thuốc chán ăn vs nguy cơ tăng áp lực động mạch phổi nguyên phát
DESCRIPTION
Thuốc chán ăn và nguy cơ tăng áp lực DMP nguyên phátTRANSCRIPT
BÁO CÁO DỊCH TỄ DƯỢC
THUỐC GIẢM CÂN VÀ NGUY CƠ TĂNG ÁP
LỰC ĐỘNG MẠCH PHỔI NGUYÊN PHÁT
Nhóm sinh viên thực hiện
1) Nguyễn Hải An MSV 1101004
2) Phùng Văn Công MSV 1001052
3) Vương Bích Phương MSV 1101406
4) Nguyễn Trung Đức MSV 1101112
5) Hoàng Thị Kim Quý MSV 1101433
BỐI CẢNH LÝ DO VÀ MỤC TIÊU THỰC HIỆN
NGHIÊN CỨU
Tại Pháp, tăng áp lực động mạch phổi có xu hướng xuất
hiện nhiều ở nhóm bệnh nhân tiếp xúc với dẫn xuất
flenfluramin trong thuốc giảm cân.
Nghi ngờ có mối liên quan
Thực hiện nghiên cứu
Mục tiêu: đánh giá nguy cơ thuốc giảm cân với bệnh tăng
áp lực động mạch phổi
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. Thiết kế nghiên cứu
II. Nguồn lấy mẫu
III. Lựa chọn nhóm chủ cứu (nhóm bệnh/nhóm sử dụng thuốc)
IV. Lựa chọn nhóm chứng
V. Định nghĩa về phơi nhiễm thuốc
VI. Định nghĩa về bệnh
VII. Cách thức thu thập dữ liệu
VIII. Một số tác nhân khác được đưa vào phân tích trong nghiên cứu
I.THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Trong một nghiên cứu bệnh chứng, các nhà nghiên cứu đã đánh giá 95 bệnh
nhân tăng áp lực động mạch áp phổi nguyên phát từ 35 trung tâm ở Pháp, Bỉ,
Vương quốc Anh, và Hà Lan và đưa ra 355 tiêu chuẩn lựa chọn thông thường
phù hợp với giới tính và tuổi của bệnh nhân.
Tăng áp lực động mạch phổi nguyên phát là một bệnh hiếm gặp, bệnh thường
gây tử vong và có xu hướng xảy ra ở phụ nữ
Yếu tố ngoại sinh đã bị nghi ngờ là gây ra bệnh, bao gồm cả sử dụng cocaine,
nhiễm trùng với vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV), sử dụng thuốc
tránh thai đường uống và việc sử dụng các thuốc biếng ăn Trong những năm
1960,sự lan truyền như dịch bệnh của bệnh tăng áp lực động mạch phổi
nguyên phát ở Thụy Sĩ, Đức, Áo có liên quan đến một loại thuốc biếng ăn đặc
biệt, aminorex fumarate.Đầu những năm 1990, các nhà điều tra Pháp đã báo
cáo một nhóm trường hợp những bệnh nhân đã sử dụng các dẫn xuất của
fenfluramine
II.NGUỒN LẤY MẪU
Nam và nữ từ 18-70 tuổi tại Pháp, Bỉ, Anh, Hà Lan đãtừng sống tại quốc gia nơi họ được nghiên cứu tronghơn 6 tháng, đã có thể tham gia vào các cuộc phỏng
vấn, và không có bệnh mãn tính, bệnh đe dọa đến tínhmạng
306 trường hợp có bệnh liên quan tim mạch và phổi trong các trung
tâm y tế tại các bệnh viện lớn hoặc các trường đại học công lập và dân
lập được liên lạc220 trong số họ
đã đồng ý
tham
gia
III.LỰA CHỌN NHÓM CHỦ CỨU (NHÓM
BỆNH/NHÓM SỬ DỤNG THUỐC)
Các nhà nghiên cứu lựa chọn bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi được
chẩn đoán chính thức từ ngày 1/9/1992 đến ngày 30/9/1994, tại thời điểm
đầu tiên đặt ống thông tim phải của bệnh nhân
Việc chẩn đoán tăng áp lực động mạch ở cả hai phổi bắt buộc phải được
ghi chép lại và các nguyên nhân thứ phát vắng mặt như: bất thường bẩm
sinh của phổi, ngực, hoặc cơ hoành; van tim bẩm sinh hay mắc bệnh cơ
tim; huyết khối tắc mạch phổi; bệnh phổi tắc nghẽn; bệnh phổi kẽ; hoặc
hẹp van động mạch phổi; tăng huyết áp tĩnh mạch phổi; giảm thông khí
trung tâm với thiếu oxy và carbonic tăng; bệnh ký sinh trùng ảnh hưởng
đến phổi; thiếu máu hồng cầu hình liềm; hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải (AIDS); và các bệnh collagen mạch máu.
III.LỰA CHỌN NHÓM CHỦ CỨU (NHÓM
BỆNH/NHÓM SỬ DỤNG THUỐC)
Các danh sách báo cáo, mà các nhân viên không biết về tình trạng phơi nhiễm
của bệnh nhân với thuốc biếng ăn, đã phân loại các bệnh nhân trong ba nhóm:
bệnh nhân tăng huyết áp phổi nguyên phát đã được xác định, những người có
thể bị tăng huyết áp phổi nguyên phát, và những người không thích hợp cho
nghiên cứu. Hai nhóm đầu tiên đã được đưa vào phân tích trường hợp đối
chứng
Việc phân loại được lặp đi lặp lại, khi được kiểm tra lần thứ hai bằng việc lựa
chọn ngẫu nhiên 10 hồ sơ, là thích hợp (tất cả các quyết định để thêm vào hoặc
để loại trừ các bệnh nhân bị bệnh kinh niên). Kết quả khám nghiệm tử thi hoặc
sinh thiết thu được từ chín bệnh nhân đã trải qua cấy ghép hoặc chết ngay sau
khi đưa họ vào nghiên cứu, và tất cả họ đều có phản xạ động mạch phổi, bất kể
tình trạng của họ có liên quan đến việc sử dụng thuốc gây chán ăn hay không.
IV.LỰA CHỌN NHÓM CHỨNG
Bốn bệnh nhân đối chứng được tìm kiếm cho phù hợp với mỗi bệnh nhân tăng
áp lực động mach phổi nguyên phát. Các tiêu chuẩn mà được lựa chọn ngẫu
nhiên từ danh sách của các bệnh nhân được quan sát liên tục bởi các bác sĩ đa
khoa phải giống như bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi nguyên phát
Một phần ba tiêu chuẩn được lựa chọn theo cách này. Các tiêu chuẩn được khớp
riêng cho các bệnh nhân: đối với trường hợp tuổi (trong vòng năm năm), giới
tính, và số lần đến bác sĩ mỗi năm (<2 hoặc>= 2)
IV.LỰA CHỌN NHÓM CHỨNG
Các dữ liệu tiếp theo được ghi nhận trong tất cả các chuyến đi khám bệnh
được thực hiện trong khoảng thời gian một tuần:tên của bệnh nhân, tuổi, giới
tính, và số đi khám bệnh của bệnh nhân mỗi năm. Tất cả các lần đi khám
bệnh của bệnh nhân mà đáp ứng đủ các tiêu chuẩn phù hợp phải tương
đương nhau, và bốn tiêu chuẩn đã được lựa chọn ngẫu nhiên bởi các trung
tâm điều phối địa phương
Việc lựa chọn các bệnh nhân tham gia vào nhóm chứng dựa trên các tiêu
chuẩn như nhau tương ứng với nhóm bệnh, loại trừ trường hợp chẩn đoán
tăng áp lực động mạch phổi nguyên phát.
V.ĐỊNH NGHĨA VỀ PHƠI NHIỄM THUỐC
Trong dịch tễ dược:
Sử dụng thuốc (nhiều thuốc)
Điều kiện cụ thể: liều, thời gian điều trị, thuốc dùng đồng thời, bệnh mắc
kèm
V.ĐỊNH NGHĨA VỀ PHƠI NHIỄM THUỐC
Trong bài báo cáo:
Chỉ có phơi nhiễm với thuốc hạ huyết áp, thuốc tránh thai, và các thuốc biếng ăn (còn gọi là
thuốc chán ăn) được phân tích.
Các thuốc biếng ăn sau đây đã được xem xét: các dẫn xuất của fenfluramin (fenfluramin và
dexfenfluramin), amphetamin - tác nhân gây biếng ăn (diethylpropion [amfepramone],
clobenzorex, Fenproporex, mazindol, và phenmetrazine), và các chế phẩm hợp chất của
thuốc ức chế sự thèm ăn và các loại thuốc khác giúp giảm cân. Chế phẩm đặc biệt được sử
dụng để giảm cân, không có sự ức chế thèm ăn, không được coi là thuốc biếng ăn.
Mỗi bệnh nhân đã được đưa ra một câu hỏi đặc biệt đánh giá sử dụng các loại thuốc bất hợp
pháp (ma tuý, cocaine, hashish, và cần sa) của mình.
VI.ĐỊNH NGHĨA VỀ BỆNH
Tăng áp lực động mạch phổi là một loại huyết áp cao mà chỉ ảnh hưởng đến các
động mạch trong phổi và phía bên phải của tim.
Tăng áp lực động mạch phổi bắt đầu khi các động mạch nhỏ ở phổi, được gọi
là động mạch phổi, và các mao mạch bị thu hẹp, bị chặn hoặc tiêu huỷ. Điều này
làm cho máu lưu thông qua phổi chậm lại làm tăng áp lực trong các động mạch
trong phổi. Khi áp suất được xây dựng, buồng thấp bên phải tim phải làm việc
nhiều hơn để bơm máu qua phổi, cuối cùng làm cơ suy yếu và cuối cùng suy
hoàn toàn.
Tăng áp lực động mạch phổi là một bệnh nghiêm trọng, trở nên tồi tệ dần dần
và đôi khi gây tử vong. Mặc dù tăng áp động mạch phổi không thể chữa được,
phương pháp điều trị có sẵn, có thể giúp làm giảm triệu chứng và cải thiện chất
lượng sống.
VII.CÁCH THỨC THU THẬP DỮ LIỆU
Mỗi bệnh nhân đã trải qua một quá trình phỏng vấn kỹlưỡng, mặt đối mặt trong vớimột người phỏng vấn đượchuấn luyện đặc biệt nhưng
họ không có những thông tin cần thiết để hiểu biết về
thuốc và không hề biết vềnhững giả thuyết của nghiên
cứu.
Các bệnh nhân được hỏi vềđặc điểm nhân khẩu học; y
tế, phẫu thuật, và lịch sử sảnkhoa của họ; và phơi nhiễmvới thuốc. Những dữ liệu vềphơi nhiễm như vậy đượcghi nhận theo thứ tự thời
gian trên một bảng dữ liệulịch được bảo mật.
Những bệnh nhân bị nhiễm HIV và đã được chuẩn đoán là xơ gan cần được cân nhắc
khi đưa vào nghiên cứu.
VII.CÁCH THỨC THU THẬP DỮ LIỆU
Việc sử dụng thuốc của bệnh nhân được xác định bởi ba phương pháp.
Cách 1
bệnh nhân tự nói raCách 2
đưa danh sách của khoảng 80 tên thuốc thương mại được lựa chọn trong số các thuốc thông dụng nhất trong 17 loại thuốc chữa bệnh
Cách 3
trình chiếu cho bệnh nhân xem 35 hộp thuốc bằng máy tính bảng hoặc là cảhai cách
VII.CÁCH THỨC THU THẬP DỮ LIỆU
Chỉ có phơi nhiễm với thuốc hạ huyết áp, thuốc tránh thai đường uống, hormone
tuyến giáp, và các thuốc biếng ăn (còn gọi là thuốc gây chán ăn) được phân tích
Các thuốc biếng ăn sau đây đã được xem xét: các dẫn xuất của fenfluramin
(fenfluramin và dexfenfluramin), amphetamine như thuốc biếng ăn
(diethylpropion [amfepramone], clobenzorex, Fenproporex, mazindol, và
phenmetrazine), và các chế phẩm là sự kết hợp của thuốc ức chế sự thèm ăn và
các loại thuốc khác đưa đến giảm cân
Mỗi bệnh nhân đã được đưa ra một câu hỏi đặc biệt để đánh giá việc sử dụng
các loại thuốc bất hợp pháp (ma tuý, cocaine, thuốc lá và cần sa) của mình
Quá trình thu thập dữ liệu là giống hệt nhau trong tất cả các nước nghiên cứu.
VIII.MỘT SỐ TÁC NHÂN KHÁC ĐƯỢC ĐƯA
VÀO PHÂN TÍCH TRONG NGHIÊN CỨU
Các biến trọng lượng liên quan bao gồm: cả cuộc đời chỉ số khối cơ thể cao nhất của
bệnh nhân (tính bằng trọng lượng (kg) chia cho bình phương chiều cao (mét) và chia đôi
như <30 và>=30, một điểm quan trọng để đánh giá); hành vi nhằm mục đích giảm cân
(phân loại như hiện có hoặc vắng mặt, giống như định nghĩa cũ là một bản báo cáo của
trọng lượng không ổn định về việc sử dụng thuốc lợi tiểu, thuốc nhuận tràng, hoặc liệu
pháp thực vật để giảm cân, hay các giai đoạn của chứng biếng ăn); và việc sử dụng các
hormon tuyến giáp (có hoặc không).
Các biến khác được cho là yếu tố nguy cơ là việc sử dụng cocaine, thuốc tiêm tĩnh
mạch, hoặc cả hai (có hoặc không); điều trị tăng huyết áp hệ thống (hiện có hoặc vắng
mặt); và hút thuốc (có hoặc không). Trong các phân tích riêng biệt được thực hiện với
phụ nữ, việc sử dụng thuốc tránh thai đường uống (có hoặc không) và mang thai trong
năm trước ngày xuất hiện biến cố (có hoặc không) cũng được xem xét, điều chỉnh và đã
được thực hiện cho họ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả có mối liên quan trực tiếp đến mục tiêu nghiên cứu
BẢNG 3. SỬ DỤNG CÁC thuốc gây chán ăn VÀ ĐIỀU
CHỈNH CHỈ SỐ Tỷ suất chênh OR ĐỐI VỚI NGUY CƠ
CHÍNH gây tăng huyết áp động mạch phổi.
Hình 1. Thời gian phơi nhiễm với thuốc chán ăn ở những bệnh nhân được nghiên cứu trước khi khởi phát triệu chứng đầu
tiên của bệnh ăng áp lực động mạch phổi nguyên phát.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả có mối liên quan trực tiếp đến mục tiêu nghiên cứu
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả có mối liên quan trực tiếp đến mục tiêu nghiên cứu
Việc sử dụng thuốc chán ăn (chủ yếu là các dẫn xuất của fenfluramin ) có liên quan tới tăng nguy cơ tăng
huyết áp phổi nguyên phát.
+ Đối với sử dụng các thuốc gây chứng chán ăn ở các năm trước , tỷ suất chênh (or) là 10.1 (khoảng tin cậy
95%, 3,4-29.9).
+ Đối với sử dụng các thuốc gây chứng chán ăn hơn 3 tháng tỷ suất chênh (or) là 23.1 (khoảng tin cậy
95%, 3.4-29.9).
Trong đó có 30 người nhóm bệnh (31,6%) và 26 người nhóm chứng (7,3%) báo cáo sử dụng thuốc gây chán
ăn trước ngày tham gia nghiên cứu.
Tổng lượng thuốc gây chán ăn đã được ước tính bằng cách lấy tổng báo cáo số tháng sử dụng.
KẾT QUẢ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TÁC NHÂN KHÁC ĐƯỢC ĐƯA VÀO PHÂN TÍCH:
+ Yếu tố di truyền: Tiền sử gia đình về bệnh tăng huyết áp phổi.
+ Yếu tố ngoại sinh:
- Chỉ số trọng lượng cơ thể cao.
- Nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
- Sử dụng thuốc cocaine hoặc thuốc tiêm tĩnh mạch (bệnh nhân không bị
nhiễm HIV).
- Sử dụng các chất chiết xuất từ tuyến giáp.
- Hút thuôc lá.
- Xơ gan.
+ Yếu tố riêng biệt phân tích cho phụ nữ:
-Sử dụng thuốc tránh thai đường uống.
-Phụ nữ mang thai
1. Sai sốlựa
chọn
• Sai số tai tiếng
• Sai số tham gia
2. Sai sốthông
tin
• Sai số hồi tưởng
• Sai số phát hiện
3. Sai sốphiên
giải• Yếu tố nhiễu
NGUY CƠ
XUẤT
HIỆN
SAI SỐ
CÁCH GIẢM THIỂU SAI SỐ
Sai số tai tiếng Cố gắng thu thập đầy đủ tất cả các ca bệnh tại các
trung tâm nghiên cứu tham gia.
Sai số tham gia Không thể khắc phục
Sai số hồi tưởng Lựa chọn nhóm chứng thêm những người bị một
bệnh khác
Sai số phát hiện Người phỏng vấn được huấn luyện , đặc biệt
không hề biết giả thuyết chính của nghiên cứu
Yếu tố nhiễu lựa chọn chỉ số khối lượng cơ thể như nhau
CÁC HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU
Tăng áp lực động mạch phổi làmột bệnh hiếm nên việc tìmkiếm để đưa bệnh nhân vàonghiên cứu gặp nhiều khó khăn.
Nghiên cứu được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau.
Trân trọng cảm ơn