tÌm hiỂu ĐẠo tin lÀnh Ở viỆt nam.doc
TRANSCRIPT
Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thứ XVI có
nguồn gốc chính trị, xã hội sâu xa.
I. VỀ TÊN GỌI ĐẠO TIN LÀNH
Tên gọi của mỗi tôn giáo đều mang một ý nghĩa riêng, có
khi nó liên quan đến một địa danh, một nhân vật sáng lập,
một điển tích lịch sử hay mỗi xu hướng giáo lý, thần học.
Cũng có khi tên gọi của một tôn giáo xác định mối quan hệ
mang tính lịch sử... Tên gọi của đạo Tin lành, có một ý
nghĩa riêng và chỉ rõ mối quan hệ giữa đạo Tin lành với
các tôn giáo trong Kitô giáo.
Vào đầu Công nguyên, ở vùng Trung Cận Đông thuộc
vùng đất của đế quốc La Mã xuất hiện một tôn giáo mới
thờ Đấng Cứu thế - ngôi hai Thiên Chúa, tiếng Hy Lạp là
Jésus Christ. Danh xưng Jésus Christ dịch qua tiếng Việt
là Giê-su Ki-ri-xi-tô, gọi tắt là Giêsu Kitô; chữ Jesus dịch
qua âm Hán là Gia tô; chữ Christ là Cơ đốc. Như vậy, đạo
thờ Đấng Cứu thế có những tên gọi theo cách dịch khác
nhau: đạo Kitô, đạo Giatô, đạo Cơ đốc. Từ tôn giáo địa
phương thế kỷ IV đạo Kitô trở thành tôn giáo của đế quốc
La Mã rộng lớn và thường được gọi là Catholic. Thực ra
tên gọi Catholic có từ rất sớm để chỉ những cộng đồng Kitô
giáo ban đầu và nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp:
Katholikos có nghĩa là chung (General), là thông thường
(Common) hay toàn bộ (Universal). Sau này, khi Kitô giáo
phân rẽ thành Công giáo Rôma, Chính thống giáo, Tin
lành, Anh giáo thì trong nhiều trường hợp Catholic (Công
giáo) vẫn chỉ toàn bộ truyền thống Kitô giáo. Ở Việt Nam,
Catholic gọi là Công giáo, có một thời kỳ người Việt Nam
gọi Công giáo là Thiên Chúa giáo. Gọi như vậy không đúng
vì cả Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo đều thờ Thiên
Chúa. Thấy thế, có người bổ sung thêm từ Rôma và gọi là
đạo Thiên Chúa hệ Rôma. Cách gọi này có vẻ rõ hơn
nhưng xem ra cũng không chuẩn xác, nên đã trở lại tên gọi
chính thức của nó là: đạo Công giáo.
Đến thế kỷ XI, cụ thể là năm 1054 Ki-tô giáo diễn ra cuộc
đại phân liệt lần thức nhất, một bên theo văn hoá Hy Lạp,
một bên theo văn hoá La tinh, gọi là phân liệt Đông - Tây,
hình thành tôn giáo mới ở phương Đông: Chính thống giáo
(Orthodoxism). Tên gọi này biểu lộ quan điểm (Dox) thẳng
thắn và đúng đắn (Ortho) của một "giáo thuyết về niềm tin
chân thật". Đôi khi người ta gọi Chính thống giáo là Kitô
giáo phương Đông. Thậm chí trong một số văn cảnh, người
ta dùng các từ Đông phương, Hy Lạp, Constantinople để
chỉ Chính thống giáo, các từ: Tây phương, La tinh, Rôma
để chỉ Công giáo.
Thế kỷ XVI, cuộc đại phân liệt lần thứ hai diễn ra trong
Công giáo, hình thành một tôn giáo mới - đạo Tin lành.
Giáo hội Công giáo và phong kiến châu Âu gọi là đạo
chống đối - Protestantism, khi sang Trung Quốc,
Protestantism dịch qua Hán gọi là "đạo Thệ phản". Cuộc
đại phân liệt lần thứ hai thực chất là cuộc cải cách tôn giáo,
cho nên trong nhiều trường hợp người ta còn gọi đạo Tin
lành là "đạo Cải cách" (Reformism). Đạo Tin lành truyền
vào Việt Nam đầu thế kỷ XX, ở miền Bắc được gọi theo
cách của người Trung Quốc là "đạo Thệ phản", ở miền
Trung gọi là "đạo Giatô", ở miền Nam gọi là "đạo Huê
Kỳ". Đầu những năm 20, 30 của thế kỷ XX giáo sĩ Cadman
người Canada thuộc Hội Truyền giáo Cơ đốc - CMA, cùng
với văn sĩ Phan Khôi dịch Kinh thánh ra tiếng Việt Nam,
hai ông không dịch Phúc âm (Evangelical) là "Tin mừng"
như đạo Công giáo, mà dịch là "Tin lành". Cách gọi Phúc
âm là Tin lành của những người theo đạo Cải cách (Thệ
phản) dần dần thành thói quen và nhất là nó phân biệt
được với đạo Công giáo nên người ta gọi luôn đạo Cải cách
là đạo Tin lành cho đến ngày nay.
Cùng thời gian với việc ra đời đạo Tin lành, xuất hiện một
trào lưu cải cách theo cách riêng ở nước Anh hình thành
Anh giáo - Angelicalsm.
Như vậy, Kitô giáo hay Cơ đốc giáo bao gồm: Công giáo
(Catholic), Chính thống giáo (Orthodoxsm), Tin lành
(Protestantism), Anh giáo (Angelicalism), hay nói cách
khác, đạo Tin lành là "anh em" cùng một gốc với đạo
Công giáo, đạo Chính thống và Anh giáo.
II. HOÀN CẢNH VÀ ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI ĐẠO TIN
LÀNH
1. Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thế XVI có
nguồn gốc chính trị, xã hội sâu xa. Trước hết là sự xuất
hiện của giai cấp tư sản với những yêu cầu mới về chính
trị, xã hội, tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện thời Trung
cổ, Giáo hội Công giáo và giai cấp phong kiến có quan hệ
chặt chẽ với nhau, đạo Công giáo trở thành chỗ dựa tư
tưởng cho chế độ phong kiến, Giáo hội Công giáo bị chính
trị hoá trở thành thế lực phong kiến, giai cấp tư sản đã
thực hiện cuộc cải cách đạo Công giáo để "tháo bỏ hào
quang tôn giáo" của giai cấp phong kiến, để thu hẹp dần
lực lượng và ảnh hưởng của giai cấp phong kiến, trước khi
tiến hành cuộc cách mạng xã hội - cách mạng tư sản để lật
đổ chế độ phong kiến.
2. Đạo Tin lành ra đời thể hiện sự khủng hoảng nghiêm
trọng về vai trò ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo do
những tham vọng quyền lực trần thế và sự sa sút về đạo
đức của hàng giáo phẩm, nhất là sau cuộc "lưu đày
Babylon" (1387 - 1417). Cùng với sự khủng hoảng, uy tín
ảnh hưởng của Giáo hội là sự bế tắc của nền thần học Kinh
viện (hình thành từ thế kỷ XII) - cơ sở quyền lực của Giáo
hội Công giáo.
3. Đạo Tin lành ra đời xét về mặt văn hoá, tư tưởng được
thúc đẩy bằng phong trào Văn hóa phục hưng - chủ nghĩa
nhân văn, chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thế kỷ XV, XVI.
Với chủ trương đề cao con người, đề cao nhân tính, nhân
quyền đối lại việc đề cao thần tính, thần quyền, đề cao tự
do cá nhân, dân chủ và sự hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm
dục vọng và sự ràng buộc của chế độ phong kiến và luật lệ
Công giáo, đề cao lòng yêu nước cụ thể đối lại đề cao lòng
yêu Thiên Chúa và một nước Chúa chung chung diệu vợi...
Văn hoá phục hưng - chủ nghĩa nhân văn đã tạo ra chiều
kích mới về văn hoá, tư tưởng, cách nhìn mới về con người
và tôn giáo, làm cơ sở cho việc nảy nở và tiếp thu những tư
tưởng cải cách tôn giáo.
4. Đạo Tin lành ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các phong
trào chống lại quyền lực Giáo hoàng và Giáo triều Rôma
từ nhiều thế kỷ trước, mà tiêu biểu là một số phong trào từ
thế kỷ XII trở đi, như: phong trào Albigeois (thế kỷ XII) ở
Pháp, phong trào Waldensians (thế kỷ XII) ở Pháp, phong
trào John Wycilff (thế kỷ XIV) ở Anh, phong trào Jerome
Savararola (thế kỷ XV) ở Ý, và nhất là phong trào Jean
Huss (thế kỷ XV) ở Tiệp…
5. Nguyên nhân trực tiếp hay đúng hơn là nguyên cớ của
cuộc cải cách là đời sống sa hoa hưởng lạc của hàng giáo
phẩm trong giáo triều Rôma và nhất là việc giáo hoàng
Leon X ra lệnh ban ơn toàn xá cho những ai dâng cúng
tiền của cho Giáo hội bằng cách cho bán "bùa xá tội".
Những người xướng xuất và lãnh đạo cuộc cải cách không
phải ai khác là những giáo sĩ Công giáo: linh mục, tiến sĩ
Thần học Martin Luther (1483 - 1546), linh mục Thomas
Munzer (1490 - 1525), linh mục Jean Calvin (1509 - 1564),
linh mục Ubric Zwinghi (1484 - 1531)...
Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên ở Đức vào
tháng 11 năm 1517 bằng việc Martin Luther công bố 95
luận đề chống lại chức vụ giáo hoàng, giáo quyền Rôma và
việc bán "bùa xá tội". Từ nước Đức, phong trào lan sang
các nước Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Scốtlen, Ai-rơ-len, Đan
Mạch, Thụy Điển, Na Uy... để đến giữa thế kỷ XVII, sau
cuộc chiến tranh ba mươi năm (1618 - 1648) bất phân
thắng bại, gây nhiều tổn thất, cả châu Âu và giáo triều
Rôma chấp nhận những người cải cách và từ đó hình
thành một tôn giáo mới tách ra khỏi đạo Công giáo - đạo
Tin lành.
III. QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO TIN
LÀNH
Thế kỷ XVII giai cấp tư sản ở châu Âu bước lên vũ đài
chính trị, tự khẳng định mình bằng một loạt cuộc cách
mạng tư sản (cách mạng tư sản Anh 1640, cách mạng tư
sản Pháp 1789...). Đặc biệt, sau đó giai cấp tư sản châu Âu
tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài để
mở rộng thị trường và khai thác nguyên vật liệu. Đạo Tin
lành đã khai thác triệt để hoàn cảnh chính trị, xã hội nói
trên nhằm mở rộng ảnh hưởng. Nếu cuối thế kỷ XVII, mới
có 30 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, đạo
Tin lành có đến trên 100 triệu tín đồ. Thế kỷ XX, với hai
cuộc chiến tranh thế giới (1914 - 1918, 1939 - 1945) và tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ như vũ bão
đã tạo môi trường thuận lợi cho đạo Tin lành phát triển
mở rộng ra nhiều nước trên thế giới. Đạo Tin lành ra đời ở
châu Âu, sau đó truyền sang các nước Bắc Mỹ. Ở Bắc Mỹ
gặp môi trường tự do, đạo Tin lành phát triển, hình thành
nhiều tổ chức, hệ phái. Rồi từ Bắc Mỹ, bằng nhiều con
đường, trong đó có việc nhờ dựa vào vị thế, ảnh hưởng của
Mỹ, đạo Tin lành truyền trở lại châu Âu và lan toả ra toàn
thế giới. Đó là con đường phát triển của đạo Tin lành, đồng
thời lý giải: cái nôi của đạo Tin lành ở châu Âu, còn trung
tâm (điều hành) Tin lành thế giới ở Bắc Mỹ.
2. Một điều cần quan tâm nữa, trong quá trình phát triển,
trước đây và hiện nay, một mặt khai thác điều kiện thuận
lợi như nói trên, mặt khác tự bản thân đạo Tin lành rất
năng động, luôn luôn đổi mới và thích nghi, đặc biệt là chủ
trương "nhập thế", lấy các hoạt động xã hội làm phương
tiện, điều kiện để thu hút tín đồ. Đồng thời do ra đời muộn,
khi địa bàn truyền giáo ngày càng ít. Từ rất sớm, đạo Tin
lành đã hướng các hoạt động truyền giáo đến vùng dân tộc
thiểu số. Trên bình diện thế giới vào những thế kỷ trước,
châu Á, châu Phi, châu Mỹ là những vùng xa xôi của "châu
Âu văn minh". Hiện nay, đối với từng quốc gia, vùng miền
núi, biên giới, hải đảo là những nơi dân tộc thiểu số sinh
sống.
3. Đến nay, chỉ gần năm trăm năm kể từ khi ra đời, đạo
Tin lành phát triển với tốc độ rất nhanh, trở thành một tôn
giáo lớn, đứng thứ ba sau đạo Hồi giáo, Công giáo với
khoảng 550 triệu tín đồ của 285 hệ phái có mặt ở 135 nước
của tất cả các châu lục, trong đó tập trung ở các nước công
nghiệp tiên tiến như Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ.
IV. GIÁO LÝ, LUẬT LỆ, LỄ NGHI VÀ TỔ CHỨC
Đạo Tin lành có nhiều tổ chức hệ phái. Mặc dù có những
điểm khác nhau về nghi thức hành đạo và cách tổ chức
giáo hội giữa các hệ phái, nhưng nhìn chung đều thống
nhất ở những nội dung, nguyên tắc chính. Có thể khái quát
giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức của đạo Tin lành để so sánh
với đạo Công giáo như sau:
1. Kinh thánh và giáo lý
+ Trước hết về Kinh thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và
Công giáo đều lấy Kinh thánh (gồm Cựu ước và Tân ước)
làm nền tảng giáo lý. Đạo Tin lành đề cao vị trí của Kinh
thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin
và sự hành đạo. Đạo Công giáo lại cho rằng ngoài Kinh
thánh còn có những văn bản khác như nghị quyết các
Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp... của Giáo
hoàng, về nguyên tắc cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin
lành đề cao Kinh thánh một cách tuyệt đối, tất cả tín đồ và
chức vụ mục sư, truyền đạo đều sử dụng Kinh thánh, nói
và làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin lành, Kinh thánh
có vị trí cực kỳ quan trọng. Trong các trường hợp, Kinh
thánh giữ vai trò như một giáo sĩ trên cả hai phương diện
mục vụ và truyền giáo.
+ Giáo lý của đạo Tin lành và Công giáo về cơ bản giống
nhau. Cả hai tôn giáo đều thờ Thiên Chúa, tin theo thuyết
"Thiên Chúa ba ngôi" (Ngôi Một: Cha, Ngôi Hai: Con,
Ngôi Ba: Thánh thần; Ngôi Hai được "lưu xuất" từ Ngôi
Một, Ngôi Ba được "lưu xuất" từ Ngôi Một và Ngôi Hai);
tin vũ trụ, muôn vật đều do Thiên Chúa tạo dựng và có
điều khiển; tin con người do Thiên Chúa tạo dựng theo
cách riêng và có phần hồn và phần xác; tin con người có tội
lỗi; tin có Ngôi Hai Thiên Chúa là Giêsu Kitô xuống trần
chịu nạn, chịu chết chuộc tội cho loài người; tin có Thiên
thần và Ma quỷ, có Thiên đàng và Địa ngục; tin có ngày
Phục sinh, Tận thế và Phán xét cuối cùng.
Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín điều truyền
thống của đạo Công giáo được đạo Tin lành sửa đổi và
lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định giữa đạo Tin lành và
Công giáo.
+ Đạo Tin lành tin có sự hoài thai Chúa Giêsu một cách
mầu nhiệm của bà Maria nhưng cho rằng bà Maria chỉ
đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu, sau đó không còn
đồng trinh nữa. Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng
Kinh thánh nói Bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu còn sinh
cho ông Giuse một số người con khác một cách bình
thường. Một số phái Tin lành đã trích dẫn những câu Kinh
thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông Giuse, như
trong sách Matheu ở chương 13 câu 54, 55 có nói: "... Anh
em Ngài (Chúa Giêsu) có phải là Giacô, Giosep, Simson,
Giuđa ?" (Matheu 13; 55,56); hoặc sách Giăng chương 2,
câu 12 còn nói rõ hơn: "Sau việc đó, anh em và môn đệ
Ngài (Chúa Giêsu) đều xuống thành Ca-bê-na-um" (Giăng
2; 12). Do vậy, đạo Tin lành chỉ kính trọng chứ không tôn
sùng thờ lạy bà Maria như đạo Công giáo. Bà Maria chỉ có
công sinh và nuôi dạy Chúa Giêsu, chứ không phải là mẹ
của Thiên Chúa.
+ Đạo Tin lành tin có Thiên sứ, có các thánh Tông đồ, các
Thánh tử đạo và các Thánh khác, nhưng cũng chỉ kính
trọng và noi gương, chứ không tôn sùng và thờ lạy họ như
đạo Công giáo. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh,
hình tượng cũng như các di vật. Không tôn sùng và thực
hiện hành hương đến các Thánh địa, kể cả Giêrusalem, núi
Xinai, đền thánh Phêrô và Phaolô.
+ Đặc biệt, đạo Tin lành không thờ lạy các hình tượng và
họ cho rằng Kinh thánh đã dạy: "Hình tượng là công việc
do tay người làm ra, hình tượng có miệng mà không nói, có
tai mà không nghe, có lỗ mũi mà chẳng ngửi, có tay nhưng
không rờ rẫm, có chân nào biết bước đi... phàm kẻ nào làm
hình tượng mà nhờ cậy nơi đó, đều giống nó" (Thi thiên
115; 4-8).
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đạo Tin lành có dùng
các tranh ảnh, hình tượng trong sinh hoạt tôn giáo nhưng
mang ý nghĩa tài liệu để giảng giải, truyền thụ.
+ Đạo Tin lành tin có Thiên đàng, Hoả ngục nhưng không
quá coi trọng tới mức dùng nó làm công cụ khuyên thưởng
răn đe, trừng phạt đối với con người. Đạo Tin lành không
có Luyện ngục, nơi tạm giam các linh hồn mắc tội nhẹ
đang chờ cứu vớt như đạo Công giáo. Họ cho rằng Kinh
thánh chỉ nói đến Thiên đường, Hoả ngục, không nói đến
Luyện ngục.
2. Luật lệ, lễ nghi
Trong đời sống tín ngưỡng, đạo Tin lành là một tôn giáo
đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin, cho rằng sự cứu rỗi chỉ
đến bởi đức tin chứ không phải vì những "hình thức ngoại
tại" (tức là không phải vì các luật lệ, lễ nghi). Do đó luật lệ,
lễ nghi, cách thức hành đạo của đạo Tin lành đơn giản
không cầu kỳ, rườm rà như đạo Công giáo.
+ Trong bảy phép Bí tích của đạo Công giáo (Rửa tội,
Thêm sức, Giải tội, Thánh thể, Sức dầu, Truyền chức, Hôn
phối) đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép Rửa
tội (Bắptem), phép Thánh thể. Vì họ cho rằng Kinh thánh
chỉ nói đến những phép đó mà thôi. Một số phái Tin lành
có thêm lễ Dâng con trẻ cho Thiên Chúa, dựa theo tích
trong Cựu ước rằng A-bra-ham đã dâng con trai là Y-Sác
cho đức Giê-hô-va.
+ Đạo Tin lành cho rằng phép Bắptem không phải tẩy trừ
tội lỗi một cách linh nghiệm mà đó là sự thay cũ đổi mới
của mỗi con người, một sự liên lạc bằng lương tâm và lý trí
đối với Chúa Trời. Do vậy, người chịu Bắptem phải đủ tuổi
để hiểu biết các lẽ đạo, và nhất là phải ăn ở trong sạch,
không được phạm tội. Nghi lễ Bắptem của đạo Tin lành
được tiến hành theo lối cổ như thánh Gioan rửa tội cho
Chúa Giêsu trên sông Gio-đăng bằng cách dìm cả người
xuống nước, chứ không dội ít nước lên đầu một cách tượng
trưng như Công giáo.
+ Nguyên thuỷ, đạo Tin lành có 3 quan điểm về Lễ Thánh
thể: M. Luther tuy tuyên bố không công nhận "thuyết biến
thể" nhưng lại cho rằng bánh và rượu trong Lễ Thánh thể
cũng là máu thịt Chúa Giêsu, uống rượu và ăn bánh là
uống máu và ăn thịt Chúa Giêsu; U.Zwingli cho rằng Lễ
Thánh thể chỉ đơn thuần kỷ niệm về sự chết của Chúa
Giêsu, bánh và rượu chỉ có ý nghĩa vật chất; J. Calvin
dung hoà quan điểm của Luther và Zwingli, rằng rượu và
bánh trong Lễ Thánh thể vừa có ý nghĩa vật chất (ở bên
ngoài), vừa có ý nghĩa thuộc linh (ở bên trong). Trong quá
trình phát triển, tuy các phái Tin lành còn có những quan
điểm khác nhau về Lễ Thánh thể nhưng nhìn chung đều
phủ nhận "thuyết biến thể" của đạo Công giáo. Đa số phái
Tin lành cho rằng Lễ Thánh thể là kỷ niệm về sự chết của
Chúa Giêsu chuộc tội cho loài người, qua đó nhắc nhở con
người sống xứng đáng với Thiên Chúa. Lễ Thánh thể của
đạo Công giáo được tiến hành với nghi thức rườm rà, tín
đồ chỉ được ăn "Bánh thánh" còn "Rượu thánh" không
được uống mà dành cho các giáo sĩ. Đạo Tin lành thực hiện
nghi lễ Thánh thể đơn giản hơn, tất cả tín đồ và giáo sĩ
cùng uống rượu và ăn bánh. Lễ Thánh thể thường được tổ
chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng.
+ Ngoài hai phép Bắptem và Mình thánh, đạo Tin lành duy
trì các lễ như lễ Nôel, lễ Phục sinh, lễ Dâng con trẻ cho
Chúa, lễ Hôn phối và các nghi lễ khác cho người quá cố...
+ Đạo Công giáo cho rằng con người không những phải
làm việc thiện mà còn phải hãm mình để chuộc tội. Đạo
Tin lành lại quan niệm rằng việc chuộc tội cho loài người
đã có Chúa Giêsu làm trọn rồi. Con người làm việc thiện
để tỏ ra xứng đáng với Thiên Chúa. Con người phải có đức
tin mới được cứu vớt.
+ Tín đồ đạo Công giáo xưng tội trong toà kín với linh mục
là hình thức chủ yếu nhất, còn tín đồ đạo Tin lành xưng tội
trực tiếp với Thiên Chúa. Đạo Công giáo đặt ra nhiều bài
kinh để cho mọi người cầu nguyện hàng ngày (quen gọi là
Kinh nguyện). Đạo Tin lành chỉ tin có Kinh thánh, dùng
Kinh thánh trong tất cả các sinh hoạt tôn giáo. Khi xưng
tội cũng như khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin lành có thể
đứng giữa nhà thờ, trước đám đông để sám hối hoặc nói
lên ý nguyện của mình một cách công khai.
+ Nhà thờ (thánh đường) của đạo Công giáo được xây
dựng tốn kém, kiến trúc đồ sộ theo lối cổ, bài trí công phu
cầu kỳ và cho rằng đó là Nhà Chúa - nơi Chúa ngự một
cách linh thiêng, đặc biệt, trong và ngoài nhà thờ, treo
nhiều ảnh tượng. Nhưng trái lại, nhà thờ đạo Tin lành
thường kiến trúc hiện đại, đơn giản, trong nhà thờ không
có tượng ảnh, chỉ có cây thập giá biểu tượng Chúa Giêsu
chịu nạn. Trong nhiều trường hợp đạo Tin lành chỉ sử
dụng những phòng họp hoặc hội trường đôi khi một nhà
tạm của tín đồ dùng để làm điểm nhóm lễ, chia sẻ lời Chúa
trong Kinh thánh.
3. Chức sắc và tổ chức Giáo hội
+ Chức sắc của đạo Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên
gọi theo Kinh thánh) và dưới mục sư là truyền đạo (còn gọi
là giảng sư). Hiện nay, Hội thánh Việt Nam (miền Nam),
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đều thống nhất
gọi truyền đạo là mục sư nhiệm chức. Một số phái Tin lành
vẫn duy trì chức giám mục, nhất là những hệ phái chịu ảnh
hưởng của Anh giáo. Chức sắc đạo Tin lành chủ yếu là
nam, nhưng cũng có một số phái có tuyển chọn cả phụ nữ
và nhìn chung họ không giữ chế độ độc thân. Chức sắc đạo
Tin lành tuy được coi là "người chăn bày" nhưng không có
thần quyền, tức là không có quyền thay mặt Thiên Chúa
ban phúc, tha tội cho tín đồ, không phải là cầu nối trung
gian trong mối quan hệ giữa tín đồ đạo Tin lành với đấng
thiêng liêng. Quan hệ giữa giáo sĩ với tín đồ bình đẳng, cởi
mở. Có hệ phái Tin lành bầu ra mục sư, truyền đạo theo
thời gian. Chức sắc đạo Tin lành hoạt động dưới sự kiểm
soát của tín đồ, hàng năm tín đồ bỏ phiếu tín nhiệm mục sư
(hoặc truyền đạo) quản nhiệm Hội thánh cơ sở.
Đạo Tin lành chủ trương xây dựng các giáo hội độc lập với
những hình thức cơ cấu khác nhau, tuỳ thuộc vào từng hệ
phái và hoàn cảnh điều kiện cho phép. Có hệ phái Tin lành
duy trì cơ cấu 2 cấp Trung ương và Hội thánh cơ sở (chi
hội), có hệ phái Tin lành duy trì thêm cấp trung gian là
Giáo khu hay Địa hạt (tương đương như giáo phận của đạo
Công giáo). Nhân sự lãnh đạo các cấp giáo hội theo nhiệm
kỳ thông qua bầu cử dân chủ (trực tiếp, bằng phiếu kín,
từng chức danh). Thành phần lãnh đạo Giáo hội không chỉ
có mục sư, truyền đạo mà có cả tín đồ tham gia. Đặc biệt,
các hệ phái Tin lành đều trao quyền tự quản cho hội thánh
cơ sở với tinh thần tự lập, tự dưỡng, tự truyền. Các hệ phái
Tin lành không ngăn cản tín đồ, chức sắc tách ra để gia
nhập các hệ phái khác hoặc đứng độc lập.
+ Đạo Tin lành thường có hai sinh hoạt về mặt tổ chức là
Bồi linh và Hội đồng (đại hội đại biểu). Bồi linh còn gọi là
Hội đồng linh tu được tổ chức hàng năm theo các cấp giáo
hội để nâng cao trình độ giáo lý, thần học cho tín đồ, mục
sư, truyền đạo. Tuỳ theo cấp tổ chức bồi linh mà thành
phần tham dự khác nhau. Nếu bồi linh cấp trung ương thì
chỉ có các mục sư, truyền đạo và những chức vụ chủ chốt
của các chi hội. Nếu bồi linh ở cấp chi hội thì mở rộng đến
các tín đồ. Đại hội đại biểu ở cấp chi hội thường họp mỗi
năm một lần, gọi là Hội đồng thường niên. Hội đồng ở chi
hội có nhiệm vụ tổng kết công việc trong một năm và bàn
chương trình hoạt động của năm tới, bầu ban chấp sự; bỏ
phiếu tín nhiệm mục sư, truyền đạo chủ tọa và bầu chọn
đại biểu đi dự Đại hội đồng cấp trên (nếu trùng nhiệm kỳ
của Đại hội đồng). Đại hội đại biểu trên cấp chi hội là Đại
hội đồng. Thành phần tham dự Đại hội đồng là các mục sư,
truyền đạo và đại biểu tín đồ được cử ở các chi hội.
Đại hội đồng tổ chức theo nhiệm kỳ để giải quyết các công
việc nội bộ, xây dựng hoặc sửa đổi hiến chương (Điều lệ) và
bầu nhân sự lãnh đạo giáo hội.
V. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẠO TIN LÀNH
Qua phân tích quá trình ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ,
lễ nghi, tổ chức giáo hội chúng tôi khái quát một số nét đặc
trưng cơ bản của đạo Tin lành như sau:
1. Đạo Tin lành là tôn giáo tách ra từ đạo Công giáo ở thế
kỷ XVI cùng với sự xuất hiện của giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản. Nội dung cải cách chịu ảnh hưởng sâu sắc tư
tưởng dân chủ tư sản, ý chí tự do cá nhân. Trong sinh hoạt
tôn giáo, đạo Tin lành đề cao vai trò cá nhân. Trong sinh
hoạt về tổ chức, đạo Tin lành đề cao tinh thần dân chủ.
Các luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu tổ chức của
đạo Tin lành đơn giản, nhẹ nhàng không rườm rà, gò bó
như đạo Công giáo.
2. Những nội dung cải cách đã làm cho đạo Tin lành trở
thành một tôn giáo có mầu sắc mới mẻ, thích hợp với giai
cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức, trí thức... thị dân nói
chung trong xã hội công nghiệp. Đặc biệt với lối sống đạo
nhẹ nhàng, đề cao đức tin và vai trò cá nhân, đạo Tin lành
duy trì tín ngưỡng trong mọi hoàn cảnh chính trị, xã hội,
kể cả những khi bị o ép, cấm cách.
3. Đạo Tin lành còn là một tôn giáo có đường hướng và
phương thức hoạt động rất năng động, luôn đổi mới từ nội
dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh xã hội.
Đặc biệt, đạo Tin lành tham gia tích cực vào các hoạt động
xã hội, nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo, lấy đó làm
phương tiện mở rộng ảnh hưởng. Điều này tạo ra uy tín và
khả năng tiếp cận, chung sống với nhiều chế độ chính trị
khác nhau.
4. Ngoài tầng lớp thị dân, đối tượng truyền đạo quan trọng
thứ hai của đạo Tin lành là đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đó là những vùng đất mới - nơi chưa có tôn giáo chính
thống hoặc tôn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy thoái, mất uy
tín, nơi đời sống dân sinh, trình độ dân trí thấp. Truyền
đạo đến những vùng này, đạo Tin lành không những phát
huy lợi thế vốn có "đơn giản về luật lệ, lễ nghi, cách thức
hành đạo" mà còn nghiên cứu rất kỹ đặc điểm lịch sử, văn
hoá, tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của từng dân tộc,
chủ động địa phương hoá, dân tộc hoá để dễ dàng hoà
nhập.
5. Ra đời, phát triển cùng với giai cấp tư sản cho nên đạo
Tin lành có mối quan hệ khá chặt chẽ với giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản sử dụng đạo Tin lành như một thứ vũ khí
trong các cuộc cách mạng tư sản ở thời kỳ đầu và việc tìm
kiếm thị trường thuộc địa sau này. Ngược lại, đạo Tin lành
nhờ dựa vào giai cấp tư sản để củng cố phát triển lực
lượng, kể cả việc lợi dụng các cuộc chiến tranh xâm thực
mà giai cấp tư sản tiến hành.
6. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, từng tổ chức hệ
phái Tin lành, mối quan hệ nói trên có sự thay đổi ở từng
nước, từng khu vực. Thời gian sau này, đạo Tin lành chịu
ảnh hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên
nhiều phái Tin lành tách dần khỏi sự kiềm tỏa của các thế
lực chính trị./.
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử xã hội loài người tôn giáo luôn là đề tài khiến cho mọi con
người, mọi quốc gia, mọi dân tộc đều phải quan tâm và tìm hiểu. Ở nước ta hiện
nay, đã có rất nhiều tôn giáo như: Đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Công giáo… và
đạo Tin lành.
Đạo Tin Lành kể từ khi du nhập đến nay đã có sự phát triển mạnh mẽ, nó
góp phần quan trọng trong đời sống tâm linh, lối sống, niềm tin của con người.
Hơn nữa, khi tôn giáo này truyền vào Việt Nam, con người chưa có sự hiểu biết
đúng đắn, nhiều vấn đề trong đạo cồn là điều bí ẩn khiến con người phải băn
khoăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, tất cả các đề tài cũng có tầm quan trọng không
kém, nhưng đạo Tin Lành ở Việt Nam vừa mang tính thời sự sâu sắc, vừa mang
tính chính trị, vừa mang tính xã hội rõ rệt chính nó đã khiến con người phải quan
tâm và tìm hiểu.
Ngoài ra, xã hội ngày càng phát có nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo,
đặc biệt là đạo Tin Lành, các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo này để chống phá
Đảng, nhà nước và nhân dân. Điều đó khiến cho Đảng và nhà nước không thể
không quan tâm.
Như vậy trên đây là ý nghĩa tầm, tầm quan trọng của đạo Tin Lành. Qua
đó, nó đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu về đạo Tin Lành ở Việt
Nam” để làm đề tài nghiên cứu.
2 Lịch sử nghiên cứu:
Trước khi chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này thì đã có nhiều công
trình nghiên cứu về đạo Tin Lành ở Việt Nam, như luận án tiến sĩ triết học “vấn
đề đạo Tin Lành trong đồng bào dân tộc Hmông và đồng bào dân tộc Dao ở các
tỉnh miền núi phía Bắc” của Nguyễn Khắc Đức; công trình nghiên cứu của GS-
TS Đỗ Quanh Hưng, ĐH Quốc gia Hà Nội với đề tài “mấy vấn đề về thần học
Tin Lành ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ Khổng Quốc Khánh ĐH KHXH&NV
2010 “Tôn giáo và chính trị trường hợp đạo Tin lành ở khu vực Tây Nguyên hiện
nay”, bài tham luận và hồi kí “Đạo Tin lành” của Võ Doãn Nhẫn đăng trên mục
tiểu luận và tạp bút trang saimonthidan.com
3 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Tìm hiểu đạo Tin lành ở Việt Nam
Về thời gian: Từ khi đạo Tin lành được truyến bá vào Việt Nam cho đến nay
4 Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng, làm rõ nguyên nhân sự xâm nhập, phát triển đạo
Tin lành ở Việt Nam. Trên cơ sở đó làm rõ hơn về cái nhìn đối với đạo Tin lành
của người dân Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu chủ đạo
của đề tài là phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, đồng thời bài
nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp điền dã dân tộc
học kết hợp phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp nhằm cung cấp
cái nhìn toàn diện, xuyên suốt về đạo Tin lành ở Việt Nam. Ngoài ra công tác
xác minh, xử lí, đánh giá tư liệu cũng được quan tâm chú trọng để làm sang tỏ
nội dung nghiên cứu.
5 Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, các phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Phong trào cải cách tôn giáo và sự ra đời đạo Tin lành
Chương này điểm qua về sự thống trị của giáo hội Thiên chúa, những
mong muốn cải cách của GCTS đối với giáo hội, nguyên nhân sự ra đời đạo Tin
lành trên thế giới
Chương 2: Sự du nhập, quá trình truyền bá và sự phát triển của đạo Tin lành ở
Việt Nam
Sau khi hình thành nên một tôn giáo mới, điều quan trọng là các mục sư
sẽ rao giảng đạo những vùng đất xa xôi, trong đó Việt Nam là một trong nhưng
nơi các mục sư đạt chân đến để hoàn lành sứ mệnh của công cuộc truyền đạo.
Từ đó đạo Tin lành đã định hình ở Việt Nam và bắt đầu phát triển với những khó
khăn và thử thách
Chương 3: Cách thức tổ chức,các nghi lễ cơ bản và giáo lí của đạo Tin lành ở
Việt Nam
Điểm qua về cách thức tổ chức, các lễ nghi cơ bản và giáo lí của đạo Tin
lành ở Việt Nam
Chương 4: Một số nhận xét rút ra từ việc nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu về đạo Tin lành ở Việt Nam từ khi du nhập, tồn tại
và phát triển đến ngày nay bước đầu nêu lên một số đặc điểm và rút ra những
đóng góp của đạo trong đời sống tinh thần người dân Việt Nam, sự quan tâm
của chúng ta với tôn giáo Tin lành
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO CẢI CÁCH TÔN GIÁO VÀ
SƯ RA ĐỜI ĐẠO TIN LÀNH
1.1 Hoàn cảnh lịch sử
Thời kì trung đại, giáo hội Thiên chúa là một thế lực thống trị về mặt tư
tưởng đầy quyền uy. Giáo hội còn được sự ủng hộ của các lãnh chúa Phong kiến.
Sang thế kỉ XVI giai cấp tư sản muốn loại bỏ những điều trong giáo lý không
phù hợp với cuộc sống kinh doanh của mình, họ muốn những giáo lý phải phù
hợp với trào lưu kinh doanh và lối sống của những người giàu có mới nổi lên. Đó
là nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ lên phong trào cải cách tôn giáo ở Tây âu thế
kỉ XVI.
Nguyên nhân trực tiếp hay đúng hơn là nguyên cớ của cuộc cải cách là đời
sống xa hoa hưởng lạc của hang giáo phẩm trong giáo triều Rooma và nhất là
việc giáo hoàng Leon X ra lệnh ban ơn toàn xá cho những ai dâng cúng tiền của
cho giáo hội bằng cách cho bán “Bùa xá tội”. Những người đề xướng cải cách
không ai khác chính là những giáo sĩ công giáo: linh mục, tiến sĩ thần học Martin
Luther (1483 – 1546), linh mục Thomas Munzer (1490 - 1525), linh mục Jean
Calvin (1509 - 1564), linh mục Ubric Zwinghi (1484 - 1531)...
1.2 Phong trào cải cách tôn giáo và sự ra đời đạo Tin lành
Đầu thế kỉ XVI phong trào cải cách tôn giáo diễn ra ở ba nơi: Đức, Thụy
Sĩ và Anh.
Cải cách tôn giáo ở Đức
Người khởi xướng là Martin Luther (1483 – 1546), ông là con 1 thợ mỏ
nghèo ở Thirighen được học trở thành luật sư.
Năm 1517 ông đã viết “Luận văn 95 điều” dán trước cửa nhà thờ ở trường
đại học Vitenbec tố cáo việc mua bán thẻ miễn tội hồi đó. Trong “Luận văn 95”
điều ông cho rằng việc mua bán thẻ miễn tội là giả dối, chỉ làm lợi cho những
người lợi dụng nó. Ông cho rằng chỉ cần long tin vào Đức Chúa là sẽ được cứu
vớt, ngay cả những nghi lễ tốn kém, phức tạp cũng không cần thiết.
Phong trào đòi cải cách tôn giáo ở Đức diễn ra rất quyết liệt, rất nhiều
người dân đã ủng hộ tư tưởng của Martin Luther và sảy ra xung đột với giáo hội.
Đến 1555 tư tưởng của ông được công nhận, tôn giáo cải cách của Martin Luther
đã từ Đức lan sang nhiều nước khác.
Cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ
Đại biểu cho phong trào cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ là Canvanh (Jean
Calvin). Năm 1536 Canvanh cho xuất bản cuốn “Thiết chế Cơ Đốc”, trong tác
phẩm này ông thừa nhận có Thượng đế và thuyết tam vị nhất thể nhưng chỉ chấp
nhận có kinh Phúc Âm. Ông phê phán việc tu hành khổ hạnh và cho rằng cái
quan trọng nhất là long tin, ông cũng chủ trương khuyến khích việc làm giàu,
chủ trương giảm bớt những nghi lễ phiền phức, tốn kém.
Điểm quan trọng của thuyết Canvanh là thuyết định mệnh. Ông cho rằng
số phận của con người là do Chúa trời định trước, việc bỏ tiền ra mua thẻ miễn
tội không giải quyết được gì. Như vậy là ông chống lại việc mua bán thẻ miễn
tội, cho đó là một trò lừa bịp.
Cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ được đông đảo mọi người ủng hộ. Giơnevơ
(Genève) trở thành trung tâm phong trào cải cách tôn giáo ở Tây âu.
Cải cách tôn giáo ở Anh
Từ đầu thế kỉ XVI, kinh tế TBCN phát triển khá mạnh ở Anh, GCTS lớn
mạnh muốn có một tôn giáo phù hợp với cuộc sống và công việc kinh doanh của
họ.
Lúc đó nhà thờ ở Anh còn chiếm khá nhiều ruộng đất, vua Anh cũng
muốn chiếm một phần ruộng đất của nhà thờ và loại bỏ ảnh hưởng của giáo hội
Rôma đối với vương quyền.
Nhân việc giáo hoàng phản đối việc bỏ vợ của vua Anh lúc đó là Henri
VIII, Henri VIII đã ban “Sắc luật về quyền tối cao” năm 1534, tuyên bố cắt đứt
quan hệ với giáo hội Rooma và thành lập một tôn giáo riêng gọi là Anh giáo.
Anh giáo do vua Anh làm giáo chủ nhưng mọi giáo lí, nghi lễ, phẩm hàm
thì vẫn giống như Thiên chúa. Các giáo phẩm thì do vua Anh bổ nhiệm, mọi
ruộng đất của giáo hội Rooma bị chính quyền tịch thu. Anh giáo như vậy chưa
đáp ứng được yêu cầu của GCTS. TS Anh cần có cải cách triệt để hơn, điều đó
đã dẫn tới sự thành lập Thanh giáo (tô giáo trong sạch). Thanh giáo xóa bỏ hết
tàn dư của đạo Thiên chúa, đơn giản hóa các nghi lễ, cắt đứt liên hệ với Anh
giáo. Họ thành lập một hội đồng riêng, đứng đầu là các Trưởng lão do các tín đồ
bầu ra.
Như vậy thế kỉ XVI ở Tây âu đã có nhiều giáo phái mới ra đời. Các giáo
phái này tuy ở các nước khác nhau, giáo lí cụ thể có điểm không giống nhau
nhưng đều giống nhau một điểm là đơn giản hóa các nghi lễ, cắt đứt liên hệ với
giáo hoàng và tòa thánh Rôma. Họ chỉ tin vào kinh Phúc Âm. Chữ Phúc Âm
dịch ra Tiếng Việt là Tin Lành nên về sau người ta quen gọi là đạo Tin Lành.
CHƯƠNG 2: SƯ DU NHẬP, QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ VÀ
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIÊN ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
2.1 Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa – giáo dục trước khi đạo
Tin lành truyền vào Việt Nam
2.1.1: Tình hình kinh tế
Thực dân Pháp đã xác định chính sách khai thác thuộc địa Đông Dương
với tinh thần là thuộc địa Đông Dương phải được giành riếng cho thị trường
Pháp, nền sản xuất ở đây chỉ được thu gọn trong việc cung cấp cho chính quốc
những nguyên liệu hay những vật phẩm gì mà nước Pháp không có. Công nghiệp
nếu được khuyến khích thì cúng chỉ giói hạn nhằm bổ sung cho công nghiệp
chính quốc, không làm hại đến nền công nghiệp chính quốc.
Nông nghiêp: Đây là ngành đòi hỏi vốn đầu tư ít hơn nhưng lại thu lợi
nhuận rất cao. Thòi kỳ này nông nghiệp được đầu tư ít nhất (40 triệu phơ răng)
vì nhu cầu hàng hóa từ nông nghiệp chưa lớn. Mặc dù vậy Pháp hiểu rõ vị trí của
lĩnh vực này trong tương lai nên dã tìm mọi mánh khóe tàn ác để cướp đoạt và
hợp thức hóa ruộng đất của nông dân. Năm 1890 chung chiếm được 10.000
ha,năm 1913 lên đến 470.000 ha, trong đó vung bị chiếm đoạt nhiều nhất là Nam
kỳ. Đồng thời với việc chiếm đất đó đã xuất hiện những tên điền chủ lớn có
trong tay từ 2000 đến 20.000 mẫu đất như Laba, Lika
Công nghiệp: Chiếm 74% số vốn, cụ thể có các ngành sau: Công nghiệp
khai thac mỏ, được đầu tư nhiều nhất (249 triêu phơ răng) vì ngành này nhanh
chóng thu được lợi nhuận nhiều như than, kẽm thiếc. Thời kỳ này hàng loạt công
ty khai thác mỏ ra đời như công ty than hông gai, công ty than bắc kỳ….. số giấy
phép thăm dò ,khai thác tăng liên tục, năm 1907 có 469 giấy phép được cấp thì
dến năm 1912 lên đến 3.070 giấy.
Công nghiệp nhẹ và chế biến, tập trung vào các ngành sản xuất vải sợi,
gạch, ngói… số lượng các xí nghiệp ngày càng tăng, năm 1903 co 82 xí nghiệp,
năm 1906 tăng lên 200 xí nghiệp.
Thương nghiệp Pháp đã xác định thị trướng Đông Dương phải giành riêng
cho thị trường Pháp. Nhưng thời kỳ này tư bản pháp bị cạnh tranh bởi thương
nhân Hoa kiều và Ấn kiều vì vậy để độc chiếm thị trường Đông Dương, chúng
đã thực hiên hai chính sách: thứ 1, sử dung hàng rào thuê quan, đánh thuế nặng
(5% giá trị hang hóa)vào hàng hóa xuất xứ ở các nước khác và của thương nhân
không phải người Pháp còn hang hóa của pháp đánh thuê nhẹ(2,5% giá trị hàng
hóa). Thứ 2, sủ dụng lực lượng Hoa kiều để lũng đoạn thị trường vì Hoa kiều có
đủ sức mua hang hóa của Pháp để bán lại ỏ Viêt Nam kiếm lời.
Chính sách khai thác thuộc địa thực dân Pháp lần thứ nhất đã phá vỡ nền
kinh tế cổ truyền của Việt Nam nền kinh tế phong kiến đơn thuần mang tính tự
chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến hay là nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa mang hình thái thưc dân mang nặng tính áp đặt, què quặt phiến
diện có sự đan xen giữa các yếu tố TBCN dưới dạng thực dân với những quan hệ
sản xuất phong kiến vẵn được duy trì. Mặc dù vậy,những biến đổi của nền kinh
tế đã thể hiện tính tiến bộ hơn so với thời kì trước.
2.1.2 Tình hình chính trị - xã hội
Sau khi chiếm được nước ta,thực dân Pháp đã đặt ách đô hộ ở nước
ta.Năm 1887 Pháp thành lập Liên Bang Đông Dương gồm 4 xứ: Bắc kỳ, Trung
kỳ, Nam kỳ, Campuchia. Đến ngày 19/4/1899 Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sát
nhập lánh thổ Lào vào Liên Bang Đông Dương. 19/4/1899 Trung Quốc và Pháp
ký 1 bản công ước trong đó nhượng cho Pháp thống trị Quảng Châu trong thời
hạn 99 năm.Từ năm 1900 Quảng Châu Loan được nhập vào Liên Bang Đông
Dương nhưng quản lý theo lãnh địa thuế. Đứng đầu Liên Bang là viên toàn
quyền người Pháp giúp việc cho toàn quyền là Hội Đồng tối cao Đông Dương và
các co quan chức năng khác. Dưới bộ may Liên Bang là bộ máy cai trị các xứ.
Nam kỳ là đất thuộc địa ,thưc dân Pháp trực tiếp nắm quyền về mọi mặt, thường
được goi là chế độ cực trị. Từ năm 1861 đến 1879 đứng đầu Nam kỳ viên đô đốc
người Pháp. Pháp chia Nam kỳ thành 20 tỉnh và hai thành phố Sài Gòn và Chợ
Lớn.Đứng đầu tỉnh là công xứ người Pháp ,dứng đầu thành phố là Chánh đốc lý.
Nam kỳ Pháp không chia thành đơn vị phủ huyện,mà phân chia thành trung tâm
hành chính hoặc sở đại lý, đứng đầu là đốc phủ xứ, tri phủ, tri,huyện. Đơn vị cai
trị ở cơ sở làng xã thời phong kiến bao gồm xã trưởng, hương trưởng và hội
đồng làng mục.
Trung kỳ là đất bảo hộ triều đình. Triều đình nhà Nguyễn được duy trì
nhưng mọi quyền hành đều thuộc về tòa khâm xứ người Pháp đứng đầu .Pháp
chia Trung kỳ thành 14 tỉnh và 1 thành phố Đà Nẵng.Năm 1888 Vua Đồng
Khánh nhượng Đà Nẵng cho Pháp nên goi là đất nhượng địa. Đứng đầu tỉnh là
viên công xứ người Pháp cùng viên Tổng Đốc hoặc Tuần Phủ, người Việt. Dưới
tỉnh là phủ huyện, châu, đứng đầu là tri phủ, tri huyện, tri châu. Tổng là đơn vị
hành chinh trung gian giữa phủ huyện làng xã. Đứng đầu xã và ấp là lý trưởng và
phó lý, còn có hội đông kỳ hào làng mục điều hành moi công việc của một láng
xã như chế độ tự quản. Bắc kỳ là đất nửa bảo hộ, đứng đầu là viên tổng sứ người
Pháp. Năm 1886 Pháp đề nghị triều Huế cử một viên sứ cùng thống trị Bắc kỳ và
viên thống sứ. Đến năm 1879 khi Pháp bình định sang Bắc kỳ dã đề nghị triều
đình Huế bỏ chức vụ này. Toàn Bắc kỳ chia thành 26 tỉnh và hai thành phố Hà
Nội và Hải Phòng. Năm 1888 triều đình nhượng cho Pháp 2 thành phố này nên
gọi là đất nhượng địa.Năm 1891 Pháp cắt 1 số khu vực của 1 số tỉnh để thành lập
4 đạo quan binh Phả Lại, Lạng Sơn, Yên Bái, Sơn La. Năm 1916 Pháp lại đặt
thêm 1 đạo quan binh thứ năm gồm Lai Châu, Thượng Lào. Hệ thống chính
quyền từ tỉnh trở xuống về cơ bản giống như ở Trung kỳ, các chức vụ ở tỉnh đều
do người Pháp nắm còn cấp dưới tỉnh do người Việt nắm.
2.1.3 Tình hình văn hóa – giáo dục
Văn hóa
Thực dân Pháp đã xuất bản 1 số từ báo, tạp chí bằng chữ quốc ngữ như Nam
Trung Nhật Báo, Đại Việt quan báo đắc lực cho chính sách thực dân, cổ xúy cho
tư tưởng than Pháp Tuy nhiên có một số tờ báo tiến bộ theo lối tư bản chủ nghĩa,
bao hàm mở rông công thương nghiệp xóa bỏ khoa cử, người theo tây học Pháp
giúp đỡ 1 số học giả xuất bản bằng chữ Hán, chữ Nôm, Quốc ngữ, như Trương
Vĩnh Ký, Trần Chinh Phụ. Tình hình sinh hoạt văn hóa có ít nhiều biên đổi
nhưng chủ yếu ở các đô thị còn vùng nông thôn vẵn bị kìm hãm, trong chính
sách bần cùng hóa và ngu dân hóa của thực dân, phong kiến. Những thói hư tật
xấu, các tệ nạn xã hội tràn lan và vẫn được dung dưỡng. Những chính sách
chinh trị văn hóa giáo dục trên đây của thực dân pháp nhằm mục đích cuối cùng
là kìm hãm nhân dân ta trong tình trạng ngu muội mất đoàn kết dân tộc và tinh
thần đấu tranh để từ đó dễ bề cai trị và bóc lột.Các chính sách đó vô cùng thâm
độc.
Giáo dục
Pháp duy trì hệ thống trường Hán học chia làm 3 cấp. Bậc ấu học ở các làng xã
học chữ Nho, thêm 1 ít chũ quốc ngữ và 1 số ít kiên thức khoa học phổ thong.
Bậc tiểu học ở phủ huyện dạy chữ Hán, quốc ngữ, lịch sử, địa lý ở mức sơ đẳng,
chữ Pháp là môn học tình nguyện. Bậc trung học ở tỉnh, học các môn như trường
huyện, nhưng chữ Pháp là môn bắt buộc, cùng với hệ thống trường học này các
kỳ thi hương hội đình vẫn mở như cũ. Các kỳ thi hương hội đình vẫn mở như cũ.
1905 toàn quyền Bô chủ trương cải cách giáo dục,Bắc kì và Trung kỳ mở
thêm bậc tiểu học Pháp Việt. Năm 1906 chỉ có 25 trưởng loại này, ngoài ra Pháp
mở thêm trường sư phạm Hà Nội, Nam Định, các trường chuyên nghiệp và
xưởng học nghề …
Năm 1915 Pháp bác bỏ kỳ thi hương ở Bắc kỳ, năm 1918 bỏ kì thi hương
ở Trung kì, và đến năm 1919 bỏ luôn kỳ thi hội ở Huế đánh dấu sự chấm dứt tồn
tại chế độ khoa cử phong kiến ở nước ta. Tháng 6/1919 Khả Định ra chỉ dụ bãi
bỏ các trường chữ Hán. Nhưng chính giáo dục nhằm tạo điều kiện cho văn minh
phương Đông chế ngự, loại bỏ dần chữ Hán, nhằm đào tạo 1 lớp tri tức Tây học,
tầng lớp thượng lưu trí thức phuc vụ cho chính quyên thực dân dễ cai trị đất
nươc ta. Tuy nhiên, không phải tất cả những trí thức tây học ấy vụ cho thực dân,
ngược lại đã xuất hiện 1 số trí thức Tây học đầy tinh thần yêu nước và đầu tàu
trong cuộc tiếp xúc văn hóa đông tây, ở Viêt Nam trước đó.
2.2 Sự du nhập và quá trình truyền bá đạo Tin lành vào Việt Nam
2.2.1 Sự du nhập
Tháng 2 năm 1887 tiến sĩ A.B. Simpson người sáng lập Hội truyền giáo
Phước Âm Liên Hiệp đã nhận định trong tạp chí “ The word, the word and the
word” như sau : “ Miền bán đảo Đông Nam Á đã bị lãng quên quá nhiều. Đại
vương quốc An Nam, cùng với Tây Tạng cần được xem là cánh đồng truyền giáo
của Hội”
Một số người cho rằng các giáo sĩ La Mã là những người đặt chân đầu
tiên đến Việt Nam vào khoảng thế kỉ X. Thời vua Lê Anh Tông (1557-1573) một
thánh giá đã được tìm thấy trong một khu đền cổ.
Dù đã từng có các thương gia, sĩ quan Tin Lành Pháp làm việc ở Việt
Nam, thậm chí giáo Hội Tin Lành Pháp đã từng gửi Mục sư sang Hải Phòng
(1884) để chăm lo cho các tín hữu Tin Lành Châu Âu, thì việc truyền bá cho
người Việt Nam vẫn bị lãng quên.
Năm 1886 Mục sư Boisset kêu gọi Hội truyền giáo Pháp sớm gửi giáo sĩ
đến truyền giáo tại Việt Nam vì cánh cửa đang mở hãy đến ngay kẻo trễ. Thế
nhưng, giáo hội Tin Lành đã bỏ qua cơ hội quí báu để đem Tin Lành đến Việt
Nam.
Năm 1893 Mục sư David Lelachear đến thăn Sài Gòn và trở về báo cáo
với tiến sĩ A.B.Simpson tại Singapore rằng cánh cửa tại Việt Nam cũng như toàn
xứ Đông Dương thuộc Pháp đã mở cửa cho việc giảng Tin Lành.
Do chính quyền Pháp-Việt lúc đó chỉ cho phép giáo sĩ của Công giáo Pháp
và Tây Ban Nha được truyền bá đạo còn các giáo sĩ ngoại quốc khác đều bị cấm,
nên Tiến sĩ A. B. Simpson quyết định thành lập cơ sở truyền giáo tại tỉnh Quảng
Tây, Nam Trung Hoa để làm bàn đạp tiến vào Việt Nam, ông bà giáo sĩ
C.H.Reeves đã được phái đến Quảng Tây.
Năm 1897 giáo sĩ C.H.Reeves đã vượt qua biên giới Hoa- Việt vào thăm
viếng tỉnh Lạng Sơn
Năm 1899, giáo sĩ R.A.Jaffray vượt biên giới Hoa- Việt đi dọc theo song
Hồng đến Hà Nội, nhưng không đặt được điểm tựa nào cho việc truyền giáo.
Năm 1902, Hội truyền giáo nghĩ rằng người nói tiếng Pháp vào xứ thuộc
Pháp sẽ dễ dàng hơn nên đã cử ông bà Sylvan Dayan người Canada thuộc Pháp
sang Việt Nam. Ông bà Dayan đến Hải Phòng với kế hoạch mở một cơ sở truyền
giáo tại Bắc Kì, nhưng bị chính quyền Pháp gây khó khăn nên năm sau phải trở
lại Hoa Nam.
Năm 1902, Thánh Kinh Hội Anh Quốc đã lập được trụ sở tại Đà Nẵng và phát
hành kinh thánh bằng chữ Hán , chữ Nôm phổ biến cho dân cư ở Quảng Nam và
Đà Nẵng .
Ngày 25 tháng 5 năm 1991 giáo sĩ R.A. Jaffray cúng với 2 giáo sĩ Paul M.
Hosler và G.Lloyd Hughes đến cảng Tourane (Đà Nẵng), trung phần Việt Nam.
Họ đã được chính quyền Pháp cho phép mở cơ sở truyền giáo tại thành phố Đà
Nẵng. Họ mua lại cơ sở của Kinh Thánh Hội Anh quốc tại góc đường Khải
Định- Nguyễn Hoàng ( nay là Ông Ich Khiêm- Hải Phòng) để làm cơ sở đầu tiên
cho Hội Truyền giáo . Việc chọn Đà Nẵng để làm tru sở ban đầu của Hội Truyền
giáo là sự tính toán khôn ngoan của các giáo sĩ tiên phong. Ngoài địa lý trung
tâm của cả nước , duyên hải miền trung là địa bàn kém phát triển nhất của Công
giáo La Mã . Hơn nữa , Đà Nẵng là một nhượng địa của Pháp nên việc lập thủ
tục cho một cơ sở tôn giáo trên chính mảnh đất của Thánh kinh hội sẽ dễ dàng
được chấp nhận hơn.
Sau đó các giáo sĩ trở lại Hoa Nam để làm công tác chuẩn bị.
Như vậy, năm 1911 được xem là năm đầu tiên Tin Lành truyền đến Việt
Nam.
2.2.2 Quá trình truyền bá
Sau khi đặc cơ sở tại Đà Nẵng Mục sư A.B.Simpson đã bổ nhiệm 9 giáo sĩ
thuộc CMA vào Việt Nam. Tới năm 1915 lấy lý do là các mục sư Tin Lành
CMA hoạt động gián điệp cho Đức, chính quyền Pháp ở Đông Dương đã cấm
các giáo sĩ CMA hoạt động, phải tới khi mục sư K.Jaffay phó hội trưởng CMA
gặp toàn quyền Đông Dương các giáo sĩ CMA mới được tự do truyền đạo
Đến năm 1916 CMA đã lập được 16 chi hội Tin Lành tại Việt Nam trong
đó có 5 chi hội Bắc Kì, 6 chi hội Trung Kì và 5 chi hội Nam Kì các chi hội đều
nằm trong một tổ chức thống nhất là Hội Thánh Tin Lành Đông Dương Pháp.
Năm 1920, nhà in mang tên Tin Lành đầu tiên được xây dựng tại Hà Nội
các in phẩm, kinh thánh, thánh ca, các ấn phẩm truyền giáo, nguyệt san thánh
kinh khác được in bằng Tiếng Việt chỉ trong vòng 2 năm tới năm 1922 nhà in
Tin Lành đã phát hành hơn 12000 ấn phẩm.
Năm 1921 trường kinh thánh đầu tiên được mở tại Đà Nẵng dưới sự quản
lý của mục sư D.Jeffrey chương trình đào tạo của trường dự theo trường thánh
kinh, Nyack tại Mỹ khóa học đầu tiên có 8 chủng sinh, tới khóa đào tạo năm
1930 có 99 chủng sinh.
Năm 1928, Đại hội đồng các mục sư đã quyết định phân chia Tin Lành tại
Việt Nam thành hai hạt là Bắc- Trung hạt và Nam hạt .
Năm 1931 chia thành ba hạt: Bắc- Trung-Nam tồn tại đến năm 1954. Tính
đến năm 1940 ở Việt Nam có 189 chi hội và khoảng 15000 tín đồ trong thời kì
đế quốc Nhật vào Đông Dương từ 1940 phần lớn cavs giáo sĩ được triệu hồi về
nước hội thánh ngừng hoạt động.
Năm 1945 sau khi người Nhật rút lui hội thánh được đổi tên thành Hôi
thánh Tin Lành Việt Nam.
Năm 1948 các hoạt động của Tin Lành ở ba miền mới phục hồi trở lại. Sau
hiệp đinh Gionevo (1954) hội thánh chia làm hai là Hội thánh Tin Lành Việt
Nam (Miền Bắc) và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) do phần lớn mục
sư, tín đồ di cư vào nam Hội Thánh Tin Lành Miền Nam được coi là nới tiếp Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam.
Tại Miền Nam sau 1954 có nhiều Hội Thánh Tin Lành đã được thành lập
tại Việt Nam với các hệ phái Tin Lành khác nhau ngoài Hội Thánh Tin Lành
Việt Nam được hình thành sớm nhất từ CMA từ năm 1911 thì trong thời kì
1945-1954 có thêm các hội thánh khác như: Hội Thánh Cơ Đốc truyền giáo Việt
Nam, Hội Thánh lien hữu Cơ Đốc….được hình thành tính đến nay ở Việt Nam
có khoảng vài chục Hội thánh thuộc hệ phái Tin Lành đang hoạt động truyền
đạo.
2.3 Các giai đoạn phát triển của đạo tin lành ở Việt Nam
2.3.1 Giai đoạn 1911-1942
Đây là giai đoạn đinh hình cũng như có sự phát triển bươc đầu của đạo Tin
Lành ở Viêt Nam
Mùa hè năm 1941,chi cỏ một mình giao si Hosler trở lại Đà Nẵng nhằm
truyền đạo.Trong khi đó giáo si Hughes đã qua đời tại Hoa Nam, con giao si
Jaffray phải đảm trách địa hạt tại Hoa Nam ki9eem Đông Dương .Hosler bắt đầu
học tiếng Việt và tiếng Pháp với ông Bonnet, đồng thời tiếp cận nhân dân điai
phương qua viêt phân phat kinh thánh va truyền đạo đơn. Đến cuối 1912,ông báo
cáo có một người chịu báp têm,tín hữu đầu tien của của ông là Nguyễn Văn
Phúc,một trong số người đầu tiên bán sách Tin Lành.
Có thể nói trong giai đoạn này , sổ tín hữu cũng tăng dần, đoi hỏi một nơi
thờ phụng ổn định đã trở nên càn thiết. Vì vậy, ngày 30-3-1914 sau gần một năm
chuẩn bị một nhà thờ bang tranh đươc dưng lên tại Đà Nẵng ( ; Trang
27).Đây là nhà thờ Tin Lành dầu tiên ở Việt Nam. Ngày 05-4- 1914 lớp Chúa
nhật được mở ra vơi 7 người tham dự.
Đến 12-1915,Pháp ra nghị định cấm đạo Tin lành truyền giáo cho người
bản xứ, đóng cửa các nhà thờ trừ một cai ở Đà Nẵng, họ còn ra lệnh trục xuất
giảo sĩ gốc Đức hoặc có tên giống người Đức. Kết quả có 4 giáo sĩ bi trục xuất
còn lại 5 người bi quản chặt tại Đà Nẵng. Sau khi Pháp thắng Đức, số giáo sĩ Tin
Lành CMA(Liên hiệp truyền giáo Kitô) của Mỹ trở lại 9 người, năm 1921 tăng
lên 18 người, năm 1927 tăng lên 27 người và được Thực Dân Pháp cho phép ra
Hà Nội nhưng dò xét kỹ( ; Trang 105). Các giáo sĩ phải làm một “ Bản hiến
chương mười điều” như bản cam kết với nhà cầm quyền Thực Dân o Việt Nam
rằng, Hôi truyền giáo tuyệt đối không nhằm mục đích cải cách xã hội, không
nhúng tay làm an sinh, không ding vào làm bất kỳ một công việc từ thiện nhân
đạo nào, không trợ giúp y tế hay kinh tế nào để truyền đạo, mà chỉ đơn thuần la
truyền đạo “ suong”.
Vì vậy năm 1916, giáo sĩ R.A.Jafray đến gạp toàn quyền Đông Dương tai
Hà Nội để xin tiếp tục truyền giáo, và chính quyền Pháp nơi dần lệnh cấm cho
phép các giáo sĩ đươc hoạt động tại các thành phố Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng
và Nam Kỳ, ông bà giáo sĩ Cac man lên Hà Nội để tiến hành việc phiên dịch và
in ấn Kinh Thánh.Viêc in ấn cũng có từ trước đó, từ 1914 đến 1920 đã có nhà in
riêng tai Hà Nội , họ xuất bản “San nguyệt thánh kinh báo” và in thêm nhiều
sách(co cả Tin Lành bằng chữ Khơ- me), số lương tăng nhanh chóng, năm 1922
in 127.807 ấn phẩm với 3.197.300 trang; đến 1925 đã là 812.345 ấn phẩm với
13.606.828 trang (các tôn giao lớn trên thế giới; trang 107)
Từ sự phát triển sơ khai đơn lẽ dần dần đạo Tin Lành có sự phát triển
mạnh hơn và ngay càng chứng tỏ vị thế của mình.Năm 1918 sổ tín hữu tai Đà
Nẵng lên tới 58 người và mở thêm một điểm tại Hải Châu phía nam thành phố
Đà Nẵng. Tại Hà Nội có 4 tin huux đươc báp têm ( ;Trang 29)
Hơn nữa sau chiến tranh thế giới thứ nhất, năm 1918 các giáo sĩ J.D.Olsen
va I.R.Stebbins đươc cử đến Sài Gòn ; giáo sĩ R.M.Jackson và D.I.Jeffrey đươc
cử đến Hải Phòng ;cô Mary har tman o tai Đà Nẵng ( ;Trang 30). Như vậy thì
sau chiến tranh thế giới thứ nhât, ngày càng có nhiều người truyền giáo vào Việt
Nam, số lương cũng như các hội thánh không ngừng tăng lên, nhiều trường
kinh thánh được mở ra. Cụ thể : Năm 1921 trương kinh thánh được mở tại Dà
Nẵng, do giáo sĩ D.I.Jeffrey phụ trách niên khóa đầu tiên có 8 người .Cung trong
năm đó 1921, Hội Thánh Đà Nẵng có 115 tín hứu và trở thành Hội Thánh tự tự
đầu tiên tại Việt Nam.Cuối 1921 với 22 giáo sĩ và sự giúp đỡ của 8 truyền đạo
sinh Việt Nam.’, hội truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp đã thuyết lâp được 5 cơ
sở truyền đạo , 8chi hội với 138 tin hữu.
Từ 1918-1927 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của đạo Tin Lành. Cụ thể
1924, có 22 điểm truyến giáo đến năm 1927 tăng lên 87 điểm. số tín đồ 1921 là
180, năm 1924 là 1571, năm 1927 tăng lên tới 4236(cac tôn giáo trên thê gioi va
ViÊT NAM; 1O7)
Từ 1918-1927 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của đạo Tin Lành cụ thể:
1918 có điểm truyền giáo, năm 1924 có 22 điểm năm 1927 tăng lên 87 điểm. Số
tín đồ năm 1921 là 180, năm 1924 là 1571, năm 1927là 4236 (các tôn giáo trên
thế giới và Việt Nam, Mai Thanh Hải, trang 107). Đa số những người trong Hội
thánh là nhân dân, thợ thuyền, thị dân buôn bán và một nhóm nhỏ tư chức rất ít
tri thức học giả . Năm 1922, Hội thánh cử Mục sư Lê Văn Long lên vùng gần
biên giới campuchia rủ được ba bốn chục người Khơ-me bỏ Phật giáo Nam tong
đi sang đạo Tin Lành, nhưng rồi số này cũng rơi rụng dân
Đánh dấu bước phát triển mói của đạo Tin Lành ở Việt Nam là vào tháng
3năm 1927 tại Đà Nẵng, 50 đại biểu tín đồ của 74 chi hội họp bầu một ủy ban
chấp hành có 5 người Việt chính thức đặt tên tổ chức “ Giaos Hội Tin Lành
Đông Pháp” . Hơn nữa, địa bàn của Hội thánh còn đươc mở rộng cụ thể : Tại
Quảng Nam theo ghi nhận của Lê Văn Thái trong bốn mươi năm trong chức vụ
thì từ Hội An, Tin Lành được truyền dọc sông Thu Bồn, từ Vụ Gia đến Phong
Thử, lạc thành Đại An, Trường An, Khánh Bình, Phú Lãnh, Thanh Qúi, Tam Kì.
Từ Cần Thơ,có các chi Hội được phát triển như: Phong Điền, Cái Răng, Ô
Môn, Kế Sách…Hơn nữa , từ Mĩ Tho một loạt các chi Hội khác được hình thành
bao gồm: Bến Tre, Gò Công, Tân Thạch, Qưới Sơn, Tân An, Lộc Thuận…
Từ năm 1924 đến 1926 đã có Hội đồng nhưng chỉ mang tính cách bồi linh,
nhưng chỉ từ năm 1927 mới có hội đồng hành chính để đưa ra ban trị sử Tổng
Liên Hội đầu tiên. Đại hội đồng Tổng lien hội 1927 đầu tiên. Đại Hội đồng Tổng
Liên Hội 1927 gồm 50 đại biểu, mục sư truyền đạo tín hữu của 7 chi hội tự trị và
67 hội nhánh đã họp tại Đà Nẵng từ ngày 5 đến ngày 13 tháng 3 và đã quyết định
thành lập Hội Thánh Tin Lành độc lập với Hội truyền giáo Phước Âm lien hiệp
(CMA) với tên gọi của Hôij thánh là “Hội Tin Lành Đông Pháp” bân trị sự Tổng
liên hội đầu tiên đã được bầu bao gồm: Mục sư Hoàng Trọng Thừa (Hội trưởng),
mục sư Trần Dĩnh (Hội phó), mục sư Dương Nhữ Tiếp (Thư kí), ông Nguyễn
Thành Long (Thủ quỹ ), mục sư Lê Văn Long (Nghị viện). (100 năm hình thành
và phát triển của Hội thánh Tin Lành Việt Nam, trang 44)
Đại Hội Đồng năm 1928 đã thong qua dự thảo Hiến Chương đầu tiên và
quyết định phân chia thành hai địa hạt là: Trung- Bắc hạt (gồm Bắc Kì và Trung
kì), và Nam hạt (gồm Nam kì và cam-bốt). Các đại biểu của địa hạt họp tại Đà
Nẵng và Mỹ Tho và cử mục sư Trần Xuân Phan làm chủ nhiệm Bắc- Trung hạt
và mục sư Bùi Tự Do làm chủ nhiệm Nam hạt.
Như vậy, trong Hiến chương 1928 đó đã có sự phân chia rõ rệt, Hiến
chương có 37 khoảng, 156 mục, mỗi mục có từ 2 đến 10 ý, sau này các năm
1936, 1952, 1958 chỉ sửa chưa ít ( các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, Mai
Thanh Hải, trang 107). Hiến chương nói mục đích chính là tập hợp những người
Việt Nam tin nhận Tin Lành khiến “ Sư tài lâm của chúa mau đến”. Đối với việc
bài lạy ảnh tượng và thờ cúng tổ tiên, Hiến chương qui định phải “ Dẹp bỏ hình
tượng và thờ cúng tổ tiên”, cũng trong năm đó năm 1928 Ban Trị Sự Tổng Liên
hội cũng trình Hiến chương lên Hoàng đế Bảo Đại và toàn quyền Đông Dương
để xin tư cách pháp nhân, nhưng mãi đến năm 1942 toàn quyền Đông Dương
mới kí quyết định công nhận.
Đến năm 1931, Đại hội đồng quyết định chia thành ba hạt: Bắc Hạt ( từ
Thanh Hóa trở ra do mục sư Lê Văn Thái làm chủ nhiệm ), Trung Hạt ( từ Nghệ
An đến Ninh Thuận do mục sư Lê Văn Long làm chủ nhiệm ),và Nam Hạt ( mục
sư Lê Tự Do làm chủ nhiệm). Hội thánh cũng quyết định tên gọi là Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam Đông Pháp. Trong giai đoạn này có nhiều hội trưởng như:
Mục sư Hoàng Trọng Thừa ( 1927-1928), mục sư Dương Nhữ Tiếp (1928-1931),
mục sư Trần Xuân Phan (1931-1933), mục sư Lê Đình Tươi ( 1933-1942). (100
năm hình thành và phát triển của Hội thánh Tin Lành Việt Nam; trang 44).
Sau đây ta có thể chia sự phát triển tại ba miền của đất nước Việt Nam:
Tại Bắc Hạt
Hội thánh đã phát triển mạnh mẽ qua chức vụ của mục sư Lê Văn Thái năm
1928 chỉ có gia đình mục sư Thái được cử ra Bắc nhưng đến đầu 1933 đã có 40
gia đình. Mục sư truyền đạo được cử ra ( đa số là từ miền Trung ) và tính tháng 7
năm 1934 thì có 570 người tin Chúa. Năm 1933, mục sư Thái đã truyền giáo cho
đồng bào các tỉnh miền núi phía Bắc kết quả khách quan nhiều chi hội được
thành lập. Đến năm 1940 Bắc hạt đã có 58 chi hội so với 56 ở Trung kì và 75 ở
Nam hạt ( 100 năm hình thành và phát triển đạo Tin Lành ở Việt Nam ; trang
46). Tuy nhiên do ảnh hưởng của chiến tranh chỉ trong năm 1947 có 22 nơi phải
đóng cửa. Tỉ lệ người chịu Bap-tem trên số người tin chúa ở Bắc hạt cũng khá
thấp so với các hạt khác. Đơn cử năm 1939 Nam hạt có 638/1479; Trung hạt có
389/1934; còn Bắc hạt chỉ có 99/1248.
Tại Trung Hạt
Hội thánh tiếp tục được củng cố và phát triển dưới sự dẫn dắt của các mục
sư Lê Văn Long, Đoàn Văn Khánh, Ông Văn Trung. Nhiều chi Hội được mở tại
Quảng Nam, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang, Ninh Thuận. Đến 1941 nhiều chi
hội vững mạnh thiết lập tại Phong Thử, Đại An, Trường An, Thu Bồn, Phú Lãnh,
Khánh Bình, Phúc Bình, Quế Sơn, Cảm Long, Tiên Phước, Quế Phương, Trà
My…
Trong thời kì này, Trung hạt đã cung cấp nhiều nhân sự cho Bắc hật và
Nam hạt. Đặc biệt tháng giêng năm 1928 trường kinh thánh cử 8 truyền đạo ra
Huế để làm chứng và phân phát sách Tin Lành. Mặc dù có lệnh cấm truyền đạo.
Năm 1931 Huế được phép mở một phòng nhóm và hội thánh cử mục sư Hoàng
Trọng Thừa ra đảm đương công việc, Hội truyền giáo cũng cử giáo sĩ D.I. Jeffey
ra Huế. Sâu đó giáo sĩ I . R.Stenbbins được cử ra thay thế, ông mở rộng việc
truyền bá Tin Lành ra các nơi: Thừa Thiên, Phong Điền, Điền Sanh, Quảng
Trị….
Như vậy tại Trung hạt đạo Tin Lành đã được phát triển mạnh mẽ và từng
bước chứng tỏ vị thế của mình.
Tại Nam hạt
Hội Thánh đặc biệt phát triển ở vùng Trung Nam Hạt. Từ cứ điểm Mỹ Tho nỗ
lực truyền giáo nên lan truyền rộng rãi đến Tân An, Gò Công, An Hòa, Ba
Tri….Khoảng đầu thập nien 1930 giáo sĩ P. E.Carlson cùng một số mục sư Việt
Nam đã mua một chiếc tàu làm phương tiện truyền giáo Tin Lành trên các con
song nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Con tàu Tin Lành này do ông
Huỳnh Văn Ngà điền động một thời gian khá lâu len lỏi ở các sông rạch từ Mỹ
Tho đến Rạch Gía, đem Tin Lành đến cho mọi người :
Bên cạnh vùng Trung Nam hạt sự phát triển càng lan rộng ở miền Đông Nam hạt
tập trung chủ yếu ở khu vực Biên Hòa và một vài nơi như Thủ Đức, Bến Cát,.
Riêng tại Sài Gòn năm 1927 các giáo sĩ thuê một địa điểm gần nhà ga và bến xe
buýt. Tại đây họ đã mở ngay hội thánh phía trước làm phòng đọc sách và giải
nghĩa đạo, phía trên làm phòng giảng Tin Lành . Những người từ khắp nơi đến
đây nghe giảng Tin Lành tiếp nhận Chúa và đem hạt giống Tin Lành về quê
hương mình. Đến năm 1934 nhà thờ đầu tiên được xây dựng tại 155 Trần Hưng
Đạo.
Như vậy, từ khi đạo Tin Lành truyền vào Việt Nam đến 1942 đã có sự phát triển
mạnh mẽ về cố lượng tòa thánh mà còn cả số lượng chi hội theo thống kê cụ thể
đến cuối 1934 số chi hội tại Bắc hạt là 38, tại Trung hạt là 34, Nam hạt là 47.
Năm 1940 số chi hội tại Bắc hạt tăng lên 58, Trung hạt 56, Nam hạt 75. Hơn nữa
năm 1941 tại Việt Nam có 22 giáo sĩ của hội truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp
có 176 mục sư truyền đạo vào Việt Nam có tới 104 chi hội và điểm nhóm số tín
hữu tăng lên đến 11.751( 100 năm hình thành và phát triển của Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam ; trang 50).
2.3.2 Giai đoạn 1942-1954
Trong giai đoạn này, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam hết sức đặc biệt và nó đã
tác động sâu sắc đến đạo Tin Lành. Chiến tranh Thế Giới Thứ Hai bùng nổ,
tháng 6-1940 Nhật Bản kiểm soát Đông Dương, năm 1945 Nhật Bản đầu hang
Đông Dương, cùng lúc đó thì quân đội Anh và Trung Hoa vao giải giáp quân đội
Nhật Bản. Tất cả đó đã làm cho tình hình chính trị nước ta hết sức rối ren. Hơn
nữa cách mạng Tháng Tám, năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ
ra đời đã tác động không nhỏ đến đạo Tin lành. Sau đó, là cuộc kháng chiến
trường kì chống Pháp kéo dài đến tám năm.
Trong hoàn cảnh đó, tưởng chừng như đạo Tin lành có thể chậm phát triển, tụt
hậu. thế nhưng đạo Tin Lành không những được duy trì mà còn phát triển mạnh
mẽ.
Ngày 19 tháng 01 năm 1942, toàn quyền Pháp Jean Decoux mới kí quyết
định công nhận Ban lãnh đạo của Hội thánh, gồm các mục sư: Lê Đình Tươi,
Viên Công Thảo, Bùi Tự Do, Lê Văn Quế, Lê Văn Thái, Lê Văn Long. Đây là
thời điểm quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của Hội Thánh cả về tự trị, tự
quản và tự cung cấp. mọi hoạt động điều hành giáo hội và truyền bá Phúc Âm
đều do các lãnh đạo và tín hữu Việt Nam thực hiện, thời gian này Hội thánh Việt
Nam không nhận tài trợ từ hội truyền giáo mà còn đâng hiến hỗ trợ cho các giáo
sĩ đang bị qunr thúc cho đến hết chiến tranh Thế giới thứ hai.
Đến tháng 8 năm 194, Đại hội đồng lần thứ 19 được nhóm họp tại Đà
Nẵng đã bầu mục sư Lê Văn Thái làm hội trưởng. hội đồng cũng quyết định
thành lập tổ chức đoàn Thanh niên Tin Lành, củng cố Ban chứng đạo và phát
triển chương trình truyền đạo cho người Thượng.
Hơn nữa, từ 1942-1945 dù bị ảnh hưởng của cuộc chiến tranh và nạn đói
nhưng không một tín hữu nào bị chết vì nạn đói. Qua thử thách Hội thánh còn trở
nên vững mạnh, số tín hữu gia tăng, Hội thánh xây dựng được 18 nhà thờ, 27 chi
hội được tự quản, và tất cả các chi hội đều tự cung tự cấp như hồi 1945. Nhưng
sự phát triển ấy dần dần đi xuống, bởi vì trong khi cao trào nhân dân các tỉnh
thành nối tiếp nhau nổi dậy giành chính quyền làm nên cách mạng tháng tám
1945, thì tại nhiều tỉnh thành các mục sư tung tin đồn rằng được Chúa hiển thị
cho biết ngày 30 tháng 09 năm 1945 (sau họ sửa thành ngày 01 tháng 10 năm
1945) sẽ là ngày tận thế, trái đất sẽ nổ tung, bầu trời tối đen mù mịt, đàn lũ quỷ
dữ nổi lên quấy phá trần gian, nghe tin đồn ấy hang ngàn tín đồ đã bán nhà cửa
tài, tài sản, chạy núp vào nơi an toàn, kín đáo chờ Chúa xuống đón lên Thiên
Đàng. Về sau thì họ đã rời xa đức tin, và bỏ đạo hàng loạt. cụ thể Hội trưởng Lê
Văn Thái đã khăng khăng không chịu lập “Tin Lành cứu quốc hội” (trong khi đó,
đang có Phật giáo cứu quốc hội, công giáo cứu quốc hội…), để rồi chạy vào các
thành thị hợp tác chặt chẽ với cao ỷ Pháp, tiếp đó là Mỹ-Diệm và các tổ chức Tin
Lành từ Mĩ qua. Hơn nữa từ 1948-1954, nhiều nhà thờ cũng như tín đồ phải bỏ
đi và đóng cửa. số chi hội phải đóng cửa ở Nam hạt là 38, Trung hạt là 17.
Đến thời kì từ 1948-1954: với sự giúp đỡ của Hội truyền giáo thời kì này
thì Hội thánh Việt Nam dần dần được khôi phục lại và tiếp tục phát triển. các
mục sư truyền đạo trở lại. Hội thánh chăn dắt bầy chiên trong điều kiện khó khăn
của đất nước. có nhiều người tin Chúa và thêm vào Hội thánh ở cả ba hạt, hiều
cơ sở và nhà thờ được khôi phục, số tín đồ giảm còn 9,739 vào năm 1947 đã tăng
lên 13,824 vào năm 1954. trong đó, đáng chú ý nhất là năm 1950, Đại Hội Đồng
Tổng liên hội tái nhóm họp tại Đà Nẵng từ ngày 5-9 tháng 3, sau một thời gian
gián đoạn. Hội đồng đã quyết định tên gọi chính thức của hội thánh là “Hội
thánh Tin Lành Việt Nam” thay cho tên gọi cũ “Hội Tin Lành Việt Nam”. Như
vậy, danh hiệu của hội thánh được thay đổi như sau: 1927 Hội Tin Lành Đông
Pháp, 1936 Hội Tin Lành Việt Nam Đông Pháp, 1945 hội Tin Lành Việt Nam,
1950 Hội thánh Tin Lành Việt Nam (100 năm hình thành và phát triển của Hội
thánh Tin Lành Việt Nam, trang 60).
Bên cạnh đó, sự phát triển còn thể hiện ở công tác truyền giáo. Năm 1942
thành lập “Bào ngoại bố đạo đoàn”, đến năm 1949 đổi tên thành “ Đoàn truyền
giáo Việt Nam” do mục sư Phạm Xuân Tín làm trưởng đoàn, và mục sư Phan
Văn Năng làm phó đoàn, thời gian này nhiều người truyền đạo tốt nghiệp trường
Kinh thánh được cử lên Tây Nguyên. Đến 1951, địa hạt Thượng du được thành
lập do mục sư Hasol làm chủ nhiệm. Đến 1954, có khoảng 3000 tín hữu, 71 chi
hội và 91 điểm nhóm, 117 mục sư truyền đạo, và 21 giáo sĩ Việt Nam. (100 năm
Hội thánh Tin Lành Việt Nam, trang 62)
Hơn nữa, công tác truyền giáo cũng bắt đầu truyền qua làn song điện, thông qua
đài Viễn Đông, Manila, Philippin. Hội thánh cũng tiếp tục xuất bản các tạp chí
“Duốc thiên”, “ Hừng đông”, cùng với truyền đạo đơn qua các bài học của Chúa
nhật, bài học Kinh thánh.
Tóm lại, trong giai đoạn này tuy gặp nhiều khó khăn, cũng như hoàn cảnh
lịch sử rối ren, nhưng đao Tin Lành cũng có sự phát triển, thể hiện ở sự tăng lên
các nhà thờ, công tác truyền giáo cũng được chú trọng. Qua đó, nó định hình cho
sự phát triển sau này.
2.3.3 Giai đoạn 1954 - 1975
Bước sang giai đoạn 3 với tình thế chiến tranh ở Việt Nam đã thay đổi
hoàn toàn, kéo theo đó đất nước cung gặt hái được những thành công nhất định
về mặt chính trị và ngoại giao.Với chiến thắng Điện Biên Phủ, kí kêt hiệp định
Giơ-ne-vơ(20/7/1954), tại vĩ tuyến 17 đất nước tạm thời chia thành hai miền,
Lào và Campuchia dành đươc độc lập. Miền Bắc tiếp tục chiến đấu chống chiến
tranh căn thiệp của Mĩ, vào những năm 1950 Mĩ nhảy vào nước ta và dần thay
thế chân Pháp ở Miền Nam. Với chính sách của đế quốc Mĩ đã làm biến đổi tình
hình kinh tế-chính trị-xã hội ở miền Nam. Trong giai đoạn này
Hội Thánh Tin Lành ở Việt Nam cũng bị phân ra thành hai tổ chức(Hôi
Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Bắc và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền
Nam), hoạt động độc lập cho đến hiện nay.
Miền Bắc
Cuối năm 1954, với 1014 tín đồ miền Bắc di cư theo Mĩ vào Nam số còn
lại lập cơ
quan giáo hội mới Tổng Hội Thánh Tin Lành(Miền Bắc).
Đầu năm 1955 tin đồ Tin Lành ở Miền Bắc chỉ gần 1000 người ở 20 chi
hội và gần 20 mục sư truyền đạo.
Ngày 12/4/1955 tiến hành Đại Hội Đồng Bắc kỳ với khoảng 200 đại biểu.
Trụ sở của giáo Hội đặt tại nhà thờ số 2 Ngõ Trặm, Hội Thán Tin Lành Miền
Bắc cũng là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hoạt động theo hướng
tiến bộ “kính chúa và yêu nước”.
Đến năm 1958 Hội Thánh Miền Bắc đã có được tư cách pháp nhân thông
qua Đại Hội Đồng lần thứ 8 họp tại Hà Nội (13-15/3/1963),được nhà nước
hướng dẫn, Bản điều Lệ được sử dụng cho đến tháng 11/2004.
Nhìn chung giai đoạn này Hội Thánh Miền Bắc không có bước phát triển
cho lám, các hoat động bị chậm lại nguyên nhân chủ yếu là do các tin đồ và chức
sắc di cư vào Nam. Còn đối với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam(miền Nam), tỏ rỏ
hơn hẳn và vai trò chủ đạo của Hội được phát huy tích cực.
Miền Nam
Khi đế quốc Mĩ nhảy vào miền Nam, tại miền Nam rất nhiều tổ chức Tin
Lành Mĩ vào cuộc, ví dụ; Cơ Đôc Phúc Lâm hoạt đông lâu nhất được 25 năm.
Sau đó năm 1954 giáo Hội Men-no-nai bắt đầu hoạt động ở Sài Gòn.
Năm 1959 giáo Hội Báp Tít cũng vào Sài Gòn rồi nhanh chống lan ra
Nha Trang và Đà Lạt.
Năm 1965.nhiều nhóm của chứng nhân Đức Giê-hô-va và Mê-tốt, Hiện
Xuống,…..ào ạt vào miền Nam.
Năm 1960 Trường Kinh Thánh từ Đà Nẵng dời vào Nha Trang và đổi tên
thành Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang, Trường chuyên đào tạo con em
các tin đồ và là nòi tụ họp của các mục sư đó là địa điểm thuận lợi cho Hội thánh
Miền Nam phát triển.
Năm 1961 Chuản Y Viện Tin Lành Nha Trang, Buôn Mê Thuật, Plei Ku
lần lượt thành lập. Đồng thời các hạt các chi Hội Tin lành nảy nở rầm rộ nhất là
ở Tây Nguyên; Thánh Kinh Thần Học ở Nha Trang, Cao Đẳng Thần Học ở Sài
Gòn, Thánh kinh tiểu học đường,Thánh kinh ban đêm ở các thành thị.
Bên cạnh đó Tổng Liên Hội tổ chức thành 10 uy ban(Giáo dục, tuyên giáo
thiếu nhi, cứu tế học bổng, và lập nhiều hội đoàn, Tổng đoàn thành niên Tin
lành, Đoàn thành niên Thượng,
Đoàn sinh viên, Hội cơ đốc thanh niên,….cho thấy sự phong phú và da
dạng trong lối tổ chức, hoạt động của Hội thánh Tin lành miền Nam.
Không chỉ ở đó các lĩnh vực sách, báo chí ào ạt trên mặt trận thông tin cổ
động, phối hợp với việc mở rộng khắp mọi nời việc truyền giảng, kẽ cả binh lính
chính quyền Sài Gòn.
Năm 1962 Mục sư Mĩ Richart Taylor và Ms Phan Duy Bình mang tiền bạc
và sách báo đến các vùng Rạch Giá, Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên trong
vòng 3 năm họ đã thu hút được 300 người Khơ-Mê theo Tin lành.
Năm 1967chương trình truyền đạo sâu rộng tại nhà thờ đường Trần Cao
Vân(Sài Gòn), mục tiêu là tất cả cho nhưng người được cứu. Ms(mục sư) Phan
Xuân Tín đã ví von rằng khi ông dự Hội nghì truyền giáo Tây Beclin(Đức), nghe
MsBillygra ham nói “Người nước Mĩ nào biết uống Cocacola , thì người Mĩ nào
cung phải nghe Tin lành”,ông cũng có suy nghĩ với Hội Thánh Nam rằng
“Người Việt Nam nào cũng biết ăn nước mắm thì người Việt Nam nào cũng phải
được nghe Tin lành”.
Tính trong 20 năm (1955-1974), số chi Hội Tin Lành CMA từ 106 lên
487, số người đã Bắp-tem(làm lễ rửa tội) từ 13.950 lên 69.813, số tin đồ nói
chung từ 12.000 lên 147.516 người.
Cho thấy giai đoạn này cả hai Hội Thánh có như bước đi lên khá rỏ nết,
trong đó Hội thánh miền Nam có bươc phát triển hơn hẳn so với Hội thánh miền
Bắc. Ở miền Nam có được sự phát triển như vậy một phần do chính sách, hoạt
động tích cực của các nhà truyền đạo, mặt khắc do Mĩ muốn lơi dụng lôi kéo
người dân đặc biệt là các dân tôc thiểu số và nông dân thành thị về mặt chính
trị,đã thể hiện tính phức tạp của xã hội Viêt Nam bây giờ.
Nhưng không chỉ dựng lại ở đó sang giai đoạn thứ tư sẽ thấy rỏ quá trình
phát triển của các Hội Thánh như thế náo?
2.3.4 Giai đoạn 1975 - 2001
Vào thời điểm này tình hình ở Việt Nam diễn ra hết sức ắc liệt và gần kề
với ngày chiến thắng của quân dân miền Bắc. Biết trước được vận mệnh và số
phận chính quyền Mĩ – Ngụy, hang triệu người dân đã bỏ nước ra đi bằng mọi
phương tiện, phi cơ, tàu bè, xe…..hay vượt biên qua các nước lân cận bằng
đường bộ tìm đường đến nước thứ 3(Mĩ).
Trong dó có khoảng 40 mục sư, truyền giáo và khoảng 1600 tín đồ, môt
số người thì ở lại nhưng cũng bị bắt vào các trại cải tạo trong cac trại tâp trung.
Sau môt thời gian lưu lạc ở nước ngoài, dần cuộc sống của họ đã ổn định, các tín
đồ người Việt Nam ở các nước khác nhau đã thành lập hàng trằm Hội thánh ở
khắp châu lục như châu Mĩ, châu Âu, Á,….
Ngày 30/4/1975 đất nước được giải phóng và hoàn toàn thống nhất, Đảng
và Nhà nước bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước. Giai đoạn này các Hội
Thánh ở Việt Nam vẫn tồn tại trong điều kiện hết sưc khó khăn, nhưng dần từng
bước được củng cố và phát triển. Không khác gì giai đoàn trước hai Hội thánh
vẫn hoạt động biệt lập với nhau.
Hội Thánh Tin Lành Viêt Nam (Miên Nam)
Bắt đầu từ năm 1975 trở về sau Hội thánh Tin Lành(mN) phải đối mặt với
muôn vặn khó khăn về nhân lực, nhiều nhà thờ và các cơ sở bệnh viện, trường
học bị mất mát Thánh Kinh Thần Học Viện cũng bị đóng cửa suốt 27 năm(1976-
2003) khiến nguồn nhân lực cho sự lãnh đạo của Hội thánh bị gián đoạn .
Dưới chế độ bao cấp các tín đồ, Ms Tin Lành sống trong cảnh túng quẫn,
để duy trì Hội thánh họ phải làm mọi việc để duy trì hội.
Từ ngày 13-15/6/1975 Hội Đồng Tổng Liên Hội(HĐTLH) lần thứ 41 tổ
chức tại Sài Gòn, một năm sau từ ngày 13-15/6/1976 HĐTLH lần thứ 42 đã bầu
Ms Ông Văn Huyền làm Hội thánh Tin Lành Việt Nam(1976-1999) và Ms Ông
Văn Miêng giữ chứ phó Hội trưởng, từ đó suốt 25 năm sau mới được tổ chức lại
lần nữa.
Năm 1986 đất nước thực hiện công cuộc đổi mới chế độ bao cấp dần bị
xóa bỏ thay vào đó là một chế độ mới hoàn toàn. Các Hội thánh được Nhà nước
quan tâm và hoạt động rộng hơn, đã tạo ra một không khí mới cho Hội thánh
miền Nam biểu hiện là;
Từ năm (1992-1994) các cuốn Kinh thánh và cuốn Thánh Ca được cấp
phếp vào nước, một phần đã cung ứng được cho nhu cầu cấp bách của Hội thánh.
Năm (1994-2000) Ms Lê Cao Quý đước sự cho phếp của Nước Nhà đã
tiến hành in 85.000 cuốn Kinh thánh Tân ước, 65.000 Tân ước, 50.000 sách Tin
Lành, 120.000 chuyện tích Kinh thánh và 25.000 quyển thánh Ca,……Cũng
trong giai đoạn này hàng trăm ngôi nhà thờ củ kỹ được tu sửa và xây dựng mới,
các cuộc truyển giảng cũng thoáng hơn Hội còn tích cực viện trợ tù thiện.
Đó là sự nổ lực không mẹt mỏi của Hội thánh miền Nam đang từng bước
khởi sắc, dần lấy lại vị thế phát triển như những giai đoạn trước. Có được thành
công bươc đầu như vậy ngoài khả năng bên trong còn có sự tác đông của các yếu
tố bên ngoài(sự giúp đỡ của các tổ chức Hội ngoài nước). Vì vậy tuy hoạt động
trong hoàn cảnh khó khăn nhưng Hội thánh Tin Lành Việt Nam(mN) vẫn có sự
phát triển nhất định.
Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc)
Cũng nằm trong một quốc gia, nhưng Hội thánh Tin Lành Việt Nam miền
Bắc(HTTLVNmB), có những điều kiện thuận lợi hơn thực chất hướng đi nước
bước lại không mấy khả quan và chậm lại so với Hội thánh mN. Mặc dù có tư
cách pháp nhân từ năm 1963, có điều lệ riêng, chỉ đạo điều hành song tổ chức
Hội vẫn không mấy phát triển.
Năm 1975 số tín đồ có khoảng 5000, với 14 nhà thờ và 14 Ms và giảng sư.
Hội thánh không có một trường học nào đào tạo người hầu chúa.
Từ năm (1988-1993) khóa dậy thần học đươc mở khóa thứ hai với 15 học viên,
trong đó 10 khóa sinh chính thức 5 khóa sinh dự thính, dưới sự điều hành của Ms
Bùi Hoàng Thư phó Hội trưởng, kiềm Tổng thư ký Hội thánh Miền Bắc và hai
Ms Nguyễn Hậu Nhường, Phạm Xuân Thiều được mời từ miền Nam ra giảng
huấn. Nhưng mấy năm gần đây Tổng Hội Miền Bắc bắt đầu gửi môt số ít sinh
viên vào học tại Thần Hoc Viện ở miền Nam.
Giai đoạn này Hội thánh Miền Bắc dương như không có bước tiến đang
kể, nhưng nhưng gì Hội thánh làm được là vẫn tiếp tuc giữ được những điều kiện
tốt cho sự vươn lên của hội giai đọan sau.
2.3.5 Giai đoạn 2001 đến nay:
Trong giai đoạn này, hòa nhịp với không khí tưng bừng đất nước đang quá
trình hội nhập, ngày càng sâu rộng đó là một môi trường cũng là yếu tố tích cực
chứng kiến sự phát triển của các Hội thánh ở Việt Nam.
Ngày 16/3/2000 theo nghị định số 15_QĐ/TGCP Ban tôn giáo chính phủ
cấp tư cach pháp nhân cho Hội thánh miền Nam đã trực tiếp công nhận Hội
thánh này hoạt động ở Việt Nam.
Từ ngày 7-9/02/2001 Đại Hội Đồng Tổng Liên Hôi lần thứ 43 tại nhà thờ
Tin Lành Sài Gòn một bản Hiến chương của Hội đươc thông qua, với hệ thống
tổ chức gồm; Tổng Liên Hội, chi Hội,bỏ hệ thống Địa hạt thay vào đó mỗi tỉnh
có một
Ban đại diện và Ms Pham Xuân Thiều đắc cử Hội trưởng. Tuy nhiên hai
năm sau ông qua đời nên Ms Dương Thanh phó Hội trưởng giữ chức quyền Hội
trưởng với nhiệm kỳ 4 năm(2001-2005).
Năm 2003 Chính phủ cho phếp HTTLVNmN mở lại Thánh Thần Học
Viện, sử dụng cơ sở tạm thời tại HTTL chi Hội Sài Gòn. Thời điểm này một số
chương trình truyền giảng lớn được cho phếp tổ chức tại nhà thi đấu Vân Đôn
quân 4, trương đua Phú Thọ, sân vận động Tao Đan,…..đã thu hút đươc rất nhiều
tín đồ tham gia.
Từ năm 2005 đến nay đã trãi qua hai kỳ ĐHĐTLH lần thứ 3 và thứ
4(44,45), Ms Thái Phước Trương liên tục giữ chức vụ Hội trưởng.
Hiện nay Thân Học Viện đang đươc xay dựng tại quận 2 TP.Hồ Chí Minh
và bắt đầu khóa học năm(2010-2011) Viện thần học đã chuyển về giảng dậy tại
đây.
Ở miền Bắc từ ngày 23-25/2/2009 Đại Hội Đồng lần thứ 33
HTTLVNmB họp tại nhà thờ Tin Lành Hoành Nhi (Nam Định) với 250 đại biểu
về tham dự, đã bầu Ms Nguyễn Hữu Mặc làm Hội trưởng Ms Phùng Quang
Huyền làm phó.
Với những điều kiên hoàn toàn mới này các Hội thánh đã phát huy hết
năng luc thật sự của mình, Tin Lành đã thật sự trở thành một bộ phận không thể
tách rời các hoạt đông xã hội của nươc ta, cang ngày tầm ảnh hưởng của nó đội
với người dân càng thêm sau hơn. Chứng minh được sư tồn tai của Hội là điều
cần thiết, nhưng bên cạnh đó nó cũng thể hiện mặt phản tích cực khi các thế lưc
bên ngoài muốn lợi dụng Hội để chống Nhà nước ta, chính vì vậy ma chúng ta
cân phải quan tâm hơn về vấn đề này.
Đồng thời cũng trong giai đoạn này bủng lên hai khu vực trong điểm Tin
Lành hoạt động rất phát triển . Thứ nhất khu vực Tây Bắc ở đây đông đảo người
H’Mông và Dao tin theo đạo, cho đến năm 2009 tại Đại Hội Đồng Miền Bắc
trong số 250 đại biểu có 130 đại biểu của dân tộc H’Mông và Dao. Thư hai đó là
khu vực ở Tây Nguyên, Tin Lành bắt đầu du nhập vào thế kỷ XX , mấy năm gần
đây với khoảng 400.000 người theo đạo Tin Lành tín đồ đông nhất là các dân tôc
như; MNông, JaRai, Ede,……và nhiều dân tôc khác thuộc nhiều tổ chức và hệ
phái sinh hoạt tại gần 2000 điểm nhóm theo buôn. Như vậy ở Việt Nam có 4 khu
vực mà đạo Tin Lành phát triên mạnh, luôn có sự liên kết nhưng vẫn chư thống
nhất về mặt tổ chức hội.
Bên cạnh HTTLVN(mN và mB) ở nước ta cũng phải kể đến hai tổ chức
Hội thánh khác, Hội thánh Tư Gia và Hội thánh Hải ngoại tuy một số tổ chức
của Hội này không được Nhà nước cho phép nhưng vẫn hoạt động song song và
cùng tồn tại.
Hội Thánh Tư Gia
Ngoài hai Hội thánh kể trên ở nước ta còn có khoàng 50 hệ phái Tin
Lành khác được gọi là Hội thánh Tư gia hoạt động Bắc chí Nam như; Liên Hữu
Cơ Đốc ( mục sư Đinh Thiên Tứ ) Bát Tít Ân Điển, Bát Tít Nam Phương, Ngũ
Tuần Gam Lí, Trường Lão…Phân chia ra nhiều nhóm phái khác nhau,rất khó để
biết số tín đồ.Một số Hội thánh tư gia được chính phủ cấp phép hoạt dộng nhưng
một số vẫn hoạt động thầm lặng
Hội Thánh Hải Ngoại
Sau năm 1975,nhiều mục sư truyền đạo cùng các tín hữu di tản ra khắp thế
giới và họ đã thành lập nhiều hội thánh Tin Lành người Việt Nam tại rất nhiều
nước như tại Hoa kì, Canada, Pháp, Đức…và một số nước ở Châu Á, với nhiều
hệ phái khác nhau,nhiều nơi
thành lập được tổng hội hay giáo hạt và có ngân sách riêng, thành lập các trường
thần học nhằm phục vụ các hội thánh với mục đích mở rộng thêm hội.
Tổng cộng ở hải ngoại có khoảng 517 Hội thánh với số tín hữu ước chừng
khoảng 50.000 người, có khoảng 600 mục sư, truyền đạo vừa quan nhiệm Hội
thánh vừa ở trong các ban nghành va các mục vụ khác.
Như vậy từ khi Tin Lành được truyền bá vào Việt Nam đến ngày nay, nó
đã trãi qua quãng đường 100 năm, và kiến qua nhiều giai đoạn có lúc thăng trầm
có lúc phát triển tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử nhất định. Giai đoạn
khởi điểm bắt đầu từ năm 1911 và kéo dài đến nay đó là cả một quá trình đấu
tranh tồn tại, qua từng giai đoạn phát triển Hội thánh đã đặt được nhiều thành
công rực rở thể hiện; Hiện nay Hội thánh về mặt tổ chức gồm có ba cấp; Tổng
liên hội, địa hạt và chi hội, tới năm 2000 Đại hội đồng các mục sư lần thứ 43
quyết định thay đổi về tổ chức, bỏ cấp địa hạt chỉ còn hai cấp hành chính là Tổng
liên hội và chi hội, ở các tỉnh, thành phố được lập các Đại diện hoặc Ban đại
diện.
Đến nay có khoảng 1 triệu tín hữu Khách Cách thuộc nhiều giáo phái khác
nhau rải rắc trên toàn quốc, phần lớn tập trung tại miền Nam, trong số đó có
nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số tại Tây nguyên.
Các hệ phái đang hoạt đông ở Việt Nam hiện nay thì Hội thánh Tin Lành
Việt Nam(miền Nam) có số mục sư và tín hữu đông đảo nhất, hội thánh có
khoảng 115 muc sư và 350.00 tín hữu. Kế tiếp là Hội thánh Cơ đốc Liên hữu với
45.000 tín hữu, Hội thánh Cơ đốc Phúc lâm Việt Nam với 22.000 tin hữu, Hội
thánh Cơ đốc truyền giáo Việt Nam với 15.000 tin hữu,… và nhiều tín hữu còn
lại thuộc về hang chục các hội thánh, nhóm Tin Lành khác. Đó là một thành tựu
rất lớn chứng tỏ sự hoạt động tích cực và không mệt mỏi của các hội thánh Tin
Lành, mặt khác do sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện,
mội trường thuận lợi cho sự vươn lên của các Hội thánh Tin Lành ở đất nước ta.
Trong các kỳ Đại hội các hội thánh luôn tôn chỉ mục tiêu hoạt động theo
bản hiến chương năm 2001 đó là “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ
Tổ quốc và Dân tộc hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chấp hành quy định của các cơ quan Nhà nước,
giáo dục lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng pháp luật, đoàn kết
cùng toàn dân xây dựng Tổ quốc, bảo vệ hòa bình”. Tin Lành thật sự trở thành
một phần không thể thiếu trong tín ngưỡng của người Việt Nam.
CHƯƠNG 3: CÁCH THỨC TỔ CHỨC, CÁC NGHI LỄ CƠ BẢN
VÀ GIÁO LÍ CUA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
3.1 Cách thức tổ chức của Hội Thánh tin lành Việt Nam(Miền Nam)
Mãi đến năm 1920,đạo Tin Lành mới được phép tự do truyền giáo khắp
Việt Nam.Do đó,đạo Tin Lành được phát triển tương đối thuận lợi và vì vậy góp
phần trong việc tiến tới thành lập Hội Thánh Tin Lành.
3.1.1 Cơ cấu tổ chức
Trong cơ cấu tổ chức của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam(Miền Nam) chỉ
có Chi Hội và Tổng Liên Hội là những tổ chức hành chính,bỏ đi cấp Địa hạt
Liên hội.Ngoài ra,còn có Ban Đại Diện hoặc Ban Đại Diện các Tỉnh,Thành phố.
3.1.1.1 Chi Hội
Chi Hội là tổ chức cơ sở của đạo Tin Lành, do một mục sư đứng đầu điều
khiển và có một Ban Trị Sự do các tín đồ được bầu rat ham gia quản lý Chi Hội
đó.
Quản Nhiệm
Quản Nhiệm Chi Hội là Mục Sư, Mục Sư Nhiệm Chức và nữ truyền đạo
theo Nội quy quy định mỗi nhiệm kì là bốn năm.
Quản Nhiệm là người có trách nhiệm lãnh đạo Chi Hội, giảng dạy Kinh
Thánh, thi hành các lễ nghi theo Giáo Nghi(là tổ chức và lễ nghi) của Hội Thánh,
hướng dẫn các Ban, Nghành và các Hội Đồng của Chi Hội.Riêng Mục Sư Nhiệm
Chức chỉ được đặc trách thi hành lễ báptêm mà thôi. Khi cần thi hành ở các Chi
Hội khác phải được sự thuận ý của Uỷ Viên Mục Vụ từng trường hợp một.
Ngoài trách nhiệm hướng dẫn sự thờ phượng và thực hiện các lễ nghi, Quản
Nhiệm còn phải chịu trách nhiệm về mọi sinh hoạt của Hội Thánh, chăm lo đời
sống tâm linh của mỗi tín hữu(người tin Chúa), đối nội và đối ngoại.
Ban Chấp Sự
Ban Chấp Sự Chi Hội gồm các tín hữu chính thức, đủ điều kiện, được bầu
chọn trong Hội Đồng thường niên của Chi Hội để hiệp với Quản Nhiệm lo điều
hành Chi Hội.
Chấp Sự phải được phân nhiệm trong công tác phổ biến Tin Lành, thăm
viếng,chăm sóc tín hữu…Các Chấp Sự phải có tư cách xứng hiệp như Kinh
Thánh đã dạy.
Ban Trị Sự
Ban Trị Sự Chi Hội là thường trực của Ban Chấp Sự hiệp với Ưuản Nhiệm
điều hành Chi Hội về mặt hành chính, tài chính và các vấn đề sinh hoạt khác.
Các Ban, Ngành khác trong Chi Hội
Để giúp Hội Thánh phát triển, mỗi Chi Hội có các Ban,Ngành như Truyền
giáo,Cơ đốc giáo dục,Trung tráng niên, Thanh thiếu niên, Phụ nữ, Thiếu nhi,
Ytế, Xã hội… Các thành viên Ban Trị Sự có trách nhiệm đặc trách, hướng dẫn
các Ban, Ngành trên để giúp Hội Thánh tăng trưởng.
3.1.1.2 Tổng Liên Hội(TLH)
Tổng Liên Hội cùng do một Ban Trị Sự gồm Hội Trưởng, phó Hội
Trưởng. Thư ký và một số ủy viên lảnh đạo. Ban Trị Sự cũng do Hội Đồng TLH
bầu ra. Các chức vụ Hội Trưởng, Chủ Nhiệm chỉ có Mục Sư mới được ứng cử.
Ban Trị Sự TLH
Ban Trị Sự TLH là cấp lãnh đạo trung ương của Gíao Hội, do Đại Hội
Đồng TLH Hội Thánh Tin Lành Việt Nam(Miền Nam) bầu chọn chiếu theo Hiến
Chương.
Ban Trị Sự TLH có trách nhiệm hướng dẫn các Chi Hội thực hiện mục vụ
và lễ nghi hiệp với Kinh Thánh và tổ chức của Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam(Miền Nam)
Hội Đồng Giáo Phẩm
Hội Đông Giáo Phẩm là những Mục Sư ngoài Ban Trị Sự TLH, được bầu
chọn từ Đại Hội Đồng Giáo Phẩm có trách nhiệm tổ chức Hội Đồng bồi linh,
hiệp với Ban Trị Sự TLH hướng dẫn mục vụ cho hang Giáo Phẩm thực hiện
chức năng hợp với sự dạy dỗ trong Kinh Thánh và đường lối chung của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam)
Các Ban, Ngành liên quan
Ban Đại Diện hoặc Đại Diện Tỉnh,Thành phố hiệp với Uỷ Viên Mục
Vụ thay cho các Chi Hội lien hệ với chính quyền địa phương, giúp ổn định sinh
hoạt và phát triển Hội Thánh.
Các nghành: Cơ đốc giáo dục, dân tộc, truyền giáo, văn hóa, giáo dục, y tế
xã hội, phụ nữ… là những sinh hoạt căn bản giúp Hội Thánh phát triển cả chiều
rộng lẫn chiều sâu.
Các cơ quan
Viện Thánh Kinh Thần Học(Nha Trang) và các trường Kinh Thánh
Trung cấp là những cơ quan đào tạo, cung ứng những người hầu việc
Chúa trong các Chi Hội, tức là những Mục Sư, Mục Sư Nhiệm Chức,
Truyền Đạo trong các Chi Hội.Ngoài ra, còn có các cơ quan khác giúp
cho nhu cầu phát triển Hội Thánh.
3.1.2 Các sinh hoạt của Hội Thánh
3.1.2.1 Thờ phượng
Thờ phường là thì giờ Hội Thánh nhóm lại để tôn vinh, ca ngợi, học Kinh
Thánh,cầu nguyện nhằm mục đích phụng sự Đức Chúa Trời.
Về thì giờ thờ phượng thì tùy vào điều kiện sinh hoạt của mỗi Chi Hội
nhưng thì giờ chung thuận tiện để bắt đầu mỗi sáng Chúa Nhật(Chủ Nhật) là lúc
08h, thời lượng thờ phượng là 1giờ 30 phút.Chúa Nhật đầu tiên của tháng có Lễ
Tiệc Thánh nên thời lượn có thể dài hơn.
3.1.2.2 Truyền giảng
Truyền giảng là chương trình được tổ chức tùy theo hoàn cảnh của mỗi
Chi Hội nhằm nói lên tình yêu thương loài người và sự cứu rỗi của Đức Chúa
Trời đến với mọi người nhất là những người chưa tin Chúa. Thời lượng khoảng 1
giờ 15 phút. Đặc biệt , trong Lễ Giáng Sinh,Lễ Chúa chịu thương khó là cơ hội
thuận tiện nhất cho việc truyền giảng.Sau các buổi truyền giảng là lời mời kêu
gọi tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giêxu.Lời kêu gọi mang tính tự nguyện của mỗi cá
nhân sau khi nghe Mục Sư giảng về sự cứu chuộc của Chúa đối với hết thảy con
người.
3.1.2.3 Học Kinh Thánh
Học vKinh Thánh là nhu cầu quan trọng để đức tin tín hữu được tăng
trưởng. Các tín hữu tham dự các lớp học Kinh Thánh vừa với trình độ của mình
tùy vào thì giờ thuận tiện trong tuần mà Quản Nhiệm và Ban Trị Sự phân định
chương trình.Có nhiều chương trình Học Kinh Thánh tại Chi Hội nhưng thiết
thực nhất vẫn là Trường Chúa Nhật.
3.1.2.4 Cầu nguyện
Các nhóm cầu nguyện, học Kinh Thánh tại nhà thờ và nhà tín hữu là
những hạt nhân phát triển Hội Thánh. Chương trình cầu nguyện nhằm kêu gọi tín
hữu biết sống trông cậy và phó thác đời mình cho Chúa.Trong chương trình
không có giảng dạy nhưng đọc vài câu Kinh Thánh làm nền tảng, chia sẻ ngắn
gọn rồi để nhiều thì giờ cầu nguyện.
3.1.2.5 Sinh hoạt các Ban,Ngành
Tùy mỗi Chi Hội mà các giới có các có các buổi nhóm khác nhau trong
tuần.Sinh hoạt Ban,Ngành là yếu tố giúp cho Hội Thánh phát triển.
3.1.2.6 Thăm Viếng
Thăm viếng là trách nhiệm của người chăn thuộc linh(Mục Sư) đối với tín
hữu nói lên sự quan tâm của người đối với bầy chiên(là những người tin Chúa)
và cụ thể hóa trong những lời giảng.
3.1.2.7 Thông Công
Thông công là những buổi nhóm giữa các Ban,Ngành trong các Chi Hội
để chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm sống đạo và truyền bá Tin Lành.Tổ chức các
Hội đồng Chi Hội, các Hội Đồng Bồi Linh, các khóa Bồi dưỡng linh vụ nhằm
mục đích bồi linh cho các tín hữu và những nhân sự trong các Hội Thánh.
3.1.2.8 Sinh hoạt xã hội
Hội Thánh của Chúa là một thành phần giữa cộng đồng xã hội nên có
trach nhiệm tương than,tương trợ giúp đỡ mọi người khi họ cần đến.Mỗi tín hữu
có trách nhiệm tham gia công tác xã hội.vâng phục và cầu nguyện cho nhà cầm
quyền, tôn trọng pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân với tín lý.
3.2 Lễ nghi trong hội thánh
Căn cứ hiến chương của hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), do đại
hội đồng Tổng Liên Hội lần 1 năm 2001 (lần 43 theo lịch sử giáo hội) thông qua
đã được chính phủ nước CHXHCN Việt Nam phê chuẩn ngày 16/3/2001 tại
công văn số 15/QĐ/TGCP.
Hội thánh Tin lành chỉ công nhận 2 thánh lễ là Baptem và Tiệc thánh, còn
các lễ khác được gọi là giáo lễ như: Kỉ niệm chúa giáng sinh, Chúa chịu thương
khó, Chúa phục sinh, Chúa thăng thiên, Đức thánh linh giáng lâm, thành hôn,
Dâng con trẻ, lễ tang, xức dầu cầu nguyện cho người bệnh, tấn phong mục sư, bổ
nhiệm, cung hiến nhà thờ và cảm tạ.
3.2.1 Lễ Baptem
3.2.1.1 Ý nghĩa
Chữ “Baptem” có nghĩa là dìm xuống nước, không có nghĩa rửa tội hay
tẩy uế. Baptem là sự biểu hiện bên ngoài của sự thay đổi đời sống bên trong.
Baptem không làm cho người nào đó được sạch tội, cũng không có quyền làm
thay đổi tâm linh con người, nhưng tất cả tùy thuộc vào long tin của người ấy nơi
cứu ân của Chúa cứu thế.
Vậy Baptem nghĩa là một hành động xác nhận đức tin của người ấy,
chứng tỏ người quyết tâm sống cuộc đời mới trong Chúa cứu thế Giexu.
3.2.1.2 Điều kiện nhận Baptem
Người chịu Baptem là người đã tin chúa ít nhất sau ba tháng, từ 15 tuổi trở
lên, đã học giáo lý Baptem và được quản nhiệm cùng ban trị sự chi hội xem xét.
Trưởng hội chi hội có tín hữu đủ điều kiện nhận Baptem song không thể tổ chức
lễ có thể gửi ứng viên đến nhận Baptem nơi chi hội khác tổ chức lễ.
3.2.1.3 Nơi nhận Baptem
Theo kinh thánh ghi lại thì sông Giodanh là nơi chúa Giexxu đã chịu
Baptem (Kinh thánh Mathio 3:16, trang 3 trong Tân ước). Nếu chọn địa điểm
thiên nhiên như song, suối, nên chon chỗ thích hợp, rộng rãi, sạch sẽ, quang cảnh
yên tĩnh, tạo sự trang nghiêm cho buổi lễ.
Nơi tốt nhất để cử hành nghi lễ Baptem là hồ nước đã xây sẵn trong nhà
thờ với kích cỡ thích hợp.
3.2.1.4 Cách thực hiện lễ Baptem
Mục sư chủ lễ giúp ứng viên (người nhận lễ) dìm mình trong nước rồi lên
khỏi nước trong vài giây theo đúng nghĩa thuộc linh: dìm mình xuống là đồng
chết, đồng chôn với Chúa và lên khỏi nước là đồng sống đời mới với Chúa cứu
thế Giexu.
Trường hợp đặc biệt (già yếu, tật nguyền, đau ốm…) mục sư chủ lễ thực
hiện bằng cách đổ nước (một lượng nhỏ) trên đầu ứng viên.
Mục sư chủ lễ và mỗi ứng viên cần phải mặc áo lễ. Áo lễ của mục sư màu
huyết dụ, có hình thập tự trắng nhỏ trước ngực. Áo của ứng viên màu xanh
dương đậm.
Hội thánh có thể hát Thánh ca trong khi các ứng viên lần lượt nhận
Baptem.
Hành lễ xong, mục sư chủ lễ vẫn đứng trong nước để cầu nguyện chúc
phước.
Lễ Baptem có thể được tổ chức dựa vào điều kiện của từng chi hội.
3.2.2 Lễ tiệc thánh
Tiệc thánh là lễ do chúa Giexu lập ra đúng vào kì lễ Vượt Qua mà người
Do Thái dự lễ nhớ lại biến cố ra khỏi Ai Cập do chính Đức chúa trời tỏ quyền
nawnggiair cứu dân Y sơ ra ên khỏi ách nô lệ được ghi lại trong Kinh thánh Xuất
Êdipto 12:40-49 trang 77,78 Cựu ước hoặc Cô rinh tô nhất 5:6-8 trang 203 Tân
ước.
3.2.2.1 Sự quan trọng của lễ Tiệc thánh
Chúa Giexu thiết lập
Chúa ghi nhớ sự khổ nạn sự đổ huyết và sự chết của Ngài trên thập tự giá
được ghi lại trong Chúa Giexu chính là Chiên con của lễ Vượt qua, Ngài thiết lập
Tiệc thánh để hội thánh Cô ninh tô thứ nhất 11:23 trang 210 Tân ước.
Lễ Vượt qua là lễ được tổ chức để kỉ niệm sự giải cứu của Đức chúa trời
đối với dân Y sơ ra ên khi họ làm nô lệ trong xứ Êdipto. Có thể hiểu lễ Vượt qua
là lễ mà con dân chúa phải giết con chiên nhà mình rồi lấy máu quyet lên cửa
nhà rồi họ làm bánh không bỏ men vì không đủ thời gian. Khi xong rồi thì đêm
đến là lúc Chúa đi qua sẽ cứu những ai mà ở trong ngôi nhà có vệt máu của
Chiên con. Hình ảnh chiên con của lễ Vượt qua được ví sánh như là Chúa cứu
thế Giexu con Đức chúa trời hằng sống, ngài là chiên con, đã đến thế gian và hi
sinh trên thánh giá để cứu con người. Máu của chiên con được sánh cho dòng
huyết của Chúa đổ ra để cứu nhân loại.
Hội thánh tuân giữ
Hội thánh đầu tiên cho đến nay vấn giữ dự lễ Tiệc thánh vào chủ nhật tuần
đầu tiên của tháng để kỉ niệm sự chết của Chúa và hứa nguyện sống xứng đáng
với lời Ngài đã dạy.
Hình bóng
Nếu huyết Chiên con của lễ Vượt qua đã giải cứu dân Y sơ ra ên khỏi tai
vạ cuối cùng và khỏi ách nô lệ tại Ai cập thì lễ Tiệc thánh đánh dấu biến cố hi
sinh của Chúa Giexu tại thập tự giá, có năng quyền tha tội và giải phóng nhân
loại khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
3.2.2.2 Tinh thần của lễ Tiệc thánh
Để nhớ đến chúa
Chúa Giexu phán: “Nầy là than thể ta đã vì các ngươi mà phó cho; hãy
làm điều này để nhớ đến ta”. Hội thánh Tin lành Việt Nam thong tin thuyết Biến
thế (bánh và nước biến thành thịt và huyết thật của chúa). Tuy nhiên, sự kỉ niệm
này có giá trị thiêng liêng và được chúa hiện diện để ban phước cho hội thánh.
Thi hành mạng lệnh chúa
Khi dự tiệc thánh, hành động này nhắc nhở mỗi con cái chúa phải sống
đạo, tức là sống xứng đáng với sự hi sinh của chúa vì tội lỗi mỗi người, và để
thực hiện mạng lệnh giảng Tin lành.
Phải dự tiệc thánh cách xứng đáng
Trước khi dự tiệc, các tín hữu phải tự xét long mình, cầu nguyện xưng tội
trước mặt chúa và cam kết với chúa để từ bỏ và mặc lấy con người mới.
Người dự tiệc thánh phải nhận thức được đặc ân cũng như trách nhiệm cần
làm cho chúa.
3.2.2.3 Cách dự tiệc thánh
Chủ lễ và phụ lễ
Quản nhiệm hội thnahs có trách nhiệm chuẩn bị lễ cho thật chu đáo hoặc
có thể hiệp với các nam chấp sự phụ lễ mà chuẩn bị bánh và nước đầy đủ theo số
lượng người tham dự.
Bánh có thể dung bánh tròn trắng hoặc bánh mì cắt nhỏ. Nước có thể dung
nước nho hoặc nước có màu đỏ thắm. Bàn tiệc thánh phải đủ rộng cho việc sắp
đặt những khay chén và bánh thứ tự. Khăn bàn màu trắng có thể trang trí hình
thập tự và mãn triều thiên với câu “hãy làm điều này để nhớ ta”.
Các nam chấp sự phụ lễ phải ăn mặc chỉnh tề, giúp lễ cách trang trọng,
kính kiền khi đưa bánh và chén xuống hội chúng. Các phụ lễ đứng đối nhau hai
bên bàn tiệc thánh, hkoong nên đứng ngang hàng với chủ lễ.
Sau khi lễ xong, bánh và nước còn lại, chủ lễ hoặc những phụ lễ phải ăn
và uống hết. Không được cho các em nhỏ ăn, uống hoặc bỏ đi.
Hội chúng
Hội thánh giữ lễ tiệc thánh vào mỗi chủ nhật đầu tháng, trong dịp lễ kỉ
niệm chúa chịu thương chịu khó hoặc trong những kì hội đồng. Người nhận tiệc
thánh phải là người đã chịu Baptem. Nếu là người vi phạm giáo luật phải chờ
đến khi mãn hạn kỉ luật.
Khi Quản nhiệm hội thánh khởi sự cầu nguyện cho lễ Tiệc thánh, chủ lễ
mời tín hữu đứng lên dự lễ. Phải có long kính sợ chúa và thầm nguyện trong giờ
lễ. Nếu tín hữu nào chưa đủ điều kiện dự tiệc thánh thì vẫn ở lại nhưng không dự
tiệc.
3.2.3 Lễ kỉ niệm Chúa giáng sinh
Theo truyền thống Cơ Đốc giáo , các hội thánh cử hành lễ Kỉ niệm Chúa
giáng sinh hàng năm vào những ngày 24 và 25 tháng 12 dương lịch. Tuy nhiên,
tùy điều kiện thực tế ở mỗi nơi, Hội thánh cũng có thể tổ chức lễ này vào các
ngày khác trong tháng 12.
3.2.3.1 Ý nghĩa lễ giáng sinh
Đức chúa trời ở cùng nhân loại trong hình thể con người, là người sang tạo
ra muôn vật nhưng vì con người là loài mà đức chúa trời yêu thương nhất nên
không muốn côn người phải chết trong hỏa ngục với tội lỗi của mình. Vì vậy mà
ngài đã đổi sự sống của mình để cứu rỗi cho những ai tin ngài. Lễ kỉ niệm giáng
sinh là ngày lễ để tỏ long biết ơn của những ai tin ngài, để cảm ơn sự cứu rỗi của
ngài.
3.2.3.2 Tinh thần Lễ giáng sinh
Tinh thần chính của lễ giáng sinh đó là: ngợi khen, rao truyền, dâng hiến
và thờ phượng.
3.2.4 Lễ kỉ niệm chúa chịu thương khó
3.2.4.1 Ý nghĩa lễ kỉ niệm chúa chịu thương khó
Theo như kinh thánh ghi thì đức chúa trời đã chịu đau khổ vì con người,
đã chịu chết vì tội của con người, đã phải đổ huyết đẻ ban lại sự cứu rỗi trọn vẹn
cho con người. Vì vậy đây là dịp để những người tin chúa cảm ơn những phước
hạnh mà ngài đã ban cho họ.
3.2.4.2 Tinh thần lễ kỉ niệm chịu thương khó
Tinh thần chính của lễ chịu thương khó là: Học hỏi tinh thần hạ mình và
vâng phục chúa, trung tín vác thập tự giá mình theo chúa, trung tín rao giảng về
thập tự giá của chúa Gieexxu, hi sinh vì chúa và hội thánh.
3.2.5 Lễ kỉ niệm chúa phục sinh
Lễ phục sinh không được ấn định vào một ngày nhất định theo dương lịch,
tuy nhiên theo truyền thống cơ đốc giáo thì được tính như sau: Phải là chủ nhật
tiếp theo tiết xuân phân và sau trăng tròn.
3.2.5.1 Ý nghĩa của lễ phục sinh
Lễ phục sinh là ngày lễ kỉ niệm sự sống lại của chúa sau khi đã chết 3
ngày, sự sống lại đó là nền tảng của đức tin Cơ Đốc nhân và là sử điệp quan
trọng của Cơ Đốc giáo. Sự sống lại đó cho thấy tội lỗi và cái chết đã bị đánh bại,
chúa Christ sống lại xác chứng cơ thể con người cũng sống lại.
3.2.6 Lễ kỉ niệm chúa thăng thiên
3.2.6.1 Ý nghĩa lễ chúa thăng thiên
Lễ thăng thiên là lễ chúa Gieexxu sau khi giáng sinh làm người, chịu chết
vì tội lỗi con người, và sống lại, rồi về trời (thăng thiên), sau khi về trời thì sẽ bắt
đầu công tác trên trời, đó là một kiểu mẫu cho sự tái lâm của đấng christ và Hội
thánh cũng sẽ được cất lên.
3.2.6.2 Mục đích chúa thăng thiên
Đó là chuẩn bị chỗ ở cho kẻ được chọn ( kẻ tin ngài), Chúa về trời đẻ đức
thánh Linh đến với con người, cầu thay và biện hộ, đáng Christ ra đi và sẽ trở lại.
3.3 Kinh thánh và giáo lí
Kinh thánh và giáo lý
Trước hết về Kinh thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và Công giáo đều lấy
Kinh thánh (gồm Cựu ước và Tân ước) làm nền tảng giáo lý. Đạo Tin lành đề
cao vị trí của Kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin và
sự hành đạo. Đạo Công giáo lại cho rằng ngoài Kinh thánh còn có những văn
bản khác như nghị quyết các Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp... của
Giáo hoàng, về nguyên tắc cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin lành đề cao Kinh
thánh một cách tuyệt đối, tất cả tín đồ và chức vụ mục sư, truyền đạo đều sử
dụng Kinh thánh, nói và làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin lành, Kinh thánh
có vị trí cực kỳ quan trọng. Trong các trường hợp, Kinh thánh giữ vai trò như
một giáo sĩ trên cả hai phương diện mục vụ và truyền giáo.
Giáo lý của đạo Tin lành và Công giáo về cơ bản giống nhau. Cả hai tôn
giáo đều thờ Thiên Chúa, tin theo thuyết "Thiên Chúa ba ngôi" (Ngôi Một: Cha,
Ngôi Hai: Con, Ngôi Ba: Thánh thần; Ngôi Hai được "lưu xuất" từ Ngôi Một,
Ngôi Ba được "lưu xuất" từ Ngôi Một và Ngôi Hai); tin vũ trụ, muôn vật đều do
Thiên Chúa tạo dựng và có điều khiển; tin con người do Thiên Chúa tạo dựng
theo cách riêng và có phần hồn và phần xác; tin con người có tội lỗi; tin có Ngôi
Hai Thiên Chúa là Giêsu Kitô xuống trần chịu nạn, chịu chết chuộc tội cho loài
người; tin có Thiên thần và Ma quỷ, có Thiên đàng và Địa ngục; tin có ngày
Phục sinh, Tận thế và Phán xét cuối cùng.
Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín điều truyền thống của đạo
Công giáo được đạo Tin lành sửa đổi và lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định
giữa đạo Tin lành và Công giáo.
Đạo Tin lành tin có sự hoài thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của bà
Maria nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu, sau
đó không còn đồng trinh nữa. Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng Kinh
thánh nói Bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số
người con khác một cách bình thường. Một số phái Tin lành đã trích dẫn những
câu Kinh thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông Giuse, như trong sách
Matheu ở chương 13 câu 54, 55 có nói: "... Anh em Ngài (Chúa Giêsu) có phải là
Giacô, Giosep, Simson, Giuđa ?" (Matheu 13; 55,56); hoặc sách Giăng chương
2, câu 12 còn nói rõ hơn: "Sau việc đó, anh em và môn đệ Ngài (Chúa Giêsu)
đều xuống thành Ca-bê-na-um" (Giăng 2; 12). Do vậy, đạo Tin lành chỉ kính
trọng chứ không tôn sùng thờ lạy bà Maria như đạo Công giáo. Bà Maria chỉ có
công sinh và nuôi dạy Chúa Giêsu, chứ không phải là mẹ của Thiên Chúa.
Đạo Tin lành tin có Thiên sứ, có các thánh Tông đồ, các Thánh tử đạo và
các Thánh khác, nhưng cũng chỉ kính trọng và noi gương, chứ không tôn sùng và
thờ lạy họ như đạo Công giáo. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh, hình tượng
cũng như các di vật. Không tôn sùng và thực hiện hành hương đến các Thánh
địa, kể cả Giêrusalem, núi Xinai, đền thánh Phêrô và Phaolô.
Đặc biệt, đạo Tin lành không thờ lạy các hình tượng và họ cho rằng Kinh
thánh đã dạy: "Hình tượng là công việc do tay người làm ra, hình tượng có
miệng mà không nói, có tai mà không nghe, có lỗ mũi mà chẳng ngửi, có tay
nhưng không rờ rẫm, có chân nào biết bước đi... phàm kẻ nào làm hình tượng
mà nhờ cậy nơi đó, đều giống nó" (Thi thiên 115; 4-8).
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đạo Tin lành có dùng các tranh ảnh,
hình tượng trong sinh hoạt tôn giáo nhưng mang ý nghĩa tài liệu để giảng giải,
truyền thụ.
Đạo Tin lành tin có Thiên đàng, Hoả ngục nhưng không quá coi trọng tới
mức dùng nó làm công cụ khuyên thưởng răn đe, trừng phạt đối với con người.
Đạo Tin lành không có Luyện ngục, nơi tạm giam các linh hồn mắc tội nhẹ đang
chờ cứu vớt như đạo Công giáo. Họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến Thiên
đường, Hoả ngục, không nói đến Luyện ngục.
CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
4.1 Nhận xét chung về đạo Tin lành
Qua phân tích quá trinh ra đời phát triển giáo lí,luật lệ,lễ nghi,tổ chức
chúng tôi đã khái quát một số đặc trưng cơ bản của đạo tin lành như sau:
Đạo tin lành là một tôn giáo tách ra từ công giáo ở thế kỉ XVI cùng với sự
xuất hiện giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.nội dung cải cách chịu ảnh hưởng
sâu sắc tư tưởng dân chủ tư sản,ý chí tự do cá nhân.trong sinh hoạt về tổ
chức,đạo tin lành đè cao dân chủ tư sản.các luật lệ ,lễ nghi,cách thức hành đạo,cơ
cấu tổ chức của đạo tin lành đơn giản,nhẹ nhàng không rờm rà,gò bó như đạo
công giáo.
Những nội dung cải cách đạo tin lành trở thành một tôn giáo có màu sắc
mới mẻ,thích hợp với giai cấp tư sản ,tiểu tư sản,ý công chức trí thức…thị dân
nói chung trong xã hội công nghiệp.đặc bietj với lối sống đạo nhẹ nhàng đè cao
đức tính và vai trò cá nhân,đạo tin lành duy trì tín ngưỡng trong mọi hoàn cảnh
chính trị ,xã hội kẻ cả nhửng khi bị o ép,cấm bách.
Đạo tin lành là một tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động
rất năng động,luôn đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn
cảnh xã hội .đặc biệt,đạo tin lành tham gia tích cực vào các hoạt động xã
hội ,nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo, lấy đó làm phương tiện mở rộng ảnh
hưởng.điều này tạo ra uy tín và khả năng tiếp cận,chung sống với nhiều chế đọ
chính trị khác nhau.
Ngoài tầng lớp thị dân,đối tượng truyền đạo quan trọng thứ hai của đạo tin
lành là đồng bào các dân tộc thiểu số.đó là những vùng đát mới nơi chưa có tôn
giáo chính thống hoặc tôn giáo,tín ngưỡng đang suy thoái,mất uy tín,nơi đời
sống dân sinh còn thấp,việc truyền đạo đến nhửng vùng này là phù hợp nhất.đạo
tin lành không những phát huy lợi thế vốn có đơn giản về luật lệ ,lễ nghi cách
thức hành đạo mà cồn nghiên cứu rất kĩ lịch sử,văn hóa tâm lí lối sống phông tục
,tập quán của từng dân tộc,chủ động địa phương hóa dể dễ dàng hòa nhập.
Ra đời và phát triển cùng giai cấp tư sản cho nên đạo tin lành có mối quan
hệ khá chặt chẽ với giai cấp tư sản.giai cấp tư sản sử dụng đạo tin lành như một
thứ vũ khí trong các cuộc cách cách mạng tư sản thời kì đầu là tìm kiếm thị
trường và sau này là thuộc địa.
Tuy nhiên trong từng thời kì lịch sử, từng tổ chức hệ phái Tin lành, mối
quan hệ nói trên có sự thay đổi từng nước, từng khu vực. Thời gian sau này đọa
Tin lành chịu ảnh hưởng các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên nhiều phái đã
tách ra để tránh sự kiềm chế về chính trị
4.2 Những ảnh hưởng của đạo Tin lành trên đất nước Việt Nam
Tin lành đén với Việt Nam từ một chặng đường dài và bao thăng trầm, với
những khó khăn và thử thách, niềm vui và nỗi buồn. Từ những hạt giống Tin
lành đầu tiên mà giáo sĩ đã gieo vào việt nam từ năm 1911 cho đến nay hội đã
sản sinh ra rất nhiều anh hùng đức tin, những người con ưu tú của chúa giexu.
Những người con ấy đã lớn lên và trưởng thành, hết thế hệ này qua thế hệ khác,
họ đã nằm xuống cho hạt giống tin làng nảy hạt đơm hoa kết trái, quả thật Tin
lành đã để lại một tầm ảnh hưởng lớn lao và mạnh mẽ trên quê hương, trên cộng
đồng Việt Nam từ những vùng đất xa xôi hẻo lánh, từ đồng bằng cho đến cao
nguyên, từ nông thôn cho đến thành thị, với thời gian hạn hẹp chúng tôi không
thể nào ghi lại hết được những tầm ảnh hưởng lớn lao đạo Tin lành. Dù vậy
chúng tôi đã ghi lại hai sự ảnh hưởng lớn lao đạo tin lành đó là: Tin lành mang
tới sự tự do và Tin lành mang đến sự đổi mới trên quê hương Việt Nam.
Trong tình hình hiện nay đất nước đang trên đường hội nhập và phát triển.
Hội thánh đóng vai trò quan trọng để góp phần sự nghiệp hóa đất nước đổi mới
và sự đóng góp tích cực của hội thánh sẽ làm cho đất nước ta ngày càng sánh vai
ngang hàng với các nền văn minh thế giới.
4.3 Những chính sách của Đảng và nhà nước đối với Tin Lành
Trước kia khi đạo Tin Lành mới được vào nước ta thì chúng ta vẫn còn
những cái nhìn không mấy thiện cảm, nhưng từ khi chúng ta xét đạo Tin Lành
trong mối quan hệ với xã hội đương đại, với những giáo lý mà đạo Tin Lành đưa
ra là “ đạo Tin Lành có nhiệm vụ giáo dục lòng yêu nước, nghĩa vụ người công
dân,ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước việt nam dân
chủ cộng hòa. Hội thánh đoàn kết cùng toàn dân xây dựng tổ quốc việt nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. (Phần thứ XII trong điều lệ hội
thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) - trong các tôn giáo trên Thế Giới và Việt
Nam, tập III, Mai Thanh Hải (2006), trang 129 ). Vì vậy đến nay ở việt nam có
hai hội thánh Tin Lành được nhà nước công nhận có tổ chức đó là hội thánh Tin
Lành Việt Nam- miền Bắc (1958) và hội thánh Tin Lành Việt Nam - miền Nam
(2001).
Để giáo dân của hai hội thánh Tin Lành ở Việt Nam hoạt động tích cực và
không có sự sai lệch gì về tư tưởng chính trị, thì ngày 14-5-2005 Thủ tướng
chính phủ Phan Văn Khải đã ra chỉ thị số 01/2005/ct - ttg “ về một số công tác
đối với đạo Tin Lành”. (Các tôn giáo trên Thế Giới và Việt Nam, tập III, Mai
Thanh Hải (2006), trang 131). Để giúp cho giáo dân và các mục sư thực hiện tốt
hơn quyền và nghĩa vụ của mình, bên cạnh đó thì chính phủ và nhà nước cũng có
một số pháp lệnh và nghị định về tôn giáo và tín ngưỡng, như “ pháp lệnh về tín
ngưỡng, tôn giáo”, “ nghị định số 21/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội
khóa XI kì họp thứ 4 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 2004 - pháp lệnh
này quy định về hoạt động tín ngưỡng tôn giáo”, “ nghị định của chính phủ số
22/2005 NĐ - CP ngày 01/03/2005 hướng dẫn thi hành một số điều lệ của pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo”…
Vì vậy trong những năm qua thì công tác đối với đạo Tin Lành đã đạt
được những kết quả rất quan trong, nhà nước và chính phủ tôn trọng và bảo đảm
sinh hoạt tôn giáo bình thường của đồng bào theo Tin Lành ở các cơ sở thờ tự
của các tổ chức và hệ phái Tin Lành.
Từ năn 2001 nhà nước đã xem xét công nhận tư cách pháp nhân, tổ chức
giáo hội của hội thnahs tin lành Việt Nam (miền Nam) và từng bước bình thường
hóa hoạt động Tin Lành ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, vung
Duyên hải miền Trung và Nam Trường Sơn.
Năm 2003, chính phủ đã chấp thuận cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam
(miền Nam thành lập viện Thánh kinh thần học tại thành phố Hồ Chí Minh, để
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đạo Tin Lành, nhà nước đã cho
xuất bản kinh thánh và các sách giáo lí. Từ năm 1999 đến nay có tới hơn 400.000
cốn kinh thánh được xuất bản và ấn tống. Đến nay, ở khu vục Tây Nguyên có 36
chi hội được công nhận, hàng chục mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo được
tấn phong nhiệm chức.
Trong những năm gần đây thì nhà nước bắt đâu tạo điều kiện để hội thánh
tổ chức nhiều chương trình truyền giảng lớn ở nơi công cộng mở đầu là sân vận
động Phú Thọ, Tao đàn ( Tp.Hồ Chí Minh), và gàn đây nhất là lễ kỉ niệm 100
năm đạo Tin Lành đến Việt Nam ở sân vận động Quần ngựa (Hà Nội), và bắt
đầu có nhiều chính sách về Tin Lành có chuyển biến tích cực.
Bên cạnh dó thì chính phủ và nhà nước cũng đã giải quyết, xử lý rất
nghiêm khắc đối với những trường hợp lợi dụng đạo Tin Lành để làm rối loạn
tình hình chính trị ở nước ta, ví dụ như vụ bạo động ở Tây Nguyên năm 2008 là
một ví dụ điển hình. Hay nghiêm cấm đồng thời xử lý nghiêm khắc đối với
những người ép buộc đồng bào bỏ đạo cũng như ép buộc đồng bào theo đạo.
Tuy nhiên, công tác đối với đạo Tin Lành còn nhiều vấn đề càn tiếp tục
giải quyết trong thời gian tới, trong đó có những vấn đề mới nảy sinh. Như
hướng dẫn và quản lý hoạt hoạt động của các Hội thánh Tin Lành đã được công
nhận tư cách pháp nhân, việc đăng kí hoạt động và tư cách pháp nhân, tổ chức
giáo hội của một số tổ chức, hệ phái Tin Lành, việc tiếp tục bình thường hóa
hoạt động của các đạo Tin Lành ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên, việc quyết các sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Mông, đồng bào Dao
mới theo đạo Tin Lành ở Tây Bắc… theo quy định của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo.
Trong điều kiện thực hiện pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo- một văn bản
quy phạm pháp luật có giá trị cao, việc chính phủ và nhà nước đưa ra những chỉ
thị, nghị định, pháp lệnh về công tác đối với đạo Tin Lành sẽ góp phần tạo ra sự
thống nhất trong quá trình thực hiện pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của chính
phủ, đặc biệt với chỉ thị 01 của thủ tướng chính phủ về “ một số công tác đối với
đạo Tin Lành” là để thực hiện tốt hơn pháp lệnh “Tín ngưỡng, tôn giáo”, với chỉ
thị này thì đây được coi là một dấu mốc mới trong chính sách tôn giáo của nhà
nước ta.
Chính phủ đã giúp cho những người theo đạo Tin Lành sống bình thường
hóa với cộng đồng, sống theo phương châm “sống tốt đời, đẹp đạo” góp phần
làm cho nước ta ngày càng dân chủ hơn, văn minh hơn.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua quá trình phát triển lâu dài ở Việt Nam, từ 1911 đến 2010 đạo Tin
lành đã tồn tại và phát triển 100 năm. Trong thời gian ấy không phải khi nào đạo
cũng có bước phát triển dễ dàng. Từ lần đầu vào Việt Nam cùng với sự xâm lược
của thực dân Pháp, đạo Tin lành bị coi là công cụ cho việc xâm lược thuộc địa
của đế quốc thực dân. Bị chính quyền triều Nguyễn ra lệnh cấm đạo, những tu sĩ,
mục sư bị giết, những người nông dân theo đạo bị khinh rẻ. Nhưng không dừng
lại ở đó, qua những khó khăn, thử thách Tin lành dần khẳng định được vị trí của
mình trên diễn đàn tôn giáo ở Việt Nam.
Và cũng không thể không kể đến những đóng góp của đạo Tin lành trong
lịch sử đánh đuổi thực dân đế quốc. Hơn nữa ngày nay với những đóng góp về
mặ tinh thần, đạo Tin lành đã giúp những người từng lầm lỡ trở về với cuộc sống
tốt đẹp.
Trong những năm gần đây sự hiểu biết về Tin lành đã dần được cải thiện
nhờ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác Tin lành đã ngày càng phục hồi và phát triển.
Nhưng cũng từ đây, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục gây khó khăn cho sự
quản lí của các cấp chính quyền về vấn đề tôn giáo. Chúng lợi dụng tôn giáo để
xúi dục bà con người đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên, vùng Tây Bắc
chống phá chính quyền. Đây thực sự là vấn đề nan giải của chúng ta. Vì vậy khi
nghiên cứu đề tài về đạo Tin lành, chúng tôi nhận thấy giải pháp chung sau đây
cần được quan tâm nhiều hơn:
Ổn định nâng cao đời sống vật chất kinh tế, tinh thần của các dân tộc
thiểu số
Giải quyết đúng, phù hợp các vấn đề về tôn giáo trong nước trên cơ sở
chính sách, đường lối chung của Đảng và Nhà nước
Nhận thức rõ về âm mưu của kẻ địch bên ngoài và bọn đối tượng cấu
đang lợi dụng vấn đề tôn giáo Tin lành hoạt động chống đối. Để từ đó chúng ta
phòng ngừa, đấu tranh phù hợp, không để chúng biến vấn đề tôn giáo thành vấn
đề dân tộc để chống phá ta.
Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị để giải quyết đồng bộ,
thống nhất đối với đạo Tin lành thời gian tới.
Vấn đề đạo Tin lành hiện nay vẫn còn là một chủ đề “chứa chất nhiều tiềm
năng” đối với các thế lực thù địch Việt Nam và các phần tử cơ hội chủ nghĩa
trong chính giới Mỹ để họ khai thác trong các chiến dịch nhân quyền và tự do
tôn giáo.
Với tinh thần đảm bảo và tôn trọng quyền phát triển tự do tín ngưỡng tôn
giáo của công dân, nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết
các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là đối với đạo Tin lành. Nhà nước Việt Nam đã
công nhận tư cách pháp nhân của Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)
từ năm 1958 và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) từ đầu
năm 2001. Vậy có nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn tại khách quan của đạo Tin
lành ở Việt Nam, từng bước đưa đạo Tin lành vào thể chế luật pháp tôn giáo để
khai thác những mặt tích cực, nhưng kiên quyết ngăn chặn chống lại bất cứ một
nhóm người nào lợi dụng đạo Tin lành để phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân
làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc.
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Tin lành đã có mặt ở Việt Nam hơn
100 năm. Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Tin lành đã chọn lựa
các hình thức hoạt động mềm dẻo, giáo lí và lễ nghi được đơn giản hoá, quần
chúng hoá, ở nhiều nơi đã thích nghi dễ dàng với phong tục tập quán của người
địa phương, số lượng tín đồ đạo Tin lành ngày càng gia tăng. Điều cốt yếu là tín
đồ đạo Tin lành không tách rời với điều kiện lịch sử mới, tìm được nhiều phương
sách đúng đắn để hoà nhập trong cộng đồng dân tộc, không đi ngược lại lợi ích
của dân tộc. Chúng ta có quyền hy vọng vào một cộng đồng Tin lành ở Việt
Nam “kính chúa, yêu nước” “sống phúc âm...” như đường hướng hoạt động của
Hội thánh Tin lành miền Bắc và miền Nam đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, tập 3 – Mai Thanh Hải (2006)
2 Mười tôn giáo lớn trên thế giới – Hoàng Tâm Xuyên, Lã Đại Cát, Lý Vũ
Thành; dịch: Dương Thu Ái 1999
3 Nguyễn Xuân Hùng, Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi đạo Tin lành
tại Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 3, 2001
4 Nguyễn Xuân Hùng, Tìm hiể những hệ quả của việc truyền giáo Tin lành
đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng Việt Nam, tạp chí nghiên cứu
tôn giáo, số 1, 2001
5 Phạm Đăng Hiển, Góp một góc nhìn về vấn đề đạo Tin lành ở Tây
nguyên, tạp chí dân tộc học, số 5, 2003
6 Nguyễn Thanh Xuân, Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và ở
Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2002
7 Nguyễn Văn Trung, Một số hiểu biết về tôn giáo ở Việt Nam, NXB
QĐND, Hà Nội, 1993
8 Hội thánh Tin lành Việt Nam 100 năm hình thành và phát triển, NXB Tôn
giáo, 2011
9 Sưu tầm một số luận văn tiến sĩ, thạc sĩ về đạo Tin lành ở Việt Nam
10 Một số trang web của đạo Tin lành: tinlanh.com, hoithanh.com và một số
nguồn tài liệu trên mạng tham khảo
PHỤ LỤC VÀ HÌNH ẢNH
Bên trong nhà thờ Tin lành
Cuốn sách kể về cuộc đời và chức vụ của mục sư Jaffray của A.W. Tozer
Martin Luther (Martin Luder hay Martinus Luther; 10/11/1483 – 180/2/1546
Vua Anh Henry VIII (1509–1547)
Jean Calvin (1509 - 1564)
Vợ chồng giáo sĩ Simpson
Giáo sĩ Simpson
Ba giáo sĩ tiên phong đến Việt Nam (trái qua) I.R Stebbins, D.I. Jeffrey, E.F.
Irwin
Nhà thờ Tin lành ở Đà Lạt
Nhà thờ Tin lành ở Tiền Giang
Ban Phụ nữ HT Tân Thạch, Quới Sơn, Bến Tre tôn vinh Chúa
Nghi thức lễ cung hiến
HTTL Chi Hội Quy Nhơn (71 Hai Bà Trưng, P. Lê Lợi, Tp. Qui Nhơn)
HTTL Chi Hội PHÚ PHONG (11 Quang Trung, Thị Trấn Phú Phong, Huyện
Tây Sơn)
HTTL Chi Hội KHU 6 (HT. Khu 6 - Qui Nhơn. 16 Biên Cương, P. Ngô Mây,
Tp. Qui Nhơn)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................2
4. Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu..........................2
5. Cấu trúc đề tài..................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.................................................................4
CHƯƠNG I: PHONG TRÀO CẢI CÁCH TÔN GIÁO VÀ SỰ RA
ĐỜI CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
1.1 Hoàn cảnh lịch sử.......................................................................4
1.2 Phong trào cải cách tôn giáo và sự ra đời đạo Tin lành.................4
CHƯƠNG II: SỰ DU NHẬP, QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ VÀ CÁC
GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
2.1 Tình hình kinh tế, chính trị- xã hội, văn hóa giáo dục trước khi đạo Tin Lành
truyền vào Việt Nam.............................................................................7
2.1.1 Tình hình kinh tế..........................................................................7
2.1.2 Tình hình chính trị- xã hội ...................................................8
2.1.3 Tình hình văn hóa- giáo dục......................................................10
2.2 Sự du nhập và quá trình truyền bá đạo Tin Lành vào Việt Nam. .11
2.2.1 Sự du nhập.................................................................................11
2.2.2 Quá trình truyền bá....................................................................13
2.3 Các giai đoạn phát triển của đạo Tin Lành ở Việt Nam................14
2.3.1 Từ 1911-1942.............................................................................14
2.3.2 Từ 1942-1954.............................................................................20
2.3.3 Từ 1954- 1975............................................................................23
2.3.4 Từ 1975-2001.............................................................................26
2.3.5 Từ 2001- nay..............................................................................28
CHƯƠNG III: CÁCH THỨC TỔ CHỨC, GIÁO LÝ VÀ CÁC NGHI
LỄ CƠ BẢN CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
3.1 Cách thức tổ chức..........................................................................32
3.2 Nghi lễ cơ bản...............................................................................36
3.3 Kinh thánh và giáo lí.....................................................................42
CHƯƠNG IV: NHẬN XÉT VỀ ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
4.1 Nhận xét chung về đạo Tin Lành .................................................45
4.2 Những ảnh hưởng của Tin Lành đối với cuộc sống con người.....46
4.3 Những chính sách của Đảng và nhà nước đối với Tin Lành.........47
PHẦN KẾT LUẬN...............................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................52
PHỤ LỤC VÀ HÌNH ẢNH......................................................