thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong vân ...  · web viewthánh lễ đầu năm...

80
NHƯ MỘT LỜI MỜI: - Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org hoặc www.tinvui.info để đọc các bài viết khác - Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :[email protected] - Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa - Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu mục lục SỐNG LỜI CHÚA.........................................................2 Chúa Nhật V Thường Nên, B........................................... 2 Rao giảng Tin Mừng bổn phận của mọi Ki-tô hữu.......................2 TU ĐỨC................................................................5 CON NGƯỜI TUYÊN XƯNG..................................................5 HIỆP THÔNG GIÁO HỘI...................................................6 Sứ điệp Của ĐTC Bênêđictô XVI Nhân Ngày Quốc Tế Truyền Thông Xã Hội 2009..................................................................7 Đức Thánh Cha chúc Tết các nước Á Đông................................9 Một quyết định tồi tệ của Tổng thống Barack Obama....................11 Công bố Sứ Điệp mùa chay 2009 của Đức Thánh Cha......................13 Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh lên tiếng về vụ GM Williamson............14 Mái Ấm Tình Thương được khánh thành nơi miền đất Lạng Sơn............15 Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn......................16 Lễ Cung Hiến và Khánh Thành Nhà Thờ Đà Loan - Giáo phận Đà lạt.....18 Tòa Giám Mục Thanh Hóa thăm và phát qùa cho bệnh nhân phong và trẻ em khuyết tật dịp Tết...................................................21 Gia đình Sao Mai - Ban Thánh Nhạc Giáo Phận Xuân Lộc họp mặt đầu năm. 23 Sứ Mệnh của Đại Chủng Viện Ngôi Lời và Việt Nam......................23 Giáo xứ Tân Lộc, Hạt Cửa Lò, Giáo Phận Vinh Vui Xuân Kỷ Sửu 2009.....24 Kỷ niệm 150 thành lập Tu Hội Salediêng Don Bosco.....................26 Giáo xứ Vĩnh Hòa, Sài gòn, chúc thọ các vị cao niên..................27 TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..................................................27 Số 173 8/2/2009

Upload: others

Post on 07-Oct-2020

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

NHƯ MỘT LỜI MỜI:- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org hoặc www.tinvui.info để đọc các bài viết khác- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :[email protected] Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

mục lụcSỐNG LỜI CHÚA.........................................................................................................................................2

Chúa Nhật V Thường Nên, B.....................................................................................................................2Rao giảng Tin Mừng bổn phận của mọi Ki-tô hữu.....................................................................................2

TU ĐỨC.........................................................................................................................................................5CON NGƯỜI TUYÊN XƯNG......................................................................................................................5HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.............................................................................................................................6Sứ điệp Của ĐTC Bênêđictô XVI Nhân Ngày Quốc Tế Truyền Thông Xã Hội 2009..................................7Đức Thánh Cha chúc Tết các nước Á Đông...................................................................................................9Một quyết định tồi tệ của Tổng thống Barack Obama..................................................................................11Công bố Sứ Điệp mùa chay 2009 của Đức Thánh Cha................................................................................13Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh lên tiếng về vụ GM Williamson................................................................14Mái Ấm Tình Thương được khánh thành nơi miền đất Lạng Sơn...............................................................15Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn......................................................................................16

Lễ Cung Hiến và Khánh Thành Nhà Thờ Đà Loan - Giáo phận Đà lạt...................................................18Tòa Giám Mục Thanh Hóa thăm và phát qùa cho bệnh nhân phong và trẻ em khuyết tật dịp Tết..............21Gia đình Sao Mai - Ban Thánh Nhạc Giáo Phận Xuân Lộc họp mặt đầu năm............................................23Sứ Mệnh của Đại Chủng Viện Ngôi Lời và Việt Nam.................................................................................23Giáo xứ Tân Lộc, Hạt Cửa Lò, Giáo Phận Vinh Vui Xuân Kỷ Sửu 2009...................................................24Kỷ niệm 150 thành lập Tu Hội Salediêng Don Bosco..................................................................................26Giáo xứ Vĩnh Hòa, Sài gòn, chúc thọ các vị cao niên..................................................................................27TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO...........................................................................................................................27LÁ THƯ MỤC TỬ MÙA CHAY 2009 CỦA ĐHY GIOAN BAOTIXITA PHẠM MINH MẪN.............27Trong dòng điện khí......................................................................................................................................29

Cầm Tay....................................................................................................................................................30Lời ngôn sứ...................................................................................................................................................32Năm Sửu tìm hiểu chuyện Trâu có mầu Kinh Thánh...................................................................................33

Số 1738/2/2009

Page 2: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Từ duy truyền thống tới Truyền Thống........................................................................................................37Bí tích Thánh thể, niềm vui và nỗi lo của một vị Giám Mục...................................................................40BẢY LỜI CỦA ĐỨC MARIA & ĐỜI SỐNG LINH MỤC ( tt).............................................................42

CHỨNG NHÂN...........................................................................................................................................46PHAOLÔ MIKI VÀ NHỮNG VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA NHẬT BẢN............................................46TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH......................................................................................................48

CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT............................................................................................................................48Bệnh của những người sống ở “trên mây”...............................................................................................51

ĐỌC SÁCH..................................................................................................................................................52CÁI HŨ ƠN PHƯỚC...............................................................................................................................52

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật V Thường Nên, B

PHÚC ÂM: Mc 1, 29-39

"Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.

Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.

Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ. Đó là lời Chúa.

Rao giảng Tin Mừng bổn phận của mọi Ki-tô hữu

Rao giảng Tin Mừng là sứ mệnh của Chúa Ki-tô và các môn đệ, nhưng rao giảng cho ai cũng là điều hết sức quan trọng. Người rao giảng không những phải hiểu rõ ý nghĩa điều mình giảng, mà còn phải am hiểu hoàn cảnh của những người đón nhận lời giảng nữa. Các bài đọc hôm nay cho ta biết một số khía cạnh chính của con người, đối tượng của việc rao giảng Tin Mừng.

1. Con người thao thức khát mong được nghe Tin Mừng (bài đọc Cựu Ước – G 7:1-4.6-7)

Page 3: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Đời là bể khổ. Cuộc sống của con người trên trần gian là “thời khổ dịch, chuỗi ngày lao lung” như ông Gióp đã phát biểu. Hình ảnh ông Gióp với những thăng trầm trong cuộc sống mô tả thân phận chung của mọi người với “những tháng vô vọng, những đêm đau khổ ê chề”. Thời gian trôi nhanh càng làm cho con người thêm hoang mang về tương lai của họ.

Tuy nhiên nỗi lo lắng ưu tư của con người không chỉ là những đau khổ trĩu nặng, cũng không chỉ là sự vắn vỏi của cuộc đời, nhưng là hạnh phúc vĩnh cửu. Do đó, khi nói lên nỗi ưu tư lớn lao nhất này, ông Gióp đã hướng về Chúa và dâng lời cầu khẩn Người: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7). Đấy, lo lắng cuối cùng và lớn lao nhất của con người vẫn là vấn đề hạnh phúc, không chỉ hạnh phúc tạm đời này mà còn là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Nhưng hạnh phúc vĩnh cửu không thể tìm thấy ở đời này. Cuộc đời ông Gióp là một chứng minh hùng hồn. Đã có lúc ông được mọi sự con người hằng khát mong trên trần gian. Nào vợ đẹp con khôn, nào nhà cao cửa rộng, giàu có sang trọng, được mọi người kính nể. Thế rồi sau cơn thử thách, trong chớp mắt mọi sự đều tan biến, bỏ lại một ông Gióp ốm yếu ghẻ lở ngồi bên đống tro tàn và bà vợ không ngớt lời xỉa xói thách thức ông còn tin vào Chúa nữa hay không. Với ông, nếu không còn niềm tin và hy vọng vào hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban thì cuộc sống con người quả là vô nghĩa. Ông Gióp không mất niềm tin và hy vọng. Ông nhìn nhận sự vắn vỏi của cuộc sống và nhất là nỗi bất lực của con người. Tự sức mình, ông “sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ”. Ông chỉ còn biết trông cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi và ông xin Người đừng quên ông, đừng bỏ rơi ông. Giữa những tin buồn người ta dồn dập báo cho ông Gióp, như đoàn vật và tôi trai tớ gái của ông đã bị cướp sạch, con cái ông lăn ra chết hết, gia tài tiêu tan, ngay đến mái nhà trú ngụ cũng bị cháy rụi, ông vẫn thấy bừng lên một tin mừng, là Thiên Chúa vẫn nhớ đến ông, vẫn ôm ấp ông trong vòng tay nhân hậu của Người.

Ông Gióp là biểu tượng của một nhân loại khát khao đón nghe Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã nhận biết hình ảnh ông Gióp nơi mọi người đến với Người để nghe Người giảng và được Người chữa lành mọi bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn. Vì thế, thấy họ là Chúa Giê-su “chạnh lòng thương” như sách Tin Mừng thường ghi lại. Chúa Giê-su ý thức sứ mệnh của Người là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4:18), Tin Mừng về một cuộc sống vĩnh cửu chứ không phải cuộc sống vắn vỏi dương thế, một hạnh phúc vĩnh viễn chứ không phải hạnh phúc tạm bợ dựa trên những tiện nghi vật chất và thú vui đời này. Chúa Giê-su vẫn tiếp tục đem Tin Mừng đến cho ta, những “ông Gióp” của mọi thời. Nhưng liệu ta có nhìn nhận thân phận khốn khổ của ta và nhu cầu cần được nghe Tin Mừng hay không? Ông Gióp và niềm tin của ông phải là gương mẫu giúp ta có những thái độ cần thiết để đón nghe Tin Mừng cứu độ Chúa ban cho ta.

2. Chúa Giê-su chính là Tin Mừng cứu độ Thiên Chúa ban cho ta (bài Tin Mừng – Mc 1:29-39)

Con người mang kiếp khổ đau như hậu quả của tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa không ngoảnh mặt làm ngơ trước tình trạng tuyệt vọng của họ, bởi vì “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành… Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy; bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 148:3.6). Nhìn thấu nỗi lòng con người đang sống trong đêm tối mong nhìn thấy trời sáng (G 7:3-4), Thiên Chúa đã sai Con Một đến làm ánh sáng trần gian. Giữa cảnh tuyệt vọng của nhân loại (G 7:6), Thiên Chúa đặt Chúa Ki-tô như đích điểm để “mọi người đang tìm Thầy” (Mc 1:37). Người giảng dạy trong hội đường cũng như bất cứ nơi nào, dù là bãi cỏ hay trên con thuyền. Người chữa mọi bệnh tật của tất cả những ai đến với Người, người thân quen như bà mẹ vợ ông Phê-rô hay những người xa lạ. Người trị cả căn bệnh tâm hồn gây nên do quỷ ám. Người chữa bệnh cho mọi người và bất cứ lúc nào, sáng trưa chiều tối. Địa bàn rao giảng càng rộng càng tốt, không thể bám trụ ở một nơi mãi, vì như thế dễ lo lắng cho lợi nhuận riêng tư. Do đó, Người ra lệnh cho các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38). Thánh Mác-cô tóm

Page 4: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

tắt sứ vụ của Chúa Giê-su tại Ga-li-lê bằng một câu: “Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (Mc 1:39), rao giảng một giáo lý mới đầy uy quyền và khu trừ ma quỷ núp bóng dưới những hình thức như bệnh tật, ám ảnh người ta.

Chiêm ngưỡng Chúa Giê-su thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, ta không thể không nghĩ đến động lực thúc đẩy Người hành động. Đó là vì Người cảm thông với thân phận khốn khổ của nhân loại. Chính Người đã mặc lấy thân phận người phàm để cảm thông với ta và muốn xác tín với ta về Tin Mừng này, là Thiên Chúa yêu thương ta đến nỗi trao nộp Con Một Người cho ta để cứu độ ta (Ga 3:16). Làm như thế, trước hết Người nhắc nhở ta về thân phận yếu đuối bất lực của ta và mời gọi ta hãy tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Những người “đang tìm Thầy” trong câu truyện Tin Mừng hôm nay phải là chính ta, những kẻ ý thức mình đang cần Chúa. Bài Tin Mừng không chỉ nói đến một ngày sinh hoạt của Chúa Giê-su, nhưng còn gián tiếp nói đến thực trạng của một nhân loại cần được cứu độ. Một nhân loại hãy đưa tay ra cho Người nâng dậy như Người đã đỡ bà mẹ vợ ông Phê-rô dậy. Một nhân loại đang bị quỷ ám cần được Người thanh tẩy. Một nhân loại mắc đủ thứ bệnh tật thể xác và tâm hồn mong chờ bàn tay chữa lành của Người chạm đến. Mỗi người chúng ta thuộc về tập thể nhân loại ấy, nên cũng không thể chối bỏ thân phận mình và tình thương cứu độ của Thiên Chúa đến với ta qua Đức Ki-tô.

3. Rao giảng Tin Mừng cũng là bổn phận của mọi Ki-tô hữu không trừ ai (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 9:16-19.22-23)

Tin Mừng là chính Chúa Ki-tô, nên rao giảng Tin Mừng là đem Chúa Ki-tô đến với anh chị em. Nói như thế thì ai cũng có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng, chứ không phải đó là độc quyền của giáo sĩ hoặc tu sĩ. Bổn phận rao giảng giống nhau, nhưng phương thức rao giảng thì khác biệt. Giáo sĩ có thể rao giảng trên tòa giảng, còn giáo dân rao giảng ngay trong gia đình, nơi sở làm hoặc bất luận nơi nào họ lui tới. Nếu vậy thì thánh Phao-lô hoàn toàn có lý khi ngài phát biểu: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16).

Quả thực Phao-lô rất khiêm tốn. Ngài được ơn trở lại, được Chúa Giê-su trao phó sứ vụ rao giảng Tin Mừng, cho nên ngài coi đó là bổn phận phải làm chứ không phải là danh dự để vênh vang tự đắc. Mà đã là bổn phận thì ta phải chu toàn chứ không phải để lấy làm lý do đòi Chúa phải thưởng công. Có nhận thức được việc rao giảng Tin Mừng là một bổn phận, ta mới có thể “là một người tự do” (1 Cr 9:19), giữ lòng mình thanh thản, không bị ràng buộc chi phối do những tham vọng và lợi nhuận. Ở đây thánh Phao-lô đã xây dựng một nguyên tắc căn bản cho bổn phận rao giảng Tin Mừng. Điều này làm cho ta phải suy xét nhiều lắm. Tại Hoa-kỳ này, biết bao nhiêu giám mục cũng như linh mục đã làm công việc rao giảng Tin Mừng như một “nhân viên” cho một “sở làm” là giáo phận. Cấu trúc giáo hội ở đất nước này nhiều khi đã biến việc “rao giảng Tin Mừng” thành một thứ business, một thứ dịch vụ mang tính chất đời nhiều hơn đạo! Người giáo dân cũng khó tránh khỏi cảnh tranh giành chức tước trong cộng đoàn. Bao nhiêu thừa tác viên trao Thánh Thể, đọc Sách Thánh, chủ tịch hội đồng mục vụ hoặc trưởng ban này ban kia đã làm việc trước là sáng danh Chúa, sau là sáng danh con! Điều thánh Phao-lô nêu ra ở đây đã diễn giải rõ ràng nguyên tắc của Thầy Chí Thánh Giê-su: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Thánh Phao-lô đã đạt được mức độ tự do ấy, cho nên ngài mới có thể “trở nên tất cả cho mọi người”, làm tất cả miễn là Chúa Ki-tô được rao giảng.

Ta vừa là người đón nhận tin Mừng vừa là người rao giảng Tin Mừng. Để chu toàn hai điều ấy, trước hết ta phải nhìn nhận thân phận bất lực của ta để hoàn toàn trông cậy vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Có như vậy, ta mới cảm nhận nhu cầu cần được đón nhận Tin Mừng cứu độ. Đồng thời để rao giảng Tin Mừng ngay trong bậc sống và môi trường sống của ta, ta sẽ ý thức việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận phải chu toàn trong tinh thần phục vụ Chúa và anh chị em.

Page 5: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Thánh Phao-lô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” Lời này bắt tôi phải suy nghĩ thế nào về mình? Tôi đã làm gì để đem Chúa Ki-tô đến với những người chung quanh? Bằng gương sáng, giúp đỡ, cầu nguyện, đóng góp, phục vụ trong cộng đoàn…? Tôi có làm với lòng tự do thanh thản, vì ích lợi của Chúa Ki-tô và Giáo Hội, hay để vênh vang tự phụ?

Lạy Chúa, xin nhìn xem gương mặt Đức Ki-tô mà nhớ lại rằng: chính Người đã hy sinh chịu chết để muôn người được ơn cứu độ. Xin Chúa cho các dân tộc trên khắp cùng trái đất được nhờ Người mà nhận biết Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Tiến lễ, lễ cầu cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc).

Lm. Đaminh Trần Đình NhiMục lục

TU ĐỨC

CON NGƯỜI TUYÊN XƯNGHôm nay, giáo phận Long Xuyên mừng Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ thọ 100 tuổi (02/02/1909-02/02/2009).

Để mừng Ngài, chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho Ngài vô vàn ơn thiêng. Ơn chung và ơn riêng.

Trong những ơn riêng, tôi thấy có một ơn đặc biệt Đức Cha đã và đang đón nhận, đã và đang dùng, để phục vụ Hội Thánh nói chung và giáo phận Long Xuyên nói riêng. Ơn đặc biệt đó là Ngài dùng chính đời sống mình, để:

"Tuyên xưng việc Chúa tử nạn,

- tuyên xưng việc Chúa sống lại,

- và tuyên xưng việc Chúa đang đến".

Ba tuyên xưng đó là giáo lý căn bản, gắn liền với trung tâm thánh lễ. Đức Cha Micae tuyên xưng không phải bằng lời nói mà bằng đời sống.

1/ Đức Cha Micae tuyên xưng Chúa Giêsu chịu tử nạn

Suốt đời Đức Cha là một chuỗi tuyên xưng về Chúa tử nạn. Nhưng trong mấy chục năm nay, càng ngày Ngài càng đi vào mầu nhiệm thánh giá. Nhờ đó Ngài càng tuyên xưng ơn Ngài được tham gia vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.

Tham gia đó không là một lựa chọn bất đắc dĩ, nhưng là một vâng phục sáng suốt. Hơn nữa, đó là một ơn gọi đầy vinh dự.

Thánh Phaolô viết: "Quả vậy, Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng. Rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu. Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa... Hồi còn ở với anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá" (1 Cr 1,17-18;2,2).

Page 6: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Thánh Phaolô đã viết về bản thân Ngài như thế. Thiết tưởng Đức Cha Micae cũng đang theo thánh Phaolô viết cho chúng ta như vậy. Viết bằng chính đời sống thánh giá của Ngài. Một thánh giá có sức cứu độ, một thánh giá được chia sẻ từ thánh giá Đức Kitô.

2/ Đức Cha Micae tuyên xưng Chúa Giêsu phục sinh

Ngài tuyên xưng Chúa Giêsu phục sinh bằng sự Ngài không ngừng trở nên con người mới, con người hoà giải.

Thánh Phaolô viết: "Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.... Vì thế, chúng tôi là sứ giả hoà giải thay mặt Thiên Chúa" (2 Cr 5,17-20).

Như vậy, cầu nguyện cho mọi người được hoà giải với Chúa và được hoà giải với nhau, đó là một hiện diện sống động của Chúa phục sinh giữa thế gian này. Đức Cha Micae đang tích cực tham gia vào sự hiện diện đó. Nhờ vậy, mà bao tâm hồn đã được phục sinh, để cùng nhau làm chứng cho một Nước Trời gồm những người góp phần xây dựng sự hoà giải và bình an trong Chúa.

3/ Đức Cha Micae tuyên xưng việc Chúa đang đến

Tác giả bức thư gửi Do Thái viết: "Vì chỉ còn ít lâu nữa, một ít thôi, Đấng phải đến sẽ đến. Người sẽ không trì hoãn..." (Dt 10,37-38).

"Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Kitô là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin" (Dt 12,1-2).

Mấy lời trên đây của thư gửi Do Thái nhấn mạnh đến niềm hy vọng và lòng tin vào lời Chúa hứa, đặc biệt là lời Chúa hứa sẽ được Chúa đem về quê hương trên trời.

Đức Cha Micae đang hy vọng và tin mạnh mẽ như thế. Hy vọng của Ngài, lòng tin của Ngài làm cho Ngài phấn khởi. Dù ở mãi một chỗ, nhưng Ngài vẫn như chạy đua đi đón Chúa đang đến với Ngài.

Với vài suy nghĩ trên đây, chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta Đức Cha Micae.

Chúng ta cảm ơn Đức Cha Micae vì bao cống hiến phục vụ hữu ích.

Chúng ta cầu nguyện cho Đức Cha Micae luôn được sống theo ý Chúa.

Xin Ngài cũng cầu nguyện cho chúng ta vì chúng ta rất yếu đuối, rất mong manh, nhất là trong thời buổi khó khăn khác thường này.

Long Xuyên, ngày 02/02/2009 + GM JB Bùi Tuần

Mục lục

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Page 7: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Sứ điệp Của ĐTC Bênêđictô XVI Nhân Ngày Quốc Tế Truyền Thông Xã Hội 2009

Anh chị em thân mến,

Gần đến Ngày Quốc Tế Truyền Thông Xã Hội, tôi vui mừng hướng đến anh chị em để cho anh chị em biết về một vài suy tư của tôi về chủ đề được chọn của năm nay: Các kỹ thuật công nghệ mới, các tương quan mới. Khuyến khích một nền văn hóa tôn trọng, đối thoại, tình bạn. Quả thế, các công nghệ kỹ thuật số mới quyết định những thay đổi căn bản nơi các khuôn mẫu giao tiếp và nơi các tương quan nhân loại. Những thay đổi này đặc biệt rõ ràng nơi giới trẻ mà sự trưởng thành của nó liên hệ chặt chẽ với những công nghệ kỹ thuật truyền thông này. Bởi thế, họ cảm thấy thoải mái trong thế giới kỹ thuật số mà, trái lại, thường dường như xa lạ với một số người trong chúng ta, những người lớn trưởng thành, đã phải học hiểu biết và đánh giá những cơ hội mà thế giới kỹ thuật số này mang lại cho chúng ta trong việc truyền thông. Trong sứ điệp của năm nay, tôi đặc biệt nghĩ đến những người thuộc về thế hệ gọi là “kỹ thuật số” này: tôi xin chia sẻ với họ một vài ý tưởng về tiềm năng phi thường của những công nghệ kỹ thuật mới khi chúng được sử dụng để tạo điều kiện cho sự hiểu biết và liên đới của con người. Những công nghệ kỹ thuật như thế là một ân huệ đích thực cho nhân loại: bởi thế, chúng ta phải làm sao để những thuận lợi mà chúng mang lại được phục vụ hết thảy mọi người và mọi cộng đồng, đặc biệt là những người nghèo túng và những người dễ bị thương tổn nhất.

Sự dễ dàng tiếp cận với điện thoại di động và máy vi tính, được nối kết ở tầm mức thế giới và sự thâm nhập của Internet, đã tạo nên rất nhiều phương tiện gởi đi cách chớp nhoáng những ngôn ngữ và hình ảnh đến những nơi xa và cô lập nhất của thế giới: một khả năng không thể hiểu được đối với các thế hệ đi trước. Đặc biệt, giới trẻ đã tiếp nhận tiềm năng lớn lao của các phương tiện truyền thông này để tạo điều kiện dễ dàng cho việc kết nối, giao tiếp và hiểu biết giữa các cá nhân và cộng đoàn và sử dụng chúng để giao tiếp với bạn bè, để gặp gỡ những người bạn mới, để tạo nên những cộng đồng và những mạng lưới, để tìm kiếm thông tin và tin tức, để chia sẻ tư tưởng và ý kiến của mình. Nhiều thuận lợi phát sinh từ nền văn hóa truyền thông mới mẻ này: các gia đình có thể giữ liên lạc cho dù chúng bị chia ly bởi những khoảng cách lớn, các sinh viên và các nhà nghiên cứu có thể tiếp cận dễ dàng và trực tiếp nhất với các tài liệu, với các nguồn và với những khám phá khoa học và do đó, có thể làm việc theo nhóm từ những nơi khác nhau; vả lại, bản chất tương tác của các phương tiện truyền thông mới tạo điều kiện dễ dàng cho những hình thức học tập và giao tiếp năng động hơn, mà đóng góp vào sự tiến bộ của xã hội.

Cho dầu tốc độ tiến triển của các công nghệ kỹ thuật mới về mặt đáng tin cậy và hiệu quả là một lý do kinh ngạc thán phục, nhưng sự phổ biến của chúng nơi những người sử dụng không nên làm cho chúng ta ngạc nhiên, vì chúng trả lời những ước muốn căn bản của con người bước vào trong tương quan giao tiếp với nhau. Ước muốn giao tiếp và tình bạn này được bén rễ sâu trong chính bản tính làm người của chúng ta và không thể được hiểu cách chính đáng chỉ như là lời đáp trả cho những đổi mới của công nghệ kỹ thuật. Dưới ánh sáng của sứ điệp Kinh Thánh, một ước muốn như thế đúng hơn phải được đọc như là phản ảnh sự tham dự của chúng ta vào tình yêu thông giao và hiệp nhất của Thiên Chúa, Đấng muốn làm cho toàn thể nhân loại thành một gia đình duy nhất. Khi chúng ta cảm thấy nhu cầu xích lại gần với người khác, khi chúng ta muốn hiểu biết họ và làm cho mình được hiểu biết tốt hơn, chúng ta đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa – một tiếng gọi gắn liền với bản tính được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa của chúng ta, vị Thiên Chúa của sự thông ban và hiệp thông.

Ước muốn kết nối và bản năng giao tiếp, mà được khẳng định như thế trong nền văn hóa đương đại, quả thật chỉ là những biểu lộ của thời hiện đại về khuynh hướng nền tảng và liên lỉ của con người muốn vươn qua bên kia chính mình để bước vào trong tương quan giao tiếp với những người khác. Trên thực tế, khi chúng ta mở mình ra cho người khác, chúng ta hoàn thành những nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta và

Page 8: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

chúng ta trở nên nhân bản cách tròn đầy hơn. Quả thế, yêu thương là những gì mà Đấng Tạo Hóa đã chuẩn bị cho chúng ta. Dĩ nhiên, nó không hệ tại những tương quan chóng qua, giả tạo; tôi nói về tình yêu đích thực, mà nằm ở chính trung tâm của giáo huấn luân lý của Chúa Giêsu: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn, hết tâm trí và hết sức lực ngươi” và “Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi” (x. Mc 12, 30-31). Dưới ánh sáng này, dù hoàn toàn suy tư về ý nghĩa của các công nghệ kỹ thuật mới, thật quan trọng để xem xét không chỉ khả năng hiển nhiên của nó trong việc tạo điều kiện dễ dàng cho mối liên lạc giữa người với người, nhưng còn phẩm chất của các nội dung mà chúng được kêu gọi đưa vào lưu hành. Tôi mong muốn khích lệ tất cả mọi người thiện chí, chủ động trong thế giới truyền thông kỹ thuật số, dấn thân thăng tiến một nền văn hóa tôn trọng, đối thoại và tình bạn.

Do đó, những ai làm việc trong lãnh vực sản xuất và phổ biến các nội dung của các phương tiện truyền thông mới không thể không cảm thấy dấn thân đối với sự tôn trọng phẩm giá và giá trị của nhân vị. Nếu các công nghệ kỹ thuật mới phải phục vụ cho thiện ích của các cá nhân và xã hội, thì những người sử dụng chúng phải tránh sự chia sẻ những lời nói và hình ảnh làm mất phẩm giá con người, và như thế loại trừ những gì đang nuôi dưỡng lòng hận thù và sự bất bao dung, những gì làm giảm giá vẻ đẹp và sự sâu kín của giới tính con người, những gì khai thác những người yếu đuối và những người dễ bị thương tổn.

Các công nghệ kỹ thuật mới do đó mở ra con đường đối thoại giữa những người của những đất nước, của các nền văn hóa và của các tôn giáo khác nhau. Vũ đài kỹ thuật số mới, tức là cái cyberespace (không gian liên kết mạng), cho phép tạo nên những cuộc gặp gỡ và hiểu biết các giá trị và các truyền thống của người khác. Tuy nhiên, để sinh hoa kết trái, những cuộc gặp gỡ như thế đòi hỏi những hình thức diễn tả lương thiện và đúng đắn cũng như một sự lắng nghe chăm chú và tôn trọng. Cuộc đối thoại phải được cắm rễ sâu trong sự tìm kiếm chân lý cách chân thành và hỗ tương, để thực hiện việc thăng tiến sự phát triển trong sự hiểu biết và bao dung. Cuộc sống không phải chỉ là một chuỗi những sự kiện và kinh nghiệm: đúng hơn nó là một sự tìm kiềm chân thiện mỹ. Chính nơi mục tiêu này mà chúng ta thực hiện những chọn lựa của chúng ta, mà chúng ta thực thi sự tự do của chúng ta và chính ở đó, tức là trong chân, thiện, mỹ, mà chúng ta tìm thấy hạnh phúc và niềm vui. Chúng ta không để mình bị lừa bịp bởi những người chỉ tìm kiếm những người hưởng thụ trên một thị trường với những cơ may khác nhau, nơi mà sự chọn lựa chính nó trở nên sự thiện hảo, sự mới mẻ được biến đổi thành vẻ đẹp, kinh nghiệm chủ quan gạt bỏ chân lý.

Quan niệm tình bạn có được một sự phục hồi mới trong từ vựng của các mạng lưới xã hội kỹ thuật số xuất hiện trong những năm vừa qua. Một quan niệm như thế là một trong những chinh phục cao quý nhất của nền văn hóa nhân loại. Trong các tình bạn của chúng ta và xuyên qua chúng, chúng ta lớn lên và chúng ta tự phát triển như là những hữu thể nhân linh.Vì thế, tình bạn đích thực đã luôn được xem như là một trong những sự phong phú to lớn nhất mà con người có được. Vì lý do này, cần phải lưu tâm đừng tầm thường hóa quan niệm và kinh nghiệm về tình bạn. Thật đáng buồn biết bao nếu ước muốn nâng đỡ và phát triển tình bạn on-line (qua internet) của chúng ta được thể hiện với giá phải hy sinh sự sẵn sàng của chúng ta cho gia đình, cho bà con thân thuộc của chúng ta và cho những người mà chúng ta gặp gỡ trong thực tế của đời thường, nơi làm việc của chúng ta, ở trường học, trong thời gian rảnh rỗi. Quả thế, khi ước muốn kết nối ảo trở nên ám ảnh, thì hậu quả là người ấy tự tách mình, cắt đứt một mối tương tác xã hội thực sự. Thậm chí điều đó cuối cùng phải làm xáo trộn thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng và suy nghĩ cần thiết cho một sự phát triển nhân bản lành mạnh.

Tình bạn là một điều thiện hảo cao quý của con người, nhưng nó sẽ mất đi giá trị của nó, nếu nó được xem như là một cứu cánh tự thân. Các bạn bè phải nâng đỡ và khích lệ nhau để phát triển tư chất, tài năng của mình và dùng chúng phục vụ cho cộng đồng nhân loại. Trong bối cảnh này, thật là phấn khởi khi thấy xuất hiện những mạng lưới kỹ thuật số mới tìm cách khích lệ sự liên đới của con người, hòa bình và công lý, nhân quyền và lòng tôn trọng đối với sự sống và thiện ích của công trình tạo dựng. Những mạng lưới này có thể tạo điều kiện dễ dàng cho những hình thức hợp tác giữa các dân tộc có bối cảnh địa lý và văn hóa khác nhau, bằng cách cho phép họ đào sâu nhân tính chung của mình và ý nghĩa của sự đồng trách nhiệm

Page 9: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

đối với thiện ích của hết thảy mọi người. Tuy nhiên, cần phải lưu tâm làm sao để thế giới kỹ thuật số, nơi mà những mạng lưới như thế có thể được thiết lập, là một thế giới mà mọi người thực sự có thể tiếp cận. Thật là thiệt hại nghiêm trọng cho tương lai nhân loại, nếu các phương tiện truyền thông mới, mà cho phép chia sẻ sự hiểu biết và thông tin cách nhanh chóng và hiệu quả, lại không có thể tiếp cận đối với những người mà, về mặt kinh tế và xã hội, đã bị đẩy ra bên lề xã hội rồi hay nếu chúng chỉ đóng góp đào sâu thêm khoảng cách mà tách rời những người nghèo khỏi những mạng lưới mới được phát triển nhằm phục vụ thông tin và xã hội hóa con người.

Tôi xin kết thúc sứ điệp này bằng cách đặc biệt hướng đến các bạn trẻ Công giáo, để khích lệ họ mang đến cho thế giới kỹ thuật số chứng tá đức tin của mình. Các bạn trẻ rất quý mến, các con hãy dấn thân đưa vào trong nền văn hóa của lãnh vực truyền thông và thông tin mới mẻ này những giá trị mà cuộc sống của các con dựa vào! Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Tông đồ và các môn đệ của các ngài đã mang Tin Mừng của Chúa Giêsu đến cho thế giới Hy-La: khi đó, việc Phúc âm hóa, để được phong nhiêu, đòi hỏi sự hiểu biết chăm chú nền văn hóa và các phong tục của các dân ngoại này với mục đích chạm đến tâm trí và tâm hồn của họ; ngày nay cũng thế, việc loan báo Chúa Kitô trong thế giới các công nghệ kỹ thuật mới giả thiết một sự hiểu biết sâu xa về chúng để sử dụng chúng cách đúng đắn. Chính nơi những người trẻ các con, hầu như tự nhiên đồng cảm với các phương tiện truyền thông mới mẻ này, mà đặc biệt bổn phận phúc âm hóa “châu lục kỹ thuật số” này thuộc về các con. Các con hãy biết gánh lấy cách nhiệt tình việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời với các con! Các con biết sự sợ hãi và hy vọng của họ, sự nhiệt tình và thất vọng của họ: hồng ân cao quý nhất mà các con có thể làm cho họ là chia sẻ với họ “Tin Mừng” về một Thiên Chúa đã làm người, đã đau khổ, đã chết và đã phục sinh để cứu rỗi nhân loại. Tâm hồn con người khát mong một thế giới nơi tình yêu ngự trị, nơi các ân huệ được chia sẻ, nơi sự hiệp nhất được xây dựng, nơi sự tự do tìm thấy ý nghĩa của nó trong chân lý và là nơi mà căn tính của mỗi người được thể hiện trong một sự hiệp thông tôn trọng. Đức tin có thể mang lại một câu trả lời cho những mong đợi này: các con hãy là những sứ giả của nó! Đức Giáo Hoàng ở bên các con qua lời cầu nguyện và phép lành của mình.

Vatican, ngày 24 tháng Giêng năm 2009+ BÊNÊĐICTÔ XVI, Mục tử của các mục tử

Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp.

(Đúng vào ngày công bố sứ điệp này, Tòa Thánh Vatican cũng đã bắt đầu sử dụng trang web chia sẻ video Youtube ở địa chỉ sau: http://www.youtube.com/vatican)

+ ĐGH Benedictô XVI Mục lục

Đức Thánh Cha chúc Tết các nước Á Đông

Ngày 25 tháng giêng, lễ thánh Phaolô tông đồ trở lại. Năm nay tuy trùng vào Chúa Nhật, nhưng vẫn được cử hành đặc biệt bởi vì chúng ta đang mừng kỷ niệm hai ngàn năm sinh nhật của thánh Phaolô. Cũng như những năm trước, đức thánh cha đã ra đền thờ thánh Phaolô ngoại thành để chủ toạ phụng vụ Kinh chiều, bế mạc tuần lễ cầu nguyện cho các Kitô hữu được hợp nhất. Những chủ đề chính của bài giảng được tóm lại trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin. Ngoài ra, hôm qua cũng trùng với vài cơ hội đáng nhớ khác, chẳng hạn như ngày quốc tế dành cho các bệnh nhân phong cùi, và tại Italia là ngày kết thúc tháng học tập dành cho các thiếu nhi thuộc phong trào Công giáo tiến hành. Nhất là hôm qua là ngày áp Tết, và đức Bênêđictô XVI đã gửi lời chúc mừng đến nhân dân các nước Á Đông như sau:

Page 10: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Nhân dân tại nhiều quốc gia Á đông chuẩn bị mừng năm mới âm lịch. Tôi cầu chúc họ được sống những lễ này trong niềm hoan hỉ. Sự hoan hỉ bộc lộ tình trạng của con người sống hoà hợp với bản thân, và điều này chỉ có thể có được khi con người sống hoà hợp với Thiên Chúa và với vạn vật. Nguyện cầu cho niềm hoan hỉ luôn được sống động trong tâm hồn của hết mọi người trong các quốc gia mà tôi rất quý mến, và lan toả ra khắp thế giới.

Đề tài chính của bài huấn dụ nhằm giải thích ý nghĩa của lễ thánh Phaolô trở lại, trong tiếng latinh là “conversio”, quen dịch là “hoán cải”. Đây cũng là chủ đề của bài Tin mừng Chúa Nhật thứ ba mùa thường niên, thuật lại những lời kêu gọi của Chúa Giêsu vào lúc khai mạc sú vụ ở Galilê. Việc trở lại (hoán cải) không chỉ giới hạn vào sự từ bỏ con đường tội lỗi, nhưng cốt yếu là tin vào Chúa Giêsu Kitô, phó thác tất cả cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ.

Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin mừng Chúa Nhật hôm nay vang lên những lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu ở miền Galilê: “Thời gian đã hoàn tất, vương triều Thiên Chúa đã gần kề: hãy hoán cải và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15). Và đúng vào ngày hôm nay 25 tháng giêng là lễ kính việc hoán cải của thánh Phaolô. Thật là một cuộc trùng hợp may mắn, đặc biệt trong năm thánh Phaolô, nhờ thế chúng ta có thể hiểu rõ ý nghĩa của từ “hoán cải” – metanoia – khi nhìn vào kinh nghiệm của thánh tông đồ. Nói đúng ra, trong trường hợp của ông Phaolô, có vài người muốn tránh danh từ này, bởi vì theo họ, ông đã là một tín đồ rồi, thậm chí một tín đồ Do thái nhiệt thành, vì thế không phải là ông chuyển hoán từ chỗ vô đạo đến chỗ theo đạo, từ chỗ thờ tà thần đến chỗ tin nhận Thiên Chúa thật, và ông cũng không từ bỏ tín ngưỡng Do thái để tin theo Chúa Kitô. Thực ra, kinh nghiệm của ông Phaolô có thể trở thành khuôn mẫu cho mọi thứ hoán cải Kitô giáo.

Cuộc hoán cải của ông Phaolô đã chín mùi trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục sinh; chính cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của ông. Trên đường đi Đamascô đã xảy ra cho ông điều mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin mừng hôm nay: ông Saulô đã hoán cải, bởi vì nhờ ánh sáng của Chúa, ông đã “tin vào Tin mừng”. Đây là cốt yếu của việc hoán cải của ông Phaolô và của chúng ta, đó là tin vào Chúa Giêsu đã chết và sống lại, và mở lòng để cho ân sủng Chúa chiếu soi. Từ lúc đó, ông Saulô hiểu rằng sự cứu rỗi không tuỳ thuộc vào những việc thiện mà ông đã thi hành theo Lề luật Moisen, nhưng tuỳ thuộc vào việc Chúa Kitô đã chịu chết cho mình là một kẻ bách hại ngài, và đã sống lại. Chân lý này, chiếu soi cuộc đời của mọi Kitô hữu nhờ bí tích thánh tẩy, đã lật ngược nếp sống của chúng ta. Hoán cải, kể cả đối với chúng ta, có nghĩa là tin rằng Chúa Giêsu “đã trao hiến mình vì tôi” qua việc chết trên thập giá (xc Gl 2,20), và sống lại, Người sống với tôi và trong tôi. Nhờ việc tín thác vào quyền năng tha thứ của Người, để cho Người cầm tay dẫn dắt, tôi có thể ra khỏi bãi cát lún của tính kiêu ngạo và tội lỗi, của tật gian dối và buồn phiền, của tính ích kỷ và an toàn giả tạo, để nhận biết và sống tình thương phong phú của Người.

Các bạn thân mến, lời kêu gọi hoán cải, được củng cố nhờ chứng từ của thánh Phaolô, vang lên ngày hôm nay, mang tính cách quan trọng cho cả lãnh vực đại kết, vào lúc kết thúc Tuần lễ cầu nguyện cho các Kitô hữu được hợp nhất. Thánh Tông đồ đã chỉ dạy chúng ta thái độ tinh thần cần thiết để có thể tiến tới trên con đường hiệp thông. Người viết trong thư gửi các tín hữu Philippê (3,12): “tôi chưa đạt tới đich, tôi chưa đạt sự hoàn thiện, nhưng tôi cố gắng để chiếm đoạt nó, bởi vì chính tôi đã được Chúa Kitô Giêsu chinh phục”. Các Kitô hữu chúng ta chưa đạt được đích điểm của sự hợp nhất toàn diện, nhưng nếu chúng ta để Chúa Giêsu cải hoán chúng ta liên lỉ, thì chắc chắn chúng ta sẽ đến. Xin Đức trinh nữ Maria là Mẹ của Hội thánh duy nhất và thánh thiện, cầu cho chúng ta được ơn hoán cải chân thành, ngõ hầu sớm thể hiện niềm mong đợi của Chúa Kitô: Ut unum sint (Xin cho tất cả nên một), Chúng ta hãy ký thác cho Mẹ buổi nguyện kinh chiều nay mà tôi sẽ chủ toạ ở đền thánh Phaolô ngoại thành, và cũng như mọi năm, sẽ có sự tham dự của các đại diện của các giáo hội và giáo đoàn hiện diện tại Rôma

Page 11: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Sau khi ban phép lành Toà thánh, đức thánh cha còn nhắc tới ngày dành cho các bệnh nhân phong cùi, được thiết lập cách đây 55 năm do sáng kiến của ông Raoul Follereau. Giáo hội luôn bày tỏ lòng quan tâm đối với các bệnh nhân, và hỗ trợ tất cả những dự án nhằm giúp cho các bệnh nhân được lành bệnh và hội nhập vào xã hội. Chính vì thế mà Giáo hội hoan nghênh phủ Cao Uỷ Liên hợp quốc phụ trách nhân quyền, vì tuyên ngôn mới đây thúc đẩy các quốc gia hãy tìm cách vượt qua sự kỳ thị các bệnh nhân và thân nhân của họ.

Kế đó, các em thiếu nhi thuộc phong trào Công giáo tiến hành đã đến trình bày kết quả của cuộc học tập trong tháng giêng vừa qua, nhằm cổ võ hoà bình qua tình liên đới đối với người nghèo. Từ cửa sổ văn phòng đức thánh cha, các em đã tung lên không trung 2 chim bồ câu như dấu hiệu của ý chí xây dựng hoà bình.

Mục lục

Một quyết định tồi tệ của Tổng thống Barack Obama

Chiều tối ngày 23-1-2009 Tổng thống tân cử Barack Obama đã ký sắc lệnh hủy bỏ việc cấm sử dụng ngân qũy liên bang để tài trợ và thăng tiến việc phá thai tại các nước đang trên đường phát triển, với mục đích gọi là để ”bảo vệ quyền lựa chọn của nữ giới”. Quyết định gia tăng ngân khoản tài trợ phá thai của tổng thống Obama đã tái mở ra cuộc tranh luận liên quan tới phá thai tại Hoa Kỳ, và đang di chuyển theo hướng đi dẫn tới chỗ đẩy mạnh việc nghiên cứu các tế bào gốc lấy từ phôi thai người.

Một số nhận định của giáo sư Steven W. Mosher, Chủ tịch Học viện nghiên cứu dân số Hoa Kỳ, về quyết định của tân Tổng thống Barack Obama gia tăng ngân qũy liên bang để tài trợ phá thai.

Chiều tối ngày 23-1-2009 Tổng thống tân cử Barack Obama đã ký sắc lệnh hủy bỏ việc cấm sử dụng ngân qũy liên bang để tài trợ và thăng tiến việc phá thai tại các nước đang trên đường phát triển, với mục đích gọi là để ”bảo vệ quyền lựa chọn của nữ giới”. Quyết định gia tăng ngân khoản tài trợ phá thai của tổng thống Obama đã tái mở ra cuộc tranh luận liên quan tới phá thai tại Hoa Kỳ, và đang di chuyển theo hướng đi dẫn tới chỗ đẩy mạnh việc nghiên cứu các tế bào gốc lấy từ phôi thai người.

Sắc lệnh của Tổng thống tân cử Obama hủy bỏ lệnh cấm do Tổng thống George Bush ký trước đây. Năm 1984, Tổng thống Ronald Reagan đã thiết định điều sau này được gọi là ”lý thuyết của thành phố Mehicô”, do sự kiện Liên Hiệp Quốc đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh về dân số tại thành phố này trong năm đó. Một cách cụ thể, Tổng thống Reagan cấm không được dùng ngân qũy liên bang để tài trợ cho các tổ chức phi chính quyền, các nhóm cổ võ phá thai và các nhà thương phá thai, hay tài trợ cho các chương trình kế hoạch hóa gia đình, trong đó người ta khuyến khích và thăng tiến việc phá thai.

Ngày 22-1-1993, Tổng tống Bill Clinton đã ký sắc lệnh hủy bỏ lệnh cấm của Tổng thống Reagan. Ông chọn ngày 22 tháng Giêng để ghi nhớ ngày Hoa Kỳ chấp nhận luật cho phép phá thai hồi năm 1973. Khi đắc cử tổng thống năm 2001, Tổng thống George Bush ký sắc lệnh cấm dùng ngân khoản liên bang để tài trợ cho các hoạt động phá thai, cũng vào ngày 22 tháng Giêng.

Trước đây, Tổng thống Barack Obama đã cho biết là ông sẽ hủy bỏ sắc lệnh của Tổng thống Bush. Tuy nhiên vì ngày 22 tháng Giêng đã có hàng chục ngàn người thuộc các phong trào bảo vệ sự sống biếu tình trước Tòa Bạch Ốc, nên Tổng thống Obama dời ngày ký sắc lệnh vào hôm sau. Nó diễn tả ý hướng của ông không muốn đụng độ với phong trào bảo vệ sự sống và gây chia rẽ trong nước, đặc biệt trong giai

Page 12: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

đoạn khủng hoảng tài chánh kinh tế trầm trọng hiện nay, đang cần sự dấn thân và đoàn kết của mọi thành phần nhân dân.

Thật ra trước đó, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã mạnh mẽ lên tiếng bày tỏ sự bất đồng lớn với chính quyền trong vấn đề này. Đức Hồng Y Joseph Rigali, Tổng Giám Mục Philadelfia, Chủ tịch Ủy ban bảo vệ sự sống của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã khẳng định rằng: ”Một chính quyền muốn giảm các vụ phá thai, thì không được dành ngân khoản liên bang cho các nhóm thăng tiến phá thai”. Ngoài ra Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ cũng lo sợ rằng người ta sẽ đi tới chỗ tái thảo luận các luật lệ liên bang và tiểu bang đã được đưa ra nhằm giảm bớt hậu qủa tai hại của luật cho phép phá thai, được quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ thông qua cách đây 36 năm.

Đức Cha Thomas Gerard Wenski, Giám Mục Orlando, tiểu bang Florida, tuyên bố: ”Chúng tôi lo âu về sự kiện các nhà ý thức hệ phò phá thai có thể thắng thế trong quốc hội và đề nghị lên tổng thống Obama một dự thảo luật cho phép phá thai một cách tự do và triệt để hơn”.

Báo Quan Sát Viên Roma của Tòa Thánh coi quyết định này của Tổng thống Obama là một ”quyết định rất gây thất vọng”. Giáo Hội sẵn sàng tranh đấu nếu Tổng thống Obama ký nhận một đạo luật hủy bỏ tất cả các hạn chế phá thai đã được chấp nhận trên bình diện liên bang cũng như tiểu bang.

Theo Tổng thống Obama, trong 8 năm vừa qua, các hạn chế phá thai đã ”gây thiệt hại cho các nỗ lực thăng tiến chương trình gia đình an ninh và hữu hiệu tại các nước đang trên đường phát triển”. Trong các tuần tới đây, chính quyền Hoa Kỳ sẽ bắt đầu nói chuyện thẳng thắn về việc kế hoạch hóa gia đình và hoạt động để tìm ra một khoảng trống chung nhằm đáp ứng các nhu cầu của nữ giới và gia đình tại Hoa Kỳ và trên thế giới. Một cách cụ thể đó là tái cho phép dùng ngân khoản liên bang để tài trợ cho hoạt động của các tổ chức tự do lựa chọn phá thai. Nó cũng liên quan tới việc dùng ngân qũy liên bang để tài trợ cho việc nghiên cứu các tế bào gốc lấy từ các phôi thai người.

Lựa chọn của Tổng thống tân cử Obama khiến cho các tổ chức bảo vệ sự sống thất vọng. Bà Charmaine Yoest, Chủ tịch Liên Minh bảo vệ sự sống Hoa Kỳ tuyên bố rằng: “Tài trợ phá thai là phỉ nhổ vào mặt người dân Hoa Kỳ”.

Bình luận về quyết định trên đây của Tống thống Obama, Đức Cha Elio Sgreccia, nguyên Chủ tịch Hàn Lâm viện Sự sống của Tòa Thánh nói: ”Có biết bao nhiêu điều tốt lành có thể chọn lựa nhưng Tổng thống Obama đã không làm, mà lại lựa chọn điều xấu nhất: đó là tàn sát trẻ em vô tội”.

Sau đây là một số nhận định của giáo sư Steven W. Mosher, Chủ tịch Học viện nghiên cứu dân số Hoa Kỳ, về quyết định của tân Tổng thống Barack Obama gia tăng ngân qũy liên bang để tài trợ các vụ phá thai.

Vào đầu thập niên 1980 ông Mosher đã là nhà báo đầu tiên trên thế giới nghiên cứu về các hành động tàn ác của nhà nước cộng sản Bắc Kinh trong việc áp dụng “đường lối chính trị mỗi gia đình một con”. Ông cũng đã công bố bản tường trình chứng minh cho thấy ”Ngân Qũy dân số của Liên Hiệp Quốc” và ”Liên hiệp quốc tế làm cha mẹ có kế hoạch” có liên lụy tới các vụ phá thai và làm tuyệt đường sinh sản tại Trung Quốc. Chính bản tường trình này của ông đã khiến cho tổng thống George Bush quyết định không tài trợ cho hai cơ quan này nữa.

Hỏi: Thưa giáo sư Mosher, giáo sư nghĩ gì về quyết định trên đây của Tổng thống Barack Obama?

Đáp: Quyết định, qua đó Tổng thống tân cử Barack Obama cho phép sử dụng ngân khoản liên bang để tài trợ cho các tổ chức phò phá thai, là một thí dụ của ”đế quốc Mỹ”. Trong khi đa số các nước trên thế giới

Page 13: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

cấm phá thai hay chỉ cho phép phá thai trong một số trường hợp, mà Tổng thống Obama lại đưa ra quyết định như thế là vi phạm các nguyên tắc của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới dậy tôn trọng phẩm giá và sự sống con người.

Hỏi: Luật chống phá thai do Tổng thống Ronald Reagan thông qua hồi năm 1984 dựa trên các nguyên tắc nào thưa giáo sư?

Đáp: Tư tưởng hướng dẫn nòng cốt đó là phá thai luôn luôn là một biến cố gậy tranh luận tại khắp nơi trên thế giới này. Đa số người dân Mỹ chống lại sư kiện chính quyền sử dụng ngân qũy liên bang, phát xuất từ tiền thuế của họ, để tài trợ các vụ phá thai. Và đa số các quốc gia trên thế giới đều đưa ra rất nhiều hạn chế đối với việc phá thai. Đó là chưa kể tới các quốc gia hoàn toàn cấm phá thai. Các tổ chức Mỹ cổ động việc phá thai khiến cho Hoa Kỳ có một bộ mặt xấu xa đối với nữ giới thuộc các nước đang trên đường phát triển.

Hỏi: Ai là người thủ lợi và ai là kẻ bị thiệt thòi trong vụ thay đổi luật lệ và đường hướng chính trị này thưa giáo sư?

Đáp: Những kẻ được lợi đầu tiên là các tổ chức cổ võ phá thai thuộc ”Liên hiệp quốc tế làm cha mẹ có kế hoạch”. Họ sẽ thăng tiến phá thai tại những nơi nào được phép phá thai, họ sẽ tranh đấu để cho luật phá thai được chấp nhận tại những nơi nào chưa được chấp nhận bằng cách thực hiện nhiều cuộc phá thai hơn tại và thách thức các luật lệ địa phương.

Hiện nay trên thế giới có 130 quốc gia cấm phá thai hay chỉ chấp nhận cho phép phá thai trong một số tình trạng đặc biệt. Chẳng hạn nhiều nước Mỹ châu Latinh minh định rằng sự sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai do đó chính quyền bảo vệ trẻ em chưa sinh ra. Nhưng các tổ chức như ”Ngân Qũy dân số của Liên Hiệp Quốc” và ”Liên hiệp quốc tế làm cha mẹ có kế hoạch” và các tổ chức tương tự phò phá thai thì lại thàch đố các luật lệ và quyền tối thượng của các nước này, và muốn thay đổi mọi sự.

Họ bêu riếu trẻ em chưa sinh ra, và coi các em như một vật gì đó chứ không phải là người, có phẩm giá và tất cả mọi quyền thiêng liêng của một con người, trong đó có quyền nền tảng đầu tiên là quyền sống.

Nhưng chính vì không coi các bào thai là người, nên các tổ chức nói trên tìm cách tước đoạt quyền sống của các thai nhi, không bảo vệ chúng, và thực hiện các vụ phá thai bất hợp pháp. Một cung cách hành xử như thế lại chẳng phài là “chủ nghĩa đế quốc văn hóa, thì còn là cái gì nữa?

Mục lục

Công bố Sứ Điệp mùa chay 2009 của Đức Thánh Cha

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các tín hữu tái khám phá ý nghĩa và thực hành việc ăn chay trong mùa chay sắp tới.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong sứ điệp Mùa Chay được ĐHY Paul Cordes, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo sáng 4-2-2009 tại Vatican.

Mùa chay năm nay bắt đầu từ ngày thứ tư lễ tro, 25-2 tới đây, và có chủ đề là ”Chúa Giêsu, sau khi ăn chay 40 đêm ngày, Người cảm thấy đói” (Mt 4,2).

Page 14: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Trong sứ điệp, sau khi gợi lại ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của việc ăn chay trong Kinh Thánh Cựu và Tân Ước, cũng như trong cộng đồng Kitô tiên khởi và giáo huấn của các Giáo Phụ, ĐTC viết: ”Ngày nay, việc thực hành chay tịnh dường như có phần bị mất đi giá trị thiêng liêng và, trong một nền văn hóa tìm kiếm an sinh vật chất, việc chay tịnh thường chỉ có giá trị như một biện pháp trị liệu để chăm sóc thân thể của mình. Chay tịnh chắc chắn giúp ích cho sự thoải mái thể lý, nhưng đối với các tín hữu Kitô, chay tịnh trước tiên là để chữa trị tất cả những gì cản trở họ trong việc tuân hành thánh ý Chúa”.

ĐTC mời gọi các tín hữu hãy đặt việc chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mỗi tín hữu Kitô ”không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình.. và cũng để sống cho anh chị em” (Tông hiến Poenitemini của Đức Phaolô 6, 1966, ch.1)... Sự trung thành thực thi chay tịnh có thể giúp chúng ta loại trừ tính ích kỷ và mở rộng con tim đối với tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.. Ngoài ra, nó cũng góp phần mang lại sự thống nhất cho con người, thân xác và linh hồn, giúp tránh tội lỗi và tăng trưởng trong cuộc sống thân mật với Chúa... Giảm bớt lương thực vật chất nuôi sống thân xác sẽ tạo điều kiện dễ dàng để nội tâm sẵn sàng lắng nghe Chúa Kitô và nuôi dưỡng mình bằng lời cứu độ của Chúa. Qua việc chay tịnh và cầu nguyện, chúng ta để Chúa đến thỏa mãn cơn đói sâu đậm hơn mà chúng ta cảm thấy trong thâm tâm, đó là sự đói khát Thiên Chúa”.

ĐTC cũng nêu bật liên hệ giữa việc chay tịnh và thực hành bác ái: ”Việc chay tịnh giúp chúng ta ý thức về tình trạng của bao nhiêu anh chị em chúng ta... Chay tịnh tự nguyện giúp chúng ta vun trồng lối sống của Người Samaritano nhân lành, cúi mình xuống cứu giúp người anh em đau khổ (Deus caritas est, 15). Khi tự nguyện chịu thiếu thốn một cái gì đó để giúp đỡ tha nhân, chúng ta chứng tỏ một cách cụ thể rằng tha nhân đang gặp khó khăn không phải là người xa lạ đối với chúng ta. Với mục đích giữ cho thái độ đón tiếp và quan tâm đối với anh chị em được luôn sinh động, tôi khuyến khích các giáo xứ và mỗi cộng đoàn khác hay tăng cường việc thực hành chay tịnh, bản thân và cộng đoàn, trong mùa chay, cũng như quan tâm lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và làm phúc”.Hiện diện tại cuộc họp báo còn có Bà Josette Sheeran, Giám đốc điều hành chương trình lương thực của LHQ. Bà cho biết số người đói trên thế giới từ năm 2007 đến nay đã tăng thêm 115 triệu người, nâng tổng đố người đói trên thế giới là 1 tỷ người, tức là 1 phần 6 dân số thế giới. Vấn đề ở đây không phải là thiếu lương thực, nhưng là vấn đề phân phối, sự ham hố, kỳ thị, chiến tranh và các thảm trạng khác khiến cho nhiều người thiếu lương thực. (SD 3-2-2009)

Mục lục

Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh lên tiếng về vụ GM Williamson

VATICAN. Hôm 4-2-2009, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh khẳng định rằng để có thể được nhận cho thi hành chức năng GM trong Giáo Hội, GM Williamson phải tuyệt đối và công khai từ bỏ lập trường về vấn đề diệt chủng Do thái.Vị GM này người Anh, năm nay 69 tuổi, đã tuyên bố trong 1 cuộc phỏng vấn dành cho đài truyền hình Thụy Sĩ hồi tháng 11 năm ngoái rằng chỉ có khoảng 2, 3 trăm ngàn người Do thái chết trong các trại tập trung của Đức Quốc xã, và không có ai chết vì lò khí độc.

Phủ quốc vụ khanh đã công bố thông cáo minh định lập trường của Tòa Thánh, sau khi có những phản ứng ồ ạt về sắc lệnh được Bộ GM công bố ngày 21-1 vừa qua giải vạ tuyệt thông 4 GM đã chịu chức bất hợp pháp thuộc Huynh đoàn thánh Piô 10. Thông cáo viết: ”Việc tha vạ này không thay đổi tình trạng pháp lý của Huynh đoàn này. Hiện nay Huynh đoàn không được nhìn nhận về giáo luật trong Giáo Hội Công Giáo. Cả 4 GM được tha vạ cũng không có chức năng theo giáo luật trong Giáo Hội và không thi hành sứ vụ này một cách hợp pháp trong Giáo Hội.”

Page 15: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

”Để được nhìn nhận trong tương lai, Huynh đoàn thánh Piô 10 phải chu toàn điều kiện không thể thiếu được, đó là hoàn toàn chấp nhận Công đồng chung Vatican, và Giáo Huấn của các ĐGH Gioan 23, Phaolô 6, Gioan Phaolô I, Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16.”

Phủ quốc vụ khanh tái xác nhận ”lập trường của GM Williamson liên quan đến cuộc diệt chủng Do thái là điều tuyệt đối không thể chấp nhận được và đã bị ĐTC bác bỏ. Khi giải vạ cho 4 GM nói trên, ĐTC không biết lập trường của GM Williamson về diệt chủng Do thái.”

Sau cùng, thông cáo cho biết ĐTC xin các tín hữu cầu nguyện xin Chúa soi sáng con đường của Giáo Hội, và để các vị mục tử cũng như tất cả các tín hữu gia tăng quyết tâm nâng đỡ sứ mạng tế nhị và khó khăn của Đấng Kế Vị Thánh Phêrô trong tư cách là 'Người bảo vệ tình hiệp nhất trong Giáo Hội”.

Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, LM Lombardi SJ, cũng nói rằng ĐTC đã có lập trường rất rõ ràng về vấn đề diệt chủng Do thái.

Trong những ngày qua, một số nhân vật, trong đó có cả bà thủ tướng Angela Merkel của Đức, lên tiếng yêu cầu ĐTC bày tỏ lập trường rõ ràng về cuộc diệt chủng Do thái.

Chiều ngày 3-2-2009, Cha Lombardi đã ra thông cáo nói rằng: ”Lập trường của ĐGH về vấn đề diệt chủng Do thái đã được trình bày rất rõ ràng tại Hội đường Do thái ở thành phố Koeln ngày 19-8 năm 2005, tại trại tập trung Auschwitz-Birkenau bên Ba Lan ngày 28-5-2006 và trong buổi tiếp kiến chung ngày 31-5-2006 và mới đây vào cuối buổi tiếp kiến chung 28-1 vừa qua, với những lời rất rõ rằng, trong đó chúng tôi chỉ ghi lại đây lời này: ”Trong khi tôi thân ái lập lại tình liên đới trọn vẹn và không thể tranh luận của tôi với các anh chị em thuộc giao ước đầu tiên, tôi cầu mong rằng việc tưởng niệm cuộc diệt chủng sẽ giúp nhân loại suy tư về quyền lực không thể lường trước được của sự ác, khi nó chiếm hữu tâm hồn con người. Ước gì cuộc diệt chủng Do thái là một lời cảnh giác cho tất cả mọi người chống lại sự quên lãng, sự phủ nhận hoặc thu hẹp”.

”Việc lên án những lời tuyên bố chối bỏ cuộc diệt chủng không thể rõ ràng hơn nữa, và từ văn mạch, hiển nhiên là việc lên án ấy cũng nói về lập trường của GM Williamson và tất cả những lập trường tương tự. Trong cùng dịp ấy chính ĐTC đã giải thích rõ ràng mục đích của việc tha vạ tuyệt thông thông, mục đích ấy không liên hệ gì tới việc hợp thức hóa những lập trường chối bỏ cuộc diệt chủng Do thái, những lập trường mà ngài lên án rõ ràng”.Về phần ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Công Giáo Tương lai (Avvenire) ở Italia, số ra ngày 3-2-2009 ngài kêu gọi đừng lẫn lộn giữa biện pháp khoan hồng của ĐTC, - giải vạ tuyệt thông cho 4 GM, và lời tuyên bố tai hại của 1 trong 4 GM ấy. Việc giải vạ này chỉ liên hệ tới sự kiện 4 giáo sĩ này đã chịu chức GM thành sự nhưng bất hợp pháp hồi năm 1988 vì không có phép của Tòa Thánh. Huynh Đoàn thánh Piô 10 đã bác bỏ lời tuyên bố của GM thành viên của họ về diệt chủng Do thái và đã xin lỗi ĐGH về vụ đó. ĐGH đã nói rõ ràng ngày thứ tư 28-1 vừa qua. Đối với chúng tôi vấn đề này có thể coi như kết thúc”.

ĐHY Bertone cũng cho biết chương trình chuẩn bị cuộc viếng thăm của ĐTC tại Thánh Địa đang tiến xa hơn trong việc nghiên cứu và chúng tôi hy vọng cuộc viếng thăm này có thể được thực hiện với tất cả những bảo đảm cần thiết trước đó cho các cuộc viếng thăm của ĐGH (SD, Avvenire 3-2-2009)

Mục lục

Page 16: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Mái Ấm Tình Thương được khánh thành nơi miền đất Lạng Sơn

LẠNG SƠN - Trong cái xe lạnh của tiết xuân, nơi phố núi cực Bắc thuộc tỉnh Lạng Sơn, niềm vui xuân của bà con sắc tộc được nhân đôi khi một mái ấm tình thương Công Giáo đầu tiên được khánh thành và chính thức đi vào hoạt động ngày 31 tháng 1 vừa qua. Được xây dựng tại huyện Tràng Định, trung tâm thị trấn Thất Khê, Mái Ấm Tình Thương Thất Khê còn là điểm giao nhau giữa hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng và chắc chắn sẽ là điểm đến của anh chị em thiểu năng và khuyết tật nơi các làng bản lân cận đang cần được sưởi ấm.

Tham dự buổi lễ khánh thành có đầy đủ đại diện các cấp thuộc giáo quyền cũng như chính quyền và tất nhiên là không thể thiếu các chị em nữ tu Dòng Đaminh Lạng Sơn, chủ nhân của mái ấm. Sau lời tuyên bố lý do và khai mạc buổi lễ của cha chính xứ giáo xứ Thất Khê là tới phần cắt băng khánh thành. Người đầu tiên đại diện cắt băng khánh thành là vị cha chung của giáo phận, đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, thứ đến là nữ tu Têrêsa Đỗ Thị Minh bề trên tổng quyền Dòng nữ Đaminh Lạng Sơn, cha quản hạt giáo hạt Lạng Sơn cùng đại diện các ban ngành và các cấp chính quyền trong tỉnh. Thứ đến là nghi thức làm phép nhà và xin Chúa thánh hóa mái ấm trước khi bước vào Thánh Lễ tạ ơn và cũng là Thánh Lễ cầu bình an cho năm mới cho giáo phận và đặc biệt là cho mọi thành phần trong mái ấm. Biến cố trọng đại này không chỉ là tin vui cho các anh chị em kém may mắn, mà nó còn đánh dấu một bước đi mới trong tiến trình Phúc Âm Hóa của giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng nói chung và nhiệt huyết dấn thân phục vụ của các chị em nữ tu Đaminh Lạng Sơn nói riêng.

Vì thế, bước vào Thánh Lễ, đức cha Giuse mời gọi con cái mình cùng hòa điệu với bài ca tạ ơn Manificat của mẹ Maria để ngợi khen Thiên Chúa vì biết bao ơn lành Ngài ban cho giáo phận nhỏ bé ngang qua sự hiện diện và phụng vụ âm thầm của bao người. Ngoài ra, trong bài giảng của mình, với vị trí chủ chăn, đức cha đã cám ơn Hội Dòng nữ Đaminh Lạng Sơn đặc biệt là các chị em đã hiện diện và đồng hành cùng với giáo phận ngay từ những chặng đường gập ghềnh nhất cho đến ngày hôm nay. Đức cha còn nhấn mạnh: đóng góp lớn nhất của Hội Dòng ngang qua chị em không phải là tài cán càng không phải là của cải vật chất mà là những con tim thuộc trọn về Thầy Giêsu, những tấm lòng biết nhói đau trước nỗi đau của đồng loại và muốn cho đi chính bản thân mình ngang qua việc âm thầm phục vụ. Hiện diện nơi cánh đồng truyền giáo, sống giữa bà con lương dân, vị cha chung cũng không quyên khơi dậy những giá trị của niềm tin Kitô và kêu gọi con cái mình đem những giá trị Tin Mừng vào giữa lòng cuộc sống nơi gia đình, bản làng và xã hội.

Về phần mình, để đáp lại tấm chân tình của mọi người, bề trên tổng quyền Hội Dòng đại diện các chị em trong Dòng và đặc biệt là những anh chị em khuyết tật cám ơn vị cha chung giáo phận và những người đã chung lòng chung sức xây dựng mái ấm tình thương. Có thể nói, cảm động nhất trong ngày lễ là phần trình diễn đàn Tính và hát Then, một đặc nét văn hóa của bà con dân tộc xứ Lạng. Thành phần biểu diễn gồm các nữ tu sắc tộc, các em dân tộc và các cháu thiếu nhi. Mọi người đều ngậm ngùi khi lắng nghe tiếng lòng của một chị khiếm thị khi cất cao giọng hát yếu ớt nhưng đầy tha thiết và chất chứa niềm khao khát khôn nguôi: “...con muốn một lần thấy mặt cha mẹ, thầy cô, bạn bè”.

Mong sao ước mơ của chị và của biết bao con người bất hạnh khác sớm được thành toàn khi đến với mái ấm tình thương. Vì dẫu rằng chị không thể thấy được cha mẹ, thầy cô, bạn bè bằng con mắt thể lý, nhưng chị có thể cảm được tình yêu của họ khi được chính Thầy Giêsu đụng chạm và chữa lành ngang qua tình thương và bàn tay chăm sóc của các chị nữ tu nơi mái ấm. Đồng thời, với ánh mắt tâm linh những “kẻ bé mọn” kia sẽ thấy được khuôn mặt của Cha Nhân Lành, Đấng đã sinh ra họ, vẫn hằng dõi theo và chăm sóc con cái mình. Và cũng mong sao mái ấm ngày càng ấm hơn nhờ hơi ấm của những tấm lòng quảng đại muốn san chia và cho đi tình thương của mình, cộng tác với chủ chăn và những thành phần khác trong Hội Thánh xây dựng và sống những giá trị nước trời ngay giữa lòng đời hôm nay.

Page 17: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Dominic VũMục lục

Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn

THÁI BÌNH - Hàng năm, cứ vào ngày 4 tết Đức Cha Phanxico Xavie Nguyễn Văn Sang lại trở về Vân Môn (huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) – nơi có các bệnh nhân phong đang sống và điều trị để thăm hỏi, tặng quà cũng như chủ tế thánh lễ cầu nguyện cho các bệnh nhân. Năm nay cũng vậy, mặc dù thời tiết mưa rét nhưng Ngài vẫn tận tình đến với các bệnh nhân. Vì Ngài coi các bệnh nhân như chính Đức Kitô đang hiện diện cách hữu hình trong cuộc sống.

Sự ra đời và phát triển của khu điều trị phong Vân Môn

Vân Môn là khu điều trị cho các bệnh nhân phong ra đời đầu tiên tại miền Bắc vào năm 1898 do một Cha người Pháp khởi xướng. Lúc đầu, khu điều trị có quy mô nhỏ nên chỉ dành cho các bệnh nhân phong tại Thái Bình. Sau đó, khu điều trị được mở rộng dần và đến nay diện tích của khu điều trị là 65 ha và nó trở thành nơi cư trú của các bệnh nhân ở khắp các tỉnh miền Bắc, thậm chí có cả các bệnh nhân thuộc các dân tộc thiểu số cũng được quy tụ về mái ấm Vân Môn. Hiện tại tổng số bệnh nhân tại khu điều trị phong Vân Môn lên tới 497 bệnh nhân nội trú và gần 300 bệnh nhân ngoại trú. Khu điều trị đã xây dựng được bệnh viện da liễu khang trang có nhiều bác sĩ tài ba, tâm huyết. Các bác sĩ tại bệnh viện da liễu Vân Môn không chỉ có nhiệm vụ khám chữa bệnh mà kiêm luôn cả nhiệm vụ quản lý, điều hành việc sản xuất trong khu điều trị. Để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người bệnh, khu điều trị đã có 2 nhà thờ và một ngôi chùa. Các bệnh nhân tại khu điều trị Vân Môn rất phấn khởi vì họ đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc cả về vật chất lẫn tinh thần. Bác sĩ Mùi cho biết: “Mấy năm gần đây được sự quan tâm của ban giám đốc, của các hội từ thiện đặc biệt là các Linh mục, Tu sĩ... đời sống của các bệnh nhân trong khu điều trị sung túc hơn nhiều. Vừa qua khu điều trị đã xây dựng xong dãy nhà hai tầng tiện nghi, thoáng mát cho các bệnh nhân và trong thời gian tới khu điều trị sẽ xây dựng thêm một phòng khám và một khu ở cho cán bộ công nhân viên chức”.

Các bệnh nhân phấn khởi đón xuân

Được sự quan tâm về vật chất cũng như tinh thần của ban giám đốc khu điều trị, của các nhà từ thiện, đặc biệt là sự ưu ái của Đức Cha giáo phận, các bệnh nhân phong tại khu điều trị Vân Môn đã đón tết trong niềm vui khỏe, hạnh phúc. Bác Hòa quê ở Khoái Châu (Hưng Yên), sống tại khu điều trị từ năm 1955 chia sẻ: “ngày mới đến đời sống của chúng tôi rất khó khăn, phải ở trong những dãy nhà dột nát, phải lao động nhiều nên bệnh ngày càng nặng. Nhưng từ khi được sự quan tâm của giám đốc Bùi Huy Thiện cùng các bác sĩ trong ban lãnh đạo và các nhà từ thiện khắp nơi chúng tôi đã có cuộc sống no đủ hơn, được sống trong dãy nhà mái bằng sạch sẽ, phòng nào cũng có tivi, nhiều phòng đã có cả bếp ga để tiện việc đun nấu...Nhờ đời sống vật chất đầy đủ nên bệnh tật của chúng tôi giảm dần và tinh thần rất thoải mái. Năm nay, chúng tôi được ăn tết rất to và đoàng hoàng. Đồ ăn chẳng thiếu thứ gì từ thịt, cá, gạo nếp...” Hay như lời chia sẻ của bà Tẹo, 70 tuổi, quê ở Ninh Bình: “Mấy năm nay vì không phải lao động nhiều nên vi khuẩn phong không có cơ hội tấn công, ăn mòn cơ thể nữa. Vì thế, tuy phải đeo chân giả nhưng trong người thấy rất khỏe mạnh. Nhớ lại những năm đầu đến đây vất vả, khổ sở lắm. Thời đó, chân tay thì đau nhưng vẫn phải đi mò cua bắt ốc, hái rau dại quanh nhà ăn cho đỡ đói. Vì ngày đó mỗi tháng chỉ được có 400 đồng và 18 cân gạo”

Các ân nhân đồng lòng chia sẻ

Page 18: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Các bệnh nhân trong khu điều trị phong Vân Môn hết lòng cám ơn Đức Cha, các Cha, các nam nữ tu sĩ cũng các vị ân nhân đã nhiệt thành giúp đỡ họ về vật chất lẫn tinh thần trong suốt những năm qua. Đặc biệt trong thánh lễ đầu xuân này Đức Cha, các cha, các tu sĩ cùng các vị ân nhân lại tiếp tục giúp các bệnh nhân về vật chất lên tới gần 49 triệu đồng và 116 kg đường.

Và chính trong bài giảng hôm nay Đức Cha cũng đã nhấn mạnh tới tinh thần bác ái và kêu gọi mỗi người cần cảm thông, chia sẻ với những người khó khăn, đau khổ về thể xác cũng như tâm hồn vì Chúa đã nói: “những ai bị tù đầy giam hãm, bị đói nghèo, bệnh tật thì đó là chính Ta và khi các ngươi thăm viếng những người đó là thăm viếng Ta rồi”. Vì thế, Ngài coi thánh lễ đầu xuân tại khu điều trị phong Vân Môn chính là ngày chầu lượt, ngày chầu mình Thánh Chúa. Những anh em đang bị bệnh tật, đau khổ là dấu chỉ sự hiện diện cụ thể của mình máu Chúa Ki tô giữa loài người.

Lạy Chúa! Ước mơ tha thiết của con người là được sống khỏe mạnh và hạnh phúc nhưng trong thực tế bệnh tật vẫn làm cho con người đau khổ và bất hạnh. Xin Chúa cho các anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật, đặc biệt là các bệnh nhân phong được nhiều người xót thương, nâng đỡ ủi an!

Hương Giang Mục lục

Lễ Cung Hiến và Khánh Thành Nhà Thờ Đà Loan - Giáo phận Đà lạt

I. HÌNH THÀNH :

Đà loan là tên gọi của một xã thuộc huyện Đức Trọng, là một trong bốn xã “vùng Loan”, cũng là tên của một Giáo họ thuộc Giáo xứ Ninh Loan - Giáo hạt Đức Trọng. Vị trí nằm cách Đàlạt khoảng 60 Km về hướng đông nam ; theo quốc lộ 20 hướng từ Sàigòn đi Đàlạt, đến ngã ba Ninh Gia rẽ phải vào khoảng 18 Km. Trước 1975, dân cư nơi đây phần lớn là đồng bào dân tộc Churu, những năm 1977 - 1978, với chủ trương giãn dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới, một số dân của Thành phố Đàlạt đã được đưa về vùng này.

Bà con giáo dân vùng Đàlạt đến đây từ nhiều Giáo xứ, Giáo sở : An Bình, Du sinh, Minh giáo, Chánh tòa, Tùng lâm, Đa thiện, Tạo tác, Chi lăng, Thánh mẫu, Bạch đằng, Vạn thành, Don Boscô, Thánh tâm…

Với diện tích tự nhiên 5.490 ha và dân số khoảng 9002 người / 1974 gia đình, (Kinh : 6957/1426 ; Churu 1041/191 ; Cil : 871/142 ; Tày 37/9 ; Hoa 41/10 ; K’ho 26/8 ; Nùng : 12/3 ; Chăm 6/2 ; Thổ 6/1 ; Thái : 2/1 ; Êđê : 3/1).

Từ năm 1978 - 1992, do địa bàn rộng, bà con giáo dân lại ở rải rác khắp 16 thôn ; đường giao thông không thuận tiện, mùa mưa lầy lội… nên việc sinh hoạt tôn giáo gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dầu không có Linh mục, nhưng bà con đã tự chia thành nhiều nhóm sinh hoạt. Từng nhóm lại tập hợp các gia đình sống gần nhau để cử hành Phụng vụ Lời Chúa vào các buổi tối Chúa nhật và các ngày Lễ trọng, như :

- Nhóm 1 : các thôn 7, 8, 9. Đặc biệt thôn 7 có 30 gia đình từ Giáo xứ An Bình, 9 gia đình từ giáo xứ Du sinh và 10 gia đình từ giáo xứ Minh giáo sống gần nhau.

- Nhóm 2 : các thôn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 10, 11 và thôn Chợ.

Page 19: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Khi có người qua đời, giáo dân tập trung thăm viếng, đọc kinh, cầu nguyện…

Khi có con em lãnh nhận Bí tích, gia đình đưa về Giáo xứ gốc tại Đàlạt hoặc đưa đến các Giáo xứ khác…

Nhìn chung, trong giai đoạn này, bà con giáo dân tại đây gặp muôn vàn khó khăn trong việc sống Đạo. Nhưng với niềm tin, sự cậy trông và lòng phó thác, đời sống Đạo tuy âm thầm, lặng lẽ nhưng rất sốt sắng. Có được điều này là nhờ vào Ơn Chúa, nhờ lòng đạo đức của các bậc cha mẹ và sự nâng đỡ của các mục tử.

II. PHÁT TRIỂN :

- Ngày 25.12.1992 là bước ngoặc lớn đối với giáo dân Đà loan. Do sự quan tâm của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đàlạt, chính quyền sở tại đồng ý cho Cha Giuse Phan Thành Thuyết (Giáo xứ Liên khương) vào dâng Thánh lễ đầu tiên tại Giáo điểm Đà loan và tạm coi sóc 4 xã vùng Loan.

Từ đó, mỗi dịp lễ Giáng sinh và Phục sinh, cha Giuse Phan Thành Thuyết đến dâng Thánh lễ và ban các Bí tích.

- Năm 1993 Ban Mục vụ lâm thời được hình thành gồm :

* Ban Đại diện giáo dân.

* Ban Giảng viên Giáo lý.

* Ban giúp kẻ liệt, mai táng.

* Ca đoàn.

* Ban Lễ sinh.

- Ngày 18.10.1994, Ban Đại diện giáo dân đứng đơn xin xây dựng Nhà thờ, dưới sự hướng dẫn của Cha Giuse Phan Thành Thuyết, Quản xứ Liên Khương.

Trong thời gian này, để tham dự Thánh lễ hoặc lãnh nhận các Bí tích, bà con phải đến Nhà thờ Giáo họ Ninh Loan cách khoảng 15Km. Bà con đồng bào dân tộc còn phải đi xa hơn, nhiều người phải vượt trên 30 Km mới đến được Nhà thờ.

- Ngày 13.5.2005, Sở Xây dựng tỉnh Lâm Đồng cấp giấy phép xây dựng, đồng ý cho xây dựng nhà thờ Đà Loan.

- Ngày 13.7.2005, Đức Cha Phêrô dâng Thánh lễ đồng tế trọng thể và chủ sự nghi thức Đặt viên đá đầu tiên xây dựng Thánh đường dâng kính Chúa Thánh Thần.

- Cũng trong năm 2005, Cha Giuse Phan Thành Thuyết bàn giao lại cho Cha Giuse Nguyễn Cao Nguyên, thuộc Tu hội Tận Hiến, ICM- trực tiếp coi sóc và điều hành mọi công việc của Giáo họ.

Từ đó, chiều thứ Bảy, ngày Chúa nhật và các Lễ trọng đều có Thánh lễ do Cha Quản xứ Giuse Nguyễn Cao Nguyên hoặc Cha Phó Anphongsô Hoàng Để cử hành.

Page 20: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Đà loan hiện có 1634 người Công giáo (336 gia đình), chiếm 18% dân số của xã. Giáo Họ được chia thành 4 Giáo khu, cụ thể như sau :

- Khu I : Thôn 1 ; 2; 3 ; 4 ; 10 ; 11 ; 12 (có 62 gia đình).

- Khu II : Thôn Chợ và thôn 5 (có 62 gia đình).

- Khu III : Thôn 6 ; 7 ; 8 ; (có 45 gia đình).

- Khu IV : Thôn 9 ; 16 ( có 70 gia đình. Trong đó có 13 gia đình người Churu. Còn lại đa số giáo dân thuộc Giáo phận Phát Diệm di dân tự do vào năm 1990)

- 02 thôn dân tộc Churu : Thôn Sóp (35 gia đình) và Thôn Ma Am (40 gia đình).

* 9 giờ 30 ngày 04.02.2009, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đàlạt đã Chủ sự Thánh lễ đồng tế trọng thể và cử hành nghi thức Cung hiến Thánh đường Giáo họ Đà Loan.

Cộng đoàn Giáo họ luôn ý thức sự quan phòng của Thiên Chúa để cùng nhau góp sức xây dựng Hội Thánh Chúa tại nơi đây. Dù cuộc sống còn rất nhiều khó khăn, nhưng chúng con biết rằng Chúa luôn bên cạnh để dẫn dắt, an ủi và đỡ nâng. Xin cho chúng con biết quý trọng sự hiệp nhất và sống tình mến trọn vẹn. Xin cho chúng con biết nhận ra Thiên Chúa hiện diện nơi những anh chị em nghèo khó và kém may mắn đang sống chung quanh chúng con.

III. LỄ CUNG HIẾN VÀ KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ ĐÀ LOAN

Ngày 04/02/2009

Có thể nói xuân Kỷ Sửu 2009, Giáo Họ Đà Loan đón tết đan xen giữa niềm vui và lo lắng. Vì lẽ nhà thờ ngôi Nhà thờ của Giáo họ mới xây dựng xong, sẽ được khánh thành và Cung hiến. Một mặt nhà nhà đón xuân, mặt khác bà con giáo dân phải lo dọn dẹp, trang hoàng trong ngoài nhà thờ, tập các nghi thức... Bầu khí rộn ràng của Tết dân tộc qua đi, thì việc phải hoàn bị mọi mặt truớc ngày Nhà thờ được Cung hiến càng trở nên khẩn thiết hơn.

Nhà thờ Đà Loan động thổ vào tháng 4/2005,

Lễ đặt viên đá vào ngày 13/7/2005,

Sau gần bốn năm mới xây dựng xong phần cơ bản của Nhà thờ, ghế ngồi còn thiếu, khuôn viên nhà thờ còn rất rộng nhưng chưa tôn tạo cảnh quan. Nhà xứ chưa xây dựng, một số phòng học giáo lý còn phải hoàn chỉnh... Nhìn chung còn nhiều phần việc phải tiếp tục thực hiện trong tương lai.

Sáng ngày 04/02/2009, trong tiết trời nắng nóng và gió, từng đoàn người kinh cũng như dân tộc đổ dồn về Nhà thờ để tham dự Thánh lễ Cung hiến, ước lượng khoảng sáu ngàn người, trong đó người dân tộc Churu chiếm đa phần. Bốn xã Vùng Loan (Ninh Loan - Đà Loan - Tàhin - Tà Năng) nói chung và Giáo Họ Đà Loan nói riêng, hân hoan vui mừng tạ ơn Chúa, biết ơn Giáo phận và Đức Cha Phêrô, tri ân Tu Hội Nhập Thể - Tận Hiến - Truyền Giáo cùng các ân nhân xa gần, đã góp phần cho sự hiện hữu tại nơi đây ngôi Thánh đường với tước hiệu “Chúa Thánh Thần”.

Page 21: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Đến hiệp dâng Thánh lễ Tạ ơn và Cung hiến cùng Đức Giám Mục Địa Phận còn có Cha Tổng Đại Diện Phaolô Lê Đức Huân, Cha Tổng Phụ Trách Tu Hội Tận Hiến Giuse Nguyễn Việt Hưng (ở Hoa Kỳ), quý cha Quản hạt, quý Bề trên các Hội dòng trong và ngoài Địa Phận và trên 40 Linh mục, cùng tu sĩ nam nữ và anh chị em Tận Hiến.

Trong bài giảng lễ, Đức Cha Phêrô nói rõ ý nghĩa của việc Cung hiến nhà thờ và bàn thờ : việc cử hành các Bí tích phụng tự mang giá trị thánh thiêng trong một ngôi Thánh đường được Cung hiến ; ý thức rằng nhà thờ được Cung hiến để dâng cho Thiên Chúa và thuộc về Ngài. Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi, nhưng tại Nhà thờ được Cung hiến, Ngài hiện diện cách rõ ràng, cụ thể qua các Bí tích được trao ban, qua chính Hy tế thập giá trên Bàn thờ, qua Lời Chúa được công bố, qua việc sống hiệp nhất và yêu thương của cộng đoàn Dân Chúa và cũng nơi này, ơn Cứu độ được tuôn ban cho những ai tìm đến với Ngài. Bên cạnh đó, Đức Cha nhắc nhở : phải trả lại giá trị thiêng liêng đích thực cho Nhà thờ, đây không phải là nơi để ca thán, diễn kịch hay làm điều gì bất xứng.

Đức Cha còn nhấn mạnh : việc xây dựng cộng đoàn Dân Chúa trong tình bác ái, xây dựng đền thờ đích thực trong tâm hồn mỗi người để Thiên Chúa ngự trị là điều cần thiết.

Sau Thánh lễ, Cha Quản Xứ Giuse Nguyễn Cao Nguyên đã thay mặt toàn thể giáo dân bốn xã Vùng Loan cảm ơn Đức Cha, cảm ơn quý cha, quý ân nhân xa gần, cộng đoàn Dân Chúa địa phương, đã đóng góp công sức cho việc hoàn thành Nhà thờ Đà Loan để có nơi thờ tự xứng đáng, để đáp ứng nguyện vọng của nhiều bà con giáo dân, để giảm bớt nỗi nhọc nhằn cho bà con dân tộc, không còn phải đi quá xa mới đến được nhà thờ.

Ông Ya Hiên, vị đại diện dân tộc Churu cũng thêm lời cảm ơn Đức Cha đã quan tâm đến bốn xã Vùng Loan, và xin Đức Cha quan tâm đến việc xây dựng Nhà thờ dân tộc cho người Churu (hiện có trên 6000 giáo dân), họ khao khát có một ngôi nhà thờ đúng nghĩa của người dân tộc bản địa.

Trong tâm tình của người cha, luôn mang trong tim những thao thức, lo lắng cho người dân tộc thiểu số trong Giáo phân, Đức Cha lắng nghe ước vọng của bà con dân tộc và ngài nói rõ đó là việc phải làm trong tương lai. Đức Cha xin tất cả giáo dân bốn xã Vùng Loan hãy cầu nguyện, hy sinh, hiệp nhất, sống bác ái hơn nữa và kiên nhẫn chờ đợi thời điểm thuận lợi cho việc xây dựng nhà thờ mà người dân tộc Churu ước mong.

Sau cùng, Đức Cha Phêrô đã thay mặt cho Địa Phận cảm ơn Tu Hội Nhập Thể - Tận Hiến - Truyền Giáo đã sẵn sàng vâng lời để hiện diện truyền giáo trong bốn xã Vùng Loan. Đây là vùng đất rộng lớn, nhiều người chưa biết Chúa, đời sống còn gặp quá nhiều khó khăn… Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương Thiên Chúa và phó thác cho Ngài.

Theo www.simonhoadalat.com

Mục lục

Tòa Giám Mục Thanh Hóa thăm và phát qùa cho bệnh nhân phong và trẻ em khuyết tật dịp Tết

LỜI MỜI GỌI

Dịp tĩnh tâm cuối cùng của năm 2008, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, đã mời gọi các cha xứ “ tết là dịp

Page 22: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

thuận lợi để các cha đến thăm viếng các gia đình, đặc biệt những người nghèo khổ, các cha cố gắng vận động bà con cùng góp sức và tặng vật để giúp cho các gia đình nghèo có được một cái tết tươm tất”.

ĐƯỢC THỂ HIỆN…

Hưởng ứng lời mời gọi của Đức Giuse, ngay sau ngày tĩnh tâm các giáo xứ trong giáo phận đã đồng lòng hướng về người nghèo bằng những hành động cụ thể: Gói bánh chưng, mua gạo nếp, bánh mứt, nước mắm, cá khô và tiền để giúp các gia đình nghèo.

Riêng khu vực Tòa Giám Mục bao gồm: Giáo xứ Chính Tòa, Hội Dòng MTG và Tòa Giám Mục không những đem tết đến cho người nghèo trong giáo xứ mà còn đến thăm và phát quà cho bệnh nhân phong cùi tại Cẩm Thủy, dân thuyền chài ven thành phố Thanh Hóa, em khuyết tật và người bị bệnh tâm thần Quảng Xương. Mỗi phần quà trong đó có gạo, bánh chưng, mức, kẹo, nước ngọt và tiền mặt đã được phát cho những người hẩm hiu và các gia đình nghèo ăn tết Kỷ Sửu 2009.

Ngày 21.1.2009, cha quản lý Tòa giám mục, Giuse Nguyễn Văn Bình; cha Giacobe Mai Văn Toản, quản xứ Ngọc Sơn; cha Giuse Phạm Văn Quế, thường vụ Chính tòa cùng với các sơ Dòng Mến Thánh Giá và ca đoàn giáo xứ Chính Tòa đã đến thăm, quét dọn nhà cửa và phát hơn 100 phần quà cho các bệnh nhân phong cùi tại trại phong Cẩm Thủy.

Sáng sớm ngày 24.1.2009, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Cha đặt trách ơn gọi giáo phận Giuse Vũ Thanh Long, cha Thường vụ xứ Chính Tòa Giuse Phạm Văn Quế cùng với quý thầy, quý sơ dòng Mến Thánh Giá đã đến thăm và phát quà cho các hộ gia đình thuyền chài sống ven thành phố Thanh Hóa.

Đức Cha Giuse cho biết, đây là những hộ dân khó khăn nhất thuộc thành phố Thanh Hóa, hộ khẩu đăng ký thành phố, nhưng chưa biết bao giờ văn minh thành phố mới tới được với họ. Hai, ba thế hệ sống chung trên một chiếc thuyền bé con và đa phần là thất học. Ước vọng đơn sơ của họ làm sao có đủ cơm để được ăn no và có đủ áo để mặc cho ấm, nhưng rồi bao thế hệ vẫn cứ đói và rét. Mỗi năm Tòa Giám Mục đều tổ chức nhiều đoàn đến thăm và phát quà cho họ, nhưng cũng chỉ cho họ được “con cá”, chứ chưa có điều kiện cho họ được “cần câu”.

Sau khi phát quà tết tại đây xong, Đức Cha Giuse và phái đoàn tiếp tục lên đường vào phát quà tết cho các em khuyết tật tại Gia Hà và Trại tâm thần Quảng Xương.

Sơ Anna Hường, phụ trách cộng đoàn MTG Gia Hà thuộc Hội Dòng MTG Thanh Hóa cho biết, được tin phái đoàn TGM đến thăm và tặng quà tết, gia đình có người khuyết tật đã tập trung từ sáng sớm để mong nhận được phần quà cho cái tết gia đình thêm hương vị.

Trước khi phát quà, Đức Cha Giuse đã chúc tết đến các người khuyết tật “các con là những người kém may mắn, xét trên một phương diện nào đó, nhưng chúng con hãy yên tâm là chúng con luôn được sự quan tâm của hết mọi người. Hiện tại giáo phận chưa có một cơ sở khuyết tật nào để nuôi dưỡng chúng con, nhưng khi điều kiện cho phép, cha sẽ cố gắng xây một trung tâm để quy tụ chúng con về và giúp chúng con có được điều kiện sống tốt hơn…”. Ngài cũng khích lệ những gia đình có người khuyết tật hãy can đảm và chịu khó hy sinh chăm sóc người thân kém may mắn của mình thật tốt.

Sau đó phái đoàn vào thăm trại tâm thần Quảng Xương, Đức Cha Giuse và tất cả mọi người trong đoàn đã được các bác sỹ và nhân viên của trại hướng dẫn để phát quà tận tay những người bệnh.

Không chỉ dành những nghĩa cử cao đẹp với người còn sống, khi biết một bệnh nhân vừa qua đời, Đức

Page 23: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Cha Giuse đã đến viếng và thắp cho linh hồn người quá cố nến hương với ước mong linh hồn này sẽ được hạnh phúc ở thế giới bên kia sau khi đã sống một kiếp khổ ải ở thế gian này.

Thanh Hóa Mục lục

Gia đình Sao Mai - Ban Thánh Nhạc Giáo Phận Xuân Lộc họp mặt đầu năm

XUÂN LỘC - Hằng năm, cứ vào Mùng 5 Tết, anh em gia đình Sao Mai lại quy tụ về Giáo Xứ Bùi Đức để họp mặt, sau một năm hoạt động cùng với nền Thánh Nhạc Việt Nam nói chung và Thánh Nhạc Giáo Phận Xuân Lộc nói riêng.

Gia đình Sao Mai gồm các thành viên là học trò (con học trò) của Linh mục Nhạc Sư Vinh Sơn Phạm Liên Hùng - Trưởng ban Thánh nhạc Giáo phận Xuân lộc. Trong gia đình Sao Mai có các các nhóm chuyên môn riêng biệt: Nhóm sáng tác (gồm các Nhạc sĩ củ Giáo Phận), nhóm giảng viên (gồm các Thầy, Cô đang phụ trách giảng dạy Nhạc lý trong các Giáo xứ ở mọi miền Đất nước, một số đang là giảng viên của Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh), nhóm Ca trưởng, nhóm Nhạc công,... Gia đình Sao Mai thường xuyên tổ chức các Khóa Pio (năm 2008-2009: Khóa Pio XVII ), đào tạo Thánh Nhạc mỗi năm với các lớp: Xướng âm, Hòa âm, Ca trưởng, Thanh nhạc, Đàn,... Chứng chỉ tốt nghiệp của Trường Suối Nhạc.

Hiện diện trong buổi họp mặt có các Nhạc sĩ, Ca trưởng, Nhạc công,...trong và ngoài Giáo phận như: Nhạc sĩ Nguyên Nhung, Nhạc sĩ Nguyên Dũng, Nhạc sĩ Hồng Việt, Nhạc sĩ Thứ 7,... Những tiếng cười nói, những cái tay mặt mừng, những bài hát,..cứ rộn rã vang lên trong niềm hân hoan, niềm vui sướng ngày anh em đoàn tụ.

Riêng nhóm Sáng tác Sao Mai năm qua đã gặt hái được nhiều thành công với việc ra CD Sao Mai 6 với Tựa đề: "Lời cầu cho Giáo Lý Viên" đang được đón nhận rộng rãi trong và ngoài nước.

Mục đích buổi họp mặt là để anh chị em cùng gặp gỡ, giao lưu, chia sẻ những kinh nghiệm, khó khăn mà nền Thánh Nhạc Giáo Phận đang gặp phải trong năm qua. Từ đó cải thiện và phát triển hơn nữa nền Thánh Nhạc hiện thời.

Buổi họp kết thúc bằng bữa cơm trưa chan chứa tình hiệp thông huynh đệ. Cha Vinh sơn ban phép lành, làm nghi thức sai đi và gửi tặng các thành viên những kỷ vật vô cùng ý nghĩa (những sách hợp xướng, Thánh ca, đĩa nhạc,...).

"Hôm nay ngày đầu năm chúng con đến thăm nhà Cha yêu,... " bài hát cuối giờ vang lên làm mỗi người trong chúng tôi vô cùng xúc động. Chia tay, mỗi người một phương, ra đi tung gieo lời Chúa bằng lời ca tiếng hát để mãi mãi phục vụ Giáo Hội, phụng sự Thiên Chúa ngày một tốt hơn.

Giuse Lâm Hoàng Ân Mục lục

Sứ Mệnh của Đại Chủng Viện Ngôi Lời và Việt Nam

EPWORTH, Iowa - Năm nay là lần đầu Đại Chủng Viện Ngôi Lời đã rộng cửa đón nhận các linh mục và nữ tu từ Việt Nam qua du học. Hồi đầu niên học, 2 Cha thuộc giáo phận Bắc Ninh và 3 sơ thuộc Dòng Nữ Tu Hội Tận Hiến- Nhập Thể- Truyền Giáo qua tới. Trong mùa đông giá buốt này, Đại Chủng Viện lại trở nên ấm cúng hơn vì đón nhận thêm 2 linh mục Việt Nam được gửi từ Giáo Phận Quy Nhơn và 12 sơ du

Page 24: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

học đến từ các hội dòng khác nhau: Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục, Dòng Mến Thánh Giá, và Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các sơ đến từ các địa phận Vinh, Vĩnh Long, Hưng Hóa, Xuân Lộc, Huế và Đà Lạt.

Cha Lưu Mai Khiên, giám luật tại Đại Chủng Viện có nói, “Những khuôn mặt niềm nở và vui vẻ của các sơ đã làm môi trường sống động hơn và tăng thêm vẻ đẹp của cuộc sống. Các sơ là những phúc lộc Chúa đã ban tặng. Đại Chủng Viện rất đỗi vui mừng đón nhận những món quà ấy và sẵn sàng học hỏi những kinh nghiệm sống, sự kiên trì bền bỉ, và đời sống tu trì tận hiến của các sơ.”

Tại Việt Nam, dựa theo linh đạo của mỗi hội dòng, các sơ dấn thân vào các việc mục vụ khác nhau tùy theo khả năng của mình. Các sơ dạy giáo lý tại giáo xứ, hướng dẫn và sinh hoạt linh thao với các em trẻ, phục vụ trong vai trò y tá hoặc bác sĩ, dạy dỗ những người bơ vơ, giúp đỡ các người nghèo, già nua và bệnh tật, phục vụ trong các công việc xã hội, và hỗ trợ học bổng cho các em thiếu may mắn hoặc nghèo khó.

Bằng cách nào Quý sơ trở thành sinh viên tại Đại Chủng Viện? Tiến sĩ Lê Xuân Hy, cựu thành viên Hội Đồng Cố Vấn tại Đại Chủng Viện và hiện đang giảng huấn tại Đại Học Seattle, đã là một trong những người kết nối các linh mục và nữ tu từ Việt Nam đến Đại Chủng Viện để học Anh Ngữ và theo đuổi các bằng cấp cao hơn. Theo Tiến Sĩ Hy, “Muốn hoạt động hữu hiệu trong một thế giới mới, ngay cả trong việc giáo dục trẻ em từ tầng lớp địa phương, các tu sĩ cần phải biết Anh Ngữ.” Đại Chủng Viện Ngôi Lời có thể là một trong những môi trường tốt nhất trên Hoa Kỳ để huấn giáo các tu sĩ truyền giáo về mặt rèn luyện Anh Ngữ và sự hiểu biết tốt hơn trong môn đa văn hóa học.” Ông nói thêm, “Chúng ta tập chia sẻ với các ngài, trong tinh thần truyền giáo.”

Các chủng sinh tại Đại Chủng Viện Ngôi Lời rất hâm mộ các sinh viên linh mục và nữ tu mới đến, vì họ đã cảm nhận được ý chí trung kiên của Quý linh mục và nữ tu này. Sự sùng đạo mến Chúa trong thờ phượng và yêu người trong việc làm của các sinh viên nữ tu đã làm cho đời sống tâm linh và các sinh hoạt tại Đại Chủng Viện thêm sống động. Như Cha Lưu Mai Khiên có lần nhận xét, “Tinh thần đầy trách nhiệm và sẵn sàng phục vụ của các sinh viên nữ tu đã trở thành mẫu mực và điều khích lệ cho tất cả các chủng sinh khác trong việc tu học. Quả thật, Đại Chủng Viện Ngôi Lời đã được chúc phúc qua sự hiện diện và nhất tâm hòa nhập vào cộng đoàn đa văn hóa của các sinh viên linh mục và nữ tu du học mới này.”

Divine Word College Mục lục

Giáo xứ Tân Lộc, Hạt Cửa Lò, Giáo Phận Vinh Vui Xuân Kỷ Sửu 2009

VINH - Hàng năm vào dịp tết nhiều nơi có truyền thống tổ chức hái lộc Lời Chúa đầu xuân, đây là một truyền thống đạo đức rất tốt đẹp.

Cha quản xứ Martinô Nguyễn Xuân Hoàng mới về nhận xứ Tân Lộc. Giáo Hạt Cửa Lò Ngài đã tổ chức cho toàn giáo xứ hái lộc Lời Chúa đầu xuân, đây là lần đầu tiên giáo xứ Tân Lộc được tiếp nhận và làm một việc đạo đức đầy ý nghĩa, để cộng đoàn phần nào nắm rõ ý nghĩa của việc làm đạo đức này, trước lúc hái lộc Cha Quản xứ và ban tổ chức nói lên ý nghĩa sâu sắc của việc hái lộc Lời Chúa và kính mời đại diện mỗi gia đình một người, bố hoặc mẹ lên bắt lộc, tuy thời gian kéo dài hơn 2 giờ đồng hồ song mỗi một người cảm nhận được sự linh thiêng trong những phút giáp răn giữa năm cũ và năm mới.

Page 25: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Sau hái lộc Lời Chúa là thánh lễ Giao Thừa đầy linh thiêng và tôn kính, mỗi người đều cảm nhận đang sống trong những giây phút trở về, thời gian, hành động, việc làm, đời sống đạo của một năm cũ nay cứ như những áng mây trôi lững lờ qua trong tiềm thức, tất cả cứ thế trôi đi, trôi đi, một thánh lễ được diễn ra trong không khí linh thiêng với tâm tình tạ ơn và xin ơn.

Tạ ơn Chúa vì muôn Hồng ân Ngài đã ban cho qua một năm dù thất bại hay thành công song mỗi người vẫn tìm thấy được Hồng Ân của Chúa trong sự thất bại hay thành công đó. Chưa có năm nào thánh lễ đêm giao thừa lại đông và đầy đủ như năm nay.

Sáng mồng một tết Thánh lễ cầu bình an cho năm mới, trời tuy mưa nhẹ, mưa phùn và thời tiết có hơi lạnh song ai cũng vui mừng phấn khởi vì ngày đầu năm có được mưa xuân, vì theo như ông bà ta quan niệm nếu ngày đầu xuân có mưa là điềm báo hiệu một năm yên bình và thịnh vượng, cầu xin Chúa cho đất nước Việt chúng con được bình yên trên mọi lĩnh vực.

Sáng mồng hai tết Cha xứ theo chương trình, Thánh lễ mừng thọ Cụ ông, cụ bà trong toàn giáo xứ, dù những cụ có đời sống đầy đủ với con cháu đến những cụ không còn ai nương tựa, cô thế cô thân, tất cả các cụ được rước về thánh đường để hiệp đâng thánh lễ tạ ơn mừng thọ, thật là xúc động trước thánh lễ Cha Martinô Nguyễn Xuân Hoàng thay mặt đoàn con cái chúc thọ các cụ, Ngài nói lên truyền thống của người Việt Nam đối với ông bà tổ tiên, như lời ca nhập lễ ngày mồng hai tết.

"Con ơi giữ lấy lời cha

Chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm

Đèn soi trong chốn tối tăm

Ấy là chính những lời răn, lệnh ruyềnNhớ cầu cho bậc tổ tiên

Khắc ghi công đức một niềm ghi ân."

Sau lời chúc thọ của Cha Quản xứ là vị Chủ tịch HĐ mục vụ lên chúc thọ các cụ, tiếp đến là đại diện cộng đoàn lên tặng hoa và quà cho các cụ, kế đến một đại diện giới trẻ thay mặt cho cháu chắt trong toàn giáo xứ lên chúc thọ các cụ và sau cùng là lời cám ơn của một cụ thay mặt cho trên 60 cụ ông cụ bà nói lên lòng cảm tạ tri ân Thiên Chúa, cám ơn cộng đoàn Phụng vụ đã dành cho Quý cụ nhiều tình cảm trong ngày vui đầu năm.

Sau thánh lễ Hội chợ vui xuân được khai mặc chung quanh sân trường giáo lý phổ thông của giáo xứ, các trò chơi, những gian hàng của bốn giáo họ: Tân Lộc, Mai Lĩnh ( Mai Hương) Yên Trạch, Đức Xuân (Đức Vọng) được bày biện nhiều trò giải trí có thưởng, các giải thưởng là những cuốn Thánh Kinh Tân Ước, tràng hạt, sách đạo đức khác, ảnh Chúa, Mẹ v v.những trò chơi người lớn như cờ thẻ, cờ tướng được Ban tổ chức xếp thi đấu theo lịch đến vòng chung kết. Hội chợ được kéo dài từ mồng hai tết đến mồng bốn, theo chương trình tối mồng ba tết sẻ tổ chức một giờ chầu thắp nến cầu nguyện cho Sinh viên học sinh trong toàn xứ, cầu cho công lý và hoà bình sớm hiện trị trên đất nước Việt Nam. Mồng bốn tết tĩnh tâm cho sinh viên, học sinh sau đó là đêm giao lưu văn nghệ và đốt lửa trại tình yêu vào tối mồng bốn.

Hội chợ xuân thu hút mọi thành phần dân Chúa và bà con lương dân trên địa bàn Thị xã Cửa Lò, nhằm giảm thiểu những tiêu cực và các tệ nạn có thể xảy đến trong những ngày xuân.

Page 26: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Tạ ơn Chúa Xuân, Qua Chúa Xuân xin kính chúc tất cả Quý vị bà con trong và ngoài nước, cách riêng là con cái thuộc giáo xứ Tân Lộc Cửa Lò thân yêu một năm mới an bình thịnh vượng, hạnh phúc và thành công.

Hương biển Cửa Lò Mục lục

Kỷ niệm 150 thành lập Tu Hội Salediêng Don Bosco

Nhân ngày lễ kính Thánh Gioan Bosco (31 tháng Giêng) toàn thể đại gia đình Salêdiêng Don Bosco trên thế giới hân hoan khai mạc, mừng “150 Năm Sinh Nhật Tu Hội Salêdiêng Don Bosco. 1859 - 2009”.

Ngày 9 tháng 12, 1859, trong một căn phòng nhỏ bé, trước sự hiện diện của 19 cộng sự viên, Don Bosco hé mở ý định thành lập một Tu Hội hay một Dòng nhằm giúp họ thánh hóa bản thân. Các cộng sự viên này đã từng cộng tác với Don Bosco để lo cho giới trẻ trong những năm qua. Họ sống và sinh hoạt theo một số hiến luật. Vài người trong họ đã tuyên hứa hoặc khấn riêng tư. Tuy nhiên chính tối hôm đó Don Bosco mới chính thức tuyên bố và cho họ một tuần để suy nghĩ trước khi trở thành những tu sĩ có lời khấn trinh khiết, thanh bần và vâng lời trong một tu hội mới mang danh Thánh Phanxicô Salê.

Ngày 18 tháng 12, mười bảy người đó trở lại căn phòng cũ gặp Don Bosco. Hai người xin rút lui. Tất cả 17 tu sĩ đầu tiên này đã tuyên hứa sống đời thánh hóa bản thân, muốn cổ võ Vinh Quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, nhất là phần rỗi của giới trẻ nghèo, giới trẻ bị bỏ rơi. Đây chính là ngày Sinh Nhật của Tu Hội và đồng thời cũng đánh dấu “150 Năm Ngày Thành Lập Tu Hội Salêdiêng Don Bosco”.

Ngày nay, sau 150 năm, 17 hạt giống đầu tiên gieo xuống mảnh đất tại Tôrinô, nước Ý, đã nẩy mầm, lớn lên, sinh hoa kết quả để trở thành một cánh rừng xanh lan rộng khắp năm châu, trong đó có mảnh đất mầu mỡ Việt Nam. Được biết hai vị truyền giáo Salêdiêng đầu tiên, cha Antôn Giacômô, người Brazil và cha Andrê Majcen, người Slovenia, từ tỉnh dòng Trung Hoa đến Việt Nam năm 1952. Tại Hà Nội, các ngài nhận một cô nhi viện dành cho các thanh thiếu niên thuộc thành phần nạn nhân chiến tranh. Sau biến cố chia đôi đất nước năm 1954, toàn bộ cô nhi viện tại Hà Nội phải di chuyển vào miền nam và từ đó phát triển mạnh và không ngừng. Hiện nay trên thế giới, dòng Salêdiêng nam có khoảng trên 16.000 tu sĩ, hoạt đông trên 132 quốc gia. Dòng Salêdiêng nữ cũng có khoảng 15.000 nữ tu, hoạt động trên 90 quốc gia. Ngoài ra còn phải kể tới hơn 30.000 Cộng Tác Viên Salêdiêng và các Cựu Học Sinh Don Bosco, v.v.

Biến cố vĩ đại này mời gọi đại gia đình Salêdiêng sống năm 2009 như “một năm hồng ân”, nhớ tới nơi mình xuất phát, mình là ai và nơi mình đang hướng tới. Cùng với việc cử hành căn tính đoàn xủng đó, “hòm hài cốt” của cha thánh Bosco sẽ được mang đi hành hương tại tất cả những vùng có sự hiện diện của dòng Salêdiêng. “Hòm hài cốt” của Don Bosco trước hết sẽ được mang đi hành hương tại Nam Mỹ, nơi phái đoàn truyền giáo đầu tiên do chính Don Bosco sai đi Á-Căn-Đình năm 1875. Sau đó “hòm hài cốt” sẽ được mang qua Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 2010 và sẽ tới Việt Nam từ ngày 16.1.2011 đến ngày 1.2.2011. Cuộc hành hương “hòm hài cốt” này sẽ kết thúc vào năm 2015, đúng ngày kỷ niệm “200 Năm Sinh Nhật Của Don Bosco”.

Trong năm 2009, các tu sĩ Salêdiêng Don Bosco được mời gọi tìm thời gian và cách thức để đào sâu, nguyện gẫm và cầu nguyện Hiến Luật, nhờ đó họ sẽ sống lại và tái khám phá những nỗ lực nên thánh đã được Hiến Luật đề ra. Biến cố kỷ niệm “150 Năm Thành Lập Tu Hội Salêdiêng” sẽ được long trọng kết thúc vào ngày 18 tháng 12, 2009, ngày mà các tu sĩ Salêdiêng sẽ tái tuyến khấn để canh tân đời sống dâng hiến cho Thiên Chúa vì giới trẻ.

Page 27: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

L.M. Hoàng Xuân Viện, SDB. Mục lục

Giáo xứ Vĩnh Hòa, Sài gòn, chúc thọ các vị cao niên

SAIGÒN - Trong bầu khi vui tươi của những ngày Tết dân tộc, vào chiều ngày 27.1.2009, tức mồng hai tết Tết Kỷ Sửu, Giáo xứ Vĩnh Hòa (sài gòn) đã tổ chức thánh lễ cầu nguyện và chúc thọ cho các vị cao niên trong giáo xứ.

Có tất cả 176 vị cao niên đã đến tham dự thánh lễ trong đó đặc biệt có sự hiện diện của ông bà cố cha GB. Vũ Mạnh Hùng, đương nhiệm chính xứ. Chia sẻ trong thánh lễ, cha chính xứ đã nhấn mạnh đến giá trị của tuổi già trong đời sống.

Thánh lễ hôm nay qui tu đầy đủ mọi thành phần là đại gia đình của Thiên Chúa. những vị cao niên, những bậc gia trưởng, những ban trẻ và các cháu thiếu nhi đã tham dự thánh lễ thật sốt sắng. Tuổi già của các cụ là hồng ân cho gia đình, là niềm vui của con cháu. các cụ luôn ở bên con cháu bằng những lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa. Cho nên con cháu phải luôn kinh yêu, quan tâm, chăm nom ông bà lúc tuổi già sức yếu để các cụ được sống trong an bình thanh thàn.

Sau thánh lễ, mỗi cụ được một phần quà thể hiện sự quan tâm của giáo xứ dành cho những cụ cao niên. Phần ấn tượng và vui tươi nhất là, sau thánh lễ con cháu quây quần bên các cụ tặng những bó hoa tươi thắm ngay tai thánh đường là ngôi nhà chung của cộng đoàn giáo xứ, các cụ và gia đình được chụp hình kỷ niệm với cha chính xứ. Có thể nói hôm nay trong ngày Tết Nguyên Đán tại giáo xứ Vĩnh hòa đã diễn ra ngày hội của những người cao tuổi. \

Martin Lê Hoàng Vũ Mục lục

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

LÁ THƯ MỤC TỬ MÙA CHAY 2009 CỦA ĐHY GIOAN BAOTIXITA PHẠM MINH MẪN

Ngày 25 tháng 01 năm 2009

Kính gởi: Anh em linh mụcAnh chị em tu sĩ và giáo dân thuộc giáo phận Sài Gòn

1. Mùa Chay là thời gian đặc biệt để thanh luyện và củng cố đời sống Kitô hữu. Chính vì thế, trong mùa Chay, Giáo Hội khuyến khích chúng ta cầu nguyện nhiều hơn, lắng nghe Lời Chúa nhiều hơn, nhất là phải sám hối và canh tân đời sống. Lời mời gọi này lại càng mạnh mẽ hơn khi chúng ta chuẩn bị cử hành Năm Thánh 2010.

Page 28: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

2. Như anh chị em biết, ngày 24.11.1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ký tông sắc Venerabilium Nostrorum, thiết lập Hàng giáo phẩm Việt Nam. Đây là một biến cố quan trọng, đánh dấu bước phát triển trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam. Năm 2010 sẽ là thời điểm kỷ niệm 50 năm biến cố trọng đại này. Do đó, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã quyết định lấy năm 2010 làm Năm Thánh trọng thể của Giáo Hội tại Việt Nam, bắt đầu từ ngày lễ Các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam 24.11.2009 và sẽ kết thúc vào lễ Hiển Linh 6.1.2011.

3. Cử hành Năm Thánh 2010 là cơ hội khơi dậy tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân đức tin Ngài đã ban cho chúng ta. Hồng ân ấy như hạt giống Nước Trời được gieo trên mảnh đất quê hương thân yêu này, để rồi nhờ những giọt mồ hôi lao nhọc của các vị thừa sai, nhờ đời sống thánh thiện của biết bao tín hữu, nhất là nhờ dòng máu anh dũng của Các Thánh Tử Vì Đạo, Giáo Hội trên đất nước này đã từng ngày lớn lên trong nguồn ơn thánh và mỗi ngày mỗi trưởng thành hơn.

4. Tâm tình tạ ơn đó cũng thúc giục chúng ta khiêm tốn tạ lỗi với Chúa và anh chị em. Tạ lỗi vì đã không biết trân trọng hồng ân đức tin Thiên Chúa ban. Tạ lỗi vì chưa sống xứng đáng với ân huệ đức tin là kho tàng mà cha ông ta đã phải trả giá bằng mồ hôi, máu và nước mắt. Tạ lỗi vì chưa đủ nhiệt thành loan báo Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người cho đồng bào của mình. Tạ lỗi vì những lời nói, thái độ và hành động đi ngược lại tinh thần Phúc Âm, làm cho anh chị em ngoài Giáo Hội mất thiện cảm với đạo.

5. Càng hân hoan trong niềm tạ ơn và chân thành trong niềm sám hối, chúng ta lại càng ý thức rõ nét hơn tiếng gọi nên thánh. Thật vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta sống thánh thiện, Chúa Kitô muốn chúng ta phúc âm hoá chính cuộc sống mình trước khi loan báo Tin Mừng cho người khác. Vì thế, sống thánh thiện phải là mối quan tâm hàng đầu của mỗi người chúng ta. Đồng thời, ý thức rằng đức tin phải được chia sẻ và Tin Mừng cứu độ phải được loan truyền cho mọi người, Năm Thánh phải là thời gian thúc đẩy chúng ta ra đi chia sẻ hồng ân đức tin cho người khác, giới thiệu Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người cho anh chị em của mình, và đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào mọi lãnh vực của đời sống cá nhân cũng như xã hội.

6. Muốn được như thế, chúng ta phải chuẩn bị ngay từ bây giờ, nhất là chuẩn bị trong gia đình mình vì gia đình là Giáo Hội thu nhỏ. Chính vì thế, Thư Mục Vụ năm 2009 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhấn mạnh đặc biệt đến việc giáo dục trong gia đình. Mỗi gia đình Công Giáo được mời gọi xem xét và điều chỉnh lại đời sống của mình, sao cho gia đình thật sự trở thành môi trường tốt nhất cho việc giáo dục đức tin cũng như các đức tính nhân bản. Càng sống trong thời điểm mà các giá trị đạo đức xuống cấp trầm trọng, gia đình Công Giáo lại càng phải quan tâm đến điều này hơn. Cha mẹ chính là những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, và cha mẹ giáo dục con cái không chỉ bằng lời giáo huấn mà trước hết và trên hết, bằng tình yêu thương và gương sáng của mình.

7. Nếu mỗi gia đình Công Giáo đều nỗ lực xây dựng gia đình mình trở thành mái trường của các nhân đức đối thần (Tin, Cậy, Mến đối với Chúa) và các đức tính nhân bản (trung thực và công bằng, liêm chính và tín nghĩa, nhân hậu và bao dung trong gia đình cũng như ngoài xã hội), chúng ta có quyền hy vọng vào tương lai xán lạn của Giáo Hội, đồng thời góp phần tích cực vào việc lành mạnh hoá đời sống xã hội.

8. Cách cụ thể, tôi đề nghị với anh chị em một vài việc như sau:

(1) Trong Mùa Chay này, mỗi giáo xứ cũng như mỗi đoàn thể nên tổ chức những buổi hội thảo và tĩnh tâm theo chủ đề Thư Mục Vụ 2009 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đồng thời nên có những gợi ý hành động cụ thể cho việc giáo dục trong gia đình.

Page 29: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

(2) Trong suốt năm 2009, mỗi cộng đoàn dòng tu, mỗi giáo xứ, mỗi đoàn thể nên tổ chức những buổi học hỏi, khai triển, trao đổi và chia sẻ dựa trên Đề Cương của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về Năm Thánh, với chủ đề: Giáo Hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm - Hiệp Thông - Sứ Vụ.

(3) Trong Mùa Chay này, tôi xin mỗi người trong anh chị em tiết giảm chi tiêu mua sắm và dành phần tiết giảm đó cho Quỹ Tổ chức Năm Thánh 2010. Đây vừa là cách chúng ta sống tinh thần chay tịnh trong mùa Chay, vừa là cách đóng góp cụ thể cho công việc chung của Giáo Hội. Xin anh chị em gởi phần đóng góp của mình đến các cha xứ, các cha sẽ tổng kết chung cả giáo xứ và gởi về Toà Tổng Giám Mục.

9. Xin chân thành cảm ơn trước sự đóng góp quảng đại của anh chị em. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Vì Đạo, nguyện xin Thiên Chúa ban muôn phúc lành cho anh chị em và giúp anh chị em sống Mùa Chay thánh thiện như lòng Chúa mong muốn.

+ Gioan B. Phạm Minh MẫnHồng y Tổng Giám Mục

Mục lục

Trong dòng điện khí

Khắp nơi đều có dòng dây điện chạy xuyên suốt thành thị thôn quê, vùng đồng bằng, chốn rừng núi. Dòng điện luân chuyển chạy trong nhà, ngoài đường, nhưng không ai thấy được điện, mà chỉ thấy dây điện và hiệu quả của dòng điện: ánh sáng cùng hơi nóng phát tỏa ra do điện.

Dòng điện có sức mạnh cực mạnh, cùng gây ra ánh sáng thu hút hào hứng khi luân chuyển. Nhưng không ai có thể định nghĩa điện ra làm sao cho dễ hiểu được, ngoài diễn tả định nghĩa điện theo theo vật lý học trừu tượng. Dòng điện vô hình.

Ai chúng ta cũng đều biết rằng dòng điện giúp cuộc sống phát triển rất nhiều. Khi dòng điện bị ngưng cắt, hầu như mọi sự trong cuộc sống ngày nay bị tê liệt đình trệ từ trong nhà đến ngoài đường phố. Vì hầu như mọi sinh hoạt bây giờ từ thành thị đến nông thôn xa xôi hẻo lánh đều nối liền với dòng điện: nấu ăn ở nhà bếp, nhà máy xưởng thợ, cần trục cẩu kích hàng, chế biến thực phẩm, ánh sáng đèn điện, bơm nước lên cao, xe lửa tốc hành chạy bằng dòng điện, xe hơi cũng đang trong thời kỳ thí nghiệm chạy bằng điện, máy vi tính…

„Thế nghĩa gì? Nơi đây hôm nay một giáo lý mới mẻ, người dạy có đầy sức mạnh uy quyền“ ( Mc 1, 25)

Những lời này người dân xưa kia đã nói về Chúa Giêsu, sau khi đã chính tai họ nghe Chúa Giêsu nói chuyện giảng dạy như một người có uy quyền cùng thu hút người nghe, đã chứng kiến tận mắt việc làm của một Chúa Giêsu có đầy quyền năng chữa bệnh cho con người cùng sai khiến trừ được cả ma qủi. Người ta như bị dòng điện Giêsu thu hút hấp dẫn gây kinh ngạc!

Hiệu qủa của lời nói cùng việc làm Chúa Giêsu nói lên có Đức Chúa Thánh Thần là mô-tơ động lực phát truyền đi luồng dòng điện sức mạnh.

Lời giảng dạy của Chúa Giêsu không chỉ thu hút người nghe, mà còn có luồng sức thuyết phục họ. Việc làm chữa bệnh trừ ma qủi thần dữ của Chúa Giêsu không chỉ gây ra ngạc nhiên lạ lùng nơi người xem, mà còn có sức thay đổi gây niềm tin tưởng nơi họ.

Page 30: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Lẽ dĩ nhiên họ bàn tán suy đoán ý kiến khác nhau. Nhưng sau cùng họ đi đến kết luận: Ông Giêsu có đầy sức mạnh quyền uy làm được những việc lớn lao cả thể ngoài tầm mức khả năng của một con người thông thường. Ông ta không chỉ có Charisma, mà chính Ông ta là Charisma sức mạnh quyền uy thu hút lạ thường!

Ngày nay khi người nào đó có khả năng ăn nói thu hút, khả năng âm nhạc hội họa, khả năng viết lách suy tư trong sáng, khả năng suy nghĩ sáng chế sự gì mới lạ, khả năng làm việc lợi ích to lớn, khả năng cung cách sống niềm nở gây thiện cảm…có sức gây chú ý thuyết phục làm say mê lòng người khác, chúng ta ca tụng cho là họ có Charisma đặc biệt. Như Thánh Tôma Aquinô, Mẹ Á Thánh Teresa, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị, cố Sư Huynh Roger Schutz của Cộng đoàn Đại kết Taizé, đức Gíao Hoàng đương kim Benedictô 16., nhà Thiên văn Galileo, nhạc sĩ đại tài Bach, Beethoven, Händel, Mozart, Strauß, kiến trúc sư Effel…

Đời sống cùng việc làm của họ phát tỏa ra sức thu hút giống như dòng điện lưu chuyển phát tỏa sức mạnh nối liền làm bóng đèn điện cháy sáng, bếp bật tỏa sức nóng, Mô-tơ bật chạy… Từ hằng tuần lễ trước khi tân Tổng Thống Hoa Kỳ Obama tuyên thệ nhậm chức hôm 20.01.2009 vừa qua, trên hệ thống truyền thông hằng nói đến hiện tượng Obama gây phấn khởi hào hứng nơi người dân Hoa Kỳ giống như cả xã hội đó đang trong „dòng điện khí hóa Obama“!

Charisma theo nguyên ngữ tiếng Hylạp có nghĩa là „ khả năng ơn phúc lạ thường“. Người nào đó được ban trao tặng cho Charisma, với khả năng này thuyết phục gây chu ý làm say mê thút người khác từ nhìn xem, tai nghe tận thấu vào trái tim tâm hồn.

Khả năng này - Charisma – không là điều tự mình con người có thể uốn nắn tạo thành ra được, nhưng đó là thiên nhiên phú bẩm, là ân phúc do từ Thiên Chúa ban cho từ khi thành hình là người trong cung lòng mẹ cha.

Đó là sức mạnh quyền uy của tình yêu Thiên Chúa, như dòng điện khí hóa trái tim tâm hồn con người. Và qua đó tình yêu của Ngài được tỏ hiện ra.

Thiên Chúa là Đấng đặt cùng biến đổi con người chúng ta trong dòng điện Đức Chúa Thành Thần, Ngài là sức mạnh thúc đẩy con người có sức sống năng động vươn lên trên đường đời sống.

LM. Đaminh Nguyễn Ngọc LongMục lục

Cầm TayChúa Giêsu cầm tay bà mẹ vợ ông Simon để chữa bà khỏi sốt. Câu chuyện này Thánh Marcô dùng ngắn gọn cụm từ: “Cầm lấy tay bà mà đỡ dậy” ((Mc 1, 31), biểu lộ nhiều ý nghĩa trong việc cầm tay.

Bàn tay: Biểu lộ sức mạnh làm cho sống và làm cho chết. Bàn tay của Thiên Chúa lấy đất sét nắn lên hình dạng con người theo hình ảnh và họa ảnh của Người, đó là bàn tay tác tạo duy nhất thực hiện cho con người, các thụ tạo khác Thiên Chúa truyền bằng Lời, riêng con người Thiên Chúa dùng cả Lời và bàn tay để làm nên. Con người sống hay chết là tùy thuộc vào Thiên Chúa, Thiên Chúa là chủ sự sống của con người về phần xác và về phần hồn, con người không có quyền gì trên sự sống của mình mà chỉ giữ vai trò người quản lý khôn ngoan trong sự sống của mình và tôn trọng quyền sự sống nơi người khác. Con người có trách nhiệm quản lý sự sống trong quyền thụ hưởng sự sống từ nơi Thiên Chúa.

Page 31: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Con người quản lý sự sống nơi mình nhưng có quyền sở hữu những thụ tạo khác để phục vụ cho sự sống nơi mình và nơi người khác. Sự nhầm lẫn quản lý và sở hữu luôn bị hiểu lầm trong lịch sử của con người. Cain giết chết đứa em mình là Aben là khởi đầu cho việc nhầm lẫn đó. Cain sở hữu ruộng vườn và hoa quả trên ruộng vườn ấy chứ không sở hữu mạng sống của Aben. Giết chết đứa em mình, Cain phải nhận lấy bản án: “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra” (Stk 4, 11). Trách nhiệm bảo vệ sự sống nơi mình và người khác đòi hỏi quyền sở hữu cá nhân phải thực thi công bằng. Không phải cứ dùng bàn tay thống trị mà sở hữu cả tính mạng người khác, cho sống thì sống, bắt chết thì phải chết. Quyền sở hữu chịu sự giới hạn do quyền sống của người khác, do đó không được đánh cướp, gian tham, lừa dối, chiếm đoạt những của cải, đất đai, nhà cửa chính đáng của người khác do chính họ làm nên, để đẩy họ vào chỗ sống cùng cực và phải chết trong nghèo đói. Kẻ tham lam, kẻ áp bức, kẻ cưỡng chiếm của người khác là những kẻ bị nguyền rủa và chết ô nhục trên chính mảnh đất mà họ chiếm đoạt được.

Bàn tay của kẻ gian ác thường được gắn liền với bàn tay quỷ quyệt, nói đến những ý đồ đen tối, bàn tay thép của bạo quyền, liên minh với bóng tối sự ác, hậu quả là rã rời tan nát, sản phẩm của bàn tay gian ác làm nên là sự chết. “Quả thật, bàn tay các ngươi vấy máu, ngón tay các ngươi đầy tội ác tầy trời, môi miệng các ngươi nói lời giả dối, lưỡi các ngươi thốt ra điều bất công. Chẳng ai theo lẽ công minh mà kiện cáo, không ai xét xử theo đường chân thật. Người ta tin tưởng điều hư không và nói lời gian xảo, cưu mang chuyện xấu xa, đẻ ra điều gian ác. Chúng ấp trứng rắn, chúng dệt màng nhện: ai ăn trứng của chúng sẽ phải chết liền, giả như trứng vỡ, sẽ nở ra rắn con! Sợi chúng dệt ra, không thể may thành áo, sản phẩm chúng làm, không thể dùng che thân, vì sản phẩm chúng làm là sản phẩm của gian ác, và bàn tay chúng đầy những việc bạo tàn.” (Is 59, 3 – 6).

Bàn tay khỉ: Là bàn tay của kẻ cướp giữa ban ngày, bàn tay dâm ô, kẻ dùng tay mà di chuyển từ chức này qua chức kia, từ đen sang trắng, qua hành động khúm núm, dâng quà mua chức, đổi lấy quyền lợi, bàn tay tham nhũng hối lộ. Bàn tay khỉ lại là bàn tay của kẻ nhanh nhạy với thời cơ chộp giật, kẻ ma lanh, khéo ẩn mình hại người ngay thẳng. Kẻ mang bàn tay khỉ chưa tiến hóa đủ để trở thành người cho xứng với hình dạng con người. Hình dạng người mà dạ thú nên thật nguy hiểm cho nhiều người sống công chinh. Trong xã hội như thế, con người chân chính thật khó sống. “Khi nền móng cương thường đổ nát người công chính còn làm được chuyện gì?” (Tv 11, 3).

Cầm tay:

Kết ước giao duyên: Trong bức tranh họa của Michel Angelo diễn tả bàn tay Thiên Chúa chạm vào bàn tay con người, diễn tả cuộc kết ước giao duyên cùng với con người khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người. “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân:” (Tv 8, 6). Thiên Chúa kết duyên với con người là diễn tả “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)

Bàn tay cứu độ: Thiên Chúa cầm lấy tay con người, đưa ra khỏi vòng vây tội lỗi, cứu khỏi tay kẻ gian ác. “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng”. (Lc 1, 51 – 53). Bàn tay cứu độ cũng là bàn tay mở ra lối hy vọng chắc chắn cho con người vì lẽ công chính mà chịu nhiều bách hại.

Bàn tay chữa lành: Cầm tay bà nhạc phụ ông Simon (Mc 1, 31), cầm tay đứa trẻ con viên hội trưởng hội đường (Mt 9, 25), đặt tay lên vai người mù (Mc 8, 23). Đặt tay là trao lại quyền cho con người được sống và sống dồi dào. Thiên Chúa chữa lành cũng là Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm và khuyên bảo: “Từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11).

Page 32: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Bàn tay dẫn hướng: “Lạy Chúa, Ngài ban ơn cứu độ làm khiên mộc chở che con, Ngài đưa tay uy quyền nâng đỡ, săn sóc ân cần giúp con lớn mạnh. Đường con đi, Chúa mở rộng thênh thang, chân con bước không bao giờ lảo đảo.” (Tv 18, 36 – 37)

Bàn tay chúc lành: trên trẻ nhỏ (Mc 10, 16), chúc lành cho các môn đệ trong lúc về trời (Lc 24, 50).

Trong thế giới ngày hôm nay, con người cần biết bao bàn tay chữa lành của Thiên Chúa đụng chạm đến. Con người sẽ đứng thẳng trên đôi chân mình, dọn bữa tiệc hòa bình, an hòa, tươi vui của trần thế này mà tạ ơn Thiên Chúa.

Lm Giuse Hoàng Kim ToanMục lục

Lời ngôn sứ

“Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết” ( Đnl 18,16 ). Thấy dân chúng kêu ca có lý, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Người sẽ đặt lời của Người vào miệng ngôn sứ. Như thế, sứ ngôn là người nói thay cho Thiên Chúa, nói nhân danh Thiên Chúa, nói đúng Thánh ý Thiên Chúa. Sự tồn vong của ngôn sứ hệ tại ở sứ mệnh cao cả và lắm cũng gian truân này. Vì ngôn sứ nào cả gan nhân danh Thiên Chúa mà nói lời Người đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết ( x. Đnl 18, 20 ).

Tuy nhiên làm sao để biện phân đâu là ngôn sứ thật và đâu là ngôn sứ giả ? Làm thế nào để nhận biết một ngôn sứ thật nhưng không nói lời Thiên Chúa truyền mà chỉ nói lời của mình hay lời của các thần giả trá xui khiến ? Một Đại Ngôn sứ, một ngôn sứ trên mọi ngôn sứ đã xuất hiện chính là Đức Kitô. Bài trích Tin mừng thánh Maccô mà Hội Thánh giới thiệu trong thánh Lễ Chúa Nhật IV TN B gợi mở cho chúng ta hai tiêu chí để thẩm định sự chính danh, chính ngôn, chính phận của một ngôn sứ.

Lời có uy quyền: Dân chúng kinh ngạc vì Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các kinh sư. Lời nói của một đấng có uy quyền thì thuyết phục người nghe và làm cho người nghe biết nghe theo. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu có uy quyền không chỉ vì nội hàm của chúng mà trên hết vì Người là Ngôi Lời, đồng thời chính Người là người tiên phong sống và thực hiện những gì Người giảng dạy.

Các Kinh sư cũng giảng dạy nhưng họ lại không sống điều mình giảng dạy khiến Chúa Giêsu đã từng nói với dân chúng rằng: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm và hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất trên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.” ( Mt 23,2-4 ). Đức cố giáo Hoàng Phaolô VI đã từng nói: ngày nay người ta không thích nghe ( nghe theo ) những nhà giảng thuyết mà lại nghe theo những chứng nhân. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì họ đã là những chứng nhân, tức là đã thực hiện những gì mình giảng dạy.

Lời có sức diệt trừ sự dữ và ban sự sống: Dân chúng sững sờ nói với nhau: “Thế nghĩa là gì ? Lời giảng dạy thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh !” ( Mc 1,27 ). Thần ô uế bị trục xuất thì người bị quỷ ám được chữa lành. Lời của Ngôn sứ thật là lời phát xuất từ Thiên Chúa. Xưa Thiên Chúa đã phán với Giêrêmia: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi.

Page 33: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng” ( Gr 1,9-10 ).

Cả hai hiệu quả là diệt trừ sự xấu, sự dữ và trao ban sự sống, những điều thiện hảo cùng đi sánh đôi. Nếu chỉ tuyên phán những lời hứa tốt đẹp hay ngược lại chỉ nói những lời quở trách phê phán mà thôi thì hầu hết là do thần dữ xúi khiến. “Đức Chúa các đạo binh phán như sau: ‘Đừng nghe lời các ngôn sứ ( giả hiệu ) tuyên sấm, chúng phỉnh phờ các ngươi; điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra. Chúng dám nói với những kẻ khinh miệt Ta: ‘Đức Chúa phán: anh em sẽ được bình an !’ Và với những kẻ lòng chai dạ đá: ‘Tai hoạ chẳng bao giờ ập xuống anh em’ ( Gr 22,16-17 ). Vì tuyên bố những lời dối trá phỉnh phờ dân nên ngôn sứ giả Khanangia đã phải bị trừng phạt nhãn tiền (x. Gr 28,1-17 ).

Sứ mạng ngôn sứ của mọi Kitô hữu: Từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mọi Kitô hữu đều đã được thông phần vào ba chức vụ của Chúa Kitô là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Đường lối của Thiên Chúa thì trước sau như một. Xưa nhiều lần, nhiều cách Người đã nói với tổ tiên cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, đến thời viên mãn Người đã nói với loài người chúng ta cách trọn vẹn qua chính Người Con Một làm người là Chúa Giêsu Kitô ( x. Dt 1,1-2 ). Và mãi cho đến ngày tân thế, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục nói với loài người qua những con người. Nhân loại này, thế gian này vẫn mãi cần đến sứ ngôn để nhận biết thánh ý Thiên Chúa. Con người, đặc biệt các Kitô hữu được mời gọi làm ngôn sứ của Thiên Chúa để nhân danh Thiên Chúa, nói lời của Người.

Sứ mạng ngôn sứ thật cao cả và cũng thật lắm gian truân, nguy hiểm. Sự hiểm nguy, gian truân không chỉ đến do người đời bách hại mà còn có thể do bởi chính các ngôn sứ, vì lý do nào đó, đã không nói lời của Thiên Chúa mà chỉ nói lời của mình, thậm chí con nói lời do thần dữ xui khiến. Để tránh những tai hoạ này, không gì hơn, Kitô hữu chúng ta, cách riêng những người chuyên lo việc giảng dạy hãy xét xem mình đã thực hiện ra sao điều mình giảng dạy, hãy xét xem những lời mình giảng dạy có sức thuyết phục như thế nào và đồng thời hãy xét xem các lời tuyên dạy của mình có đủ đầy tính vừa xua trừ sự xấu, sự dũ và vừa làm phát sinh tình yêu, phát sinh sự sống như thế nào?

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa Mục lục

Năm Sửu tìm hiểu chuyện Trâu có mầu Kinh Thánh Sửu đứng thứ hai trong thập nhị địa chi, mỗi địa chi có một con vật người ta đặt ra để làm biểu tượng, gọi là 12 con giáp. Sửu có vật biểu tượng là con Trâu. Người Việt Nam xưa quen gọi năm Sửu là năm con Trâu, nên người sinh ra trong năm Sửu là người có tuổi Trâu.

Việt Nam ta không ai lạ gì con trâu, vì ngay từ thời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô đến nước Giu-dêu làm một vị quan Trấn thủ, theo Kinh Thánh. Trên đất nước ta cùng thời bấy giờ có quan thái thú Nhâm Diên đã hướng dẫn cho dân chúng quận Cửu Chân biết dùng trâu để kéo cày làm ruộng. Từ đó, con trâu luôn sát cánh với người nông dân, “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Và cho đến hôm nay, toàn dân Việt Nam ta sau hơn ba mươi năm “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc xuống CNXH”, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn canh tác theo lối “con trâu đi trước, cái cày theo sau”!!!. Vì thế, nói đến con trâu ở Việt Nam, thì ngay đứa trẻ con cũng biết, nên chúng tôi không kể lể lai lịch con trâu, mà bàn về con trâu dưới con mắt nhà Đạo.

Để đón mừng Tết Nguyên Đán năm Sửu, theo thói quen, chúng tôi lại tìm hiều xem trong Kinh Thánh đã nói đến con Trâu như thế nào.

Trâu trong Sách Dân Số

Page 34: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Sách Dân Số là cuốn sách thứ tư trong Ngũ thư Kinh Thánh. Năm cuốn sách đầu tiên trong bộ sách Kinh Thánh, gồm có Sách Sáng Thế, Sách Xuất Hành, Sách Lê Vi, Sách Dân Số và Sách Đệ Nhi Luật.

Sách Dân Số ghi lại những cuộc kiểm tra dân số theo 12 chi tộc It-ra-en sau khi rời khỏi Ai-cập, tiến về Đất Hứa. Trong hành trình về Đất Hứa có một trình thuật nói đến con Trâu. Khi dân Ít-ra-en đóng trại trên đất Mô-áp, vua Mô-áp là Ba-lác rất sợ Ít-ra-en chiếm đất, nên cho mời Bi-lơ-am là một thầy phù thuỷ đến để nguyền rủa, chúc dữ cho Ít-ra-en. Trên đường đến Mô-áp, Bi-lơ-am được thiên sứ chận đường, bảo phải làm ngôn sứ cho Chúa.

Khi Bi-lơ-am gặp Ba-lác, ông xin vua cho lập 7 bàn thờ, mỗi bàn thờ dâng một con bò mộng và một con cừu đực. Sau đó ông nói với vua Ba-lác là: ông không thể trù ẻo được dân mà Chúa không nguyền rủa, rồi ông cất tiếng chúc phúc cho Ít-ra-en.

Vua Mô-áp kéo ông đến nơi khác nói: Ta đưa ông đến để nguyền rủa kẻ thù của ta, mà ông lại chúc lành cho nó. Bây giờ ông hãy nguyền rủa chúng cho ta. Bi-lơ-am lại đề nghi làm 7 bàn thờ như truớc. Rồi ông tuyên lời sấm như Chúa đã truyền, trong đó có câu diễn tả con trâu như một con vật dũng mãnh uy hùng:Thiên Chúa đã đưa chúng ra khỏi Ai-cập,Người là sức mạnh của chúng tựa sừng trâu (Ds 23, 22).

Vua Ba-lác thất vọng nói với Bi-lơ-am: Nếu ông không nguyền rủa nó được, thì ít ra ông đừng chúc phúc cho nó chứ. Rồi Ba-lác lại dẫn Bi-lơ-am đến nơi khác, cũng lập 7 bàn thờ đầy ắp của lễ như hai lần trước, đề nghị Bi-lơ-am không chúc phúc cho Ít-ra-en nữa. Nhưng Bi-lơ-am lại tuyên sấm trong đó có câu: Chính Chúa đã đem chúng ra khỏi Ai-cập, Người ra uy lẫm ví thể sừng trâu. (Ds 24, 8).

Vua Ba-lác nổi giận với Bi-lơ-am, vì đã ba lần chúc phúc cho Ít-ra-en, nên chia tay Bi-lơ-am trong hậm hực tức tối.

Trâu trong Sách Đệ Nhị Luật

Đệ Nhi Luật (hay còn gọi là Thứ Luật, hoặc Phục Truyền Lề Luật Ký) là cuốn thứ năm trong bộ Ngũ thư của Kinh Thánh Cựu Ước. Gọi là đệ nhị luật vì sách này chỉ san định lại những luật lệ đã có từ trước, cũng có thể là sưu tầm và ghi lại những luật lệ từ xa xưa cha ông đã giữ (phục truyền lề luật) để cho dân Chúa căn cứ vào đó mà thực thi.Trong Sách Đệ Nhị Luật có bài ca chúc lành của Moi-sen cho 12 chi tộc Ít-ra-en. Với chi tộc Giu-se, Moi-sen đã cầu chúc nhiều điều, trong đó có câu:

Nó là con bò mộng đầu lòng của Chúa, chúc nó được vinh hiển! Sừng nó là sừng trâu, nó dùng để quật ngã các dân, một trật trên khắp cùng cõi đất (Đnl 33,17).

Sách Đệ Nhị Luật cũng nhắc lại luật thanh sạch trong Sách Lê Vi: “mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại thì các ngươi được dùng thịt nó làm thức ăn (Lv 11,3), rồi kê ra một số con vật cụ thể, trong đó có con trâu: ”Đây là những thú vật các ngươi được ăn: bò, cừu, dê, nai, hươu, hoẵng, sơn dương, linh dương, trâu rừng, mang” (Dnl 14,4-5).

Trâu trong Sách Ông Gióp

Sách Ông Gióp là cuốn thứ 22 trong bộ Cựu Ước kể chuyện ông Gióp, trình bầy vể sự đau khổ ở đời cũng không ra ngoài thánh ý Thiên Chúa. Sách được viết theo lối văn truyện giáo huấn để cảm hoá loài người.

Page 35: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Trong sách ông Gióp có đoạn tả về con trâu nước như sau:

“Kìa con trâu nước mà Ta đã dựng nên nó như dựng nên ngươi. Nó ăn cỏ như bò. Hãy xem sức mạnh nó ở nơi lưng, mãnh lực nó ở trong gân hông nó. Nó cong đuôi cứng như gỗ bá hương. Gân đùi nó chằng chịt giống như nan rế. Các xương nó tựa ống đồng. Bốn chân nó như cây sắt.

“Trâu nước quả là tác phẩm tuyệt vời trong các công trình Đức Chúa tạo thành. Nhưng Đấng sáng tạo lại trao gươm cho nó. Núi non cung cấp đồng cỏ tươi cho nó ăn, nơi mọi dã thú nô đùa ờ đó. Nó đẵm mình ở dưới đầm sen, trong lùm lau sậy nơi bưng biền. Nó được lá sen che phủ và cành dương liễu rủ ngành bao bọc. Kìa nước sông tràn lên dữ dội nhưng nó không sợ hãi. Dầu sông Gio-đan ngập đến miệng nó, nó cũng vững vàng. Ai có thể khống chế được nó? Ai có thể giăng bẫy bắt được trâu nước, rồi xỏ mũi nó được?” (G 40,10-19).

Đó là con trâu nước, còn những con trâu rừng thì sao?

Tất cả thú vật chúng ta gọi là gia súc, trước kia chúng đều sống nơi hoang dã. Con người muốn sử dụng được nó đều phải ra công thuần hoá nó. Trâu rừng cũng vậy, muốn nó phục vụ trong công việc canh tác ruộng rẫy, cũng phải huấn luyện cho nó. Hãy nghe Sách Ông Gíóp nói về trâu rừng:

“Liệu trâu rừng có muốn phục vụ ngươi, có chịu ngươi nhốt nó qua đêm bên máng cỏ nhà ngươi?” (G 39,9). "Liệu ngươi có đặt được ách vào cổ trâu rừng mà bắt nó kéo cày, và liệu nó có chịu theo ngươi đi cày bừa dưới thung lũng?” (G 39,10).

“Ngươi có thể tin vào sức trâu rừng khoẻ mạnh mà giao cho nó những công việc nặng nề được không?” (G 39, 11). “Ngươi có thể nghĩ rằng trâu rừng sẽ trở lại và đem lúa về sân phơi của ngươi chăng?” (G 39,12).

Trên đây là những câu nói đến trâu trong Sách Ông Gióp, trong các sách thi ca khác của Thánh Kinh, cũng có một số nói đến con trâu, mời quý vị đọc tiếp:

Trâu trong các sách thi ca khác

Chúng ta đã biết, Kinh Thánh có một số sách được viết theo thể văn vần, như Sách Thánh Vịnh, Sách Diễm Ca, Sách Châm Ngôn, Sách Huấn Ca…Sách Thánh Vịnh gồm 150 bài thơ, phần lớn là thi thiên của Thánh vương Đa-vít. Thánh Vịnh 22 là lời than vãn của người lâm nạn cầu xin Chúa thương bênh cứu. Thánh Vịnh này đã mang giọng van nài của ngôn sứ I-sai-a, nên mặc được tính cách siêu vượt. Khi người tôi tớ tín trung chịu thử thách kêu cầu Chúa giải cứu: Chúa là sức mạnh con nương, Cứu mau lạy Chúa xin đừng đứng xa.Xin cứu mạng khỏi sa lưỡi kiếm,Gỡ thân con thoát miệng chó rừng,Khỏi nanh sư tử hãi hùng,Phận hèn khốn khổ thoát sừng trâu điên. (Tv 22,20-22).

Thánh Vịnh 77 là bài học lịch sử của dân Ít-ra-en, sau nhiều năm gian khổ trên đường tiến về Đất Hứa, có những người than trách Chúa. Để cành tỉnh họ, ông Asáp đã làm bài Thánh Vịnh này nhắc lại những hình phạt mà cha ông họ đã chứng kiến trên đất Ai-cập. Nào là nước trở thành máu, nào là muỗi mòng, ruồi nhặng, ếch nhái tấn công người, nào cào cào châu chấu phá hoại mùa màng. Các súc vật ngoài đồng cũng bị giệt:

Page 36: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Lại khiến mưa đá huỷ hoại trâu bò, sét đánh chiên dê. (Tv 77,48)

Thánh Vịnh 92 ca tụng vinh quang Chúa. Ngài đã tiêu diệt những kẻ địch thù và bênh đỡ người công chính: Ngài cho con ngẩng đầu hãnh diện, Tựa như trâu ngạo nghễ giương sừng. (Tv 92,11)

Còn Sách Châm Ngôn chứa những câu thành ngữ của Dân Chúa, giống như ca dao, tục ngữ của Việt Nam, để truyền lại những kinh nghiệm khôn ngoan trong đời sống. Nói về công việc canh tác lấy lương thực, sách Châm Ngôn cũng ghi nhận công khó của trâu bò: Không có bò bàn ăn trống rỗng, Nhờ sức trâu hoa lợi dồi dào. (Cn 14,4).

Cũng nói đến công việc nhà nông, Sách Huấn Ca mô tả người nông phu cả đời vất vả, tối tăm mặt mày với con trâu, con bò, không sao ngóc đẩu lên được:Cầm cày cầm cuốc,khôn ngoan sao được.Khi vụt roi trâu,thấy đầu hãnh diện.Luôn miệng vặt riệc, công việc không ngơi. Trao lời tán gẫu, hết trâu đến bò. (Hc 38,26-27)

Trâu trong các sách Tiên Tri

Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước có các sách của 17 vị Tiên tri. Chúng ta thường hiểu Tiên tri là người biết tương lai, hậu vận, nói trước những việc sẽ xảy ra. Nhưng Tiên tri trong Kinh Thánh là những người được Chúa chọn để truyền đạt ý muốn của Thiên Chúa cho dân Ngài, họ không những được Chúa cho biết về tương lai mà còn rành cả về quá khứ và hiện tại, để thành người phát ngôn lời truyền dạy của Chúa. Ngày nay ta gọi các Ngài là Ngôn Sứ vì ý nghĩa đó.Trong số 17 vị Ngôn Sứ được Cựu Ước ghi lại, có bốn vị được gọi là Ngôn Sứ “lớn” vì tác phẩm mang tên các vi có độ dầy hơn, còn 13 vị khác thì sách của họ mỏng hơn, nên gọi là Ngôn Sứ “nhỏ”.

I-sai-a là vị Ngôn Sứ “lớn” nhất, sách của ông có tới 66 chương. Chương 34 ông tuyên sấm về việc Chúa xử tội đất Ê-đôm "một hy lễ lớn được dâng kính Đức Chúa tại Bót-ra, chính là cuộc tàn sát lớn tại Ê-đôm: "Cùng với chúng, nào trâu, nào bê, nào bò tót đều bị hạ.” (Is 34,70.

A-mốt là một Ngôn Sứ “nhỏ”, xuất thân là một nông dân nên lời lẽ của ông thường đơn sơ mộc mạc, nhưng có nhiều sức mạnh. Việc Ít-ra-en đổi trắng thay đen, biến phúc ra hoạ, đem lẽ phải thành ra cay đắng…được Ngôn Sứ dùng hình ảnh công việc thường ngày nơi thôn quê, như cày bừa làm ví dụ để thức tỉnh dân Chúa:Ngựa có phi được trên đá lởm chởm không?Người ta đem trâu bò đi cày ngoài biển sao?Thế mà các ngươi đã biến lẽ phải thành thuốc độc, đổi công lý nên ngải đắng! (Am 6,12).

Còn Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a tuy không nói đến đích danh con trâu, nhưng có nói liên quan đến trâu. Ngôn Sứ đã tuyên sấm cho Ai-cập, sẽ bị vua Na-bu-cô-đô-nô-xô từ phương Bắc xâm lăng, bằng một hình ảnh bình dân, cho dân quê hiểu được mà di tản tránh chiến tranh:

Page 37: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Ai-cập là con bò tơ xinh đẹp,bị ruồi trâu từ phương bắc đến đậu trên mình. (Gr 46,20).

Trâu trong bài viết

Trong bài viết này chúng tôi viết về “Năm Sửu tìm hiểu chuyện trâu có mầu Kinh Thánh”. Cái nhan đề dài, cố ý để quý vị đọc lên cho có âm điệu. Thật ra trong Kinh Thánh có rất nhiều lần nói đến con bò, mà rất hiếm khi nói đến con trâu, con vật mà nông dân Việt Nam ta dùng để kéo cày trong công việc làm ruộng. Có lẽ vì lịch sử Kinh Thánh xảy ra ở Đất Thánh là vùng nóng và khô không thích hợp với đời sống của con trâu, như con trâu ở Việt Nam. Vả lại, ở vùng đất nóng và khô Trung Đông người ta chỉ nuôi bò để làm sức kéo, bò được Kinh Thánh nhắc đến nhiều vì nó còn được dùng làm của lễ toàn thiêu cùng với chiên và dê.

Trong các bản địch Kinh Thánh sang tiếng Việt, các dịch giả thường dùng danh từ Trâu đi đôi với Bò, nghĩa là cùng loại con vật kéo cày, kéo xe. Cũng vì để Kinh Thánh đi sát với thực tế, sát với phong tục Việt Nam, nên con trâu đã “đi vào” bản dịch Kinh Thánh cách tự nhiên, như đi về chuồng qua ngõ tre làng xóm.

Cho nên con Trâu trong các bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ không hẳn đều thuộc giống trâu nông dân Việt Nam dùng để góp sức cho công việc đồng áng. Chính vì thế mà chúng tôi phải dùng nhiều bản dịch khác nhau, mới có được những “con trâu” trích dẫn ở trên. Mong quý độc giả thông cảm, khi có mở lại bản văn Kinh Thánh Việt ngữ theo trích dẫn mà không thấy tiếng trâu, thì xin vui lòng mở bản Thánh Kinh của một dịch giả khác.

Chúng tôi đã dùng Thánh Kinh Việt ngữ của các dịch giả Trần Đức Huân, Nguyễn Thế Thuấn, Nhóm Phiên dịch Các giờ Kinh Phụng Vụ và Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước của Hội Thánh Tin Lành.

Hoàng Đức TrinhMục lục

Từ duy truyền thống tới Truyền Thống

Việc thu hồi vạ tuyệt thông đối với bốn vị giám mục của Hội Thánh Piô X, được tấn phong mà không có phép của Tòa Thánh, đã gây xôn xao trong dư luận Do Thái. Lý do vì trong bốn vị giám mục ấy, có Đức Cha Richard Williamson là người mới đây đã lên đài truyền hình Thụy Điển, tuyên bố nhiều điều bị người Do Thái cho là chống lại họ. Vị giám mục này cho rằng không hề có việc dùng hơi ngạt sát hại người Do Thái trong các trại tập trung và con số nạn nhân Do Thái trong Thế chiến II chỉ là 300,000 người chứ không phải 6 triệu.

Phản ứng dữ dội

Dù Tòa Thánh đã xác nhận ý nghĩa của việc rút lại vạ tuyệt thông chỉ là để phục vụ chính nghĩa hợp nhất của Giáo Hôi, do lòng nhân từ đầy tình cha con giữa Đức Thánh Cha và bốn vị giám mục, chứ không có mục tiêu nào khác. Nhưng phía Do Thái đã có những phản ứng cực đoan. Từ cuối tuần qua, ngay sau lệnh rút lại vạ tuyệt thông được ban ra, đã có nhiều phúc trình cho thấy Giáo Sĩ Đoàn (Rabbinate) của Do Thái sẽ vô thời hạn cắt đứt mọi liên lạc với Vatican, từng được thiết lập năm 2000 khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua thăm Israel, và sẽ hủy bỏ cuộc gặp gỡ với Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo của Tòa Thánh dự trù vào tháng Ba tới.

Page 38: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Khiến phát ngôn viên Tòa Thánh là Cha Lombardi chỉ còn biết hy vọng rằng các khó khăn do Giáo Sĩ Đoàn Do Thái đặt ra sẽ là đối tượng cho những suy tư sâu sắc tiếp theo sau đó, và các mối liên hệ giữa Tòa Thánh và Do Thái sẽ tiếp diễn một cách có hiệu quả và thanh thản.

Chỉ là quan điểm cá nhân

Chính Đức Cha Bernard Fellay, tổng quyền Hội Thánh Piô X, bề trên của Đức Cha Williamson, cũng đã lên tiếng cho rằng vị giám mục này chỉ nói lên quan điểm riêng của ngài, một quan điểm không thể nào dựa vào thẩm quyền giáo hội được. Đức cha Fellay nói rõ rằng: “Hiển nhiên, một giám mục Công Giáo không thể nào lên tiếng nhân danh thẩm quyền giáo hội nếu đó không phải là vấn đề thuộc đức tin và luân lý. Huynh Đoàn chúng tôi không cho là mình có thẩm quyền về các vấn đề khác thế… Chúng tôi đau buồn nhìn nhận quy mô tác hại đến sứ mệnh của chúng tôi do việc xâm phạm đến thiên mệnh kia gây ra. Các lời tuyên bố của Đức Cha Williamson không hề phản ảnh chút nào chủ trương của hội chúng tôi”.

Theo Hãng Tin Zenit, Đức cha Fellay đã ra lệnh cho Đức cha Williamson không được lên tiếng về các vấn đề ấy nữa. Ngài cũng khẩn khoản xin Đức Giáo Hoàng và mọi người thiện chí tha thứ “cho các hậu quả đáng buồn của hành vi không thể nào chấp nhận được này”.

Diệt chủng là việc có thật

Ngày 28 tháng 1, Đức Bênêđíctô XVI đích thân lên tiếng bày tỏ tình liên đới với người Do Thái và cực lực kết án việc sử dụng trại tập trung trong Thế Chiến II.

Trong buổi triều yết hàng tuần, Đức Thánh Cha nhìn nhận tính kinh hoàng của Nạn Diệt Chủng (Holocaust), nhất là các trại tử thần như Auschwitz, những trại tử thần mà theo ngài đã thi hành việc thảm sát dã man hàng triệu người Do Thái, các nạn nhân vô tội của lòng thù hận mù quáng có tính chủng tộc và tôn giáo.

Đức Giáo Hoàng tỏ bày “niềm hy vọng rằng ký ức về Nạn Diệt Chủng sẽ thức đầy nhân loại suy tư về sức mạnh không tài nào đoán biết được của sự ác khi nó thống trị trái tim con người”. Ngài cho hay Nạn Diệt Chủng này “phải là lời cảnh cáo đối với mọi người để “họ đừng quên, đừng triệt tiêu hay dừng giảm thiểu, vì dù bạo lực chống lại một con người đi nữa cũng là bạo lực chống lại mọi người”. Theo Đức Bênêđíctô XVI, “không ai là một hòn đảo” như lời Thi sĩ Anh, John Donne, đã nói trong thế kỷ 17. “Ước chi Nạn Diệt Chủng đặc biệt dạy ta, cả các thế hệ già lẫn các thế hệ trẻ, rằng chỉ có con đường lắng nghe và đối thoại, yêu thương và tha thứ, mới dẫn các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo của thế giới tới cuộc gặp gỡ hằng mong đợi đầy tình huynh đệ và bình an trên thế giới mà thôi. Ước mong sao bạo lực đừng bao giờ lăng mạ phẩm giá con người nữa!”

Phản hồi tích cực

Trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình Ý gần đây, sau khi nghe lời tuyên bố của Đức Bênêđíctô XVI, Oded Wiener, tổng giám đốc của Giáo Sĩ Đoàn Do Thái, khẳng nhận tầm quan trọng trong các mối liên hệ với Vatican. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng nó là nền tảng đối với cả chúng tôi lẫn Vatican. Về các nhận định của Đức Thánh Cha, Wiener nhấn mạnh rằng: “Trước nhất, tôi tin rằng lời tuyên bố của Đức Giáo Hoàng vào buổi sáng nay là điều cực kỳ quan trọng, đối với chúng tôi và toàn thế giới. Không có chỗ nào cho những người như Williamson để họ bác khước sự hiện hữu của Nạn Diệt Chủng. Tôi nghĩ lời của ngài (ĐGH) là một bước tiến lớn”.

Page 39: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Đại sứ Do Thái cạnh Tòa Thánh, là Mordechay Lewy, cho hay ông rất sung sướng về lời tuyên bố như thế từ cấp cao nhất của Tòa Thánh, lời tuyên bố có tác dụng “soi sáng và giúp vượt qua các hiểu lầm vừa qua” và ông chào đón ý định của Đức Giáo Hoàng qua thăm Do Thái vào tháng Năm này.

Hợp nhất là bổn phận minh nhiên của một mục tử

Nhân dịp này, Đức Bênêđíctô XVI cũng đích thân giải thích quyết định của ngài trong việc rút lại vạ tuyệt thông đối với 4 vị giám mục của nhóm duy truyền thống từng được tấn phong mà không có phép của Đức Giáo Hoàng.

Đức Bênêđíctô XVI minh xác: việc rút lại vạ tuyệt thông này chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là việc hợp nhất của Giáo Hội. Ngài cho hay: “Trong bài giảng nhân dịp long trọng khởi đầu triều giáo hoàng của tôi, tôi từng nói rằng ‘ơn gọi hợp nhất’ là ‘bổn phận minh nhiên của người mục tử’”. Ngài nhắc lại việc ngài đã suy tư ra sao trong bài giảng đầu tiên trong ngôi vị giáo hoàng ấy về câu truyện mẻ cá lạ lùng trước kia, và người Kitô hữu ngày nay buộc phải thưa cùng Chúa: “Than ôi, lạy Chúa qúy yêu, chúng con đau đớn nhìn nhận rằng lưới ấy nay đã rách nát cả rồi”. Tuy nhiên, ngài cho hay, trong bài giảng ấy, ngài cũng thân thưa với Thầy chí ái rằng: “Chúng con chẳng có chi phải buồn! Chúng con hân hoan vì lời Chúa hứa, lời hứa đừng nản lòng, và chúng con sẽ làm những gì chúng con làm được để theo đuổi con đường dẫn tới hợp nhất như lời Chúa hứa…Xin đừng để chúng con xé rách lưới của Chúa, xin giúp chúng con trở thành tôi tớ của hợp nhất”.

Chính “để chu toàn mục vụ đối với sự hợp nhất, một mục vụ đã xác định ra đường lối đặc thù cho thừa tác vụ Kế Thừa Thánh Phêrô của tôi” mà Đức Thánh Cha đã quyết định cho rút lại vạ tuyệt thông.

Ngài minh xác thêm “Tôi thực hiện hành vi nhân từ trong tình cha con này vì các vị giáo phẩm ấy liên tiếp tỏ bày nỗi đau khổ gay gắt lớn lao của trạng huống họ đã gặp phải”. Đức Thánh Cha nói rằng ngài chờ mong các vị giáo phẩm này cũng sẽ thực hiện những bước tương tự để hoàn tất diễn trình sau cùng trong cố gắng hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội, để chứng tỏ lòng trung thành chân thực và lòng chân nhận huấn quyền và thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng và của Công Đồng Vatican II.

Giáo huấn về Truyền Thống

Nhân dịp này, khi nói tới hai thư mục vụ của Thánh Phaolô, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã đề cập tới tầm quan trọng của Truyền Thống và thừa tác vụ luôn luôn khai triển của Giáo Hội. Đó chính là hai thư gửi cho Timôtê và Titô, hai thư có vị thứ khá độc đáo trong Tân Ước. Gọi là thư mục vụ, vì chúng được gửi cho các cá nhân hơn là cho các cộng đoàn. Hai vị này vốn là các cộng tác viên của Thánh Phaolô và đều là hai giám mục tiên khởi của Giáo Hội.

Lúc ấy, trong Giáo Hội đã nổi lên nhiều sai lạc, những sai lạc được Đức Thánh Cha cho là tiền thân của Ngộ Đạo Thuyết, tác giả các thư này vì thế nhắc tới ơn gọi hai mặt. Ngài mời gọi Kitô hữu quay trở lại với việc “đọc Sách Thánh một các thiêng liêng”. Về phương diện này, Đức Thánh Cha giải thích: “Đọc Thánh Kinh một cách đúng đắn là để mình đối thoại với Chúa Thánh Thần, là từ nó, nhận được ánh sáng ‘để dạy dỗ, luận bác, sửa chữa và để huấn luyện đường chính trực’”.

Còn về lời mời thứ hai, Đức Bênêđíctô XVI nói rằng: tác giả các thư trên nhắc tới “việc chuyển giao đức tin tông truyền, một việc chuyển giao cần phải được bảo vệ nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong ta. Phải coi thực thể vốn được mệnh danh là kho tàng (deposit) này như tổng hợp Truyền Thống Tông Đồ và là tiêu chuẩn cho lòng trung thành đối với việc công bố Phúc Âm”.

Page 40: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Như thế, các thư của Thánh Phaolô trình bày Truyền Thống như là chìa khóa để hiểu Thánh Kinh: “Việc công bố theo tông truyền, tức Truyền Thống, rất cần thiết để dẫn nhập ta vào việc hiểu Sách Thánh và nghe được giọng nói của chính Chúa Kitô ở trong đó”.

Cấu trúc thừa tác của Giáo Hội

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI còn nói tới “thành tố đặc trưng” khác của các thư gửi Timôtê và Titô là “suy tư về cấu trúc thừa tác của Giáo Hội”. Trong các thư ấy, Thánh Phaolô cho hay cấu trúc trên luôn khai triển. Trong Giáo Hội của thời thế giới ngoại giáo ấy, khuôn mặt vị tông đồ là khuôn mặt nổi bật, nên Thánh Phaolô đề cập tới các giám mục và phó tế. Nhưng trong thế giới Do Thái và Kitô Giáo, các trưởng giáo sĩ (presbyters) mới là khuôn mặt đáng kể.

Đức Giáo Hoàng giải thích như sau: “Ở cuối các thư mục vụ, hai cấu trúc ấy đã hợp nhất với nhau: và giờ đây ta thấy xuất hiện vị…giám mục… Và cùng với vị giám mục, ta thấy các trưởng giáo sĩ và các phó tế. Tuy nhiên khuôn mặt tông đồ vẫn còn tính cách quyết định, nhưng như tôi đã nói, ba lá thư này đã không được gửi cho các cộng đoàn mà là cho những con người cá thể: Timôtê và Titô, những vị một mặt xuất hiện như là giám mục, và mặt khác, bắt đầu thế chân cho Tông Đồ. Thế là bắt đầu một thực tại sau này được gọi là kế tục tông đồ (apostolic succession)”

Theo Đức Thánh Cha, lời Thánh Phaolô khuyên Timôtê “đừng sao lãng ơn phúc hiện con đang có, ơn phúc đã ban cho con qua lời tiên tri với việc đặt tay của trưởng giáo sỹ đoàn” chính là dáng dấp “của đặc điểm bí tích nơi thừa tác vụ này”. Ngài kêu gọi mọi người cầu nguyện để các Kitô hữu “mỗi ngày một được đặc điểm hóa hơn nữa về phương diện này, trong tương quan với xã hội ta đang sống, với tư cách là thành viên của ‘gia đình Thiên Chúa’. Ta cũng hãy cầu nguyện cho các mục tử của Giáo Hội để các ngài càng ngày càng có nhiều cảm nghĩ cha con, vừa dịu dàng vừa mạnh dạn cùng một lúc, trong việc đào tạo nhà Chúa, cộng đoàn, và Giáo Hội”.

Vũ Văn AnMục lục

Bí tích Thánh thể, niềm vui và nỗi lo của một vị Giám Mục

Thánh lễ là trung tâm đời sống đức tin của người Công giáo, mà nơi đó, công bố Lời Chúa và phụng vụ Thánh thể là những đỉnh cao không thể thiếu. Riêng mầu nhiệm Thánh thể còn được gọi là Bí tích Tình yêu hoặc mầu nhiệm vượt qua. Phải gọi là mầu nhiệm vì nó quá đỗi lạ lùng và hết sức vi diệu, vượt qua mọi cách hiểu thông thường hoặc giải thích theo quy luật của vật lý tự nhiên.

1.- Giáo lý dạy rằng, bí tích là những dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu về những thực tại vô hình. Từ 2000 năm nay, Đức Giêsu đã trở nên vô hình. Rất cần phải học biết về một Giêsu tử nạn, để từ đó, mỗi ngày một thêm yêu thương hơn, gắn bó và hy vọng hơn, nơi một Đức Giêsu đã sống lại, dù là vô hình, nhưng vẫn luôn hiện diện qua bí tích Thánh thể mà chúng ta vẫn gặp gỡ và lãnh nhận hàng ngày.

Cách đây không lâu, trong một lần nói chuyện tại Trung Tâm mục vụ Sàigòn, Đức Giám mục Phaolô Bùi văn Đọc thuộc Giáo phận Mỹ Tho, đã có một buổi thuyết trình về Bí tích Thánh thể rất sinh động và thú vị. Ngài không chỉ phụ trách Giáo phận Mỹ Tho, nhưng còn là Chủ tịch Ủy ban Giáo lý và Đức Tin thuộc Hội đồng Giám mục Việt nam, nên buổi nói chuyện trở nên hết sức bổ ích và rất cần thiết cho mọi thành phần Dân Chúa, cách riêng với đề tài Bí tích Thánh thể.

Với cái duyên trời cho, cộng thêm cách nói mạnh mẽ vui tươi nhưng không kém phần khôi hài dí dỏm, buổi nói chuyện của Ngài đã bị gián đoạn nhiều lần vì những tràng pháo tay tán thưởng của cộng

Page 41: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

đoàn. Buổi nói chuyện của một học giả uyên bác và cũng là một diễn giả đầy hấp dẫn này đã để lại rất nhiều ấn tượng thật tốt đẹp.

Ngài thuật lại lần tham dự Thượng hội đồng Giám mục thế giới cách đây nhiều năm cùng với Giám mục Trần đình Tứ, là 2 thành viên của GH Việt Nam được cử đi tham dự. Dưới sự chủ tọa của Đức Giáo hoàng Benedicto 16, hơn 200 giám mục của GH hoàn vũ đến từ khắp nơi, đã làm việc và thảo luận về nhiều vấn đề trọng yếu của Giáo hội; đặc biệt về bí tích Thánh thể. Ngài đã nhắc đến các Tông huấn, Tông thư, Tông sắc …liên quan đến Bí tích Tình yêu của Đức GH Gioan Phaolo II, những văn kiện mà Ngài đọc không hết (nguyên văn).

Sau phần tham luận và báo cáo của 2 vị Giám mục Việt Nam về đời sống đạo của Giáo Hội tại địa phương mình, đại hội đã rất vui mừng và đặc biệt phấn khích, khi được biết tại Việt Nam, các giáo dân đều rất mến mộ Bí tích Thánh thể, Thánh lễ nào cũng rất đông, nhiều nhà thờ không đủ chỗ ngồi, người tham dự phải đứng tràn ra cả bên ngoài. Tinh thần sống đạo của giáo dân Việt nam, Đức Hồng Y Sepe đã có nhiều dịp được chứng kiến tận mắt khi ngài đến thăm, nên Ngài đã hết lời ca ngợi cùng với rất nhiều hy vọng.

Tuy nhiên, sau niềm vui là những nỗi lo khi Ngài đề cập đến tình trạng suy thoái của các Giáo hội ở nhiều nước phương Tây. Ở Pháp, một giáo hội mà trước đây vẫn được xem là Trưởng nữ của Giáo hội, lúc này nhiều nhà thờ đã biến thành bãi xe hoặc nhà kho. Ở Mỹ cũng không khác; thêm nữa, với chuyện tai tiếng lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ vừa mới đây; Giáo hội Mỹ vẫn còn đang gượng dậy và cố gắng chấn chỉnh để phục hồi. Riêng ở Brasil là một nước đông người Công giáo nhất cũng đang mỗi ngày một sụt giảm rõ ràng. Đặc biệt, ở Iceland, một nước trước đây là toàn tòng Công giáo và có truyền thống Công giáo rất vững chắc, thì nay chỉ còn 1% người đi lễ. Họ đã bỏ Công giáo để theo Tin lành hoặc các giáo phái khác.

Không một nhận xét tiêu cực nào về các giáo phái, cũng chẳng có lời nào chê bai những giáo hội khác, nhưng ngài đã chỉ ra một số trong nhiều nguyên nhân đã khiến người ta rời bỏ nhà thờ. Đó là, Thánh lễ thiếu tính gắn bó, vui tươi và gần gũi của một gia đình. Thánh lễ cũng thiếu sự thân tình, và chan hòa ấm áp của một cộng đoàn yêu thương. Vì quá đông người, chẳng ai biết ai, nên nghi thức Chúc bình an trong Thánh lễ chỉ là thực hiện những hành vi (thân ái kia) một cách rất máy móc, rất vô hồn, đôi khi lại không cảm xúc với những gượng gạo miễn cưỡng.

Chính vì thế, Thánh lễ chỉ là sự tập hợp của một cộng đoàn theo thói quen, theo luật buộc, hơn là những tự nguyện với đầy đủ ý thức của những kẻ đã yêu và tin rằng mình cũng đang được yêu, bởi một tình yêu từ trời cao vô hình bao phủ. Dù là từ trời cao và dù là từ một Chúa Giêsu chẳng nhìn thấy được bằng mắt thường, nhưng tình yêu ấy vẫn được thể hiện một cách sinh động nơi người đang ngồi bên cạnh tôi và ngay trong Thánh lễ này, dù chỉ là qua một cái bắt tay. Một cái bắt tay ấm áp nhiệt tình không giống với cái bắt tay thờ ơ gượng gạo, một cái bắt tay cho có.

Tính đơn sơ, vui vẻ của những tín hữu thời sơ khai khi gặp nhau như sách Tông đồ Công vụ thuật lại, đến nay đã không còn nữa. Cùng với Thượng hội đồng Giám Mục thế giới, Ngài đã nói đến chuyện về nguồn. Rất cần thiết phải tìm về nguồn, tìm về với tính đơn sơ vui vẻ của thời Giáo hội thời tiên khởi.

2.- Ngài chỉ xét mình trước khi xét người khi đối diện với tình trạng xa nhà thờ, quên Thánh lễ và xem nhẹ Thánh thể đang phổ biến hiện nay để chạy sang các Giáo phái.

Ngài cũng không nói về những tiêu cực (có thể là nhiều) của các giáo phái, một điều không ít người vẫn thường hay nói.

Page 42: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Nhưng Ngài đã nhìn lại căn nhà Giáo hội của mình, để trông người mà nghĩ đến ta. Vì tình trạng đáng buồn kia đã và đang xảy ra ở nhiều Giáo hội khác hôm nay, sẽ chẳng có gì để bảo đảm rằng, nhất định sẽ không xảy ra với Giáo hội Việt Nam vào một ngày mai nào đó. Ngài nói về những ưu tư ấy với một cách nói nhẹ như gió thoảng, mà nếu chỉ phớt nghe sẽ khó lòng nhận ra. Đang khi đây chính là sự phó thác và tin tưởng của những cơn gió nhẹ đầy Thánh thần nơi Ngài..

Ngài đã nhấn mạnh về Đức tin, về phụng vụ Thánh thể và sống với mầu nhiệm của bí tích Thánh thể. Tuy bí tích Thánh thể là đỉnh cao, nhưng vẫn chỉ là điều kiện Cần, chưa là điều kiện Đủ của một mệnh đề hoàn chỉnh. Để thực sự trở thành Bí tích yêu thương, nhất định không thể thiếu những hy sinh, những chia sẻ và sự hiệp nhất. Nói cách khác, mỗi cá nhân phải là một tấm bánh để chia sẻ cho người khác, sau khi nhận lãnh tấm bánh là chính Mình và Máu của Chúa Giêsu từ nơi bàn thánh trong nhà thờ.

Sức khỏe và khả năng. Thời giờ và bạc tiền. Thiện chí và tình cảm ….những thứ mà kẻ ít người nhiều, ai cũng có. Vấn đề chỉ là, ta có sẵn sàng trở nên tấm bánh cho người khác, để chia sẻ những gì ta sở hữu và đang quản lý hay không mà thôi.

Chẳng có ai chỉ nhờ đọc Kinh thánh vài lần mà biến ngay thành một đấng Thánh. Cũng không có ai chỉ cần rước lễ hàng ngày mà được cứu độ và lên Thiên Đàng. Nhưng tất cả đều phải thi hành giới răn cao trọng nhất là giới răn Yêu Thương, mà Bí tích Thánh Thể phải là một biểu tượng sống động của những kẻ tin.

Chúa yêu thương con người, vì thế, Ngài cũng hết sức tôn trọng con người, nên Ngài không thể biến con người thành những cỗ máy vô cảm được lập trình sẵn, chỉ cần bấm nút hay nhắp chuột là hành động. Vì thế, Bánh Thánh khi rước lễ không phải là tấm bùa của ma thuật hay phù thủy để khi ăn vào, sẽ lập tức biến người ăn từ đen hóa ra trắng, từ xấu trở thành tốt và dễ được gần Chúa hơn.

Nhưng với nhiều chứng nghiệm thực tế của những ai yêu mến Thánh thể, bánh Thánh qua bí tích Thánh thể đã giúp người ăn được có thêm sức mạnh thần linh là chính Chúa Giêsu, để từ đó, cõi lòng sẽ dần được mở ra một cách dễ dàng hơn trong yêu thương và tha thứ. Cõi lòng sẽ dần được mở ra cùng với những bao dung trong xả kỷ và hy sinh quên mình.

Nhờ thế, ngay lúc đó, cánh cửa Nước Trời sẽ liền mở ra.

Và đó cũng chính là điều tuyệt vời của Bí tích Tình yêu vậy.

3.- Trở lại với chủ đề niềm vui và nỗi lo của người Giám mục, ai cũng dễ dàng nhận ra rằng, niềm vui ấy là rất chính đáng và nỗi lo kia cũng hoàn toàn là có cơ sở. Nhửng điều ấy không có gì mới lại, nhưng lúc này, vì được nói ra từ một vị Giám mục, là người thày dạy đức tin, nên phải được quan tâm một cách đặc biệt.

Những thực tế đang diễn ra ở nhiều Giáo hội Tây Phương, không có gì để đảm bảo rằng, sẽ chẳng xảy ra cho Giáo hội Việt Nam. Những ghi nhận ấy của vị Giám Mục khả kính không còn là các tâm tình riêng tư, nhưng chính là lời cảnh báo người ngôn sứ của thời đại hôm nay.

Xin gởi những tâm tình này, đến tất cả những tấm lòng biết thao thức và thiết tha yêu mến Giáo Hội đang có rất nhiều và hiện diện ở khắp nơi, vì Giáo hội không phải là của riêng giới nào hoặc người nào, nhưng là người Mẹ chung của tất cả những kẻ tin.

Xuân Thái.Mục lục

Page 43: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Bài giảng Tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Phan Thiết (5-9.1.2009)

BẢY LỜI CỦA ĐỨC MARIA & ĐỜI SỐNG LINH MỤC ( tt)

II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH

Nhìn vào Đức Maria qua lời đầu tiên của Mẹ, ta đã thấy sáng lên không chỉ một phản ứng cấp thời, mà còn cả một chiều dài của lối sống đức tin. Ánh sáng ấy đã dẫn Đức Mẹ tiến bước theo Chúa Giêsu trên đường cứu độ. Chậm mà chắc. Nhưng ánh sáng ấy sẽ chiếu dọi điều gì trên đời sống của linh mục hôm nay?

1. Biết mình

Ngay từ những năm đầu của Đại chủng viện, qua ban Triết học, mỗi đại chủng sinh đã được làm quen với một phương pháp quan sát suy tư thuộc loại hàng đầu nếu muốn bước sâu tiến xa vào lầu đài triết học, đó là phương pháp nội quan: mình quan sát mình, mình nhìn vào mình để có những phản tỉnh và nhận thức về chính mình. Nhớ lại hồi ấy, khi cha giáo nêu ra dẫn chứng là câu “Connais-toi, toi-même” (Hãy biết mình) được ghi trên cổng đền thờ hy lạp nào đó, thú thật chủng sinh chẳng hiểu gì nhiều, cứ như lời cảnh báo xa gần của cha giám luật về hạnh kiểm cuối năm hoặc như lời giảng giải xét mình của cha linh hướng mỗi lần cử hành bí tích hoà giải. Thế nhưng, nghe riết rồi thấm; làm riết rồi quen, để khi lãnh chức linh mục đã thấy hình thành trong mình tự thuở nào một phương pháp suy tư phản tỉnh.

Rồi khi thi hành nhiệm vụ linh mục, ngày từng ngày, những lúc xét mình, những khi sám hối, những phút hồi tâm, những giờ linh hướng đã tích luỹ nơi mỗi linh mục một thứ hành trang không thể thiếu được, dẫu chẳng phơi bày, đó là việc biết mình. Cũng như nơi Đức Maria, biết mình nơi từng linh mục ảnh hưởng lên lối sống và nhất là hình thành nơi người mục tử một bản lĩnh đức tin.

Một linh mục đã nghỉ hưu nhưng còn khoẻ khoắn lắm, vẫn thường có mặt trong mọi sinh hoạt của Giáo Phận có lần đã chia sẻ kinh nhgiệm với các linh mục trẻ rằng: Nếu mỗi ngày sống trọn vẹn những phút hồi tâm sáng trưa chiều tối, đời sống linh mục sẽ khoẻ lắm. Nghe trong lời chia sẻ chân thành ấy, người ta hiểu xét mình chính là một cách biết mình không thể thay thế, để tiến triển trên đường nên thánh.

Nhưng linh mục biết mình đâu chỉ là biết một mình theo kiểu “một mình mình biết một mình mình hay” mà còn là biết mình trong tương quan với người khác qua việc đối nhân xử thế. Nếu cụm từ “chỉ biết mình” mang một nghĩa xấu diễn tả tính ích kỷ bo bo một mình, thì cụm từ “biết mình biết người” lại bộc lộ tính khôn khéo của kẻ thành công được lòng mọi người, vừa khôn trong tính toán, vừa khéo trong tương giao. Linh mục được sai đến một giáo xứ để phục vụ, dẫu làm việc hết mình, chẳng ai cầu toàn rằng mình được hết mọi người quý mến, nhưng thiết tưởng với châm ngôn “biết mình biết người” hướng dẫn cách cư xử, linh mục sẽ tìm được sức mạnh nâng đỡ để nếu gặp khó khăn cũng dễ vượt lên, gặp truân chuyên cũng dễ khắc phục và nếu có gặp sung túc cũng dễ chia sẻ giúp đỡ người khác. Ngày nào còn biết mình, ngày ấy còn hy vọng để tâm hồn thăng hoa; nhưng chẳng may một khi không còn biết mình đầy đủ nữa, linh mục sẽ vô tình dẫn vào đời mình một cách sống xa lạ với chính mình, một lối sống xa rời xã hội và ngại hơn nữa là một đời sống xa lìa lý tưởng hiến dâng và phục vụ. Trong ngôn ngữ hiện nay, người ta gọi đó là “đánh mất mình”.

Một linh mục trẻ vừa được thuyên chuyển chỉ vì quá mê vi tính, tối ngày khép mình không tiếp xúc với ai, quên cả ngủ ngáy, quên cả lễ lạy, không còn biết mình là linh mục được sai đi để phục vụ nữa. Khổ.

Page 44: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Biết mình sẽ giúp linh mục định vị được mình giữa mớ bòng bong đa chiều của những phận vụ đạo đời. Cha phụ tá nào được sai đến giúp một cha sở ở một giáo xứ nhất định và biết mình trong vị trí đó, ắt hẳn sẽ có những cư xử đúng mực. Phụ tá không phải phụ tá cho một giáo xứ mà cho một cha sở vốn là “chủ chăn riêng của một nơi” theo Giáo luật, nên không nóng vội coi mình bằng vai phải lứa với cha sở, để lên mặt cho mình gần gũi với giáo dân hơn cha sở hoặc lên máu hăng say qua mặt ngài trong mọi việc. Nhiều vị phụ tá nghĩ đơn giản rằng mình với cha sở đều là linh mục cả, nên đâu phải giữ khoảng cách làm gì. Nghe có vẻ thuận lý và thường được một số giáo dân tâng bốc đồng tình, nhưng như thế là không biết rõ về vị trí của mình. Xin nhớ cho rằng phần lớn những thất bại của các cha phụ tá là ở điểm này.

Cha sở nào có cha phụ tá và biết mình trong vị trí cha sở, ắt cũng có những cách chăm sóc thắm tình dành cho cha phụ tá của mình. Những tháng năm làm phụ tá cho những cha sở như thế sẽ trở thành kỷ niệm khó quên. Đước Giáo Hoàng Piô X luôn coi những năm làm phụ tá cho cha sở Costantini ở Tombolo là những năm hạnh phúc trong đời linh mục của ngài. Nơi cha sở, ngài nhìn được gương sáng đạo đức, ngài gặp được tấm lòng nhân hậu và ngài còn được chỉ dẫn tận tình về những công việc mục vụ. Phần đông các cha sở hôm nay đều hân hoan đón nhận cha phụ tá vàhết lòng nâng đỡ các ngài trong mọi việc để nên gương sáng cho giáo dân. Nhiều giáo dân rất ngưỡng phục mẫu gương ấy khi thấy đi đâu cha phụ tá cũng đèo cha sở mình trên chiếc Honda. Nhưng đó đây vẫn còn một số vị chưa coi các cha phụ tá như người cộng sự, như người hợp tác làm việc trên cùng cánh đồng dân Chúa, thậm chí có vị còn coi cha phụ tá của mình như một gánh nặng chẳng đặng đừng.

Một cha sở hiền hoà ở một giáo xứ lớn vừa được giám mục gỡ đi cha phụ tá đã tâm sự rằng: ở một mình làm việc vất vả nhưng vui vẻ; có cha phụ tá việc nhẹ nhàng hơn nhưng cuộc sống không vui. Chỉ vì cha phụ tá không biết vị trí của mình. Một cha phụ tá trẻ trung ở một giáo xứ lớn khác thường bị anh em cùng khoá chọc ghẹo là “linh mục ôsin” lại than thở rằng: cuộc sống ở xứ như ở đợ, cha sở bắt làm lễ nợ, cả năm cho ăn chứ không cho bổng lễ. chuyện khó tin nhưng có thật. Chỉ vì cha sở không biết vị trí của mình.

Những mảng sáng tối trong đời sống được nêu lên chỉ muốn khẳng định rằng: từng người biết mình, cuộc sống sẽ bình an ổn định; từng linh mục biết mình, cuộc đời sẽ bản lĩnh và hạnh phúc. Giống như trong thân thể từng bộ phận chu toàn phận vụ của mình, chủ nhân của thân thể ấy sẽ có sức khoẻ tốt làm điều kiện cho một đời sống hài hoà. Kinh nghiệm thường thức cũng xác nhận điều này: người táo bón thường hay cau có, kẻ mập mạp thường khó đi nhanh.

2. Linh mục và lời “tôi biết”

Biết mình trong tương quan với chính mình hoặc trong tương quan với người khác đã là những cách tích cực, nhưng linh mục trong nhịp sống thiêng liêng, chỉ có thể biết mình rõ nét khi đặt mình trong tương quan với Chúa. Chính ở đây, câu hỏi “linh mục là ai?” được nêu lên và mong ước trong tinh thần biết mình mỗi người sẽ đưa ra những câu trả lời xác định.

Linh mục trước hết là người thuộc về Chúa Kitô. Thực ra, theo định nghĩa cơ bản, là kitô hữu, ai mà chả thuộc về Chúa Kitô. Nhưng linh mục thì khác, biết mình thuộc về Chúa Kitô là Đầu, được chọn gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và cũng để làm việc trong tư cách của Chúa Kitô, in personna Christi Capitis. Lời khẳng định này linh mục nào mà chả biết. Thế nhưng từ biết chung chung trong học thuyết đến biết thuần nhị cá nhân để có thể khẳng định “tôi biết” lại là một khoảng cách không nhỏ. Thật vậy, biết mình thuộc về Chúa Kitô không dừng lại trong nhận thức mà còn trải ra thực hành, từ thực hành nhỏ đến thực hành lớn, từ thực hành một ngày đến thực hành một đời.

Qua những nỗ lực không ngơi nghỉ hướng về Chúa Kitô, linh mục quy chiếu mọi khoảnh khắc và công việc trong phận vụ mình vào đời sống Chúa Kitô để có sự hoà điệu thánh thiêng cần thiết mà diễn tả tính khả tín cũng như khả ái của sứ vụ được trao. Nói rằng mình thuộc về Chúa Kitô mà đời sống không quy hướng về Chúa Kitô để dựng xây thì e rằng đã làm giảm thiểu tính khả tín trong sứ vụ; ngược lại những ý mình nghĩ những lời mình nói những việc mình làm biết quy hướng về Chúa Kitô sẽ cho thấy một khuôn mặt khả ái của linh mục ở giữa cộng đoàn. Giáo dân hôm nay xem ra rất bén nhạy về khía cạnh

Page 45: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

này. Ở đây tâm tình của thánh Phaolô cũng phải là tâm tình của mỗi linh mục: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nữa, chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Và rồi, như ngựa chạy đường dài sẽ có ngày thấm mệt, linh mục trong đời cũng có những lúc đàn lỡ nhịp hoặc chùng dây không còn tấu lên điệu khúc dâng hiến như mộng ước ban đầu, những lúc ấy nhận thức mình thuộc về Chúa Kitô lại là một sức mạnh đem lại hy vọng để vươn lên tìm về với Chúa Kitô mà nhận lại sự sống. Như vậy, thuộc về Chúa Kitô là những nét cơ bản giúp linh mục soi bóng để biết mình.

Nhưng linh mục dầu thiện chí đến đâu cũng không tự mình có thể dấn thân vào đường sứ vụ. Sứ vụ phải được trao và được nhận, vì thế cùng với ý thức mình thuộc về Chúa Kitô, linh mục cũng biết mình thuộc về Giáo Hội. Giáo Hội phổ quát là cả một kho tàng mênh mông ơn thánh, nhưng Giáo Hội địa phương nơi mình được sai đến mới là trọn vẹn tấm lòng gửi trao và cuộc đời thể hiện. Nếu trong đời sống dân sự, không thể có một công dân không quốc tịch, thì trong đời sống tôn giáo, cũng không thể có một linh mục trên không chằng dưới không rễ lông bông lang thang khắp nơi mà chẳng chịu nhập tịch vào Giáo Phận nào. Linh mục mà không thuộc về Giáo Hội địa phương nào thì không còn là linh mục đúng nghĩa nữa. Vì thế khi trả lời cho câu hỏi “linh mục là ai?” thì cũng là lúc khẳng định mình thuộc về Giáo Hội nào, nếu không sẽ có nguy cơ sống kiểu bèo giạt mây trôi vừa đánh mất mình vừa không nêu gương sáng cho người khác. Linh mục thuộc về Chúa Kitô nên cũng thuộc về Giáo Hội của Chúa Kitô để nhận lấy trách vụ làm việc cho Chúa Kitô. Như Đức Maria, linh mục biết mình là người của hồng ân và sứ mạng, nên luôn ghi tâm khắc cốt: hồng ân Chúa ban, dấn thân theo đuổi, dong duổi một đời.

3. Linh mục và lời “tôi không biết”

Những khẳng định mình biết sẽ dẫn tới những lãnh vực mình khong biết nơi đời linh mục, vừa như một thái cực ngược lại để đối chiếu, vừa như một liệt kê tương phản để nỗ lực vượt qua.

Trước hết là lãnh vực tình cảm. Người ta bảo khác với đàn bà, trái tim đàn ông có nhiều ngăn lắm, mỗi ngăn dành cho một đối tượng theo thứ tự ưu tiêu. Không biết có đúng không? Khổ nỗi linh mục cũng là đàn ông, nên xin mượn hình ảnh ấy để minh hoạ. Trái tim linh mục cũng có nhiều ngăn: ngăn dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội; ngăn dành cho gia đình ruột thịt mẹ cha, rồi đến ngăn bao la dành cho già trẻ lớn bé bạn bè cộng sự. Lý ra những ngăn ấy được xếp theo thứ tự ưu tiên, nhưng nhiều khi lu bu tình Chúa tình người hoặc cả nể yêu người như mình ta vậy, những ngăn đó cứ bị đảo tung lên, sự việc đổ bể khiến mình bị thương tứ bề. Bị thương theo cả hai nghĩa: bị thương mến kiềm toả bủa vây và bị thương tổn danh dự khó vớt vát được.

Về tình yêu nam nữ, theo lý thuyết linh mục chẳng yêu riêng ai và cũng chẳng có ai làm của riêng cho mình, nhưng trên thực tế hành trình của động từ yêu nơi đời linh mục rối rắm khó lý giải lắm. Con tim có lý lẽ của nó. Có khi mới đầu chỉ là tình bạn giúp đỡ hỗ trợ một việc già đó, rồi dần dà thân thiết mọc cánh yêu thương; vẫn biết nam nữ thọ thọ bất thân, mà làm sao lại cứ cọ có rất thân không dứt ra được. Khổ. Có khi lúc đầu chỉ là tình cha con đỡ nâng dắt dìu dạy dỗ, rồi lâu ngày cô bé lớn lên bỗng muốn được dặt dìu tay đỡ tay nâng dạy ít dỗ nhiều, nên linh mục cũng khó tránh khỏi lưới giăng.

Kể ra thì nhiều lắm, vả lại cũng không cần thiết. Có điều là trong lãnh vực này, mỗi linh mục quyết tâm khảng khái như Đức Maria: “Tôi không biết đến việc vợ chồng”.

Một lãnh vực khác cũng cần linh mục nói lời “tôi không biết”, đó là lãnh vực tiền bạc. Tất nhiên, tiền bạc ai mà không cần. Có tiền mới có thể trang trải chi phí cho đời sống được, có tiền mới làm việc bác ái được, có tiền mới xây dựng mở mang cơ sở vật chất được. Nhưng cần tiền thì khác, còn dính bén đến tiền bạc thì khác.

Nhiều linh mục ở những giáo xứ rất giàu, nhưng cuộc sống riêng tư lại rất đạm bạc, chẳng màng chi của cải. Tiền bạc đi đâu? Thưa ngài dùng tiền chung để góp phần phát triển đời sống xứ đạo và giúp đỡ giáo dân cũng như những người nghèo khó. Giáo dân ở đó rất quý rất trọng ngài như người cha có trái tim người mẹ. Ngược lại, có một vài linh mục có những biểu hiện khác thường đối với tiền bạc, chẳng những quý tiền lại còn mê làm tiền nữa. Xây thì ít cất thì nhiều, khiến đời sống xứ đạo mỗi ngày mỗi tẻ

Page 46: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

nhạt. Trong câu chuyện sau lưng, giáo dân thường bảo cha chỉ thích những nhà mặt tiền thôi. Gặp ai cha cũng than thở mình túng thiếu, nhưng đến khi bị mất trộm, người ta mới biết cha bị mất cả bạc tỷ kìa. Một vài linh mục khác nữa lại rơi vào vòng luẩn quẩn tiền tình, cho cô này mượn một ít, cho cô kia giữ một ít, đến lúc có việc chung muốn lấy lại không được. Bắc thang lên hỏi ông trời, có tiền cho gái có đòi được không?

Cuối cùng là lãnh vực quyền bính vốn là lãnh vực ít nhiều các linh mục phải hành xử trong sinh hoạt mục vụ điều hành giáo xứ. Ngoài những quyền thuộc diện quản trị điều khiển điều phối được quy định trong giáo luật và theo hướng dẫn của giáo phận mà linh mục nào cũng phải biết và biết chắc, còn có một số thẩm quyền được xem xét và hành xử tuỳ theo nhãn quan của mỗi mục tử trong những tình huống cụ thể nhằm lợi ích cho các linh hồn. Nhưng chính đó lại là những kẽ hở nhiều khi mở cho tính khí tác động làm nhạt nhoà đi mục đích cứu rỗi để chỉ còn là một biện pháp chế tài gây buồn lòng cho người trong cuộc và gây buồn cười cho khách bàng quan.

Chẳng hạn như một cha sở nọ quy định chỉ xức dầu cho các bậnh nhân vào chiều ngày thứ sáu đầu tháng, nên nhà nào có người đau yếu muốn nhận bí tích này phải báo trước cho ngài biết để ngài sắp xếp đến tận nhà. Ai không giữ quy định này thì đừng mong ngài phục vụ. Rủi có một người đau bất thình lình xin ngài ban bí tích sau hết bị từ chối và đêm ấy người ta mất, thế là cả nhà người ta ca thán giận hờn. Không bào chữa được. Có một cha sở khác chỉ vì mong muốn cho giáo xứ thăng tiến về mặt đạo đức, đã dùng bí tích giải tội như một biện pháp chề tài một giáo dân có gương xấu trong giáo xứ. Ngài công khai cấm ông ta sáu tháng không được xưng tội rước lễ, ông ta tức khí đứng lên bảo cho cha một năm luôn cho chẵn. Dở khóc dở cười. Mong rằng mỗi linh mục chúng ta biết nói không với những loại thẩm quyền mong manh ấy.

Tóm lại, lời đầu tiên của Đức Maria là một lời khẳng khái biết mình “không biết việc vợ chồng”, để trở nên lối sống gương mẫu vượt lên những nghịch lý biện chứng giữa biết và không biết trong đời của Mẹ, đồng thời cũng là lời dọi sáng trên đời sống của mỗi linh mục trong dịp tĩnh tâm. Mong rằng những gì linh mục biết về căn tính của mình sẽ nên nguồn lực giúp linh mục từ chối không biết đến những lãnh vực xa lạ với căn tính ấy, để đừng như bài hát “vì tôi là linh mục” vớ vẩn vẩn vơ vô vọng, mà sẽ trở thành lời kinh xác tín như thánh Phanxicô Khó Khăn “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” hay như bài báo của một GMVN “xứng đáng là biết mình bất xứng”.

(còn tiếp)

+GM. Vũ Duy ThốngGm phụ tá Giáo phận Sài Gòn

Mục lục

CHỨNG NHÂN

PHAOLÔ MIKI VÀ NHỮNG VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA NHẬT BẢN

Những ngày đầu tháng 2 năm 1597, một đoàn phạm nhân bị dẫn đi rảo qua các thành phố của Nhật Bản, ở những nơi có đông người công giáo sinh sống. Đoàn phạm nhân này là những người bất tuân lệnh truyền của Hoàng đế trong chiếu chỉ cấm đạo. Nhà cầm quyền dùng những người này trong kế hoạch hăm dọa và răn đe những người công giáo cứng đầu, là những người không chịu bỏ đạo.Thế nhưng kế hoạch này dừng như hoàn toàn thất bại. Niềm vui của các vị tử đạo khi cái chết đến gần lại thể hiện quá rõ nét, đến nỗi hàng trăm người ngoại giáo khác bị đánh động và tin theo cái tôn giáo mà những chứng nhân này đã can đảm tuyên xưng.

Page 47: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Nổi lên ở trung tâm của đoàn người ấy là một chàng trai trẻ có tên là Phaolo Miki. Dù bị kệt sức, thân thể loang lổ và xấu xí, không ai nhìn vào nhóm cái vị tử đạo mà không nhận ra dáng vẻ thanh cao của chàng trai. Phaolo mang tấm áo dòng đen đơn giản một tu sĩ Dòng Tên trong chuyến hành trình đi đến cái chết, nhưng mọi người Nhật đều nhận ra rằng, nếu muốn Phaolo hoàn toàn có thể mang bộ Kimono giàu sang và mang theo bên hông mình hai thanh gươm vốn thường được đeo bởi các Samurai quý tộc.

Phaolo Miki sinh năm 1564 tại Tokushima, thuộc đảo Shikoku. Năm tròn 4 tuổi, cả gia đình Miki mình theo đạo công giáo. Cha của Phaolo Miki là Miki Handayu một thành viên danh dự của vương triều Oda Nobunaga. Tháng 8 năm 1586, khi được 22 tuổi, Phaolo Miki vào nhà Tập Dòng Tên và bắt đầu chương trình học để chuẩn bị làm linh mục. Đúng ra, Phaolo Miki hoàn tất chương trình ngay đúng vào thời điểm mà mình bị bắt. Cái chết tước đi khỏi Phaolo vinh dự được làm vị linh mục người Nhật Bản đầu tiên, và trao tặng cho Ngài triều thiên tử đạo đầu tiên trên đất nước Nhật Bản.

Năm mươi năm trước, khi Thánh Phanxicô Xavier gặp được một số người Nhật Bản đã được rửa tội đã quyết định khởi hành đến quần đảo Nhật Bản để truyền giáo. Sau gần hai năm, thánh Phanxicô lập được một nhóm các thừa sai cho xứ này, trước khi Ngài tiếp tục chuyến hành trình đến với đất Trung Hoa. Nhóm các thừa sai này đã gia tăng vững vàng và đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trên đất Nhật. Chưa tới 40 năm sau, đã có hơn 200.000 người công giáo trong toàn nước Nhật. Nhiều lãnh chúa và tướng lĩnh từ nhiều tôn giáo khác nhau bước vào đạo công giáo, và những kẻ thuộc quyền cũng bước theo gương của họ.

Tuy nhiên, việc phát triển và lan rộng của đạo công giáo cũng gặp nhiều chống đối ở nhiều nơi khác nhau. Vào thế kỷ thứ 16, Nhật là một đế quốc được cai trị bởi hai thế lực tối cao là Hoàng đế, người nắm quyền về tinh thần, và các tướng quân (Shogun) là những người nắm quyền trên những lãnh địa khác nhau của đất nước. Dưới hai thế lực này, nước Nhật bị chia thành hơn 60 vương quốc và lãnh địa lớn nhỏ khác nhau. Trong nhiều vùng, đạo công giáo hoàn toàn bị cấm cách, các nhà truyền giáo luôn bị đe dọa và không được phép thực hiện bất cứ loại hình mục vụ tôn giáo nào. Trong những vùng khác của đế quốc, tiến trình truyền giáo diễn ra hết sức chậm do những chống đối từ phía các lãnh chúa, các nhà sư và những người lãnh đạo phật giáo luôn đặt những người theo đạo công giáo dưới sự đe dọa nghiêm trọng.

Năm 1582, tướng Hideyoshi lên cầm quyền thống trị toàn nước Nhật và bắt đầu cuộc bách hại hung bạo dành cho đạo công giáo. Cuộc bách hại của ông đạt đến đỉnh điểm vào năm 1587 với sắc lệnh bắt đạo nghiệt ngã.

Cuối tháng 12 năm 1596, một đạo quân của hoàng đế bao vây những căn nhà bị tình nghi ở Miyako và Osaka. Sáu vị thừa sai dòng Phanxicô, một nhóm 18 giáo dân và 2 vị thừa sai Dòng Tên bị bắt. Theo điều khoản đã được hoàng đế ban ra, những người này bị kết án xẻo tai như dấu hiệu của một sự tủi nhục, và sẽ bị đóng đinh vào thập giá ở Nagasaki.

Ngày 5.2. 1597, trên một ngọn đồi bên ngoài thành phố Nagasaki, hai mươi sáu cây thập giá được dựng lên cho các bị tử đạo. Đó là cuộc tử đạo đầy tiếng hát và kinh nguyện.

Khi những thánh giá của các vị tử đạo được dựng lên, Cha Peter Baptist, bề trên của dòng Phanxicô, cao giọng bắt hát bài Benedictus, trong khi ấy cả nhóm lý hình đứng lặng yên kính cẩn, cả nhóm tử đạo đồng thanh hát trọn bài ca: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người… Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn cho Vầng Đông tự chốn cao vời đến viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” Dõi mắt nhìn quanh những người bạn đồng hành của mình đang sẵn sàng cho hy lễ, Phaolo Miki thầm thĩ dâng lời nguyện cuối cùng của cuộc đời mình: “Giống Thầy mình, tôi sẽ chết trên Thập Giá. Giống như Người, con tim tôi sẽ bị

Page 48: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

xé nát bởi một lưỡi giáo. Nhờ đó, dòng máu của tôi và tình yêu của tôi sẽ tuôn chảy trên mảnh đất này và thánh hóa nó nhân danh Người.”

Trong số các vị tử đạo có ba trẻ còn ở tuổi thiếu niên. Nhóm trẻ cũng cao giọng với bài hát Laudete Pueri, tiếng hát lịm tắt khi lưỡi giáo xuyên qua con tim của họ.

Các vị tử đạo tiên khởi trên đất Nhật được Đức Thánh Cha Urbano VIII phong chân phướng ngày 15.9.1627 và được Đức Thánh Cha Pio IX phong hiển thánh ngày 8.7.1862.

Phaolô MikiTu sĩ Dòng TênSinh : 1564 - tại Tokushima, Nhật BảnTử đạo : 05.02.1597 - tại Nagasaki, Nhật BảnLễ mừng ngày 06.02

LƯU MINH GIANMục lục

TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH

Giảng lễ Hôn phối :

CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT

I. SUY NIỆM LỜI CHÚA.

Chúng ta đọc : Mt 16,21-27.

Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai làm môn đệ Ngài đều phải đi theo :”Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”.

Đây là lời Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ là những người đã chọn lựa bước đi theo Ngài. Lời mời gọi này có ý gợi lên sự tự do quyết định của người được mời, vì một đàng Chúa tôn trọng tự do của con người, đàng khác con người tự trách nhiệm về quyền lựa chọn của mình. Một khi đã quyết tâm chọn Chúa để trở thành môn đệ đích thực thì cần phải thực thi hai điều kiện :

1. Phải từ bỏ chính mình : tức là phải khước từ lòng tự ái, sự nuông chiều bản thân và từ bỏ mọi thói hư tật xấu nghĩa là phải từ bỏ “cái tôi” giả tạo của mình.

2. Phải vác thập giá mình : tức là phải hòan tòan tuân phục thánh ý Chúa trong mọi sự.

Hai điều kiện từ bỏ mình và vác thập giá mình có thể liên kết và hoán đổi cho nhau : đã từ bỏ mình thì phải hy sinh tức là vác thập giá, mà vác thập giá thì đương nhiên thì phải từ bỏ mình để tuân theo thánh ý Chúa.

Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thóat khỏi thập giá trong cuộc sống (…). Đau khổ không phải là một đầy đọa mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá.

Page 49: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn (Mỗi ngày một tin vui).

Mỗi Kitô hữu chúng ta đều là môn đệ của Chúa vì đã được chịu phép Rửa tội; và Kitô là người đã được mang tên Chúa và thuộc về Ngài nên cũng phải đi theo con đường của Ngài để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Những người dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì phải từ bỏ mình và vác thập giá mình đã đành, cả những người sống trong bậc vợ chồng cũng phải sống như thế tuy hòan cảnh có khác nhau. Nếu vợ chồng biết từ bỏ mình, biết tiêu diệt cái tôi ích kỷ của mình để sống cho nhau thì cuộc sống gia đình sẽ được êm ấm và đem lại hạnh phúc cho mọi ngưởi trong gia đình và cho cả xã hội.

II. LÒNG TỰ ÁI CỦA CON NGƯỜI.

1. Con người, trung tâm của vũ trụ ?Trên trần gian này, mọi người đều yêu mình và những cái thuộc về mình, không ai ghét bản thân

mình cả (x. Ep 5, 29). Do đó, ai cũng có lòng tự ái. Chính từ ngữ “Tự Aùi” thì không có gì xấu vì tự ái lã tự yêu mình, mà bác ái là phải phát xuất từ mình trước, nhưng vì người ta lạm dụng nên thường nó có ý nghĩa không tốt.

Khi đứa bé còn rất nhỏ, xem ra nó đã có “tự ái” ! Trông thấy cái gì của người ta nó cũng đòi, đòi cho bằng được, mà không được thì khóc ! Phải chăng, tuy chưa có ý thức, đứa bé đã có “tính tự ái”, bởi vì nó tự coi nó như trung tâm, mọi người phải phục vụ nó. Và như vậy tự ái đây đã kèm theo khuynh hướng vị kỷ.

Sau này khi lớn lên, có ý thức, ai cũng vẫn cho mình là nhất, là trung tâm, là cái rốn của vũ trụ. Người ta, dầu là một kẻ tầm thường đến bực nào, bao giờ cũng cho ý kiến mình là quan trọng hơn tất cả. Cái “Tôi” có phải là dễ ghét đâu theo như lời của Pascal. Nó là chữ “dễ yêu” nhất trong đời. Nhưng, vì ta đã quá nâng niu chiều chuộng nó… mà thành ra cách xử kỷ tiếp vật trong đời ta gây ra không biết bao nhiêu sự vụng về, ân hận, đau khổ, tai ương… Và cũng chính vì thế, mà Blaise Pascal tiên sinh mới thốt ra câu nói chua cay này :”Cái tôi đáng ghét” : (Le Moi est haissable) (Cf nguyễn duy Cần, Thuật xử thế của người xưa, 1970, tr 17).

2. Tự ái trong đời sống hằng ngày.

Ai cũng có kinh nghiệm về vấn đề này. Thuở nhỏ, ta là người rất thích tranh cãi. Tính hiếu thắng xui ta bao giơ cũng không chịu nhịn một

ai cả, dầu trong một lời nói tầm thường cũng vậy. Trong những cuộc cãi vã không bao giờ ta chịu nhượng ai một lời. Rủi mà lời nói mình không được người để ý đến hoặc bị ruồng rẫy, bỏ qua, thì không gì bực tức và buồn khổ bằng.

Đến tuổi thanh xuân vì khí huyết bồng bột nên không chịu coi vào đâu những ý kiến của các bậc cao niên dầy kinh nghiệm hơn. Ý kiến của cha mẹ cũng không bằng ý kiến của mình. Cha mẹ có khuyên bảo thì chỉ trả lời là “đã trưởng thành, biết rồi, nói mãi”. Cha mẹ có thể khuyên dạy con bằng những lời khuyên của một mục sư đối với đứa con 15 tuổi của ông :

- Từ 15 đến 20 tuổi : cha cho phép con tin rằng “con thông minh hơn cha”.- Từ 20 đến 25 tuổi : con cũng có quyền tin rằng “con thông minh bằng cha”.- Nhưng bắt đầu từ 25 tuổi sắp lên, cha bắt buộc con phải nhìn nhận sự “thông minh của cha hơn

con nhiều một cách tuyệt đối vậy”.

Page 50: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Đến tuổi trưởng thành và cao niên, con người vẫn còn coi mình hơn tất cả. Không ai muốn nhận mình là quấy cả. Dầu là tay đại gian đại ác như Tào Tháo cũng không chịu nhận mình là gian ác. Tào Tháo thường xưng mình là vì dân vì nước; mà Lưu Bị cũng tin mình vì dân vì nước. Godse, ngưới ám sát Gandhi mà thiên hạ phần đông nguyền rủa, vẫn tươi cười trước khi chịu tử hình.

3. Sự hiểu biết thì phiến diện.

Chúng ta không phải là chân lý. Chúng ta cũng không thể nắm chắc được chân lý mà chỉ là trên đường đi tìm chân lý, và như vậy sự hiểu biết của mình không thể là tuyệt đối. Có nhiều con đường đi tìm chân lý và mỗi người chỉ có thể nắm được một phần của chân lý, tùy theo trình độ của mình.

Vì thế trong khi bàn bạc, tranh luận, chúng ta cũng phải để ý đến cái trình độ của kẻ khác. Dẫu nguời ấy có ngu si vụng dại đến đâu, phải biết cho họ cũng có cái lý của họ, hoặc trình độ hiểu biết của họ chỉ đến ngần ấy là cùng.

Truyện : Bài nào cũng đúng.

Một hiền giả Aán độ, ngày kia, xem bài các đệ tử phê bình về một bài thơ của mình. Có hai người đệ tử, trước khi trình cho thầy bài luận của mình, lại đổi cho nhau xem trước. Họ bèn cãi nhau không ai chịu nhận bài của bạn mình là đúng. Thế rồi, họ bảo nhau để coi thầy sẽ phán đoán cách nào. Ôâng thầy xem đến bài của từng người, đều gật đầu khen phải cả. Đến lượt hai người này, thầy cũng gật đầu khen đúng nữa.

Một người liền đứng lên phản đối :- Thưa thầy, bảo rằng bài của các bạn con đều đúng, thì con không dám cãi, vì con không được

biết họ nói gì trong đó. Chớ như đối với bài của anh này, thì con chắc chắn không thể nào thầy cho là đúng được, trong khi thầy cũng nhận cho bài của con cũng đúng nữa. Hai chủ trương của chúng con quả quyết không thể bên nào dung được bên nào : hễ anh ấy phải, thì con quấy, mà con phải thì anh ấy quấy.

Ôâng thầy mỉm cười, ôn tồn bảo :- Hai trò đều bàn đúng cả đấy. Sở dĩ trò này nói vầy là tại cái trình độ hiểu biết của nó chỉ đến đó

là cùng. Sao có thể bảo nó nói sai hay hiểu sai cho được ! Bài thơ của thầy như vầng Thái Dương, hoa nào cũng nhờ ánh Thái Dương mà nở, nhưng cây nào nở hoa nấy : cây này không nở hoa kia, mà cây kia không thể nở hoa nọ được… Sao có thể bảo bài của người này phải mà bài của kẻ kia quấy !

Khi đã ý thức được rằng không ai nắm trọn vẹn chân lý mà chỉ nắm được một phần, còn phần khác phải dành cho người khác. Do đó, không bao giờ được bắt ép người khác phải theo ý kiến của mình, không được quyền coi chỉ có ý kiến của mình là đúng, còn người khác là sai quấy. Để diễn tả tư tưởng này, người Aán độ mới chế ra được câu chuyện thầy bói rờ voi.

Truyện : Mù rờ voi.

Xưa kia có một ông vua ngồi buồn, cho bắt tất cả người mù trong thành đem về hợp lại một chỗ.Vua cho đem ra một con voi, bảo các anh mù rờ vào, và tả lại cho nghe họ đã hình dung con voi ra

sao ?Sau khi mọi người đã rờ xong. Vua kêu hỏi từng người. Họ thưa :- Voi như cái nồi lớn (Đó là những người rờ trúng cái đầu).- Voi giống như cây cột tròn (Đó là những người rờ trúng cái chân).- Voi giống cái chổi ( Đó là những người rờ trúng cái đuôi)

Page 51: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

… Mỗi người đều tưởng rằng mình đã hình dung rõ con voi với những bộ phận mà họ đã rờ trúng. Rồi thì không một ai chịu nhận của ai, đều cho cái thị kiến của mình là đúng. Ban đầu còn cãi nhau, sau chửi nhau om sòm, và rốt cùng xăng tay đánh đá nhau tơi bời…

Nhà vua thấy vậy ôm bụng cười vang (Sách UDANA)

Quả thực đây là bức hí họa tài tình, vì nó thu hẹp được một cách đầy đủ cả một tấn bi-hài-kịch của nhân lọai từ xưa đến nay. Nhất là ngày nay, thiên hạ đang xâu xé nhau như lũ người mù trên đây để giành lẽ phải về mình mà không ai chịu dung tha ai cả. Vậy chứ chiến tranh ý thức hệ là gì, nếu không phải vì ai ai cũng đều cho cái lẽ phải của mình là tuyệt đối.

(Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1972, tr 91-92)

KẾT LUẬN.

Trong đời sống gia đình cũng thế, vợ chồng không phải lúc nào cũng có sự hiểu biết như nhau, mỗi người chỉ nắm được một phần chân lý nên phải tôn trọng sự hiểu biết của người khác, không được dùng áp lực mà bắt người khác phải theo ý kiến của mình.

Muốn cho gia đình được yên vui đầm ấm cần phải có sự nhường nhịn nhau vì người ta thường nói :”Một sự nhịn, chín sự lành”(Tục ngữ), Nhường nhịn nhau cũng đồng nghĩa với từ bỏ mình và vác thập giá mình như bài Tin mừng chúng ta vừa nghe đọc.

Từ bỏ mình là gì nếu không phải là từ bỏ “cái tôi” ? Tác giả André Sève trong cuốn Sương mai có viết : Từ bỏ mình… vác thập giá… là khoái khổ sao ? Không. Cần phải từ bỏ mình, thẳng thắn mà tuyên bố tiêu diệt “Cái Tôi” của chúng ta. Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi tốt lành”, “cái tôi” chân thật. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối với tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với các công việc của Chúa”(André Sève, Sương mai, tr 209).

Lm Giuse Đinh lập LiễmMục lục

Sức khỏe gia đình :

Bệnh của những người sống ở “trên mây”

Người bị hoang tưởng nếu để bệnh diễn tiến nặng có thể sử dụng các biện pháp bạo lực đối với người mà họ nghĩ là hãm hại mìnhNăm nay chỉ 30 tuổi nhưng từ khi tốt nghiệp đến nay anh M. đã làm việc cho không dưới 10 công ty. Hiện tại, anh đang là một nhân viên vi tính, còn độc thân. Ở mỗi công ty anh chỉ làm việc được khoảng 3 đến 6 tháng rồi tự ý nghỉ việc. Khi được hỏi tại sao anh thường xuyên thay đổi nơi làm việc thì anh nói rằng ở những nơi đó luôn có những người tìm cách trù dập và kìm hãm năng lực của anh, không cho anh phát huy khả năng của mình hay tìm cách ám hại anh. Khi được hỏi bằng chứng về những việc đó thì anh kể những lần sếp phân công cho anh nhập dữ liệu là không muốn cho anh phát triển và trù dập anh.

Anh nghĩ rằng đáng lẽ phải để cho anh nghiên cứu viết chương trình quản lý mặc dù anh không học về viết chương trình. Thế là trước mỗi lần nghỉ việc anh đều viết đơn kiện ban giám đốc công ty và gởi đi khắp nơi.

Page 52: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Luôn quan tâm đến những điều vụn vặt

Thật ra, anh M. là trường hợp điển hình của những người rối loạn hoang tưởng bị hại. Trong các dạng rối loạn hoang tưởng thì hoang tưởng bị hại là loại hay gặp nhất. Bệnh nhân luôn nghĩ có người mưu hại, lường gạt, theo dõi, đầu độc, vu khống, quấy rối hay cản trở mình. Họ thường có thái độ giận dữ, thù hằn và có thể dùng bạo lực chống lại những người họ tin là đang làm hại họ.

Ngoài ra, còn có nhiều dạng hoang tưởng khác thường gặp trong đời sống hằng ngày. Nếu ai bị hoang tưởng ghen tuông thì luôn nghi ngờ vợ hay chồng mình không chung thủy. Họ thường thu thập các bằng chứng vụn vặt để chứng minh cho hoang tưởng của mình. Ví dụ nếu thấy vợ chào hỏi hàng xóm đầu ngõ thì cho là hẹn hò, thấy vợ mặc quần áo đẹp đi làm thì cho là mặc đẹp để đi với người đàn ông khác...

Còn dạng hoang tưởng được yêu thì bệnh nhân tin rằng có người đang yêu mình tha thiết, người này thường là một nhân vật nổi tiếng hay cấp trên nơi họ đang làm việc. Họ tìm mọi cách để tiếp cận đối tượng như qua điện thoại, thư từ, quà tặng, thăm viếng... hoặc ngay cả rình rập, theo dõi người này.

Mọi sự từ chối tình yêu của đối tượng qua lời nói hay hành vi đều được bệnh nhân suy diễn là bằng chứng thầm kín của tình yêu. Hoang tưởng tự cao cũng là dạng rối loạn thường gặp, bệnh nhân cho rằng mình có tài năng xuất chúng nhưng chưa được công nhận hay có một phát minh quan trọng cần trình lên cấp thẩm quyền.

Không hợp tác với thầy thuốc

Rối loạn hoang tưởng là một loại bệnh lý tâm thần trong đó bệnh nhân có một hay vài hoang tưởng liên quan với các nội dung thường xuất phát từ những sự kiện có thể xảy ra trong cuộc sống thí dụ như bị theo dõi, bị đầu độc, được yêu, ghen tuông, tự cao... Dù nội dung hoang tưởng mâu thuẫn với những gì xảy ra trong thực tế nhưng bệnh nhân vẫn tin tưởng vững chắc vào nó mặc dù họ không thể đưa ra chứng cứ cụ thể thuyết phục nào mà chỉ dựa trên những giả thiết suy diễn.

Bệnh này thường tiến triển kéo dài và thường nặng lên sau khi khởi phát khoảng 5 năm, gây ảnh hưởng đến công việc hay các mối quan hệ giao tiếp của bệnh nhân. Do bị rối loạn hoang tưởng nên họ luôn hiểu lầm hoặc nghi ngờ về những người xung quanh và hiểu lầm về chính mình, không quan tâm đến cảm giác bị phiền toái của người khác và từ đó dễ có những bất đồng xảy ra. Hoang tưởng ghen tuông thường hay gây đổ vỡ gia đình, hoang tưởng bị hại thường gây ra xung đột trong cơ quan hay gia đình...

Tuy nhiên, ngoài những mối quan hệ trực tiếp làm cho họ hoang tưởng thì bệnh nhân gần như hoàn toàn bình thường ở các mặt khác nên nếu tiếp xúc lần đầu với bệnh nhân thì ai cũng nghĩ là bệnh nhân hoàn toàn bình thường. Chẳng hạn bệnh nhân có hoang tưởng ghen tuông chỉ bộc lộ hành vi bất thường với vợ hoặc chồng mình nhưng đối xử với những người khác lại rất bình thường, hòa nhã.

Khi nghi ngờ người thân bị bệnh này thì người nhà nên đưa bệnh nhân đến khám ở bác sĩ tâm thần thay vì tự ý xử lý. Việc điều trị thường phải kết hợp thuốc chống loạn thần và tâm lý liệu pháp.

Tuy nhiên, việc điều trị thường khó khăn do đa số bệnh nhân luôn cho là mình bình thường nên không chịu đi khám bệnh hoặc không hợp tác tốt với bác sĩ trong quá trình điều trị. Nếu bệnh không được điều trị sớm sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng trong các mối quan hệ công việc, xã hội, gia đình và dẫn tới mất việc làm, đổ vỡ gia đình...

Theo Bác sĩ Lê Quốc Nam/

Page 53: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Theo NLĐMục lục

ĐỌC SÁCH

CÁI HŨ ƠN PHƯỚC

Hãy dâng lên Thiên Chúa một lễ tạ ơnVà trọn niềm với Đấng Tối Cao trong lời khấn vái.Vào ngày quẫn bách, hãy kêu đến Ta ,Ta sẽ gỡ thoát cho và ngươi sẽ tôn vinh Ta

Thánh vịnh 50: 14-15

Chị biết rằng cuộc sống không dễ dàng chút nào. Những nỗi gian nan và sự kiện bi đát trong đời nếu liệt kê ra thì dài hơn danh sách các món cần mua sắm mỗi lần chị đi chợ. Chị không khỏi cảm thấy kiệt sức nhưng biết phải có nghị lực trụ vững để giúp cuộc sống gia đình ổn định. Chính đức tin và ơn phước của Thượng đế đã giúp gia đình chị vượt qua mọi trở ngại.

Một tối nọ, vợ chồng chị và các con nhỏ bắt tréo chân ngồi bệt trên sàn, quây quần thành vòng tròn. Chồng chị bảo các con : “Có nhiều lần trong đời chúng ta không thấy được liền những ơn phước của Thượng đế. Các ơn phước đó thường được nguỵ trang để che giấu. Thánh thử có những việc ban đầu ta tưởng là rủi ro, xui xẻo nhưng rốt cuộc hóa ra là ơn phước lớn lao. Chỉ đúng vào một ngày giờ nào đó ta mới nhận biết cơ Trời, mới thấy phép mầu của Thượng đế”

Chồng chị phát cho các con nhỏ những tấm thẻ bằng bìa giấy cứng. Đêm nay cả nhà mình sẽ nhớ lại mấy năm đã qua, nhớ xem Thượng đế đã ban ơn cho gia đình mình ra sao, và ghi mỗi sự kiện vào từng tấm thẻ này.

“ Nhưng bố ơi, con chưa biết viết.”“ Vậy con hãy vẽ ra.”

Trong nửa giờ sau đó, chồng chị thu lại các thẻ và lần lượt ôn từng sự kiện được viết hay vẽ ra trên mỗi thẻ. Cả nhà chị có lúc vang lên tiếng cười giòn giã, có lúc là những giọt nước mắt hạnh phúc.

Sau khi chồng con đi ngủ rồi, chị trở ra gom hết các thẻ. Chị gấp đôi từng tấm, lần lượt bỏ vào trong một cái hũ đẹp. Chị tìm sợi ruy – băng, thắt thành chiếc nơ quanh cổ cái hũ. Trông như một món quà.Buổi điểm tâm sáng hôm sau, lũ trẻ nhìn thấy cái hũ được đặt giữa bàn ăn, trang trọng

“Gì vậy mẹ ?”“Cái hũ ơn phước của gia đình ta.”

Từ đó cho đến nhiều năm về sau, gia đình chị nuôi dưỡng truyền thống ghi lại ơn phước của Thượng đế theo cách họ cảm nhận, và bỏ vào cái hũ. Các con chị đã học được cách để tin, dẫu rằng không nhìn thấy.

Page 54: Thánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân ...  · Web viewThánh lễ đầu năm tại khu điều trị phong Vân Môn 16. Lễ Cung Hiến và Khánh Thành

Mượn ý “The blessing jar”, của Janet Lynn Mitchell, 2001.

Dũ Lan Lê Anh Dũng Mục lục