật ngọt của quá khứ

thêm chút hiện thực ê chề. Tác giả đã vẽ lên chân

dung của những mảnh đời vỡ vụn qua bài Nghĩa

Trang, trích trong Xóm Mộ đã diễn tả cảnh khốn

cùng, nỗi cơ cực. Hình ảnh nhiều loài động vật

được sử dụng lối ẩn dụ, để ẩn dấu, hoán vị nhiều

cảnh đời khác nhau : Mưa ở đây là điều mong

một sự thay đổi, vì ở nghĩa trang đầy mộ bia làm

sao đào giếng ? Như thế là thiếu nước ! Đất Nước

và tình cảm gắn bó của người Dân đã hình thành

tổ quốc, thiếu nước người dân như bị lạc loài trên

chính quê hương mình. Cơn mưa không đến

trong mùa nắng hạn theo nghĩa mong chờ, mà

Page 48: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 46

mưa gió đã làm ướt sũng những thân phận nghèo,

những căn lều rách giăng bằng bao cát, làm tái tê

buốt phận nghèo ! Mưa ở đây làm mát tâm hồn.

Chuỗi từ: Ngầu mắt đỏ, diễn tả bạo lực chỉ muốn

cắn những kẻ khố rách!:

« Nửa đêm bất chợt mưa qua xóm

Gió dẫn bầy mây đứng sắp hàng

Sói giọt nước buồn trên đất bạc

Lùa thêm ẩm lạnh góc điêu tàn !

Hạ nồng cho tóc khô như rạ

Chiếc võng đu đưa sầu nghĩa trang,

Mưa ơi, lều bạt dù tan nát

Lòng vẫn thèm mưa giữa nát tan !

Con chó nhà ai ngầu mắt đỏ

Cắn đen thi thể buổi hoang tàn

Đám tang không có người ai điếu

Người chết nằm quên hết họ hàng !

Người chết hôm qua còn hát dạo

Ru đời mưa gió giữa lang thang

Người đó đêm qua say ngất ngưởng

Vung tay đấm ngực rồi cười khan !

Người đó hôm nay không hát nữa

Trợn trừng mắt đợi chút hương nhang !...

Nè em, đào giúp ta phần mộ

Ta dẫu người dưng cũng họ hàng

Nếu chẳng con Hồng thì cháu Lạc

Lều rách cùng nhau xóm nghĩa trang

Ông già vé số, cô chè đậu

Chia chút tình riêng chú lễ tang!... »

( Nghĩa Trang )

Tâm trạng người tha hương não nề. Hồn quê đã

gắn chặt vào kẻ xa xứ nên không hình ảnh nào

của quê người có thể thay thế được. Từ ngàn xưa

cho đến nay dòng sông thi ca nhân loại vẫn trôi

theo tháng ngày dù có lúc thăng trầm, khi vinh

quang thơ được mùa ngự trên đỉnh cao chót vót,

nhà thơ được yêu qúy ca ngợi, nhưng đến lúc suy

thơ và thi nhân rơi xuống tận đáy vực sâu; người

đời bỏ quên, ruồng rẫy! Ở Trung Hoa vào thời đại

Tần Thủy Hoàng xa xưa, bạo chúa đã đốt sách,

chôn sống văn nhân, ở Việt nam dưới chế độ Xã

Hội Chủ Nghĩa, nhà nước vì muốn kiểm soát chặt

chẽ tư tưởng quần chúng nên cấm đoán những tác

phẩm viết từ những trái tim chân chính, nhiều văn

nghệ sĩ đã bị cấm viết, và tù đày! Bách hại thế mà

nhà thơ muônđời vẫn nặng gánh tình thơ chẳng ai

muốn quăng bút cho nhẹ gánh. Phải chăng trên

đời nếu không có nghệ sĩ thì ai cảm được sự màu

nhiệm tuyệt vời của thiên nhiên mà phổ biến? Ai

chia xẻ nỗi buồn của tha nhân?...vv.. Ở cõi nhân

gian đầy hệ lụy này thi nhân đóng một vai trò tích

cực trong cuộc sống; ngay cả khi đã qua đời

những áng thơ văn tuyệt tác đó vẫn có thể giải

buồn hoặc làm điểm tựa tinh thần nâng cao ý chí

với những người đồng điệu hằng thế kỷ sau, và sự

đồng cảm là sợi giây nối giữa ngươì ngàn xưa với

ngàn sau. Tâm hồn thi nhân rất phong phú, cảm

xúc nhạy bén nên hòa nhịp niềm đau của tha nhân

bằng nghệ thuật, vì thơ còn là nơi trú ngụ của

những tâm hồn thanh cao. Nhà thơ đã cảm

nghiệm bằng chất liệu sống để diễn tả cảnh đời

với chút thực, chút hư thành những mảng màu sắc

riêng biệt qua ngôn ngữ hình tượng của thơ. Nhà

thơ đã từ cái thực của cuộc đời đi vào cái mộng

của đam mê để cuộc đời thăng hoa. Chỉ có cảm

xúc chân thật mới có thể diễn tả bằng nghệ thuật,

ngược lại nghệ thuật khơi mở cảm xúc chân thật.

Nhà thơ Phùng Quán đã dùng ngôn ngữ chân

phương, không văn hoa chau chuốt để diễn tả cái

tâm qua từng câu chữ, dựa trên thanh âm để tạo

nhịp. Bài thơ chứa nhạc tính mang chất hùng ca,

ý tưởng bài thơ sâu sắc, như một thông điệp cho

đời về tính trung thực của con người với tha nhân

không chịu khuất phục trước bạo lực. Bài thơ Lời

Mẹ Dặn đăng trong Nhân Văn Giai Phẩm, xin

trích vài đoạn:

«Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều,

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao doạ giết

cũng không nói ghét thành yêu..

Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi

tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã.

Bút giấy tôi, ai cướp giật đi

Tôi sẽ viết văn trên đá. »

(Lời Mẹ Dặn)

bài thơ này đã vượt thời gian thành một bài học,

phương châm sống cho đời, hay ít ra cũng làm

thước đo cho những kẻ cầm bút chân chính. Sau

này, nhiều nhà văn trên thế giới dù bị bạo quyền

áp bức vẫn dũng khí dõng dạc chống trả đòi tự do

và quyền làm người mà không hề run sợ. Ngày

nay thế giới đã lưu tâm hơn đối với người cầm

bút, và quốc tế đã dành cho nhà văn những giải

thưởng văn chương Nobel vinh dự. Ở những thế

kỷ trước Nguyễn Du đã nói : «Chữ TÂM kia mới

bằng ba, chữ TÀI.».

Trong vườn Thi Ca Việt Nam của đầu thế kỷ

trước, khuynh hướng Đường thi dần suy tàn,

nhường chỗ cho phong trào lãng mạn của thơ mới

Page 49: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 47

1932- 1945 nở rộ, ảnh hưởng của dòng thơ lãng

mạn Pháp khởi từ đầu thế kỷ 19. Thơ mới phá bỏ

đi những luật lệ cấu trúc gò bó của thơ cũ, mà

hướng về cái nhìn thẩm mỹ theo tư duy nghệ

thuật, điều đó đã dẫn đến sự thông thoáng hơn,

mở đường cho các thể thơ tự do, hiện đại sau này.

Những nhà thơ của thời kỳ ấy đều là những tài

năng xuất chúng, sáng tạo bằng con tim, trong số

đó có Tố Hữu và một ít người khác, bắt đầu bằng

sự nghiệp cầm bút đã nổi danh là thi sĩ có tài, và

có những bài thơ hay. Từ những vần thơ trữ tình

cách mạng thời kỳ chống Pháp trước năm 1945,

dòng thơ Tố Hữu vẫn mang tình người, đậm tình

quê hương đất nước. Nhưng kể từ sau năm 1945

nhà thơ Tố Hữu đã đã đánh mất tính Chân Thật

của con tim thi sĩ để trở thành «máy hót», chỉ biết

ca tụng, làm một thứ công cụ tuyên truyền của

Đảng CS, tâm hồn ông mang tính đảng nên yêu

đảng hơn tất cả ! Ông và bộ máy đảng sản xuất ra

hàng loạt câu nói vần, biến những câu vè thành

khẩu hiệu mang tính đại chúng để thi đua lập

công, hò hét sắt máu !

Từ một nhà thơ, sống trong một cõi riêng, một vũ

trụ nhỏ để phụng sự cái chân, thiện, mỹ cho đời

bằng tình yêu quê hương, nhân loại, nhưng ông

đã khước từ cái thế giới của thi ca, dành hết tâm

hồn phục vụ đảng và quyền lực ; để trở thành

«cán bộ» thi đua! Tiếc thay, trong vườn hoa văn

học nghệ thuật chỉ có những tâm hồn chân chính

cảm xúc mới chân thật tạo hồn cho Nghệ Thuật.

Những kẻ thích nổi tiếng bằng cách luồn lách,

dẵm trên bằng hữu mà vươn, thì dù có được nổi

tiếng thì cũng chỉ là tiếng đời mai mỉa! Còn

người có tài mà uốn cong ngòi bút ; cũng chỉ là

những vì sao loé lên, sáng chói rồi tắt lịm trong

vòm trời thi ca Việt Nam khi dòng thơ vẫn chảy

muôn đời.

Đỗ Bình

THƯ LONG

Ngay khi kỹ thuật chế tạo giấy gần như hoàn

chỉnh thì giấy được áp dụng vào đời sống thực

tế.Ở Trung Quốc người ta bắt đầu thay thế bài

xương bằng bài giấy, được gọi là bài lá, phổ biến

rộng rải vào khoảng thế kỷ XII và đến thế kỷ XIII

bài lá mới thấy có mặt ở châu Âu.Vào thời nhà

Đường, người Trung Quốc gọi bài lá là Diệp tử,

đời Minh, Thanh việc chơi bài lá trở nên thịnh

hành. Trong bài viết “Nguồn gốc bộ bài chòi” tác

giả Huỳnh Ngọc Trảng-Nguyễn Đại Phúc cho

biết: “ Diệp tử có hai loại: 1 Diệp tử in theo

điểm số của bài xương in ra, ở giữa in một số

hình tượng nhân vật trong Hí khúc hoặc Thủy Hử

(đây là thứ phiên bản của bài xương, nhưng nhờ

đổi từ xương sang giấy nên phổ biến rộng rãi hơn

bài xương vì dễ chế tác, giá thành thấp); 2 Loại

thứ hai là Mã điếu diệp tử: làm bằng giấy, rộng 1

tấc, dài 3 tấc (tấc khoảng 3cm) dùng nhiều lớp

giấy bồi rôi in lên. Loai bài này có 40 lá, hoa

sắc hình họa chia làm bốn môn pho…”

Bốn môn/pho ấy là pho Thập tự có 11 lá (có vẽ

Tống Giang, Võ Tòng, Nguyễn Tiểu Ngũ,

Nguyễn Tiểu Thất, Chu Đồng, Hổ Tam Nương,

vv. Pho Vạn tự có 9 lá (cũng có hình họa nhân vật

trong truyện Thủy Hử như Lôi Hoành, Sách Siêu,

Tần Minh, Sử Tiến, Quan Thắng, Hoa Vinh, Yến

Thanh). Pho Sách tự có 9 lá , trên lá 3 lá bài từ lá

Cửu sách đến lá Thất Sách có vẽ các quan tiền,

như Cửu Sách vẽ 4 chồng hai quan tiền và 1 quan

nằm riêng; từ lá Lục Sách đến lá Nhất Sách, theo

thứ tự, có hình 2 cây cầu trên bộ dưới nước, rồi lá

Ngũ Sách hình như quẻ Cấn, Tứ Sách có hình hai

vòng ngọc, Tam Sách hình như là chữ phẩm, Nhị

Sách hình như quẻ Chấn và Nhất Sách hình như

cái chĩa. Pho Văn tiền có 11 lá có hình đồ hình

như hình hoaa quả (lá Bán Văn), hình Thái cực

(lá Nhất tiền), hình cái trống “yêu cổ” (lá Nhị

tiền), v.v.

Bài Mã Điếu (4 môn/pho) xuất hiện từ niên hiệu

Vạn Lịch đời Minh, đến đời nhà Thanh thì cải

biên thành bài Mặc Hòa, Đấu Hổ, Chỉ Trương chỉ

có 3 môn/pho là Vạn tự, Sách tự, và Văn tiền. Dò

theo đường phát triển của bài Mã điếu xuôi về

phương Nam, bộ bài “Tiền Thẻ” có mặt ở Quảng

Châu (thủ phủ của Quảng Đông) và nhiều ảnh

hưởng của nó trong phiên bản của bộ bài Tổ Tôm

ở Việt Nam. Tổ Tôm được nhiều yêu thích, nhất

là giới quý tộc, giới trung lưu có của ăn của để và

giới nho sĩ.Vào cuối thế kỷ XVII, trong Thượng

Kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông có nói đến

chuyện vua quan ở kinh đô mê mệt với cỗ bài Tổ

Tôm. Tại Việt Nam lại có sự phân hóa, Tổ Tôm

chơi với bộ bài Tiền Thẻ với 120 lá với cách chơi

rất giống “Khán Ù” ở miến Bắc, còn ở miền

Trung và miền Nam chơi với bộ bài Tiền Thẻ gốc

với 60 lá và tên các quân bài cũng được Việt hóa.

Page 50: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 48

Về bộ bài Tổ Tôm, nhiều nhà nghiên cứu cho

rằng đó là một bộ bài đặc trưng của người Việt

Nam.Các hình họa trên lá bài không theo môtíp

quen thuộc của người Trung Quốc mà lại là môtíp

của người Nhật Bản để mô tả sinh hoạt dân gian

đương thời của Việt Nam vào thế kỷ XV đến thế

kỷ XVIII. Các hình minh họa trong bộ bài Tổ tôm

gồm:

- 18 người đàn ông, những người đàn ông này đại

diện cho các ngành nghề lao động như bốc vác,

xe kéo, xe keo, cuốc,vồ, cà kheo, dây thừng, gậy

gộc,vv. Trong số 18 người này có 4 người bó

chân đại diện tầng lớp lao động ở đô thị.

- 4 phụ nữ (đều bó chân) được thể hiện là một

phụ nữ bồng con trong lá Thang Thang (lá Yêu ở

môn/pho Sách), mỹ nữ ở lá Nhất Văn, người

chăm sóc tư gia- lá Tứ Sách, và bà chủ gia đình,

ngậm tẩu ngồi lê nhàn hạ – lá Bát sách.

- 4 trẻ em (1 bó chân, thuộc tầng lớp quấn chân

đại diện cho lớp người lao động mới phát triển ở

đô thị ).

- 4 hình mang dấu hiệu cát tường như Cá chép

(Koi), Thành (shiro), Trái đào (momo) ở lá Nhị

vạn khi thấy nó những tay chơi bài nho nhã chữ

nghĩa đọc câu Kiều – Dấn thân đến bước lạc loài

Nhị đào thà bẻ cho người tình chung, và Thuyền

(fune) thường được nghe ngâm nga câu Kiều -

Thuyền tình vừa ghé tới nơi Thì đà trâm gẫy,

bình rơi mất rồi (lá Ngũ Vạn).

Bài có kết cấu như bài Tiền Thẻ, gồm ba hàng

gồm hàng Văn (tiền xu, tiền lẽ đại diện cho tầng

lớp dân đen, nghèo ít tiền), Sách (có nghĩa là dây,

chuỗi tiền ám chỉ đến tầng lớp trung lưu), Vạn (là

mệnh giá lớn nhất của tiền thời đó, nhằm phản

ảnh tầng lớp thượng lưu, giàu có có chức tước và

thế lực trong xã hội).Mỗi hàng có những lá bài từ

1 đến 9 và mỗi môn/pho có thêm 1 lá Yêu (hay

còn gọi là Quái).Lá Yêu ở môn/pho Văn thường

được gọi là Chi Chi, ở Sách gọi là Thang Thang,

ở Vạn là Ông Cụ (hay Ông Trùm, chỉ người đứng

đầu một phường nghề).Trên lá Yêu có đóng dấu

đỏ thường gọi là “hoa đỏ”, tuy nhiên lá Thang

Thang vẫn còn dáng dấp lá Hoa Trắng (ở bài Tiền

Thẻ) bởi vì đắc đỏ nhạt hơn. Ngoài ra những lá

trong hàng số 8 và 9 cũng được đóng dấu đỏ, như

ở lá Bát Vạn có hình tượng con cá chép, ngầm

nói đến lớp người đánh bắt cá, Bát Sách mô tả

một bà chủ trong xã hội mà buôn bán đang phát

triển, Cữu Vạn đại diện cho tầng lớp lao động qua

hình ảnh một người đàn ông bốc vác, Cữu Sách

có hình ảnh một người đi tuần, giữ gìn an ninh

trật tự. Phải chăng bốn dấu đỏ này muốn nhấn

mạnh đến sự phân chia mới của xã hôi trong giai

đoạn này. Tồng cộng 30 lá, toàn bộ bài Tổ Tôm

có 120 lá bài.

Điểm chú ý nhất là hình ảnh các nhân vật trong

những lá bài Tổ Tôm của Việt Nam lại có trang

phục “kimono” cho nữ, có quần áo nam giới và

cách bó chân của tầng lớp lao động ở trẻ em cũng

như người lớn của Nhật Bản thời kỳ Edo (1603-

1868). Tuy nhiên quan niệm về ‘số’ trong kết cấu

bộ bài lại không phải là của người Nhật, mà lại

của Trung Quốc. Chẳng hạn như Uông Trung

(đời Thanh) bàn về cách luận số cổ của người

Trung Quốc. Thời cổ lấy số lẻ là ‘dương’ tượng

trưng cho đất, số chẵn là ‘âm’ tượng trưng cho

trời. Số 9 là ‘số dương’ lớn nhất và cũng ngầm

hiểu nó tượng trưng cho hoàng đế và ngôi vị của

ông ta. Số 3 là ‘thành số’ do kết hợp ‘âm dương’

và yếu tố tạo nên thuyết ‘tam tài’ – thiên, địa,

nhân - trong văn hóa Trung Quốc. Cho nên mới

có các pho/môn Văn, Sách, Vạn trong bộ bài Tổ

Tôm. Còn người Nhật kiêng kỵ số 4 vì nó đồng

âm với từ ‘tử’ (chết), ta cũng không ngạc nhiên ở

một số bệnh viện Nhật không có số phòng 4, 14,

24, vv; và số 9 có âm giống như từ ‘đau khổ’, cho

nên không thể nào lại có 4 lá bài ‘cát tường’, 18

lá bài – bội số của 9 – cho 18 người đàn ông.Như

vậy có thể nói những luận điểm này chứng minh

Tổ Tôm là một kết hợp giữa hai nền văn hóa

Trung-Nhật ngay tại Việt Nam.

Sự lôi cuốn của Tổ Tôm rất mạnh ở miền Bắc kể

từ khi Tổ Tôm có mặt ở Việt Nam vào khoảng

năm 1750 -1800. Thời kỳ mà Đàng Ngoài và

Đàng Trong cùng nổ lực phát triển ngoại

thương.Ở Đàng Ngoài, người Hà Lan, Anh, Pháp

lập các thương điếm ở Kẻ Chợ; tại Đàng Trong

người Bồ Đào Nha, Anh và Nhật Bản mở các

thương điếm ở Faifo (Hội An). Lớp người giàu

có, văn nhân nho sĩ ở miền Bắc rất yêu thích Tổ

Tôm nên người ta còn truyền miệng- “Làm trai

biết đánh Tổ Tôm Uống trà Mạn Hảo, xem nôm

Thúy Kiều”. Những câu sáu tám kể đoạn đời gian

truân của Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tam

Thanh phổ biến trong nhân dân.Trà Mạn Hảo

(xuất phát ở xã Mạn Hảo nằm gần ga xe lửa trên

đường từ Lào Cai tới Vân Nam) là thứ trà ngon

mà giới trung lưu, thượng lưu và lớp người trí

thức hay uống.Say mê quá mức đâm ra khinh

Page 51: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 49

miệt một cách quá đáng những người không biết

chơi Tổ Tôm nên có câu ca dao nhại – Làm trai

không biết đánh Tổ Tôm Uống nước lá vối, xem

l… trẻ em.Như vậy giới đỗ bác đã đề cao Tổ Tôm

‘tít cung thang’.

Theo Đại Nam quấc âm tự vị – Huình Tịnh

Paulus Của thì “ bài Tổ Tôm là thứ bài nhiều môn

món, lấy bài Tới mà làm ra ”, nhưng trên thực tế

luật chơi Tổ Tôm khá phức tạp, đòi hỏi trí nhớ và

ứng phó linh hoạt đối với các diễn biến trong ván

bài. Nguyên bộ bài có 120 lá, nếu đủ tay thì phải

là 5 người chơi và mới phát huy được những

chiêu thức biến hóa của Tổ Tôm.Ba tổ hợp cơ bản

là Yêu, Lưng, Phu, người chơi phải thông qua

Phu và Lưng để làm tròn bài để Ù.Số lượng lá bài

trong một tổ hợp không hạn chế miễn sao tổ hợp

này có chứa ba lá chính yếu (vì thế được gọi là

Tụ Tam mà Nguyễn Công Trứ nhắc tới trong bài

thơ “Thú Tổ Tôm” - Nhân sinh quý thích chí

Cuộc ăn chơi chi hơn thú tụ tam Tài kinh luân

xoay dọc xoay ngang Cơ điều đạc quân ăn đang

đánh. Tác giả Huỳnh Ngọc Trảng – Nguyễn Đại

Phúc, trong bài báo nêu bên trên, giải thích hai

chữ “Tụ Tam” như sau: “Loại bài biến thể từ

Diệp tử mã điếu vốn được gọi là Tụ Tam (hiểu

theo nghĩa là luật chơi dựa vào sự tích hợp 3 con

bài ngang hay hàng dọc) được dân xứ Quảng gọi

theo ngữ âm đặc trưng của mình thành “Tổ Tôm”

.Chỉ có người Quảng mới có thể đọc “tam” thành

“tôm”. Nói cách khác, bài Tổ Tôm phải chăng

xuất hiện đầu tiên ở Quảng Nam, cụ thể là Hội

An, theo “maquette” của nhà tạo mẫu người

Nhật ở phố Nhật Bản Hội An thực hiện”.Tuy

nhiên một số khác lại cho rằng Tổ Tôm là ‘âm’

phái sinh từ cách nói lái, nói trại của người miền

Bắc, thí dụ như Tụ Tam có thể nói thành tú tàm,

tám tụ, tố tồm, tồm tộ, tổ tôm.

Ảnh hưởng Tổ Tôm sâu đậm trong sinh hoạt ở

miền Bắc đến gần cuối tiền bán thế kỷ XX, báo

Thời Mới thời ấy đã lấy ông Lục Vạn và bà Bát

Sách làm hình ảnh tiêu biểu cho giới tư sản, còn

đối với mọi người thì hình ảnh tả thực của hai

nhân vật này theo hình vẽ trên hai lá bài như sau:

“ …Buổi sáng nào trời đất âm u Anh Lục Vạn

vác mai đào huyệt Cuộc sống của anh nhờ vào

người chết Ngửa mặt xin Thượng đế động lòng”;

và “ Những quân bài đi qua như thể vô tình Anh

Cửu Vạn cả một đời vất vả Chị Bát Sách ngồi lê

nhàn hạ Thằng Chi Chi khệnh khạng theo hầu.”

(Cuộc đời những quân bài Tổ Tôm – Việt Phương

trong Một thời để nhớ- tuyển tập thơ mười tác giả

Canada, Nxb Vancouver - Người Việt Hải Ngoại,

2006) .

Trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và

nửa đầu thế kỷ XX cho thấy Tổ Tôm đã mê hoặc

rất nhiều người, thậm chí còn có những kiêng kỵ

trong sinh hoạt cuộc sống. Chẳng hạn hội Tổ

Tôm đám cưới, hội họp để ăn mừng trong gia

đình thì người ta kiêng ù Bạch Định (bài Ù không

có quân đỏ nào mà toàn quân trắng) vì nó có

nghĩa trắng tay, đổ vỡ, phá sản. Cón như nếu có

Thập Điều (bài Ù có 10 quân đỏ, số còn lại là

quân trắng) thì đó là điềm may mắn; trong đám

cưới thì là điều may mắn cho đôi trẻ. Trong đám

tang thì kiêng cử Ù “Kính Tứ Cố” (trong cây bài

Ù có bốn Ông Cụ đỏ) hoặc “Kính Cụ” (trong cây

bài ù có một lá Ông Cụ đỏ); còn nếu có hai hoặc

ba lá Ông Cụ đỏ thì không là “Kính Tứ Cố” hoặc

“Kính Cụ”.Dị đoan hơn nữa là lúc khâm liệm, có

gia chủ rải 120 lá bài Tổ Tôm trong quan tài với ý

là người chết sẽ có 120 quân theo hầu; nhưng có

khi ‘mê tín’ hơn thì họ sẽ rút ra những lá Chi Chi,

Thương Thương, Ông Cụ vì những lá này thuộc

hàng Yêu mang ý nghĩa yêu nghiệt, yêu quái và

những lá như Cửu Vạn (phu khuân vác), Tam

Sách (nghề liên quan đến sông nước), Tứ Sách

(nghề bưng bê) và Bát Sách (ăn không ngồi rồi

tán gẫu, ngồi lê đôi mách).

Tổ Tôm trong dịp lễ hội được dựng lên nơi khuôn

viên đình miếu của làng để mọi người vui chơi

thường được gọi là ‘Tổ Tôm Điếm’. Cũng có 120

lá ấy nhưng ngày nay được làm bằng nhựa cứng

chia đều cho 5 điếm (lều/chòi).Người trưởng

điếm trong nhóm người chơi ở trong điếm được

trang bị một cái trống và 6 lá cờ làm phương tiện

thông tin giữa những người chơi ở các điếm khác

hoặc rạp trung ương. Còn truyền miệng câu ca

dao - “Hội Lim ai thấy chẳng thèm Tổ tôm bài

điếm, giò nem thiếu gì Đồn rằng lại dệt cửi thi

Cao lâu trăm thức thiếu gì thức ngon ”.Tại chỗ

đất rộng để chơi Tổ Tam ‘ngoài trời’ người ta

dựng lên 5 điếm có trang hoàng đẹp đẽ, mỗi điếm

có thể chứa được đến năm người. Năm điếm này

bao chung quanh một rạp hay lều lớn ở giữa,

dành cho tổ trọng tài. Tổ trọng tài điều khiển cuộc

chơi như chia bài, rút nọc, phát hiệu lệnh bằng

trống cái, trao thẻ điểm, vv. Trọng tài xướng lên

quân bài bằng câu thơ hoặc đoạn văn vần. Những

câu thơ lẩy Kiều hay những câu thơ trong “Nhị độ

mai”, “Lục Vân Tiên” hoặc “Lục súc tranh công”,

hoặc vả có những câu tự chế thường được xướng

trong ván bài Tổ Tam Điếm kéo dài trong 90

phút. Như xướng lá Thang Thang – “ Lẳng lơ mới

Page 52: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 50

có con bồng Nhu mì như chị ai đem chồng đến

cho”; lá Chi Chi: “ Em buôn chi, em bán chi

Mười phiên chợ tình em đi cả mười”; lá Lục Văn:

“ Vân Tiên đầu đội mâm xôi Tay mang nước

mắm miệng ăn bánh gỉ? Nguyệt Nga mới hỏi ăn

chi Vân Tiên đáp lại bánh gì bà cho”; hay ví

von: “ Cành đào lá liễu phất phơ Đường đi lẩn

khuất tình cờ gặp nhau” cho lá Nhị Vạn, vì ở lá

bài này có hình trái đào.Lắm khi trọng tài của

cuộc chơi vận dụng tài thơ văn của mình mà dí

dỏm xướng lá Ngũ Sách - “Anh ơi! Tay chống

tay chèo, lấy ai dựng cột kéo lèo cho em”;

còn xướng lá Nhị Vạn theo ca dao– “Tiện

đây mận mới hỏi đào, vườn hồng đã có ai

vào hay chưa?”.

Vì Tổ Tam Điếm diễn ra trong khoảng không

gian rộng nên người chơi phải dùng trống bỏi làm

hiệu lệnh như: hỏi thì đánh trống bỏi phát tiếng

tung, cắc; ăn quân – một tiếng tung, không ăn –

một tiếng cắc; Phỗng với hai tiếng tung, tung;

dậy Khàn với ba tiếng tung, tung, tung; Ù thì gõ

một hồi, Ù Chi nảy với ba hồi và chín tiếng; thúc

giục người khác chơi nhanh thì gõ cắc liên hồi,

v.v. Tranh Tết xưa có mô tả những hình ảnh hội

xuân với những môn cờ bạc hay vui chơi. Hai

bức Thưởng xuân đồ và Du xuân đồ thường được

dán đối nhau.Tuy nhiên Du xuân đồ được minh

họa trong sách Imagerie populaire vietnamienne

của Maurice Durand gồm hình ảnh hai đô đang

đấu vật, còn các điếm/chòi ở bốn góc mô tả mấy

người đang chơi bài “Phu” (một biến thể về lối

chơi của bài Tổ Tôm).Sở dĩ ta biết được nhờ mấy

câu thơ chữ nôm ở bốn ờ bốn điếm/chòi mà ở nóc

có biển ghi chữ giáp hoặc ất, hoặc bính hoặc

đinh, theo thứ tự từ trên xuống dưới, từ phải sang

trái như sau:

Câu thơ ở điếm/chòi Giáp- “Bán chi không đánh

nhất văn/ Bát văn cầm kết muôn phần giá cao”.Ở

điếm/chòi Ất- “Bài tôi ăn thưởng không thang /

Lục văn cũng nghĩ kết ngang chẳng cầm” . Ở

điếm/chòi Bính- “Tam khôi bắt kiệt tưng bừng

Tinh thần đứng dậy tâm trường múa lên”.Và ở

điếm/chòi Đinh- “Hàng văn làng hãy còn nhiều/

Cầm chơi một ván đánh liều thử xem”.Trong bốn

đôi câu có những ‘thuật ngữ’ cùa bài Tổ Tôm

như: bán chi, không thang, kết ngang, kiệt (khàn),

vv.

Người lớn chơi Tổ Tôm ngày thường cũng như

ngày Tết, nhưng Tam Cúc là bài thường thấy mọi

người chơi trong dịp Tết khi những người thân

trong gia đình tề tựu cùng chơi.Các em nhỏ cũng

chơi Tam Cúc, nhưng không ăn tiền mà chơi tẹt,

nên tiếng kêu thúc giục tẹt mũi hòa với những

tiếng cười ngây thơ vang vang bên tiếng pháo

mừng xuân. Nhà thơ Bàng Bá Lân sau khi vô

miền Nam đã hoài niệm những cái tết xưa thời trẻ

qua những câu thơ: “Tết về nhớ bánh chưng xanh/

Nhớ tràng pháo chuột nhớ tranh lợn gà/ Nhớ ngũ

vị nhớ chè lam/ Nhớ cây nêu nhớ khánh vang

tiếng sành/ Nhớ tam cúc tẹt nhớ mình/ Nhớ cân

mứt lạc nhớ khoanh giò bì” (Tết xưa, trong tập

thơ Tiếng võng đưa). Bộ Tam Cúc có 32 lá

(thường gọi là quân bài), như trong câu đố: “Một

ông với lại một bà Sinh ra con cháu được

ba mươi người Mười con xinh đẹp tốt

tươi Bốn con nho sĩ cứ đòi làm quan Tám

con voi ngựa bành vàng Tám con xe, súng

dọc ngang cả trời”.Màu trong hai pho/bên có hai màu đen và đỏ. Bên đỏ , cũng có khi gọi là

bên điều, có 16 quân gồm 1 Tướng, 2 Sĩ, 2

Tượng, 2 Xe, 2 Pháo, 2 Mã và 5 Tốt. Bên đen hay

bên thâm cũng có số quân như bên đỏ. Số người

chơi từ 2 đến 4 người. Kết là được ăn đôi cuối

cùng, phải là một đôi chứ không phải là hai quân

lẻ.Tam Cúc cũng áp dụng luật ‘trên màu’, đỏ đè

đen, thú vị làm sao khi người nam có đôi đỏ đè

đôi đen của người nữ. Khi được kết thì người đó

ăn tiền gấp đôi, nhưng có luật khi một người kết

bằng đôi tốt đen mà một người khác có đôi tốt đỏ

đè, và người bị đè phải thua thay cho những

người chơi khác và gấp đôi số tiền của lần chơi

ấy mà mỗi người phải chung.Ngoài ra còn Phu

(tương tự ‘Sảnh’ 3 con đồng màu) như phu

Tướng-Sĩ-Tượng không được ăn kết mà chỉ tính

điểm/tiền ăn thua, nhưng phu Xe-Pháo-Mã (Sảnh

đỏ hoặc Sảnh đen) thì được ăn kết. Tuy nhiên có

nơi có luật là phu Xe-Pháo-Mã không được ăn

kết, mà chỉ tính điểm ăn thua.Về quân Tốt, phải

chú ý rằng ta không được ra 3 quân, chỉ được ra 1

hoặc ra 2 quân (nếu ra cuối cùng bài thì được ăn

kết); ra 4 quân tốt đồng màu thì được ăn kết, có

nơi ăn ngay ván bài hay tứ tử trình làng. Còn khi

được 5 quân tốt đồng màu thì vừa ăn kết vừa

được làm cái, theo thuật ngữ Tam Cúc thì đó là

ngũ tử cướp cái.

Câu thơ đố truyền khẩu từ xa xưa, nhiều người

cho rằng là của vua Tự Đức, khi nói về Tam Cúc-

“Tượng Tượng, Xe Xe xé lẻ rồi/ Sĩ đen Sĩ

đỏ chẳng thành đôi/ Đố ai biết được đôi gì

kết/ Mã cũng chui mà Tốt cũng chui”.

Theo luật chơi Tam Cúc thì người chơi

Page 53: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 51

luôn mong có Tướng vì Tướng mới ăn

được kết, còn Sĩ và Tượng thì không được

ăn kết, do vậy phải là ‘Pháo kết’ theo lời

thai đố này. Tam Cúc được nhiều thi sĩ lưu

luyến, nhớ lại kỷ niệm thời mới lớn, chẳng

hạn như Hoàng Cầm trong ‘Cây bài Tam

Cúc’ – “ Cỗ bài tam cúc mép cong cong Rút

trộm rơm nhà đi trải ổ Chị gọi đôi cây! Trầu

cay má đỏ Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm Em đừng lớn nữa

Chị đừng đi…”; hay hình ảnh của một chàng trai

trẻ gặp được tình đầu của mình ở nơi sòng Tam

Cúc buổi xuân về- “Ngày Tết mãi chơi tam cúc

không hay anh tới sau lưng ghé lại gần anh

mách nước kết luôn xe pháo mã hồng ô ván bài

em đỏ quá đỏ như đôi má ngày xuân em có ăn

trầu đâu nhỉ mà sao người thấy bâng khuâng…

nắng mới rọi vào song cửa rung ring bóng lá

cành doi… Em ạ, cỗ bài tam cúc/ Vẫn thơm

nguyên vẹn tình ta.”-(Cỗ bài tam cúc - Hồ

Dzếnh).

Ngày Tết người miền Trung – từ Quảng Ngãi đến

Bình Thuận – thích chơi bài Chòi, thường được tổ

chức từ ngày 29 hoặc 30 tháng Chạp đến mồng 7

tháng Giêng. Theo truyền thuyết thì bài Chòi do

Đào Duy Từ (1572-1634) người Thanh Hóa lập

nghiệp ở Bình Định truyền cho người dân ở nơi

đây.Dáng vẻ các lá bài của bộ bài Tới, bài Chòi

(gọi là bài Tới hay bài Chòi là theo cách chơi bài)

mang máng hình dạng các lá bài của bộ bài Tiền

Thẻ.Thí dụ trong pho Văn, lá Nhất Văn ở bộ Tiền

Thẻ vẽ vòng tròn ‘âm dương’ còn lá Gối ở bài

Tới vẽ chín vòng tròn nhỏ tượng trưng cho Trời.

Cơ chuyển theo luật âm dương hay luật của đất

trời.Còn các lá khác như Tráng Hai, Ba Bụng, Tứ

Tượng (Voi), Ngũ Rún (Ngũ Ruột), Sáu Miếng

(Sáu Tiền), Lá Liễu, Tám Miếng (Tám Tiền),

Cửu Xe và lá Thái Tử thì có bố cục giống

nhau.Tương tự pho Sách trong bộ bái Tới như lá

Nọc Đượng (Nhất Nọc), Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ

Dóng, Ngũ Dụm (Ngũ Giày), Sáu Hột, Bảy Sưa,

Tám Dây, Cửu Mỏ và Bạch Tuyết (Bạch Huê);

pho Vạn có các lá Nhứt Trò, Nhì Đấu,Tam

Quăng, Tứ Móc (Tứ Cẳng), Ngũ Trợt, Lục Xơ

(Lục Chạng, Lục Chuôm), Thất Dọn (Thất

Vung), Bát Bồng, Cửu Thầy và Ông m cũng có

bố cục tương tự như ở bộ Tiền Thẻ. Cũng lưu ý

rằng tên của các lá bài Chòi đôi khi được gọi trại,

khác biệt đôi chút tùy theo vùng miền. Huình

Tịnh Paulus Của định nghĩa bài Tới trong Đại

Nam quấc âm tự vị như sau: “thứ bài bắt cặp, ai

bắt được đủ cặp trước thì gọi là tới, nghĩa là đến

trước, rồi cũng được ăn tiền”.Bài Chòi gồm hai

phần, phần chia cho các tay chơi, phần còn lại để

rút đặt ở chòi trung ương.

Nơi đánh bài Chòi có dựng 9 cái chòi theo kiểu

nhà sàn. Hai dãy chòi, mỗi dãy 4 chòi, song song,

đối diện nhau.Ở giữa là chòi trung ương, nay có

thêm một sân sạp gọi là sân khấu. Chòi này dành

cho người cầm chịch cuộc bài Chòi là ‘Hiệu’

(thường được gọi theo giới tính là anh Hiệu hay

chị Hiệu), Hiệu là người hoạt náo ra điệu múa

may, miệng ngâm thơ, hát Nam, hát Khách, có tài

ứng đối khi có chủ chòi ra câu đố bằng thơ.Dĩ

nhiên Hiệu luôn có những câu thai biến hóa,

không lặp lại, lên khi xướng tên lá bài vừa mới

bốc. Thí dụ bốc lên lá Nhì Nghèo, ở ván thứ nhất,

Hiệu xướng: “Chắp tay với chẳng tới kèo Anh

mẹ anh nghèo chẳng cưới được em”. Rồi đến ván

thứ hai, khi bốc được lá này thì anh Hiệu xướng

câu thai: “Cây khô tưới nước cũng khô Vận

nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo”; ở ván thứ ba câu

thai lại xướng khác: “Nhiều quan thêm khó thằng

dân Nhiều giàu thì lại chết trân thằng

nghèo”.Chẳng hạn như lá Tứ Cẳng –“Một hai bậu

nói rằng không Dấu chân ai đứng bờ sông hai

người”, còn ở ván sau thì xướng –“Lưng choàng

áo đỏ Đầu đội khăn đen Chân đi lèng quèng Là

chân ông gãy”.Người trong chòi nghe câu xướng

theo nhịp hai, với những câu bốn chữ hay lục bát

thường gặp, phải liên tưởng đến lá bài gần gũi

qua lời của Hiệu.Như “Thuyền ai thấp thoáng bên

bờ Hay thuyền ông Lữ đợi chờ con vua” mà Hiệu

bóng gió cho lá Thái Tử, hay “Đi dâu cọ xiểng đi

hài Cử nhơn không đậu, Tú tài cũng không” cho

lá Thằng Trò.Câu thai của Hiệu khi huỵch tẹt tên

lá bài, chẳng hạn lá Ông Àm: “Nửa đêm gà gáy te

te Muốn đi rón rén đụng nghe cái ầm”, hay lá Ba

Bụng: “Xét ra cho kỹ sự đời Ba người ba bụng

không ai thời giống ai”; cũng có khi lập lờ ẩn dụ

như khi Hiệu xướng “Chầu rày đã có trăng non

Để anh lên xuống có con em bồng” (lá Bát Bồng)

hoặc lập lờ tục tĩu, sống sượng “Năng cường,

năng nhược Năng khuất, năng sanh Nó thiệt cục

gân Ngồi gần con gái trân trân chẳng xìu” cho lá

Nhất Nọc.

Theo lệ thường, chòi có bài tới thường hay

thưởng tiền cho Hiệu, số tiền thưởng nhiều hay ít

tùy thuộc vào tài hoạt náo của Hiệu, vì vậy khi

dâng khay tiền Hiệu phải trổ tài vừa ngâm vừa

múa. Đôi khi trước khi thưởng tiền, người thắng

có thể đố Hiệu bằng những câu thơ và Hiệu phải

trả lời bằng những câu thơ ứng khẩu hay đã có từ

Page 54: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 52

lâu.Trong khoảng không gian chơi bài Chòi rất

náo nhiệt, nên người chơi thường dùng mõ và

trống để báo hiệu. Chòi tới đánh ba tiếng mõ cốc,

cốc, cốc; chòi trung ương thông báo cho mọi

người biết là đã có chòi trúng (tới) bằng ba tiếng

tung, tung, tung. Chòi trúng ba lần thì khua hồi

mõ dài; chòi trung ương đánh hồi trống chầu và

hồi trống này cũng thông báo là hết một ván bài

(một ván bài kết thúc khi có ba lần trúng ở các

chòi).Cái hấp dẫn của bài Chòi không phải ở số

tiền thắng cuộc, ăn thua mà là ở chỗ giao tiếp thú

vị qua lời thơ câu hát, đối đáp lấy từ tuồng tích

giữa Hiệu và những người chơi.

Khi xưa ở miệt Sóc Trăng, Bạc Liêu người Hoa

khá đông nên bài ‘Thín Cẩu’ được chuộng và một

món bài khác là bài chim. Bài chim còn được gọi

là ‘má tước’ hay ‘mà chược’, nhưng không hẳn là

một loại bài lá nên không được bàn trong bài

nầy.Với bộ bài Thín Cẩu người ta có thể đánh

theo hai lối: ‘bài cẩu’ và ‘ngầu hầm’; đó là những

lối chơi bài có tính may rủi chứ không như lối

chơi Thín Cẩu thuần túy. Tên gọi Thín Cẩu lấy từ

hai cây bài lớn nút nhất, theo cách gọi của người

Quảng Đông, với nghĩa ‘thín’ là trời và ‘cẩu’ là

chín.Bài Thín Cẩu chỉ có ba mươi hai lá, chia

thành hai phe: ‘mành phài’ (văn phái) và ‘mụ

phài’ (võ phái). Văn phái gồm các đôi cây Thín

(thiên), Tì (địa), Dành (nhơn), Ngò (nga hay con

ngỗng) và một lá Lục cúng (Lục công hay ông

Sáu); phe Võ có các cặp Cẩu (chín), Bạt (tám),

Xách (thất), ng (năm) và lá ‘Sám cấy’ có vẽ

hình ba con gà con, dù vậy vẫn gọi là ‘Cô

Ba’.Cùng với các lá ở hai phe Văn, Võ còn có

Mùi phài, Xường xám, Pản tăng, Pặc thầu, Hồng

thầu, Yêu lục, Yêu ựng mỗi thứ hai lá.

Thuật ngữ của Thín Cẩu hầu hết là tiếng Hoa, thí

dụ hai lá Thín với một lá Cẩu thì gọi là ‘xám

mành thín cẩu’, ngược lại một lá Thín hai lá Cẩu

gọi là ‘xám mụ thín cẩu’. Còn đất có tám cõi tức

là hai Tỳ một Bạt gọi là ‘xám mành tỳ bạt’ hoặc

đất có tám tầng (hai Bạt một Tỳ) gọi ‘xám mụ tỳ

bạt’.Cũng tương tự như cách gọi trên khi nói về

loài chim có năm đức tánh cho tôổ hợp bài Ngò

và ng.

Trong quyễn Phong Lưu Cũ Mới, Vương Hồng

Sển có giải thích sơ lược thêm:“ …Đâu đâu cũng

đều ăn khớp có ý nghĩa rõ ràng.Trào phúng nhứt

là ngụ ý ngạo đời trong bài toán cây “sám cấy”

và cây “lục cúng”.Trong bộ thín cẩu, bài nào

cũng có cặp, duy “lục cúng” đại diện phe đàn

ông (Ông Sáu) và “sám cấy” đại diện cho phe

đàn bà (Cô Ba) là lẻ loi.Khi nào trên tay mình

gặp đủ hai ông bà, và khi mình “xuất” hai cây ấy

ra được, thì ba tay nọ chung tiền cho mình sốt

dẻo, hình như đậu tiền mừng “hai ông bà sum

họp” và xuất hiện phải thời phải lúc.Bằng như

đến lượt “chưng, bắt” người chưng “sám cấy” ,

mà tới thì ăn tiền sắp hai, bằng như bị người

khác ‘bắt’ thì bị đền tội chung gồm cho các tay

kia, y như ngụ ý:

- Chưng “sám cấy” không bị bắt, các tay kia

bị phạt tội “bất lực” để cho con gà con “cấy

chảy” hoành hành!.

- Chưng “sám cấy” mà bị “lục cúng” bắt

được, thì người cây “sám cấy” bị phạt, vì tội để

cho “cô Ba” phải lọt tay dê xồm “Già Sáu”.

- Nhưng ông Tổ thín cẩu có tiếng là tính tình

rất dễ chịu, vì là cuộc chưng bắt, nếu có nhân

chứng là những cây bài khác “xía vào”, thì khỏi

chuyện phạt vạ, vì đã có nhân chứng đó thì cuộc

“sinh dị tâm” kia tuyệt nhiên không có phạt vạ

cho ai được. (Tỉ dụ như “lục cúng” bắt được

“sám cấy” rõ ràng nhưng một người bắt “cây bài

ựng”, thì ựng đây làm nhân chứng,nên miễn

phạt.Hoặc giả như “lục cúng” bắt được “sám

cấy”, nhưng có người bắt được cây “Thất” hay

cây “Bát” thì cũng không có phạt vạ vì “lục

cúng” hai cây bài kia và hai cây kia đã là nhân

chứng đó!” .

Chơi Thín Cẩu cần trí nhớ có cơ trí, hơn hẳn chơi

Cắt Tê.Thín Cẩu được Vương Hồng Sển ca ngợi

hết lời vì bài có xác suất rất cao: “Tôi có thể nói

không lầm là mỗi bàn Thín Cẩu đúng là một bài

toán khoa học.Và một đời người, nếu đánh bài

Thín Cẩu, thì sẽ không bao giờ gặp lại hai lần

những bài toán ấy, đủ hiểu Thín Cẩu cao siêu và

triết lý đến bực nào!”.

Bài Tứ Sắc cũng lan rộng ảnh hưởng của nó ở

miền Trung và miền Nam, nhất là miền Nam

trong thế kỷ XX, nhiều phụ nữ mê bài này hơn

phe đàn ông con trai.Các quân bài theo thứ bậc là

Tướng, Sĩ, Tượng, Xa, Pháo, Mã và Tốt và mỗi

bậc có bốn lá cùng một ‘sắc’ màu, cộng 28 lá (lưu

ý: các chữ Hán cho Tướng, Tượng, Tốt ở các lá

có màu trắng và xanh khác với chữ ở màu vàng

và đỏ).Bộ bài có 4 màu – xanh, trắng, đỏ, vàng,

tổng cộng có 112 lá bài.Số người chơi trong một

ván có thể từ 2 người cho tối đa 4 người. Cái

Page 55: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 53

được chia 21 lá, ba tụ kia mỗi tụ 20 lá và số bài

còn lại để trong ‘nọc’ hay ‘tỳ’ ở giữa 4 tụ. Mục

đích của người chơi là làm sao bài của mình

không còn ‘rác’ mà chỉ còn có các tổ hợp bài như

1 Tướng, 1 đôi quân cùng màu cùng thứ bậc, 3 lá

cùng màu và thứ bậc (gọi là Khạp), 4 lá cùng màu

và cùng thứ bậc (gọi là Quàn), 1 tổ hợp Tướng Sĩ

Tượng cùng màu, 1 tổ hợp Xe Pháo Mã cùng

màu; và 3 hoặc 4 lá Tốt cùng màu.Trong khi chơi,

khi tay trên mình đánh ra một lá rác (còn được

gọi là bài tỳ, lá này giống với Khạp của mình thì

mình có thể ăn và tổ hợp mới này (4 lá cùng màu

và cùng thứ bậc) gọi là Khui.Kế đó là có quyền

đánh ra một lá bài tỳ khác ra,thí dụ như lá Mã

xanh.Người ở bên phải kế sau người vừa đánh ra

có hai lá lẻ Xa, Pháo xanh có thể ăn lá Mả xanh

để tạo thành tổ hợp Xa Pháo Mã. Tuy nhiên một

trong hai người còn lại có thể ưu tiên ăn lá Mã

xanh khi đánh ra một cặp Mã xanh.Luật Tứ Sắc

ưu tiên ‘chẳn’ (hai lá giống nhau, cùng màu cùng

thứ bậc) trước ‘lẻ’ sau. Người tới ván bài khi ăn

con bài tỳ và trên tay còn lại các tổ hợp hợp lệ

nêu trên (hay gọi là tròn bài).Sơ lược lý thuyết

thấy đơn giản, nhưng trên thực tế Tứ Sắc cũng rất

biến hóa ván bài.Chính vì vậy có rất nhiều người

đam mê.

Mấy câu hát còn lưu lại ở Bạc Liêu: “Anh mần

được một cắc Anh nhảy vô sòng tứ sắc Em biết

chắc anh thua rồi Con thơ năm sáu đứa Gạo

mượn ăn từng nồi anh không thấy sao?”. Như đã

nói, mấy bà mấy cô miền Nam thường lấy Tứ Sắc

giải khuây.Trước đây ở Cần Thơ có câu của

người con trai ‘tâm sự’ người bạn gái: “Bậu có

thương qua Khăn mù xoa đừng đội Hát bội

đừng mê Cát tê đừng mắc Tứ sắc đừng ham

Ruộng rẫy lo làm Dẫu bậu làm thất Qua giúp

dùm cho”.

Nói chung sự phát triển bài lá cũng tùy vào cá

tính của từng miền.Người miền Bắc thích những

lối chơi bài phức tạp, nghiêm luật.Người miền

Trung, miền Nam bộc trực, phóng khoáng nên

không mấy thích Tổ Tôm mà khoái bài Tới. Với

đặc điểm về cá tính như vậy ta có thể thấy tại sao

người miền Bắc yêu chuộng Tổ Tôm, Chắn, Tam

Cúc, Phỏm, Tiến lên (kiểu Bắc), còn miền Trung

thì đánh Kiệu, bài Tới, Tứ Sắc, bài Chòi, Liêng

(loại bài tính điểmkiểu chơi Ba Cây của miền Bắc

và Xì Tẩy của miền Nam); và miền Nam đâu

cũng thấy chơi Tới, Tứ Sắc, Xệp, Binh, Xì Phé,

Cắt Tê, bài Cào, gần đây thì có Tiến Lên(kiểu

miền Nam).Mấy lối ‘phong lưu’ như vậy vẫn theo

cùng thời gian./.

Nguyễn Phương

Quê tôi, Đất Mới Miền Nam, một dảy đồng bằng

phì nhiêu vườn cây ăn trái, ruộng lúa, mạ non

xanh rờn, tới mùa lúa chín vàng đồng như ai trải

thảm. Rẩy bí, khóm, khoai mì, khoai lang, vườn

dừa,hàng cau,vườn chuối lũy tre… mút mắt ngút

ngàn, ngựa chạy ngay đuôi, cò bay thẳng cánh,

chín cửa Cửu Long Giang, nước đục phù sa, thủy

sản bạt ngàn, sông ngòi kinh rạch cạn sâu chằng

chịt, vịt lội, lục bình trổ hoa màu tim tím mặc cho

dòng nước cuốn trôi như kiếp sống phù du của

con người... Hai bên bờ là dừa nước, bần, gừa

mọc rậm rạp. Tạo hóa ban cho con người tất cả

trái cây đó để ăn, dùng lá lợp nhà, dừng vách,

nhánh khô làm củi. Có chim dòng dọc làm ổ bằng

cỏ trên cao thật đẹp, đong đưa theo gió, chúng lại

làm tổ ở giữa ổ ong nữa chớ, nên ngày còn nhỏ,

chúng tôi chỉ lấy mắt nhìn chẳng bao giờ dám leo

lên gở ổ, chi thích nghe tiếng hót ríu rít của chúng

mà thôi.Màn đêm buông xuống, thì từng bầy đôm

đớm lập loè..Cảnh dẹp như tranh

Gần nhà cha mẹ tôi có gốc cây đa lớn, bóng râm

che rặm mát cho một khoản ờ dưới đất còn de ra

ngoài gần một phần tư sông, rể lòng thòng làm

nơi nghỉ rất lý tưởng.

Có các loại chim cò : nhiều nhất là cu cườm rù rù

đêm ngày nghe rất êm tai, lại có cô lái đò, duyên

dáng ngây thơ, nước da màu đường thẻ, vùng

ngực trắng ngà với hai cái bánh ú u u, môi hồng,

tóc kẹp thả dài sau lưng, trong chiếc áo bà ba

trắng, quần dài đen. Ngày ngày gà vừa gáy sáng

thì cô đã thức giấc để chèo xuồng đưa cô bác, bạn

hàng gánh rau cải sang sông họp chợ. Mặt trời lên

cao là đến phiên chúng tôi, ngộ một cái là cô

không lấy tiền học trò Lại có nhiều cô bán vàm,

chèo tam bảng chở theo nồi bún nước lèo, thuốc

hút, bánh trái, trà rượu cho mấy ghe thương hồ,

đậu dọc theo mé sông

Ngoài tiếng nói, giọng cười thánh thót, thỉnh

thoảng các cô lại cất giọng hò : Hò ơ… ơ… ơ.

Muốn ăn tô bún thơm ngon Hò ơ… ơ… ơ…

chèo ghe cực khổ đến miệt này thăm em…

Chàng trai thương hồ :

Hò ơ... ơ... ơ... vừa nghe tiếng em rao, ơ.. ơ.. ơ..

Page 56: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 54

Hò ơ... ơ... ơ... anh muốn ăn liền một tô hò ơ…

ơ… ơ.

Hò ơ... ơ... ơ... nhưng ngặt không tiền ơ...ơ...ơ...

Hò ơ... ơ... ơ... nếu em cho ăn chịu ơ… ơ...ơ…

Cô gái bán vàm:

Hò ơi...ơ… ơ... nếu cho anh ăn chịu ơ... ơ... ơ…

Hò ơ...ơ... ơ. cụt vốn rồi sao đây?…

Chú Bạn ghe lúa:

Không sao đâu em ơ… ơ...ơ...

Hò ơ… ơ… ơ… anh về gá nghĩa cùng em, ơ…

ơ.. .ơ…

Cô em:

Hò ơi … ơ...ơ… ơ... dễ đâu anh, gió thổi hiu hiu,

lục bình trôi riu ríu ơ… ơ… ơ…

Hò ơi …ơ...ơ... anh đừng bận bịu, nói điệu chung

tình, ơ… ơ... ơ…

Hò ơi …ơ… ơ… ơ… em như con nhạn bay cao,

con cá chép dưới nước… ơ...ơ… ơ..

Hò ơi …ơ... ơ... ơ…đừng mơ trộm nhớ thầm anh

Hai ơi... ơ... ơ…. ơ...

Chú Hai:

Hò ơi…ơ... ơ... ơ...này em Ba ơi, em nghe cho kỷ,

xưa nay gái phải có chồng ơ... ơ... ơ…

Trai không ở goá, gặp em ăn nói hữu tình, xinh

quá là xinh, bán buôn giỏi giắn ơ.. ơ.. ơ..

Hò ơi... ơ... ơ... ơ... anh muốn về phụ em vậy mà

ơ... ơ... ơ...

Cô Ba:

Hò ơi ơ... ơ... này anh Hai ơi! lấy anh em không

hứa, nhưng cũng chẳng đành làm ngơ.. ơ…ơ…

Hò ơi... ơ... ơ.... ơ.. anh về thưa với Mẹ Cha, làm

cho em đúng lễ Hò ơ.. ơ...ơ… (?)

Và sau đó đưới bóng rừng tràm, làng quê thêm

người, anh chồng ngày ngày làm ruộng, làm

vườn, dăng câu, đăt lò, lợp , đó, đăng, rải lưới. Cô

Ba nghỉ đi bán vàm, người phụ nữ xứ mình, nhở

sông nước chằng chịt ruộng đồng phì nhiêu, sẳn

cá tôm ê hề do đó cô làm nhiều món ngon và mở

quán ở đầu làng.. Bà con chiếu cố vô ra rần rần…

Món bún cá nước lèo, ngon đặc biệt, cũng thời là

bột gạo : nhưng bún dòn, dẻo dai, ngọt khác với

bánh tầm, bánh canh, bánh lá, thêm vào rau sống,

giá, chanh, ớt, đậu phọng giã nhuyễn, tiêu, ớt cay

cay, chanh chua chua, nêm nếm khéo léo nên ăn

ngon vô cùng.

Cá lóc nướng trui, xé cá ra gắp thịt gói bánh

tráng, thêm chút bún, giá, rau, chấm mắm nêm.

Cá trê vàng chiên hay nướng dầm nước mắm

gừng..Cá linh kho lạt lạt, có sẳn bông điên điển

làm dưa chua ăn kèm theo ngon hết biết, rồi nào

tôm càng xanh, nướng xé ra thịt trắng hồng cuốn

với bánh tráng ăn như ăn cá nướng trui… Tép

chiên, gở võ, bốc thịt ăn với tóp mở, nhứt là món

canh chua cá út, cá trê trắng, thịt heo với cá lóc

kho nước dừa, không dùng nước lạnh chỉ, nêm

nước mắm nhỉ, nước kho màu vàng ánh, ngon mà

lại đẹp vô cùng. Bà chủ khéo léo tự làm lấy cải bẹ

xanh, giá, hẹ làm dưa chua, lâu lâu lại đổi món :

đổ bánh xèo, bánh khọt, bánh bèo, dọn ăn với

chén nước mắm khéo đẹp màu lại thêm cả rổ nhỏ

rau sống đủ mùi vị thơm ngon.

Bốn năm trôi qua mau, căn nhà nóc lá phên tre

nay đã cổ quá rồi, những hôm nào trời nắng rải

sao trên nền đất nóc mùng còn đở, chớ mưa lớn

thì hởi ôi, hai vợ chồng trẻ lạnh quá, ôm xiết nhau

cho ấm, vì vậy mà bày trẻ chung ra mỗi năm. Hai

đứa rồi, con đông nhà có phước, ai cũng ham,

nhưng tôi nghiệp bà xả mang nặng đẻ đau, lại còn

lu bu buôn bán, khách khứa ái mộ ngày càng

đông, tội nghiệp bà bận ngồi quày hàng, con khóc

đòi bú bà vạch vú cho bú tỉnh queo, lại còn coi

sóc việc trong ngoài, việc bếp núc, thì nhờ bà

bếp lo nấu nướng, nêm nếm, hai người dọn cơm

cho khách ăn.Vì vậy, phải lo sửa nhà, nói là sửa

chớ cất mới, nới rộng thêm hai chái, nhờ anh em

lối xóm phụ chèo tam bản lên rừng đốn tràm,

đước, tre, sẳn lá dứa nước dưới sông Trời Phật

ban cho thế là xong. Tới bữa ăn tân gia mời anh

em đến nhậu. Anh Chị Bảy Kìm ở trong sâu, miệt

đầu rừng, có tát đìa bắt được cá ê hề nào cá lóc,

rô, trê, sặc, tôm càng xanh mang ra cho cả giỏ

lớn. Anh chị Bảy nhờ mưa cá nuôi theo các ao hồ

quanh rừng chỉ ăn bông tràm, còn có trứng mang

bụng về vuông để đẻ, tôm càng cũng vậy, nên anh

chị nuôi cá cho ăn toàn cám khoai chắc khá hơn.

Nghe vậy Chú Hai nó khoái trong bụng, vốn có

đạo Thờ Bả hỏi ý vợ, chị Ba nghe vậy chịu liền,

thế là Chú Hai sẳn có cái vũng lớn hơn mẩu, toàn

tranh đế, cỏ lau, sậy, bèo, lục bình, mọc đầy nên

nhờ anh em dọn sạch, tát cạn nước, phơi nắng rồi

đào sâu vào nước mới, nuôi tôm càng xanh có

trứng, thả thử 50 con, nuôi độ 5, 7 tháng sau,

nhiều lần lột vỏ thay da, tôm lớn lại làm tình, mấy

chị tôm ôm bụng có khoảng –5-700 trứng và cứ

như vậy, sau hai mùa nước, tôm lội dày đặc thấy

mà ham…

Nhờ ơn Thần Thành Tiền Nhân, bà con có đời

sống sung túc ấm no như ngày nay nên cùng nhau

chung góp công của cất ĐÌNH THỜ TH N TIỀN

HIỀN HẬU HIỀN NÓC NGÓI, vách tường quét

nước vôi, nền lót gạch đỏ ao

Nên Đạo Đức Cháu Con gìn giữ Đạo Hiếu Trung

luôn Nhớ Kính Thờ

Nguyễn Phương

Page 57: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 55

Phát triển nhận thức Thái Dương Hệ

Tôi có nói về một hệ thức: M(A+B)=a+(a-b)b ,A

và B là 2 nguyên tố hợp thành hổn hợp bảo hòa

M có phân tử lượng (nguyên tử lượng) là a và b,

A và B vẫn giữ đặc tính của A và B ,nhưng hỗn

hợp bảo hòa M có phân tử lượng (nguyên tử

lượng) m=b+1 ,chúng ta có thể xem đây là

nguyên tố mới (hay chất mới).

A là nguyên tố có điện tử lớn,B là nguyên tố có

điện tử nhỏ.Hệ thức M(A+B)=a+(a-b)b tôi gọi là

"Nguyên-lý bảo hòa".Để chứng minh sự hiện hữu

"Nguyên-lý Bảo-Hòa",tôi xin trình bày "Thuyết

Bảo-Hòa" từ sự nhận xét "Hệ Mặt Trời" qua bài

giới thiệu nhà Thiên-văn học Việt-Nam Lưu-lệ-

Hằng với bài viết như sau:

Sự khám phá mới về Thái-dương-Hệ cho nhân

loại hiểu biết thêm về Hệ Mặt Trời,đây là cuộc

cách mạng về vũ trụ trong nhận thức loài

người.Các nhà thiên văn không ngừng tiếp tục

trên lãnh vực này để cống hiến kiến thức phong

phú thu thập được trong nhiều thế kỷ qua và đã

góp thành những hiểu biết mới bằng những phát

minh đặc biệt làm thay đổi nhận thức về vũ trụ

không gian bao la mình đang sống.

Khoảng mươi năm trước, cấu trúc của Hệ Mặt

Trời vẫn còn được hình dung đơn giản so với bây

giờ (xem hình số 2).

Hình 2- Cấu tạo Thái Dương Hệ.

Thái Dương Hệ được mô tả là một hệ các hành

tinh, Mặt Trời nằm ở chính giữa và bao bọc bên

ngoài bởi 9 thiên thể chịu sức hút của Mặt Trời,

gồm 8 hành tinh chính và 1 hành tinh “phụ”, hợp

thành 3 nhóm.

Nhóm I ở vùng trong cùng, gồm 4 hành tinh nhỏ:

Thủy tinh (Mercury), Kim tinh (Venus), Trái đất

(Earth) và Hỏa tinh (Mars), đây là những hành

tinh nhỏ, rắn chắc, cấu tạo chủ yếu bởi các loại đá

và kim loại, có mật độ cao và thành phần tương

đối giống nhau nên có tên gọi chung là "Nhóm

các hành tinh đá".

Nhóm II ở vùng ngoài, gồm 4 hành tinh khí

khổng lồ có khối lượng lớn hơn rất nhiều so với 4

hành tinh nhóm I. Trong đó, 2 hành tinh lớn nhất,

Mộc tinh (Jupiter) và Thổ tinh (Saturn), có thành

phần chủ yếu từ heli và hyđrô; và hai hành tinh

nhỏ hơn, Thiên vương tinh (Uranus) và Hải

vương tinh (Neptune), có thành phần chính từ

băng (như nước, amoniac và mêtan). Chúng có

kích thước rất lớn nhưng mật độ thấp và vì vậy có

khi còn được gọi là nhóm các hành tinh băng đá

“khổng lồ”.

Nhóm III trong nhiều năm trước được cho rằng

chỉ có một mình Diêm vương tinh (Poluto).Mãi

đến cuối thế kỷ 20 vẫn chưa giải thích được tất cả

thông tin do các thiết bị khảo sát thiên văn hiện

đại thu thập về cấu trúc Thái-dương-Hệ.Một nhận

thức mới được đưa ra bởi Lưu-lệ-Hằng và thầy

Davis Jewitt cùng nghiên cứu theo khoa học hiện

đại nhầm khảo sát các vật thể di chuyển chậm

(Slow-Moving Objects) ngoài Hệ Mặt Trời :

Họ tiến hành nghiên cứu chứng minh về sự tồn

tại một vành đai gồm vô số hành tinh lớn bé phân

bố từ bên ngoài quỹ đạo của Hải Vương tinh

(Neptune), vượt qua Diêm vương tinh (Pluto) và

ra xa hơn. Vành đai này có tên là vành đai Kuiper

(Kuiper Belt) do hai nhà thiên văn Edgeworth và

Kuiper đặt ra trong tưởng tượng từ giữa thế kỷ

20. Miệt mài 5 năm làm việc, Lưu và Jewitt sử

dụng các phương tiện nghiên cứu tiên tiến nhất ở

Trung tâm nghiên cứu MTT và Đại học

Harvard,ở các cơ sở thiên văn Kitt Peak (thuộc

Arizona) và Mauna (thuộc Hawai),năm 1992

Jewitt và Lưu-lệ-Hằng tìm ra được thiên thạch đặt

tên là 1992 QB1 có đường kính 280 km bằng 1/8

Diêm-vương tinh (Pluto),và tiếp theo là hàng

chục khám phá nữa của nhóm nghiên cứu này và

hàng trăm khám phá khác của đông đảo cộng

đồng thiên-văn trên toàn thế giới.

Tất cả đều chứng tỏ ở không gian bên ngoài quỹ

đạo của Hải vương tinh (Neptune) tồn tại các vật

thể lớn bé có thành phần cấu tạo nhẹ như nước,

amoniac, mêtan. Đó là hàng nghìn thiên thể nhỏ

bé có kích cỡ khác nhau, từ sao chổi, centaurs đến

bụi liên hành tinh. Trong số đó có 5 thiên thể có

cỡ lớn như Ceres,Haumea,Makemake,Éris và cả

Pluto (Diêm-vương-Tinh) nữa.Các hành tinh này

có dạng tựa như hình cầu chịu ảnh hưởng chính

lực hấp dẫn của mình,nhưng do độ xốp cao và

tổng khối lượng vẩn bé nhỏ,nên kể từ tháng

8/2006 nhóm hành tinh này được mang tên là

Page 58: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 56

"Nhóm hành tinh lùn".Ngày nay Nhóm "Hành

tinh lùn" này được ghép vào Nhóm III mà trườc

đây chỉ có một mình Pluto (Diêm-vương-Tinh).

Vậy là sự tồn tại trong thực tế vành đai Kuiper

mà Jewitt và Lưu theo đuổi thực hiện đã được

minh chứng. Phát minh này có ý nghĩa rất lớn, nó

mở đầu cho một kỷ nguyên mới về nhận thức đầy

đủ hơn về cấu tạo Thái Dương Hệ và góp phần

hoàn chỉnh học thuyết hình thành vũ trụ. Sự tồn

tại vành Kupler cũng không có gì đáng nghi ngờ

vì sự tồn tại một Vành đai tiểu hành tinh khác nữa

nằm giữa Hỏa tinh (Mars) và Mộc tinh (Jupiter),

tuy thành phần cấu tạo khác hơn với phần lớn là

đá và kim loại, cũng đã được xác định trước đó.

Năm 1991, Lưu-lệ-Hằng nhận bằng Tiến sĩ,

không lâu sau Hiệp hội Thiên Văn Mỹ đã trao

Giải thưởng Annie J. Cannon Award Thiên văn

học cho Tiến sĩ Lưu Lệ Hằng trong việc tham gia

khám phá hơn 30 thiên thạch và gọi đó là

Asteroid 5430 Luu.

Đặc biệt, tháng 3 năm 2012, tại thủ đô Oslo Na

Uy, Quỹ Kavli đã công bố Giải Kavli với số tiền

thưởng 1 triệu USD cho 3 nhà thiên văn đã khám

phá ra nhiều vật thể lớn trong vành đai Kuiper, đó

là David Jewitt, Jane X. Luu (tức Lưu Lệ Hằng),

và Michael Brown. Tiếp theo, tháng 5 năm 2012,

tại Hồng Kông, Quỹ Shaw lại trao Giải Shaw

Thiên văn học 2012 cho Tiến sĩ Jane X. Luu cùng

với Giáo sư David C. Jewitt, Giám đốc Viện

nghiên cứu thiên thể (Institute for Planets and

Exoplanets), Đại học California – Los Angeles,

Hoa Kỳ.về những đóng góp trong việc định danh

“các vật thể ngoài Hải Vương tinh” (Trans-

Neptunian Objects), viết tắt là TNOs.

Từ những khám phá trên chúng ta có sự nhận

định rõ hơn về Thái-dương-Hệ một cách đơn

giản: Mặt trời nằm ở chính giữa và bảo hộ bởi 9

hành tinh bay xung quanh ở bên ngòai theo 9 qũy

đạo cố định,cùng chịu sức hút của Mặt Trời.

Tính từ mặt trời ra chúng ta thấy:Nhóm I gồm 4

hành tinh đá:Mercury (Thủy tinh),Venus (Kim

tinh),Địa cầu,Mars (Hỏa tinh).Nhóm II gồm 4

hành tinh khí gồm có 2 hành tinh Jupiter (Mộc

tinh),Mars (Thổ tinh) đều thành hình bởi khí

Helium và Hydrogen,2 hành tinh khác nhỏ hơn là

Uranus (Thiên-vương-tinh),Neptune (Hải-vương-

Tinh) được thành hình dưới dạng băng đá của

nước,khí mêtan và khí amoniac.Nhóm III không

những chỉ một mình Pluto (Diêm-vương-Tinh)

mà còn có Ceres,Haumea, Makemake và Éris

cũng trong dạng băng đá như Uranus và

Neptune,vì Nhóm III có dạng thái đặc biệt nên

qũy đạo có gốc độ khác hơn với qũy đạo của 8

hành tinh kia (theo hình minh họa 2),điều này xác

định rõ qũy đạo Pluto là giới hạn của Thái-

dương-Hệ và Vũ trụ bên ngoài,trạng thái đóng

thành băng đá của Uranus,Neptune và Pluto nói

rõ mức lạnh Thái-dương-Hệ đến độ này là giới

hạn độ lạnh bên ngoài vũ trụ,đồng thời cũng nói

lên năng lượng âm đi vào Mặt Trời có sự điều tiết

bởi Hệ Thái Dương.

Từ đây chúng ta thấy Thuyết "Ngủ hành tương

sanh tương khắc" người Trung-Hoa được giải

thích trong sự thành hình Thái-dương-Hệ : Thủy

(băng đá) khắc Thổ (Saturn),Thổ (Saturn) khắc

Mộc (Jupiter),Mộc (Jupiter) sinh Hỏa (Mars),Hỏa

sinh Thổ (Địa cầu),Thổ (Earth) sinh Kim

(Venus),Kim sinh Thủy (Mercury),Hỏa (Sun)

khắc Thủy (Mercury).Mặt trời tính thuộc Hỏa

nhưng chất thuộc Kim,nên có biểu tượng Kim

sinh Thủy (Mercury),rồi Hỏa (Sun) sinh Thổ

(Saturn),sự "sinh khắc" ở đây mang ý nghĩa của

sự cung cấp (sinh) và sự nhận (sự hấp thu),cường

độ sự hấp thu phải chậm hơn sự cung cấp,bởi thế

sự hấp thu có thể xem là "khắc" với nguồn cung

cấp (sinh)),nói rõ hơn "khắc" có nghĩa là giảm

bớt năng lực của "sinh".Để tường tận hơn,chúng

ta cần suy luận trong quan điểm sẵn có ngày nay

trong sự phát sinh ban đầu của Thái Dương Hệ là

hiện tượng bắn tung ra những hành tinh vừa kể ở

trên trong dạng cực nóng của từng tinh cầu,trải

qua hằng triệu năm mới có hiện tượng như ngày

hôm nay.

Theo lý luận động lực học,chúng ta có thể suy

đoán khối lượng của Mercury phải nặng nhất,lần

lượt xa hơn là hành tinh Pluto phải nhẹ nhất,đó là

lý luận chuyển động Brown đối với vật thể

nổi,nhưng theo thuyết Brown trong lý luận

Nguyên tử Albert Einstein có nói : Hạt càng

nhỏ,chuyển động càng kịch liệt,hấp thu năng

lượng càng cao.Vậy chúng ta thử xét lại 2 nhóm

hành tinh Jupiter,Saturn (hợp thành bởi

helium+hydrogen) và hành tinh băng đá Thiên-

vương-tinh,Hải-vương-Tinh,Diêm-vương-Tinh

(hợp thành bởi H2O,NH3,CH4 đóng băng ),như

thế 3 hành tinh ngoài cùng đi ngược lại với luận

cứ tự nhiên của vũ trụ,vì H2O,NH3,CH4 không

có trong Mặt trời mà chỉ có những nguyên tố

thiên nhiên như C O2 N2 H2,vậy H2O,NH3,CH4

ở trong nhóm O2+30H2 , N2+26H2 và C+10H2

,đây mới là vật thể ban đầu có thật trong

Uranus,Neptune và Pluto trong dạng Bảo-Hòa

theo hệ thức M(A+B)=a+(a-b)b và m=b+1 .Nhìn

lại 4 nhóm Bảo-Hòa trong 5 hành tinh ngoài cùng

của Thái-dương-Hệ chúng ta thấy:

1-M(He2+H2)= 8 + (8-2)2=20

suy ra m của M(He2+6H2) là 2.857

Page 59: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 57

(vì trong thực nghiệm các phân tử khí có cùng thể

tích là 22.4 lít,nên phân tử khí ở dưới dạng 2

nguyên tử lượng).Trong cách tính này chúng ta

có:

2-M(O2+H2)=32+(32-2)2=92

suy ra m của M(O2+30H2) là 2.967

3-M(N2+H2)=28+(28-2)2=80

suy ra m của M(N2+26H2) là 2.963

4-M(C+H2)=12+(12-2)2=32

suy ra M(C+10H2) là 2.909

Tất cả nhóm này đều có trị số m gần bằng

nhau,điều này nói lên lý luận chuyển động

Brown vẫn đúng,nhưng không đúng bằng Thuyết

nguyên tử Albert Einstein,vì có Thuyết nguyên tử

con người mới nghĩ đến Thuyết bảo-hòa,Theo

LKC suy luận:"3 nhóm bảo-hòa tạo thành

H2O,NH3 và CH4 được bao bọc bên ngoài lớp

không khí M(He2+6H2),như thế từ Jupiter ra đến

Saturn,Uranus,Neptune và Pluto đều được bao

bọc lớp Bảo-Hòa M(He2+6H2) đều cùng

m=2.857 ,vậy vật thể nào nhẹ nhất sẽ bay xa nhất.

Nhìn lại 3 hành tinh ngoài cùng hoàn toàn bị

đóng thành băng đá do sự hợp thành của

H2O,NH3,CH4 ,bởi sự đóng băng này nên năng

lượng từ Vũ trụ vào không còn dồi dào như lúc

ban đầu,năng lượng âm (để gọi năng lượng từ

ngoài vũ trụ vào Mặt Trời,như thế năng lượng từ

từ nóng dần khi gần Mặt Trời,vậy "tương sinh"

trong khí âm là nhiệt độ càng lúc càng tăng) vào

đến vòng đai Pluto thì bắt đầu chậm lại,bởi thế

không đủ năng lượng cho sự Bảo-Hòa

(O2+30H2),(N2+26H2) và (C+10H2) ,nên hiện

tượng Bảo-Hòa bị vỡ để trở thành H2O,NH3 và

CH4,vật thể hiện có của trái đất này,như thế

chúng bị liên quan đến điều kiện vật lý của địa

cầu mà bị đóng thành băng đá,bởi thế chúng ta

mới có kết quả như trình bày theo các nhà Thiên-

văn học ngày nay.

Tại sao Uranus,Neptune,Pluto giảm tiếp thu năng

lượng?

Để giải thích hiện tượng này LKC,viết tắc của

LucKy-Cham (Sao may mắn),đùa cho vui thôi,đó

là tên viết tắc của tôi,vợ tôi thường nói :tôi chỉ

mang may mắn cho người ta thôi,tôi trả lời:người

ta đang đối diện với tôi đây này,có làm phiền em

không ?Thật ra cũng đã gần tuổi "thất thập lai hy"

nên suy nghỉ cũng có nhiều trục trặc,nếu có sai thì

lỗi ở LKC không được may mắn.Theo LKC ghi

nhận,chúng ta sẽ cùng thấy một hiện tượng hầu

như đã phơi bày tất cả trước mắt:

Tất cả những hành tinh trong Thái-dương-Hệ đều

được bao bọc bởi một lớp khí Bảo-Hòa xung

quanh,luôn luôn trong tình trạng chuyển động và

có hiện tượng thu năng lượng (đây là yếu tố chinh

trong hiện tượng Bảo-Hòa),không những 9 hành

tinh phía ngoài mà ngay cả Mặt Trời cũng trong

tình trạng Bảo-Hòa,LKC cũng nhắc nhở trong các

khí Bảo-Hòa đó đều có một khí "Cháy" rất dễ

dàng.Với những ghi nhận này,chúng ta nhìn lại sự

báo cáo của nhà thiên văn học Jane X Lưu và

Davis C Jewitt cho biết : Jupiter,Saturn là hỗn

hợp của He2 (helium) và H2 (hydrogen) (khí

cháy).Uranus.Neptune,Pluto là hổn hợp của

NH3,H2O,CH4 (khí cháy),trong 3 hành tinh

này,LKC ghi nhận H2O và CH4 cũng trong tình

trạng Bảo-Hòa như sau:

M(H2O+2CH4)=18+2(16)=50 suy ra m=16.66 .

Điều này nói lên hợp chất đóng băng H2O,CH4

và NH3 đồng thể trong dạng một phân tử mới có

phân tử lượng m gần bằng 17 và chuyển động cân

bằng trên qũy đạo của chúng.Qua ghi nhận

LKC,cặp hành tinh Saturn (thổ tinh) và Jupiter

(mộc tinh),tương khắc theo quan niệm ngũ hành

Đông phương,.Thổ khắc Mộc,Saturn và Jupiter

đều bao bọc M(He2+H2) bên ngoài,do bởi đồng

M(He2+H2) nên đẩy lẫn nhau,bởi Saturn nhẹ

hơn,nên Saturn chạy nhanh hơn Jupiter để tiếp

thu năng lượng nhiều hơn.Trong lý luận này,cặp

Sun (Mặt trời) và Mercury (Thủy tinh) cũng

tương khắc với nhau,Hỏa khắc Thủy,nên LKC

nhận rằng lớp khí bao bọc bên ngoài của Sun và

Mercury phải cùng loại khí như nhau và đẩy lẫn

nhau :

Sau đây là dự đoán "phân tử Bảo-Hòa M" cho

từng tinh thể :

-Sun (mặt trời) thì có Ne2(neon) + 2F2

(fluorine).(ghi nhận bởi LKC).

-Mercury thì có Ne2 + 2F2.(ghi nhận bởi LKC)

-Venus thì có F2 (fluorine) + 6O2 (oxygen).(ghi

nhận bởi LKC).

-Earth (địa cầu) thì có O2 + 4N2 (nitrogen).

-Moon (mặt trăng) thì có O2 + 24 He2

(helium).(ghi nhận bởi LKC).

-Mars (hỏa tinh) thì có O2 + 24He2.(ghi nhận bởi

LKC).

-Jupiter (mộc tinh) thì có He2 + 6H2.

-Saturn (thổ tinh) thì có He2 + 6H2.

-Uranus (thiên-vương-tinh) thì có

NH3+H2O+2CH4.

-Neptune (hải vương tinh) thì có

NH3+H2O+2CH4.

-Pluto (diêm-vương-tinh) thì co

NH3+H2O+2CH4.

Cả 3 hành tinh Uranus Neptune và Pluto đều có

NH3+H2O+2CH4 (chúng ta có thể nhận ra

H2O+2CH4 trong dạng Bảo-Hòa

M(A+B)=18+2(16) và m=16.66 gần bằng ptl của

Page 60: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 58

NH3 là 17),chúng bị đóng thành băng đá vì hiện

tượng bảo hòa ban đầu của M(N2+26H2)

,M(O2+30H2) và M(C+10H2) giảm tiếp thu năng

lượng từ không gian bên ngoài qũy đạo của

chúng,vì thế những thể bảo hòa trên từ từ phân

hóa và thải ra năng lượng,kết qủa trở thành

NH3,H2O,CH4,vì hợp chất bào-hòa

M(N2+26H2) , M(O2+30H2) ,M(C+10H2) là bảo

hòa không bền,chúng được phóng ra tận ngoài

cùng của Thái-dương-Hệ là nhờ có lớp Bảo-Hòa

M(He2+6H2) , như thế chúng ta thấy :lúc ban đầu

Jupiter Saturn Uranus Neptune và Pluto đều có

M(He2+6H2) , nhưng bảo-hòa của M(He2+6H2)

chỉ bền vững ở vòng đai Saturn và Jupiter mà

thôi,nên M(He2+6H2) bị vỡ ở 3 vòng đai

ngoài,bảo-hòa M(N2+26H2) , M(O2+30H2) và

M(C+10H2) bị phân hóa trở thành NH3,H2O và

CH4,trong lúc này Saturn lại chạy qúa nhanh,vì

sức đẩy của Jupiter,vì chạy nhanh nên cần năng

lượng nhiều hơn,nhận năng lượng từ ngoài vào và

năng lượng giữa vòng đai Saturn và Jupiter vã lại

Jupiter có tính hấp thu (bởi mộc khắc thổ) năng

lượng từ Saturn,vì chuyển động năng lượng ngoài

vòng Saturn qúa nhanh làm lạnh đóng băng vùng

qũy đạo Uranus,Neptune,Pluto,nên những

H2O,CH4,NH3 bị đóng băng thành đá,đồng thời

Saturn cũng làm giảm vận tốc năng lượng từ

vòng Saturn đến Jupiter,công năng này nói lên

vòng đai Saturn là vòng đai Bảo-Hòa cho năng

lượng âm từ ngoài vũ trụ vào Mặt Trời và năng

lượng dương từ Mặt Trời ra ngoài vũ trụ.

Những nhận thức về cấu trúc của

Jupiter,Saturn,Uranus,Neptune và Pluto do 2 nhà

thiên văn học Davis Jewitt và Lưu-lệ-Hằng phát

hiện,còn về Địa cầu thì chúng ta đã biết rõ ràng,1

Oxygen + 4 Nitrogen,tôi viết hệ thức

M(A+B)=a+(a-b)b và m=b+1 từ nhận thức bầu

không khí chúng ta đương sống,tôi đã áp dụng hệ

thức này để ghi nhận lớp không khí cho Mặt

Trời,Mercury,Mặt Trăng và Mars,điều để chúng

ta lưu ý nhất là : "Không khí ở Mặt Trăng gồm 1

Oxygen + 24 Helium,trong khi đó Địa Cầu gồm 1

Oxygen + 4 Nitrogen,có phải đây là câu trả

lời.Áp suất khí quyển trên Mặt Trăng bằng 1/6 áp

suất khí quyển trên Địa cầu (4/24).

Về phần Mercury cũng có tác động tương tự là

chạy rất nhanh,vì Mặt trời (Sun) và Thủy tinh

(Mercury) có cùng M (Ne2+2F2) bên ngòai,nên

đẩy nhau,Mercury nhẹ hơn nên bị đẩy và chạy

nhanh hơn các hành tinh khác,cũng chính sự

nhanh này nên Mercury không những tiếp thu

năng lượng dồi dào (hiện tượng tương sinh từ

Venus) vào qũy đạo của chính mình mà bên trong

vẫn còn tiếp nhận năng lượng của Mặt Trời,vì

chất của Mặt Trời thuộc Kim (do các nguyên tố

hợp thành,Kim sinh Thủy),như thế vòng đai

Mercury là vòng đai nóng chuẩn bị đưa năng

lượng âm vào Mặt Trời do sự hấp thu của Mặt

Trời chứ không trực tiếp cung cấp cho Mặt

Trời.Nói về năng lượng từ Mặt Trời phóng ra

ngoài vũ trụ,như vừa nói ở trên là do Mặt Trời

cung cấp thẳng cho Mercury,nên nhớ rằng năng

lượng tứ Mặt Trời đưa ra ngoài vũ trụ là năng

lượng với nhiệt độ giảm dần,như thế "tương sinh"

của năng lượng dương từ Mặt Trời phóng ra

ngoài vũ trụ càng xa càng lạnh thêm.Vậy vòng

đai Mercury là vòng đai Bảo-Hòa năng lương đi

vào Mặt Trời cũng như năng lượng từ Mặt Trời đi

ra.đồng thời cũng là vòng đai chuẩn bị đưa năng

lượng dương ra ngoài vũ tru.

Dựa vào 2 nguồn năng lượng này trong tương

quan "Ngũ hành tương sinh tương khắc",chữ

"sinh" ở đây là sinh tồn,chữ "khắc" có nghĩa là

không trọn vẹn,để hiểu rõ về lý thuyết này,tôi lấy

ví dụ như sau:"Tôi gọi điểm sinh là 10 ,thì điểm

khắc có thể là 7 hoặc 8 hay là 11...12.vì hiện

tượng âm dương không thể bị triệt tiêu một mà

phải cần Bảo-Hòa lẫn nhau.

1-Mặt trời tính nóng thuộc Hỏa,nên Hỏa khắc

Thủy nói lên Mặt Trời hấp thu năng lường từ

Mercury vào (yếu hơn),chứ không do Mercury

cung cấp thẳng vào Mặt Trời (để tránh hiện tượng

bức xạ ban đầu khi Thái-dương-Hệ chưa thành

hình)..

2-Mặt khác chất của Mặt Trời là những nguyên

tố nên chất thuộc Kim,Kim sinh Thủy nói lên Mặt

Trời cũng cung cấp (mạnh hơn) đầy đủ năng

lượng dương để Mercury phóng ra cho các vòng

đai bên ngoài Mercury.Năng lượng dương

(hỏa)từ Mặt Trời ra là năng lượng giảm dần nhiệt

độ,nên khi năng lượng đến vòng đai Venus (Kim

tinh),Hỏa khắc Kim,nên Venus hấp thu năng

lượng,tại vòng đai Venus năng lượng dương vẫn

nóng hơn năng lượng âm,nên sự giao hợp của

chúng gây nên "bức xạ nhẹ",chính "bức xạ" mang

năng lượng tiếp tục ra ngòai.

-Kế đến là Địa cầu (thuộc thổ),Hỏa sinh Thổ nói

lên năng lượng dương cung cấp đầy đủ cho Địa

cầu,Hỏa sinh Thổ,nói lên năng lượng đến Địa cầu

được an toàn và đặt mức "tương sinh",không có

hiện tượng "bức xạ".

-Kế đến là Mars (Hỏa tinh),cùng tính Hỏa với

nhau,nên năng lượng cân bằng,do đó giữa vòng

đai Địa cầu và Mars năng lượng dương vẫn nóng

hơn năng lượng âm,sự giao hợp của chúng sinh ra

"bức xạ".

-Kế đến là Jupiter (Mộc tinh),Mộc sinh Hỏa,nói

lên khi năng lượng dương qua khỏi Jupiter năng

Page 61: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 59

lượng mới tăng lên dồi dào,trước khi năng lượng

dương đến Jupiter năng dương vẫn nóng hơn

năng lượng âm,nên sinh ra "bức xạ",chính "bức

xạ" là chất dẫn của nhiệt và ánh sáng là chất dẩn

của "bức xạ",nên khi năng lượng dương qua khỏi

Jupiter,năng lượng tăng lên dồi dào,nghĩa là nhiệt

độ giảm xuống đột ngột.

-Kế đến là Saturn (Thổ tinh),Hỏa sinh Thổ,nói lên

năng lượng càng tăng thêm dồi dào,có nghĩa là

nhiệt độ giảm xuống đột ngột để cân bằng nhiệt

độ của năng lượng âm từ vũ trụ vào,đây là vòng

bảo-hòa bên ngòai của Thái-dương-Hệ..

Vậy vòng Saturn là vòng đai Bảo-Hòa nhiệt độ

lạnh của 2 nguồn năng lượng,"dương" từ Mặt

Trời đưa ra và "âm" từ ngoài vũ trụ đưa vào Mặt

Trời.

Nhìn chung chúng ta thấy Hệ Mặt Trời đã hoàn

tất sự Bảo-Hòa cho chính Mặt Trời và bảo toàn

được năng lượng của chính Mặt Trời phóng

ra.Vòng ngoài thì có Saturn chạy rất nhanh thu

năng lượng âm từ vùng Uranus,Neptune và

Pluto.Vòng trong thì có Mercury chạy rất nhanh

tích trử năng lượng dương Mặt Trời,cũng là vòng

đai Bảo-Hòa nhiệt độ nóng của 2 nguồn năng

lượng,"dương" từ Mặt Trời đưa ra và "âm" từ

ngoài vũ trụ đưa vào Mặt Trời.

Nhìn tổng quát qua sơ đồ hình 2 (cấu tạo Thái

Dương Hệ) để xác nhận sự tương quan giữa

Saturn và Mercury.Nhiệt độ tại Saturn tính lạnh

thuộc Thủy,nhiệt độ tại Mercury tính nóng thuộc

Hỏa,Hỏa khắc Thủy,năng lượng từ ngoài vào do

Mercury hấp thu.Thực chất Mercury (Thủy tinh)

thuộc Thủy, Saturn (Thổ tinh) thuộc Thổ,Thủy

khắc Thổ,năng lượng từ Mercury đi ra do Saturn

hấp thu,điều này nói lên năng lượng nóng từ

Mercury chuyển ra rất chậm,vì năng lượng lạnh

đi vào rất nhanh,nên vòng giao nhau giữa 2

nguồn nóng lạnh này nguồn khí nóng vẫn cao

hơn,do đó có hiện tượng "bức xạ",chính nhờ năng

lượng "bức xạ" tiếp sức,năng lượng từ Mercury

mới đạt đến Saturn trong cái nhiệt độ Bảo-Hòa

quy định,trong diễn tiến như thế cho chúng ta một

cảnh tượng,"bức xạ" đang bao trùm khắp cả vùng

không gian từ vòng đai Mercury đến Saturn theo

chiều giảm dần ra đến ngoài vũ trụ,như vậy quan

niệm "Trẻ Gìa" của con người trong quan niệm

này là "càng ít bị BỨC-XẠ" thì sự lão hóa càng

chậm".Để tường tận quan điểm biến chuyển

này,chúng ta cần biết sự có mặt của Mặt Trời.

Sự thành hình của Hệ Mặt Trờì .

Ban đầu Mặt Trời chỉ là một hình cầu rất lớn,lớn

hơn cái hình cầu hiện có ngày nay,nhưng không

có ánh sáng,chỉ chứa toàn những "Nguyên tố" mà

ngày nay chúng ta biết được:Đó là những

"Nguyên tử" trong bảng tuần hoàn của môn học

hóa-học.Albert Einstein đã trình bày rõ trong

Thuyết nguyên tử" hạt càng nhỏ chuyển động

càng kịch liệt,hấp thu năng lượng càng cao,trong

lý luận này chúng ta thấy khối cầu Mặt Trời càng

lúc càng thu nhiều "năng lượng âm" để trở thành

khối cầu nóng dần rồi phát ánh sáng,trải qua thời

gian rất dài mới có ánh sáng như ngày nay (có thể

hàng triệu năm tính theo thời gian chúng ta đang

dùng.

Ánh sáng (năng lượng ?) phát ra khắp vùng vũ

trụ với những sóng ánh sáng mang từ trường phân

bố đều ở chung quanh,có cường độ từ trường

mạnh từ gần Mặt Trời ra xa thì càng yếu

hơn,chính bởi hiện tượng này,năng lượng âm từ

ngoài vũ trụ dồn dập tới tấp theo sóng từ trường

của ánh sáng đi về Mặt Trời,khối năng lượng âm

này cực lạnh,do đó khi chúng thình lình nhập vào

Mặt Trời,một hiện tượng tiếp diễn mạnh hơn từ

bên trong Mặt Trời,đó là "Phóng-Xạ",vì chính

trong Mặt Trời vẫn cò rất nhiều ion điện tử chưa

kết thành nguyên tố,đó là những proton (+) và

electron (-).

Chính hiện tượng phóng xạ bên trong Mặt Trời

và hiên tượng khối năng lượng âm thình lình đập

vào khối năng lượng dương Mặt Trời, gây nên

hiện tượng "Bức xạ",chính Bức xạ trong thời gian

tic tắc phóng đi các "Nguyên tố Bảo-Hòa" có sẵn

trong Mặt Trời,được bao bọc bởi Khối khí Bảo

Hòa bên ngoài như đã trình bày ở trên,vì hỗn hợp

bên ngoài đều mang đặc tính điện từ riêng biệt

nên được phân bố trên những qũy đạo thích

nghi,điều cần chú ý ở đây là "bức-xạ" mang các

hành tinh đều có lớp không khí bên ngoài là "hổn

hợp bảo-hòa" có một khí "cháy" được,nên LKC

ghi nhận: "Bức xạ" chỉ kéo theo những "hỗn hợp

Bảo-Hòa có 1 khí cháy được",đây là quan điểm

riêng LKC nhận được từ sự thành hình Thái-

dương-Hệ.

Nhìn vào bảng dự đoán "Phân tử Bảo-Hòa) của

các hành tinh chúng ta sẽ thấy:

-Mercury (thủy tinh) có Ne2+2F2 nên m=39 (đt).

-Venus (kim tinh) có F2+6O2 nên m=33 (đt).

-Earth (Địa cầu) có O2+4N4 nên m=29 (đt).

-Moon (mặt trănng) có O2+24He2 nên m=9 (đt).

-Mars (hỏa tinh) có O2+24He2 nên m=9 (đt).

-Jupiter (mộc tinh) và Saturn (thổ tinh) đều có

He2+6H2 nên m=3 (đt).

Riêng về Uranus,Neptune và Pluto,thiên văn học

ngày nay ghi nhận là hỗn hợp đóng băng của

H2O,CH4 và NH3,nhưng chúng ta cũng biết rằng

H2O,CH4,và NH3 không có trong Mặt Trời,vậy

sự phóng ra ban đầu của Uranus,Neptune,Pluto

Page 62: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 60

phải là hỗn hợp khí Bảo-Hòa của

(O2+30H2),(N2+26H2),(C+10H2),những hỗn

hợp khí Bảo-Hòa này đều có m=2.857 đó là hộn

hợp Bảo-Hòa M(He2+6H2) bao bọc bên ngoài

các hổn hợp khí bảo hòa kể trên.. ,

Bởi tính ban đầu của hỗn hợp khí tạo thành

Uranus,Neptune,Pluto nhẹ và nhỏ hơn Jupiter

Saturn nên bị đưa ra xa vòng ngoài cùng của Thái

Dương Hệ.Những dữ kiện này cũng đủ cho chúng

ta thấy mãnh lực của "bức-xạ),và nghiệm lại công

thức E=MC² .chúng ta thấy ánh sáng thật là chất

dẫn của bức xạ.

Trong tiến trình tạo lập Thái-dương-Hệ, chỉ có

năng lượng "Bức xạ"mới đưa các hành tinh

Mercury,Venus,Địacầu,Mars,Jupiter,Saturn,Uran

us,Neptune và Pluto vào qũy đạo của chúng mà

không do sự nổ của Sun như chúng ta thường

tưởng,vì lớp khí Bảo-Hòa bên ngoài không thể

tồn tại được trong sức nóng có lửa bao bọc xung

quanh,đó là điều chúng ta thấy rõ trong cuộc

sống,không khí thổi qua ngọn lửa thì lửa

tắt,nhưng không khí đi trong ngọn lửa thì lửa

cháy bùng lên, nói lên không khí bị phá vỡ,

oxygen được tiếp vào sự cháy.Điều này cũng nói

lên hổn hợp Bảo-Hòa M(H2O+2CH4) cũng có

thể bị phá vở khi chúng xuyên qua một sự

cháy,khi đó CH4 bị cháy đồng thời H2O cũng bị

phân ly trở thành Oxygen và Hydrogen,như thế

năng lượng cháy mạnh hơn bội phần.LKC nhận

được trong tương lai chúng ta sẽ có một loại động

cơ mới dùng cho hỗn hợp nhiên liệu Bảo-Hòa của

H2O+2CH4 ,đây là thời đaị dùng nước để trở

thành năng lượng trợ sức cho nhiên l iệu .

Sự kiện phát hiện của Tiến sĩ Thiên văn học

Lưu-lệ-Hằng và David Jewitt cho biết hổn hợp

đóng thành băng đá của NH3,H2O và CH4 có sự

Bảo-Hòa trong cuộc sống chúng ta,đồng thời

cũng cho chúng ta biết trong tương lai con người

sẽ ứng dụng nguyên tắc Bảo-Hòa của (C+10H2)

và (O2+30H2) để tạo thành năng lượng.

Điều mà con người hiện tại mong muốn là làm

thế nào dùng nước trợ giúp trong nhiên liệu hằng

ngày thì sự kiện M(H2O+2CH4) là ấn tượng rõ

ràng nhất,ngoài ra chúng ta còn có thể có

M(C2H2+8H2O),1phân tử acetylen bảo hòa cùng

8 phân tử nước sẽ tạo thành năng lượng cực mạnh

hơn CH4 (mêtan).

Những sự kiện trình bày theo LKC chỉ là dự kiến

trong tương lai,nên chỉ trình bày một cách ngắn

gọn ở đây để qúy đồng môn Hóa-Học TTPT/SG

cùng góp ý kiến,vì bài viết không thể nào viết đầy

đủ những suy nghĩ và lời cũng khó trình bày hoàn

tất một suy nghĩ của cá nhân,mà phải cần góp sức

bàn luận thì mới đạt kết qủa mỹ mãn.

Quan niệm Trung-Hoa trong Thái Dương Hệ.

Như trên đã trình bày Saturn và Mercury chạy

nhanh hơn các hành tinh kia trên quỹ đạo của

chúng,nghĩalàVenus,Mars,Jupiter,Saturn,Uranus,

Neptune,Pluto có cùng vận tốc di chuyển trên qũy

đạo chúng bằng với vận tốc di chuyển của Địa

cầu trên qũy đạo Earth,chỉ riêng Mercury và

Saturn có vận tốc nhanh hơn.Như vậy nhanh hơn

là bao nhiêu ?Chúng ta nhìn vào quan điểm Vũ

trụ của người Trung-Hoa,Mộc tinh chạy quanh

Mật Trời một vòng,thì Địa cầu chạy quanh Mặt

Trời 12 vòng,12 vòng Địa cầu tương ứng với 12

"chi" của các cung định tuổi cho từng năm mà

chúng ta thường gọi "Địa chi" và 10 "can" gọi là

"Thiên can",Saturn ứng với thập can" trong lý

luận này.

Trời cao hơn Đất,Saturn cao hơn Jupiter,do đó

LKC nhận định,một vòng quanh Mặt Trời của

Saturn tương ứng với 10 vòng quay Địa cầu

quanh Mặt Trời,vì chạy qúa nhanh,nên Saturn

nhân năng lượng âm cực mạnh,tạo vùng bên

ngoài Saturn càng lạnh thêm,nên các vật thể

H2O,CH4,và NH3 thành băng đá,như thế

Uranus,Neptune,Pluto như là trạm điều hòa nhiệt

độ âm đi vào Mặt Trời.Vòng đai Saturn (thổ tinh)

kể như là vòng đất của trời,vì Saturn chủ là Thổ

tinh, trên nữa là Thiên-vương-Tinh,nhưng Saturn

cũng chủ về trời (thiên can,thập can trong khoa tử

vi) của Đất (earth),vậy vòng đai Saturn là vòng

đai Bảo-Hòa bên ngoài của Hệ Mặt Trời,làm

giảm năng lượng lạnh từ vũ tru vào bởi lực hấp

thu của Saturn Thổ tinh,Thủy khắc Thổ,Jupiter

Mộc tinh tiếp tục hấp thu năng lượng từ Thổ

tinh,Mộc khắc Thổ,chúng ta thấy năng lượng âm

đi vào Mặt Trời qua 2 vòng Saturn và Jupiter

trong dạng được hấp thu,điều này nói lên vòng

đai Saturn bắt đầu vòng Bảo-Hòa cho

Jupiter,Mars,Địa cầu,Venus và Mercury (Thủy

tinh),khí lạnh từ vũ trụ vào Mặt Trời dần dần

nóng lên khi đến gần Mặt Trời,sự tương sinh từ

Mộc tinh đến Hỏa tinh,Địa cầu,Kim tinh đến

Thủy tinh (Mercury) là hiện tượng nhiệt độ tăng

dần.

Mercury là sao gần Mặt Trời nhất,có đặc tính

nhận năng lượng nóng từ Mặt Trời,Kim sinh

Thủy,vì Mặt Trời bản chất vẫn thuộc về Kim

(gồm các nguyên tố).Nhưng Mặt Trời thật sự là

nóng,tính thuộc Hỏa,Hỏa khắc Thủy,nên năng

lượng lạnh vào Mặt Trời do Mặt Trời hấp thu vào

để tránh hiện tượng "Bức-xạ" như ban đầu.Điều

này cho chúng ta thấy:Vòng đai Mercury là vòng

Page 63: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 61

Bảo-Hòa năng lượng giữa khí lạnh từ ngoài vũ trụ

vào và khí nóng từ Mặt Trời ra ngoài vũ tru.

Những chuyển lưu khí lạnh từ ngoài vũ trụ vào

Mặt Trời và khí nóng từ Mặt Trời ra ngoài vũ trụ

được định bởi những vòng đai Bảo-Hòa của các

hành tinh trong Thái-dương-Hệ,khi 2 nguồn

Nóng và Lạnh cùng gặp nhau trên vòng đai có

hiện tượng "tương sinh" thì vòng đai đó có hiện

tượng Bảo-Hòa,nghĩa là không có sự "bức xạ"

trên vòng đai này,ngoài ra hầu hết các trường hợp

khác đều có hiện tượng "bức xạ" xẩy ra.

"Bức xạ" là hiện tượng phát sinh giữa 2 nguồn

năng lượng "Nóng Lạnh" giao tiếp không cùng

nhiệt độ an toàn cho nhau,"Nhiệt độ an toàn cho

nhau" là nhiệt độ thích nghi cho sự giao hợp cho

2 thái cực âm dương,người Trung-Hoa định rõ

từng điểm Bảo-Hòa trên những vòng đai thích

hợp cho sự tích điện của từng hỗn hợp khí Bảo-

Hòa,cho nên họ có những định danh cho từng

hành tinh có liên quan đến sự tiến hành thời tiết

trên Địa cầu để mọi người thấy rõ vũ trụ đang

tiến hành tựa như sự tiến hành thời tiết trên qủa

địa cầu này.

Chúng ta nhận thấy khí lạnh đi vào Mặt Trời qua

2 vòng đai Saturn và vòng đai Jupiter trong tình

trạng "hấp thu",nhưng từ vòng đai Jupiter đến

vòng đai Mercury thì trong tình trạng "tương

sinh",nói lên năng lượng từ ngoài vào được ổn

định trên các qũy đạo Mars,Earth,Venus và

Mercury,còn năng lượng nóng từ Mặt Trời ra như

thế nào?Từ vòng đai Mặt Trời ra đến Mercury thì

có "sinh",vì Chất Mặt Trời thuộc Kim,Kim sinh

Thủy,tại vòng đai Mercury là vòng Bảo-Hòa của

khí "nóng" và khí "lạnh" vào Mặt Trời (Kim tinh

sinh Thủy tinh).Trong cách truyền năng lượng từ

Mặt Trời ra ngoài như thế nào ?Đây là hiện tượng

cần lưu ý : "Vì tính Mặt Trời thì nóng,thuộc

Hỏa,ra đến vòng đai Venus Kim tinh,Kim khắc

Hỏa,nói lên năng lượng do Venus hấp thu

vào,nghĩa là năng lượng chưa đến Venus thì tính

"nóng" vẫn nóng hơn tính "lạnh" từ Venus đến

nên có "bức xạ nhe " xẩy ra,chính "bức xạ" mang

năng lượng dương ra dần đến Saturn,bức xạ là

chất dẫn của nhiệt,ánh sáng là chất dẩn của "bức

xạ".Đến vòng đai Địa cầu thì năng lượng đạt đến

điểm "sinh",Hỏa sinh Thổ,tại vòng đai Địa cầu

cũng là điểm "sinh" của nguồn năng lượng "lạnh"

từ ngoài vào,Hỏa sinh Thổ,Hỏa tinh sinh Địa

cầu,điểm này nói lên vòng đai Địa cầu không có

hiện tượng "bức xạ"cũng nói lên vòng đai Địa cầu

là vòng đai Bảo-Hòa ổn định thích hợp cho

những hiện tượng sinh hóa có liên quan đến

Carbon,Oxygene,Nitrogene và Hydrogene.Địa

cầu là trung tâm phát triển sự sống muôn loài trên

trái đất này.

Trong cách nhìn này của hơn 4 ngàn năm

trước,người Trung-Hoa suy luận:"Vũ trụ bắt đầu

bằng một cảnh tối đen và lạnh biểu thị tính Âm,từ

Âm sinh ra Dương,đó là Mặt Trời biểu thị cho sự

Sáng và Nóng.Có Âm Dương sinh ra tứ

tượng,Kim,Mộc,Thủy,Hỏa và Thổ nằm ở

giữa,Âm là Mặt Trăng Dương là Mặt Trời là tiến

trình mới cho sự sinh sôi nẩy nở trên Địa cầu,tạo

ra Xuân Hạ Thu Đông.

Phong mộc mùa xuân sinh huân hỏa.Huân hỏa

đầu hạ, "tướng hỏa" cuối hạ,"thử hỏa" chính hạ

sinh ra thấp thổ.Thấp thổ đầu thu sinh táo

kim.Táo kim cuối thu sinh hàn thủy.Hàn thủy

mùa đông tự sinh hóa đi vòng trở lại từ đầu xuân

hạ thu đông.Xuân đến băng tan (thủy),cây cỏ sinh

trồi,khí trời ấm áp (huân hỏa),vạn vật tốt

tươi.Mùa hạ nắng ấm giữa mùa (thử hỏa) và cực

nóng (tướng hỏa) cuối mùa làm cây cối khô cằn

trở thành thấp thổ (đất trên không) rơi rụng xuống

đất,trở thành táo kim (các nguyên tố hóa học

trong lá cây),lá khô mục nát hòa lẫn trong cái

lạnh của mùa đông (hàn thủy) thắm vào cùng

đất,bồi dưỡng đất phì nhiêu,tuần hoàn thế mãi

bước qua năm khác,đó là khí hóa của đất,đất là

điểm khởi đầu của thảo mộc cũng là điểm cuối

cùng chôn vùi cây lá qua Xuân Hạ Thu

Đông,cũng như Saturn (thổ tinh) trong Thái-

dương-Hệ là Đất của Trời (không gian từ Saturn

ra ngoài vũ trụ),nhưng Saturn (chủ 10 thiên can)

là Trời của Đất (địa cầu),từ vòng đai Saturn vào

đến Mặt trời,thì có Mộc tinh (chủ 12 địa chi),Hỏa

tinh (mars),Địa cầu (earth),Kim tinh

(venus),Thủy tinh (mercury) đều có hiện tượng

tương sinh (năng lượng âm nóng dần).Từ điểm

này chúng ta thấy,"Năng lượng Âm" từ ngòai vũ

trụ vào thì được Mặt Trời hấp thu vào,Thủy khắc

Hỏa và "Năng lượng Dương" từ Mặt Trời ra thì

do Mặt Trời cung cấp đủ cho Mercury,Kim sinh

Thủy,do đó chúng ta có thể nói vòng đai Mercury

(thủy tinh) là vòng Bảo-Hòa của "Khí Âm và

Khí Dương" bên trong của Mặt Trời.Những điều

này nói lên Thuyết Bảo-Hòa nằm trong Thái-

dương-Hệ.Năng lượng âm đi vào Mặt Trời thì do

sư chuyển động nguyên tố trong Mặt Trời mà gây

nên.Năng lượng dương từ Mặt Trời ra thì do

những hiện tượng "bức xạ nhẹ" đưa dẫn ra ngoài

vũ trụ.(năng lượng dương có tính giảm dần nhiệt

độ,nên "tương sinh" ở trong dạng nhiệt độ giảm

dần).

Kết luận.

Page 64: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 62

Bảo-Hòa trong nghĩa quân bằng giữa tính âm và

tính dương,giữa cái mạnh và cái yếu để được cân

xứng với nhau,nhầm để tồn tại chứ không để hũy

diệt,"sinh" nghĩa là bồi thêm đầy đủ,"khắc" là

giảm bớt hay tăng thêm,sinh sinh hóa hóa tương

trợ lẫn nhau,biến đổi không ngừng nhầm để được

"sinh",đó là ý nghĩa của sự Bảo-Hòa.Tôi đưa lên

hệ thức M(A+B)=a+(a-b)b cũng chỉ nhầm thức

tỉnh quan niệm về sự thật của cuộc sống,hệ thức

này nói lên một định luật cân bằng vật thể cũng

như bản chất để ổn định sinh tồn,do đó có hiện

tượng san xẻ điện tử giữa O2 và N2 để địa cầu

chúng ta có bầu không khí trong lành,có số phân

tử lượng (ptl) m riêng cho hỗn hợp 1 phân tử

Oxygene và 4 phân tử Nitrogene,số 4 chính là số

sai biệt ptl O2 và N2 (32-28=4),Nitrogen có tình

đến gần Oxygen rồi Oxygen san xẻ điện tử cho

Nitrogen,cuối cùng hổn hợp hoàn tất như là một

nguyên tố mới,đó là Không khí có ptl = 29 (kết

qủa của ptl N2+1),sự dẩn chứng từ vùng Ozone

toàn là Nitrogen mà không có Oxygen trong

đó,đem lý luận này để trị các tế bào ung thư (gây

bởi tình trạng oxít hóa),thì chúng ta chỉ dùng

những thuốc có tính Nitro hữu cơ nhẹ,vì càng nhẹ

thì sự oxít hóa từ bướu ung thư sẽ phân bố rộng

trên những Nitro hữu cơ bao bọc nó,như vậy tính

gây bệnh yếu dần,bướu sẽ nhỏ lại dần dần đến

chỗ gần như bị tiêu diệt,chính sự hiện hữu của vết

bệnh nho nhỏ này là mầm phát sinh cơ năng phát

triển và sức khỏe chúng ta dồi dào.

Tôi đã gọi hệ thức trên là "Nguyên Lý Bảo-

Hòa",vì công năng của "Nó" qúa rộng lớn,Nó có

thể hướng dẫn chúng ta làm những hợp kim đặc

biệt (bảo-hòa giữa kim loại),để trui đúc kim loại

bền chắc (bảo hòa kim loại và N2),làm những

viên thuốc không gây phản ứng phụ,tôi cũng đã

dùng nguyên lý này giải thích hiện tượng Thời

tiết hiện nay,vì có chùm mây CO2+26H2O có

nhiệt độ làm mưa rất thấp (khỏang 14-15 độ C)

nên gây nên hạn hán và lụt lội.Ngày nay khoa học

phát hiện biển cả là nơi dồi dào H2CO3

(CO2+H2O) là kết qủa của những trận mưa bởi

mây CO2+26.H2O mà tôi gọi đây là những trận

"Mưa thế kỷ 21".

Tiến sĩ Heathe Willauer (Sĩ quan Hải quân Hoa-

Kỳ) cho biết các đại dương còn có những hồ chứa

khổng lồ Hydrogen,Bà cho biết khi chúng ta chiết

xuất H2 và H2CO3 và biến chúng thành nhiên

liệu hóa lỏng,tiến trình này đòi hỏi rất nhiều điện

năng,cần để tiết kiệm,chúng phải dùng nguồn

điện rẻ tiền như nhà máy điện hạt nhân.

Đây là một quan niệm tái xử dụng CO2 thải ra từ

các kỹ nghệ để chế biến nhiên liệu,nhưng phải

dùng điện từ nhà máy điện hạt nhân,nếu đem so

với kết qủa của Hệ Mặt Trời với năng lượng

"bức-xạ" đã đưa CH4 và H2O ra tận ngoài vòng

đai Uranus,Neptune và Pluto,chúng ta biết CO2 +

2H2O là kết qủa của sự cháy hoàn tất của CH4 và

2O2.

Trong phát hiện mới của Tiến sĩ Heathe Willauer

cho chúng ta biết hỗn hợp H2CO3 và Hydrogen

có thể chế biến, nhiên liệu và thí nghiệm đã thành

công,nhưng cần đến điện từ máy điện hạt

nhân,theo quan điểm của Tiến sĩ Heathe Willauer

chúng ta viết:

2.H2CO3+8.H2 cho ra 2.CH4+6.H2O

2.CH4+6.H2O có thể vìết H2O+2CH4+5.H2O

Vậy kết qủa hỗn hợp H2CO3+H2 là hổn hợp của

Bảo hòa (H2O+2CH4) + 5.H2O muốn tách rời

hỗn hợp này chúng ta có thể dùng "bức xạ",vì

"bức xạ" chỉ có tính mang những hỗn hợp Bảo-

Hòa có mang một khí cháy,đây là hiện tượng

được rõ ràng trong sự phóng đi các hành tinh từ

Mặt Trời.Thái Dương Hệ một dẫn chứng cho

Thuyết Bảo-Hòa và đã cho chúng ta thấy qua

trong cấu trúc không khí của Địa Cầu,một nguồn

sống mọi sinh vật,điều này đủ để chúng ta thấy

Hệ thức M(A+B)=a+(a-b)b với m=b+1 là hiện

thân của "Nguyên-Lý Bảo-Hòa".

Liên-khôi-Chương (LKC) Ngày 28/9/2014

Hồi còn nhỏ , do ảnh hưởng của truyện kiếm

hiệp , tui rất mê võ và ước mơ sẽ trở thành cao

thủ võ lâm , nhưng quê tui thì không có trường

dạy võ và gia đình tui thì không có ai biết võ .

Page 65: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 63

Dù vậy niềm mơ ước vẫn luôn âm ỉ trong tui ,

chỉ chờ có dịp để thực hiện .

Rồi một hôm , có 2 người lạ không rõ từ đâu ,

đến tá túc nhà của người hàng xóm tui. Người cha

khoảng lục tuần , dáng dấp tiên phong đạo cốt

với 5 chòm râu suông đuộc . Không thấy Ông

giao du với ai , chỉ thỉnh thoảng vắng nhà vài

hôm , nghe nói là đi xem mạch và hốt thuốc cho

ai đó ở xa .

Còn người con , tuổi trạc 20 – 25 , thật khôi ngô ,

tuấn tú . Anh cũng rất kín đáo

Một đêm sáng trăng , nhìn ra cửa sổ thấy anh

đang luyện võ ngoài sân , tò mò tui ra xem .

Thân hình anh chắc nịch , quyền , cước tung ra

vùn vụt , đẹp nhất là đường roi loang loáng dưới

trăng . Tui há hốc mồm , ngưởng phục .

Từ đó , mỗi khi anh luyện võ , thường có 1 chú

nhóc say mê dự khán . Đôi khi cao hứng , anh

cho tui lấy đất , cát cật lực ném vào anh , nhưng

đường roi phủ kín thân anh nên không một mảnh

nào chạm được vào người . Anh ngày càng có

cảm tình với tui và tui hy vọng sẽ được anh nhận

làm đệ tử ; nhưng rồi một hôm , cả 2 cha – con

đột ngột ra đi và không trở lại .

Mất một dịp may hiếm có, tui tiếc hùi hụi , nhưng

càng nung nấu hơn về việc học võ . Tui bèn thảo

phương cách học lóm võ với mấy thằng bạn cùng

trang lứa .

Quê tui, tuy không có trường dạy võ , nhưng để

kháng chiến chống giặc Pháp , cũng có một số

người biết võ . Tui bàn việc kiếm mồi nhậu để

lấy điểm Ông Thầy võ , tụi bạn đồng ý , thế là

thỉnh thoảng chúng tôi đi bắt dơi . Dụng cụ gồm

1 chiếc vợt lưới lớn hình chữ Y cán dài , 1 lồng

kẻm để nhốt dơi , 1 chiếc đèn lồng , 1 con dơi

mồi . Khi trời tối , chúng tôi đến những gốc cây

nhản , chôm chôm , sa bô chê , mận ... - nơi mà

dơi sen thường đến ăn trái - rồi bóp cho con dơi

mồi đau để nó kêu la ; vì rất có tình đồng loại

nên những con dơi đang ăn gần đó sẽ bay xà

xuống để quan sát , khi lọt vào tầm vợt sẽ bị

chụp và nhốt vào lồng . Ngày mai, khi rảnh rổi

tụi tui tụ lại làm thịt dơi, rô ti với nước dừa xiêm

và rắc thêm chút đậu phọng rang , sau đó mỗi

đứa góp 1 – 2 cắc để mua rượu đế , rồi đến mời

Ông Thầy .

Sẳn mồi , rượu , Ông Thầy chén no nê , đôi khi

hứng chí vung vài cú đấm , đá cho lủ nhóc lé

mắt . Sau đó, tụi tui tụ tập để nhại lại các cú đấm

đá trên những thân cây chuối vô tội .

Sau tiểu học, tui rời quê tiếp tục bậc trung học ở

tỉnh. Mỹ Tho thì có võ đường dường như là lò

Nguyễn SON . Tuy nhiên, vì nhà thật nghèo , nội

tiền cơm tháng đã là gánh nặng của Mẹ tui nên

buổi sáng ngoài mận , cốc , ổi ... hái ở quê để ăn

độn , tui thường không có gì để ăn sáng như

chúng bạn . Do đó dù thật mê võ tui cũng chỉ biết

tự an ủi bằng cách học võ hàm thụ là luyện

chưởng .

Mải đến khi lên Sài Gòn học , dịp may mới đến

với tui . Nhà tui ở cạnh cái nghĩa trang lớn của

người Tàu ở Phú Nhuận . Nghĩa địa này có mặt

tiền nằm trên đường Võ Di NGUY, đối diện với

cổng số 4 của BTTM và trường Sinh Ngữ Quân

Đội . Giữa nghĩa địa là một cái nhà mồ to chứa

hàng trăm bộ cốt, vì trừ những ai có giao kèo

vĩnh viễn, còn sau 60 năm thường người ta khai

quật mồ lên lấy cốt để có đất chôn người khác .

Nhà tui lợp tôle , hè nóng bức lại không có quạt

máy , nên tui thường sang cây cồng thật to cạnh

nhà mồ , gốc cở 2 người ôm , cách đất khoảng

1,5m có 1 cháng đôi , tui leo lên đó học bài vừa

mát , vừa yên tỉnh . Chiều nào , cũng thấy có

Ông Tàu già cùng 2 người trẻ dáng dấp VN và 1

tốp gần 20 cô , chú Tàu con đi vào trong nhà mồ

. Tò mò, tui đến quan sát, qua khe cửa thì thấy họ

đang tập võ . Tui bèn xin thụ giáo. Lúc đầu Ông

Thầy không nhận, nhưng nhờ lũ trẻ hàng ngày đi

ngang thấy tui là thư sinh vắt vẻo trên cây học bài

cũng ngộ nên đôi khi trêu chọc, thấy tui hiền

lành, chúng nói thêm vô và nhất là nhờ 2 anh

người VN xin giùm , cuối cùng tui được nhận .

Thầy Châu Quản Kỳ

Page 66: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 64

Ông Thầy là võ sư Thiếu Lâm Bắc Phái , là người

giàu có ở Trung Quốc , nhưng trong đợt diệt trí –

phú – địa – hào của Trung Cộng , Ông bị bắt chờ

xử tử . Nhờ trước kia tánh hào sảng , hay giúp

người , nên Ông được người thụ ơn lén cởi trói để

trốn sang Hồng Kông , nhưng sợ bị truy lùng

Ông chạy sang VN làm công cho nhật báo Thành

Công ở Chợ Lớn . Đang từ phú quý , vì thất thế

phải làm công nhân và bị xem thường , Ông bỏ

việc đến xin tá túc nhà Ông Từ giữ nghĩa địa Phú

Nhuận . Rồi những khi buồn buồn, ông múa may

những động tác để dản gân cốt. Ông Từ thấy, biết

là người có võ , bèn xin dạy chút đỉnh cho mấy

đứa con . Đang thụ ơn người, Ông Thầy phải đáp

nghĩa . Mấy đứa nhỏ con Ông Từ là ngựa non háu

đá , biết vài thế võ bèn đem khoe với chúng bạn .

Thế là cha-mẹ của những đứa bé này cùng nhau

đến xin Ông Thầy dạy võ giùm cho lũ trẻ . Để

độ nhật Ông Thầy đồng ý và lấy nhà mồ làm nơi

luyện tập . Riêng 2 người VN thì tui không rõ vì

sao lại là đại đệ tử của Ông.

Cả hai anh, học vấn kém tui , nhưng về võ thì họ

thật giỏi . Anh tên KÍNH thật xuất sắc về môn đá

, nên Ông Thầy biến bài phích lịch chưởng thành

phích lịch cước truyền riêng cho Anh . Còn Anh

Phạm Xuân T NG là đại đệ tử thì giỏi cả quyền

lẩn cước .

Phần tui, tuy vô sau nhưng do quyết tâm , nên

thật chuyên cần luyện tập , nhất là những đòn sát

thủ như song long quá hải tức dùng 2 ngón tay

móc mắt , gối bay chỏ sập để hạ gục đối thủ khi

bị chộp ngực ... . Ông Thầy quan sát , thấy tui

say mê với những đòn độc hiểm bèn hỏi nguyên

do . Tui thật thà cho biết là để trả thù và kể lại

chuyện xưa về người hàng xóm gian ác ở quê tui

. « Anh nông dân này to lớn , lực lưởng , rất giỏi

về trồng trọt nhưng tánh tình thật xấu . Anh

thường phá tui bằng cách nhớm những cây xoài ,

mít , mận ... tui trồng mới vừa bén đất để cây đứt

rể chuột mà chết . Ao cá tra, cá chày , mè vinh ,

cá he ... Mẹ tui nuôi thường bị anh lén bỏ thuốc

chống ruồi , muỗi hiệu Mytox khiến cá chết sạch ;

ngoài ra lúc nào anh cũng tìm cách để lấn đất nhà

tui . Hè năm tui khoảng 16- 17 tuổi , như thường

lệ tui về quê phụ giúp Mẹ làm bánh bán . Những

khi rảnh rổi , tui hay đi rong thăm nom vườn

tược , phòng kẻ xấu hái trộm trái cây . Có lần tui

bắt gặp Anh hàng xóm này đang đào đất vườn tui

thảy qua vườn của anh .Tui phản đối , anh sừng

sộ và định đánh tui .Tui thật tức bảo : anh sai trái

lại ỷ lớn làm càn , giờ tui không làm gì được ,

nhưng rồi anh sẽ biết tay tui . Do đó , tui đã quyết

tâm học võ để về trị tội anh « . Nghe xong, Ông

Thầy bèn giảng một mạch về đạo lý của người

học võ , tui thắm thía và từ đó bỏ ý định trả thù

người hàng xóm gian ác dưới quê .

Khoảng năm 1965, Anh đại đệ tử P.X.T rời VN

sang Pháp sống, còn Anh K thì bận học thi nên

cũng ít khi đến luyện võ , tui thay 2 anh phụ Thầy

chỉ dạy cho các em nhỏ nên được Thầy ngày càng

thương . Có lần tập về ngạnh công , tui vừa chặt

gảy 1 cục gạch , Ông Thầy khuyến khích « nị có

thể chặt 2 cục gạch « . Tui nở to mũi , không tập

trung xử dụng chính xác bàn tay , nên thay vì

gạch bể thì ngón tay út của tui lại sưng vù . Ông

Thầy thương cho thuốc rượu để xoa bóp , ngoài

ra còn cho cả toa thuốc nghe nói gốc của dòng họ

Mả Viện để pha chế . Tiếc là khi tui đi lính đã gởi

chiếc rương cho Cô tui ở Chợ Lớn và năm tết

Mậu Thân nhà Cô tui bị VC đốt , cái rương tui

gởi trong đó có những đồ quý như toa thuốc rượu

, cục « ngọc rắn « … cũng bị cháy rụi

.

Năm 1966, tui gia nhập Khoá 17 SQHQ ở Nha

Trang, phải xa Thầy trong niềm luyến tiếc. Hai

năm sau có dịp về Sài Gòn tui đến thăm thì Thầy

đã khuất núi .

Nơi quân trường, ngoài những môn học liên quan

về HQ, trong 2 năm chúng tôi còn phải học môn

võ Thái Cực Đạo - Tae Kwon Do - do những võ

sư Đại Hàn huấn luyện .Một Ông Thầy là Trung

Uý LEE thật cao lớn nhưng rất cởi mở . Có lẻ

cũng giống tui là rất ghét sự trịch thượng của

người Mỹ nên có lần Ông đã mượn rượu để gây

sự và đập gục mấy SQ Mỹ trong câu lạc bộ SQ

đồng minh và bị trục xuất về nước. Ông Thầy

khác là Thiếu Uý KIM, không lớn con nhưng

cũng rất giỏi , mặt Ông thật nhiều mụn - chắc tại

ăn nhiều kim chi - tui không thích Ông chút nào .

Võ Thiếu Lâm thì trọng cả cương lẩn nhu và khi

công thì bao giờ cũng phải thủ , còn TCĐ thì

chuộng cương và nặng về công . Tuy không

thích TCĐ lắm , nhưng tui cũng chuyên cần luyện

tập . Có điều lạ là sau 1-2 lần thi lên đai thì các

SV thậm chí có Bạn thường nằm Bệnh Xá , đều

lên đai , còn tui không hiểu sao vẫn đai trắng cấp

8 . Do thiếu phương tiện nên nơi chúng tôi tập võ

là 1 cái nhà vòm lớn , lợp tôle , sàn xi măng ,

không có bao cát mà chỉ có những cọc gổ đầu cọc

quấn bao bố để võ sinh đấm đá . Ngoài những

Page 67: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 65

bài quyền chúng tôi cũng luôn tập song đấu ;

riêng tui , nhiều lần phải song đấu với Ông Th.U

KIM . Phần tức vì không được lên đai , phần nực

vì khí trời oi bức , có lần song đấu với Ông ta , tui

đã chơi xấu dùng đòn thu phong tảo lạc diệp của

Thiếu Lâm bất ngờ đá quét chân làm Ông xính

vính , đòn kế tiếp thay vì đưa gót chân vào mặt

đối thủ , tui lại đá vào hạ bộ của Ông - đây là

điều cấm kỵ của người học võ . Ông gạt chân tui ,

rồi tức giận phản đòn , cước thứ nhất bị đá vào

mặt , tui dùng tay trái đở , cước thứ hai lại đến ,

tui gạt bằng tay phải và trong khi 2 tay còn lơ

lửng thì cước thứ ba tới mặt , tôi phải dùng tay

mặt đở ngược nên bị lọi ngón tay cái , Ông ta

vẫn chưa tha , đá cước thứ tư vào hạ bộ tui , lần

này thì hết đở và tui bị hạ gục . Đúng là đầu tiên

tui đã chơi xấu , nhưng tui chỉ là võ sinh còn Ông

là Võ Sư , thiệt tình tui không phục Ông .

Rồi một hôm, giận cá tui chém thớt . Tui giở võ

Thiếu Lâm ra dợt một SV bạn , anh này cao lênh

khênh , mang đai xanh cấp 6 , cấp 5 gì đó , còn

tui chỉ 1m65, đai trắng . Không ngờ có Ông

Thiếu Tá Trưởng Nhóm Huấn Luyện Đại Hàn

đứng quan sát ( có lẻ hôm đó Ông thay cho vị võ

sư HL vắng mặt ) . Thấy lạ , Ông vổ tay khích lệ

khiến Anh Bạn tui càng điên tiếc , mất bình tĩnh

và càng lảnh đòn . Ngày nay nghĩ lại về thời tuổi

trẻ háo thắng , tui thật xấu hổ .

Không hiểu sau đó Ông Th.Tá có chỉ thị gì không

, mà mỗi lần thi lên đai tui đều được thăng 2 cấp

và cuối cùng thì mang đai nâu cấp 1 , trong khi

nhiều Bạn khác giỏi hơn thì được nhất đẳng

huyền đai .

Đến 1975 , do số được ở tù nên ngày 29 tháng 04

, tui không ra đi như phần lớn bạn bè mà rời

Vũng Tàu về Sài Gòn để sau đó đi « cải tạo « .

Năm đầu ở Long Giao – Long Khánh , VC chưa

siết bù lon , tù cải tạo chỉ quanh quẩn việc làm vệ

sinh lán trại và học vài bài chính trị tầm phào .

Thời giờ còn lại thì cặm cụi « sắm quà « cho

người thân như làm lược , vòng semaine , đào hà

thủ ô , ............và gải ghẻ ( thời này dịch ghẻ

hoành hành khủng khiếp) . Bản thân tui cũng hoà

nhịp với mọi người , nhưng đôi khi rảnh tui cũng

làm vài động tác để dản gân cốt . Có lần , một

Anh Bạn tù cùng lán thấy tui xử dụng cầm nả thủ

, Anh là người phái Dịch Quyền Đạo cũng rất sở

trường về CNT . Thế là Anh thân với tui và bày

cho tui cách khởi động của DQĐ tức pháp xoay

khớp tay, chân , mình , cổ . Thấy hay ,từ đó đến

nay ngày nào tui cũng tập nhờ vậy mà không bao

giờ bị nhức mỏi ngay cả thời ở tù ngoài Bắc với

« chính sách khô máu « của VC .

Năm 1976 , chúng tôi bị chuyển ra Miền Bắc để

Công An quản lý , thời này quả là « địa ngục trần

gian « , tù bị đối xử còn thua con vật . Trừ « lao

động là vinh quang « , tất cả gì khác đều bị cấm ,

tuy nhiên một bạn tù là Võ Sư Hắc Hổ thuộc

Tổng Cuộc Quyền Thuật VNCH , không hiểu vì

sao Anh mến tui , luôn lén chỉ cho những thế võ

vô cùng độc hiểm ; nhưng tất cả người tù ai cũng

đều bị đói phờ người và chỉ mơ ước « được ăn «

, do không hứng thú nên tui cũng chỉ học qua loa

để Anh Bạn HH khỏi buồn lòng

Võ Sư Phạm Xuân Tòng

Rồi khi vượt biển sang định cư ở Pháp , năm

1985 tui liên lạc được với người đại sư huynh ,

Anh P.X.T lúc đó đai đen 8 đẳng TL , là Chưởng

Môn phái Qwankido ở Toulon ( để nhớ ơn Thầy

chúng tôi tên là Châu Quản Kỳ ) . Hàng năm ,

Anh thường trình diễn ở đại hội võ thuật Bercy

thuộc Q12- Paris . Dù đôi mắt được bịt kín nhưng

với sự chuẩn xác tuyệt vời , cây kiếm của Anh

luôn chém đứt ngọt những trái khóm đặt ở đỉnh

đầu hoặc cổ họng của 3 người ở 3 vị trí khác

nhau .

Tui không may , định cư ở Pháp đúng vào lúc

Đảng CS Pháp cực thịnh , nên phải vô cùng vất

vả để mưu sinh , đêm 12 tiếng bán xăng , ngày

thêm nửa buổi đi phụ đóng bàn ghế , thời giờ ngủ

nghĩ còn không đủ có đâu để mà học võ . Tuy

sau đó , cuộc sống ngày càng thong dong hơn ,

nhưng tui không còn lòng dạ nào để theo đuổi

giấc mơ như hồi còn trẻ .

Ngày nay , tuổi đời đã xế bóng , bầu nhiệt huyết

đã cạn kiệt , tui chỉ còn xem những miếng võ mèo

quào học được như phương tiện để tự tin cũng

như dùng để hổ trợ cho các môn khác như thiền ,

dịch cân kinh , thể dục ... mà tôi tập hàng ngày

cho có sức khoẻ tốt .

Paris 2014 TKD

Page 68: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 66

Trang Thơ

Thơ MẶC NHÂN TVC

Một Gánh Cang Thường

Đường vạn nẽo chân trần trên sỏi đá

Gánh cang thường nặng trĩu mãi bờ vai

Trời cao rộng mà người là sao nhỏ

Bóng xiên xiên bóng trải đỗ đường dài

Đầu cao ngất trong vòm trời cao ngất

Nón lá buông che vạn nẽo đường mòn

Hai thúng nặng tình thương vô bờ bến

Nuôi chồng con chia sẻ việc nước non

Vai oằn nặng hai đầu hai quang gánh

Để tháng năm ròng rã gót chân sờn

Nẽo kỳ khu chân gầy luôn vữnng bước

Thời gian dài mà đỏ mãi lòng son.

Người vời vợi trên đỉnh cao vời vợi

Người vĩ đại trên đỉnh cao vĩ đại

Trong đất trời người ấy Mẹ Việt Nam.

TVC

Nhà nhà sum họp.

Hoa đăng hực hỡ rạng ngời

Rộn tiếng cười vui con trẻ.

Nhận gói lì xì màu đỏ

In hình chữ Phúc thấm tươi.

Cảnh Tết nhà ai ấm cúng

Giữa thị thành yên ẳng đón xuân về

Nắng chói chang gay gắt về trưa

Bỗng một giai điệu lạc loài

Giữa trời xuân như van lơn mời gọi

Bổng trầm hơi oán, hơi ai

Nhói trong tim, dâng trào lên khóe mắt

Chất nước mặn, muôn đời nhà Phật

Ban cho loài người kết tụ trong tôi.

“Ai ăn tàu hủ hôn???!!!...”

Nắng lửa bốc, lời rao lên cao vút

Gió xua đi tiếng gọi chốn hư vô

Tôi trông đợi một lời kêu tế độ

“Tàu hủ!”

Mà sao sa mạc giữa đô thành

Im lặng!

Gánh hàng đây, nhà cửa ai đón xuân

Con cái đâu, đâu cảnh Tết quây quần

Bàn thờ lạnh, nén hương thơm ai đốt?

Tiếng rao hàng lạc giọng giữa bụi trần.

Đầu đội nắng vai oằn đôi quang gánh

Gió về trưa xua đuổi bước chân gầy

Nồi tàu hủ trên vai còn nặng trỉu

Đường vào xuân?

Xa tắp bóng chân mây

******

Từ độ mai vàng biệt nắng xuân

Hoa đào viễn xứ nở bao lần

Thương về trường cũ vế trong mộng

Theo dấu người xưa vọng núi Tần.

******

Page 69: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 67

Un Coeur Sincère peut amollir la pierre

Lòng Chân Thành có thể làm mềm cả đá

(Vạn vật đồng nhất thể)

Tôi từ miền đông đất đỏ

Về miền tây bằng xe bò lọc cọc.

Đổ sạn, xây nhà, làm cầu, đúc cống…

Tôi được bỏ quên sau mẻ đúc sạn cuối cùng.

Lăn lóc đường trần. Vập vùi gió bụi

Nắng mưa không làm tôi nức rạn

Đày đọa càng nhiều thân tôi càng nhẵn

Vì tôi là hạt sỏi vô tri, vô giác

vô tâm, vô thức, vô cảm, vô tình.

Nhưng tôi tồn tại

tồn tại trong tăm tối, lặng căm, vô hồn.

Một bước chân dẫm lên

Một bàn tay nhè nhẹ

Tôi nằm trong bàn tay nhỏ bé

Êm đềm, mịn màng, ấm áp

Một ít nước bọt lau tôi vào vạt áo

Giọt nước bọt, giọt cam lồ, gột rửa bụi trần,

Bàn tay nhỏ bé nâng niu

Đôi mắt nhìn tôi âu yếm

Một nụ cười ban phát cho tôi

Hạnh phúc đầu đời.

Giọt mưa trên đá. Giọt sương trên cát

Mát lạnh đời tôi!

Thân thương đặt tôi vào túi áo

Tôi chuyển mình từ vô thức

Để cảm nhận một điều.

Vô sắc

Vạn vật đồng nhất thể

Nhịp đập từ lồng ngực như lời ru của con tim

Nhẹ nhàng mà rung động

Yếu ớt mà bi hùng. Từ vô thức tôi đi…

Từ vô thức tôi đi…

Anh và tôi như bóng với hình

Ngày đi chơi đáo, nhảy cò, đánh búng…

Đêm về nhà ấm êm trong túi áo, bên lồng ngực

Để hòa nhịp với tiếng đập con tim.

Con tim của anh.

Nóng hổi. Rạt rào. Chan hòa. Vô lượng…

Tôi không còn là hạt sỏi, vô tri cùng cát bụi

Mà là anh. Mà là tôi.

Khắng khít. Hữu cơ. Hữu cảm. Hữu tình…

Với tôi thời gian là vô nghĩa. Trống không mông

lung.

Với anh đến một lúc

Nhịp đập của con tim

sao im lặng?

Hơi ấm tim anh sưởi tôi sao giờ đây giá lạnh?

Tôi cũng lạnh giá, mất rồi!

Anh bất động! Để cùng tôi trở về bất động

như bản thân tôi bất động.

Nhưng tôi vẫn trong túi áo anh

vẫn bên lồng ngực, vẫn bên trái tim anh, dù giá

lạnh .

Mặc cho “con tim ta” không đập nữa

Có gì đâu?!

Anh và tôi cùng đi...cùng đi...cùng đi...

Để cùng hoá kiếp với nhau thôi!

TVC

Người buồn người làm thơ

Tôi buồn tôi làm thơ

Bài thơ buồn không tựa

Nhưng vẫn là bài thơ.

Tôi biết anh thương tôi

Nên gởi anh thơ tôi

Bài thơ buồn không tựa

Vì anh thích thơ tôi.

Tôi viết thơ lá rơi

Có nghĩa gì lá rơi

Vậy mà anh lại bảo

Lá rơi khiến lệ rơi.

Người buồn để lệ rơi

Thu buồn làm lá rơi

Lệ rơi buồn đơn lẻ

Lá rơi buồn khắp trời.

Người buồn hạt lệ rơi

Trời buồn giọt mưa rơi

Lệ rơi làm đá vở

Mưa rơi lạnh ngàn khơi.

Một bài thơ không tựa

Tôi nhờ anh đề tựa

Anh bảo qua lệ rơi:

“Đời người đâu có tựa”.

Trời buồn mưa cứ rơi

Thu tàn lá cứ rơi

Đời người như vô ảnh

Cứ để cho lệ rơi.

Page 70: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 68

(Tặng thầy Tân Văn Công)

Nếu mai mốt anh về có hỏi…

Mấy năm nay anh lại đi đâu?

Anh chỉ vào dòng sông đang chảy…

Nước sông Tiền đưa tới Úc Châu

Ở nơi đó, sống đời tỵ nạn!

Ráng mưu sinh một kiếp con người…

Vì ngôn ngữ không cùng một mẹ

Nên lưỡi anh, cũng ngọng nửa chừng!

Giờ về lại, quê hương mừng quá…

Gặp lại em, nói chuyện tâm tình

Rồi họp bạn nhớ về ngày cũ…

Có ông thầy, từng dạy công dân

Còn khỏe mạnh, cà phê cà pháo…

Cười hồn nhiên, như một ông tiên

Có những bận, kể về quá khứ

Mới ra trường, thầy dạy (xã) Thới Lai

Nhờ tướng tá của thầy cao ráo

Trong đội banh đề cử trọng tài…

Khi thổi phạt, chắc thầy thiên vị?

Nên mãn còi, cầu thủ vây quanh…

Giờ nhớ lại, chuyện xưa tích cũ…

Thầy ung dung nói với học trò

Đời mấy bận lên voi xuống chó!

Suốt đời thầy, ông giáo mà thôi…

Còn em nữa viết bao tác phẩm…

Có cuốn nào ưng ý hay chưa?

Khi cầm viết nhớ điều liêm chính

Đừng bẻ cong cây viết của mình

Ở bên nây, tuần nầy giông bão!

Anh bó mình, ngồi riết trong nhà

Nên hồi tưởng, nhớ về bên đó…

Có ông thầy, tuổi hạc quá cao

Anh thương lắm, đời thầy tận tụy

Với chiếc xe, đạp khắp phố phường

Nếu có rảnh, chở thầy ít bận

Đừng để thầy, xe đạp mỏi chưn…

Hồi năm ngoái, truyền hình tỉnh bạn

Họ chạy về, phỏng vấn thầy mình

Những nhà cổ, tên đường ngày trước

Thầy trả lời, như thuộc bài thi

Nếu mai mốt, em mời họp bạn

Uống dùm anh một tách cà phê

Pha thật đậm cho nhiều vị đắng

Thấm tình đời, mình đã cưu mang./-

Phùng Nhân

Đã mấy tầng cao chớ hỏi chi

Hơn nhau vài chục đã ra gì

Công danh suốt kiếp cờ không gió

Sự nghiệp từng phen đến lại đi

Xóm nhỏ thương thương đôi mắt ướt

Vườn khuya ngóng ngóng một ai về

Ngũ thập niên tiền tam thập lục

Thơ tình gởi bạn vẫn lâm ly.

Lá chờ rơi/Võ Nhựt Ngộ 22/08/2014

Người trượng phu

Dẩu gái hay bà cũng lạ chi

Trẻ xinh già xấu dược hơn gì

Dể thương chấp nhận vui mời ẵm

Khó ghẹo không cần chãnh bỏ đi

Bạc phước chia đường quên cảnh cũ

Tàn duyên gãy gánh tự quay về

Trời kêu phận số đời may rũi

Khổ sướng do phần vĩnh biệt.. ly.

Page 71: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 69

Ai già ai trẻ hỏi làm chi

Tám chục qua sông chẳng dễ gì

Bởi được bẩm sinh dai lại dẽo

Nên thường quen tật đến rồi đi

Sông hồ bể cạn vui chân bước

Thơ phú vần khô đợi ý về

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ

Chưa được gần nhau đã biệt ly.

Lá chờ rơi/Võ Nhựt Ngộ 22/08/2014

Trọng Lễ Âu Dương

Thân mền tặng Chị HộiTrưởng Thi Phia và Em

Jean Tài

Đêm thao thức nhìn đèn khuya mờ tỏ

Ngắm trăng sao nghe tiếng gió rít quanh

Phố dọc ngang nhưng thiếu mái nhà tranh

Nơi Quê Ngoại với sông lành nước ngọt

Đời viễn xứ ai chưa từng đau xót ?

Nỗi nhậm ngùi khi mòn gót phong sương

Nhớ Quê Hương trên khắp các nẻo đường

Từ ruộng lúa đến hoa hương đồng nội….

Từ những con đường quạnh hiu tăm tối

Đến hẻm nghèo che lối bước chân em

Nhớ phố chiều le lói ánh đèn đêm

Nhớ lời ca tiếng hát thật êm đềm…

Hoa trinh nữ mênh mang niềm tâm sự

Đã bao năm mang nỗi sầu viễn xứ

Vẫn nhớ thương màu hoa sứ Quê Hương !

Nhớ điệu ru, tiếng đàn nguyệt canh trường

Nhớ đất Mẹ như Trường Sơn nhớ nắng

Nhớ phố biển những chiều tà hoang vắng

Ngọn gió nam mùi nước mặn thơm tho

Bải các vàng in dấu vết hẹn hò…

Ôi ! Quê Mẹ là con đò đợi khách

Ôi ! Quê Mẹ dù nghìn trùng xa cách

Mãi nhớ thương như tùng bách nhớ rừng xanh…

(Bài thơ này đã đuợc TS Hoài Việt Hội Bạn Văn

dịch ra tiếng Pháp và Nhạc Sĩ minh Sơn phỏ

nhạc.)

Trọng Lễ Âu Dương

Nàng chợt đến nhẹ nhàng như cánh lá !

Như giọt sương rơi buốt giá vai gầy

Và mắt nàng như một trời sầu mộng

Để ta suốt đời thơ thẩn ngất ngây !

Nàng chợt đến hồn nhiên như áng mây !

Như đêm mùa thu phũ bóng trăng gầy

Cho ta quên nắng gió hè thiêu đốt !

Ước mơ hoài ảo vọng quá chua cay !

Nàng chợt đến dịu dàng như nắng sớm !

Cho khu vườn nẩy cành lá đơm bông

Ta bỗng muốn biến thành con chim nhỏ

Hót trên cành giữa giá rét mùa đông !

Nàng chợt đến như nước dòng sông Cửu !

Mang phù sa đến bồi đấp ruộng vườn

Kiếp lưu vong, tương tư trời quê Ngoại

Nên suốt đời mãi hoài vọng cố hương !

Trọng Lễ Âu Dương

Tôi về Đất Mẹ Trà Vinh

Qua cầu Mỹ Thuận xót tình bơ vơ

Lục bình xuôi nước lững lờ

Dòng sông lặng lẽ đôi bờ quạnh hiu

Em đi để nhớ thương nhiều

Để chiều nhạt nắng tiêu đìều xóm quê

Tôi như chìm đắm cơn mê

Dấu chân em mất, lời thề em quên

Chạnh lòng đợi chuyến xe đêm

Qua đường phố cũ càng thêm não nùng

Chiều sương nhuộm trắng cây rừng

Lá khô chân bước ngập ngừng lẻ loi

Giờ đây gốc bể chân trời

Lang thang đất khách một đời đắng cay

Page 72: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 70

Nỗi buồn tiếp nối tháng ngày

Đêm đêm văng vẳng tiếng ai thì thầm… !!!

Nỗi Buồn (traduit en Anglais par Le Sy Đông

(USA)

Coming back to my morthland Trà Vinh

Through My Thuận bridge wich lonely feelings

The hesitant hyacinths drift along with the waters

Between two desert banks of the silent river

My lower, gone apart, left me painful memories

The afternoon had shine weaker, the hamlet more

solitary

Myself totally in day dreams immersed

As your footprints missed, your sworn works

passed

Awaiting the night bus ride I sadly remember you

White I watched Familiar Street passed through

Noctural haze whitens the forest trees

My steps, over dead leaves, hesitate lonely

Now wherever I‘ve been in sadness

I spend an abroad life with bitterness

Over my days sprends melancholy

I hear your words whispering nightly

Kính tặng Thầy MN Tân Văn Công

và Anh Chị TS Võ Thành Dũng…

Trở lại MỹTho, vùng Đất Quê Hương!

Nơi dòng sông Cửu, ngày đêm sóng nhẹ

Dòng Bảo Định, tình yêu và nỗi nhớ

Trưa hè, hàng me rộn rã tiếng ve…

Một sáng lang thang ngắm lại Ngôi Trường!

Ngậm ngùi nhớ Thầy, bạn cũ thân thương

Nhớ mùi cây trái, nhớ khói chiều hôm,

Nhớ phà Rạch Miểu trong bóng hoàng hôn…

Cất bước sông hồ dãi nắng dầm sương!

Tháng năm dài xa xứ nhớ Trung Lương

Nhớ mùa phượng vĩ, quán xá cạnh đường!

Những chiều trúc ty, nhớ quá Định Tường

(Và nhớ mãi người em gái tôi thương)

Trọng Lễ Âu Dương

Trăng lặn đìu hiu sầu đất trích

Đêm tàn im vắng nhịp hò khoan

Ròng lớn nước triều, đời đâu sá

Nước mắt mồ hôi buổi khẩn hoang

Buổi xuân này, trôi về phương nam

Qua mấy vàm sông mấy bến đời

Xuân tình chìm giữa lòng lưu thủy

Xừ xang u líu mộng chơi vơi

Gõ mạn thuyền nương câu vọng cổ

Níu tiếng hò ai bên sông xưa

Đọng bóng ngày xuân miền cố thổ

Vạt tràm hiu hắt sầu trong mưa

Một cánh chim chiều trời phiêu lãng

Sông lục bình trôi cuộc bể dâu

Chén rượu lơi tay, rừng trầm mặc

Mưa xuân mà sao ngỡ mưa ngâu . TR N Đ NG QUANG H

Mưa chiều đông lạc chân xứ lạ

Sương gió bên đời vắng cố nhân

Nghe mưa tuôn điệu buồn rả rích

Lãng đãng rơi tình hạt bâng khuâng

Ngàn lau xót lời thương cổ độ

Triền dốc chim gù vọng xa xăm

Lững lờ trôi nhánh sông năm cũ

Tà áo tình em cánh lãng du

Cành trơ lẵng lặng bờ sương khói

Năm tháng vèo bay giấc mộng đời

Hàm tiếu môi ai cười bẽn lẽn

Tương tư chìm nỗi sầu muôn nơi

Nỉ non gió bấc chiều hoang vắng

Kỷ niệm buồn vui chẳng dỗ dành

Rét mướt ngàn cây đêm thao thức

Chênh vênh hương cũ nhớ tàn canh .

Ngày ghé Melbourne2013

TR N Đ NG QUANG H A

Page 73: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 71

Mặc Nhân TVC

Từ độ mai vàng biệt nắng xuân

Hoa đào viễn xứ nở bao lần

Thương về trường cũ vế trong mộng

Theo dấu người xưa vọng núi Tần.

Tiếng ai hát…

Phím trắng đèn đêm đàn để lạnh

Ai đàn, ai hát, hát ai nghe

Nửa đêm những tưởng lời ngân cũ

Nhưng lại buồn thay! gió lạnh về.

Ta trở về tìm lại chốn hoang khai

Vùng nhật nguyệt trăng sao màu tím ngắt

Biển đông giá, mặt trời còn tím ngắt

Rong rêu vàng, mầu đất chửa phôi phai.

Tôi tìm em, một người em tiền sử

Để nhìn em còn hòa nhập thiên nhiên

Để có được một người em nguyên bản

Của đất trời từ thưở mới khai thiên.

Đôi vai trần chắc nịch, mùi hương xạ.

Mảnh thân gầy mà đồi núi trập trùng

Tôi lạc bước trong hổn mang cơ thể

Để nghe chừng mùi đất biển hòa chung

Đôi mắt em là lửa trời đỏ rực

Mắt thú rừng để soi bóng u minh

Đôi chân trần sòng soài như bẩy sập

Trời vô tình nhìn đến lá nho xanh.

Em vào đời như nước nguồn lửa núi

Nhựa hoa căng sẵn đợi chú ong về

Em hiến trọn và nhận về tất cả

Của đất trời trong khoảnh khắc đê mê.

Nhịp âm dương xoay vần chỉ có thế

Như cỏ cây, như cầm điểu, thú rừng

Em đã đến với đời như mảnh vở

Của đá trời gieo giống xuống trần gian

Rồi đến lúc em cho đời bên vách đá

Ánh thái dương hoàn tất một bào thai

Trong vũng máu đỏ hồng màu sinh khí

Tiếng tu oa khởi điểm một hình hài Mặc Nhân TV

Phím trắng đèn đêm đàn để lạnh

Ai đàn, ai hát, hát ai nghe

Nửa đêm những tưởng lời ngân cũ

Nhưng lại buồn thay! gió lạnh về.

DỊCH THƠ

Nguyễn Văn Quý. Normandie, Pháp.

Je pense à toi quand le violet assombrit le soir

Je pense à toi tous les soirs au brouillard froid

Je pense à toi, je me sens solitaire

Et je murmure sans trêve ton nom toujours cher à

moi.

Bản dịch

Ta nhớ em lúc hoàng hôn tím ngắt

Ta nhớ em trong chiều lạnh hơi sương

Ta nhớ em khi lòng ta trống vắng

Gọi mãi tên em trong từng nhớ thương!

Mặc Nhân TVC

Page 74: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Höi Ai Huu Cuu Hoc Sinh Lê Ngoc Hân & Nguyên Dinh Chiêu MyTho-Âu Châu

Nôi San Xuân Ât Mui 2015 Page 72

Trong thời gian vừa qua Hội Ái Hữu Lê Ngọc

Hân-NguyễnĐình Chiểu MỹTho Âu Châu đã

nhận được các Tin Buồn sau đây :

Và xin Thành Kính Phân Ưu cùng Tang Gia các

Người Quá Cố và Nguyện Cầu cho Hương Linh

Người Quá Cố được về Cõi Bình Yên.

-Bà Quả Phụ Hồ Duy Thiệt – Nhũ Danh Nguyễn

Thị Nhiêu, Thân Mẫu Chị Hồ Thị Bê, Hồ Nguyễn

Mỹ Duyên. . Nhạc Mẫu Anh Lê Quang Hậu

Tạ Thế tại Canberra (Úc Châu) ngày 02- 05- 2014

- Cô Anna Lê Thị Bạch Thu Hà, Cựu Học Sinh

Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu- Cựu

Giáo Sư Trường Trung Học Lê Ngọc Hân :

Từ Trần vào ngày 18- 05-14 tại -MỹTho (Định

Tường) Hưởng Thọ 64 tuổi.

Phu Quân của Cô Trương Thị Mai, cựu Hiệu

Trưởng Trường Nữ Tiểu Học MỹTho:

- Thầy Vương Đình Tuyên Từ Trần vào ngày 27

05 14 - Hưởng Thọ 85 tuổi

- Cụ Ông Nguyễn Văn Chánh - Cựu Tổng Giám

Thị Bệnh Viện Thủ Khoa Huân MỹTho-Cựu

Trưởng Phòng Y Tế Trường Trung Học Nguyễn

Đình Chiểu-Từ Trần vào Ngày 20-06-14 - Hưởng

Thọ 91 tuổI

- Cụ Ông Trần Đức Nhuận – Thân Phụ Giáo Sư

Trần Đức Nam Mãn Phần vào Ngày 16-07- 14 tại

Texas Hoa Kỳ Hưởng Thọ : 95 tuổi

- Bà Nguyễn Thị Sáng - Hiền Thê của Đồng Môn

Trần Văn Tường. Từ Trần tại Melbourne

Australie vào ngày 21 tháng 7 năm 2014

- Cụ Joseph Lâm Chánh Bính, Bào Huynh Bác Sĩ

Lâm Chánh Lý. Mãn phần vào ngày 10 06 14 tạI

Sidney Australie

Hưởng thọ 99 tuổI

- Bà Hồ Thị Xanh (Thanh) Chị Ruột Cô Hồ

Xuân, Thành Vien Ban Chấp Hành

Hội NĐC-LNH MỹTho Nam Californie

Mãn phần vào lúc 7.50 sáng ngày 06 08 14 tại

MỹTho Tiền Giang ViệtNam

Hưởng Thọ 72 tuổi

- Ông Đoàn Doanh Lệ, Cựu Giáo Sư Trường

Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho và

Trường Trung Học Nguyễn Du SàiGòn vừa Tạ

Thế vào Ngày 13 tháng 8 năm Giáp Ngọ tại tư

gia ở SàiGòn – Hưởng Thọ 84 tuổi

- Cụ Bà Catarina Phạm Thị Vẻ - Thân Mẫu của

Giáo Sư Nguyễn Văn Nghĩa

Đã Tạ Thế vào lúc 12 giờ 45 phút ngày 24 tháng

năm 2014. Hưởng Thọ 95 tuổi

- Bà Nguyễn Kim Liên, Cựu Giáo Viên Trường

Nữ Tiểu Học MỹTho, Con Giáo Sư Nguyễn Anh

Bồn, Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu

MỹTho. Đã Tạ Thế vào lúc 19 giờ ngày 11 tháng

12 năm 2014 tại MỹTho. Hưởng Thọ 70 tuổi

- Ông Phêrô Trần Văn Nhựt, Cựu Chuẩn Tướng

Quân Lực ViệtNam Cộng Hoà. Bào Đệ của Giáo

Sư Trần Văn Hoàng (Trường Nguyễn Đình Chiểu

MỹTho). Vừa được Chúa gọi vào lúc 06 giờ 15

sáng ngày 06 01 2015 tại Bệnh Viện Western

Medical Center Tustin Californie (U.S.A.)

Hưởng Thọ 80 tuổi

- Ông Nguyễn Hữu Đức (Pháp danh Tịnh Như

Ngộ) Bào đệ của Chị Nguyễn Túy Vân, Thành

Viên Ban Chấp Hành của Hội. Đã Tạ Thế hồi

17h50 ngày 06 01 2015 nhầm ngày 16 11 năm

Giáp Ngọ, tại Chọ Gạo Tỉnh Tiền Giang Việt

Nam –

Hưởng Thọ 64 tuổi

-Ông Trần Văn Huệ, Nguyên Giáo Sư Trường

Trung Học Chợ Gạo, . Nguyên Chủ Sự Phòng

Học Vụ Sở Học Chành Định Tường. Bào Huynh

CHS Trần Minh Trí Sydney – Úc Đại Lợi

(Australie). Đã Tạ Thế vào lúc 17 giờ ngày 14 01

2015 nhầm Ngày 24 tháng 11 năm Giáp Ngọ,

Tại Phường 4 - Thành Phố MỹTho Tiền Giang

Hưởng Thọ 81 tuổi

- Chị Trần Thị Ngọc Thủy, Pháp Danh Từ Mẫn,

sinh quán tại Mỹ Tho, Cựu Học Sinh Trường Nữ

Trung Học Lê Ngọc Hân - Hiền Thê Anh Nguyễn

Văn Đạt, Cựu Học Sinh Trường Tung Học

Nguyễn Đình Chiểu MỹTho – Em Gái Chị Trần

Thị Ngọc Mai, Cựu Học Sinh Trường Nữ Trung

Học Lê Ngọc Hân.

Vừa Tạ Thế vào Ngày 31 01 2015 tại Chapel Hill

North Carolina U.S.A.

Hưởng Dương được 67 tuổi.

Trong Nỗi Buồn Vô Hạn này, Hội Ái Hữu Lê

Ngọc Hân-Nguyễn Đnh Chiểu, không biết nói gì

hơn, là lòng Thành Kính Phân Ưu cùng Gia Đình

các Tang Gia, Kính mong Quý Vị đừng quá Đau

Buồn mà không tốt cho sức khoẻ.

Xin Nguyện Cầu cho Hương Linh các Người Quá

Cố được An Vui nơi Chốn Vĩnh Hằng.

Ngẩm lại thì sinh ra Kiếp Con Người, có Ai thoát

khỏi vòng Tử Sinh. Đã có Sinh thì Phải có Tử.

Tất cả con Người trên quả Địa Cầu này rồi sẽ mất

hút trong cái không gian vô tận và tan biến trong

cái Thời Gian vô cùng. Trong cuộc đời phù du ảo

mộng, thế sự thăng trầm này, dù ta có được mọi

sự ưu đái của đời, (tiền rừng bạc bể, công hầu

danh tướng) thì cũng chỉ như là đưa tay bắt bóng,

rốt cuộc rồi chỉ là tay không.

(SINH KÝ TỬ QUY MÀ)

Page 75: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Kết qũa Tài Chánh Hội Ái Hữu LNH-NĐC MỹTho Âu Châu:

BANQUE POPULAIRE VAL DE FRANCE

CAISSE

Solde 2013

Solde 2014 Soldes

2 913,19

2 375,07

31/12/2013 63,00

Recettes 849,77

Dépenses 1 387,89

Recettes 120,00

Dépenses -58,00

Total 3 762,96

3 762,96

Total 125,00

Lời kêu gọi của Ban Tài Chánh Hội Ái Hữu LNH-NĐC MỹTho Âu Châu

gởi đến Quý Bạn Đồng Môn và Bạn bè tri kỷ.

****

Trong những năm vừa qua, Hội có chuyển một số tiền nhỏ về Mỹ Tho, kính nhờ Thầy Tấn Văn Công phân phối

cho các học sinh nghèo học giỏi và cũng không quên dành mua quà kính tặng quý Thầy Cô tuổi già cô đơn, nhân

dịp Xuân về, Tết đến.

Thật ra, vì thiếu nhân sự, với ngân qũy eo hẹp, việc làm chưa đáp ứng được sở nguyện của chúng tôi, lúc

nào cũng tha thiết mong ước được mỗi năm giúp đỡ một ít em học sinh ưu tú, nhà nghèo, hiếu học, xứng đáng

được nhận học bổng của Hội Ái Hữu Lê Ngọc Hân – Nguyễn Đình Chiểu – Mỹ Tho Âu châu để các em có chút

an ủi tinh thần lẫn vật chất hầu vững tâm trên bước đường vào bậc Đại học và noi gương sáng cho các đàn em sau

nầy. Ngoài ra, chúng tôi cũng không quên một phần quà nhỏ dành cho quý Thầy Cô tuổi già đơn độc, biểu tượng

lòng biết ơn quý Thầy Cô.

Ban Tài chánh cũng cho biết là với ít nhiều kinh nghiệm, anh Jean Souppaya (Jean Tài) xin lưu ý quý

Bạn hai điểm căn bản : Chúng ta cần đặt lòng tin vào các em, nếu để xẩy ra sự nghi ngờ hay dè dặt nào đó, vô

hình trung chúng ta sẽ tạo mặc cảm của các em đối với thành ý của chúng ta, có ảnh hưởng không tốt cho sự học

tập của các em sau nầy.

Ngoài ra, chúng tôi rất mong quý vị đồng môn và bạn bè tri kỷ bốn phương nhớ đóng niên liễm đều đặn

giúp Hội có thêm phương tiện tài chánh để điều hành Hội và trong đó có việc in ấn tờ Nội san Lê Ngọc Hân –

Nguyễn Đình Chiểu – Mỹ Tho nhân dịp Tết đến hầu duy trì hình ảnh ngôi trường thân thương của chúng ta và là

sợi dây liên lạc giữa các Thầy Cô cùng các bạn đồng môn.

Anh chị Tiến sĩ Võ Hồng Anh đã hưởng úng nhiệt tình đối với việc làm nầy của chúng ta.

BCH Hội Ái Hữu Lê Ngọc Hân – Nguyễn Đình Chiểu – Mỹ Tho Âu Châu

Page 76: Tựa Tác Gi - ndclnh-mytho-usa.orgndclnh-mytho-usa.org/Bai Viet/Noi san Xuan At Mui 2015 (NDC-LNH Au... · Gàng bát sách đôi dòng bài lá năm xưa ... Hỏi Làm Chi - Nhớ

Ban chấp hành Lê Ngọc Hân &Nguyễn Đình Chiểu MỹTho Âu Châu

*****************

Trọng Lễ Âu Dương ghi chép và biên soạn

Đại Hội Kỷ Niệm Ngày Bầu Cử Ban Chấp Hành-Ban Biên Tập-Ban Tài Chánh Niên Khóa 2014 – 2016

vào ngày 07/06/2014 : không thay đổi :

Hội Trưởng : Chị Phạm Thị Phia née Claudine TRAN

Phó Hội Trưởng : Anh Âu Dương Trọng Lễ

Truởng Ban Biên Tập : Anh Âu Dương Trọng Lễ vẫn tạm thời giữ chức Trưởng Ban Biên Tập – có sự trợ tá của

Anh Nguyễn Đức Tăng.

Ban Tài Chánh : Jean SOUPPAYA (Tài), chịu trách nhiệm về tài chánh, in ấn và kỷ thuật vi tính.

Hè về, trên đất Pháp thời tiết ấm áp đầy ánh nắng để trở lại với màu sắc của hoa tươi khoe sắc, cảnh vật cây cảnh

thật đẹp sau một mùa đông lạnh lẽo ảm đạm. Tất cả nơi nơi đều rộn rịp sinh hoạt hè.Dưới cái

nóng như như thiêu đốt của mùa nắng hạn, trời Paris trong sáng. Vài áng mây lơ lửng trên bầu trời xanh. Chúng

tôi, Chị Thi Phia, Trọng Lễ AD và Jean Tài hẹn nhau đến nhà hàng phở HàNội (do Anh Jean Tài lái xe đến đón

Chị Thi Phia và Anh Trọng Lễ) đến sớm, để sắp đặt bàn ghế và treo lên vách. Bức biểu ngữ đuợc kẻ chữ thật

khéo : Chào mừng Đại Hội LNH-NĐC MỹTho Âu Châu, do Anh Nguyễn Đức Tăng viết tặng. Các bạn có mặt tại

hiện trường và chúng tôi rất vui mừng và lòng cũng không tránh khỏi bâng khuâng xúc động, nhớ lại những kỷ

niệm vui buồn của thời học sinh đầy thơ mộng dưới hai mái trường LNH-NĐC Nay đã trải qua bao cuộc bể dâu,

thế sự thăng trầm, nhưng những cựu học sinh của Lê Ngọc Hân/Nguyễn Đình Chiểu vẫn còn đó, vẫn cố gắng

mỗi năm một lần ra một tờ Báo Xuân để dễ dàng liên lạc, họp mặt cùng nhau ít lắm là một năm một lần để nói

cùng quý Vị rằng chúng tôi vẫn còn tiếp tục duy trì Hội Ái Hữu của Hội, mà tờ Nội San là tiếng nói trung thực

nhất của các học sinh LNH-NĐC. Chúng tôi thành phần trong Ban Chấp Hành, Ban Biên Tập và Ban Tài Chánh

không đành buông tay để cho hai Ngôi Trường Lê Ngọc Hân/Nguyễn Đình Chiểu của chúng ta bị đắm chìm

trong lãng quên. Các Bạn tin rằng luôn luôn có các Anh Em đồng môn, đàn anh đi trước, vẫn lo nghĩ về thế

hệ mai sau của các Em và danh tiếng của hai Ngôi Trường thân thương với nhiều kỷ niệm… Dù trước hay

sau,.cũng dều là bạn đồng môn với nhau. Chúng ta phải thương mến, châm chế cho nhau vi chúng ta như anh em

một Thầy.

Với bước đi vô tình và lạt lẽo của thời gian, đã gần nửa thế kỷ lạnh lùng trôi qua, với biết bao nhiêu cảnh thương

hải tang điền mà chúng ta, các bạn đồng môn của thế hệ trước còn đuợc « tha hương ngộ cố tri » như thế này thì

quả thật là một niềm hạnh phúc vô biên…

Quý nhất là nhà văn Hồ Trường An, mặc dù sự xê dịch khó khăn, nhưng Anh chẳng ngại đường xá xa xôi, cố

gắng cùng người bạn đến tham dự ngày Đại Hội, thật đúng với câu : Đường đi khó không vì núi sông cách trở,

mà chỉ e lòng người ngại núi e sông…

Đại Hội hôm nay cũng rất vui mừng có sự tham gia cũa thi văn sĩ Đỗ Bình, chủ tịch Ba Lê Thư Xã cùng phu

nhân là Thúy Hằng đã trình diễn trước khán thính giả nhiều tình khúc nhạc vàng và ngâm thơ rất hay.

Đỗ Bình ngoài tài đàn ca, sáng tác nhạc, còn là một thi văn sĩ viết nên những vần thơ hay – và Thúy Hằng là một

Nữ Nghệ Sĩ ngâm thơ mà hát cũng hay…

Người thứ hai đáng kể ra là Chị Mỹ Hạnh từ Toulouse chẳng ngại đường xá xa xôi, đến Paris để tham dự Ngày

Đại Hội LNH-NĐC, có dẫn theo Cô Em Gái Mỹ Phương rất dễ mến..

Có Anh Tân, cựu Hội Trưởng người Cao Niên hát rất nhiều bản tân nhạc làm cho sinh hoạt ở Hội Trường trở nên

sống động.

Cũng không quên có Anh Chị Tiến Sĩ Võ Hùng Anh đến tham dự. Anh Võ Hùng Anh là em bà con bạn dì với

Chị Nguyễn Kiêm Liêng một thành viên trong Ban Chấp Hành thời Anh Võ Thành Dũng còn là Hội Trưởng Hội

LNH-NĐC Mỹ Tho Âu Châu.

Nhà Hàng Phở HàNội tiếp khách niềm nở, thức ăn tương đối.