thỰc trẠng vÀ mỘt sỐ giẢi phÁp nÂng cao nĂng suẤt … · 1 thỰc trẠng vÀ mỘt...
TRANSCRIPT
1
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG SUẤT
CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
Viện Năng suất Việt Nam
GIỚI THIỆU
Theo quyết 604/QĐ-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2012, các ngành công
nghiệp chủ lực đã được xác định, với vai trò là các ngành công nghiệp chủ lực
của đất nước, các kết quả năng suất của ngành sẽ tác động tới phát triển của
ngành công nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Trên cơ sở phân
tích các chỉ tiêu năng suất quan trọng: năng suất lao động và năng suất yếu tố
tổng hợp, báo cáo sẽ làm rõ thực trạng năng suất của một số ngành công
nghiệp của Việt Nam.
Các ngành công nghiệp được phân tích trong báo cáo này bao gồm: ngành
dệt may, da giầy, ngành nhựa, ngành thép, ngành hóa chất, ngành cơ khí chế
tạo, ngành năng lượng và ngành ngành sản xuất thiết bị điện tử, viễn thông và
công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm, nội dung số (viết tắt là ngành
điện, điện tử-tin học). Trong đó ngành dệt may bao gồm các phân ngành:
ngành dệt và ngành sản xuất trang phục; ngành da giầy gồm: ngành sản xuất
da, giầy dép, túi xách; ngành nhựa gồm: ngành sản xuất sản phẩm từ cao su
và plastic, sản xuất đồ chơi, trò chơi, sản xuất plastic nguyên sinh; ngành thép
gồm: sản xuất kim loại, sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc
thiết bị); ngành hóa chất gồm sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất (trừ
sản xuất plastic nguyên sinh); ngành cơ khí chế tạo gồm: sản xuất sản phẩm
từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc và thiết bị), sản xuất vũ khí và đạn dược,
sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị, sản xuất máy móc thiết bị
chưa phân vào đâu, sản xuất xe có động cơ, rơ moóc; ngành năng lượng bao
gồm: khai thác than cứng và than non, khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên,
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không
khí; ngành sản xuất thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin, công
nghiệp phần mềm, nội dung số bao gồm: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học và sản xuất thiết bị điện.
Các chỉ tiêu năng suất được tính toán cho giai đoạn 2011 – 2015 và các
số liệu đầu vào sử dụng cho tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống
kê. Giải pháp nâng cao năng suất được đưa ra trên bối cảnh phân tích thực
trạng năng suất, và các tác động của ngành đối với kinh tế - xã hội.
2
I- Khái niệm và phương pháp tính năng suất
1.1 Năng suất lao động
Năng suất lao động (NSLĐ) phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu
suất của lao động cụ thể trong quá trình sản xuất. Theo khái niệm của OECD1
năng suất lao động là tỷ lệ giữa lượng đầu ra trên đầu vào, trong đó đầu ra
được tính bằng GDP (Tổng sản phẩm trong nước) hoặc GVA (Tổng giá trị gia
tăng), đầu vào thường được tính bằng: giờ công lao động, lực lượng lao động
và số lượng lao động đang làm việc. Để đánh giá năng suất lao động cấp
ngành thì giá trị gia tăng được sử dụng. NSLĐ tính theo số lao động: Được
tính bằng cách, lấy giá trị gia tăng chia cho tổng số người làm việc bình quân
trong kỳ.
Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và
trình độ tiến bộ của phương thức sản xuất, được quyết định bởi nhiều nhân tố,
như trình độ thành thạo của người lao động, trình độ phát triển khoa học và áp
dụng công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và tính hiệu
quả của các tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.
1.2 Năng suất yếu tố tổng hợp - TFP
Trong kinh tế học, năng suất yếu tố tổng hợp (TFP), còn gọi là năng
suất đa yếu tố, là một biến tác động đầu ra không phải do yếu tố đầu vào
truyền thống là lao động và vốn. Nếu tất cả các yếu tố đầu vào được hạch
toán, TFP có thể sử dụng để đo sự thay đổi công nghệ dài hạn của nền kinh tế.
Nghiên cứu năm 1957 của Robert Solow có tựa đề "Thay đổi kỹ thuật
và hàm sản xuất gộp - Technical Change and the Aggregate Production
Function” được xuất bản trong Tạp chí Kinh tế và Thống kê đã chứng minh
rằng vốn và lao động chiếm ít hơn hai phần ba của tăng trưởng, phần còn lại
chính là công nghệ.
Số dư Solow là một số mô tả tăng trưởng năng suất theo quan sát và
thử nghiệm trong một nền kinh tế trong nhiều thập kỷ. Robert Solow xác định
năng suất tăng khi sản lượng tăng với mức đầu vào vốn và lao động không
đổi. Nó là một "giá trị còn lại" bởi vì nó là một phần của sự phát triển mà
không thể được giải thích thông qua tích lũy vốn hoặc sự tích tụ của các yếu
tố truyền thống khác như đất đai, lao động. Số dư Solow đôi khi được gọi là
tốc độ tăng trưởng của năng suất yếu tố tổng hợp.
Số dư Solow được xác định là tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người
cao hơn tốc độ tăng trưởng vốn tích lũy (capital stock) bình quân đầu người,
1 OECD, Measuring Productivity OECD Manual, Measurement of Aggregate and Industry-level productivity
growth, 2001.
3
vì vậy phát hiện này chỉ ra rằng phải có một số đóng góp cho đầu ra khác
được coi là những tiến bộ trong công nghiệp hóa nền kinh tế và cải tiến năng
suất. Mô hình này đưa ra một phương pháp luận (tính toán tăng trưởng) để đo
lường tốc độ tiến bộ công nghệ - tăng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP). TFP
được tính bằng mức chênh lệch giữa tổng mức tăng trưởng với mức tăng
trưởng do sự đóng góp của vốn và lao động.
Cách tiếp cận tính toán TFP dựa trên mô hình Cobb-Douglas: Y = A x
Kα x Lβ, trong đo Y là tổng đầu ra, A: năng suất yếu tố tổng hợp, K: đầu vào
vốn, L: đầu vào lao động, và hệ số đóng góp tương ứng của hai yếu tố vốn và
lao động vào tổng đầu ra (α và β). Tăng hoặc A, K hoặc L sẽ dẫn đến sự gia
tăng sản lượng.
Phát triển công nghệ và hiệu quả được coi là hai trong số các thành
phần lớn nhất của TFP. Các thành phần trong A không thể diễn giải kinh tế
một cách đơn giản, do bản chất giống như một nhân tố còn lại sau khi đã trừ
đi nhân tố khác, cho nên nó bao gồm cả những nhân tố chưa được xác định.
II- Thực trạng năng suất một số ngành công nghiệp chủ lực
2.1 Tăng trưởng của 08 ngành công nghiệp chủ lực
Trong ngành công nghiệp, 8 ngành kinh tế: dệt may, da giầy, nhựa,
thép, hóa chất, cơ khí chế tạo, năng lượng, điện, điện tử-tin học là những
ngành kinh tế quan trọng đóng góp vào phát triển kinh tế của đất nước.
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê.
Hình 1: Giá trị gia tăng của ngành năm 2015 và tốc độ tăng giá trị gia
tăng bình quân 2011 – 2015
Trong 8 ngành kinh tế nêu trên, ngành năng lượng có mức giá trị gia
tăng cao nhất, ước tính trên 350 nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng của ngành
khoảng 6,4%/năm. Ngành điện, điện tử-tin học có mức giá trị gia tăng cao và
9.316.1
9.33.1
9.415.1
6.4
38.6
0
10
20
30
40
50
050000
100000150000200000250000300000350000400000
Dệt may Da giầy Nhựa Thép Hóa chất Cơ khí chế
tạo
Năng lượng Điện, điện
tử, viễn
thông
GTGT (tỷ đồng) Tốc độ tăng GTGT (%)
4
tốc độ tăng trưởng cũng rất cao (38,6%). Ngành cơ khí chế tạo có mức giá trị
gia tăng và tăng trưởng đều tốt. Ngành thép cho thấy mức giá trị gia tăng thấp
và tăng trưởng thấp trong giai đoạn vừa qua. Ngành nhựa và hóa chất có mức
giá trị gia tăng không cao, nhưng tốc độ tăng trưởng cũng tương đối tốt.
Trong hai ngành sử dụng lao động cao, ngành dệt may có giá trị gia
tăng cao hơn, nhưng tốc độ tăng trưởng chậm hơn ngành da giầy.
Hình 2: Tỷ trọng giá trị gia tăng và lao động của các ngành trong 8
ngành kinh tế
Ghi chú: Theo tính toán của Viện Năng suất Việt Nam
dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
Trong 8 ngành kinh tế được so sánh, ngành năng lượng chiếm tỷ trọng
33% trong tổng giá trị gia tăng của 8 ngành, ngành điện tử, viễn thông và
công nghệ thông tin chiếm 22%, cơ khí chế tạo chiếm 14%. Dệt may, da giầy,
nhựa, thép và hóa chất chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong khi đó, lao động của ngành
năng lượng chỉ khoảng 7%. Dệt may chiếm khoảng 33% lao động, da giầy
chiếm 24% lao động.
2.2 Năng suất lao động
Hình 3 cho thấy mức năng suất lao động của năm 2015 của 8 ngành
kinh tế và tốc độ tăng năng suất bình quân của ngành gia đoạn 2011 – 2015.
Trong các ngành công nghiệp được so sánh, nếu tính năng suất lao
động bằng giá trị gia tăng trên số lao động thì ngành năng lượng có năng suất
lao động rất cao, năm 2015 vào khoảng trên 1 tỷ đồng/ người lao động. Năng
suất lao động của ngành cao do có đặc thù dựa vào tài nguyên, tuy nhiên tốc
độ tăng năng suất bình quân giai đoạn 2011 – 2015 của ngành này vào khoảng
3,9%/năm tăng chậm hơn một số ngành công nghiệp khác.
Cơ cấu lao động
Cơ cấu giá trị gia tăng
5
Hình 3: Năng suất lao động năm 2015 và tốc độ tăng năng suất lao động
(2011 – 2015)
Ngành điện, điện tử-tin họcnổi bật lên là một ngành có năng suất cao
(năm 2015 đạt mức 380 triệu đồng/ lao động năm 2015), đồng thời có tốc độ
tăng năng suất ngoạn mục (17,9%/ năm) trong giai đoạn 2011 – 2015.
Ngành cơ khí chế tạo cũng có mức năng suất và tốc độ tăng năng suất
tương đối tốt (mức năng suất 300 triệu đồng/ lao động năm 2015 và tốc độ
tăng bình quân 2011 – 2015 là 7,7%/ năm. Tương tự như vậy, ngành hóa chất
cũng có mức năng suất cao (trên 450 triệu đồng/ người) và tốc độ tăng nhanh
(5,1%/năm) trong thời gian vừa qua.
Ở khối công nghiệp chế biến, chế tạo, nhóm ngành công nghệ cao gồm
ngành điện, điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin, ngành cơ khí chế tạo,
ngành hóa chất có năng suất nhìn chung có năng suất cao hơn ngành công
nghệ trung bình và thấp, đồng thời tốc độ tăng năng suất cũng cao hơn.
Ở nhóm ngành công nghệ trung bình, ngành nhựa có mức năng suất
vừa phải (khoảng 200 triệu đồng/ người) và tốc độ tăng chậm (2,1%/ năm).
Ngành thép tuy có mức năng suất tuy rất cao, nhưng lại đang có xu hướng suy
giảm (- 6%/năm) trong những năm gần đây.
Nhóm ngành công nghệ thấp như dệt may, da giầy có mức năng suất
lao động thấp (tương ứng là 76 triệu/ người và 74 triệu đồng/ người). Ngành
năng suất ngành dệt may hầu như không thay đổi từ năm 2011 – 2015 (tốc độ
tăng 0,4%/ năm), năng suất ngành da giầy có cải thiện nhiều với tốc độ tăng
bình quân khoảng 4,9%/ năm.
Nếu đánh giá hai yếu tố quan trọng đóng góp vào tăng năng suất lao
động của ngành, đó là tăng cường độ vốn và tăng TFP.
76 74 206629
456 301
1090
38100
0502
-01
0508
04
18
-05
00
05
10
15
20
0
200
400
600
800
1000
1200
Dệt may Da giầy Nhựa Thép Hóa chất Cơ khí chế
tạo
Năng lượng Điện, điện
tử, viễn
thông
NSLĐ (triệu đồng/người) Tốc độ tăng NSLĐ (%)
6
Bảng 1: Năng suất lao động và cường độ vốn và tăng TFP
của các ngành kinh tế
Ngành
NSLĐ giá
hiện hành
2015
(triệu đồng/
người)
Trang bị
vốn/lao
động 2015
(triệu đồng/
người)
Tốc độ tăng
NSLĐ bình
quân
(2011 – 2015)
Tốc độ
tăng
cường
độ vốn
(%)
Tốc độ
tăng
TFP (%)
Dệt may 76 120 0,4 0,4 0,11
Da giầy 74 61 4,9 -1,1 5,58
Nhựa 206 345 2,1 2,7 1,36
Thép 629 3359 -0,6 28,8 -12,18
Hóa chất 456 884 5,1 12,9 -1,38
Cơ khí chế
tạo
301 366 7,7 3,2 5,63
Năng lượng 1090 4047 3,9 9,8 2,60
Điện, điện tử-
tin học
381 372 17,9 8,5 15,39
Ghi chú: Tính toán của Viện Năng suất Việt Nam dựa trên số liệu thống kê.
Ngành năng lượng và ngành thép là hai ngành có mức trang bị vốn trên
một lao động rất cao (tương ứng 4,05 tỷ đồng/ người và 3,36 tỷ đồng/người).
Hai ngành này có mức năng suất cao dựa trên cường độ vốn cao. Trong khi,
vốn gia tăng cho ngành thép không ngừng tăng lên, vốn của ngành năng
lượng có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, với ngành thép, cường độ vốn tăng
28,8%/năm, đầu tư vào ngành này tăng mạnh trong giai đoạn vừa qua, nhưng
ngược lại, năng suất lao động của ngành lại giảm.
Hình 4: Năng suất lao động và cường độ vốn của các ngành công nghiệp
2015 (triệu đồng)
76 74 206629 456 301
1090
381120 61
345
3359
884366
4047
372
Dệt may Da giầy Nhựa Thép Hóa chất Cơ khí chế
tạo
Năng lượng Điện, điện tử,
viễn thông
NSLĐ Cường độ vốn
7
Ngành hóa chất cũng là ngành tăng năng suất lao động dựa vào tăng
vốn. Năng suất lao động của ngành cao đồng thời cường độ vốn cũng cao so
với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nói chung. Tốc độ tăng cường độ
vốn của ngành là 12,9%, tăng nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng của năng
suất lao động (5,1%). Ngành nhựa cũng tương tự như ngành hóa chất, giai
đoạn vừa qua tăng cường vốn cao, nhưng thay đổi năng suất lao động còn
chậm.
Ngành điện, điện tử-tin học cũng là một ngành có tăng cường vốn cao,
nhưng giai đoạn vừa qua, tốc độ tăng năng suất lao động (17,9%) cao hơn hẳn
tốc độ tăng cường độ vốn (8,5%), cho thấy ngành hoạt động rất hiệu quả, tăng
năng suất lao động của ngành không chỉ dựa vào tăng vốn. Tương tự như vậy,
ngành cơ khí chế tạo cũng là ngành sử dụng vốn hiệu quả.
Ngành dệt may và da giầy là ngành có cường độ vốn thấp, sử dụng lao
động là chủ yếu, năng suất lao động cũng thấp. So sánh hai ngành cho thấy,
ngành da giầy có cường độ vốn thấp hơn khá nhiều so với ngành dệt may
nhưng năng suất lao động cũng tương đương với ngành này và mặc dù cường
độ vốn của ngành da giầy giảm đi nhưng năng suất lao động lại tăng lên, cho
thấy hiệu quả cải tiến năng suất của ngành.
Trong số các ngành nêu trên, ngành điện, điện tử-tin học cho thấy có sự
cải thiện năng suất tốt nhất. Tốc độ tăng năng suất lao động rất cao phần lớn
dựa trên tăng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP).
Ngành cơ khí chế tạo cũng có tốc độ tăng năng suất cao và phần nhiều
dựa trên tăng TFP. Ngành da giầy cũng được gọi là ngành có hiệu quả, năng
suất lao động tăng dựa trên những cải thiện về năng suất yếu tố tổng hợp
trong khi trang bị vốn cho lao động không tăng đối với ngành này. Trong khi
đó, ngành dệt may hầu như không có sự thay đổi về năng suất, về TFP và về
cường độ vốn trong giai đoạn vừa qua.
Ngành thép và ngành hóa chất là hai ngành TFP giảm. Trong khi ngành
hóa chất vẫn tăng năng suất lao động dựa vào tăng cường độ vốn thì ngành
thép lại giảm năng suất lao động trong điều kiện cường độ vốn tăng rất mạnh
và TFP giảm sâu.
Ngành nhựa và ngành năng lượng cũng cho thấy tăng năng suất lao
động chậm và chủ yếu dựa trên tăng cường trang bị vốn.
2.3 Đóng góp của các yếu tố đầu vào và TFP vào tăng giá trị gia tăng
Dựa trên cách tiếp cận hạch toán tăng trưởng, tăng giá trị gia tăng có
được do tăng đầu vào (vốn và lao động) và tăng TFP.
8
Hình 5: Đóng góp của các yếu tố đầu vào và TFP vào tăng giá trị gia tăng
(%)
Các ngành có đóng góp cao của tăng TFP vào tăng trưởng là ngành
điện, điện tử-tin học (40%), ngành cơ khí chế tạo (37%), ngành da giầy
(35%). Những ngành này cho thấy các cải thiện về năng suất yếu tố tổng hợp
(như cải thiện về công nghệ, hiệu quả quản lý, chất lượng lao động và các tác
động của chính sách kinh tế) đã có tác động tích cực tới tăng trưởng của
ngành.
Các ngành công nghệ cao, thời gian qua, đóng góp của tăng vốn có vai
trò nổi bật hơn so với đóng góp của tăng lao động (ví dụ như ngành điện, điện
điện tử viễn thông và công nghệ thông tin, ngành cơ khí chế tạo, ngành hóa
chất, ngành năng lượng. Ngành công nghệ trung bình và thấp (như ngành dệt
may, da giầy, nhựa vai trò của tăng lao động vẫn chiếm chủ yếu trong tăng
trưởng.
Ngành năng lượng trong giai đoạn vừa qua, tăng cường vốn quá nhanh,
tăng giá trị gia tăng dựa trên tăng cường vốn và một phần nhỏ dựa trên tăng
lao động, giá trị gia tăng được gia tăng hoàn toàn dựa trên tăng yếu tố đầu vào
mà không có sự cải thiện năng suất.
Ngành hóa chất và ngành dệt may cũng trong tình trạng tương tự. Tăng
trưởng của ngành dựa vào tăng các yếu tố đầu vào lao động và vốn mà không
có sự gia tăng năng suất yếu tố tổng hợp. Tuy nhiên có sự khác biệt ở một
điểm, ngành hóa chất tăng trưởng dựa vào tăng vốn, còn nghành dệt may dựa
vào tăng lao động là chủ yếu. Ngành nhựa mặc dù có đóng góp của tăng TFP
2614
40
714 92
40
120
45
73
52
46126
41
19
17
15
01
35
15
-315
-15
37
-37
40
Dệt may Da giầy Nhựa Thép Hóa chất Cơ khí chế
tạo
Năng lượng Điện, điện
tử, viễn
thông
vốn lao động TFP
9
nhưng ở mức khiêm tốn khoảng 15% và phần lớn vẫn dựa vào tăng lao động
vào vốn.
Riêng ngành thép tăng đầu vào với tốc độ rất nhanh nhưng giá trị gia
tăng lại giảm đi. Lý giải điều này, thời gian qua tiêu thụ của ngành thép gặp
khó khăn do kinh tế suy giảm, thị trường bất động sản đóng băng, xuất khẩu
gặp khó dẫn đến việc đầu tư chưa đem đến hiệu quả kinh tế, cũng có thể do
đầu tư doanh nghiệp ngành thép đòi hỏi vốn lớn và dài hạn, nên chưa đem lại
những kết quả trong ngắn hạn.
III- Các vấn đề và giải pháp
3.1 Các vấn đề chung của các doanh nghiệp Việt Nam
Lợi thế
- Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và xã hội, có sức
hấp dẫn đối với các thương nhân và nhà đầu tư nước ngoài, qua đó tạo thêm
cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận nguồn vốn, thiết bị, công nghệ
sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng chuyên môn cao
từ các nước phát triển.
- Thị trường nội địa với dân số hơn 90 triệu và mức sống ngày càng
tăng là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp công nghiệp phát triển thị trường
trong nước. Nhiều sản phẩm như sản phẩm dệt may, da giầy đã được các thị
trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật chấp nhận.
- Việc triển khai chương trình phát triển công nghiệp chủ lực, công
nghiệp hỗ trợ tạo tiền đề, cơ sở để các DN nhựa mạnh dạn đầu tư đổi mới dây
chuyền sản xuất sang ngành nhựa kỹ thuật cao, góp phần gia tăng giá trị của
sản phẩm. Không chỉ vậy, việc cải thiện nội lực theo hướng gia tăng giá trị
sản phẩm còn giúp các DN mở rộng hợp tác, trở thành thành viên hệ thống
chuỗi cung ứng cho sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
- Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh trong những năm qua và có sự đầu
tư bài bản. Nhiều doanh nghiệp phát triển vững vàng nhờ đầu tư phát triển
công nghệ và hoạt động hiệu quả trong nhiều năm (như doanh nghiệp ngành
nhựa, ngành da giầy).
- Với lợi thế là dân số trẻ, gần 60% trong tổng dân số ở độ tuổi lao
động (17-60 tuổi), nguồn lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi và nằm trong
khu vực có nền công nghiệp phát triển nhanh và năng động, đặc biệt là đối với
ngành Công nghiệp điện tử. Cho nên Việt Nam rất có cơ hội để thu hút vốn
đầu tư, chuyển giao công nghệ và học tập các kiến thức quản lý và đào tạo
nhân lực từ các ngành Công nghiệp phát triển trong khu vực.
10
Thách thức và khó khăn
- Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các ngành đều có tụt hậu về công
nghệ so với các nước trong khu vực, phụ thuộc vào máy móc, thiết bị nước
ngoài. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn
tài chính hạn hẹp. Lực lượng chuyên gia cũng như kiến thức và cập nhật công
nghệ còn ít ỏi và cũng chưa đạt đến nhu cầu phát triển kinh doanh. Thêm vào
đó, khả năng đàm phán để kí hợp đồng công nghệ cũng không mở rộng;
- Doanh nghiệp trong nước phần nhiều là nhỏ, vốn đầu tư ít, chủ yếu
gia công, chưa đủ sức tạo sản phẩm, nhập khẩu là chính, rất kém lợi thế cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Ở thành phần kinh tế tư nhân, các
doanh nghiệp nước ngoài chiếm ưu thế về thị trường;
- Việc hợp tác và liên kết giữa các doanh nghiệp còn yếu và thiếu. Ví
dụ trong lĩnh vực cơ khí, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chỉ làm cơ khí
khép kín, đảm nhận các khâu từ A đến Z nên không sử dụng hết được năng
lực của máy móc hiện có cũng như không thể phát triển công nghệ, bổ sung
số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Vì thiếu sự liên kết giữa các doanh
nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt
Nam nên các công ty cơ khí chưa tạo được sức cạnh tranh, xây dựng và bảo
vệ thị trường cơ khí trong nước;
- Lực lượng lao động đông đảo nhưng chất lượng lao động lại yếu:
nhiều ngành phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng, nhất
là kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao. Phần lớn đội ngũ nhân
lực chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất cơ khí công nghệ cao như
thiếu kiến thức về các công nghệ mới, trình độ chuyên môn chưa cao;
- Ở các ngành có nhiều lợi thế (dệt may; da giầy, điện, điện tử-tin học),
nhưng công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập
khẩu, tỷ lệ gia công cao là thách thức lớn khi hội nhập. Hầu hết các ngành
đang phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, thiếu khả năng chủ động về
nguyên liệu.
- Các thị trường lớn vận dụng nhiều rào cản kỹ thuật, vệ sinh, an toàn,
môi trường, trách nhiệm xã hội, chống bán phá giá nhằm bảo hộ sản phẩm
trong nước. Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam thường không đủ khả
năng để thắng trong các tranh chấp thương mại. Năng lực tiếp thị còn hạn chế,
hầu hết đều chưa có thương hiệu riêng được biết đến trên thị trường quốc tế.
11
- Kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn hạn chế, năng suất lao động
chưa cao. Năng lực sản xuất cho ngành thường đến từ các công ty nhà nước
và các công ty nước ngoài.
3.2 Giải pháp chung đối với các doanh nghiệp ngành công nghiệp
của Việt Nam
3.2.1 Tạo môi trường cho doanh nghiệp phát triển về quy mô
Từ phân tích dữ liệu của doanh nghiệp cho thấy các doanh nghiệp có
quy mô lao động vừa và lớn có năng suất cao hơn. Các doanh nghiệp nhỏ và
siêu nhỏ năng suất lao động thấp. Ngoài ra quy mô doanh thu, cường độ chi
phí trung gian cao cũng có tác động năng suất cao. Vì vậy hỗ trợ, khuyến
khích doanh nghiệp phát triển quy mô cũng tác động tới nâng cao năng suất
của toàn ngành. Các doanh nghiệp có quy mô đủ lớn có thể có những tiềm lực
tài chính và nhân lực đầu tư phát triển thị trường, phát triển khoa học và công
nghệ và cạnh tranh tốt hơn.
Tiếp tục cổ phần hóa và tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước trong
các lĩnh vực công nghiệp là một giải pháp tích cực, vì các doanh nghiệp NN
thuộc ngành cho thấy không hiệu quả, có năng suất thấp hơn so với doanh
nghiệp ngoài NN. Bên cạnh đó duy trì hoạt động của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ bằng cách đơn giản hóa các thủ tục hành chính (ví dụ ưu đãi vay vốn, thủ
tục hành chính về thuế, bảo hiểm xã hội…), chính sách tiền lương phù hợp,
chính sách thuế, ưu đại thuế, tín dụng rõ ràng tránh những rào cản về chính
sách …), hướng tới hậu thuẫn hiệu quả cho doanh nghiệp hoạt động.
3.2.2 Khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ
Để xây dựng thị trường và thương hiệu và đặc biệt là tham gia vào các
phân khúc thị trường có giá trị gia tăng cao như thiết kế, phát triển và phân
phối, thì thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển là rất quan trọng.
Đối với các doanh nghiệp có tiềm năng (quy mô lớn, tài chính vững) thì cần
thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm để xây dựng
thương hiệu riêng hoặc tham gia vào phân khúc giá trị gia tăng cao trong
chuỗi giá trị toàn cầu, hoặc chiếm lĩnh thị trường nội địa trong điều kiện thị
trường nội địa rất nhiều tiềm năng của Việt Nam.
Ngoài tính chủ động của các doanh nghiệp, để hỗ trợ cho hoạt động
nghiên cứu phát triển của các doanh nghiệp trong nước, Nhà nước cần có một
số khuyến khích như sau:
- Khuyến khích các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính đầu tư cho các
hoạt động khoa học và công nghệ, phát triển thương hiệu. Tạo ra các ưu đãi
12
về vay vốn phát triển thương hiệu hoặc các chương trình khoa học và công
nghệ liên quan tới nâng cao năng lực sản xuất mặt hàng giá trị gia tăng cao.
- Các viện, trường hợp tác với doanh nghiệp chú trọng đào tạo nhân lực
về thiết kế và kỹ thuật, công nghệ.
- Phát triển các diễn đàn trao đổi về công nghệ, các tổ chức tư vấn công
nghệ (có thể hoạt động thông qua quỹ phát triển khoa học công nghệ, hoặc từ
nguồn tài chính của các tổ chức tham gia đóng góp).
- Sử dụng quỹ khoa học và công nghệ hiệu quả, đầu tư đúng đối tượng,
đặc biệt chương trình ứng dụng ưu tiên vào những doanh nghiệp có tác động
lan tỏa phát triển khoa học và công nghệ của ngành: viện nghiên cứu, doanh
nghiệp hàng đầu hoặc các tổ chức tư vấn về khoa học và công nghệ.
Tuyên truyền nhận thức về sự cần thiết của các hoạt động nghiên cứu
và phát triển. Phát triển cơ sở dữ liệu hoặc trang thông tin đánh giá về năng
lực công nghệ giúp các doanh nghiệp tự xếp hạng về năng lực công nghệ so
với mức bình quân, cũng như xếp hạng về năng suất và hiệu quả., để có định
hướng thiết lập mục tiêu phát triển.
3.2.3 Phát triển nguồn nhân lực cung ứng cho các doanh nghiệp
Hiện nay, ngành dệt may và da giầy sử dụng nhiều lao động, nhưng chủ
yếu là lao động phổ thông, tay nghề thấp, các ngành công nghệ cao như ngành
cơ khí chế, tạo, ngành hóa chất hoặc thiết bị điện, điện tử đối mặt bài toán lao
động yếu và thiếu. Nguyên nhân chủ yếu do chất lượng đào tạo chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Do đó, cần cải cách đào tạo nghề
trong các trường đại học trung cấp dạy nghề, tăng phần thực hành kỹ năng áp
dụng vào thực tế.
Phát triển nguồn nhân lực của ngành cần một số công việc sau:
- Phát triển các viện nghiên cứu, trường đào tạo nghề chuyên ngành. Cả
hai vấn đề phát triển nguồn nhân lực đều cần được chú ý: Chất lượng đào tạo
nghề và sử dụng lao động có trình độ hiệu quả ở các nhà máy. Vì vậy cần giải
quyết dưới 2 góc độ: nâng cao chất lượng đào tạo nghề và quản trị nhân lực
trong các nhà máy.
- Liên kết các viện, trường với doanh nghiệp trong sự hợp tác đôi bên
cùng có lợi: ví dụ, các viện, trường đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp,
các doanh nghiệp hỗ trợ đào tạo thực hành. Trong đó, chú trọng đào tạo nhân
lực về thiết kế và kỹ thuật.
3.2.4 Ứng dụng hệ thống và công cụ quản lý tiên tiến, hiện đại
13
Số liệu mẫu cũng cho thấy, doanh nghiệp áp dụng ISO 9000 hoặc ISO
14000 hoặc áp dụng 2 hệ thống/ công cụ quản lý, cải tiến năng suất chất
lượng trở lên có năng suất lao động cao hơn các doanh nghiệp không áp dụng
hệ thống/ công cụ cải tiến năng suất, chất lượng.
Thực tế đã chứng minh, những doanh nghiệp quan tâm tới cải tiến quá
trình sản xuất kinh doanh, tìm hiểu ứng dụng những mô hình quản lý tiên tiến
sẽ có năng suất cao hơn.
Với kết quả của các mô hình/ công cụ quản lý cải tiến năng suất chất
lượng trong thực tiễn, cần tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp duy trì, áp
dụng, cập nhật những mô hình quản lý tiên tiến.
Việt áp dụng những tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 giúp
các doanh nghiệp có ý thức trong việc đảm bảo chất lượng, đảm bảo môi
trường, đảm bảo tuân thủ phát luật, dần từng bước tạo uy tín trước khách
hàng, dần dần xây dựng thương hiệu cho sản phẩm.
Số liệu cho thấy số doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn hoặc hệ thống
chưa nhiều (47% doanh nghiệp ngành sản xuất da và các sản phẩm từ da chưa
áp dụng hệ thống, công cụ quản lý cải tiến năng suất chất lượng. Trong các hệ
thống, công cụ được áp dụng, ISO 9000 (hệ thống quản lý chất lượng) được
áp dụng chủ yếu (39%). 11% doanh nghiệp áp dụng ISO 14000 (hệ thống
quản lý môi trường) có 11% doanh nghiệp áp dụng, 5S và Kaizen 8% doanh
nghiệp áp dụng. Một số công cụ cải tiến năng suất khác cũng rải rác được áp
dụng). Như vậy cần khuyến khích các doanh nghiệp tham gia áp dụng tiêu
chuẩn hoặc các công cụ cải tiến khác.
Biện pháp khuyến khích như sau:
- Tạo nhận thức về sự cần thiết áp dụng các công nghệ quản lý tiên tiến
thông qua các biện pháp tuyên truyền: tạp chí, sách chuyên ngành, hội thảo,
diễn đàn.
- Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn về các hệ thống, công cụ quản lý.
- Xây dựng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống
và công cụ quản lý tiên tiến.
- Các diễn đàn chia sẻ kết quả áp dụng hệ thống/ công cụ quản lý năng
suất chất lượng để giúp các doanh nghiệp học hỏi lẫn nhau.
3.3 Giải pháp riêng của ngành
Ngoài các giải pháp chung cho doanh nghiệp đã nêu ở trên, các giải
pháp riêng cho ngành như sau:
3.3.1 Đối với ngành điện, điện tử-tin học:
14
Chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành: Công nghiệp hỗ trợ
(CNHT) cho ngành công nghiệp điện tử-tin học chiếm 80% giá trị của ngành
công nghiệp điện, điện tử, tin học, viễn thông, bao gồm các ngành như: Công
nghiệp sản xuất linh kiện, công nghiệp vật liệu, công nghiệp khuôn mẫu, gia
công cơ khí…Trong đó, công nghiệp vi mạch bán dẫn là ngành công nghiệp
sản xuất linh kiện chiếm tỉ lệ trên 70% của công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp
hỗ trợ ngành điện tử-tin học tại Việt Nam ít phát triển nên dẫn đến tỉ lệ nội địa
hóa rất thấp, bình quân chỉ 20-30%, còn lại chủ yếu là bao bì đóng gói với các
chi tiết nhựa, chi tiết kim loại… vì vậy, các chính sách phát triển cần khuyến
khích cho phát triển công nghệ hỗ trợ cho ngành.
Hình thành các cụm công nghiệp điện tử - tin học: Với việc hội nhập
quốc tế ngày một sâu rộng, sản xuất trong nước sẽ đứng trước sức ép cạnh
tranh với hàng nhập khẩu nguyên chiếc, bởi người tiêu dùng khi đó được tiếp
cận với sản phẩm nhập ngoại có mức giá rẻ hơn so với sản phẩm trong nước.
Do đó, việc hình thành các cụm công nghiệp điện tử, thúc đẩy sự quy tụ, đầu
tư của các doanh nghiệp nhằm tạo ra sự liên kết, nâng cao hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp điện, điện tử, tin học, viễn thông. Sự liên kết và tương
tác này giữa các doanh nghiệp với nhau tạo ra một hệ thống liên kết chặt chẽ
trong mạng lưới ngành. Đặc biệt, tạo dựng được năng lực cạnh tranh và công
nghệ để có thể giúp các doanh nghiệp trong ngành tham gia vào chuỗi giá trị
sản xuất toàn cầu và góp phần thực chất đưa Việt Nam thành một nước sản
xuất lớn về thiết bị điện tử, tin học vào năm 2030.
3.2.2 Đối với ngành cơ khí, chế tạo
Xây dựng chiến lược phát triển ngành cơ khí: Bên cạnh những kết quả
đã đạt được, ngành cơ khí vẫn còn những hạn chế nhất định. Cụ thể, năm
2014 mới chỉ đáp ứng được 32% nhu cầu, trong khi đó mục tiêu đề ra là từ
40-45%. Công nghiệp cơ khí ô tô, luyện kim... đạt thấp so với kế hoạch đề ra.
Các đơn vị tư vấn chưa làm chủ được thiết kế; Sản phẩm chuyên ngành nông
lâm ngư nghiệp, xây dựng đóng tàu kết đạt kết quả thấp. Nhiều chính sách
cho ngành cơ khí, tuy nhiên gặp khó trong quá trình triển khai. Chính sách hỗ
trợ chưa phát huy tác dụng. Do vậy trong giai đoạn tiếp theo việc xây dựng
chiến lược phát triển cần tập trung mục tiêu nâng cao tính tự chủ, năng lực
cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam.
3.2.3 Đối với ngành dệt may, da giầy
Hỗ trợ xúc tiến thị trường bằng các ưu đãi vay vốn phát triển xây dựng
thương hiệu, hỗ trợ tìm hiểu thông tin về các quy định của các nước nhập
khẩu, các chương trình hợp tác song phương, hợp tác quốc tế về các quy định
liên quan đến ngành. Rất cần các trang thông tin chuyên ngành được cập nhật
15
thường xuyên về các chương trình hợp tác, các thị trường, các quy định và rào
cản thương mại … để giúp doanh nghiệp có định hướng kinh doanh (ví dụ
trang web của Hiệp hội da giầy túi xách).
Phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành may, da giầy: Có kế hoạch
phát triển của ngành dệt may, da giầy và kế hoạch, quy hoạch phát triển công
nghiệp phụ trợ (như chế tạo, sản xuất máy móc dành cho ngành dệt may, phát
triển ngành sợi, dệt, phụ kiện ngành da giầy) để đáp ứng nguyên phụ liệu cho
ngành dựa trên các thế mạnh của tỉnh/ vùng.
3.2.4 Đối với ngành nhựa
Khuyến khích việc đầu tư đổi mới thiết bị và phát triển công nghệ: Qua
số liệu điều tra của ngành nhựa cho thấy, những doanh nghiệp chú ý tới đầu
tư trang thiết bị hiện đại, chất lượng cao thì năng suất cao hơn hẳn những
doanh nghiệp trang thiết bị cũ, lạc hậu hoặc kém chất lượng. Doanh nghiệp
ngành nhựa là ngành cần đầu tư tài sản, thiết bị khá lớn. Công nghệ yếu kém
khiến các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể sản xuất được các loại sản phẩm
nhựa có hàm lượng kỹ thuật cũng như giá trị gia tăng cao như các sản phẩm
thuộc nhóm nhựa vật liệu xây dựng và nhựa kỹ thuật. Nguyên nhân chủ yếu là
doanh nghiệp có qui mô vốn và doanh thu thấp nên không có khả năng đầu tư
phát triển công nghệ. Năng lực tài chính yếu cùng với các khó khăn trong việc
tiếp cận vốn, thiếu hụt vốn đầu tư do cơ chế chính sách chưa phù hợp đã tạo
thành rào cản đổi mới công nghệ sản xuất. Bên cạnh đó, nguyên nhân cũng do
sản phẩm của Việt Nam đứng ở phân khúc thấp nên các doanh nghiệp ít chú
trọng đến việc đầu tư công nghệ máy móc hiện đại. Điều này làm giảm sức
cạnh tranh của sản phẩm nhựa Việt Nam trên thị trường. Vì vậy các giải pháp
chính sách cần tập trung vào các khuyến khích phát triển ngành nhựa thúc đẩy
doanh nghiệp đầu tư vào ngành nhựa kỹ thuật cao như hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ
tư vấn lựa chọn thiết bị, tăng đào tạo phát triển nhân lực công nghệ chuyên
ngành, quy định thẩm định chất lượng thiết bị nhập khẩu (kể cả khía cạnh môi
trường) hoặc chứng nhận sản phẩm trong nước.
Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho sản xuất nguyên liệu ngành
nhựa: Doanh nghiệp ngành nhựa phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
Nguyên liệu sản xuất trong nước chỉ mới đáp ứng 20% đến 30% nhu cầu với
các sản phẩm chủ yếu gồm nhựa PVC, PET, PP. 70% nguyên phụ liệu còn lại
của ngành đang phụ thuộc vào nhập khẩu. Do đó, giá thành sản xuất luôn bị
biến động theo giá hàng hóa nguyên liệu đầu vào từ thế giới và biến động của
tỷ giá ngoại tệ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam. Vì
vậy cần có một chính sách cụ thể giúp các doanh nghiệp ngành Nhựa phát
triển. Bộ Công thương cần nghiên cứu hình thành danh mục sản phẩm trọng
16
điểm của quốc gia cho từng thời kỳ và đề xuất chính sách hỗ trợ phát triển,
tạo điều kiện DN xây dựng kế hoạch đầu tư phù hợp. Phát triển công nghệ và
khuyến khích đầu tư tái chế phế liệu nhựa. Nếu tận dụng được nguồn nguyên
liệu tái chế thì không giúp giảm gánh nặng nhập khẩu nguyên liệu mà còn góp
phần giảm thiểu các tác hại môi trường từ các phế thải nhựa.
3.2.5 Đối với ngành hóa chất
Chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ: Ưu tiên cho các doanh nghiệp
có nhu cầu vay vốn để đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào
sản xuất; ưu đãi về cơ chế vay vốn đối với các dự án đầu tư chiều sâu, đổi mới
công nghệ và xây mới có sử dụng công nghệ hiện đại. Ưu đãi về thuế đối với
các sản phẩm hóa chất sản xuất trong nước phục vụ trực tiếp cho sản xuất
nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực và thúc đẩy xuất khẩu lương thực.
Giải pháp về thị trường: Nhà nước cần hoàn thiện các cơ chế, chính
sách nhằm hạn chế việc nhập khẩu các sản phẩm hóa chất trong nước đã sản
xuất được, các sản phẩm kém chất lượng, gây ô nhiễm môi trường, trên cơ sở
phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam khi tham gia WTO cũng như
các hiệp định thương mại đa phương khác; tăng cường chống hàng giả, hàng
nhái, hàng nhập lậu. Cần có chính sách đầu tư xây dựng, nâng cao năng lực
của các cơ quan nghiên cứu thị trường hóa chất để có thể dự báo và cung cấp
thông tin thị trường một cách chính xác và kịp thời; phát triển và sử dụng hiệu
quả các phương tiện thông tin, công khai các chương trình xúc tiến thương
mại hàng năm và các chương trình khác nhằm hỗ trợ doanh nghiệp có định
hướng sản xuất phù hợp.
Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ và bảo vệ môi trường: Tăng
cường nâng cao năng lực của các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành và các
phòng kỹ thuật công nghệ của các công ty để có đủ khả năng tiếp cận và tổ
chức nghiên cứu triển khai các công nghệ mới; Xây dựng cơ chế thích hợp
nhằm phát huy hiệu quả của các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia trong
lĩnh vực hóa chất, hỗ trợ công tác nghiên cứu triển khai áp dụng các công
nghệ hiện đại; Thẩm định công nghệ đối với các dự án đầu tư, áp dụng công
nghệ tiên tiến, hiện đại đối với các dự án đầu tư mới. Tổ chức thực hiện tốt
Luật chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng công tác thẩm định công
nghệ, đảm bảo quyền lợi của bên bán công nghệ và các doanh nghiệp nhận
chuyển giao công nghệ. Các nhà máy đang hoạt động, các dự án đầu tư mới
phải thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và an
toàn hóa chất; đóng cửa các cơ sở sản xuất hóa chất sử dụng công nghệ lạc
hậu, gây ô nhiễm môi trường; Hạn chế tối đa việc hình thành các cơ sở sản
xuất, chế biến hóa chất quy mô nhỏ. Ưu tiên phát triển các dự án hóa chất áp
17
dụng các công nghệ mới, ít chất thải và thân thiện môi trường, các giải pháp
tiết kiệm năng lượng, tăng hiệu quả sử dụng nguyên liệu, và tái sử dụng tối đa
các loại chất thải phát sinh trong quy trình sản xuất, chế biến các sản phẩm
hóa chất; Có kế hoạch di dời, tập trung các nhà máy sản xuất hóa chất vào
khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhằm quản lý tập trung giảm thiểu tình
trạng ô nhiễm môi trường; Tiếp tục nghiên cứu nhu cầu thị trường và đánh giá
sức chịu tải của môi trường ở những nơi quy hoạch các dự án hóa chất để điều
chỉnh quy mô sản xuất.
3.2.6 Đối với ngành thép
Quy hoạch lại phát triển ngành thép, không khuyến khích thành lập mới
các doanh nghiệp ngành thép: Ngành thép đang ở tình trạng cung lớn hơn cầu
đối với thị trường trong nước. So với nhu cầu thực tế của thị trường trong
nước, nguồn cung đang vượt xa cầu. Thêm vào đó, nhu cầu năng lượng của
ngành thép sẽ gây ra mất cân đối nghiêm trọng khi chiếm 15,5% nhu cầu năng
lượng cả nước hoặc tương đương với 48% nhu cầu năng lượng của cả ngành
công nghiệp. Mà điều này sẽ buộc phải điều chỉnh một trong hai quy hoạch,
hoặc thép hoặc năng lượng, mới đủ bảo đảm cân đối năng lượng. Giải pháp
cần xem xét quy hoạch lại phát triển của ngành thép. Cân đối lại mục tiêu sản
lượng của ngành thép (gang, phôi thép, thép thành phẩm, sản xuất thiết bị
luyện, cán thép). Đánh giá lại chính sách đầu tư vào ngành thép, hạn chế đầu
tư vào những ngành đã đủ nhu cầu. Chú ý tới đánh giá công nghệ của doanh
nghiệp, coi là ngành kinh doanh có điều kiện về công nghệ và tác động tới
môi trường.
Nâng cấp cải tiến công nghệ dần dần loại bỏ công nghệ lạc hậu: Công
nghệ của ngành thép Việt Nam đang đan xen giữa công nghệ hiện đại so với
khu vực thế giới, nhưng vẫn còn những dây chuyền công nghệ lạc hậu, tiêu
hao năng lượng nhiều, ảnh hưởng môi trương lớn. Khoảng 40% dây chuyền
công nghệ của ngành thép thuộc diện lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Nguyên nhân do sự yếu thế cả về vốn và nguồn nhân lực khiến cho các DN
thép của Việt Nam không thể đầu tư công nghệ hiện đại vào sản xuất. Giải
pháp:
- Cần đánh giá lại các doanh nghiệp ngành thép, coi là ngành kinh
doanh có điều kiện về công nghệ, tác động tới môi trường, dần dần loại bỏ
công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. Chấp nhận đào thải những doanh
nghiệp yếu kém, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên liệu, năng lượng
và ô nhiễm môi trường.
- Khuyến khích doanh nghiệp lớn đầu tư công nghệ hiện đại. Dựa trên
quy hoạch phát triển ngành thép tạo điều kiện doanh nghiệp tiềm năng vay
18
vốn đổi mới công nghệ. Giải thể những doanh nghiệp không đủ điều kiện thay
đổi công nghệ chuyển đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh.
- Phát triển nhân lực về công nghệ ngành thép thông qua đào tạo, nâng
cao năng lực của các đơn vị đào tạo, nghiên cứu về công nghệ của ngành thép.
- Phát triển năng lực của đội ngũ đánh giá và thẩm định công nghệ để
có thể tư vấn cho doanh nghiệp và công nghệ đồng thời kiểm soát về điều
kiện công nghệ của các nhà máy.
Thiết lập chính sách phát triển bền vững cho ngành thép: Doanh nghiệp
ngành thép nội địa phải cạnh tranh gay gắt với thép nhập khẩu giá rẻ của
Trung Quốc. Cơ hội mở ra thị trường xuất khẩu nhưng gặp phải những rào
cản của các nước nhập khẩu. Nguyên nhân chính do năng lực sản xuất yếu,
kết hợp với thiếu kiến thức và năng lực trong việc giải quyết các tranh chấp
phòng vệ thương mại. Việc áp thuế tự vệ chỉ có tác dụng ngắn hạn, không
phải là cứu cánh cho các doanh nghiệp thép của Việt Nam về lâu dài. Trong
khi số liệu cho thấy, doanh thu của ngành thép thời gian qua gần như không
có sự tăng trưởng, mức tiêu thụ giảm sút, cung vượt quá cầu nhưng đầu tư
không ngừng tăng lên vào ngành này, vốn đầu tư chủ yếu từ FDI, điều này
càng khó khăn hơn cho doanh nghiệp trong nước vì tính cạnh tranh trên chính
thị trường nội địa. Cần xây dựng chính sách phát triển công nghiệp nói chung
và chính sách cho ngành thép nói riêng trong đó khuyến khích sự phát triển
bền vững của doanh nghiệp:
- Tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp dựa trên thị trường cạnh
tranh lành mạnh.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển dựa trên đơn giản các thủ tục hành
chính hướng tới hiệu quả.
- Các chính sách phát triển kinh tế gắn với an sinh xã hội và bảo vệ môi
trường.
- Chính sách đầu tư hiệu quả, đặc biệt là đối với nguồn đầu tư FDI đảm
bảo đem đến những lợi ích kinh tế: Lan tỏa được công nghệ tới các doanh
nghiệp trong nước, hỗ trợ thúc đẩy được phát triển các doanh nghiệp nội địa,
dọn đường cho doanh nghiệp nội địa tiến ra thế giới trên một nền tảng công
nghiệp hóa bền vững cho một sự phát triển lâu dài
- Điểm đặc biệt đối với phát triển bền vững là phát triển dựa trên công
nghệ, điều này đã được minh chứng bằng các quốc gia phát triển hàng đầu thế
giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc.
3.2.7 Đối với ngành năng lượng
19
Khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo: Trạng thái an ninh năng
lượng Việt Nam chưa được bảo đảm (cắt điện xảy ra thường xuyên vào thời
kỳ cao điểm; dự trữ dầu quốc gia chưa đủ khả năng bình ổn giá khi có khủng
hoảng giá dầu trên thị trường quốc tế…). Nếu không có kế hoạch khai thác
các nguồn năng lượng nội địa hợp lý, tình huống thiếu hụt năng lượng và
buộc phải nhập khẩu năng lượng sẽ xuất hiện trong tương lai không xa. Do
đó, việc xem xét phát triển các nguồn năng lượng khác bên cạnh các nguồn
năng lượng cơ bản ngày càng trở nên quan trọng trong cơ cấu nguồn năng
lượng Việt Nam, đặc biệt là các nguồn năng lượng tái tạo. Hơn nữa, việc phát
triển năng lượng tái tạo là rất cấp thiết để đảm bảo an ninh năng lượng, góp
phần cải thiện sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến
đổi khí hậu. Đề án điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai
đoạn 2011-2020 có xét đến 2030 và Dự án điều chỉnh Quy hoạch phát triển
ngành than đến 2020, có xét đến 2030 (gọi là quy hoạch than 60), yêu cầu
phát triển ngành than bền vững trên cơ sở khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu
quả và tiết kiệm nguồn tài nguyên than của đất nước, đóng góp tích cực vào
việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, ưu tiên đáp ứng nhu cầu than
trong nước, giảm xuất khẩu than. Mục tiêu sửa đổi đề án nhằm kiềm soát, bảo
vệ tốt vấn đề môi trường, rà soát, tính toán kế hoạch phát triển tất cả các nhà
máy điện than để đảm bảo thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về cắt
giảm khí thải. Không phát triển thêm các nhà máy điện than, tiến tới thay than
bằng khí và tiếp tục thu hút các dự án đầu tư vào năng lượng tái tạo.
Cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty thuộc ngành Công nghiệp năng
lượng: Tái cơ cấu và cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty thuộc ngành
Công nghiệp năng lượng nhằm phát triển ngành Công nghiệp năng lượng.
Thực tế đã cho thấy rằng, các doanh nghiệp thuộc ngành sau khi tiến hành cổ
phần hóa đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt hiệu quả cao hơn và có
năng suất cao hơn nhiều.
Tái cơ cấu và cổ phần hóa các tập đoàn và tổng công ty thuộc ngành
năng lượng là giải pháp khả thi để thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển ngành và
trở thành nòng cốt của nền kinh tế. Đây cũng là đòi hỏi thiết yếu để đảm bảo
ngành đi đúng hướng. Thực tế hiện nay đã cho thấy rằng các doanh nghiệp
thuộc ngành sau khi tiến hành cổ phần hóa đã có những bước phát triển vượt
bậc, đạt hiệu quả cao hơn và năng suất cũng cao hơn nhiều.
Khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ vẫn là giải pháp tối ưu
cho ngành. Một số giải pháp chính bao gồm: Hoàn thiện, hiện đại hóa và đổi
mới công nghệ, thiết bị để phát triển năng lượng cho trước mắt, cũng như lâu
dài; Xác định mô hình và lộ trình công nghệ thích hợp, đảm bảo phát triển ổn
định và phù hợp với điều kiện Việt Nam về tiềm năng tài nguyên, khả năng
20
đầu tư, giá thành hợp lý và bảo vệ môi trường; Kết hợp giữa công nghệ mới
hiện đại và hoàn thiện cải tiến công nghệ hiện có nhằm nâng cao hiệu suất,
tiết kiệm năng lượng; Từng bước áp dụng các biện pháp khuyến khích và bắt
buộc đổi mới công nghệ, thiết bị của các ngành sử dụng nhiều năng lượng
như thép, xi măng và hóa chất; hạn chế, tiến tới cấm nhập các thiết bị cũ, hiệu
suất thấp trong sản xuất và sử dụng năng lượng./.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 2992/QĐ-BCT, quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển ngành nhựa
việt nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
2. Báo cáo tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2015 của Hiệp hội thép Việt
Nam được ngày 13-1 – 2016.
3. Bộ Công Thương, Kết quả điều tra năng lực sản xuất một số sản phẩm
công nghiệp chủ yếu giai đoạn 2012-2014,
4. Hiệp hội Da giầy Việt Nam.
5. Hiệp hội nhựa Việt Nam, www.vpas.vn.
6. Quyết định số 12/2011/ QĐ-TTg về chính sách phát triển công nghiệp hỗ
trợ.
7. Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về ưu đãi, phát triển ngành dệt may.
8. Quyết định số 1621/QĐ-TTg ngày 18 tháng 9 năm 2013 về việc phê
duyệt “Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp hóa chất đến 2020, có
tính đến năm 2030”.
9. Quyết định số 2992/QĐ-BCT, quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển
ngành nhựa việt nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
10. Quyết định số 694/QĐ-BCT, phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống
sản xuất và hệ thống phân phối thép giai đoạn đến 2020, có xét đến năm
2025, ngày 31 tháng 01 năm 2013.
11. Quyết định số 8989/QĐ-BCT ngày 25 tháng 8 năm 2015 về việc phê
duyệt đề án tái cơ cấu ngành hóa chất Việt Nam phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030.
12. Quyết định số 9028/QĐ – BCT phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển
công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ban hành
ngày 8/10/2014.
13. Số 549/QĐ-TTg: Quyết định Phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh và
đầu tư phát triển 5 năm 2011-2015 của tập đoaàn công nghiệp than-
khoáng sản Việt Nam;
14. SỐ 75/2007/QĐ-TTg: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Phê
duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
15. Số: 1208/QĐ-TTg: Quyết định Phê duyệt Quy hoạch điện lực quốc gia
giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030;
22
16. Số:459/QĐ-TTg: Quyết định Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển
ngành công nghiệp khí Việt Nam giai đoạn đến năm 2015, định hướng
đến năm 2025;
17. Tạp chí – Cơ quan thông tin lý luận của Bộ Công thương, chuyên đề
“thiếu chính sách hỗ trợ khiến ngành Nhựa Việt Nam kém cạnh tranh”,
23/12/2015.
18. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2007, 2008, 2009, 2010, 2011,
2012, 2013, 2014, 2015.
19. Trang web của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
www.vcci.com.vn
20. Viện Năng suất Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu năng suất lao động của
Việt Nam thông qua khảo sát doanh nghiệp thuộc một số ngành kinh tế,
2015.
21. Vinatex và BSC, Báo cáo phân tích doanh nghiệp Tập đoàn Dệt may
Việt Nam, 2015.
22. Website: nangluongvietnam.vn.