thế nào là văn hóa tổ chức làng xã.doc
TRANSCRIPT
Thế nào là văn hóa tổ chức làng xã?
Đặc điểm của tổ chức làng xã?
Đặc điểm văn hóa làng xã ở việt nam?
Làng Việt (kẻ, thôn…) là một thiết chế xã hội, một đơn vị tổ chức chặt chẽ của
nông thôn Việt trên cơ sở địa vực, địa bàn cư trú; là sản phẩm tự nhiên phát sinh từ
quá trình định cư và cộng cư của người Việt; trồng trọt là điểm tập hợp cuộc sống
cộng đồng tự quản đa dạng và phong phú của người nông dân, ở đó họ sống, làm
việc, quan hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn hoá với thiên nhiên, xã hội và bản
thân họ.
Làng Việt là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt (nổi lên là gia đình
(nhà) - làng - nước, còn cấp vùng, tỉnh là đơn vị trung gian ít quan trọng hơn) với
hai đặc trưng cơ bản là: tính cộng đồng và tính tự trị.
Làng Việt được tổ chức rất chặt chẽ, không phải theo một mà nhiều cách, nhiều
nguyên tắc khác nhau, tạo nên nhiều loại hình, nhiều cách tập hợp người khác
nhau, khác nhau nhưng lại hoà đồng trong phạm vi làng. Về cơ bản, cơ cấu làng
Việt (cổ truyền và hiện đại) được biểu hiện dưới những hình thức tổ chức (liên kết,
tập hợp người) sau đây:
- Tổ chức theo địa vực (khu đất cư trú) với mô thức phổ biến: Làng phân thành
nhiều xóm, xóm phân thành nhiều ngõ, mỗi ngõ gồm một hay nhiều nhà… thành
những khối dài dọc đường cái, bờ sông, chân đê, những khối chặt kiểu ô bàn cờ,
theo hình Vành khăn từ chân đồi lên lưng chừng đồi và phân bố lẻ tẻ, tản mát, xen
kẽ với ruộng đồng… Mỗi làng, xóm, ngõ có cuộc sống tương đối riêng.
- Tổ chức làng theo huyết thống (gia đình), dòng họ. Ngoài các gia đình nhỏ, gia
đình hạt nhân, dòng họ có vị trí và vai trò quan trọng trong làng Việt, là chỗ dựa
vật chất, và chủ yếu là tinh thần cho gia đình; có tác dụng trong định canh và xây
dựng làng mới, như là trung tâm của sự cộng cảm trong các gia đình đồng huyết…
Có làng gồm nhiều dòng họ, có làng chỉ một dòng họ và khi ấy làng và dòng họ
(gia tộc) đồng nhất với nhau. Điều đáng lưu ý là mức độ liên kết huyết thống trong
phạm vi làng Việt là hết sức rạch ròi, chi li với những tên gọi cụ thể (cố - cụ - ông -
cha - bản thân - con - cháu - chắt - chút…)
- Tổ chức làng theo nghề nghiệp, theo sở thích và lòng tự nguyện (Phe-Hội,
Phường nghề…). Mỗi làng có thể có nhiều Phe (một tổ chức tự quản dưới nhiều
hình thức câu lạc bộ): Phe tư văn quan trọng hơn; nhiều Hội: hiếu hỷ, mua bán,
luyện võ, tập chèo, đấu vật… các Phường nghề: mộc, nề, sơn, thêu, chèo, rối…
- Tổ chức làng theo lớp tuổi (truyền thống nam giới): tổ chức giáp, hiện rất mờ
nhạt. Đây là môi trường tiến thân theo tuổi tác, tổ chức dành riêng cho nam giới,
phụ nữ không được vào. Bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay, được lên đinh,
ngôì chiếu giữa làng, được nâng dần địa vị, được lên lão… Nói chung, giáp gắn
chặt với làng.
- Tổ chức làng theo cơ cấu hành chính.
Làng có khi gọi là xã (có xã gồm nhiều làng), có khi gọi là thôn (khi nhất xã nhất
thôn). Tiêu chuẩn để phân định rõ nhất là chính cư và ngụ cư (nội tịch và ngoại
tịch) một cách rất rành mạch, nhiều khi cực đoan. Tuy nhiên, có một điều mở là
dân ngụ cư có thể chuyển thành chính cư khi có điền có điền sản và sống (cư trú) ở
làng 3 đời trở lên. Dân cư trong làng được phân thành nhiều hạng, cơ bản là các
hạng: chức sắc (đỗ đạt hoặc có phâm hàm vua ban); chức dịch (có chức vụ trong
bộ máy hành chính); lão, đinh, ty ấu, người già, trai đinh, trẻ con (trong các giáp)
…
Là một thiết chế xã hội của nông thôn Việt, có cơ cấu tổ chức phong phú nhưng
chặt chẽ, có tính cộng đồng và tự trị cao, làng Việt ở mặt trái, mang tính khép kín,
bản vị. Song nó lại chính là nơi lưu giữ, bảo vệ một thứ văn hoá làng chống lại sự
xâm lăng, đồng hoá của văn hoá ngoại lai. Làng Việt và văn hoá làng Việt đang là
vấn đề rất thú vị cho những ai quan tâm, nghiên cứu nó.
Tuy thế, ở nước ta, không phải bất kỳ đâu, làng Việt cũng có đặc điểm và tính chất
giống hệt nhau. Nhiều nhà nghiên cứu khảo cổ học, folklore học, tâm lý dân tộc
học… qua quá trình điền dã và thẩm định đã cho thấy rằng: làng Việt ở Bắc -
Trung - Nam bộ có những đặc điểm khác nhau trên cơ sở những cái giống, cái
chung. Tính chất và đặc điểm đại đồng, tiểu dị này ngày càng được khẳng định
không chỉ về mặt lý thuyết, mà còn ở thực tiễn nữa.
Vậy, đặc điểm lớn, khái quát của làng Việt từng khu vực Bắc - Trung, Nam là gì?
Làng Việt Bắc bộ hình thành từ lâu đời, trên cơ sở tan rã dần công xã nông thôn,
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, khép kín, bền vững trên cơ sở liên kết nhiều
hình thức tổ chức mà mỗi hình thức tổ chức đó có ảnh hưởng gần như đến từng
thành viên và dưới áp lực của rất nhiều hình thức đó, có cái hiện hình, có cái ẩn
tàng, đặc biệt là của lệ tộc, của lệ làng, mà họ tham gia tạo nên. Người nông dân
sống gắn bó, quanh quẩn với biểu tượng làng của mình, gắn bó chặt chẽ với xóm
giềng, họ tộc, gia đình, làng nước.
Càng đi xuống phía nam, cơ cấu làng Việt càng trở nên mờ hơn, lỏng lẻo dần ra,
năng động và bớt tính khép kín. Mô hình làng Bắc bộ bị đồng hoá kể từ Bắc Trung
bộ, không giữ tính chặt chẽ tới mức khép kín nữa mà mở rộng đến liên làng, chú
trọng hơn đến dòng họ, tộc họ. Càng cởi mở hơn, năng động hơn là làng Việt Nam
Bộ. Làng Việt đồng bằng sông Cửu Long, theo tác giả Nguyễn Phương Thảo,(*) là
làng khai phá, tuổi đời còn trẻ (trên dưới ba trăm năm), định cư từ giồng xuống
trũng, kéo dài trên diện rộng, lấy kinh mương hay lộ giao thông làm trục (Khác
làng Việt Bắc Bộ khép kín trên dỉa đất ven sông, ven đồi, duyên hải…), nên thiếu
chất kết dính chặt chẽ, phân vực cao và sớm tiếp xúc với nền kinh tế hàng hoá.
Như vậy, làng Việt ở các vùng khác nhau có những khác biệt. Càng về phía Nam
làng Việt càng mở, năng động, bớt những lệ làng.
Tọa đàm khoa học quốc tế - Văn hóa quản lý làng xã Hà Tĩnh
Tới dự và tham luận tại buổi tọa đàm có Tiến sỹ Kato Atsufumi, chuyên gia nghiên
cứu Đại học Nanzan Nhật Bản; PGS.TS Miyazawa Chihiro, đại diện đại học
Nanzan Nhật Bản; GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng viện Việt Nam học
và KHPT, Phó Chủ tịch Hội KHLS VN; GS.TS Hoàng Chí Bảo, Ủy viên Hội đồng
lí luận trung ương, Uỷ viên Hội đồng khoa học, Viện Việt nam học Viện VNH &
KHPT cùng một số GS, TS và nhà nghiên cứu văn hóa trong, ngoài nước.
Trong lời khai mạc buổi toạ đàm, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc nêu rõ: Quản lý
nông thôn, quản lý làng xã nói riêng và đổi mới quản lý xã hội nói chung cũng là
một trong những vấn đề khoa học trọng tâm hiện nay mà Viện VNH & KHPT
được giao nhiệm vụ nghiên cứu đáp ứng thực tiễn công cuộc cải cách hành chính,
phát triển đất nước trong tình hình kinh tế hiện nay. Cùng với các chương trình, đề
tài khoa học cấp nhà nước nghiên cứu về Hệ thống chính trị, Văn hóa chính trị,
nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức quản lý nhà nước đặc thù cho nông thôn, đô
thị…, Viện cũng đồng thời triển khai nhiều đề tài hoạt động thực tiễn tại các địa
phương trong cả nước, trong đó có Hà Tĩnh.
Tại buổi tọa đàm, các đại biểu đã tham luận một số vấn đề như: “Cải cách hành
chính - Lý luận và thực tiễn” (GS.TS Hoàng Chí Bảo), “Sơ lược lịch sử quản lý
làng xã Việt Nam” (GS.TS Nguyễn Quang Ngọc), “Tiềm năng của cán bộ cơ sở
nông thôn Việt Nam: Nhìn từ tiểu sử các cán bộ lãnh đạo xã Thạch Châu”
(TS.Kato Atsufumi), “Những đóng góp của tổ chức phát triển quốc tế vào chương
trình cải cách hành chính công tại chính quyền cấp xã ở VN” (TS. Thaveeporn
Vasavakul), “ Truyền thống quản lý làng xã ở Hà Tĩnh - một số đặc điểm riêng”
(Thái Kim Đỉnh), “Một số suy nghĩ bước đầu về mối quan hệ giữa dòng họ với
làng xã ở Hà Tĩnh” (Võ Hồng Hải), “Bảo tồn và phát huy các giá trị di tích và chỉ
đạo tổ chức lễ hội truyền thống là một trong những biện pháp quản lý làng xã ở Hà
Tĩnh” (Nguyễn Trí Sơn), “Công tác quản lý văn hóa Thạch Châu và văn hóa quản
lý làng xã Thạch Châu” (lãnh đạo xã Thạch Châu)…
Các bản tham luận đã làm nổi bật 3 vấn đề chính là cải cách hành chính, lịch sử và
văn hóa, nghiên cứu trường hợp cụ thể ở Hà Tĩnh, từ đó tạo cơ sở để so sánh nền
văn hóa cơ sở ở miền Trung với miền Bắc và miền Nam. Từ nội dung cụ thể của
các bản tham luận, nổi bật đặc trưng văn hóa làng xã miền Bắc với tính tự quản
cộng đồng mạnh còn văn hoá làng xã miền Nam thì đặc trưng cá nhân và gia đình
mạnh hơn.
Cũng qua hội thảo, những nghiên cứu về đặc điểm riêng của quản lý làng xã vùng
Hà Tĩnh đã làm phong phú và lý giải thêm về lý luận cũng như thực tiễn trong việc
quản lý làng xã Việt Nam nói chung và miền Trung nói riêng. Trong đó, nổi bật lên
các vấn đề về lịch sử hình thành, phương thức quản lý làng xã, quan hệ giữa cá
nhân và gia đình đối với cộng đồng, đoàn thể và nhà nước, kinh tế thị trường…
Qua một ngày làm việc với hơn 10 bản tham luận công phu, cuộc toạ đàm đã tạo ra
một không gian trao đổi thân tình, chia sẻ kinh nghiệm quý báu của các nhà nghiên
cứu nhằm thiết thực phục vụ cho việc xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch,
vững mạnh, hướng tới mục tiêu xây dựng tốt đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn
với việc hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới hiện nay.
(theo Dân Trí)
Làng Xã Việt
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh,
có sông sâu lơ lững vần quanh êm xuôi về nao...
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau,
bóng tre rung bên mấy hàng cau, đồng quê mơ màng...
Nhưng than ơi,
có một chiều thu lá thu rơi,
có một chiều thu lá thu rơi,
ôm mối tình quê gọi thầm mơ bóng ngày về.
Mơ trông bóng ngày về...
Quê tôi chìm chân trời mờ sương.
Quê tôi là bao nguồn yêu thương.
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn,
là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương…
Bài hát của thày Chung Quân Nguyễn Đức Tiến sáng tác đã làm rộn ràng trong tôi
từ thuở thiếu thời. Bài ca mô tả về một thể chế dân chủ Làng Nước mà tôi từng
nghe Nội tôi kể lại, và khiến tôi đã phải bàng hoàng xúc động mỗi khi nghĩ về một
kiệt tác chính trị của Tổ Tiên.
Nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp đã được Tổ Tiên đặc biệt rút tỉa và đề ra những
nguyên tắc áp dụng vào thực tế, bằng công tác xây dựng và phát triển một hệ thống
Tổ Chức Làng Xã, lưu truyền trong lịch sử với nhiều ngôn từ hàm chứa tình người:
làng tôi, quê tôi, nước tôi… Làng Xã Việt là một cơ cấu sinh hoạt tự do tự lập. Nếp
sống thân thương và bình đẳng, làng thôn quả thật là nơi bảo toàn lực lượng dân
quân, bảo vệ và nung đúc tinh thần yêu nước của mọi người, và cũng là nơi bảo tồn
nếp sống thuần túy dân tộc, dầu trong thời bình cũng như thời loạn.
1. Làng Xã Tự Chủ
Đặc tính nền tảng của Làng Xã Việt là người dân tự ý tới ở, quy tụ thành làng. Tuy
cách khởi lập có khác nhau, nhưng điều kiện tiên quyết trong việc Dựng Làng vẫn
là lợi ích và sự tự quyết của những người quy tụ, không ai bắt buộc ai.
Làng được thành lập không chỉ vì lợi ích vật chất, biến nơi khô cằn hoang vu thành
miền phì nhiêu trù phú, mà còn vì lợi ích tinh thần. Làng giúp cho người dân thoát
nạn sống cảnh bơ vơ thiếu nơi nương tựa, trái lại đã giúp cho toàn dân có cuộc
sống xum vầy đầm ấm, tươi mát trong Xã Hội Đồng Bào.
Nếu chỉ để thu tích của cải lợi lộc, dầu dưới bất cứ hình thức nào, như chủ trương
của xâm lăng, của đế quốc, của phong kiến… thì chẳng những không giúp ích gì
cho Dân Tộc, mà còn làm cho Dân Tộc thêm khốn khổ, biến Dân Tộc thành nô lệ
hay thành thú vật, máy móc.
Tụ họp thành làng, mọi người chia sẻ cảnh sống vui buồn sướng khổ có nhau, giúp
nhau vượt thắng những khó khăn, cùng nhau gánh vác trách nhiệm, cùng nhau xây
đắp cho đời, cho làng cho nước ngày thêm giầu đẹp. Và cũng không một thường
dân nào bị bó buộc phải cư trú tại một nơi nhất định; dân chúng có thể tùy thích tới
ở hay tự ý bỏ đi, miễn là tự quyết và chấp nhận Lệ Làng là nơi mình muốn gia
nhập cư ngụ.
Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia, quyền hạn vua quan Việt chẳng
những không can thiệp vào đời sống từng người dân, mà cũng không xâm phạm
vào nếp sống sinh hoạt của các làng thôn. Đối với triều đình, mỗi làng Việt là một
quốc gia thu hẹp có chủ quyền và độc lập; việc làng thì dân chúng tự lập và tự
quyết.
Làng tự lập đến nỗi chẳng những có một ban quản trị riêng, do chính dân bầu ra,
mà còn có cả những điều lệ riêng cho hệ thống hành chính của làng. Làng có một
ngôi đình để thờ vị Thành Hoàng riêng, với những nghi thức do truyền thống riêng.
Làng có cả tổ chức trị an riêng, với những tiêu chuẩn thưởng phạt do làng quy
định. Dĩ nhiên làng cũng có tài sản riêng, và toàn quyền xử dụng ngân sách tài
chánh theo nhu cầu.
Trong phạm vi làng, cả quyền phép của vua quan cũng kiêng nể những điều lệ
riêng này. Phép vua thua lệ làng… Bởi thế không còn có chế độ nào trực tiếp do
dân, của dân, vì dân… hơn thể chế dân chủ làng nước Việt.
Đang khi coi thường thể chế dân chủ làng nước Việt, xem toàn dân là nô lệ, tự do
bị tước đoạt, nhân quyền bị chà đạp, truyền thống dân chủ làng thôn bị thủ tiêu.
Người dân ngày nay chỉ còn có quyền đi bầu cử theo hình thức bịp bợm mị dân.
Tất cả mọi quyền hành, kể cả tuyển chọn người đại diện cho dân, đều nằm trong
tay những nhóm đặc quyền. Và nhóm người đặc quyền đặc lợi này tự đặt ra luật
pháp, sửa đổi luật pháp, và áp dụng luật pháp để giúp cho chính nhóm họ hưởng
lợi. Xin hỏi Dân Tộc Việt Nam thực sự được gì? Quốc Gia Việt Nam thực sự là gì?
Tất cả, phải chăng chỉ là vết hằn vết thù của một chế độ đã khiếm khuyết và suy
thoái?
2. Định chế làng nước
Khi góp phần vào việc nước, làng là đơn vị đại diện người dân. Trong truyền thống
chính trị Việt, người dân không trực tiếp với vua quan mà qua làng. Trong tất cả
mọi việc, từ tiếp xúc, lệnh truyền, tới sưu thuế, lính tráng… của nước chỉ cần căn
cứ vào làng, liên lạc với làng, và theo khả năng của toàn làng mà định phần đóng
góp.
Do đó, làng là đơn vị nền tảng của cơ cấu chính trị, của chính quyền, của nước.
Đang khi gia đình là đơn vị nền tảng của xã hội, của cộng đoàn, của dân tộc.
Khác biệt với nhiều thể chế chính trị như hiện nay, người dân không phải đơn độc
đương đầu trực diện với cơ quan quyền lực, mà còn được bà con thân thuộc của
làng nước xóm giềng chia sẻ, trợ giúp, bù đắp, bảo bọc… Miễn là sao mà làng chu
toàn được công tác chung, việc nước.
Đối với người dân, làng trở thành một bước tường che, một mái ấm, một bảo đảm
vừa vật chất lại vừa tinh thần, vừa thực tế lại vừa pháp lý.
Nhìn chung, làng thôn Việt không phải là nếp sống tự phát, mà được Tổ Tiên tạo
thành một thể chế chính trị rất độc đáo, nhân bản và tuyệt vời: Định chế làng nước.
Ông Bà ta cũng phân biệt rõ ràng hai loại công tác chính trị: Việc làng, Việc nước.
Và việc làng việc nước khác biệt nhau, từ phần chủ động tới mức độ dấn thân, khả
năng tài trí và các vấn đề nhu yếu khác. Bởi thế chúng ta có hai loại công tác làng
và công tác nước.
Người dân ai cũng có thể làm việc làng, và ai cũng có quyền can dự vào việc tổ
chức, điều hành, bầu cử, hay quyết định của làng. Nhưng để đủ tầm vóc để làm
việc nước thì người đó phải học hành ở trường sở, phải thông thạo khoa chính trị
An Dân, và phải thi cử (thi hương, thi hội, thi đình) để xác định khả năng tài trí.
Vẫn biết bất cứ nơi nào, bất cứ thời nào cũng có những kẻ sẵn có ưu thế và muốn
củng cố thêm quyền lực hay địa vị. Nhưng Văn Hóa Việt và Đại Chúng Việt luôn
quyết tâm sống thực, bảo vệ và kiện toàn định chế tuyệt hảo này qua mấy ngàn
năm lịch sử.
Thể chế làng nước, phép vua thua lệ làng, đã giúp người dân nước ta được hưởng
nếp sống tự chủ, đang khi vẫn tích cực đóng góp đầy đủ và hòa điệu với đời sống
Quốc Gia. Thể chế làng nước là đặc điểm căn cội, làm cho nền Quân Chủ Việt
khác biệt với những nền quân chủ của nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong Văn Hóa Việt, với chủ trương chính đáng về bổn phận của vua quan (người
lãnh đạo) và với thể chế làng nước, việc chung được quan niệm và thực sự là việc
giúp ích cho mọi người.
Khi vua quan ta cư xử như cha mẹ, đem hết tâm hồn và tài trí chăm lo cho người
dân được hạnh phúc, và khi người dân được thực sự sống trong tự do dân chủ đúng
nghĩa, thì đóng góp vào việc chung là một đồng tâm hiệp lực, một tương trợ cần
thiết để bảo đảm cho hạnh phúc chung của nhau. Đi làm việc chung chính là ta
đem tài trí giúp ích cho đời.
Tuy nhiên, nhiều khi việc chung cũng vượt quá nếp sống thường ngày và ít mang
lại kết quả lợi lộc trước mắt. Vào thời loạn, gánh vác việc chung còn kèm theo cả
nguy hiểm tánh mạng. Do đó việc chung thường đòi hỏi tầm nhìn xa trông rộng, và
cũng thường làm cho nhiều người ái ngại.
Thể chế làng nước của Tổ Tiên mà người viết muốn trình bày nơi đây, là một đặc
điểm chẳng những đã giúp cho Dân Tộc Việt Nam thoát nạn quân chủ chuyên chế
ở thời quá khứ, mà còn là phương thức sẽ giúp cho toàn thể dân ta thoát khỏi ách
đấu thầu dân chủ ở thời hiện tại.
Từ xưa, các nền văn hóa phương Tây đã luôn bắt từng con người đơn độc phải
gánh chịu mọi tai ương do giới cầm quyền và thế lực áp đặt, từ những thuế khóa,
sưu dịch, quân vụ… đều ảnh hưởng trực tiếp tới từng người. Việc chung, việc làng
việc nước được coi như công tác phục vụ cho giai cấp cầm quyền thống trị.
Các chế độ hiện nay chẳng những biến đổi tổ hợp của người dân thành phương tiện
phục vụ giới đặc quyền, mà còn tìm mọi cách để phá hủy tổ ấm gia đình và cơ chế
bảo bọc người dân trong một xã hội.
Khi con người trở thành cô độc lạc lõng, thì những thế lực tiền bạc, quyền chức,
luật lệ, chuyên môn, nghiệp đoàn, đảng phái… sẽ mặc tình thao túng. Và người
dân trở nên đơn độc, nhỏ bé, bất lực trước một bộ máy quyền thế ngày thêm to lớn,
với sự đàn áp bóc lột một cách tinh xảo, vơ vét toàn bộ tài sản quốc dân một cách
bất nhân phi nghĩa.
3. Hệ thống làng nước
Sống đúng nguyên tắc Giữ Nước Là Việc Của Toàn Dân, Tổ Tiên lập ra một hệ
thống phòng thủ an toàn trong dân. Làng thôn là của dân và trở thành mạng lưới
thành lũy an ninh quốc phòng trải rộng khắp nước.
Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy rằng vua quan Việt cũng xây thành, nhưng thành thị
không phải là nơi tập trung sức nước. Thủ đô và thủ phủ đã chỉ là những cái làng
lớn với số cơ sở thích ứng, cần thiết cho nhu cầu hành chánh, nghi lễ ngoại giao…
Khi nguy cấp, vua quan ta sẽ sẵn sàng bỏ thủ đô mà chạy về chiến đấu trong địa
bàn ở các làng mà chống giặc cứu nước, và không ảnh hưởng tới dữ kiện mất
nước. Do đó, Thể Chế Làng Nước, làng là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của
mọi người dân, mà cũng là sức mạnh của toàn thể dân tộc.
Trước cuộc xâm lăng thuộc các lãnh vực, trước mưu đồ làm tổn hại cuộc sống
hạnh phúc của người dân, hệ thống làng thôn Việt luôn là cơ cấu chính yếu giúp
dân tộc bảo toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh, và vùng lên phá giặc. Giặc không
những chỉ quân xâm lăng cướp nước hay kẻ nổi loạn phá rối, mà còn là những ai,
những gì, ở bất cứ phương diện hay mức độ nào làm thiệt hại cuộc sống hạnh phúc
của con người, phá hoại nếp sống thanh bình của toàn dân.
Dưới khía cạnh quân sự làng là nơi huấn luyện mọi người, toàn dân trở thành nghĩa
sĩ, chống giặc. Chẳng những có hệ thống canh gác nghiêm nhặt, luôn bảo đảm có
lớp người túc trực, mà còn có những lò võ thuật đào tạo ra nhiều bậc anh hùng
đánh giặc, nhiều cấp lãnh đạo chỉ huy tài ba. Làng cũng là nơi phát xuất sức mạnh
dân tộc về mọi phương diện. Vì vậy trong công cuộc giữ nước, mở nước, cứu nước
thì làng đóng vai trò then chốt và quyết định sự thành công của cả dân tộc.
4. Kết Luận
"Quê tôi chìm chân trời mờ sương. Quê tôi là bao nguồn yêu thương. Quê tôi là
bao nhớ nhung se buồn, là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương…” Quả thật,
chỉ có bình đẳng và thân thương là hai nguyên lý nền tảng của đời sống con người,
và được Tổ Tiên ta cơ chế hóa vào trong một hệ thống tổ chức Làng Nước Việt
Nam.
Theo thể chế làng nước, giá trị cuộc sống của Người Dân đã không quy định bằng
quyền, bằng chức, bằng giàu sang uy thế, cũng không bằng tài năng, nghề nghiệp,
dòng họ, giai cấp, đảng phái… hay trên bất cứ gì ngoài con người, mà trên việc
Người Dân Việt thể hiện chính mình một cách trọn vẹn. Bởi thế trong làng, chúng
ta thường kính trọng thiên tước (người có tuổi) hơn nhân tước (người có quyền
chức). Vì thiên tước thể hiện việc tạo Hạnh Phúc Làm Người vừa cho chính mình,
lại vừa cho những người khác, trong cuộc sống cá nhân cũng như xã hội.
Vì vậy, giá trị cuộc sống của người dân Việt chính là ảnh hưởng hạnh phúc của con
người đó đối với những người xung quanh. Trong cuộc sống, ai càng làm cho
nhiều người cùng hưởng hạnh phúc Làm Người với chính mình, qua chính mình,
thì người đó càng được quý trọng hơn: như thày Chung Quân Nguyễn Đức Tiến
tác gỉa bài Làng Tôi đang sống mãi trong lòng Thần Báo vậy.
Theo truyền thuyết kinh tế của Đông phương, nhà Thương, Trung Hoa coi ruộng
đất là của chung, của thị tộc. Nhưng tới thời nhà Chu thì áp dụng phép tĩnh điền,
chia đất ra làm chín khu hình chữ tĩnh, khu ở giữa là công điền, tám khu chia cho
thị tộc canh tác rồi họ nộp hoa lợi cho nhà vua.
Tới thời Xuân Thu, Thượng Ưởng làm tướng của Nhà Tần, lại bỏ phép tĩnh điền và
chia nhỏ ra cho mọi người dân để họ tự quyền làm ruộng, rồi vua thu địa tô bằng
vật phẩm để thay cho phép nộp địa tô bằng sưu dịch trước đó. Và thời nhà Tần, sau
khi thống nhất đất nước, vua áp dụng chính sách trung ương tập quyền, bỏ phép
tĩnh điền và truất phế tám thị tộc đã từng khuynh đảo nền chính trị trước đó.
Khác biệt với phép tĩnh điền của người Hoa, Tổ Tiên Việt Nam đã áp dụng phép
quân điền. Vì Tổ Tiên muốn cho mọi người dân đều được hưởng sự an cư lạc
nghiệp, nên đã dùng cách phân chia ruộng đất và cấp phát đồng đều cho mọi người
trong làng thôn, không trừ một ai.
Trong suốt dòng lịch sử của văn hóa Việt, làng thôn chẳng những là nguồn sản
xuất kinh tế như trong xã hội nông nghiệp, mà còn là đơn vị quốc phòng, đơn vị tự
vệ hữu hiệu nhất mỗi khi đất nước lâm cảnh giặc xâm lăng.
Chế độ điền thổ theo nguyên lý là của chung, của vua người đại diện tối thượng có
quyền sở hữu cấp phát, và dân lãnh đất canh tác rồi nộp thuế cho vua. Đây là chế
độ công điền công thổ, chia đất định kỳ, và còn gọi là bình sản.
Để tạo ra nền công bằng xã hội, nhà Trần Lê Quý Ly lại đề xướng chính sách hạn
điền, yêu cầu những ai có hơn 10 mẫu thì phải nộp số ruộng dư để làm của công.
Nhà vua có quyền sở hữu, nhưng chủ quyền hưởng dụng lại do làng xã tự quản và
gọi là công điền công thổ, cấm không ai được quyền buôn bán đất đai.
Cứ mỗi ba năm, làng lại chia đất ra cho dân, cho các tráng đinh (trai gái trưởng
thành) gọi là quân cấp khẩu phần. Ngoài số ruộng chia cho dân tự túc canh tác,
làng cũng giữ lại số ruộng để làm công quỹ của làng.
- Bút điền là ruộng công trích ra để dùng vào việc chi phí hộ tịch, đơn từ trong
công việc điều hành quản trị làng.
- Trợ sưu điền, là số ruộng nhằm thực hiện những chương trình trợ cấp xã hội, như
giúp đỡ những người nghèo đóng thuế đinh.
- Học điền, là phần ruộng để hội tư văn dùng mà thuê thày dạy học cho dân làng.
- Cô nhi quả phụ điền, phần đất dành để giúp cho những con cháu mồ côi, những
góa phụ nghèo túng, v.v...
Trên đây là chính sách tuyệt vời, mà chỉ có dân tộc Việt Nam mới có. Tới nhà
Nguyễn, đời Minh Mạng thứ 6 năm 1826, có chỉ dụ về quy định việc mua bán sang
nhượng công điền hay tư điền một cách rõ ràng.
Việt Nam, nhờ có chế độ điền địa phân minh, mà ruộng đất đã không thể tập trung
vào trong tay của nhóm nhỏ người, mà tạo ra đặc quyền đặc lợi, như những lãnh
chúa ở Tây phương, hoặc là ở Nhật Bản hay Trung Hoa... Việt Nam, nhờ chế độ
công điền công thổ và chia đất định kỳ, phép quân điền giúp cho toàn dân cùng
được hưởng quyền sở hữu đất đai công cộng.
Quyền sở hữu ở Việt Nam đã có từ lâu đời. Chế độ điền địa đã giúp cho xã hội
Việt giữ được tư thế quân bình tiến bộ, văn minh hơn bất cứ một quốc gia nào
khác. Và nền tự trị ở làng xã Việt được duy trì lâu đời nhờ phép quân điền, một
tuyệt tác của Tổ Tiên, của Dân Tộc Việt Nam, sáng chế này độc đáo chưa mấy ai
có.
Mục đích của Tổ Tiên dùng phép quân điền là để xóa bỏ bất công xã hội. Tuy
nhiên cũng chưa triệt tiêu hết, và bất công xã hội vẫn còn là mối lo âu thường
xuyên của Vua Quan Việt.
Dưới triều Minh Mạng, quan đại thần Phan Huy Chú dâng sớ tâu vua (Lịch triều
hiến chương loại chí, năm 1826): "Cái mối lo nhất của triều đình là tài sản của dân
phân phối không đều. Và không gì quan trọng bằng việc cung ứng đầy đủ nhu cầu
thiết yếu cho thần dân. Việc đó chỉ thực hiện được qua sự phân chia lại ruộng đất
đủ bảo đảm mức sống an toàn của dân. Đừng để một tấc đất bị lãng phí, không
khai khẩn."
Nền kinh tế Việt Nam mang tính cách tự túc. Nguồn lợi tức tài chánh của đất nước
thường thu nhập bởi thuế đinh thuế điền. Chính quyền không trực tiếp bổ thuế vào
từng người dân, mà chỉ bổ vào từng làng. Từ đó, thuế khóa của làng trở thành cống
phẩm cống vật mà làng phải nộp cho Vua, hơn là định xuất của mỗi cá nhân phải
nộp.
Làng xã Việt Nam có nguồn tài chánh tự trị. Quỹ của làng đã không bị chính quyền
trung ương dòm ngó hay đòi hỏi chia chác, và cũng không có luật lệ nào quy định
về cách thức quản trị và xử dụng quỹ làng, ngoài sự tuân theo thói tục và lệ làng.
Hoa lợi hàng năm thu vào quỹ làng gồm có:
- Hoa lợi ao đầm và ruộng đất công.
- Tiền vọng ngôi thứ
- Thuế chợ, thuế đò
- Quỹ nghĩa thương, là kho thóc lúa dùng trong việc đề phòng những năm gặp
thiên tai, hạn hán, bão lụt, mất mùa, đói kém... và Kho Nghĩa Thương chỉ dùng vào
việc nghĩa để cứu dân làng.
- Một phần thuế bách phân phụ thu trên điền thổ của làng.
Tóm lại làng xã Việt vừa là đơn vị hành chánh lại vừa là đơn vị kinh tế, đơn vị
quốc phòng, đơn vị tín ngưỡng.
Và nền dân chủ của làng xã Việt, tuy còn trong giai đoạn phôi thai, nhưng đã có
nhiều nét đặc thù, tiến bộ văn minh hơn bất cứ một thể chế nào khác trên thế giới
trước mặt.
Trong làng có thông lệ chấm mãi biện, tức kiểm soát tài chánh, kiểm soát chi thu
trong ngân sách làng xã hàng năm. Mỗi năm ban hương lý lập bản báo cáo ngân
sách, niêm yết tại đình làng trình bày rõ ràng từng mục chi thu, thời gian được hạn
định một tháng trước ngày Tế Thần Hoàng. Mỗi năm dân chúng tập trung tại xét
duyệt cặn kẽ những mục chi thu trước khi biểu quyết ngân sách mới.
Qua sự kiện trên chúng ta thấy dân tộc mình đã biết xử dụng quyền công dân, và
ban hương lý cũng như dân làng đều lấy công minh làm trọng hàng đầu. Và nhờ
vậy ma công nhân viên chức làm việc trong chính quyền đã biết nể trọng công
luận, duy trì nếp sống An Dân Thịnh Nước.
Tìm hiểu tính tự trị của làng xã Việt Nam thời phong kiến ...
I). LÀNG XÃ VÀ TÍNH TỰ TRỊ CỦA LÀNG XÃ.
1). Sự hình thành làng xã Việt Nam .
Làng xã Việt Nam có từ thời rất xa xưa. Nó ra đời ngay từ thời khai sinh lập địa ra
dân tộc Việt Nam . Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về làng xã. Theo GS Phan
Đại Doãn, “làng là cộng đồng dân sự tự trị”. Theo GS Bùi Xuân Đính, làng là đơn
vị tụ cư truyền thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, có cơ sở hạ tầng
cùng cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng…nhưng chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất, còn xã
chỉ là đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước phong kiến ở cùng nông thôn. Không
phải làng đồng nhất với xã. Có thể nói mỗi xã là một làng nhưng cũng có thể mỗi
xã gồm nhiều làng hợp lại. Nhưng trước hết, làng xã phải là nơi đồng quê nhiều gia
đình ở qui tụ thành khu được gọi là xóm, các xóm phân biệt nhau bằng các lũy tre.
Trên đường đi vào thường có cổng xây hoặc tre, đến đêm tối có thể đóng lại được
để phòng ngừa trộm cắp. Hai, ba, bốn thôn họp thành làng xã. Danh từ “làng”
nhiều khi được dùng lẫn lộn với xã, thôn. Làng là tiếng thuần túy Việt Nam , xã là
một từ hán có nghĩa là cái nền để tế thần đất. Với số lượng cư dân sống ở các vùng
nông thôn rất lớn, mọi công việc của Nhà nước cũng như ở địa phương về nguyên
tắc đều được thực hiện ở địa phương, tức ở làng xã. Việc dân quê sống, sinh hoạt
thành làng xã có rất nhiều lý do. Vì vậy nên vấn đề quản lý làng xã là một vấn đề ở
thời kỳ nào cũng là bức xúc.
Theo lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam từ thời phong kiến đến thời Pháp
thuộc, làng xã đều được tồn tại một cách độc lập. Nhà nước phong kiến và cả chính
quyền thực dân đều phải thừa nhận. Trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt
Nam , xã trở thành đơn vị hành chính từ bao giờ rất khó xác định một cách chính
xác. Với ba thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm, không rõ đơn vị hành chính
thấp nhất là gì. Có lẽ cũng do nhà Hán truyền sang, rồi biến dạng một ít nhiều.
Hương, xã ở Trung Quốc thì có dính dáng với nhau bằng huyết thống, còn xã của
Việt Nam không nhất thiết phải là huyết thống, mà gồm những người khác nhau
đoàn kết sống chung trên cùng một mảnh đất.
Đến thế kỷ thứ X, xã trở thành đơn vị hành chính căn bản của quốc gia. Trên thực
tế có xã gồm nhiều làng, có xã chỉ một làng. Theo sổ sách hành chính, danh từ xã
được dùng trong các loại giấy tờ sổ sách là một đơn vị khởi điểm của hạ tầng cơ
sở, bất kể xã chỉ có một xóm hay nhiều thôn. Ở bên cạnh khái niệm “làng” còn có
khái niệm “thôn”. Nhưng trong lịch sử thôn và làng hầu như không có sự phân
biệt. Có xã được hình thành từ ba, bốn thôn, tức là ba, bốn làng. Người tà gọi là
“nhất xã nhị, tam thôn”. Ngược lại có xã được hình thành chỉ từ một làng, tức là
một thôn. Người ta gọi là “nhất xã, nhất thôn”.
2). Nguồn gốc và thực chất của tính tự trị của làng xã.
Tự trị là cách thức, phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước thể hiện mức độ
trao quyền cho cấp chính quyền địa phương mà ở đó cấp chính quyền địa phương
được quyền độc lập trong việc thực thi quyền lực Nhà nước. Tự quản là phương
thức giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực Nhà nước và quyền tự quản lý của
nhân dân, thể hiện mức độ và phạm vi tác động của quyền lực Nhà nước tới đời
sống xã hội. Tự quản là sự quản lý nằm ngoài phạm vi của chính quyền, là quyền
tự quyết định đối với những vấn đề riêng của từng đơn vị dân cư, một dạng quản lý
không phải nhân danh chính quyền và pháp luật mà nhân danh các thiết chế tự
quản được thực hiện thông qua các quy ước riêng của nó.
Mỗi làng xã từ khi mới thành lập đều có một sự độc lập nhất định hay còn gọi là
tính tự trị - tự quản. Dưới góc độ dân tộc học – pháp luật, thiết chế hoặc tổ chức xã
hội nào cũng có cách quản lý của nó để nắm các thành viên theo một quy chế
thống nhất. Mỗi làng xã cũng vậy, nó cũng có cách tổ chức quản lý của riêng nó.
Không có một cách quản lý dùng chung cho mọi làng xã. Như vậy bản thân làng xã
có sự “độc lập tương đối” với các đơn vị xã hội khác, kể cả nhà nước.
Thứ hai, Nhà nước ra đời trên cơ sở tập hợp các làng xã. Hay nói cách khác nhà
nước xuất hiện là tổ chức của nhiều làng. Điều đó có nghĩa là trước khi Nhà nước
ra đời thì làng xã đã tồn tại như một thực thể riêng biệt. Sự tồn tại các phe phái, các
quan hệ chồng chéo trong làng làm nảy sinh những mâu thuẫn ngầm trong nội bộ
làng mà Nhà nước không thể điều hòa được nên đành “để mặc” cho làng xã tự giải
quyết, miễn không làm tổn hại đến Nhà nước. Thêm nữa, Nhà nước để có sức
người sức của dùng vào việc công và quốc phòng cần phải có sự đóng góp của
người dân. Nhưng người dân lại chịu sự kiểm soát của làng xã về mọi mặt từ lâu
đời. Muốn đạt được mục đích Nhà nước phải đi đến người dân thông qua làng xã.
Nhà nước giao chỉ tiêu, làng xã trực tiếp thực hiện từ việc thu thuế, bắt lính, huy
động lao dịch…Như vậy, nhà nước chỉ biết đến làng xã mà không biết đến từng cá
nhân. Có thể nói, về mặt này, làng xã là công cụ khá lý tưởng phục vụ cho Nhà
nước. Đổi lại Nhà nước muốn làm lợi cho mình thì đương nhiên phải tôn trọng
quyền tự trị - tự quản - quyền “độc lập tương đối” của làng xã.
Những điểm này chính là nguồn gốc và thực chất của cái gọi là “tự trị” của làng xã.
II). NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TÍNH TỰ TRỊ CỦA LÀNG XÃ.
Chế độ xã, thôn tự trị là một chế độ đặc biệt của Nhà nước Việt Nam , được hình
thành và phát triển từ thời rất xa xưa. Theo chế độ này thì xã thôn Việt Nam được
hưởng một nền tự trị hết sức rộng rãi về các phương diện sau:
· Thứ nhất, tự trị về chính trị: xã nào cũng có một ban quản trị gần như biệt lập
đối với nhà chức trách hành chính cấp trên.
· Thứ hai, tự trị về kinh tế: xã nào cũng có tài sản riêng và có quyền tự do quản
trị và sử dụng tài sản đó.
· Thứ ba, tự trị về xét xử.
· Thứ tư, tự trị về việc đảm bảo an ninh trong làng xã.
· Thứ năm, tự trị về văn hóa tín ngưỡng.
· Thứ sáu là tự trị về luật tục và hương ước.
· Thứ bảy, tính tự trị của làng xã thể hiện qua mối quan hệ giữa làng và nước.
1). Tự trị về chính trị.
Ban quản trị làng xã có tính cách hầu như biệt lập với các nhà chức trách cấp trên.
Việc quản trị làng xã gồm 2 cơ quan: 1 cơ quan quyết nghị và 1 cơ quan chấp
hành.
a). Cơ quan quyết nghị xã.
Ø Thành phần Hội đồng kỳ mục và vị thứ các Kỳ mục.
Cơ quan quyết nghị xã nói ở đây là một tập thể gồm nhiều người, trước khi quyết
định về mọi việc gì thường hội họp lại để thảo luận chung. Cơ quan đó được gọi là
Hội đồng kỳ mục (hay còn gọi là Hội đồng làng, Hội đồng xã).
Hội đồng kỳ mục là một tập thể không hạn định về mặt số lượng các thân hào danh
tiếng trong xã, đã từng đỗ đạt như tú tài, cử nhân, tiến sĩ; đã làm quan hoặc đang
làm quan. Khác với cơ quan chấp hành xã, Hội đồng kỳ mục thời đó không phải do
một cơ quan do nhân dân trong xã bầu ra. Họ được quyền tham dự Hội đồng kỳ
mục khi có đủ các điều kiện qui định trong hương ước của xã, làng. Đối với Hương
ước trọng phẩm hàm thì thành phần Hội đồng kỳ mục chỉ bao gồm những người đã
từng hoặc đang làm quan lại trong triều. Hoặc có địa phương trọng cả hai. Dù có
đủ tiêu chuẩn như qui định trong Hương ước đi chăng nữa muốn tham dự Hội đồng
kỳ mục, đương sự phải nộp vọng và khao dân mới có thể ngồi trong Hội đồng kỳ
mục được.
Nộp vọng là sửa một lễ vật để tế thần trong xã. Đây là vị Thần Thành Hoàng bản
xã. Còn khao dân là bữa tiệc mời nhân dân trong làng đến dự để tuyên bố cho mọi
người biết đương sự đã đủ điều kiện để vào Hội đồng kỳ mục rồi. Trong trường
hợp không nộp vọng, không khao dân thì không đủ điều kiện để vào Hội đồng theo
câu tục ngữ “Vô vọng bất thành quan”. Vì số kỳ mục không hạn định và không hạn
định thời gian , nên tương đối đông. Nhất là ở những làng xã danh tiếng, có nhiều
người thành đạt.
Thứ tự chức vị trong Hội đồng kỳ mục được sắp xếp hết sức chặt chẽ theo qui định
của Hương ước. Ở xã nào trọng thiên tước, thì đệ nhất kỳ mục, tức là tiên chỉ, phải
là người cao niên nhất Hội đồng. Nếu trọng phẩm hàm thì người có phẩm hàm cao
nhất là tiên chỉ. Tiên chỉ là người đứng đầu Hội đồng kỳ mục, được ngồi chiếu cao
nhất ở đình trung. Thứ bậc trong Hội đồng kỳ mục thường được sắp xếp theo tuổi
tác hoặc theo phẩm hàm quan chức. Nếu cùng phẩm hàm, cùng khoa bảng, nhưng
tuổi tác cao hơn, thì bao giờ cũng được sắp xếp cao hơn. Dưới tiên chỉ là thứ chỉ,
và các thành viên khác theo thứ tự phẩm hàm và tuổi tác, được gọi là các kỳ mục.
Kỳ mục là những cựu chánh, phó tổng, tuần tổng, cựu chánh, phó lý.
Ø Cách thức hoạt động và thẩm quyền của Hội đồng kỳ mục.
Về nguyên tắc, các việc cai quản trong xã, làng đều do Hội đồng kỳ mục quyết
định. Trên thực tế tiên chỉ là người có quyền quyết định cao nhất mọi việc trong
xã. Tuy nhiên, ông không giữ trọn quyền quyết định, vì phải hỏi ý kiến các vị kỳ
mục khác, thường là các mục đại diện cho các dòng họ trong xã. Thời bấy giờ dòng
họ được coi là có thế lực nhất là dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhất
trong xã.
Nơi họp Hội đồng kỳ mục là đình làng, tức là nơi thờ Thần Thành Hoàng trong xã.
Theo tục lệ Hội đồng họp vào ngày mồng 1 và ngày rằm trong tháng. Những việc
đem bàn là những việc liên quan đến toàn dân, như phân bổ thuế, tuyển binh, việc
phân công điền.
b). Cơ quan chấp hành xã.
Cơ quan chấp hành xã do một người đại diện, có nhiệm vụ thi hành các
quyết nghị của Hội đồng kỳ mục, do đó, được gọi là cơ quan chấp hành. Cơ quan
này do xã trưởng hoặc lý trưởng tượng trưng.
Ø Cách thức chỉ định xã trưởng.
Các cơ quan này ở thời kỳ ban đầu của triều đại phong kiến nhà Lý, nhà Trần đều
do chính quyền cấp trên bổ nhiệm. Đến khi nhà Minh ( Trung Quốc) xâm lược,
việc tổ chức làng xã rập khuôn theo kiểu của Trung Quốc. Đứng đầu là lý trưởng
do toàn dân đinh trong xã bầu lên. Số xã trưởng nhiều ít tùy theo số lượng nhiều ít
các gia đình trong làng xã. Xã trên 500 gia đình (hộ) có 5 xã trưởng, trên 300 hộ có
4 xã trưởng, có 100 hộ thì 2 xã trưởng.
Các xã trưởng đều không được xếp vào đẳng cấp quan lại, tức là không phải
viên chức của triều đình, do dân đinh trong làng xã cử ra và được quan trên phê
duyệt. Từ thời nhà Lý đã có lệ mỗi làng lập một trương tịch, là quyển sổ kê khai
đầy đủ các loại dân đinh: số lượng quan văn, quan võ, thơi lại, quân lính, hoàng
nam, lão nhiêu, tàn tật, và những người ngoại cư. Có thể nói rằng xã (lý) trưởng là
mắt xích liên hệ Nhà nước phong kiến và cộng đồng dân cư trong xã thông qua Hội
đồng kỳ mục. Tuy sau này không được triều đình bổ nhiệm, nhưng phải được phê
chuẩn. Xã trưởng là người đại diện cho nhân dân toàn xã. Triều đình xác nhận kết
quả bầu xã trưởng bằng cách cấp cho xã lý trưởng một tấm bằng. Trước khi cấp,
nhà chức trách cấp huyện phải điều tra tiêu chuẩn của người được bầu, cùng với
cách thức tiến hành bầu cử, phù hợp của cách thức bầu cử với pháp luật hiện hành
của triều đình.
Ø Nhiệm vụ xã trưởng
Xã trưởng có trách nhiệm thi hành các quyết định của Hội đồng kỳ mục và các
quyết định của cơ quan Nhà nước cấp trên có liên quan đến dân trong xã. Nhiệm
vụ của xã trưởng cũng như của lý trưởng cũng như của lý trưởng rất phức tạp, có
thể tóm tắt như sau: thu thuế, mộ lính, cung ứng các tạp dịch vụ khác cho Nhà Vua
và Triều đình như sửa đường, đào kênh, đắp đường, vét sông, chuyên chở…
Ø Nhiệm vụ của các viên chức phụ tá xã trưởng.
Để thi hành công vụ, lý trưởng có một số cộng sự phụ tá. Đó là: phó lý, trương
tuần và các tuần đinh.
Phó lý là người giúp việc trực tiếp cho lý trưởng, cũng do dân trong xã bầu ra,
theo tục bầu lý trưởng. Theo một đạo luật ban hành dưới triều Minh Mạng thì
nhiệm kỳ của phó lý cũng như của lý trưởng là 3 năm. Tuy nhiên đạo luật này
không được một số nơi áp dụng, thành thử có những xã làm tới 20 – 30 năm.
Trương tuần thường không do dân bầu ra, mà do Hội đồng kỳ mục chỉ định, có
nhiệm vụ phụ trách các việc tuần phòng trong xã, thường được lựa chọn từ những
người khỏe mạnh và phải có đôi chút tài sản để có khả năng bồi thường cho dân
khi xảy ra những vụ trộm cắp mà nguyên nhân là do sự sơ suất của trương tuần và
tuần đinh trong công việc canh phòng. Trương tuần có các tuần đinh phụ tá.
Trương tuần và tuần đinh có chức năng thực hiện việc giữ gìn trật tự trị an trong
xã. Chính nhờ lực lượng tuần đinh này mà triều đình được rảnh tay rất nhiều,
không phải lo lắng nhiều về vấn đề an ninh cơ sở.
Lý trưởng, phó lý, trương tuần đều không được hưởng lương bổng. Để thù lao cho
lý trưởng, phó lý, xã nào cũng có lệ để dành mấy sào ruộng (gọi là ruộng bút) cho
họ cày cấy thu hoa lợi trong khi đảm nhiệm chức sắc. Dĩ nhiên hoa lợi trong số
ruộng này không thể đủ đài thọ nổi các khoản kinh phí mà họ phải chịu trong khi
đương chức. Do đó thường xảy ra những vụ phụ thu, lạm bổ. Các trương tuần và
tuần đinh không được hưởng ruộng bút như phó, lý trưởng, nhưng được thu lúa
sương của các chủ điền. Những người có ruộng hằng năm mỗi vụ gặt thường phải
dành cho trương tuần và tuần đinh mỗi sào mấy lượm lúa gọi là lúa sương.
Như vậy, làng xã Việt Nam là sự tự trị tự quản hoàn toàn. Bởi các cơ quan này là
cơ quan cao nhất ở làng xã để quản lý tất cả những vấn đề quan trọng nhất ở làng.
Chính sự tự trị về chính trị là cơ sở để làng xã tự trị trên tất cả các mặt như kinh tế,
văn hóa, tư tưởng…
2. Tự trị về kinh tế
Thời đó, xã nào, làng nào cũng có tài sản riêng và cũng có quyền quản trị cùng là
sử dụng các tài sản đó. Đó là những khoản thu nhập từ những hoa lợi, những ao
đầm, ruộng đất công, tiền vọng ngôi thứ, tiền nộp cheo, tiền thuế chộ, thuế đò,
nghĩa thương. Những khi làm đình, làm chùa, làm quán chợ, bắc cầu cống là
những việc cần phải mua vật liệu, mướn thợ làm các làng thường bán ngôi thứ (bán
nhiêu, bán thứ) hoặc bán hậu để có tiền chi dùng. Những việc to khác như đắp
đường, đắp đê, đào sông, hầu hết dân trong làng đóng góp công sức không phải
dùng đến tiền. Quỹ làng là quỹ tự trị, Nhà nước không có quyền sử dụng, cũng
không dùng pháp luật để điều chỉnh việc sử dụng. Nhiều làng có ruộng công và tư
thường có tập tục lập nghĩa thương là kho thóc đề phòng những năm đói kém về
thiên tai hạn hán hay lũ lụt. Nghĩa thương là kho thóc dùng cho việc nghĩa. Từ xa
xưa nhiều làng đã tự tổ chức nghĩa thương. Có làng lập ra những bản hương ước
riêng về các vấn đề này như bản hương ước về lập và sử dụng quỹ nghĩa thương
của làng Đề Kiều (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) mang tên “Đề
Kiều xã dân tục”; hoặc làng Hậu ái (nay thuộc xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh
Hà Tây) lập bản Hương ước mang tên “Hậu ái thôn khoán lệ” (năm Đồng Khánh 2,
1887) chỉ gồm các quy định về lập hội tư cấp để giúp nhau trong đời sống hàng
ngày. Từ thời Lê, chính quyền nhận thấy việc này là cần thiết nên thường hay
khuyến khích. Thời Tự Đức quyết định cho các xã thôn đều phải lập quỹ nghĩa
thương, và phải chọn những người liêm khiết giữ kho và giữ sổ. Thóc nghĩa
thương thu được chia làm 3 phần: 1 phần cấp cho phu tuần, 2 phần lưu trữ. Các
triều đại nhà Nguyễn thường khuyên các nhà hòa phú tùy tâm cho vay tiền và thóc
giao cho nghĩa thương, gặp những năm đói kém tùy nghi mà trợ cấp cho những
người nghèo khổ.
3. Tự trị về xét xử (pháp đình hàng xã).
Ta có thể nói xã nào cũng có pháp đình riêng do nhân vật quan trọng nhất trong xã
chủ tọa. Trước đời nhà Nguyễn, vị chủ tịch pháp đình hàng xã thường là vị xã
trưởng vì trong thời kỳ này xã trưởng là người có uy tín nhất trong xã. Nhưng tình
trạng này đã thay đổi hẳn dưới triều Nguyễn. Kể từ năm 1802 trở đi, nhân vật có
uy tín nhất trong làng không là lý trưởng mà là vị Tiên chỉ, vị đệ nhất kỳ mục. Tiên
chỉ có quyền hòa giải các vụ tranh chấp trong làng. Ngoài ra những vụ hình sự nhỏ
xảy ra trong làng cũng do Tiên chỉ trừng trị. Ví dụ trong xã có 2 người tranh chấp
nhau về ruộng đất thì Tiên chỉ có quyền xét xử trước tiên. Ông này có quyền tìm
cách hòa giải để dập tắt vụ tranh chấp này, có quyền không những căn cứ vào pháp
luật của triều đình, thậm chí chỉ căn cứ vào lệ làng và lẽ công bằng để phán xét vụ
việc. Chỉ với những vụ án quan trọng, hoặc các bên đương sự không phục tùng
quyết định của làng mới được đệ lên quan trên xét xử. Hình phạt mà Tiên chỉ có
quyền đưa ra là phạt tiền gọi là ngân hình, hoặc có thể đánh đòn bằng roi. Đối với
các án tụng phải xét xử ở cấp Nhà nước, vai trò của làng xã vẫn được nhấn mạnh
như một cấp thụ lý đầu tiên. Điều 6 của Hương ước làng Mộ trạch (Hải Hưng) năm
canh tỵ thứ 3 (1665) còn ghi rõ: “Nếu một dân làng nào muốn thưa kiện thì người
đó trước hết phải nộp đơn cho xã trưởng, để xã trưởng là người đầu tiên được biết
về việc đó và là người đầu tiên xét đơn. Cấm không được vượt qua thứ bậc đó.
Người vi phạm sẽ bị làng phạt vạ một con trâu và 6 vò rượu”.
4. Về vấn đề tuần phòng trong xã.
Mỗi xã có một ban tuần riêng. Ban tuần này có một số tuần đinh do một Trương
tuần điều khiển. Ban tuần này phụ trách công việc tuần phòng trong xã, giữ gìn trật
tự an ninh. Chính nhờ có ban tuần nói đây mà triều đình được rảnh tay rất nhiều,
không phải lo lắng về vấn đề an ninh trong xã cả, không phải phái binh lính về mỗi
xã để giữ gìn trật tự. Các xã thời đó được tự do lựa chọn những dân đinh nào cần
được xung ban tuần. Về vấn đề này, tục lệ trong xã đều không giống nhau. Có xã
áp dụng nguyên tắc luân phiên để cử các trai tráng xung vào ban tuần. Cũng có
nguyên tắc tình nguyện. Ở những xã nói đây những người ban tuần thường làm
việc rất lâu. Triều đình cũng như các quan không hề can thiệp vào việc lựa chọn
các tuần đinh. Riêng Trương tuần, vì là một chức dịch hàng xã nên cần phải được
thuận của quan bản hạt thì việc chỉ định Trương tuần mới định được. Chính vì
được tự do lựa chọn ban tuần mà đài thọ về khoản kinh phí về ban tuần sau này.
Thực ra các ban tuần không được lĩnh lương và chỉ sống bằng số lúa sương do cá
nhân hoặc các người lĩnh canh ruộng trong xã đóng góp
5. Về văn hóa tín ngưỡng.
Mỗi xã có riêng một ngôi đình để thờ Thành Thành Hoàng của xã đó. Dân gian đã
có câu: “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Cùng đó mỗi
làng có một lễ hội khác nhau. Thời gian và cách thức tổ chức lễ hội phụ thuộc vào
mỗi vị thánh làng thờ.
Mỗi làng xã có cá tính khác nhau. Thậm chí nhờ vào tính cách đặc trưng đó của
làng người ta có thể nhận biết được làng. Chúng ta đã từng nghe những câu tục
ngữ như “Trai Cầu Vồng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim”, “Văn chương Xuân
Mỹ, lý sự Thủy Khê”, “Chua ngoa là đất Kẻ Đình, dài váy Đốc Tín, cậy mình Kẻ
Siêu”…
6. Tự trị về luật tục và hương ước.
Hương ước ra đời là văn bản hóa lệ làng, Đó là sự khẳng định thêm một lần nữa
tính tự quản của làng xã. Trong phần mở đầu của phần lớn các hương ước đều
khẳng định “làng có hương ước cũng như nhà nước có pháp luật”, “nước có luật lệ
của nước, làng có hương ước riêng” hay “nước có chính lệnh, làng có tư ước” như
một lẽ tự nhiên, “tất yếu”. Ví dụ, Hương ước làng Phú Cốc (xã Hà Hồi, nay thuộc
huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) soạn năm Chính Hòa 18 (1697) mở đầu có đoạn
“Từng nghe, nước có trăm điều pháp luật để làm cho chính sự được ngay ngắn,
xóm làng có từng ước lệ để mà cho phong tục thêm thuần hậu”. Hoặc Hương ước
làng Mộ Trạch (nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương) soạn
năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) mở đầu bằng đoạn: “từng nghe, quốc gia nói cái đạo
trị bình, phải cắt đặt hết mọi kỷ cương; làng mạc hun cái thòi thuần hậu, cần làm
sáng tỏ mọi điều thúc ước. Thể thức làm sao cho hợp, điều khoản cốt được rõ
ràng”
Có thể nói những phát biểu trên đây không đơn thuần chỉ là sự phản ánh nội dung
quan niệm về sự cần thiết có công cụ quản lý riêng của làng xã mà còn là “lời
tuyên ngôn về quyền tự trị - tự quản” của mỗi làng đối với Nhà nước. Như vậy,
làng xã công khai tuyên bố quyền tự trị của mình với nhà nước và được nhà nước
thừa nhận
Hương ước ra đời là kết quả của sự thỏa hiệp giữa tính tự trị làng xã và tính áp chế
của chính quyền nhà nước. Có thể nói nó thể hiện rất rõ tính tự trị của làng xã đối
với nhà nước. Làng xã thay đổi thì hương ước sẽ được sửa đổi, bổ sung sao cho
phù hợp với tình hình mới. Ngày nay, hương ước cũng có nhiều những thay đổi về
tên gọi, nội dung cũng như phạm vi điều chỉnh.
7. Tính tự trị của làng xã thể hiện qua mối quan hệ giữa làng với nước.
Tính cách tự trị của làng thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa làng xã với quan
trên hay với triều đình. Về nguyên tắc, Nhà Vua hay triều đình không được trực
tiếp giao dịch với dân trong làng xã. Triều đình không cần phải biết người dân
trong xã phải đi lính cho nhà Vua là ai, hay ai là người phải nộp bao nhiêu, và
những ai là người phải đi lính. Theo quyết định của triều đình, các nhà chức trách
xã bao gồm Lý trưởng, Tiên chỉ, bàn bạc với các kỳ mục có uy tín trong làng, để ấn
định danh sách dân đinh phải đóng thuế hay phải đi lính. Nhà nước quản lý làng xã
về cơ bản đều thông qua đại diện của làng xã. Đó là các xã trưởng. Quản lý người
đứng đầu làng xã như thế nào là câu hỏi phải đặt ra cho mọi Nhà nước. Nhà nước
dùng sức mạnh hành chính luật pháp để chi phối người làng xã.
Các cơ quan quản trị ở xã đều do dân xã bầu ra nhưng kết quả bầu cử phải được cơ
quan cấp tỉnh duyệt y mới được quyền hành động. Do vậy triều đình mới có dịp
kiểm soát tiêu chuẩn cũng như trình độ hạnh kiểm và nhất là lòng trung thành với
triều đình. Đối với Hội đồng kỳ mục, sự kiểm sát không chặt chẽ bằng các cơ quan
quản trị, vì các kỳ mục là những người không do dân xã bầu mà chỉ là những người
đạt những chỉ tiêu theo qui định cuả Hương ước. Đa số các Hương ước qui định kỳ
mục phải là những người có phẩm hàm hay bằng cấp khoa mục. Mà bằng cấp cũng
như phẩm hàm đều do nhà Vua ban cho. Vì vậy triều đình chỉ cần giáng chức hoặc
bằng cấp xuống, là có thể gạt một ai đó ra khỏi thành viên của Hội đồng kỳ mục.
Như vậy, mặc dù được hưởng một nền tự trị rộng rãi như vậy nhưng các làng, các
xã vẫn bị sự kiểm soát thường xuyên của các quan lại cấp trên của triều đình phong
kiến.
Thời Pháp thuộc, do người Pháp muốn quản lý làng xã một cách chặt chẽ hơn nên
đã tiến hành cuộc cải cách được gọi là cải lương hương chính, Hội đồng kỳ mục
được thay thế bằng Hội đồng tộc biểu. Hội đồng tộc biểu còn được gọi là Hội đồng
hương chính, gọi tắt là Hương hội. Cũng theo thể lệ bầu cử Hương hội cử Chánh
phó hội, thư ký, thủ quỹ. Hương hội họp mỗi năm 2 kỳ dưới sự chủ trì của Chánh
hội. Các nghị quyết của Hương hội phải được quá nửa số Hương hội tham dự đồng
ý mới có giá trị thi hành. Nhưng chẳng bao lâu, người Pháp đã thấy rằng Hội đồng
tộc biểu hoạt động kém hơn Hội đồng kỳ mục. Bởi vì những người đại diện cho
các dòng họ thường không phải là những người có phẩm hàm, có bằng cấp như
Hội đồng kỳ hào. Chính sách cải lương này thực hiện không được bao lâu, chính
quyền thực dân lại phải quay dùng thiết chế cũ, tức là Hội đồng kỳ mục.
IV). NHẬN XÉT – TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
Ø Nhận xét
Qua những phân tích trên ta thấy rằng chế độ tự trị của làng xã Việt Nam là sự tự
trị hoàn toàn, từ chính trị, kinh tế, văn hóa đến trật tự an ninh thôn xóm. Tóm lại,
trong suốt chiều dài của lịch sử làng xã, tư tưởng tự trị - tự quản ở làng xã được thể
hiện đậm đặc và điển hình trong nhận thức của cộng đồng cư dân các làng xã. Cái
quy định nó chính là những điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù của làng xã mà nổi
lên trên hết là trạng thái đóng kín, tự cấp, tự túc của nền kinh tế dẫn đến xu hướng
biệt lập về xã hội của mỗi làng xã. Bên cạnh đó, truyền thống tự quản có từ trước
khi Nhà nước áp đặt bộ máy quản lý lên các đơn vị tụ cư cơ bản của người nông
dân Việt cũng như sau này là khả năng chi phối không cao của Nhà nước trung
ương đối với từng đơn vị tụ cư dẫn đến quan hệ lỏng lẻo giữa Nhà nước và làng xã
là những chất xúc tác để tư tưởng đó được bảo lưu và tiếp tục phát triển.
Ø Tích cực
Việc quản lý làng xã do 2 cơ quan đảm nhiệm làm bớt các công việc quản lý của
Nhà nước cấp trên, đồng thời không phải mất nhiều khoản chi phí cho những hoạt
động của làng xã. Tính tự trị của làng xã mang rất nhiều nét dân chủ. Như ở chỗ
nhân dân xã trực tiếp bầu ra người điều hành quản trị ở địa phương. Xã trưởng do
nhân dân xã tự bầu ra. Triều đình không phải lo lắng gì về vấn đề lương bổng cho
các viên chức trong xã. Chính nhờ chế độ thôn xã tự trị mà công cuộc nam tiến của
nước chúng ta được dễ dàng thực hiện hơn. Thiết nghĩ rằng nền dân chủ của chúng
ta cần phải gìn giữ và phát triển chế định bầu cử trực tiếp người đứng đầu hành
pháp ở làng xã như trước kia. Với chế định này, nhân dân xã có điều kiện cho việc
kiểm tra, giám sát chính quyền nhà nước ở địa phương cơ sở hơn. Hiện nay nhân
dân địa phương chỉ có quyền kiểm tra giám sát chính quyền địa phương một cách
gián tiếp thông qua cấp ủy Đảng và Hội đồng nhân dân địa phương.
Nhờ làng xã có tính tự trị tương đối góp phần làm cho đất nước có một nền văn
hóa phong phú, đa dạng. Chúng ta đã có những làng văn hóa với những nét văn
hóa đặc trưng nổi bật, nó không bị xóa bỏ bởi văn hóa làng khác, vùng miền khác,
hay sự can thiệp của chính quyền trung ương, thậm chí là chính quyền của ngoại
xâm.
Với tính tự trị tự quản của mình, làng xã là nơi bảo lưu tốt nhất những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp, đáng quý để cho con cháu đời sau noi gương học tập như:
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, truyền thống giữ đạo hiếu, nhân
nghĩa…
Ø Tiêu cực
Bên cạnh những điểm có lợi trên chế độ tự trị làng xã cũng đem lại tệ hại cho nhiều
làng cũng như của xã hội Việt Nam nói chung. Đó là tệ nạn cường hào nhũng
nhiễu.
Thứ hai, với chế độ tự trị làng xã như một Nhà nước, có tính chất khép kín, người
dân làng này đến làng khác như một nơi xa lạ, người dân không chịu đi nơi khác
làm ăn sợ mang tiếng là “tha phương cầu thực”, không chịu học hỏi mở mang trí
tụê, sống trong lũy tre làng, nhãn quan của họ không có điều kiện vượt ra ngoài
ngôi đình cái chợ…
Thứ ba, chúng ta vẫn nghe câu “phép vua thua lệ làng”. Thật ra nói như vậy cũng
hơi cường điệu vị trí của làng xã. Lệ làng thế nào thì cũng không được trái với
phép nước. Nhìn chung là hương ước của làng xã thống nhất với pháp luật của nhà
nước. Cơ cấu quyền lực của làng xã là quyền lực kép, có sự hòa hợp của quyền tự
trị và quyền nhà nước. Nhưng câu nói đó đúng trong trường hợp nhà nước yếu,
không quản lý nổi làng xã như trên. Khi đó làng xã tự vận hành theo tục lệ riêng,
theo sự điều khiển của một số cá nhân chức sắc trong làng, bất chấp cả phép nước.
Thứ tư, làng xã với tính tự trị của nó bảo lưu rất tốt các giá trị truyền thống nhưng
đồng thời nó cũng lưu giữ những hủ tục “thâm căn cố đế”, không dễ dàng xóa bỏ
vì nhà nước có muốn can thiệp vào cũng khong đơn giản. Như những hủ tục về
khao vọng, cưới xin, ma chay cỗ bàn đình đám, trọng nam khinh nữ…mà đến ngày
nay chúng ta vẫn chưa xóa bỏ được hết, thậm chí để xóa bỏ được một vài hủ tục
cũng rất khó khăn và mất một thời gian không phải là ngắn.
KẾT LUẬN
Tính tự trị của làng xã dù có mặt ngoài tích cực hay tiêu cực thì cũng tồn tại một
cách tất yếu. Xã thôn vẫn còn thì tính tự trị vẫn còn. Thời phong kiến, trong làng
ngoài bộ phận tự trị có thêm bộ phận chính quyền nhà nước chồng xếp lên nhau tạo
nên một kết cấu quyền lực kép. Đến năm 1945, kết cấu này bị bãi bỏ vì cấp xã lúc
này là một đơn vị chính quyền liên làng (khoảng 5 – 6 làng). Bộ phận tự trị của
làng bị giải thể. Nhưng từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 về sau, làng thôn được tái
lập. Cùng với nó là tính tự trị tự quản của làng xã cũng được phục hồi. Nhiều làng
lại có ban tự quản và lập lại hương ước mới. Vì tính tự trị của làng xã có tác động
hai mặt tới sự phát triển của đất nước, nên vấn đề làm sao để phát triển xã hội nông
thôn cho phù hợp, phải rất chú trọng tới tính chất này của làng xã. Vì nếu phát huy
được nhân tố tích cực thì hiệu quả đạt được sẽ rất tốt đẹp. Nhưng ngược lại chúng
ta sẽ phải chịu hậu quả vô cùng nặng nề, có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng
chính trị xã hội sâu sắc mà không dễ gì giải quyết được. Ngày nay chúng ta vẫn đề
cao tính tự trị của làng xã vì đó là nhân tố giúp ổn định xã hội nông thôn nước ta.
Nhưng phải tạo điều kiện để phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế tiêu cực của
tính tự trị. Tạo điều kiện xây dựng và thực hiện các hương ước mới, các quy chế về
nếp sống văn minh ở thôn xã. Nhà nước cần sớm nghiên cứu để ra quy chế thích
hợp về chức năng vai trò của cấp thôn, ấp, bản, phù hợp với tình hình của từng
vùng.
Hiện nay, nước ta đang dự kiến thí điểm về việc bầu Chủ tịch xã. Và có nên chăng,
Hội đồng nhân dân sẽ xây dựng theo như Hội đồng kỳ mục của thời phong kiến?
Theo em nghĩ là nên bởi như thế sẽ thiết thực hơn vì Chủ tịch xã do nhân dân trong
xã tín nhiệm bầu ra thì làm việc với nhân dân có hiệu quả và được tôn trọng hơn.
TÍNH TỰ TRỊ CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ
Các nghiên cứu về nông thôn cho thấy làng là đơn vị xã hội tồn tại lâu đời. Trước
tiên làng là một công xã nông thôn, sau mới chuyển thành đơn vị hành chính cơ sở.
Và tự nó đã hàm chứa cả hai yếu tố tự trị và phụ thuộc nhà nước. Các yếu tố về địa
vực, dân cư…đều mang nặng tính cục bộ, bản vị. Vậy tính tự trị của làng xã là gì?
Nó được thể hiện trên những phương diện nào? Nó tác động đến đời sống làng xã
và đất nước ra sao? Những câu hỏi này sẽ được trả lời trong bài viết dưới đây:
I. Một số vấn đề về tính tự trị của làng xã Việt Nam
1. Thế nào là tính tự trị của làng xã? Tại sao Nhà nước duy trì và dung dưỡng tính
tự trị của làng xã?
Theo GS. Phan Đại Doãn “làng là cộng đồng dân sự tự trị”[1]. Theo GS. Bùi Xuân
Đính, làng là đơn vị tụ cư truyền thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng,
cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức riêng, lệ tục riêng… nhưng chặt chẽ và hoàn
chỉnh nhất. Còn xã là chỉ đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước phong kiến ở cùng
nông thôn. Không phải làng đồng nhất với xã. Có thể mỗi xã là một làng nhưng
cũng có thể mỗi xã gồm nhiều làng hợp lại.
Mỗi làng xã từ khi mới thành lập đều có một sự độc lập nhất định hay còn gọi là
tính tự trị. Nói tính tự trị của làng xã là so với Nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền. Ở phạm vi hẹp hơn còn là so với làng khác. Có người dùng chữ “nửa cô
lập” để nói về tình hình này để thay cho chữ “tự trị”. Về bản chất thì hai từ này đều
nói về tính chất tách biệt của làng xã. Vậy thực chất của tính tự trị của làng xã là
gì? Tính tự trị của làng xã làm cho làng xã có xu hướng chống đối lại Nhà nước.
Trong khi phong kiến hoá tập quyền ngày càng cao mà Nhà nước vẫn duy trì tính
tự trị làng xã mà chính tính chất này làm phân hoá quyền lực? Ta có thể giải thích
như sau:
Ohdear.info
Thứ nhất, dưới góc độ dân tộc học-pháp luật, thiết chế hoặc tổ chức xã hội nào
cũng có cách quản lý của nó để nắm các thành viên theo một quy chế thống nhất.
Mỗi làng xã cũng vậy. Nó cũng có cách tổ chức quản lý của riêng nó. Không có
một cách quản lý dùng chung cho mọi làng xã. Như vậy bản thân làng xã có sự
“độc lập tương đối” với các đơn vị xã hội khác, kể cả nhà nước.
Thứ hai, Nhà nước ra đời trên cơ sở tập hợp các làng xã. Hay nói cách khác nhà
nước xuất hiện là tổ chức của nhiều làng. Điều đó có nghĩa là trước khi Nhà nước
ra đời, làng xã tồn tại như một thực thể riêng biệt với các thành viên, bộ máy quản
lý, bộ phận bảo vệ an ninh, quy ước hành động… Có thể nói làng xã như một “nhà
nước con”. Nhà nước khó có thể “xâm phạm” vào được. Thêm vào đó, sự tồn tại
các phe phái, các quan hệ chồng chéo trong làng làm nảy sinh những mâu thuẫn
ngầm trong nội bộ từng làng mà Nhà nước không thể điều hoà nên đành “để mặc”
cho làng xã tự giải quyết (trong phạm vi cho phép là không làm tổn hại đến Nhà
nước).
Thứ ba, Nhà nước để có sức người sức của dùng vào việc công và quốc phòng cần
phải có sự đóng góp của người dân. Nhưng người dân lại chịu sự kiểm soát của
làng xã về mọi mặt từ lâu đời. Muốn đạt được mục đích Nhà nước phải đi đến
người dân thông qua làng xã. Nhà nước giao chỉ tiêu, làng xã trực tiếp thực hiện từ
việc thu thuế, bắt lính, huy động lao dịch…. Như vậy, nhà nước chỉ biết đến làng
xã mà không biết đến từng cá nhân. Có thể nói, về mặt này, làng xã là công cụ khá
lý tưởng phục vụ cho Nhà nước. Đổi lại Nhà nước muốn làng xã làm lợi cho mình
thì đương nhiên phải tôn trọng quyền tự trị- quyền “độc lập tương đối” của làng xã.
Những điểm này chính là nguồn gốc và thực chất của cái gọi là “tự trị” của làng xã.
2. Nền tảng của tính tự trị của làng xã là gì?
Đó chính là sự cố kết chặt chẽ, không thể tách rời khỏi thực thể làng của các bộ
phận, tổ chức, cá nhân trong làng. Làng là tập hợp của một đơn vị cư trú, một tổ
chức sản xuất, tổ chức xã hội, tổ chức quân sự. Sự đan xen nghề nghiệp; nông,
công, thương và mối quan hệ đa dạng phường hội, họ hàng, xóm, giáp; sự dung
hợp các hệ tư tưởng và tôn giáo… đã tạo cho làng cổ truyền một cơ sở vững chắc.
Mỗi cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức, phe giáp, và là thành viên
của cộng đồng làng, là bộ phận hữu cơ luôn gắn bó chặt chẽ với tổ chức làng. Tâm
lý cộng đồng là một trong những đặc trưng của văn hoá làng. Kết cấu đa dạng và
chặt của làng đã tạo ra một định hướng hành vi hành động của cá thể và toàn thể,
đã tạo ra một sự thống nhất tương đối, đồng thời có sự tự điều chỉnh và ổn định.
Chính sự liên kết bền vững này là “nội lực” cho làng xã có thể duy trì được tính tự
trị của mình. Nó tạo cho làng xã “sức mạnh” để chống lại mọi sự thâm nhập từ bên
ngoài.
3. Cái gì nuôi dưỡng và củng cố tính tự trị của làng xã?
Với chế độ quân điền, ruộng đất của mỗi làng do làng ấy tự phân chia và sử dụng.
Nhà nước phong kiến không trực tiếp phân chia ruộng đất. Chính điều này đã làm
cho tính tự trị của làng xã tiếp tục tồn tại và càng được củng cố.
Thực chất, nhà nước cũng không thể kiểm soát được việc thực hiện quân điền của
làng xã. Việc chia ruộng đất đòi hỏi phải có tổ chức đại diện các giáp, các họ cùng
với hội đồng chức dịch bảo đảm sự phân chia cho hợp lý, tương đối công bằng.
Việc phân chia này có lệ riêng của làng, có khi không theo đúng thể lệ quân điền
của Nhà nước. Chế độ quân điền thời Gia Long đề ra 3 năm một lần chia lại ruộng
đất công, nhưng nhiều làng xã kéo dài tới 4 năm, thậm chí có làng 6 năm mới chia
lại ruộng công. Có năm nhà nước đề ra phép chia ruộng theo số dân. Nhưng tới
làng xã thì thực hiện lại khác.Vì ngoài việc chia ruộng theo suất đinh, làng còn
những loại ruộng khác cho giáp, chùa, hội tư văn, cho các chức dịch từ xã trưởng
đến mõ…
Tính chất tự trị của làng xã tồn tại lâu đời là do nhiều nguồn nuôi dưỡng nó, nhưng
tôi cho rằng chính việc sử dụng quân điền và cách phân chia ruộng công trong thời
kỳ phong kiến là nền tảng kinh tế vững chắc nhất cho tính chất độc lập của làng xã
được duy trì.
II. Biểu hiện của tính tự trị của làng xã
1. Tính tự trị của làng thể hiện trong mối quan hệ giữa làng với làng
Làng xã là một thực thể thống nhất. Nó có đầy đủ các bộ phận để hoạt động, để
“sống” và tự bảo vệ mình khỏi xâm nhập từ bên ngoài. Nguyễn Đổng Chi cho rằng
“làng là một cơ thể trọn vẹn, gần như một con người, nhưng lại là một con người
phi giai cấp. Trong cơ thể người trọn vẹn đó, không những có ẩn giấu một linh
hồn, một tâm lý ý thức cộng đồng, mà còn có một cá tính riêng, nghĩa là một đặc
sắc riêng về tính cách”. Đúng vậy, mỗi làng không những có một địa vực riêng mà
còn có một tín ngưỡng riêng, luật lệ riêng, nhiều nét văn hoá khác nhau…
1.1.Về địa vực
Mỗi làng đều có giới hạn phạm vi của làng rất rõ ràng. Nhiều làng có mốc giới
lãnh thổ, có cổng làng và điếm canh… Nếu vì một lý do gì đó, cái ranh giới cũ bị
thay đổi thì sự tranh giành lãnh thổ sẽ diễn ra lâu dài và gay go thậm chí gây tổn
thất rất lớn cho hai bên và kéo dài tới nhiều thế hệ con cháu trong làng. Truyện Lê
Phụng Hiểu và hàng loạt những truỵện dân gian khác đều phản ánh sự tranh giành
địa phận đẫm máu giữa hai làng. Làng không cho cái gì thâm nhập làm thay đổi cơ
thể của nó.
Vấn đề địa vực còn thể hiện rất rõ qua “dân chính cư” và “dân ngụ cư” hay còn gọi
là “dân nội tịch” và “dân ngoại tịch”. Những người dân trong làng, tham gia các
hoạt động của làng, chịu những luật lệ của làng, đồng thời cũng được làng bảo vệ
mới được công nhận là một bộ phận trong “cơ thể” làng. Đó là dân chính cư.
Những người do hoàn cảnh gia đình đói kém hay vì điều gì đó mà phải li tán sang
những làng khác, làm dân ngụ cư ở làng đó sẽ không được làng đó chấp nhận. Dân
ngụ cư không được tham gia bất kỳ hoạt động gì trong làng, không có nghĩa vụ gì
với làng, cũng như không được quyền lợi gì như tham gia tế lễ, chia ruộng…
Những người ngụ cư này không được sống trong địa phận của làng. Họ phải sống
ở những nơi đất chưa có chủ, thường là ở rìa sông, ven bãi. Những người không có
một mảnh đất chính thức này sẽ bị dân trong làng khinh rẻ, chê bai. Càng về sau,
do đói kém, chiến tranh loạn lạc, số dân li tán càng nhiều đồng nghĩa với sự gia
tăng số dân ngụ cư. Nhà nước mới cho lập sổ dân ngụ cư. Vị trí dân ngụ cư được
nâng lên một bậc. Khả năng họ trở thành dân chính cư cao hơn nhưng vẫn rất khó
bởi thường có hai cách là dùng số tiền lớn để mua hoặc kết hôn với con cái nhà có
địa vị trong làng.
1.2. Về văn hoá tín ngưỡng
Đình là nơi sinh hoạt văn hoá của cả làng. Thường mỗi làng có một ngôi đình, thờ
một vị thành hoàng. Dân gian đã có câu: “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng
nào làng ấy thờ”. Cùng đó mỗi làng có một lễ hội khác nhau. Thời gian và cách
thức tổ chức lễ hội phụ thuộc vào mỗi vị thánh làng thờ.
Mỗi làng xã có cá tính khác nhau. Thậm chí nhờ vào tính cách đặc trưng đó của
làng, người ta có thể nhận biết được làng. Chúng ta đã từng nghe những câu tục
ngữ như; “Trai Cầu Vồng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim”, “Văn chương Xuân
Mỹ, lý sự Thuỷ Khê”, “Chua ngoa là đất Kẻ Đình, dài váy Đốc Tín, cậy mình Kẻ
Siêu”…
1.3. Về lệ tục của làng: điều này thể hiện rõ nhất qua hương ước làng. Làng nào
cũng có hương ước riêng với những quy định không giống nhau. Nhiều khi hương
ước của làng này đề cập đến một số vấn đề mà hương ước làng khác không có,
thậm chí có trường hợp hương ước làng này trái hẳn với hương ước làng kia. Mặt
khác, trải qua thời gian và tác động của nhiều yếu tố, mỗi làng có sự biến đổi khác
nhau, kéo theo đó là sự thay đổi không giống nhau của hương ước mỗi làng. Vì
hương ước là để quản lý làng xã, nên khi làng xã có biến đổi, hương ước cũng phải
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những lần sửa đổi này nhiều khi làng xã
không trình báo lên chính quyền phong kiến cấp trên. Những điều này càng làm
tăng tính khác biệt giữa hương ước của các làng xã.
2. Tính tự trị của làng xã thể hiện qua mối quan hệ giữa làng với nước
2.1. Qua tính chất bộ máy quản lý làng xã
Mỗi làng xã có hai cơ quan quản lý. Đó là cơ quan của nhà nước, đứng đầu là các
xã quan (xã trưởng, sau này là các lý dịch: lý trưởng, phó lý, hương thân, hương
hào, khán thủ, hương trưởng) và Hội đồng kỳ mục của làng xã đứng đầu là các tiên
thứ chỉ (thường là quan lại về hưu, người cao tuổi trong làng…). Vậy, muốn xét
tính chất độc lập của làng xã trong mối quan hệ với nhà nước, ta có thể xét tầm
quan trọng của các xã quan ra sao?
Từ thế kỷ XI, Khúc Hạo bắt đầu đặt xã quan, đánh dấu bước khởi đầu nhà nước
chính thức can thiệp vào đời sống làng xã. Từ đó đến giữa thế kỷ 18, các vua liên
tục đặt các chức xã quan (xã trưởng, xã xử, xã tư). Thực ra, trong khoảng 500 năm
đó, các xã quan chỉ tồn tại gián đoạn và nhìn chung là bị nhà nước coi nhẹ nên
không chiếm địa vị quan trọng. Lúc đầu các xã quan được xếp vào hạng ngũ phẩm
trở lên hoặc lục phẩm trở xuống. Sau đến đời nhà Lê đổi các xã quan thành xã
trưởng, xã trưởng được chọn trong các nho sinh và sinh đồ. Sau đó 10 năm, đời
Cảnh Trị (1663-1672), các xã quan lại một lần nữa bị hạ thấp tầm quan trọng khi
xã trưởng chỉ còn được chọn trong “các con em nhà lương thiện” không có văn
bằng chức phẩm gì. Từ giữa thế kỷ XVIII, các xã quan bị bãi bỏ, việc đặt xã
trưởng do dân bầu. Như vậy, việc làng xã chấp nhận xã quan vào hàng ngũ cai trị
trong làng có nghĩa là làng xã không còn tính tự trị độc lập. Nhưng các xã quan chỉ
thực hiện một số công việc cụ thể liên quan với nhà nước. Vai trò quản lý làng xã
vẫn nằm chủ yếu trong bộ máy quản lý truyền thống của làng. Cho nên làng xã so
với nhà nước vẫn có một sự tự do nào đó, không còn tự trị độc lập, cũng không phụ
thuộc hoàn toàn. Đó chính là sự tự trị tương đối của làng xã.
Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, tính chất tự trị của làng xã càng trở nên
rõ rệt hơn. Sự can thiệp của nhà nước vào làng xã không mạnh mẽ như trước vì
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đi vào con đường suy yếu, bế tắc. Nó
tạo ra một sự thoả hiệp nửa vời nhưng có hiệu quả giữa nhà nước và các làng xã.
Giai đoạn này, làng xã tự đặt các xã quan, được gọi là bộ phận lý dịch, sau đó trình
lên chính quyền Nhà nước cấp trên để nhà nước chính thức thừa nhận. Qua cách
thức này, chúng ta thấy xã quan “xếp sau” bộ phận cai trị truyền thống của làng đó
là tiên thứ chỉ, hương chủ… và quan viên bô lão.
Thực tế cho thấy, các lý dịch không bao giờ được nắm quyết định tối hậu cho mọi
việc trong làng. Xã trưởng hay lý trưởng hoàn toàn không phải người đứng đầu
một làng. Vai trò đó thuộc về tiên chỉ, thứ chỉ hay hương chủ.
Trong sự sắp xếp ngôi thứ tại làng, các lý dịch chỉ xếp ở hàng thứ ba thứ tư. Trong
các kỳ hương ẩm, miếng ăn và chỗ ngồi thể hiện rõ địa vị và ngôi thứ trong làng. Ở
đình làng, gian giữa là chỗ trọng nhất, đến gian tả, sau cùng là gian hữu. Lý dịch và
hương chức chỉ được ngồi gian hữu cùng với hạng vũ biền. Gian tả dành cho các
văn khoa. Gian chính giữa dành cho các quan to, quan chức, bô lão. Về chia phần:
thủ lợn dành cho tiên chỉ, chức sắc; lý trưởng được một miếng thịt… Các quyền lợi
khác, lý dịch đều được hưởng kém phần so với các chức sắc truyền thống của làng.
Về phẩm trật của lý dịch: xã quan từ được xếp hàm tứ ngũ lục phẩm ở thế kỷ XIII,
xuống tòng cửu phẩm đầu thế kỷ XIX-phẩm cấp cuối cùng trong hàng quan lại.
Đến đời Minh Mệnh, xã quan không được ban phẩm hàm. Lý dịch hạ vai trò tới
mức thấp nhất, chỉ còn là một bộ phận nằm trong bộ máy quản lý làng xã. Điều đó
có nghĩa là sự can thiệp của nhà nước vào làng xã (thông qua xã quan) bị suy yếu,
đồng nghĩa với việc làng xã tăng cường tính chất tự trị tự quản. Thêm vào đó là
quyền lực lý dịch được gia tăng trong đời sống xã thôn làm cho tính tự trị của xã
thôn tăng lên gấp bội.
Hội đồng chức dịch chỉ đóng vai trò là bộ phận trung gian giữa làng xã và nhà
nước. “Lý trưởng là người mối giới giữa chính phủ với làng xã. Lý trưởng phải giữ
các công văn địa bạ, các sở thuế của làng và các lệnh truyền của chính phủ”[2].
Hội đồng kỳ mục có tính tự trị, tự quản cao hơn, chi phối cả hội đồng chức dịch.
Như vậy bộ máy quản lý làng xã gồm cả lý dịch vẫn biểu hiện như một bộ máy tự
quản của làng xã. Thậm chí có khi sự có mặt của lý dịch lại làm tăng thêm tính tự
trị của làng xã như trên vừa nói. Chỉ dưới thời thực dân, hào lý tác yêu tác quái với
tư cách nhà nước để đàn áp xã dân. Pháp muốn gia tăng quyền lực cho bọn này để
làm công cụ cho pháp đàn áp xã dân, triệt tiêu các phong trào phản kháng. Song
cuối cùng chúng cũng thất bại.
Thực dân Pháp muốn tăng cường quyền lực của chúng ở làng xã để kiểm soát được
làng xã. Năm 1921, chúng giải tán hội đồng kỳ mục. Cho rằng làng xã có tổ chức
chặt chẽ là do mỗi làng đều có một vài dòng họ lớn nắm giữ, cho nên chỉ cầm nắm
được những trưởng dòng họ này là có thể nắm được nông thôn. Vì vậy chúng
thành lập hội đồng tộc biểu, tập hợp những người đứng đầu dòng họ. Nhưng đó là
một nhận biết sai lầm của Pháp về làng xã Việt Nam. Làng Việt Nam không đơn
giản là do các dòng họ hợp thành mà như trên đã nói, “làng Việt Nam, đa nguyên
và chặt”. Nó gồm rất nhiều tổ chức, các mối quan hệ đan xen chồng chéo. Người
đứng đầu làng là tiên chỉ, thứ chỉ, hương chức và cả bô lão. Việc các trưởng họ lên
nắm quyền đã gây sự phản đối gay gắt của các tiên thứ chỉ. Chính vì thế, âm mưu
và kế hoạch của Pháp thất bại. Sau 6 năm, đến năm 1927, Pháp phải tái lập hội
đồng kỳ mục bên cạnh hội đồng tộc biểu. Và đến năm 1941, Pháp phải giải tán hội
đồng tộc biểu, duy trì hội đồng kỳ mục.
Chúng ta có thể khẳng định, tính tự trị tự quản của làng xã một phần thể hiện ở tính
chất bộ máy quản lý. Một khi tính tự trị của làng xã còn mạnh mẽ thì không thể
xoá bỏ bộ máy quản lý đó.
2.2. Qua hương ước
Chúng ta đã biết, làng xã từ xa xưa đã có các quy ước và quản lý nông dân theo các
quy ước đó. Đó chính là lệ làng. Hương ước ra đời là văn bản hoá lệ làng. Đó là sự
khẳng định thêm một lần nữa tính tự quản của làng xã.
Nhà nước trung ương đã thấy rõ tính tự trị của nhà nước thể hiện qua hương ước.
Đồng thời còn thấy rõ sự phân tán quyền lực do tính chất đó của làng xã-mối nguy
hại tới chính quyền trung ương tập quyền. Chính vì vậy, chính quyền đã khuyên
rằng “các làng xã không nên có khoán ước riêng”, mà nên thực hiện theo luật
nước. Sách Hồng Đức thiện chính thu có ghi “nhà nước có điều luật để chiếu vào
đó mà thi hành; dân an nước thịnh không nên có khoán ước riêng, để trừ bỏ cái hại,
theo chính bỏ tà…”[3]. Nhà nước tỏ thái độ hai mặt đối với hương ước là vừa ngăn
cản, vừa lợi dụng hương ước để can thiệp vào làng xã. Dùng hương ước để lệ làng
hoá phép nước
“Nước có luật lệ của nước, làng có hương ước riêng” hay “Nhà nước có pháp luật
quy định, còn dân có những điều ước riêng”…. Ngay từ phần mở đầu của hương
ước đã khẳng định vị trí độc lập tương đối của làng với nhà nước. Như chúng ta đã
biết, từ thế kỷ XV, nhà nước ngày càng can thiệp sâu vào đời sống làng xã bằng
cách đặt hệ thống xã quan song song với hệ thống quản lý cổ truyền của làng xã.
Vậy mà mỗi làng xã đều khẳng định một cách dứt khoát “quyền tự trị” của mình
bằng lời “tuyên ngôn” mở đầu cho “bộ luật” của nó[4]. Làng xã công khai tuyên bố
quyền tự trị của mình với nhà nước và được nhà nước thừa nhận. Bằng chứng là
hương ước của tất cả làng xã, sau khi được lập, đều trình lên chính quyền phong
kiến cấp trên phê duyệt rồi mới chính thức thi hành, hoàn toàn không có sự “dấu
giếm” gì với nhà nước.
Xét về nội dung của hương ước, những điều khoản ghi trong hương ước nhiều khi
khác xa so với luật pháp nhà nước. “Những điều khoản của hương ước đã được cụ
thể hoá, căn cứ vào đặc điểm của từng làng, để cuối cùng chỉ còn là những “bóng
hình” mờ nhạt của luật nước”[5]. Tinh thần của luật nước được thể hiện trong
hương ước chỉ qua những quy định về việc thực hiện các nghĩa vụ về sưu thuế, phu
dịch hay việc chia cấp ruộng đất công, bầu cử bộ máy chính quyền nhà nước ở
làng…Những mặt này do nhà nước cố tình áp đặt vào hương ước. Còn lại hầu hết
các điều khoản còn lại của hương ước chỉ liên quan tới đời sống của làng. Những
điều quy định này là những cái “thâm căn cố đế” khó có thể lay chuyển được. Ví
dụ như trong cải lương hương chính năm 1921 của Pháp. Pháp muốn qua đợt cải
lương hương chính này để nắm làng xã. Một phần chúng đã thành công như tăng
cường quyền lực của bộ máy quản lý nhà nước ở làng xã, quy định cách lập hương
ước (gồm hai phần chính trị và tục lệ)…còn các vấn đề chia ruộng đất công, tổ
chức cưới xin, ma chay, thờ cúng… thì chúng đành cho “từng làng giải quyết”, làm
thế nào cho giảm tổn phí thì làm. Chúng không thể nào can thiệp vào được.
Tính tự trị của làng xã thông qua hương ước còn thể hiện ở mối quan hệ giữa các
nho sĩ-những người soạn thảo ra hương ước với làng xã. Khi nhà nước bắt buộc
phải chấp nhận hương ước thì ra điều kiện là phải do những nho sĩ trong làng soạn
thảo và trình lên nhà nước. Như vậy để nhà nước thực hiện “nho giáo hoá” đời
sống làng xã. Nhưng nho sĩ cũng là thành viên của làng xã, chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ mọi mặt đời sống làng xã, thậm chí ảnh hưởng cả về mặt tâm lý làng xã. Lợi
ích của họ gắn liền với lợi ích của làng xã. Bởi vậy, với nho sĩ nhiều khi việc làng
còn “to” hơn việc nước. Như vậy, đương nhiên hương ước do họ soạn thảo cũng
phải rất chú trọng tới lợi ích của làng xã.
Thường thì hương ước được thi hành theo đúng nguyên tắc không trái với luật nhà
nước. Nhưng đôi khi vẫn xảy ra trường hợp lệ làng được coi trọng hơn phép vua
luật nước. Hương ước của làng nào cũng ngăn cản và “trừng phạt” những người
“vượt làng” đi kiện cáo lên quan trên. Người phạm tội, nhà nước xử theo luật nước,
làng xử theo lệ làng. Có những hình phạt trong luật nước không có mà hương ước
làng lại có như: trừng phạt bằng cách tẩy chay đám tang,… Thêm vào đó là trong
xã hội nông thôn truyền thống, đa số người nông dân sống khép kín, cả đời chẳng
mấy khi bước chân ra khỏi làng. Vì vậy họ thường sống theo lệ làng mà ít biết đến,
ít tuân thủ luật pháp nhà nước. Tính tuỳ tiện, không tuân thủ luật pháp của nông
dân đến nay vẫn còn nặng nề.
Hương ước ra đời là kết quả của sự thoả hiệp giữa tính tự trị của làng xã và tính áp
chế của chính quyền nhà nước. Có thể nói nó thể hiện rất rõ tính tự trị của làng xã
đối với nhà nước. Hầu hết làng xã truyền thống ở Bắc và Trung Bộ đều có hương
ước để quản lý làng mình thật chặt chẽ. Làng xã thay đổi thì hương ước sẽ được
sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với tình hình mới. Nếu vì một lý do nào đó làng
mất hương ước thì sau đó sẽ nhanh chóng được lập lại.
III. Hai mặt của tính tự trị của làng xã Việt Nam
1. Tích cực
Có thể thấy tác dụng tích cực nhất của tính tự trị làng xã là làm cho nội bộ làng xã
có một sự cố kết chặt chẽ mà khó có thế lực nào có thể phá vỡ. Nó làm nên sức
sống lâu bền của làng. Điều này có ý nghĩa lịch vô cùng lớn lao, thể hiện rõ nhất là
khi đất nước bị nạn ngoại xâm, các đô thị nhanh chóng rơi vào tay giặc, nhưng
làng thì không. Có thể nói mỗi làng xã Việt Nam là một pháo đài kiên cố chống
giặc. Làng xã hoàn chỉnh như một cơ thể. Cơ thể này không những có “cá tính”
như trên chúng ta đã nói mà nó còn biết và chủ động tự bảo vệ mình khỏi các thế
lực khác. Trong lịch sử Việt Nam đã có hàng ngàn làng chiến đấu điển hình. Giáo
sư Trần Quốc Vượng nói: “1000 năm Bắc thuộc, ta giành lại được độc lập là do ta
mất nước nhưng không mất làng”. Đến thời Pháp thuộc, nhà cầm quyền thực dân
cũng xác định rõ rằng làng xã là nơi chúng không thể “đụng chạm” tới. Toàn
quyền P.Pasquier nhận định: “Làng xã là nước cộng hoà nhỏ…một tổ chức phức
tạp như thế, dân chủ như thế, một tổ chức mà trong đó không bao giờ kỳ mục được
phép hành động đơn độc, một tơ chức đã tồn tại theo truỳên thống từ thời rất xa
xưa, tổ chức đó chúng ta không nên đụng chạm tới kẻo làm xứ sở rối loạn…”
Devil
Nhờ làng xã có tính tự trị tương đối góp phần làm cho đất nước có một nền văn
hoá phong phú, đa dạng. Chúng ta đã có những làng văn hoá với những nét văn
hoá đặc trưng nổi bật. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, nó không bị văn hoá của tổ
chức xã hội khác đồng nhất. Nó không bị xoá bỏ bởi văn hoá làng khác, vùng miền
khác, hay sự can thiệp của chính quyền trung ương, thậm chí là chính quyền của
ngoại xâm. Tiêu biểu là thời Bắc thuộc hàng ngàn năm. Đó là thời kỳ bọn phong
kiến phương Bắc tiến hành đồng hoá văn hoá Việt Nam một cách ồ ạt, dữ dội (bắt
dân ta để tóc, mặc đồ Trung Quốc, dùng chữ Hán, tổ chức những ngày lễ tết của
người Hán…) nhưng cuối cùng chúng đã thất bại trước hàng ngàn làng văn hoá
truyền thống nước Nam. Truyền thống đó được gìn giữ lâu đời và vô cùng vững
chắc nhờ làng xã, văn hoá ngoại lai khó có thể xâm nhập.
Với tính tự trị tự quản của mình, làng xã là nơi bảo lưu tốt nhất những giá trị văn
hoá truyền thống tốt đẹp, đáng quý để cho con cháu đời sau noi gương học tập như:
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, truyền thống giữ đạo hiếu, nhân
nghĩa, truyền thống học tập…
2. Tiêu cực
2.1. Làng xã là công cụ của chính quyền trung ương nhằm bóc lột nông dân. Trong
thời kỳ phong kiến, nhà nước luôn dựa vào làng xã để thu cống phú, thuế má, binh
dịch. Đến thời Pháp, khi mới đặt nền đô hộ trên đất nước ta, chúng đã có ý thức lợi
dụng bộ máy và cơ chế quản lý cũ của làng xã để vơ vét tiền của của nhân dân.
Toàn quyền P.Doumer cũng giống như nhà nước phong kiến đều cho rằng: “Nhờ
cơ cấu vững chắc của làng xã An Nam…trước mắt chúng ta không phải là hàng
triệu cá nhân mà chỉ có vài ngàn tập thể tổ chức chặt chẽ và có kỷ luật, liên hệ với
chúng ta theo từng đơn vị khối mà chúng ta chỉ biết có hội đồng kỳ mục mà thôi”
2.2. Tính tự trị của làng xã luôn có xu hướng làm cho làng xã hoạt động độc lập
hoàn toàn, xa rời quỹ đạo quản lý của nhà nước. Trong thời kỳ phong kiến, như
trên đã nói, khi có giặc ngoại xâm, sự cố kết các làng xã là cao nhất đê cùng nhau
chống giặc, bảo vệ đất nước. Nhưng kết thúc chiến tranh, sự phân rã vô cùng lớn
hơn lúc nào hết. Có thể nói, trong thời bình, sự cố kết giữa các làng xã rất lỏng lẻo,
mà khi đó chính quyền trung ương tập quyền lại suy yếu, không đủ sức kiểm soát
nổi làng xã thì điều tất yếu là trong nước sẽ sinh biến loạn. Ví dụ như cuối thời
Trần (cuối thế kỷ 13-14), xã hội có nhiều rạn nứt. Mô hình tập quyền thân dân của
nhà Trần bị khủng hoảng. Chính quyền trung ương không thể kiểm soát được làng
xã. Hậu quả là triều Trần sụp đổ.
Chúng ta vẫn nghe câu “phép vua thua lệ làng”. Thật ra nói như vậy cũng hơi
cường điệu vị trí của làng xã. Lệ làng thế nào thì cũng không được trái với phép
nước. Nhìn chung là hương ước của làng xã thống nhất với pháp luật của nhà nước.
Cơ cấu quyền lực của làng xã là quyền lực kép, có sự hoà hợp của quyền tự trị và
quyền nhà nước. Nhưng câu nói đó đúng trong trường hợp nhà nước yếu, không
quản lý nổi làng xã như trên. Khi đó, làng xã tự do vận hành theo tục lệ riêng, theo
sự điều khiển của một số cá nhân chức sắc trong làng, bất chấp cả phép nước.
2.3. Tính tự trị của làng xã là nguồn gốc và là kẻ nuôi dưỡng chủ nghĩa địa
phương, cục bộ. Vì bản chất của làng xã là “một sự cố kết có tính chất địa phương”
như Ph.Ăng-ghen nhận định. Nó hình thành “tâm lý làng”, “giá trị làng” và chỉ có
làng mình là hơn cả. Nó không dễ gì chấp nhận những văn hoá tiến bộ từ bên
ngoài. Chúng ta đã nghe những câu như: “Khôn ngoan ở đất nhà bay. Dù che ngựa
cưỡi đến đây cũng hèn”, hay câu “ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn”… Ta còn thấy nhiều xung đột, mâu thuẫn gay gắt giữa các làng vì làng nào
cũng chỉ biết đến lợi ích trước mắt của làng mình, không quan tâm tới lợi ích làng
khác. Nguy hiểm hơn là trường hợp chủ nghĩa địa phương của làng nhiều khi
không biết tới lợi ích của đất nước, gây ra sự phân rã lớn trong nội bộ đất nước.
Hay trong việc kiểm soát ruộng đất và số dân. Cho đến tận thời Pháp thuộc, nhà
nước đã không thể nào nắm được con số thực tế về số ruộng và số dân trong làng.
Nhà nước thường dựa vào hai mặt này để đánh thuế, phu dịch. Hầu như các làng
đều khai man số ruộng để trốn thuế, khai man số đinh để trốn phu dịch. Nhà nước
có biết đìêu đó, cũng đành lấy diện tích và dân số cố định của làng vào năm điều
tra để làm chuẩn. Nhiều làng còn phản đối nhà nước bằng cách “giải toả” làng, dân
đi phiêu tán. Đến khi nhà nước chấp nhận số thuế và số đinh theo yêu cầu của họ
thì họ mới trở về lập lại làng. Tuy trường hợp này không phổ biến rộng nhưng
cũng không phải là ít xảy ra. Tình trạng khai man này làm nảy sinh “tệ điêu hào”
rất phổ biến trong làng xã. Đó là các chức sắc trong làng khai man để thu lợi vào
túi mình. Chúng rất lộng hành, hành động tuỳ tiện, không tuân theo pháp luật, gây
ra nhiều nhũng nhiễu trong làng xã.
2.4. Làng xã với tính tự trị của nó bảo lưu rất tốt các giá trị truyền thống nhưng
đồng thời nó cũng lưu giữ những hủ tục “thâm căn cố đế”, không dễ dàng xoá bỏ
vì nhà nước có muốn can thiệp vào cũng không đơn giản. Như những hủ tục về
khao vọng, cưới xin, ma chay cỗ bàn đình đám, trọng nam khinh nữ, đông con
nhiều của… mà đến ngày nay chúng ta vẫn chưa xoá bỏ được hết, thậm chí để xoá
bỏ được một vài hủ tục cũng rất khó khăn và mất một thời gian không phải là ngắn.
IV. Kết luận
1. Tính tự trị của làng xã dù có mặt tích cực hay tiêu cực thì cũng tồn tại một cách
tất yếu. Xã thôn còn thì tính tự trị vẫn còn. Thời phong kiến, trong làng ngoài bộ
phận tự trị có thêm bộ phận chính quyền nhà nước chồng xếp lên nhau tạo nên một
kết cấu quyền lực kép. Đến năm 1945, kết cấu này bị bãi bỏ vì cấp xã lúc này là
một đơn vị chính quyền liên làng (khoản 5-6 làng). Bộ phận tự trị của làng bị giải
thể. Nhưng từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 về sau, làng thôn được tái lập. Cùng
với nó là tính tự trị tự quản của làng xã cũng được phục hồi. Nhiều làng lại có ban
tự quản và lập lại hương ước mới.
2. Vì tính tự trị của làng xã có tác động hai mặt tới sự phát triển của đất nước, nên
vấn đề làm sao để phát triển xã hội nông thôn cho phù hợp, phải rất chú trọng tới
tính chất này của làng xã. Vì nếu phát huy được nhân tố tích cực thì hiệu quả đạt
được sẽ rất tốt đẹp. Nhưng ngược lại chúng ta sẽ phải chịu hậu quả vô cùng nặng
nề, có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng chính trị xã hội sâu sắc mà không dễ gì
giải quyết được.
3. Ngày nay chúng ta vẫn đề cao tính tự trị của làng xã vì đó là nhân tố giúp ổn
định xã hội nông thôn nước ta. Nhưng phải tạo điều kiện để phát huy những yếu tố
tích cực, hạn chế tiêu cực của tính tự trị. Tạo điều kiện xây dựng và thực hiện các
hương ước mới, các quy chế về nếp sống văn minh ở thôn xã. Nhà nước cần sớm
nghiên cứu đề ra quy chế thích hợp về chức năng, vai trò của cấp thôn, ấp, bản phù
hợp với tình hình của từng vùng.
Hanga
Một số đặc điểm của nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống ở Việt Nam
Phan Sĩ Mẫn
TS. Viện Nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền vững
1. Kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống là nền kinh tế xã hội có tính cộng đồng,
tính tự quản và tương đối biệt lập
Nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống đã hình thành và phát triển từ xa xưa,
cùng với lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó gắn liền với quá
trình khai hoang lập ấp, phát triển sản xuất, mở mang văn hóa, xã hội và đấu tranh
sinh tồn với thiên nhiên của các cộng đồng dân cư, từ những làng Việt cổ xưa,
những công xã nông thôn đến các làng tiểu nông trong thời kỳ phong kiến. Trong
suốt tiến trình phát triển lâu dài ấy, tính cộng đồng luôn được bảo lưu và duy trì
mạnh mẽ, trở thành một trong những đặc trưng cơ bản, có tính phổ quát và bao
trùm trong sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn.
Nói đến kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống, trước hết, là nói đến sự cố kết và
tính cộng đồng về mặt dân cư và lãnh thổ của các làng, xã nông thôn. Sự cố kết
này được hình thành dựa trên quan hệ láng giềng, quan hệ huyết tộc hoặc dòng họ.
Đó là một tập hợp dân cư, hay cộng đồng dân cư cùng nhau tụ cư, sinh sống trên
một khu vực lãnh thổ nhất định, bao gồm cả khu đất làm nhà ở, vườn tược của các
hộ gia đình lẫn đất đai canh tác, đồng cỏ, đồi rừng, ao hồ, đầm bãi và tài nguyên
thiên nhiên do các thành viên trong làng cùng khai phá, chiếm đoạt hay do các thế
hệ cha ông họ để lại. Toàn bộ đất đai, tài nguyên và lãnh thổ ấy đều là tài sản
chung của mọi thành viên trong làng, thuộc sở hữu chung của mỗi làng, do làng
kiểm soát, quản lý và chi phối. Mọi thành viên trong làng đều được sử dụng đất
đai, khai thác tài nguyên theo những quy định của làng, đồng thời có trách nhiệm
và nghĩa vụ chung trong việc gìn giữ, bảo vệ, khai thác và sử dụng chúng. Khi dân
cư tăng dần, đất ở và đất đai canh tác của làng trở nên chật hẹp, hoa lợi giảm sút
hay sản vật tự nhiên cạn dần thì dân làng lại cùng nhau khai phá thêm những khu
đất lân cận để mở rộng lãnh thổ, hoặc tổ chức khai hoang lập ra các làng trại mới,
hoặc du canh, du cư đến các vùng đất khác.
Cho đến thời kỳ phong kiến, quan hệ cộng đồng dân cư – lãnh thổ của làng, xã vẫn
tồn tại bền chặt. Một mặt, các Nhà nước phong kiến vẫn duy trì cấu trúc dân cư –
lãnh thổ của làng, xã, lấy đó làm đơn vị hành chính cơ sở để quản lý xã hội. Nhưng
mặt khác, các Nhà nước phong kiến cũng thường không kiểm soát được đất đai, tài
nguyên và dân cư các làng xã. Do vậy, mặc dù đất đai, tài nguyên đều thuộc sở hữu
tối cao của Nhà nước, song thực chất, lại thuộc quyền kiểm soát, chi phối của các
làng. Từ cuối đời Trần (thế kỷ XIII) trở đi, cấu trúc dân cư – lãnh thổ của phần lớn
các làng ở đồng bằng lúc bấy giờ đã cơ bản định hình. Nhiều làng đã lập ra các
hương ước, khế ước xác định rõ địa giới lãnh thổ, đất đai và khẳng định “chủ
quyền” của làng trên toàn bộ địa giới ấy. Và để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của
làng, nhiều nơi đã quy định cụ thể về sử dụng đất đai, nguồn nước, đốn cây, phát
rẫy, khai thác nguồn lợi tự nhiên, về canh phòng, chống xâm lấn, trộm cướp,… Đất
đai trong lãnh thổ của làng, ngay cả ruộng đất tư cũng không được bán, đổi, sang
nhượng cho người làng khác. Dân từ nơi khác đến ở được coi là dân ngụ cư phải
có sự đồng ý của làng và thường phải 2 -3 đời sau mới được chính thức gia nhập
cộng đồng làng xã, trở thành thành viên của làng.
Trong cộng đồng dân cư – lãnh thổ của làng còn có những cộng đồng theo địa bàn
cư trú hẹp hơn như thôn, xóm, ấp, trại,… Những cộng đồng này gắn bó với nhau
trên quan hệ láng giềng gần gũi, thân cận và thường cũng có những quy ước riêng
về nơi cư trú, sinh sống của họ, bên cạnh những quy ước chung của làng. Ngoài ra,
trong các làng, xóm, ấp còn có các quan hệ cộng đồng theo tộc người, theo huyết
tộc hay tín ngưỡng, tôn giáo, phe giáp, phường hội,… Tất cả các mối quan hệ ấy
đều đan xen, hòa quyện lẫn nhau, tạo ra sự gắn kết bền chặt trong các cộng đồng
làng, xã nông thôn.
Làng không chỉ là một cộng đồng về dân cư - lãnh thổ, mà còn là một cộng đồng
kinh tế, một thực thể kinh tế của nền kinh tế xã hội nông thôn truyền thống. Cộng
đồng kinh tế này, trước hết, và cơ bản được hình thành trên cơ sở của chế độ sở
hữu chung về đất đai, tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện sản xuất khác trong
lãnh thổ của làng. Trong các làng Việt cổ xưa hay trong các làng thị tộc, để có thể
tồn tại, mọi hoạt động kinh tế nói chung (như canh tác nông nghiệp, đánh bắt thủy
sản, hay săn bắt, hái lượm, khai thác sản vật tự nhiên,…) đều là những hoạt động
mang tính cộng đồng. Toàn bộ sản phẩm, hoa lợi thu được đều là sản phẩm chung,
do làng quản lý và được đem phân phối dần cho tất cả các thành viên. Không một
thành viên nào có thể tiến hành sản xuất hay sinh sống độc lập, tách biệt với hoạt
động kinh tế chung của làng. Ở những thời kỳ lịch sử tiếp sau, khi chế độ quân chủ
nhà nước đã hình thành, các công xã thị tộc dần dần giải thể chuyển thành công xã
nông thôn, chế độ tư hữu ngày càng trở nên phổ biến hơn, song phương thức sản
xuất và sinh sống cộng đồng vẫn tồn tại dai dẳng trong nhiều làng xã, ở những hình
thái và mức độ khác nhau. Phần lớn đất đai, tài nguyên và các nguồn lực tự nhiên
của sản xuất vẫn thuộc quyền quản lý và chi phối của làng. Hơn nữa, do trình độ
sản xuất thấp kém, lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, nên các hộ dân cư trong
làng cũng thường xuyên phải cố kết với nhau trong sản xuất cũng như trong việc
phòng chống thiên tai để bảo vệ nơi cư trú và mùa màng.
Từ thế kỷ XIV, XV trở đi, mặc dù xuất hiện ngày càng nhiều các làng công xã dựa
trên chế độ sở hữu ruộng đất bán công bán tư và các làng tiểu nông chủ yếu dựa
trên chế độ tư hữu, tuy ruộng đất công và các cơ sở kinh tế chung của làng ngày
càng bị thu hẹp, nhưng nó vẫn tồn tại dai dẳng và phổ biến ở hầu khắp các vùng
nông thôn. Hơn nữa, việc dựa vào kinh tế làng xã và lấy làng, xã làm cơ sở kinh tế
xã hội của các triều đại phong kiến cũng làm cho tính cộng đồng về mặt kinh tế
của các làng tiếp tục được duy trì. Làng là người đại diện cho dân cư thực hiện các
nghĩa vụ kinh tế đối với Nhà nước (như thu nộp thuế, huy động nhân công đắp đê,
chống lụt…). Và mỗi làng đều có tài sản, công quỹ và các khoản thu đóng góp cho
các hoạt động chung của làng.
Làng cũng là một cộng đồng về văn hóa, xã hội với các thiết chế, phong tục, tập
quán chặt chẽ, các giá trị và chuẩn mực chung về sinh hoạt, lối sống, tâm lý, tư
tưởng; đạo đức, phương thức ứng xử trong gia đình, cộng đồng cũng như phương
thức ứng xử với tự nhiên, môi trường sinh sống,… Mỗi làng đều thờ chung một vị
thần linh biểu trưng cho sự thống nhất về nguồn gốc, về cuộc sống và “sự thống
nhất vận mệnh” của cả cộng đồng, thờ chung một thần Thành hoàng cai quản và
bảo vệ cho cuộc sống của tất cả mọi thành viên trong làng. Các làng cũng thường
có những phong tục, tập quán, lễ hội và những sinh hoạt văn hóa cộng đồng khác
nhau. Tư tưởng làng xã cũng là tư tưởng cộng đồng, ý thức cộng đồng, là tư tưởng
cố kết, nương tựa và hỗ trợ lẫn nhau, là tư tưởng tự hào, tự tôn của mỗi làng xã.
Tuy nhiên, cùng với những biến đổi của nền kinh tế xã hội, văn hóa cộng đồng
làng cũng có nhiều thay đổi; đặc biệt là từ khi có chế độ tư hữu và sự phân hóa giai
cấp. Tư tưởng tư hữu, tập quán và lối sống tiểu nông hay sự phân biệt về địa vị xã
hội, địa vị trong các mối quan hệ cộng đồng hay trong gia đình,… cũng xuất hiện
và ngày càng ngấm sâu vào đời sống của người dân thôn quê. Nhiều lễ giáo, tập
tục, phong tục đã bị phong kiến hóa, trở thành lực cản vô hình, trói buộc và kìm
hãm tư tưởng, tình cảm và khát vọng của họ trong hoạt động sản xuất cũng như
trong đời sống văn hóa, tinh thần.
Là một cộng đồng về dân cư – lãnh thổ, về kinh tế và văn hóa, làng cũng đồng thời
là một tổ chức có tính hành chính và tự quản. Mỗi làng đều có một bộ máy quản lý
có tính tự quản, với những thiết chế và luật lệ nhất định. Đến thời phong kiến tập
quyền, các chính quyền nhà nước trung ương ngày càng can thiệp vào bộ máy quản
lý của làng, lấy làng, xã làm cấp cai trị về hành chính. Tuy vậy, bên cạnh các chức
vụ đứng đầu do làng, xã cử ra và được Nhà nước phong kiến quyết định, thì trong
bộ máy quản lý làng, xã còn có các tiên, thứ chỉ, hội đồng bô lão (hay hội đồng kỳ
hào, kỳ mục), các chức dịch, hương chức,… Và về thực chất, quyền hành cao nhất
trong các làng, xã vẫn thuộc về các tiên chỉ, thứ chỉ và hội đồng kỳ hào, kỳ mục.
Do đó, bộ máy quản lý làng, xã vẫn cơ bản mang tính tự quản. Nó chi phối đến
mọi công việc của làng và hầu hết các hoạt động của thành viên trong làng. Và để
thực hiện quyền tự quản của mình, bộ máy quản lý của làng không ngừng đặt ra
các thiết chế, luật lệ, phép tắc riêng và áp đặt các thiết chế, luật lệ ấy vào đời sống
làng, xã. Từ thế kỷ XIII, XIV trở đi, nhiều thiết chế, luật lệ của các làng đã được
văn bản hóa thành những hương ước, khoán ước (Bùi Xuân Đính, 1985) và thực sự
trở thành công cụ của bộ máy quản lý của các làng, xã ở nông thôn. Điều đó vừa
duy trì tính cộng đồng vừa làm tăng sự ràng buộc và sự lệ thuộc của người dân
nông thôn vào các thiết chế của cộng đồng làng, xã.
2. Nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống là nền kinh tế trọng nông và tự
cung, tự cấp
Đây là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của nền kinh tế xã hội nông nghiệp
truyền thống. Hầu như ở các làng đều có các hoạt động sản xuất tương tự giống
nhau, bao gồm các hoạt động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ và
khai thác sản vật tự nhiên để tự sản xuất những sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng cơ
bản nhất của dân cư trong làng.
Trong cấu trúc kinh tế ấy, nông nghiệp là hoạt động căn bản nhất và luôn được
xem là “nghề gốc” của đa số các hộ dân cư. Hoạt động nông nghiệp bao trùm và
chi phối đến tất cả các hoạt động kinh tế khác. Trong đó, sản xuất lương thực, mà
đặc biệt là sản xuất lúa gạo đã phát triển từ rất sớm và trở thành ngành sản xuất
chính, là nền tảng cho các hoạt động kinh tế khác. Điều này được quy định trước
hết bởi các điều kiện tự nhiên của sản xuất và tập quán, nhu cầu sử dụng lúa gạo
làm lương thực đã có từ lâu đời của dân cư, cả ở đồng bằng lẫn miền núi. Do đó,
sản xuất lúa gạo và lương thực đã trở thành phương thức sản xuất và sinh sống vừa
có ý nghĩa sinh tồn vừa có ý nghĩa truyền thống của hầu hết các làng xã trong suốt
chiều dài lịch sử. Bên cạnh sản xuất lúa gạo, dân cư các làng còn trồng các loại cây
hoa màu, cây ăn quả và rau đậu thực phẩm, đồng thời với chăn nuôi gia súc, gia
cầm, thả cá, đánh bắt thủy hải sản, khai thác sản vật tự nhiên… Song, toàn bộ các
hoạt động kinh tế này chỉ là các hoạt động phụ để tận dụng lao động nông nhàn, bổ
sung sản phẩm cho nhu cầu lương thực và phục vụ nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của
các hộ dân cư.
Khi dân số các làng ngày càng tăng lên, đất ở và đất đai canh tác trở nên chật hẹp,
lương thực và hoa lợi thu được ngày càng không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
tại chỗ của dân cư, thì một mặt, đất đai và sản xuất lương thực càng được coi trọng
hơn, sử dụng triệt để hơn, và mặt khác, quá trình khai hoang mở rộng lãnh thổ và
đất đai canh tác của làng (như đã nói trên) cũng như quá trình di dân, khai hoang
lập ấp mới lại tiếp tục diễn ra. Song, cấu trúc kinh tế cũng như phương thức sản
xuất và sinh sống của dân cư thì hầu như không có những thay đổi, vẫn chỉ là sự tái
lập hay nối tiếp truyền thống nông nghiệp và tập quán sinh sống bằng nghề trồng
lúa của những làng quê cũ. Cho đến thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thì ở Ðồng bằng
Bắc Bộ cũng như hầu hết các vùng châu thổ khác, cây lúa đã trở thành độc canh,
“được trồng hầu như trên toàn bộ các cánh đồng”, việc canh tác và thâm canh lúa
được tiến hành ráo riết nhưng “cũng chỉ gần đủ cho nhu cầu về gạo của dân chúng
” (P. Gourou, 1936). Và ở nhiều nơi, công cuộc khai hoang lấn biển, mở mang
nông nghiệp vẫn luôn được đẩy mạnh. Còn ở những vùng miền núi, nơi có điều
kiện sản xuất lương thực khó khăn hơn, thì cho đến những thế kỷ gần đây tình
trạng du canh du cư vẫn còn rất phổ biến.
Phương thức sản xuất và sinh sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lấy nông nghiệp
làm cốt lõi sinh tồn đã trở thành tập quán sinh sống, thành tư tưởng, ý thức và tình
cảm ngấm sâu trong tiềm thức của người dân nông thôn. Ở đây, nông nghiệp vừa
là tất yếu sinh tồn, nhưng cũng là ước mơ, khát vọng về sự giầu có, sung túc và
thịnh vượng của dân cư. Đất đai, ruộng vườn, lúa gạo hay trâu bò luôn được coi là
thước đo về sự giàu có, sung túc. Và từ đó, tư tưởng “dĩ nông vi bản” đã trở thành
ý thức hệ phổ biến, hầu như bất di bất dịch, kể cả đối với tầng lớp quan lại phong
kiến cũng như đối với người nông dân và các tầng lớp dân cư khác.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp là cơ bản, thì trong nền kinh tế xã hội truyền thống,
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng xuất hiện từ rất sớm,
gắn liền với hoạt động nông nghiệp và hỗ trợ, bổ sung cho nông nghiệp. Tuy vậy,
trong suốt hàng nghìn năm dưới thời Bắc thuộc, tiểu thủ công nghiệp và thương
nghiệp hầu như không có bước tiến, thậm chí bị kìm hãm, co cụm lại trong các
làng xã, ẩn chìm trong các hộ gia đình và hòa lẫn với các hoạt động nông nghiệp.
Sự phục hồi và chấn hưng phát triển các nghề này chỉ thực sự diễn ra từ thế kỷ thứ
XI trở đi, khi chế độ phong kiến tập quyền nhà nước đã hình thành và ngày càng
củng cố. Từ thế kỷ XI, XII ở Ðồng bằng Bắc bộ đã xuất hiện nhiều làng nghề
truyền thống, như các làng chuyên về làm giấy, dệt vải; đúc đồng; làm nghề bạc,
gốm, đan lát,… Cho đến thể kỷ XV, và nhất là ở thế kỷ XVIII, XIX, thì các ngành
nghề thủ công nghiệp ở nông thôn đã phát triển khá mạnh mẽ. Các làng nghề,
phường nghề được mở ra ở khắp mọi nơi và hàng hóa, sản phẩm cũng ngày càng
phong phú, đa dạng hơn. Chỉ riêng ở Ðồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XIX đã có tới hơn
40 làng chuyên dệt vải, lụa; hơn 20 làng làm nghề gốm sứ, hàng chục làng chuyên
làm nghề thêu, nhuộm, nghề mộc, rèn, đúc đồng, đan lát mây tre,… Nhiều loại sản
phẩm thủ công nghiệp đã nổi tiếng, và không ít mặt hàng đạt tới trình độ kỹ nghệ
cao, trở thành những sản phẩm có ý nghĩa văn hóa, tinh thần, biểu trưng cho tài
nghệ và truyền thống của các làng.
Việc giao lưu, trao đổi hàng hóa và hoạt động thương nghiệp cũng ngày càng mở
rộng. Ở Ðồng bằng Bắc Bộ trước đây, cứ khoảng vài ba làng lại có một chợ tổng
hay chợ huyện là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các làng trong vùng. Ở
những làng xã có các nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển thì việc buôn bán, trao
đổi hàng hóa cũng thường xuyên tấp nập, nhộn nhịp hơn. Đến thế kỷ XVIII, XIX
đã xuất hiện không ít những làng buôn chuyên nghiệp, mà “đa số dân làng lấy việc
buôn bán làm nghiệp chính và nguồn sống chính của họ là do kinh tế thương
nghiệp mang lại” (Phan Đại Doãn,1989).
Sự phát triển các nghề tiểu thủ công nghiêp và thương nghiệp đã tác động không ít
đến cấu trúc của nền kinh tế xã hội làng xã và tư tưởng, tập quán sản xuất của dân
cư nông thôn. Vị trí của các nghề phi nông nghiệp có phần được coi trọng, thậm
chí ngày càng được đề cao. Tuy vậy, ngay cả ở những làng nghề, phường nghề hay
các làng buôn, phường buôn phát triển nhất thì nông nghiệp vẫn tồn tại như là “cơ
sở quan trọng của cuộc sống dân làng” và phương thức ứng xử nông nghiệp hầu
như vẫn rất nặng nề, chi phối mọi nếp nghĩ và hành động của dân cư. Đa số các
làng nghề, phường nghề và thợ thủ công vẫn giữ lại nghề nông và ruộng đất của
họ. Nhiều người làm nghề thủ công hay chuyên nghiệp sau một thời gian tích lũy
vốn liếng lại trở về làng mua ruộng đất, củng cố thêm “nghề gốc” nông nghiệp vốn
có của họ. Còn đa số những người làm nghề thủ công hay buôn bán nhỏ lẻ vẫn là
những người thường xuyên làm nông nghiệp và thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp.
Tất cả những điều đó càng củng cố thêm tư tưởng “dĩ nông vi bản” và tính chất tự
cung, tự cấp của nền kinh tế xã hội nông thôn, cản trở tiến trình phân công lao
động xã hội và phát triển kinh tế hàng hóa ở khu vực này.
3. Nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống là nền sản xuất nhỏ lạc hậu, tích
lũy thấp và tiết kiệm tiêu dùng
Tính chất của nền sản xuất nhỏ thể hiện trước hết ở quy mô và hình thức tổ chức
sản xuất của nó. Trong các công xã nông thôn, các làng tiểu nông hay bán công
bán tư, hình thức tổ chức sản xuất cơ bản và phổ biến nhất là sản xuất theo hộ gia
đình. Đất đai, dù là đất công hay tư, đều có sự phân chia manh mún và đều do các
hộ gia đình tổ chức canh tác. Mỗi hộ nông dân thường chỉ có vài sào đến vài mẫu
ruộng, nhưng phân tán trên nhiều thửa, nhiều mảnh khác nhau. Ngay cả khi chế độ
tư hữu đã trở nên phổ biến, sự phân hóa giai cấp đã hình thành, tầng lớp quan lại,
địa chủ có quy mô sở hữu ruộng đất tương đối lớn, nhưng vẫn không tạo ra được
những tiến bộ trong phương thức tổ chức sản xuất. Hình thức phát canh thu tô, cấy
rẽ hay cho thuê mướn đất đã không làm thay đổi quy mô canh tác nhỏ bé của các
hộ nông dân. Việc tổ chức sản xuất và phân công lao động vẫn chủ yếu là công
việc của các hộ gia đình. Vào lúc thời vụ khẩn trương như cày cấy, gieo hạt hay
thu hoạch, những hộ láng giềng trong cùng xóm, ngõ hoặc cùng họ hàng, huyết tộc
thường có sự hợp tác đổi công lẫn nhau. Những hộ nhiều đất thường phải thuê
mướn thêm lao động của những người thiếu đất hoặc không có đất canh tác. Song,
trong các làng xã Việt Nam cho đến trước khi thực dân Pháp đô hộ (giữa thế kỷ
XIX) đều không thấy xuất hiện các trang trại, nông trại có quy mô sản xuất tập
trung và kinh doanh nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Trong hoạt động tiểu
thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng không có sự xuất hiện những công xưởng
sản xuất với sự tập trung nhân công và hợp tác lao động theo kiểu công trường thủ
công như ở các nước châu Âu thời kỳ tiền tư bản.
Tính chất sản xuất nhỏ cũng thể hiện đặc biệt rõ nét ở hệ thống công cụ sản xuất.
Đó là những công cụ thủ công, thô sơ, phù hợp với lao động cá nhân như cày, bừa,
dao, cuốc, liềm, hái, thuyền, mủng, gầu tát nước, chài lưới, phương tiện săn bắt,
hái lượm, đánh bắt thủy hải sản hay các loại công cụ để sản xuất tiểu thủ công
nghiệp như: xa kéo sợi, khung dệt, đồ làm mộc, bễ rèn, lò nung gốm, sứ, công cụ
chế biến thực phẩm,… Song, không phải hộ nào cũng có đủ các loại công cụ để
sản xuất. Thường thì mỗi hộ chỉ có một vài loại với số lượng nhất định tùy thuộc
vào khả năng lao động trong gia đình. Trong nông nghiệp, vài ba hộ mới có một
con trâu, bò cày kéo và 1 – 2 chiếc cày, bừa thô sơ. Ở những vùng miền núi, công
cụ sản xuất của các hộ còn thiếu thốn và lạc hậu hơn so với ở các làng xã đồng
bằng. Rất nhiều hộ chỉ có dao, thuổng phát nương, liềm hái và gậy tra hạt. Phần
lớn các loại công cụ sản xuất trên đây đều được chế tạo ngay trong làng hoặc do
các hộ tự làm ra bằng kỹ thuật thủ công, trình độ công nghệ thấp. Trải qua nhiều
thế kỷ, hệ thống công cụ sản xuất trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói
chung hầu như không có những thay đổi đáng kể. Sự lạc hậu về công cụ sản xuất
không chỉ làm cho năng suất lao động thấp và không tạo ra được những tiến bộ
trong tổ chức sản xuất và phân công lao động, mà trái lại, còn góp phần duy trì
mạnh mẽ hơn phương thức tổ chức sản xuất nhỏ ở khu vực này.
Trong bối cảnh ấy, hoạt động sản xuất của dân cư chủ yếu dựa vào những tri thức
truyền thống, vào tập quán, kinh nghiệm và thói quen sản xuất của mỗi làng, mỗi
cộng đồng hay hộ gia đình. Không ít những tri thức, kinh nghiệm sản xuất tương
thích với nền sản xuất nhỏ, dựa vào tự nhiên đã được đúc kết, lưu truyền và trở
thành “kế mưu sinh” bền chặt của họ từ đời này sang đời sau. Đặc biệt là những tri
thức, kinh nghiệm về canh tác cây trồng, chọn giống gia súc, gia cầm, về thời vụ
sản xuất và các điều kiện tự nhiên của sản xuất. Còn trong lĩnh vực tiểu thủ công
nghiệp thì kinh nghiệm sản xuất là một yếu tố không thể thiếu, và thường trở thành
những bí quyết của mỗi làng, mỗi hộ gia đình và mỗi cá nhân. Sự hình thành và tồn
tại lâu dài của các làng nghề truyền thống chính là dựa vào những bí quyết và kinh
nghiệm của sản xuất được bảo lưu như vậy.
Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán và trình độ sản xuất thấp, nên khối lượng sản
phẩm được tạo ra trong các hộ gia đình cũng như trong các làng xã nói chung
không nhiều, lại manh mún, nhỏ lẻ và thường chỉ để đáp ứng cho nhu cầu tiêu
dùng trực tiếp, tại chỗ của dân cư. Dưới chế độ phong kiến, phần lớn những hộ ít
ruộng đất hoặc không có ruộng đất đều luôn trong tình trạng thiếu đói, nhất là vào
những tháng giáp hạt. Trong những năm gặp nhiều thiên tai, hạn hán, bão lụt hay
giặc giã, binh đao, thì nạn đói diễn ra rất phổ biến.
Do đó, đồng thời với tập quán coi trọng nông nghiệp và tư tưởng “dĩ nông vi bản”
như đã nói ở trên, trong nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống cũng luôn nảy
sinh tư tưởng “tích cốc phòng cơ” và tập quán tiết kiệm tiêu dùng theo kiểu “ăn dè
hà tiện”. Tư tưởng và tập quán này trở thành lối sống của đông đảo dân cư, thậm
chí còn được đề cao như một phạm trù đạo đức, một cách thức để duy trì và ổn
định đời sống. Tuy nhiên, trên phương diện tái sản xuất thì sự “tiết kiệm” như vậy
luôn đẩy tới ức chế tiêu dùng, thu hẹp tiêu dùng tới mức tối thiểu và hạn chế sự
phát triển nhu cầu của dân cư. Mặt khác, sự tiết kiệm tiêu dùng của người nông dân
lại không đẩy tới quá trình tích lũy sản xuất, thay đổi kỹ thuật hay tái đầu tư mở
rộng sản xuất. Trái lại, sự tích góp của người nông dân, rốt cuộc, phần lớn lại
chuyển sang tiêu dùng trong các lĩnh vực ngoài sản xuất (như giỗ, tết, cưới hỏi, ma
chay, lễ hội, đình đám, tương trợ lẫn nhau lúc đói kém, giúp nhau làm nhà…).
Trong đó, không ít tập quán tiêu dùng nói trên đã trở thành những hủ tục hết sức
tốn kém, lãng phí và thường xuyên bị các tầng lớp quan lại lợi dụng để bòn rút. Do
vậy, tư tưởng “tích cốc phòng cơ” và tiết kiệm tiêu dùng theo kiểu “ăn dè hà tiện”
vẫn luôn được duy trì một cách nghiệt ngã.
4. Nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống vừa lệ thuộc vào tự nhiên vừa cải
tạo và thích ứng, hài hòa với tự nhiên
Trong các công xã cổ xưa, cũng như làng tiểu nông thời phong kiến, do trình độ
sản xuất lạc hậu nên phần lớn các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của dân cư lệ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố và điều kiện tự nhiên. Trong triết lý về quan hệ giữa
tự nhiên và con người (Thiên-Địa-Nhân), thì “thiên” (trời) và “địa” (đất) luôn được
coi là yếu tố chi phối đến “nhân” (con người). Song, con người lại được coi “là
tinh hoa của đất”, là một bộ phận của tự nhiên, không tách khỏi tự nhiên, mà gắn
bó mật thiết với tự nhiên (Phan Đại Doãn, 2004). Và vì vậy, trong nền kinh tế xã
hội nông nghiệp truyền thống, các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” luôn được
coi là những yếu tố quan trọng hàng đầu trong phát triển sản xuất và đời sống.
Để khai hoang, lập ấp, mở mang sản xuất, hay du canh du cư, lập ra làng xã mới,
người ta thường dựa vào những khu vực đất đai màu mỡ dọc theo các triền sông
hay trong các thung lũng và các dải đồng bằng có điều kiện thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp, đánh cá, chăn nuôi, hay những khu vực đồi, rừng sẵn có những sản
vật tự nhiên. Đây cũng là những nơi có tài nguyên thiên nhiên phong phú, có
nguồn nước và khí hậu thích hợp cho sản xuất và đời sống của họ. Do đó mà từ xa
xưa, các làng Việt thường quần tụ ở những triền sông, những vùng đồng bằng châu
thổ, rồi theo dải đồng bằng ven biển di cư dần về phía Nam. Ở những vùng này,
đất đai thường màu mỡ, nơi nào cũng có thể trồng lúa, hoa màu và có thể canh tác
nhiều vụ trong một năm. Ở những vùng trung du, miền núi, các làng bản và dân cư
thưa thớt hơn, nhưng nơi đây cũng có nhiều thung lũng màu mỡ, những đồng cỏ,
đồi, rừng, với hệ sinh thái động, thực vật và sản vật tự nhiên phong phú, đa dạng.
Đó là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất và đời sống của dân cư.
Bên cạnh việc lợi dụng các yếu tố, điều kiện thuận lợi của tự nhiên, thì ngay từ xa
xưa, các cộng đồng dân cư cũng luôn phải tìm cách cải tạo các yếu tố tự nhiên,
thích ứng và ứng phó với những tác động bất lợi của tự nhiên (gió bão, tố, lốc, lũ
lụt, hạn hán, hỏa hoạn, dịch bệnh,...) để bảo vệ sản xuất và cuộc sống. Ở những
vùng đồng bằng, hầu như các làng đều phải “đắp đê để bảo vệ khu đất cư trú và đất
trồng trọt trước những cơn lũ của các dòng sông và xây dựng những hệ thống thủy
lợi nhỏ để tưới tiêu cho đồng ruộng”. Sản xuất càng phát triển thì việc cải tạo đất
đai, tưới tiêu nước, bảo vệ rừng, phòng chống thiên tai,… càng trở nên quan trọng
và cần thiết.
Cho đến thời kỳ phong kiến tập quyền nhà nước, việc đắp đê trị thủy và xây dựng
những hệ thống thủy nông đã được tổ chức trên phương diện quốc gia, từ nhà nước
trung ương đến các địa phương. Song, việc phòng chống thiên tai vẫn chủ yếu dựa
vào các làng. Hầu như làng nào cũng có những quy ước, luật lệ quy định cụ thể về
trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người dân, cử người trông coi công việc đê điều và
tổ chức lực lượng canh phòng. Nhiều làng xã ở Ðồng bằng sông Hồng xưa, việc
phòng chống thiên tai quan trọng tới mức, bất kể người giàu hay người nghèo,
người dân của làng hay người ngụ cư, nếu ai lơ là hoặc vi phạm quy ước của làng
đều bị phạt rất nặng, ai không ra ứng cứu lũ lụt có thể bị đuổi ra khỏi làng, ai
không “nhường cơm xẻ áo” lúc thiên tai có thể bị tẩy chay khỏi các sinh hoạt cộng
đồng. Các làng lân cận, liền kề nhau cũng thường có những quy ước liên kết, hỗ
trợ, ứng cứu lẫn nhau trong việc phòng chống và khắc phục hậu quả của thiên tai.
Song, cũng trong quá trình lao động biền bỉ để cải tạo tự nhiên và ứng phó với
những bất lợi của tự nhiên, các cộng đồng cư dân nông nghiệp ngày càng có những
hiểu biết và tri thức về tự nhiên, tích lũy kinh nghiệm để chung sống hài hòa với tự
nhiên và lợi dụng tốt hơn các điều kiện tự nhiên. Kinh nghiệm và sự hiểu biết về
thời tiết, khí hậu, về đất đai, thủy triều hay mùa vụ phát triển của các loại cây
trồng, vật nuôi đã được đúc kết và được áp dụng rộng tãi trong sản xuất nông
nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, săn bắn và khai thác sản vật tự nhiên,…
Những tri thức và hiểu biết về tự nhiên cũng được ứng dụng vào các sinh hoạt xã
hội, cộng đồng và các hoạt động khác của dân cư như tổ chức lễ hội, cưới hỏi, làm
nhà, đào ao, khơi nguồn nước,...
Và chính mối quan hệ mật thiết, hài hòa với tự nhiên trong sản xuất cũng như trong
đời sống đã tạo ra cho con người, các cộng đồng dân cư và xã hội nông nông
nghiệp truyền thống những tình cảm sâu đậm với thiên nhiên, những giá trị văn
hóa, tinh thần hết sức phong phú, sáng tạo. Thiên nhiên trở thành một phần trong
đời sống văn hóa, tinh thần, tín ngưỡng, tình cảm của con người. Nhiều yếu tố và
hiện tượng tự nhiên được “sùng bái” và trở thành tín ngưỡng như “thần sấm”,
“thần mưa”, “thần sông”, “thần núi”,… cùng với những lễ hội truyền thống, mang
đậm sắc thái văn hóa của các cộng đồng, các vùng quê như các lễ hội: cầu mưa,
rước nước, điền, hạ ngư,... Và từ xa xưa, thiên nhiên đã đi vào tục ngữ, ca dao, trở
thành nguồn cảm hứng cho những sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật, cho sự
thể hiện tình cảm của con người, sự gắn bó với cộng đồng và tình yêu đối với quê
hương, đất nước. Sự gắn bó mật thiết với tự nhiên, tôn trọng tự nhiên, vừa đấu
tranh với tự nhiên vừa hòa hợp với tự nhiên để sinh tồn và phát triển – đó là một
trong những triết lý cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế xã hội nông nghiệp
truyền thống.
__________________
Tài liệu tham khảo
1. Lịch sử Việt Nam (1971), tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (1977), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Phan Đại Doãn (2004): Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử;
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phan Đại Doãn (1987): Tái sản xuất tiểu nông và làng Việt cổ truyền; Tạp chí
Nghiên cứu Kinh tế, số 4.
5. Bùi Xuân Đính (1985): Lệ làng phép nước, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
6. Đinh Xuân Lâm (1987): Nông thôn Việt Nam trong thời kỳ cận đại, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 232-233.
7. Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (chủ biên) (1998): Nghiên cứu Việt Nam: Một
số vấn đề lịch sử-kinh tế-xã hội-văn hóa, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
8. Hồng Phong (1957): Xã thôn Việt Nam, Nxb. Văn-Sử-Địa, Hà Nội.
9. Trần Quốc Vượng (1983): Những nhân tố tự nhiên, số dân, kỹ thuật, ý thức
trong văn minh nông nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học, số 2.
10. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1960): Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam
(1960), tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Quang Ngọc (1989): Thương nghiệp ở nông thôn Việt Nam truyền
thống, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 5.
12. P. Gourou (1936): Những người nông dân Đồng bằng Bắc Bộ (Les Paysans du
delta Tonkinois); Edition d’Art et d’histoire, Paris. (Bản dịch tiếng Việt tại Thư
viện- Viện Xã hội học).
I.
Nh
ữ
ng
thay
đổ
i
x
ã
h
ộ
i
t
ừ
x
ã
h
ộ
i
truy
ề
n
th
ố
ng
sang
x
ã
h
ộ
i
hi
ệ
n
đạ
i
c
ó
ả
nh
h
ưở
ng
đế
n
s
ự
h
ì
nh
th
à
nh
d
ư
lu
ậ
n
x
ã
h
ộ
i
Xã hội Việt Nam truyền thống là xã hội cộng đồng được xây dựng trên
nền tảng các mối quan hệ gia đình - thân tộc - làng xã, với nghề nông nghiệp
làm lúa nước là chủ yếu. Trong gia đình, các thành viên gắn bó với nhau bằng
những quan hệ chặt chẽ (tự nhiên - huyết thống), và được tăng cường bằng
những nguyên lý Nho giáo, cũng như được cố kết bằng tình cảm kính trọng yêu
thương, giữa các thế hệ khác nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai [12: 47].
Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng trong đời sống tâm linh của
người Việt. Việc phụng dưỡng những người đã khuất dẫn đến quan điểm đề cao
giá trị của đứa con trai, kẻ nối dõi tông đường.
Những quan điểm Nho giáo cũng có những ảnh hưởng đáng kể đối với gia
đình người Việt truyền thống thông qua việc qui định các quan hệ vợ - chồng;
cha mẹ con cái; tam cương, ngũ thường; các qui định về tam tòng, tứ đức đối
với phụ nữ. Gia đình người Việt được xem là tế bào của xã hội.
Làng Việt là một thực thể khá đặc biệt, được xem là sản phẩm của nền
nông nghiệp trồng lúa nước, có vai trò tự trị, độc lập tương đối lớn. Đặc điểm
quan trọng của làng Việt có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành dư luận xã hội là
làng Việt được xem như một cộng đồng tương đối đóng, mang tính tự quản cao.
Tính cộng đồng của làng là cơ sở cho truyền thống đoàn kết tương trợ, tinh thần
tập thể của người nông dân Việt Nam, vì thế, đôi khi dẫn đến một thứ cộng
đồng bản vị mang tính địa phương bè phái cục bộ. Về cảnh quan, một làng
thường được bao bọc bởi những luỹ tre xanh, vừa để phân ranh giới, vừa để bảo
vệ làng, là một không gian cư trú khép kín. Trong làng là những điểm tụ cư mở
với các địa điểm như đình làng, quán cầu, cây đa, giếng nước là những điểm
giao tiếp công cộng. Các gia đình trong làng thường quen biết nhau, người dân
thường chỉ quanh quẩn bên trong làng, ít có cơ hội đi ra ngoài vì thế những sự
kiện lớn nhỏ trong làng đều có thể trở thành chuyện thời sự để người ta bàn tán
với nhau sau mỗi lần gặp gỡ. Một không gian xã hội đóng với những mối quan
hệ tương đối khép kín, cộng động dân cư ít cộng với những yếu tố hạn chế khác
trong di động xã hội, chia sẻ lợi ích các nhóm nhỏ,... là những dữ liệu tham
khảo quan trọng trong việc xem xét về dư luận xã hội trong những giai đoạn
này.
Các hoạt động kinh tế thường ở trong làng, hoặc liên làng, quy mô sản
xuất không lớn, các hàng hoá chủ yếu là nông sản và các hàng thủ công. Có
những làng nghề nhưng chủ yếu vẫn sống dựa vào nông nghiệp.
Trong làng, chế độ tôn ti dựa theo truyền thống trọng lão và trọng tước.
Có hai hệ thống quyền lực (mang tính Nhà nước và làng xã tự quản) tồn tại
song song. Các công việc chung của làng được bàn bạc và giải quyết nội bộ.
"Sự cố kết làng xã còn thể hiện ra ở tính đa dạng trong những mối quan hệ
xã hội và các tổ chức xã hội. Ở làng xã, các mối quan hệ thân tộc họ hàng đan
xen với những mối quan hệ cư trú xóm giềng. Cách ứng xử xã hội dựa vào thứ
bậc trong họ tộc, gia đình, qua các lứa tuổi được ổn định qua các tập tục, quy
ước. Một quan hệ tổng hợp khá phức tạp tồn tại trong làng xã là giáp. Đó là
một cộng đồng nam giới, dựa trên địa vực và phần nào là họ hàng, có nhiệm vụ
điều hành và giải quyết các việc làng của giáp đó, như việc chuẩn bị đóng góp
tế lễ, phân bổ ruộng đất và thu sưu thuế theo lớp tuổi. Ngoài ra, trong làng xã
còn có những tổ chức phi chính quyền tập hợp quần chúng, có tính chất đoàn
kết tương trợ, theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp như các phường hội chư bà,
hội bảo thọ, hội bách nghệ, hội tư văn, tư võ...
Làng xã còn là một cộng đồng cố kết và tự quản về văn hóa tinh thần. Có
một thứ tôn giáo là tục thờ cúng Thành Hoàng được coi là vị thần bảo trợ cho
toàn thể dân làng. Không gian thiêng của làng bao gồm các đình (chức năng tôn
giáo kết hợp với chức năng chính trị, xã hội), chùa chiền, miếu mạo, nghĩa
trang làng... Trong làng, người ta thường sống theo những phong tục tập quán
cổ truyền (lệ làng) mang tính mềm dẻo, là một đối trọng của phép nước (mang
tính cứng rắn). Một sự thoả hiệp hỗn dung giữa lệ làng và phép nước, được văn
bản hóa thành các khoán ước, hương ước, thường do các nho sỹ làng xã được
cử ra soạn thảo đề cập đến những qui ước, nghĩa vụ, việc thưởng phạt đối với
cộng đồng dân làng." [12: 54-55].
Trong làng xã, tình nghĩa là một giá trị bắt rễ lâu bền trong lịch sử cộng
đồng người Việt. “Từ truyền thống “tình làng nghĩa xóm” đã được kết tinh một
giá trị độc đáo của căn cước văn hoá dân tộc: tình nghĩa. Trong đời sống tinh
thần của dân tộc ta, “tình sâu nghĩa nặng”, “trọn vẹn tình nghĩa” đã trở thành
một trọng những giá trị nhân văn cao quý nhất. [32: 2]
Trong một bối cảnh gia đình, làng xã như vậy, dư luận xã hội (trong
những trường hợp này là dư luận làng xã) có những đặc điểm nhất định. Những
vấn đề quan tâm của người dân xoay quanh những vấn đề có liên quan đến bản
thân họ và cộng đồng, dựa trên những qui định truyền thống, hương ước hay
tình cảm, và có ảnh hưởng lớn đối với những người khác trong cộng đồng. Do
mọi thành viên đều biết nhau, giao tiếp trong làng hạn chế dẫn đến việc giao
tiếp mặt đối mặt là chủ yếu, cơ chế hình thành dư luận xã hội dựa chủ yếu vào
những giao tiếp trực diện, theo nhóm mà ít khi thông qua các phương tiện
truyền thông, cùng với việc những quan hệ luật pháp còn lỏng lẻo nên dư luận
làng xã được xem là một phương tiện điều chỉnh hành vi cá nhân trong cộng
đồng. Những áp lực từ những dư luận này nhiều khi mạnh tới mức buộc các cá
nhân phải bỏ làng ra đi hoặc tìm kiếm đến con đường cùng.
"Người ta bình luận từ những chuyện hay, dở trong làng, trong xóm, trong
từng gia đình cho đến hành vi của từng cá nhân trong sinh hoạt đời thường.
Những lời bàn tán, bình luận ấy đã tạo nên dư luận của làng. Dư luận của làng
không phải bao giờ cũng đều được bộc lộ với sự bình luận nhiều khi giống
nhau, nhưng lắm khi cũng khác nhau, không phải bao giờ cũng cùng mang thái
độ khách quan, không phải bao giờ cũng thống nhất v.v... Nhiều khi người ta đã
gửi gắm vào đó những ý kiến, nhận định chủ quan của bản thân, của dòng họ
mình, phe phái mình. Tuy nhiên, dư luận của làng cũng có vai trò quan trọng
trong đời sống của người nông dân. Trước hết, nó có chức năng điều hoà các
mối quan hệ xã hội trong làng xã. Trên cơ sở các phán xét, đánh giá về các sự
kiện, hiện tượng trong đời sống hàng ngày của làng xã, nó cổ vũ, khích lệ
những ai chấp hành các chuẩn mực, làm tốt những việc phải làm, nó ngăn ngừa,
răn đe những việc nên tránh, điều chỉnh hành vi và cách xử sự của mọi người
trong làng.
Gắn liền với chức năng điều hoà hành vi là chức năng giáo dục của dư
luận làng. Khi giáo dục chưa phát triển, trình độ dân trí thấp thì dư luận làng
đóng vai trò của người hướng dẫn vị thế và cách thức ứng xử của mỗi thành
viên của nó. Nó tác động vào ý thức người nông dân, chi phối ý chí cá nhân,
điều chỉnh cho nó phù hợp với ý chí chung của mọi người sao cho thích hợp
với các chuẩn mực của cộng đồng. Đa số các thành viên trong làng đều quan
tâm đến những đánh giá tốt hay xấu của dư luận làng, để sửa chữa sai lầm, bổ
khuyết những thiếu sót, đáp ứng cao hơn những đòi hỏi của cộng đồng làng đối
với bản thân mình, đến thái độ khen hay chê...
Dư luận làng góp phần quản lý từng con người cụ thể. Nó ràng buộc các
thành viên vào cơ chế vận hành của làng xã. Mỗi cá nhân không chỉ chịu sự
giám sát chặt chẽ của gia đình, họ hàng, mà còn chịu sự kiểm tra, đánh giá của
cả cộng đồng thông qua hương ước. Tập quán của làng củng cố và thực hiện
chức năng bằng phương tiện dư luận. Nhờ tác dụng giáo dục của dư luận làng
mà mỗi người dân có tình cảm gắn bó với xóm làng, quê hương, thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau, cùng có nghĩa vụ ngăn chặn những vi phạm thuần phong,
mỹ tục của làng, các chuẩn mực đạo đức và luật tục của làng được ghi trong
hương ước..."... "Là phương tiện kiểm soát, giám sát từ phía cộng đồng, dư luận
của làng trở thành hệ quy chiếu đối với các thành viên trong làng. Người nông
dân luôn phải "trông trước, nhìn sau" trong ứng xử "ăn ở cho tròn", phòng khi
"người trên trông xuống, người ta trông vào", phòng "nhĩ mục, quan chiêm",
phòng "thiên hạ đàm tiếu", phòng "kẻ cười, người chê", phòng "miệng đời mai
mỉa"..." [13: 182-184].
Một hệ thống qui chiếu xã hội ảnh hướng mạnh đến dư luận xã hội ở
nông thôn là hương ước. “Hương ước có vai trò quan trọng đối với việc ổn định
nếp sống trong làng và có sức mạnh một phần là do các hình phạt và hình thức
khen thưởng. Nó phản ánh tâm lý của dân làng, phản ánh một phương diện
quan trọng của văn hoá làng. Đó là các quan niệm của dân làng về điều phải,
điều trái. Luật pháp nhà nước khó phản ánh sinh động các quan niệm phải, trái,
đúng sai của dân từng làng như trong hương ước. Nó vừa uống người ta vào
khuôn phép, vừa động viên con người ta hành động. Sức mạnh cưỡng chế của
nó dựa vào lề thói, nếp sống quen thuộc của cộng đồng, vào hệ ý thức cộng
đồng. Đó là sức mạnh có tính chất tâm lý nằm sâu trong tiềm thức của mọi
người trong làng.
Áp lực tinh thần của hương ước thường là bất khả kháng vì đó là áp lực
tinh thần của cộng đồng và là áp lực nội tại trong tinh thần của mỗi thành viên.
Chống lại hương ước thì chỉ có cách bỏ làng, bỏ mồ mả cha ông, để lại nỗi tủi
hổ cho gia đình. Đó là điều dân làng khó mà làm được” [28: 71]
Những giá trị, khuôn mẫu, chuẩn mực ứng xử ở mọi quy mô (nhà - làng -
nước) luôn là cái mà dư luận xã hội lấy làm qui chuẩn để đánh giá hành vi cá
nhân. Đặc điểm xã hội Việt Nam truyền thống tạo thuận lợi cho việc phát triển
một nền văn hóa dân gian. Chính nền văn hóa dân gian ấy là nơi lưu truyền
những khuôn mẫu ứng xử qua các thể loại văn hóa dân gian (thơ, ca, hò, vè)
được người dân truyền miệng nhau qua những buổi tán chuyện, ngồi lê đôi
mách ở những nơi công cộng hay ở những nhà dân cụ thể, nên đến nay chúng ta
có thể nhờ đó mà đánh giá được những gì được ưa chuộng cũng như những gì
mà người dân thời đó lên án.
Trên bình diện toàn xã hội, những qui định của Nho giáo, của luật pháp
Nhà nước là những qui chuẩn cho sự hình thành các dư luận xã hội. Những hệ
giá trị được Nho giáo đề cao, việc trọng học của người dân, đề cao vai trò và
địa vị của tầng lớp sỹ phu là những cơ sở xã hội và là điều kiện thuận lợi cho
việc Nho giáo là một đối chiếu cho các đánh giá (một trong những chức năng
của dư luận xã hội). Trong khi đó, Nhà nước trung ương thể hiện vai trò của
mình bằng luật pháp hay những qui định ràng buộc cụ thể đối với các địa
phương, với từng người dân và vì vậy luôn có được sự phán xét từ chiều ngược
lại. Tuy nhiên, dù rằng có những dư luận xã hội chung, nhưng theo chúng tôi,
dư luận làng xã chiếm ưu thế hơn, và là những tiếp biến của dư luận xã hội ở
qui mô làng xã.
Trong một khuôn khổ xã hội như trên chúng ta đã điểm qua, chúng ta
cũng có thể thấy ngay rằng bối cảnh xã hội truyền thống tạo ra những dạng dư
luận xã hội mang đặc trưng riêng (từ cơ chế hình thành, những dạng, chủ đề dư
luận xã hội được ưa chuộng tới qui mô, cường độ, không gian hay thời gian tồn
tại,... của các dư luận xã hội này). Những đặc trưng này là những đặc điểm nổi
bật, tuy không phải nơi đâu (làng nào, vùng nào) cũng vậy và có thể biến đổi
qua những giai đoạn cụ thể, nhưng dường như chúng đóng vai trò quan trọng,
thường trực và đáng chú ý hơn cả. Thực ra, dư luận xã hội mà chúng ta nói đến
trong xã hội truyền thống Việt Nam khó có thể được xem xét theo một nghĩa
thực sự giống như dư luận xã hội mà chúng ta bàn đến ở xã hội hiện tại. Dư
luận xã hội trong xã hội truyền thống chủ yếu tồn tại dưới dạng dư luận xóm
làng (nếu gọi đúng nghĩa thì đó là dư luận xóm làng) do các làng xóm sống
tương đối độc lập với nhau, sự hạn chế về di động xã hội cũng như việc các
phương tiện truyền thông hầu như không tồn tại. Dư luận xã hội tồn tại đúng
nghĩa như chúng ta hiểu hiện nay chỉ tồn tại ở những đánh giá của người dân
đối với công việc của vua chúa, hay ảnh hưởng của các chính sách của triều
đình đối với đời sống của người dân. Tất cả những thái độ của dân chúng,
chúng ta có thể tìm thấy qua những câu ca dao, hò vè của nhiều vùng trên cả
nước. Tẩt cả những yếu tố trên có thể là những tham số so sánh khi xem xét dư
luận xã hội trong giai đoạn hiện đại.
Bắt đầu từ năm 1945, khi đất nước giành được độc lập, xã hội Việt Nam
trải qua nhiều thay đổi. Với việc chế độ phong kiến sụp đổ, những cơ sở, giá trị,
chuẩn mực và những mối quan hệ xã hội cơ bản hình thành nên chế độ đó có
những thay đổi căn bản đã dẫn đến những thay đổi ở dư luận xã hội. Những
thay đổi trong dư luận xã hội đáng chú ý bắt nguồn từ những thay đổi ở xã hội.
Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ một xã hội truyền thống, với những giá trị vốn
được xem là bên vững từ rất lâu đời, dường như trở thành bản sắc xã hội của
người Việt, trải qua xấp xỉ một thế kỷ trực tiếp tiếp xúc với văn hóa phương
Tây, và một nền văn hóa mới khác của những người Cộng sản được xây dựng
và trở thành chính thống đối với xã hội toàn bộ.
Các bối cảnh xã hội ban đầu có ý nghĩa lớn đối với việc ra đời các luồng
dư luận xã hội hiện đại. Khi đất nước trải qua các cuộc chiến tranh, các chủ đề
của dư luận xã hội cũng tập trung vào đó (ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa,
phản đối chiến tranh phi nghĩa, những giá trị yêu nước được đề cao, các hành
động không vì lợi ích dân tộc bị lên án, các chủ đề khác mất đi vai trò quan
trọng,...).
Bước vào thời kỳ Đổi mới, đặc biệt là sau năm 1991, với việc Việt Nam
trở lại với quá trình hội nhập quốc tế, bối cảnh xã hội rộng mở, xã hội trở nên
đa dạng từ phân công lao động, phân tầng mức sống, khác biệt trong các cơ hội
tiếp cận các dịch vụ xã hội của các nhóm, cộng đồng,... đã dẫn đến các chủ đề
mà dư luận xã hội quan tâm trở nên đa dạng. Nói chung, với những bối cảnh xã
hội cụ thể, những mối quan hệ xã hội cụ thể, dư luận xã hội luôn được nảy sinh
phù hợp với những mối quan tâm của người dân, các nhóm xã hội, và là sự
phản ánh xã hội trong giai đoạn nhất định.
Như phần đầu chương 3 chúng tôi đã trình bày qua phần minh hoạ của tác
giả Trần Ngọc Thêm, sự biến đổi của dư luận xã hội còn bắt nguồn do sự
chuyển đổi từ xã hội cổ truyền sang nền kinh tế thị trường có những thay đổi
căn bản trong nhiều tiêu chí từ lối tư duy (tổng hợp, trọng quan hệ phân tích,
trọng yếu tố), lối sống (theo đạo đức theo luật pháp) tới cách hành động (dựa
vào sự quen biết; quân bình quy thành giá cả, lợi nhuận, cạnh tranh),... Hoặc
như "Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế và lợi ích cá nhân được đề
cao, sự phân hóa giàu nghèo trong các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội cũng
tăng lên. Tình hình đó, tất yếu được phản ánh trong dư luận xã hội" [36:12].
Một sự thay đổi lớn như vậy cần thời gian và nhiều sự thay đổi trong xã hội và
trong tư duy con người và cộng đồng. Một thời kỳ chuyển tiếp cũng là một thời
kỳ mà các giá trị cổ truyền và các giá trị hiện đại đối đầu, thách thức sự tồn tại
và cũng thích nghi với nhau. Dư luận xã hội đã phản ánh các quá trình này ở
từng trường hợp cụ thể xảy ra ở những bối cảnh cụ thể tại một thời điểm cụ thể.
Các nhóm xã hội đã trở nên đa dạng. Một cá nhân có thể tồn tại ở rất
nhiều nhóm xã hội khác nhau, và vì thế, anh ta có sự quan tâm đến rất nhiều
vấn đề khác nhau và bị chi phối ở nhiều hệ qui chiếu. Dư luận xã hội trở nên
phân hoá với nhiều luồng dư luận khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau do sự
khác biệt về lợi ích giữa các nhóm. Dư luận xã hội cũng dễ được hình thành do
sự phát triển của các phương tiện truyền thông, các mối quan tâm đa dạng,
những mối giao tiếp rộng mở,...
Một xã hội thay đổi nhanh chóng với nhiều khuôn mẫu, chuẩn mực đang
định hình. Nhiều khuôn mẫu, chuẩn mực không còn đứng vững khiến cộng
đồng không có (hoặc thiếu) cơ sở vững chắc để dựa vào đó có những đánh giá
đối với các hiện tượng xã hội đang xảy ra. "Con người ngày càng bị quấy rối
bởi đủ loại kích động, mà các hành vi phản xã hội thì lại được các phương tiện
truyền thông đại chúng thường xuyên làm cho nó có sức quyến rũ" [22: 33].
Dư luận xã hội đã thay đổi cùng với sự thay đổi của xã hội.
Quá trình đô thị hóa ở ta tuy không nhanh nhưng đã thực sự làm cho các
đô thị mất rất nhiều bản chất nông thôn mà các đô thị trước kia thường mang
nặng dấu ấn. Không những thế, ở các vùng nông thôn, các làng quê cũng đang
dần bị quá trình "đô thị hóa" chi phối mọi mặt. Các giá trị, chuẩn mực vốn rất
bền vững ở các làng quê đang đối mặt, chịu thách thức của các giá trị, chuẩn
mực hiện có, hoặc đang hình thành của xã hội toàn bộ. Dư luận làng xã vốn
được xem là phổ biến trong xã hội truyền thống nay đã được thay bằng một dư
luận xã hội với tư cách là dư luận của các nhóm xã hội trong một xã hội phân
tầng. Những giới hạn về không gian và thời gian trong việc đánh giá của dư
luận xã hội đối với một sự kiện, quá trình đang xảy ra không còn quan trọng đối
với quá trình hình thành dư luận xã hội. Kênh truyền tải của dư luận xã hội
không chỉ còn dừng lại ở những câu chuyện ngồi lê đôi mách mà là bằng các
phương tiện truyền thông, qua những người dẫn dắt dư luận. Truyền thông là
một trong những nhân tố quan trọng nhất trong việc làm thay đổi dư luận xã hội
hiện đại so với dư luận xã hội truyền thống.
Truyền thông trong xã hội ta hiện nay đóng một vị trí quan trọng trong
việc hình thành thái độ, dư luận xã hội ở các nhóm công chúng. Truyền thông ở
Việt Nam có những đặc điểm là công cụ của Đảng, Nhà nước; phục vụ việc
tuyên truyền đường lối của Đảng và Nhà nước; nâng cao nhu cầu tìm hiểu, giải
trí của người dân;... Mạng lưới truyền thông được rải khắp từ trung ương đến
địa phương. Con số thống kê của Bộ Văn hóa Thông tin cho thấy: "Cả nước có
490 cơ quan báo chí, trong đó 177 báo và 313 tạp chí với 645 ấn phẩm. Hàng
năm xuất bản 550 triệu bản. Mức hưởng thụ bình quân 7,07 bản/người/năm; có
1 đài truyền hình khu vực, 61 đài phát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố, 606
đài truyền thanh, phát thanh cấp huyện, trong đó có 288 đài phát sóng FM; có
60/61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 465 huyện trong tổng số 512
huyện, 6950/10.395 xã được đọc báo hàng ngày. Khoảng 60% dân số được xem
truyền hình và 70% được nghe đài TNVN" [37: 17]. Khi các luồng thông tin
đến với người dân chủ yếu qua các phương tiện truyền thông thì việc các
phương tiện này "nói" gì có ý nghĩa đối với người dân cả ở nông thôn và thành
thị. Mức sống tuy chưa phải là cao (khi xét bình quân cho toàn dân số) nhưng
đã có những cải thiện đáng kể, trong đó đặc biệt điều kiện kinh tế đã tạo điều
kiện cho người dân việc tiếp cận thường xuyên hơn với các phương tiện truyền
thông. Sóng phát thanh và truyền hình đã phủ sóng gần như toàn quốc, báo chí
cũng đã tới những nơi rất xa như hải đảo, các vùng sâu, vùng xa. Tin tức từ
truyền thông đại chúng mang ý nghĩa toàn quốc gia. Trong các phần tin thì
những thông tin thời sự là một trong những chương trình được người dân quan
tâm nhất . Có thể nói rằng truyền thông nói chung, truyền thông đại chúng nói
riêng đã góp phần san lấp khoảng cách nông thôn - đô thị, và phần nào đó là
khoảng cách giàu nghèo trong việc tiếp cận thông tin. Đây chính là một trong
những đặc điểm của dư luận xã hội trong thời kỳ hiện nay.
Xét theo chiều không gian xã hội, chúng ta thấy rằng xã hội Việt Nam
đang trên đường đô thị hoá tương đối nhanh chóng. Xã hội nông thôn thay đổi
kèm theo sự thay đổi ở cả hình thức lẫn nội dung của dư luận xã hội. Sự biến
đổi của xã hội nông thôn truyền thống sang xã hội nông thôn đương đại được
liệt kê như sau:
X
ã
h
ộ
i
n
ô
ng
th
ô
n
truy
ề
n
th
ố
ng
X
ã
h
ộ
i
n
ô
ng
th
ô
n
đươ
ng
đạ
i
[Nguồn 11:114-116]
Trước bối cảnh đó, dư luận xã hội ở nông thôn có những thay đổi căn bản.
Dư luận xã hội không còn chủ yếu bó hẹp trong phạm vi làng do những vấn đề
mà người dân bàn luận không còn khuôn hạn trong phạm vi làng xã. Do chịu
ảnh hưởng rất nhiều từ các yếu tố bên ngoài vào qua nhiều con đường, quan
trọng nhất là qua các phương tiện truyền thông, bên cạnh đó là những giao tiếp
trực tiếp, qua giao lưu nhờ sự di động xã hội đã cao hơn trước. Nội dung của dư
Trọng nông ức thương, lấy
nông nghiệp làm gốc, coi
thường công thương nghiệp,
dẫn đến sự phân hạng xã hội:
sĩ, nông, công, thương, trọng
tước vị và kinh nghiệm.
Giảm trừ giá trị trọng nông do quá trình đa dạng hóa nghề
nghiệp, nghề nông không phải là nghề sinh sống duy nhất
của người dân. Khả năng thăng tiến, thay đổi vị thế xã hội
đã được mở rộng hơn trước bằng quá trình họ nghề phi
nông nghiệp. Làm quan không còn là con đường thăng tiến
duy nhất trong xã hội. Trật tự xã hội: sĩ, nông, công thương
không còn là một trật tự bất biến.
Đề cao tinh thần cộng đồng, có
khuynh hướng đồng nhất các
giá trị xã hội trong cộng đồng,
không đề cao sự khác biệt, đa
dạng. Cá nhân phụ thuộc vào
cộng đồng.
Sự tồn tại và phát triển của cộng đồng phải tính đến lợi ích
của từng cá nhân trong cộng đồng ấy. Bổn phận đối với
cộng đồng vẫn được tôn trọng song ý nghĩa tuân thủ tuyệt
đối các lợi ích chung mà không tính đến lợi ích riêng đã
không còn như xưa.
Quý nghĩa khinh lợi, an phận
thủ thường, đề cao hà tiện.
Chủ nghĩa kinh nghiệm không còn vị trí độc tôn do sự phát
triển hơn của hệ thống giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
và hệ thống truyền thông đại chúng trong xã hội nông thôn,
do đó vai trò của người già không còn vị trí như người
quyết định mọi công việc của cộng đồng xưa nữa.
Tư tưởng bình quân nông dân,
cào bằng, không chấp nhận
những điểm "trồi" về mức
sống và lối sống.
Truyền thống tình làng nghĩa xóm, trọng các giá trị cộng
đồng vẫn là hạt nhân cơ bản của sự phát triển lãng - xã,
song sự áp chế của tính đồng nhất cộng đồng, sự thanh
nhàn, bằng lòng với cái nghèo không còn hiệu lực như xưa
nữa, xu hướng vươn tới làm giàu, chú trọng đến lợi ích vật
chất là một giá trị xã hội ngày càng được phổ biến hơn
trong xã hội nông thôn hiện nay. Tiêu dùng không còn là
một giá trị xã hội bị lên án.
Truyền thống tình làng nghĩa
xóm, tương thân tương ái, ghi
ơn công lao của các bậc tiền
nhân, nhớ về cội nguồn, tổ tiên
là những giá trị xã hội chung
được chia xẻ.
Tâm thế đồng nhất văn hóa, chủ nghĩa bình quân nông dân
kiểu cào bằng đang đứng trước những thách thức của xu
hướng khẳng định hơn sự khác biệt, đa dạng văn hóa của
một số nhóm có mức sống nổi trội hơn do có sự chuyển
dịch nghề kịp thời và khả năng tận dụng các lợi thế mà họ
tích tụ được quyền lực, vốn, vị trí địa lý, các cơ may...
Tính thiêng của các giá trị tinh thần chung của cộng đồng,
các hình thái tôn giáo và tín ngưỡng nông nghiệp là những
giá trị văn hóa được tôn trọng chung song đã bắt đầu bị giải
thiêng ở một số nhóm xã hội có nghề nghiệp phi nông
nghiệp, có sự di động xã hội cao, học vấn cao hơn truyền
thống. Xu hướng thế tục hóa của xã hội hiện đại tuy chưa
đủ sức phá vỡ các giá trị tinh thần truyền thống trên song
đó cũng là một thực tế cần phải tính đến
luận xã hội cũng thay đổi do sự thay đổi của các nền tảng ở đó dư luận xã hội ở
các làng dựa vào để đưa ra những đánh giá (các giá trị, chuẩn mực truyền thống
thay đổi, hương ước thay đổi hoặc không còn,...). Các chủ đề cũng đa dạng hơn
do bối cảnh xã hội đã rộng lớn và phức tạp hơn một bối cảnh chỉ có cộng đồng
làng là chủ yếu đã khiến nội dung không những đã thay đổi mà còn đa dạng.
Mối va chạm nông thôn - đô thị diễn ra ở mọi mặt do luồng di chuyển lao động
qua lại dẫn tới những thay đổi trong cách nghĩ, cách làm của những người này
khiến cho dư luận xã hội ở nông thôn cũng có những đặc trưng của sự va chạm
này. Chẳng hạn, khi những người có dịp ra đô thị mang về những cách nghĩ, tư
tưởng khác với những gì vốn có ở cộng đồng làng mình, họ dễ ràng có những
dư luận khác với những người vốn chỉ ở trong làng, những người được coi là
bảo thủ, thủ cựu đối với những vấn đề mới nảy sinh. Ví dụ, khi trong làng có
một cô gái không chồng mà chửa thì đối với những người thủ cựu là một
chuyện lớn, song không hẳn thế đối với những người từng sống ở đô thị, nơi
những chuyện này xảy ra thường xuyên và mọi người có thái độ chấp nhận, tha
thứ nhiều hơn.
Như trên đã nói, cùng với quá trình đô thị hóa, xã hội nông thôn đang dần
biến thành các "bản sao" của các xã hội đô thị: xây dựng theo phong cách đô thị,
tiêu dùng các sản phẩm của đô thị, bắt chước lối sống đô thị, lấy những tiêu chí
mà người đô thị coi trọng làm tiêu chí mà mình coi trọng,... Nền kinh tế thị
trường đã thực sự tạo ra những thách thức lớn đối với các làng xã, đặc biệt
trong việc gìn giữ các giá trị văn hóa, bản sắc của các cộng đồng. Nhiều nhà
nghiên cứu đã cho rằng, qua hàng ngàn năm tồn tại, chưa bao giờ làng xã người
Việt có sự biến đổi mạnh mẽ như hiện nay.
Ngoài ra, chúng ta cũng không thể bỏ qua những tác động của quá trình
toàn cầu hoá đối với dư luận trong nước . Quá trình toàn cầu hoá tác động cả
tích cực và tiêu cực đối với hầu hết các lĩnh vực của đời sống chính trị - kinh tế
– xã hội và văn hóa của Việt Nam không chỉ trên bình diện quốc gia, mà còn
phản ánh cả trong nhận thức, thái độ, hành động cụ thể của người dân. Có thể
khẳng định rằng, chưa có bao giờ, người dân lại có những thông tin cập nhật về
mọi mặt hoạt động của thế giới như hiện nay. Không kể những tác động như giá
dầu, các vụ kiện cá ba sa, giày dép tác động trực tiếp tới đời sống kinh tế của
toàn xã hội nói chung, từng nhóm xã hội cụ thể nói riêng, lối sống của người
dân cũng bị ảnh hưởng một phần từ tác động quá trình toàn cầu hoá. Phim ảnh
Hàn Quốc đem đến những mốt thời trang khác lạ từ trang phục quần áo, trang
điểm đến đầu tóc, việc sử dụng thuốc lắc , những cách sống “kỳ quặc” trong
thanh niên v.v. đều ít nhiều liên quan đến những tác động từ quá trình toàn cầu
hoá.
Trước một bối cảnh kinh tế - xã hội thay đổi, Đảng và Nhà nước ta có
những chủ trương nhằm đưa nước ta thành một nước "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh". Một trong những bước đi ấy có ảnh
hưởng mạnh tới dư luận xã hội là việc làm luật, sửa đổi luật, ban hành các
chính sách hướng dẫn các hoạt động của xã hội. Xã hội càng biến đổi nhanh,
các chính sách liên tiếp ra đời để điều chỉnh các hành vi thì các chủ đề quan
tâm của dư luận càng đa dạng.
Nói tóm lại, một bối cảnh xã hội đã thay đổi. Như chúng ta đã nói về bản
chất của dư luận xã hội thì một bối cảnh xã hội mới luôn đòi hỏi những dư luận
xã hội mới không chỉ ở đối tượng mà các luồng dư luận xã hội phản ánh, mà
còn về bản thân nội dung của các luồng dư luận xã hội. Những gì mà cộng đồng
quan tâm không chỉ bị bó hẹp trong phạm vi những cộng đồng nhỏ, với những
nhóm người hạn chế, mà giờ đây đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhóm
khác nhau, với những lợi ích tương đối không giống nhau, và các phân nhóm
tương đối rõ rệt. Hàng loạt những cơ sở kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội đã
và đang hình thành đã khiến cho dư luận xã hội thực sự khác trước.__
NỘI DUNG CHI TIẾT HỌC PHẦN
CHƯƠNG I
ĐỀ DẪN VÀ NGUỒN GỐC LỊCH SỬ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM
(5 TIẾT)
I- Khái niệm làng, xã, thôn
I.1. Làng
I.2. Xã, thôn
II- Phân loại làng xã
II.1. Theo thời gian hình thành
II.2. Theo vùng địa lý
II.3. Theo nghề nghiệp
II.4. Theo phương thức thành lập
II.5. Theo tôn giáo
III- Tên gọi làng xã
III.1. Kẻ và Xà
III.2. Tên làng từ tiếng Việt cổ
III.3. Tên làng phản ánh điều kiện tự nhiên, đặc sản của địa phương.
III.4. Tên làng phản ánh những biến động xã hội
IV- Nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển.
CHƯƠNG II
KẾT CẤU KINH TẾ
(15 TIẾT)
I- Chế độ sở hữu ruộng đất
I.1. Ruộng đất công
I.1.1. Nguồn gốc và diễn biến
I.1.2. Nguyên tắc quản lý và cách phân chia
I.1.3. Tính hai mặt của ruộng đất công trong làng xã.
I.2. Ruộng đất sở hữu tư nhân
I.2.1. Nguồn gốc
I.2.2. Thiết chế pháp lý của ruộng đất tư
I.2.3. Phương thức khai thác
II- Thương nghiệp làng xã
II.1. Hệ thống chợ địa phương
II.1.1. Chợ phiên và phố nhỏ
II.1.2. Thị trấn - thị từ
II.2. Làng Chợ, làng Cuôn.
II.2.1. Làng Chợ
II.2.2. Làng Cuôn
III- Thủ công nghiệp làng quê
III.1. Làng nghề
III.2. Phường hội " mảng thành thị hòa tan trong nông thôn".
IV- " Tiền tệ" - vận hành quanh co và phức tạp
IV.1. Vay nặng lãi
IV.2. " Quý nghĩa, khinh lợi, đề cao tằn tiện".
V- Một loại hình kết cấu kinh tế mềm dẻo và vững chắc
V.1. " Đa phương - Đa diện - Đa hướng - Đa chiều".
V.2. " Một nền kinh tế tiểu nông"
CHƯƠNG III
KẾ CẤU XÃ HỘI
(15 TIẾT)
I- Các loại hình tổ chức làng xã
I.1. Tập hợp người theo địa vực ngõ, xóm
I.2. Tổ chức dòng họ
I.3. Tổ chức giáp
I.4. Tập hợp người theo nghề nghiệp và sở thích. Phường, hội
II- Tổ chức bộ máy tự trị và hành chính
II.1. Bộ máy tự trị - tự quản
II.1.1. Tiên chỉ và thứ chỉ
II.1.2. Bô lão và kỳ mục
II.2. Bộ máy quản lý hành chính
III- Hương ước
III.1. Một số nội dung cơ bản của hương ước
III.1.1. Mấy nét về quá trình hình thành và phát triển của
hương ước
III.1.2. Nội dung cơ bản của hương ước trước cải lương hương chính năm 1921
của thực dân Pháp và hương ước cải lương.
III.2. Vai trò và tác động của hương ước trong quản lý làng xã.
III.2.1. Tính hai mặt của hương ước
III.2.2. Những mặt tích cực và hạn chế của hương ước.
IV- " Tái lập hương ước" và vai trò của hương ước mới trong quản lý làng xã hiện
nay.
CHƯƠNG IV
VĂN HÓA LÀNG XÃ
(10 TIẾT)
I- Tín ngưỡng - tôn giáo trong làng xã cổ truyền Việt Nam.
I.1. Đình làng và tín ngưỡng thành hoàng.
I.1.1. Tín ngưỡng làng quê mang tính thế tục
I.1.2. Đình làng - đặc trưng tín ngưỡng độc đáo của người Việt
I.1.3. Tín ngưỡng thành hoàng
II- Nho - Phật - Đạo dung hợp đồng lưu.
II.1. Nho giáo trong tâm thức người Việt
II.2. " Phật giáo dân gian". Tính thích ứng, tính đơn giản, tính điều hòa và dung
hợp.
II.3. Đạo giáo trong "Tam giáo đồng nguyên"
III- Thiên Chúa giáo.
IV- Tính tự trị và tính cộng đồng
IV.1. Tính tự trị
IV.2. Tính cộng đồng
IV.3. Ý nghĩa tích cực và hạn chế của tính tự trị và tính cộng đồng trong làng xã cổ
truyền Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong công cuộc cải tạo và xây dựng nông
thôn mới.
Từ hương ước xưa đến quy ước làng văn hóa ngày nay
Từ xưa hương ước được tồn tại song song với pháp luật nhà nước. Trong một cộng
đồng làng xã bao gồm các mối quan hệ xã hội đòi hỏi trong cộng đồng ấy phải giải
quyết hàng loạt các vấn đề nảy sinh để cộng đồng càng tồn tại và phát triển. Như
vậy, hương ước tự nó đóng vai trò cương lĩnh tinh thần đối với cộng đồng dân cư
làng xã. Những quy định (điều ước) của dân làng được ghi trong hương ước đã
phản ánh đầy đủ các mặt của đời sống làng xã. Trên cương lĩnh về tinh thần ấy, nó
bắt nguồn sâu thẳm nhất của từng thành viên trong cộng đồng làng xã, là giá trị
niềm tin của sự đồng cảm và truyền thống làng mạc.
Hương ước ra đời chính là sự đòi hỏi quy luật khách quan của phát triển nội tại
trong đời sống làng xã. Chừng nào làng xã còn tồn tại thì hương ước còn tồn tại và
có ý nghĩa, vị trí quan trọng trong đời sống xã hội.
Trong xã hội phong kiến làng xã là một đơn vị tự quản độc lập, nhà nước phong
kiến phải nhường một phần quyền điều hành cho bộ máy quản lý làng xã. Ngày
nay chúng ta quản lý xã hội bằng pháp luật. Do vậy quy ước mới ra đời kế thừa
hương ước xưa có tác dụng điều chỉnh hành vi của công dân mà pháp luật chưa đề
cập hết được. Mặt khác, vấn đề thưởng phạt trong hương ước chủ yếu bằng hình
thức dùng sức ép dư luận để giáo dục hướng các thành viên trong cộng đồng làng
xã theo một nguyên tắc chung nhất. Vì vậy, trên thực tế hương ước đạt được hiệu
quả hơn người ta tưởng và mặc nhiên tồn tại phát triển cho đến tận ngày nay.
Tuy nhiên, do hạn chế về nhiều mặt, hương ước xưa để lại không ít những hậu quả
như: tăng tính biệt lập, giảm tính thống nhất giữa các làng xã làm cho người nông
dân sống quen với luật tục hơn là sống quen với pháp luật. Do vậy, từ xưa đến nay
người dân vẫn truyền tai nhau câu cửa miệng là “phép vua thua lệ làng”.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta phát động cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa,
thôn, làng, bản, ấp văn hóa, người dân đã nhận thức đầy đủ rằng trong xã hội các
hành vi của công dân không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu sự
điều chỉnh của nhiều phạm trù xã hội khác như quan niệm đạo đức, tập quán, dư
luận, tín ngưỡng tôn giáo.
Phải nói rằng, từ khi có chính sách mới của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối
với nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng thì hộ gia đình được coi là đơn
vị kinh tế tự chủ. Đó là tiền đề cho việc xác lập vị trí vai trò quan trọng của làng xã
trên nhiều mặt, trước hết là vai trò hương ước trong việc quản lý xã hội ở nông
thôn và tổ chức các hoạt động văn hóa. Các giá trị truyền thống văn hóa được khôi
phục như đình làng được sửa sang và lễ hội được mở ra.
Việc xây dựng làng văn hóa đã gắn kết tạo ra tính chất cấu kết cộng đồng cao,
phong tục tập quán cổ truyền được kế thừa. Đó là sự gắn bó đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau giữa người cùng dòng họ, xóm, ngõ, tổ, khu phố… khi có công việc trọng đại
như: tang ma, cưới xin hay các công việc đóng góp xây dựng đường làng, ngõ
xóm, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa.
Cuộc vận động thực hiện xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa qua nhiều năm
nay đã được khẳng định, quy ước làng văn hóa là một nội dung rất quan trọng và
không thể thiếu trong xây dựng làng văn hóa. Thực chất đây là đòi hỏi hết sức
khách quan của cộng đồng làng xã bắt nguồn từ việc kế thừa truyền thống lập
hương ước lâu đời của ông cha ta ngày xưa nhằm xây dựng cộng đồng làng xã có
cuộc sống ổn định, phát triển không ngừng về vật chất và tinh thần.
Xây dựng quy ước trên tinh thần “gạn đục, khơi trong” trong những hương ước cổ,
có nội dung phù hợp với tình hình mới có tác dụng rất lớn nâng cao ý thức trách
nhiệm, nghĩa vụ, tình cảm của người dân đối với việc hình thành nhân cách, phong
tục tập quán tốt đẹp tác động trực tiếp đến việc xây dựng làng văn hóa.
Vấn đề xây dựng quy ước làng văn hóa là phải dân chủ trên cơ sở bàn bạc của nhân
dân, không trái với pháp luật, đạo đức xã hội, tạo hiệu quả trong việc quản lý làng
xã hiện nay, nghiêm cấm việc tự đề ra quy định trong điều khoản mang tính chế tài
của một văn bản không phải là luật pháp.
Phong trào xây dựng quy ước làng văn hóa trên cơ sở có kế thừa hương ước xưa là
một hiện tượng văn hóa xã hội cần quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền
ở địa phương và đầu mối là ngành văn hóa thông tin, ngành tư pháp và một số
ngành liên quan chỉ đạo hướng dẫn soạn thảo mang tính định hướng quản lý nhà
nước để ngăn ngừa những hiện tượng lệch lạc trong quá trình soạn thảo quy ước,
góp phần đưa nguyện vọng của nhân dân tham gia vào phát triển đời sống kinh tế
văn hóa xã hội ở địa phương ổn định. Thực hiện các nhiệm vụ quản lý xã hội trong
điều kiện đổi mới đất nước hiện nay.
Ngô Quốc Huy
Hệ Thống Tổ Chức Làng Xã
Làng xã chính là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, và cũng là sức
mạnh của dân tộc. Trước mọi cuộc xâm lăng thuộc mọi lĩnh vực, trước mọi mưu
đồ làm tổn hại cuộc sống hạnh phúc của người dân, hệ thống làng xã đã luôn luôn
là cơ cấu chính yếu giúp dân tộc ta bảo toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh, và
vùng lên phá tan giặc.
Dưới khía cạnh quân sự làng xã là nơi huấn luyện mọi người, toàn dân trở thành
nghĩa sĩ, chống giặc. Chẳng những có hệ thống canh gác nghiêm ngặt, luôn bảo
đảm có lớp người túc trực, mà còn có những lò võ thuật đào tạo ra nhiều bậc anh
hùng đánh giặc, nhiều cấp lãnh đạo chỉ huy tài ba. Làng xã cũng là nơi phát xuất
sức mạnh dân tộc về mọi phương diện. Vì vậy trong công cuộc giữ nước, mở nước,
cứu nước thì làng xã đóng vai trò then chất và quyết định sự thành công của cả dân
tộc.
Làng xã là một thiết chế xã hội, một đơn vị tổ chức chặt chẽ của nông thôn Việt
Nam trên cơ sở địa vực, địa bàn cư trú; là sản phẩm tự nhiên phát sinh từ quá trình
định cư và cộng cư của người Việt; trồng trọt là điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng
tự quản đa dạng và phong phú của người nông dân, ở đó họ sống, làm việc, quan
hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn hoá với thiên nhiên, xã hội và bản thân họ.
Làng xã là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt (nổi lên là gia đình
(nhà) - làng - nước), với hai đặc trưng cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị.
Làng xã được tổ chức rất chặt chẽ, không phải theo một mà nhiều cách, nhiều
nguyên tắc khác nhau, tạo nên nhiều loại hình, nhiều cách tập hợp người khác
nhau, khác nhau nhưng lại hoà đồng trong phạm vi làng xã. Về cơ bản, cơ cấu làng
xã Việt (cổ truyền và hiện đại) được biểu hiện dưới những hình thức tổ chức (liên
kết, tập hợp người) sau đây:
- Tổ chức theo địa vực (khu đất cư trú) với mô thức phổ biến: Làng xã phân thành
nhiều xóm, xóm phân thành nhiều ngõ, mỗi ngõ gồm một hay nhiều nhà . . . thành
những khối dài dọc đường cái, bờ sông, chân đê, những khối chặt kiểu Ô bàn cờ,
theo hình vành khăn từ chân đồi lên lưng chừng đồi và phân bố lẻ tẻ, xen kẽ với
ruộng đồng. . . Mỗi làng, xóm, ngõ có cuộc sống tương đối riêng.
- Tổ chức làng xã theo huyết thống (gia đình), dòng họ: Ngoài các gia đình nhỏ,
gia đình hạt nhân, dòng họ có vị trí và vai trò quan trọng trong làng xã Việt, là chỗ
dựa vật chất, và chủ yếu là tinh thần cho gia đình; có tác dụng trong định canh và
xây dựng làng mới, như là trung tâm của sự cộng cảm trong các gia đình đồng
huyết. . . Có làng gồm nhiều dòng họ, có làng chỉ một dòng họ và khi ấy làng xã và
dòng họ (gia tộc) đồng nhất với nhau. Điều đáng lưu ý là mức độ liên kết huyết
thống trong phạm vi Làng xã là hết sức rạch ròi, chi li với những tên gọi cụ thể (cố
- cụ - ông - cha bản thân - con - cháu - chắt - chút. . . )
- Tổ chức làng theo nghề nghiệp, theo sở thích và lòng tự nguyện (phe - hội,
phường nghề...): Mỗi làng có thể có nhiều phe (một tổ chức tự quản dưới nhiều
hình thức câu lạc bộ): Phe tư văn quan trọng hơn; nhiều hội: hiếu hỷ, mua bán,
luyện võ, tập chèo, đấu vật. . . các phường nghề: mộc, nề, sơn, thêu, chèo, rối. . .
- Tổ chức làng xã theo lớp tuổi (truyền thống nam giới): tổ chức giáp, hiện rất mờ
nhạt. Đây là môi trường tiến thân theo tuổi tác, tổ chức dành riêng cho nam giới,
phụ nữ không được vào. Bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay, được lên đinh,
ngồi chiếu giữa làng, được nâng dần địa vị, được lên lão . . . Nói chung, giáp gắn
chặt với làng.
- Tổ chức làng xã theo lớp tuổi (truyền thống nam giới): tổ chức giáp, hiện rất mờ
nhạt. Đây là môi trường tiến thân theo tuổi tác, tổ chức dành riêng cho nam giới,
phụ nữ không được vào. Bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay, được lên đinh,
ngồi chiếu giữa làng, được nâng dần địa vị, được lên lão . . . Nói chung, giáp gắn
chặt với làng. Tổ chức làng theo cơ cấu hành chính: Tiêu chuẩn để phân định rõ
nhất làng xã là chính cư và ngu cư (nội tịch và ngoại tịch). Tuy nhiên, có một điều
mở là dân ngụ cư có thể chuyển thành chính cư khi có điền sản và sống (cư trú) ở
làng 3 đời trở lên. Dân cư trong làng được phân thành nhiều hạng, cơ bản là các
hạng: chức sắc (đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban); chức dịch (có chức vụ trong
bộ máy hành chính); lão, đinh, ty ấu, người già, trai đinh, trẻ con (trong các
giáp) . . .Làng xã là một thiết chế xã hội của nông thôn, có cơ cấu tổ chức phong
phú nhưng chặt chẽ, có tính cộng đồng và tự trị cao, làng xã là nơi lưu giữ, bảo vệ
một thứ văn hoá làng chống lại sự xâm lăng, đồng hoá của văn hoá ngoại lai.
Làng xã ở Bắc Bộ hình thành từ lâu đời, trên cơ sở tan rã dần công xã nông thôn,
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, khép kín, bền vững trên cơ sở liên kết nhiều
hình thức tổ chức mà mỗi hình thức tổ chức đó có ảnh hưởng gần như đến từng
thành viên và dưới áp Iực của rất nhiều hình thức đó, có cái hiện hình, có cái ẩn
tàng, đặc biệt là của lệ tộc, lệ làng, mà họ tham gia tạo nên. Người nông dân sống
gắn bó, quanh quẩn với biểu tượng làng của mình, gắn bó chặt chẽ với xóm giềng,
họ tộc gia đình, làng nước.
Càng về phía nam, cơ cấu Iàng xã càng trở nên mờ hơn, lỏng lẻo dần ra, năng động
và bớt tính khép kín. Mô hình Iàng Bắc Bộ bị đồng hoá kể từ Bắc Trung Bộ, không
giữ tính chặt chẽ tới mức khép kín nữa mà mở rộng đến liên làng, chú trọng hơn
đến dòng họ, tộc họ. Càng cởi mở hơn, năng động hơn là làng xã Nam Bộ. (khác
làng xã Bắc Bộ khép kín trên dải đất ven sông, ven đồi, duyên hải. . .), nên thiếu
chất kết dính chặt chẽ, phân vực cao và sớm tiếp xúc với nền kinh tế hàng hoá.
Như vậy, làng xã ở các vùng khác nhau có những khác biệt. Càng về phía nam,
làng xã càng mở, bớt những lệ làng.
Làng xã chủ yếu có ba cơ quan: cơ quan nghị quyết, cơ quan chấp hành, và cơ
quan trị an. Thời nhà Lê thì hội đồng kỳ hào là cơ quan nghị quyết, có hương
trưởng (sau gọi là tiên chỉ) đứng đầu. Hương mục lãnh trách nhiệm trông coi tài
sản công tư của xã. Trị an, tự vệ thì giao cho trùm trưởng (sau gọi là tuần đinh).
Hương mục và trùm trưởng cũng là thành viên của hội đồng kỳ hào.
Hội đồng kỳ hào thường là các hương hào danh tiếng có phẩm hàm, học thức, hoặc
là hưu quan trong xã Điều kiện vào hội đồng không nhất định mà tùy theo hương
ước của làng. Có làng xét ngôi thứ trong hội đồng theo “thiên tước" tức là ai cao
tuổi nhất thì là tiên chỉ. Có làng xét theo "nhân tước" và ai đỗ cao nhất hay có
phẩm hàm cao nhất thì ngồi chiếu tiên chỉ. Hội đồng kỳ hào thường nhóm họp một
tháng hai lần vào ngày mồng một và ngày rằm sau khi lễ Thành hoàng ở đình. Các
việc cấp xã gồm quyết định chi thu các ngạch thuế đinh, tiền cheo, tiền vạ cùng
những việc tế tự. Hội đồng kỳ hào còn có quyền xét xử những vụ hình luật nhỏ.
Chấp hành là xã trưởng do dân bầu ra để thi hành những nghị quyết của hội đồng
kỳ hào cùng là đại biểu của xã khi liên lạc với triều đình như các quan từ cấp
huyện trở lên khi nhà nước thu thuế, mộ lính, hay bắt dân làm tạp dịch. Giúp xã
trưởng là phó xã trưởng. Sang thời Pháp thuộc thì làng có thêm chân trưởng bạ
trông coi sổ sách điền bộ và hộ lại trông coi giấy tờ sinh, tử giá thú. Hội đồng kỳ
hào sau thời Pháp thuộc từ vĩ tuyến 17 trở vào có những cải tổ sau đây. Thứ nhất là
tên gọi được đổi thành hội đồng hương chánh. Đứng đầu hội đồng hương chánh là
chủ tịch và phó chủ tịch them tổng thư ký giúp việc. Thành viên hội đồng là ủy
viên. Mỗi ủy viên kiêm thêm một đặc vụ. Làng nhỏ thì chỉ có hai ủy viên y tế và
ủy viên giáo dục. Làng lớn thì có thề có đến chín ủy viên tức hai ủy viên vừa kể
trên và thêm hộ tịch, cảnh sát, tài chính, thuế vụ, công chính, kinh tế, và canh
nông.
Theo: Văn Hóa Làng Xã - Tín Ngưỡng, Tục Lệ & Hội Làng của Thùy Trang
tìm hiểu về : Văn hoá làng xã Việt Nam
PHẦN 1:
* Bạn hiểu như thế nào là văn hoá làng xã VN?
Văn hoá làng của VN:Khái niệm gắn với hình ảnh làng xã cổ truyền ở Việt Nam
với 3 đặc trưng cơ bản: ý thức cộng đồng làng (ý thức dân chủ làng xã, cộng đồng
trong sản xuất bảo vệ xóm làng, xây dựng văn hoá, lối sống, đạo đức...); ý thức tự
quản (thể hiện rõ nhất trong việc xây dựng hương ước); và tính đặc thù độc đáo, rất
riêng của mỗi làng (có khi hai làng gần nhau nhưng không hề giống nhau). VHL
được thể hiện thông qua các biểu trưng văn hoá mang giá trị truyền thống: từ cây
đa, bến sông, con đê, mái đình, giếng nước đến các bản gia phả, hương ước, tập
tục, hội hè đình đám, tín ngưỡng, các nghề thủ công truyền thống, những làn điệu
dân ca, dân vũ, những người giỏi văn, giỏi võ, vv. VHL mang những giá trị đẹp
giàu tính truyền thống, đồng thời cũng cần xoá bỏ những tập tục cổ hủ, lạc hậu.
*Làng là gì?
Làng là đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn người Việt và đã hình thành từ rất sớm
(trước khi có Nhà nước). Đầu tiên làng là điểm tụ cư của những người cùng huyết
thống, sau đó để phù hợp với sự phát triển của xã hội và lịch sử , làng còn là điểm
tụ cư của những nhóm người cùng nghề nghiệp, bao gồm nhiều dòng họ khác
nhau. Khi Nhà nước ra đời, làng là một đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước và là
một tổ chức tự quản, quân sự và văn hoá khá hoàn chỉnh. Cùng với việc xuất hiện
làng trong lịch sử Việt Nam, văn hoá làng cũng ra đời, trở thành nét đặc trưng của
văn hoá dân tộc.
*Trong khung cảnh riêng của làng Việt Nam, văn hoá làng mang một số nét đặc
thù sau:
- ý thức đoàn kết cộng đồng rất cao và thể hiện ở nhiều mặt của cuộc sống (trong
lao động sản xuất cũng như trong các sinh hoạt tinh thần…), từ ý thức này đã thúc
đẩy tính dân chủ làng xã.
- ý thức tự trị thông qua các lệ làng và hương ước.
- Diện mạo văn hoá: Tuỳ vào điều kiện môi trường tự nhiên, nề nếp sinh hoạt và
cách ứng xử riêng của từng làng mà mỗi làng sẽ có đặc điểm để tự hào (đất lề, quê
thói).
- Đa thần giáo là đặc điểm nổi bật trong đời sống tín ngưỡng ở làng.
Từ bao đời nay, sức sống của nền văn hoá truyền thống Việt Nam được lưu giữ và
thể hiện mạnh mẽ nhất ở văn hoá làng, do vậy vấn đề bảo vệ và kế thừa văn hoá
làng luôn được Đảng và nhà nước ta quan tâm . Tuy nhiên trong thời điểm hiện
nay, muốn thực hiện tốt việc kế thừa văn hoá làng, trước hết chúng ta phải chỉ ra
được những tiêu cực còn tồn tại ở làng từng đè nặng lên mỗi con người và cản trở
sự phát triển của xã hội.
Ví dụ như:
Làng là nơi thường có khuynh hướng tự cung, tự cấp nên giao lưu có phần tự nhiên
mà ít chủ động mở rộng, để tạo cho người dân tư tưởng bảo thủ, "kháng cự" với
những cái mới…
- Sự tranh giành địa vị, những phong tục lạc hậu tồn tại lâu dài trong làng làm ảnh
hưởng tới mỗi con người và sự phát triển chung của làng.
- Một số quan niệm cần được nhìn nhận lại để điều chỉnh cho phù hợp với cuộc
sống mới như "phép vua thua lệ làng", "suy bụng ta ra bụng người"…
Nếu loại bỏ được những tiêu cực còn tồn tại, phát huy được những "thuần phong
mỹ tục ", lựa chọn được những nội dung phù hợp với xã hội hiện đại tức là chúng
ta đã góp phần một cách tích cực vào công cuộc bảo tồn và chấn hưng văn hoá dân
tộc, đồng thời cũng làm cho văn hoá làng thêm những giá trị và sức sống mới.
<nguồn :www.toquoc.gov.vn>
PHÂN TÍCH XÃ HỘI HỌC
QUÁ TRÌNH PHÂN GIẢI VÀ TÁI TẠO CƠ CẤU XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
GS.TS. Đặng Cảnh Khanh
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Cùng với những biến đổi mạnh mẽ cuả thế giới ngày nay, dưới tác động của cách
mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cũng đang chứng kiến những chuyển động
sâu sắc
trong nền tảng cấu trúc của mỗi xã hội.
Giống như những dòng nham thạch đang cuộn chảy dưới lòng sâu của bề mặt xã
hội,
tái định lại một kết cấu mới cho sự phát triển xã hội, sự biến đổi của cơ cấu xã hội
cũng
đang được coi là một dạng thức cách mạng. Cuộc cách mạng về cơ cấu xã hội, các
quan hệ
xã hội và giá trị xã hội tuy không ồn ào và bùng nổ như các cuộc cách mạng về
khoa học và
công nghệ nhưng trên thực tế đã diễn ra không hề thua kém các cuộc cách mạng
nói trên về
mức độ mạnh mẽ. Nó khiến cho con người ngày nay, phải đối diện không chỉ với
những
thách thức về môi trường sống, về sự cạn kiệt tài nguyên mà còn cả với hệ quả
của
những biến đổi trong kết cấu của các mối quan hệ tương tác giữa chính họ, với
cách
thức mà họ đã, đang và sẽ sống bên nhau thành xã hội.
Chúng ta đều biết, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, quá trình giải thể các cấu
trúc truyền thống và hình thành các cấu trúc mới đã và đang diễn ra trên phạm vi
toàn cầu.
Bên cạnh sự biến đổi của các hệ thống và thể chế chính trị, các mối quan hệ quốc
tế gắn liền
với sự cạnh tranh gay gắt về lợi ích và nhu cầu của mỗi quốc gia, địa phương, khu
vực, sự
phục hưng của các tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc, thì trong lòng của mỗi xã hội,
mỗi quốc
gia cũng đang diễn ra khi quyết liệt, lúc âm thầm một quá trình cơ cấu lại hệ thống
xã hội.
Tái cấu trúc cơ cấu xã hội chính là việc xây nền, đắp móng cho một mô hình phát
triển bền vững trong một thế giới đầy những biến động. Hình ảnh của ngôi nhà xã
hội trong
tương lai lệ thuộc rất nhiều vào việc người ta sẽ thiết kế và thực thi như thế nào
một bộ
khung kết cấu cơ bản của nó, vào việc chủ động của chính con người trong sự xếp
đặt cách
thức mà họ sẽ quan hệ với nhau trong quá trình sống, lao động và sinh hoạt.
Bởi vậy nghiên cứu những biến đổi của cơ cấu xã hội, những quy luật của sự giải
thể
và tái tạo các cơ cấu xã hội khách quan là cơ sở khoa học để con người mở rộng
các hoạt
động tự giác và sáng tạo trong việc xây dựng những nền tảng vật chất và tinh thần
cơ bản
2
cho chính xã hội mà mình đang sống. Trên bình diện nhận thức khoa học, nghiên
cứu cơ cấu
xã hội là một trong những nghiên cứu mang tính lý luận và phương pháp luận cho
toàn bộ
những nghiên cứu về xã hội. Nhận thức đúng đắn về cơ cấu xã hội cho ta cơ sở
khoa học
khách quan để nhận biết toàn bộ sự kiện và hiện tượng xã hội, các chiều cạnh
tương tác và
quan hệ giữa chúng với nhau trong tổng thể xã hội. Nghiên cứu về cơ cấu xã hội
cũng là
điều kiện cần thiết để các nhà chiến lược và hoạch định chính sách có được những
luận cứ
khoa học cần thiết trong quá trình xây dựng các phương thức và giải pháp phát
triển xã hội,
hướng tới tương lai.
Hướng tới việc tiếp cận hệ thống trong phân tích cơ cấu xã hội ở Việt Nam
Bất kỳ một nghiên cứu cơ cấu nào cũng phải được bắt đầu từ nghiên cứu hệ thống.
Không có hệ thống thì cũng không có cơ cấu. Bởi vậy, không nhìn nhận đối tượng
nghiên
cứu từ hệ thống thì cũng không thể nhận biết được cơ cấu của đối tượng nghiên
cứu đó.
Điều này cũng hoàn toàn đúng với việc phân tích xã hội học cơ cấu xã hội ở Việt
nam.
Quan điểm hệ thống trong nghiên cứu cơ cấu xã hội cho phép chúng ta có thể tiếp
cận các sự kiện và hiện tượng xã hội, nhận thức được bản chất của chúng ở hai mặt
cơ bản
sau đây. Thứ nhất, nhìn được toàn diện cơ cấu xã hội, các bộ phận cấu thành giữa
chúng,
các chiều cạnh của sự tương tác xã hội làm hình thành bộ mặt tổng thể của cơ cấu
xã hội mà
không bỏ sót một chi tiết nào.
Thứ hai, có thể đi sâu vào những chi tiết, nhìn nhận đúng đắn được bộ mặt thực sự
của các bộ phận cấu thành của cơ cấu xã hội mà vẫn không tách rời khỏi toàn bộ hệ
thống
xã hội. Nói một cách cụ thể là trong quá trình phân tích một cách sâu sắc, đầy đủ
các bộ
phận của cơ cấu xã hội, quan điểm hệ thống nhắc nhở chúng ta đừng quên lãng vị
trí vai trò
chức năng của các bộ phận này với toàn bộ hệ thống.
Giống như một người xem tranh, cái nhìn hệ thống cho chúng ta một quãng lùi cần
thiết để có thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh, những đường nét và sắc độ chung nhất,
cảm
nhận được đầy đủ giá trị của bức tranh mà không bị các chi tiết nhỏ làm sai lạc. Về
phương
diện này, quan điểm hệ thống giúp chúng ta xác định được vị trí vai trò của mỗi chi
tiết cụ
thể đối với tổng thể, những đóng góp của chúng vào sự vận động và phát triển
chung, phân
biệt được những bộ phận chủ chốt, cơ bản với những bộ phận thứ yếu, nhằm hiểu
được bản
chất của toàn bộ hệ thống.
Chính từ cách tiếp cận hệ thống về cơ cấu xã hội mà chúng ta có thể phát hiện
được
những quy luật cơ bản nhất của sự vận hành của xã hội, coi đó như là một quá trình
phát
triển lịch sử - tự nhiên. Dựa trên quan điểm hệ thống về cơ cấu xã hội, chúng ta có
thể thấy
rõ xã hội không phải chỉ là sự tập hợp ngẫu nhiên và cơ học giữa các cá nhân đơn
lẻ mà là
một hệ thống xã hội có cơ cấu phức tạp gồm nhiều hệ thống nhỏ thuộc nhiều lĩnh
vực như
kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá… các cấu trúc về giai cấp, dân tộc, gia đình.
Các bộ
phận này tồn tại bên nhau không phải theo các phép tính cộng trừ đơn giản mà trên
cơ sở
của những mối quan hệ thống nhất và biện chứng.
3
Bất cứ một hệ thống cơ cấu nào, trong đó có cơ cấu xã hội cũng bao hàm trong nó
ba
khía cạnh cơ bản nhất, hoặc còn gọi là ba chiều của cơ cấu. Thứ nhất là chiều cơ
cấu về
không gian, nói theo quan điểm của A. Comte là “chiều tĩnh học xã hội” hoặc
theo quan
điểm của Talcott Parsons và học trò của ông là “chiều cơ cấu chức năng” .
Thứ hai là chiều cơ cấu về thời gian, nói theo quan điểm của A.Comte là “chiều
động học xã hội”, hoặc theo quan điểm của các nhà cơ cấu chức năng luận là
“chiều lịch
đại của cơ cấu xã hội”. Và thứ ba là chiều khu vực hoặc trong sách vở còn gọi là
chiều
phân bố học.
Các chiều cạnh nói trên của cơ cấu xã hội bao giờ cũng tồn tại trong mối quan hệ
tương tác, gắn bó biện chứng với các chiều cạnh khác, vừa là điều kiện tồn tại vừa
là kết quả
tồn tại của các chiều khác. Trên thực tế, mặc dù liên kết gắn bó chặt chẽ vói nhau
nhưng
mỗi chiều cạnh của cơ cấu xã hội nói trên lại tồn tại tương đối độc lập, do bản thân
chúng
lại đặc trưng cho hệ thống trên một khía cạnh nào đó. Nhờ có sự độc lâp tương đối
này mà
chúng ta có thể khảo sát được chúng, tách chúng ra khỏi những quan hệ phức tạp,
để phân
tích, mổ sẻ và tìm ra bản chất của chúng.
Khi phân tích cơ cấu xã hội ở chiều cạnh cơ cấu chức năng, tức là chiều cơ cấu
xã
hội về mặt không gian, chúng ta có thể nhìn thấy sự tồn tại của các mối quan hệ và
tương
tác lẫn nhau giữa các phân hệ cơ cấu trong một cơ cấu tông thể. Trong quá trình
tồn tại và
vận động của mình, các phân hệ cơ cấu này bao giờ cũng chịu sự chi phối của các
mối quan
hệ tương tác cơ bản. Chúng duy trì mối quan hệ tương tác với cơ cấu tổng thể trên
cơ sở duy
trì vị trí vai trò và chức năng của mình trong cơ cấu tổng thể xã hội. Đồng thời,
trong khi tồn
tại bên cạnh những phân hệ cơ cấu khác, chúng cũng đồng thời vừa liên kết vừa chi
phối và
phụ thuộc lẫn nhau với các phân hệ này. Chính sự tương tác giữa chúng với nhau
đã tạo nên
bộ mặt đa dạng và phức tạp của cơ cấu xã hội tổng thể. Mặt khác, với tính chất là
một phân
hệ của cơ cấu xã hội, bản thân chúng lại đựoc cấu thành bởi những phân hệ cơ cấu
nhỏ hơn,
hàm chứa trong mình những tương tác và quan hệ nội sinh khác.
Vậy để phân chia các phân hệ cơ cấu của cơ cấu xã hội như xã hội Việt Nam,
chúng
ta phải xác định rõ được các dạng thức hoạt động cơ bản nhất của xã hội như thế
nào. Nếu
lấy hoạt động lao động sản xuất của con người làm cơ bản, chúng ta sẽ thấy, ngoài
các dạng
hoạt động sản xuất ra của cải vật chất (lương thực, áo quần, nhà ở, công cụ sản
xuất và sinh
hoạt…), con người còn lao động sáng tạo ra những giá trị tinh thần (văn hoá,
phong tục tập
quán, tôn giáo tín ngưỡng, khoa học, nghệ thuật…). Con người cũng tiến hành các
hoạt
động sinh học - người, tái sản xuất ra những thế hệ con người kế tiếp nhau làm nên
lịch sử.
Và sau cùng, để cho xã hội tồn tại và phát triển con người cũng cần phải tiến hành
các hoạt
động tổ chức và quản lý xã hội, tạo ra sự vận hành của những thiết chế xã hội khác
nhau
Mỗi dạng thức hoạt động cơ bản được nói đến ở trên lại tương ứng với một phân
hệ
cơ cấu của xã hội. Chúng tồn tại trong các mối quan hệ tương tác hữu cơ, nhân quả
với
nhau, tạo nên những sự cho phối, ràng buộc hành vi của mỗi con người trong xã
hội.
4
Bên cạnh những lát cắt cơ cấu xã hội dựa trên những hoạt động cơ bản của con
người
trong xã hội, chúng ta cũng có thể phân tích cơ cấu xã hội theo cơ cấu các hoạt
động kinh tế,
chẳng hạn như cơ cấu về nguồn lực lao động, cơ cấu của các mối quan hệ trong sản
xuất
như cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu về thu nhập và phân phối sản phẩm. Dựa
trên lát
cắt về vị trí và vai trò của con người trong xã hội, chúng ta cũng có thể phân tích
cơ cấu xã
hội theo các chiều cạnh về giai cấp và tầng lớp xã hội, phân tích về sự phân công
lao động
xã hội, địa vị xã hội của các nhóm lao động xã hội dựa trên sự chiếm hữu về tư lieu
sản
xuất, phân tích cơ cấu xã hội trên cơ sở của sự phân tầng trong thu nhập v.v...
Với lát cắt mang tính dân số học, chúng ta lại có thể phân tích cơ cấu xã hội dựa
trên
đặc trưng của các nhóm cư dân khác nhau về lứa tuổi, về giới hoặc về nguồn gốc
dân tộc,
tôn giáo, các nhóm cư dân nông thôn và đô thị…
Với lát cắt cơ cấu xã hội theo chiều chính trị học, chúng ta lại có thể hình dung sự
vận hành của cơ cấu xã hội thông qua hệ thống cơ cấu các hoạt động kiểm soát và
quản lý
xã hội, bao gồm cơ cấu hoạt động của Nhà nước, các đảng phái, chính quyền, quốc
hội, các
tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức NGO. Tóm lại, cách phân tích cơ cấu xã hội
theo chiều
ngang, chiều không gian sẽ cho chúng ta cơ sở khoa học để nhận biết về phương
thức tồn tại
và hoạt động của các nhóm cư dân xã hội đan xen vào nhau trong quá trình sống và
hoạt
động của chính họ ở những thời điểm và khu vực địa lý nhất định.
Bên cạnh chiều phân tích cơ cấu chức năng, chúng ta cũng cần phân tích chiều lịch
đại của cơ cấu xã hội. Chiều lịch đại của cơ cấu xã hội là biểu hiện những biến
đổi của cơ
cấu xã hội về mặt thời gian. Nó là một mặt cắt của cơ cấu xã hội theo chiều dọc,
nói lên mối
liên hệ, tương tác, có tính nhân quả của cơ cấu xã hội theo trình tự khách quan của
lịch sử.
Chiều cạnh lịch đại của cơ cấu xã hội đựoc đặc trưng bởi trạng thái vận động và
biến đổi
liên tục theo các quy luật của sự phát triển.
Trong phép biện chứng duy vật, những nghiên cứu về chiều lịch đại của cơ cấu xã
hội, được đặt nền móng bởi “nguyên lý về sự phát triển” và các quy luật cơ bản của
phép
biện chứng. Theo đó, cơ cấu xã hội không phải là một hệ thống đông cứng mà là
một quá
trình phát triển liên tục từ thấp tới cao, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện, từ
biến đổi dần
dần về lượng đến sự biến đổi sâu sắc về chất, là quá trình tạo lập, giải thể và tái
tạo liên
tục của các cơ cấu.
Các biến đổi của cơ cấu xã hội về mặt thời gian tạo thành nội dung của khái niệm
giai đoạn trong cơ cấu xã hội. Có thể coi mỗi giai đoạn là một bậc thang trong sự
phát triển
của cơ cấu xã hội, là đơn vị đo lường tính kết nối và liên tục của cơ cấu xã hội. Ở
mỗi giai
đoạn, cơ cấu xã hội lại có những biểu hiện đặc thù, nó vừa là hệ quả, là sản phẩm
của cơ cấu
xã hôị trong giai đoạn trước vừa là tiền đề cho cơ cấu xã hội ở giai đoạn sau.
Các giai đoạn của cơ cấu lịch đại nằm kế tiếp nhau trong dòng chảy của lịch sử, do
vậy, bên canh những nét đặc thù của mỗi giai đoạn riêng biệt, chúng lại chứa đựng
trong
5
mình những điểm chung nhất, những điểm khiến chúng có thể sâu kết với nhau
thành một
hệ thống chung về mặt thời gian. Với nguyên tắc trên, các giai đoạn của sự phát
triển cơ cấu
xã hội, chỉ có thể tách rời nhau một cách tương đối. Vì vậy trong khoa học xã hội
học,
người ta còn gọi cơ cấu xã hội theo chiều lịch đại là cơ cấu xã hội của các kỳ, thời
kỳ, thời
đại, giai đoạn…, gắn liền với hoạt động liên tục, kế tiếp nhau của các thế hệ con
người khác
nhau.
Trong trường hợp này, nghiên cứu về cơ cấu xã hội ở Việt Nam theo chiều lịch đại
của nó đòi hỏi nhà nghiên cứu không chỉ vận dụng hướng tiếp cận xã hội học như
khi
nghiên cứu chiều cơ cấu - chức năng mà còn phải vận dụng cả phương pháp sử
học. Nhà
nghiên cứu có thể chia cắt cơ cấu xã hội theo thời gian thành nhiều lát cắt nhỏ để
dễ dàng
hơn trong việc phân tích chúng, nhưng nếu xem xét chúng một cách cơ bản, họ
phải tìm ra
được những điểm ngoặt thực sự then chốt để có thể thực hiện được cái mà các nhà
sử học
gọi là sự “phân kỳ lịch sử”.
Trên thực tế, mỗi điểm ngoặt như vậy của chiều lịch đại lại tồn tại cùng với một cơ
cấu chiều ngang của không gian tương ứng. Do đó, ở đây việc xác định rõ các tiêu
chí quan
trọng để phân kỳ lịch sử các cơ cấu xã hội lại không thể chỉ được phân tích ở chiều
lịch đại
của cơ cấu xã hội mà còn phải ở cả sự tương tác của chúng với những đặc trưng
của chiều
cơ cấu - chức năng tương ứng với giai đoạn đó.
2. Những vấn đề phân giải và tái tạo cơ cấu xã hội trong xã hội Việt nam hiện
đại
Đất nước Việt nam ngày nay đang ở một trong quá trình vận động và biến đổi
mạnh
mẽ. Sự phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá về thực chất sẽ là
một quá
trình biến đổi mà trong đó cơ cấu xã hội sẽ bị rung chuyển tận gốc rễ. Những cơ sở
xã hội
cũ sẽ bị thay thế bởi một cơ sở xã hội mới. Có thể nói công nghiệp hoá và hiện
đại hoá ở
Việt Nam sẽ là một cuộc cách mạng về cơ cấu xã hội, một quá trình phân giải và
tái tạo
cơ cấu xã hội liên tục, hướng tới sự hoàn thiện.
Việc tiếp cận vấn đề công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước với tư cách là một
quá
trình giải thể và tái tạo cơ cấu xã hội không chỉ tạo ra một góc nhìn khác về sự phát
triển mà
còn giúp chúng ta có thể chủ động và sáng tạo hơn trong việc xử lý những vấn đề
cơ cấu xã
hội của chính quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tiếp cận một cách trực
tiếp những
biến đổi cơ cấu xã hội sẽ giúp chúng ta có cơ sở khoa học để xây dựng những giải
pháp
đúng đắn để xác lập một cơ sở xã hội mới cho sự phát triển bền vững.
Việc nghiên cứu cơ cấu xã hội của xã hội Viẹt nam hiện nay đòi hỏi chúng ta phải
xem xét lại cơ cấu xã hội Việt Nam một cách hệ thống và toàn diện trên hai khía
cạnh. Thứ
nhất, phân tích, làm rõ một cơ cấu xã hội mang nặng những nét truyền thống đang
giải thể,
mà kéo theo nó là một loạt những hệ quả kinh tế chính trị, xã hội và văn hoá. Thứ
hai, phân
tích, phát hiện và dự báo về một sự tái tạo cơ cấu xã hội mới trên cơ sở những định
hướng
phát triển của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong trưòng hợp này,
nhà nghiên
cứu cần phải đưa ra được những kịch bản khác nhau về sự phát triển của cơ cấu xã
hội
tương ứng với những chiến lược phát triển mà sẽ được vận dụng trong thực tiễn.
6
Trong quá trình phát triển của lịch sử, nước Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu sự
vận động và biến đổi mạnh mẽ, sự thay thế lẫn nhau giữa các triều đại và thể chế
chính trị.
Điều đó đã tạo nên biết bao nhiêu biến cố, được phản ánh trong những trang lịch sử
nhiều bi
tráng, đau thương nhưng cũng nhiều oanh liệt, hiển hách của dân tộc.
Sử học trước đây đã có những đóng góp to lớn trong việc ghi chép, truyền lại cho
các
thê hệ người Việt Nam kế tiếp nhau biết được cội nguồn của dân tộc, những bước
thăng
trầm trong công cuộc lao động sản xuất và chiến đấu chống ngoại xâm, xây dựng
và bảo vệ
đất nước. Tuy nhiên với những đặc trưng khoa học của mình, sử học đã nghiêng
nhiều về
mặt miêu tả các sự kiện và nhân vật lịch sử mà chưa có điều kiện đi sâu phân tích
những
quan hệ xã hội cụ thể trong tầng sâu của cơ sở xã hội, những đặc trưng cơ bản của
xã hội
Việt Nam truyền thống, gắn liền với các mối quan hệ sản xuất, sự phân công lao
động xã
hội cũng như các tương tác giữa người với người trong quá trình sản xuất. Nói
chung là sử
học chưa đi sâu phân tích và làm rõ được cơ cấu của xã hội Việt Nam truyền
thống.
Các tài liệu khoa học xã hội về xã hội Việt Nam truyền thống cho thấy một hiện
tượng thực tế là, các nhà lịch sử hiện nay vẫn còn thiếu một hướng tiếp cận xã hội
truyền
thống dưới góc độ xã hội học, trong khi đó, các nhà xã hội học và triết học lại tiếp
cận vấn
đề này mà thiếu những kiến thức lịch sử. Điều này cũng hoàn toàn đúng với việc
phân tích
cơ cấu xã hội của xã hội Việt Nam truyền thống. Điều này được phản ánh rõ trong
các cuộc
tranh luận về xã hội Việt Nam truyền thống, chế độ sở hữu ruộng đất, những đặc
trưng của
các mối quan hệ giai cấp và đặc biệt là phương thức sản xuất của người Việt truyền
thống.
Phân tích về sự giải thể và tái tạo cấu trúc xã hội của xã hội Việt Nam trong giai
đoạn hiệ__________n
nay, chúng ta không thể không đề cập tới những vấn đề này.
Câu hỏi được đặt ra là người Việt Nam đã tổ chức cuộc sống xã hội của mình như
thế nào, dựa trên nền tảng cơ bản của một cơ cấu xã hội ra sao? Xã hội Việt Nam
truyền
thống có những bộ phận cấu thành như thế nào, chúng vận hành và tương tác với
nhau ra
sao? Liệu có thể có một cơ cấu xã hội mang những nét đặc trưng cho xã hội Viẹt
Nam xuyên
suốt các quá trình lịch sử, mà được gọi chung là cơ cấu xã hội của xã hội Việt
Nam truyền
thống hay không. Nếu có thì cơ cấu xã hội đó đã vận hành như thế nào dưới tác
động của
những sự vận động và biến đổi của các sự kiện và biến cố lịch sử, sự thay thế nhau
giữa các
triều đại. Điều gì và những bộ phận nào của cơ cấu đó được lưu giữ lại và điều gì
và những
bộ phận nào của cơ cấu đó đã biến đổi cùng lịch sử. Trả lời được các câu hỏi trên
chúng ta
cũng có cơ sở để xác định những xu hướng vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội
Việt nam
trong những giai đoạn tới. Tuy nhiên đây cũng là những câu hỏi phức tạp mà
chúng ta
không thể trả lời được một cách chủ quan, phiến diện.
Theo chúng tôi, cũng giống như tất cả những nghiên cứu về cơ cấu xã hội khác,
chúng ta cần phải phân tích cơ cấu xã hội của xã hội Việt Nam truyền thống trước
hết ở các
mối quan hệ trong lao động sản xuất của người Việt mà cơ sở của nó là sự sở hữu
tư liệu sản
xuất quan trọng nhất - sở hữu ruộng đất.
7
Có lẽ không ở đâu cái đặc trưng của cơ cấu xã hội mà đã được Mác gọi là “phương
thức sản xuất Châu Á”, lại có thể tồn tại rõ nét như ở Việt nam. Vào những năm
bẩy mươi
của thế kỷ trước nhiều học giả ở Việt Nam, đặc biệt là các nhà sử học đã nghiên
cứu khá sâu
sắc những đặc điểm của chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam, so sánh nó với các
hình thức
sở hữu ruộng đất của các chế độ phong kiến ở Châu Âu. Cố giáo sư Nguyễn Hồng
Phong,
một trong những chuyên gia đầu tiên đưa hướng tiếp cận xã hội học vào nghiên
cứu lịch sử,
đã đưa ra những phân tích sâu sắc cho thấy, chính chế độ sở hữu ruộng đất được
gọi chung
là “chế độ công điền, công thổ” đã khiến cho chế độ phong kiến ở Việt Nam, đặc
biệt là cơ
cấu xã hội của chế độ này đã mang một sắc thái riêng.
Theo ông, chính “công điền, công thổ” đã khiến cho giai cấp địa chủ trong cơ cấu
xã
hội trở nên nhỏ bé, yếu ớt. Cuộc sống của người nông dân trong trường hợp không
canh tác
trên ruộng của địa chủ mà trên ruộng của cộng đồng “làng xã”, đã không bị lệ
thuộc nhiều
vào địa chủ mà vào cộng đồng, vào làng xã. Họ đóng tô thuế không phải cho địa
chủ mà cho
làng xã và cũng qua đó mà cho nhà nước tập quyền trung ương. Chính vì vậy toàn
bộ cuộc
sống của người nông dân đã bị chi phối bởi cuộc sống của cộng đồng mà họ sinh
sống -
cộng đồng làng xã.
Nhà nước phong kiến Việt Nam, trong trường hợp này, tồn tại và vận hành thông
qua
sự đóng góp tô thuế của các cộng đồng làng xã ( chứ không phải sự đóng góp của
các lãnh
chúa phong kiến như ở Châu Âu) . Nó bảo vệ quyền lợi của các cộng đồng làng nói
chung,
chứ không bảo vệ quyền lợi của các địa chủ. Chính điều này đã tạo nên một cơ cấu
xã hội
thật đặc biệt gồm có ba bộ phận cơ bản sau đây :
Thứ nhất, người nông dân sống trong các gia đình có kinh tế riêng biệt, canh
tác
trên ruộng của cộng đồng làng xã trên nguyên tắc công điền công thổ. Thứ hai,
các cộng
đồng làng tồn tại biệt lập và có tính tự quản cao. Thứ ba, bộ máy hành chính
của Nhà
nước, tồn tại trên cơ sở tô thuế đóng góp của các hộ gia đình nông dân thông
qua các
cộng đồng làng xã. Chính chế độ công điền công thổ dựa trên tính tự quản của các
cộng
đồng làng xã đã làm giảm bớt phần nào những sự đối kháng quyết liệt trong xã hội,
là cơ sở
cho một xã hội dựa trên những mối quan hệ thật đặc biệt - quan hệ cộng đồng, đặt
lợi ích
cộng đồng lên trên hết. Điều này đã khiến cho một số học giả ngay từ đầu thế kỷ
trước
nhầm lẫn giữa phương thức tổ chức lao động sản xuất dựa trên chế độ công điền
công thổ
của người Việt truyền thống với phương thức công hữu hoá ruộng đất được gọi là
chủ nghĩa
xã hội của mô hình Xô viết. Họ cho rằng giữa hai phương thức sản xuất này đã có
nhiều
điểm giống nhau và về bản chất, và nếu như vậy, người Việt đã có chủ nghĩa xã
hội từ rất
lâu rồi. 1.
Quan điểm này cũng đã được sự ủng hộ của cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong khi
ông
cho rằng nếu hiểu chủ nghĩa xã hội chỉ đơn thuần là sự công hữu hoá về tư liệu sẩn
xuất thì
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể sẽ lặp lại chính phương
thức tổ
1 Xin xem Đặng Cảnh Khanh. Những nhân tố phi kinh tế – xã hội học về sự phát
triển. NXB Khoa học xã hội. 1978.
Chương I “về những mặt hạn chế của hệ tư tưởng truyền thống trong xã hội hiện
đại.
8
chức sản xuất của xã hội truyền thống, lặp lại cả những sự trì trệ, bảo thủ đã kéo
dài rất lâu
trong lịch sử.
Thực tế lịch sử cũng đã cho thấy, người Việt Nam đã duy trì cơ cấu xã hội cơ bản
trên trong suốt quá trình phát triển của mình. Chế độ công điền công thổ đã tiếp tục
tồn tại
ngay cả khi người Pháp xâm chiếm Việt nam. Những nghiên cứu của các học giả
trong và
ngòai nước về xã hội Việt Nam truyền thống đều chỉ ra rằng cho đến tận thế kỷ
XX, ruộng
đất cơ bản ở Việt Nam vẫn nằm trong tay nhà nước và các cộng đồng làng xã,
ruộng tư cũng
tồn tại nhưng không nhiều. Trong tác phẩm nổi tiếng : “Người nông dân Việt Nam
ở châu
thổ Bắc Kỳ”, học giả người Pháp Piere Gourou đã phân tích khá sâu sắc cơ cấu xã
hội Việt
Nam trong thời kỳ Pháp thuộc và tỏ ra hết sức ngạc nhiên về sức sống của các
cộng đồng
làng xã. Ông cho rằng mọi đặc trưng được gọi là truyền thống của người Việt,
cũng như
những sự trì trệ bảo thủ của xã hội Việt Nam cũng đều bắt nguồn từ cái cộng đồng
làng xã
này.2
Như vậy, có thể nói, cơ cấu cơ bản của xã hội Việt Nam trước đây là cơ cấu xã hội
mà trong đó hoạt động của các cộng đồng làng xã là nền tảng cơ bản. Nó tồn tại
trong suốt
chiều dài của lịch sử Việt Nam. Bởi vậy nếu xem xét bề sâu của tồn tại xã hội
trong xã hội
Việt Nam trước đây, chúng ta có thể thấy cơ cấu xã hội gắn liền với sản xuất nông
nghiệp,
dựa trên nền tảng của chế độ công điền công thổ, với việc tự quản cao của các cộng
đồng
làng xã, đã tồn tại một cách khá vững chắc. Nó vượt qua mọi bão giông của những
thay đổi
từ các chính thể và triều đại, từ các cuộc chiến tranh và li tán để làm nên những đặc
trưng
của xã hội Việt Nam, văn hoá Việt Nam, các chuẩn mực và giá trị sống của con
người Việt
nam.
Từ những phân tích khái quát về cơ cấu xã hội của xã hội Việt nam truyền thống
mà
rất cần đến những sự trao đổi tiếp theo nữa ở trên, chúng ta cũng có thể xem xét
thực trạng
của cơ cấu xã hội nước ta hiện nay và dự báo những kịch bản sẽ xảy ra đối với cơ
cấu xã hội
Việt Nam trong tương lai.
Không còn nghi ngờ gì nữa, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà chúng ta
tiến hành trong nhiều năm qua về thực chất chính là cuộc cách mạng về cơ cấu xã
hội. Để
bước vào xã hội hiện đại với những sự phát triển hoàn toàn mới, mang tính đột phá
cao, theo
chúng tôi có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, cơ cấu của xã hội Việt Nam truyền thống
sẽ phải
đối diện với những sự thay đổi mạnh mẽ nhất, trong đó những sự trì trệ và bảo thủ
của xã
hội nông nghiệp truyền thống sẽ bị phá vỡ. Cơ cấu xã hội gắn liền với các cộng
đồng làng
xã sẽ bị lay động tận gốc rễ.
Trong cuộc cách mạng về cơ cấu xã hội này, bên cạnh tính tất yếu phải giải thể cơ
cấu xã hội truyền thống sẽ là sự tái tạo lại một cơ cấu xã hội mới. Đây là một quá
trình vận
2 P. Gourou: I′utilisation du sol en Indochine Francaise. Paris 1940, trang 240.
9
động biện chứng. Kết cấu của ngôi nhà Việt Nam tương lai, chắc chắn không phải
là được
xây dựng trên sự phá bỏ hoàn toàn và nhanh chóng toàn bộ kết cấu của ngôi nhà cũ
để xây
lại một ngôi nhà khác, cũng không phải chỉ là sự tổng hợp những nguyên vật liệu
hoàn toàn
mới được nhặt nhạnh từ bên ngoài, mà phải là sự kế thừa và phát triển liên tục. Có
thể nói,
quá trình tái cơ cấu xã hội của xã hội Việt Nam hiện đại cần phải được hiểu
như là một
quá trình vận hành liên tục, sự chuyển đổi của từng bộ phận cấu thành, từng
nhóm dân
cư xã hội, các giai tầng xã hôi vào một bộ khung kết cấu mới phù hợp với
những nhu
cầu phát triển mới. Có những bộ phận của cơ cấu cũ sẽ bị biến đổi hoàn toàn,
thậm chí mất
đi, nhưng cũng có những bộ phận cấu thành mới sẽ hình thành và phát triển.
Rõ ràng là sự chuyển động mạnh mẽ trong cơ cấu của xã hội Việt Nam hiện nay đã
diễn ra trước hết là ở cơ cấu lao động và kinh tế. Trong những năm gần đây, kinh
tế thị
trường đã thâm nhập sâu sắc vào các cộng đồng xã hội truyền thống, tạo ra những
dòng di
chuyển về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo nhiều hướng khác nhau. Ở chiều
không
gian, phạm vi những hoạt động nông nghiệp thuần tuý đang thu hẹp lại, hoạt động
công
nghiệp và dịch vụ được mở rộng. Cơ cấu ngành nghề lao động ngày càng đa dạng
hơn, dòng
dịch chuyển lao động nông thôn - đô thị, miền xuôi - miền núi, vùng miền này sang
vùng
miền khác…diễn ra ngày càng sôi động. Kinh tế thị trường cũng khiến cho sự phân
tầng xã
hội về kinh tế và thu nhập cũng diễn ra sâu sắc hơn. Khoảng cách giữa các tầng lớp
nhân
dân, các nhóm xã hội, nghề nghiệp ngày càng rộng mở. Tỷ lệ phân hoá giữa người
giàu
người nghèo, hộ giàu, hộ nghèo ngày càng lớn.
Bên cạnh sự biến đổi của cơ cấu nghề nghiệp và lao động,dưới tác động của các
chính sách về dân số và kế hoạch hoá gia đình, cơ cấu dân cư và dân số cũng đang
có sự
chuyển động mạnh mẽ. Cơ cấu của các nhóm tuổi cũng thay đổi. Nhóm những
người trẻ
tuổi đang giảm bớt, người cao tuổi tăng lên cùng với việc kéo dài tuổi thọ của con
người.
Cơ cấu dân số biến đổi cùng với sự phát triển kinh tế xã hội cũng khiến cho cơ cấu
gia đình,
vị thế vai trò của gia đình trong sự phát triển xã hội cũng có nhiều thay đổi. Gia
đình mở
rộng đang có xu hương thu hẹp dần, tỷ lệ các gia đình hạt nhân tăng lên. Các chức
năng của
gia đình, đặc biệt là chức năng về kinh tế, chức năng xã hội hoá và các mối quan
hệ gia đình
đang chuyển dịch cùng với hệ giá trị và chuẩn mực mới về gia đình
Trong điều kiện những biến đổi của cơ cấu xã hội đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay,
với tư cách là những nhà nghiên cứu, chúng ta cũng cần phải làm rõ được những
mặt cơ bản
sau đây.
Trước hết, chúng ta cần phải nghiên cứu và xác định được rõ hơn hiện trạng những
chuyển động không ngừng của cơ cấu xã hôi Việt Nam hiện nay, làm rõ được quá
trình giải
thể của cơ cấu truyền thống để bước vào cơ cấu xã hội hiện đại. Chúng ta phải chỉ
ra được
hình ảnh thực tế của những chuyển động này, những khu vực chuyển động mạnh
mẽ, những
khu vực ít chuyển động và thậm chí đang ở trạng thái tĩnh lặng. Bên cạnh đó,
chúng ta cũng
phải vạch rõ những nhân tố tác động tới sự chuyển động của các bộ phận cấu thành
của cơ
cấu xã hội nói trên, đo lường được cường độ và xu hướng vận hành của những
nhân tố này.
10
Kinh tế thị trường, với những quy luật vận hành của nó chắc chắn sẽ là một trong
những nhân tố tác động mạnh mẽ tới cơ cấu xã hội truyền thống, phá vỡ các quan
hệ cộng
đồng làng xã gắn liền với xã hội nông nghiệp. Nhưng phương thức tác động của nó
ra sao,
hệ quả của nó tới đâu cả về những mặt tích cực lẫn tiêu cực đối với sự tái tạo cơ
cấu xã hội
mới, là cả một câu hỏi lớn cần có lời giải đáp.
Chúng ta cũng cần phải làm rõ được là, trong sự chuyển động khách quan của cơ
cấu
xã hội theo hướng tích cực và tiến bộ thì vai trò của các chủ thể xã hội sẽ như thế
nào, chẳng
hạn như vai trò của Nhà nước, vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, của các cộng
đồng xã
hội và gia đình. Trên cơ sở những hiểu biết về vai trò của các nhân tố chủ thể này,
chúng ta
cũng cần phải đưa ra được những nội dung và phương thức hợp lý nhằm phát huy
tính chủ
động của chúng đối với sự tái tạo cơ cấu xã hội mới. Chỉ có như vậy chúng ta mới
không
phải là những kẻ thụ động và mù quáng mà là những chủ thể sáng tạo, có thể lập
trình một
cách chính xác và khoa học con đường hướng tới những đổi thay tất yếu của cơ cấu
xã hội.
3. Vai trò của các chủ thể đối với việc phân giải và tái tạo cơ cấu xã hội ở nước
ta.
Các nghiên cứu về quá trình phân giải và tái tạo của cơ cấu xã hội Việt Nam,
chúng
ta không thể không quan tâm tới một nguyên tắc khác nữa đó là việc nghiên cứu cơ
cấu xã
hội cần phải dựa trên cơ cở của những tiếp cận về con người Việt Nam với tư cách
là chủ
thể của cơ cấu này.
Thực tế đã chỉ ra rằng, trong thời gian gần đây các nhà nghiên cứu về cơ cấu xã hội
đều dường như muốn tự tách mình khỏi cơ cấu xã hội, muốn thực hiện sự quan sát
cơ cấu xã
hội từ bên ngoài, coi đó như là một phương thức khách quan nhằm đạt tới sự phân
tích.
Trong khi cố gắng thực hiện sự “khách quan” này, các nhà nghiên cứu cũng
thường chỉ nhìn
thấy ở cơ cấu xã hội sự xếp đặt và đan kết vào nhau của các sự kiện xã hội, cố gắng
đo
lường chúng như là những bộ phận của một cỗ máy khuôn cứng đang vận hành.
Các nhà xã
hội học thuộc trường phái cơ cấu chức năng trong khi cố gắng tính toán các sự kiện
xã hội
trong một hệ thống cơ cấu hoàn chỉnh dường như đều coi nhẹ việc quan tâm đến
suy nghĩ và
tình cảm của con người trong hệ thống cơ cấu đó. Trong trường hợp này, “cỗ máy
con
người” bị khuất phục trước “cỗ máy thiên nhiên”, chịu sự chi phối tuyệt đối của
toàn bộ cơ
cấu xã hội và dường như, theo các nhà cơ cấu chức năng, chỉ có điều đó mới khiến
cho toàn
bộ hệ thống giữ được sự cân bằng nhằm đạt tới hoàn chỉnh.
Thực ra, không ai có thể phủ nhận được một thực tế là cơ cấu xã hội đã không chỉ
là
một bộ khung cơ bản quy định những hoạt động của con người trong quá trình họ
sống bên
nhau mà còn là hệ quả của chính những hoạt động này. Con người bao giờ cũng là
một thực
thể có ý thức. Nó mang ý thức của mình thông qua các quan niệm, nhận thức, thói
quen, ý
thức khoa học mà hoạt động và tác động tới mọi sự vận hành của hệ thống xã hội,
ghi dấu
ấn của mình trên mọi sản phẩm vật chất và tinh thần của xã hội, trong đó cơ cấu xã
hội.
Trong quá trình sống, con người bị lệ thuộc vào cơ cấu xã hội nhưng họ cũng
đồng thời tạo nên, chi phối, làm thay đổi và phát triển cơ cấu này. Các quá trình
xác lập,
giải thể và tái cấu trúc các mô hình cơ cấu xã hội không thể diễn ra ở đâu khác
ngoài hệ
11
thống tư duy và hành động của các chủ thể con nguời. Trong quá trình làm nên
lịch sử
của mình, con người cũng làm nên các dạng thức khác nhau của cơ cấu xã hội
mà mình
sinh sống.Mọi sự phủ nhận vai trò của con người trong sự xác lập, giải thể và
tái cấu
trúc các cơ cấu xã hội đều là không có cơ sở khoa học.
Sự phát triển của xã hội ngày càng đòi hỏi con người phải nhận thức rõ hơn những
quy luật của xã hội mà mình đang sống, chủ động và sáng tạo trong việc xây dựng
nên
những quan hệ xã hội tốt đẹp nhất, thu hẹp dần tính thụ động mù quáng mang tính
sinh học
tự nhiên, mở rộng không ngừng tính tự giác, sáng tạo mang tính nhân văn, con
người. Do
đó, nghiên cứu về hoạt động của con người trong quá trình xác lập, vận động và
tái tạo
các cơ cấu xã hội là cơ sở khoa học để con ngưòi chủ động và tự giác xây dựng
phương
thức hợp lý nhất giúp họ có thể sống bên nhau thành xã hội, tức là chủ động và
tự giác
trong việc xác lập các cơ cấu xã hội tương ứng và phù hợp với nhu cầu và lợi
ích của
chính mình. Xã hội càng phát triển bao nhiêu thì con người càng có khả năng chủ
động bấy
nhiêu trong việc xác định cơ cấu xã hội mà mình đã, đang và sẽ sống.
Chúng ta đều biết, hoạt động sống của con người thông qua các mô hình tư duy,
các
dạng thức khác nhau của hành động xã hội, các hành vi của mỗi cá nhân riêng lẻ,
xuất phát
từ những lợi ích và nhu cầu đã khiến cho cơ cấu xã hội không vận hành như một hệ
thống
tĩnh mà luôn luôn biến đổi. Nếu vận động và biến đổi là phương thức tồn tại của cơ
cấu xã
hội thì nghiên cứu về cơ cấu xã hội cũng phải là sự nghiên cứu những nguyên tắc
cũng như
hiện trạng của sự biến đổi này, tức là phải đo lường chúng từ chính hoạt động của
con người
và xã hội.
Về mặt phương pháp luận, khi nhận thức đúng đắn về cơ cấu xã hội, trên bình diện
chủ thể của cơ cấu này, chúng ta có thể thấy rõ được vị thế và vai trò của con
người Việt
Nam trong sự vận động biến đổi của cơ cấu xã hội ở những măt sau đây:
Những điều kiện và nhân tố khách quan tác động tới việc con người tạo lập cách
thức
mà họ liên kết với nhau thành xã hội, mà ở đây cụ thể là cơ cấu xã hội
Phương thức mà con ngừơi liên kết với nhau trong cơ cấu xã hội các nhóm xã hội,
các thiết chế xã hội. Những mối quan hệ tương tác trong cơ cấu xã hội thông qua
hoạt động,
nhận thức và hành vi của chủ thể con người xuất phát từ những lợi ích và nhu cầu
của chính
họ
Vai trò của con người trong quản lý, điều hành sự vận động, biến đổi và phát triển
của cơ cấu xã hội. Những hoạt động của con người trong việc xây dựng chính sách,
pháp
luật, các chuẩn mực xã hội. Các cơ chế kiểm soát của con người đối với sự ổn định
và phát
triển của cơ cấu xã hội.
Ở nước ta, việc nhận thức rõ vị trí, vai trò của các nhân tố chủ thể trong quá trình
phân giải và tái tạo cơ cấu xã hội sẽ cho chúng ta cơ sở khoa học để hoạch định các
chính
sách nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của nhân tố này trong sự xác lập cơ cấu
xã hội.
Chúng ta đều biết, mọi hoạt động của con người, mặc dù đều ít nhiều tác động tới
việc hình
12
thành và phát triển cuả cơ cấu xã hội nhưng hệ quả từ những hoạt động này tới cơ
cấu xã hội
thì lại rất khác nhau. Chúng tuỳ thuộc vào những hoạt động trực tiếp hoặc gián
tiếp, hoạt
động của cá nhân, của nhóm xã hội hay của một thiết chế xã hội, thông qua khả
năng nhận
thức và hành vi của con người và xã hội. Ơ đây, chúng ta không thể phủ nhận được
vai trò
quan trọng thuộc về hoạt động của các tổ chức, điều hành và quản lý xã hội thông
qua bộ
máy nhà nước và các thể chế chính trị
Có thể coi các hoạt động tổ chức, điều hành và quản lý xã hội là nhân tố trực tiếp,
quan trọng làm hình thành các hình thức khác nhau của cơ cấu xã hội. Thông qua
các chủ
trương, chính sách, các chiến lược phát triển ngắn hạn và dài hạn, các cơ chế ban
hành, thực
hiện và giám sát việc thực hiện pháp luật, các chuẩn mực đạo đức và lối sống mà
con người
và xã hội có thể xác lập các quan hệ xã hội và cơ cấu xã hội theo nhận thức chủ
quan của
mình.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, giữa nhận thức chủ quan và chân lý khách quan
có
một khoảng cách không thể dễ dàng khắc phục. Có thể trước sau gì con người cũng
sẽ đạt
tới việc xác lập một cơ cấu xã hội lý tưởng, tiến bộ, phù hợp với nhận thức và trình
độ
khách quan của xã hội, nhưng do những hạn chế của lịch sử, bản thân hoạt động
của họ
không phải lúc nào và giai đoạn nào cũng là hợp lý. Chẳng hạn, chúng ta đều biết
rằng lý
tưởng cao đẹp nhất về sự công bằng xã hội đòi hỏi một cơ cấu xã hội tiến bộ tương
ứng
trong đó sẽ không tồn tại các hình thức phân hoá giai cấp, sự bất bình đẳng, những
mâu
thuẫn và đối lập về quyền lợi giữa các nhóm xã hội khác nhau. Tuy nhiên việc xác
lập cơ
cấu xã hội đó lại bị lệ thuộc vào rất nhiều điều kiện khách quan và chủ quan. Một
cơ cấu xã
hội tiến bộ không thể tồn tại trên nền tảng của một lực lượng sản xuất chậm phát
triển, một
cơ sở vật chất lạc hậu, một nền kinh tế thấp kém.
Trên thực tế, con người thường phải trả giá cho những hành động của mình do việc
xác lập các mối quan hệ xã hội và cơ cấu xã hội không phù hợp với những điều
kiện thực tế
cho phép. Bài học về việc xây dựng cơ cấu xã hội của giai đoạn bao cấp trước đây
đã cho
thấy rõ điều đó. Sự nóng vội trong việc xác lập cơ cấu kinh tế chỉ với những thành
phần
được tượng trưng cho chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, sự
thiếu
thực tế trong chủ trương định hình một cơ cấu giai cấp mới chỉ tập trung vào giai
cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đã khiến cho kinh tế, xã hội rơi vào sự khủng
hoảng và
trì trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện.
Để khắc phục những hạn chế về nhận thức và hành vi trong việc điều hành và quản
lý
xã hội trên lĩnh vực cơ cấu xã hội, chúng ta cần phải nghiên cứu các mặt cụ thể như
: những
mặt tích cực cũng như những hạn chế trong các chủ trương chính sách của Nhà
nước trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện một cơ cấu xã hội mới, những mối quan hệ tương
tác giữa
quản lý nhà nước với cơ cấu xã hội trong thực tiễn, các quy luật khách quan và
luận cứ khoa
học cho các giải pháp phù hợp xác lập cơ cấu xã hội mới.
13
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, do hệ thống cơ cấu xã
hội chỉ có thể vận động, biến đổi, phát triển thông qua hoạt động của con người mà
chúng
ta hoàn toàn có thể tác động tới nhận thức và hành vi của con người để làm
thay đổi cơ
cấu xã hội. Vấn đề là ở chỗ cần phải đo lường, phân tích một cách khách quan
khoa học để
chúng ta có thể tìm ra được những nội dung nào và phương thức tác động ra sao
đối với các
chủ thể xã hội trong quá trình xác lập và hoàn thiện cơ cấu xã hội.
Trên thực tế, chúng ta có thể phân chia các dạng tác động nói trên thành hai
phương
thức: tác động trưc tiếp và tác động gián tiếp. Về phương diện những tác động
trực tiếp,
chúng ta có thể thông qua các chủ trương, đường lối chính sách và bộ máy điều
hành và
quản lý của Nhà nước mà can thiệp trực tiếp vào cách xếp đặt hệ thống tổ chức,
hoàn thiện
các cơ chế làm biến đổi cơ cấu xã hội. Chẳng hạn, thông qua các chính sách về
kinh tế để
xác lập cơ cấu hoạt động lao động sản xuất, cơ cấu giai cấp xã hội, thông qua chính
sách
dân số, kế hoạch hoá gia đình để có được cơ cấu nhân khẩu xã hội cơ cấu nguồn
nhân lực
hợp lý. Về mặt những tác động gián tiếp, chúng ta có thể tác động tới các chủ thể
xã hội
thông qua hệ thống truyền thông, giáo dục, xác lập các giá trị và chuẩn mực xã hội,
từ đó
điều tiết các hành vi xã hội và cá nhân, thông qua hành vi xã hội và cá nhân con
người mà
làm biến đổi cơ cấu xã hội. Chẳng hạn, có thể thông qua công tác truyền thông,
giáo dục
định hướng giá trị nghề nghiệp mà làm thay đổi cơ cấu lao động, nghề nghiệp xã
hội, thông
qua các cuộc vận động tuyên truyền mà làm thay đổi cơ cấu gia đình…
Điều đó có nghĩa là chúng ta hoàn toàn có thể xác lập được một cách khoa học các
chiến lược chủ động và sáng tạo trong việc xây dựng và củng cố một cơ cấu xã hội
hợp lý,
nhằm tổ chức và hoàn thiện một cách thức vận hành xã hội theo con đường tiến bộ,
làm thoả
mãn ngày càng cao những lợi ích và nhu cầu của con nguời
NHẬN DIỆN XÃ HỘI LÀNG XÃ - XƯA VÀ NAY
ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà nội
(Bài viết đã được đăng trên Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 11 và số 12 năm
2004)
(I) Cơ sở hình thành và những hệ quả
của xã hội làng xã từ cổ truyền đến hiện tại
------
Nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá chính là do những khác biệt về
điều kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) qui định (Xem
thêm Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt nam, Nhà xuất bản thành phố
Hồ Chí Minh, năm 2001, tr.36.).
Xét về vị trí địa lý và khí hậu, Việt Nam nằm ở phía Đông Nam Châu Á, diện tích
312.000 km2, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, đặc thù nắng nóng và mưa nhiều
(lượng mưa hàng năm hàng khoảng 1000 mm), với hệ thống sông nước dày đặc,
rất thuận lợi cho thực vật phát triển, đặc biệt là lúa nước (Xem Trần Trọng Kim,
Việt Nam Sử Lược, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, tr.12-13.).
Xuất phát từ nền văn hoá nông nghiệp vốn dĩ phải phụ thuộc nhiều vào thời tiết,
người nông dân có xu hướng chú trọng tới các mối quan hệ hoà đồng, hình thành
lối tư duy cầu an, ưa ổn định, ngại thay đổi.
Từ thời Hùng Vương đến thời Bắc thuộc chúng ta không có chế độ tư hữu về
ruộng đất và cũng chưa hề tồn tại trong lịch sử Việt Nam một chế độ xã hội hoàn
chỉnh được đặt định trên nguyên lý sở hữu tư nhân về đất đai thực thụ và triệt
để.Chính vì không có sở hữu tư nhân thực sự về ruộng đất trong một thời gian dài
dẫn đến tư duy “tiểu nông”, “SX nhỏ” và lối kinh doanh "phường hội". Trong cá
tính của người Việt, từ yếu tố lịch sử cũng hình thành nên rất nhiều đức tính quí
báu rất đáng trân trọng, nhưng cũng hình thành nên những tính cách rất “khác
thường”.
Do phải sống chung với kẻ thù quá lâu, ban đầu là thói quen phản kháng ách cai trị
của người Hán, ban đầu là chống, chống lâu thành quen, từ đó hình thành nên
truyền thống trọng lệ hơn luật, truyền thống chống lại pháp luật “Phép vua thua lệ
làng”.
Bên cạnh những ưu điểm của tính linh hoạt, đôi khi thuộc tính này còn bị biến
dạng theo chiều hướng tiêu cực dưới những dạng thức như:
- Lối ứng xử linh hoạt trong xã hội làng xã dẫn đến căn bệnh tuỳ tiện, dễ thay đổi ý
kiến. (Thí dụ, tật co giãn giờ giấc, giờ "cao su")
- Người làm nông nghiệp sống trong một không gian làng xã khép kín theo một
nhịp sống tĩnh tại, ổn định, không vội vã hình thành nên một tác phong đủng đỉnh
trong công việc;
- Trong kinh doanh đó là thói quen xấu như chèn ép, nói dối, thất hứa v.v... thói
chụp giật, cò con, gian lận...(cạnh tranh không lành mạnh);
- Ngại tiếp xúc, giao lưu với bên ngoài cũng hình thành nên tâm lý bài ngoại, hoài
nghi…
Về tổ chức quản lý và sinh hoạt của làng xã, xã có thể cùng là làng hoặc một xã có
thể gồm vài làng, xóm cũng có thể cùng là thôn hoặc một thôn cũng có thể có vài
xóm (nông thôn Nam bộ còn có ấp [ấp là xã thôn lập ra ở nơi mới khai khẩn hoặc
thôn ở biệt lập]).
Làng xã muốn duy trì sự ổn định của mình nên đã hạn chế việc người nông dân bỏ
làng đi ra ngoài, cũng như không cho người ngoài vào làng sống.
Dân chính cư trong xã chia thành 5 hạng: Chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc
có phẩm hàm; chức dịch gồm những người đang làm việc trong xã; Lão gồm
những người thuộc hạng lão trong các giáp; Đinh gồm trai đinh trong các giáp; Ti
ấu là hạng trẻ con của các giáp.
Lí dịch quản lý chủ yếu ba hạng dân Lão, Đinh, Ti ấu, dựa vào giáp nên việc tổ
chức quản lý hoàn toàn tự nguyện và khá ổn định; đứng đầu ban lý dịch là lý
trưởng; dưới đó là phó lí (giúp việc), hương trưởng (công ích) và trương tuần hay
xã tuần (lo việc an ninh, tuần phòng). Phương tiện quản lý chủ yếu của lí dịch có
hai loại sổ - sổ đinh và sổ điền: một tay nắm nhân lực (trai đinh), và một tay nắm
kinh tế ruộng đất.
Từ việc tổ chức như vậy, nên đã tạo ra tính cộng đồng và tính tự trị.
Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều
hướng tới những người khác.
Tính tự trị là sự tồn tại biệt lập giữa các làng, và độc lập cả với trung ương. Mỗi
làng là một vương quốc nhỏ khép kín với luật pháp riêng (mà các làng gọi là
hương ước); có hội đồng kì mục (ở miền Bắc và miền Trung do tiên chỉ và lý chỉ
đứng đầu và ở các thôn ấp miền Nam sau này gọi là Hội tề do hương cả đứng đầu-
cơ quan lập pháp); lí dịch (cơ quan hành pháp).
Nếu như tính cộng đồng có chức năng liên kết các thành viên trong làng xã (hướng
ngoại), thì tính tự trị lại xác định sự độc lập của làng (hướng nội).
Chính từ tính cộng đồng nên ai bỏ làng đi bị coi là biến chất, dẫn đến hệ quả là
không khuyến khích việc làm giàu, làng xã đã hình thành nên một vách ngăn vô
hình khiến người dân quê rất khó “mở mày mở mặt với thiên hạ”.
Chính từ những cơ sở của lịch sử, kinh tế và xã hội đã phân tích cho thấy yếu tố
dân chủ trong truyền thống Việt Nam chưa thực sự được quan tâm chú trọng. Dân
chủ trong lịch sử Việt Nam chủ yếu tồn tại ở hai dạng là dân chủ nông dân mà mục
tiêu cao nhất của nó là hướng đến bình quân chủ nghĩa, và dân chủ làng xã lấy
quan hệ cộng đồng để trói buộc con người, từ đó dẫn đến thủ tiêu vai trò cá nhân.
Người Việt luôn coi trọng tình cảm hơn lý trí, tinh thần hơn vật chất, ưa sự tế nhị
kín đáo hơn sự rành mạch mà thô bạo (làm gì cũng sợ rút dây động rừng, nên có
việc gì thường chủ trương đóng cửa bảo nhau, chín bỏ làm mười...).
Tính tự trị tạo ra óc gia trưởng, tôn ti, tính ích kỉ, óc bè phái, địa phương. Đồng
thời tính cục bộ làng xoá nhoà sự cạnh tranh giữa từng làng lẫn từng cá nhân trong
cộng đồng làng (hình thành truyền thống xấu đều hơn tốt lỏi; khôn độc không bằng
ngốc đàn; Toét mắt là tại hướng đình, cả làng toét mắt riêng mình em đâu).
Dưới góc độ tâm thức, tâm thức của người Việt dù đi đâu làm gì cũng đều hướng
về làng quê, bản quán, sức mạnh của tâm thức bắt nguồn từ những níu kéo của
những giá trị đạo đức, của mạch nguồn gốc rễ, dòng họ, chẳng vậy mà đi đâu xa
người ta vẫn luôn hướng về dòng họ, mục đích cuối cùng của người dân quê thành
đạt cũng đều nhằm làm vẻ vang cho dòng họ của mình. Chẳng vậy mà trong những
dòng hồi tưởng của mình người Việt luôn sống bằng những hoài niệm, kí ức, từ
đây trong tâm thức của người Việt cũng hình thành thói dựa dẫm, ỷ lại, ngại khó.
Thí dụ, tệ đi cửa sau trong giải quyết công việc: nhất thân, nhì quen, tam thần, tứ
thế... Từ đó tạo cơ sở cho việc hình thành óc bè phái địa phương, thói ích kỉ, lối
sống dựa dẫm, ỷ lại, căn bệnh bằng cấp, háo danh, ham mê bổng lộc, chạy theo dục
vọng...
Cho đến nay, mặc dù xã hội đã thay đổi nhưng những thói quen cũ đó nó vô hình
nhưng vẫn hiện hữu, tự thân nó đã ngấm sâu, bám rễ vào trong từng cử chỉ, hành vi
khiến cho việc cư xử như vậy trở nên bình thường, và được chấp nhận như một lẽ
tự nhiên, nó tồn tại trong cách nghĩ, cách làm của rất nhiều người và vấn đề là ở
chỗ khi là một thành viên trong xã hội như thế người ta "khó có thể xử xự khác
được".
(II). Xây dựng một xã hội công dân, một xã hội pháp quyền từ xã hội làng xã - liên
hệ vào điều kiện Việt Nam
-------
Thuật ngữ xã hội công dân ra đời từ thế kỷ IV-III, TCN, gắn liền với triết thuyết
chính trị của hai nhà triết học cổ đại Platon (427-347 TCN) và Arixtốt (384 - 322
TCN) từ thời Hy Lạp cổ đại.
Mặc dù vậy thuật ngữ này chỉ sự thịnh hành trong ngôn ngữ chính trị - pháp lý qua
các tác phẩm của T. Hốp xơ; G. Lốc-cơ (chủ nghĩa duy vật Anh); của các nhà triết
học khai sáng Pháp và đặc biệt là triết học cổ điển Đức như I. Cantơ và G. Hêghen.
Nếu như theo thông lệ, con đường tuần tự mà lịch sử đã đi qua là muốn xây dựng
nhà nước pháp quyền, phải bắt đầu từ xã hội công dân. Ở Việt nam, một xã hội
công dân không thể được hình thành một cách tự phát, mà đòi hỏi tính tự giác, đặc
biệt khi mà những ảnh hưởng của đặc thù xã hội truyền thống như đã phân tích còn
khá nặng nề, việc chuyển mình từ xã hội hiện tại - xã hội làng xã lên xã hội công
dân càng trở thành một vấn đề lớn đáng được quan tâm.
Ngược với xã hội làng xã, xã hội công dân là xã hội được xây dựng trên cơ sở mối
quan hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân, và giữa các công dân với nhau trên
cơ sở pháp luật, là một hệ quả tất yếu của quá trình toàn cầu hoá (Xem Charles
R.Beitz. Social and cosmopolitan liberalism. International Affairs, page 75, 1999.,
xã hội công dân trước hết phải là một xã hội dân sự). Xã hội dân sự (Civil society)
là những tổ chức phi nhà nước, phi lợi nhuận, được thành lập một cách tự nguyện
có mục tiêu giảm nghèo và hướng tới dân chủ thực chất., thừa nhận, bảo vệ và coi
trọng quyền tự định đoạt của công dân.
Đi lên từ một xã hội làng xã, để xây dựng một xã hội công dân cần phải giải quyết
được các mâu thuẫn căn bản và được thực hiện bằng nhiều giải pháp cụ thể. Trong
giai đoạn trước mắt hiện nay, tôi cho rằng cần phải tập trung vào việc thực hiện các
biện pháp sau:
Thứ nhất, cần ưu tiên phát triển một nền kinh tế năng động, xây dựng những chính
sách hợp lý, phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội
Muốn xây dựng xã hội công dân không còn cách nào khác hơn nếu không phải là
phải đặt việc thúc đẩy quan hệ kinh tế - thị trường lên hàng đầu, vì chính điều này
là cội nguồn hiện thực của xã hội công dân.
Khi đã là một thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, Nhà
nước cần tạo ra cơ chế nhằm đảm bảo tự do kinh tế, tự do thương mại, lao động;
đổi mới cơ cấu tổ chức, cũng như phương thức hoạt động của nhà nước một cách
kịp thời; xác lập môi trường, khuôn khổ pháp lý thích hợp; đồng thời nhà nước
cũng cần giảm việc can thiệp quá sâu vào quyền điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, mà tập trung vào quản lý ở tầm vĩ mô, hạn chế tác động tiêu cực, mặt trái
của kinh tế thị trường...
Tất cả sẽ hiện thực hoá một chân lý rất giản dị một khi đô thị hoá, công nghiệp
phát triển ắt thoát khỏi sự khống chế của nông thôn, đời sống vật chất cao, đầy đủ
ắt sẽ thoát khỏi sự nghèo nàn, thiếu thốn; một tốc độ đô thị hoá nhanh, thái độ làm
việc khẩn trương, nền nếp sẽ làm cho hàng loạt các tính cách xấu không có lý do
để tồn tại.
Thứ hai, bằng nhiều các biện pháp đồng bộ tác động nhằm tăng cường công tác
xây dựng lối sống, ý thức tuân thủ chấp hành pháp luật. Ta lâu nay vẫn nghĩ cứ làm
luật là dân theo, thực tế không phải như vậy. Chúng ta đầu tư rất nhiều vào việc
xây dựng, ban hành ra các đạo luật, nhưng thực tế sự chấp hành pháp luật của
người dân chưa được cải thiện là bao; hay nói cách khác sự đầu tư còn có sự chênh
lệch giữa đầu tư cho công tác xây dựng luật và đầu tư cho công tác tuyên truyền,
giáo dục và phổ biến pháp luật. Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền
với mối quan tâm làm sao để đưa cuộc sống vào pháp luật và đưa pháp luật vào
cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng
lớp nhân dân. Do đó không thể tách rời việc đưa cuộc sống vào pháp luật trong xây
dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống trong thực tiễn áp dụng pháp luật -
đây là hai mặt của một nhiệm vụ.
Như vậy, tựu trung lại, cần phải có sự kết hợp tổng hợp nhiều yếu tố:
Thứ nhất, Luật pháp đạt tới tiêu chí khách quan công bằng, nhân đạo;
Thứ hai là mỗi công dân trong xã hội đều tôn trọng và hiểu rõ giá trị, ích lợi đích
thực của luật pháp. Một khi lối sống tôn trọng luật pháp trở thành lẽ tự nhiên, như
con người sống cần phải thở, thì khi đó lối hành xử theo cảm tính, hoặc do nể nang
sẽ không còn.
Thứ ba, xây dựng một xã hội bình đẳng trước hết là trong mối quan hệ giữa công
dân với nhà nước vì lợi ích đa phương. Nhà nước không thể vì bất cứ lý do gì, dựa
vào đó mà vi phạm những quyền cơ bản của công dân.
Muốn xây dựng một xã hội công dân không thể còn tồn tại trường hợp một công
dân làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước mà không phải gánh chịu hậu quả pháp
lý tương xứng, cũng không còn trường hợp nhà nước có thể ban hành văn bản pháp
luật vi hiến, gây thiệt hại cho lợi ích của công dân và xã hội, lại không có chế tài
hay bất cứ một cơ chế kiểm soát nào. Tôn trọng sự bình đẳng, thoả thuận, tự do
khế ước, nhà nước cũng là một chủ thể bình đẳng trong giao lưu dân sự, và là và
chỉ là một chủ thể, một đối thủ quan trọng trong giao lưu kinh tế.
Một nhà nước hiệu năng là một nhà nước không ngừng lắng nghe, suy tư và hành
động nhanh nhậy, muốn vậy cần phải tăng cường cơ chế phản biện xã hội, nhà
nước không lấy cái đa số để đè bẹp cái thiểu số mà phải tìm trong các nhóm lợi ích
đó tiếng nói chung, đưa ra những giải pháp đạt được lợi ích đa phương, vì sự phát
triển bền vững.
Vẫn biết rằng xây dựng một xã hội công dân là một quá trình, song nếu quyết tâm
đổi mới, dám so mình với thế giới để biết mình đang đứng ở đâu mà nhìn thẳng
vào những yếu kém, mặt trái, những tác động nghịch (tuy vô hình nhưng hiện
hữu), một xã hội biết suy tư, trăn trở như thế, xã hội đó có quyền để hi vọng về sự
phát triển.